#51
|
||||
|
||||
![]() GIẾT CHÓ KHUYÊN CHỒNG Ngày xưa có hai anh em nhà kia, anh có lắm tiền nhiều bạc, còn em thì cam phận túng bấn. Nhưng người anh vẫn không mấy khi đoái hoài tới em mình, trái lại chỉ thân thiết với bọn vô lại, nay rượu chè, mai cờ bạc làm vui. Hắn riết róng với em bao nhiêu thì lại hào phóng với bọn chúng bấy nhiêu. Mặc dầu thế, người em vẫn không oán anh nửa lời. Chỉ có vợ người anh vẫn thường khuyên chồng nên tránh bạn xấu, vì họ chẳng qua "Khi vui thì vỗ tay vào; Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai ". Chồng ra sức cãi: - Các bạn tôi đều là những người tốt bụng tử tế cả. Đừng nhầm! Vợ thấy can không được, bèn tìm dịp cho chồng một bài học. Một hôm chồng đi vắng, vợ ở nhà đánh chết một con chó to đem chiếu cuốn lại, cột dây thật chặt rồi để ở xó vườn. Tối đến, khi chồng về, vợ giả làm bộ sợ hãi, nói: - Ban trưa, lúc mình đi vắng, có một thằng bé đến xin ăn. Tôi chưa kịp cho nó đã chửi rủa ầm ĩ. Tức mình, tôi phang cho một đòn gánh, không ngờ nhằm chỗ phạm, nó lăn ra chết. Tôi đành lấy chiếu bó xác để ở góc vườn. Bây giờ phải nhờ một người nào thân tín đến chôn giúp cho và giữ kín miệng, đừng để cho đầy tớ và xóm làng biết. Chồng nghe nói đến xác chết, sợ hết hồn. Song hắn cũng yên tâm vì nghĩ đến mấy ông bạn thiết. Hắn vội chạy đi tìm họ và kể hết tình thực và nhờ họ chôn cất. Nhưng khi nghe thủng câu chuyện của hắn, ông bạn nào cũng tái mặt đi. Sợ liên lụy tới mình nên ông nào cũng tìm cớ thoái thác. Cuối cùng năn nỉ khắp lượt mà không được gì cả, hắn tiu nghỉu trở về nói cho vợ biết. Vợ bảo: - Thế thì sang nhờ chú nó xem sao. Hắn chạy đi gọi em, em đến ngay. Khi biết rõ chuyện, người em giục làm gấp. Đoạn em xắn áo giúp anh một tay, không nề hà gì cả. Xong việc, chị vợ bảo chồng: - Đó, đã thấy chưa! Nào mình còn mong chờ bạn hữu nữa thôi. Nếu không có chú nó thì làm sao lo liệu được cho ổn thỏa. Chồng nghe vợ nói có ý hối hận. Từ đó đối với bạn hữu có vẻ lạnh nhạt. Không ngờ mấy người bạn thấy thế đến nhà giở mặt dọa nạt, đòi phải cho chúng tiền chúng mới chịu ỉm việc này đi cho. Nghe thế, chồng hoảng sợ, toan đưa tiền bạc ra khấn khứa chúng, nhưng người vợ nhất định không chịu, bảo họ muốn làm gì thì làm. Quả nhiên bọ vô lại thấy không xơ múi gì cả, liền đem việc tố cáo với quan trên. Quan tin là một vụ án mạng thực, bèn xuống trát bắt hai vợ chồng. Trước công đường, người vợ khai rõ đầu đuôi câu chuyện giết chó để thử bạn chồng và em chồng, cuối cùng là kết quả như đã thấy. Quan sai người đến chỗ bãi hoang quật xác lên thì quả nhiên chỉ là một cái xác chó. Quan bèn tha cho hai vợ chồng về và sai lính đánh đòn mấy tên nguyên đơn xấu bụng. Từ đó người chồng mới cạch mấy người bạn xấu và giúp đỡ em ân cần tử tế [1] . KHẢO DỊ Có một truyện của đồng bào Thái giống với truyện trên: Thấy chồng thân với bạn mà ghét em, một hôm nhân chồng săn được nai, vợ bảo thử xem lòng bạn tốt, xấu thế nào, bằng cách nói dối với bạn là mình bắn nhầm phải người. Kết quả các bạn của chồng sợ bị liên lụy đều từ chối cả. Chỉ có người em nghe nói thế vui lòng giúp đỡ anh. Thế là hai anh em đi khiêng nai về chén thịt. Chồng từ đó yêu em hơn trước. Truyện Giết chó khuyên chồng bênh vực thứ tình thân gia tộc trong môt xã hội phương Đông còn nhiều dây mơ rễ má với chế độ tông pháp là thứ chế độ coi trọng pháp luật gia tộc và quan hệ tập truyền hơn pháp luật của xã hội nên tư tưởng rất lạc hậu, ít bắt gặp trong cổ tích các nước phương Tây. Mặc dù thế, mô-típ giết súc vật giả người để thử thách quan hệ tình cảm, tâm lý lại khá gần với một số truyện của nước ngoài. Truyện của người Xi-xin (Sicile): Một anh chàng thường khoe với bạn rằng mình có một người vợ tính hạnh có một không hai trên trần thế: biết thương chồng, chiều chồng. Bạn bảo hắn thử xem. Một hôm, anh chàng mua ở chợ về một cái đầu dê bọc trong những tầng khăn đẫm máu và bảo vợ: "Tôi có giết một người. Bây giờ cần phải làm cho mất tích. Nàng giấu kín cho nhé!". Không bao lâu, vợ tố cáo chồng lên quan, quan cho bắt chồng về tra tấn. Hỏi chỗ chôn xác, hắn đáp là quẳng xuống giếng. Một tên lính được lệnh lặn xuống. Khi sờ phải đầu dê, nó kêu lên rằng đã tìm thấy. Quan có ý mừng. Nhưng rồi tên lính đưa đầu lên, nói thêm: - "Mà có sừng". Quan lặng ngắt. Truyện Sự bí mật của người Pháp: Nhà nọ có một người vợ có tật mách lẻo, việc gì trong nhà chưa tỏ thì ngoài ngõ đã tường. Chồng kiếm dịp cho vợ một bài học. Một hôm, chồng mua một con lợn giết chết và chôn trong rừng. Về nhà, bảo vợ: - "Tôi nhỡ tay giết chết một người bạn và chôn ở mé rừng kia. Mình đừng có mách với ai cả nhé!". Chỉ một khắc sau đó, vợ không giữ được mồm miệng, đã tỉ tê việc ấy cho láng giềng biết và có dặn thêm: - "Này, bà giữ kín hộ nhé!". Từ miệng người láng giềng, câu chuyện "bí mật" truyền đi khắp mọi nơi, ai cũng dặn: - "Đừng kể cho ai cả nhé!". Và cuối cùng tin đó đến tai sở cảnh sát. Quan sai lính bắt người chồng dẫn đến chỗ chôn xác người, nhưng họ tiu nghỉu khi thấy đó chỉ là xác một con lợn. Người Đức, người Anh và người Nga cũng có truyện tương tự như của người Pháp. Truyện của dân tộc Can-múc (Kalmouk) ở Mông-cổ và Liên-xô [cũ]: Ma-hăng-sa-da trở thành quan đầu triều và được lấy con gái vua làm vợ. Một hôm, vua hỏi các quan: -"Nếu ta có việc bí mật thì nên thổ lộ với ai?". Ý kiến của Ma-hăng-sa-da là không nên thổ lộ với ai cả, nhất là vợ lại càng không nên. Thấy mọi người bác đi, ông nói: - "Rồi tôi sẽ chứng minh cho mà xem". Ít lâu sau, một con công của nhà vua bay ra. Ông ta bắt lấy, giấu đi một chỗ, và kiếm một con khác đưa về cho vợ, bảo: - "Đây là con công của nhà vua sổ lồng. Ta làm thịt nấu ăn đi và mình hãy giữ bí mật, đừng nói với ai cả nhé!". Sau đó ông chọc tức vợ, quả nhiên vợ đem việc giết công về kể cho vua cha biết. Nghe kể, vua sai bắt ông ta giam lại. Và mặc dù biết ông ta cốt chứng minh với mình câu chuyện ngày trước, vua cũng sai đao phủ xử trảm. Trước khi chịu cực hình, Ma-hăng-sa-da đã làm mấy câu thơ, ý nói: - "Vua không bao giờ là một người bạn; người đao phủ thì không biết ai với ai cả; và không nên nói điều bí mật với vợ mình" [2] . Truyện của người Ấn-độ và Áp-ga-ni-xtăng (Afghanistan): một người cha trước khi tắt thở có dặn con ba điều: chớ nói việc bí mật với vợ, chớ kết bạn với lính, chớ trồng cây có gai ở trong vườn. Người con không cho là đúng, hắn cố ý làm trái lời cha để thử xem thế nào. Hắn kết bạn với một người lính, và trồng một cây có gai ở giữa vườn. Và sau cùng một hôm để thử vợ, hắn giết một con cừu quẳng xuống cái giếng cạn, rồi nói với vợ là có nhỡ giết một người, nhớ giữ kín hộ. Chẳng mấy lúc, tật mách lẻo của người vợ đã làm cho câu chuyện đến tai láng giềng. Từ láng giềng, chuyện được truyền đến tai vua. Bấy giờ người lính bạn anh chàng nọ đã thăng đến chức tuần cảnh. Hắn đến nhà bạn túm cổ bạn lôi đi. Lúc ấy bạn hắn đang ngồi dưới bụi gai trong vườn. Bị lôi kéo, cái khăn mắc vào những cành gai nhọn khiến hắn phải đến yết kiến vua bằng cái đầu trần. Nhưng rồi chẳng ai thấy xác người đâu cả ngoài xác con cừu, nên chàng ta cũng được tha bổng [3] . Câu "Giết chó khuyên chồng " thường tiếp liền với câu "Mài dao dạy vợ ". "Mài dao dạy vợ " cũng có sự tích: Xưa có một gia đình, mẹ chồng ở với nàng dâu thường hay xô xát, lục đục. Người con trai ở giữa khổ tâm vô hạn. Một hôm hắn mua một con dao bầu về mài. Vợ hỏi làm gì, hắn đáp rằng bởi mẹ chồng nàng dâu, không ở được với nhau, mà mẹ thì đã gần đất xa trời, chi bằng giết quách đi cho rảnh, khỏi phải nghe tiếng mắng chửi suốt ngày. Vợ nghe nói cảm động, từ đó có bớt nóng nảy. Một bữa khác, thấy chồng lại mài dao làm bộ giết mẹ thật, vợ hoảng hốt can chồng và xin ăn ở tốt với mẹ chồng. Ngược lại, mẹ chồng thấy con dâu đổi tính nết, cũng bỏ hẳn thói cũ [4] . [1] Theo Nguyễn Văn Ngọc, sách đã dẫn. [2] Nguyễn Văn Ngọc có kể một truyện của ta, có phần nào giống truyện này (Nem công chả phượng râu rồng; Có hai vợ chồng chẳng hết lòng nhau) . Xem sách đã dẫn. [3] Theo Truyện cổ tích dân gian miền Lo-ren của Cô-xanh (Cosquin). [4] Theo Nguyễn Văn Ngọc, sách đã dẫn.
__________________
![]() |
#52
|
||||
|
||||
![]() CHA MẸ NUÔI CON BỂ HỒ LAI LÁNG CON NUÔI CHA MẸ KỂ THÁNG KỂ NGÀY Xưa, có hai vợ chồng một nhà nọ làm ăn chí thú. Họ sinh được ba người con, đều là con trai. Hai vợ chồng nuôi con rất chăm chút. Từ lâu, tay họ làm ra rất nhiều tiền của, ruộng vườn, nhưng có miếng gì cũng nhịn ăn để dành, những mong gây dựng cho mỗi con một cơ nghiệp riêng. Cho đến ngày cưới vợ cho đứa thứ ba xong, chồng bảo vợ: - Chúng ta nhờ trời "con có của nên". Nay chúng ta đã đến kỳ răng long tóc bạc mà con thì đã khôn lớn cả. Vậy cũng nên chia tài sản cho chúng nó làm ăn, đứa nào lo phận nấy, để khỏi có sự tranh giành sau này. Có vậy mới yên hưởng tuổi già được! Thấy vợ ưng thuận, ông già bèn cho mời họ hàng làng nước lại lập chúc thư. Ông chỉ để lại cho mình và vợ một phần nhỏ tài sản để dưỡng lão, còn bao nhiêu của chìm của nổi đều chia hết cho các con. Tuy đã ngoài 60 tuổi nhưng ông già vẫn còn khỏe mạnh và chưa chịu để tắt chí kinh doanh. Vì thế, sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng lại lao vào công việc làm ăn. Với phần của dưỡng lão, họ lại đưa ra buôn bán. Không ngờ thần tài còn vượng, lãi mẹ đẻ lãi con, tiền bạc lại tuôn về như nước chảy. Không đầy bảy tám năm sau, họ lại trở nên giàu có như trước. Trong khi đó thì ba đứa con của ông, phần thì thiếu kinh nghiệm, phần thì siêng ăn nhác làm, nên cơ nghiệp mới nhen lên chưa được bao lâu đã trở nên sa sút. Một hôm, cả ba đứa con đều tìm đến gặp bố mẹ và nói: - Bây giờ bố mẹ ngày một yếu hèn. Theo ý chúng con, bố mẹ chỉ nên nghỉ ngơi tĩnh dưỡng cho khỏe, để phần tài sản lại cho chúng con quản lý, chúng con sẽ xin phụng dưỡng bố mẹ đến mãn đời. Ông già trả lời: - Bố mẹ cũng muốn như vậy lắm. Nhưng ngặt vì xưa nay cha mẹ nuôi con thì được, còn con nuôi cha mẹ có phải dễ đâu! - Bố mẹ đừng lo gì cả. Bọn con nói tiếp. Người ta không có của cha mẹ để lại cũng nuôi được cha mẹ thay, huống hồ phần tài sản của bố mẹ như thế thì lo gì mà chẳng nuôi được! Ông già nghĩ ngợi hồi lâu rồi hẹn ba tháng nữa sẽ trả lời. Xung quanh nhà ông già là một vườn cây ăn quả. Ở đấy có rất nhiều tổ chim. Một hôm ông bảo trẻ con lối xóm trèo lên cây muỗm tìm cho mình một tổ chim. Đứa trẻ trèo một chốc bắt xuống cho ông một tổ trong có bốn con: một cặp vợ chồng chào mào và hai con chim con. Ông già thả bố mẹ nó ra rồi làm một cái lồng đẹp, bỏ hai con chim non vào đó. Đoạn cho treo lồng lên cây. Và ông thấy hàng ngày chim cha và chim mẹ ríu rít mang mồi về bám vào lồng, thò cổ vào mà đút cho con. Ông già ngẫm nghĩ: - "Loài chim rất yêu con, dù con có bị bắt cũng không chịu bỏ". Khi hai con chim đã khôn, ông già lại sai bọn trẻ tìm cách bắt cho được hai con chim cha và mẹ lại. Bắt được rồi, ông bỏ chúng vào lồng mà thả hai con chim con kia ra. Nhưng vừa được phóng thích, hai con chim bay một mạch mất hút, không hề trở lại. Việc đó làm cho ông suy nghĩ nhiều. - "Đồ bội bạc! Chẳng có con nào nhớ tới bố mẹ của nó cả, nói gì tới chuyện đút mồi nữa". Và sau đó ông già kết luận: - "Con người ta cũng vậy thôi. Chỉ có trả nợ xuống mà không có trả nợ lên!" Ba tháng trôi qua, ba đứa con của ông già lại đến giục bố mẹ trả lời. Ông già kể cho họ nghe chuyện chim chào mào vừa qua, nói lên những nhận xét của mình rồi đáp: - Bố mẹ chẳng phải muốn giữ của lại làm gì đâu! Khi hai tay buông xuôi rồi, có mang được tý gì xuống âm phủ đâu mà giữ. Nhưng bố mẹ nghĩ rằng những đứa con thường chăm chút cho con mình hơn là cho bố mẹ. Vả chăng, khi đang có ăn thì còn có tình có nghĩa, khi đã túng thiếu rồi thì nào biết bố mẹ là gì nữa. Vì vậy, bố mẹ muốn ở riêng ra như thế này cho đến khi nhắm mắt tắt hơi, làm được gì ăn nấy, không phải làm phiền đến các con! Nghe nói thế ba đứa con hết lời thề thốt. Đứa thứ nhất thề rằng dù các em có bỏ bố mẹ chăng nữa thì nó cũng sẽ chăm lo cho bố mẹ đầy đủ. Đứa thứ hai thề rằng nó sẽ không để cho bố mẹ phiền hà lấy một câu. Đứa thứ ba thề rằng dù nó có nghèo khổ đến đâu, thì cũng đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Bà vợ ông cũng bảo: - Con nó đã thề thốt như thế, ông nên nghĩ lại! Chim khác, người khác, ông ạ! Cuối cùng thấy vợ con nói đi nói lại mãi ông già dần dần xuôi lòng, bèn lại mời họ hàng một lần nữa chia phắt tất cả tài sản còn lại cho ba đứa con mà không dành lại cho mình một tý gì. Trong những năm đầu, ba anh em phụng dưỡng bố mẹ rất tử tế. Miếng ngon vật lạ hễ nghe đâu có bán là cố tìm mua cho bố mẹ ăn. Nhưng từ năm thứ ba trở đi việc hầu hạ đã có phần chểnh mảng. Thêm vào đó, công việc làm ăn của họ lại không khấm khá gì. Cả ba đứa con ông cụ đều là những tay "phá gia chi tử" không kém cạnh gì nhau, nên số tài sản của bố mẹ chia cho không mấy chốc lại đội nón ra đi mất cả. Sự khó khăn ngày một in sâu trên nét mặt họ. Và việc chăm sóc bố mẹ lại càng chểnh mảng. Hơn nữa, ba anh em họ, nhất là ba chị em dâu thường ganh tỵ nhau từng đồng tiền bát gạo. Trước kia cả ba hàng năm góp tiền lại cho một người để nuôi bố mẹ. Dần dần sự đóng góp không được đầy đủ như trước. Thấy kẻ này thiếu một vài quan, người nọ cũng nhất định giữ lại chừng ấy không chịu đưa. Về sau, họ bàn nhau mỗi người luân phiên nuôi bố mẹ một năm. Nhưng người anh cả sợ rằng lỡ ra bố mẹ chết sớm thì người chưa nuôi có lợi, mà người đã nuôi sẽ bị thiệt thòi, nên rút xuống nửa năm, rồi lại rút xuống ba tháng. Cuối cùng họ đồng tình mỗi người nuôi một tháng, nhưng không theo thứ tự nào cả mà bằng cách rút thăm. Càng già gân cốt càng suy, đi lại không được, do đó càng đòi hỏi phải chăm chút nhiều hơn. Thế mà trái lại, mỗi ngày sự nuôi nấng cha mẹ mỗi tệ, thậm chí con chỉ mong đến kỳ hạn để tống bố mẹ đi. Cứ như vậy chưa đầy ba năm bố mẹ vì không chịu được đói và rét, lần lượt qua đời. Do truyện này mà có câu: Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày. Hay là: Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày [1] . KHẢO DỊ Việt Nam còn có truyện Bù chì : Có bốn anh em trai đều ở riêng nuôi một cha già. Họ chia nhau mỗi người nuôi một năm. Về sau ganh tỵ nhau, rút xuống còn ba tháng và giao hẹn trước khi nhận bố về nuôi thì phải cân, nếu ai để bố nhẹ cân thì người sau không nhận, bắt người trước phải nuôi cho đến lúc lên cân. Trong đám con có một người rất keo kiệt, không cho bố ăn đầy đủ. Khi sắp đến phiên bàn giao, hắn biết rằng sẽ sút cân, nên đúc sẵn một cục chì để lúc cân bắt bố giắt vào cho nặng. Vì vậy có câu tục ngữ "Còn cha, pha chì nốt. " Một dị bản của truyện Bù chì kể có hơi khác. Đại thể cũng có bốn anh em trai nuôi một bố già, cũng hẹn nhau mỗi người phải nuôi ba tháng và khi bàn giao cũng phải cân. Cân không đầy đủ thì phải nuôi cho đến lúc lên cân. Trong số đó có một đứa nhà rất nghèo, nuôi bố bữa đực bữa cái. Sắp đến kỳ bàn giao, rất lo bố sẽ sút cân. Bố thương tình đúc một hòn chì đeo vào cho nặng. Vì vậy có câu tục ngữ "Cha mẹ bù chì cho con " [2] . [1] Theo Lăng-đờ (Landes), sách đã dẫn và lời kể của người Nam-bộ. [2] Theo Trương Vĩnh Tống. Mỹ Ẩm tùy bút.
