#121
|
||||
|
||||
![]() TỪ ĐẠO HẠNH HAY SỰ TÍCH THÁNH LÁNG Vào thời Lý có một ông sư quê ở làng Láng gần kinh đô, tên là Từ Vinh. Từ Vinh học được phép tàng hình. Không những thế, hắn còn biết cả phép biến mình thành bất cứ con vật gì hay bất cứ một người nào khác. Khi học được phép lạ, hắn không nghĩ đến việc lợi dụng phép thuật để giúp đỡ người nguy kẻ khó mà chỉ nghĩ cách tìm khoái lạc cho bản thân. Cho nên, hắn đi khắp mọi vùng, bề ngoài làm bộ giảng đạo nhưng kỳ thực là để gần gụi những người đàn bà mà mình ưa thích. Hắn đã có phép, lại không kém khôn ngoan, nên chả một ai hay biết cả. Từ lúc Từ Vinh thi đậu khoa thi Bạch-liên, được vua phong chức tăng quan đô sát, một chức quan lớn trong triều đình, thì hắn lại lén lút tìm gái ở vùng kinh kỳ. Bấy giờ, ở kinh có một nhà quý tộc tên là Diên Thành hầu có phủ đệ đẹp đẽ trên bờ sông Cót gần làng Từ Vinh. Diên Thành hầu có một đám vợ và nàng hầu, trong đó có một nàng trẻ tuổi, nhan sắc xinh đẹp trên đời khó ai sánh kịp. Từ Vinh chú ý đến nàng. Phủ đệ Diên Thành hầu canh gác rất nghiêm ngặt, nhưng đối với Từ Vinh thì chẳng mùi gì. Nhè những đêm Diên Thành hầu vắng mặt, Từ Vinh tàng hình lọt vào buồng của nàng, rồi biến thành chồng nàng lên giường giao hoan. Sáng dậy, y lại tàng hình đi ra khỏi cổng trước mắt bọn gác. Vì thế, chẳng những cả nhà Diên Thành hầu không một ai biết mà chính người đàn bà nọ cũng không ngờ là ngoài chồng mình ra, còn có một người đàn ông thứ hai nữa. Một hôm, giữa lúc Từ Vinh tàng hình bước ra khỏi buồng người đàn bà, thì chính là lúc Diên Thành hầu lại vào với vợ. Người đàn bà vội kêu lên: - "Sao phu quân vừa ra đã lại trở vào?". Nghe nói thế Diên Thành hầu hiểu ngay nông nỗi và sau khi tra gạn vợ, ông mới biết gian phụ không phải người tầm thường, nếu không có một pháp sư cao tay thì đừng hòng trị nổi. Diên Thành hầu căm tức vô cùng, sau một lúc lâu suy nghĩ, ông sực nhớ đến nhà sư Đại Điên phép thuật cao cường nhất trong nước, từng được vua ban tước quốc sư và đã trổ tài mấy phen trị tà bắt quỷ. Khi nghe Diên Thành hầu kể lại câu chuyện, Đại Điên đưa cho ông ta một sợi chỉ ngũ sắc và dặn rằng: - Hầu về đưa sợi chỉ này cho bà ấy, chờ lúc gian tế đến, lẳng lặng buộc vào ngang lưng. Một mặt cho rắc một lớp tro mỏng trước cửa buồng, cho người nấp chỗ kín canh gác. Đợi lúc nào thấy có dấu chân giẫm lên tro thì đóng ngay cửa lại, dán lá bùa này vào rồi cho người tức tốc đến đây báo tin cho bần đạo. Bần đạo sẽ vì hầu trừng trị con dâm quỷ. Diên Thành hầu về, làm đúng như lời đã dặn. Quả nhiên, một đêm nọ Từ Vinh tàng hình mò tới. Hai tên nô hầu chực đêm ở cửa, bỗng nhìn thấy có những dấu chân tiến vào buồng mà không thấy có người, vội dán lá bùa lên cách cửa rồi phi báo cho chủ biết. Đêm ấy, Từ Vinh vô tình, không ngờ có cạm bẫy đang giương ra chờ mình, nên chỉ một lúc sau người vợ Diên Thành hầu đã buộc được sợi chỉ ngũ sắc quanh lưng mà hắn cũng không hay biết gì cả. Nghe tiếng động, Từ Vinh vội niệm chú biến thành một con gián. Nhưng chỉ bay đến cửa, hắn mới biết rằng khắp mọi nơi đều có phép thần kín mít như bưng, không một khe hở nào chui lọt. Giữa lúc đó thì Đại Điên đã cầm đuốc tiến vào buồng. Gián ta hoảng hốt bò vào một khe vách nằm im tại đó. Cuộc tìm tòi của Đại Điên đã tưởng như trở nên vô hiệu. Mãi về sau, nhờ có sợi chỉ ngũ sắc buộc quanh người thò ra ngoài vách, nên Đại Điên lôi ngay được gián ra. Trong tay thần của Đại Điên, Từ Vinh hết phương trốn tránh đành chỉ kêu van xin tha mạng. Đại Điên hỏi: - Mày là ai? Đáp: - Tôi là Từ Vinh. Xin hòa thượng nghĩ đến tình đồng triều, đồng đạo, tha cho tội chết. Nghe kẻ tội phạm xưng tên, Đại Điên nghĩ bụng: - "Phép thuật của hắn có tiếng là cao cường không kém gì ta. Nếu không sa cơ vì mấy lá bùa chưa chắc hắn đã chịu kêu van như thế này đâu. Tha cho hắn sẽ nguy hiểm cho ta. Tất phải trừ đi để khỏi hậu họa". Nghĩ vậy sư ta cười gằn bảo Từ Vinh: - Mày là kẻ tu hành, lại được triều đình trọng dụng mà cố tình phá giới, phạm tội chồng chất như thế này ư? Tha cho mày sao được! Thôi ta hóa kiếp cho mày để lo tu tỉnh về sau. Từ Vinh chưa kịp kêu thì đã bị bàn tay Đại Điên bóp nát vụn. Xác con gián vừa rơi xuống đất thì hiện nguyên hình thành Từ Vinh. Đại Điên đá vào cái thây nói: Kiếp này đã vụng đường tu, Hãy đền tội lỗi, đền bù kiếp sau. Đoạn, ngoảnh bảo Diên Thành hầu: - Thế là trừ được một con dâm quỷ. Hầu cứ bảo người nhà vứt thây nó xuống sông. Diên Thành hầu hết lời cảm tạ và sai người nhà mang mười lạng vàng tống tiễn quốc sư về chùa. Nhưng sáng hôm sau, giữa lúc Đại Điên đang tụng kinh thì một tên nô của nhà Diên Thành hầu đã hốt hoảng chạy tới báo tin: - Bạch sư cụ, cái thây hôm qua không chịu trôi. Nó cứ đứng sừng sững giữa sông Cót trên mặt nước, tay chỉ vào nhà hầu tôi, mắt nhìn trừng trừng rất dữ tợn. Hầu tôi kính mời sư cụ đến trị ngay cho! Nghe nói, Đại Điên theo đến, chỉ tay vào thây Từ Vinh, đọc một câu quyết: Sống chết là giấc chiêm bao, Dầu giận thế nào không để cách đêm [1] . Tự nhiên cái thây chìm xuống nước và trôi đi. Lại nói chuyện Từ Vinh có một người con tên là Từ Đạo Hạnh. Chàng mới hai mươi lăm tuổi, rất chăm học và rất có hiếu. Cái đêm cha bị giết, Từ Đạo Hạnh được cha báo mộng cho biết sự tình và nhắc đi nhắc lại tên Đại Điên, dặn phải trả thù cho bằng được. Tỉnh dậy, chàng hốt hoảng đi tìm cha, và chàng xiết bao đau đớn khi thấy thây cha nổi trên mặt nước. Nóng lòng vì báo thù, chàng cầm côn đi tìm Đại Điên. Chờ lúc Đại Điên đi đường một mình, chàng đuổi theo kẻ thù toan chuyện phang cho một côn lên cái đầu trọc. Nhưng vừa định vung côn, chàng bỗng nghe văng vẳng bên tai có tiếng can của cha mình: - "Chớ! Chớ nóng nảy. Muốn bóc vỏ quýt dày cần có móng tay nhọn đã!". Vì thế Từ Đạo Hạnh lại thu côn vào nách, nuốt giận trở về. Chàng tính chỉ có cách tìm thầy học phép mới trừ được kẻ thù lợi hại kia. Nghĩ vậy, chàng bỏ nhà đi khắp nơi tìm thầy, thế quyết bao giờ "đắc đạo" mới chịu trở về. Hồi ấy ở về ven biển phía Nam có hai người bạn tâm giao: một người là Nguyễn Minh Không và một người là Dương Không Lộ. Cả hai đều làm nghề chài lưới nhưng rồi rủ nhau cắt tóc đi tu. Sau bao nhiêu năm đọc kinh gõ mõ vẫn chưa được đắc đạo, một hôm Nguyễn Minh Không nói với bạn: - Tôi nghe muốn nhìn được xa thì phải trèo lên núi cao, muốn uống nước ngọt thì phải tìm đến tận nguồn. Vậy muốn đắc đạo trừ phi tìm đến quê hương của Như Lai thì không còn cách nào khác. Dương Không Lộ đáp: - Tôi sẵn lòng đi với bạn, dù có gặp núi cao biển rộng khó khăn đến đâu cũng không quản ngại. Thấy hai chú tiểu cùng phát thệ đi đến đất Phật, một vị sư bác trong chùa cũng hăm hở đòi đi theo. Nhưng hồi ấy đường đất từ nước nhà sang đến Thiên-trúc thật là muôn vàn nguy hiểm và vô cùng gian khổ, cho nên sau khi đi được mấy ngày, vị sư bác đã thấy chùn chân, đành cáo bệnh trở về chùa cũ. Chỉ có hai bạn trẻ vững lòng nhắm hướng Tây tiến bước. Một hôm, họ đến một vùng núi cao, hai người chui vào một ngôi miếu cổ bên đường để ẩn mưa, bỗng gặp một người trẻ tuổi đang ngồi đốt lửa sưởi ở trong đó. Họ bắt đầu làm quen và biết rằng đấy là Từ Đạo Hạnh, cũng lặn lội đi tìm thầy học phép để trả thù cho cha. Sau một đêm chuyện trò, ba người kết bạn với nhau. Từ Đạo Hạnh nhiều tuổi hơn được tôn là anh cả. Dương Không Lộ thứ hai và Nguyễn Minh Không là em út. Cuộc hành trình vất vả kéo dài mấy năm trời. Họ đã trèo qua bao nhiêu là núi rừng, lội qua bao nhiêu là sông suối, chung sống với bao nhiêu là người dị chủng. Mặc cho ốm đau, đói khát, rách rưới, họ vẫn không chịu nản. Một hôm, vừa qua xứ Mán Răng Vàng, họ bỗng gặp một ông cụ chở chiếc thuyền độc mộc ở giữa sông. Họ gọi lại hỏi đường. Ông cụ cho biết là theo con đường sông này sang quê hương Phật tổ thì không còn bao xa nữa. Ông cụ còn sẵn lòng chở họ đến nơi. Mừng quá, cả ba người xuống thuyền và thuyền đi nhanh vùn vụt chả mấy chốc đã đến đất Phật. Ông cụ lái đò chình là đức Phật Như Lai. Nghe tin có người thành khẩn mộ đạo đến nỗi không quản gian lao nguy hiểm, nên đức Phật hiện xuống, dùng phép thần thông đưa họ đi. Nhưng khi nghe nói mục đích học đạo của Từ Đạo Hạnh thì đức Phật không bằng lòng. Cho nên khi đến nơi, ông cụ lái đò bảo Từ Đạo Hạnh ở lại trông thuyền cho hai anh em lên thăm dò trước đã rồi có gì sẽ báo lại sau. Thế rồi đức Phật đưa Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về độ cho thành chính quả, và truyền cho tất cả các thuật biến hóa huyền diệu. Sau khi đắc đạo, Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không cúi đầu lạy tạ đức Phật rồi lên đường về nước. Nói chuyện Từ Đạo Hạnh ngồi chờ mãi không thấy hai em trở lại, trong bụng lấy làm lo lắng chưa biết nên tính cách gì. Xảy gặp một bà cụ già từ trên bờ đi xuống bến xin sang sông. Chàng vui lòng chống đò giúp bà cụ. Luôn tiện chàng hỏi thăm: - Cụ có thấy một ông già và hai anh chàng đi về ngả ấy không? Bà cụ đáp: - Có. Họ đã gặp đức Phật và đã đắc đạo rồi! Nghe nói thế, Từ Đạo Hạnh đoán chắc bà cụ này không phải là người phàm trần, vội sụp lạy kêu nài: - Xin cụ rủ lòng thương cho, kẻ đệ tử này mối thù cha trong lòng canh cánh không lúc nào nguôi. Bà cụ vốn là một vị Bồ tát được đức Phật sai đến đây, bèn trả lời: - Chính vì tìm đến cõi Phật với một điều ác trong lòng nên không được độ. Chàng mếu máo bày tỏ lời thề của mình trước linh sàng của cha cho bà cụ nghe và lạy lục van nài đến kỳ cùng. Bà cụ bảo: - Nếu lấy oán báo oán sẽ không tránh khỏi "nghiệp báo". Nhưng vì người có lòng thành khẩn nên ta cũng truyền cho. Đoạn dạy cho Từ Đạo Hạnh mọi thuật biến hóa mầu nhiệm và để cho chàng có thể đối địch với kẻ thù, nên Bồ tát còn dạy cho phép hô thần tróc quỷ bằng cách tụng chú Đà-la-ni, v.v... Thế là từ đó Từ Đạo Hạnh cũng biết một số phép thần thông. Cho nên, lúc Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không từ đất Thánh trở về thì chàng đã độn biết được trước, mới định tâm đùa một mẻ để cho hai bạn hoảng sợ chơi. Khi họ sắp sửa đến bến đò phải đi qua một khu rừng rậm, Từ đã hóa làm một con hổ lớn từ trong bụi rậm xông ra định vồ, nhưng chàng không ngờ rằng hai bạn mình đều đã học được phép Phật, nên khi nhìn thấy hổ thì đoán ngay ra đó là Từ. Họ đồng cười lên. Nguyễn Minh Không đi đầu, nói: Thôi đừng đùa cợt chi nhau, Muốn làm kiếp ấy rồi sau được làm. Nghe thế Từ Đạo Hạnh giật mình tỉnh ngộ. Nhờ phép thần, chàng thấy được kết quả tội lỗi của mình ở kiếp sau. Chàng bèn niệm chú hiện lại nguyên hình rồi cười đỡ thẹn: - Anh chỉ định tâm thử chơi, không ngờ mua cười với hai em. Phép thuật của hai em như thế đủ biết không phải tầm thường. Anh chỉ mong em ba đến lúc đó sẽ hết sức giúp anh qua khỏi "nghiệp chướng". Thế rồi ba anh em lên đường về nước. Lần này, họ đi vùn vụt như tên, chả mấy chốc mà trước mắt họ đã thấy sông Lô núi Tản. Ba người chia tay nhau. Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ về quê hương còn Từ Đạo Hạnh thì không về nhà. Chàng nghĩ bụng: - "Ta phải tìm một nơi nào yên tĩnh để tu luyện thêm cho đến chừng hơn hẳn kẻ địch, lúc bấy giờ sẽ gọi hắn đến đương trường tỷ thí chứ không thèm đánh lén lút". Bèn tìm đến Thạch-thất, vào một hang đá ngồi xếp bằng tu luyện theo lối trường định. Theo như lời dặn, hàng ngày chàng niệm chú Đà-la-ni một vạn tám nghìn lần. Sau ba tháng mười ngày khổ luyện, tự nhiên một hôm chàng vừa đọc câu chú, bỗng có một vị thần mặt xanh mỏ đỏ hiện ra trước mắt rồi nói: - "Từ Đạo Hạnh, anh cần sai bảo gì, tôi xin tuân lệnh". Từ biết là đạo pháp của mình đã đến ngày thông được với thần, mừng quá vội nói: - "Ta cần trả thù cha. Lập tức đưa ngay ta về kinh thành". Thốt nhiên chỉ trong nháy mắt, Từ Đạo Hạnh đã xuất hiện ở phía Bắc hoàng cung. Chàng bước lần đến ngã ba sông Cót ném xích trượng xuống nước. Giữa dòng nước chảy xuôi, gậy cứ lừ lừ trôi ngược. Chàng đuổi theo cây gậy bấy giờ đã lướt sóng như một con rồng cho đến cầu Tây-dương thì dừng lại. Chàng vội tàng hình bước vào nhà Đại Điên. Bấy giờ Đại Điên đang ngồi nói chuyện trước một số đông quan khách. Chàng tiến đến trước mặt, hiện lại nguyên hình và bảo Đại Điên: - Đại Điên! Mày có biết tao là ai không? Tao là Từ Đạo Hạnh con Từ Vinh. Ác giả ác báo. Mày giết chết cha tao, tao phải giết lại mày! Thôi cho mày sửa soạn đi! Biết là gặp phải đối thủ không vừa, Đại Điên khởi thế công ngay. Nhưng phép thuật của hắn không thể nào đương nổi chiếc gậy thần của Từ Đạo Hạnh. Vì thế, cuộc chiến diễn ra không lâu. Chỉ một gậy của Từ Đạo Hạnh giáng xuống, hắn ngã vật chết ngay, chỉ kịp nói được mấy tiếng: - Hỡi Từ Đạo Hạnh, tao sẽ diệt mày! Nói chuyện vua nhà Lý, hồi ấy tuổi đã già mà không có con. Bao nhiêu hoàng hậu và phi tần trong hậu cung chưa từng có một người nào chửa đẻ. Nhà vua hết cầu Trời khấn Phật đến tìm thầy chạy thuốc, nhưng chẳng ích gì. Những phép bùa thuốc men của các pháp sư, các lang y chả có thứ nào ra hồn. Người ta đều nói, vì mẹ vua ác nghiệt nên bị Trời phạt như thế, mà Trời đã phạt thì đừng hòng cưỡng lại. Thất vọng, nhà vua dự định nuôi con nuôi. Một hôm, viên chuyển vận sứ Thanh-hoa về kinh chầu vua có báo một tin rất lạ: một nhà dân chài ở miền biển có sinh được một đứa bé thần dị. Lên ba tuổi, nó đã biết nói và tự xưng là Giác Hoàng. Nó biết tất cả các việc trên trời dưới đất và tất cả mọi việc trong triều, ngoài nội. Và điều này mới đáng để ý, là hoàng thượng làm gì nó cũng biết cả. Nó còn tự xưng là con của hoàng thượng. Nghe nói thế, vua liền cho đưa đứa bé về cung. Thấy mặt mũi nó sáng sủa, hỏi đâu biết đấy, nhà vua đem lòng yêu dấu, muốn nuôi làm con để một ngày kia trăm tuổi sẽ truyền cho ngôi báu. Có mấy vị đại thần khi nghe vua dò ý tứ thì vội can ngăn: - Tâu bệ hạ, bệ hạ làm thế sợ lòng dân không phục. Nếu nó linh dị như thế, sao không thác sinh vào cung để mang lấy dòng máu của hoàng đế, lại đi làm kiếp con nhà bần tiện. Nhà vua mang lời tâu ấy kể cho đứa bé nghe. Giác Hoàng xin vua dựng cho một cái đàn tràng, mời thầy làm lễ trong bảy đêm ngày, nó sẽ có cách đầu thai được. Vua mừng lắm, vội sai các quan làm y như lời nó dặn. Tin ấy truyền đi khắp nơi và đến tai Từ Đạo Hạnh. Biết ngay đó là kẻ thù của mình, chàng bèn tìm đến nhà chị ruột đưa cho chị bốn lá bùa, nhờ về kinh tìm tới đàn tràng giắt lên mái; mỗi lá giắt về một phương. Quả nhiên sau đó ba ngày, Giác Hoàng bỗng bị bệnh nguy kịch. Găp vua, hắn tâu: - Tâu bệ hạ, bây giờ thì khắp mọi nơi đâu đâu cũng có lưới sắt vây kín, không thể nào thác sinh được. Hạ thần chỉ còn chờ chết. Mong bệ hạ trị tội Từ Đạo Hạnh, vì chính hắn đã âm mưu giết hạ thần và phá hoại cơ nghiệp lâu dài của bệ hạ. Nói xong thì chết. Thấy Giác Hoàng chết, vua nổi cơn thịnh nộ, lập tức sai người đi tra xét, quả bắt được mấy lá bùa có pháp ấn Từ Đạo Hạnh. Vua vội sai mấy đội vệ sĩ đi bắt Từ về kinh trảm quyết. Bị quân lính giải đi, Từ Đạo Hạnh không dám trái mệnh. Qua phủ đệ Sùng Hiền hầu ở phía Tây kinh thành, chàng cố nài bọn họ cho mình vào yết kiến. Sùng Hiền hầu nguyên là em ruột vua. Và cũng như vua, hầu không có con trai.Từ Đạo Hạnh chợt nghĩ ra được một kế cho nên khi gặp hầu, chàng cố nài nhờ tâu giúp để vua tha tội cho mình. Đổi lại, chàng sẽ tìm cách đầu thai làm con hầu và chắc chắn thế nào cũng phải được. Sùng Hiền hầu nghe bùi tai, liền đi vào hoàng cung bênh vực cho Từ: - Tâu bệ hạ, không nên nghe lời một đứa bé để giết hại một nhà tu hành. Nếu Từ Đạo Hạnh mà diệt được Giác Hoàng thì phép thuật của Giác Hoàng sao ví được với Từ Đạo Hạnh. Bệ hạ nên lưu ý lại để dùng khi quốc gia hữu sự... Nhân đấy, Từ Đạo Hạnh cũng tâu thêm: - Tâu bệ hạ, nó là tà ma ngoại đạo hiện ra để hãm hại mọi người. Bần tăng không thể ngồi yên mà nhìn để cho tà ma làm loạn cả chính pháp, nên vượt phép bệ hạ trừ bỏ nó đi. Nay việc đã xong, bần tăng xin cúi đầu chịu tội. Nghe mấy lời nói có lý, nhà vua dần dần nguôi giận, tha bổng cho Từ. Hôm đó về đến nhà Sùng Hiền hầu, Từ Đạo Hạnh xin phép vào gặp vợ hắn. Người nhà cho biết là phu nhân đang bận tắm. Từ bảo: - Thế thì lại càng hay. Xin cho đưa vào ngay! Bấy giờ người vợ Sùng Hiền hầu đang giội nước trong buồng tắm, bỗng thấy có một vị hòa thượng xô cửa bước vào. Trong lúc hoảng hốt chưa kịp kêu la thì hòa thượng đã biến đi đâu mất, mà lại thoáng thấy ở trong bồn nước có bóng một đứa trẻ. Người đàn bà ấy chưa hiểu ra thế nào cả thì đứa trẻ cũng đến lượt biến đi. Từ Đạo Hạnh đã bước ra khỏi nhà tắm. Gặp lại Sùng Hiền hầu, Từ dặn: - "Bao giờ phu nhân sắp sửa ở cữ, xin cho người hỏa tốc báo tin cho biết ngay". Dặn đoạn, trở về Thạch-thất. Từ hôm ấy, Sùng Hiền hầu trông trông mừng mừng khi thấy vợ có chửa, bụng ngày một lớn. Một đêm nọ thấy vợ chuyển bụng, theo đúng lời dặn, ông vội sai gia nhân phi ngựa lên Thạch-thất báo tin. Hôm đó, Từ Đạo Hạnh đang ngồi trước hang đá thuyết pháp, học trò có đến hàng ngàn người vây quanh cửa hàng. Bỗng có tin người nhà Sùng Hiền hầu xin ra mắt hòa thượng, Từ Đạo Hạnh bảo các môn đồ: - Thời đã đến rồi vậy! Ta sắp sửa đi đây! Nói xong đọc mấy câu kệ dặn dò, rồi xếp bằng lại mà hóa. Giữa lúc Từ Đạo Hạnh chết thì ở Thăng-long người vợ Sùng Hiền hầu sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Dương Hoán. Năm mười lăm tuổi, Dương Hoán được vua nuôi là con và sau đó lấy làm đẹp lòng vì tính nết chàng có thể giữ được ngôi báu dòng họ Lý, nhà vua phong cho làm Hoàng thái tử. Năm hai mươi tuổi, Dương Hoán lên ngai vàng kế vị cha nuôi, trị vì thiên hạ tức là Lý Thần Tông. Nhưng sau khi lên ngôi báu được ba năm thì Lý Thần Tông bỗng bị một bệnh lạ lùng. Thoạt tiên, nhà vua thấy ngứa ngáy khắp cả mình mẩy. Càng gãi bao nhiêu thì lông càng mọc bấy nhiêu. Mãi về sau toàn thân mọc thứ lông màu vàng có vằn đen như da hổ, miệng thỉnh thoảng lại gầm lên những tiếng dễ sợ. Nhà vua suốt ngày ngồi lù lù trong một góc buồng, áo quần mặc vào bao nhiêu xé rách bấy nhiêu. Trước tin này, mọi thần dân đều ngơ ngác. Tất cả các viên ngự y đều lắc đầu bó tay, không biết bệnh gì mà chữa. Bọn nội thị kháo nhau: - "Có lẽ hoàng đế hóa làm chúa sơn lâm thì phải". Triều đình và nội cung vì có việc vua đau cuống quýt cả lên. Ngoài những vị lương y còn có những pháp sư phù thủy được triệu đến làm phù phép, nhưng luôn trong năm tháng, bệnh của vua chỉ ngày một tăng chứ không có giảm. Hoàng thái hậu lo sợ quá, sai yết bảng rao: nếu ai chữa được vua lành sẽ chia cho nửa nước. Thì bỗng nhiên, một hôm có vị đại thần đi ra ngoài cửa ô, nghe đám trẻ chăn trâu hát lên mấy câu: Tập tầm vông! Có ông Nguyễn Minh Không, Chữa cho vua khỏi hóa. Tập tầm vá! Muốn chữa vua khỏi hóa, Phải đón Nguyễn Minh Không. Viên đại thần vừa ngạc nhiên vừa mừng, vội về triều báo tin cho hoàng gia biết. Lập tức triều đình phái một viên võ tướng mang năm trăm quân sĩ xuống mười chiếc thuyền lớn, xuôi sông đi về biển triệu Nguyễn Minh Không. Lại nói chuyện từ khi chia tay hai bạn, Nguyễn Minh Không vào Ninh-bình trụ trì ở một ngôi chùa nhỏ, lấy hiệu là Giác Hải. trong những cuộc đi chơi, chàng đã dùng đúng pháp thuật của mình giúp đỡ mọi người. Một lần đi qua xã An-vệ thấy người dân ở đây đang khổ vì đại hạn: lúa héo khắp cả cánh đồng, chàng bảo người làng đan gấp cho mình một cái giỏ bằng tre thật lớn, ngoài phết giấy. Đoạn, đưa ra sông cả múc nước, một mình đội về giội xuống ruộng, nước chảy lênh láng khắp cả cánh đồng; chỗ nước giội xuống nay hóa thành cừ. Nhờ thế mà lúa lại mọc khỏe, dân làng lại được mùa [2] . Khi quân sĩ tìm được đến chùa thì Nguyễn Minh Không đang tụng kinh buổi trưa. Viên võ tướng mang quốc thư lên trình. Chàng đọc xong, quay lại nói với bọn họ: - Bây giờ đã quá trưa, các vị đi đường chắc là đói bụng. Nhà chùa thanh đạm chẳng có gì nhưng cũng mời tất cả các vị dùng cơm chay một bữa rồi hẵng nhổ sào cũng chưa muộn. Mời đoạn, chàng giục một chú tiểu bắc nồi thổi cơm và làm thức ăn. Nhìn thấy chú tiểu bắc một chiếc nồi tý tẹo lên bếp, lại thấy hòa thượng giết thịt một con chim sẻ thì viên tướng không nhịn được cười: - Bạch hòa thượng, chúng tôi đi đây có đến năm trăm quân sĩ. Nay hòa thượng cho ăn như thế chỉ sợ một người vẫn chưa thể nào thòm thèm, huống hồ là năm trăm người. Hiện nay lương thực còn ở dưới thuyền, xin để chúng tôi tự lo lấy cái ăn, khỏi phải làm phiền đến cửa Phật. Nguyễn Minh Không đáp: - Các vị chớ ngại, nhà chùa tuy nghèo nhưng không để các vị phải đói đâu. Nói xong, quay ra đun nấu một tý rồi bảo quân sĩ sắp hàng theo từng đội ngũ, lần lượt vào nhận phần cơm. Quân sĩ lũ lượt từng người đến trước hai cái nồi đất tý hon xới cơm và gắp thịt chim sẻ vào bát. Không ai không ngạc nhiên vì từ hai cái nồi mầu nhiệm ấy bới hết bao nhiêu lại đầy ùn lên bấy nhiêu. Nguyễn Minh Không luôn luôn giục họ bới cho thật đầy để an cho rõ no. Và rồi chỉ trong một lúc, năm trăm quân sĩ dự xong bữa tiệc của nhà chùa thết. Ăn xong, chàng bảo họ ai về thuyền nấy nghỉ ngơi trước khi nhổ sào tiến kinh. Cả tướng lẫn quân quay ra làm một giấc ngon làng. Nhưng khi tỉnh dậy họ đều hết sức sửng sốt vì thấy mình đã đến bến Ngự từ lúc nào rồi. Nguyễn Minh Không theo viên tướng vào hoàng cung. Bấy giờ các pháp sư ngồi đầy cả điện Thái-hòa. Họ đang tụm năm tụm ba vẽ bùa thử phép rì rầm khắp nơi. Thấy một nhà sư có vẻ quê mùa bước vào, họ liền bĩu môi: Chuông khánh còn chả ăn ai, Nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bụi tre . Chàng không nói gì cả, cúi đầu chào mọi người rồi rút trong áo lấy ra một chiếc đinh dài đóng sâu vào cột chừng một tấc, đoạn ngoảnh lại nói to lên, bảo rằng: - Ai tay không nhổ được cái đinh này thì người ấy sẽ chữa lành bệnh cho thiên tử. Nghe nói thế, các pháp sư đều chạy lại thử rút cây đinh nhưng chả một ai lắc nổi. Cuối cùng, Nguyễn Minh Không bước lại dùng hai ngón tay khẽ rút ra như bỡn trước con mắt kính phục của mọi người. Thế rồi chàng đi thẳng vào nội điện, đến trước long sàng. Lý Thần Tông bấy giờ đang nằm ngửa, xung quanh có đến hàng chục nội thị đang giữ lấy tay chân. Thỉnh thoảng, bệnh nhân lại gầm lên và cố sức giãy giụa. Nguyễn Minh Không nhìn trừng trừng vào mắt bệnh nhân và nói lớn: - Còn nhớ cố nhân nữa không? Được làm con Trời giàu có bốn biển mà cũng không thoát khỏi nghiệp báo ư? Nghe nói, nhà vua bắt đầu có vẻ sợ, nằm im thin thít. Chàng sai đặt trước điện một cái vạc lớn đổ thuốc và dầu vào, bắt đầu nấu sôi lên sùng sục. Đoạn chàng xắn tay áo, thò tay vào vạc khuấy đều lên. Chàng ra lệnh vực vua lại gần rồi tự tay cầm gáo múc dầu trong vạc ra tắm cho vua. Dầu chảy đến đâu lông lá trôi đến đấy, da thịt nhà vua lại trắng trẻo như xưa. Sau khi nhà vua lành bệnh, triều đình không ngớt lời khen ngợi phép thần diệu của Nguyễn Minh Không. Họ y ước cắt đất phong thưởng nhưng chàng không nhận, nói: - Bần tăng vì một lời hứa với người bạn cũ chứ không phải vì phú quý [3] . Đoạn bỏ về chùa cũ. KHẢO DỊ Truyện này đã được nhà chùa uốn nắn lại với dụng ý đề cao Phật giáo, lại cắt xén đi nhiều chỗ, như những đoạn về Từ Vinh, về Từ Đạo Hạnh làm phép đầu thai, v.v... Mặt khác, câu chuyện còn bị nhập cục với truyện sư Khổng Lồ. Ở đây, chúng tôi dựa vào lời kể của nhân dân, khôi phục lại các đoạn bị cắt, tách riêng truyện Khổng Lồ đúc chuông (số 67) ra, vì nhận thấy nó có một kết cấu độc lập. Nhưng chúng tôi vẫn không làm sai nguyên ý của truyện thường kể. Người Cham-pa có truyện Pô Ta-bai , đoạn đầu phần nào giống với đoạn đầu của truyện Từ Đạo Hạnh . Vua Ta-bai đi săn. Vua nhặt được một cái ngà thần trong một cái ao. Chỉ trừ vua ra, không một sức mạnh nào có thể mang lên nổi. Trong ngà có một người đàn bà đẹp (nai ba-lá) bí mật trú ngụ. Thường ngày, vua đi săn vắng, người đàn bà hiện ra dọn các thức ăn, rồi lại chui vào ngà, như vậy đã gần một năm. Người đàn bà ở với vua như vợ chồng. Rắc Bin-xvơ nghe tin này, một hôm chờ vua đi săn vắng, biến thành một con mối nấp ở cánh cửa. Khi người đàn bà ở trong ngà hiện ra, hắn mê hồn về sắc đẹp, cũng làm phép biến thành một người giống với vua, trừ hai cái răng nanh thò ra ngoài mồm là không giấu được. Người đàn bà hỏi tại sao đang đi săn lại về. Hắn lấy lời vua trả lời rằng vì đi dọc đường tự nhiên mọc ra hai cái răng nanh. Khi vua về. người đàn bà hỏi: - "Bệ hạ mới về lúc trưa, sao bây giờ lại lộn lại?". Vua hỏi hình dạng người về cung trước mình. Đáp: - "Giống bệ hạ hết cả, chỉ trừ hai cái răng nanh thò ra ngoài". Vua biết là Rắc Bin-xvơ nên hôm sau, lúc đi săn, sai dán bùa vào cánh cửa. Khi Rắc Bin-xvơ đến thấy cửa đóng kín, nhưng hắn cũng hóa phép thành một con vật nhỏ bò vào. Người đàn bà hỏi thì hắn nói những câu nói quen thuộc của vua nên nàng tin là thật, ăn ở với hắn như vợ chồng. Vua nửa đường lộn về, nhưng thấy cửa đóng kín và bùa còn dán kín nên lại tiếp tục đi săn. Khi Rắc ra đi, người đàn bà lưu lại, xin vẽ một bức chân dung để khi xa nhìn cho đỡ nhớ. Vẽ xong, nàng bỏ chân dung dưới nệm giường. Sau đó ít lâu vua đến với người đàn bà. Nằm trằn trọc mãi không ngủ được, vua thăm dò các nơi, cuối cùng tìm ra được bức chân dung. Hỏi thì người đàn bà nói thật. Vua ghen, giận đuổi ra khỏi cửa... Đoạn sau truyện còn dài nhưng tình tiết phát triển khác truyện của ta nên không kể ở đây. Truyện Ra-ma-ya-na của người Khơ-me (Khmer): Để giấu các người vợ của mình khỏi con mắt của thần Ra-va-na, thần Đế Thích (In-đơ-ra) bèn bỏ họ vào một cái hang, hàng tuần ông đến với họ một lần. Rồi thần đóng kín cửa hang bằng một câu thần chú. Thần Ra-va-na tìm đến cửa hang cầy cục không mở được cửa, bèn hóa thân làm một con mối nấp ở trên cửa hang để nghe trộm câu thần chú của thần Đế Thích. Khi nghe được rồi, hôm sau thần bèn hóa làm thần Đế Thích đọc câu thần chú mở cửa hang vào ân ái với vợ cả của Đế Thích là Xu-xi-tra... [4] Theo Truyện cổ Ca-tu thì dân tộc Ca-tu có truyện con khỉ: Có một ông vua độc ác nuôi một con khỉ nhưng không biết nó có phép lạ. Thường những lúc vua đi vắng, nó hóa thành người y hệt như vua, vào với vợ vua. Khi vua về lại biến trở lại thành khỉ. Về sau truyện tiến triển có khác: khỉ bày mưu cho dân làng đánh lại vua. Một hôm vua đi vắng, khỉ biến thành vua. Khi vua thật về, một mặt dân chúng kéo đến vây, một mặt khỉ xúi vợ vua đem quân bắt vua thật, bảo đó là kẻ thù. Sau đó, khỉ còn dùng mưu bắt cả rể của vua, đem giết cả hai, rồi tôn một người gia lên làm vua. Thần thoại Hy-lạp (Grèce) có truyện kể rằng thần Dớt (Zeux) thấy nàng An-xmen (Alcmène) đẹp, nhân chồng nàng là Ăm-phi-tri-ông (Amphitryon) còn bận cầm quân đánh giặc, thần bèn hóa làm chồng nàng để vào với nàng. Đi theo thần còn có thần Méc-quya (Meccure) cũng biến thành Xô-si (Sosie), thủ hạ của Ăm-phi-tri-ông để cho nàng khỏi nghỉ. Cuộc tình duyên này đã làm nàng sinh ra thần Héc-quyn (Hercule). Về chỗ nồi cơm thần diệu ăn mãi không hết, chúng ta còn có truyện Sự tích Bồ tát Chân Nhân . Bồ tát ở làng Bối-khê, huyện Thanh-oai (Hà-đông), cũng có những phép gần như phép Nguyễn Minh Không đãi khách. Bồ tát Chân Nhân thuê một trăm người thợ dựng ngôi chùa lớn ở núi Tiên-lữ. Mỗi bữa chỉ thổi một niêu con cơm. Lúc đầu đám thợ trông thấy đều bật cười. Bồ tát bảo: - "Khi cơm chín cứ bới ra rá để tôi còn về quê lấy tương cà làm thức ăn". Thợ lại càng cười cho là nhà sư chỉ nói bỡn, vì quê của Bồ tát cách đấy gần một ngày đường. Nhưng chỉ trong nháy mắt, Bồ tát Chân Nhân từ chùa núi Tiên-lữ sang chợ Bảo-đà làng Đan-vị lấy hai lọ tương, một lọ muối, rồi từ chợ lại trở về chùa. Lúc về cơm vừa chín tới. Bồ tát gọi thợ lại ăn, nhưng họ ăn không hết một niêu cơm con, vì hễ bới lưng lại đầy [5] . Người Ba-na (Bahnar) cũng có truyện Y rít nói tới người con gái nuôi của Y rít có phép thổi cơm cho bọn lính nhà vua ăn bằng chiếc nồi bé tý, nhưng họ ăn đến tức cả bụng mà nồi cơm vẫn đầy. Người Ê-đê cũng có truyện một em bé tên là Nồi (Gơ-la) vì da đen như nhọ nồi. Em vốn do một bà lão ăn một quả xoài trong rừng nên mang thai và đẻ ra. Lọt lòng, em đã nói được, gọi bà lão là "bà nội". Em có nhiều phép lạ, lúc đói đòi cơm, cơm tự động chạy vào miệng. Lúc làm tiệc đãi làng, em chỉ đưa ra một bát cá mà khách ăn mãi không hết. Trung-quốc có truyện Tả Từ, là người Lư-giang thời Đông Hán, có phép thuật. Một lần gặp Lưu Biểu ở Kinh-châu đang diễu binh. Tả Từ nói: - "Tôi có lễ mọn khao ba quân". Hỏi: - "Khao những gì" - "Một bữa no say". Lưu Biểu nhận lời. Đến khi gặp thì thấy Tả Từ cầm một đấu rượu và một cái nem. Lưu Biểu bĩu môi, nhưng Tả Từ trao cho lính, họ chia nhau ăn uống no say mà vẫn không hết [6] . Trong Kinh Thánh cũng có truyện chúa Jê-su mấy lần chỉ có trong tay dăm cái bánh và hai con cá mà phân phát cho trên trăm ngàn dân chúng, ai nấy đều ăn no; bánh thừa còn lại hàng giỏ đầy. Cổ tích và Phật thoại Ấn-độ cũng có truyện Du-đích-thi-ra nhận được của Mặt trời một nồi đồng lấy ra rau, thịt, cá vô tận; và Má-nu-da vâng lệnh Phật sai đi quyên giáo không được gì, bỗng chốc thấy xuất hiện năm trăm bát đầy thức ăn; lại nhờ phép Phật mà hiện ra trước một nghìn vị tỳ-khưu, mỗi người một bát đầy thức ăn, v.v... [7] Về chỗ Từ Đạo Hạnh học phép và kiếp sau của ông hóa hổ, sách Lĩnh ngoại u linh lục chép: lúc bấy giờ có Phật bà giáng xuống chùa Tây-phương ở Sơn-tây dạy đạo. Từ cùng hai ông bạn rủ nhau lên đó học phép của Phật bà. Hai ông kia sáng dạ nên buổi nào cũng được về trước, còn Từ tối dạ cứ phải ở lại sau. Một hôm, thấy Từ ngồi khóc, Phật bà hỏi duyên cớ, ông nói vì ở lại sau nên sinh xấu hổ. Phật bà thương hại, cho một cái gậy để có thể theo kịp hai ông bạn. Nhờ đó ông vượt trước họ một đoạn đường. Đến cửa chùa làng La-cà, ông ẩn vào một bụi rậm. Đợi hai bạn đến, Từ giả làm hổ gầm lên một tiếng để lòe chơi. Không ngờ, một trong hai ông biết Từ bỡn cợt, bèn đọc câu "phát nguyện" rằng: Phật cho như ý sở cầu Muốn làm loài ấy, kiếp sau được làm . Kiếp thứ hai, Từ được giáng sinh cửa đế vương, tức là vua Lý Thần Tông, đang làm vua tự nhiên hóa hổ. Đến kiếp thứ ba, Từ lại được giáng sinh vào cửa đế vương, tức là vua Lê Thần Tông, cũng đang làm vua tự nhiên hóa hổ. Triều đình nhờ đức thượng sư nội đạo tràng ở Thanh-hóa về chữa. Lúc ấy dân có dịch tễ, thượng sư bận bèn sai môn đồ mình đi thay với phép "trịch hùng trì chú". Sau khi thiết lập đàn tràng, môn đồ ra phép "hai tay đấm vào ngực, hai chân giẫm xuống đất, đọc chú ba lần". Tự nhiên vua thấy nhẹ nhõm, lông lá rụng hết; diện mạo lại đẹp đẽ như xưa [8] . [1] Dựa vào câu: Tăng hận bất cách túc, Sinh tử nhất mộng trường. Ý muốn nói: Thôi! Ghét ai giận ai qua một đêm thời thôi mới là quân tử; sống chết cũng chỉ là một giấc chiêm bao (Đoạn này theo Thiền uyển tập anh ). [2] Đoạn này theo tạp chí Nam phong (1929). [3] Theo Lĩnh-nam chính quái , đã dẫn; Nước non tuần báo ; và theo lời kể của người miền Bắc. [4] Đều theo BEFEO (1931) [5] Theo Vũ Phương Đề, Công dư tiệp ký . [6] Theo Thần tiên truyện . [7] Van Ghen-nép (Van Gennep). Tôn giáo, phong tục và truyền thuyết . [8] Theo Lăng Tuyết, Sùng-sơn đại chiến sử .
