Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ma
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 05-03-2005, 02:20 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Dracula


Chương 1

Nhật ký của Jonathan Harker.



Tôi rời Munich vào ngày lúc 8:35 ngày 1 tháng 5, và đến Vienna vào một buổi sáng sớm. Đáng lẽ tôi đã đến nơi vào lúc 6:46, nhưng xe lửa đã đến trễ một giờ. Với tất cả những gì mà tôi nhìn thấy được qua xe lửa cộng với quang cảnh trên những con đường mà tôi có dịp ghé qua, Buda Pesh xem ra là một thành phố tuyệt vời. Tôi sợ không dám đi quá xa nhà ga, vì rằng chúng nếu tôi trễ thì xe lửa sẽ vẩn cứ khởi hành đúng giờ như thường.
Việc di chuyển từ phía Tây sang phía Đông, đi ngang qua cây cầu nằm xa nhất về miền Tây trong số những cây cầu tráng lệ bắt qua sông Danube, đã để lại một ấn tượng rõ rệt với tôi. Chuyến đi đang mang tôi đến một vùng đất đầy quý phái với những phong tục truyền thống của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Chúng tôi đã giã biệt vùng đất này một cách vui vẻ, và khi màn đêm buông xuống, chúng tôi đến Klausenburgh. Tôi qua đêm tại khách sạn Hòang Gia. Tôi ăn chiều, đúng hơn là ăn tối, với một món thịt gà nấu cùng ớt. Nó khá ngon nhưng làm cho tôi khát cháy cổ. (Phải ghi nhớ công thức của nó cho Mina mới được.) Tôi hỏi người chạy bàn, và anh ta bảo món ăn này có tên là "paprika hendl", và đó là một món ăn địa phương. Tôi có thể thưởng thức nó ở bất cứ nơi đâu trên miền Carpathians này.
May mắn thay, tôi biết một chút tiếng Đức, và điều đó giúp đỡ tôi rất nhiều, nếu không thì tôi cũng chẳng biết làm cách nào để có được những thông tin quý giá như vậy.
Để chuẩn bị cho chuyến đi của mình ở Luân Đôn, tôi đã ghé Viện Bảo Tàng Anh, lục tung các cuốn sách và bản đồ trong thư viện về Transylvania; đổi lại tôi có được một số hiểu biết quan trọng về cách thức giao tiếp với những nhà quý tộc của vùng đất này.
Cái vùng đất mà tôi muốn tìm nằm ở rất xa phía Đông của đất nước này, nằm giữa biên giới ba nước Transylnavia, Moldavia và Bukoniva, nằm ở giữa dãy Carpathian, nó là một trong những vùng đất hoang dã và ít được biết đến nhất ở châu Âu.
Chẳng có một bản đồ nào giúp tôi xác định được vị trí của lâu đài Dracula cả. Xem ra thì những bản đồ của đất nước này tại đây chẳng thể nào so sánh được với những bản đồ giao thông hành chánh của chúng ta. May thay, thành phố Bistriz, nơi mà bá tước Dracula gửi thư cho tôi, lại là một nơi không đến nỗi bí hiểm như vậy. Tôi nhất định sẽ ghi chép về chuyến hành trình này, điều này sẽ giúp đỡ cho trí nhớ của tôi trong việc kể lại với Mina vể cuộc du hành của tôi.
Cộng đồng cư dân của Transylvania bao gồm bốn sắc tộc khác nhau: người Saxon ở phía Nam, sống lẩn lộn với họ là người Wallach, là hậu duệ của người Dacian; người Magyard ở phía Tây, và người Szekely nằm ở phía Đông và phía Bắc. Tôi đang ở giữa cái cộng đồng cư dân cuối này, những người tự hào rằng là hậu duệ của Attila và người Hun. Điều này có thể xuất phát từ việc người Hun đã định cư trên vùng đất này trước khi người Magyard xâm chiếm nó vào thế kỷ 11.