__________________
![]() |
#53
|
||||
|
||||
![]() CHƯA ĐỖ ÔNG NGHÈ ĐÃ ĐE HÀNG TỔNG Ngày xưa có một người học trò nghèo nhưng học giỏi, được Thiên đình rất chú ý. Trong sổ thiên tào hồi đó đã ghi cho anh chàng đậu tiến sĩ, làm quan đến thượng thư. Mỗi lần anh đi học thường qua một ngôi đền thờ thần ở làng bên cạnh. Vị thần làng đó vốn đã có đọc ở sổ thiên tào nên tỏ vẻ cung kính người học trò ấy. Những khi anh ta đi qua đền thì tượng thần đang ngồi trên bệ lật đật đứng dậy rất lễ phép. Một hôm người từ giữ đền nằm mơ thấy thần bảo: - "Ngày mai ngươi phải quét dọn đền cho sạch sẽ tử tế vì có quan lớn đến chơi nhà ta". Người từ làm y như lời và suốt ngày hôm ấy hắn đứng trực ở cổng đền chờ đón vị khách quý của ông thần. Nhưng đợi mãi, hắn ta chả thấy một ai cả, trừ ra anh học trò xơ xác nói trên hôm đó vô tình có ghé vào đền nghỉ chân một lúc. Người từ cho là dân thường không để ý gì đến. Ít lâu sau, người từ cũng lại chiêm bao thấy ông thần dặn dò như trước. Lần này, hắn cũng chả thấy ai lạ hơn là anh học trò hôm nọ đến đây ngâm một bài phú rồi lại đi. Nhưng hắn vẫn không tin. Đến lượt thứ ba cũng thế. Bây giờ người từ mới cho là quả phù hợp với lời thần dặn, bèn kể chuyện cho người học trò nọ nghe và bảo: - Đã ba lần như thế, nên tôi chắc rằng nhà thầy sau này sẽ đỗ đạt làm quan to chứ chẳng chơi. Nghe nói, người học trò như mở cờ trong bụng. Anh ta quyết chắc cầm sự vinh hoa phú quý trong tay. Hắn nghĩ ngợi rất nhiều về tương lai của mình. Một hôm khi ngắm lại nhan sắc vợ mình, hắn thấy không được đẹp tý nào cả. Thế rồi đêm hôm ấy nằm dưới bóng trăng, hắn mơ tưởng một người đẹp như chị Hằng. Hắn bụng bảo dạ: - "Rồi ta sẽ cho vợ ta về đi thôi! Một khi đỗ đạt thì thiếu gì nơi ngấp nghé muốn làm bà. Lúc đó ta sẽ tìm những đám con vua cháu chúa; đã da trắng môi son lại vừa lắm của". Nghĩ thế, qua ngày hôm sau hắn kiếm cớ gây sự với vợ và đòi bỏ cho kỳ được. Mọi người đều lấy làm lạ và tỏ vẻ khinh bỉ một người có học như hắn lại có thể nhẫn tâm đến thế được. Nhưng hắn chỉ cười khẩy mà không kể gì dư luận. Một hôm khác có một người đến đòi nợ hắn. Vừa mới bước chân vào sân, người ấy đã bị hắn chỉ tay vào mặt mắng cho một trận: - Ta chưa có trả. Không khéo nay mai ta sẽ cắm đất vào vườn ở của mày cho mày biết mặt [1] . Hắn còn đe dọa nhiều người nữa. Gặp ai không vừa ý, hắn nói: - Rồi chúng mày sẽ biết tay ông! Tất cả những hành động của người học trò đều được tâu báo về Thiên đình. Ngọc hoàng nghe nói rất phật ý. Cho nên ít lâu sau đó, người từ giữ đền lại nằm mơ thấy ông thần tin cho biết là không phải kinh sợ đối với người học trò nữa vì trên Thiên đình đã tước sổ mất rồi, không cho đỗ đạt nữa. Ông từ hỏi: - "Tội của nó như thế nào?" - "Nó bị kết án là "dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức" [2] . Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa". Quả nhiên người học trò đó thi mãi không đỗ, muốn nối duyên lại với vợ cũ cũng không được. Cửa nhà hắn ngày một sa sút dần. Do đó mà có câu tục ngữ: "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng" [3] . KHẢO DỊ Có người kể hơi khác về chi tiết: Người học trò đi qua cổng đền, ở đó có hai con chó đá đều vẫy đuôi mừng, hỏi thì đáp là vì biết ông sắp sửa đỗ ông Nghè. Từ đó người học trò ấy luôn luôn dọa dẫm những người không vừa ý mình. Về sau, hắn gặp chó không vẫy đuôi nữa. Chó bảo: vì ông ăn ở xấu nên Thiên đình không cho đỗ, bây giờ chỉ có cách làm việc thiện mới thay đổi được ý trời. Một hôm hắn qua sông thấy một bầy kiến trôi giữa dòng nước, bèn lội xuống vớt tất cả lên. Nhờ thế về sau hắn lại đậu. [4] Có hai truyện khác nội dung gần giống với truyện trên: Truyện Hai anh em họ Lê ở Thần-đầu : Xưa có hai vợ chồng một người tiều phu họ Lê. Vì nghèo khổ cô đơn nên bị bọn hương lý trong làng đối đãi rất tệ: phu phen sưu dịch lúc nào cũng tróc vào họ, hơi chậm một tý là bị chúng đánh phạt. Tức mình, vợ chồng cầu khẩn mong có một mụn con để sau này rửa hờn. Thượng đế sai hai Trạng xuống đầu thai. Hai vợ chồng mừng lắm, cố kiếm củi cho nhiều, lấy tiền cho con đi học. Về sau cả hai anh em đều đậu Trạng. Lúc vinh quy, voi ngựa quân gia đầy đường, đi đến đâu các quan và hương lý địa phương đều phải đón rước tấp nập. Những người khinh bỉ đánh đập hai vợ chồng ngày xưa bây giờ cũng đến chào lạy họ. Hai vợ chồng rất hả hê bảo con: "Ngày xưa chúng nó lấn áp nhà ta đủ điều, bây giờ các con cố làm cho chúng nó biết mặt". Con nghe lời, nhưng sau đó ít lâu, hai ông Trạng làm bậy, có một vị thần bèn tâu lên Thượng đế. Thượng đế liền đòi hai Trạng về. Một truyện Thần với Thần đồng : Làng Cẩm-lâm từ xưa chưa có người đậu đạt làm quan. Một hôm trên Thiên đình phái một ông Trạng đến làng ấy, cho đầu thai vào nhà hai vợ chồng đốn gỗ. Họ ngoài 40 tuổi mới sinh con trai. Thằng bé lên 7, nổi tiếng thần đồng. Gần nhà có đền thờ Thành hoàng, đứa bé thường ngày chơi với các bạn ở đó. Một đêm, ông từ mộng thấy thần bảo: - "Trạng hay đến đây bắt buộc ta vì kính lễ phải đứng dậy luôn. Vậy bảo làng làm cho ta một cái bình phong che trước ngai cho ta ẩn". Làng nghe nói không tin, cho một người ra ngủ ở đền cầu mộng. Thần lại cho biết như trước. Hương lý bèn xây một cái bình phong để không ai được nhìn vào tượng thần. Và từ đó trở đi nhiều người đâm ra ghen ghét nhà thần đồng, họ gây sự với bố mẹ và làm tình làm tội đánh đập dọa nạt luôn. Thiên đình thấy dân làng vô lễ đối với Trạng, bèn phạt họ bằng cách đòi Trạng về. Cho nên ít lâu sau thần lại báo mộng cho ông từ rằng: - "Chúng mày có thể phá bình phong được rồi vì Thiên đình quyết định không cho Trạng ở làng chúng mày nữa". Vài ngày sau thần đồng chết [5] . Trong Liêu trai chí dị có truyện Gả em thế chị (Tỷ muội dịch giá) có nói tới một người học trò chưa đỗ đã toan đổi vợ. Một anh học trò họ Mao, bố trước làm nghề chăn trâu, được nhà họ Trương tư cấp và hứa gả con gái lớn cho. Nhưng cô gái không muốn kết duyên với con nhà chăn trâu, nên đến ngày cưới cương quyết không chịu về. Cô em khuyên dỗ bị chị mắng: "Đừng lắm lời, mày sao không lấy nó đi!" - "Nếu bố mà gả, em đáp, thì em sẽ lấy". Cuối cùng người bố phải đánh tráo người em thế chị. Tuy biết có sự đánh tráo, lại vợ mới có bệnh chốc đầu, người học trò họ Mao cũng không phàn nàn, hai vợ chồng ăn ở với nhau tương đắc. Chồng sau đó, một hôm đi thi, qua quán họ Vương được tiếp đãi tử tế. Họ Vương cho biết đêm qua thấy thần báo mộng rằng sáng mai có giải nguyên họ Mao qua đây, sẽ giúp mình khỏi tai ách. Nghe tin này, người học trò họ Mao có vẻ hý hửng. Cũng như truyện trên của ta, hắn bắt đầu nghĩ đến vợ mình đầu tóc xấu xí, nay mai chơi với người sang không khỏi bị chê cười. Sau này khi phú quý sẽ thay đi thôi. Nhưng đến lúc treo bảng không thấy có tên mình, hắn rất buồn thẹn, bỏ về, không dám ghé lại quán họ Vương. Ba năm sau, hắn lại đi thi; và lại được họ Vương tiếp đãi tử tế như trước. Hắn trách họ Vương lần trước nói không nghiệm. Nhưng họ Vương đáp: - "Hồi ấy thần có báo mộng cho tôi biết vì ngài có âm mưu đổi vợ, nên bị âm ty phạt không cho đỗ". Người học trò họ Mao tỉnh ngộ, tỏ lòng hối hận, nên khoa ấy thi đậu giải nguyên, rồi thi đình đậu tiến sĩ, làm quan tể tướng. Vợ anh tóc cũng mọc dài tốt hơn trước. Còn người chị lấy chồng trọc phú, lười biếng lại hay cờ bạc, vận nhà ngày một suy. Không may chồng chết, trong khi đó em gái trở nên bà giải rồi bà nghè, cô chị càng thẹn, bèn cắt tóc đi tu. [1] Ngày xưa ai đỗ tiến sĩ được phép lấy ba mẫu đất làm nhà ở, muốn cắm vào đâu cũng được. [2] Nguyên văn “Nguyệt hạ phóng thê, đình tiền tỷ trạch, vị đắc ý cố thất đức”. [3] Theo Nguyễn Văn Ngọc. Sách đã dẫn 1 Theo Tạp chí chúng tôi (1910) [5] Theo Lăng-đờ (Landes). Sách đã dẫn.