__________________
![]() |
#122
|
||||
|
||||
![]() CHÀNG ĐỐN CỦI Ngày xưa có một anh chàng nghèo khó, sống một thân một mình. Tuy làm việc tất lực nhưng đói rách vẫn hoàn đói rách. Những bông lúa đẹp do bàn tay chàng vun bón thì cứ thi nhau chạy về nhà lão trọc phú. Cuối cùng, chàng đành bán tất cả những thứ còn lại trong nhà để mua một lưỡi búa, với ý định từ nay làm nghề đốn củi nuôi thân, may chi thay đổi được số phận. Nhưng kiếm được một gánh củi không phải là dễ. Một hôm, theo lệ thường chàng tiến vào rừng sâu tìm củi. Sắp giơ búa giáng vào một cây đại thụ bỗng có một con tinh từ trong thân cây hiện ra trước mặt van lạy, van nài. Chàng dừng tay hỏi: - Mày muốn gì? Đáp: - Xin ngài làm ơn đi chặt chỗ khác, tha cho chúng tôi ở đây được yên ổn. Thấy thế, chàng càng làm già: - Không được. Tao hết hơi, hết sức mới tìm được cây gỗ này chặt về lấy tiền nuôi thân mà mày lại bảo tao đi đâu. Hãy cút ngay cho tao làm việc. Con tinh thấy anh chàng lại giơ búa, hốt hoảng: - Cây này với chúng tôi như bóng với hình, không thể nào rời được. Ngài hãy thương cho, chúng tôi sẽ xin kính biếu ngài một vật. - Vật gì? Đưa ra đây. Mau! Nếu không thì đừng có trách. Con tinh bảo chờ một lát, đoạn mang đến một cái mâm đồng và nói: - Ngài chỉ cần gõ vào mâm ba tiếng là có ăn ngay, muốn thức ngon vật lạ bao nhiêu cũng có. Nghe nói, anh chàng vô cùng mừng rỡ, vội nhận lấy mâm ra về, không quên hứa để cho con tinh được yên ổn. Khi đi qua chợ, chàng ghé ngay vào quán cơm, nơi mà thường ngày mình vẫn đặt gánh củi nặng trước cửa vào một cái bánh, vài đĩa xôi ăn đỡ đói và đỡ mệt. Lần này, chàng có ý khoe với nhà hàng là từ nay mình sẽ không cần ăn chịu và cũng không cần ăn khổ như trước nữa. Nghĩ vậy, bèn đặt mâm của mình trước mặt vợ chồng chủ quán và mọi người, gõ lên ba tiếng. Tự nhiên trong long mâm tuôn ra những bát cơm, bát canh, những đĩa cá, thịt, giò, chả đầy tú ụ, những chén rượu cúc tràn trề, v.v..., toàn là những thức ăn chưa bao giờ được nếm. Trước con mắt ngạc nhiên của đám đông khách ăn trong quán, chàng đốn củi đắc chí mời họ cùng ngồi dự tiệc. Ăn xong, say rượu, chàng nằm lăn ra giường làm một giấc ly bì. Lão chủ quán thấy thế thì động lòng tham lam. Thừa dịp mọi người tản đi, hắn vào buồng chọn một cái mâm giống với chiếc mâm màu nhiệm kia, rồi đánh tráo vào. Chàng đốn củi thức dậy không biết là mâm đã bị đánh tráo, hý hửng mang về. Sắp về tới làng, anh nghĩ bụng nên cho mọi người biết số phận của mình từ nay đã khác trước và nhân thể đãi làng xóm chén một bữa ra trò. Cho nên chàng rẽ ngay vào đính đánh trống gọi làng ầm ĩ. Tất cả mọi người từ ông tiên thứ chỉ cho đến anh mõ, ai nấy đều tưởng là có việc, lục tục đổ ra đình đông như hội. Anh chàng trịnh trọng lên tiếng: - Không mấy khi cháu có bữa rượu, vậy mời quý cụ và đồng dân thượng hạ ngồi vào dự cuộc. Nói rồi đặt mâm xuống chiếu, gõ lên thành mâm mấy cái. Nhưng anh ngạc nhiên thấy lần này mâm không còn mầu nhiệm như trước nữa. Chàng gõ mãi, gõ mãi, mâm vẫn trơ trơ bất động. Cho là đánh lừa mọi người, ông xã trưởng liền sai tuần đinh xông lại nện cho chàng một trận nên thân. Trở về nhà, chàng đốn củi bực mình vô hạn. Chắc chỉ có con tinh nó lừa mình nên chuyện mới xảy ra như thế. Cho nên qua ngày mai, anh lại vác búa lên rừng tìm đến cái cây cũ ra sức giáng búa vào. Con tinh hốt hoảng chạy ra van lạy chí chết và xin tặng một con ngựa ỉa ra vàng để được tha tính mạng. - Đưa ngay ra đây cho ta. Đồ lừa đảo! Chàng quát lên như thế và chỉ lát sau một con ngựa đã hiện ra. Chàng cưỡi lên phi một đoạn để cho ngựa ỉa, quả nhiên có rất nhiều vàng vụn văng ra sáng giấp giới. Chàng mừng quá, giắt búa vào lưng và cưỡi ngựa ra về. Đến chợ, chàng lại xuống ngựa, vào khoe với vợ chồng lão chủ quán: - Lần này tôi có con ngựa vô cùng quý báu. Trong bụng nó là cả một kho vàng đấy ông bà ạ! Rồi nó sẽ làm cho mà xem! Lão chủ quán thấy quả đúng như thế thì hoa cả mắt. Hắn sung sướng được chàng biếu trọn số vàng rơi ra. Nhưng hắn còn muốn được cả con ngựa. Hắn vội dọn cho anh một mâm đầy rượu thịt. Rồi chờ lúc anh chàng ngủ say, hắn lại đi tìm một con ngựa khác cũng có màu lông hung hung y hệt để thay vào, rồi dắt con kia đi biệt. Khi tỉnh dậy, chàng đốn củi vẫn không ngờ vực gì cả. Chàng lại nhảy lên ngựa cưỡi về đến đầu làng. Bụng bảo vệ: - " Lần trước vì con tinh khiến cho ta mang tiếng là đánh lừa mọi người. Lần này ta phải biếu bà con một ít vàng để bà con thấy ta thực bụng " . Thế rồi, chàng lại vào đình đánh trống ầm ĩ. Làng lại đổ ra đình. Chàng nói: - Tôi lần này có con ngựa rất có phép ỉa ra vàng. Vậy mời làng ra đây để nhận cho tôi một ít của báu. Đoạn chàng phi cho ngựa ỉa, nhưng con ngựa ấy thì làm gì mà có vàng. Nhìn thấy đống phân ngựa vãi ra không hơn gì những đống phân ngựa khác, các cụ cho là thằng cha đã xỏ xiên cả làng nên không nên được cơn tức giận. Cuối cùng, chàng bị làng tịch thu con ngựa và còn bị tuần nọc xuống đánh ba mươi roi. Qua ngày hôm sau hắn lại dậy sớm vác búa lên rừng quyết trị cho con tinh một mẻ. Lần này chàng bổ những nhát búa rất dữ dội. Thấy con tinh hiện ra quỳ lạy khóc lóc, chàng quát to: - Sao mày dám lừa ông làm ông mang oán với mọi người. Mâm và ngựa của mày chỉ là những của vứt đi, không đáng một đồng kẽm. Con tinh hết sức phân trần, vạch tội lão chủ quán, rồi nói tiếp: - Để tôi xin biếu ngài cái ống này, lúc về có thể lấy lại những của đã mất. Hắn đưa ống ra và dặn: - Cái ống này có phép làm cho bất kỳ bao nhiêu người cũng phải chống ngược lên trời nếu cầm ống chỉ lên không ba lần. Cho đến khi nào gõ xuống đất ba lần thì mọi sự trở lại như cũ. Nghe bùi tai, chàng đốn củi lại dừng tay búa, cầm ống phép bắt con tinh phải chống đít lên trời xem thử, thấy quả nghiệm rồi mới ra về. Đến chợ, chàng lại ghé vào quán cơm tươi cười hỏi mọi người: - Các ông các bà có muốn chống chăng? Vợ chồng lão chủ quán tưởng có món gì bở nên vội đáp: - Cơm ăn no, trầu đầy đây, không chống để làm gì? Lập tức cái ống mầu nhiệm đã bắt cả nhà lão chủ quán chống hai tay xuống đất, chân giơ lên trời không cụ cựa. Chắc là lần này chàng đốn củi đã rõ mưu mô gian dối của mình nên cố tâm phạt mình với phép thuật thần dị, lão chủ quán van khóc hết lời. Hắn hứa trả lại mâm và ngựa để xin tha mạng. Anh chàng chỉ cần có mấy món bảo vật cũ, nên vui lòng làm phép tha cho cả nhà lão đứng dậy. Khi châu đã về hợp phố, chàng phi ngựa nước đại trở về làng. Chàng không quên tiến vào đình thúc một hồi trống lớn mời làng như mấy lần trước. Thế rồi trước mặt quan viên và đồng dân thượng hạ, chàng đặt mâm xuống chiếu mời mọi người chia hàng ngồi vào. Tiếng gõ mâm lúc này rất có hiệu quả. Cơm rượu và mọi thức ngon vật lạ tuôn ra đầy mâm đầy chiếu. Cả làng không đợi mời nhiều, ai nấy cắm đầu ăn uống mặc sức. Ăn uống xong đâu đấy, chàng chỉ vào con ngựa và nói: - Nếu quý cụ và mọi người vui lòng nhận một ít vàng tôi sẽ bảo con ngựa này làm ngay. Không một người nào từ chối lòng tốt của chàng. Họ đứng ra hai hàng, mỗi người cầm một cái rá chực hứng phân ngựa. Quả nhiên, ngựa chạy đến đâu, người ta đổ xô nhau nhặt đến đấy vì họ thấy lấp lánh trên mặt đất bao nhiêu là vàng vung vãi. Xong cuộc nhặt vàng, anh chàng giơ ống lên và hỏi: - Bây giờ còn ống phép này, bà con ta ai muốn chống xin mời đứng về phía này. Bấy giờ người đã no say lại được vàng giắt lưng, ai nấy chắc mẩm lại có món quà gì nữa, nên chẳng một ai từ chối. Ống vừa giơ lên, tất cả mọi người đều chổng đít lên trời, dù cố gắng thế nào cũng không buông xuống được. Hôm ấy, không ngờ lại có lão trọc phú và con gái lão cũng có mặt ở đấy. Con gái lão là người đã làm cho chàng đốn củi chết mê chết mệt. Mọi ngày, tuy thấy anh nghèo khổ mà nàng vẫn tỏ lòng quyến luyến, những lúc chàng đến làm công cho lão trọc phú, hai bên từng có cơ hội gặp gỡ, chuyện trò. Nhưng đối với lão thì đừng có hòng tính chuyện lấy nhau. Bây giờ đây, thấy lão van như vạc, chàng tới thỉnh cầu lão gả con gái cho mình. Lão gật. Thế là chiếc ống lại gõ xuống đất buông tha tất cả mọi người. Rồi đó, anh chàng đốn củi lấy được vợ như ý muốn. Với ba món bảo bối, chàng đi khắp thiên hạ giúp đỡ những người nghèo khổ và trị tội những bọn tham lam độc ác [1] . KHẢO DỊ Một dị bản sưu tầm ở Nghệ-an còn có thêm một đoạn mở đầu: Một chàng đốn củi một hôm ngồi nghỉ ở một gốc cổ thụ, thấy một con chó đen chạy ra. Biết là con tinh, liền gọi chó lại. Khi hai bên đã quen nhau rồi, con tinh mới bảo: - " Anh ở đây với tôi, tôi sẽ cho tiền tiêu " . - " Tiền lấy ở đâu? " , chàng đốn củi hỏi. - " Đây là nhà tôi, tôi ở đây được vài trăm năm rồi " . - " Sao không làm người lại làm chó? " - " Hóa làm chó để cho dễ ẩn " . Giơ búa lên, chàng hỏi: - " Mày có sợ cái này không? " - " Chỉ sợ cán búa lấy ở cây vạn tuế mà thôi " . - " Tại sao lại sợ cây ấy? " . - " Vì đó là cây thiêng, tôi chỉ sống có vài năm, nó sống muôn năm, nên tôi mới sợ. " Anh chàng bèn về kiếm gốc cây vạn tuế đẽo thành một cái cán búa. Một hôm lên rừng chặt cây, một con tinh chạy ra van lạy, xin đưa một tặng vật. Kết cục cũng gần như truyện vừa kể [2] . Một truyện khác do người Phú-thọ kể cũng có kết cấu như truyện trên nhưng về hình tượng thì có biến dạng chút ít: Một người nghèo khổ lại đông con, kiếm ăn rất chật vật. Một hôm đói quá, một mình lên rừng đào khoai mài, bỗng gặp một tiên ông. Nghe hắn giãi bày nỗi khổ, tiên ông cho một cái hũ có phép mầu nhiệm là muốn bao nhiêu tiền, chỉ cần nói lên ít tiếng là có ngay. Anh ta đem về nhà và nhờ có món bảo vật, cha con sống rất đầy đủ. Nhưng hắn lại tiết lộ bí mật cho một người láng giềng biết. Người láng giềng đi báo quan. Lập tức quan đến nhà hắn chiếm lấy cái hũ. Anh ta đau xót mà không biết kêu ai, bèn lại lên rừng than thở với tiên ông. Lần này ông trao cho hắn một hòn đá với hai câu phù chú: một câu làm cho đá văng túi bụi vào mặt người khác; một câu làm cho đá thôi văng, trở về tay mình. Thấy hắn về với vật lạ cầm tay, quan tưởng lại có món bở, nên bắt hắn dâng nộp. Nhưng hòn đá đã văng vào mặt quan không biết bao nhiêu lần, đến mỗi người trốn đi đâu đá văng theo đó. Cuối cùng quan phải xin trả cái hũ mầu nhiệm để anh ta thu hồi hòn đá về. Cả hai truyện trên đều dễ dàng tìm thấy trong kho tàng cổ tích của số đông dân tộc trên thế giới. Một truyện lưu truyền ở Nam Ấn: Một người bà-la-môn nghèo quá bắt buộc phải gả con gái cho một con lang (kỳ thực thì đó là một hoàng tử biến hình). Một hôm, ông già đói quá, đến xin con rể tư cấp ít nhiều. Rể biếu ông một quả bầu bảo về trồng. Sau khi cây bầu mọc, có đến hàng trăm quả chín. Người bà-la-môn vội trẩy bán hết cho xóm giềng. Về sau, khi biết trong ruột quả bầu có nhiều vàng ngọc, ông mới đi chuộc lại những quả bầu đã bán nhưng nhà nào cũng đuổi ông ra khỏi cửa. Ông già lại đến nhà chàng rể xin tư cấp. Con lang cho một cái vại, hễ muốn ăn là có cỗ bàn hiện ran ngay. Ông mừng quá đưa về. Một hôm, ông mời một lão nhà giàu hàng xóm đến ăn. Lão lấy làm lạ khi thấy thức ăn lạ và quý, bèn dỗ dành để ông cho biết sự thực. Nắm được bí mật, lão bèn đi mách vua. Vua tìm đến nhà người bà-la-môn và sau khi được đãi một bữa cơm, liền chiếm ngay cái vại. Ông già lại đến nhà chàng rể kể việc mất chiếc vại quý. Con lang lần này cho một cái vại khác với phép mầu nhiệm là mỗi lần mở nắp, tự nhiên có dây và gậy nhảy ra trói và đánh người. Nhờ có cái vại này mà người bà-la-môn trị tội lão nhà giàu và tên vua, lấy lại những vật đã mất. Một truyện khác lưu hành ở dân tộc Ca-ma-ôn dưới chân núi Hi-mã-lạp (Himalaya): Một em bé có tính nghịch ngợm, một hôm bảo mẹ làm bánh để đi du lịch. Đến một cái hồ, hắn để bốn tấm bánh ở bốn góc hồ và nói: " Tao sẽ ăn một này, ăn hai này, ăn ba này và sẽ ăn cả bốn " . Đó cũng là một câu rủa. Lúc đó, dưới hồ có bốn con rắn từ lâu chia nhau ở bốn góc, nghe câu rủa sợ quá. Con thứ nhất bèn cho em bé một cái giường biết bay, tùy ý muốn đi đâu cũng được. Con thứ hai biếu những miếng vải có thể gọi ra tiền vàng. Con thứ ba biếu một cái chén có thể gọi ra cơm thịt. Con thứ tư cho một cái thìa có thể đưa một vật đến cho mình theo ý muốn. Em bé mừng quá mang về. Dọc đường trời tối, nghỉ ở nhà một bà già. Thấy em khoe những món đồ mầu nhiệm, bà già chờ khi em ngủ đánh tráo tất cả. Sáng dậy, em mang những thứ này về nhà. Đến nơi bảo mẹ đưa thùng lại để đựng vàng. Nhưng những vật đánh tráo này chả gọi ra được gì cả. Em bé lại đến hồ dọa nạt rắn. Bốn con rắn lần này cho em một đoản côn và một sợi dây có thể hô một tiếng là trói và đánh người. Em về bắt bà già trả các vật quý. Một truyện ở Bang-la-dex (Bangladesh): Một người Bà-la-môn vốn sùng bái nữ thần Đuyếc-ga, một hôm bỏ lên rừng than phiền với thần nông nỗi nhà mình nghèo khổ, con cái đông. Nữ thần cho một cái bình có thể làm xuất hiện một trận mưa bánh ngọt nếu lật đít bình lên trời. Anh ta đưa về nhà làm thử, quả nghiệm. Sắp ăn, bỗng nhớ tới việc cúng thần, bèn gửi bình cho chủ quán, dặn giữ bình cho mình rất cẩn thận, còn hắn thì xuống ao tắm gội để trai giới làm lễ. Chủ quán nghe dặn thì ngờ vực, bèn lật ngược bình ngắm nghía. Cũng như các truyện trên, khi thấy sự mầu nhiệm của chiếc bình, hắn đánh tráo vào một chiếc khác. Anh chàng Bà-la-môn về nhà thấy bình mất linh nghiệm bèn đến hỏi, bị chủ quán đẩy ra khỏi cửa. Anh ta lại lên rừng cầu khấn với nữ thần. Thần cho anh một cái bình khác mà mỗi lần lật ngược, có đến vài chục con quỷ to lớn hung ác hiện ra đánh phá. Lão chủ quán quen mùi, cướp lấy cái bình, nhưng lần này bị quỷ xông ra đánh, phải van xin trả lại cả cái bình trước. Mấy đứa con người Bà-la-môn lẻn vào buồng cha tranh nhau lật bình để ăn bánh ngọt, chẳng may để rơi vỡ tan tành. Người Bà-la-môn lại lên rừng. Thương tình, nữ thần cho một cái bình thứ ba có phép làm vọt ra sữa ngọt. Bố con đem sữa đi bán lấy tiền tiêu. Một hôm ông quan dò biết việc đó liền bắt anh ta mang bình đến dự lễ cưới con gái mình rồi chiếm lấy bình. Nhờ có phép mầu nhiệm của cái bình thứ hai nên người Bà-la-môn lại bắt viên quan trả lại cái bình cũ [3] . Người Pháp có một số truyện cũng tương tự với truyện Chàng đốn củi và con tinh . Dưới đây là một truyện mà hầu hết các dân tộc châu Âu đều kể gần giống nhau: Một người nghèo, đông con, bỏ đi lang thang kiếm cách nuôi gia đình. Một vị thần gặp anh giữa đường nghe trình bày nỗi khổ thì thương hại, cho một cái khăn có thể gọi ra được thức ăn. Về dọc đường, vào nghỉ ở quán, anh để lộ sự mầu nhiệm của cái khăn, bị chủ quán đánh tráo vào một cái khác. Cũng như các truyện trên, cái khăn mang về không có kết quả gì và hắn lại đi tìm thần. Lần thứ hai, được thần cho một con lừa có phép sinh ra vàng, nhưng cũng bị lão chủ quán đổi mất. Lần thứ ba, được một cái gậy với hai câu phù chú: " Ta-pa-la-pau-tau " thì gậy đánh vào kẻ thù; " A-la-pau-tau " thì gậy dừng lại. Cuối cùng, gậy phang cả nhà chủ quán gẫy tay chân, chúng phải van lạy và trả tất cả những thứ đã ăn trộm của anh, mới được tha. Truyện của người Tây-ban-nha (Espana) có một ít tình tiết hơi khác: Ông Luy-rô mất hết sản nghiệp, trước tình cảnh nghèo túng và sự giày vò của vợ con, toan treo cổ ở cây ô-liu. Một con ma hiện ra cho một gói tiền. Ở đây cũng có một lão chủ quán đánh tráo mất. Bị vợ đánh, ông lại định đi thắt cổ. Ma lại cho một chiếc chiếu gọi được thức ăn ngon; rồi lần thứ ba cho một cái gậy có thể tự động đánh kẻ thù theo ý muốn. Sau khi lấy lại những vật ở tay chủ quán, Luy-rô về nhà. Con thấy bố không có gì, xông ra đánh chửi, bị gậy của bố phang cho ngã xuống nền nhà. Vợ xông lại cũng bị gậy đánh chết. Quan đến bắt, cũng bị gậy giết. Quân đội của nhà vua kéo về cũng bị gậy đánh cho thất điên bát đảo. Nhưng chúng rình lúc Luy-rô ngủ, đến trói gô lại. Khi người ta đưa đi treo cổ thì ông lại tìm thấy gậy và sai khiến được gậy làm cho đao phủ bị giết, những người khác thương vong vô số. Vua buộc lòng phải thả Luy-rô và cho ông một ít sản nghiệp ở châu Mỹ. Ông đến Cu-ba lập một thành phố. Ở đây chiếc gậy còn giết khá nhiều người nên thành phố ấy mang tên là Ma-tăng-giáx (Matanzas) do tiếng Ma-tar (matar) nghĩa là giết. Truyện của người Pháp ở Thượng Brơ-ta-nhơ (Haute-Bretagne) như sau: Một cặp vợ chồng có một đám ruộng trồng cây lanh. Thu hoạch về bị thần Gió (Nô-ru-át) làm bay xuống biển. Chồng giận, đi tìm. Dọc đường hết lương ăn, vào xin nghỉ nhờ ở quán và hỏi đường. Gặp thần, hắn quát, bắt trả. Thần cho một cái khăn gọi ra thức ăn. Về quán bị chủ quán đổi. Lại đi lên núi, được thần cho một con lừa có vàng. Lại bị đổi. Lần cuối cùng thần cho một cái gậy có hai câu chú. Hắn mang về, sai gậy đánh chủ quán lấy lại những vật đã mất. Giàu có, hắn mua hai chiếc tàu. Người ta vu cho hắn ăn trộm. Hắn bị quan bắt và kết án chém. Cũng như đoạn kết của truyện trên, sắp sửa lên đài xử tử, hắn xin một ân huệ cuối cùng là xin được nhìn lại cái gậy trước khi chịu rơi đầu. Gặp lại gậy, hắn đọc câu chú sai gậy đánh chết đao phủ, làm thương vong bọn cảnh sát, lật đổ đài, đánh cả người đi xem. Mọi người kêu van xin quan tha hắn để hắn sai gậy trở về [4] . Truyện của người Xy-ri (Syrie): Một con chồn bị vợ đuổi, được một vị thần cho một cái đĩa gọi ra thức ăn và dặn đừng cho vợ biết. Nhưng hắn lại để cho vợ biết và vợ lại dọn tiệc mời vua chồn ăn. Vua chồn chiếm lấy đĩa. Lần thứ hai, được một con lừa làm ra vàng. Vợ cưỡi đến nhà tắm bị chủ nhà tắm đánh tráo. Lần thứ ba, được một cái túi gọi một tiếng có hai người khổng lồ nhảy ra. Nhờ đó, chồn ta mang về giết vợ, giết vua chồn và giết chủ nhà tắm, lấy lại những vật quý. Truyện của người Mông-cổ, Chiếc roi trả hận : Một anh chàng nghèo khổ tên là I-khơ-hu-xu, một hôm có con chim vàng bé nhỏ mang đến tặng một cây tùng, dặn đem về trồng, khi cây nở hoa, chỉ cần rung cây ba lần, ước có vàng là có ngay. Cây này sau đó bị tên địa chủ cướp đi, nhưng khi hắn rung để ước thì chỉ được toàn là cóc. Chim vàng lại mang đến tặng một cái giỏ, bảo khi nào muốn có bánh chỉ nói một tiếng là có ngay. Giỏ cũng lại bị tên địa chủ cướp, nhưng khi hắn ước, cũng như lần trước chỉ được cóc là cóc. Chim vàng lại mang đến một cái roi bảo anh muốn đánh ai chỉ nói một tiếng là nó làm theo. Được roi, I-khơ-hu-xu mang đến nhà tên địa chủ bảo roi quất cho hắn tới tấp. Hắn kêu bộ hạ tới, roi lại quất vào chúng làm chúng thương vong. Anh lấy lại được hai vật quý kia về [5] . Truyện của người Hy-lạp (Grèce): Một ông già tài sản chỉ có một cây đậu, bỗng nghe thần mùa Đông và thần mùa Hạ cãi nhau, mỗi bên tự cho mình đúng. Gặp lão, hai vị thần nhờ làm trọng tài. "Cả hai vị đều phải cả, thật khó mà chọn", lão đáp. Hai vị thần hài lòng mới cho lão một cái bình đất, dặn cầm lấy sẽ cầu được ước thấy, nhưng chớ tiết lộ cho ai biết. Lão mang về xin một bữa ăn ngon, quả được như ý. Nhưng sau đó vợ lão biết được bí mật. Ít lâu sau, một người con của lão yêu một công chúa, bảo mẹ đi hỏi, vua thách phải dựng được một cái lầu đẹp hơn lầu vua. Nhờ có cái bình, mẹ làm được ngay và được vua cho cưới. Nhưng vua lại phục rượu cho lão phun ra bí mật của cái bình mầu nhiệm. Vua bèn lấy trộm thay vào một cái bình khác. Mất bình, lão lại leo cây và lần này được một cái gậy và sợi dây có thể trói đánh người nếu muốn. Lão đem về bắt tên vua phải trả lại như các truyện trên. Truyện của một dân tộc ở châu Phi: Trong một trận đói, A-năng-xê vào rừng bắt được một cái bình. Hắn reo lên: - "A! Ta được một cái bình!". Nhưng bình bảo: - "Ta không gọi là bình mà là Hô-ho-rơ (cái chày) có phép làm ra thức ăn". Hắn đưa bình về giấu trong buồng. Một hôm, những người con của hắn lấy ra bắt bình dọn cỗ đánh chén nhưng không may chúng làm vỡ tan. A-năng-xê buồn quá lại vào rừng gặp một cái roi ngựa treo ở cây. Hắn reo lên: - "A! Ta được một cái roi!". Nhưng roi bảo: - "Ta không gọi là roi mà là A-bơ-ri-đi-a-bơ-ra-du" (đánh bằng roi). Hắn đưa về giấu trong buồng. Những đứa con của hắn tò mò mở cửa buồng lẻn vào. Roi quất cho chúng nhừ tử. Nhưng sau đó chúng cắt roi ra làm nhiều mảnh. Cũng vì thế mà về sau trong thế gian mới có lắm roi, đáng lý chỉ có một cái [6] . Truyện của người Chi-lê (Chili): Một bà già bép xép một hôm đến van vỉ với một bà phù thủy người cùng làng: - "Đói khổ quá, bà làm ơn cho xin một phép gì lạ để nhờ đó tôi có thể sống được". - "Bà có cái lưỡi dài quá, cho bà để bà thóc mách cho thiên hạ biết ư". - "Cứ cho đi tôi sẽ giữ mồm giữ miệng" - "Được, cho bà một cái túi này, khi đói bà chỉ nói: - "Túi ơi, hãy làm thức ăn đầy bàn cho ta". Bà lão sung sướng vì thấy phép mầu nhiệm. Đến chủ nhật, đi nhà thờ sợ để túi ở nhà có người lấy trộm, bèn mang sang gửi cho bà hàng xóm: - "Này, bà giữ hộ tôi cái túi này. Bà đừng có bảo nó: - "Túi ơi, hãy làm thức ăn đầy bàn cho ta nhé!". Bà hàng xóm ngồi nhà một mình, thử nói câu kia chơi, hóa ra có thức ăn thực, mới đánh tráo một cái túi khác. Bà già bép xép mất vật mầu nhiệm lại đến khóc lóc với bà bạn phù thủy. Thương hại, bà phù thủy cho một cái sừng phép và dặn chỉ cần gọi: - "Làm đi sừng ơi!" là nó sẽ chế tạo đồ gỗ bán lấy tiền mà sắm ăn sắm mặc. Đến ngày đi lễ nhà thờ, bà già lại đưa sang gửi bà hàng xóm nhưng giấu kín không nói gì về câu chú cả. Biết chắc là vật quý, bà hàng xóm trả lại cái sừng tử tế nhưng để ý rình xem như thế nào. Quả thấy bà già vừa đọc câu chú xong thì nhiều người sừng hiện ra, kẻ bào, người đục, kẻ cưa, người đóng đinh, chỉ một buổi là xong một món đồ có giá trị. Chủ nhật sau, khi bà già lại đưa sừng đến gửi, bà này vội đọc ngay câu chú, nhưng lại sợ rằng trong một buổi làm được ít quá chăng, mới đọc câu chú liên tục để giục giã chúng làm cho chóng. Thế là người sừng làm lia lịa; đồ đạc hết thứ này lại làm thứ khác, để đầy cả gian nhà. Khi không có chỗ đề làm nữa, họ nhảy tới bà chủ, người bào tóc, kẻ cưa mũi, người đóng đinh vào thân, đau không thể tả. Lại có kẻ đánh véc-ni cho da, thành da đen kịt, v.v... Bà ta kêu la khóc lóc xin thôi mà không được. Bà già đi lễ xong trở về thấy tình cảnh như vậy, vội chạy đến bà bạn phù thủy để nhờ giải chú. Kết quả, bà phù thủy thu lại phép lạ. Bà hàng xóm tham lam bị một trận nhừ tử nhưng may không chết. Khi lành trở thành người mũi tẹt da đen. Cả bà hàng xóm lẫn bà già bép xép từ đó nhờ vào những đồ đạc người sừng làm ra để sống qua ngày [7] . Truyện của người Kan-múc (Kalmouks) trong sách Cái chết mầu nhiệm : Ở một nước nọ có anh chàng bướng bỉnh, bị nhà vua (khan) trục xuất. Hắn ta qua một đồng cỏ thấy có con ngựa chết, bèn cắt lấy cái đầu buộc vào lưng khố rồi trèo lên một cây cọ để ngủ. Tối đến có một lũ quỷ ngồi ăn dưới gốc cây. Mải nhìn, hắn để đầu ngựa rơi lúc nào không biết. Bọn quỷ toáng đảm chạy mất cả. Hắn xuống tìm, nhặt được một cái bát vàng có thể gọi ra thức ăn. Lại tiếp tục cuộc hành trình. Dọc đường, gặp một người cầm cái gậy có thể sai khiến nó giết người. Hắn đề nghị đổi và được người kia đồng ý. Khi được cái gậy, bất thình lình hắn sai gậy giết người kia và chiếm lại cái bát. Cũng với cách đó, hắn còn chiếm được hai vật nữa: một cái búa gõ chín lần xuống đất thì hiện lên một cái tháp chín tầng; một túi da nếu lắc vài lần thì có thể làm ra mưa. Hắn cầm bốn thứ bảo bối trở về trả thù nhà vua. Nửa đêm, hắn cho dựng một cái tháp chín tầng ở sau lầu vua. Vua giận, sai lính chất củi đốt, nhưng hắn ở trên lầu lắc cái túi da làm ra mưa. Cuối cùng vua bị gậy giết chết. Truyện của đồng bào Mèo: Sự tích cây chuối rừng , là dạng kết hợp loại hình cổ tích trên đây với một số hình tượng của truyện Tấm Cám: A Páp làm công cho một chúa đất giàu có quyền thế. Tới ngày hội, anh rất buồn vì không có gì để đi dự hội. Một ông tiên làm phép cho anh có áo quần đẹp và ngựa ô. Thấy chàng đẹp và lịch sự, con gái chúa đất yêu mến. Chúa đất bèn chọc mù mắt anh rồi đuổi vào rừng. Ở đây, anh kết bạn với voi. Ông tiên hiện ra cho anh một hòn đá ước nhờ đó mắt anh sáng ra và giàu có. Thấy A Páo giàu, chúa đất mời đến nhà uống rượu rồi ăn cắp hòn đá ước. Về sau ông tiên lại cho một cái roi. Chúa đất quen mùi lại đến toan chiếm roi thần, bị anh khấn cho roi quật túi bụi. Chúa đất xin nộp tất cả, kể cả cô con gái, để được tha, nhưng roi thần vẫn được lệnh của anh quất tới tấp cho đến chết. Cuối cùng, hắn hóa thành cây chuối rừng [8] . Tất cả những truyện trên có lẽ xuất phát từ một truyện của Ấn-độ trong Kinh Đại tạng : Một người nghèo cố tìm kiếm thức ăn dâng cúng cho một nhà sư trong một năm, được sư cho một cái vại đồng có phép gõ vào miệng thì ước gì được nấy, nhưng dặn chớ có mời vua đến nhà. Anh ta trở nên giàu có, quên mất lời dặn. Vua đến nhà thấy cái vại bèn cướp lấy. Anh ta kêu khóc với nhà sư, được người này cho một cái bình có thể gọi gậy và đá văng ra, bảo mang đến đòi vua cái vại. Đến cửa cung, anh ta gọi ầm lên. Vua giận, sai mười người hầu ra bắt, những người này bị gậy và đá vụt cho vỡ đầu. Vua lại sai một ngàn lính đến vây. Gậy và đá tung hoành như gió, xác đầy cả cửa. Vua hoảng sợ, trả lại cái vại để được tha. Anh ta lấy vại về, trở nên giàu có [9] . Cũng từ Kinh Đại tạng còn có một truyện nữa, tuy nội dung và kết cấu khác hẳn nhưng nó vẫn có nhiều liên hệ với truyện trên về mặt hình tượng: Có hai vợ chồng không con, bèn cầu trời xin một đứa. Từ đấy, vợ có mang. Nhưng khi sinh ra thì không phải là người mà là bốn thứ đồ vật: 1. Đấu bằng trầm hương đựng gạo không khi nào vơi; 2. Vại đầy thức ăn của thần; 3. Túi ngọc; 4. Gậy phép có bảy mắt. Hai vợ chồng kinh ngạc, lại cố lạy lục trời xin một đứa con. Trời hỏi: - "Có con lợi được những gì?". Đáp: - "Nó sẽ giúp chúng tôi khi cần". - "Vậy thì cái đấu này có gạo vô tận, cái vại này có thức ăn và mật vô tận lại còn có thể chữa khỏi vạn bệnh, cái túi này giúp các ngươi không bao giờ túng thiếu, và cái gậy này bảo vệ các ngươi. Một đứa con có làm nổi như thế không?". Hai vợ chồng bèn trở về. Nghe tin họ có vật quý, nhà vua sai lính tới cướp, nhưng gậy bảy mắt đã đánh cho chúng thất điên bát đảo [10] . [1] Theo lời kể của người Hà-tĩnh. [2] Theo Bản khai của sách Hữu-tập , sách Vĩnh-lại, sách Nhiêu-hợp , đã dẫn. [3] Truyện này theo Sát-téc-gi (Chatterji) Dưới những cây xoài thì bà Chúa Tiên sau khi nghe lời khẩn cầu của anh chàng, tặng cho một cái bình có thể làm ra mưa kẹo. Bị chủ quán đánh tráo, anh lại xin được Chúa Tiên một cái bình khác có thể gọi quỷ đến, nhờ đó lấy lại được bình cũ. Một chủ đất làm lễ cưới vợ cho con, nghe tin, mời anh đến nhờ làm hộ kẹo. Anh xin vào một buồng kín để làm nhưng chủ đất cho người rình biết, bèn chiếm lấy bình của anh. Hôm cưới, anh mang cái bình thứ hai đến gọi quỷ ra đánh cả hai họ và chủ đất, buộc nó phải trả cho mình cái bình kia. [4] Theo Đờ-la-ruy (Delarue) và Tê-ne-dơ (Ténèze), sách đã dẫn. [5] Theo Truyện dân gian Trung-quốc (bản dịch của Thái Hoàng và Bùi Văn Nguyên). [6] Truyện này và một số truyện trên đều theo Cô-xcanh (Cosquin). Truyện cổ tích dân gian miền Lơ-ren , đã dẫn. [7] Theo Tạp chí dân tộc học , tập IV (1923). [8] Theo Truyện cổ dân tộc Mèo , sách đã dẫn. [9] Sa-van-nơ (Chavanne), sách đã dẫn. [10] Sa-van-nơ (Chavanne), Truyện ngụ ngôn và truyện cổ tích Ấn-độ trích từ Kinh Đại tạng .
__________________
![]() |
#123
|
||||
|
||||
![]() NGƯỜI THỢ ĐÚC Xưa có đức thánh Khổng Lồ, chuyên trông nom về nghề đúc và nghề rèn ở hạ giới. Đức thánh thường thân hành đi lại các nơi; khi giáng xuống miền này, lúc hiện ra xứ nọ, thành người trần, để tìm cách dạy thêm cho những người thợ về kỹ xảo. Nhưng trong khi theo dõi việc dạy nghề, đức thánh nhận thấy đám đệ tử của mình có những kẻ còn phạm thói lọc lừa điên đảo. Bởi vậy, đức thánh lại phải để tâm chữa cả thói hư tật xấu của họ. Có một người thợ đúc rong vai quảy đôi bồ trong có đủ các thứ đồ nghề linh tinh như lò bễ, khuôn, kéo, kìm, cặp, v.v... miệng thỉnh thoảng cất tiếng rao: - "Ai đúc nồi, đúc sanh, đèn, chiêng, thanh la, bình hương, bình hoa, biến cũ thành mới không?". Vốn nghề nghiệp thành thạo, nên hễ có ai gọi đến, ông chỉ lúi húi làm một vài ngày là xong. Thế rồi cơm ăn tiền lấy, ông lại quảy gánh lên vai chuyển từ làng này sang làng khác. Một hôm, từ sáng sớm, người thợ đúc đang bước rảo cho kịp phiên chợ. Đang đi, ông bỗng gặp một chàng trai trẻ tuổi, vai cũng quảy đôi bồ. Gã trai thấy ông thì đứng lại chào một cách cung kính, rồi nói: - Xin cho hỏi thăm một tý. Con theo thầy con học nghề đã mấy tháng nay, không may hôm trước đây, khi qua rừng, thầy trò lạc nhau, tìm suốt mấy ngày không ai biết cả. Xin hỏi ông, ông có gặp một người tên là Chu, trạc ngoài năm mươi, người cao cao, râu quai nón hay không? Người thợ đúc lắc đầu: - Ta không hề gặp một người nào như vậy. Dừng một lát, anh chàng nói tiếp, vẻ khẩn khoản: - Thật khổ quá! Con học với thầy bấy lâu có biết nghề đúc chút đỉnh, còn muốn học thêm cho thành thạo, không ngờ thầy trò mỗi người đi một đường. Bây giờ xin ông cho đi theo, con xin gánh gồng và hầu hạ chu tất. Chỉ cốt học được nghề cầm tay, ngoài ra không có ý gì khác. Chẳng hay ông có lòng thương hạ cố được không? Người thợ đúc thoạt đầu nhìn anh chàng thấy đã có vẻ ngờ nghệch, nay nghe nói thế thì tỏ ý coi khinh. Ông ta nghĩ bụng: - "Đi đúc rong thì chỉ một mình mình cũng đủ, đến đâu đã có sẵn người của chủ nhà cung ứng đó rồi. Giá thử có một người quảy gánh cho thì vẫn là đỡ mệt nhưng sức mình còn khỏe, cũng chưa cần lắm. Vả chăng được một vài quan tiền công, không lẽ không chia cho người học việc". Bèn đáp: - Ta trông anh còn trẻ người non dạ, nhìn bàn tay còn trắng trẻo chưa sém tý nào. Học cái nghề này không phải dễ. Thôi, anh hãy trở về đi cày còn hơn! Nghe nói, anh chàng chắp tay cầu khẩn: - Con cũng đã biết đúc võ vẽ, thầy hãy cho con theo. Nếu làm không được, hay hầu hạ sơ suất thì lúc đó thầy đuổi con đi cũng không muộn! Thấy hắn kêu nài và cam đoan trung thành với mình, người thợ đúc bỗng đổi ý kiến, nhận lời. Chàng trai đổi buồn làm vui, sụp xuống làm lễ "bái sư", rồi trút các thứ đồ nghề, nhập gánh của mình với gánh của thầy làm một, đoạn quảy gánh lên vai đi theo ông thầy mới. Chưa đến chợ, đã có khách hàng đón thầy trò về nhà thuê đúc một chiếc sanh cỡ lớn. Ngã giá, thầy trò bắt tay vào đắp khuôn dựng lò thụt bễ, loay hoay trong mấy buổi đã làm xong. Nhưng qua công việc, người thợ đúc nhận thấy anh chàng học việc của mình còn vụng về hết sức, dường như chưa biết cái gì cả. Bởi thế, sau khi từ giã nhà chủ ra đi, trên đường, người thợ đúc cất tiếng mắng anh ta: - Tao nghe mày nói có biết nghề võ vẽ nên tao mới nhận, có ngờ đâu mày chỉ là đồ ăn hại. Ông ta không ngờ anh chàng học nghề không tỏ vẻ gì là thẹn thùng hay bối rối, chỉ ngước mắt nhìn mình rồi bình thản trả lời: - Thưa thầy, con đi theo thầy cũ của con, học được cách đúc khác kia, chứ không phải như cách đúc của thầy vừa rồi. Người thợ đúc ngạc nhiên, vội hỏi: - Sao? Mày nói mày học được cách đúc khác là đúc thế nào? - Thầy con không đúc nồi niêu, sanh chảo, bình hương, bình hoa, mà là đúc người: đúc người già thành người trẻ, đúc người xấu thành người tốt. Người thợ tưởng hắn mất trí nên càng sửng sốt: - Ô, mày nói gì lạ vậy? Tao chưa từng nghe điều đó bao giờ. - Thưa thầy thật đó ạ! Cách đúc cũng dễ, không khó khăn nặng nhọc gì lắm. Chỉ nhờ vào mấy cái khuôn của thầy con để lại, có mang theo đây. Nói rồi anh giở khuôn cho người thợ đúc xem. Trong khi thầy tò mò nhìn từng cái khuôn lạ, thì trò lại nói thêm: - Thưa thầy tuy con mới học võ vẽ, nhưng làm cũng dễ lắm, mà lại được nhiều tiền. Mỗi chuyến thầy làm nhiều lắm cũng bốn năm quan. Nhưng mỗi chuyến thầy cũ của con làm thì được những một hai trăm quan là thường. Người thợ đúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nhưng thấy hắn ăn nói có vẻ chân thật, nên cuối cùng bụng cũng hơi tin. Sau đó lại hỏi: - Anh có tự tay đúc được như anh nói không? - Thưa thầy, thầy con đã từng cho con tự tay làm lấy một mình, nên chắc chắn có thể làm được. - Thế thầy anh rao hàng thế nào? - Thầy con thường rao thế này: "Nào ai muốn đúc người xấu thành tốt; da mồi tóc bạc đúc thành nhan sắc nõn nà; ông lão tám mươi thành đứa trẻ mười ba; bảy mươi đúc thành mười bảy không nào? ". Nghe rõ đầu đuôi, càng thêm tò mò, người thợ đúc chỉ muốn anh học nghề làm ngay cho mình xem tận mắt, liền bảo hắn: - Thôi bây giờ tôi hãy tạm nghỉ công việc của tôi, để xem cách làm ăn của anh chút đã, anh cứ rao như thế đi! Nếu có ai thuê, thì anh thử làm cho tôi xem. Nhưng nên nhớ nếu có xảy ra việc gì thì tôi không biết đâu đấy nhé! Từ giờ phút đó, thầy nhường cho trò rao và liệu tính hết mọi việc. Đến một làng nọ, một người phú hộ nghe tiếng rao liền gọi vào hỏi: - Bảy mươi đúc thành mười bảy là thế nào? Chàng trẻ tuổi đáp: - Cũng như nồi cũ đúc thành nồi mới thôi! Nhưng đây là đúc người: xấu xí ra xinh giòn, già yếu thành trẻ khỏe. Nhà chủ nói: - Tôi có ông cụ, tuổi đã ngoài bảy mươi, yếu lắm nằm liệt đã mấy năm nay, nếu đúc cho trẻ và khỏe lại được thì hay quá! Nhưng anh lấy bao nhiêu tiền công? - Tôi lấy rẻ ông một trăm năm mươi quan, và cơm ăn cho cả hai thầy trò. Ngoài ra, phải có hai mươi sảo than, mượn cho tôi một cái bung ba mươi và dọn cho tôi một gian buồng kín, không để một ai được nhòm vào. - Nếu làm được thì trăm rưởi quan cũng không đắt, nhưng vị phỏng chết người thì thế nào? - Nếu chết thì tôi xin bồi mạng. Tôi sẽ biên giấy cam đoan cho ông. Người thợ đúc từ đầu đã chăm chú theo dõi việc làm của anh học nghề. Ông thấy anh ta có vẻ thông thạo. Trước hết, anh xin giấy bút viết ngay tờ cam đoan. Trong giấy, anh hứa nếu làm không xong thì không nhận tiền, hoặc nếu làm cho khách hàng chết hay bị thương tích gì thì xin chịu tù tội. Thế rồi ung dung chờ cho cơm nước vào đâu đấy, anh dẫn thầy vào buồng kín lấy khuôn ra tô đi nặn lại, vừa làm vừa bày vẽ từng tý cho thầy. Công việc chỉ trong một buổi là xong. Chiếc bung được bắc lên một bếp lửa hồng. Đoạn, anh đưa ông già vào buồng lột áo quần đánh nhẹ một cái. Ông già ngã lăn ra chết. Không bối rối chút nào, anh đưa xác ông già bỏ vào bung, đổ nước vào, rồi vừa thụt bễ vừa đảo. Sau ba ngày ba đêm nước trong bung đã trở nên quánh. Cuối cùng anh bưng bung nước ấy đổ tất vào khuôn. Đợi nguội ba ngày ba đêm nữa, anh mới tháo khuôn ra. Quả nhiên có người từ trong đó dần dần cựa quậy, rồi nhỏm dậy bước ra, mặt mũi vẫn còn phảng phất hình trạng ông già, nhưng má hóp hóa thành má căng, tóc bạc đã trở nên đen nhánh. Suốt mấy ngày người đúc hồi hộp chờ đợi, giờ đây mới thở phào khi người chết đã sống lại, lại khỏe và trẻ đúng như lời rao. Chủ nhà thấy bố mình được "cải lão hoàn đồng" thì mừng rỡ bội phần. Ông ta vội mang tới đặt lên bàn một trăm năm mươi quan tiền bó mo cùng nhiều tặng vật, rồi tỏ lời cảm ơn hai thầy trò. Anh chàng học nghề chia ngay cho thầy mình một nửa. Người thợ đúc sung sướng quá đỗi, ngợi khen chàng trai hết lời. Trong bụng ông ta thầm nghĩ: - Kể ra làm cũng chẳng khó mà lại được nhiều tiền. Thế mà từ lâu không ai biết cả. Hai thầy trò từ giã nhà chủ ra đi. Tới một làng khác, một ông lái buôn giàu có gọi họ vào để thuê đúc lại người vợ cả lưng đã gù, răng đã rụng. Công việc lại diễn ra hệt như trước: cũng viết giấy cam đoan, cũng đưa khuôn ra đắp, rồi cũng đánh chết bà già bỏ vào bung. Nhưng lần này thì người thợ đúc không còn hồi hộp. Hắn xắn tay áo giành lấy công việc ở người học trò và chịu khó làm đủ mọi chuyện. Sau sáu ngày sáu đêm chờ đợi, khuôn được tháo ra. Quả nhiên, bà lão đã biến thành người tố nữ làm cho ai nấy đều trầm trồ kinh ngạc. Khi cầm lấy những quan tiền tốt của anh học nghề trao ch o, người thợ đúc suy nghĩ: - "Tất cả phép lạ đều ở trong cái khuôn kia cả. Chỉ nhờ có mấy cái khuôn của ông thầy hắn để lại mà làm ra bộn tiền. Hừ! Một cái nghề ngon ăn biết bao nhiêu! Có lẽ trẻ con nó cũng làm được. Tội gì mà không chiếm lấy để một mình hưởng lợi!". Nghĩ vậy, một hôm vừa đến một làng kia, người thợ đúc liền đến trình xã trưởng, vu cho anh học nghề của mình đã ăn cắp mấy nén bạc. Chàng trai cố sức cãi lại nhưng anh không làm sao minh oan được vì lúc giở ra khám, mấy nén bạc có đánh dấu không biết tại sao lại nằm lù lù trong "ruột tượng" của anh. Cuối cùng anh bị xã trưởng cho đóng gông lại để giải lên quan. Người thợ đúc bèn chiếm lấy tất cả đồ nghề rồi quảy gánh đi miết. Hắn đi đến một làng xa mới dừng lại, nhận đúc thuê cho một nhà nọ để "cải lão hoàn đồng" một ông già ngoài tám mươi tuổi. Bắt chước người học trò, hắn cũng làm giấy cam đoan tử tế, rồi cũng giở khuôn ra tô tô đắp đắp như kiểu hắn đã được chỉ vẽ. Khi đưa ông già vào buồng, hắn cũng choảng cho ông già một vố chết lăn, đoạn bắt tay vào những công việc như hắn đã làm lần trước. Nhưng khốn thay, sau mấy ngày đêm, mở nắp khuôn ra, hắn giật mình vì nước vẫn không đông lại thành người. Hết sức lo sợ, hắn lại cố chờ thêm ba ngày ba đêm nữa mà vẫn không thành công. Mấy người con ông già chờ mãi không được, bèn phá cửa buồng mà vào. Hắn hoảng quá, xin khất thêm ba ngày ba đêm nữa. Lại ba ngày ba đêm nữa trôi qua. Cuối cùng khi mở nắp khuôn hắn mới thật sự tuyệt vọng. Mấy người con ông già xông lại, bắt trói người thợ đúc đánh cho một trận thừa sống thiếu chết, rồi đóng gông để giải lên quan. Trên đường đi, cổ mang gông, mình thâm tím vì đòn, người thợ đúc chợt thấy sự trừng phạt về lòng tham lam gian giảo của mình. Hắn hết sức hối hận. Mồm hắn hết lời cầu khẩn đức thánh Khổng Lồ, hứa xin chừa mọi thói hư tật xấu, và xin đức thánh run rủi cho anh học nghề trở lại để cứu hắn khỏi tử tội. Hắn lầm rầm cầu khẩn suốt mấy ngày trời. Đến ngày thứ ba, lúc hắn đang bị tuần áp giải từ xã lên huyện, vừa ghé vào quán nghỉ chân thì bỗng thấy người học nghề của mình đang ngồi uống nước ở quán. Người thợ đúc liền sụp lạy như tế sao, và xin anh học trò hãy rón tay làm phúc. Anh học trò cười mà rằng: - Chính ta là Khổng Lồ đây. Ta không ngờ bụng dạ của lũ các ngươi lại nham hiểm đến thế. Đáng lý ta còn trị tội nặng hơn nữa, nhưng đã tỏ lòng hối hận thì cũng tha cho. Các ngươi phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề của ta thì không được dối trá lường gạt người khác. Dù có nghèo khổ đến đâu, lương tâm cũng phải cho trong sạch. Nói vừa dứt lời thì vụt một cái, mọi người không thấy anh học trò đâu nữa. Nhưng giữa lúc đó, từ ngoài cửa, một người con của ông già đã hộc tốc bước vào, nói không ra hơi: - Thôi đừng giải người ta đi nữa. Bố tôi đã sống lại rồi, hiện đang cựa quậy ở trong khuôn. Người ta nói từ đấy về sau những người làm nghề đúc ai cũng sợ đức thánh Khổng Lồ; không một ai dám gian trá khi hành nghề, nhất là đã cùng làm với nhau thì không bao giờ lừa dối nhau [1] . [1] Theo lời kể của người Hà-tĩnh và Bản khai của xã Võ-liệt .
__________________
![]() |
#124
|
||||
|
||||
![]() SỰ TÍCH ĐÌNH LÀNG ĐA HÒA Ngày xưa ở làng Đa-hòa có một ông thầy phù thủy cao tay, tên là Dọng. Không những ông có nhiều phép lạ mà còn có lòng thương người. Từ lâu, ông được bầu làm hương trưởng, và được dân trong vùng kính phục. Hồi ấy làng Đa-hòa gặp mấy năm hạn hán, mùa mất liên tiếp, dân tình cơ cực. Nhiều người phải đem vườn ruộng đi cầm đi bán. Nhưng giá gạo ngày một cao, ruộng ngày một hạ. Cuối cùng ruộng đất của dân đều vào tay mấy tên trọc phú. Thấy vậy, ông Dọng nghĩ cách để cứu giúp người nghèo. Ông bảo bọn nhà giàu: - Thần thánh phù hộ cho các người, bao nhiêu ruộng nhà nghèo đều lấy về ban cho một số người có của. Đó là lộc thánh. Nhưng nếu không biết tạ ơn thì rồi có lúc sẽ bị thánh phạt đấy. Biết ông là người có thể thông được với thần, bọn nhà giàu lo sợ, hỏi ông: - Muốn tạ ơn thánh thì phải làm gì? Ông Dọng đáp: - Làng ta vốn không có đình. Thánh ngự về không có cái mà ở. Vậy phải mau mau dựng một cái đình. - Dựng đình tốn kém lắm sao có thể làm nổi. - Nhà giàu bỏ của, nhà nghèo bỏ công, mỗi người vun đắp một tý thì việc lớn không mấy chốc mà thành. Nếu được như vậy, tôi tuy bất tài cũng xin đứng ra đốc công. Bọn nhà giàu nghe lời ông. Chúng bèn họp làng quyết định dựng đình: những người có của thì quyên tiền, còn người nghèo thì gánh đất gánh cát. Ông Dọng thân hành thu góp tiền nong và làm người đôn đốc. Ông bảo bọn trọc phú: - Thần thánh đều có con mắt, "sởi lởi trời gởi của cho, quăn co trời gò của lại". Hằng tâm hằng sản ai bỏ nhiều thì được phúc nhiều. Chúng nghe nói đều thi nhau quyên những món tiền lớn và góp lại trao cho ông. Nhưng thu được bao nhiêu ông phân phát cho dân đói bấy nhiêu. Ông bảo họ gánh đất đắp thành nền đình, xung quanh trồng bờ giậu cho kín, ở sân đình trồng các thứ cây cối kể cả các loại cây dây như cây bìm hìm, v.v... Đoạn, ông hẹn với bọn trọc phú ba tháng nữa đình sẽ hoàn thành. Bọn trọc phú thấy ông phân phát hết tiền thì sinh nghi, nhưng thấy ông nói cứng, thì lại nửa tin, nửa ngờ. Vả xưa nay ông chưa từng thất hẹn với ai, nên cũng không dám hỏi. Thời gian trôi qua, nền đình đã đắp xong, tiền quyên góp đã nhiều, hạn cũng sắp hết mà chưa thấy động tĩnh gì cả. Thấy gỗ lạt không có một que, gạch ngói chẳng có nửa mảnh, bọn nhà giàu đến thúc ông Dọng. Ông chỉ đáp gọn lỏn: -"Đình khắc có đình! Ai sinh sinh sự sẽ sự sự sinh!". Một số phú thương ở làng bên cạnh là làng Vạn-phước trước đây cũng bỏ những số tiền lớn quyên vào công việc làm đình ở Đa-hòa để mong được thánh ban lộc, nay đợi mãi không thấy đình, chúng lấy làm nóng ruột, liền đến vặn ông Dọng: - Chúng tao qua đây buôn bán thấy việc phúc đức, nên cũng vón tay vào để vo tròn quả phúc. Không ngờ mày "nhũng lạm" đi mất cả rồi, chỉ ngồi trơ thổ địa nói phét. Nói rồi chúng xúm lại thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh ông sưng cả mặt mũi. Ông Dọng đáp: - Đình khắc có đình! Nhưng đánh người là có tội, đánh bậc "cao niên" tội lại càng nặng. Kẻ nào đánh ta thì phải đền tội. Ta không nói chơi đâu! Đoạn ông mang gậy nón đi sang làng Vạn-phước để bắt đền. Tới nơi, ông vào đình Vạn-phước, ngả gậy nón ngay ở gian giữa mà ngồi. Rồi ông cởi áo giở chỗ bị đánh phân vua với những người dân Vạn-phước có mặt: - Các ông các bà xem. Đánh người không phải là chuyện chơi. Bọn những tên Giáp tên Ất ở làng này vô cớ gây sự đánh ta. Kẻ nào sinh sinh sự thì sự sự sinh! Sẽ phải đền đình! Nói thế rồi ông cứ ngồi ở giữa gian vót đũa và xe chỉ. Có ai hỏi làm thế để làm gì thì ông trả lời "đính nèo" (tức nói lái là néo đình). Bọn lý hào làng Vạn-phước được bọn phú thương xúi giục, ra đình đuổi ông Dọng đi. Ông không đi, nói: - Các ông phải trả lời cho tôi cái chuyện người làng này, những tên Giáp tên Ất, tự dưng vô cớ đánh tôi. Tôi được rửa nhục rồi thì sẽ đi ngay! Chúng hỏi: - Ông muốn rửa nhục thế nào? - Kẻ nào đánh tôi thì phải làm đình để đền. - Không làm đình thì sao? - Không làm đình thì vay tạm đình này rồi sẽ đền sau. Cho đòi hỏi của ông là vô lý nên chúng không chịu xử. Cuối cùng chúng lấy thế đông đến đuổi ông đi. Ông đợi cho họ tập hợp đông đủ, rồi mới thủng thỉnh nói: - Bây giờ tôi sẽ cắm cái gậy này xuống trước sân đình. Nếu làng ta nhổ được gậy lên thì tôi xin đi ngay. - Nếu không nhổ được thì sao? - Thì mất đình. Họ bảo "được". Hai bên làm giấy ký kết. Rồi đó, ông Dọng ung dung bước ra sân cầm cây gậy trúc của mình cắm phập xuống sân đình, và nói: - "Nhổ đi! Cho các người nhổ đi!". Vừa thấy thế, một tên hào cường trẻ tuổi xắp tay áo lên hùng hổ: - Cần gì phải nhiều người mất công. Xin mời các quan viên hãy ngồi nghỉ, chỉ một mình tôi nhổ cũng đủ. Này này, lão già hãy trông đây, rồi có đường có nẻo cút ngay! Và hắn chạy tới, dùng một bàn tay nắm lấy cây gậy để nhổ, nhưng không được. Sau đó, hắn lôi bằng cả hai tay, nhưng cũng không nổi. Sau, hắn ôm cả người vào rán sức lắc mà cũng không chuyển. Mồ hôi nhể nhại, hắn gọi những người xung quanh vào giúp sức. Ông Dọng nói: - Ta thách tất cả bọn bất nhân chúng mày! Mọi người liền xúm xít lại quanh tên hào cường, một người, hai người tới hàng chục người; nhưng lạ thay dù có đến hàng chục bàn tay, chiếc gậy vẫn không nhúc nhích. Bọn lý hào mệt nhoài. Chúng đánh mõ cho trai làng đổ ra buộc thừng mà kéo, song cũng chẳng ăn thua. Cuối cùng, chúng bàn buộc thừng vào cổ trâu, ra roi cho trâu kéo, tuy vậy chúng chỉ làm một công việc vô ích: mọi dây thừng đều đứt, còn gậy của ông vẫn vững như trời trồng. Ông Dọng phá lên cười: - Thế là thua cuộc rồi nhé! Rồi ngoảnh mặt về phía dân, ông nói: - Xin đồng dân nhớ cho, nếu làng ta có mất đình, chẳng phải tại tôi. Đó là do bọn tên Giáp tên Ất nó sinh sự sự sinh. Bắt chúng nó làm lại đình khác để đền! Nửa đêm hôm ấy, trời bồng nổi phong ba, sẩm chớp đùng đùng, gió rít từng cơn rất dữ. Giữa lúc ấy người ta nghe xen vào những tiếng như tiếng kèn trống cùng những tiếng truyền lệnh của ông Dọng: - "Nâng lên!... Hạ xuống...Xích về bên trái...". Đình làng Vạn-phước thốt nhiên bay bổng lên không trung cùng với cả những hòn đá tảng kê chân cột; đình vượt qua các lũy tre rồi tiến đến bờ sông lối sang làng Đa-hòa. Ông Dọng đã đợi ở đấy từ lâu. Ông ngồi lên chiếc nón tu lờ bơi sang sông theo đình để điều khiển. Đình vượt qua sông là là mặt nước. Sau đó đình bay bổng về Đa-hòa rồi hạ xuống một cách êm thấm trên cái nền mới đắp. Lại có những tiếng hô của ông Dọng và tiếng ồn ào dội lên ở đây, được một chốc thì vắng lặng như tờ. Soát lại mọi chỗ, ông Dọng chỉ thấy có một viên đá tảng bị rơi lúc vượt sông, còn mọi thứ đều không hề suy suyển. Cuộc chuyển đình hoàn thành một cách chu đáo. Sáng hôm sau, dân làng Vạn-phước nhìn đến đình thì thấy chỉ còn một cái nền trơ trọi. Họ đến nhà của mấy tên phú thương đòi đình. Mấy tên này lo lắng, bèn họp bọn hào lý bắt đệ đơn lên quan tố cáo ông Dọng ăn trộm đình. Quan huyện đòi ông Dọng lên hỏi: - Sao mày dùng phép ma thuật quỷ ăn trộm đình của người? Ông Dọng làm bộ ngơ ngác. Quan lại nói: - Làng Vạn-phước tố cáo mày ăn trộm đình về cho làng Đa-hòa. Có thế nào cứ thực tường khai để khỏi phải tra khảo. - Bẩm quan, ông Dọng nói, chuyện bên nguyên đưa ra "thậm ư vô lý". Vậy xin phép hỏi, đình mất từ bao lâu? - Mới hôm kia chứ đâu? Ông Dọng cười ha hả: - Quan lớn nhân danh "dân chi phụ mẫu" phụ họa với bọn không đặt làm có, mà cũng nghe được. Quan huyện đập bàn quát lên: - Lính đâu, hãy đóng gông tên này lại cho ta. Ông Dọng thong thả đáp: - Xin quan lớn bớt cơn thịnh nộ cho kẻ hạ dân hỏi bên nguyên: Nền đình làng Vạn-phước có dấu tích gì để biết đình mất đã bao lâu? Bọn lý hào Vạn-phước nói: - Cải đã lên lá. Ông Dọng cười: - Bẩm quan, một bên mất đình chỉ nói cải vừa trổ lá, còn đình làng tôi thì bìm bìm đã mọc lên tận nóc. Xin mời quan về khám hư thực. Quan về khám đình làng Đa-hòa thì quả thấy xung quanh đình, bờ giậu đã mọc xanh kín, ở sân đình cây cối um tùm: đặc biệt là dây bìm bìm đã leo lên tới nóc. Thấy vậy, quan đành xử cho ông thắng cuộc. Bọn hào lý làng Vạn-phước chịu thua kiện, cắm cổ ra về. Sau đó, do dân làng buộc tội, mấy tên phú thương đã đánh ông Dọng ngày xưa tức là bọn tên Giáp tên Ất phải ngửa cổ đền cho làng Vạn-phước một cái đình khác. Người ta nói đình làng Đa-hòa cho đến nay vẫn còn, một cột cái của nó vẫn để lơ lửng vì thiếu mất một hòn đá tảng lúc vượt sông. KHẢO DỊ Ở một số làng Bắc-bộ còn có nhiều truyện nói về trộm đình hoặc mượn đình bằng phép thuật. Chúng tôi kể ra dưới dây hai truyện: 1. Mượn đình Làng Yên-mỹ thuộc huyện Thanh-trì có một thầy phù thủy cao tay. Một hôm nghe dân làng phàn nàn sắp mở đám hội mùa xuân mà tiếc rằng làng nghèo không có đình để vào đám cho trọng thể, ông bảo họ: - "Tôi sẽ vì làng đi mượn một cái đình, rước xách xong lại trả cho người ta". Dân làng hỏi: - "Mượn ở đâu?". "Làng Trung-quan ở bên kia sông có ngôi đình đẹp, mượn cũng tiện". -"Phí tổn thế nào?" - "Không tốn kém gì mấy. Chỉ xin chọn đất đắp cho một cái nền đình, và khi nào chuyển vận thì mỗi nhà nấu cho một nồi cháo đưa ra bày ở nền để khao âm binh". Mọi người ưng thuận. Khi nền nắp xong, ông dặn: - "Hễ đêm nay nghe tiếng chó cắn xin mọi người ai nấy cứ ngủ kỹ, chớ có tò mò ra nhìn ngó gì mà hỏng việc". Nửa đêm hôm ấy, người làng nghe tiếng chó cắn râm ran khắp nơi, qua đó nghe như có hàng ngàn quân đang tập hợp ở sân đình. Sau đó lại tản đi đâu mất cả. Được một chốc lại nghe rào rào như gió bão, rồi tiếp đến thấy im lặng như tờ. Sáng dậy, dân làng ra xem quả thấy có một ngôi đình đồ sộ đặt trên nền cùng với cả hoành phi, câu đối và đá tảng. Dân làng Trung-quan thấy mất đình chia nhau đi tìm. Cuối cùng họ biết đình của mình đã sang bên làng Yên-mỹ, nhưng không biết lấy cớ gì để đòi. Dân Yên-mỹ mở hội bảy đêm ngày, mời các làng lân cận, trong đó có Trung-quan về dự rất vui vẻ, nhưng không một ai hé răng nói đến ngôi đình mới của mình. Sau khi đám hội kết thúc, thầy phù thủy lại dùng phép trả đình lại cho làng Trung-quan. Người của làng Yên-mỹ mang một con lợn và mấy cỗ xôi sang tạ lỗi: - "Làng chúng tôi không có đình, nếu nói thật là mượn đình, thì quý thôn chắc cũng chả cho mượn. Vậy đành phải mượn trộm trong mươi hôm. Nay xin trả lại đầy đủ chỉ giữ lại mười hòn đá tảng để làm kỷ vật, hết bao nhiêu tiền chúng tôi xin bồi thường". Về sau, khi làng Yên-mỹ có tiền dựng đình, vì đình quy mô nhỏ nên họ phải xén bớt những hòn đá tảng giữ lại nói trên cho vừa cỡ của cột [1] . 2. Giấu đình dưới giếng Làng Mễ-trì, huyện Hoài-đức, một làng hai thôn chung nhau một cái đình. Một hôm dân hai thôn cãi nhau về việc cúng thần. Sáng ra, họ thấy đình đã mất, chỉ còn trơ lại cái nền. Thần ngự đồng lên bảo cho biết, vì hai thôn ganh tỵ nhau, nên đêm qua thần bốc đình bỏ xuống giấu ở một giếng gần đấy. Nay việc đã định rồi không cho đưa về nữa. Người ta ra giếng nhìn quả thấy lờ mờ có nóc đình ở dưới nước. Không thấy một ai bàn chuyện di chuyển. Nhưng sau đó mỗi lần cầu việc gì không được (như trời hạn cầu mưa chẳng hạn) dân làng lại ra sức tát giếng làm như cách đưa đình lên để dọa thần. Thần sợ nên hễ nước cạn hơi lộ cột ra, thần phải lật đật làm mưa cho họ thôi tát. Có lần tát lộ cả bốn cột rồi mà vẫn chưa thấy mưa, một người họ Ngô lội xuống giếng vào cung đánh chuông vang rền, nhưng hắn bị thần phạt. Vì thế từ đấy mỗi khi tát để cầu đảo, làng không cho những người họ Ngô xuống giếng. Về sau hai thôn phải làm đình riêng, chỗ cũ gọi là bãi nền đình [2] . Người Quảng-nam có truyện Thầy Thím, là một dị bản của truyện Sự tích đình làng Đa-hòa kết hợp với một vài hình tượng trong truyện Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non (số 39, tập I). Ở làng Trà-luông, huyện Thăng-bình, có hai vợ chồng một đạo sĩ tên là Lánh. Họ dần dần nổi tiếng về những phù phép màu nhiệm, nên dân gọi chung là Thày, vợ là Thím gọi chung là Thày Thím. Thấy đình làng hư nát, một hôm Thày Thím tới gặp các ông hương chức tự nguyện cất cho một đình khác đẹp hơn. Làng tưởng họ nói chơi, cũng vui miệng trả lời ưng thuận. Thầy Thím bảo người dỡ cái đình cũ và đắp đất đổ lại nền sẵn sàng. Một đêm nọ tự nhiên giông bão nổi lên ầm ầm. Dân làng nghe xa xa có tiếng Thầy Thím hò hét thúc giục, rồi tiếng đục đẽo, tiếng búa gõ ình ình. Sáng ra đã thấy một cái đình rất đẹp. Làng bên cạnh mất đình, cho người đi dò la thấy đình làng Trà-luông giống với đình mình, bèn đi kiện. Thầy Thím lấy trộm không gọn. Chứng cớ không thể chối cãi được là trên vách tường ngôi đình này còn có vết dây trầu leo mà lại không có gốc. Bọn hương chức Trà-luông đổ vạ cho Thầy Thím. Hai vợ chồng liền bị hắt và cuối cùng bị kết án tử hình. Trước khi bị chém, Thày Thím xin phép quan cho mình truyền lại một vật báu. Bèn sai người mang đến một tấm lụa và bút mực. Họ vẽ lên lụa một con rồng. Khi vẽ xong, họ thắp hương, điểm nhãn, rồng vụt bay lên trời mang theo cả hai vợ chồng trước con mắt ngơ ngác của quan và lính. Đến Nha-trang, họ xuống ở nhờ một bà già lên là Xổi. Một hôm Thầy Thím gửi cho bà một bọc vải đựng hạt đậu, treo lên xà nhà, và dặn bà đừng cho ai biết. Không ngờ sau đó đứa cháu bà Xổi nghe trong bọc có tiếng xì xào thì tò mò mở ra xem. Tự nhiên trong bọc có nhiều binh lính hiện ra cầm khí giới bao vây lấy nó, làm nó hoảng hốt kêu cứu om sòm (giống với tình tiết rấm lúa thành binh ở truyện số 39, tập I). May Thầy Thím kịp thời chạy đến hô thần chú cho binh lính rút vào bọc nên không việc gì. Về sau Thầy Thím chết, quan trên không trị được họ lúc sống, nên báo thù lúc chết bằng cách dùng xiềng sắt xiềng mồ lại. Nhưng đêm đến có voi rừng về phá tan xiềng. Về sau vua phải phong cho chồng là Chí Đức Đại vương, vợ là Chí Đức nương nương [3] . [1] Theo lời kể của người Hà- đông. [2] Theo lời kể của người làng Mễ-trì. [3] Theo Sơn Nam. Chuyện xưa tích cũ , tập I, và theo Xa-lê (Sallet) trong tạp chí Viễn Á số 5 (1925). Lê Thanh Thái kể đoạn cưỡi rồng có hơi khác, như sau: Thầy Thím từ miền ngoài vào ở làng Tam-tân (Phan-thiết) làm nghề thợ rừng kiêm thầy thuốc. Do chữa được nhiều bệnh hiểm nghèo nên tiếng đồn khắp nơi, đến tai một lão Tây coi đèn ở đây. Linh cảm là không yên, Thầy sai Thím mua một tấm vải điều về vẽ một con rồng nhưng chưa điểm nhãn đã cuốn lại cất đi. Ít lâu sau, lão Tây đèn và lính tới bắt. Thầy xin phép vẽ nốt mắt rồng để treo bàn thờ tổ đã. Đoạn Thầy trải vải ra sân điểm mắt bên tả xong, bảo vợ bước vào mài thêm mực. Điểm vừa xong mắt bên hữu, thì rồng tự dưng quẫy đuôi bay lên trời, mang theo cả hai vợ chồng, làm cho lão Tây đèn và lính đứng ngây (Bách khoa, số 385).