Có lẽ là tất cả sự mê tín trên thế giới đã đổ dồn vào cái khối đá Carpathian này, và điều đó ném tôi vào giữa vòng xóay của những trí tưởng tượng đầy thú vị khi tôi dừng chân tại nơi đây.(Phải kể cho bá tước nghe về những điều này mới được.)
Tôi chẳng ngủ được mấy chốc, dù giường đệm của tôi xem ra cũng khá êm ấm, bởi vì tôi đã kịp sưu tập được đủ các loại giấc mơ kỳ quặc trong đêm đó. Có thể là do có một tiếng chó tru ai óan như thể nó đang gặp phải một tai họa gì cứ lởn vởn dưới cửa sổ của tôi, hoặc có thể do cái món ớt quái quỷ đã khiến tôi phải nốc sạch cả bình nước mà vẩn còn khát như thường. Đến gần sáng tôi mới có thể chợp mắt và bị đánh thức bởi một những tiếng gõ cửa liên hồi. Có lẽ là ngay sau khi giấc ngủ ập đến tôi đã ngủ rất say.
Tôi được phục vụ một bữa ăn sáng với ớt, bao gồm một loại cháo với một thứ bột vàng vàng được gọi là "mamaliga", và một loại cà dồn thịt ngon tuyệt được gọi là "impletata". (Tất nhiên là cũng phải ghi lại công thức món này.)
Tôi phải chén cho nhanh bữa sáng, bởi vì xe lửa sẽ bắt đầu trước tám giờ một chút, đúng hơn là nó có giờ khởi hành như vậy. Sau khi cuống cuồng phóng đến nhà ga lúc 7:30, tôi đã phải ngồi chầu chực trong toa hơn một giờ trước khi khởi hành.
Có lẽ là càng đi về miền Đông bạn sẽ càng đúng giờ hơn xe lửa. Chẳng hiểu ở Trung Quốc thì mọi chuyện sẽ như thế nào nhỉ?
Suốt cả ngày dài chúng tôi chìm đắm trong những cảnh đẹp khác nhau trải rộng trên khắp đất nước này. Đôi khi chúng tôi thấy những thị trấn nhỏ, những lâu đài xuất hiện trên đỉnh của những đồi dốc đứng đưa chúng tôi về không khí của một thời cổ xưa, lúc khác chúng tôi băng qua những dòng sông, suối mà hai bên bờ đá rộng của chúng cuồn cuộn những cơn sóng thủy triều cuốn trôi đi tất cả những gì nằm dọc hai bờ.
Tại mỗi nhà ga là những nhóm người, đôi khi là cả một đám đông với những kiểu quần áo khác nhau. Một số ăn mặc giống như những người nông dân tại quê hương tôi hoặc tại những vùng ở Pháp và Đức, với các loại áo vét tông, mũ rộng vành và quần dài tự may; nhưng số khác thì tạo nên một bức tranh đầy sinh động về thời trang.
Nếu như bạn đừng đến gần những người phụ nữ ở đây, thì trông họ rất đẹp, nhưng có phần thô kệch ở phần eo. Họ mặc các loại áo phủ kín tay khác nhau, và phần lớn trong số họ thắt dây lưng lớn với các loại váy bay tung lên phất phới như các nghệ sĩ ba lê, nhưng tất nhiên là họ có mặc váy lót trong.
Tạo nên một hình ảnh lạ lùng nhất có lẽ là người Slovaks, hoang dã hơn những sắc tộc còn lại. Họ mang một loại nón cao bồi lớn, những cái quần dài trắng dơ bẩn lùng thùng, áo sơ mi vải lanh, đóng thùng sau một cái thắt lưng khổng lồ rộng gần bằng một bàn chân, và tất cả các khuy áo được cài bằng những cái đinh đồng. Ống quần họ được nhét vào những chiếc ủng cao, ngòai ra họ còn trang điểm thêm một mái tóc dài và hàng ria mép rậm, tất cả đều màu đen. Họ trông thật sặc sỡ, nhưng chẳng thể tạo nên một ấn tượng tốt đẹp về mình. Nếu họ xuất hiện trên sân khấu thì khán giả sẽ nghĩ ngay đến một đảng cướp Oriental thời cổ xưa. Tuy nhiên, như tôi đã nói, họ rất hiền lành và thật ra thì họ chỉ muốn giữ gìn truyền thống của dân tộc mình.