__________________
![]() |
#54
|
||||
|
||||
![]() DÌ PHẢI THẰNG CHẾT TRÔI, TÔI PHẢI ĐÔI SẤU SÀNH Ngày xưa có một anh chàng trẻ tuổi kiết xác, chưa có vợ. Nhà anh ta lại ở bên cạnh nhà một phú ông có cô con gái đến tuổi lấy chồng. Anh ta cũng võ vẽ năm ba chữ, có ý ngấp nghé con gái phú ông, nhưng ngặt vì nhà phú ông với nhà hắn như trời với vực; đời nào phú ông lại chịu gả - "Lấy được cô ả mới gỡ được nạn nghèo, mà muốn lấy cô ả phi dùng mẹo không xong!". Nghĩ thế, hắn mới quyết chí tìm cách để lấy cho được. Một hôm anh ta thấy có người bán hai con sấu bằng sành, một thứ đồ cổ không đáng mấy hột tiền. Hắn bỗng nghĩ ra một kế, bèn mua về chôn xuống đất, được ít lâu lại moi lên. Ít bữa sau, hắn sang nhà phú ông mượn cái cân. Phú ông thấy hắn vô cớ mượn cân, hỏi: - "Mượn làm gì?". Hắn đáp: - "Cháu mượn về cân ít đồ vặt". Buổi chiều hắn mang cân sang trả, phú ông thấy cân có dính đất, trong bụng lấy làm ngờ vực. Sự ngờ vực của phú ông tăng lên khi thấy sau đó vài ngày hắn lại lọt tọt chạy sang mượn cân lần nữa. Lần này khi hắn mang trả cân, phú ông thấy cân của mình không những dính đất mà còn dính cả những cái gì như là gỉ đồng. Lần thứ ba cũng lại thế. Phú ông từ đó để ý rình mò anh hàng xóm của mình thì thấy đêm đêm hắn vác cuốc thuổng đi, sáng tinh sương lại mò về: - "Chắc là hắn đào được của". Nghĩ thế, một hôm phú ông giả mượn cớ sang nhà dò xem thế nào. Một điều làm phú ông lấy làm lạ là xưa nay chưa từng thấy hắn chơi đồ cổ bao giờ cả, thế mà nay trên bàn thờ nhà hắn có bày hai con sấu sành còn dính đất chưa chùi sạch. Thấy phú ông hỏi, hắn giả bộ ấp úng và sau cho biết là mua ở chợ. Phú ông về bảo vợ: - Thằng này hẳn là đào được kho vàng hũ bạc chi đây. Hắn ranh khôn lắm. Nhưng bộ hắn không thể giấu được mắt ta. Từ đó phú ông có cảm tình với hắn. Từ cảm tình tiến lên thân tình. Thấy hắn cũng có vẻ nho nhã, phú ông có ý muốn gả con gái cho hắn, mới mượn mối đánh tiếng. Anh chàng nhận lời nhưng cho mối biết là mình nghèo quá không biết lấy gì dẫn cưới được. Phú ông cười, cho là hắn giấu của nhưng cũng cam đoan xin chu tất cả phí tổn cưới xin. Thế là anh chàng bỗng chốc ngẫu nhiên là chồng cô gái phú ông. Hôm về nhà chồng cô gái thấy chồng chỉ khư khư giữ độc có một chiếc hòm gỗ rất nặng, trong bụng đoán chắc là của ở đây rồi, nên không nói gì hết. Nhưng ngày một ngày hai, vợ thấy chồng không có vẻ gì là giàu có thì nảy mối ngờ vực. Nhân một hôm chồng đi vắng, nàng trộm chìa khóa mở ra xem thì chỉ thấy một hòm toàn là đá cuội, chẳng có đồng sứt nào hết. Biết là bị lừa, người vợ chỉ còn ngồi nhà mà khóc. Nhưng sau đó nàng bào chồng: - Kể ra anh cũng cao mưu thật. Nhưng bây giờ anh phải làm cách gì lấy được một cô gái nào thật giàu hơn tôi. Được như vậy tôi sẽ ăn ở với anh trọn đời, bằng không tôi nhất định không cho nằm cùng giường đâu. Nghe nói, hắn gật đầu rồi bỏ nhà ra đi. Anh chàng đến một tỉnh khác làm đầy tớ cho một nhà phú thương. Phú thương là một tay giàu có nứt đố đổ vách. Cả một dinh cơ, vườn tược rất đồ sộ ở bên bờ sông. Phú thương lại có ba cô con gái chưa chồng, cô nào cô ấy rất xinh đẹp. Anh chàng mới đến ở làm việc tất lực. Không bao lâu hắn được chủ rất tin cậy. Một hôm vào khoảng chập tối có một cái thây trôi qua bên nhà phú thương. Hắn bỗng nghĩ được một kế, bèn vớt trộm thây lên bờ giấu ở chỗ kín trong vườn. Đoạn hắn đi tìm một người quen bảo y giả xưng làm chú ruột mình đến thăm cháu. Người ấy đến, hắn lên nhà trên xin phép chủ cho chú mình ở chơi ít ngày. Phú thương nể hắn nên tiếp đãi chú hắn tử tế, sai dọn cơm nước ra mời. Đến nửa đêm hắn cho ông chú giả của mình cất lẻn ra về rồi lấy quần áo mặc vào xác chết, vực lên giường. Thế rồi hắn làm bộ tri hô lên. Hắn nói với chủ: - Không biết ông cho chú tôi ăn uống những gì mà bây giờ chú tôi nằm chết cứng không dậy được nữa. Nghe nói, phú thương thất kinh lại thấy hắn định làm to chuyện thì không còn hồn vía nào nữa. - "Nếu hắn làm ra chuyện thì chuyến này gia tư điền sản của mình sẽ đội nón ra đi mà thôi. Bọn quan lại chỉ béo bụng nhờ những dịp này". Nghĩ vậy, phú thương đấu dịu, đưa hắn vào buồng thương lượng. Ông bảo hắn muốn gì được nấy miễn là hắn giấu gọn chuyện này cho là được. Bấy giờ anh chàng mới nói toạch nguyện vọng thầm kín của mình là chỉ muốn lấy một trong ba cô con gái làm vợ. Phú thương thấy mặt mũi anh chàng cũng không đến nỗi hèn kém lại thấy hắn làm việc đắc lực nên vui lòng đem cô con gái lớn gả phứt cho hắn. Thế là anh ta lại được vợ mới. Người vợ này của riêng bộn bề, ăn đứt vợ cũ. Lấy nhau được ít lâu, hai vợ chồng đưa nhau về thăm nhà. Khi hai người đàn bà gặp nhau, họ kể chuyện cho nhau biết. Nghe cô con gái phú thương nói hết ngọn nguồn, cô con gái phú ông lắc đầu, bảo nàng rằng: - Vậy là dì phải thằng chết trôi, còn tôi phải đôi sấu sành đó! [1] KHẢO DỊ Người miền Bắc có truyện Con nghê ngói (con nghê ngói tức là con sấu bằng sành) cũng là một dị bản của truyện trên (nhưng người kể chỉ nhớ có mỗi đoạn đầu). Trong truyện này, cô gái phú ông lúc biết mình bị lừa đành chỉ ngồi ôm con ru rằng: Con nghê là con nghê ngói, Bố mày khéo nói, nó hóa ra con nghê vàng Ông ngoại mày nghe quàng, gả con cho bố. Vả cả hai truyện, về hình thức đều tượng tự với truyện Hữu Ké từ xưa đã được diễn thành văn vần, nhan đề Hữu Ké tân truyện: Huyện Thạch-hà có một chàng trai nghèo tên là Hữu Ké muốn lấy cô Ngọc Dong, con gái của một cụ huyện hưu trí cùng một xã. Biết cụ huyện không đời nào gả con gái cho mình, hắn cũng bắt mẹ mang trầu cau tới hỏi để cho người khác biết hoa đã có người để ý. Sau đó, hắn bàn với chú là xã trưởng, mời làng, trong đó có cụ huyện, lập khoán ước hễ bắt được trai gái tình tự thì buộc hai bên phải kết làm vợ chồng. Đây là mấy câu khoán: Hoàng hiệu năm nay, Trên dưới đều hay: Khoán lập ra đây, Cho nghiêm phong hóa, Trai lớn lấy vợ, Gái lớn lấy chồng; Duyên bởi tơ hồng, Lẽ thông mối lái, Có cheo có cưới, Phải đạo vợ chồng; Nhược bằng gian thông, Nương dâu bến bộc. Không kỳ thế tộc, Chẳng quản sang hèn; Bắt được hiện tiền, Kết làm phu phụ ... Một hôm, làng làm lễ kỳ phúc, ban đêm có hát chèo, trai gái trong làng đều đổ xô ra xem. Chú của Ké đã lập mưu sẵn đang cầm chầu bỗng dưng nổi hiệu trống họp làng. Khi mọi người đổ xô đến, chú của Ké nhân danh xã trưởng nói mình thấy bóng một cặp trai gái tình tự ở bụi rậm sau đình nên mời làng lại thi hành khoán lệ. Người ta ra đấy thấy dưới một gốc cây ké có một cái ổ bằng rơm ngồi đã nhẵn chỗ. Họ đoán cặp trai gái tuy đã chạy trốn nhưng trên đầu vẫn còn dính trái ké, vậy cứ tìm người nào trên đầu có trái ké thì bắt. Liền đó người ta tìm thấy chỉ có Hữu Ké và Ngọc Dong đầu và áo đều dính đầy ké. Cụ huyện đành phải cắn răng gả con gái cho Hữu Ké theo đúng lệ làng, rồi tức uất mà chết. Vì không có con trai, gia tư điền sản về tay con gái - tức là về tay Ké cả. Nhưng Ngọc Dong cũng ra điều kiện: nàng không chịu nằm chung với hắn, nếu hắn không lập mưu lấy được một cô gái khác cũng giàu, cũng đẹp như nàng. Hữu Ké vâng lời nhưng bắt vợ phải ăn thề và giao rằng lúc nào mình về với người lạ thì nàng phải giả nhận làm chị ruột mình. Ké còn cho người làng tiền và dặn lúc nào mình về phải đứng dậy chào hỏi cung kính. Ké đi ở với một phú ông, hắn làm việc rất đắc lực. Hắn hát gợi tình làm cho cô con gái phú ông phải cảm. Rồi một hôm hắn xin về giỗ mẹ. Phú ông phú bà đi theo hắn và rất ngạc nhiên khi thấy mọi người chào hắn bằng ông, bằng cậu; lại thấy hắn cón người chị - tức Ngọc Dong - rất đẹp, đón tiếp rất xứng ý. Thế là phú ông cho Ké là con quan huyện trá hình đi kén vợ, bèn đem con gái cấm cung gả cho hắn. Ké làm bộ từ chối đôi ba lần mới nhận. Phú ông mở tiệc linh đình cho hai bên làm lễ kết hôn. Ba ngày sau, Ngọc Dong mới cho cô nàng biết sự thật. Nàng khóc lóc trách cha trách mẹ, nhưng ván đã đóng thuyền còn nói gì được nữa. Ngọc Dong cho biết mình còn khổ hơn nàng, chỉ vì một nắm ké mà bị buộc phải lấy hắn. [1] Theo Phụ nữ tân văn (1930)
__________________
![]() |
#55
|
||||
|
||||
![]() CÁI KIẾN MÀY KIỆN CỦ KHOAI Ngày xưa, có một anh chàng sinh trưởng trong một gia đình giàu có. Nhà hắn có ao thả cá, có trâu bò, ruộng vườn khá nhiều. Ngày ấy ở gần làng hắn có một cô gái nết na, nhan sắc xinh đẹp, chỉ phải cái tội nghèo. Hàng ngày cô gái phải làm thuê làm mướn kiếm ăn. Anh chàng nhà giàu kia từng ngây ngất vì nhan sắc của cô. Mặc dầu không môn đăng hộ đối, nhưng hắn ao ước được cùng nàng kết làm bạn trăm năm. Sau đó nhờ có một người đàn bà làm mối, hắn được gặp nàng nhiều lần và chỉ non thề bể quyết lấy nàng làm vợ. Nghe hắn nói thế, cô gái vô cùng sung sướng và hiến thân cho hắn không tiếc thương gì nữa. Nhưng người đàn bà mối lái vốn là người chỉ biết có đồng tiền. Được tiền của anh nhà giàu cho, mụ vẫn chưa thỏa mãn. Đối với cô gái nhà nghèo, mụ không "xơ múi" gì. Bấy giờ ở gần vùng đó có một cô gái nhà giàu ế chồng. Mụ bèn tìm tới tỷ tê với cô nọ bảo nếu cho mình nhiều tiền, mình sẽ đánh tiếng cho anh chàng nhà giàu kia. Cô gái nọ nghe nói mừng lắm, đút tiền cho mối đề mụ ta liệu bề tác thành cho mình. Từ đó mụ mối luôn luôn buông lời gièm pha cô gái nhà nghèo: - "Con này - mụ nói - thế mà không được đoan chính. Đã nhiều lần tôi bắt gặp nó tằng tịu với Đồ Vân. Đồ Vân học giỏi nay mai sẽ đỗ đạt...". Thế rồi mụ ta nhen nhóm thêm lòng ghen tuông và tức giận của anh chàng, đồng thời nói tốt cho cô con gái mà mụ bòn lần hồi khi năm quan, khi ba quan không biết mỏi. Và mưu kế của mụ có hiệu quả; anh chàng kia từ ghen tức đến chán ghét người tình cũ. Cuối cùng anh chàng cho người đưa trầu cau dạm hỏi cô gái nhà giàu kia làm vợ. Ngày cưới hai bên, cô gái nhà nghèo nọ bị tình phụ, lòng đau như cắt. Trong một phút tủi phận hờn duyên, nàng nhảy xuống sông tự tử. Cái chết của nàng đã làm cho cặp vợ chồng mới trở nên hối hận và lo sợ. Nhất là mụ mối thì như sét đánh ngang tai. * * * Khi tất cả mấy người đó lần lượt chết xuống âm phủ, Diêm vương đã đọc hồ sơ, hiểu rõ nỗi oan uổng cũng như tội trạng của từng người và bắt họ phải trở lại dương thế để đền "nợ" hay báo "oán" của chính mình một cách xứng đáng. Mụ mối được thác sinh vào một nhà phú ông, anh chàng phụ tình lại thác sinh làm một người học trò nhưng không đất cắm dùi. Còn người bạc mệnh thì được ở lại cõi âm để theo dõi chúng mà báo thù. Cái Kiến, cô con gái phú ông rất đẹp và thông minh. Nhưng cha của nàng thì tính khí biển lận. Ông ta chỉ biết có tiền tài và danh vọng, còn ngoài ra ông chả coi ai ra gì. Chàng thư sinh rất khôi ngô, học giỏi, văn hay, nhưng nghèo rớt mồng tơi. Chàng đã từng vác lều chiếu đi thi. Văn tài của chàng nổi tiếng khắp kinh kỳ, thế mà cứ hễ vào trường nhất hay giỏi lắm vào đến trường nhì là bị loại ra ngay. Không làm cho đau bụng thì cũng bắt phạm "trường quy", oan hồn của người bạc mệnh quyết không có hắn đỗ. Mỗi lần không đỗ là một lần sự buồn bực kèm thêm với sự khốn khó dằn vặt anh chàng. Thế nhưng chàng vẫn lọt vào mắt xanh của cô Kiến. Cô gái phú ông vẫn tin tưởng rằng người học trò đó sẽ làm nên. Nàng ao ước sẽ được sánh duyên với chàng mới phỉ dạ. Hai người đã gặp nhau và thề bồi với nhau quyết giữ một lòng son sắt. Khi nghĩ đến cha mình, cô gái phú ông rất buồn vì biết ông khó tính: - "Không đời nào ông ấy lại gả con gái cho một người nghèo xơ nghèo xác". Nghĩ thế, nàng lập mưu ăn trộm tiền bạc của cha, mua vàng đúc thành một hình củ khoai. Không gặp nhau được, nàng nhắn người yêu giả làm người ăn xin đến nhà mình xin khoai, nàng sẽ tận tay trao cho món ấy để dùng làm sính lễ. Anh chàng y hẹn đã cải trang, mang bị gậy đến nhà phú ông xin ăn. Cô con gái mang khoai ra cho, trong đó có giấu củ khoai bằng vàng. Rồi đó, người mối của anh chàng xin chạm ngõ cái Kiến. Phú ông nghe nói sính lễ là một củ khoai bằng vàng mười thì ngạc nhiên. Nhưng rồi ông cũng nhận lời. Đến ngày cưới, khi họ nhà trai bưng sính lễ đến, họ nhà gái đổ xô ra xem để biết chàng rể của phú ông giàu có ngầm như thế nào. Củ khoai vàng được gói ba bốn tầng vải hồng điều. Không ngờ khi mở ra xem thì chả thấy vàng đâu cả mà chỉ là một củ khoai lang luộc thực sự. Oan hồn cô gái cố ý làm ra như vậy cho bõ ghét. Cả hai họ bật cười. Phú ông tức giận chửi mắng om sòm. Rồi để chế nhạo, ông cắt khoai biếu mỗi người một miếng. Chàng học trò không ngờ có sự lạ lùng ấy, vừa buồn rầu vừa xấu hổ đi luôn một mạch không trở về nhà nữa. Còn cái Kiến tưởng người yêu là một tay đại bợm: đã lấy mất vàng lại bày ra trò diễu cợt đó nên tức tối thành bệnh mà chết. Lúc xuống âm phủ lần này, nàng kiện với Diêm vương về việc củ khoai vàng, nhưng Diêm vương đã giở sổ vạch cho hắn biết những tội kiếp trước. Vì thế mới có câu: Cái Kiến mày kiện củ khoai Và sau này những anh con trai nhà nghèo thường thêm vào: Mày chê tao đói lấy ai cho giàu. Nhà tao chín đụn mười trâu, Lại thêm ao cá bắc cầu rửa chân. Để mỉa mai những cô gái bắc bậc kiêu kỳ. [1] KHẢO DỊ Truyện trên phần nào giống với truyện Vùng khoai lang về đoạn cuối: Một nhà giàu có người con gái đẹp, nhiều nơi tới dạm nhưng chưa quyết định nơi nào. Một hôm cô gái để bò mình ăn mất khoai nhà người và do đó có tình ý với con trai nhà kia. Hai bên từ đó gắn bó, định lấy nhau. Thấy nhà người con trai nghèo khó đến dạm hỏi, cha mẹ cô gái không thuận, nhưng cuối cùng thấy con quyết chí quá phải chịu gả. Tuy gả nhưng họ rất khinh nhà trai nên không giúp đỡ gì cả. Nhà trai dẫn cưới chỉ có ít trầu cau và một vừng khoai lang. Để chế nhạo, mẹ cô gái mời họ hàng làng nước đến rồi mời đồ dẫn cưới chia cho mỗi người một miếng trầu và một củ khoai. Mọi người cười ồ và bỏ ra về. Tuy vậy cặp vợ chồng vẫn không xấu hổ nên người nhà giàu đành phải cho cưới. [2] [1] Trong báo Trung Bắc tân văn . [2] Theo Nguyễn Văn Ngọc. Sách đã dẫn.
