Go Back   Vina Forums > Vườn Thơ > Tủ Sách Văn Học
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 10-30-2012, 05:44 AM
da1uhate's Avatar
da1uhate da1uhate is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Oct 2007
Bài gởi: 605
Default Xứ Sở Diệu Kỳ Tàn Bạo Và Chốn Tận Cùng Thế Giới - Haruki Murakami

Con vật-tương lai



Tư duy nhị phân (“nhị nguyên” Âm-Dương vân vân...) có cái tiện ích ít ai ngờ: vì đã chia đôi, nó cho phép lắp ghép; chẳng hạn từ bộ đôi thái cổ hồn và xác cho đến cặp song sinh cùng trứng buổi sơ kỳ hiện đại con và người, tới những phái sinh tinh tế hơn như Con người là một con vật-lịch sử...

Nhưng sự chia tách cũng là một biểu tượng cổ xưa về phân vân, lưỡng lự. Theo đó thì việc chứng minh sự tồn tại của bản thân con người nên là một nhận thức gián tiếp, đi đường vòng, thông qua việc xác nhận “phần hồn” vốn là cái không thấy được để khẳng định “phần xác” vốn là cái người vừa thụ hưởng lại vừa hay hoài nghi.

Cuốn tiểu thuyết thật sự “tàn bạo diệu kỳ” này của Murakami kể một câu chuyện sinh động như vậy, đem lại một trải nghiệm văn chương “tàn bạo” về việc một ai đó trong chúng ta bỗng nhiên bị rơi vào cái hố đen của tiềm thức bên trong mình, mất hết ký ức và nhân thân trong một lựa chọn sống với cái Bản Ngã mơ hồ và bí ẩn.

Không ai - không nhân vật nào - có tên tuổi trong câu chuyện “diệu kỳ” này: một “toán sư” - người đã được giải phẫu não để cấy những con chip siêu nhỏ biến hoạt động tư duy thành công cụ mã hóa các dữ liệu dạng số, phục vụ “cuộc chiến tranh thông tin” giữa các thế lực của nền công nghệ cao; một “ông giáo sư” cùng “cô cháu gái mũm mĩm”, hai “cô thủ thư” trong hai thế giới song song tồn tại, v.v...; nhưng lại có rất nhiều tên các bài hát, bản nhạc, nhạc sĩ, nhà văn và tác phẩm văn học nổi tiếng, các địa danh liên đới ở thành phố Tokyo, có sở thích cá nhân về màu sắc và các thói quen ẩm thực, v.v... những chứng từ về sự hiện diện cá biệt sinh động cụ thể của các nhân vật, những chi tiết và tình tiết nhân thân tách biệt với con người, những dấu vết của một tâm hồn đang đi đến chỗ chia tay không hẹn ngày gặp lại với kẻ mang tâm hồn ấy...

Nhưng đừng hỏi kẻ đó là ai.

Có thể rất nên hỏi: Tâm hồn là Ai?

Ngay cả khi bạn đã đọc thấy các tình tiết về sự tách rời của nhân vật “toán sư” - người kể chuyện xưng “tôi” ở đây - với nhân vật Cái Bóng, “cái bóng” của anh ta. Một tình tiết nói lên ý nghĩa: khi người với “bóng” tách rời, chàng “toán sư” vốn yêu thích, am hiểu rất rộng về âm nhạc, từ khí nhạc cổ điển đến các dòng ca khúc hiện đại, lại không thể nhớ ra dù chỉ một giai điệu giản đơn và gắn bó nhất trong ký ức.

Thay vào chỗ của âm nhạc là nỗi ám ảnh của ký ức về âm nhạc; cũng tương tự, là nỗi ám ảnh về tâm hồn.

Nhưng chắc chắn ta không nên chộp lấy cái ý tưởng sáo mòn về một sự thèm khát “tâm hồn” - sự thèm khát mà ai đó đã tưởng tượng rằng giống như trong một mệnh đề nổi tiếng, là “linh hồn trong một thế giới không có linh hồn” (K. M).