Chúng tôi đến Bristriz vào lúc mờ sáng, một vùng đất cổ kính đầy thú vị. Trên con đường biên giới dẩn từ Borgo Pass vào Bukoniva, người ta có thể thấy nhiều dấu vết còn lại chứng thực cho một quá khứ đầy giông bão đã diễn ra trên vùng đất này. Năm mươi năm trước đây, đã có nhiều đợt hỏa hoạn , và nơi đây đã bị tàn phá nặng nề trong năm lần. Vào thời kỳ đầu của thế kỷ mười bảy, nó lại bị vây hãm trong suốt ba tuần lễ và mất đi 13000 người, trong đó đói kém và bệnh tật đã góp thêm vào cho sự mất mát của chiến tranh.
Bá tước Dracula đã chỉ dẩn tôi đi đến khách sạn Krone Vàng. Và tôi đã hết sức vui mừng khi thấy đấy là một khách sạn mang một dáng dấp đầy cổ kính, và tất nhiên là tôi có thể biết tất cả những điều tôi muốn về đất nước này.
Như tôi đã chờ đợi, khi tôi đến gần cữa, tôi gặp một người phụ nữ trung niên trông rất vui vẻ trong bộ váy áo nông dân thường lệ – một bộ quần áo trắng được bao phủ bởi hai cái tạp dề phía trước và phía sau, thắt chặt với một mức độ vừa phải. Khi tôi đến gần, bà ta nhún mình chào và lên tiếng: "Ông là người Anh?"
"Vâng", tôi trả lời, "tôi là Jonathan Harker".
Bà ta mỉm cười, và trao đổi điều gì đó với một người đàn ông đứng tuổi mặc một cái áo dài tay trắng đã đi theo bà ta đến tận cửa.
Ông ta quay đi và ngay lập tức trở lại với một bức thư:
"Bạn của tôi. Chào mừng ngài đã đến Carphathian. Tôi đang rất nôn nóng chờ đợi ngài. Hãy an giấc đêm nay. Vào lúc ba giờ sáng mai một chuyến xe ngựa sẽ khởi hành đi Bukoniva, một vùng đất đang chờ đón ngài. Xe ngựa của tôi sẽ đợi ngài tại Borgo Pass và đưa ngài đến với tôi. Tôi tin rằng ngài đã có một chuyến hành trình vui vẻ từ London và ngài sẽ thích thú khi dừng chân trên mảnh đất này—Bạn của ngài, Dracula."
Ngày 4 tháng 5:
Tôi tìm đến người chủ quán, yêu cầu ông ta tìm cho tôi một chỗ tốt nhất trên chuyến xe ngựa, nhưng khi tôi bắt đầu hỏi han chi tiết thì ông ta trở nên dè dặt và giả vờ như không hề biết tiếng Đức.
Vô lý, ông ta đã từng hiểu nó rất đúng, ít ra thì cũng đã trả lời những câu hỏi trước đây của tôi hòan tòan chính xác. Người chủ quán và vợ ông ta, người đàn bà đã tiếp đãi tôi, nhìn nhau với một vẻ kinh sợ. Ông ta lầm bầm rằng mọi phí tổn đã được gửi đến cùng với bức thư, và đó là tất cả những gì ông ta biết. Khi tôi hỏi về bá tước Dracula và lâu đài của ông ta, người chủ quán và vợ làm dấu thánh, nói rằng họ không biết gì, và từ chối nói gì thêm. Đã gần đến giờ khởi hành, tôi không có thời gian để hỏi thêm ai nữa, và tất cả những điều bí ẩn này đã không có những sự giải định thỏa đáng.