__________________
![]() |
#56
|
||||
|
||||
![]() VẬN KHỨ HOÀI SƠN NĂNG TRÍ TỬ, THỜI LAI BẠCH THỦY KHẢ THÔI SINH Ngày xưa, có một ông lang xem mạch chữa bệnh rất giỏi. Các môn nội khoa cũng như ngoại khoa ông đều thành thạo. Ông lại là một người chính trực. Mọi nơi tôn ông làm danh sư, vì vậy nổi tiếng một thời. Ở vùng ông hồi đó có một người đàn bà ngoại tình. Thấy chồng bị cảm, mụ ta muốn nhân cơ hội ấy giết luôn đi để có thể tự do lấy người nhân ngãi. Mụ nghĩ ra một mưu kế giết chồng thật êm thấm là đến nhà ông lang xin ông ngầm cắt cho một chén thuốc làm sao cho chồng uống vào không dậy được nữa. Đáp lại, mụ sẽ biếu ông một món tiền lớn. Nghe nói thế, ông lang một mực từ chối, nói mình không bao giờ nhúng tay vào việc thất đức, nhưng người đàn bà nọ rất kiên nhẫn, vật nài mãi cố làm cho ông xiêu lòng. Khi thấy người đàn bà quả quyết quá, ông giả bộ nhận lời, nhưng chỉ cắt cho một chén thuốc bổ trong đó có món hoài sơn là vị thuốc chính. Cắt xong, ông nói dối với người đàn bà rằng chỉ về sắc một chén cho chồng uống là chết ngay. Người vợ trở về làm theo lời dặn, sắc thuốc rót ra chén, gác lên chạn chờ cho thuốc nguội để cho chồng uống. Không ngờ có một con rết bò qua trên xà nhà để rơi nọc độc vào chén thuốc. Vì thế người chồng vừa uống thuốc vào tự nhiên vật vã, chỉ được một lúc là chết. Nghe tin con bệnh - chồng người đàn bà nọ - ngộ nạn sau chén thuốc của mình, ông lang vô cùng ngạc nhiên. Ngồi một mình ông ngẫm lại chén thuốc mình cắt hôm ấy hoàn toàn không có vị gì công phạt, dù có mắc chứng bệnh hiểm nghèo đi nữa cũng không thể chết được. Ấy thế mà lại hóa ra chết thật. Vô tình muốn cứu người thoát chết ông lại trở thành một kẻ giết người. Tuy không xảy ra việc gì lôi thôi đến bản thân, nhưng lương tâm ông lang luôn luôn cắn rứt không nguôi. Tức bực đến phẫn chí, ông bèn khóa tất cả các ô thuốc của mình lại, rồi cầm chùm chìa khóa vứt xuống sông thề rằng: - "Tôi làm thuốc đã bốn mươi năm nay chưa từng làm hại đến mạng người. Nay bỗng dưng con bệnh vì tôi mà chết. Tôi nguyện trên có trời, dưới có Hà bá, nếu chùm chìa khóa này còn trở về tay tôi thì tôi sẽ làm nghề thuốc trở lại, bằng không thì xin bỏ hẳn nghề này". Và từ đó ông cương quyết không đụng đến ô thuốc đao cầu hay kê đơn cho một ai nữa. * * * Ít lâu sau có một người làng chài, vợ đến kỳ sinh không may nghịch không sổ được. Người chồng thấy vậy hoảng hốt, không kể đêm khuya chạy đi mời mấy ông lang gần đấy, nhưng không một ông nào dám bốc thuốc cả. Tình thế sản phụ rất nguy ngập. Sau cùng có người bảo người chồng cô tìm đến nhà vị danh sư nọ, hết lời cầu khẩn may chỉ còn có hy vọng. Lúc đó trời đã gần sáng, ông lang đang nằm. Người nhà cho biết ông lang không chữa bệnh nữa. Nhưng người làng chài cố tìm đến trước cửa sổ nói vọi vào phía giường ông, kể lể bệnh hoạn của vợ và xin thầy cứu cho. Hắn ta nói mãi. Song ông lang nào có để ý gì đến. Lúc đó ông đã dậy, bèn gọi người nhà "múc nước để rửa mặt". Hắn ta nghe không rõ, tưởng ông cụ bảo "múc nước đổ vào mặt". Thế là hắn ba chân bốn cẳng chạy về nhà, múc cả gáo nước thình lình hắt vào mặt vợ. Người sản phụ đang nằm đợi chết, bỗng bị nước lạnh dội vào mặt, giật mình chuyển cả thân thể. Tự nhiên cái thai sổ ra một cách dễ dàng. Tất cả mọi người trong nhà đều khoan khoái như trút được gánh nặng. Họ tấm tắc phục tài nhà danh sư. Qua ngày hôm sau sẵn mẻ lưới bắt được con cá chép rất to, chồng người sản phụ vội xâu lại đưa đến biếu thầy thuốc. Khi thấy hắn ta cảm tạ công ơn mình đã giúp cho vợ hắn mẹ tròn con vuông thì ông lang rất lấy làm lạ. Ông bảo: - Hơn một năm nay tôi có làm thuốc cho ai đâu mà lại có sự lạ lùng này. Nghe hắn kể, ông ta vẫn chối, nhưng người làng chài nhất định không chịu mang cá về. Cuối cùng thấy chối mãi không được. Ông lang bèn xin nhận một nửa và nói: - Bây giờ tôi chặt con cá làm đôi: một nửa mừng cho bác gái, một nửa tôi xin lạm nhận. Nói rồi ông lấy dao thớt chia con cá làm hai khúc. Nhưng khi đang chặt, ông bỗng thấy trong ruột cá có cái gì cộm lên, moi ra được một chùm chìa khóa. Ông nhìn lại thì lạ thay! Chính đó là chùm chìa khóa của mình ngày trước. Từ đó ông lang bỏ ý định cũ, lại bốc thuốc chữa bệnh như xưa. [1] KHẢO DỊ Truyện trên, miền Bắc có người kể khác về chi tiết. Một ông lang nổi tiếng được vua phong chức điều hộ. Một hôm cũng có chị đàn bà đến xin cắt một thang thuốc giết chồng, vì "sắt cầm không đẹp". Ở đây ông lang không từ chối mà làm trái lại, lập tức bốc một nắm hoài sơn, bảo người đàn bà mua vài con chim bồ câu ra ràng hầm với thuốc ăn trong nửa tháng sẽ chết". Chủ ý của ông là cắt thuốc bổ. Không ngờ hóa ra chết thật (mặc dù không có việc con rết nhả độc). Rồi ông lang cũng khóa tất cả các ô thuốc và ném chùm chìa khóa xuống sông với câu thề độc như trên. Phần tiếp theo sau cũng có người làng chài có vợ khó đẻ đến cầu ông. Người làng chài nghe ông lang bảo thằng nhỏ: - "Đun siêu nước sông pha uống" lại tưởng bảo mình làm cho vợ như vậy, bèn trở về đun nước sông cho vợ uống thì không ngờ vợ đẻ được ngay. Đoạn kết cũng như trên. [2] Ở Nghệ-an, có một câu chuyện nội dung nói về lai lịch một vị thuốc "thôi sinh", đây cũng là một dị bản của phần thứ hai của truyện trên: Xưa có một người đàn bà đến kỳ sinh, chuyển bụng đã bốn năm ngày mà thai chưa ra. Người chồng vội vã đi tìm thầy thuốc để cắt một chén "thôi sinh". Thầy thuốc bảo rằng: "Anh không nghe người ta nói sao, "Thai sinh như hoa, đến kỳ thì hoa nở". Anh cứ về rồi tự nhiên nó sẽ sinh". Người chồng trong lúc hốt hoảng nghe câu được câu mất, cứ ngỡ là thầy bảo về lấy hoa cây tự nhiên mà ăn thay thuốc là thai sẽ ra. Bèn đi kiếm một nhánh hoa tự nhiên đem về cho vợ ăn. Vợ vừa cầm lấy thì thai sổ liền. Từ đấy người ta tin rằng hoa cây tự nhiên là loài thuốc quý đối với trường hợp khó sinh, hay sinh rồi mà rau chưa ra. [3] Về tình tiết người đàn bà bí mật xin ông lang cắt cho thang thuốc giết chồng xem thêm truyện Ăn mề gà mù mắt, Khảo dị truyện số 191 , tập V [1] Theo lời kể của người Hà-tĩnh, Nam-định [2] Trong Trung Bắc tân văn (1920) [3] Bản khai của xã Hoàng-nghĩa, Cây tự nhiên : loại cây ký sinh như phong lan, cây vàng có từng mắt, khúc eo khúc nở, thuộc nòi thạch hộc.
__________________
![]() |
#57
|
||||
|
||||
![]() TRINH PHỤ HAI CHỒNG Ngày xưa có một gia đình nọ có một người con gái xinh xắn nết na. Lúc nàng lớn lên có một người học trò nghèo họ Đỗ đưa trầu cau đến hỏi làm vợ. Chàng là tay văn hay chữ tốt, tính nết rất hiền lành. Thấy thế, người cha cô gái vui lòng hứa hôn. Cô gái sung sướng được người chồng xứng đôi vừa lứa. Lễ cưới vừa xong thì cha nàng nhuốm bệnh qua đời. Cô gái về nhà chồng một niềm trinh thuận. Chồng là người mồ côi cha mẹ. Gia tài chỉ có một đám vườn nhỏ với mấy quyển sách, nhưng hai vợ chồng son sống trong một bầu không khí hòa nhã yêu thương. Chồng đọc sách, vợ quay tơ, thú gia đình tưởng không ai hơn được. Đột nhiên ít lâu sau đó người chồng mắc bệnh hủi. Người vợ lo lắng tìm thầy chạy thuốc. Nàng bán luôn nữ trang của mình, bán cả đám vườn đang ở để dùng vào việc chữa chạy cho chồng. Nhưng bệnh mỗi ngày một nặng, cho đến lúc hết phương điều trị. Chân tay người chồng cứ sưng lên và bắt đầu lở loét. Không một ai dám đến gần. Duy chỉ có người vợ ngày ngày hầu hạ chu tất không chút quản ngại. Thấy thế, anh chàng thương vợ quá. Chàng cho phép vợ ly dị để mặc mình với số mệnh. Nhưng người vợ nhất định không nghe. Nàng nói: - Vợ chồng là nghĩa lâu dài, còn bệnh tật của chàng chẳng qua là sự không may. Thiếp xin cùng chung số phận với chàng, không đi đâu cả. Nhưng bệnh của người chồng ngày một đáng sợ hơn. Luôn luôn chồng cố khuyên vợ trở về với mẹ đẻ để khỏi vì mình mà khổ thân, tuy vậy vợ vẫn kiên quyết ở lại. Một hôm, để cho vợ khỏi chịu thiệt thòi, chồng cất lẻn ra đi. Chồng để lại cho vợ một phong bì thư, nói mình sẽ không bao giờ trở về nhà nữa và cho phép vợ tự do đi lấy chồng khác. Sau khi chồng đi biệt, người vợ chảy không biết bao nhiêu là nước mắt. Mẹ đẻ của nàng khuyên con đi lấy chồng khác nhưng nàng quyết ở vậy đến già. Ba năm trôi qua, tin tức của chồng vắng bặt. Nhiều người đoán rằng chàng đã quyên sinh cho khỏi đau khổ. Rồi đó, người vợ trả nhà cửa lại cho họ hàng nhà chồng, trở về với mẹ đẻ, lập bàn thờ coi như chồng đã chết. Nhưng mẹ nàng luôn luôn bảo nàng: - Con thủ tiết với chồng như thế là trọn đạo. Con không nên bỏ phí xuân xanh một đời. Thấy nàng xinh đẹp lại có đức hạnh, nhiều người muốn hỏi làm vợ, trong đó có một người học trò họ Nguyễn. Tin qua mối lại xôn xao làm cho nàng không tự chủ được. Hơn nữa mẹ nàng có ý ép con, bà con thân thích cũng hết lời khuyên dỗ. Cuối cùng, nàng đành nhận lời đi bước nữa cùng với anh chàng họ Nguyễn. Về ở với chồng mới được ba năm, nàng sinh được hai người con trai. Hai vợ chồng rất tương đắc. Người học trò họ Nguyễn sau đó thi đậu tiến sĩ và được bổ làm án sát Sơn-tây. * * * Năm ấy, Sơn-tây và các trấn lân cận mất mùa to, giá thóc gạo lên cao vùn vụt. Khắp nơi đều có người chết. Đường sá, chợ búa đầy những đoàn người đói khổ đi kiếm miếng ăn. Quan án được lệnh đi phát chẩn cho dân đói. Lại nói chuyện anh chàng họ Đỗ từ khi trốn vợ ra đi, nhất quyết không trở về quê hương nữa. Chàng không muốn vì mình làm khổ đời một người đàn bà. Chàng cứ đi lang thang nay đây mai đó, sống bằng nghề bị gậy. Cứ thế sau năm năm, bệnh của chàng vẫn như cũ và chàng vẫn sống một cuộc đời đơn độc và đau khổ. Hôm ấy nghe tin có cuộc phát chẩn, chàng lần mò tìm tới, nhập vào đội quân lĩnh chẩn. Bọn lính lần lượt phát gạo hết hàng này sang hàng khác. Khi sắp sửa được lĩnh, chàng kêu lên: - "Tôi là học trò yếu đuổi tàn tật, không rá không mùng, không nồi không niêu nên không muốn xin gạo, chỉ muốn xin một ít tiền cho tiện...". Nghe hắn nói thế, quan án cho gọi tới hỏi mấy câu về văn chương, quả nhiên anh chàng bề ngoài rách rưới tiều tụy nhưng đối đáp rất trôi chảy, thơ làm ra thao thao bất tuyệt. Sẵn có tình yêu người tài, ông bèn đặc biệt lấy tiền ra cho, có phần hậu hơn những kẻ khác. Khi về dinh, ông ta thuật chuyện vừa rồi cho vợ hay. Nghe tả hình dạng, người đàn bà ngờ rằng đó là người chồng cũ. Nàng ra chợ tìm cách đứng nấp để xem mặt, thì đúng là người chồng ngày xưa. Tự nhiên lòng thương chồng cũ nay lại bừng bừng bốc lên. Nàng phải nuốt thầm những giọt nước mắt vì mình đang ở vào một tình thế khó xử. Suy đi nghĩ lại mãi, cuối cùng nàng dùng lời nói khéo cố khuyên chồng mới đưa "người học trò khó mà có tài" đó về dinh, cho ở một gian lều sau trại. Như thế vừa làm được một việc nghĩa vừa có người làm bạn văn chương. Được chồng mới ưng thuận, nàng sung sướng vô hạn. Từ đó ngầm sai người hầu chu cấp chăm nom rất tử tế. Nhưng nàng không bao giờ để lộ một hành động gì cho chồng biết và cũng không bao giờ cho người chồng cũ thấy mặt. Một hôm vào khoảng đêm khuya, người chồng cũ một mình đau bụng đi tả. Nhân khát quá, chàng bèn lần ra một cái chum ở gần trại múc nước uống. Hôm sau, chàng mới biết là mình uống lầm phải một thứ nước trong đó có một con rắn trắng chết. Nhưng thật không ngờ, một thời gian sau những mụn hủi lở tróc bay hết và dần dàn bệnh tự nhiên lành hẳn, da thịt của chàng trở lại trắng trẻo như xưa. Rồi đó, chàng lại ôn luyện kinh sử và nhờ có sự giúp đỡ hậu tình của quan tán, chàng lại quẩy lều chiếu đi thi. Tất cả những việc đó xảy ra làm cho người đàn bà vừa mừng vừa đau khổ. Nàng thấy mình không thể chịu đựng âm thầm mãi như vậy được. Khi nghe tin chồng cũ thi đậu tiến sỹ sắp sửa vinh quy, nàng viết một bức thư rất dài kể hết nông nỗi của mình cho người chồng mới biết. Nàng xin chồng tha lỗi về sự giấu giếm của mình bấy lâu nay. Có hai đứa con trai, nàng xin một đứa cho làm con nuôi ông nghè mới. Đoạn nàng trốn chồng con, bỏ đi biệt. [1] KHẢO DỊ Người Hải-dương kể truyện này có khác một vài tình tiết: Khi chồng bỏ đi biệt, người vợ cũng bỏ nhà đi tìm. Sau một thời gian tìm kiếm không ra, một nho sĩ mà nàng gặp cho biết mình có thấy xác một người hủi trôi sông, vậy chắc là đã chết. Đoạn bảo nàng: - "Thôi hãy cùng tôi lập một gia đình mới". Nàng đáp: - "Cám ơn, để tôi để tang chồng ba năm cho trọn đạo". Sau ba năm, chàng nho sĩ đến nhà nhắc lại lời hẹn. Nàng cảm kích nhận lời. Hai bên trở thành vợ chồng. Sau đó chồng cũng thi đậu làm quan. Đoạn sau cũng nói đến việc nàng tình cờ tìm được người chồng cũ, bấy giờ là ăn mày rách rưới ở một chợ nọ. Vẫn không ra mặt, nàng chỉ nói khéo để chồng mới đưa người "hàn sĩ" đó về ở một gian nhà cất sau huyện đường để tiện hỏi han nghĩa lý sách vở. Đặc biệt nàng có cho đào một cái giếng riêng cho chồng cũ dùng. Không ngờ giếng có mạch nước tiên, chàng uống vào tự nhiên lành bệnh và cuối cùng đi thi đậu trạng. Đứng trước cảnh ngộ khó xử, một hôm nàng bèn nhảy xuống giếng tự tử. Chồng mới, rồi tiếp đó chồng cũ hết sức xúc động lần lượt nhảy xuống chết theo. Không ngờ giếng tiên biến bộ ba thành thần và cuối cùng được Ngọc Hoàng phong làm Táo quân. [1] Theo Thực nghiệp dân báo (1923)