Chẳng có “sự giễu nhại” nào ở đây. Murakami không hề đơn giản hóa sự chia tách con người trên bình diện hiện tượng. Có thể thấy được nụ cười phê phán thấp thoáng trong những trang dài nhân vật “ông giáo sư” hùng biện giải thích cho nhân vật “toán sư” - mẫu thí nghiệm thành công nửa vời của ông ta - về các nghiên cứu trên não bộ con người, đưa ra một chuỗi lập luận nhân-quả pha trộn một số ý niệm của điều khiển học, của các chuyên ngành hẹp trong sinh học hiện đại và của nhân học trong nghiên cứu về tập tính; ngần ấy thứ đưa vào công cụ vạn năng của thời đại là computer để cho ra một mô hình xác suất về cấu trúc của tư duy cá thể; và bước nhảy siêu hình của nhà giả kim thuật hiện đại này được trình diễn trơn tru: mô hình cấu trúc của tư duy cá thể, xuất phát từ vô số thực nghiệm mô hình hóa các trải nghiệm của anh ta, thâu tóm toàn bộ cơ chế của tri giác và trải nghiệm nơi cá thể đó, thì tức là cái bản ngã của anh ta.

Ta sẽ nhớ rằng Murakami viết cuốn sách này vào đầu những năm 1980. Deep-Blue lúc ấy chưa ra đời để biến kho tàng cờ vua thành cơ sở dữ liệu mà đấu với Kasparov; khái niệm “trí thông minh nhân tạo” - một nỗ lực mô phỏng bộ não người cho máy tính - mới xuất hiện trên chân trời thực tiễn của điều khiển học và ngành phỏng sinh học thì hình như chỉ vừa dứt tiếng kêu Eureka! Tuy nhiên sức mạnh vạn năng của computer vào lúc đó đã không còn có thể nghi ngờ, và nền tảng cho sự can thiệp vào thế giới vi mô đã được xây dựng ở cấp độ ống nghiệm.

Nụ cười vừa lo âu vừa mỉa mai nhẹ nhàng đằng sau những trình diễn-tiểu thuyết cái báo cáo khoa học của nhân vật “ông giáo sư” là: sau hơn mười năm phát triển ngành sinh học phân tử, sinh lý học thần kinh và sinh lý não nói riêng (chuyên ngành của “ông giáo sư”) trên thực tế người ta đã không khẳng định được giả thiết cho rằng các hoạt động ý thức chỉ là kết quả trực tiếp của các quá trình sinh lý trong não bộ.

Ý thức, tựa như một thực thể không thấy được, vẫn lởn vởn ở đó, nhưng không trùng khít với bộ não và không thể mô phỏng được.

Nhưng nỗi lo lắng toát ra như mồ hôi của bản năng sâu kín: tư duy nhị phân không muốn bị kéo vào một giả hợp nhất nguyên, một mô hình nhất thống trả giá bằng sự triệt tiêu cái nửa kia của tồn tại - triệt tiêu ý thức.

Nhân vật “ông giáo sư” bảo “toán sư” rằng: “Thể xác của anh có thể chết và ý thức hệ của anh có thể mất đi, nhưng tư duy của anh sẽ chuyển tiếp mãi mãi khoảnh khắc trực tiếp trước đó” (tr.428) và “Anh chớ quên anh không chết, anh chỉ mất ý thức mãi mãi” (tr.431).

Các mâu thuẫn hiển nhiên về hình thức của nội dung những khái niệm “thể xác”, “tư duy”, “ý thức”, “sống” và “chết” trong những lập luận rất cuốn hút của “ông giáo sư” gặp nhau ở một điểm: chúng khẳng định loại bỏ những bất trắc của tương lai; tương lai theo nghĩa chặt chẽ nhất: là khoảnh khắc tiếp sau mỗi “khoảnh khắc trực tiếp trước đó”.

Tương lai - đó là một tập quán thâm căn cố đế; vì nó mà người ta sống hoặc thấy cuộc đời là đáng sống. Như lời một bài hát cũ: “Những ngày xưa thân ái. xin buộc vào tương lai”.

Chúng ta trông tới và trông lui theo cách ấy, trong khi Murakami kể chuyện này thành một biểu tượng kiểu Bayon: đồng thời thấy cả hai hướng [và với Bayon bốn mặt thì cả hai hướng cùng lúc tồn tại].

Tôi không suy diễn. Mà trong cảm quan kiểu vẫn được gọi là “Phương Đông” như ở Thần đạo Nhật Bản, vẫn luôn luôn sống động, thì vị thần bản mệnh của anh sẽ sống một cuộc đời song hành như phiên bản thần thiêng của cuộc đời anh. Theo đó, tương lai đồng hành với ta, và nó là tương lai chỉ vì nó biết trước cái “khoảnh khắc trực tiếp” sau mỗi khoảnh khắc đang trôi đi này.

Câu chuyện sinh đôi trong Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới đã xây dựng trên mô thức đó.