__________________
![]() |
#125
|
||||
|
||||
![]() CON CHIM KHÁCH MÀU NHIỆM Vào một ngày xa xưa, có hai anh em con một nhà quan nọ một hôm đi chơi thấy có một nhà đạo sĩ ngồi bên vệ đường. Trước mặt đạo sĩ có đặt một cái lồng, trong có một con chim khách. Hai anh em sán lại xem và hỏi: - Chim gì mà trông chẳng đẹp. Nó có hót được không? - Chim này không phải để nghe hót đâu - đạo sĩ trả lời. - Thế dùng để làm gì? - Đây là một con chim khách mầu nhiệm. Ai ăn được thịt nó sẽ trở thành bậc vương giả. - Có bán không? - Chỉ bán cho người nào mang lại đây bốn ngàn quan tiền. Đưa về nuôi đúng ba tháng mười ngày, sau đó mới làm thịt. Chỉ cần ăn một miếng thịt chim này tự khắc có ngày phú quý sẽ đến, đứng trùm lên thiên hạ. - Có chắc thế không? - Đã mua thì đừng ngờ. Đã ngờ thì đừng mua. Nhưng hãy nhớ, không phải bất kỳ ai có tiền là mua được chim, cũng không phải bất kỳ ai mua được chim là ăn được thịt. Phải có số, lại phải có tài. Tin tưởng ở lời nói của nhà đạo sĩ, hai anh em liền chạy về nhà lấy trộm của mẹ mình đủ số tiền mang tới cho đạo sĩ để được làm chủ con chim quý. Trở về, hai anh em giao chim cho ba người thị tỳ, bắt mỗi người phải nhận một việc: người thứ nhất cho chim ăn, người thứ hai tắm rửa, dọn lồng cho chim, còn người thứ ba trông nom săn sóc chim. Hai người chủ còn dặn: - Tính mệnh cả ba ngươi gắn liền với con chim đó. Ta hứa sẽ cho các người mỗi người một ngàn quan nếu nuôi chim và giữ chim được tốt. Nhưng nếu để chim chết, hoặc bay mất, nhất định sẽ trị tội không tha! Dặn đoạn, hai anh em trở lại ngôi trường cách xa một ngày đường, tiếp tục học tập. Hồi đó, ở một nước ngoài có một người học được phép bấm độn rất tài tình. Ở đâu mất cái gì, hắn cũng có thể dùng phép lạ tìm ra được. Nhờ có phép lạ, hắn biết rằng ở nước Nam có một con chim khách mầu nhiệm: ai ăn thịt nó sẽ được làm vua. Thấy vậy, hắn bèn bán tất cả gia tài điền sản đóng một chiếc tàu quyết sang tận nơi để tìm bằng được. Sau những ngày lần mò dò hỏi, hắn đã tìm đến đúng nhà có con chim khách. Nhà rất kín cổng cao tường lại có nhiều đầy tớ canh gác, không dễ gì vào lọt. Nhưng khi biết chủ nhân ngôi nhà chỉ là một người đàn bà góa, hai đứa con trai đều đi học vắng, hầu hạ bên mình chỉ có ba cô gái trẻ, thì hắn rất mừng, quyết lập kế để lọt vào cho được. Hắn nhờ mối giới thiệu mình là khách buôn nước ngoài bán rất nhiều hàng nữ trang và lụa là với giá rẻ chưa từng có. Quả nhiên, mưu sâu đã đạt, khi gặp chủ nhân, hắn đưa tặng một chiếc nhẫn ngọc để làm quen. Chỉ một thời gian đi lại, dần dần hắn đã bắt nhân tình được với người đàn bà này. Nhưng khi hỏi dò đến con chim khách, hắn mới biết rằng chim được bảo vệ hết sức cẩn mật, do ba người thị tỳ chia nhau đêm ngày canh giữ. Túng thế, người khách buôn lại phải giờ một thủ đoạn khác. Một hôm, hắn làm bộ sửa soạn cho tàu về nước. Người đàn bà góa ăn phải bả tình, hết lời dỗ dành để cầu mong hắn ở lại với mình. Hắn liền ngỏ ý sẽ ở lại suốt đời, nếu được ăn thịt con chim khách nuôi trong nhà này. - Tưởng như thế nào chứ việc ấy thì có gì là khó khăn. Đáp đoạn, người đàn bà bèn ra lệnh cho mấy người thị tỳ phải đưa nộp con chim khách. Nhưng cả ba người nhất định không chịu. Họ trả lời: - "Thưa bà, chúng con không thể trái lệnh của hai công tử đã căn dặn trước khi lên đường". Để buộc mấy người thị tỳ phải tuân lời mình, người đàn bà nọ bèn hành hạ họ một cách tàn khốc. Cuối cùng họ không thể kiên gan được nữa. Lại nói chuyện một ngày nọ hai anh em đang ngồi làm bài thì tự nhiên ruồi ở đâu kéo tới vây kín lấy đầu ngọn bút không cho nhúng vào mực. Nghĩ là ở nhà có chuyện chẳng lành xảy ra, hai anh em bèn xin phép thầy về thăm nhà. Khi họ vừa bước vào cửa thì ba người thị tỳ đã chạy tới dắt họ vào buồng kín rồi quỳ xuống, kể hết những chuyện xảy ra ở nhà cho họ nghe: nào là người lái buôn nước ngoài đi lại không chính đáng với phu nhân, nào là họ bị đánh đập như thế nào chỉ vì không chịu nộp con chim quý, v.v... Hai anh em hỏi: - Thế chim hiện giờ ở đâu? - Đã giết thịt còn kho trên bếp. Chốc nữa ông ấy sẽ đến ăn. Hai anh em bèn vào ngay nhà bếp ngồi chén kỳ hết thịt con chim khách của mình. Ăn xong, họ lấy trộm tiền mẹ, thưởng cho ba người thị tỳ như lời đã hứa, và dặn họ hãy trốn mau đừng để mẹ mình bắt được. Rồi đó, hai anh em cũng bỏ nhà ra đi. Khi trèo lên một ngọn đèo thì trời vừa tối, hai người ngồi lại nghỉ sức, rồi vì mệt quá nên ngủ quên trên bãi cỏ. Đang ngủ ngon giấc thì bỗng nhiên trên không trung có hai vị thần bay qua chốn này. Nhìn thấy hai chàng trẻ tuổi nằm giữa cánh rừng hoang, một vị vốn là thần Thiện nói: - Này này, có hai gã xinh trai, lại có tướng làm vua sao mà lại nằm ở đây không sợ thú dữ ăn thịt? Chúng ta hãy mang họ đến kinh thành giúp cho họ sớm lên ngôi báu. Nhưng vị kia vốn là thần ác, đáp: - Không nên! Không nên! Hãy đưa chúng nó đến những nơi trăm sông ngàn gió để xem chúng nó chống chèo với số mệnh ra sao đã mới được. Hai vị thần tranh cãi nhau mãi không ai chịu ai. Mãi đến gần sáng một vị cắp người anh đi sang nước Tề, một vị cắp người em đi sang nước Sở, thả xuống vào lúc mặt trời chưa mọc. Lại nói chuyện người anh được thần Thiện thả vào nhà một người dân nghèo. Gia đình ấy hàng ngày đi làm thuê, bữa hôm không biết có bữa mai. Thấy người con trai mặt mũi sáng sủa lại chữ tốt văn hay, người chủ nhà coi như trời đưa đến cho mình một đứa con, nên tuy nhà thiếu ăn, ông cũng không nỡ đuổi. Chàng trẻ tuổi cũng lao vào làm bất cứ công việc gì để sống. Vùng này vừa bị mất mùa trong mấy năm liền, miếng ăn kiếm rất chật vật. Chàng trẻ tuổi hết làm thuê, đến kiếm củi, đào củ mài... quần quật suốt ngày vẫn không đủ bỏ miệng. Nạn đói ngày một dữ dội, người chết đói đầy đường đầy chợ. Trong một vài tháng đã xảy ra những vụ cướp thóc. Người chủ nhà đi theo đám đông. Chàng trẻ tuổi cũng hăng hái đi đầu. Thấy anh có tài, người ta tôn thủ lĩnh đại vương. Triều đình nghe tin dân đói nổi loạn, vội điều quân tới đánh. Máu chảy khắp nơi. Nhưng bên phía dân đói cũng tập hợp thành những đội quân do anh chỉ huy. Quân của anh ngày một đông: từ hàng ngàn chẳng mấy chốc lên hàng chục vạn. Quân triều đình kéo tới lớp nào bị đánh tan tành lớp ấy. Quân của anh kéo về kinh không một ai dám chống lại. Cuối cùng trong một trận kịch chiến, bọn vua quan nước Tề đều bị tiêu diệt. Cõi bờ nước Tề đều giao lại cho nghĩa binh. Người ta tôn anh lên ngai vàng, gọi là Tề vương. Người em được thần ác thả vào một cái thành. Hồi này ở nước Sở đang bị nạn mãng xà. Mãng xà vốn thích ăn thịt người. Ngày nào nó cũng phải thịt một mạng người mới đủ no. Từ trong hang đá, cứ chừng đúng ngọ thì nó bò ra đi tìm mồi. Xong bữa tiệc, nó lại trở về hang nằm nghỉ. Vì vậy, cứ vào khoảng nửa buổi, mọi người thi nhau chạy đi tìm nơi ẩn náu. Nhưng mãng xà cũng rất tinh khôn, không bao giờ chịu nhịn đói. Suốt mấy năm trời, nó đã ăn hết không biết bao nhiêu mạng người. Nhà vua vô cùng lo lắng, hứa gả công chúa cho người nào có thể trừ được con quái vật. Chàng trẻ tuổi rơi xuống đúng vào lúc mãng xà tìm đến kiếm ăn ở cái thành này. Anh đang đi dạo chơi các phố, bỗng chốc thấy mọi người đều biến đi đâu mất cả. Đang lúc ngạc nhiên thì mãng xà đã ở đâu xông lại. Thấy thế nguy, anh tuốt gươm đánh trả. Trận đánh diễn ra rất lâu, mấy lần anh đâm trúng vào đầu con vật. Một mũi gươm bị gãy giắt vào trong đó. Nhưng tuy bị thương, mãng xà vẫn còn rất khỏe. Nó quần anh mệt nhoài. Cuối cùng, anh cũng chém được con quái vật, nhưng vì mệt quá nên lăn ra nằm ngất bên vệ đường. Khi cơn nguy hiểm đã qua, mọi người lục tục ra khỏi chỗ nấp. Một viên quan nhỏ phi ngựa đến được chỗ xác mãng xà trước tiên, liền chém lấy cái đầu đưa lên nộp vua, tự xưng mình là người giết được quái vật. Vua y ước gả công chúa cho hắn. Lễ cưới tổ chức rất linh đình. Nhưng giữa lúc mọi người đang tiệc tùng thì chàng trẻ tuổi bỗng xuât hiện ở cửa thành. Anh xin vào gặp vua để đòi lại mũi gươm gãy. Bon thị vệ đưa đầu mãng xà ra, quả tìm được ngay. Thấy chứng cớ sờ sờ, vua sai bắt viên quan bỏ ngục và phong cho chàng trẻ tuổi chức phò mã. Sau đó ít lâu vua chết không có con nối. Phò mã được mọi người tôn làm vua gọi là Sở vương. Trong một cuộc hội kiến, Tề vương và Sở vương gặp nhau ở biên giới hai nước. Hai anh em nhận ra nhau ngay, và từ đây hai nước giữ hòa hiếu lâu dài. Nhân dân nước Tề và nước Sở được hưởng thái bình thịnh trị chưa từng có [1] . KHẢO DỊ Truyện kể trên gần giống với đoạn mở đầu của truyện cổ tích Ba-tư (Iran) và Ấn-độ. Truyện của Ba-tư như sau: Một thầy tu mua được một con chim mầu nhiệm, mỗi ngày đẻ cho y một viên ngọc. Một thời gian y vắng nhà, vợ y bắt nhân tình với một người đổi bạc. Nhờ một người bạn là một nhà thông thái cho biết ai ăn được đầu con chim ấy sẽ trở thành vua, nên người đổi bạc bảo tình nhân làm thịt con chim kia cho mình ăn. Người đàn bà vâng lời, nhưng đang nấu thì con khóc. Để dỗ con nín, bà ta vô tình cho nó ăn cái đầu. Thấy mất đầu chim, người đổi bạc tức giận, chạy đi hỏi bạn, bạn bảo ăn đầu đứa trẻ cũng sẽ đuợc làm vua. Hắn định giết đứa trẻ, nhưng khi đến nơi thì người hầu gái đã đem đứa bé trốn đi. Đứa bé qua nhiều cuộc phiêu lưu kỳ lạ được dân một nuớc khác tôn làm vua. Truyện Ấn-độ, sưu tầm ở xứ Cát-sơ-mia (Cachemire): Có hai anh em con vua phải trốn khỏi nhà vì bị dì ghẻ bạc đãi. Nghỉ chân dưới một gốc cây, họ bỗng nghe một con sáo bảo một con vẹt rằng - "Ai ăn thịt ta thì sẽ được làm quan đầu triều". - "Còn ta, con vẹt đáp, ai ăn thịt thì sẽ được làm vua". Hai người dùng cung tên bắn chết hai con chim, nguời anh ăn con vẹt, nguời em ăn con sáo. Người anh đến một nước kia sau quả được làm vua. Còn người em đến một nước khác, cũng như truyện của ta, ở đây đang có nạn chằn tinh ăn thịt người, mỗi ngày phải nộp một mạng. Vua hứa gả con gái cho người nào giết được quái vật. Người em giết được con vật nhưng vì kiệt sức nằm lăn ra đất. Một nguời hàng ngày thường quét dọn chỗ chằn tinh ăn, hôm ấy thấy quái vật chết, bèn chặt đầu nộp lên vua, xưng rằng chính tay mình đã giết. Về sau sự thật cũng được tỏ rõ truyện của ta [2] . Người Khơ-me (Khmer) có một truyện tương tự: Một hoàng hậu sinh được hai người con trai và được thần cho hai viên kim cương quý đeo vào có thể bay được. Thần còn cho biết: mẹ con sẽ gặp tai nạn trong mười năm, hết hạn sẽ đoàn tụ. Sau đó, ba mẹ con bị một bà phi khác tìm cách hãm hại, nhưng nhờ những nguời lính thương hại thả cho đi trốn. Như các truyện trên, ở đây cũng có hai con vật mầu nhiệm. Một hôm hai anh em đi đến một nơi thấy hai con gà, một trắng một đen, nói với nhau hễ ai ăn thịt được chúng nó thì sẽ được làm vua hai nước. Chờ lúc hai con chọi nhau mệt lử, hai anh em bắt làm thịt ăn. Hai anh em đi đến một nước kia, ông vua nước này chết không con nối. Theo lời quan thiên văn, nguời ta cho đóng voi rồi voi tự nó đi tìm ra người có số làm vua đem về triều. Đến chỗ có hai anh em đang ngủ, voi dừng lại rồi dùng vòi quấn lấy người anh đặt lên ngai đưa về, từ đó người anh trở thành vua. Người em ngủ dậy thấy mất anh, bèn bỏ đi tìm, không ngờ lưu lạc đến một nước khác, ở nhờ một bà lão. Bà lão thấy chàng có chiếc nhẫn sáng ngỡ là yêu tinh, vội đi báo vua. Vua sai lính bắt về giam lại. Hồi ấy có một hung thần đòi nộp công chúa. Vua hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho ai trừ được hung thần. Chàng xin đi. Thắng trận trở về được vua khen ngợi nhường ngôi, nhưng anh nhớ đến thời hạn mười năm đã hết nên cố xin về gặp anh mình và mẹ [3] . Khi qua nước của người anh trị vì, người em thấy chân dung của anh treo khắp nơi, vột xin vào cung tìm. Gặp nhau, họ rất vui mừng, rồi đó cả hai dùng nhẫn kim cương bay về xứ sở gặp lại mẹ. Truyện của người Đức cũng giống các truyện trên: Có hai anh em, một giàu, một nghèo. Hai đứa con sinh đôi của người nghèo, thuờng ngày phải sang nhà bác xin ăn, trong khi đó, bố nó phải sinh nhai bằng nghề kiếm củi. Một hôm ông này thấy một chim chim lạ, đánh rơi một chiếc lông, rồi một quả trứng bằng vàng. Người em đều mang đến bán cho anh mình. Người anh dò hỏi, rồi tìm đến tận tổ, bắt đưọc con chim quý đưa về bảo vợ nướng cho mình ăn. Người vợ vô tình làm rơi tim và gan chim, mấy đứa con người em vào bếp nhặt được ăn mất cả. Người vợ đành lấy tim gan gà thế vào cho chồng ăn. Vì ăn đúng tim gan chim thần nên mỗi sáng hai dứa bé nhả ra từ miệng hai đồng tiền vàng. Bác chúng biết chuyện bèn tìm cách giết cháu, nhưng hai đứa đã kịp thời trốn vào rừng và được một người đi săn nhận làm con nuôi, lại dạy cho nghề bắn thành thạo. Nhờ tài săn bắn, hai đứa trẻ bắt được thỏ, cáo, gấu, chó sói, sư tử mỗi loại một đôi, người và vật quấn quýt theo nhau. Sau đó, hai anh em chia đôi số loài vật trên, mỗi người đi một ngả. Cũng như các truyện trên, người em đi đến một nước có con rồng bảy đầu mỗi năm đòi nộp một cô gái. Đúng năm ấy, công chúa đến lượt phải đi nộp mạng. Nhà vua nuớc ấy bèn loan tin sẽ gã công chúa và nhường ngôi cho người nào giết được rồng. Anh chàng lên núi tìm được thanh gươm và một lọ thuốc thần, ai uống vào sẽ có sức mạnh vô địch. Anh giấu công chúa vào một nơi, rồi dùng gươm tiêu diệt con rồng. Giết xong, anh được công chúa tặng một chiếc vòng ngọc, một chiếc khăn thêu, anh dùng khăn này bọc bảy cái lưỡi rồng rồi nằm ngủ giữa mấy con vật thân yêu. Không ngờ, tên thừa tướng được vua sai đi thăm dò, nhân lúc người anh hùng và mấy con vật ngủ say, hắn giết chết anh, chặt bảy đầu rồng rồi đưa công chúa về, buộc nàng phải nhận mình là người đã lập nên công trạng. Khi mấy con vật tỉnh dậy thấy chủ chết, chúng đi kiếm lá cứu sống chủ. Sau đó, những con vật khác tìm cách vào cung gặp công chúa vào lúc đám cưới của công chúa sắp được tổ chức với tên thừa tướng. Giữa lúc tên thừa tướng đang ba hoa về bảy cái đầu rồng thì chàng đi săn xuất hiện. Anh hỏi nó: "Vậy thì bảy cái lưỡi ở đâu?". Hắn cứng họng không trả lời được. Anh giở chiếc khăn công chúa tặng lấy ra bảy cái lưỡi và thuật lại mọi việc. Tên thừa tướng liền bị án trảm quyết, chức phò mã về tay anh, và sau đó anh được vua truyền ngôi. Đoạn sau, anh bị một mụ phù thủy biến thành đá cùng với các con vật. Người anh em sinh đôi khi nhìn thấy lưỡi dao - do ông thầy thợ săn tặng trước lúc chia tay - hoen rỉ, biết là em mình đang bị nạn, liền đâm bổ đi tìm. Kết quả anh bắt mụ phù thủy phải làm phép biến đá trở lại thành người và vật, đưa về cho công chúa [4] . Người Miến-điện (Myanmar) có truyện Con gà trống kỳ dị cũng gần với truyện của người Đức: Có hai anh em nhà nọ: em nghèo ở nơi rừng núi; còn anh giàu ở thành thị. Một hôm, em ngồi ở gốc cây nhặt được một chiếc lông gà vàng. Đem đến cho anh, em được anh trả cho một đồng. Không biết là của quý, em cho rằng anh trả quá giá, cảm ơn rối rít. Mấy hôm liền, em nhặt được lông gà đều đưa cho anh và đều được tiền như lần đầu. Một hôm, em nghe có tiếng gà nói: -"Ai ăn được quả tim của ta thì mỗi ngày sẽ được hai quả trứng vàng ở dưới gốc cây". Em mang tin ấy báo cho anh biết, anh hứa nếu bắt được gà anh sẽ thưởng cho một ngàn dồng. Em từ chối tiền, chỉ xin anh nuôi hộ hai đứa con mình làm con nuôi vì nhà nghèo quá không nuôi nổi. Khi bắt được gà đưa đến, người anh bảo hai đứa cháu đưa xuống bếp làm thịt. Hai cháu vô tình đánh rơi tim gà xuống dất. Đứa này bảo đứa kia: -"Thôi bẩn mất rồi, dừng dọn cho bác ăn nữa". Đoạn hai đứa chia nhau ăn quả tim. Khi ăn cơm, người bác thất vọng thấy mất tim gà bèn đánh đuổi cháu. Hai cháu bỏ về nhà. Từ đấy, mỗi ngày chúng nhặt được đều đặn hai quả trứng vàng. Bố con nhà họ trở nên giàu có [5] . Nguời Pháp có truyện Con chim xanh cũng thuộc loại truyện trên, nhưng đã kết hợp với hình tượng của truyện Mũi dài (số 185, tập IV). Một bà góa có ba con: hai trai một gái. Một hôm bà đi chợ bắt được một con chim xanh mang về cho con. Mỗi sáng chim đẻ cho họ một trứng vàng. Một hôm, có một hoàng tủ đi săn ghé vào trại họ giải khát, thấy con chim trong lòng có chữ vàng đề: "Ai ăn đầu ta sẽ được làm vua, ăn tim ta sẽ được mỗi sáng một đồng vàng duới gối". Hoàng tử hỏi mua, họ không bán, bèn xin cưới cô gái làm vợ với điều kiện hôm cưới được ăn thịt chim. Họ bằng lòng nhưng vì nghi ngờ, nên hôm cưới họ ăn quách thịt chim, thay vào đó là thịt một con chim bạc má. Sau đó hai anh em sợ bỏ trốn vào rừng. Sáng dậy người anh ăn tim chim - lấy làm lạ thấy dưới đầu mình có những đồng vàng. Hai anh em qua nhiều nơi, đến một thành phố không ai biết vàng là gì, dân ở đấy lấy làm lạ tiến dẫn họ lên vua. Sau đó người em - ăn đầu chim - được lấy công chúa, nhân bố vợ chết, đuợc kế vị. Người anh từ giã em đến một thành phố khác, lấy được con gái một ông chúa. Vợ thấy chồng mỗi sáng có vàng dưới gối thì ngạc nhiên, mới đi tìm hỏi một pháp sư. Pháp sư nói ra điều bí mật và đưa cho người vợ một sợi dây bạc để lúc chồng ngủ có thể lôi tim chim ra mà ăn, để giành lấy sự màu nhiệm của chồng. Cuối cùng vợ rủ chồng đi trên một chiếc tàu rồi cùng một con hầu vứt chồng lên hoang đảo. Ở đây, trong khi đi tìm thức ăn, anh ăn phải một loại rau cần, tự nhiên hóa ra con lừa. Lừa ta sau đó ăn một loại rau khác lại trở thành người. Nhờ có một chiếc thuyền ghé vào đảo, anh được trở về quê vợ, mang theo hai loại rau lạ. Anh cải trang làm nguời bán rau đem đến cung bán. Vợ và con hầu ăn rau vào đều hóa thành lừa cái. Anh bắt chúng làm công việc nặng nhọc trong hai năm, rồi mới cho hóa thành người. Anh dùng sợi dây bạc lấy lại tim chim từ người vợ, rồi từ đấy hai vợ chồng sống với nhau lâu dài [6] . [1] Theo Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn, và lời kể của người Phú-yên. [2] Đều theo Cô-xanh (Cosquin). Truyện cổ tích dân gian miền Lo-ren, tập I [3] Theo Vân Hải. Con cá có mỏ (Tập truyện cổ tích Căm-pu-chia). [4] Theo Dũng sĩ Ha-ba-na. Xem thêm truyện Đứa con người đánh cá của người Á-ga-nít-xtăng trong Khảo dị truyện Tiêu diệt mãng xà (số 148), hình tượng của hai truyện được xây dựng khá giống nhau. [5] Theo Miến-điện dân gian cố sự. [6] Theo Xê-bi-ô (Sébillot). Truyện dân gian ở Thượng Brơ-ta-nhơ Bretagne (Pháp).
__________________
![]() |
#126
|
||||
|
||||
![]() CÂY TRE TRĂM ĐỐT Ngày xưa, có một anh nông phu nhà rất nghèo, phải đi ở cho một phú ông. Phú ông tính rất keo kiệt. Đối với kẻ ăn người ở, hắn có rất nhiều mánh khóe để bòn công mà không phải trả thêm tiền. Trong nhà hắn có một cô con gái chưa gả chồng. Thấy anh đầy tớ tuổi đã lớn mà chưa có vợ, hắn vờ vịt: - Cứ cố làm việc đi con ạ! Lão sẽ gả con gái cho! Vốn tính thật thà nên khi nghe lời đường mật của chủ, anh chàng bỗng nuôi hy vọng làm rể phú ông. Từ đó, anh đổ sức ra làm việc không biết mệt. Trời chưa sáng anh đã lội bì bõm ở ngoài đồng; cho đến tận khuya vẫn còn trần lực xay lúa giã gạo, kéo trục, bện thừng, v.v... Bao nhiêu công việc của chủ giao, dù khó khăn nặng nhọc thế nào, anh cũng không từ chối. Phú ông thấy mưu mình đắt thì mừng lắm. Đứa con gái của lão đời nào lão lại chịu gả cho hạng người như anh. Lão đã nhận lời gả cho con một nhà giàu ở làng bên cạnh vừa mang trầu cau đến chạm ngõ. Song để giấu anh, lão bắt mọi người phải giữ kín. Còn anh, anh vẫn không nghi ngờ gì cả, vẫn quần quật làm việc và gửi gắm hy vọng vào ông chủ. Lật đật mà ngày cưới của cô gái đã đến. Hôm ấy trong nhà phú ông người ta bày bàn dọn ghế, giết lợn mổ gà tấp nập. Để cho anh đầy tớ khỏi sinh sự lôi thôi làm lỡ cuộc vui của con mình, phú ông gọi anh đến và bảo: - Con làm việc khá lắm, lão rất ưng ý. Hôm nay lão đã sửa soạn cỗ bàn rồi đây. Nhưng mà con cũng phải có gì làm sính lễ mới được. Ta không đòi tiền bạc ruộng vườn gì cả. Cứ lên rừng chọn cây tre nào có một trăm đốt chặt mang về đây, lão sẽ cho làm lễ thành hôn. Nếu không có thì lão gả cho người khác đấy! Anh chàng đứng ngẩn người ra một lúc, nhưng sau đó người ta thấy anh cầm rựa cắm cúi ra đi. Lên rừng, anh cố tìm những bụi tre cao rồi lách vào mà chặt. Nhưng mỗi một cây tre ngả xuống là một lần anh thất vọng. Tre trông cao ngất ngưởng là thế nhưng nhiều lắm cũng chỉ đến bốn mươi đốt là cùng. Tuy vậy, anh vẫn không chịu nản. Anh lại luồn vào những nơi hiểm hóc có những bụi tre già, và mặc cho gai tre tua tủa cào rách cả áo, toạc cả da, anh vẫn không bận tâm, chỉ mong có một cây tre trăm đốt để mang về làm lễ dâng lên bố vợ. Anh giơ cao rựa chặt lấy chặt để. Nhưng tất cả những cây ngả xuống, đếm đi đếm lại cũng chỉ hơn những cây trước chừng dăm bảy đốt là cùng. Buồn rầu quá đỗi, anh quẳng rựa xuống đất, ngồi khóc nức nở. Tiếng khóc của anh vang động cả núi rừng. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên trước mặt, hỏi: - Con là ai? Cớ sao lại ngồi đây mà khóc? Anh gạt nước mắt kể lể sự tình cho Bụt nghe. Nghe đoạn, Bụt bảo: - Con đừng khóc nữa. Hãy đi chặt lấy một trăm đốt tre mang về đây cho ta. Anh nông phu lập tức làm theo lời Bụt dặn. Nhưng khi mang đủ một trăm đốt tre về, thì anh lại khóc: - Sao con lại khóc? Anh trả lời Bụt: - Phú ông bảo con chặt cây tre có một trăm đốt, chứ không phải chặt một trăm đốt tre! Bụt yên ủi, rồi bày cho anh sắp một trăm đốt tre lại thành một hàng và hô mấy tiếng: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Anh làm theo lời thì màu nhiệm thay, khi mấy tiếng hô vừa phát ra, anh đã thấy tất cả các đốt tre dính vào nhau như là từ một cây sinh ra vậy. Hết sức mừng rỡ, anh vội chạy lại định mang tre về, nhưng dù lấy hết gân sức, cũng không tài nào đỡ lên vai và quay trở được. Loay hoay mãi, cuối cùng anh buông tre rồi ngồi phịch xuống đất khóc. Bụt lại hỏi: - Làm sao con lại khóc nữa? - Cây tre dài quá, anh đáp. Con không làm sao mà đưa về nổi. Bụt lại bảo anh hô lên mấy tiếng: - "Khắc xuất! Khắc xuất!". Anh vừa hô xong thì cũng mầu nhiệm không kém gì lần trước, những đốt tre tự nhiên rời ra ngay. Anh mừng quá, hết lời cảm ơn Bụt, rồi xếp tre làm hai bó, quảy ra khỏi cửa rừng. Anh về đến nhà, giữa lúc hai họ đang cỗ bàn linh đình, cô dâu chú rể sắp bước vào lễ cưới. Anh lẳng lặng đặt gánh tre giữa sân rồi gọi phú ông ra nhận sính lễ. Thấy các đốt tre, phú ông vội quát: - Tao bảo mày chặt cho được một cây tre trăm đốt, chứ có phải chặt một trăm đốt tre đâu! Rõ ngớ ngẩn! Chẳng nói chẳng rằng, anh nông phu luôn miệng hô: - "Khắc nhập! Khắc nhập!". Các đốt tre lần lượt chạy ra khỏi bó rồi dính vào nhau thành một cây cao ngất nghểu. Phú ông tức mình chạy lại định lay cây tre cho nó rời ra, nhưng những tiếng "khắc nhập" từ miệng anh hô có phép làm cả người phú ông bỗng dính liền vào cây tre như là một đốt nối thêm vào vậy. Phú ông kêu la ầm ỹ. Tiếng kêu oai oái làm cho hai họ hốt hoảng đổ ra sân. Chàng rể là người đầu tiên chạy đến định gỡ cho hố vợ, nhưng hai tiếng "khắc nhập" của anh nông phu lại làm cho người hắn dính liền vào cây và đội phú ông lên đầu. Đến lượt ông thông gia đến gỡ con ra cũng bị dính vào nốt. Tiếp đó, họ nhà trai nhà gái cứ mỗi người xông vào gỡ là một lần bị dính cứng vào tre. Trong khi mọi người sợ xanh cả mắt thì anh đầy tớ vẫn bình thản đứng ở góc sân để đợi phú ông trả lời. Cuối cùng, phú ông đành phải van lạy xin được thả ra và hứa sẽ gả con gái cho anh, không dám nuốt lời nữa. Bấy giờ anh chàng bèn hô lên mấy tiếng: - "Khắc xuất! Khắc xuất!". Lập tức, phú ông và mọi người rời khỏi cây tre. Sau đó chàng rể cùng họ nhà trai cắp gói ra về. Còn anh nông phu từ đó được vợ như mong ước[1]. KHẢO DỊ Tình tiết người dính vào tre lằng nhằng một lũ tương tự với tình tiết người dính vào ngỗng kéo nhau đi một đoàn của một truyện cổ tích Đức do Grim (Grimm) sưu tầm: Con ngỗng vàng. Đại khái có một chàng ngốc vào rừng đốn củi, nhờ chia bánh và rượu cho một ông tiên trá hình nên được ông cho một con ngỗng có bộ lông bằng vàng (Trước đó, hai người anh của chàng ngốc vì xấu bụng không chia bánh và rượu nên chỉ bị thương mà không được gì). Về đến quán nghỉ có ba cô gái con chủ quán lần lượt đến định nhổ trộm lông nhưng bị dính chặt vào ngỗng. Anh mang ngỗng đi, kéo theo cả ba cô. Cha xứ và những người khác đến gỡ hộ cũng bị dính vào thành một chuỗi dài. Đến kinh đô, một công chúa cả đời không cười, thấy thế thì cười ầm lên. Để cho chàng ngốc không lấy được công chúa như đã hứa trước đây (gả công chúa cho người nào làm cho nàng cười được), vua lần lượt bắt anh phải uống một hầm rượu, ăn một núi bánh, chế ra một con tàu đi được cả trên cạn lẫn dưới nước. Nhờ có ông tiên, anh đã giải quyết được cả ba việc, và sau đó được kết duyên với công chúa[2]. Chú thích: [1] Theo lời kể của người miền Bắc. [2] Trong Truyện cổ dân gian của các dân tộc Việt-nam, tập IV, có kể truyện Con ngỗng kỳ lạ cũng có những nét gần với truyện trên. Như sau: Một người nghèo đông con, một hôm lên rừng bỗng thấy một tiên ông đánh nhau với một con quỷ. Anh giương ná toan bắn vào quỷ. Quỷ sợ bỏ chạy. Tiên ông thoát nạn, tặng anh một con ngỗng, dặn khi nào đói thì bắc nồi lên bếp hô: - "Ngỗng vào nồi đi!" ngỗng sẽ rùng mình rụng hết lông nhảy vào nồi. Ăn xong bỏ xương lại một đống rồi hô: - "Ngỗng đứng dậy!" thì ngỗng sẽ sống lại. Từ đó nhà anh không lo đói. Lão nhà giàu nghe tin anh có con ngỗng lạ, đòi mua nhưng anh không bán. Lão đến bắt trộm nhưng khi được ngỗng, dẫu hô hết hơi, ngỗng vẫn không làm theo ý mình. Tức mình lão dùng gậy đánh. Không ngờ gậy vừa giáng xuống thì dính liền vào ngỗng, còn đầu kia dính vào tay lão, không dứt ra được. Thấy lão kêu cứu, vợ lão chạy ra gỡ lại bị dính vào gậy, lũ con gái xông vào cũng bị dính nốt. Ngỗng lôi cả nhà lão nhà giàu ra chợ rồi lôi về nhà chủ. Anh chờ cho lão nhà giàu cầu khẩn chán chê mới hô mấy tiếng: - "Ngỗng vào nồi đi" để giải thoát cho lão nhà giàu và vợ con lão. Chúng tôi ngờ rằng truyện này ít nhiều có chịu ảnh của chuyện kia.