__________________
![]() |
#58
|
||||
|
||||
![]() KIỆN NGÀNH ĐA Ngày xưa có hai vợ chồng một người lái buôn hương. Họ chưa có con cái gì cả. Chồng vắng nhà liên miên, chỉ thỉnh thoảng mới về một lần. Có lần chồng đi khá lâu. Vợ ở nhà lọt vào mắt một tên xã trưởng. Dựa vào quyền thế, xã trưởng tìm cách quyến rũ người đàn bà đó và cuối cùng hai người tằng tịu với nhau. Nhưng hắn rất khôn ngoan, thỉnh thoảng mượn cớ đi tuần đến với người đàn bà một lần. Vì thế trong xóm ngoài làng chả một ai ngờ cả. Lần ấy ông lái hương mải mê buôn bán nên không tiện về nhà. Ông cất hàng đi rất xa và làm ra rất nhiều tiền. Sau ba năm, một hôm gần giỗ cha, ông mới sực nhớ đến vợ bèn thu xếp tiền nong tìm về quê cũ. Sắp về tới làng thì trời đã tối, ông sực nghĩ tới số tiền công lao mồ hôi nước mắt trong mấy năm trời: - "Ta đi vắng lâu quá! Không biết chừng ở nhà có sự thay đổi". Nghĩ thế, ông đem 120 lạng bạc trong bồ ra buộc làm một gói. Khi đến cây đa đầu làng, ông ta trèo lên và đem số bạc ấy giấu vào hốc cây. Ông khấn: - Tôi là dân làng này, tôi làm ăn dành dụm được có chừng ấy, tôi gửi cho ngài, trăm sự nhờ ngài giữ hộ. Vợ thấy chồng về lăng xăng cơm nước tiếp đón hết sức thân mật. Nhưng khi nhìn thấy chiếc bồ không, liền hết lời trách móc: - Anh buôn thua bán lỗ làm sao mà bỏ vợ dại ở nhà ba năm đằng đẵng không đoái không hoài gì cả. Tiền nong anh vứt đi đâu? Trời ơi sao mà tệ thế! Thấy tình hình không có gì đáng ngại mà vợ vẫn có vẻ một lòng một dạ với mình, người lái hương yên tâm, nên đêm ấy khi nằm lên giường, ông tỷ tê kể hết việc làm ăn khấm khá của mình cùng việc gửi bạc ở hốc cây đa đầu làng cho vợ nghe. Không ngờ đêm ấy, xã trưởng theo thói quen tìm đến nhà nhân ngãi. Hắn quen chó, lại thuộc cách mở cổng nên chả mấy chốc đã lọt vào thềm nhà. Sắp bước vào buồng, hắn bỗng nghe tiếng trò chuyện nhỏ to. Biết là chồng cô ả đã về, hắn đứng lại nghe ngóng. Và khi biết rõ người lái hương giấu bạc ở cây đa, hắn mừng quá, vội lùi một mạch ra đầu làng, cuỗm ngay gói bạc. Hắn lấy một cách ngon lành, chả một ai biết cả. Rạng ngày hôm sau, khi người lái hương ra lấy bạc thì ôi thôi, bạc đã không cánh mà bay mất tự bao giờ. Xót lòng vì mất của mà không biết kêu van với ai, ông ta đấm ngực kêu trời rất thảm thiết. Mãi về sau nghe tin gần miền có một ông Trạng xử kiện nổi tiếng, ông bèn chặt lấy một cành đa mang đến kiện với Trạng. Tuy thấy sự tình éo le, Trạng cũng nhận lấy cành đa rồi báo người lái hương về, sáng mai lại đến. Lập tức, Trạng sai quân hầu rào bốn bên cây đa lại, không cho một ai đến gần, rồi ngầm sai đào hố ở gốc, cho người xuống nấp dưới đó. Sáng hôm sau, Trạng đến đóng dinh ở gần cây đa rồi trước mặt bàn dân đông đủ, Trạng bắt nguyên cáo và bị cáo ra đối chất. Cây nhận có giữ gói bạc nhưng không biết người nào lấy đi. Hỏi mãi cây vẫn không khai được một điều gì. Quân hầu của Trạng được lệnh khảo đả cây túi bụi. Mọi người đứng trước dinh Trạng đều nghe bị cáo van khóc rối rít. Mãi đến ngày thứ ba, bị cáo mới tả cho biết mặt mũi người ăn trộm, nhưng chỉ nói riêng cho Trạng nghe mà thôi. Liền đó, Trạng cho người lái hương về, ba ngày sau sẽ bắt tên trộm hoàn lại số tiền, nhưng trước đó phải dọn cỗ bàn tạ thần mình và mời làng nước đến ăn mừng về việc tìm lại được của. Trạng còn ghé tai dặn dò ông ta: - "Trong nhà có bao nhiêu chó dữ phải thả ra trong khi khách đến". Người lái hương tin lời Trạng, về nhà mổ trâu khoản đãi bà con làng nước. Mỗi một người đến ăn cỗ lại làm cho mấy con chó cũi một phen sủa hết hơi. Duy chỉ có xã trưởng vì ba năm lui tới nên chó không còn lạ hơi nữa. Khi thấy mấy con chó vẫy đuôi mừng xã trưởng, lập tức những người của Trạng, trực sẵn ở sau nhà, bắt lấy giải đi. Trước mặt Trạng, ban đầu xã trưởng chối lấy chối để. Nhưng sau thấy Trạng vạch tội hắn có ngành có ngọn và cho biết thêm là cây đã thú thật mặt mũi người lấy trộm như thế nên hắn đành cúi đầu nhận tội. Ngày nay, người Nghệ-tĩnh có câu: "Kiện ngành đa " ý nói kiện một cách gián tiếp, nghĩa là kiện một sự việc này nhưng chính nhờ đó làm nảy ra ánh sáng một sự việc khác. [1] KHẢO DỊ Theo một người khác kể, thì truyện này không nói đến người nhân tình và vợ của người buôn hương, chỉ nói đến một người ngủ dưới cây đa với một tay nải. Tỉnh dậy, thấy mất tay nải, hắn bèn chặt một cành đa kiện với quan. Quan cũng sai bí mật đào hố ở sân, cho người nấp dưới đó rồi truyền lệnh cho người khảo đả cành đa. Trong khi dân chúng đứng ở phía ngoài xem đông như hội, thì ở trong này, cành đa cung xưng: "Xin quan tha đánh, tôi sẽ chỉ mặt tên phạm tội". Rồi nói tiếp: - "Tôi biết rõ mặt nó dù nó đứng lẫn vào đâu tôi cũng nhận ra được. Nhưng công bố tên nó ở đây thì rất xấu hổ, và nó sẽ bị quan trị tội. Ngày mai cũng vào hồi này, tôi sẽ mách tên nó, nếu nó không chịu thú với quan". Trong số những người đi xem hôm đó có tên trộm. Nghe nói vậy, hắn sợ quá, vội mang tay nải của người kia, thừa lúc vắng, ném trả ở cửa công đường. Vì vậy ngày mai, quan hạ lệnh bãi cuộc tra. [2] Trong Bao công kỳ án cũng có truyện Chôn tiền bị mất: Có hai vợ chồng mới lấy nhau được một năm, chồng vì sinh kế, bỏ đi tỉnh khác làm công cho một hiệu buôn. Ba năm sau mới về với số tiền công của mình. Sắp tới nhà thì trời tối, sợ bị cướp giật nên đào hố chôn ở chân cầu thứ ba. Về nhà, thấy vợ ra vẻ lạnh nhạt vì không thấy tiền, chồng nói thật để lấy lòng vợ, không ngờ tình nhân của vợ đêm ấy nấp dưới giường nghe rõ cả, liền đi đào lấy về. Sáng dậy chồng đến đào không thấy. Bị vợ mỉa mai, chồng đi kiện với Bao Công, Bao Công hỏi: - "Việc chôn tiền đã nói với ai chưa?". Hắn đáp chỉ nói với vợ. Quan sai đòi vợ đến tra khảo. Vợ không nhận. Chồng thấy vợ bị tra khảo lấy làm thương, xin quan tha, nói là mình không cần số tiền đó nữa. Bao Công lại thả vợ giam chồng, cho là tội đùa với quan trên. Tối hôm ấy, tình nhân vợ lẻn đến nhà nói cho biết là số tiền ấy đã vào tay mình. Hắn vừa trao tiền cho nhân tình thì liền bị sai nha do Bao Công phái đến rình sẵn, tóm cổ. Người Khơ-me (Khmer) có truyện Vua Dao trong đó có mtoj chi tiết giống với truyện trên. Một anh chàng có số làm vua hai nước. Lúc trẻ được một nhà sư dạy cho câu châm ngôn: "Tìm của chớ ngủ, nằm với vợ chớ nói". Anh đi nhờ thuyền buôn ra nước ngoài định nhờ vả ông anh làm quan to ở đấy, nhưng ông anh chỉ cho có mỗi một vuông vải. Lúc trở về nhà ngồi thuyền, trùm vuông vải lên đầu, nhờ đó (và nhờ không ngủ theo câu châm ngôn), anh đã tóm lấy râu con quỷ Yắk buộc nó phải cho dây, gậy và nồi thần. Bị thuyền trưởng gạt anh lên đảo rồi cho thuyền chạy để chiếm các vật quý, anh lại dùng mẹo chiếm được viên ngọc có phép "đi trên biển như đi trên đất liền" của một con lợn thần, nhờ đó, anh đuổi kịp thuyền buôn, sau đó anh lấy lại các đồ vật đã mất, rồi vượt biển một mình về đến nhà. Đến đây truyện bắt đầu giống với truyện Kiện ngành đa . Trước khi gõ cửa cho vợ mở, anh chôn mọi vật quý dưới chân cầu thang. Vợ đang hú hý với nhân tình, nghe tiếng chồng gọi, vội giấu nhân tình vào một nơi, rồi đón chồng vào. Lúc lên giường, vợ hỏi tình hình nước ngoài ra sao, anh nhớ câu châm ngôn không đáp. Nhưng do vợ nỉ non mãi, anh buột miệng kể hết cho nghe, kể cả chỗ giấu vật quý. Anh nhân tình nghe được liền đào lấy mang đi. Sáng dậy, thấy mất vật quý, anh chàng vật vã kêu trời rồi đóng gông cái thang lên kiện quan. Quan không xử, anh lại đưa tới kiện vua. Ở đây cách tra xét của vua khá đặc biệt. Vua bảo anh về, cho anh một cái áo choàng đẹp, bảo lúc nào vua mở hội thì trao cho vợ mặc đi dự, còn bản thân thì đừng đi. Đến hôm nhà vua mở hội, vợ thấy chồng ốm thì mang áo ấy cho nhân tình mặc để cùng mình đi dự hội. Người của vua phái đi tìm người mặc áo choàng đẹp, nhận ra được ngay và bắt cả cặp giải về. Họ thú nhận tất cả. Vua giao cho anh chàng phân xử, anh chỉ xin vua bắt hai người lấy nhau. Đoạn sau, anh biếu vua tất cả các vật quý mà chỉ đổi lấy một con dao sắc. Anh bỏ nước đi đến một nước khác làm con nuôi một đại thần. Và nhờ câu châm ngôn trên, một đêm nọ, anh thức đêm canh gác cho nhà vua chu đáo (trước đó những ông quan khác đi canh đều ngủ quên và bị vua xử chém) được vua khâm phục về sự cần mẫn và tài năng, gả công chúa cho, rồi cho thay vua trị vì. Trở về nước, anh lại được ông vua cũ trọng đãi vì phục tài và gả cho công chúa, rồi nhường luôn ngai vàng. Cuối cùng, anh không quên đi gọi người anh mình về và cho làm quan. [3] Đồng bào Tày có truyện Bút Bời cũng là một dị bản của Kiện ngành đa nhưng hình tượng xây dựng khác hẳn: Có hai người bạn, một khôn ngoan, một dại dột, đều nghèo đói không con, một hôm rủ nhau đi tìm Bút Bời (Ngọc Hoàng) để xin cho được con có của nên. Mỗi người quảy một gánh gạo, chàng Khôn đi trước Dại đi sau. Khi ngủ ở rừng có ma hiện ra quấy nhiễu, chàng Khôn bảo bạn hãy nín thở, tay trái cầm một nắm đất để lên đầu và cầu Bút Bời phù hộ. Ma liền chạy mất. Đi đã nhiều ngày mà không gặp Bút Bời, chàng Dại toan về nhưng được bạn khuyến khích lại đi. Đêm tới, hai người nằm mộng thấy có người đến khuyên nên trở về vì đường còn rất xa. Sáng dậy, họ gặp một người (tức Bút Bời cải trang) hỏi họ muốn gì? - "Xin đẻ con trai". - "Được, muốn gì nữa?". Chàng Dại xin một gánh bạc, chàng Khôn xin một gánh ba phần bạc một phần vàng. Bút Bời đều hứa cho, chỉ dặn ba điều nên nhớ: 1) Khi lội sông chớ lội thẳng. 