“Tôi tới thành phố vào một ngày xuân” (tr.23), câu trần thuật giản đơn và gợi cảm như vậy bấm nút tắt chiếc đồng hồ sinh học thông thường của nhân vật “toán sư” - Xin chào mừng, quý khách đã đến địa ngục!

Ở câu chuyện song hành trên hàng thứ nhất, thời gian sống của “toán sư” trôi đi trong những biến cố đảo lộn, những hành động khi căng thẳng gấp gáp khi lững lờ bí ẩn; còn ở câu chuyện hàng thứ hai - trong cái “thành phố” lơ lửng như ở cõi hư vô kia - thì chỉ có bốn mùa thay đổi, mà thời gian không tồn tại nữa.

Làm sao có thể như vậy được?

Bởi lẽ những ai vào “thành phố” này đều phải rời bỏ cái bóng của mình - một “ông gác cổng” vâm váp lạnh lùng sẽ dùng dao tách bóng của anh ra khỏi anh, tách bằng một đường rạch trên đất dưới chân anh.

Chúng ta quen sống với cảm nhận một thời gian khách quan, phi chủ thể. Muốn gạt bỏ thời gian, Murakami đưa nó vào cái bóng.

Cũng chẳng quá xa lạ: chúng ta vẫn quen nghe rằng “Thời gian như bóng câu qua cửa sổ” [có người bảo “như vó câu”; tôi nghĩ “bóng câu” mới là văn chương hơn, tức là thực hơn].

Cái Bóng bị tách ra mang theo thời gian. Và mang theo ký ức. Ở “xứ sở diệu kỳ...”, điều kỳ diệu là mỗi khoảnh khắc một hiện tại, cứ như thế đến vô cùng, không thể thay đổi nữa.

Nhưng chủ điểm của câu chuyện về “xứ sở diệu kỳ tàn bạo...” không phải là vấn đề thời gian.

Thực chất thì thời gian là quá lớn và quá trừu tượng, khiến người ta phải nắm bắt lấy nó một cách gián tiếp, thông qua một số biểu tượng hay vật biểu trưng. Và ở đó ta lại gặp tư duy nhị phân, với một hiệu ứng kỳ lạ: vật biểu trưng gánh lấy hầu hết gánh nặng giá trị và ý nghĩa - không thể có xác mà không có hồn. Nhưng không thể có người mà không có bóng lại là sự tái phát hiện của Murakami đối với ý niệm có tính chân lý cổ xưa kia.

Thách thức - tiểu thuyết của ông là việc nhân vật “toán sư” chấp nhận việc chia tay cái bóng của mình trước ngưỡng cửa cuộc đào thoát khỏi “chốn tận cùng thế giới” - chia tay với thời gian tính của mình, bỏ lỡ cơ hội quay về thế giới bình thường, nhân vật tiểu thuyết này không phải đã thấy “xứ sở diệu kỳ tàn bạo...” là đáng để sống.

Anh ta nói với bóng, về ý thức trách nhiệm của anh ta đối với cái “thành phố” quái gở này.

Mà người ta nói đến trách nhiệm tức là nói đến một kỳ vọng, dù nhỏ nhất, về một tương lai.

“Toán sư” chống lại một quan niệm về con người hiện thân cực đoan ở “ông giáo sư”. Anh ta muốn chứng tỏ không phải cái khoa học tinh vi của quyền lực công nghệ, cho dù đã can thiệp vào tận “lõi ý thức hệ” và “cấu trúc tư duy” mà có thể làm cho anh “mất ý thức mãi mãi”.

Anh ta có thể rơi ra ngoài con vật - lịch sử, nhưng anh ta vẫn là một con vật - tương lai, và như thế không có gì có thể mất đi được.

Nguyễn Chí Hoan


* Đọc Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Haruki Murakami, Lê Quang dịch, Nhã Nam & Nxb Hội Nhà văn, 2010.
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 10-30-2012, 05:47 AM
da1uhate's Avatar
da1uhate da1uhate is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Oct 2007
Bài gởi: 605
Default

TTO - "Sao vầng dương vẫn còn chói sáng/ Chim chóc vẫn vang ca? Chúng không hay thế giới sắp lụi tàn?" (The end of the world - Carpenter).

Có hay không chốn tận cùng thế giới, nơi ý thức con người chưa bao giờ chạm ngõ? Và liệu bản ngã của ta thật sự nằm ở đâu - trong xã hội thực tại hay trong một vô thức xa xôi? Bạn sẽ bắt gặp những câu hỏi đầy chất triết học như thế trong tác phẩm đồ sộ và phức tạp vào bậc nhất của tác gia đương đại Nhật Bản - Haruki Murakami - Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới.

Cuốn tiểu thuyết khoa học giả tưởng mang màu sắc trinh thám này được kết cấu thành hai tuyến, với hai chủ thể trần thuật ở ngôi thứ nhất.

Các chương lẻ là câu chuyện về một Toán sư (*) tài giỏi, có cuộc sống và tư duy độc lập. Một cuộc phiêu lưu kỳ quái với “cô gái màu hồng” dưới lòng đất Tokyo để cứu người ông - một nhà khoa học xuất chúng và có phần kỳ quái - đã đẩy cuộc đời anh sang một bước ngoặt quan trọng. Anh phát hiện mình là con tốt trong một cuộc thí nghiệm có “động cơ khoa học trong sáng”, và cuộc sống của anh chỉ được đong đếm bằng giờ vì ý thức hệ thứ nhất sắp gãy vụn và chuyển anh sang ý thức hệ thứ hai “tận cùng thế giới” - một thế giới do chính anh xây dựng nên trong vô thức.

Các chương chẵn là câu chuyện về một người đột nhiên lọt thỏm vào một thế giới kỳ bí, nơi cuộc sống tuồng như yên bình miên viễn. Anh phải từ bỏ bóng của mình, trở thành người đọc mơ (**) của thành phố. Tuy nhiên trong tâm tưởng của anh vẫn còn bấu víu sự hồ nghi về những ký ức tồn tại trước đó, người đọc mơ tìm cách chạy trốn để tìm lại tâm hồn và ký ức của chính mình.

Hai con người cơ chừng xa lạ đều lao vào một cuộc đấu tranh kiếm tìm và gìn giữ bản ngã. Toán sư tìm cách bảo vệ bản ngã của mình giữa thế giới “diệu kỳ tàn bạo”, nơi những con số, máy móc làm chủ con người trong sự khắc nghiệt bạo tàn do chính con người gầy dựng, còn người đọc mơ lại truy vong bản ngã, níu kéo tâm hồn giữa chốn yên bình miên viễn “tận cùng thế giới”.

Để cuối cùng, qua một bản nhạc của Bob Dylan ở cuối truyện, người đọc ngỡ ngàng nhận ra toán sư, người đọc mơ và bóng là một, nhưng họ sống những cuộc đời khác nhau và song song tồn tại. Họ đã tự lựa chọn cho mình một cái kết, hay nói đúng hơn, họ bị đặt vào một cái kết không thể chọn lựa.

Đâu mới là cuộc đời thực của chúng ta? Đâu mới là cuộc đời tốt đẹp nhất? Đặt ra vô vàn câu hỏi qua một kết cấu đồ sộ và phức tạp, điều mà Murakami hướng tới không phải là giải mã cuộc sống, mà là khơi gợi những câu hỏi và trao cho người đọc quyền tự giải đáp. Qua giọng điệu giễu nhại đặc trưng và nghệ thuật kể chuyện đầy mê hoặc, cuốn sách “góp phần tạo nên thành công lớn làm gia tăng đáng kể lượng độc giả của Haruki Murakami trên toàn thế giới” (lời giới thiệu của Nhã Nam).

Bạn đọc rất quen thuộc với tác gia đương đại danh giá Haruki Murakami qua rất nhiều tác phẩm được dịch trước đó như Rừng Na Uy, Biên niên ký chim văn dây cót, Kafka bên bờ biển… Tuy là tác phẩm gần nhất được chuyển ngữ sang tiếng Việt, nhưng Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới (tên tiếng Anh: Hard-boiled wonderland and the end of the world) là cuốn tiểu thuyết thứ 4 của Haruki Murakami ra đời vào năm 1985.

Cuốn sách ngay lập tức được dư luận chú ý bởi cách kết cấu, kể chuyện lạ thường và nội hàm sâu sắc, dù bị nhiều nhà phê bình thủ cựu thời bấy giờ cho là dở hơi và thiếu quan điểm chính trị. Ngay trong năm xuất bản, cuốn sách được trao giải thưởng văn học Tanizaki uy tín của Nhật Bản.

Sách do Lê Quang dịch, NXB Hội Nhà Văn và Nhã Nam ấn hành năm 2010.

MỘC

(*) và (**) Trong tác phẩm này, tất cả các nhân vật đều không có tên nên "toán sư" và "người đọc mơ" là hai danh từ chỉ nghề nghiệp.

(tuoitre.vn)
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 04:13 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.