Trước khi tôi đi, người đàn bà đến phòng tôi và nói một cách kích động: "Anh phải đi ư? Ôi, con người trẻ tuổi, chẳng lẽ anh phải đi ư?". Bà ta đang ở trong một trạng thái kích động , và có vẻ như đã đánh mất sạch kiến thức về tiếng Đức của mình, để rồi pha trộn nó với một thứ ngoại ngữ khác mà tôi chẳng hiểu một chút gìø. Hàng tá những câu hỏi của bà ta lại càng làm tôi rối tinh rối mù. Và khi tôi nói rằng tôi phải đi ngay, rằng tôi đang có một vụ làm ăn quan trọng, bà ta lặp lại:



" Anh không biết bữa nay là ngày gì à?" Tôi trả lời bữa nay là ngày bốn tháng Năm. Bà ta lắc đầu và lặp lại:
"Ồ, vâng! Tôi biết! Tôi biết chứ! Tôi biết, nhưng anh có biết hôm nay là ngày gì hay không?"
Khi tôi nói là tôi không hiểu, bà ta tiếp tục:
" Hôm nay là đêm trước của ngày lễ thánh George. Anh không biết rằng vào tối nay, khi đồng hồ điểm nữa đêm, các loại ma quỷ sẽ ngự trị trên khắp thế giới, và rồi anh sẽ làm gì?" Bà ta rõ ràng là đang mất tinh thần và tôi cố trấn an bà, nhưng chẳng có hiệu quả gì. Cuối cùng, bà ấy quỵ xuống trên đầu gối và van nài tôi đừng đi, ít nhất cũng đợi một hai ngày nữa hãy khởi hành.
Tất cả những điều này quá buồn cười nhưng tôi bắt đầu cảm thấy bất an. Tuy nhiên, công chuyện làm ăn thì phải giải quyết, và tôi không cho phép bất cứ thứ gì ngăn trở nó.
Tôi cố nâng bà ta dậy, và với tất cả sự dũng cảm tôi có, tôi nói rằng tôi cám ơn bà, nhưng bổn phận của tôi là trên hết, vì thế tôi phải đi.
Bà ta đứng dậy và chùi mắt, và trao cho tôi một cây thánh giá đang được đeo trên cổ bà bởi một chuỗi tràng hạt.
Tôi không biết nó có ý nghĩa như thế nào, và như mọi người Anh ngoan đạo khác, tôi buộc phải nhận một vật có ý nghĩa linh thiêng như thế, vả lại, có vẻ như rất bất nhã khi từ chối một người đàn bà tốt bụng đang ở trong một trạng thái tinh thần như vậy.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 05-03-2005, 02:22 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hình như là bà ta nhận ra vẻ nghi ngờ trên nét mặt của tôi, bà bèn vòng chuỗi tràng hạt quanh cổ tôi, lên tiếng "Vì mẹ anh," và đi ra khỏi phòng.
Tôi viết phần này của nhật ký khi tôi đang ngồi đợi xe ngựa. Tất nhiên bây giờ đã rất muộn và cây thánh giá vẩn còn trên cổ tôi.
Có thể là do nỗi kinh hãi của người phụ nữ, hoặc do đầy rẫy những truyền thuyết về ma quỷ của vùng đất này, hoặc do chính bản thân cây thánh giá, tôi không rõ lắm, nhưng tôi không thể bình tĩnh như thường lệ được. Nếu như quyển sách này đến được với Mina trước tôi, hãy mang đến cho cô ấy hộ tôi lời tạm biệt. Xe ngựa đã đến rồi.
Ngày 5 tháng 5. Lâu đài:
Cái ảm đạm lúc sáng sớm đã trôi qua, và mặt trời đã vượt quá đường chân trời, xuất hiện trên những rặng cây hay những rặng đồi gì đó, chúng ở quá xa nên không thể phân biệt được nữa.