2) Thấy cầu chớ luồn phía dưới. 3) Về đến nhà trước ba ngày chớ trèo lên thang. Lúc về chàng Dại đi trước chàng Khôn. Qua sông anh muốn lội thẳng, Khôn can mãi không được bèn bảo hãy đặt gánh ở bờ, cả hai cùng lội thử. Mỗi tội được một quãng bỗng thấy có cây chuối rừng trôi quấn lấy cẳng. Khôn chém một nhát thấy chuối chảy máu, mới hay đó là rồng. Lật đật trở lại quẩy gánh lội men qua sông vô sự. Khi gặp một thân cây ngã chắn ngang đường, Dại không nghe lời can của bạn, luồn xuống phía dưới để qua, bị cây đổ đè lên một bên gánh, đánh mất nửa số bạc. Nửa đêm về đến nhà, anh vẫn không nghe lời dặn, đặt gánh dưới nhà, gọi vợ ầm ĩ bảo đốt đuốc cho mình lên. Không ngờ vợ có nhân tình. Thấy chồng cô ả về, hắn lẻn xuống rình, nhân thấy gánh bạc liền quẩy đi mất. Đến khi anh chàng xuống tìm thì không thấy nữa. Anh ta cho rằng vì mình không nghe lời nên Bụt Bời lấy lại số bạc. Về phần anh chàng khôn ngoan, anh giấu gánh ở rừng mà về không. Đến nhà nghe có tiếng nói chuyện tỷ tê với vợ mà không phải giọng của mẹ mình, anh đoán là nhân tình của vợ. Anh giận lắm trở về rừng mài dao định đâm chết cả hai. Đêm sau lại về, lại nghe trò chuyện nhỏ to, nhưng nhớ lời dặn của Bút Bời, tuy ghen mà không dám lên. Lại trở về rừng mài dao, định khuya lại vào lúc gà gáy sáng vừa đủ thời hạn ba ngày, sẽ lên giết chết. Về đến nhà, trời bỗng nổi sấm đầu năm. Người Tày vốn có tục nhân nghe tiếng sấm gọi hồn của người đi xa trở về. Khôn nghe tiếng khấn của mẹ, rồi tiếng khấn của mẹ vợ, rồi tiếng của vợ đều gọi hồn mình về. Anh mới biết rõ sự thật. Chờ gà gáy xong, anh trèo lên cầu thang, kể hết mọi chuyện cho gia đình nghe, rồi nói: "Nếu không nghe lời Bút Bời thì có lẽ tôi đã phạm tội giết oan vợ và mẹ vợ". Đoạn, bảo vợ cùng mình đi lấy của giấu ở rừng về. Chàng Dại đến kể chuyện mất bạc với chàng Khôn. Sau khi trách bạn không nghe lời dặn, chàng Khôn hứa tìm cách lấy lại số bạc đó. Anh bảo bạn phải thật giữ kín, rồi bảo về tìm xem ở sàn nhà có cái lỗ nào vừa một người chui tọt không. Dại về nhà tìm thấy ở chỗ đống củi có một cái lỗ, lại có dấu chân. Khôn lại bảo mang mây đến nhà mình để đan một cái rọ. Đan xong, Khôn bảo bạn về nói với vợ giã cho một gánh gạo để đi xin Bút Bời lần nữa, rồi gánh tới đây. Vợ chàng Dại tưởng chồng lại đi thật, đêm ấy gọi nhân tình sang, không ngờ Khôn và Dại đi nửa chừng lẻn về buộc rọ vào chỗ có lỗ, đoạn Dại gọi cửa ầm lên. Quả nhiên anh nhân tình chui đầu vào rọ, bị trói lại. Cuối cùng hắn không những trả lại gánh bạc còn giấu ở trong rừng chưa đụng đến, mà còn phải nhắn người nhà mang bạc - cân vừa đủ sức nặng của người hắn đến chuộc tội gian dâm. Chàng Dại tặng chàng Khôn số bạc này để đền ơn. [4] Người Ả rập (Arabes) có truyện Ngoại tình bị bại lộ: Vị Kha-lip En Măng-xua thấy có một người mếu máo đến thưa rằng mình đi buôn xa có số tiền giao cho vợ giữ, vợ vừa cho biết bị mất trộm, không tìm ra dấu vết. Hỏi: - "Vợ lấy đã bao lâu?" - "Mới được một năm" - "Có con riêng không?" - "Không" - "Còn trẻ hay già?" - "Trẻ". Kha-lip liền giao cho hắn một lọ nước hoa đặc biệt, bảo: "Đưa cái này về mà giải sầu". Rồi đó, ông sai bốn người hầu mỗi người đứng gác một cửa thành, dặn ai đi qua nếu ngửi thấy có đúng mùi nước hoa như thế, thì giải đến. Người kia về đưa nước hoa cho vợ bảo: - "Kha-lip cho ta đấy". Vợ bèn ngầm biếu tình nhân. Sau đó anh nhân tình bị bắt. Hỏi: "Nước hoa lấy ở đâu ra" - "Mua" - "Đưa người bán đến đây?". Hắn ta bối rối. Kha-lip bảo cảnh sát: "Hãy giam lại nhưng đừng đánh, bao giờ nó trả đủ số tiền hãy tha, nếu không thì đánh 1.000 roi". Hắn trả đủ tiền, Kha-lip gọi người mất tiền đến phán: "Tiền của ngươi đây, còn vợ thì phú về" [5] Truyện Con chồn bị giết oan của người Lào khác với truyện trên về mô típ nhưng vẫn có liên hệ về ý nghĩa: Một người Bà-la-môn mang về cho vợ một con chồn dèn (panpong), vợ nuôi ở nhà, người và vật quen thuộc. Một hôm vợ xuống sông tắm, để con còn bé trên bờ với con chồn. Bỗng một con rắn bò tới toan làm hại đứa bé, nhưng bị chồn vồ chết. Người Bà-la-môn chợt đến, thấy miệng chồn có máu, tưởng nó cắn con, bèn giết ngay. Nhưng khi nhìn kỹ mới hay sự thật. Hối hận, hắn quyết định đi Ba-la-nại (Bénarès) sám hối để lại cho vợ cái khánh (ga-tha) trên có khắc câu: "Chớ hành động thiếu suy nghĩ, nếu không sẽ ăn năn như người Bà-la-môn với con chồn". Ở làng ấy có một người lái buôn xa nhà để lại người vợ có chửa. Đứa con trai lớn lên cũng làm nghề buôn. Một hôm vợ người Bà-la-môn vì túng tiền nên bán cái khánh cho mẹ con người lái buôn. Đọc câu châm ngôn, họ lấy làm thích thú, người con bèn cho họ khắc câu châm ngôn vào lưỡi gươm mình thường đeo. Người lái buôn lâu năm vắng nhà, một đêm nọ về bất chợt. Vào buồng vợ, thấy một người ngủ bên cạnh cây gươm, gần vợ. Giận quá người ấy cầm gươm toan giết người mà ông ta đinh ninh là tình nhân của vợ. Nhưng đọc được những dòng trên lưỡi gươm, ông bèn dừng tay lại. Giữa lúc ấy, người vợ tỉnh dậy, thấy chồng, vội chỉ đứa con mà ông vừa toan giết: "Con ta đấy". Người lái buôn bèn đưa hậu lễ đến người Bà-la-môn vì đã bán cho mình một câu châm ngôn vô giá. [6] Phương Tây còn có một câu truyện Ba điều dạy của Xa-lô-mông, hình tượng và ý nghĩa tượng tự với truyện của Lào: Một người đầy tớ của Xa-lô-mông một hôm xin thôi việc và được chủ trả công là 300 đuy-ca. Từ giã chủ rồi, nhưng anh ta nghĩ rằng có biết bao nhiêu người vẫn thường đến mua lời dạy khôn của chủ, nên cũng muốn xin chủ một điều dạy, bèn trở lại thưa: "Xin ngài cho một điều dạy". Xa-lô-mông đáp: - "Phải trả đủ 100 đuy-ca như mọi người" - "Xin vâng". "Việc làm hôm nay đừng để đến ngày mai, nhớ lấy". Vẫn chưa vừa lòng nên Xa-lô-mông lại thấy hắn ta trả lại xin một điều dạy nữa: "Phải trả đủ 100 đuy-ca" - "Xin vâng" - "Hãy suy xét việc định làm rồi hãy làm, nhớ lấy!". Hắn vừa bước đi thì chủ gọi lại nói: - "Bây giờ con đi thì chắc hết tiền, vậy chờ đây ta cho ít bánh". Ra về, hắn gặp một người buôn dầu làm bạn đường. Trước mặt họ có hai con đường: cũ và mới. Người buôn dầu bảo: - "Có đi đường mới với tôi không?" - "Không, 100 đuy-ca lời dạy của chủ, tôi cứ theo đường cũ". Hắn bằng lòng với lời dạy vì chả mấy chốc đã thấy người buôn dầu mếu máo quay trở lại vì bị cướiplấy hết cả của cải. Về đến nhà vừa đêm tối, cửa đóng. Nhìn qua lỗ khóa, thấy vợ mình đang ngồi ở bàn ăn với một thầy tu, hắn định rút súng ra bắn chết. Chợt nhớ lời dạy thứ hai của chủ, hắn bèn nuốt giận gõ cửa. - "Ai?" - "Tôi". Vợ nhận ra ngay: - "À, chồng tôi đã về!". Vào nhà hắn hỏi: "Thầy tu kia là ai?" - "Con anh đấy chứ ai: chúng tôi cho nó mặc kiểu thầy tu". Hắn reo: "Ồ, lời dạy quý hóa!". Sắp vào ăn, bỗng nhớ miếng bánh chủ cho, hắn bèn lấy ra cắt, thì trong đó có 300 duy- ca. Hắn lại reo to: "A, chủ lại trả lại tiền cho ta!". Mọi người vui vẻ vào bàn. Vợ hắn nói: - "Hãy gượm, để tôi bảo thợ gặt mai khoan hãy đến, vì là ngày vui của chúng ta". Hắn đáp: "Không, việc làm hôm nay chớ để ngày mai". Gặt xong, bỗng có trận mưa đá, làng xóm mùa màng hư hại nặng, trừ nhà hắn. Hắn ngẫm nghĩ: "Lời dạy của chủ quý vô kể!" [7] [1] Theo Tống Trân - Cúc Hoa và lời kể của người Hà-tĩnh. Về việc tra khảo cây, xem thêm truyện Tra tấn hòn đá ( số 110) và truyện Nguyễn Khoa Đăng ( Số 111 ) tập III . [2] Theo Lê Doãn Vỹ. Sách của trẻ nhỏ (1941), đã dẫn. Nguyễn Văn Ngọc trong Truyện cổ nước Nam, tập I, thì: tiếng đồn cây đa biết nói sắp xưng tên đứa lấy tay nải làm cho tên gian lo lắng sợ tội, bèn đến công đường “tiên năng tự thú”. Cũng theo ông thì truyện Cây đa biết nói ngày xưa trong dân gian đã diễn thành vở chèo. [3] Theo Mác-ti-ni (Martini) và Béc-na (Bernard). Truyện cổ dân gian Căm-pu-chia chưa hề in và Truyện dân gian Căm-pu-chia. [4] Theo Đơ-jor-jơ (Degeorge). Truyền thuyết của người Tày ở An-nam, tạp chí Nhân loại , đã dẫn (1921- 1922). Về tình tiết chàng Khôn nhờ nghe lời Bút Bời nên tránh được việc giết oan vợ và mẹ vợ, trong bộ Kinh luật dị tướng có truyện Người mua khôn như sau: Một người nghèo vượt biển kiếm ăn trở về có nhiều của. Anh ta có vẻ đắc chí. Một hôm gặp một người bạn, người bạn bảo: - “Gần đây có một người dạy khôn, khắp thành phố người ta đi mua khôn của ông ta. Dù đắt mà được khôn còn hơn”. Anh ta nghe lời tìm đến. Người dạy bày cho một phép: khi có việc gì đó nghi ngờ hãy tiến lên bảy bước rồi lùi lại bảy bước. Làm ba lần như thế, trí khôn sẽ xuất hiện. Anh ta trả 1.000 đồng vàng. Một hôm anh ta đi xa về khuya. Vào buồng vợ thoáng thấy vợ và một người nữa đang ngủ. Anh ta ngờ vợ nằm với nhân tình, cơn ghen bốc lên rút dao toan giết. Chợt nhớ đến trí khôn mới mua được, lập tức làm theo. Giữa lúc ấy người lạ trên giường vợ đã dậy, hóa ra đó là mẹ vợ. Hắn kêu lên: - “Thật là khôn! Một ngàn đồng vàng là quá rẻ”. Bèn đến nhà người dạy trả thêm 3.000 đồng vàng (Theo Sa-van-nơ (Chavanne). Sách đã dẫn). [5] Theo Bát- xê (Basset), quyển II, đã dẫn [6] BEFEO, tập XVII, số 5 (1917) [7] Theo tạp chí Muy-dê-ông (Le Museum) (1884)
__________________
![]() |
#59
|
||||
|
||||
![]() TO ĐẦU MÀ DẠI, NHỎ DÁI MÀ KHÔN Một hôm voi đang đủng đỉnh đi chơi bỗng gặp hổ. Hai bên chào hỏi chuyện trò chán chê, đoạn hổ bảo với voi: - Bác với tôi đều là bậc anh hùng ở chốn sơn lâm, mỗi lần đi đến đâu, mọi thú vật đêu khiếp sợ. Nay tôi muốn thi tài với bác một chuyến chơi, nếu bác vui lòng thì hai chúng ta cùng nhảy qua một cái ngòi trước mặt đây, hễ bên nào không nhảy được thì sáng mai đến đây đưa thân cho kẻ được cuộc tha hồ mà chén thịt hay chà đạp thế nào tùy ý. Nào bác xem chừng có đủ sức đọ tài với tôi chăng? Nghe hổ nói khích, voi khẳng khái đáp ngay: "Được, tôi sợ gì mà không thi". Nói rồi cả hai cùng nhảy qua ngòi. Hổ làm một vọt sang bờ bên kia như bỡn. Nhưng voi vốn nặng nề cất mình không nổi, bị sa xuống dòng nước. Chân voi tụt xuống bùn lầy làm cho hổ phải xuống kéo mãi đến tối ngày mới đưa lên được. Rồi đó cả hai ai về nhà nấy. * * * Giữ đúng lời hẹn, sáng hôm sau voi phải đi nộp xác cho hổ ăn thịt. Biết hổ chẳng tha cho nào, voi thấy chân rã rời, bước không nổi. Bỗng thỏ từ sau một gốc cây lớn tiến đến trước mặt voi. Thỏ chào hỏi, voi không buồn đáp lại. Thấy voi buồn thỉu buồn thiu, thỏ hỏi: - Bác voi! Sao bác buồn thế? Có việc gì đáng lo xảy ra hay sao? Bác cứ kể cho tôi biết đi. Chưa biết chừng tôi sẽ giúp ích cho bác nhiều... Voi dừng lại, kể cho người bạn nhỏ nghe câu chuyện nhảy thi với hổ ngày hôm qua và nói: - Đêm về tôi nghĩ lại biết mình thi nhảy với hắn là khờ. Nhưng bây giờ đã lỡ thì biết làm thế nào? Thỏ bảo: - Thế sao bác không trốn đi, đừng ra đấy có hơn không? - Không được - voi trả lời - Tôi thà chết chứ không muốn sai lời đã hẹn. Thỏ nghĩ một lát, nói: "Tôi có một kế cứu bác nếu bác bằng lòng làm theo đúng lời tôi dặn" - "Kế ấy thế nào?" - "Kế này cốt yếu nhất là tôi bảo sao bác phải làm đúng như thế mới được". Nói rồi, thỏ đi kiếm lá cây trùm lên đầu mình, cải trang thành một con vật khác hẳn. Đoạn cả hai con cùng đến chỗ hẹn với hổ. Thỏ bắt voi nằm ngửa giơ bốn chân lên trời không cụ cựa. * * * Lại nói chuyện hổ từ hôm qua được cuộc, trong bụng vô cùng mừng rỡ. Sáng mai ngủ dậy, hổ hí hửng chờ đến lúc được chén thịt voi. Nhưng khi sắp sửa đến chỗ hẹn, hổ nhìn thấy một cảnh lạ mắt mà hắn không bao giờ ngờ tới. Trước mặt hổ, voi đã nằm chết chỏng cẳng và trên mình voi có một con vật nào là lạ đang hùng hục chén thịt. Mà con vật ấy chỉ bé bằng đầu vòi voi mà thôi. - Lạ thật! Không biết con vật nào kia chỉ có một tý tẹo thế mà dám cả gan vật voi ăn thịt. Voi còn thế, huống chi là mình, không khéo nó nhìn thấy thì bỏ xác. Nghĩ vậy hổ rụt rè không dám tiến nữa, rồi rón rén quay trở lại, lùi một mạch về nhà. Dọc đường bỗng có khỉ ở trên cây hỏi vọng xuống: - Bác hổ, sao bác vội thế? Có việc gì đấy? Nghe khỉ hỏi, hổ hoàn hồn dừng lại, kể chuyện vừa rồi cho nghe. Kể xong, hổ chưa hết sợ hãi toan bỏ đi. Nhưng khỉ vội giữ hổ lại mà nói: - Bác đừng sợ! Đây chắc là có mưu mẹo gì đấy thôi! Bác cứ trở lại chỉ cho tôi thấy đi. Thấy hổ còn ngần ngại, khỉ lại nói: - Nếu bác sợ tôi đánh lừa thì bác cứ buộc người tôi vào chân của bác, hễ bác ở đâu có tôi đó, bác đừng ngại! Nói xong, khỉ đi lấy dây nâu buộc thân mình nối liền với chân sau hổ rồi cả hai cùng trở lại. Khi thỏ thấy hổ và khỉ dẫn nhau tới, biết ngay có khỉ làm quân sư liền không để cho chúng kịp giở mưu mô, vội cất tiếng the thé mắng phủ đầu rằng: - Này khỉ kia, sao mày chậm thế? Cha mày xưa nợ của tao tính ra đến mười con hổ, vậy mà mãi đến bây giờ mày mới đưa đến được một con. Tại sao mày chây lười đến thế. Muốn tốt phải trả cho đủ số, nếu không tao sẽ xé nhỏ xác mày ra. Nghe nói, hổ tưởng khỉ đánh lừa đem mình đi gán nợ cho con vật dữ tợn kia, bèn hốt hoảng cong đuôi chạy một mạch không dám ngoảnh cổ lại. Hổ chạy mãi, chạy mãi, cho đến lúc thấy mồ hôi toát ra đầy người, mệt hết sức, mới dừng lại, nhìn lại khỉ thì khỉ đã chết nhăn răng từ bao giờ rồi. Thế mà hổ tưởng là khỉ còn sống liền mắng cho một trận, và nói: - Đã thế mà mày còn nhăn răng ra mà cười à? [1] Có câu tục ngữ "To đầu mà dại, to dái mà khôn ". Lại có câu "Nợ mười hùm chưa đủ, mưu một khỉ thấm chi " đều do truyện trên này mà ra. KHẢO DỊ Truyện trên còn thấy ở một vài dân tộc khác như đồng bào Tây-nguyên... Trong truyện của Tây-nguyên, chẳng hạn của người Ba-na (Bahnar), cũng như của Khơ-me (Khmer), thay