__________________
![]() |
#127
|
||||
|
||||
![]() NGƯỜI LẤY CÓC Ngày xưa có hai vợ chồng một người phú hộ hiếm hoi; mãi đến khi tuổi già xế bóng, người vợ mới có mang. Hai người bụng mừng khấp khởi nhưng đến khi giở dạ đẻ ra thì không phải người mà là một con cóc. Cả nhà toan đem ném đi cho khuất mắt. Bỗng cóc cất tiếng nói: - "Đừng ném con đi, cứ để lại, con cũng làm được việc". Rồi cóc "một mẹ hai mẹ" luôn luôn làm cho mọi người vui lây. Thế là vợ chồng phú ông đành lòng nhận cóc làm con. Lớn lên cóc hay lam hay làm. Nó thường trò chuyện mua vui cho cả nhà, lại chăm sóc mọi việc giúp đỡ bố mẹ. Hồi ấy ở gần làng có anh học trò nghèo, bố mẹ chết sớm. Hàng ngày anh cắp sách sang làng bên cạnh học ở trường cụ đồ Lê. Một hôm, qua đám ruộng lúa chín vàng rất đẹp mắt, thuận tay, anh cúi xuống bờ ngắt một bông để cắn chắt. Bỗng nghe một giọng nhỏ nhẹ từ phía góc ruộng phát ra: - Chàng ơi chàng, Sao chàng lại ngắt lúa vàng nhà em. Giật mình, anh nhìn quanh nhìn quất hồi lâu nhưng chẳng thấy một ai cả. Cho rằng tai mình nghe nhầm nên anh lại tiếp tục đi học. Chiều hôm ấy khi trở về đám ruộng cũ, anh lại cúi xuống chọn một bông lúa khác. Nhưng vừa ngắt xong thì câu nói mà ban sáng anh đã được nghe, bấy giờ lại từ dưới ruộng vọng lên. Lần này thì anh hết sức sửng sốt. Anh nhìn đi nhìn lại khắp nơi, lại lội xuống ruộng cố tìm quanh quẩn ở chỗ phát ra tiếng nói. Nhưng anh chẳng thấy gì hơn là một con cóc đang ngồi chồm hổm trên một mô đất cạnh một bụi lúa. Anh hỏi bâng quơ: - Vừa rồi cóc nói hay là ai? - Chính em nói đấy! Rồi cóc thong thả kể tiếp cho anh biết tên tuổi, quê quán và bố mẹ mình. Đoạn lại nói thêm: - Vì đám ruộng lúa nhà em chín sớm, lại ở bên đường cái, nên bố mẹ sai em ra đây canh giữ ban ngày. Xin anh khóa về nhà kẻo muộn, và từ nay đừng ngắt lúa nhà em. Nghe giọng nói của cóc trong trẻo, dịu dàng, thái độ lại chân thật, vui vẻ, anh học trò bụng hảo dạ: - "Xấu hình nhưng tốt nết, thật là ít có!". Mấy lần qua lại đám ruộng, anh đều thấy cóc đón chờ mình trò chuyện. Dần dần anh đâm ra phải lòng cóc. Thế rồi, anh quả quyết nhờ mối đến nhà phú hộ để dạm cóc làm vợ. Đang lo con gái mình không có ai tưởng đến, nay bỗng có người tử tế đến dạm, hai vợ chồng ông lão sốt sắng nhận lời và tỏ ý chịu mọi phí tổn cưới xin. Ngày đưa dâu, cóc lạch hạch theo về với chồng. Tin anh học trò lấy cóc chẳng bao lâu bay ra khắp nơi làm đầu đề cho những câu chuyện mua cười ở các gia đình. Ở nhà trường cụ đồ Lê, những người bạn học của anh luôn luôn xì xào dè bỉu: - "Chắc là vì hắn tham của". Họ đoán như vậy và họ tìm đủ cách để cho anh bị nhục. Nhưng mặc cho mọi người gièm pha, anh học trò vẫn vui vẻ như không có việc gì xảy ra. Sau cùng, họ quyết định làm cho anh một phen xấu hổ trước mặt thầy và bạn. Nhân nhà thầy sắp có giỗ, họ bàn với trưởng tràng tổ chức một cuộc thi dọn cỗ. Mỗi người học trò có vợ phải bảo vợ mình dọn một mâm cỗ dâng thầy, không được mượn người làm hộ. Cỗ nào ngon nhất sẽ được thầy khen. Bày ra chuyện này, họ định bụng xem xem cô vợ cóc của anh kia sẽ nấu nướng ra làm sao. Biết như thế nên khi trở về nhà anh học trò chỉ một mực thở dài. Cóc hỏi chồng vì cơn cớ gì mà buồn. Ban đầu anh còn giấu quanh, nhưng sau vì vợ gạn hỏi mãi, anh đành kể lại cho nghe câu chuyện. Nghe đoạn, cóc bảo: - Tưởng là gì chứ dọn cỗ thì em cũng không đến nỗi vụng về đâu. Chàng đừng lo gì cả. Nghe và nói thế, lòng anh cũng nguôi nguôi. Nhưng ngày một ngày hai, anh chẳng thấy vợ đi chợ sắm sửa gì lại sinh ra lo lắng. Mãi đến ngày cuối cùng, trong khi anh đi học vắng, cóc mới gọi các nàng tiên từ trên trời xuống, mỗi người một tay làm các món ăn. Chỉ trong chớp mắt, trên giá mâm đầy các thứ nem, mọc, giò, chả, bung, xào, v.v... mùi thơm phưng phức. Chiều hôm ấy, anh học trò đội cỗ đến nhà thầy mặc kệ những câu đùa nghịch quen thuộc của các bạn. Nhưng họ không ngờ rằng sau khi nếm qua tất cả các cỗ, cụ đồ dừng lại bên cạnh mâm của anh, tấm tắc khen: - Nấu ăn như người nào đây thật là tuyệt. Có những món ăn chưa bao giờ ta lại thấy ngon đến thế. Kết quả lần ấy anh học trò thắng cuộc trước những con mắt ghen tỵ của bạn bè. Ít lâu sau, nhân ngày sinh nhật của thầy, bọn học trò lại bàn nhau mở một cuộc thi may quần áo. Bộ quần áo nào mà thầy mặc vừa nhất và đẹp nhất sẽ được trúng giải. Nhưng không được một ai đo vào người thầy, và áo quần thì phải do vợ học trò may chứ không được thuê thợ. Bọn họ bảo nhau: - "Chuyến này, xem thử cóc may vá ra làm sao cho biết". Anh học trò lại bước cao bước thấp trở về. Thấy mặt anh buồn, cóc lại thủ thỉ: - Có việc gì mà chàng có vẻ không vui? Anh lại kể cho vợ nghe ý định của các bạn học. Nghe đoạn, cóc tươi cười: - Tưởng là gì, chứ may vá thì em đây cũng không đến nỗi vụng về. Chàng đừng có lo gì cả. Ngày hôm sau, đợi lúc chàng cắp sách ra khỏi cổng, cóc bèn vào buồng đóng kín các cửa lại rỗi hóa phép biến thành một con ruồi, ruồi bay ra đuổi theo chồng bám vào cổ áo. Khi đến trường, giữa lúc cụ đồ Lê bước ra giảng bài, ruồi ta bay đậu lên vai, lên cổ, lên lưng và lên mọi nơi trên áo quần cụ đồ, nhẩm thuộc tất cả kích tấc rồi mới bay lộn trở về. Chiều hôm ấy, anh học trò đi học về đã thấy một bộ quần áo xếp gọn để ở đầu giường. Anh giở ra xem: đường kim mũi chỉ khó có ai ăn đứt. Nhưng anh chỉ lo không biết thầy mặc có vừa hay không. Hôm sau là ngày nạp lễ, anh mang bộ quần áo đến trường, giữa lúc ấy các bạn anh đang giở áo quần cho thầy mặc thử. Nhưng chẳng bộ nào thầy mặc xứng ý: được quần thì hỏng áo, hay được áo lại hỏng quần. Anh học trò đưa bộ quần áo của mình cho thầy mặc thử sau cùng. Cụ đồ mặc vào thật là vừa vặn, áo cũng như quần không chê được một chỗ nào. Cuối cùng mọi người tiu nghỉu vì anh lấy vợ cóc đáng lý là cái đích để mà cười thì không ngờ lại trúng cuộc. Song họ vẫn chưa từ bỏ ý định trêu ghẹo anh. Ít lâu sau nữa, nhân có hội mùa xuân, bọn học trò lại bàn nhau xin cụ đồ cho mở một cuộc thi vợ đẹp. Hẹn chiều hôm sau mỗi người phải thân hành đưa vợ mình đến cho thầy chấm giải. Bọn họ bảo nhau: - "Lần này thì tha hồ mà cười cho vỡ bụng!". Thật là một tin không hay cho anh chàng lấy vợ cóc. Anh cảm thấy tê tái và phải cố gắng lắm mới bước về được đến nhà. Thấy chồng nằm dài trên giường chẳng nói chẳng rằng, cóc gạn hỏi mãi mới biết được sự thật. Chồng kể xong, nói tiếp: - Bắt nàng đến trường để thi... Chúng nó thật là ác độc! Nhưng cóc thì vẫn tươi tỉnh: - Chàng đừng lo. Thiếp xin vì chàng đến trường chào thầy và các bạn của chàng. Dầu thiếp xấu xí nhưng cũng có chỗ sánh được với người. Đừng ngại! Chiều hôm sau, lúc anh học trò bước đi thất thểu đến trường thì cóc cũng lạch bạch nhảy theo chân. Mặt anh đỏ dừ, vừa ngượng vừa thương vợ. Anh cúi đầu không dám ngoảnh cổ nhìn mọi người. Cóc vẫn bình tĩnh nhảy theo chồng. Lúc sắp đến trường, cóc bảo: - Chàng đợi thiếp một lát! Nói xong cóc nhảy ngay vào một bụi cây rậm bên đường. Anh học trò vội chạy đến bụi cây rình xem. Nhưng chưa kịp ghé mắt nhìn, đã thấy từ bụi cây bước ra một cô gái da trắng môi son, mày ngài mắt phượng làm anh ngơ ngác. Ngoảnh vào bụi anh thấy một tấm da cóc vứt lại một đống lù lù ở gốc cây. Hiểu ra đó là lốt của vợ mình, lập tức anh chạy vào xé nát tấm da. Rồi đó hai vợ chồng sánh vai bước vào cổng trường lúc bấy giờ đã chật ních những người. Mọi con mắt đều tròn xoe kinh ngạc vì vợ anh học trò mà họ tưởng là cóc, thì lại là người so với mọi người đàn bà khác như trời với vực. Quả đó là một vị tuyệt thế giai nhân. Từ đó hai vợ chồng quấn quýt với nhau không rời [1] . KHẢO DỊ Người Nghệ-an có truyện Vợ cóc là một dị bản của truyện trên nhưng không nói tới các cuộc thi, cũng không nói tới việc cóc đi canh lúa: Vợ chồng một nhà nọ sinh được một con cóc và nuôi đến chín mười năm. Một hôm cả nhà đi vắng, cóc ở nhà hóa thành một người con gái xinh đẹp ngồi dệt vải lại dọn dẹp trong nhà sạch sẽ. Có một bọn học trò đi qua, cô gái đẹp ra cửa têm trầu mời khách ăn. Nhưng đến khi họ vào thì không thấy cô gái đẹp đâu nữa, mà chỉ thấy một con cóc, bèn bỏ di. Riêng có một anh học trò trong số đó, lúc về giục mẹ đi hỏi: - "Nó là cóc, con lấy làm gì?" - "Mẹ cứ hỏi cho con đi". Bố mẹ cóc nhận lời gả con, không đòi hỏi gì. Ngày đưa dâu chẳng mấy ai dự, người ta bỏ cóc vào võng đưa về. Ai cũng chê cười: - "Người mà lấy cóc!". Nhưng đến đêm thì cóc hóa thành người, sáng dậy lại trở lại hình dạng cóc. Được ba ngày, chồng bảo vợ: "Người ta cười quá lắm, nàng phải làm cho họ thôi cười mới được". Cóc bèn hóa thành người ra mắt bà con làng xóm. Bố mẹ chồng thấy thế mừng quá, giết trâu bò mời họ mời làng. Người ta nói: "Ăn cưới không bằng lại mặt" là thế [2] . Trong truyện trên, chắc người kể đã lược đi nhiều tình tiết của truyện, nhưng vẫn giữ được một tình tiết đáng chú ý: vợ chàng học trò trước khi chuyển hóa thành người, đã có thời gian ngày là vật, đêm lại là người. Một truyện khác phổ biến ở miền Nam là truyện Nàng Út có một số tình tiết giống và khác với truyện Lấy vợ cóc : Hai vợ chồng nhà nọ hiếm con, hết lời cầu xin đức Phật để có một đứa. Người vợ sau đó tự nhiên có mang và đẻ ra ở đằng trán một cô bé bằng ngón tay nên đặt tên là Nàng Út. Cho là quái, bố mẹ chỉ những muốn vứt bỏ đi đâu cho khuất mắt. Một hôm, người bố đưa Út lên rừng sâu, bảo Út đứng chờ một chỗ, chờ chặt củi xong thì sẽ mang về. Nhưng sau đó ông ta theo đường khác lẻi về, bỏ con lại. Út cứ chờ bố hết ngày này qua ngày khác. Trước đó có một con quạ ăn dưa nhả hạt ở gần chỗ Út đứng. Hạt mọc thành cây. Út dùng lá dưa như một thứ mái để che sương gió. Cây có quả, Út nâng niu quả dưa, định bụng dành cho bố. Bỗng có một hoàng tử đi săn qua đấy thấy quả dưa chín bèn hái ăn, quẳng vỏ lại. Út ăn dưa thừa, tự nhiên có mang, đẻ ra một đứa con trai cũng bé xíu như mẹ nó. Hai mẹ con ở trên cây đa. Sau đó một hôm nhớ tới quả dưa ăn lần trước, hoàng tử bèn tìm đến khu rừng cũ. Trông thấy mẹ con Út, hoàng tử bỏ cả vào hai túi đua về cung rồi lấy Út làm vợ. Vua cha thấy thế giận lắm, tìm cách chia rẽ. Một hôm vua ra lệnh cho các cung nữ, ai may áo cho vua vừa vặn thì sẽ cho làm vợ hoàng tử. Bộ quần áo vua mặc vừa vặn và đẹp nhất là của nàng Út. Vua lại ra lệnh ai dọn cỗ mà vua nếm thấy ngon thì được làm vợ hoàng tử. Cỗ ngon nhất lại là của Út. Vua lại sai mở hội trong cung thi sắc đẹp, kén vợ cho hoàng tử. Trong khi hoàng tử lo lắng thì Út lập đàn cầu trời. Thần hiện xuống làm cho nàng lớn lên như người thường, nhan sắc tuyệt vời. Vua hài lòng cho phép hoàng tử lấy Nàng Út [3] . Lê Duy Thiện diễn ca truyện Nàng Út có kể lại nàng Út là tiên mà Ngọc Hoàng cho đầu thai. Khi sinh ra chỉ bằng con dế. Người bố mang lên nương để lại ở chòi. Có một thái tử nước Triệu đến tuổi lấy vợ, vua cha định hỏi công chúa các nước cho con, lại cho con mở hội kén vợ, chàng đều không màng. Đi săn vào chòi Út, thấy quả dưa, thái tử bèn ăn, ăn xong vứt vỏ, đái vào vỏ rồi trở về. Út từ chỗ nấp bước ra không biết, ăn phải vỏ dưa có mang sinh được một con trai "to lớn tức thời". Sau ba năm thái tử nhớ chốn cũ lại đi, thấy đứa bé giống mình bèn nhận Út làm vợ, đưa về cung. Ở đây cũng có ba cuộc thi như trên. Lần thi thứ ba, thiên đình làm cho Út thành người lớn, xinh đẹp, lại cho một quạt, một đàn. Quạt đàn này khi các nước đến xâm lăng thì: ... Quạt vào giông tố liền ra. Đá văng cây ngã xem đà dữ thay! ... Nghe đờn (đàn) liệt quốc suy lòng. Âu làm hàng biểu cho xong mà về [4] . Một truyện khác Người lấy cóc lưu hành ở một địa phương miền Bắc, nhưng nội dung thì lại giống với truyện Lấy chồng dê (số 128), chỉ có khác nhân vật ở đây là cóc [5] . Đồng bào Tày (Thổ) có truyện Kim Quế: Nàng Kim Quế, con gái đức Phật Thiên đàng vì tính tình phóng túng nên bị đày xuống trần, nhưng lại sinh lạc vào xã hội loài khỉ. Tuy vậy, nàng vẫn có tài nghệ hơn đời, thường ngày chẻ tre đan chiếu, chiếu đẹp như lụa thêu, gấm dệt. Một hôm có bà lão tới nhận đem chiếu đi bán, bà lão bán cho hoàng tử Chúa Ba. Thấy chiếu đẹp, Chúa Ba lên rừng để gặp. Sau khi trò chuyện, mới biết tuy rằng đội lốt khỉ mà là người tiên, bèn rước về cùng nhau ăn ở như vợ chồng. Muốn trêu tức Chúa Ba, vua ra lệnh cho hoàng tử phải làm cỗ yến, ngon thì sẽ nhường ngôi cho. Kim Quế nhờ chị em tiên xuống làm hộ nên cỗ Chúa Ba được giải nhất. Lần thứ hai thi may áo, lại đoạt giải nhất, nhờ sai ruồi vào cung đo người vua. Lần thứ ba thi vợ đẹp, Kim Quế gọi tiên nữ xuống mang "nha linh đơn" để tắm. Tắm xong, khỉ biến thành người đẹp, lại chiếm giải. Kết quả, Chúa Ba được vua nhường ngôi [6] . Người Mèo có truyện Nàng tiên khỉ cũng lấy khỉ thay cho cóc: Một ông vua có ba hoàng tử, riêng hoàng tử thứ ba người xấu xí, một hôm đi lạc vào nước khỉ và yêu nàng công chúa khỉ vốn là một nàng tiên giáng trần. Khi đưa vợ về, hoàng tử bị mọi người dè bỉu, nhất là vua cha. Để buộc con bỏ vợ, vua cho tổ chức lần lượt ba cuộc thi giữa ba người vợ của ba hoàng tử, ai nhất thì chồng được vua nhường ngôi, ai kém thì phải đuổi. Lần đầu thi dọn cỗ, khỉ nhờ hai trăm bạn tiên xuống giúp cho mỗi người một món; lần thứ hai may áo quần, khỉ nhờ bạn tiên mang gấm vóc xuống may và tàng hình vào cung vua đo khổ người; lần thứ ba thi sắc đẹp, khỉ đến cung rùng mình hóa thành người đẹp tuyệt trần, áo quần như dát vàng dát bạc. Hoàng tử thứ ba quả được truyền ngôi như truyện của người Tày [7] . Người Miến-điện (Myanmar) có truyện Nàng Nhái: Có hai vợ chồng già hiếm hoi, đẻ được một con nhái. Họ giữ lại nuôi, người ta gọi là "Cô bé nhái". Mẹ cô chết, người bố lấy vợ kế có hai con riêng, chúng nó xấu bụng ghét nhái. Hồi ấy hoàng tử thứ tư làm lễ kén vợ bằng cách ném hoa. Các tiểu thư được gọi vào cung. Nhái cũng đòi đi, chúng chế giễu không cho vào cửa. Nhái nói khéo, được lính cho vào. Các cô tiểu thư xõa tóc, Hoàng tử tung hoa huệ lên trời, không ngờ hoa rơi trúng đầu nhái. Hoàng tử đành kết hôn với nhái, người ta gọi là "bà chúa nhái". Một hôm vua cha muốn truyền ngôi cho con, mới mở một cuộc thi tìm bắt nai vàng. Các hoàng tử khác chỉ tìm dược những con nai thường, chỉ có chồng nhái nhờ có nhái, tìm được nai vàng. Vua cha lại mở cuộc thi đem đến thức ăn sống nhưng sau buổi lễ, gạo phải không mốc, thịt không ôi. Các hoàng lử khác đem gạo thịt nấu sẵn, chỉ có nhái đưa gạo thịt sống đến, trải qua mấy ngày mà vẫn tươi. Lần thứ ba vua thi vợ đẹp. Thấy hoàng tử lo lắng định đi tìm một cô gái đẹp, nhái bảo: "Cứ đưa em đến là đủ!". Khi đến nhái bước lên điện, nhái vẫn là nhái. Hoàng tử thứ tư thẹn đỏ mặt khi vua hỏi: '"Tiểu thư xinh đẹp của con dâu?" Nhưng nhái đã bước ra nói: "Thưa con đây!". Nói rồi cởi da nhái hóa thành cô gái đẹp như tiên. Hoàng tử vội vàng chụp lấy tấm da ném vào lửa [8] . Người Pháp cũng có truyện Con nhái gần giống với truyện trên: Một người đàn bà đang muốn tìm vợ cho hai con trai. Những cô gái xung quanh đều từ chối. Một hôm hai anh em bàn nhau bói vợ bằng cách mỗi người bắn một phát tên, gặp ai lấy nấy. Mũi lên của người anh rơi vào một chuồng gà, gần đấy có cô gái xinh đẹp mười tám tuổi. Còn mũi tên của em không may rơi xuống bùn, một con nhái nhảy ra. Em đành phải lấy nhái làm vợ. Nhái đưa chồng về sống chung trong một căn lầu, không có ai lai vãng. Một hôm hai anh em tìm đến nhà chú là một vị vua cai trị nhiều nước. Người chú ra một cuộc thi vui nhộn, hẹn mỗi người đem chó đến, chó của ai chạy qua mấy hàng chai lọ mà không đổ thì cho cai quản một nước. Nhái đưa cho chồng một cái hộp, mở ra có một con chó con, chó chạy lon xon tránh né rất gọn, không có một chai lọ nào đổ cả, trong khi đó chó của người anh thì làm đổ lung tung. Thế là chồng nhái được cai quản một nước. Lần thứ hai chú lại mở cuộc thi: ai đưa đến một sợi dây nắm gọn trong tay, nhưng có thể quấn quanh lâu dài ba vòng thì cho cai quản một nước khác. Dây của người anh chỉ quấn được hai vòng, còn dây của chồng nhái quấn đến năm vòng. Lần thứ ba người chú lại thi vợ đẹp. Vợ nhái chuẩn bị một cái xe to bằng quả quýt có bốn con chuột kéo và một con mối (thạch sùng) cầm cương. Trước khi lên đường, nhái nhảy xuống bùn một lát, bước lên là một cô gái rất xinh, mặc áo đẹp, xe của nhái hoá thành cỗ xe bốn ngựa có người xà-ích ăn mặc sang trọng. Thế là được chú cho cai quản một nước thứ ba [9] . Truyện của người Ả-rập vùng sông Nin (Nil): Một ông vua có ba người con. Khi con đến tuổi lấy vợ, người bố bảo họ trèo lên nền của một lâu dài, mỗi người bắn một phát tên, trúng vào đâu thì lấy vợ ở đó. Mũi tên của hoàng tử cả rơi xuống nhà một viên đại thần, được kết duyên với con gái ông ta. Mũi tên của hoàng tử thứ hai rơi vào nhà một viên tướng, cũng được lấy con ông này. Mũi tên của hoàng tử thứ ba rơi vào một gian nhà có một con rùa lớn. Hoàng tử đành phải lấy rùa làm vợ như lời vua cha đã giao ước. Sau đó, một hôm vua ăn không ngon, ra lệnh cho mỗi hoàng tử phải mang đến một mâm thức ăn. Hai mâm thức ăn của hai người chị dâu đưa đến trở nên tanh tưởi hôi hám (do rùa làm ra như thế), còn mâm của rùa được vua khen ngợi vì ăn ngon. Vua sai dọn tiệc mời vợ các hoàng tử tới dự. Rùa bảo chồng đưa mình đến. Sắp tới nơi, rùa trút vỏ hóa thành một cô gái áo quần rực rỡ, cử chỉ lịch sự. Còn hai chị do rùa hóa phép làm cho áo quần trở nên lố lăng, đã thế lại bắt chước cử chỉ của rùa nên làm trò cười cho mọi người. Trong khi đó thì hoàng tử út bí mật ra đốt cái vỏ rùa, để cho vợ khỏi trở lại kiếp vật. Truyện của người Thổ Thát-đát ở núi An-tai (Altai): Một người lái buôn có ba người con, một hôm bảo họ: "Đứa nào mộng thấy vợ như thế nào thì lấy người như thế ấy". Người anh cả lấy con gái một lái buôn, người thứ hai lấy con một viên chức; còn người thứ ba mộng thấy được làm chồng nhái, đành phải lấy một con nhái. Một hôm bố chồng sắp đi chầu vua, bảo nàng dâu thứ nhất may một cái áo, nàng dâu thứ hai may một cái quần, còn nàng dâu thứ ba khâu một đôi ủng. Nhái đưa cho chồng một đôi ủng thêu rất đẹp. Còn công trình của hai người kia không đáng kể. Sau đó, bố chồng bảo ba nàng dâu làm bánh. Bánh của nhái ăn rất ngon, còn của hai người kia rất dở. Sau đó, bố chồng lại bắt ba nàng dâu tới hát trước mặt mình. Dâu nhái xuất hiện dưới dạng một cô gái, hát những bài hay đến nỗi bố chồng nói với mọi người rằng chưa bao giờ ông thấy có một người thanh sắc tuyệt vời như vậy. Bèn gầy dựng cho con út thành một lái buôn lớn, còn hai người con kia trở thành kẻ chăn cừu, vợ của họ thành đầu bếp. Truyện của một địa phương ở Đức: Một ông vua bảo ba hoàng tử ai mang về một tấm thảm đẹp nhất, sẽ cho thừa kế ngai vàng. Đoạn vua cho thổi lên trời lần lượt ba cái lông chim, để lông chỉ cho từng đứa con hướng đi tìm. Chiếc lông thổi cho hoàng tử thứ ba rơi trúng một cửa hầm, hoàng tử nhấc cửa hầm lên thấy có tam cấp đi xuống đất rất sâu, bèn cứ thế trèo xuống, cuối cùng thấy có một con cóc lớn, xung quanh là một bầy cóc con. Biết được cái mà hoàng tử cần, cóc cho hoàng tử một tấm thảm. Đưa về, thảm ấy đẹp vượt xa của các anh. Lần thứ hai, vua bảo các con đi tìm một cái nhẫn. Cũng tại đáy hầm, nhờ cóc, hoàng tử lấy được nhẫn thần đưa về cho vua cha. Lần thứ ba vua bảo mỗi người đi tìm một cô vợ, ai có vợ đẹp nhất sẽ được nối ngôi. Cũng tại đáy hầm, cóc cho hoàng tử một con cóc con, lúc về hóa thành cô gái đẹp [10] . Một loạt truyện sau đây cũng cùng một chủ đề và hình tượng như các truyện trên (người lấy vợ là vật, khi đưa về thì ngày là vật, đêm là người, lại có nhiều phép huyền diệu nhờ đó giành thắng lợi trong các cuộc thi). Nhưng do chồng làm tiết lộ bí mật của vợ, hoặc nôn nóng muốn vợ sớm hóa thành người nên đã gây ra sự chia ly vĩnh viễn (hoặc tạm thời nhờ có sự nỗ lực cứu vãn của chồng qua nhiều thử thách). Truyện của người Nga Công chúa ếch: Một ông vua cũng có ba hoàng tử, lúc họ đến tuổi lấy vợ cũng có cuộc bói vợ bằng cách bắn mỗi người một phát tên, hễ cô nào nhặt được tên của ai thì sẽ là vợ của người ấy. Kết quả, có hai cô gái nhặt được mũi tên của hai hoàng tử anh, còn mũi tên của hoàng tử thứ ba thì cũng như truyện trên, do một con ếch nhặt được, đành phải tuân theo số mệnh. Một hôm vua cha muốn biết tài may vá của các nàng dâu, lần thứ hai muốn biết tài nấu nướng và lần cuối cùng là tài khiêu vũ trong dạ hội. Hai lần thi đấu, nàng dâu ếch làm đẹp lòng vua cha. Lần thứ ba, thấy chồng buồn, ếch bảo đừng lo, rồi trút lốt thành một cô gái tuyệt đẹp sánh vai chồng vào dự hội. Khi ăn tiệc, ếch bỏ những miếng xương và rượu thừa vào ống tay áo. Hai chị dâu cũng bắt chước. Khi nhảy, ếch vung tay áo, có hàng đàn chim bay ra cùng cảnh núi sông xuất hiện rất đẹp mắt. Khi hai chị vung tay áo thì xương xẩu cùng những giọt nước tung tóe vào khách. Hết dạ hội, hoàng tử thứ ba đi tìm lốt ếch đốt đi. Vợ về nhà tìm mãi không được, chỉ kịp cho chồng biết rằng một khi mất lốt, hai người sẽ phải chịu cảnh chia lìa, đoạn biến mất. Được hơn một năm, chồng nhớ vợ bỏ nhà đi tìm. Tìm mãi mới biết vợ mình đang bị biến thành một chiếc quạt vàng của một bà tiên. Hoàng tử cướp được quạt, bẻ gãy chuôi thì công chúa ếch hiện ra. Ếch cho chồng biết chỉ một tý nữa là mình sẽ bị buộc đi lấy chồng. Lập tức hai vợ chồng ngồi lên một tấm thảm bay. Bay được một chốc, chú rể mới biết tin đuổi theo. Đuổi gần kịp thì tấm thảm đã đưa hai vợ chồng vào nước Nga, mọi người ở đây đổ xô ra đón tiếp hai vợ chồng. Từ đấy không có gì làm cho họ chia lìa nhau nữa [11] . Một truyện của Ấn-độ: Một ông vua cũng mở cuộc bắn tên cho bảy hoàng tử bói vợ. Mũi lên của người thứ nhất rơi vào nhà của một viên đại thần, năm mũi khác đều lọt vào lầu của các nhà quý tộc, còn một mũi tên của hoàng tử út thì rơi trúng vào một cây me. Theo quyết định của vua cha, hoàng tử út phải lấy một con khỉ sống ở cây me, nhưng các nhà tiên tri đều biết rằng vợ hoàng tử là một nàng tiên. Tuy là khỉ, nhưng vợ hoàng tử lại nói khéo, giỏi âm nhạc và có nhiều tài nghệ (ở đây gần giống với tình tiết trong truyện Kim Quế của đồng bào Tày). Các chị dâu tò mò đòi mở một cuộc lễ cho các nàng dâu tới dự. Vợ hoàng tử thứ bảy thấy chồng buồn, bèn an ủi chồng, nói mình có thể đi dự được. Nói rồi cởi lốt khỉ thành một cô gái đẹp, mặc áo quần đẹp. Đoạn bảo chồng: - "Hãy giữ cẩn thận cái lốt này nếu mất nó chúng ta sẽ gặp chuyện bất hạnh". Trong cuộc lễ, nàng dâu út đang lúc được mọi người trầm trồ ca ngợi thì bỗng quằn quại kêu lên mấy tiếng: "Tôi cháy! Tôi cháy!" rồi biến mất. Chính lúc đó ở nhà hoàng tử đang đốt cái lốt khỉ. Thế là hoàng tử mất vợ, mất luôn cả lâu đài do vợ hóa phép hiện ra, chỉ còn tìm được có mỗi một chiếc sáo bạc. Hoàng tử cầm sáo bạc đi tìm vợ, cuối cùng gặp một vị thần chỉ đường cho vào vườn nhà trời. Ở đây chồng thấy vợ đang ngồi trên một cái ngai bằng kim cương, bèn mang sáo ra thổi lên một bài: vợ nhận ra chồng. Nhờ vua nhà trời say mê tiếng sáo nên chàng được cùng vợ sum họp và sống trên đó. Truyện của Phần-lan (Finlande): Túc-ki-mô là con trai út của một ông vua. Ở đây cũng có một cuộc bói vợ bằng cách bắn tên của ba hoàng tử. Khi Túc-ki-mô đi tìm mũi tên ở trong rừng thì thấy ngồi lên đó là một con nhái: - "Chào hoàng tử, nhái nói, tôi bây giờ là vợ chưa cưới của chàng". Túc-ki-mô mang nhái về không vui một chút nào. Một hôm vua bảo các nàng dâu: - "Mai ta sẽ đến xem các cô nấu ăn ra làm sao?". Khi trở về, nhái bảo chồng ngủ, để mình còn sửa soạn bữa ăn. Hoàng từ giả vờ ngủ thì thấy vợ đã cởi lốt, hóa thành một cô gái đẹp bước ra cửa sổ gọi lớn: - "Hỡi giống nòi hùng mạnh, gia đình danh tiếng! Hãy tới giúp tôi dọn bữa tiệc cho vua!". Tự nhiên có tám con thiên nga đỗ xuống, treo bộ cánh ở tường và hóa thành những cô gái đẹp. Cùng với vợ nhái, các cô dệt những khăn ăn đẹp và nấu những món ăn tuyệt phẩm làm cho lòng kiêu căng của các chị dâu xẹp xuống. Lần thứ hai, hoàng tử mang đến cho vua một sơ-mi do vợ mình dệt tuyệt đẹp. Lần thứ ba trong hội khiêu vũ, vợ nhái đã nhảy những điệu kỳ diệu. Túc-ki-mô đi hỏi một bà thầy bói làm sao để cho vợ sẽ là người mãi mãi. - "Phải trộm cái áo da nhái và đốt đi!". Hoàng tử nghe theo. Trở về, vợ trách chồng hết lời: - "Đáng lý đợi ba hôm nữa, tôi sẽ thành người vĩnh viễn, còn như thế này thì đành phải chia tay". Đoạn biến thành thiên nga bay mất. Một số truyện sau đây cũng là dị bản của truyện Người lấy cóc nhưng kết cấu có biến dạng: một phần kết hợp với hình tượng của truyện Giáp Hải (số 149, tập IV), (cô gái trong con vật hiện ra lúc vắng người, nấu ăn quét dọn nhà của cho ân nhân) và một phần nữa thì tương tự với truyện Hoàng tử A-mét với nàng Pa-ri Ba-nu trong Nghìn lẻ một đêm (xem Khảo dị truyện số 107, tập III). Truyện của Ác-mê-ni (Armenie): Một ông vua có ba hoàng tử. Khi đến tuổi kết hôn, theo phong tục, họ phải đến dự một đám hội và quẳng quả táo vào đám đông để bói vợ. Hai quả táo của hai hoàng tử anh trúng hai cô gái, còn của hoàng tử út rơi vào một cái giếng trong có một con nhái. Coi là định mệnh, hoàng tử đành phải đem nhái về. Mấy ngày đầu mỗi khi hoàng tử về nhà đều thấy bàn ăn đã dọn sẵn. Để ý rình xem, hoàng tử thấy một cô gái đẹp từ lốt nhái bước ra làm bếp. Hoàng tử bèn đột ngột xông vào ôm lấy cô gái, và mặc dù cô cho biết rằng sẽ phải hối hận, hoàng tử cũng xé lốt nhái để cho cô thành người. Một hôm vua ra lệnh cho các con phải mang một tấm thảm lớn có thể cả một đội quân ngồi lên mà vẫn còn thừa. Hoàng tử về khóc với vợ. Vợ nói: - "Thấy chưa! Tôi đã bảo đừng xé lốt của tôi. Nhưng đừng có làm ầm lên. Hãy đến cái giếng mà anh vớt tôi về, gọi to: "Con gái ông bảo tôi đến thưa với ông gửi lên cho nó một tấm thảm bé nhất của ông". Đưa thảm về, vua rất vừa ý. Lần thứ hai lại một thử thách mới, và nhờ bố vợ, hoàng tử cũng làm xong. Thử thách thứ ba là "tìm một con người cao một gang, râu dài hai gang". Vẫn theo lời vợ dặn, hoàng từ đến giếng gọi to: - "Con gái ông bảo đưa lên cho nó một người lùn nhỏ của ông". Đưa đến cung vua, người lùn nhỏ mắng vua sa sả về những đòi hỏi ngu ngốc và tặng cho vua những quả đấm. Đến quả đấm cuối cùng, vua vỡ đầu. Hoàng tử út bèn lên ngôi. Một truyện khác cũng của người Ác-mê-ni (Armenie): Một chàng trai theo lời bà dặn mỗi buổi sáng ném xuống biển một tấm bánh. Anh làm việc đó không nản. Bỗng một buổi chiều đi chợ về, anh thấy nhà mình đã được quét tước dọn dẹp sạch sẽ, một hôm khác thì thấy thịt sống mua làm thức ăn đã được nấu lên. Cũng như hành động của nhân vật Giáp Hải hay Tú Uyên, anh giả vờ đi nửa đường lộn về nấp rình thì thấy một con cá từ dưới nước hiện lên trút lốt thành cô gái tới làm bếp cho anh. Anh từ chỗ nấp xông ra bắt lấy, và sau đó được sự đồng ý của người bà của con cá, lấy nàng làm vợ. Thấy vợ chàng xinh đẹp ít có, nhà vua lập tâm chiếm đoạt. Vua bèn đưa ra những đòi hỏi không thể thực hiện được buộc anh phải làm nếu không thì giết chết. Trước hết, anh phải đi tìm một cái nhà bạt có thể che cho tất cả lính tráng và dân cư trong thành phổ mà vẫn còn thừa chỗ. Cô vợ cá thấy chàng kêu khóc, bèn đến bờ biển gọi to: - "Bà ơi, bà mang cho cháu cái nhà bạt bé nhất!". Thấy việc thứ nhất làm xong, vua lại đòi một tấm thảm rộng trải trong nhà bạt. Sự việc cũng diễn ra như lần trước. Sau cùng nhà vua bắt đưa đến một đứa trẻ lên một biết nói biết đi. - "Bà ơi! Cô vợ cá gọi, bà đưa em cháu lên đây để cháu bế tý!". Đứa bé lên gặp vua, nó liền vạch thói xấu của vua, vả vào mặt vua. Vua phải xin lỗi và hứa chừa [12] . Về loại truyện có mô-típ đặc biệt: người nữ ăn thức ăn thừa của người nam và có mang, kho tàng cổ tích ở Đông nam Á hầu như rất phổ biến. Sau đây là một số truyện tiêu biểu: 1. Truyền thuyết của người Thái-lan. Ngày xưa, có một người đầy mụn lở (gọi là ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở) không biết từ đâu đến vỡ hoang một miệng đất trên bờ sông. Ông trồng nhiều ớt và dưa chuột làm kế sinh nhai. Ở gần nhà có một cây dưa chuột có một quả lớn phi thường nhờ nước giải của ông thường ngày bón cho cây. Quả dưa chuột ấy sau đó về tay công chúa con vua Trai-trung. Công chúa ăn và tự nhiên có mang. Vua cho người dò la xem con gái mình quan hệ với ai nhưng không tìm ra. Vì thế đứa con trai công chúa sinh ra lên ba tuổi mà không có cha. Vua nghĩ ra một cách để biết ai là bố đẻ của nó, tức là bắt tất cả đàn ông ở Trai-trung mỗi người cầm một món thức ăn ở tay, hễ đứa bé đến xin ăn ở người nào thì người ấy là bố nó. Bèn đánh trống hội họp toàn mường lại, ban cho mỗi người một vật ăn được như người này cái bánh, người kia quả cây, v.v... không sót một ai. Vua bảo vú nuôi đặt đứa bé ở cửa lầu trước mặt mọi người. Lúc ấy ông chúa Trăm-ngàn-mụn-lở trong tay đang cầm miếng cơm nguội. Đứa trẻ đi khắp nơi không xin ăn ở ai cả mà đến xin ăn ở ông. Vua lập lức gả công chúa cho người ấy và sai đóng bè đuổi cả hai vợ chồng ra khỏi thị trấn. Chiếc bè dừng lại ở vườn dưa, hai vợ chồng ở lại đây. Thần Đế Thích (In-dơ-ra) hiện ra cho họ một cái trống thần bảo hễ ước cái gì thì đánh một tiếng trống, sẽ được ngay. Lời ước đầu tiên của ông là làm sao cho mình được đẹp. Tự nhiêu bao nhiêu mụn lở biến mất. Thấy vậy công chúa mừng rỡ, lại ước có vàng đủ đúc cho con trai một cái nôi. Vì vậy mà có tên là hoàng tử Nôi vàng. Về sau họ làm vua, xây dựng thành phố ở đấy [13] . 2. Truyện của người Cham-pa: Ta-bong là một chàng lười bẩm sinh, một hôm đi câu. Ba lần câu được cá thì ba lần bị quạ tha mất. Đến con thứ tư hắn đái vào đầu cá. Quạ lại tha cá đi nhưng đánh rơi vào bể nước ở cung vua. Công chúa thứ ba bắt đước cá đem về nấu ăn, không ngờ có mang. Vua muốn tìm ra bố đứa bé, bèn sai công chúa ném khăn trầu vào đám hội có đông đủ dân chúng đến dự xem khăn rơi vào người nào, nhưng khăn lại không rơi vào người nào cả. Vua hỏi xem còn sót những ai. Người ta cho biết chỉ sót anh chàng Ta-bong vì lười mà không đến. Vua cho đi gọi. Ta-bong vẫn không đi. Vua phải cho người cáng hắn đến đám hội. Lần này khăn trầu của công chúa rơi đúng vào khố Ta-bong. Vua sai lính giết cả hai nhưng lính lén lút tha cho họ, rồi lấy máu chó bôi vào gươm để tâu dối với vua. Nằm thẳng cẳng dưới cây xoài. Ta-bong chờ cho quả rơi vào miệng mới ăn. Vua quạ đến ăn xoài thấy anh, tưởng là cái xác chết bèn sà xuống mổ, liền bị anh tóm cổ. Quạ phải cho anh hòn đá ước. Nhờ có đá, anh ước ra lâu đài nhà cửa, trâu bò và kẻ hầu người hạ ở trên phía nguồn. Một hôm anh sai quân đắp chắn nguồn nước. Thấy dân khổ vì sông khô cạn không có nước dùng, nhà vua sai người lên phía nguồn thăm dò, thì thấy lâu đài nguy nga, trên có cắm một lá cờ đề chữ "Vua mới". Quân đội nhà vua kéo lên định đánh. Nhưng trên thành lại treo một lá cờ khác bảo vua cũ hãy nhường ngôi cho vua mới, dân sẽ có nước uống. Sau khi nghĩ ngợi, vua thuận nhường ngôi cho con rể [14] . [1] Theo lời kể của người miền Bắc, và Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn. [2] Theo Bản khai của sách Hữu-tập, sách Vĩnh-lại, sách Nhiêu-hợp, tập I. [3] Theo Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn. [4] Theo Thơ Nàng Út. [5] Theo Sê-ông (Chéon). Sưu tầm một trăm bài tiếng An-nam. [6] Theo lời kể của người Thái-nguyên, Cao-bằng. [7] Theo Truyện cổ dân tộc Mèo. [8] Theo Miến-điện dân gian cố sự, sách đã dẫn. [9] Theo Truyện kể Ni-véc-ne (Nivernais), Pháp. [10] Một dị bản sưu tầm ở đảo Xi-ra (Syra) (Hy-lạp) đại thể cũng có một ông vua bảo ba người con bắn tên để bói vợ. Kết quả hoàng tử cả lấy được công chúa ở một nước khác, hoàng tử thứ hai lấy con gái một hoàng tử nọ. Còn hoàng tử ba thì mũi tên cắm vào một đống phân, moi ra thì thấy ở dưới có một tấm đá cẩm thạch lật lên, thấy có đường tam cấp dẫn xuống một cái hang. Ở đây thay cho cóc là những con khỉ ngồi xung quanh một con khỉ mẹ. Mẹ khỉ bảo hoàng tử lấy một trong số con gái mình làm vợ... Tiếp đó là những công việc do vua cha ấn định: vua hứa sẽ nhường ngôi cho người nào trang hoàng nhà cửa đẹp, đưa đến một giỏ trái cây tươi ngon; có người vợ trong ngày hội được tôn là đẹp nhất. Vợ khỉ bảo chồng nhờ mẹ mình làm tốt hai việc trên, còn việc thứ ba thì vợ khỉ mặc áo quần đẹp, cưỡi ngựa đẹp và dĩ nhiên đã biến thành cô gái đẹp, nên được mọi người trằm trồ khen ngợi. [11] Theo Truyện dân gian Nga (bản dịch của Nguyễn Hải Sa). [12] Một số truyện trên đều theo Cô-xcanh (Cosquin). Những truyện cổ tích Ấ-độ và phương Tây. [13] Theo La-jông-ki-e-rơ (Lajonquière): Nước Xiêm và người Xiêm. Về loại truyện như truyện trên với tình tiết vô tình có thai, Prơ-di-luýt-xki (Przylusski) cho biết có nhiều truyền thuyết tương tự trong Nàng công chúa tanh mùi cá và con rắn thần trong các truyền thuyết ở Đông á, Nghiên cứu châu Á , tập II (1925). Có thể xem thêm một số truyện trong Nghiên cứu những lễ tiết nông nghiệp của người Cao-miên của Ê-vơ-lin Pô-rê Mát-xpê-rô (Eveline Poret Maspéro). [14] Theo Lăng-đờ (Landes): Truyện cổ tích Cham-pa. Người Mèo cũng có một t ruyện tương tự: Một anh chàng lười bẩm sinh. Bị bố mẹ đuổi, hắn nằm trên thuyền, thuyền giạt vào một gốc sung. Từ đấy hắn sống bằng cách há miệng chờ sung, ăn đấy ỉa đấy. Cá và quạ rủ nhau đến ăn, chúng cắn nhau, cuối cùng quạ quắp cá mang đi, tình cờ đánh rơi vào vườn vua. Công chúa thấy cá bắt lấy nướng ăn, từ đấy có mang đẻ ra một con trai: thằng bé khóc lóc luôn canh, ai dỗ cũng không nín. Để tìm ra bố đứa bé, vua ra lệnh cho dân chúng mỗi người đến dỗ một lần. Lười không đến, nhưng rồi vua cũng sai lính khiêng đến. Đứa bé quả nín. Vua gả công chúa cho Lười và đuổi đi. Hắn lại đến chỗ cũ sống bằng sung rụng. Một con quạ tưởng là xác chết định rỉa thịt, bị hắn bắt được. Quạ phải cho hắn một cái trống có ba mặt: một mặt đánh ra cơm thịt, một mặt đánh ra áo quần tiền bạc, một mặt đánh ra cuốc và đồ dùng. Dùng trống càng lâu càng phải đánh nhiều mới nghiệm. Nhờ đó mà Lười bỏ được tật lười (Truyện cổ dân tộc Mèo). Giống truyện trên, người Dao Thanh-y có truyện Vua Quạ. Ở đây trống vua Quạ cho có 4 mặt: một mặt đánh ra mưa, một mặt ra nắng, một mặt ra gạo, một mặt ra vàng bạc. Khi giàu rồi, chồng bảo vợ đón bố về chơi. Bố vợ (vua) bảo phải có vàng rải đường mới chịu đi. Chồng gõ trống có ngay. Bố vợ ngốt cả người, mải ngắm, đầu đập vào tường, chết (Đức Hùng, Phù Ninh: Nàng Ái Kao ).
__________________
![]() |
#128
|
||||
|
||||
![]() CÂY THUỐC CẢI TỬ HOÀN SINH Ngày xưa ở một miền nọ có thằng Cuội làm nghề đốn củi. Tất cả tài sản của Cuội chỉ có một chiếc rìu. Một hôm như thường lệ, Cuội vác rìu đi vào rừng sâu tìm cây mà chặt. Khi lội qua một con suối nhỏ, Cuội bỗng giật mình trông thấy một cái hang hổ. Nhìn trước nhìn sau, chỉ thấy có bốn con hổ con đang vờn nhau trước hang, Cuội bèn xông đến vung rìu bổ cho mỗi con một nhát lăn quay ra đất. Nhưng vừa lúc đó, con hổ mẹ cũng về tới nơi. Nghe một tiếng gầm kinh khủng ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quăng rìu leo thoăn thoắt lên một ngọn cây cao. Từ trên cây nhìn xuống, Cuội thấy hổ mẹ lồng lộn trước đàn con đã tắt thở. Nhưng chỉ một lát sau, hổ mẹ bỗng bỏ con nằm đấy, lẳng lặng chạy đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, miệng đớp lấy một ít lá cây rồi trở về nhai mớm cho đàn con. Khoảng giập bã trầu, bọn con hổ tự nhiên cục cựa, vẫy đuôi rồi sau đó lại đi đứng chạy nhảy như thường. Biết đấy là cây thuốc thần, Cuội chờ cho hổ mẹ tha con đi nơi khác, lần xuống tìm đến cây thuốc kia, đào gốc vác về [1] . Dọc đường, Cuội gặp một ông lão nằm vật trên bãi cỏ. Cuội ghé lại xem thì ra ông lão đã chết. Chàng đốn củi liền đặt gánh xuống, không ngần ngại rứt ngay mấy lá cây quý rồi cúi xuống nhai mớm vào miệng ông lão. Mầu nhiệm làm sao, mớm vừa xong, ông lão đã mở bừng mắt tỉnh dậy. Ông hết lời cảm ơn chàng trai cứu mạng và hỏi chuyện. Thực tình, Cuội kể lại tất cả. Nghe xong, ông lão kêu lên: - Trời ơi! Lão từng nghe nói cây này vốn tên là cây đa có phép "cải tử hoàn sinh". Thật là lão có phúc mới được gặp con. Con hãy chăm vun bón cho nó để cứu thiên hạ. Nhưng nhớ đừng có tưới bằng nước bẩn mà cây bay lên trời đó. Nói rồi ông lão chống gậy ra đi. Còn Cuội thì gánh cây về trồng ở góc vườn để tiện chăm sóc hàng ngày. Luôn luôn nhớ lời ông lão dặn, ngày nào Cuội cũng tưới cây bằng nước giếng trong. Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai vừa nhắm mắt tắt hơi là Cuội lập tức mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi. Một hôm, Cuội lội qua sông thấy xác một con chó chết trôi. Thương tình, Cuội vớt lên rồi giở lá giắt trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Con chó quấn quýt theo Cuội tỏ lòng biết ơn. Từ đấy Cuội có thêm một con vật tinh khôn làm bạn. Một lần khác có một lão phú hộ ở làng bên cạnh hớt hơ hớt hải chạy đến tìm Cuội vật nài xin Cuội cứu cho con gái minh vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà và đưa lá ra chữa. Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên. Rồi nàng mở bừng mắt ra, vươn vai ngồi dậy. Lão phú ông xiết hao mừng rỡ, bảo Cuội muốn lấy gì cứ việc chọn tùy thích. Cuội ngỏ ý chỉ muốn lấy có gái làm vợ. Biết Cuội là ân nhân của mình, cô gái thuận làm vợ chàng. Lão phú ông cũng bằng lòng gả con cho Cuội. Vợ chồng Cuội sống với nhau thật vui vẻ êm ấm. Nhưng trong vùng có bọn con trai hồi trước vẫn ngấp nghé cô gái của lão phú ông, nay thấy bông hoa thơm tự nhiên lại lọt vào tay anh chàng đốn củi thì ngấm nghầm ghen tỵ và cố tìm cách làm hại cho bõ ghét. Một hôm chờ lúc Cuội lên rừng, chúng xông đến định bắt lấy vợ Cuội. Không ngờ vợ Cuội chống cự quyết liệt, chúng bèn giết chết. Giết đoạn, chúng vẫn sợ bị lộ vì biết Cuội có phép chữa cho người ta sống lại, nên chúng lại moi ruột người đàn bà vứt xuống sông rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội gánh củi trở về thì thấy vợ đã chết lạnh từ bao giờ rồi. Cuội vội bứt lá để mớm nhưng mớm bao nhiêu vẫn không công hiệu, vì không có ruột thì làm sao mà sống lại được. Thấy chủ khóc lóc thảm thiết, con chó lại gần xin hiến bộ ruột của mình để thế vào bộ ruột của cô chủ. Cuội chưa từng làm thế bao giờ nhưng cũng liều nhắm mắt mượn bộ ruột chó thử cứu cho vợ mình xem sao. Quả thực sau khi lắp ruột vào, vợ Cuội lại sống lại như trước. Thương con chó vì chủ mà chết, Cuội bèn nặn thử một bộ ruột bằng đất lắp vào bụng chó rồi nhai lá thuốc dịt vào; không ngờ chó cũng đứng dậy, vẫy đuôi liếm vào tay Cuội. Vợ với chồng, người với vật từ đây lại quấn quýt hơn trước. Nhưng Cuội không ngờ rằng cũng từ dấy tính nết của vợ mình có phần thay đổi. Người đàn bà ấy dường như lú ruột lú gan, bảo một đàng làm quàng một nẻo. Điều đó làm cho Cuội lắm lúc bực cả mình. Cuội rất lo, vì không biết bao nhiêu lần chồng dặn vợ - "Có đái thì đái bên Tây , chớ đái bên Đông , cây giông lên trời". Thế mà vợ Cuội nào có nhớ cho lời dặn quan trọng ấy. Một buổi chiều, chồng còn kiếm củi chưa về, vợ Cuội đang hái rau ở vườn phía Đông bỗng thấy mót, bèn chạy vội lại gốc cây quý của chồng, chẳng còn nhớ gì đến lời dặn: cứ thế vén váy đái. Không ngờ vừa đái xong, tự nhiên cả một vùng đất chuyển động, cây cối xung quanh rung lên và gió thổi ào ào. Được một chốc cây đa long gốc bật rễ rồi lừng lững bay lên trời. Giữa khi ấy Cuội đã bước chân về đến cổng. Thoáng thấy cây quý sắp bay mất, bên cạnh đó có cả người vợ đang kêu om sòm, Cuội đoán ra nông nỗi, lập tức vứt ngay gánh củi, nhảy bổ đến toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người. Cuội chỉ còn kịp móc rìu vào rễ cây cốt để kéo cây xuống, nhưng cây vẫn một mực bốc lên không sức nào có thể ngăn lại. Về phía Cuội, chàng cũng nhất định không chịu buông rìu, thành thử cây thần kéo cả người Cuội bay lên mãi, lên mãi, cuối cùng đến tận cung trăng. Từ đấy Cuội ở luôn tại cung trăng với cây đa của mình. Cho nên ngày nay mỗi khi nhìn lên mặt trăng ta luôn luôn thấy bóng của Cuội dưới gốc cây thuốc quý. Người ta kể rằng mỗi năm cây đa chỉ rụng có mỗi một lá mà thôi. Ai nhặt được lá cây ấy thì có thể dùng để cứu chữa người chết sống lại. Những con cá heo cũng biết như vậy, cho nên nếu lá rơi xuống biển, chúng tranh nhau đớp lấy coi như của quý để làm thuốc cứu chữa cho tộc loại. KHẢO DỊ Truyện trên có lẽ là bóng dáng xa gần của một thần thoại nào đó (xem Lược khảo về thần thoại Việt-nam ) [2] . Có nhiều dân tộc ở xung quanh ta có những truyện cổ tích hoặc những mảnh thần thoại ít nhiều tương tự với truyền của người Việt. Ví dụ truyện của người Mường Ta-kheo Ranh với cây thuốc bất tử: Có một người thợ săn tên là Ta-kheo Ranh, một hôm lên núi Lô đâm được một con nai. Ngồi nghỉ ở dưới bóng cây, anh bỗng thấy có một con rắn đến nhặt một vỏ cây đem lại áp vào vết thương con nai. Chỉ một lát sau con vật sống lại và lủi thủi đi mất. Anh lại đi săn được một con thú khác và đưa đến chỗ cũ rồi rình xem. Anh lại thấy con rắn đến cứu như lần trước. Anh nhớ lấy cây thuốc quý. Một hôm có một người mắc nạn không may bị chết, Ta-kheo Ranh bèn lên núi Lô lấy vỏ cây về thử cứu chữa. Quả nhiên người chết sống lại. Từ đấy hễ có ai chết là người ta cầu cứu với Ta-kheo Ranh. Chỉ ít lâu sau cả một xứ Mường không một ai chết nữa. Từ đó anh nổi danh với cây thuốc bất tử. Tin ấy lan truyền đến tận Trời, Trời bên sai sứ giả xuống đón anh và bứng cả cây thuốc lên. Từ đấy Ra-kheo Ranh trở thành thày thuốc của Trời, khắp cõi trời đều trở nên bất tử. Trái lại, ở cõi trần vì mất cây thuốc quý nên ai đã chết là chết luôn. Mỗi lần có người chết lên trời, họ thường tìm đến Ta-kheo Ranh đề cầu cạnh, chẳng hạn nhờ anh giả nhận làm con cháu, để được nhẹ tội, hy vọng khỏi xuống địa ngục. Truyện của đồng bào Cham-pa giống truyện của ta hơn cả: Một người đàn bà lên rừng thấy một ổ rắn con, bèn giết chết tất, rồi ngồi ở một nơi gần đó. Rắn mẹ thấy con chết, liền bò đến một cây đa (phun đơ-rai) cắn lấy lá, đem phun vào những cái xác của con. Đàn rắn con tự nhiên sống lại. Biết là cây thuốc cải tử hoàn sinh, người đàn bà ấy lấy một nhánh về trồng sau nhà và hết sức bảo vệ, thường dặn các con không được đái vào cây. Một hôm mẹ đi vắng, mấy đứa con rủ nhau đái vào cây xem thử thế nào. Người mẹ về thấy cây đang lừ lừ bay lên, vội chạy tới níu lấy cây, cây mang cả bà ta lên khỏi mặt đất. Con chó đen thấy thế cũng nhảy lên theo. Cây mang họ lên cung trăng. Người Cham-pa gọi bà là Paja Yan (bà già linh thiêng). Người ta nói khi mặt trời đi ngang trước mặt, bà quỳ xuống, do đó có nguyệt thực [3] . Người Cham-pa còn có một truyện khác Hoàng tử Khỏe cũng có hình ảnh cây thuốc cải tử hoàn sinh bay lên trời nhưng nội dung lại không giống truyện trên. Đại thể là: Một ông vua không có con. Thầy bói cho biết nếu đem của bố thí thì rồi sẽ có nhưng nó sẽ làm cho nhà vua khánh kiệt. Vua quả có con nhưng thằng bé ăn rất khỏe: mỗi bữa chén một gà, lớn lên mỗi bữa một dê, lớn nữa mỗi bữa một trâu. Thấy không thể cung đốn nổi, vua sai Khỏe, tên của hoàng tử, vào rừng chặt cây lớn mong cây đè chết, nhưng nó lại vác được cả cây về. Sau cùng Khỏe xin một số sắt để rèn một cái rìu. Thợ rèn rèn không xong, nó phải tự rèn lấy. Dọc dường gặp Ta Sa kéo một xe nặng không cần trâu, nhưng lại không nhấc nổi rìu của Khoẻ. Ta Sa bèn tôn là anh, xin đi theo. Lại gặp Ha-vi-ha-va chặt dây mây của năm quả núi nhưng cũng không đỡ nổi rìu của Khỏe, cũng xin kết nghĩa và đi theo. Họ xin người ta được nửa thuyền cá, đi tìm lửa để nấu thì bị một mụ phù thủy đánh lừa giết chết hai em. Đến lượt mình, Khỏe tóm cổ mụ, mụ nói mình có cây thuốc cải tử hoàn sinh. Khỏe bèn dùng thuốc đó cải tử hoàn sinh cho hai em rồi khâu mồm và mắt mụ lại, ném vào một xó. Chồng mụ về, theo dấu bã mía của họ, đuổi theo. Hắn ném hai em Khỏe tụt xuống đất. Khỏe liền cũng ném lão tụt xuống đất chỉ còn hở cái đầu; anh đá một cái, đầu lão văng sang tận Trung quốc. Khoẻ và hai em sang đến Trung quốc thì thấy mọi người đang hò nhau khiêng cái đầu mà không nổi, bèn lại đá một cái nữa, đầu văng sang nước Xiêm. Vua Trung-quốc khen, gả cho công chúa. Khỏe xin cho Ta Sa lấy công chúa, giao cây thuốc bảo trồng ở vườn, dặn không được cho người lạ vào, cây sẽ bay lên trời mà mình thì sẽ chết. Đoạn Khỏe cùng Ha-vi-ha-va sang Xiêm. Đến đây lại thấy mọi người khiêng không nổi cái đầu, bèn đá một cái văng ra biển. Vua Xiêm cũng gả công chúa, nhưng Khỏe đề nghị xin cho Ha-vi-ha-va kết duyên với công chúa. Sau đó, anh xin một hòn núi đá để lấy đá lát đường về nước Chàm. Không bao lâu Ta Sa quên mất lời anh dặn, để cho người lạ vào vườn, cây liền bay lên trời. Bên này Khoẻ bỗng dưng lăn ra chết. Nghe tin, Ta Sa đâm ra hối hận, buồn rầu, bèn xin về ở với anh Ha-vi-ha-va ở Xiêm. Sau cùng nhớ nước quá, anh về Chàm được ít lâu rồi cũng chết [4] . Đồng bào Ba-na (Bahnar) có truyện Ống thuốc thần cũng gần với các truyện trên: Bị trâu rừng ăn mất lúa nương, hai anh em nhà nọ quyết rình để bắn chết. Bắn được trâu, người anh để em ở lại canh, còn mình thì chạy về gọi dân làng ra xẻo thịt. Nhưng trâu đó là của bà tiên. Bà hiện ra xoa ống thuốc thần vào trâu, trâu tự nhiên sống lại, rồi bà cưỡi đi mất. Người em chạy theo đuổi không kịp, chỉ nhặt được ống thuốc thần. Khi người anh và dân làng chạy ra thì không thấy trâu, bèn nổi giận giết chết người em. Nhưng nhờ ống thuốc, người em sống lại. Anh ta nhặt ống thuốc thần đeo vào cổ rồi bỏ nhà di. Dọc đường người em lần lượt cứu được hai con chó, chúng quấn quýt theo anh không rời. Anh lại cứu được cô gái của Cò-ran. Tin đồn khắp nơi, người ta đào cả mộ lên để nhờ anh giúp cho ông bà tổ liên sống lại. Anh làm việc không biết mệt. Bấy giờ vua âm phủ (Mơ-tao mơ-tinh) thấy dân số nước mình hao hụt vì người chết xuống thì ít mà người đã chết rồi sống lại quá nhiều, mới lên buộc Trời phải tìm cho ra lẽ để trả lại dân cho hắn. Tra hỏi mãi, Trời mới biết ống thuốc cải tử hoàn sinh đã lọt vào tay người trần, bèn sai con gái út xuống trần tìm cách lấy lại. Xuống đất, cô gái nhà Trời tình nguyện làm vợ anh chàng, nhưng chẳng làm thế nào để trộm được ống thuốc cả, vì người và chó canh giữ nghiêm ngặt. Mãi về sau phải dùng đến cách bỏ thuốc mê mới lấy được. Tỉnh dậy, thấy mất ống thuốc, anh bảo chó đuổi theo vợ, chó đuổi lên đến Trời. Thấy cửa Trời đóng kín, anh cùng chó canh ở ngoài không cho ai vào cả. Người nhà Trời không đi đâu được, đành phải thương lượng với anh. Một mặt Trời cho hai vợ chồng anh và hai con chó được sống mãi và được chu cấp đầy đủ. Mặt khác anh phải trả cho vua âm phủ ống thuốc thần. Anh ưng thuận. Từ đấy cũng có lúc Trời không chu cấp đầy đủ, thì anh cho chó đến đòi và cắn lung tung làm cho Trời sợ bỏ trốn, những lúc như vậy là những ngày nhật thực [5] . Người Miến-điện (Myanmar) có hai truyện, trong đó có một truyện gần gũi với các truyện trên: 1. Vì sao có nguyệt thực: Một người đàn bá goá để lại cho hai đứa cháu một đứa cái cối, một đứa cái chày. Anh chàng được cối cho là không có ích gì, vứt bỏ, còn người em được chày thì đi đâu cũng mang theo. Một hôm có con rắn đến mượn chày để cứu chồng nó sống lại. Từ đó anh mới biết phép màu nhiệm của cái vật mà bà mình để lại. Ở đây anh cũng chữa cho một con chó sống lại và nó cũng trở thành người bạn trung thành. Sau đó, một lần anh cứu sống công chúa, được vua gả cho làm vợ. Anh đem chày chữa cho thiên hạ làm cho không ai còn biết tang tóc là gì nữa. Hai vợ chồng thường đưa chày lên mũi ngửi, nên trẻ mãi không già. Nữ thần Mặt trăng thấy thế đâm ra ghen ghét, định bụng ăn cắp cắp chày của anh cho bõ ghét. Một hôm chày mốc, anh đem phơi nắng, bắt con chó ngồi canh. Nữ thần tàng hình xuống, chó không biết, nhưng khi mang chày đi rồi thì chó đuổi theo hơi của cái chày. Cuộc đuổi bắt kéo dài vô tận. Cho đến ngày nay, chó vẫn đuổi theo, có khi chó ngoạm được cả mặt trăng nhưng vì cổ họng bé nuốt không nổi nên cuối cùng lại phải nhả ra. Lúc đó là có nguyệt thực. 2. Ông già trên cung trăng: Một ông già chuyên giã gạo thuê chỉ có một con thỏ làm bạn. Một đêm trăng, lão ước được một người giúp việc sàng cám cho mình. Thương tình, nữ thần Mặt trăng hóa làm một bà già hàng ngày đến sàng giúp ông, tối thì về. Được ít lâu, ông lão hỏi tung tích bà già. Nữ thần nói thật. Ông già xin theo lên cung trăng cùng với con thỏ. Vì thế mà ngày nay ở trong trăng có ông lão giã gạo, bên cạnh có con thỏ chực ăn cám [6] . Truyện của đồng bào Tày Su-đi-ja-khát và Chan-ta-khát, cũng có một số nét tương tự với các truyện trên. Có hai vợ chồng và hai con trai: anh là Su-đi-ja-khát đã lớn, em là Chan-ta-khát còn bé. Một trận đói lớn diễn ra, bố mẹ hàng ngày lên rừng tìm củi nhưng họa hoằn mới có. Hai anh em tắm ở khe, tình cờ anh lật hòn đá bắt được bốn con cua, dự định chia cho mỗi người trong gia đình một con. Em ăn xong phần của mình, lại đòi nữa. Anh thương em, lấy phần của mình nướng cho ăn. Lại đòi nữa. Anh lại cho con thứ ba và sau đó con cuối cùng. Bố mẹ về thấy vỏ cua hỏi chuyện. Khi nghe anh kể lại, bố mẹ cho là đứa em không biết thương bố mẹ, bèn đuổi đi. Thương em, anh đi theo. Họ đi ăn xin ở các làng nhưng không được gì, bèn vào rừng. Đến một nơi thấy một con "cà-chiết" cắn nhau với một con rắn. Rắn bị chết. Con kia gặm một vỏ cây gần đó nhả vào cho con rắn. Rắn sống lại. Lần sau con rắn cắn chết con cà-chiết, rồi bỏ di. Hai anh em bèn lấy vỏ cây làm nó sống lại rồi ra đi. Dọc đường họ lại cứu một con quạ chết. Quạ muốn đền ơn. Hai anh em nói không muốn gì cả, chỉ cần thả quả cây xuống cho ăn, kẻo đói quá. Quạ dẫn họ đi đến một chỗ có Phi Giắc (một loại tinh ăn thịt người) vừa chết vợ, đang giết trâu bò làm ma. Quạ trộm thịt ném cho họ ăn. Phi Giắc bắt gặp, đánh chết quạ và bắt hai anh em định giết thịt, mời họ hàng đến ăn. Trong khi Phi Giắc đi vắng, ở nhà hai anh em cứu sống vợ nó. Khi chồng về, vợ nó xin tha mạng cho ân nhân. Phi Giắc cho hai người một cái quạt và một cái gậy, bảo đi nhanh về phía mặt trời lặn, kẻo họ hàng mình bắt gặp thì không hay. Hai anh em đi đến một nơi gặp một lũ con gái đang múc nước cho đám ma con gái "tạo" mường. Họ vào nhà xin ăn, bị đuổi, họ lại đến nhà một bà già xin ăn. Bà già giết một con vịt rồi đi múc nước. Ở nhà hai anh em cứu sống con vịt. Bà già đem việc ấy nó lại với tạo. Tạo đến xin họ cứu cho con gái mình. Khi thấy con gái sống lại, tạo bảo họ muốn lấy gì cũng cho. Người anh xin ở lại. Tạo gả con gái cho. Một mình Chan-ta-khát ra di. Đến một vùng nọ anh cứu sống người con trai của Khi-sa-phau. Gần đó có con gái tạo mường chết vì móng hổ rơi vào bàn chân. Được Khi-sa-phau mách, tạo gọi Chan-ta-khát đến cứu sống con gái, hứa sẽ chia cho anh hai mường. Anh cứu sống, lấy cô gái làm vợ, rồi ở lại đấy. Một người Sa là Khắt-tha-nêk trước đã đi hỏi cô gái, thấy thế, tức lắm bèn bỏ thuốc độc cho anh ăn. Không chết, anh lại bỏ thuốc độc cho ăn. Khắt-tha-nếk ăn xong phát điên đi lang thang khắp nơi [7] . Dân tộc Hrê (Hré) có truyện Quậy kết hợp giữa truyện Cuội cung trăng với truyện Nói dối như Cuội (số 60, tập II): Chàng Quậy nghèo và xấu không ai lấy. Một hôm nằm ngửa ngắm trăng, thấy cô gái và cây đa trên trăng. Quậy tỏ lời ao ước. Tự nhiên có một chiếc lá đa rơi xuống. Quậy lấy lá trồng, lá mọc thành cây, lá cũng phát ánh sáng như ánh trăng, đem lá thử chữa cho các con vật chết, chúng cũng sống lại. Quậy đi hỏi vợ. Bị cô gái chế nhạo, Quậy cầm dao đâm chết rồi cứu cho sống lại. Thấy mọi người kính phục, Quậy nẩy ý nghĩ đi chơi mọi nơi, lừa gạt người ta. Quậy bắt đầu gạt ông bác (giết lợn ăn thịt rồi cắm đuôi xuống đất nói dối lợn xuống âm phủ), nhiều lần gạt hổ (một cuộc đi săn bằng bẫy, một cuộc đi ăn trộm gạo, "trứng" lợn, nước biển dâng. v.v...). Sau đó, Quậy lại gạt quan nhiều lần (ăn thịt "mệt", lấy ống điếu...), gạt lái buôn, v.v... Cuối cùng, khi về thì cây quý đã chết. Quậy nhờ làm làm cho một cái thang bằng sắt. Trèo lên đến nơi, thì Quậy gặp cô gái trên trăng, hai bên kết hôn. Vợ Quậy đạp cái thang, thang rơi xuống thành mỏ sắt. Quậy xin về, vợ không cho. Quậy chặt cây để làm thang, nhưng cây bị chặt đến sáng lại liền như cũ. Cuối cùng, Quậy đem lương ăn, đến cây đa chặt liên tục không nghỉ, đến ngày thứ tư mệt quá, ngủ lại đấy nhưng lại chú ý gác chân lên chỗ chặt. Không ngờ khi chỗ bị chặt của cây liền lại thì kẹp luôn chân Quậy vào gốc cây [8] . Đồng bào Mèo có truyện Chàng Ư-châu: Chàng Ư-châu (Ư-châu = út) cùng người anh đi cày nương. Chị dâu làm thịt gà đưa cho chồng ăn, còn em thì chỉ được ăn cám và xác một con rắn mà chị ta đánh chết dọc đường. Ư-châu không ăn. Bỗng có con thằn lằn đến cắn một thứ cây phun vào xác rắn. Rắn sống lại. Biết là cấy thuốc cải tử hoàn sinh, Ư-châu nhổ cây, thử phun vào xương gà (do người anh ăn bỏ lại) thì gà sống lại. Gà dặn dọc đường về nếu thấy có người chết thì đừng cứu vì người ấy độc ác. Nhưng anh cứ cứu, hóa ra người đàn bà ấy là chị dâu anh bị rắn cắn chết. Anh lại tiếp tục đi nữa và cứu được nàng Ư-châu, một cô gái đẹp và kết thành vợ chồng. Từ đây, truyện chuyển sang một kết cấu xa lạ. Anh cứu cho đứa con một lão nhà giàu để học những phép lạ của hắn. Anh lại dùng phép biến mình thành một con ngựa trắng đẹp cho một người anh của mình cưỡi đi chợ đổi cho đứa con lão nhà giàu đó để lấy một con ngựa khác, còn được bù thêm ba mươi sáu lạng bạc. Ngựa trắng - Ư - châu - do ch ủ mới dắt về, lúc đưa đi tắm thì nó lặn xuống sông. Thấy thế đứa con lão nhà giàu nhờ một thầy pháp đuổi theo. Ngựa hoá cá, thầy pháp hóa làm rái cá, cá hoá làm cua, cua lại hóa làm bong bóng nước nổi lên, rồi hóa làm chim cắt. Rắn nước cũng nổi lên hóa làm diều hâu đuổi cắt. Cắt lại hóa làm chuột chui vào hang, còn diều hâu hoá làm mèo rình ở cửa. Chuột hóa làm kiến nhỏ bò ra, rồi hóa thành một lão thầy pháp khác đánh cho mèo một trận nhừ tử, và từ đấy bắt con vật - tức lão thày pháp - kia cứ giữ mãi mãi lốt mèo [9] . Truyện Thằng Cuội cung trăng của ta còn giống với đề tài thần thoại cung trăng của nhiều dân tộc, trong đó cũng có vị thuốc trường sinh bất tử và hình ảnh bay lên mặt trăng. Trước hết là truyện Hậu Nghệ của Trung-quốc: Ngày xưa trên trời có một vị thần tên là Hậu Nghệ. Hậu Nghệ rất thông minh, tự chế ra cung tên bắn trăm phát trăm trúng. Thửa ấy là đời vua Nghiêu, thiên hạ gặp lắm nạn. Thượng đế bèn cho Nghệ một cái cung màu đỏ và mũi tên màu trắng, bảo xuống trần trừ nạn cứu dân. Tai nạn của dân hồi đó là hạn hán. Nguyên do ở phương Đông có biển Thang-cốc, ở đó có cây phù tang rất lớn. Mỗi buổi sáng, mười mặt trời đến đấy tắm mát. Tắm xong, chín mặt trời nô đùa dưới cây phù tang, còn một mặt trời thì ngồi trên xe do quạ kéo qua không trung. Một hôm tắm xong, cả mười mặt trời cùng leo lên xe đi, vì thế mùa màng cháy trụi gây nên nạn đói chưa bao giờ có. Nghệ thấy vậy không chút do dự, bắn liên tiếp chín phát rơi chín mặt trời, chỉ còn một mặt trời còn lại cho đến ngày nay. Vua Nghiêu lại sai Hậu Nghệ đi trừ ác thú, rồi sai đi cứu nạn lụt. Lần sau này, Hậu Nghệ bắn bị thương Hà Bá là kẻ gây ra nạn lụt. Hậu Nghệ có vợ là Hằng Nga xui chồng lên núi Côn-lôn xin vị thuốc trường sinh bất tử ở bà Tây Vương mẫu. Trải bao gian khổ, Hậu Nghệ mới lấy được vị thuốc quý đưa về giao cho vợ, đinh cùng uống chung. Không ngờ một hôm Hậu Nghệ đi vắng, ở nhà Hằng Nga uống thuốc một mình. Uống xong, bỗng thấy người nhẹ dần, rồi chân rời khỏi mặt đất, bay lên trời tới mặt trăng. Ở đây, Hằng Nga chỉ có một con thỏ trắng, một con cóc và một cây quế làm bạn, ngoài ra không có gì khác. Khi Hậu Nghệ về, thấy tình hình như vậy buồn rầu vô hạn. Hậu Nghệ có người học trò là Bàng Mông cũng có tài bắn nhưng thua Hậu Nghệ một bậc. Bàng Mông ghen tỵ với thầy nên tìm kế hại thầy. Từ ngày mất vợ, Hậu Nghệ đâm ra nóng nảy, thường ngược đãi tôi tớ. Bàng Mông xui họ chống lại. Nghe lời xúi bẩy, một hôm nhân đi săn không phòng bị, chúng liền ập đến giết chết [10] . Truyện Sự tích con thỏ cung trăng của Ấn-độ là một phật thoại: Ngày xưa, trong một khu rừng nọ có ba con thỏ: một con nâu, một con vàng và một con trắng. Cả ba dày công tu luyện, suốt đời làm việc thiện. Đức hạnh tốt đẹp đó đã động đến Trời. Trời bèn sai một thiên thần xuống để dò hư thực. Vị thần hóa làm một người bộ hành đói rách lỡ bước lạc đường đến khu rừng ấy. Thỏ nâu và thỏ vàng sẵn có lương thực bèn đem ra biếu tất cả cho người bộ hành. Còn thỏ trắng ta vì đã bố thí hết cả, không biết lấy gì mà cho, chỉ có một bó củi, bèn nói: - "Tôi không thể biếu người cái gì ngoài chính bản thân tôi ra. Vậy thì củi đây, người hãy quay chín tôi mà ăn thịt". Vị thiên thần cảm động liền bay về trời tâu cáo mọi việc. Trời bèn ban thưởng thỏ trắng bằng cách cho sống một đời sống vĩnh cửu ở mặt trăng, là nơi thanh bình, tinh khiết. Từ đó thỏ ở lại cung trăng cho đến ngày nay [11] . Một truyện kể trong Đại tạng kinh: Một người Bà-la-môn sống hàng ngàn năm trên núi, có bốn con vật thân cận là chồn, khỉ, rái cá và thỏ. Hàng ngày chúng đến nghe giảng kinh và thường mang hoa quả đến cho. Một lần người Bà-la-môn hết thức ăn, toan đi chỗ khác. Bốn con vật buồn bã rủ nhau tìm thức ăn nuôi ông. Con khỉ sang một hòn núi khác tìm được nhiều quả ngon. Con chồn biến thành người, kiếm được một túi hạt nướng mang về có thể nuôi được một tháng. Rái cá lặn xuống nước, bắt được một con cá to, cũng có thể ăn đ ược một tháng. Còn con thỏ không biết làm thế nào cả, bèn chuẩn bị củi than rồi nhảy vào lửa đ ị nh tự quay cho người Bà-la-môn ăn. Nhưng vừa nhảy vào thì tự nhiên lửa tắt. Người Bà-la-môn là tiền thân của Đê-hòa-kiệt, con thỏ là đức Phật, con khỉ là Xa-ri-pu-tra, con chồn là A-nan-đà, con rái cá là Mục Liên [12] . Người In-đô-nê-xi-a (Indonésia) có một truyền thuyết trong đó không nói đ ế n Cuội và cây thuốc cải tử hoàn sinh mà lại nói đ ế n mặt trăng, và đặc biệt có tình tiết đái vào mặt trăng: Ngày xưa có hai mặt trăng thay phiên nhau soi sáng trần gian cho nên không bao giờ có đêm cả. Có mấy tên trộm thấy vậy không hài lòng, vì ánh sáng thường trực làm ngăn trở công việc làm ăn của chúng. Một hôm chúng quết đ ị nh đái vào một trong hai mặt trăng. Quả nhiên mặt trăng ấy tắt đi, và biến thành một cái trống rơi xuống đảo Ba-li [13] . Xem thêm truyện của Đ ồ ng bào Tày Con rùa vàng , mục Khảo dị truyện số 128. Về hình tượng lấy ruột vật thay vào cho người, người Ca-nác (Canaques) ở Tân Ca-lê-đô-ni (Nouvelle-caledonie) cũng có truyện nói đ ến một vị thần Gô-ma-uê, một hôm đi chơ i gặp hai người lạ, hỏi thì họ chả biết nói năng gì cả. Biết được nguyên nhân, thần bèn bắt hai con chuột lấy tim gan và bộ ruột của chúng lắp vào cho họ. Quả nhiên khi vết thương kín lại cả hai người bắt đầu ăn nói , suy nghĩ và có sức khỏe [14] . [1] Đoạn này theo Nghiêm Toản. Việt-nam văn học sử yếu. [2] Trong bộ sách này chúng tôi có đưa vào một số truyện như Sự tích thằng Cuội cung trăng (126), Thánh Gióng (134), Mỵ Châu-trọng Thủy (174), Ả Chức chàng Ngưu (182), v.v... mà ở Lược khảo về thần thoại Việt-nam đã có kể đến coi như là những thần thoại. Như chúng tôi đã nói: "ở Việt-nam thần thoại đã bị thất lạc mất nhiều", "không còn giữ được nguyên tính chất chất phác của nó như thần thoại của các dân tộc thiểu số", những truyện trên theo chúng tôi vốn xuất phát từ một số hình ảnh của thần thoại xa xưa, còn cấu trúc câu chuyện thì có thể đã chịu ảnh hưởng của nghệ thuật truyền thuyết cổ tích sau này. Cho nên chúng tôi đưa một số truyện vào đây để một mặt cho bạn đọc thấy được nghệ thuật xây dựng loại cổ tích thần kỳ có truyền thống từ nghệ thuật thần thoại, mặt khác để tiện trình bày những dị bản xa gần của chúng cũng khá phổ biến ở nhiều dân tộc anh em ở Việt-nam và trên thế giới. Về vấn đề chuyển hóa Thần thoại - cổ tích chúng tôi mong sẽ có dịp đề cập đến trong một bộ sách khác. [3] Theo Ca-ba-tông (A.Cabaton): Những tìm tòi mới về người Cham-pa ; còn theo Lăng-đờ (Landes) thì truyện này kể có hơi khác. Đại khái có một anh chăn trâu một hôm lên rừng giết chết một con rắn, bỗng thấy bố mẹ con rắn tha một miếng vỏ cây cờ-rếch rồi phun vào xác con, nó sống lại. Anh chăn trâu bèn lấy vỏ cây ấy phun thử vào con cá khô mang theo, thấy nghiệm. Từ đó anh cứu được rất nhiều người chết sống lại, trong số đó có một cô gái đã chết được một tháng. Cũng giống như truyện của ta, anh cưới cô làm vợ và còn đào cây thuốc quý bí mật về trồng, cấm vợ không được bén mảng vào vườn. Một hôm cây cũng tự nhiên long gốc rồi bay lên trời, vì trận mưa nước tiểu vô tình của người vợ trong khi lẻn vào thăm vườn. Chồng về vừa kịp bíu vào cây và cuối cùng cũng bay theo lên cung trăng (Truyện cổ tích Cham-pa, đã dẫn). [4] Theo Truyện cổ Tây nguyên. [5] Theo Truyện cổ Ba-na, tập II. [6] Theo Miến-điện dân gian cổ sự , sách đã dẫn. [7] Theo Đờ-jor-jơ (Degeorge). Truyền thuyết của người Tày ở An-nam, tạp chí Nhân loại (Anthropos), 1921-22. [8] Theo Truyện cổ dân gian Việt-nam, tập I. Nên nhớ người Việt nam cũng có truyện kể kết hợp giữa hai truyện (xem Sơn cư tạp thuật) nhưng nội dung và tình tiết không đầy đủ như truyện trên đây. [9] Theo Chàng xà trị hổ ác. [10] Theo Hoài Nan-tử và Truyện dân gian Trung-quốc (bản dịch của Thái Hoàng và Bùi Văn Nguyên). [11] Theo Văn hóa nguyệt san, số 56 (1960). Một dị bản khác kể rằng: Ngày xưa có một thầy tu đến trước một ngôi nhà xin ăn. Trong khi mọi người dâng cúng thức ăn, thì một con thỏ ngẫu nhiên cũng ở đó. Nó không biết kiếm gì để làm thức ăn, bèn nhảy vào nồi nước đang sôi để làm thức ăn cúng dâng cho Bố tát. Thầy tu - tức thần In-đờ-ra - rất cảm động, lập tức đưa thỏ lên mặt trăng. [12] Theo Sa-van-nơ: (Chavannes). Năm trăm truyện cổ và ngụ ngôn trích từ Kinh Đại tạng Trung quốc. [13] Dẫn trong Nghiên cứu về những lễ nghi nông nghiệp của người Căm-pu-chia của E.P.Mát-xpê-rô (E.P.Maspéro). [14] Theo Lin-nác-đơ (Linnardes). Đô Ka-mô (Con người và huyền thoại ở xã hội Me-lane-di).