Tôi không buồn ngủ, và tất nhiên là khi không có ai đánh thức tôi dậy, thì chính là tôi đã viết cho đến giờ ngủ.
Có nhiều sự việc lạ lùng cần phải ghi lại, và nếu ai đã đọc chúng thì có thể rất lạ lùng với bữa ăn mà tôi đã trải qua trước khi rời Bistriz, và tôi sẽ mô tả chúng thật chính xác.
Tôi ăn một món được gọi là "thịt kẻ trộm", bao gồm thịt lợn xông muối, hành, thịt bò, rắc ớt, được xuyên qua một cái cây và quay trên lửa, đơn giản là giống như món thịt mèo ở London!
Rượu vang là món rượu Mediash Vàng, khiến cho người ta say ngay khi nếm vào lưỡi, tuy nhiên không dễ thương lắm.
Tôi chỉ uống vài cốc, không hơn.
Khi tôi lên xe ngựa, người tài xế chưa vào chỗ. Tôi thấy ông ta đang nói chuyện với bà chủ quán.
Với những gì đã xảy ra và cái cách họ liếc nhìn tôi, rồi một số hành khách ngồi gần cửa cũng đến và lắng nghe cuộc nói chuyện, phần lớn trong số họ nhìn tôi với vẻ thương hại, rõ ràng là họ đang nói chuyện về tôi. Tôi có thể nghe một số từ thường lặp đi lặp lại, những từ lạ lùng, và vì có rất nhiều sắc tộc khác nhau trong đám đông, tôi lặng lẽ lấy ra một cuốn từ điển nhiều thứ tiếng ra khỏi túi xách và tra chúng.
Tôi phải nói thật là họ không hoan nghênh tôi, và một số từ tôi tìm ra được là "Ordog" – quỷ vương, "Pokol" – địa ngục, "stregoica" – phù thủy, "vrolok" và "vroloslak" , cả hai từ này, một bằng tiếng Slovak và một bằng tiếng Servian đều có nghĩa là ma sói hoặc ma cà rồng. (Phải hỏi bá tước về sự mê tín này mới được.)
Khi chúng tôi khởi hành, thì tất cả những người bao quanh cửa nhà trọ, bấy giờ đã trở thành một đám đông khổng lồ, đều làm dấu thánh và đưa hai ngón tay bắt chéo hình chữ thập về phía tôi.
Hơi khó khăn một chút, nhưng tôi cũng khiến được một gã hành khách nói cho tôi biết họ muốn gì. Đầu tiên hắn không trả lời, nhưng sau khi biết được tôi là người Anh, hắn giải thích rằng đó là một loại bùa hoặc một loại khiên chắn gì đó để chống lại con mắt của quỷ dữ.
Điều này chẳng hề làm tôi an tâm, khi vừa bắt đầu một cuộc hành trình đến một nơi xa lạ để gặp một con người xa lạ. Nhưng tất cả mọi người đều tốt bụng, họ quá buồn bã và thông cảm với tôi khiến tôi không thể không xúc động.
Tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy khi tôi rời khỏi nhà trọ. Một bức tranh ấn tượng về một đám đông người, tất cả đều làm dấu thánh, đứng trên một vùng mọc đầy những bụi trúc đào và cam, tạo thành một bó xanh rì giữa khỏang đất rộng.
Rồi người tài xế của chúng tôi, người mặc một bộ quần áo bằng lanh rộng thùng thình ngồi ở phía trước cổ xe, ở đây họ gọi là "gotza", quất roi ngựa lên bốn con ngựa nhỏ đang xếp thành hàng trước mặt, và chúng tôi khởi hành.