cho voi là người: Một con hổ thấy con chim bói cá kiếm ăn một cách dễ dàng khỏe khoắn (từ trên cao chỉ liệng xuống nước một cái rồi bay lên là có cá ăn) cũng muốn bắt chước. Bèn trèo lên cây rình khi có cá ở suối thì buông người xuống. Chẳng ngờ đã không bắt được cá mà suýt nữa chết đuối. Một người kiếm mật ong đi qua thấy vậy cười nhạo hổ hết lời. Hổ thẹn, xin người ấy giấu cho, mình sẽ tặng một ngày một con thịt. Người ấy nhận lời. Từ đó anh ta rất mực sung sướng. Nhưng vợ anh ta lại cứ nài nỉ anh cho biết lý do vì sao luôn luôn may mắn. Lúc đầu anh giấu, nhưng sau buột miệng nói hết ra. Sáng mai lên rừng gặp hổ, hổ bắt người ấy phải nộp mạng vì đã nuốt lời hứa. Người ấy vâng lời nhưng xin hổ cho về nhà từ giã vợ mai sáng sẽ đến nộp mình. Sáng hôm sau anh chàng thất thểu ra đi, trên đường gặp thỏ, và chuyện cũng xảy ra như chuyện vừa kể. Trong một dị bản của người Ba-na (Bahnar) ở vùng Kon-tum thì thay cho chim bói cá là diều: Một hôm hổ vớ được một con heo rừng, sau khi đã rình mò khá vất vả. Hổ bèn xé xác heo thành mấy mảnh để ăn; những mảnh chưa ăn tới thì ngồi lên giữ, vì sợ mất. Từ trên cao diều nhìn xuống rất thèm. Diều nghĩ được một kế, bất thình lình bay vụt xuống mổ một cái vào hạ bộ hổ. Hổ đau nhói, vội chồm lên, gầm thét vang trời. Thế là diều liền chớp ngay một miếng gan heo và bay lên cành cao đánh chén. Vừa lúc hổ đang bị diều đớp, một người thợ săn đi qua thấy thế cười sặc sụa. Hổ ngượng quá bèn ngỏ ý xin anh ta giữ kín cho câu chuyện xấu hổ này. Đáp lại, hổ sẽ kiếm thịt hươu, nai đem đến nhà cung đốn. Anh thợ săn chấp nhận lời thỉnh cầu, từ đó anh luôn luôn có thịt rừng để ăn, khỏi phải mất công lặn lội, tìm kiếm. Nhưng một hôm vui bạn, anh chàng nói toạc với bạn câu chuyện hổ bị diều chơi lỡm. Đang lúc ấy hổ vác thịt đến nhà. Biết chuyện, hổ nổi giận, đòi anh thợ săn thực hiện lời đã cam kết: nếu nói hở chuyện ra thì phải nộp mạng cho hổ. Anh thợ săn khất hổ bảy ngày sau sẽ đến chỗ hẹn. Đang trong những ngày buồn tẻ nhất, anh bỗng gặp thỏ. Thỏ hỏi thăm, biết chuyện, bàn mưu với anh làm một chiếc nỏ lớn và hai mũi tên tẩm thuốc độc, để mình tìm cách cứu. Đến ngày hẹn, theo lời thỏ dặn, anh thợ săn bảo hổ phải cùng nhau tới gặp thần Dang Công (thần núi) ở một gốc đa trong rừng sâu để nghe phán bảo tội trạng, rồi mới được thực hiện lời hứa. Hổ đã biết tiếng thần Dang Công nên rất sợ, đành nhận lời. Khi cả hai kéo nhau đến dưới gốc đa thì đã thấy một vị thần to lù lù đứng đấy, hoa lá phủ đầu người. Thỏ nấp bên trong, cất giọng ồm ồm, bắt cả hai khai thực đầu đuôi để mình phán xử. Muông thú nghe tin thần Dang Công hiển hiện xử vụ kiện giữa người thợ săn và hổ nên cũng nườm nượp kéo nhau đi xem. Thần Dang Công truyền bảo mỗi bên nhận một mũi tên thần, và dùng nỏ thần bắn vào bên kia, ai có tội kẻ đó sẽ chết. Nhưng thỏ đã ranh mãnh trao nỏ cho chàng thợ săn bắn trước mặc dầu hổ ra sức phản kháng. Chàng thợ săn được nỏ bèn gắng sức giương hai cánh nỏ cứng nhằm vào hổ bắn một phát. Mũi tên độc trúng đầu hổ, hổ lăn ra chết liền. Muông thú thấy vậy xô nhau chạy tán loạn, giãy đạp lên nhau mà chết. Từ trong đám lá ngụy trang thỏ nhảy phóc ra, hiện nguyên hình, bảo anh thợ săn đem thịt thú rừng về đánh chén. Cũng cốt truyện này ở một số làng bản Ba-na (Bahnar) khác lại kể rằng: khi anh thợ săn đưa hổ đến gặp thỏ, thỏ thách hổ nuốt thi với mình một cái xương trâu dựng ngang trong miệng, nếu hổ nuốt được thì mới chứng tỏ anh thợ săn có lỗi. Hổ đồng ý há mồm cho thỏ bỏ xương vào, nhưng bị xương nhọn chống hàm lên, đau không sao nuốt được. Đến lượt thỏ, thỏ nhanh nhẹn bỏ xương ra sau đít. Hổ tưởng thỏ đã nuốt xương dễ dàng, hốt hoảng bỏ chạy. Người thợ săn thừa dịp giương cung bắn chết hổ. [2] Ở Việt-nam có nơi kể khác đoạn đầu. Đó là truyện Con hổ, con cóc tía và con khỉ. Cóc tía thấy hổ thường năng đi qua về lại trước nhà, sợ nó giẫm phải, mới tính kế làm cho hổ phải tránh xa. Một hôm chờ hổ đi ngang trước nhà, cóc bèn xông ra nạt: "Đứa nào đấy, đừng có lớ xớ qua đây mà tao giết chết uổng mạng". Hổ giật mình hỏi ai thì cóc đáp: - "Tao đây! Tao là cóc tía đây!" - "Ái chà - hổ nói - mày bằng nắm tay có tài nghệ gì mà dám láo thế?". Thấy cóc nói nghề gì cũng biết, hổ mời vào nhảy thi. Cóc nhận lời và nói: - "Tao không thèm đứng ngang mày, tao đứng sau mày mà nhảy xa hơn mày mới tài". Cũng như truyện Cóc kiện trời trong Lược khảo về thần thoại Việt Nam, cóc chờ khi hổ đập đuôi sắp nhảy thì vội cắn lấy đuôi hổ. Hổ sang đến nơi thì cóc đã văng xa trước hổ một quãng. Hổ thua cuộc, cóc nói: - "Tao mới sáng đây mà đã ăn thịt một con hổ rồi!". Rồi há miệng cho hổ thấy một dúm lông mà cóc đã cắn ở đuôi hổ lúc nãy. Thấy thế, hổ sợ quá cong đuôi chạy. Giữa đường hổ gặp khỉ và kết cục cũng y như truyện vừa kể. [3] Người Nghệ-an kể truyện này cũng giống như trên, nhưng còn có thêm một tình tiết: trước khi hổ mời cóc nhảy thi, hổ đòi ăn thịt cóc. Cóc bảo: - "Chà chà! Quân mày đông hay quân tao đông mà mày dám đòi ăn thịt tao. Này bây giờ mày với tao mỗi bên gọi lên một tiếng xem bên nào có người "dạ" nhiều". Hổ kêu lên một tiếng nhưng chẳng thấy ai phản ứng cả. Còn cóc kêu một tiếng thì cả cánh đồng đều "dạ" ran. Hổ ngạc nhiên, bắt đầu sợ cóc. [4] Người Quảng-bình kể truyện To đầu mà dại, nhỏ dái mà khôn như nhau: Voi thi với hổ không phải bằng cách nhảy qua suối, mà bằng cách gầm thét sao cho hươu nai sợ chạy trốn (có người kể là làm sao cho chim rừng sợ bay đi). Dĩ nhiên tiếng gầm của voi không làm cho hươu nai sợ bằng tiếng của hổ. Voi cũng hẹn qua ngày sau đi nộp xác như trên, nhưng ở đây kẻ cứu voi và giả bộ ăn thịt voi, đòi nợ khỉ, không phải là thỏ, mà là con chim chuyền chuyện (có người kể là thỏ), nhưng khi khỉ buộc dây dẫn hổ đến thì chim mắng: - "Đồ chó chết, mày vay của tao ba hổ béo nay trả một hổ gầy nhom". Hổ sợ chạy làm khỉ chết nhăn răng. Hổ dừng lại mắng khỉ rồi chén thịt luôn. Vì thế sau này dòng dõi khỉ hễ gặp hổ là trốn chạy và kêu la ầm ĩ. Người Quảng-bình cũng kể cả truyện Con hổ, con cóc tía và con rùa (không phải con khỉ) như sau: Cóc thách hổ chạy thi (không phải nhảy) rồi khi sắp bắt đầu, cóc cũng ngậm chót đuôi hổ. Hổ chạy qua hết năm núi, mười khe về dừng lại, đập đuôi thì cóc đã văng ra phía trước. Thấy hổ ngoảnh đằng sau tìm cóc, cóc mắng: - "Tao đứng trước mày đây rồi còn ngoái lại sau làm cái gì!". Hổ sợ cóc, bỏ đi, bỗng gặp rùa. Rùa bày cho hổ buộc vào chóp đuôi một hòn đá thì cóc chết chỗ ngậm. Hổ làm theo, quả nhiên lần này cóc không ngậm được đuôi hổ. Nhưng khi nhảy qua suối, hòn đá kéo hổ xuống vực, hổ chết. [5] Còn có một truyện khác của ta trong đó cũng có hổ và khỉ. Diễn biến của truyện như trên, nhưng thay cho thỏ và voi (hay cóc tía) là một người ăn trộm. Một người ăn trộm đến rình ở chuồng ngựa nhà nọ định ăn trộm ngựa. Không ngờ đêm ấy có một con hổ cũng đến rình. Trong nhà bỗng có tiếng mẹ dọa con: - "Có nín không, kéo ông Ba bi bị bùm đến cắn chết". Nghe nói, hổ đâm ra lo sợ ông Ba bi bị bùm cắn nên ngập ngừng toan rút. Trộm ta ngủ quên chợt tỉnh dậy thấy hổ tưởng là ngựa, vội nhảy phóc lên lưng hổ. Hổ bị một cú nhảy bất thình lình tưởng là ông Ba bi bị bùm vồ, bèn cong đuôi chạy một mạch. Còn tên trộm khi biết là hổ, sợ quá, vừa gặp cành bứa dọc đường liền bíu lấy đu lên. Từ đây truyện lại giống với các truyện trên. Thấy hổ chạy không ngoái cổ lại, khỉ chặn lại hỏi. Nghe hổ kể, khỉ tình nguyện đi dò xem ông Ba bi bị bùm là thế nào. Khi biết chỉ là một người như người thường, khỉ vội về mách hổ. Thấy hổ không tin, khỉ bảo hổ buộc mình vào đuôi để đưa hổ trở lại xem. Trộm thấy hổ trở lại sợ quá, ngã từ cây bứa xuống đầu hổ. Hổ tướng ông Ba bi bị bùm vồ, bèn lại co giò chạy một mạch làm cho khỉ chết nhăn răng. Đoạn sau còn nổi thêm nhiều diễn biến buồn cười, do những cái nhầm của vợ người có ngựa và vợ người ăn trộm. [6] Người Miến-điện (Myanmar) có truyện Vì sao hổ và khỉ trở nên thù địch: Hổ và voi thách nhau không phải nhảy mà là gầm thét, ai hơn sẽ được chén thịt của kẻ thua. Tiếng thét của hổ làm cho các con vật chết khiếp, còn tiếng rống của voi thì không. Bảy ngày sau voi đi nộp mình. Thỏ gặp thấy voi buồn, hứa cứu voi. Thỏ bảo các giống vật khác làm bộ hốt hoảng nói thỏ đánh bạt với voi và sắp ăn thịt hổ. Hổ không tin, bảo ai đi chén thịt voi với mình thì đi, nhưng không ai đi cả, trừ khỉ. Hai con thắt đuôi lại với nhau. Hổ đến thấy thỏ ngồi trên đầu voi, ăn chuối bảo là ăn óc voi. Hổ sợ thì khỉ trấn an bảo đó là chuối. Thỏ nói: - "Mày nói đưa đến cho tao một con hổ béo sao lại nộp hổ gầy". Hổ sợ quá bỏ chạy, hai con co kéo nhau đến khi vấp gốc cây đứt đuôi mới rời nhau được. Từ đấy khỉ và hổ thù nhau. [7] Người Tày có truyện Hổ, voi sợ cóc. Ở đây các vai trò có thay đổi: cóc thay vào thỏ, còn voi không phải là nạn nhân của hổ: Cóc ăn gỗ mục, ăn đom đóm rồi đến mộc nhĩ. Đang ăn, bỗng có hổ đi qua hỏi cóc ăn gì? Đáp: - "Sang chụ su chạng" (toi vai tai voi). Vì mộc nhĩ giống tai voi, nên hổ sợ quá, toan chạy. Chưa hết sợ thì lại thấy cóc nhả ra từng con đom đóm, mới hỏi: - "Ăn gì đấy?" - "Thưa tha tha thưa" (mổ hắt mắt hổ). Lần này thì hổ sợ thật, liền cắm đầu chạy. Gặp voi, voi hỏi hổ vì sao mà chạy. Hổ cũng kể chuyện vừa rồi. Voi bảo: - "Đừng sợ, để ta trở lại xem". Rồi cũng buộc hổ vào chân. Hai con sắp tới. Cóc đã nói to: - "Mày nợ tao ba hổ, hẹn sáng nay trả đủ sao chỉ có một". Hổ chạy kéo cả voi cùng chạy. Cuối cùng hổ chết hộc máu. Thấy thế voi mắng: - "Chạy mệt bỏ cha lại còn ăn trầu". Lại chạy nữa, một lát ngoảnh lại, thấy hổ nhe răng, voi lại mắng: - "Suýt chết mất mạng mà còn cười ư?" Ở truyện Hổ và cáo của người Mèo thì cáo thay vào hổ, nhưng vai trò và tính cách của các con vật đã biến đổi dần so với với truyện của ta: Một đàn dê kéo nhau đi ăn, tối ngủ ở hang. Một hôm gặp cáo, cáo thấy dê râu dài lấy làm lạ, hỏi: - "Cái này dùng để làm gì?" Đáp: - "Đó là thứ dùng làm nước chấm để ăn thịt cáo". Cáo sợ, bảo: - "Vậy anh làm ơn giữ chặt lấy nó để tôi chạy khỏi nơi này!" Trong khi cáo chạy thì dê thét đằng sau: "Đuổi kịp rồi!" làm cho cáo sợ. Một con hổ vằn gặp, ngăn lại, hỏi: "Sao chạy nhanh thế?" - "Một túm dài dài dưới hàm, nó bảo làm nước chấm ăn thịt cáo khỏe" - "Ồ, sợ gì, đưa tao trở lại xem!" Cáo lắc đầu. - "Nếu thế thì buộc đuôi nhau". Cáo chỉ dám đứng từ xa mà trỏ cho hổ thấy. Khi biết là dê thì hổ xông lại, nhưng dê chụm sừng húc rất hăng làm cho hổ lăn xuống chân hang, đồng thời cáo cũng ngã theo. Nghe một tiếng "huỵch" cáo ngã lên lưng, hổ giật mình tưởng con gì vội chạy như bay. Cáo chết. Hổ ngoảnh lại thấy, mắng: - "Mày còn cười tao à?". Rồi đào hố chôn cáo nhưng lại quên cởi đuôi nên khi hổ bước đi thì lại kéo cáo lên khỏi lỗ, bèn mắng: - "Mày còn theo tao làm cái gì?". Nói rồi ăn thịt cáo. Chỉ khi nhai đuôi cáo mới sực nhớ là đuôi nó còn buộc vào đuôi mình. [8] Người Trung-quốc có truyện ngụ ngôn Hổ già và khỉ: Một con hổ già muốn ăn thịt khỉ. Khỉ biết ý bèn bảo hổ: - "Thân tôi bé nhỏ không đủ bữa của ngài. Trên núi đối diện có con vật lớn lắm, ngài sẽ bắt chén thỏa thích. Tôi xin đi trước dẫn đường". Hai con cùng đi. Đến chỗ có con nai, nai vừa thấy đã nói trước: - "Này anh bạn khỉ, mày hứa trả cho tao 10 da hổ, nay chỉ có một, còn chín". Hổ nói với khỉ: - "Tao không ngờ mày ác thế, mày đem tao đi trả nợ ư?" [9] Người Mông-cổ có truyện A-lát và sư tử khác nội dung nhưng cũng giống kết thúc: A-lát một hôm ra ngoài lều, thoáng thấy bóng sư tử vội chạy về bảo vợ: - "Làm thế nào bây giờ?". Đáp: - "Dù to xác đến đâu cũng không bằng trí khôn. Cứ vác cái gậy thòng lọng ra đi, nó hỏi cứ đáp: - "Bắt con sư tử về ăn trưa". A-lát làm theo. Sư tử cười: - "Bắt ta thế nào được, ta tớp một cái là chết toi". - "Thế thì chúng ta thử sức, ai mạnh hơn thì được bắt kẻ thua hầu mình". Sư tử bằng lòng. A-lát nhặt một hòn đá và bảo nó bóp nát. Trong khi sư tử không làm được thì anh bóp quả trứng vỡ tan. Sư