__________________
![]() |
#129
|
||||
|
||||
![]() LẤY CHỒNG DÊ Ngày xưa, ở một vùng gần biển, có hai vợ chồng nhà nọ, đầu tóc đã hoa râm mà vẫn hiếm hoi. Hai vợ chồng cầu khấn khắp nơi mong có mụn con khỏi phải hiu quạnh lúc tuổi già. Thế rồi người vợ bỗng có mang, chín tháng mười ngày đẻ ra một bọc, khi mở ra thì không phải là người mà là một con dê đực. Chồng bực mình bảo vợ đem ném xuống sông cho khuất mắt, nhưng người vợ không nỡ, khuyên chồng cứ để lại nuôi. Trong lòng phiền não, người chồng phát ốm rồi từ giã cõi đời. Trái lại, dê thì hay ăn chóng lớn, lại biết trông gà, chăn lợn, giúp đỡ mẹ những việc vặt trong nhà. Vì thế, mẹ dê cũng phần nào khuây khỏa. Một hôm dê đi chơi đâu về, tới đặt đầu vào lòng mẹ nói: - Mẹ ạ! Phú ông làng bên có ba cô con gái, mẹ đi dạm cho con một cô! Mẹ dê nghe con nói không nhịn được cười, bảo: - Mày thật là đứa không biết phận mình. Đời nào phú ông lại gả con cho cái thứ dê như mày cơ chứ! Nhưng dê một hai bắt mẹ mang trầu cau đến hỏi cho bằng được. Sau cùng, thấy con vật nài hết sức, nên chiều lòng con, mẹ đành đánh bạo đến nhà phú ông. Giáp mặt phú ông, ngần ngại mãi, bà mới dám mở miệng ngỏ lời. Vừa nghe nói, phú ông đã đùng đùng nổi giận, quát mắng om sòm: - Câm mau cái con mụ này! Đồ láo! Dám vác mặt tới đây hỏi con vàng con ngọc của ta cho con dê của mụ kia à? Muốn tốt thì xéo ngay đi! Nhưng theo lời con dặn, mẹ dê vẫn cứ nhẫn nhục ngồi lại, một hai nói mãi không thôi. Cuối cùng phú ông bất đắc dĩ bảo: - Thôi được, ta cũng chiều lòng mụ gọi các con ta ra đây hỏi xem, hễ đứa nào bằng lòng lấy con mụ thì ta sẽ gả. Nói xong, phú ông cho gọi ba cô con gái đến trước mặt, rồi hỏi ngay con gái đầu lòng: - Con có muốn về làm dâu nhà mụ này không? Cô gái nguýt mẹ dê một cái rõ dài rồi hối hả đi vào, không quên buông một câu nói vội: - Úi dào, chồng người chả lấy, lại lấy chồng dê! Phú ông cười ha hả. Lại hỏi đến cô con gái thứ hai: - Còn con có ngại hắn là dê không nào? - Thưa cha, con là người không thể lấy được dê. Đến lượt cô con gái thứ ba, phú ông lại hỏi: - Còn con nữa, con cũng thế chứ? Nhưng cô thứ ba đã khép nép cúi đầu thưa: - Cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy! Phú ông chưa bao giờ ngạc nhiên đến thế. Nhưng đã chót hứa với mẹ dê, hắn không còn biết nói năng ra sao nữa. Hắn nghĩ: - "Không cần từ chối, ta cứ thách cưới cho rõ nặng, nhất định các vàng cũng không dám "chơi chèo". Hắn bèn đòi mẹ dê phải đủ sính lễ một trăm trâu bò, một trăm lợn, một mâm vàng, một mâm bạc mới được đón đâu về. Nghe nói, mẹ dê lật đật chạy về kể lại cho con nghe và nói: - Con ạ! Hãy từ bỏ ý định ngông cuồng đi thôi. Phú ông tuy nói gả nhưng lại thách cao như thế, họa có vua chúa mới biện đủ. - Đừng lo mẹ ạ - dê con trả lời - con sẽ lo được. Đêm hôm ấy, trong khi mẹ dê ngủ, thì dê bước ra sân trút lốt dê thành một chàng trai trẻ. Khi chàng hô lên: - "Lấy cho ta mọi thứ để làm sính lễ", lập tức các gia nô xuất hiện trước mặt chàng rất đông, họ đội đến đủ số vàng bạc và dắt đến đủ số trâu, bò, lợn, rồi biến mất. Chàng trai lại chui trở vào lốt dê, gọi mẹ dậy nhận đủ lễ vật để sửa soạn ngày mai đưa sang cho phú ông. Ngày rước dâu, dê bon bon đi trước, còn cô gái út phú ông lẽo đẽo theo sau cùng với hai chị. Sau khi vào buồng làm lễ hợp cẩn, cô gái bỗng thấy chồng mình trút lốt dê ra thành một chàng trai tuấn tú thì vừa sợ vừa mừng. Sáng dậy chồng lại chui vào lốt dê như cũ, rồi ra nhà ngoài. Hai người chị vợ cố nán ở lại để xem em mình ăn ở với dê ra làm sao. Nhưng khi gặp người em, họ chả thấy em có vẻ gì là băn khoăn hối hận về việc có chồng là dê cả. Không khỏi lấy làm ngạc nhiên, họ tỉ tê hỏi dò em cho ra sự thực. Vợ dê kể lại cho hai chị biết mọi việc trước sau. Đêm lại, hai chị lén trổ vách buồng của em nhìn vào quả thấy đúng như lời em nói. Họ không ngờ chồng của em lại khôi ngô trẻ đẹp vượt xa bọn con trai trong thiên hạ. Hôm sau hai chị khuyên em phá lốt dê đi để cho chồng không còn biến vào đâu được. Quả nhiên từ đấy dê chấn dứt cuộc đời đội lốt dê. Còn hai người chị thì lại hối tiếc và ghen tị với số phận may mắn của em. Hơn một năm sau, một hôm chồng trao cho vợ một con dao và một hòn đá lửa, dặn rằng: - Tôi có một số công việc phải vượt muôn trùng sóng nước, chưa hẹn được ngày về, cũng không thể đem nàng đi được. Nàng ở nhà nhớ đừng đi đâu xa. Hai vật hộ thân này hãy luôn luôn mang bên người đừng quên, có khi dùng được việc. Rồi một sáng sớm, Dê từ biệt mẹ và vợ dong buồm ra khơi. Vợ Dê ở nhà thức khuya dậy sớm, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng. Nhớ lời chồng dặn, bao giờ con dao và hòn đá cũng được giắt ở bên lưng. Một ngày kia, hai chị đến nhà rủ em đi trẩy hội. Vợ dê trước chối từ nhưng sau thấy hai chị dỗ mãi, bèn theo họ ra đi. Cả ba người xuống một chiếc thuyền đậu sẵn ở bến. Thuyền băng băng rẽ sóng, chị em cùng nhau vui vẻ chuyện trò. Qua ngày hôm sau, ba chị em lại quây quần ngắm mây trông sóng ở đằng mũi thuyền. Nhưng đã lập mưu sẵn, hai chị thừa lúc em vô ý bất thần đẩy em xuống biển. Vợ dê chưa kịp kêu lên thì đã bị sóng khỏa chìm nghỉm. Còn hai chị, thi hành xong kế độc, liền hối hả cho thuyền vào bờ, rồi giả bộ hốt hoảng báo tin rằng em mình không may sẩy chân rơi xuống nước. Lại nói chuyện vợ dê trong khi đang vùng vẫy có ngoi lên khỏi mặt nước thì bỗng có một con cá kình lao tới đớp ngay vào bụng. Sẵn dao bên mình nàng lập tức rút ra đâm chém tứ tung. Cá kình bị thương quẫy rất dữ dội. Nhưng vì bị thủng bụng nên chỉ một lúc sau cá đã tắt thở, nằm phơi bụng nổi lên mặt nước. Chăng bao lâu sóng biển đánh giạt xác cá vào một hòn đảo. Vợ Dê liền cầm dao rạch luôn bụng cá, chui ra ngoài. Đó là một hòn đảo hoang không có bóng người. Nàng bèn chặt cây dựng lều làm thành một chỗ ở bên bãi biển. Sẵn có đá lửa, nàng đốt củi lên sưởi, và xẻo thịt cá kình nướng ăn. Sau đó lại vào rừng hái trái đào củ, thay cho lương thực. Cứ như thế tất cả những khó khăn trong cuộc sống dần dần nàng đều vượt qua. Một hôm, vợ Dê nhìn vọng ra ngoài khơi bỗng thấy xa xa có bóng một cánh buồm trắng. Nàng bèn buộc áo vào một cành cây phất lên làm hiệu. Con thuyền nhận được dấu hiệu của nàng, rẽ sóng tiến vào đảo. Khi thuyền cập bến, nàng sửng sốt thấy người trên thuyền không phải ai xa lạ chính là chồng mình. Đúng là chàng dê sau bao ngày vượt vời đang trên đường trở về quê hương, thấy dấu hiệu cầu cứu nên ghé vào đảo. Hai vợ chồng ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Chỉ một lát sau, Dê đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Khi thuyền về đến nhà, Dê giấu vợ không cho ai biết, rồi sai người dọn một bữa cỗ linh đình nói là để cúng vợ. Chàng cho mời làng nước và bà con họ hàng, cả gia đình nhà vợ tới dự. Hai người chị nghe tin Dê đã về thì mừng khấp khởi, vội đến ngay. Cả hai làm bộ khóc lóc thảm thiết trong khi bịa ra câu chuyện cái chết thảm thiết của cô em xấu số. Sau đó chúng mấy lần liếc mắt đưa tình để cám dỗ người em rể tuấn tú mà chúng vẫn ao ước được chung tình. Dê vẫn thủng thỉnh đi từ bàn nọ sang bàn kia, mời mọi người ăn uống no say. Đoạn Dê khoan thai bảo hai chị: - Em xin vào nhà gọi người ra hầu hai chị! Dê vén màn cho vợ từ trong buồng bước ra. Nàng tươi cười chào hỏi hai chị và mọi người, làm cho ai nấy đều sửng sốt. Hai người chị vừa thẹn vừa sợ, nhân lúc mọi người không chú ý, len lén bước ra khỏi cổng. Nhưng chúng đi chưa được một quãng đường đã bị thần sét nhảy xuống đánh chết. Từ đấy hai vợ chồng Dê ăn ở với nhau sung sướng trọn đời . KHẢO DỊ Trong Thánh Tông di thảo cũng có một chuyện Lấy chồng Dê: Một người đàn bà ở Thanh Khê góa chồng có hai con gái. Cô bé đã gả chồng còn cô lớn hơn hai mươi tuổi mà vẫn chưa chịu lấy ai. Khi bà mẹ mất, có nhiều nơi đến dạm hỏi nhưng cô đều từ chối. Cô ở với chú may vá làm thuê, kiếm ăn lần hồi. Cô thương mẹ khóc lóc ba năm, ai cũng khen là con có hiếu. Một hôm cô từ mộ mẹ trở về nhà, tự nhiên thấy có một con dê đi theo. Về đến nhà, dê nhảy ngay vào buồng hóa thành một chàng trai, tự xưng mình là người của ngọc hoàng thượng đế bị đày xuống trần ba mươi năm. Từ đấy chàng trai cứ sáng ra là dê tối lại là người. Ở làng ấy có một người con trai khác từ lâu theo đuổi cô gái. Một hôm, anh ta đến rình ở buồng thấy có tiếng trò chuyện, bèn phá cửa xông vào thì chỉ thấy con dê, anh ta thẹn quá bỏ đi mất. Sau đó Ngọc hoàng thương giảm hạn, dê được về trời. Lúc từ biệt, vợ đòi đi theo. Dê bày cho vợ câu thần chú để gọi mình xuống mỗi lúc muốn gặp. Nhờ đó hai bên còn gặp nhau nhiều lần. Nhưng bốn tháng sau, cô bị bệnh chết. Khi chôn, người ta thấy trong quan tài có tiếng động, mở ra chỉ thấy một con chim vàng anh . Chúng tôi ngờ rằng truyện vừa kể xuất xứ từ truyện Lấy chồng dê trên kia nhưng đã qua sự cải biên gọt đẽo mạnh tay của nho sĩ. Việt Nam còn có truyện Chàng Chuối rất phổ biến ở Miền bắc, gần như cùng một chủ đề với chuyện trên. Thủy thần một hôm biến thành một người đàn ông lên bộ, rồi ăn nằm với một cô gái. Cô gái từ đấy có mang, đến kì đẻ sinh ra một con cá chuối rất lớn. Thường ngày mẹ vẫn nuôi con trong vại nước. Lớn lên, chuối đòi lấy một trong ba cô con gái quan họ Lý trong miền. Cũng như truyện trên cô thứ nhất và cô thứ hai khi nghe nói chuyện lấy Chuối làm chồng đều tỏ ý dè bỉu, trừ cô thứ ba. Thấy vậy họ Lý cũng đòi một món sính lễ lớn, vượt khả năng của nhà trai. Chuối được mẹ thả xuống sông để về xin bố. Bố cho một quả bí, về mở ra trong có đủ mọi sính lễ mà nhà gái đã thách cũng nhiều kẻ hầu người hạ. Cưới xong, đêm đêm Chuối cũng biến thành chàng trai ăn nằm với vợ, ngày lại hóa cá. Một hôm Chuối trút lốt cùng vợ đi chơi hội chùa, hai chị không ngờ đó là một chàng trai khỏe và đẹp, đâm ra mê mẩn. Em gái thú thật đấy là chồng mình. Hai chị lúc đầu không tin, họ đến nhà em khoét vách nhìn mới rõ sự thực, và từ đó họ ghen tị với em. Về sau vua nghe tin đồn, vời Chuối về triều làm đại tướng trấn giữ biên thùy. Ở đây cũng có tình tiết hai chị nhân khi Chuối đi vắng, rủ em đi tắm và xô em ngã xuống sông, nhưng cứu thoát cho vợ Chuối lại là Thủy thần. Chuối làm xong việc quan, trở về gặp lại vợ, giấu vợ vào hòm, rồi mang hòm đến nhà bố vợ. Hai chị cũng giả bộ thương xót em gái xấu số rồi tán tỉnh ve vãn Chuối, nhưng đến lúc Chuối mở hòm thì bị vạch mặt. Hai chị cũng bị sét đánh chết như truyện trên . Đồng bào Vĩnh Yên, Phú Thọ kể chuyện chàng Chuối có khác ở chỗ, mẹ Chuối do ướm vào dấu chân lạ bên bờ sông mà có mang. Sau khi ra đời, Chuối được thả trong một chậu nước đặt ở gậm giường. Một hôm có hội mùa, Chuối biến thành chàng trai đi dự, thấy có ba cô gái đẹp mới về bảo mẹ đi hỏi. Cũng như trên, nhà gái thách cưới quá nặng. Chuối cũng bảo mẹ thả mình xuống sông rồi cũng mang lên một quả bí. Một tiếng nổ, quả bí vỡ tung, bao nhiêu mâm cỗ và đồ sính lễ tuôn ra nườm nượp. Ở đây không có việc Chuối được vua phong đại tướng. Thừa lúc vắng Chuối, hai chị rủ em ra cầu rồi bất ngờ đẩy xuống sông. Nhưng chàng Chuối đã kịp thời cứu được vợ và đẩy hai chị em xuống nước . Đặng Lễ Nghi biên soạn Chàng Nhái kiến Tiên Thơ từ một văn bản cũ (không rõ có từ thời nào). Đại khái là: Ông bà trưởng giả sinh được một con gái xấu xí là Giảng Dung. Lớn lên cô gái không chồng mà chửa, sinh ra một con nhái. Ông bà trưởng giả sau đó qua đời, Giảng Dung hẩm hút nuôi con. Nhái mười ba tuổi bảo mẹ đi hỏi con vua Hồ vương (tác giả đoán là Hung- nô). Mẹ chiều ý con. Vua sai đưa nhái đến xem mặt. Vua hỏi: "mày ưng lấy ai?". "Công chúa Kiến Tiên mà thôi". Thấy con gái bằng lòng, vua hứa gả nếu: "Sắm đủ một trăm mặt trời, Nhái biện đủ, đám cưới cử hành long trọng. Sau đó để thử vợ nhái làm cho kiến cắn chết mình, công chúa vật vã than khóc. Sống lại, nhái cởi lốt thành chàng trai xinh tốt. Thấy thế hai chị bắt nhái về ấp, bắt cởi lốt, bắt không được thì lấy gươm cắt lốt, nhái chết nhưng rồi nhái lại sống. Một hôm nhân nhái đi vắng. Kiến Tiên bị hai chị giết quẳng xuống sông nhưng nàng được Long vương cứu. Trở về, nhái tìm mười cửa địa ngục ở âm phủ không thấy. Lên trời, Ngọc Hoàng bảo xuống tìm ở Long vương. Đưa được vợ về, nhái tâu vua mọi sự. Vua giao hai chị cho vợ chồng nhái xử, nhưng họ tha bổng. Vua bắt đầy vào rừng sâu. Ở đấy hai chị lấy chằn tinh làm chồng. Về sau vua giao quyền binh cho nhái rồi bỏ đi tu . Một trăm mặt nguyệt tùy thời chiếu liên Một trăm chư Phật chư Tiên, Thành Hoàng trăm vỵ ứng liền thinh không Một trăm mãng xà có lông, Một trăm bạch lộc trong rừng chạy ra Một trăm hùm dữ thay là, Một trăm sư tử dỡn ma kỳ lân, Để cho dỡn chụp trước sân Sắm đủ trăm thần cỡi (cưỡi)nó mà đi Trăm rồng ngũ sắt (sắc) dị kỳ, Để dỡn mặt nhựt (nhật)ta thì xem chơi..." Gần giống với chuyện Lấy Chồng Dê và Chàng Chuối, còn có truyện Sọ Dừa của người Cham-pa, khá phổ biến ở miền Nam, nội Dung như sau: Một người nọ nhà rất nghèo, một hôm cùng con gái lên rừng hái củi. Cô gái bỗng tìm thấy ở một hòn đá một mạch nước chảy, bèn uống và tắm thỏa thích. Nhưng khi người cha đến thì nước không còn một giọt. Cô gái từ đấy có mang, đủ ngày tháng đẻ ra một cục thịt tròn như quả dừa. Thằng bé bảy tháng biết nói, một năm biết tự lăn đi, ba năm biết chăn dê. Sau đó, nó bảo mẹ đưa mình đến cung vua xin làm công việc chăn trâu. Trâu vua có ba mươi vạn, người chăn mà thường vẫn thất lạc, nhưng thấy Sọ dừa cam đoan, nên vua bằng lòng thuê. Ngày đầu tiên, công chúa bé nhất mang cơm trưa. Công chúa thấy trâu ăn thành từng bầy rất trật tự, nhưng không thấy Sọ Dừa. Gọi một tiếng thì Sọ Dừa từ đâu lăn ra nhận cơm. Chiều lại, đưa trâu về đủ số. Ngày hôm sau, vua giao thêm công việc cắt dây buộc nhà. Khi đem cơm, công chúa đứng rình thấy giữa rừng có nhà lầu, có dê lợn và kẻ hầu người hạ. Một số người hầu thì đi chăn trâu, còn một số đi cắt dây. Công chúa gọi lên một tiếng, tự nhiên mọi thứ biến mất, còn Sọ dừa thì lăn đến nhận cơm như cũ. Buổi chiều trâu về con nào con ấy dây cuốn đầy sừng. Vua rất thán phục khi thấy quân hầu tháo được một trăm xe. Lần đưa cơm thứ ba, công chúa cũng rình thấy giữa kẻ hầu người hạ đông đúc có một chàng trai đẹp tựa trăng rằm. Khi gọi tên thì chàng trai biến vào lốt, lăn ra như cũ. Hôm sau nữa hai công chúa lớn từ chối việc đưa cơm nên công chúa em lại phải đi. Hôm ấy trời mưa gió, lúc Sọ Dừa đánh trâu về lăn vào bếp sưởi, đụng vào chân hai công chúa lớn đang nấu ăn ở bếp bị họ mắng chửi. Hôm khác, vua giao thêm việc chặt tre. Công chúa ba đưa cơm có mang theo một gói trầu do mình têm để tặng sọ dừa. Tre của Sọ dừa chặt được nhiều quá đến nỗi vua phải huy động dân các làng kéo về, được một trăm xe. Mọi người đều tấm tắc về tài năng phi thường của Sọ Dừa. Chăn trâu được mười lăm ngày, sọ dừa về nhà giục mẹ đi hỏi cho mình một trong ba công cháu làm vợ. Mẹ bất đắc dĩ ra đi. Vua hỏi ý kiến ba công chúa, chỉ có công chúa ba ưng thuận. Đám cưới kéo dài một trăm ngày, một trăm đêm, có dân các làng được vua mời về dự. Vua bảo hoàng hậu hỏi dò xem con gái ăn nằm với Sọ Dừa như thế nào. Công chúa cho biết: sáng là sọ dừa, đêm là người. Một đêm nọ công chúa đem lốt dấu đi. Sọ dừa đành phải ra mắt mọi người. Thấy chàng đẹp trai, ai nấy nô nức đến cung để nhìn mặt. Sau lễ cưới nửa tháng, Sọ dừa chuẩn bị tàu lớn đi buôn, có vợ và hai chị vợ đi theo. Lúc tàu ra khơi, hai chị bảo em tháo nhẫn mà Sọ dừa tặng cho xem rồi giả vờ làm tuột tay rơi xuống biển. Em vội nhảy xuống vớt, nhưng tàu chạy rất nhanh, khi Sọ dừa biết thì đã không thấy tăm dạng. Cho tàu quay về, Sọ dừa khóc lóc ngày đêm. Hai chị vợ nấu cơm têm trầu cho ăn, lại đến ăn nằm với Sọ dừa nhưng chàng vẫn nhớ vợ không nguôi. Vợ Sọ dừa vớt được chiếc nhẫn nhưng lại bị chìm xuống biển sâu. Nhờ sự mầu nhiệm của chiếc nhẫn nàng trở thành một người tí hon ẩn vào trong một vỏ trai lớn. Bị sóng đánh, trai trôi dần vào bờ. Một cặp vợ chồng làm nghề bắt trai nghe tiếng khóc tỉ tê trong một vỏ trai, liền nhặt lấy đưa về cất ở nhà. Đến đây truyện giống với tình tiết của truyện Tú Uyên và Tấm Cám Một lần hai vợ chồng đi vắng, công chúa từ vỏ trai chui ra biến thành người lớn, quét dọn, nấu cơm nước, đoạn lại chui vào như cũ. Một hôm họ cũng giả vờ đi nửa đường lại lộn về rình. Bắt được quả tang, họ nhận công chúa làm con nuôi. Công chúa bảo họ mua cho mình một ít bong về dệt thành chăn. Chăn dệt xong, công chúa bảo mẹ nuôi mang đến cung vua bán, lại đưa nhẫn cho mẹ nuôi đeo. Vua thấy tấm chăn giống với chăn của công chúa thứ ba dệt. Còn Sọ dừa thì nhận ra chiếc nhẫn, bèn theo người đàn bà về nhà. Hai vợ chồng lại tái ngộ. Sau đó Sọ dừa thay vua trị vì thiên hạ . Một vài truyện Sọ Dừa khác đã có vẻ Kinh hóa, kết hợp phần nào với chuyện Lấy chồng dê, đại thể là: 1. Một bà cụ hái củi một hôm khát quá, uống nước mưa trong một cái đầu lâu, về có mang đẻ ra một cục thịt tròn, nhân đó đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa vừa đẻ đã biết nói, lớn lên đi chăn dê cho phú ông và được ba cô con gái của phú ông thay phiên đưa cơm. Đến lượt cô ba, nhìn trộm thấy Sọ dừa hóa thành chàng trai ngồi võng thổi sáo, có kẻ hầu người hạ. Cuối cùng cô gái cũng trở thành vợ của Sọ dừa, còn Sọ dừa thì trở thành người học trò giỏi đỗ trạng. Trước khi từ giã vợ đi sứ, cũng như truyện Lấy chồng dê, chồng đưa cho vợ môt hòn đá, một con dao, nhưng ở đây có thêm hai quả trứng gà. Vợ Sọ Dừa cũng bị hai chị em dìm chết, cả người lẫn thuyền lọt vào miệng cá kình, nhưng nhờ có dao và đá lửa, nàng tạo nên một cuộc sống mới trên hoang đảo: lại nhờ có hai quả trứng nở thành gà, nàng được chúng báo hiệu chấm dứt cuộc đời lưu lạc bằng tiếng gáy Ò ó o o! Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về. Truyện kết thúc như truyện Lấy chồng dê 2. Một người nghèo đẻ ra một đứa con chỉ có mỗi cái đầu, đặt tên là Thằn lằn, cho đi ở chăn trâu với một nhà giầu. Chủ bắt chăn bốn, năm chục con trâu đều làm được. Rồi bắt chặt củi, Thằn lằn chặt đủ mỗi con trâu một gánh đặt trên lưng mang về. Chủ sai con gái đưa cơm. Cô cả không chịu đi. Em nói: - "Chị không đi thì tôi đi". Đến cửa núi cô thấy có một võng điều che bốn lọng, Thằn lằn nằm trong võng có người quạt hầu. Ngoài núi có nhiều người chăn trâu chặt củi. Cô gọi: -"Ai đó ra lấy cơm mà ăn". Mọi thứ biến mất chỉ thấy Thằn lằn ra lấy cơm. Thằn lằn không ở nữa, chủ tiếc lắm, nài mãi Thằn lằn mới bảo: - "Ông gả con gái cho tôi, tôi mới ở". Chủ gọi hai con gái ra hỏi, chỉ có em bằng lòng. Mời làng xã đến ăn cưới. Ba ngày sau chị đến nhà em thấy Thằn lằn là chàng trai đẹp, bèn mời tới nhà mình chơi. Em sang gọi về, chị phàn nàn: - "Chồng người ấp chẳng được lâu. Ấp được hôm trước hôm sau người đòi". Truyện dừng lại ở đây . Gần giống với các truyện trên có các truyện sau đây: 1. Chuyện Chàng Bầu của đồng bào Mường: Có hai vợ chồng hiếm con, ước ao để được đứa con đẹp như quả bầu. Ít lâu sau, quả nhiên vợ đẻ ra một cục thịt tròn như quả bầu. Mẹ định quẳng đi nhưng con đã nói ngay: - "Mẹ đừng bỏ con, con sẽ làm được việc". Cũng như Sọ dừa, chàng Bầu lớn lên đi ở chăn trâu cho Lang. Nàng Ả, con gái đầu lòng của Lang đi đưa cơm nhưng vì sợ hãi, thường chỉ đứng ở bìa rừng gọi Bầu ra lấy, chỉ có nàng Hai thì mang đến tận nơi. Và nàng Hai cũng khám phá ra là Bầu có phép lạ: biến thành chàng trai nằm võng thổi sáo, bốn bên voi chầu hổ phục. Hai bên đính ước. Trở về, Bầu cũng bảo mẹ đi hỏi nàng Hai cho mình. Ở đây Lang cũng gọi hai con ra hỏi, sau khi xui con đái vào người mẹ Bầu. Và khi thấy nàng Hai bằng lòng, Lang cũng thách cưới: "Trăm con trâu khoang, trăm hươu chín gạc, trăm vạc tám tai, với một đàn hổ xám, một đàn báo hoa". Bầu hóa phép gọi cầu vồng xuống, trèo lên, lấy đủ mọi thứ về. Sau khi Bầu lấy vợ, cũng có việc nàng Ả đến rình và khi biết sự thật cũng tỏ ý hối tiếc, nghĩ cách cướp chồng của em bằng cách rủ em lên mảng ra sông gội đầu, rồi đánh đắm mảng. Không biết bơi, nàng Hai bị nước cuốn đến một bãi cát hoang. Nhờ có hai vật dao và trứng mà chồng dặn lúc nào cũng phải mang theo bên người, nàng Hai đào củ, dựng lều; rồi ấp trứng, trứng nở thành gà trống. Bầu hết hạn chầu Trời trở về, qua bãi cát nhận ra tiếng gà, nhờ đó gặp lại vợ. Về đến nhà, Bầu cũng giấu vợ một nơi, và sau đó vạch mặt người chị vợ khi người đàn bà này giả nhận làm vợ Bầu. Thấy em gái, nàng Ả xấu hổ, chạy lên cầu thang thì cầu thang gẫy, rơi xuống chết hóa thành con nhàn nhã suốt ngày chui rúc dưới bùn không dám ngẩng mặt nhìn mọi người. Ở đây cũng có việc người vợ đập nát lốt của chồng và từ đó hai vợ chồng ăn ở với nhau lâu dài . 2. Truyện Hai chị em và chàng trẻ tuổi của đồng bào Kar (Tây- nguyên) Hai chị em - Răng-roa và Đăm - cùng bố làm rẫy, bố khát nước quá nghe tiếng nước chảy nhưng mấy lần đi tìm lại không thấy gì. Một bà tiên chỉ cho chỗ một con trăn đang khơi mạch: - "Lấy trăn làm chồng thì được uống". Chị không lấy, em đành phải nhận lời để bố khỏi chết khát. Lập tức nước chảy đầy ruộng rẫy. Cưới xong, trăn đến giúp bố vợ dọn gỗ, dọn cỏ rất được việc. Một hôm cùng vợ đi tắm. Vợ tắm cuối dòng bỗng thấy da rắn trôi, tưởng chồng đã chết bèn kêu khóc. Khi lên trên dòng thấy một người đàn ông tưởng đó là kẻ giết chồng toan đánh, người ấy nói: - "Tôi là trăn nay đã thành người, tên là Sa-pan". Thấy Đăm có chồng đẹp, Răng-roa ghen tị, tìm cách quyến rũ. Đăm bảo chồng đừng chạm vào đồ đạc của chị, vì theo tục chạm vào tức là phải lấy làm vợ. Răng-xoa treo áo giữa nhà, đặt bát nước ăn trước mặt cốt cho Sa-pan đụng phải, nhưng chàng đều tránh. Vợ Sa-pan có mang, chàng đi vắng, dặn vợ chớ có đi đâu. Răng-roa âm mưu hãm hại Đăm: rủ đi lấy củi, lấy nước, Đăm đều lắc đầu. Nhưng khi rủ đánh đi thì Đăm thích thú đi ngay. Răng-roa cưa đứt dây, Đăm văng xuống sông, Răng-roa lấy quần áo của em mặc vào, lại lấy quả bầu độn bụng giả làm Đăm để được ân ái với Sa-pan, nhưng không may khi leo thang, quả bầu rơi ra, lộ tẩy. Sa-pan xuôi dòng tìm vợ, một bà cụ (người vớt được vợ) mách cho biết vợ và con anh hiện ở môt hòn đảo, hãy về thu dọn nhà cửa đưa ra đây mà ở. Sa-pan về thu dọn, Răng-roa biết ý đuổi theo đến bè. Sa-pan bảo về nấu nồi cơm lớn đưa đi ăn đường, mình sẽ chờ. Đến bờ sông thấy Sa-pan đã chèo bè ra xa. Răng-roa gào mãi không được, bèn lấy nồi cho xuống nước làm thuyền bơi đi, chó cũng nhảy theo người. Nhưng vì chó cạy cơm ăn làm thủng nồi, nước lọt vào dìm y và chó xuống nước . 3. Truyện Chàng rùa của người Xơ-đăng Một ông già góa vợ có mười người con gái, một hôm bằng lòng để một con rùa sửa giúp cái lờ đơm cá với điều kiện gả cho nó một cô để làm vợ. Cũng như các truyện trên, các cô gái của ông đều từ chối, trừ cô út bằng lòng làm vợ rùa. Mỗi lần đến chơi với vợ, rùa đều hóa thành chàng trai, và căn buồng tự nhiên sáng rực lên, làm cho các chị tưởng buồng bị cháy kêu cứu ầm ỹ. Ông già ốm, muốn ăn óc cá, bảo các chàng rể đi tìm. Chẳng ai lấy được cả, chỉ có rùa lấy được mấy nong. Ông già lại mở cuộc thi trâu rồi thi xây nhà, rùa đều thắng cuộc, làm cho các chị vợ ghen tức. Cũng như các truyện trên, trước khi sang Lào buôn bán, rùa giao cho vợ một quả trứng, một con dao, ngoài ra còn có một quả dừa. Ở đây cũng có tình tiết: mấy chị rủ em đi lấy củi, rồi mua muối, vợ rùa đều từ chối, nhưng lại bằng lòng khi nghe nói rủ chơi đu. Bị các chị chặt đu vợ rùa ngã chết, xác văng xuống sông, bị cá nuốt nhưng lại sống lại và sinh con trong bụng cá. Rồi vợ rùa lấy dao rạch bụng cá, bế con chui ra. Quả trứng biến thành gà trống, còn quả dừa mọc thành cây dừa lớn như thổi. Vợ rùa trèo lên, cây cao lên mãi. Ở trên ngọn vợ rùa nhìn sang đến tận nước Lào. Nàng bảo gà gọi chồng về. Nghe tiếng gà gáy, rùa lên đường về ngay. Trời mưa như trút, phải ẩn dưới cây dừa, rùa vừa kêu đói thì cơm trên ngọn rơi xuống, kêu khát thì quả dừa rụng. Hai vợ chồng gặp nhau. Nghe vợ kể mọi chuyện, rùa bỏ vợ con vào gùi mang về, lại trao cho con một cái kim, dặn cứ đâm vào mặt người nào nhòm vào gùi. Thấy gùi nặng, mấy chị vợ hí hửng ra đón. Khi nhìn vào gùi bị kim châm vào mắt, đứa hóa thành chó, đứa hóa thành mèo. Về sau chó mèo ấy chuyên giữ nhà cho vợ chồng rùa . 4. Chuyện chàng Ca-đác (ca-đác = con vật giống cáo) của người Thái. Một ông vua sinh được mười công chúa đều đẹp, riêng công chúa cả và công chúa mười giống nhau như đúc. Một hôm vua cho mỗi công chúa một chiếc thuyền, bảo xuôi theo dòng sông, thuyền ai bị kẻ nào cản lại, thì lấy người ấy làm chồng. Các công chúa đều lấy được chồng đẹp trai, chỉ có công chúa mười chở giúp một con ca-đác sang sông, đến giữa sông thuyền dừng lại đành phải lấy nó làm chồng. Một hôm vua sai các phò mã vào rừng săn hươu. Ca-đác lên rừng chỉ leo trèo hái quả, nhưng cuối ngày được con hươu rất lớn, còn chín người kia thì về không. Lần thứ hai đi đánh cá, chỉ có Ca-đác được một gánh cá nặng. Lần thứ ba đi chặt gỗ dựng nhà. Nhờ có vua Thủy, Ca-đác có một ngôi nhà lộng lẫy, đẹp hơn cả cung vua. Thấy lạ vua sai người đến rình. Khi thấy Ca-đác trút lốt hóa thành chàng trai đẹp, vua sai giấu kín cái lốt, Ca-đác đành phải mang hình người. Thấy em rể đẹp, công chúa cả có ý cướp chồng của em. Ở đây truyện xích gần với truyện Lấy chồng dê. Ca-đác trước khi đi vắng cũng giao cho vợ một con dao, một gói thuốc, dặn khi gặp nạn thì ném gói thuốc ra. Vợ ca-đác cũng bị chỉ cả chặt đứt đu, văng ra giữa sông, nhờ dao thần và gói thuốc nên xuống đến cung vua Thủy. Công chúa cả mặc quần áo giả làm công chúa mười về với ca-đác. Ca-đác xuống sông tìm thấy vợ và đưa vợ về. Đến nhà làm một bữa tiệc mời vua cha tới dự. Giữa bữa tiệc, ca-đác vạch tội chị cả. Xấu hổ, công chúa cả chạy ra cánh đồng bị sét đánh chết, xác hóa thành con niếu nộng (niếu nộng = con bọ giống con bọ dừa, hay rúc ở bùn.) . 5. Truyện của dân tộc Cao-sơn (Đài loan) Người đẻ trứng. Có hai vợ chồng hiếm hoi, cầu thần Tử-tức, vợ sau đó có mang sinh ra một quả trứng. Được một năm trứng biết lăn ra khỏi tổ chơi đùa. Lên bảy, đòi đi chăn trâu, bảo mẹ bỏ mình vào tai trâu, rồi hò hét, sai trâu ra đồng theo ý muốn. Lần khác trứng bảo mẹ buộc dao vào người để mình lên rừng đốn củi. Đến rừng trứng tách vỏ chui ra thành một cậu con trai, đốn xong lại chui vào vỏ, rồi về bảo bố đưa xe lên rừng chở củi về. Đi làm đồng cũng vậy. Một hôm trứng chui ra khỏi vỏ làm ruộng, gặp một cô gái cũng làm ruộng ở gần. Hai bên cùng chuyện trò hát xướng, dần dần đâm thương yêu nhau. Trứng đi dự hội thi vật, lăn dưới chân mọi người, thấy ai giẫm phải thì kêu tướng lên cho họ tránh. Khi thi chạy, trứng lăn ra một nơi chui ra khỏi vỏ, rồi về tới đích trước mọi người. Cô gái tới nhà hỏi thăm trứng, bố mẹ nói dối mình không có con. Nhưng ở trong rổ, trứng đã lên tiếng. Bố mẹ ngượng quá bảo trứng sao không biết xấu hổ, trứng đáp: - "Con như thế nào cứ nói như thế ấy, ai yêu thì tới, không yêu thì thôi". Hôm sau trứng cởi lốt đi làm đồng gặp cô gái, cô gái rình biết sự thực, bèn đến nhà mách cho bố mẹ trứng biết. Bố mẹ chờ khi con chui ra khỏi vỏ thì lẻn đến lấy vỏ giấu đi. Từ đó trứng không biến được, đành mang dạng người và cưới cô gái làm vợ. 6. Truyện của dân tộc Lê (Hải-nam) cũng mang tên Sọ dừa: Một bà già sinh được năm đứa con, bốn người đầu đều khôi ngô mạnh khỏe, chỉ có con út như một trái dừa nên đặt tên Sọ dừa. Bà ta vứt sọ dừa xuống sông. Một ông lão vót được bền đem về nuôi. Lớn lên Sọ dừa xin đi chăn trâu. Lại xin đi chặt tre về đan rổ rá. Con gái ông lão xinh đẹp mang cơm cho Sọ dừa ăn, một hôm nấp một chỗ rình xem thì thấy từ trong trái dừa xuất hiện một tràng trai trẻ và đẹp. Cô rất ngạc nhiên và cũng rất vui mừng. Về sau hai người yêu nhau và lấy nhau, sống rất sung sướng . Những truyện có mô típ người (nữ) kết hôn với vật (nam) và vật mang hai giai đoạn biến hóa: người đội lốt vật, vật trở thành người là kiểu truyện khá phổ biến ở nhiều dân tộc. Sau đây là một số truyện của các dân tộc an hem, hình tượng đã thay đổi đi nhiều nhưng vẫn còn rõ nét. Truyện của đồng bào Ê-đê Chồng cóc: Một hôm YRít đi làm rẫy bắt được một con cóc vàng đem về toan làm thịt. Nhưng cóc bảo để mình sống sẽ giúp chăn gà giữ lúa cho. YRít bèn giữ cóc lại nuôi bảo trông coi thóc phơi. Cóc làm tròn, vì khi nào sắp mưa cóc đều biết trước. Một hôm trời thình lình đổ mưa, cóc nhờ cô hàng xóm là Hơ-bia chuyển thóc hộ. Hơ-bia không đáp nhưng cũng rình xem cóc làm ăn thế nào. Cóc gọi mãi Hơ-bia không được bèn hóa thành một chàng đẹp khỏe, chuyển thóc trong một nhoáng là xong. Đoạn trở lại lốt cóc. Từ đấy Hơ-bia ốm tương tư, bà mẹ tra gạn mãi, biết con gái mê cóc, mới cho hai bên lấy nhau, chia cho một cái nồi đồng đã rạn rồi đuổi đi. Đến một đám rừng hoang, cóc hóa phép thành một tòa nhà rất đẹp có đủ các thứ của cải, người hầu và súc vật. Hơ-bia thấy vậy liền lẻn vào xé lốt cóc. Từ đó cóc giữ mãi hình người và giàu có nhất vùng. Hai vợ chồng có đông con cháu . Truyện của đồng bào Ja-rai (Djarai) Chàng lợn. Bà già Pôm ở với cháu gái là Lúi (lúi = út). Một hôm Lúi cùng bà đi hái bong, nhân khát đi tìm nước. Thấy một cái nấm có nước đái lợn rừng, nàng không nghe lời bà, uống nước ở cái nấm ấy về nhà tự nhiên có mang, đẻ ra được một con lợn. Vì xấu hổ cho cháu, bà Pôm chôn lợn nhưng mấy lần đắp đất kỹ càng, về nhà đã thấy lợn về trước rồi. Nghe tin Lúi đẻ lợn, pơ-tao là tù trưởng giàu có đến xem, bà cháu nói dối nhưng lợn đã tự khai cho pơ-tao biết. Khi pơ-tao về không mang lợn theo nhưng thấy lợn nằm gọn trong gùi, mấy lần pơ-tao bắt trả về cho Lúi nhưng khi về đến nhà mình, lợn đã có mặt ở đấy rồi, pơ-tao đành phải nuôi lợn. Pơ-tao có con gái đẹp là Hơ-bia thường đi chăn trâu đàn. Một hôm bận đi tát cá, lợn xin đi chăn thay. Không ngờ lợn chăn giỏi, Hơ-bia đi rình thấy lợn lột xác thành một chàng trai tuấn tú, nhưng khi hỏi lợn, lợn làm cách không biết. Hơ-bia xin cha chuẩn bị lễ cưới để lấy chồng - một người mà nàng chưa chịu nói tên. Đến khi chuẩn bị xong, cha hỏi lấy ai, nàng nói là lấy lợn. Lợn làm bộ từ chối để cho Hơ-bia nằn nì mãi, mới nhận lời. Hôm ăn cưới không đi lấy nước kịp để đổ vào rượu cần, lợn chỉ múc một ống nước nhỏ nhưng rót mãi không hết. Một hôm dân làng đi săn, lợn hỏi thì họ giễu cợt, Hơ-bia phải an ủi chồng, nhưng chuyến ấy dân làng chẳng săn được con thịt nào, trừ một con đã bị hổ ăn mất một nửa. Đến lượt lợn cùng em vợ đi săn thì được thịt nai phơi đầy cả một nhà. Hôm khác dân làng đi dỗ voi, chỉ dỗ được một con voi què. Đến lượt lợn đi. Lợn trèo lên đầu con voi chúa đàn. Voi chúa chạy và làm đủ mọi cách nhưng lợn vẫn không rơi. Sau voi lặn xuống suối một tháng để đuổi lợn, lợn ngâm măng cho thối bỏ lên đầu voi, bảo voi nếu lặn lâu thì thối mất đầu. Voi sờ lên thấy thối, tưởng thật bèn chịu hàng lợn, đem cả đàn voi về. Dân làng từ đấy mới phục lợn. Một hôm cùng vợ đi tắm, lợn nhường mãi không được phải tắm trước, Hơ-bia bèn dấu lốt, lợn đành phải làm người. Khi Pơ-tao già giao quyền và của cải cho lợn . Đồng bào Ba-na (Bahnar) có hai truyện đều có phần giống với truyện Chàng lợn vừa kể. Truyện thứ nhất: Nàng Hơ-lúi (Hơ-lúi = út). Nàng Hơ-lúi mồ côi, chưa chồng, một hôm đi hái bông với bạn, nhân khát quá chạy vào rừng tìm nước uống. Tự nhiên có suối nước hiện ra cho nàng giải khát và tắm, rồi lại biến mất. Từ đấy có mang bị bà đuổi lên rừng. Đủ cữ, nàng đẻ ra một con cóc. Cóc nghiến răng thì trời chuyển động và có tiếng nói vang lên: "Phải mang con của Hơ-lúi về nuôi cho đến chết". Bà Hơ-lúi nghe thế sợ quá, đem cóc về nuôi. Một năm trời đại hạn, mọi người đều khổ vì thiếu nước. Giữa lúc cậu của cóc đến chơi, cóc nghiến răng, trời mưa như trút, cóc lại hóa thành chàng trai, được dân tôn làm tù trưởng và cưới vợ cho. Một hôm cóc làm con diều sáo, thả lên tiếng vang rất xa làm cho Hơ-bia, con gái pơ-tao (tù trưởng) sinh ra tương tư. Pơ-tao cho người đi dò la để mua diều nhưng cóc không bán. Mời cóc đến chơi thì Hơ-bia hết bệnh, nhưng cóc đã có vợ, nên Hơ-bia đành phải xin bố cố mua cho được diều. Pơ-tao phải đem tất cả đàn súc vật: voi, trâu bò ngựa để đổi. Cóc làm phép bỏ đàn gia súc vào ống điếu của mình đưa về, từ đấy trở nên giàu mạnh. Truyện thứ hai: Cóc và Bia Phu. Con gái của bà Xóc-ia là Bơ-rông-hia phơi thóc ở đường cái. Voi của Đăm Phu đi qua dẫm phải. Bơ-rông-hia tức mình mắng chửi, nhưng vì sợ, hóa thành cái sọt. Đăm Phu tìm không được đái vào nồi cơm. Bơ-rông-hia không biết, ăn phải cơm, tự nhiên có mang - hình ảnh này giống với các dị bản của truyện Chàng lợn ở trên - đẻ ra một con cóc. Một hôm bác cóc tới chơi, nhà cóc nghèo, nhưng cóc đã làm phép cho một quả bầu lấy gạo mãi không hết. Sau đó cóc theo về nhà bác, nhưng bác không cho vì sợ người ta cười. Cũng như truyện Chàng lợn, bác của cóc về dọc đường mấy lần phát hiện ra cóc ngồi trong ống tên của mình, mấy lần đuổi cóc về nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng bác phải cho đi nhưng buộc cóc khi đến nhà mình phải ngồi trong buồng kín không được đi đâu. Cóc không đi đâu nhưng lại ước cho các cô gái đến nhà bác nườm nượp để tìm mình. Cuối cùng bác cóc đành cho cháu ra tiếp. Trong số các cô gái có Bia Phu đẹp nhất vùng quyến luyến cóc. Đêm ấy, cóc ước cho mọi người đi vắng, trừ Bia Phu. Nghe tiếng đàn của cóc - bấy giờ đã hóa thành chàng trai tuấn tú - ở nhà "Rông", lòng Bia Phu không yên phải tìm cho được người gảy, nhưng khi nàng đến thì chàng trai đã hóa thành cóc. Mấy lần đi đi về về như vậy nhưng Bia Phu vẫn yêu cóc, dần dần sinh ốm tương tư. Thấy vậy, bố nàng cho mời các chàng trai đến nhưng chỉ làm cho bệnh thêm nặng. Khi cóc đến thì Bia Phu lại lành như không có việc gì. Thấy con một hai đòi lấy cóc làm chồng, bố mẹ nàng đành phải gả rồi đuổi đi sau khi làm lễ cưới rất đạm bạc. Nhưng cũng như truyện Ê-đê, đến một khu rừng, cóc hóa phép hiện ra nhà cửa, trâu bò, lúa gạo và nô lệ. Vợ cóc đẻ một trai gọi là Đăm Pen lớn như thổi. Một hôm Bia Phu bảo con đi mời ông bà ngoại đến chơi. Ông bà ngoại bắt phải đắp một con đường lớn có voi đứng nối đuôi nhau mới chịu đi. Cóc hóa phép làm ngay. Họ ở nhà rể ba ngày, được ăn toàn của ngon vật lạ. Khi ra về được rể tặng một con trâu bé tý, bố vợ cóc thèm lấy, còn lấy điếu gõ vào đầu cho trâu chết, nhưng càng gõ trâu càng lớn như thổi, cuối cùng to bằng con voi, phải nhận. Về sau khi ông bà ngoại mời cháu đến chơi, Đăm pen cũng đòi họ phải làm như họ đã thách đố bố nó trước kia. Nhưng dù cố sức đắp, đường vẫn hẹp, voi thì không đủ. Khi Đăm Pen trở về, ông bà ngoại cũng tặng một con trâu mộng, nhưng nó không chịu nổi một cái gõ vào đầu bằng ống điếu của chàng . Truyện của đồng bào Ka-dong: Chàng cóc. Một nhà nọ có chín cô con gái đẹp, trong đó có cô thứ ba là Di Dật đẹp hơn cả. Một hôm nhân khát quá, Di Dật thấy giữa hòn đá tảng có nước ngọt bèn uống (thực ra đó là mưu kế của thần Nước). Từ đó nàng có mang đẻ ra một con cóc. Bị làng xóm đuổi, cô đưa cóc vào rừng, và nhờ phép của cóc có hàng trăm người hiện ra làm rẫy cho. Cóc xin đi chăn trâu cho chúa làng. Ở đây mỗi lần chăn, có ném quả ké lên đầu trâu đánh dấu, và bảo trâu cứ ra đồng ăn lúa cho no, ăn xong cóc hóa phép cho lúa mọc như cũ. Sau ba năm, cóc lấy công một con trâu trắng (tức gà trắng), rồi hóa phép làm cho chỗ ở của mình thành một làng giàu thịnh đông đúc. Sau đó, cóc đi tìm bố (tức thần Nước) rủ bố đi xem hội đâm trâu để được gặp mẹ, và làm lễ cưới cho bố mẹ tại làng mình. Cóc biến thành chàng trai đẹp đi kiếm vợ. Hai cô gái của Vu Dơ-ría rất đẹp, tuy đã đính hôn với Dơ-róc Dơ-rây nhưng nghe tiếng cóc, hai cô cũng như trai gái trong làng đều mê mệt, quên hết tất cả. Hôm Dơ-róc Dơ-rây làm lễ cưới, cóc làm cho hai cô gái theo mình. Tức giận, Dơ-róc Dơ-rây làm một trận bão ghê gớm. Cóc hóa làm rắn chặn gió bão, Dơ-róc Dơ-rây định giết, bị cóc - bấy giờ đã hóa thành chàng trai to lớn - đánh bại. Hai bên còn đánh nhau suốt một năm, cuối cùng cóc chém được kẻ địch. Về dọc đường, cóc gặp Cầu-vồng là bố Dơ-róc Dơ-rây, lại đánh nhau. Sắp thua, cóc nhờ mưu mẹo của bồ câu, chém được Cầu-vồng đổ sụp, tước lấy binh phép. Cóc còn tiếp tục đánh nhau với Hàm-răng-ma. Và sau đó đánh nhau với thằng lùn cũng đều nhờ bồ câu mà thắng lợi. Sau chiến công đó cóc làm cho làng trở lại giàu thịnh và cưới hai cô gái của Vu Dơ-ría về làm vợ . Truyện của người Mèo: Ếch lấy con vua Có ba cô gái rủ nhau đi câu. Cô thứ ba gánh giúp cho một ông già tận tình hơn, ông già dặn cả ba cô câu được con gì thì giữ con đấy mà nuôi, sẽ có ích. Hai cô kia câu được một tôm một cua mang về nướng ăn, chỉ có cô thứ ba câu được con ếch, đem về nuôi trong một cái hòm giấu không cho ai biết, hàng ngày lại cho ếch bú. Thấy con gái mình xanh xao, bố mẹ căn vặn, cô nói thực. Bị đuổi, cô mang ếch đi xa dựng lều lên ở. Ếch xin đi chăn trâu cho vua. Được ba ngày, ếch về đòi lấy con gái vua. Mẹ nuôi bảo hãy làm cho công chúa bằng lòng đã. Nhờ có tiếng nhị, ếch đã làm cho công chúa mê, nhưng mấy lần công chúa đều không biết là ếch. Một hôm nàng giả vờ ẩn để rình thì thấy ếch hóa thành một chàng trai kéo nhị, thấy động, chàng trai lại chui vào lốt ếch. Ếch lại về bảo mẹ đi hỏi công chúa cho mình. Mẹ đi lại mấy lần đâm ngại, bèn quay về nói dối là vua không gả. Sau cùng, vì sợ ếch liều mình, mẹ phải đến nói với vua, vua lúc đầu không chịu gả, nhưng công chúa đòi ăn lá ngón, đành phải nhận lời. Một lần, có vua nước láng giềng mang quân sang xâm lược. Nhờ có rể ếch, vua thắng trận, về sau vua nhường ngôi. Người mèo còn có một truyện khác Chàng rắn kết hợp một phần truyện Lấy chồng dê với một phần truyện Tấm Cám: Một ông già vợ chết sớm sinh được ba cô con gái. Một hôm, vì kiệt sức không bẩy nổi hòn đá, ông bèn ước: - "Giá có ai giúp, ta sẽ gả cho một đứa con gái". Một con răn hiện ra xin làm giúp, và sau khi công việc xong, nó giục ông thực hiện lời hứa. Đưa rắn về nhà, ông già lần lượt hỏi ý kiến các con, chỉ có cô gái thứ ba ưng thuận, hai bên thành vợ chồng. Rắn cũng hóa thành người. Ông già một hôm bắt được lốt rắn bèn giấu đi. Hai vợ chồng đẻ được một con trai, đặt tên là Măng Dư. Hai chị thấy chồng em đẹp bèn lập kế giành. Ở đây họ không rủ em đánh đu mà rủ em đi cắt cỏ ngựa, rồi đẩy xuống hang cho chết. Rắn về thì chị cả đã nằm sẵn giữa giường. Rắn hỏi : - "Sao chị lại nằm ở đây?" - "Tôi là vợ anh, anh hoa mắt hay sao?" - "Nếu là vợ thì mang giỏ cá mọi ngày lại đây xem có đúng không?". Chị cả mang lại, rắn bảo không đúng. Đáp: - "Giỏ mọi ngày mèo thấy mùi tanh tha đi rồi". Măng Du lại nói: - "Mẹ mọi ngày vào cửa lọt, hôm nay sao vào cửa còn rộng ". Đáp: - "Vì mẹ làm nhiều nên gầy". Tuy vậy, rắn cũng ăn ở với chị cả, đẻ được một con. Từ đấy truyện giống với phần cuối truyện Tấm Cám. Vợ rắn hóa thành chim, một hôm bay đến cửa gọi con: - "Chị của mẹ giết mẹ tranh chồng". Con mách với bố. Rắn bảo chim: - "Có phải vợ thì đậu xuống đây". Chim đậu vào tay, rắn mang về nuôi ở buồng. Chị cả bắt chim làm thịt, cho con mình một miếng, Măng Dư một, và dành cho chồng một. Rắn về hỏi thì đáp: - "Vì chim mổ mắt con nên làm thịt". Rắn ném miếng thịt vào bếp, miếng thịt hóa thành cái kéo. Một bà hàng xóm đi xin tro xúc cả kéo đưa về. Hàng ngày kéo cũng hóa thành người từ trong tráp chui ra, dọn dẹp nhà cửa lo cơm nước sẵn sàng. Bà già cũng giả vờ đi, rồi nửa đường lộn về bắt được, từ đấy nuôi làm con. Măng Dư sang chơi, thấy giống mẹ bèn về mách bố. Bố bảo con nhổ trộm một sợi tóc đưa về. Khi biết là vợ, rắn bảo con tìm cách dẫn về. Hai vợ chồng gặp nhau, nhưng vẫn còn giấu hai chị. Rắn bảo vợ hàng ngày cài cửa buồng lại. Một hôm vợ quên đóng cửa, cả hai chị đều vào. Chúng nó ngỏn nghoẻn: - "Em làm cách gì mà tóc dài đẹp thế?", đáp: - " Nấu một chảo nước thật sôi, bắc ba cái ghế đứng lên rồi xõa tóc mà gội". Hai chị tranh nhau trèo, ghế đổ, rơi vào chảo chết tuốt . Kiểu truyện như trên cũng phổ biến ở một số dân tộc. Chẳng hạn, truyện của đồng bào Thổ (Tày): Vợ chàng Rắn. Một ông già có hai (có người kể bốn) cô gái. Một hôm đi tát nước, bỗng thấy một lỗ rò làm cạn hết nước đã tát. Lấp thế nào cũng không ăn thua. Ông bèn ngồi đè lên, bỗng như có cái gì giữ chặt không cất mình lên được. Ông khẩn: - "Nhà tôi có con gái, tha cho tôi, tôi sẽ gả cho một đứa". Một con rắn theo ông già khi ông về. Cũng như truyện trên, cũng có cô út bằng lòng lấy rắn. Rắn cũng bỏ lốt thành người, và cuối cùng cũng bị vợ giấu lốt. Hai vợ chồng đẻ được hai con. Cô chị cũng ghen tức khi thấy chồng em đẹp trai nên cũng lập tâm giết em bằng cách bảo em trèo khế hái quả rồi chặt cây cho rơi xuống ao chết đuối. Rồi chị cũng ăn mặc giả làm em về nhà ở với chàng rắn, mặc dầu bị cả nhà hắt hủi vì họ biết rằng không phải vợ rắn. Trong ao mọc lên một hoa sen trắng, một hôm người giữ ngựa cho chàng rắn đi qua, nghe có tiếng gọi từ ao: -"Anh cắt cỏ ngựa, anh có thấy hai đứa con tìm mẹ và chồng tìm vợ không?". Lấy làm lạ, anh về kể cho chủ biết. Chàng rắn đến, nghe tiếng vợ bèn lội xuống ao ngắt hoa sen đem về, ngắm không chán mắt. Thấy vậy, cô chị rút cánh hoa quẳng đi, một con gà ăn cánh hoa. Chàng rắn nuôi gà trong một cái lồng đẹp hàng ngày chăm chút. Gà lại bị giết thịt. Chàng rắn không ăn thịt mà ném ở sau nhà, lại mọc lên một cây khoai sọ. Khoai sọ đến lượt bị đào nấu cho lợn ăn. Nhưng hễ cô chị đứng phía nào thì nồi sôi tung tóe làm bỏng chân. Giận quá, cô chị đổ hết ra sân. Lại mọc lên hai cây tre có bóng mát. Chàng rắn ngày ngày ra hóng gió. Tre lại bị chặt làm sào mắc màn. Lúc nào cô chị mắc màn, sào cũng đâm vào mặt. Sào lại bị quẳng vào lửa. Khói um lên làm cho cô chị đau mắt, nên giận quẳng ra đường. Một bà già đi qua nhặt về làm khung cửi. Mỗi lần bà đi vắng vải không ai dệt cứ ngày càng nhiều thêm. Bà già rình thì bắt chộp được một cô gái đang dệt: -"Tôi chỉ có thịt không có xương, bà hãy lấy đũa cả và nhiều đũa con sắc nước cho tôi uống thì tôi mới cứng cáp như mọi người được!". Từ đó, cô gái - vợ rắn - làm bạn với bà già và chẳng bao lâu lại tái ngộ với chồng và con. Ở đây cũng có đoạn kết thúc: cô chị nghe lời em nấu nước sôi tắm để được đẹp như em nhưng bị rơi vào nồi, chết . Một số truyện sau đây cũng phổ biến ở nhiều dân tộc, có kết thúc mang tính chất khôi hài, nhưng chủ yếu vẫn là những dị bản của kiểu truyện Lấy chồng dê. Truyện Lấy chồng lang của đồng bào Thái, Nghệ-an: Một chủ đất sinh được ba cô con gái. Một hôm đi gánh mạ cấy, ông già cất gánh không nổi, mới ước: "Có ba cô con gái mà không ai lấy cả, để có thằng rể nó giúp đỡ ta. Ai gánh hộ gánh này ta sẽ gả cho một đứa". Bỗng nghe sau lưng có tiếng nói: - "Có thực thế thì để tôi gánh cho". "Ai thèm nói láo". Nhưng khi ngoảnh lại thì chỉ thấy một con lang, ông cũng để cho nó gánh. Lúc về nhà ông cũng lần lượt hỏi ý kiến ba con, chỉ có cô thứ ba ưng thuận. Hôm cưới, lang vào buồng trút lốt thành một chàng trai đẹp. Hai vợ chồng yêu nhau và nhờ chồng lang chăm làm, họ trở nên giàu có. Hai chị thấy thế tiếc quá, một cô bèn bảo bố tìm cho mình một con lang để làm chồng. Người bố nhờ dân làng đi săn được một con đưa về. Đêm động phòng, lúc đầu bố nghe con từ trong buồng gọi ra: - "Ối bố, nó lấy móng cào chân con". Bố đáp: - "Nó giỡn chơi chứ can gì". Một lát sau lại nghe: - "Nó cào hai cánh tay con".- "Nó giỡn ấy mà". Lại một lát: - "Nó cào ở hông, lòi ruột ra rồi, con chết mất". "Sắp đến lúc con thỏa lòng mong ước đó". Lâu rồi không thấy con gọi nữa, người bố cho là con đã ngủ yên với chồng, nhưng sáng dậy mới biết là con đã chết mà lang thì trốn biệt Truyện Chàng dê của dân tộc Mèo: Một con dê thần có nhiều phép biến hóa, một hôm giữ lốt dê vào nhà một ông quan có hai cô con gái đẹp, hỏi một cô làm vợ. Dê nói mãi, quan bất đắc dĩ gọi hai cô con gái ra hỏi. Cô chị chê, cô em ưng thuận. Quan đòi nhiều vàng bạc, châu báu mới gả. Sáng dậy đã có đủ, lại có cả tiệc dọn toàn của ngon vật lạ đãi họ hàng. Dê ở gửi rể, tối là người, ngày là dê. Một hôm vợ nhân chồng ngủ say lấy lốt dê để đốt đi. Từ đấy vĩnh viễn là người, sinh con đẻ cháu đông đúc. Người ta nói ngày nay họ Giàng (do chữ dương - dê) là dòng dõi của dê thần. Còn cô chị thấy em sung sướng, tiếc quá đòi bố lấy chồng dê. Một hôm có con dê thật đến, cũng như truyện trên, cô bắt lên giường, nó nhảy lung tung, đạp rách chăn màn, xô đổ đồ đạc, lại húc cô ngã lăn ra phải kêu cứu . Một chuyện Ly chồng dê khác của người Vệt sưu tầm trong thời gian gần đây: Có hai chị em Dương và Bạch ở chung nhau. Chị xấu hơn em cả về nhan sắc lẫn tính nết, thường ghen tị và bạc đãi em. Một hôm, cả hai cùng đi dự hội nhà vua tuyển cung phi. Em trúng tuyển. Khi Bạch đi qua khu rừng để tiến cung thì Dương đội lốt beo bất thình lình nhảy ra vồ Bạch, làm cho Bạch sợ hãi quay trở về. Trong khi đó Dương lên đường vào cung nói dối mình là Bạch, nhưng không đắt vì vua thấy xấu xí, đuổi về. Một hôm Bạch đốt than để sưởi, làm cháy mất chăn của Dương, bị Dương đuổi ra khỏi nhà. Dọc đường Bạch gặp một con dê lông vàng. Dê bảo nàng theo mình rồi đi kiếm hoa quả cho nàng đổi gạo. Thực ra dê chính là người nhà trời bị Ngọc Hoàng bắt làm kiếp dê vì có tội. Đến hôm hết hạn, dê trút lốt trở thành một chàng trai tuấn tú. Hai bên kết thành vợ chồng, sống sung sướng giàu có. Dương ngày một nghèo khổ, nghe tin Bạch có chồng giàu thì đến nhà nhờ vả và hỏi thăm. Nghe Bạch kể, Dương cũng hy vọng được như em, bèn mua một con dê đực lông vàng về ở chung. Nhưng dê này đã làm cho cô ả nhiều phen xấu hổ, làm cho cô toan treo cổ tự tử. Vừa lúc vợ chồng Bạch tới cứu và sau đó giúp cho nàng làm lại cuộc đời . Truyện sưu tần ở Miến Điện (Myanmar): Hoàng tử rắn. Một bà già thích ăn quả vả, thấy một con rắn nằm vắt ở cành, bèn bảo nó rung cây cho mình nhặt, hứa sẽ gả con. Được ăn, bà già lờ đi tuốt. Lần lượt gặp cừu, cá chép, gà trống và cho mỗi con một quả, dặn có ai hỏi thì trả lời: - "Không có ai qua đây cả". Rắn đuổi theo, dọc đường hỏi thăm mấy con vật trên, chúng nó giấu nhưng giấu không nổi. Vào nhà bà già, rắn cuốn vào tay đòi giữ lời hứa. Bất đắc dĩ bà già phải gọi ba con gái ra hỏi. Chỉ có cô ba ưng thuận. Bà cho rắn nằm trong bồ treo ở đầu giường. Khi rình thấy rắn trút lốt thành người thì bà bèn lấy quẳng vào lửa. Rắn cho biết mình là con vua núi phạm tội hóa rắn, chỉ khi nào gặp người lấy làm chồng mới trở thành người. Từ đó người ta gọi là hoàng tử rắn. Hai chị hối tiếc, buộc mẹ đi tìm rắn làm chồng. Bà già lên núi bắt được con trăn đang ngủ mê đem về bỏ bồ treo trên đầu giường chị cả. Đêm lại trăn tỉnh giấc nuốt cô gái. Bắt đầu nuốt chân, cô gái kêu: -"Ôi, rắn cắn chân con". Bà già trả lời: - "Nó đùa đấy". Một lát: -"Nó ăn đến đầu gối con" - "Nhảm nào."- "Ăn đến bụng rồi, con chết mất!"- "Không can gì". Không thấy tiếng con nữa, bà già cho là con đã hết sợ chồng rắn. Lát sau vào thấy con trăn to phình nằm giữa nhà, bà già vội hô hoán ầm ĩ. Hoàng tử rắn chạy vào chặt đầu trăn, rạch bụng cứu chị ra nhưng vì vấy máu trăn, nên hóa thành rắn trở lại. Tuy vậy chỉ ít lâu chàng lại được trời cho trở thành người, vì có công liều mình cứu người. Đoạn sau giống hẳn với kết thúc của truyện Lấy chồng dê. Hoàng tử rắn có việc đi vắng sau khi trao cho vợ đá lửa và dao, rồi hai chị bày trò đánh đu xô em và con em xuống nước, hai mẹ con lọt vào bụng cá, rồi phải sống ở hoang đảo và gặp lại chồng. Cuối cùng được chồng giấu vào hòm đem hòm biếu hai chị: hai kẻ gian ác kinh hoảng vì tận mắt thấy mưu gian bại lộ, đâm đầu xuống nước chết . Truyện của đồng bào Tày Con rùa vàng: Một người đầy tớ gái của chúa làng có mang vì nuốt phải chiếc cúc áo bằng vàng nhặt được. Cô sinh được một con rùa vàng trước sự hắt hủi của chúa làng. Cũng như Sọ dừa, rùa lớn lên bị chúa làng bắt đi chăn trâu, số trâu không thể đếm xuể. Rùa làm tròn phận sự. Các cô gái chúa làng không chịu đưa cơm cho rùa, trừ cô thứ năm. Nhưng ở đây rùa lại thường trổ tài bay lượn trên không cho cô năm xem và đưa cả cô bay lượn với mình. Khi ở trên không, cô thấy rùa hiện thành một chàng trai trẻ. Từ đó hai bên yêu nhau. Rùa giục mẹ đi hỏi con gái chúa làng làm vợ. Lần đầu bà mẹ sợ, lúc đến nhà không dám nói thật, chỉ nói xin lửa. Lần thứ hai nói thật, bị chúa làng bỏ lên gác bếp. Lần thứ ba, bà bị bỏ lên cối xay quay, nhưng đều được cô năm che chở. Lần cuối cùng chúa mới hỏi các con gái, nhưng cô nào cũng từ chối, trừ cô năm. Ở đây chúa làng thách cưới: một ngựa chín hồng mao, gà trống chín cựa và mười hai ống mỡ châu chấu. Bằng môt tiếng nổ như sét, rùa hóa phép mọi thứ có đủ. Trong lễ cưới, rùa còn hóa phép làm cho buồng sáng như lửa, rồi lại làm cho mọi người câm một lát. Ở đây cũng có tình tiết các cô chị vợ đến rình ở buồng chú rể cô dâu, và khi thấy rùa là một chàng trai đẹp thì về đòi chúa làng lấy cho mình mỗi người một tấm chồng rùa. Họ quả lấy được rùa thật, gây cười cho mọi người. Sau đó vì ghen tức, các cô chị bày mưu giết em rể rùa, bèn đặt bẫy ở đường đi. Rùa mắc bẫy, máu chảy thấm cả áo. Đưa áo cho vợ, rùa dặn lúc nào mình sắp chết thì mặc áo vào sẽ được lên trời, vợ chồng sẽ gặp nhau. Vợ rùa sau đó được một ông tiên mách đường lên trời. Dọc đường nhờ được xem một cuộc chiến đấu giữa cáo và rắn, nàng tìm được vỏ cây cải tử hoàn sinh. Mang vỏ cây đi, nàng cứu được nhiều người và vật sống lại. Một hôm nàng chữa cho một chàng trai khỏi chết mà không biết đó là chồng. Nàng mang áo chồng lên đầu suối để giặt. Dòng nước có máu trôi xuống quyện lấy chân chàng trai. Biết là máu của mình, anh đi ngược dòng tìm gặp vợ. Hai vợ chồng mừng rỡ, từ đó ở lại cõi trời. Ông mặt trời bảo hai vợ chồng rùa xuống cõi trần gian hun chết bốn cô chị gian ác. Cho nên từ đó về sau, cứ đến ngày 27 tháng Sáu là ngày mặt trời nóng hơn cả . Một loạt truyện khác cũng là dị bản của chuyện Lấy chồng dê và Sọ dừa nhưng ở đoạn kết, hai vợ chồng bị chia ly vĩnh viễn (hoặc một thời gian) vì người vợ đốt bỏ lốt vật (hoặc lộ bí mật) của chồng. Truyện Lấy chồng dê trong Ngìn lẻ một đêm: Một ông vua cho ba nàng công chúa kén chồng bằng cách ném khăn vào đám hội thanh niên, khăn rơi vào ai thì người ấy sẽ là chồng. Riêng công chúa thứ ba lần lượt ném ba lần đều rơi trúng đầu một con dê. Nhưng khi động phòng hoa chúc thì dê biến thành một chàng thanh niên tuấn tú. Chồng dặn vợ chớ tiết lộ bí mật, nếu không sẽ có nguy cơ chia ly. Một hôm nhân ngày sinh nhật vua, người ta tổ chức đấu võ: hai người chồng của hai công chúa chị thắng tất cả mọi người, nhưng không ngờ bỗng xuất hiện một thanh niên lạ mặt đánh cho hai người kia thua. Ba lần chàng thanh niên đó giật giải là ba lần công chúa ném hoa vào người. Việc đó làm cho vua cha nổi giận vì cho rằng công chúa ba phải lòng chàng trai lạ mặt. Bất đắc dĩ, nàng phải thú thật. Nhưng từ đó không thấy chồng dê trở về, công chúa ba sau những ngày than khóc, mở một nhà tắm cho tất cả phụ nữ đến tắm không phải trả tiền nhưng buộc mỗi người kể một chuyện về nỗi khổ của mình. Một bà già đến tắm cho biết một hôm bà đang tắm ở suối, bỗng thấy một con lừa đeo hai cái cong không có người đi theo. Bà ta liền theo sát con vật, thấy nó vào một cái hang, sau khi đạp chân ba lần lên một tảng đá. Bước vào, thấy bếp ăn rất sang, mùi thơm ngào ngạt nhưng không có người. Bà đụng đến món nào cũng có tiếng nói phát ra: - "Không được, món này là của bà chủ tôi". Bà vào đến một phòng, bỗng thấy có bốn mươi con dê, trong đó có một con đầu đàn biến thành người. Họ ngồi than thở, vì bà chúa không đến được. Sau đó, họ lại biến thành dê và đi ra. Nghe chuyện công chúa ba bảo bà già đưa mình đến nơi đó, quả được gặp chồng . Một truyện khác của người Mèo Nhảy vào lửa cứu chồng. Có hai chị em sinh đôi cùng đi lấy chồng trong một ngày. Cả hai cùng không có con mới rủ nhau lên núi cầu tiên. Một cụ ông xách hai lồng gà nặng nhờ họ xách giúp. Em nhận lời ngay, nhưng khi mỏi tay trao cho chị, chị không xách. Nghe họ kể nỗi hiếm hoi, ông cụ lấy ra một bông hoa tươi, dặn mỗi người chon lấy một rồi ủ ở đầu giường. Chị chọn hoa tươi, mấy ngày sau nở ra sâu róm, đem đi giết, em lấy hoa héo, nở ra một con rùa, đem nuôi. Lớn lên, rùa bắt đi hỏi con gái chúa đất. Chúa đất thách cưới nặng (ví dụ rải nhiễu trên đường đi, một nghìn ngựa quí, tám trăm lợn béo, v.v...). Rùa biện đủ. Khi đón dâu về, rùa nghỉ dưới chân giường. Nhưng rùa lại hóa thành chàng trai tuấn tú hàng ngày cưỡi ngựa theo vợ đi chợ, cùng nhau hát xướng mà không cho vợ biết. Về sau nhờ bạn mách, biết được rùa cởi lốt thành người, và biến hòn đá trắng trước nhà thành ngựa, một hôm vợ bèn lẻn về trước, đem mai rùa quẳng vào bếp. Chồng về thấy mất lốt, than: -"Trời bắt ta làm kiếp rùa chín năm, nay chưa hết hạn mà lốt đã cháy". Bèn nhảy vào đống lửa, vợ cũng nhảy theo cứu chồng. Trời thương tình cứu sống và tha tội cho cả hai . Truyện Chàng kỵ mã của Mông-cổ: Hai vợ chồng nhà nọ nghèo, hiếm hoi, cầu thần mãi mới có mang nhưng lại sinh ra được một con nhái. Được ba năm, một hôm nhái bảo mẹ làm bánh cho mình để tới dạm hỏi một trong ba cô gái con quan làm vợ. Gặp quan, nhái ngỏ lời cầu hôn nhưng thấy quan từ chối, nhái bảo: "Nếu quan không bằng lòng thì tôi sẽ cười". Quan sẵn sàng cho nhái cười, không ngờ mỗi tiếng cười của nhái làm cho đất rung chuyển, nhà cửa cơ hồ muốn đổ, quan buộc phải hứa gả cô gái lớn để nhái thôi cười. Nhưng cô gái lớn không bằng lòng nên lúc theo nhái về, cô cho ngựa nhảy vào người nhái để ngựa dẫm cho chết, lại ném thớt cối vào người nhái. Nhưng nhái tránh được và dẫn cô trả lại quan, đòi gả cô khác, không thì sẽ khóc. Khi nhái khóc thi trời đất mù mịt, nước đổ ầm ầm tràn ngập khắp nơi, quan buộc phải gả cô thứ hai. Cũng như cô chị, cô thứ hai lúc theo nhái về cũng cho ngựa giẫm và ném thớt cối vào người nhái. Nhái lại dắt cô đi trả và đòi gả cô thứ ba, không thì sẽ nhảy. Rồi nhái nhảy, làm cho núi lở cát bay, nhà cửa lấu đài lung lay. Quan đành phải gả cô thứ ba. Cô này bằng lòng lấy nhái. Một hôm trong vùng mở hội, cả nhà đều đi dự, trừ nhái. Đến ngày cuối cùng có cuộc đưa ngựa nước rút, người ta thấy xuất hiện một chàng trai áo xanh cưỡi ngựa xanh, có yên cương quý đến đua với các kỵ sĩ đã thắng cuộc. Chàng đi sau, nhưng về đích trước tiên. Không những thế, trong khi đua, chàng còn ba lần bắn chết ba con diều hâu và hai lần xuống ngựa ngắt hoa ném tặng người dự. Nhưng khi mặt trời gác núi thì chàng đã phóng ngựa quay về bỏ mặc sự mời mọc đón chào của mọi người. Sau đó, cả nhà đi dự mới trở về, họ không ngờ chàng nhái cũng biết mọi việc xảy ra ở đám đua ngựa. Năm sau nữa, đến ngày hội mọi việc cũng xẩy ra như trên làm cho vợ nhái ngờ ngợ đấy là chồng mình. Năm sau nữa, đến ngày hội cũng thế, nhưng vợ nhái thình lình nửa chừng về nhà thì thấy chồng vắng mặt, chỉ bỏ lại một tấm da nhái. Nàng bèn đốt cháy tấm da. Khi chàng áo xanh - chồng nàng - cưỡi ngựa trở về thì da đã hóa tro. Chàng cho vợ biết chàng là con thần đất, vì sức lực còn non, không có da sẽ không chịu nổi giá rét, nếu đi cầu thần được ba việc thì sẽ sống. Thần hứa cho vợ nhái nhưng lại bắt nàng phải đem ba điều đó thông báo với từng nhà cho mọi người biết trước khi trời sáng mới được. Việc báo tin này, vợ nhái không làm tròn vì bị bố nàng cản trở. Thế là chàng nhái chết, vợ nhái cũng biến thành đống đá trước mộ . Người Ấn-độ có năm truyện: 1. Một người vợ vua đẻ được một con trai giống khỉ. Lớn lên khỉ thỉnh thoảng trút lốt đi chơi. Thấy chàng trai ấy thắng nhiều trong cuộc thi, một nàng công chúa nước khác dò biết, bèn đòi bố mẹ cho lấy hoàng tử khỉ làm chồng. Lễ cưới xong, đêm lại trút lốt thành người đến với công chúa, và dặn vợ tuyệt đối chớ tiết lộ. Một hôm khi đi dự hội, trút lốt cất ở dưới gối. Công chúa nói sự thật với mẹ chồng. Mẹ chồng khuyên nàng dâu đốt bỏ. Đang đốt, công chúa thấy chồng hốt hoảng trở về trách vợ, nhưng rốt cuộc chồng vẫn không việc gì. 2. Một cô gái tên là Tu-li-sa con một người tiều phu nghèo, một hôm đi nhặt củi gần một cái giếng hoang giữa rừng, bỗng nghe một tiếng từ dưới giếng vọng lên: - "Có muốn làm vợ ta không?". Cô gái sợ, bỏ về. Lần khác qua đó lại nghe như thế, bèn về kể với bố mẹ. Bố dặn con trả lời: - "Việc ấy cứ hỏi bố tôi". Sau khi nghe cô gái nói thế, tiếng nói dưới giếng lại đáp: - "Bảo bố cô đến đây!". Khi ông bố đến, người bí mật hứa sẽ làm cho ông giàu có nếu ông gả con cho y. Người bố ưng thuận. Người bí mật đưa Tu-li-sa đến một lâu đài đẹp, nhưng cô chỉ thấy chồng vào ban đêm mà thôi. Chồng dặn vợ cấm nhận người lạ vào nhà, nhưng một hôm vợ lại đưa một bà già vào. Bà già hỏi chồng tên gì, nàng không nói được. Nghe lời xui, tối vợ lại hỏi tên chồng, chồng đáp: - "Nếu ta nói thì nguy mất". Nhưng do vợ nài mãi, chồng đưa vợ đến sông, rồi xuống nước, ba lần bảo vợ có thôi hỏi nữa không. Vợ vẫn không nghe. Chồng nói: -"Ta là Bát-xơ-nắc Dau". Rồi biến mất, được một lát nổi lên cái đầu rắn. Vợ trở lại lâu đài thì lâu đài cũng biến mất, đành trở về, hai cha con lại nghèo như trước. Sau đó Tu-li-sa cứu sống một con sóc. Một hôm sóc đến tìm, ra hiệu bảo nàng đi theo mình vào rừng. Đến một nơi, nàng nghe những con sóc nói với nhau, mới biết chồng mình là vua rắn bị bà mẹ thù oán từ ngày làm vua. Biết rằng quyền lợi sẽ lại về tay, nếu vua rắn nói rõ tên cho một người trần thế biết, nên bà mẹ sai bà già làm mẹo cho vợ vua rắn giục chồng nói tên ra. Những con sóc còn nói: nếu tìm được trứng chim hu-ma mà ấp vào lòng thì vợ chồng sẽ trở lại hạnh phúc. Nhưng còn phải đến gặp mẹ vua rắn chịu qua nhiều thử thách mới được. Tu-li-sa nhờ sóc tìm được trứng chim và đưa đến nhà mẹ chồng. Thử thách đầu tiên là tìm ra một bình thủy tinh đựng một ngàn hương thơm (trước khi đến, nàng đã giúp việc cho một con ong nên nó giúp cho nàng việc này trót lọt). Hai là nhận một vại đầy hạt cải, nhưng phải lấy ra những trang sức đẹp (nhờ sóc giúp). Khi trứng ấp xong nở ra chim, con chim này bay đến một con rắn xanh đang quấn cổ mẹ vua rắn. Phép màu tự nhiên bị phá. Bát-xa-nắc Dau trở lại làm vua và cưới Tu-li-sa . 3. Một cô gái đi tìm trâu lạc đến một lâu đài, lần lượt qua bốn cửa: đỏ, vàng, xà cừ, mã não. Cô vào một phòng đẹp, trên bàn có nhiều trang sức đắt tiền. Một con chim lớn lông trắng bảo lấy nó thì nó sẽ tìm trâu cho. Cô từ chối trở về. Ngày mai cô thứ hai và ngày sau nữa đến lượt cô thứ ba đến đều gặp những việc như trên. Cô sau này nhân lời ở lại. Ít lâu sau trong một ngày lễ lớn, một bà già nói với cô là có một chàng kỵ sĩ nào đó được mọi người trầm trồ, chẳng qua là con chim - chồng cô - biến thành. Vậy muốn giữ mãi dạng người thì phải đốt cái nhà chim (vô-jen-hu-jơ). Cô đốt, chim hiện ra nói: - "Ôi, đó là hồn ta, ta chết mất!". Chim biến đi, trở về xứ thần và quỷ. Vợ bỏ đi tìm chồng. Trải qua nhiều gian khổ, vợ gặp chồng trên lưng có một gói giày, Hỏi thì chồng bảo là phải đi xách nước cho thần và quỷ dùng, nên đi vẹt hết rất nhiều giày. Muốn chồng trở về phải sửa lại "cái nhà chim" và gọi hồn về. Cô gái trở về làm theo lời dặn, quả chồng lại xuất hiện. 4. Vua Prê-ma-xê-na có một công chúa đẹp tên là Ma-đa-na-rếch-kha và hai con trai nhỏ. Một hôm hoàng tử anh ở trên bờ sông bỗng nghe có tiếng: - "Nếu vua không gả con cho ta, tai họa sẽ đến cả thành phố và vua". Lúc về kể lại nhưng không ai tin cả. Đến lượt hoàng tử thứ hai lại nghe tiếng nói trên. Vua hỏi các cố vấn, cố vấn bảo cho người đến sông nọ hỏi câu: - "Là thượng đế, là thần hay là người?". Hỏi xong liền có tiếng đáp: - "Ta là người gác cửa của thần In-đờ-ra, vì có tội phải thác sinh ở thành này làm một con lừa ở nhà một người thợ gốm. Hãy gả công chúa cho ta không thì tai họa". Vua hứa gả sau khi buộc thần làm cho một bức tường đồng bao bọc lấy thành và dựng một lâu đài. Sáng hôm sau có đủ. Thần được vợ bèn trút lốt thành người. Công chúa lấy làm sung sướng. Hoàng hậu một hôm đến thăm biết thế, bèn ném lốt vào lửa. Thần về tìm mãi không ra, bảo vợ: - Thế là ta phải về trời vì lời rủa đã mất linh nghiệm. Nói xong biến mất. 5. Hai vợ chồng người Bà-la-môn không con. Cầu cúng mãi, cuối cùng vợ đẻ một con rắn. Sau đó người Bà-la-môn hỏi con gái một người Bà-la-môn khác cho rắn làm vợ. Sau khi cưới, đêm lại rắn trút lốt thành một chàng trai xinh. Sáng dậy, người bà-la-môn vào buồng thấy lốt rắn bèn nhanh tay chụp lấy, ném vào lửa. Truyện Pxi-sê (Psychée) trong thần thoại Hy-lạp (Grèce): Một ông vua có ba nàng công chúa, trẻ và đẹp nổi tiếng là công chúa ba Pxi-sê. Hai chị đều đã lấy các hoàng tử. Bấy giờ có một lời phán truyền bảo công chúa ba phải kết duyên với một con quái vật hình giống rắn ở trên núi. Sau đó thần Gió Dê-phya (Zéphyre) đưa công chúa ba lên núi vào một lâu đài, thành vợ một người lạ mặt, chỉ đêm mới xuất hiện, nhưng nàng không bao giờ được nhìn mặt chồng. Công chúa sống sung sướng, sau đó nàng đòi gặp chị mình. Chồng cho gặp nhưng dặn phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu không sẽ đau khổ. Dê-phya đưa công chúa chị đến. Em kể cho chị biết. Chị ghen với số phận của em, bảo phải giết y, không thì rắn sẽ ăn thịt mất. Đêm, khi chồng ngủ, công chúa cầm dao nhọn và ngọn nến soi xem mặt chồng thì một giọt nến bất ngờ chảy xuống vai chồng (Đó là thần ái tình Qui-pi-dông (Cupidon)). Tỉnh dậy, chồng biến mất không trở lại. Tìm khắp nơi không thấy, công chúa phải cầu cứu tới thần Vê-nuyx (Vénus). Vê-nuyx vì thấy công chúa dám lấy con mình, bèn bắt làm mấy việc: 1/ Nhặt các thứ hạt trộn lẫn (một con kiến đã giúp công chúa việc này); 2/ Lấy một nhúm lông vàng của những con cừu hung dữ (một cây sậy giúp); 3/ Mang một cái hộp xuống địa ngục xin hoàng hậu Pro-déc-pin (Prozerpine) cho một ít sắc đẹp. Nhờ có cái tháp bày cho, lấy được, nhưng do tò mò mở ra xem nên một giấc ngủ triền miên đột nhiên đến với công chúa, may nhờ có Qui-pi-dông kịp thời thức cho tỉnh dậy. Vợ chồng gặp lại nhau. Một loạt truyện sau đây có một số tình tiết khác biệt nhưng cũng đều xoay quay đề tài người chồng kỳ diệu. Truyện Pháp Con sói trắng: Một người sắp đi du lịch, cô con gái cả xin cha đưa về cho mình một cái áo đẹp, cô thứ hai cũng thế, chỉ có cô thứ ba thì xin một đóa hồng biết nói. Hỏi khắp nơi không ai biết cả người ấy tự nghĩ: -"Nếu không có thì sao con ta lại đòi". Cuối cùng đi đến một tòa lâu đài nghe trong có tiếng hát. Tìm mãi mới thấy cửa, ông tiến vào sâu, thấy có một cây hồng có hoa đang hát, khắp nơi không một bóng người. Ông ngắt một bông. Bỗng có một con sói trắng hiện ra nói: -"Ai cho phép ngươi đến đây hái hoa, vậy ngươi phải chết!". Đáp: - "Tôi xin trả lại hoa." - "Không được, đã bẻ là phải chết." Thấy người nọ phân trần mình hái cho con gái, sói nói: - "Ta tha cho, nhưng phải mang đến đây người mà ngươi gặp đầu tiên lúc về". Người mà ông gặp đầu tiên không ngờ lại là con gái út. Nghe bố kể xong, cô nói: - "Con sẽ đi chết thay cha". Cha con lại dắt nhau đến. Sói bảo: - "Ta là tiên, bị giam, thành ra thế này, vậy phải hết sức giữ bí mật". Cha con vào phòng có cơm dọn sẵn cho ăn. Đêm sói hóa thành ông chúa đẹp, sáng trở lại thành sói. Vài ngày sau, người cha trở về. Ai hỏi, ông cũng không nói, nhưng sau không thể giấu được nữa, nói toạc tất cả. Bỗng nghe một tiếng rú rùng rợn: một con sói trắng ngã lăn dưới chân . Truyện của người Băng-la-đex (Bangladesh): Một ông vua sắp đi xa, cho người hỏi sáu con gái muốn mang gì về, họ đều muốn có trang sức và vải quý, trừ cô út đang đọc kinh bảo người hầu hãy chờ (chờ, ở đây nói là sa-brơ). Nhưng người hầu lại tưởng yêu cầu của công chúa là "sa-brơ" nên vội chạy về tÂu lại với vua. Vua không hiểu là gì nhưng cũng ra đi. Mua xong cho các con gái, vua định quay về, nhưng thuyền không tiến lên được. Sực nhớ tới lời dặn của con gái út, vua bèn sai người hầu lên hỏi ở các cửa hàng. Người ta không hiểu "sa-brơ" là gì, chỉ cho biết có một vị hoàng tử tên là Sa-brơ mà thôi. Khi hoàng tử biết chuyện, bèn đưa người hầu của vua có một cái hộp, bảo đó là yêu cầu của cô gái. Thuyền liền đi được. Đưa hộp về nhà, công chúa mở ra thấy một cái quạt nhỏ, xòe quạt thì hoàng tử hiện ra, xếp lại thì biến đi. Hai người lấy nhau. Công chúa mời bố và các chị tới dự. Các chị ghen em nên rắc mảnh chai vụn lên giường cưới. Vì thế hoàng tử bị thương nặng, nhưng vẫn không cho vợ biết, chỉ bảo vợ xếp quạt để về. Mấy ngày sau xòe quạt không thấy chồng tới, công chúa bèn cải trang thành một nhà tu ăn mày đi tìm chồng. Một hôm ngủ dưới gốc cây nghe hai con chim nói chuyện với nhau về bệnh của hoàng tử và cách chữa. Đến hoàng cung, công chúa xin vào chữa vết thương của hoàng tử, chữa lành mà chồng vẫn không biết. Khi vua thưởng thì không lấy gì cả, chỉ xin cái khăn tay và nhẫn của hoàng tử. Trở về, công chúa xòe quạt ra hoàng tử lại đến, công chúa đưa hai vật kia làm cho chồng kinh ngạc. Truyện của người Ý (Italia): Một người lái buôn giàu có sắp đi chơi, hỏi ba con gái muốn gì sẽ mang về, hai cô chị muốn trang sức, còn cô em thì chỉ muốn một cái bình cây "ruy". Lái ta ra đi quên mất lời dặn của cô con gái út. Nhưng tàu bỗng dưng mắc lại không tiến được. Cai tàu cho biết chắc trong hành khách có ai quên một lời hứa nào đó. Lái ta sực nhớ, bèn xin lên bờ tìm cây "ruy". Người ta cho biết chỉ có vua mới có cây ấy, nhưng dù chỉ xin một lá cũng bị xử tù. Lái ta xin cả cây. Vua cảm động vì lòng thương con của hắn, bèn cho cả cây, dặn mỗi chiều đốt một lá. Đưa về cô gái đốt lá như lời dặn, tự nhiên có hoàng tử xuất hiện, hai người yêu nhau. Một hôm cô đi vắng, người chị ghen ghét đốt cháy cả cái buồng của em. Cây cũng cháy. Hoàng tử hiện ra giữa lửa nên bị bỏng và bị thương vì những mảnh gương bắn phải, liền biến mất. Cũng như truyện trên, cô gái về thấy cây quý cháy, bèn cải trang đi tìm người tình. Nằm dưới gốc cây ở rừng, cô nghe một con yêu nói với vợ: - "Chỉ có lấy mỡ ở xung quanh tim chúng ta mới chữa được bỏng cho hoàng tử". Thừa lúc chúng ngủ say, cô giết cả hai. Rồi giả làm thầy thuốc đến cung đình chữa lành cho hoàng tử. Hai người lấy nhau. Truyện của ngưởi Thụy-điển (Suède): Một ông vua có ba cô gái nhưng yêu cô thứ ba hơn cả. Một đêm cô này mộng thấy một tràng hoa vàng rất đẹp. Thấy con gái buồn, vua sai thợ kim hoàn làm cho một tràng hoa vàng đúng như trong mộng, nhưng cũng không làm cho con khuây khỏa. Một hôm công chúa đi dạo trong rừng gặp một con gấu trắng trong tay có một tràng hoa y như trong giấc mộng. Hỏi mua gấu không bán, chỉ muốn lấy công chúa. Công chúa vừa nhận lời thì gấu đưa cho ngay. Ba ngày sau gấu đến như lời hẹn. Vua đã sai một đại đội vây lâu đài để cản đường gấu, nhưng nó đánh ngã tất cả. Vua lại sai hai công chúa chị cải trang để thay, nhưng gấu không bị lừa. Đành phải gả. Gấu mang công chúa về ở một lâu đài, đêm đêm hóa thành người để đến với công chúa, nhưng công chúa không thấy mặt, vì sáng ra người lại hóa gấu. Công chúa đòi về thăm bố mẹ, gấu cho đi, nhưng dặn đừng có nghe lời mẹ. Ở nhà ba ngày. Khi con ra đi bà mẹ trao cho một mẩu nến để đêm nhìn trộm mặt chồng. Cũng như truyện thần thoại Hy-lạp, khi nhìn, công chúa vô ý để giọt nến rơi xuống trán chồng, làm chàng tỉnh dậy, biến mất. Truyện của người Xi-xin (Sicile): Một người nghèo khổ, ba con gái lần lượt bảo ông đi tìm thần số mệnh của mình mà cầu xin. Người ấy ra đi, cuối cùng được một ông già tiếp. Ông già lần lượt giao cho ba con ngựa, dặn phải bán giá đắt rồi đưa tiền về cho mỗi đứa con. Con ngựa thứ ba có một ngôi sao trên đầu, ông già dặn chỉ bán cho người nào cho nó ăn mà nó chịu ăn. Đưa về, ai cho ăn nó cũng lắc đầu, kể cả vua. Một nàng công chúa thử cho ăn thì nó ăn ngay. Công chúa liền mua với một số tiền lớn, rồi cho ngựa ở trong buồng. Nguyên con ngựa này là một ông vua bị phù phép hóa thành, đêm là người, ngày là ngựa. "Vua ngựa" lấy công chúa làm vợ, nhưng dặn công chúa không được tiết lộ bí mật của mình với ai mà nguy đến tính mạng. Một hôm công chúa tiết lộ với một người bạn gái. Ngựa liền biến mất. Đau khổ, công chúa cất công đi tìm, người ta cho biết chồng ở trong một lâu đài, phải có miếng ăn từ miệng một mụ chằng mới được mở cửa. Cuối cùng công chúa cũng lọt được vào nhà mụ chằng trong lúc mụ đi vắng. Con gái mụ tiếp đãi công chúa niềm nở. Sau khi biết yêu cầu của công chúa, cô giấu công chúa vào một nơi. Khi mụ chằng về ngồi vào ăn, cô hỏi: -"Mẹ đang ăn cái gì đấy". Mụ nhả miếng ăn ra, bấy giờ đã nhai thành hình một hạt quả. Cô lấy giấu đi rồi đưa cho công chúa. Nhờ vậy, công chúa lọt được vào lâu đài, thấy chồng đang nằm mê trên một cái giường, bên cạnh có hai cái bình. Công chúa phải khóc nước mắt chảy đầy hai cái bình mới làm chồng tỉnh dậy được. Cuối cùng công chúa cũng cứu được chồng và hai người sống sung sướng. Truyện của người Chi-lê (Chilli): Một ông vua thích ăn cá tươi, buộc một ông già câu cá phải cung cấp cá cho mình hàng ngày nếu không thì chém đầu. Ông già có vợ, hai người con gái yêu và một con chó cái. Một hôm ông không câu được gì cả. Bỗng có một con cá nhỏ vẩy đỏ nổi lên mặt nước, bảo: - "Tôi sẵn sàng cung cấp cho ông đủ số cá hàng ngày, nhưng ông phải hứa cho tôi người hay vật đi đón ông trên đường về hôm nay". Ông già nghĩ chỉ có con chó thường đi đón mình hàng ngày nên nhận lời. Không ngờ hôm ấy đón ông không phải là chó mà là con gái út. Ông hết sức buồn khi nghe tiếng con cá nhắc ông giữ lời hứa. Thấy vậy, cô gái nguyện hy sinh. Cô phải ra ngồi ở một hòn đá giữa biển, đợt nước triều lên cho cá đến bắt đi. Nhưng vừa xuống nước thì bỗng xuất hiện một lâu đài đẹp có đầy đủ mọi thứ, chỉ một điều cấm kỵ là thắp đèn ban đêm. Vì thế cô biết có người nằm với mình mà không thấy mặt. Sau một thời gian, cô xin phép về chơi nhà, nhờ mẹ giúp cho một ít nến và bao diêm, cô được nhìn mặt người chồng là một chàng trai đẹp. Ở đây cũng có tình tiết chàng trai biến mất khi cô vô tình để giọt nến nhỏ vào người. Buồn rầu, cô nhờ một con chó đưa về nhà bố mẹ chồng. Lúc này cô đẻ một đứa con trai có ổ khóa ở bụng như bố nó. Sau một thời gian nghe tin chồng trở về, cô sợ tội bỏ trốn vào rừng, làm cho cá vẩy đỏ mất công tìm kiếm mãi, cuối cùng hai bên gặp nhau, cá từ đấy mang lốt người. Cuộc sống hai vợ chồng lại sung sướng. Hai dị bản của Miến-điện (Myanmar) có nhiều tình tiết khác với các truyện trên: 1. Một người đàn bà sinh được một con trai, chỉ có đầu, không tay không chân. Chồng định vứt nhưng vợ bảo để lại nuôi, cũng đặt tên là Sọ dừa. Con bảo mẹ bán mình cho một người lái buôn lấy một ngàn đồng. Khi bán rồi, Sọ bảo người lái đưa mình ra chợ cho người xem lấy tiền. Khi người lái thu được đủ số tiền bỏ ra. Sọ lại bảo bán mình cho một thuyền buôn nước ngoài lấy một ngàn đồng. Đoàn thuyền đi ra bị bão, họ định ném Sọ xuống biển. Sọ nói: - "Chớ ném. Hãy trói tôi lên cột buồm, sẽ có sự yên lành". Khi ở trên cột buồm, Sọ thổi gió cho thuyền vượt sóng bình an. Họ trả tự do cho Sọ, Sọ xin ghé ở một hòn đảo dọc đường. Đảo này có yêu tinh. Ở với chúng nó được mấy tháng. Sọ học được của chúng mấy câu phù chú. Khi thuyền buôn về qua, Sọ gọi họ ghé vào xin cho mình trở về nước. Yêu tinh biếu một túi ngọc đỏ, Sọ đem phân phát cho thủy thủ. Rồi bảo họ dẫn mình đến hoàng cung. Gặp vua, Sọ bảo nếu không gả công chúa và nhường ngôi cho thì sẽ san phẳng thành trì. Vua cười chế nhạo. Sọ lấy ra một cái hộp niệm chú, tự nhiên có hàng vạn kỵ mã vây bọc hoàng cung. Vua đầu hàng. Sọ lấy công chúa và biến thành chàng trai, cuối cùng lên làm vua. 2. Hai chị em lấy chồng, chị sinh một đứa con trai. Còn em thì một con rùa. Chị toan ném đi nhưng em cản lại, nuôi lớn và đặt tên là Rùa vàng. Anh em nhà rùa yêu nhau, đi đâu cũng theo nhau. Chàng trai xin mẹ một chiếc thuyền đi ra nước ngoài buôn bán. Mẹ cho, nhưng không cho đưa rùa theo. Rùa cũng nói mình sợ biển không muốn đi. Nhưng khi thuyền vừa ra khơi đã thấy rùa nằm gọn trong khoang. Bão làm thuyền dạt lên một hòn đảo đầy yêu tinh cái. Chúng hóa thành những cô gái đẹp, cuối cùng kết hôn với những người trên thuyền. Trong khi mọi người say sưa trong tiệc cưới, thì rùa đã nghe được lũ yêu tinh bàn nhau ăn thịt người. Rùa giấu các thứ bảo bối của chúng đi (một hộp đựng sinh mệnh, một viên ngọc giá trị một vương quốc, một cái trống bói cầu được ước thấy), rồi lén đánh thức anh và mọi người dậy kể cho biết chuyện, và đưa họ vào rừng xem xương những người mà chúng ăn thịt. Sau đó rùa đánh cắp tất cả bảo bối xuống thuyền. Lũ yêu tinh sắp đuổi kịp thì bị tiêu diệt, vì rùa kịp thời đập nát hộp chứa sinh mệnh của chúng. Thuyền cập bến một kinh thành, rùa đưa ngọc làm sính lễ để vua gả công chúa đẹp cho anh mình. Tuy được làm quan to nhưng rùa chỉ muốn về. Nhờ chồng bói, rùa về gặp mẹ, bảo mẹ tới hỏi công chúa đẹp mà có đến bảy hoàng tử đang tranh nhau cầu hôn. Vua hứa sẽ gả nếu làm được một cầu vàng một cầu bạc nối liền từ nhà rùa đến cung điện. Sáng dậy vua thấy rùa từ cầu bước vào cung, đành phải gả. Bảy hoàng tử mang quân sang đánh vì cho vua đã gả con cho một con vật hèn hạ (tương tự truyện Thạch Sanh). Nhưng với trống bỏi, rùa đã mang quân hùng tướng mạnh của mình phá tan quân bảy nước. Một đêm công chúa ngủ dậy thấy có chàng trai đẹp, và một cái lốt rùa, bèn ném lốt vào lửa. Chàng trai tỉnh dậy kêu lên: - "Ôi, tôi bị cháy!" Công chúa lật đật dội ngay một thùng nước lã. Từ đấy hai người sống hạnh phúc Tóm lại những truyện thuộc kiểu truyện Lấy chồng dê và Sọ dừa rất phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới. Ngày xưa, ở một vùng gần biển, có hai vợ chồng nhà nọ, đầu tóc đã hoa râm mà vẫn hiếm hoi. Hai vợ chồng cầu khấn khắp nơi mong có mụn con khỏi phải hiu quạnh lúc tuổi già. Thế rồi người vợ bỗng có mang, chín tháng mười ngày đẻ ra một bọc, khi mở ra thì không phải là người mà là một con dê đực. Chồng bực mình bảo vợ đem ném xuống sông cho khuất mắt, nhưng người vợ không nỡ, khuyên chồng cứ để lại nuôi. Trong lòng phiền não, người chồng phát ốm rồi từ giã cõi đời. Trái lại, dê thì hay ăn chóng lớn, lại biết trông gà, chăn lợn, giúp đỡ mẹ những việc vặt trong nhà. Vì thế, mẹ dê cũng phần nào khuây khỏa. Một hôm dê đi chơi đâu về, tới đặt đầu vào lòng mẹ nói: - Mẹ ạ! Phú ông làng bên có ba cô con gái, mẹ đi dạm cho con một cô! Mẹ dê nghe con nói không nhịn được cười, bảo: - Mày thật là đứa không biết phận mình. Đời nào phú ông lại gả con cho cái thứ dê như mày cơ chứ! Nhưng dê một hai bắt mẹ mang trầu cau đến hỏi cho bằng được. Sau cùng, thấy con vật nài hết sức, nên chiều lòng con, mẹ đành đánh bạo đến nhà phú ông. Giáp mặt phú ông, ngần ngại mãi, bà mới dám mở miệng ngỏ lời. Vừa nghe nói, phú ông đã đùng đùng nổi giận, quát mắng om sòm: - Câm mau cái con mụ này! Đồ láo! Dám vác mặt tới đây hỏi con vàng con ngọc của ta cho con dê của mụ kia à? Muốn tốt thì xéo ngay đi! Nhưng theo lời con dặn, mẹ dê vẫn cứ nhẫn nhục ngồi lại, một hai nói mãi không thôi. Cuối cùng phú ông bất đắc dĩ bảo: - Thôi được, ta cũng chiều lòng mụ gọi các con ta ra đây hỏi xem, hễ đứa nào bằng lòng lấy con mụ thì ta sẽ gả. Nói xong, phú ông cho gọi ba cô con gái đến trước mặt, rồi hỏi ngay con gái đầu lòng: - Con có muốn về làm dâu nhà mụ này không? Cô gái nguýt mẹ dê một cái rõ dài rồi hối hả đi vào, không quên buông một câu nói vội: - Úi dào, chồng người chả lấy, lại lấy chồng dê! Phú ông cười ha hả. Lại hỏi đến cô con gái thứ hai: - Còn con có ngại hắn là dê không nào? - Thưa cha, con là người không thể lấy được dê. Đến lượt cô con gái thứ ba, phú ông lại hỏi: - Còn con nữa, con cũng thế chứ? Nhưng cô thứ ba đã khép nép cúi đầu thưa: - Cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy! Phú ông chưa bao giờ ngạc nhiên đến thế. Nhưng đã chót hứa với mẹ dê, hắn không còn biết nói năng ra sao nữa. Hắn nghĩ: - "Không cần từ chối, ta cứ thách cưới cho rõ nặng, nhất định các vàng cũng không dám "chơi chèo". Hắn bèn đòi mẹ dê phải đủ sính lễ một trăm trâu bò, một trăm lợn, một mâm vàng, một mâm bạc mới được đón đâu về. Nghe nói, mẹ dê lật đật chạy về kể lại cho con nghe và nói: - Con ạ! Hãy từ bỏ ý định ngông cuồng đi thôi. Phú ông tuy nói gả nhưng lại thách cao như thế, họa có vua chúa mới biện đủ. - Đừng lo mẹ ạ - dê con trả lời - con sẽ lo được. Đêm hôm ấy, trong khi mẹ dê ngủ, thì dê bước ra sân trút lốt dê thành một chàng trai trẻ. Khi chàng hô lên: - "Lấy cho ta mọi thứ để làm sính lễ", lập tức các gia nô xuất hiện trước mặt chàng rất đông, họ đội đến đủ số vàng bạc và dắt đến đủ số trâu, bò, lợn, rồi biến mất. Chàng trai lại chui trở vào lốt dê, gọi mẹ dậy nhận đủ lễ vật để sửa soạn ngày mai đưa sang cho phú ông. Ngày rước dâu, dê bon bon đi trước, còn cô gái út phú ông lẽo đẽo theo sau cùng với hai chị. Sau khi vào buồng làm lễ hợp cẩn, cô gái bỗng thấy chồng mình trút lốt dê ra thành một chàng trai tuấn tú thì vừa sợ vừa mừng. Sáng dậy chồng lại chui vào lốt dê như cũ, rồi ra nhà ngoài. Hai người chị vợ cố nán ở lại để xem em mình ăn ở với dê ra làm sao. Nhưng khi gặp người em, họ chả thấy em có vẻ gì là băn khoăn hối hận về việc có chồng là dê cả. Không khỏi lấy làm ngạc nhiên, họ tỉ tê hỏi dò em cho ra sự thực. Vợ dê kể lại cho hai chị biết mọi việc trước sau. Đêm lại, hai chị lén trổ vách buồng của em nhìn vào quả thấy đúng như lời em nói. Họ không ngờ chồng của em lại khôi ngô trẻ đẹp vượt xa bọn con trai trong thiên hạ. Hôm sau hai chị khuyên em phá lốt dê đi để cho chồng không còn biến vào đâu được. Quả nhiên từ đấy dê chấn dứt cuộc đời đội lốt dê. Còn hai người chị thì lại hối tiếc và ghen tị với số phận may mắn của em. Hơn một năm sau, một hôm chồng trao cho vợ một con dao và một hòn đá lửa, dặn rằng: - Tôi có một số công việc phải vượt muôn trùng sóng nước, chưa hẹn được ngày về, cũng không thể đem nàng đi được. Nàng ở nhà nhớ đừng đi đâu xa. Hai vật hộ thân này hãy luôn luôn mang bên người đừng quên, có khi dùng được việc. Rồi một sáng sớm, Dê từ biệt mẹ và vợ dong buồm ra khơi. Vợ Dê ở nhà thức khuya dậy sớm, hết lòng phụng dưỡng mẹ chồng. Nhớ lời chồng dặn, bao giờ con dao và hòn đá cũng được giắt ở bên lưng. Một ngày kia, hai chị đến nhà rủ em đi trẩy hội. Vợ dê trước chối từ nhưng sau thấy hai chị dỗ mãi, bèn theo họ ra đi. Cả ba người xuống một chiếc thuyền đậu sẵn ở bến. Thuyền băng băng rẽ sóng, chị em cùng nhau vui vẻ chuyện trò. Qua ngày hôm sau, ba chị em lại quây quần ngắm mây trông sóng ở đằng mũi thuyền. Nhưng đã lập mưu sẵn, hai chị thừa lúc em vô ý bất thần đẩy em xuống biển. Vợ dê chưa kịp kêu lên thì đã bị sóng khỏa chìm nghỉm. Còn hai chị, thi hành xong kế độc, liền hối hả cho thuyền vào bờ, rồi giả bộ hốt hoảng báo tin rằng em mình không may sẩy chân rơi xuống nước. Lại nói chuyện vợ dê trong khi đang vùng vẫy có ngoi lên khỏi mặt nước thì bỗng có một con cá kình lao tới đớp ngay vào bụng. Sẵn dao bên mình nàng lập tức rút ra đâm chém tứ tung. Cá kình bị thương quẫy rất dữ dội. Nhưng vì bị thủng bụng nên chỉ một lúc sau cá đã tắt thở, nằm phơi bụng nổi lên mặt nước. Chăng bao lâu sóng biển đánh giạt xác cá vào một hòn đảo. Vợ Dê liền cầm dao rạch luôn bụng cá, chui ra ngoài. Đó là một hòn đảo hoang không có bóng người. Nàng bèn chặt cây dựng lều làm thành một chỗ ở bên bãi biển. Sẵn có đá lửa, nàng đốt củi lên sưởi, và xẻo thịt cá kình nướng ăn. Sau đó lại vào rừng hái trái đào củ, thay cho lương thực. Cứ như thế tất cả những khó khăn trong cuộc sống dần dần nàng đều vượt qua. Một hôm, vợ Dê nhìn vọng ra ngoài khơi bỗng thấy xa xa có bóng một cánh buồm trắng. Nàng bèn buộc áo vào một cành cây phất lên làm hiệu. Con thuyền nhận được dấu hiệu của nàng, rẽ sóng tiến vào đảo. Khi thuyền cập bến, nàng sửng sốt thấy người trên thuyền không phải ai xa lạ chính là chồng mình. Đúng là chàng dê sau bao ngày vượt vời đang trên đường trở về quê hương, thấy dấu hiệu cầu cứu nên ghé vào đảo. Hai vợ chồng ôm nhau mừng mừng tủi tủi. Chỉ một lát sau, Dê đã nghe hết đầu đuôi câu chuyện. Khi thuyền về đến nhà, Dê giấu vợ không cho ai biết, rồi sai người dọn một bữa cỗ linh đình nói là để cúng vợ. Chàng cho mời làng nước và bà con họ hàng, cả gia đình nhà vợ tới dự. Hai người chị nghe tin Dê đã về thì mừng khấp khởi, vội đến ngay. Cả hai làm bộ khóc lóc thảm thiết trong khi bịa ra câu chuyện cái chết thảm thiết của cô em xấu số. Sau đó chúng mấy lần liếc mắt đưa tình để cám dỗ người em rể tuấn tú mà chúng vẫn ao ước được chung tình. Dê vẫn thủng thỉnh đi từ bàn nọ sang bàn kia, mời mọi người ăn uống no say. Đoạn Dê khoan thai bảo hai chị: - Em xin vào nhà gọi người ra hầu hai chị! Dê vén màn cho vợ từ trong buồng bước ra. Nàng tươi cười chào hỏi hai chị và mọi người, làm cho ai nấy đều sửng sốt. Hai người chị vừa thẹn vừa sợ, nhân lúc mọi người không chú ý, len lén bước ra khỏi cổng. Nhưng chúng đi chưa được một quãng đường đã bị thần sét nhảy xuống đánh chết. Từ đấy hai vợ chồng Dê ăn ở với nhau sung sướng trọn đời .
__________________
![]() |
#130
|
||||
|
||||
![]() LẤY CHỒNG DÊ KHẢO DỊ Trong Thánh Tông di thảo cũng có một chuyện Lấy chồng Dê: Một người đàn bà ở Thanh Khê góa chồng có hai con gái. Cô bé đã gả chồng còn cô lớn hơn hai mươi tuổi mà vẫn chưa chịu lấy ai. Khi bà mẹ mất, có nhiều nơi đến dạm hỏi nhưng cô đều từ chối. Cô ở với chú may vá làm thuê, kiếm ăn lần hồi. Cô thương mẹ khóc lóc ba năm, ai cũng khen là con có hiếu. Một hôm cô từ mộ mẹ trở về nhà, tự nhiên thấy có một con dê đi theo. Về đến nhà, dê nhảy ngay vào buồng hóa thành một chàng trai, tự xưng mình là người của ngọc hoàng thượng đế bị đày xuống trần ba mươi năm. Từ đấy chàng trai cứ sáng ra là dê tối lại là người. Ở làng ấy có một người con trai khác từ lâu theo đuổi cô gái. Một hôm, anh ta đến rình ở buồng thấy có tiếng trò chuyện, bèn phá cửa xông vào thì chỉ thấy con dê, anh ta thẹn quá bỏ đi mất. Sau đó Ngọc hoàng thương giảm hạn, dê được về trời. Lúc từ biệt, vợ đòi đi theo. Dê bày cho vợ câu thần chú để gọi mình xuống mỗi lúc muốn gặp. Nhờ đó hai bên còn gặp nhau nhiều lần. Nhưng bốn tháng sau, cô bị bệnh chết. Khi chôn, người ta thấy trong quan tài có tiếng động, mở ra chỉ thấy một con chim vàng anh . Chúng tôi ngờ rằng truyện vừa kể xuất xứ từ truyện Lấy chồng dê trên kia nhưng đã qua sự cải biên gọt đẽo mạnh tay của nho sĩ. Việt Nam còn có truyện Chàng Chuối rất phổ biến ở Miền bắc, gần như cùng một chủ đề với chuyện trên. Thủy thần một hôm biến thành một người đàn ông lên bộ, rồi ăn nằm với một cô gái. Cô gái từ đấy có mang, đến kì đẻ sinh ra một con cá chuối rất lớn. Thường ngày mẹ vẫn nuôi con trong vại nước. Lớn lên, chuối đòi lấy một trong ba cô con gái quan họ Lý trong miền. Cũng như truyện trên cô thứ nhất và cô thứ hai khi nghe nói chuyện lấy Chuối làm chồng đều tỏ ý dè bỉu, trừ cô thứ ba. Thấy vậy họ Lý cũng đòi một món sính lễ lớn, vượt khả năng của nhà trai. Chuối được mẹ thả xuống sông để về xin bố. Bố cho một quả bí, về mở ra trong có đủ mọi sính lễ mà nhà gái đã thách cũng nhiều kẻ hầu người hạ. Cưới xong, đêm đêm Chuối cũng biến thành chàng trai ăn nằm với vợ, ngày lại hóa cá. Một hôm Chuối trút lốt cùng vợ đi chơi hội chùa, hai chị không ngờ đó là một chàng trai khỏe và đẹp, đâm ra mê mẩn. Em gái thú thật đấy là chồng mình. Hai chị lúc đầu không tin, họ đến nhà em khoét vách nhìn mới rõ sự thực, và từ đó họ ghen tị với em. Về sau vua nghe tin đồn, vời Chuối về triều làm đại tướng trấn giữ biên thùy. Ở đây cũng có tình tiết hai chị nhân khi Chuối đi vắng, rủ em đi tắm và xô em ngã xuống sông, nhưng cứu thoát cho vợ Chuối lại là Thủy thần. Chuối làm xong việc quan, trở về gặp lại vợ, giấu vợ vào hòm, rồi mang hòm đến nhà bố vợ. Hai chị cũng giả bộ thương xót em gái xấu số rồi tán tỉnh ve vãn Chuối, nhưng đến lúc Chuối mở hòm thì bị vạch mặt. Hai chị cũng bị sét đánh chết như truyện trên . Đồng bào Vĩnh Yên, Phú Thọ kể chuyện chàng Chuối có khác ở chỗ, mẹ Chuối do ướm vào dấu chân lạ bên bờ sông mà có mang. Sau khi ra đời, Chuối được thả trong một chậu nước đặt ở gậm giường. Một hôm có hội mùa, Chuối biến thành chàng trai đi dự, thấy có ba cô gái đẹp mới về bảo mẹ đi hỏi. Cũng như trên, nhà gái thách cưới quá nặng. Chuối cũng bảo mẹ thả mình xuống sông rồi cũng mang lên một quả bí. Một tiếng nổ, quả bí vỡ tung, bao nhiêu mâm cỗ và đồ sính lễ tuôn ra nườm nượp. Ở đây không có việc Chuối được vua phong đại tướng. Thừa lúc vắng Chuối, hai chị rủ em ra cầu rồi bất ngờ đẩy xuống sông. Nhưng chàng Chuối đã kịp thời cứu được vợ và đẩy hai chị em xuống nước . Đặng Lễ Nghi biên soạn Chàng Nhái kiến Tiên Thơ từ một văn bản cũ (không rõ có từ thời nào). Đại khái là: Ông bà trưởng giả sinh được một con gái xấu xí là Giảng Dung. Lớn lên cô gái không chồng mà chửa, sinh ra một con nhái. Ông bà trưởng giả sau đó qua đời, Giảng Dung hẩm hút nuôi con. Nhái mười ba tuổi bảo mẹ đi hỏi con vua Hồ vương (tác giả đoán là Hung- nô). Mẹ chiều ý con. Vua sai đưa nhái đến xem mặt. Vua hỏi: "mày ưng lấy ai?". "Công chúa Kiến Tiên mà thôi". Thấy con gái bằng lòng, vua hứa gả nếu: Nhái biện đủ, đám cưới cử hành long trọng. Sau đó để thử vợ nhái làm cho kiến cắn chết mình, công chúa vật vã than khóc. Sống lại, nhái cởi lốt thành chàng trai xinh tốt. Thấy thế hai chị bắt nhái về ấp, bắt cởi lốt, bắt không được thì lấy gươm cắt lốt, nhái chết nhưng rồi nhái lại sống. Một hôm nhân nhái đi vắng. Kiến Tiên bị hai chị giết quẳng xuống sông nhưng nàng được Long vương cứu. Trở về, nhái tìm mười cửa địa ngục ở âm phủ không thấy. Lên trời, Ngọc Hoàng bảo xuống tìm ở Long vương. Đưa được vợ về, nhái tâu vua mọi sự. Vua giao hai chị cho vợ chồng nhái xử, nhưng họ tha bổng. Vua bắt đầy vào rừng sâu. Ở đấy hai chị lấy chằn tinh làm chồng. Về sau vua giao quyền binh cho nhái rồi bỏ đi tu ."Sắm đủ một trăm mặt trời, Một trăm mặt nguyệt tùy thời chiếu liên Một trăm chư Phật chư Tiên, Thành Hoàng trăm vỵ ứng liền thinh không Một trăm mãng xà có lông, Một trăm bạch lộc trong rừng chạy ra Một trăm hùm dữ thay là, Một trăm sư tử dỡn ma kỳ lân, Để cho dỡn chụp trước sân Sắm đủ trăm thần cỡi (cưỡi)nó mà đi Trăm rồng ngũ sắt (sắc) dị kỳ, Để dỡn mặt nhựt (nhật)ta thì xem chơi..." Gần giống với chuyện Lấy Chồng Dê và Chàng Chuối, còn có truyện Sọ Dừa của người Cham-pa, khá phổ biến ở miền Nam, nội Dung như sau: Một người nọ nhà rất nghèo, một hôm cùng con gái lên rừng hái củi. Cô gái bỗng tìm thấy ở một hòn đá một mạch nước chảy, bèn uống và tắm thỏa thích. Nhưng khi người cha đến thì nước không còn một giọt. Cô gái từ đấy có mang, đủ ngày tháng đẻ ra một cục thịt tròn như quả dừa. Thằng bé bảy tháng biết nói, một năm biết tự lăn đi, ba năm biết chăn dê. Sau đó, nó bảo mẹ đưa mình đến cung vua xin làm công việc chăn trâu. Trâu vua có ba mươi vạn, người chăn mà thường vẫn thất lạc, nhưng thấy Sọ dừa cam đoan, nên vua bằng lòng thuê. Ngày đầu tiên, công chúa bé nhất mang cơm trưa. Công chúa thấy trâu ăn thành từng bầy rất trật tự, nhưng không thấy Sọ Dừa. Gọi một tiếng thì Sọ Dừa từ đâu lăn ra nhận cơm. Chiều lại, đưa trâu về đủ số. Ngày hôm sau, vua giao thêm công việc cắt dây buộc nhà. Khi đem cơm, công chúa đứng rình thấy giữa rừng có nhà lầu, có dê lợn và kẻ hầu người hạ. Một số người hầu thì đi chăn trâu, còn một số đi cắt dây. Công chúa gọi lên một tiếng, tự nhiên mọi thứ biến mất, còn Sọ dừa thì lăn đến nhận cơm như cũ. Buổi chiều trâu về con nào con ấy dây cuốn đầy sừng. Vua rất thán phục khi thấy quân hầu tháo được một trăm xe. Lần đưa cơm thứ ba, công chúa cũng rình thấy giữa kẻ hầu người hạ đông đúc có một chàng trai đẹp tựa trăng rằm. Khi gọi tên thì chàng trai biến vào lốt, lăn ra như cũ. Hôm sau nữa hai công chúa lớn từ chối việc đưa cơm nên công chúa em lại phải đi. Hôm ấy trời mưa gió, lúc Sọ Dừa đánh trâu về lăn vào bếp sưởi, đụng vào chân hai công chúa lớn đang nấu ăn ở bếp bị họ mắng chửi. Hôm khác, vua giao thêm việc chặt tre. Công chúa ba đưa cơm có mang theo một gói trầu do mình têm để tặng sọ dừa. Tre của Sọ dừa chặt được nhiều quá đến nỗi vua phải huy động dân các làng kéo về, được một trăm xe. Mọi người đều tấm tắc về tài năng phi thường của Sọ Dừa. Chăn trâu được mười lăm ngày, sọ dừa về nhà giục mẹ đi hỏi cho mình một trong ba công cháu làm vợ. Mẹ bất đắc dĩ ra đi. Vua hỏi ý kiến ba công chúa, chỉ có công chúa ba ưng thuận. Đám cưới kéo dài một trăm ngày, một trăm đêm, có dân các làng được vua mời về dự. Vua bảo hoàng hậu hỏi dò xem con gái ăn nằm với Sọ Dừa như thế nào. Công chúa cho biết: sáng là sọ dừa, đêm là người. Một đêm nọ công chúa đem lốt dấu đi. Sọ dừa đành phải ra mắt mọi người. Thấy chàng đẹp trai, ai nấy nô nức đến cung để nhìn mặt. Sau lễ cưới nửa tháng, Sọ dừa chuẩn bị tàu lớn đi buôn, có vợ và hai chị vợ đi theo. Lúc tàu ra khơi, hai chị bảo em tháo nhẫn mà Sọ dừa tặng cho xem rồi giả vờ làm tuột tay rơi xuống biển. Em vội nhảy xuống vớt, nhưng tàu chạy rất nhanh, khi Sọ dừa biết thì đã không thấy tăm dạng. Cho tàu quay về, Sọ dừa khóc lóc ngày đêm. Hai chị vợ nấu cơm têm trầu cho ăn, lại đến ăn nằm với Sọ dừa nhưng chàng vẫn nhớ vợ không nguôi. Vợ Sọ dừa vớt được chiếc nhẫn nhưng lại bị chìm xuống biển sâu. Nhờ sự mầu nhiệm của chiếc nhẫn nàng trở thành một người tí hon ẩn vào trong một vỏ trai lớn. Bị sóng đánh, trai trôi dần vào bờ. Một cặp vợ chồng làm nghề bắt trai nghe tiếng khóc tỉ tê trong một vỏ trai, liền nhặt lấy đưa về cất ở nhà. Đến đây truyện giống với tình tiết của truyện Tú Uyên và Tấm Cám Một lần hai vợ chồng đi vắng, công chúa từ vỏ trai chui ra biến thành người lớn, quét dọn, nấu cơm nước, đoạn lại chui vào như cũ. Một hôm họ cũng giả vờ đi nửa đường lại lộn về rình. Bắt được quả tang, họ nhận công chúa làm con nuôi. Công chúa bảo họ mua cho mình một ít bong về dệt thành chăn. Chăn dệt xong, công chúa bảo mẹ nuôi mang đến cung vua bán, lại đưa nhẫn cho mẹ nuôi đeo. Vua thấy tấm chăn giống với chăn của công chúa thứ ba dệt. Còn Sọ dừa thì nhận ra chiếc nhẫn, bèn theo người đàn bà về nhà. Hai vợ chồng lại tái ngộ. Sau đó Sọ dừa thay vua trị vì thiên hạ . Một vài truyện Sọ Dừa khác đã có vẻ Kinh hóa, kết hợp phần nào với chuyện Lấy chồng dê, đại thể là: 1. Một bà cụ hái củi một hôm khát quá, uống nước mưa trong một cái đầu lâu, về có mang đẻ ra một cục thịt tròn, nhân đó đặt tên là Sọ Dừa. Sọ Dừa vừa đẻ đã biết nói, lớn lên đi chăn dê cho phú ông và được ba cô con gái của phú ông thay phiên đưa cơm. Đến lượt cô ba, nhìn trộm thấy Sọ dừa hóa thành chàng trai ngồi võng thổi sáo, có kẻ hầu người hạ. Cuối cùng cô gái cũng trở thành vợ của Sọ dừa, còn Sọ dừa thì trở thành người học trò giỏi đỗ trạng. Trước khi từ giã vợ đi sứ, cũng như truyện Lấy chồng dê, chồng đưa cho vợ môt hòn đá, một con dao, nhưng ở đây có thêm hai quả trứng gà. Vợ Sọ Dừa cũng bị hai chị em dìm chết, cả người lẫn thuyền lọt vào miệng cá kình, nhưng nhờ có dao và đá lửa, nàng tạo nên một cuộc sống mới trên hoang đảo: lại nhờ có hai quả trứng nở thành gà, nàng được chúng báo hiệu chấm dứt cuộc đời lưu lạc bằng tiếng gáy Ò ó o o! Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về. Truyện kết thúc như truyện Lấy chồng dê 2. Một người nghèo đẻ ra một đứa con chỉ có mỗi cái đầu, đặt tên là Thằn lằn, cho đi ở chăn trâu với một nhà giầu. Chủ bắt chăn bốn, năm chục con trâu đều làm được. Rồi bắt chặt củi, Thằn lằn chặt đủ mỗi con trâu một gánh đặt trên lưng mang về. Chủ sai con gái đưa cơm. Cô cả không chịu đi. Em nói: - "Chị không đi thì tôi đi". Đến cửa núi cô thấy có một võng điều che bốn lọng, Thằn lằn nằm trong võng có người quạt hầu. Ngoài núi có nhiều người chăn trâu chặt củi. Cô gọi: -"Ai đó ra lấy cơm mà ăn". Mọi thứ biến mất chỉ thấy Thằn lằn ra lấy cơm. Thằn lằn không ở nữa, chủ tiếc lắm, nài mãi Thằn lằn mới bảo: - "Ông gả con gái cho tôi, tôi mới ở". Chủ gọi hai con gái ra hỏi, chỉ có em bằng lòng. Mời làng xã đến ăn cưới. Ba ngày sau chị đến nhà em thấy Thằn lằn là chàng trai đẹp, bèn mời tới nhà mình chơi. Em sang gọi về, chị phàn nàn: - "Chồng người ấp chẳng được lâu. Ấp được hôm trước hôm sau người đòi". Truyện dừng lại ở đây . Gần giống với các truyện trên có các truyện sau đây: 1. Chuyện Chàng Bầu của đồng bào Mường: Có hai vợ chồng hiếm con, ước ao để được đứa con đẹp như quả bầu. Ít lâu sau, quả nhiên vợ đẻ ra một cục thịt tròn như quả bầu. Mẹ định quẳng đi nhưng con đã nói ngay: - "Mẹ đừng bỏ con, con sẽ làm được việc". Cũng như Sọ dừa, chàng Bầu lớn lên đi ở chăn trâu cho Lang. Nàng Ả, con gái đầu lòng của Lang đi đưa cơm nhưng vì sợ hãi, thường chỉ đứng ở bìa rừng gọi Bầu ra lấy, chỉ có nàng Hai thì mang đến tận nơi. Và nàng Hai cũng khám phá ra là Bầu có phép lạ: biến thành chàng trai nằm võng thổi sáo, bốn bên voi chầu hổ phục. Hai bên đính ước. Trở về, Bầu cũng bảo mẹ đi hỏi nàng Hai cho mình. Ở đây Lang cũng gọi hai con ra hỏi, sau khi xui con đái vào người mẹ Bầu. Và khi thấy nàng Hai bằng lòng, Lang cũng thách cưới: "Trăm con trâu khoang, trăm hươu chín gạc, trăm vạc tám tai, với một đàn hổ xám, một đàn báo hoa". Bầu hóa phép gọi cầu vồng xuống, trèo lên, lấy đủ mọi thứ về. Sau khi Bầu lấy vợ, cũng có việc nàng Ả đến rình và khi biết sự thật cũng tỏ ý hối tiếc, nghĩ cách cướp chồng của em bằng cách rủ em lên mảng ra sông gội đầu, rồi đánh đắm mảng. Không biết bơi, nàng Hai bị nước cuốn đến một bãi cát hoang. Nhờ có hai vật dao và trứng mà chồng dặn lúc nào cũng phải mang theo bên người, nàng Hai đào củ, dựng lều; rồi ấp trứng, trứng nở thành gà trống. Bầu hết hạn chầu Trời trở về, qua bãi cát nhận ra tiếng gà, nhờ đó gặp lại vợ. Về đến nhà, Bầu cũng giấu vợ một nơi, và sau đó vạch mặt người chị vợ khi người đàn bà này giả nhận làm vợ Bầu. Thấy em gái, nàng Ả xấu hổ, chạy lên cầu thang thì cầu thang gẫy, rơi xuống chết hóa thành con nhàn nhã suốt ngày chui rúc dưới bùn không dám ngẩng mặt nhìn mọi người. Ở đây cũng có việc người vợ đập nát lốt của chồng và từ đó hai vợ chồng ăn ở với nhau lâu dài . 2. Truyện Hai chị em và chàng trẻ tuổi của đồng bào Kar (Tây- nguyên) Hai chị em - Răng-roa và Đăm - cùng bố làm rẫy, bố khát nước quá nghe tiếng nước chảy nhưng mấy lần đi tìm lại không thấy gì. Một bà tiên chỉ cho chỗ một con trăn đang khơi mạch: - "Lấy trăn làm chồng thì được uống". Chị không lấy, em đành phải nhận lời để bố khỏi chết khát. Lập tức nước chảy đầy ruộng rẫy. Cưới xong, trăn đến giúp bố vợ dọn gỗ, dọn cỏ rất được việc. Một hôm cùng vợ đi tắm. Vợ tắm cuối dòng bỗng thấy da rắn trôi, tưởng chồng đã chết bèn kêu khóc. Khi lên trên dòng thấy một người đàn ông tưởng đó là kẻ giết chồng toan đánh, người ấy nói: - "Tôi là trăn nay đã thành người, tên là Sa-pan". Thấy Đăm có chồng đẹp, Răng-roa ghen tị, tìm cách quyến rũ. Đăm bảo chồng đừng chạm vào đồ đạc của chị, vì theo tục chạm vào tức là phải lấy làm vợ. Răng-xoa treo áo giữa nhà, đặt bát nước ăn trước mặt cốt cho Sa-pan đụng phải, nhưng chàng đều tránh. Vợ Sa-pan có mang, chàng đi vắng, dặn vợ chớ có đi đâu. Răng-roa âm mưu hãm hại Đăm: rủ đi lấy củi, lấy nước, Đăm đều lắc đầu. Nhưng khi rủ đánh đi thì Đăm thích thú đi ngay. Răng-roa cưa đứt dây, Đăm văng xuống sông, Răng-roa lấy quần áo của em mặc vào, lại lấy quả bầu độn bụng giả làm Đăm để được ân ái với Sa-pan, nhưng không may khi leo thang, quả bầu rơi ra, lộ tẩy. Sa-pan xuôi dòng tìm vợ, một bà cụ (người vớt được vợ) mách cho biết vợ và con anh hiện ở môt hòn đảo, hãy về thu dọn nhà cửa đưa ra đây mà ở. Sa-pan về thu dọn, Răng-roa biết ý đuổi theo đến bè. Sa-pan bảo về nấu nồi cơm lớn đưa đi ăn đường, mình sẽ chờ. Đến bờ sông thấy Sa-pan đã chèo bè ra xa. Răng-roa gào mãi không được, bèn lấy nồi cho xuống nước làm thuyền bơi đi, chó cũng nhảy theo người. Nhưng vì chó cạy cơm ăn làm thủng nồi, nước lọt vào dìm y và chó xuống nước . 3. Truyện Chàng rùa của người Xơ-đăng Một ông già góa vợ có mười người con gái, một hôm bằng lòng để một con rùa sửa giúp cái lờ đơm cá với điều kiện gả cho nó một cô để làm vợ. Cũng như các truyện trên, các cô gái của ông đều từ chối, trừ cô út bằng lòng làm vợ rùa. Mỗi lần đến chơi với vợ, rùa đều hóa thành chàng trai, và căn buồng tự nhiên sáng rực lên, làm cho các chị tưởng buồng bị cháy kêu cứu ầm ỹ. Ông già ốm, muốn ăn óc cá, bảo các chàng rể đi tìm. Chẳng ai lấy được cả, chỉ có rùa lấy được mấy nong. Ông già lại mở cuộc thi trâu rồi thi xây nhà, rùa đều thắng cuộc, làm cho các chị vợ ghen tức. Cũng như các truyện trên, trước khi sang Lào buôn bán, rùa giao cho vợ một quả trứng, một con dao, ngoài ra còn có một quả dừa. Ở đây cũng có tình tiết: mấy chị rủ em đi lấy củi, rồi mua muối, vợ rùa đều từ chối, nhưng lại bằng lòng khi nghe nói rủ chơi đu. Bị các chị chặt đu vợ rùa ngã chết, xác văng xuống sông, bị cá nuốt nhưng lại sống lại và sinh con trong bụng cá. Rồi vợ rùa lấy dao rạch bụng cá, bế con chui ra. Quả trứng biến thành gà trống, còn quả dừa mọc thành cây dừa lớn như thổi. Vợ rùa trèo lên, cây cao lên mãi. Ở trên ngọn vợ rùa nhìn sang đến tận nước Lào. Nàng bảo gà gọi chồng về. Nghe tiếng gà gáy, rùa lên đường về ngay. Trời mưa như trút, phải ẩn dưới cây dừa, rùa vừa kêu đói thì cơm trên ngọn rơi xuống, kêu khát thì quả dừa rụng. Hai vợ chồng gặp nhau. Nghe vợ kể mọi chuyện, rùa bỏ vợ con vào gùi mang về, lại trao cho con một cái kim, dặn cứ đâm vào mặt người nào nhòm vào gùi. Thấy gùi nặng, mấy chị vợ hí hửng ra đón. Khi nhìn vào gùi bị kim châm vào mắt, đứa hóa thành chó, đứa hóa thành mèo. Về sau chó mèo ấy chuyên giữ nhà cho vợ chồng rùa . 4. Chuyện chàng Ca-đác (ca-đác = con vật giống cáo) của người Thái. Một ông vua sinh được mười công chúa đều đẹp, riêng công chúa cả và công chúa mười giống nhau như đúc. Một hôm vua cho mỗi công chúa một chiếc thuyền, bảo xuôi theo dòng sông, thuyền ai bị kẻ nào cản lại, thì lấy người ấy làm chồng. Các công chúa đều lấy được chồng đẹp trai, chỉ có công chúa mười chở giúp một con ca-đác sang sông, đến giữa sông thuyền dừng lại đành phải lấy nó làm chồng. Một hôm vua sai các phò mã vào rừng săn hươu. Ca-đác lên rừng chỉ leo trèo hái quả, nhưng cuối ngày được con hươu rất lớn, còn chín người kia thì về không. Lần thứ hai đi đánh cá, chỉ có Ca-đác được một gánh cá nặng. Lần thứ ba đi chặt gỗ dựng nhà. Nhờ có vua Thủy, Ca-đác có một ngôi nhà lộng lẫy, đẹp hơn cả cung vua. Thấy lạ vua sai người đến rình. Khi thấy Ca-đác trút lốt hóa thành chàng trai đẹp, vua sai giấu kín cái lốt, Ca-đác đành phải mang hình người. Thấy em rể đẹp, công chúa cả có ý cướp chồng của em. Ở đây truyện xích gần với truyện Lấy chồng dê. Ca-đác trước khi đi vắng cũng giao cho vợ một con dao, một gói thuốc, dặn khi gặp nạn thì ném gói thuốc ra. Vợ ca-đác cũng bị chỉ cả chặt đứt đu, văng ra giữa sông, nhờ dao thần và gói thuốc nên xuống đến cung vua Thủy. Công chúa cả mặc quần áo giả làm công chúa mười về với ca-đác. Ca-đác xuống sông tìm thấy vợ và đưa vợ về. Đến nhà làm một bữa tiệc mời vua cha tới dự. Giữa bữa tiệc, ca-đác vạch tội chị cả. Xấu hổ, công chúa cả chạy ra cánh đồng bị sét đánh chết, xác hóa thành con niếu nộng (niếu nộng = con bọ giống con bọ dừa, hay rúc ở bùn.) . 5. Truyện của dân tộc Cao-sơn (Đài loan) Người đẻ trứng. Có hai vợ chồng hiếm hoi, cầu thần Tử-tức, vợ sau đó có mang sinh ra một quả trứng. Được một năm trứng biết lăn ra khỏi tổ chơi đùa. Lên bảy, đòi đi chăn trâu, bảo mẹ bỏ mình vào tai trâu, rồi hò hét, sai trâu ra đồng theo ý muốn. Lần khác trứng bảo mẹ buộc dao vào người để mình lên rừng đốn củi. Đến rừng trứng tách vỏ chui ra thành một cậu con trai, đốn xong lại chui vào vỏ, rồi về bảo bố đưa xe lên rừng chở củi về. Đi làm đồng cũng vậy. Một hôm trứng chui ra khỏi vỏ làm ruộng, gặp một cô gái cũng làm ruộng ở gần. Hai bên cùng chuyện trò hát xướng, dần dần đâm thương yêu nhau. Trứng đi dự hội thi vật, lăn dưới chân mọi người, thấy ai giẫm phải thì kêu tướng lên cho họ tránh. Khi thi chạy, trứng lăn ra một nơi chui ra khỏi vỏ, rồi về tới đích trước mọi người. Cô gái tới nhà hỏi thăm trứng, bố mẹ nói dối mình không có con. Nhưng ở trong rổ, trứng đã lên tiếng. Bố mẹ ngượng quá bảo trứng sao không biết xấu hổ, trứng đáp: - "Con như thế nào cứ nói như thế ấy, ai yêu thì tới, không yêu thì thôi". Hôm sau trứng cởi lốt đi làm đồng gặp cô gái, cô gái rình biết sự thực, bèn đến nhà mách cho bố mẹ trứng biết. Bố mẹ chờ khi con chui ra khỏi vỏ thì lẻn đến lấy vỏ giấu đi. Từ đó trứng không biến được, đành mang dạng người và cưới cô gái làm vợ. 6. Truyện của dân tộc Lê (Hải-nam) cũng mang tên Sọ dừa: Một bà già sinh được năm đứa con, bốn người đầu đều khôi ngô mạnh khỏe, chỉ có con út như một trái dừa nên đặt tên Sọ dừa. Bà ta vứt sọ dừa xuống sông. Một ông lão vót được bền đem về nuôi. Lớn lên Sọ dừa xin đi chăn trâu. Lại xin đi chặt tre về đan rổ rá. Con gái ông lão xinh đẹp mang cơm cho Sọ dừa ăn, một hôm nấp một chỗ rình xem thì thấy từ trong trái dừa xuất hiện một tràng trai trẻ và đẹp. Cô rất ngạc nhiên và cũng rất vui mừng. Về sau hai người yêu nhau và lấy nhau, sống rất sung sướng . Những truyện có mô típ người (nữ) kết hôn với vật (nam) và vật mang hai giai đoạn biến hóa: người đội lốt vật, vật trở thành người là kiểu truyện khá phổ biến ở nhiều dân tộc. Sau đây là một số truyện của các dân tộc an hem, hình tượng đã thay đổi đi nhiều nhưng vẫn còn rõ nét. Truyện của đồng bào Ê-đê Chồng cóc: Một hôm YRít đi làm rẫy bắt được một con cóc vàng đem về toan làm thịt. Nhưng cóc bảo để mình sống sẽ giúp chăn gà giữ lúa cho. YRít bèn giữ cóc lại nuôi bảo trông coi thóc phơi. Cóc làm tròn, vì khi nào sắp mưa cóc đều biết trước. Một hôm trời thình lình đổ mưa, cóc nhờ cô hàng xóm là Hơ-bia chuyển thóc hộ. Hơ-bia không đáp nhưng cũng rình xem cóc làm ăn thế nào. Cóc gọi mãi Hơ-bia không được bèn hóa thành một chàng đẹp khỏe, chuyển thóc trong một nhoáng là xong. Đoạn trở lại lốt cóc. Từ đấy Hơ-bia ốm tương tư, bà mẹ tra gạn mãi, biết con gái mê cóc, mới cho hai bên lấy nhau, chia cho một cái nồi đồng đã rạn rồi đuổi đi. Đến một đám rừng hoang, cóc hóa phép thành một tòa nhà rất đẹp có đủ các thứ của cải, người hầu và súc vật. Hơ-bia thấy vậy liền lẻn vào xé lốt cóc. Từ đó cóc giữ mãi hình người và giàu có nhất vùng. Hai vợ chồng có đông con cháu . Truyện của đồng bào Ja-rai (Djarai) Chàng lợn. Bà già Pôm ở với cháu gái là Lúi (lúi = út). Một hôm Lúi cùng bà đi hái bong, nhân khát đi tìm nước. Thấy một cái nấm có nước đái lợn rừng, nàng không nghe lời bà, uống nước ở cái nấm ấy về nhà tự nhiên có mang, đẻ ra được một con lợn. Vì xấu hổ cho cháu, bà Pôm chôn lợn nhưng mấy lần đắp đất kỹ càng, về nhà đã thấy lợn về trước rồi. Nghe tin Lúi đẻ lợn, pơ-tao là tù trưởng giàu có đến xem, bà cháu nói dối nhưng lợn đã tự khai cho pơ-tao biết. Khi pơ-tao về không mang lợn theo nhưng thấy lợn nằm gọn trong gùi, mấy lần pơ-tao bắt trả về cho Lúi nhưng khi về đến nhà mình, lợn đã có mặt ở đấy rồi, pơ-tao đành phải nuôi lợn. Pơ-tao có con gái đẹp là Hơ-bia thường đi chăn trâu đàn. Một hôm bận đi tát cá, lợn xin đi chăn thay. Không ngờ lợn chăn giỏi, Hơ-bia đi rình thấy lợn lột xác thành một chàng trai tuấn tú, nhưng khi hỏi lợn, lợn làm cách không biết. Hơ-bia xin cha chuẩn bị lễ cưới để lấy chồng - một người mà nàng chưa chịu nói tên. Đến khi chuẩn bị xong, cha hỏi lấy ai, nàng nói là lấy lợn. Lợn làm bộ từ chối để cho Hơ-bia nằn nì mãi, mới nhận lời. Hôm ăn cưới không đi lấy nước kịp để đổ vào rượu cần, lợn chỉ múc một ống nước nhỏ nhưng rót mãi không hết. Một hôm dân làng đi săn, lợn hỏi thì họ giễu cợt, Hơ-bia phải an ủi chồng, nhưng chuyến ấy dân làng chẳng săn được con thịt nào, trừ một con đã bị hổ ăn mất một nửa. Đến lượt lợn cùng em vợ đi săn thì được thịt nai phơi đầy cả một nhà. Hôm khác dân làng đi dỗ voi, chỉ dỗ được một con voi què. Đến lượt lợn đi. Lợn trèo lên đầu con voi chúa đàn. Voi chúa chạy và làm đủ mọi cách nhưng lợn vẫn không rơi. Sau voi lặn xuống suối một tháng để đuổi lợn, lợn ngâm măng cho thối bỏ lên đầu voi, bảo voi nếu lặn lâu thì thối mất đầu. Voi sờ lên thấy thối, tưởng thật bèn chịu hàng lợn, đem cả đàn voi về. Dân làng từ đấy mới phục lợn. Một hôm cùng vợ đi tắm, lợn nhường mãi không được phải tắm trước, Hơ-bia bèn dấu lốt, lợn đành phải làm người. Khi Pơ-tao già giao quyền và của cải cho lợn . Đồng bào Ba-na (Bahnar) có hai truyện đều có phần giống với truyện Chàng lợn vừa kể. Truyện thứ nhất: Nàng Hơ-lúi (Hơ-lúi = út). Nàng Hơ-lúi mồ côi, chưa chồng, một hôm đi hái bông với bạn, nhân khát quá chạy vào rừng tìm nước uống. Tự nhiên có suối nước hiện ra cho nàng giải khát và tắm, rồi lại biến mất. Từ đấy có mang bị bà đuổi lên rừng. Đủ cữ, nàng đẻ ra một con cóc. Cóc nghiến răng thì trời chuyển động và có tiếng nói vang lên: "Phải mang con của Hơ-lúi về nuôi cho đến chết". Bà Hơ-lúi nghe thế sợ quá, đem cóc về nuôi. Một năm trời đại hạn, mọi người đều khổ vì thiếu nước. Giữa lúc cậu của cóc đến chơi, cóc nghiến răng, trời mưa như trút, cóc lại hóa thành chàng trai, được dân tôn làm tù trưởng và cưới vợ cho. Một hôm cóc làm con diều sáo, thả lên tiếng vang rất xa làm cho Hơ-bia, con gái pơ-tao (tù trưởng) sinh ra tương tư. Pơ-tao cho người đi dò la để mua diều nhưng cóc không bán. Mời cóc đến chơi thì Hơ-bia hết bệnh, nhưng cóc đã có vợ, nên Hơ-bia đành phải xin bố cố mua cho được diều. Pơ-tao phải đem tất cả đàn súc vật: voi, trâu bò ngựa để đổi. Cóc làm phép bỏ đàn gia súc vào ống điếu của mình đưa về, từ đấy trở nên giàu mạnh. Truyện thứ hai: Cóc và Bia Phu. Con gái của bà Xóc-ia là Bơ-rông-hia phơi thóc ở đường cái. Voi của Đăm Phu đi qua dẫm phải. Bơ-rông-hia tức mình mắng chửi, nhưng vì sợ, hóa thành cái sọt. Đăm Phu tìm không được đái vào nồi cơm. Bơ-rông-hia không biết, ăn phải cơm, tự nhiên có mang - hình ảnh này giống với các dị bản của truyện Chàng lợn ở trên - đẻ ra một con cóc. Một hôm bác cóc tới chơi, nhà cóc nghèo, nhưng cóc đã làm phép cho một quả bầu lấy gạo mãi không hết. Sau đó cóc theo về nhà bác, nhưng bác không cho vì sợ người ta cười. Cũng như truyện Chàng lợn, bác của cóc về dọc đường mấy lần phát hiện ra cóc ngồi trong ống tên của mình, mấy lần đuổi cóc về nhưng đâu vẫn hoàn đấy. Cuối cùng bác phải cho đi nhưng buộc cóc khi đến nhà mình phải ngồi trong buồng kín không được đi đâu. Cóc không đi đâu nhưng lại ước cho các cô gái đến nhà bác nườm nượp để tìm mình. Cuối cùng bác cóc đành cho cháu ra tiếp. Trong số các cô gái có Bia Phu đẹp nhất vùng quyến luyến cóc. Đêm ấy, cóc ước cho mọi người đi vắng, trừ Bia Phu. Nghe tiếng đàn của cóc - bấy giờ đã hóa thành chàng trai tuấn tú - ở nhà "Rông", lòng Bia Phu không yên phải tìm cho được người gảy, nhưng khi nàng đến thì chàng trai đã hóa thành cóc. Mấy lần đi đi về về như vậy nhưng Bia Phu vẫn yêu cóc, dần dần sinh ốm tương tư. Thấy vậy, bố nàng cho mời các chàng trai đến nhưng chỉ làm cho bệnh thêm nặng. Khi cóc đến thì Bia Phu lại lành như không có việc gì. Thấy con một hai đòi lấy cóc làm chồng, bố mẹ nàng đành phải gả rồi đuổi đi sau khi làm lễ cưới rất đạm bạc. Nhưng cũng như truyện Ê-đê, đến một khu rừng, cóc hóa phép hiện ra nhà cửa, trâu bò, lúa gạo và nô lệ. Vợ cóc đẻ một trai gọi là Đăm Pen lớn như thổi. Một hôm Bia Phu bảo con đi mời ông bà ngoại đến chơi. Ông bà ngoại bắt phải đắp một con đường lớn có voi đứng nối đuôi nhau mới chịu đi. Cóc hóa phép làm ngay. Họ ở nhà rể ba ngày, được ăn toàn của ngon vật lạ. Khi ra về được rể tặng một con trâu bé tý, bố vợ cóc thèm lấy, còn lấy điếu gõ vào đầu cho trâu chết, nhưng càng gõ trâu càng lớn như thổi, cuối cùng to bằng con voi, phải nhận. Về sau khi ông bà ngoại mời cháu đến chơi, Đăm pen cũng đòi họ phải làm như họ đã thách đố bố nó trước kia. Nhưng dù cố sức đắp, đường vẫn hẹp, voi thì không đủ. Khi Đăm Pen trở về, ông bà ngoại cũng tặng một con trâu mộng, nhưng nó không chịu nổi một cái gõ vào đầu bằng ống điếu của chàng . Truyện của đồng bào Ka-dong: Chàng cóc. Một nhà nọ có chín cô con gái đẹp, trong đó có cô thứ ba là Di Dật đẹp hơn cả. Một hôm nhân khát quá, Di Dật thấy giữa hòn đá tảng có nước ngọt bèn uống (thực ra đó là mưu kế của thần Nước). Từ đó nàng có mang đẻ ra một con cóc. Bị làng xóm đuổi, cô đưa cóc vào rừng, và nhờ phép của cóc có hàng trăm người hiện ra làm rẫy cho. Cóc xin đi chăn trâu cho chúa làng. Ở đây mỗi lần chăn, có ném quả ké lên đầu trâu đánh dấu, và bảo trâu cứ ra đồng ăn lúa cho no, ăn xong cóc hóa phép cho lúa mọc như cũ. Sau ba năm, cóc lấy công một con trâu trắng (tức gà trắng), rồi hóa phép làm cho chỗ ở của mình thành một làng giàu thịnh đông đúc. Sau đó, cóc đi tìm bố (tức thần Nước) rủ bố đi xem hội đâm trâu để được gặp mẹ, và làm lễ cưới cho bố mẹ tại làng mình. Cóc biến thành chàng trai đẹp đi kiếm vợ. Hai cô gái của Vu Dơ-ría rất đẹp, tuy đã đính hôn với Dơ-róc Dơ-rây nhưng nghe tiếng cóc, hai cô cũng như trai gái trong làng đều mê mệt, quên hết tất cả. Hôm Dơ-róc Dơ-rây làm lễ cưới, cóc làm cho hai cô gái theo mình. Tức giận, Dơ-róc Dơ-rây làm một trận bão ghê gớm. Cóc hóa làm rắn chặn gió bão, Dơ-róc Dơ-rây định giết, bị cóc - bấy giờ đã hóa thành chàng trai to lớn - đánh bại. Hai bên còn đánh nhau suốt một năm, cuối cùng cóc chém được kẻ địch. Về dọc đường, cóc gặp Cầu-vồng là bố Dơ-róc Dơ-rây, lại đánh nhau. Sắp thua, cóc nhờ mưu mẹo của bồ câu, chém được Cầu-vồng đổ sụp, tước lấy binh phép. Cóc còn tiếp tục đánh nhau với Hàm-răng-ma. Và sau đó đánh nhau với thằng lùn cũng đều nhờ bồ câu mà thắng lợi. Sau chiến công đó cóc làm cho làng trở lại giàu thịnh và cưới hai cô gái của Vu Dơ-ría về làm vợ . Truyện của người Mèo: Ếch lấy con vua Có ba cô gái rủ nhau đi câu. Cô thứ ba gánh giúp cho một ông già tận tình hơn, ông già dặn cả ba cô câu được con gì thì giữ con đấy mà nuôi, sẽ có ích. Hai cô kia câu được một tôm một cua mang về nướng ăn, chỉ có cô thứ ba câu được con ếch, đem về nuôi trong một cái hòm giấu không cho ai biết, hàng ngày lại cho ếch bú. Thấy con gái mình xanh xao, bố mẹ căn vặn, cô nói thực. Bị đuổi, cô mang ếch đi xa dựng lều lên ở. Ếch xin đi chăn trâu cho