tử chịu để anh xỏ dây vào mũi, đặt yên lên lưng cưỡi. Nhưng lâu dần, sư tử tỏ ý khinh thường. A-lát lo, lại hỏi vợ, vợ bảo: - "Mai nó đến, mình cứ hỏi tôi làm gì buổi sáng". Thấy sư tử sắp đến, A-lát cất to tiếng hỏi vợ. Vợ đáp to: - "Hãy nấu thịt sư tử mẹ và ninh xương sư tử con cũng tạm đủ ăn". Nghe nói, sư tử ở ngoài sợ quá bỏ chạy. Gặp cáo, sư tử kể cho cáo biết chuyện. Cáo ngăn lại nói. - "Chúng nó lừa đấy, ta hãy trở lại xem sao". Khi hai con sắp sửa đến nơi, vợ A-lát nói vọng ra: - "Đồ cáo khốn kiếp, bảo mày đưa một sư tử béo, mày dẫn thứ ấy đến làm gì?" Nghe thế, sư tử va vào đầu cáo một cái chết, rồi cắm cổ chạy mất. [10] Truyện ở Xây-lan (Sri Lanka): Mẹ con nhà hoẵng một hôm dọn đến một hang báo khi báo vắng nhà. Trở về, báo bỗng nghe tiếng mẹ hoẵng quát với đàn con: - "Sao chúng mày không biết gì cả. Đã ăn thịt báo no nên chê chán mà còn chưa vừa lòng ư?" Báo kinh hoang, quay đàng sau chạy, đến hỏi chồn. Chồn hứa sẽ đến cắn cổ cả hai mẹ con hoẵng, lại buộc dây nối người báo với cổ mình để cùng đi. Nhưng cuối cùng báo sợ, chạy nhanh đến nỗi chồn chết tươi. Truyện trong Năm sách dạy trẻ (Panchatantra): Một dê đực già một hôm gặp sư tử, quát: - "Tao đây là chúa dê tôn thờ thần Xi-va; ta đã cầu thần cho giết 101 hổ để cúng dâng người, cùng với 15 voi và 10 sư tử". Sư tử hoảng sợ chạy dài, sau đó trở lại cùng với chồn. Nhưng khi nghe tiếng dê đực quát lên như trước, thì cả hai chỉ còn co chân chạy thục mạng. Ở châu Âu phổ biến là truyện Dê đực, chồn và gấu do anh em Grim (Grimm) sưu tập, giống hai truyện vừa kể: Dê đực nhân khi chồn đi vắng, choán lấy hang làm chỗ ở. Chồn về, thấy trong hang của mình long lanh hai con mắt to thì hoảng lên, bỏ chạy. Dọc đường, gấu ngăn lại, hỏi lý do. Chồn đáp: - "Có một con vật ghê gớm ở trong hang của tôi có hai con mắt thật là kinh khủng". Gấu nói: - "Ồ, tôi sẽ tống khứ hắn ra khỏi hang cho mà xem!". Nhưng khi gấu đến thì thấy hai con mắt sáng, đến lượt mình cũng vắt chân lên cổ mà chạy. [11] Người Nga có truyện Hổ, ngựa và chó sói cũng có những nét tương tự. Thay vào voi là ngựa. Lần đầu tiên thi nhảy, ngựa thua. Nhưng ngựa đòi thi lần nữa, ai lấy chân đập vỡ đá thì thắng. Lần này hổ thua cuộc. Thấy móng ngựa đánh vào đá làm tóe những tia lửa, hổ hoảng sợ bỏ chạy một mạch. Dọc đường hổ gặp chó sói. Sói giữ hổ lại hỏi duyên cớ. Nghe hổ kể chuyện một cách sợ sệt, sói không tin, ngờ đó là thứ ngựa tầm thường mà mình thường chén thịt. Hổ và sói trở lại. Ở đằng xa, hổ hai tay nhấc sói giơ lên cao để sói nhìn xem có thật là ngựa chăng. Không ngờ móng của hổ đã đâm sâu vào thịt sói làm sói chết không cụ cựa. Thấy sói chết, hổ lầm bầm: - "Mày mới nhìn từ đằng xa mà đã sợ đến chết như thế, thế mà dám nói phét là đã từng ăn thịt ngựa. [12] [1] Theo Hữu thanh tạp chí. [2] Theo Truyện cổ Ba- na , tập II. [3] Theo lời kể của người miền Nam. [4] Bản khai của thôn Bùi-ngọc. [5] Theo Ca-đi-e (Cadière), BEFEO, tập I, số 3 (1901). [6] Theo Truyện cổ dân gian Việt-nam, tập I. [7] Theo Truyện dân gian Miến-điện. Sách đã dẫn [8] Theo Doãn Thanh... Sách đã dẫn.. [9] Theo A-va-da-na, truyện ngụ ngôn và cổ tích Trung-quốc. [10] Theo Nắng Mai Hồng, Truyện Cổ tích Mông-cổ . [11] Đều dẫn theo Các-dông (Cardon). Truyện chú hoẵng Pơ-lăng đốc, vua xứ rừng. [12] Theo Truyện dân gian Nga (Nguyễn Hải Sa dịch).
__________________
![]() |
#60
|
||||
|
||||
![]() NHÂN THAM TÀI NHI TỬ, ĐIỂU THAM THỰC NHI VONG Ngày xưa, có hai anh em nhà kia cha mẹ đều chết cả. Họ ở chung với nhau một nhà. Người anh tính nết tham lam, còn em đang ít tuổi có phần khờ dại. Rồi đó người anh lấy vợ. Cũng như chồng, người đàn bà ấy vừa tham lam vừa độc ác. Không muốn cho em ở chung với mình, hai vợ chồng quyết định chia gia tài, lấy cớ rằng để ai lo phân nấy. Khi chia của, họ chiếm hết gia tư, điền sản quý giá của cha mẹ để lại, chỉ để cho em một gian nhà nhỏ, với mấy thửa ruộng xấu. Nhưng người em không chút ganh tỵ, vui vẻ nhận lấy phần của mình. Anh ta cày bừa tất lực. Không có lúa giống, anh tìm đến nhà anh một mình năn nỉ xin vay. Hai vợ chồng bằng lòng cho vay, nhưng trước khi giao lúa cho em, người đàn bà đem luộc lên tất cả. Người em vô tình cứ thế đem gieo. Và thế là những hạt lúa ấy đều không nảy mầm, trừ có mỗi một hạt vì sót trong mủng không luộc đến. Thấy lúa không mọc, người em buồn quá, nhưng không biết làm thế nào. Anh đành đem cây mạ độc nhất ra cấy ở ruộng. Anh chàng chăm chút tưới bón và bắt sâu cho lúa. Không ngờ cây lúa mỗi ngày một cao lớn vùn vụt. Nó vượt lên quá đầu người, gốc tỏa ra không biết bao nhiêu là nhánh. Dần dần nó to như một cây đại thụ, bông nở chi chít che kín cả ruộng. Anh chàng sung sướng không nói hết, hàng ngày vun tưới chẳng rời. Đến ngày lúa chín, anh ra ở luôn ngoài ruộng canh giữ. Tự nhiên một hôm có con chim đại bàng ở đâu sà xuống bên cạnh cây lúa của anh mổ lấy mổ để. Tiếc công sức vun trồng, anh cầm gậy xông đến toan đánh nhau với chim. Chim bỗng nói to lên: - "Đừng đánh ta, ta ăn ta sẽ trả ơn cho!". Anh chàng dừng tay hỏi: - "Trả ơn như thế nào?". - "Tối nay ta sẽ đưa đến một nơi có nhiều vàng bạc, lấy về mà tiêu". Quả nhiên, đêm ấy chim đại bàng đến bảo anh ôm lấy chân mình, rồi vỗ cánh bay mãi ra tận một hòn đảo ở ngoài biển Đông. Từ trên cao, anh đã thấy vàng ngọc sáng rực cả một vùng. Nhưng hòn đảo này ở gần chỗ mặt trời đi qua, mỗi lần mặt trời mọc, ánh nắng thiêu đốt dữ dội không một giống vật nào có thể chịu nổi. Vì thế chim đại bàng vừa đặt anh xuống, đã giục anh lấy nhanh mà về để tránh tai nạn xảy ra. Nghe nói, anh chàng lượm vội một ít vàng ngọc giắt vào người rồi nhờ chim đưa về. Từ đó, anh tậu ruộng làm nhà, sắm đồ ăn thức mặc, mượn kẻ hầu người hạ, trở nên giàu có sung sướng. Hai vợ chồng người anh thấy em tự nhiên có nhiều của thì lấy làm lạ, bèn đến nhà chơi hỏi thăm cho biết. Nghe kể rõ đầu đuôi, người anh cũng muốn được may mắn như em. Hắn hỏi mượn bụi lúa khổng lồ của em để may chi có thể gặp con chim đại bàng. Người em không đợi anh nài nỉ, vui vẻ ưng thuận. Quả nhiên chim lại đến ăn lúa. Người anh cầm gậy xông ra, chim cũng hứa với hắn như đã hứa với người em và sau đó đưa hắn đi lấy vàng ngọc. Được rơi xuống giữa một quả núi đầy châu báu, hắn hoa cả mắt. Không biết nên lấy thứ gì và nên bỏ thứ gì, hắn loay hoay tìm tòi mãi trong tối, quên mất cả lời chim dặn. Trời gần sáng mà chim vẫn chưa thấy người trở lại để bay về. Thời gian đã kíp lắm rồi vậy mà hắn vẫn còn mải mê chọn lựa, không nghe tiếng chim gọi. Mãi đến khi cơn nóng bắt đầu làm rát cả lưng, hắn mới trở lại tìm chim thì chim đã bay đi từ lúc nào rồi. Không thấy anh về, người em rất lo lắng. Anh chàng tìm gặp chim đại bàng, cố nhờ chim bay ra biển Đông lần nữa, có gì không hay thì mang hộ xác anh mình về. Chim lại đến hải đảo, đã thấy xác của người nọ bị thiêu chín như thịt quay. Con vật ngửi thấy mùi thịt chưa bao giờ thơm và ngon đến thế, bèn sà xuống rỉa lấy rỉa để. Ngon miệng chim mải mê ăn quên mất cả về. Khi mặt trời nhô lên, chim muốn cất cánh nhưng không kịp nữa. Bộ lông bén lửa rất mau và chỉ một chốc toàn thân đều bốc cháy. Do truyện này mà người ta có câu: "Nhân tham tài nhi tử, điểu tham thực nhi vong[1] ". KHẢO DỊ Người miền Bắc kể truyện trên trong hai dị bản, đều khá tiêu biểu: Một là truyện Cây khế: Có hai anh em, cha mẹ mất sớm, người anh tham lam, bủn xỉn còn em thì hiền lành. Khi chia gia tài, anh chiếm hết cả, chỉ để cho em độc mảnh vườn trong đó có một cây khế ngọt. Em vẫn không trách móc gì anh, chỉ lo chăm chỉ làm thuê cuốc mướn nuôi thân. Đến mùa khế có quả, bỗng một hôm có một con chim rất lớn từ đâu bay đến, chọn quả nào chín mổ ăn bằng hết. Người em buồn phiền, kêu xin với chim, chim đáp: - "Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng". Anh làm theo lời. Chim bèn vượt biển, đưa anh đến một hải đảo đầy vàng bạc châu báu. Anh chỉ lấy vừa đầy túi, rồi lại được chim cho qua biển, về nhà yên lành. Thấy em phút chốc trở nên giàu có lớn, người anh hỏi biết sự tình, liền đòi đổi gia sản của mình lấy cây khế của em, ít lâu sau, chim lại đến cây khế tìm ăn, câu chuyện diễn ra như lần trước, và chim cũng dặn hắn may túi ba gang theo mình vượt biển. Nhưng muốn lấy được thật nhiều vàng nên hắn đã làm trái lời chim dặn, may một cái túi chín gang. Khi xuống hải đảo, hắn lấy đầy túi xong còn giắt vàng ngọc vào khắp người, đến nỗi lúc chim cất cánh, chỉ bay ra đến giữa biển là chao đảo sả cánh, vì quá nặng. Người anh rơi khỏi mình chim, lăn tòm xuống nước mà chết [2] . Thứ hai là truyện Chim phượng hoàng có thêm một đoạn kết nói về cái chết của con chim: Người anh trong chuyện này cũng hết sức tham lam và biển lận. Mà theo tục truyền, ruột gan người biển lận thường có chứa nọc độc rất mạnh. Hắn cũng chia cho em một cây khế (hay cây ổi), người em cũng gặp chim phượng hoàng và việc cũng xảy ra như truyện Cây khế. Nhưng ở đây người anh rơi xuống đất tan xác, ruột gan lòi cả ra ngoài. Chim thấy ruột người, xuống rỉa ăn kỳ hết. Ăn xong nọc độc thấm vào, chim ngã lăn ra chết nốt [3] . Ở Trung-quốc cũng có truyện cổ tích giống hệt truyện Nhân tham tài nhi tử điểu tham thực nhi vong[4] . Người Mèo có truyện Người tham vỡ bụng giống truyện của ta và truyện Trung-quốc, nhưng kết thúc có khác. Một người anh đã có vợ chiếm hết gia tài của bố mẹ rồi đuổi em đi. Em phát nương khỏe, nhưng không có hạt giống, đến xin anh chị ngô giống rồi thóc giống, nhưng người chị dâu có dã tâm, tuy có cho em hạt giống song lại ngầm rang lên tất cả. Hai lần trỉa không mọc, anh bỏ đi tìm Bụt để hỏi lý do. Bụt cho biết tình thực và bảo cứ về nhặt thóc lép sau nhà anh chị mà trỉa cũng đủ. Cuối cùng mọc lên ba cây lúa khổng lồ, hạt to bằng cái chĩnh. Khi chim đến tha hạt, anh đâm bổ đi tìm. Đến một cái hang gặp một bà tiên, bà thú thực là chim của mình trót ăn mất, muốn gì bà sẽ đền. Anh không mong gì hơn là được một ít ngô giống. Nhưng bà tiên lại cho anh một cái cối xay bé tí có thể cầu được đủ thứ kể cả thóc ngô giống. Từ đấy anh trở nên giàu có, nương ngô tốt như mây. Hai vợ chồng người anh đi qua nương ngô của em thì ngợp mắt, vội tìm đến nhà để hỏi lý do. Biết em có cái cối xay mầu nhiệm, anh liền mượn về, hy vọng xay ra tiền ra bạc, nhưng hắn chỉ xay ra rắn ra rết, bèn quẳng cối xuống suối vỡ tan. Khi em đến hỏi thì ở chỗ ném cối đã mọc lên thành cây, em bèn chặt về đục làm máng lợn ăn. Không ngờ lợn nào ăn vào máng cũng lớn như thổi. Người anh thấy lạ lại mượn máng về, nhưng lợn của y ăn vào máng đều trở nên gày gò, cuối cùng chết cả. Tức giận, y bèn đốt quách. Người em đến chỉ còn vài miếng gỗ cháy dở, bèn nhặt về làm lược chải đầu, chải bao nhiêu đầu tóc trở nên đẹp bấy nhiêu. Còn anh chị khi mượn lược chải, càng chải tóc càng rụng cho đến trọc cả đầu. Khi em sang đòi lược thì lược đã bị đốt thành tro. Em bới tro nhặt được một hạt đỗ tương bèn bỏ vào mồm nuốt. Sau khi đi ngoài, hạt đỗ mọc thành bụi, từ bụi ấy tỏa ra đầy nương chi chít những quả. Anh chị cũng đến xin mỗi người một hạt nuốt vào. Hạt đỗ không chịu ra mà trương lên làm cho chúng vỡ bụng chết [5] . [1] Theo lời kể của người miền Nam. [2] Truyện này theo Nguyễn Văn Ngọc (Phượng hoàng đậu cây khế) thì con chim (phượng hoàng) không đưa người em đi lấy vàng ngoài hải đảo, chì “nhả trong mồm rơi xuống một cây khế khác,bao nhiêu hoa tính là bạc, bao nhiêu quả tính là vàng cả”. Đến lúc người anh đổi cả ruộng vườn cho em lấy cây khế. Những ước mong phượng hoàng lại đến ăn quả và cho cây khế bằng vàng bằng bạc như em. Nhưng hắn đợi mãi chẳng thấy phượng hoàng nào đến, chỉ có một bầy quạ đen ngày nào cũng rủ nhau kêu “xấu hổ! xấu hổ!”. [3] Theo Tạp chí chúng tôi (1910). [4] Trong Thiếu niên tạp chí. Ở đây câu tục ngữ trở thành "Nhân vị tài: tử, điểu vị thực: vong". [5] Theo Doãn Thanh... Sách dã dẫn.
__________________
![]() |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|