vua. Được ba ngày, ếch về đòi lấy con gái vua. Mẹ nuôi bảo hãy làm cho công chúa bằng lòng đã. Nhờ có tiếng nhị, ếch đã làm cho công chúa mê, nhưng mấy lần công chúa đều không biết là ếch. Một hôm nàng giả vờ ẩn để rình thì thấy ếch hóa thành một chàng trai kéo nhị, thấy động, chàng trai lại chui vào lốt ếch. Ếch lại về bảo mẹ đi hỏi công chúa cho mình. Mẹ đi lại mấy lần đâm ngại, bèn quay về nói dối là vua không gả. Sau cùng, vì sợ ếch liều mình, mẹ phải đến nói với vua, vua lúc đầu không chịu gả, nhưng công chúa đòi ăn lá ngón, đành phải nhận lời. Một lần, có vua nước láng giềng mang quân sang xâm lược. Nhờ có rể ếch, vua thắng trận, về sau vua nhường ngôi. Người mèo còn có một truyện khác Chàng rắn kết hợp một phần truyện Lấy chồng dê với một phần truyện Tấm Cám: Một ông già vợ chết sớm sinh được ba cô con gái. Một hôm, vì kiệt sức không bẩy nổi hòn đá, ông bèn ước: - "Giá có ai giúp, ta sẽ gả cho một đứa con gái". Một con răn hiện ra xin làm giúp, và sau khi công việc xong, nó giục ông thực hiện lời hứa. Đưa rắn về nhà, ông già lần lượt hỏi ý kiến các con, chỉ có cô gái thứ ba ưng thuận, hai bên thành vợ chồng. Rắn cũng hóa thành người. Ông già một hôm bắt được lốt rắn bèn giấu đi. Hai vợ chồng đẻ được một con trai, đặt tên là Măng Dư. Hai chị thấy chồng em đẹp bèn lập kế giành. Ở đây họ không rủ em đánh đu mà rủ em đi cắt cỏ ngựa, rồi đẩy xuống hang cho chết. Rắn về thì chị cả đã nằm sẵn giữa giường. Rắn hỏi : - "Sao chị lại nằm ở đây?" - "Tôi là vợ anh, anh hoa mắt hay sao?" - "Nếu là vợ thì mang giỏ cá mọi ngày lại đây xem có đúng không?". Chị cả mang lại, rắn bảo không đúng. Đáp: - "Giỏ mọi ngày mèo thấy mùi tanh tha đi rồi". Măng Du lại nói: - "Mẹ mọi ngày vào cửa lọt, hôm nay sao vào cửa còn rộng ". Đáp: - "Vì mẹ làm nhiều nên gầy". Tuy vậy, rắn cũng ăn ở với chị cả, đẻ được một con. Từ đấy truyện giống với phần cuối truyện Tấm Cám. Vợ rắn hóa thành chim, một hôm bay đến cửa gọi con: - "Chị của mẹ giết mẹ tranh chồng". Con mách với bố. Rắn bảo chim: - "Có phải vợ thì đậu xuống đây". Chim đậu vào tay, rắn mang về nuôi ở buồng. Chị cả bắt chim làm thịt, cho con mình một miếng, Măng Dư một, và dành cho chồng một. Rắn về hỏi thì đáp: - "Vì chim mổ mắt con nên làm thịt". Rắn ném miếng thịt vào bếp, miếng thịt hóa thành cái kéo. Một bà hàng xóm đi xin tro xúc cả kéo đưa về. Hàng ngày kéo cũng hóa thành người từ trong tráp chui ra, dọn dẹp nhà cửa lo cơm nước sẵn sàng. Bà già cũng giả vờ đi, rồi nửa đường lộn về bắt được, từ đấy nuôi làm con. Măng Dư sang chơi, thấy giống mẹ bèn về mách bố. Bố bảo con nhổ trộm một sợi tóc đưa về. Khi biết là vợ, rắn bảo con tìm cách dẫn về. Hai vợ chồng gặp nhau, nhưng vẫn còn giấu hai chị. Rắn bảo vợ hàng ngày cài cửa buồng lại. Một hôm vợ quên đóng cửa, cả hai chị đều vào. Chúng nó ngỏn nghoẻn: - "Em làm cách gì mà tóc dài đẹp thế?", đáp: - " Nấu một chảo nước thật sôi, bắc ba cái ghế đứng lên rồi xõa tóc mà gội". Hai chị tranh nhau trèo, ghế đổ, rơi vào chảo chết tuốt . Kiểu truyện như trên cũng phổ biến ở một số dân tộc. Chẳng hạn, truyện của đồng bào Thổ (Tày): Vợ chàng Rắn. Một ông già có hai (có người kể bốn) cô gái. Một hôm đi tát nước, bỗng thấy một lỗ rò làm cạn hết nước đã tát. Lấp thế nào cũng không ăn thua. Ông bèn ngồi đè lên, bỗng như có cái gì giữ chặt không cất mình lên được. Ông khẩn: - "Nhà tôi có con gái, tha cho tôi, tôi sẽ gả cho một đứa". Một con rắn theo ông già khi ông về. Cũng như truyện trên, cũng có cô út bằng lòng lấy rắn. Rắn cũng bỏ lốt thành người, và cuối cùng cũng bị vợ giấu lốt. Hai vợ chồng đẻ được hai con. Cô chị cũng ghen tức khi thấy chồng em đẹp trai nên cũng lập tâm giết em bằng cách bảo em trèo khế hái quả rồi chặt cây cho rơi xuống ao chết đuối. Rồi chị cũng ăn mặc giả làm em về nhà ở với chàng rắn, mặc dầu bị cả nhà hắt hủi vì họ biết rằng không phải vợ rắn. Trong ao mọc lên một hoa sen trắng, một hôm người giữ ngựa cho chàng rắn đi qua, nghe có tiếng gọi từ ao: -"Anh cắt cỏ ngựa, anh có thấy hai đứa con tìm mẹ và chồng tìm vợ không?". Lấy làm lạ, anh về kể cho chủ biết. Chàng rắn đến, nghe tiếng vợ bèn lội xuống ao ngắt hoa sen đem về, ngắm không chán mắt. Thấy vậy, cô chị rút cánh hoa quẳng đi, một con gà ăn cánh hoa. Chàng rắn nuôi gà trong một cái lồng đẹp hàng ngày chăm chút. Gà lại bị giết thịt. Chàng rắn không ăn thịt mà ném ở sau nhà, lại mọc lên một cây khoai sọ. Khoai sọ đến lượt bị đào nấu cho lợn ăn. Nhưng hễ cô chị đứng phía nào thì nồi sôi tung tóe làm bỏng chân. Giận quá, cô chị đổ hết ra sân. Lại mọc lên hai cây tre có bóng mát. Chàng rắn ngày ngày ra hóng gió. Tre lại bị chặt làm sào mắc màn. Lúc nào cô chị mắc màn, sào cũng đâm vào mặt. Sào lại bị quẳng vào lửa. Khói um lên làm cho cô chị đau mắt, nên giận quẳng ra đường. Một bà già đi qua nhặt về làm khung cửi. Mỗi lần bà đi vắng vải không ai dệt cứ ngày càng nhiều thêm. Bà già rình thì bắt chộp được một cô gái đang dệt: -"Tôi chỉ có thịt không có xương, bà hãy lấy đũa cả và nhiều đũa con sắc nước cho tôi uống thì tôi mới cứng cáp như mọi người được!". Từ đó, cô gái - vợ rắn - làm bạn với bà già và chẳng bao lâu lại tái ngộ với chồng và con. Ở đây cũng có đoạn kết thúc: cô chị nghe lời em nấu nước sôi tắm để được đẹp như em nhưng bị rơi vào nồi, chết . Một số truyện sau đây cũng phổ biến ở nhiều dân tộc, có kết thúc mang tính chất khôi hài, nhưng chủ yếu vẫn là những dị bản của kiểu truyện Lấy chồng dê. Truyện Lấy chồng lang của đồng bào Thái, Nghệ-an: Một chủ đất sinh được ba cô con gái. Một hôm đi gánh mạ cấy, ông già cất gánh không nổi, mới ước: "Có ba cô con gái mà không ai lấy cả, để có thằng rể nó giúp đỡ ta. Ai gánh hộ gánh này ta sẽ gả cho một đứa". Bỗng nghe sau lưng có tiếng nói: - "Có thực thế thì để tôi gánh cho". "Ai thèm nói láo". Nhưng khi ngoảnh lại thì chỉ thấy một con lang, ông cũng để cho nó gánh. Lúc về nhà ông cũng lần lượt hỏi ý kiến ba con, chỉ có cô thứ ba ưng thuận. Hôm cưới, lang vào buồng trút lốt thành một chàng trai đẹp. Hai vợ chồng yêu nhau và nhờ chồng lang chăm làm, họ trở nên giàu có. Hai chị thấy thế tiếc quá, một cô bèn bảo bố tìm cho mình một con lang để làm chồng. Người bố nhờ dân làng đi săn được một con đưa về. Đêm động phòng, lúc đầu bố nghe con từ trong buồng gọi ra: - "Ối bố, nó lấy móng cào chân con". Bố đáp: - "Nó giỡn chơi chứ can gì". Một lát sau lại nghe: - "Nó cào hai cánh tay con".- "Nó giỡn ấy mà". Lại một lát: - "Nó cào ở hông, lòi ruột ra rồi, con chết mất". "Sắp đến lúc con thỏa lòng mong ước đó". Lâu rồi không thấy con gọi nữa, người bố cho là con đã ngủ yên với chồng, nhưng sáng dậy mới biết là con đã chết mà lang thì trốn biệt Truyện Chàng dê của dân tộc Mèo: Một con dê thần có nhiều phép biến hóa, một hôm giữ lốt dê vào nhà một ông quan có hai cô con gái đẹp, hỏi một cô làm vợ. Dê nói mãi, quan bất đắc dĩ gọi hai cô con gái ra hỏi. Cô chị chê, cô em ưng thuận. Quan đòi nhiều vàng bạc, châu báu mới gả. Sáng dậy đã có đủ, lại có cả tiệc dọn toàn của ngon vật lạ đãi họ hàng. Dê ở gửi rể, tối là người, ngày là dê. Một hôm vợ nhân chồng ngủ say lấy lốt dê để đốt đi. Từ đấy vĩnh viễn là người, sinh con đẻ cháu đông đúc. Người ta nói ngày nay họ Giàng (do chữ dương - dê) là dòng dõi của dê thần. Còn cô chị thấy em sung sướng, tiếc quá đòi bố lấy chồng dê. Một hôm có con dê thật đến, cũng như truyện trên, cô bắt lên giường, nó nhảy lung tung, đạp rách chăn màn, xô đổ đồ đạc, lại húc cô ngã lăn ra phải kêu cứu . Một chuyện Ly chồng dê khác của người Vệt sưu tầm trong thời gian gần đây: Có hai chị em Dương và Bạch ở chung nhau. Chị xấu hơn em cả về nhan sắc lẫn tính nết, thường ghen tị và bạc đãi em. Một hôm, cả hai cùng đi dự hội nhà vua tuyển cung phi. Em trúng tuyển. Khi Bạch đi qua khu rừng để tiến cung thì Dương đội lốt beo bất thình lình nhảy ra vồ Bạch, làm cho Bạch sợ hãi quay trở về. Trong khi đó Dương lên đường vào cung nói dối mình là Bạch, nhưng không đắt vì vua thấy xấu xí, đuổi về. Một hôm Bạch đốt than để sưởi, làm cháy mất chăn của Dương, bị Dương đuổi ra khỏi nhà. Dọc đường Bạch gặp một con dê lông vàng. Dê bảo nàng theo mình rồi đi kiếm hoa quả cho nàng đổi gạo. Thực ra dê chính là người nhà trời bị Ngọc Hoàng bắt làm kiếp dê vì có tội. Đến hôm hết hạn, dê trút lốt trở thành một chàng trai tuấn tú. Hai bên kết thành vợ chồng, sống sung sướng giàu có. Dương ngày một nghèo khổ, nghe tin Bạch có chồng giàu thì đến nhà nhờ vả và hỏi thăm. Nghe Bạch kể, Dương cũng hy vọng được như em, bèn mua một con dê đực lông vàng về ở chung. Nhưng dê này đã làm cho cô ả nhiều phen xấu hổ, làm cho cô toan treo cổ tự tử. Vừa lúc vợ chồng Bạch tới cứu và sau đó giúp cho nàng làm lại cuộc đời . Truyện sưu tần ở Miến Điện (Myanmar): Hoàng tử rắn. Một bà già thích ăn quả vả, thấy một con rắn nằm vắt ở cành, bèn bảo nó rung cây cho mình nhặt, hứa sẽ gả con. Được ăn, bà già lờ đi tuốt. Lần lượt gặp cừu, cá chép, gà trống và cho mỗi con một quả, dặn có ai hỏi thì trả lời: - "Không có ai qua đây cả". Rắn đuổi theo, dọc đường hỏi thăm mấy con vật trên, chúng nó giấu nhưng giấu không nổi. Vào nhà bà già, rắn cuốn vào tay đòi giữ lời hứa. Bất đắc dĩ bà già phải gọi ba con gái ra hỏi. Chỉ có cô ba ưng thuận. Bà cho rắn nằm trong bồ treo ở đầu giường. Khi rình thấy rắn trút lốt thành người thì bà bèn lấy quẳng vào lửa. Rắn cho biết mình là con vua núi phạm tội hóa rắn, chỉ khi nào gặp người lấy làm chồng mới trở thành người. Từ đó người ta gọi là hoàng tử rắn. Hai chị hối tiếc, buộc mẹ đi tìm rắn làm chồng. Bà già lên núi bắt được con trăn đang ngủ mê đem về bỏ bồ treo trên đầu giường chị cả. Đêm lại trăn tỉnh giấc nuốt cô gái. Bắt đầu nuốt chân, cô gái kêu: -"Ôi, rắn cắn chân con". Bà già trả lời: - "Nó đùa đấy". Một lát: -"Nó ăn đến đầu gối con" - "Nhảm nào."- "Ăn đến bụng rồi, con chết mất!"- "Không can gì". Không thấy tiếng con nữa, bà già cho là con đã hết sợ chồng rắn. Lát sau vào thấy con trăn to phình nằm giữa nhà, bà già vội hô hoán ầm ĩ. Hoàng tử rắn chạy vào chặt đầu trăn, rạch bụng cứu chị ra nhưng vì vấy máu trăn, nên hóa thành rắn trở lại. Tuy vậy chỉ ít lâu chàng lại được trời cho trở thành người, vì có công liều mình cứu người. Đoạn sau giống hẳn với kết thúc của truyện Lấy chồng dê. Hoàng tử rắn có việc đi vắng sau khi trao cho vợ đá lửa và dao, rồi hai chị bày trò đánh đu xô em và con em xuống nước, hai mẹ con lọt vào bụng cá, rồi phải sống ở hoang đảo và gặp lại chồng. Cuối cùng được chồng giấu vào hòm đem hòm biếu hai chị: hai kẻ gian ác kinh hoảng vì tận mắt thấy mưu gian bại lộ, đâm đầu xuống nước chết . Truyện của đồng bào Tày Con rùa vàng: Một người đầy tớ gái của chúa làng có mang vì nuốt phải chiếc cúc áo bằng vàng nhặt được. Cô sinh được một con rùa vàng trước sự hắt hủi của chúa làng. Cũng như Sọ dừa, rùa lớn lên bị chúa làng bắt đi chăn trâu, số trâu không thể đếm xuể. Rùa làm tròn phận sự. Các cô gái chúa làng không chịu đưa cơm cho rùa, trừ cô thứ năm. Nhưng ở đây rùa lại thường trổ tài bay lượn trên không cho cô năm xem và đưa cả cô bay lượn với mình. Khi ở trên không, cô thấy rùa hiện thành một chàng trai trẻ. Từ đó hai bên yêu nhau. Rùa giục mẹ đi hỏi con gái chúa làng làm vợ. Lần đầu bà mẹ sợ, lúc đến nhà không dám nói thật, chỉ nói xin lửa. Lần thứ hai nói thật, bị chúa làng bỏ lên gác bếp. Lần thứ ba, bà bị bỏ lên cối xay quay, nhưng đều được cô năm che chở. Lần cuối cùng chúa mới hỏi các con gái, nhưng cô nào cũng từ chối, trừ cô năm. Ở đây chúa làng thách cưới: một ngựa chín hồng mao, gà trống chín cựa và mười hai ống mỡ châu chấu. Bằng môt tiếng nổ như sét, rùa hóa phép mọi thứ có đủ. Trong lễ cưới, rùa còn hóa phép làm cho buồng sáng như lửa, rồi lại làm cho mọi người câm một lát. Ở đây cũng có tình tiết các cô chị vợ đến rình ở buồng chú rể cô dâu, và khi thấy rùa là một chàng trai đẹp thì về đòi chúa làng lấy cho mình mỗi người một tấm chồng rùa. Họ quả lấy được rùa thật, gây cười cho mọi người. Sau đó vì ghen tức, các cô chị bày mưu giết em rể rùa, bèn đặt bẫy ở đường đi. Rùa mắc bẫy, máu chảy thấm cả áo. Đưa áo cho vợ, rùa dặn lúc nào mình sắp chết thì mặc áo vào sẽ được lên trời, vợ chồng sẽ gặp nhau. Vợ rùa sau đó được một ông tiên mách đường lên trời. Dọc đường nhờ được xem một cuộc chiến đấu giữa cáo và rắn, nàng tìm được vỏ cây cải tử hoàn sinh. Mang vỏ cây đi, nàng cứu được nhiều người và vật sống lại. Một hôm nàng chữa cho một chàng trai khỏi chết mà không biết đó là chồng. Nàng mang áo chồng lên đầu suối để giặt. Dòng nước có máu trôi xuống quyện lấy chân chàng trai. Biết là máu của mình, anh đi ngược dòng tìm gặp vợ. Hai vợ chồng mừng rỡ, từ đó ở lại cõi trời. Ông mặt trời bảo hai vợ chồng rùa xuống cõi trần gian hun chết bốn cô chị gian ác. Cho nên từ đó về sau, cứ đến ngày 27 tháng Sáu là ngày mặt trời nóng hơn cả . Một loạt truyện khác cũng là dị bản của chuyện Lấy chồng dê và Sọ dừa nhưng ở đoạn kết, hai vợ chồng bị chia ly vĩnh viễn (hoặc một thời gian) vì người vợ đốt bỏ lốt vật (hoặc lộ bí mật) của chồng. Truyện Lấy chồng dê trong Ngìn lẻ một đêm: Một ông vua cho ba nàng công chúa kén chồng bằng cách ném khăn vào đám hội thanh niên, khăn rơi vào ai thì người ấy sẽ là chồng. Riêng công chúa thứ ba lần lượt ném ba lần đều rơi trúng đầu một con dê. Nhưng khi động phòng hoa chúc thì dê biến thành một chàng thanh niên tuấn tú. Chồng dặn vợ chớ tiết lộ bí mật, nếu không sẽ có nguy cơ chia ly. Một hôm nhân ngày sinh nhật vua, người ta tổ chức đấu võ: hai người chồng của hai công chúa chị thắng tất cả mọi người, nhưng không ngờ bỗng xuất hiện một thanh niên lạ mặt đánh cho hai người kia thua. Ba lần chàng thanh niên đó giật giải là ba lần công chúa ném hoa vào người. Việc đó làm cho vua cha nổi giận vì cho rằng công chúa ba phải lòng chàng trai lạ mặt. Bất đắc dĩ, nàng phải thú thật. Nhưng từ đó không thấy chồng dê trở về, công chúa ba sau những ngày than khóc, mở một nhà tắm cho tất cả phụ nữ đến tắm không phải trả tiền nhưng buộc mỗi người kể một chuyện về nỗi khổ của mình. Một bà già đến tắm cho biết một hôm bà đang tắm ở suối, bỗng thấy một con lừa đeo hai cái cong không có người đi theo. Bà ta liền theo sát con vật, thấy nó vào một cái hang, sau khi đạp chân ba lần lên một tảng đá. Bước vào, thấy bếp ăn rất sang, mùi thơm ngào ngạt nhưng không có người. Bà đụng đến món nào cũng có tiếng nói phát ra: - "Không được, món này là của bà chủ tôi". Bà vào đến một phòng, bỗng thấy có bốn mươi con dê, trong đó có một con đầu đàn biến thành người. Họ ngồi than thở, vì bà chúa không đến được. Sau đó, họ lại biến thành dê và đi ra. Nghe chuyện công chúa ba bảo bà già đưa mình đến nơi đó, quả được gặp chồng . Một truyện khác của người Mèo Nhảy vào lửa cứu chồng. Có hai chị em sinh đôi cùng đi lấy chồng trong một ngày. Cả hai cùng không có con mới rủ nhau lên núi cầu tiên. Một cụ ông xách hai lồng gà nặng nhờ họ xách giúp. Em nhận lời ngay, nhưng khi mỏi tay trao cho chị, chị không xách. Nghe họ kể nỗi hiếm hoi, ông cụ lấy ra một bông hoa tươi, dặn mỗi người chon lấy một rồi ủ ở đầu giường. Chị chọn hoa tươi, mấy ngày sau nở ra sâu róm, đem đi giết, em lấy hoa héo, nở ra một con rùa, đem nuôi. Lớn lên, rùa bắt đi hỏi con gái chúa đất. Chúa đất thách cưới nặng (ví dụ rải nhiễu trên đường đi, một nghìn ngựa quí, tám trăm lợn béo, v.v...). Rùa biện đủ. Khi đón dâu về, rùa nghỉ dưới chân giường. Nhưng rùa lại hóa thành chàng trai tuấn tú hàng ngày cưỡi ngựa theo vợ đi chợ, cùng nhau hát xướng mà không cho vợ biết. Về sau nhờ bạn mách, biết được rùa cởi lốt thành người, và biến hòn đá trắng trước nhà thành ngựa, một hôm vợ bèn lẻn về trước, đem mai rùa quẳng vào bếp. Chồng về thấy mất lốt, than: -"Trời bắt ta làm kiếp rùa chín năm, nay chưa hết hạn mà lốt đã cháy". Bèn nhảy vào đống lửa, vợ cũng nhảy theo cứu chồng. Trời thương tình cứu sống và tha tội cho cả hai . Truyện Chàng kỵ mã của Mông-cổ: Hai vợ chồng nhà nọ nghèo, hiếm hoi, cầu thần mãi mới có mang nhưng lại sinh ra được một con nhái. Được ba năm, một hôm nhái bảo mẹ làm bánh cho mình để tới dạm hỏi một trong ba cô gái con quan làm vợ. Gặp quan, nhái ngỏ lời cầu hôn nhưng thấy quan từ chối, nhái bảo: "Nếu quan không bằng lòng thì tôi sẽ cười". Quan sẵn sàng cho nhái cười, không ngờ mỗi tiếng cười của nhái làm cho đất rung chuyển, nhà cửa cơ hồ muốn đổ, quan buộc phải hứa gả cô gái lớn để nhái thôi cười. Nhưng cô gái lớn không bằng lòng nên lúc theo nhái về, cô cho ngựa nhảy vào người nhái để ngựa dẫm cho chết, lại ném thớt cối vào người nhái. Nhưng nhái tránh được và dẫn cô trả lại quan, đòi gả cô khác, không thì sẽ khóc. Khi nhái khóc thi trời đất mù mịt, nước đổ ầm ầm tràn ngập khắp nơi, quan buộc phải gả cô thứ hai. Cũng như cô chị, cô thứ hai lúc theo nhái về cũng cho ngựa giẫm và ném thớt cối vào người nhái. Nhái lại dắt cô đi trả và đòi gả cô thứ ba, không thì sẽ nhảy. Rồi nhái nhảy, làm cho núi lở cát bay, nhà cửa lấu đài lung lay. Quan đành phải gả cô thứ ba. Cô này bằng lòng lấy nhái. Một hôm trong vùng mở hội, cả nhà đều đi dự, trừ nhái. Đến ngày cuối cùng có cuộc đưa ngựa nước rút, người ta thấy xuất hiện một chàng trai áo xanh cưỡi ngựa xanh, có yên cương quý đến đua với các kỵ sĩ đã thắng cuộc. Chàng đi sau, nhưng về đích trước tiên. Không những thế, trong khi đua, chàng còn ba lần bắn chết ba con diều hâu và hai lần xuống ngựa ngắt hoa ném tặng người dự. Nhưng khi mặt trời gác núi thì chàng đã phóng ngựa quay về bỏ mặc sự mời mọc đón chào của mọi người. Sau đó, cả nhà đi dự mới trở về, họ không ngờ chàng nhái cũng biết mọi việc xảy ra ở đám đua ngựa. Năm sau nữa, đến ngày hội mọi việc cũng xẩy ra như trên làm cho vợ nhái ngờ ngợ đấy là chồng mình. Năm sau nữa, đến ngày hội cũng thế, nhưng vợ nhái thình lình nửa chừng về nhà thì thấy chồng vắng mặt, chỉ bỏ lại một tấm da nhái. Nàng bèn đốt cháy tấm da. Khi chàng áo xanh - chồng nàng - cưỡi ngựa trở về thì da đã hóa tro. Chàng cho vợ biết chàng là con thần đất, vì sức lực còn non, không có da sẽ không chịu nổi giá rét, nếu đi cầu thần được ba việc thì sẽ sống. Thần hứa cho vợ nhái nhưng lại bắt nàng phải đem ba điều đó thông báo với từng nhà cho mọi người biết trước khi trời sáng mới được. Việc báo tin này, vợ nhái không làm tròn vì bị bố nàng cản trở. Thế là chàng nhái chết, vợ nhái cũng biến thành đống đá trước mộ . Người Ấn-độ có năm truyện: 1. Một người vợ vua đẻ được một con trai giống khỉ. Lớn lên khỉ thỉnh thoảng trút lốt đi chơi. Thấy chàng trai ấy thắng nhiều trong cuộc thi, một nàng công chúa nước khác dò biết, bèn đòi bố mẹ cho lấy hoàng tử khỉ làm chồng. Lễ cưới xong, đêm lại trút lốt thành người đến với công chúa, và dặn vợ tuyệt đối chớ tiết lộ. Một hôm khi đi dự hội, trút lốt cất ở dưới gối. Công chúa nói sự thật với mẹ chồng. Mẹ chồng khuyên nàng dâu đốt bỏ. Đang đốt, công chúa thấy chồng hốt hoảng trở về trách vợ, nhưng rốt cuộc chồng vẫn không việc gì. 2. Một cô gái tên là Tu-li-sa con một người tiều phu nghèo, một hôm đi nhặt củi gần một cái giếng hoang giữa rừng, bỗng nghe một tiếng từ dưới giếng vọng lên: - "Có muốn làm vợ ta không?". Cô gái sợ, bỏ về. Lần khác qua đó lại nghe như thế, bèn về kể với bố mẹ. Bố dặn con trả lời: - "Việc ấy cứ hỏi bố tôi". Sau khi nghe cô gái nói thế, tiếng nói dưới giếng lại đáp: - "Bảo bố cô đến đây!". Khi ông bố đến, người bí mật hứa sẽ làm cho ông giàu có nếu ông gả con cho y. Người bố ưng thuận. Người bí mật đưa Tu-li-sa đến một lâu đài đẹp, nhưng cô chỉ thấy chồng vào ban đêm mà thôi. Chồng dặn vợ cấm nhận người lạ vào nhà, nhưng một hôm vợ lại đưa một bà già vào. Bà già hỏi chồng tên gì, nàng không nói được. Nghe lời xui, tối vợ lại hỏi tên chồng, chồng đáp: - "Nếu ta nói thì nguy mất". Nhưng do vợ nài mãi, chồng đưa vợ đến sông, rồi xuống nước, ba lần bảo vợ có thôi hỏi nữa không. Vợ vẫn không nghe. Chồng nói: -"Ta là Bát-xơ-nắc Dau". Rồi biến mất, được một lát nổi lên cái đầu rắn. Vợ trở lại lâu đài thì lâu đài cũng biến mất, đành trở về, hai cha con lại nghèo như trước. Sau đó Tu-li-sa cứu sống một con sóc. Một hôm sóc đến tìm, ra hiệu bảo nàng đi theo mình vào rừng. Đến một nơi, nàng nghe những con sóc nói với nhau, mới biết chồng mình là vua rắn bị bà mẹ thù oán từ ngày làm vua. Biết rằng quyền lợi sẽ lại về tay, nếu vua rắn nói rõ tên cho một người trần thế biết, nên bà mẹ sai bà già làm mẹo cho vợ vua rắn giục chồng nói tên ra. Những con sóc còn nói: nếu tìm được trứng chim hu-ma mà ấp vào lòng thì vợ chồng sẽ trở lại hạnh phúc. Nhưng còn phải đến gặp mẹ vua rắn chịu qua nhiều thử thách mới được. Tu-li-sa nhờ sóc tìm được trứng chim và đưa đến nhà mẹ chồng. Thử thách đầu tiên là tìm ra một bình thủy tinh đựng một ngàn hương thơm (trước khi đến, nàng đã giúp việc cho một con ong nên nó giúp cho nàng việc này trót lọt). Hai là nhận một vại đầy hạt cải, nhưng phải lấy ra những trang sức đẹp (nhờ sóc giúp). Khi trứng ấp xong nở ra chim, con chim này bay đến một con rắn xanh đang quấn cổ mẹ vua rắn. Phép màu tự nhiên bị phá. Bát-xa-nắc Dau trở lại làm vua và cưới Tu-li-sa . 3. Một cô gái đi tìm trâu lạc đến một lâu đài, lần lượt qua bốn cửa: đỏ, vàng, xà cừ, mã não. Cô vào một phòng đẹp, trên bàn có nhiều trang sức đắt tiền. Một con chim lớn lông trắng bảo lấy nó thì nó sẽ tìm trâu cho. Cô từ chối trở về. Ngày mai cô thứ hai và ngày sau nữa đến lượt cô thứ ba đến đều gặp những việc như trên. Cô sau này nhân lời ở lại. Ít lâu sau trong một ngày lễ lớn, một bà già nói với cô là có một chàng kỵ sĩ nào đó được mọi người trầm trồ, chẳng qua là con chim - chồng cô - biến thành. Vậy muốn giữ mãi dạng người thì phải đốt cái nhà chim (vô-jen-hu-jơ). Cô đốt, chim hiện ra nói: - "Ôi, đó là hồn ta, ta chết mất!". Chim biến đi, trở về xứ thần và quỷ. Vợ bỏ đi tìm chồng. Trải qua nhiều gian khổ, vợ gặp chồng trên lưng có một gói giày, Hỏi thì chồng bảo là phải đi xách nước cho thần và quỷ dùng, nên đi vẹt hết rất nhiều giày. Muốn chồng trở về phải sửa lại "cái nhà chim" và gọi hồn về. Cô gái trở về làm theo lời dặn, quả chồng lại xuất hiện. 4. Vua Prê-ma-xê-na có một công chúa đẹp tên là Ma-đa-na-rếch-kha và hai con trai nhỏ. Một hôm hoàng tử anh ở trên bờ sông bỗng nghe có tiếng: - "Nếu vua không gả con cho ta, tai họa sẽ đến cả thành phố và vua". Lúc về kể lại nhưng không ai tin cả. Đến lượt hoàng tử thứ hai lại nghe tiếng nói trên. Vua hỏi các cố vấn, cố vấn bảo cho người đến sông nọ hỏi câu: - "Là thượng đế, là thần hay là người?". Hỏi xong liền có tiếng đáp: - "Ta là người gác cửa của thần In-đờ-ra, vì có tội phải thác sinh ở thành này làm một con lừa ở nhà một người thợ gốm. Hãy gả công chúa cho ta không thì tai họa". Vua hứa gả sau khi buộc thần làm cho một bức tường đồng bao bọc lấy thành và dựng một lâu đài. Sáng hôm sau có đủ. Thần được vợ bèn trút lốt thành người. Công chúa lấy làm sung sướng. Hoàng hậu một hôm đến thăm biết thế, bèn ném lốt vào lửa. Thần về tìm mãi không ra, bảo vợ: - Thế là ta phải về trời vì lời rủa đã mất linh nghiệm. Nói xong biến mất. 5. Hai vợ chồng người Bà-la-môn không con. Cầu cúng mãi, cuối cùng vợ đẻ một con rắn. Sau đó người Bà-la-môn hỏi con gái một người Bà-la-môn khác cho rắn làm vợ. Sau khi cưới, đêm lại rắn trút lốt thành một chàng trai xinh. Sáng dậy, người bà-la-môn vào buồng thấy lốt rắn bèn nhanh tay chụp lấy, ném vào lửa. Truyện Pxi-sê (Psychée) trong thần thoại Hy-lạp (Grèce): Một ông vua có ba nàng công chúa, trẻ và đẹp nổi tiếng là công chúa ba Pxi-sê. Hai chị đều đã lấy các hoàng tử. Bấy giờ có một lời phán truyền bảo công chúa ba phải kết duyên với một con quái vật hình giống rắn ở trên núi. Sau đó thần Gió Dê-phya (Zéphyre) đưa công chúa ba lên núi vào một lâu đài, thành vợ một người lạ mặt, chỉ đêm mới xuất hiện, nhưng nàng không bao giờ được nhìn mặt chồng. Công chúa sống sung sướng, sau đó nàng đòi gặp chị mình. Chồng cho gặp nhưng dặn phải tuyệt đối giữ bí mật, nếu không sẽ đau khổ. Dê-phya đưa công chúa chị đến. Em kể cho chị biết. Chị ghen với số phận của em, bảo phải giết y, không thì rắn sẽ ăn thịt mất. Đêm, khi chồng ngủ, công chúa cầm dao nhọn và ngọn nến soi xem mặt chồng thì một giọt nến bất ngờ chảy xuống vai chồng (Đó là thần ái tình Qui-pi-dông (Cupidon)). Tỉnh dậy, chồng biến mất không trở lại. Tìm khắp nơi không thấy, công chúa phải cầu cứu tới thần Vê-nuyx (Vénus). Vê-nuyx vì thấy công chúa dám lấy con mình, bèn bắt làm mấy việc: 1/ Nhặt các thứ hạt trộn lẫn (một con kiến đã giúp công chúa việc này); 2/ Lấy một nhúm lông vàng của những con cừu hung dữ (một cây sậy giúp); 3/ Mang một cái hộp xuống địa ngục xin hoàng hậu Pro-déc-pin (Prozerpine) cho một ít sắc đẹp. Nhờ có cái tháp bày cho, lấy được, nhưng do tò mò mở ra xem nên một giấc ngủ triền miên đột nhiên đến với công chúa, may nhờ có Qui-pi-dông kịp thời thức cho tỉnh dậy. Vợ chồng gặp lại nhau. Một loạt truyện sau đây có một số tình tiết khác biệt nhưng cũng đều xoay quay đề tài người chồng kỳ diệu. Truyện Pháp Con sói trắng: Một người sắp đi du lịch, cô con gái cả xin cha đưa về cho mình một cái áo đẹp, cô thứ hai cũng thế, chỉ có cô thứ ba thì xin một đóa hồng biết nói. Hỏi khắp nơi không ai biết cả người ấy tự nghĩ: -"Nếu không có thì sao con ta lại đòi". Cuối cùng đi đến một tòa lâu đài nghe trong có tiếng hát. Tìm mãi mới thấy cửa, ông tiến vào sâu, thấy có một cây hồng có hoa đang hát, khắp nơi không một bóng người. Ông ngắt một bông. Bỗng có một con sói trắng hiện ra nói: -"Ai cho phép ngươi đến đây hái hoa, vậy ngươi phải chết!". Đáp: - "Tôi xin trả lại hoa." - "Không được, đã bẻ là phải chết." Thấy người nọ phân trần mình hái cho con gái, sói nói: - "Ta tha cho, nhưng phải mang đến đây người mà ngươi gặp đầu tiên lúc về". Người mà ông gặp đầu tiên không ngờ lại là con gái út. Nghe bố kể xong, cô nói: - "Con sẽ đi chết thay cha". Cha con lại dắt nhau đến. Sói bảo: - "Ta là tiên, bị giam, thành ra thế này, vậy phải hết sức giữ bí mật". Cha con vào phòng có cơm dọn sẵn cho ăn. Đêm sói hóa thành ông chúa đẹp, sáng trở lại thành sói. Vài ngày sau, người cha trở về. Ai hỏi, ông cũng không nói, nhưng sau không thể giấu được nữa, nói toạc tất cả. Bỗng nghe một tiếng rú rùng rợn: một con sói trắng ngã lăn dưới chân . Truyện của người Băng-la-đex (Bangladesh): Một ông vua sắp đi xa, cho người hỏi sáu con gái muốn mang gì về, họ đều muốn có trang sức và vải quý, trừ cô út đang đọc kinh bảo người hầu hãy chờ (chờ, ở đây nói là sa-brơ). Nhưng người hầu lại tưởng yêu cầu của công chúa là "sa-brơ" nên vội chạy về tÂu lại với vua. Vua không hiểu là gì nhưng cũng ra đi. Mua xong cho các con gái, vua định quay về, nhưng thuyền không tiến lên được. Sực nhớ tới lời dặn của con gái út, vua bèn sai người hầu lên hỏi ở các cửa hàng. Người ta không hiểu "sa-brơ" là gì, chỉ cho biết có một vị hoàng tử tên là Sa-brơ mà thôi. Khi hoàng tử biết chuyện, bèn đưa người hầu của vua có một cái hộp, bảo đó là yêu cầu của cô gái. Thuyền liền đi được. Đưa hộp về nhà, công chúa mở ra thấy một cái quạt nhỏ, xòe quạt thì hoàng tử hiện ra, xếp lại thì biến đi. Hai người lấy nhau. Công chúa mời bố và các chị tới dự. Các chị ghen em nên rắc mảnh chai vụn lên giường cưới. Vì thế hoàng tử bị thương nặng, nhưng vẫn không cho vợ biết, chỉ bảo vợ xếp quạt để về. Mấy ngày sau xòe quạt không thấy chồng tới, công chúa bèn cải trang thành một nhà tu ăn mày đi tìm chồng. Một hôm ngủ dưới gốc cây nghe hai con chim nói chuyện với nhau về bệnh của hoàng tử và cách chữa. Đến hoàng cung, công chúa xin vào chữa vết thương của hoàng tử, chữa lành mà chồng vẫn không biết. Khi vua thưởng thì không lấy gì cả, chỉ xin cái khăn tay và nhẫn của hoàng tử. Trở về, công chúa xòe quạt ra hoàng tử lại đến, công chúa đưa hai vật kia làm cho chồng kinh ngạc. Truyện của người Ý (Italia): Một người lái buôn giàu có sắp đi chơi, hỏi ba con gái muốn gì sẽ mang về, hai cô chị muốn trang sức, còn cô em thì chỉ muốn một cái bình cây "ruy". Lái ta ra đi quên mất lời dặn của cô con gái út. Nhưng tàu bỗng dưng mắc lại không tiến được. Cai tàu cho biết chắc trong hành khách có ai quên một lời hứa nào đó. Lái ta sực nhớ, bèn xin lên bờ tìm cây "ruy". Người ta cho biết chỉ có vua mới có cây ấy, nhưng dù chỉ xin một lá cũng bị xử tù. Lái ta xin cả cây. Vua cảm động vì lòng thương con của hắn, bèn cho cả cây, dặn mỗi chiều đốt một lá. Đưa về cô gái đốt lá như lời dặn, tự nhiên có hoàng tử xuất hiện, hai người yêu nhau. Một hôm cô đi vắng, người chị ghen ghét đốt cháy cả cái buồng của em. Cây cũng cháy. Hoàng tử hiện ra giữa lửa nên bị bỏng và bị thương vì những mảnh gương bắn phải, liền biến mất. Cũng như truyện trên, cô gái về thấy cây quý cháy, bèn cải trang đi tìm người tình. Nằm dưới gốc cây ở rừng, cô nghe một con yêu nói với vợ: - "Chỉ có lấy mỡ ở xung quanh tim chúng ta mới chữa được bỏng cho hoàng tử". Thừa lúc chúng ngủ say, cô giết cả hai. Rồi giả làm thầy thuốc đến cung đình chữa lành cho hoàng tử. Hai người lấy nhau. Truyện của ngưởi Thụy-điển (Suède): Một ông vua có ba cô gái nhưng yêu cô thứ ba hơn cả. Một đêm cô này mộng thấy một tràng hoa vàng rất đẹp. Thấy con gái buồn, vua sai thợ kim hoàn làm cho một tràng hoa vàng đúng như trong mộng, nhưng cũng không làm cho con khuây khỏa. Một hôm công chúa đi dạo trong rừng gặp một con gấu trắng trong tay có một tràng hoa y như trong giấc mộng. Hỏi mua gấu không bán, chỉ muốn lấy công chúa. Công chúa vừa nhận lời thì gấu đưa cho ngay. Ba ngày sau gấu đến như lời hẹn. Vua đã sai một đại đội vây lâu đài để cản đường gấu, nhưng nó đánh ngã tất cả. Vua lại sai hai công chúa chị cải trang để thay, nhưng gấu không bị lừa. Đành phải gả. Gấu mang công chúa về ở một lâu đài, đêm đêm hóa thành người để đến với công chúa, nhưng công chúa không thấy mặt, vì sáng ra người lại hóa gấu. Công chúa đòi về thăm bố mẹ, gấu cho đi, nhưng dặn đừng có nghe lời mẹ. Ở nhà ba ngày. Khi con ra đi bà mẹ trao cho một mẩu nến để đêm nhìn trộm mặt chồng. Cũng như truyện thần thoại Hy-lạp, khi nhìn, công chúa vô ý để giọt nến rơi xuống trán chồng, làm chàng tỉnh dậy, biến mất. Truyện của người Xi-xin (Sicile): Một người nghèo khổ, ba con gái lần lượt bảo ông đi tìm thần số mệnh của mình mà cầu xin. Người ấy ra đi, cuối cùng được một ông già tiếp. Ông già lần lượt giao cho ba con ngựa, dặn phải bán giá đắt rồi đưa tiền về cho mỗi đứa con. Con ngựa thứ ba có một ngôi sao trên đầu, ông già dặn chỉ bán cho người nào cho nó ăn mà nó chịu ăn. Đưa về, ai cho ăn nó cũng lắc đầu, kể cả vua. Một nàng công chúa thử cho ăn thì nó ăn ngay. Công chúa liền mua với một số tiền lớn, rồi cho ngựa ở trong buồng. Nguyên con ngựa này là một ông vua bị phù phép hóa thành, đêm là người, ngày là ngựa. "Vua ngựa" lấy công chúa làm vợ, nhưng dặn công chúa không được tiết lộ bí mật của mình với ai mà nguy đến tính mạng. Một hôm công chúa tiết lộ với một người bạn gái. Ngựa liền biến mất. Đau khổ, công chúa cất công đi tìm, người ta cho biết chồng ở trong một lâu đài, phải có miếng ăn từ miệng một mụ chằng mới được mở cửa. Cuối cùng công chúa cũng lọt được vào nhà mụ chằng trong lúc mụ đi vắng. Con gái mụ tiếp đãi công chúa niềm nở. Sau khi biết yêu cầu của công chúa, cô giấu công chúa vào một nơi. Khi mụ chằng về ngồi vào ăn, cô hỏi: -"Mẹ đang ăn cái gì đấy". Mụ nhả miếng ăn ra, bấy giờ đã nhai thành hình một hạt quả. Cô lấy giấu đi rồi đưa cho công chúa. Nhờ vậy, công chúa lọt được vào lâu đài, thấy chồng đang nằm mê trên một cái giường, bên cạnh có hai cái bình. Công chúa phải khóc nước mắt chảy đầy hai cái bình mới làm chồng tỉnh dậy được. Cuối cùng công chúa cũng cứu được chồng và hai người sống sung sướng. Truyện của người Chi-lê (Chilli): Một ông vua thích ăn cá tươi, buộc một ông già câu cá phải cung cấp cá cho mình hàng ngày nếu không thì chém đầu. Ông già có vợ, hai người con gái yêu và một con chó cái. Một hôm ông không câu được gì cả. Bỗng có một con cá nhỏ vẩy đỏ nổi lên mặt nước, bảo: - "Tôi sẵn sàng cung cấp cho ông đủ số cá hàng ngày, nhưng ông phải hứa cho tôi người hay vật đi đón ông trên đường về hôm nay". Ông già nghĩ chỉ có con chó thường đi đón mình hàng ngày nên nhận lời. Không ngờ hôm ấy đón ông không phải là chó mà là con gái út. Ông hết sức buồn khi nghe tiếng con cá nhắc ông giữ lời hứa. Thấy vậy, cô gái nguyện hy sinh. Cô phải ra ngồi ở một hòn đá giữa biển, đợt nước triều lên cho cá đến bắt đi. Nhưng vừa xuống nước thì bỗng xuất hiện một lâu đài đẹp có đầy đủ mọi thứ, chỉ một điều cấm kỵ là thắp đèn ban đêm. Vì thế cô biết có người nằm với mình mà không thấy mặt. Sau một thời gian, cô xin phép về chơi nhà, nhờ mẹ giúp cho một ít nến và bao diêm, cô được nhìn mặt người chồng là một chàng trai đẹp. Ở đây cũng có tình tiết chàng trai biến mất khi cô vô tình để giọt nến nhỏ vào người. Buồn rầu, cô nhờ một con chó đưa về nhà bố mẹ chồng. Lúc này cô đẻ một đứa con trai có ổ khóa ở bụng như bố nó. Sau một thời gian nghe tin chồng trở về, cô sợ tội bỏ trốn vào rừng, làm cho cá vẩy đỏ mất công tìm kiếm mãi, cuối cùng hai bên gặp nhau, cá từ đấy mang lốt người. Cuộc sống hai vợ chồng lại sung sướng. Hai dị bản của Miến-điện (Myanmar) có nhiều tình tiết khác với các truyện trên: 1. Một người đàn bà sinh được một con trai, chỉ có đầu, không tay không chân. Chồng định vứt nhưng vợ bảo để lại nuôi, cũng đặt tên là Sọ dừa. Con bảo mẹ bán mình cho một người lái buôn lấy một ngàn đồng. Khi bán rồi, Sọ bảo người lái đưa mình ra chợ cho người xem lấy tiền. Khi người lái thu được đủ số tiền bỏ ra. Sọ lại bảo bán mình cho một thuyền buôn nước ngoài lấy một ngàn đồng. Đoàn thuyền đi ra bị bão, họ định ném Sọ xuống biển. Sọ nói: - "Chớ ném. Hãy trói tôi lên cột buồm, sẽ có sự yên lành". Khi ở trên cột buồm, Sọ thổi gió cho thuyền vượt sóng bình an. Họ trả tự do cho Sọ, Sọ xin ghé ở một hòn đảo dọc đường. Đảo này có yêu tinh. Ở với chúng nó được mấy tháng. Sọ học được của chúng mấy câu phù chú. Khi thuyền buôn về qua, Sọ gọi họ ghé vào xin cho mình trở về nước. Yêu tinh biếu một túi ngọc đỏ, Sọ đem phân phát cho thủy thủ. Rồi bảo họ dẫn mình đến hoàng cung. Gặp vua, Sọ bảo nếu không gả công chúa và nhường ngôi cho thì sẽ san phẳng thành trì. Vua cười chế nhạo. Sọ lấy ra một cái hộp niệm chú, tự nhiên có hàng vạn kỵ mã vây bọc hoàng cung. Vua đầu hàng. Sọ lấy công chúa và biến thành chàng trai, cuối cùng lên làm vua. 2. Hai chị em lấy chồng, chị sinh một đứa con trai. Còn em thì một con rùa. Chị toan ném đi nhưng em cản lại, nuôi lớn và đặt tên là Rùa vàng. Anh em nhà rùa yêu nhau, đi đâu cũng theo nhau. Chàng trai xin mẹ một chiếc thuyền đi ra nước ngoài buôn bán. Mẹ cho, nhưng không cho đưa rùa theo. Rùa cũng nói mình sợ biển không muốn đi. Nhưng khi thuyền vừa ra khơi đã thấy rùa nằm gọn trong khoang. Bão làm thuyền dạt lên một hòn đảo đầy yêu tinh cái. Chúng hóa thành những cô gái đẹp, cuối cùng kết hôn với những người trên thuyền. Trong khi mọi người say sưa trong tiệc cưới, thì rùa đã nghe được lũ yêu tinh bàn nhau ăn thịt người. Rùa giấu các thứ bảo bối của chúng đi (một hộp đựng sinh mệnh, một viên ngọc giá trị một vương quốc, một cái trống bói cầu được ước thấy), rồi lén đánh thức anh và mọi người dậy kể cho biết chuyện, và đưa họ vào rừng xem xương những người mà chúng ăn thịt. Sau đó rùa đánh cắp tất cả bảo bối xuống thuyền. Lũ yêu tinh sắp đuổi kịp thì bị tiêu diệt, vì rùa kịp thời đập nát hộp chứa sinh mệnh của chúng. Thuyền cập bến một kinh thành, rùa đưa ngọc làm sính lễ để vua gả công chúa đẹp cho anh mình. Tuy được làm quan to nhưng rùa chỉ muốn về. Nhờ chồng bói, rùa về gặp mẹ, bảo mẹ tới hỏi công chúa đẹp mà có đến bảy hoàng tử đang tranh nhau cầu hôn. Vua hứa sẽ gả nếu làm được một cầu vàng một cầu bạc nối liền từ nhà rùa đến cung điện. Sáng dậy vua thấy rùa từ cầu bước vào cung, đành phải gả. Bảy hoàng tử mang quân sang đánh vì cho vua đã gả con cho một con vật hèn hạ (tương tự truyện Thạch Sanh). Nhưng với trống bỏi, rùa đã mang quân hùng tướng mạnh của mình phá tan quân bảy nước. Một đêm công chúa ngủ dậy thấy có chàng trai đẹp, và một cái lốt rùa, bèn ném lốt vào lửa. Chàng trai tỉnh dậy kêu lên: - "Ôi, tôi bị cháy!" Công chúa lật đật dội ngay một thùng nước lã. Từ đấy hai người sống hạnh phúc Tóm lại những truyện thuộc kiểu truyện Lấy chồng dê và Sọ dừa rất phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới.
__________________
![]() |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|