Tôi nhanh :Dng mất đi các suy nghĩ và hồi tưởng về những nỗi sợ hãi ma quỷ bởi vẻ đẹp của khung cảnh trên đường. Mặc dù tôi cũng có biết về ngôn ngữ, hay đúng hơn là những thứ ngôn ngữ mà hành khách trên chuyến xe của tôi dùng để trò chuyện, tôi cũng không thể nhanh :Dng hiểu được họ. Phía trước chúng tôi trải dài một dãi đất được bao phủ bởi màu xanh của những cánh rừng, đây đó là những đồi dốc, nhô lên những lùm cây hoặc những ngôi nhà của nông dân, những cột chống nằm ở phía cuối con đường. Rải rác bên đường là những lùm hoa nở rộ của các loại trái cây: táo, mận, lê, anh đào. Rồi tôi còn nhìn thấy những khu đất xanh phủ đầy lá sồi và những cánh hoa rơi. Nằm giữa những ngọn đồi màu xanh mà họ gọi là "Mittel Land" là những con đường chạy dài, rồi đột ngột tự biến mất bởi những khúc quanh đầy cỏ dại, hoặc bị chấm dứt bởi một rừng thông, nhấp nhô những sườn đồi trông giống như những ngọn lửa. Đường trở nên khó đi, nhưng chúng tôi vẩn cảm thấy là đang vượt qua với một sự vội vã và bồn chồn. Tôi không thể cắt nghĩa được sự vội vã này, nhưng rõ ràng là người tài xế chẳng hề lãng phi thời gian để đến được Borgo Prund. Tôi đã nói rằng con đường này vào mùa hè thì tuyệt vời, nhưng nó chưa hề được chuẩn bị để đón những đợt tuyết mùa đông. Bởi những quan điểm khác nhau của những thế hệ đã lần lượt sinh sống trên vùng Carpathian, với những tập quán cổ xưa, họ đã không làm cho nó tốt hơn. Những người Hospadar cổ đã không sữa chữa chúng, người Thổ thì cho rằng chúng được sữa chữa chỉ để dành cho quân xâm lược, và khi chiến tranh ập đến vấn đề này đã thật sự trở nên nghiêm trọng.
Đằng sau những ngọn đồi xanh lá cây đặc sắc vùng Mittel Land nhô lên hay đổ xuống những cánh rừng từng bước tạo nên dãy Carpathian hùng vĩ. Chúng vươn lên từ bên phải và bên trái, rồi khi chiều xuống, mặt trời lặn vào giữa chúng, tỏa một thứ ánh sáng lộng lẫy tạo ra một vẻ đẹp huy hòang, màu xanh dương sâu thẳm và tím của bóng những cây lê, màu xanh lá cây và nâu của những thảm cỏ và vách đá trộn lẫn vào nhau, rồi một sự phối cảnh không có tận cùng của những mỏm đá và vách núi, mà chỉ có một khỏang cách xa vô hạn mới có thể làm chúng biến mất, nơi mà những ngọn núi tuyết sừng sững vươn lên. Mặt trời có lẽ đang lặn vào đâu đó giữa những đường nứt của các kẽ núi, và phản chiếu lại những ánh sáng lung linh trong nước. Một người hành khách nằm lấy tay tôi khi chúng tôi đi qua chân những ngọn đồi vươn lên cao ngất,những đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, nằm bên phải chúng tôi khi chúng tôi đi trên một con đường quanh co uốn khúc.
"Nhìn xem! Isten szek " –"Nơi ở của Chúa!" – và anh ta làm dấu thánh một cách cung kính.
Khi chúng tôi đi đến hết con đường, mặt trời đã lặn sâu phía sau, bóng đêm đang bắt đầu bao phủ mọi cảnh vật. Nổi bật lên trong cảnh hòang hôn là những đỉnh núi tuyết trắng, và chúng tôi được phản chiếu bởi một màu hồng thanh tú và mỏng manh. Chúng tôi có lẽ đã vượt qua Cszeks và Slovaks, với tất cả những vẻ đẹp của nó, nhưng phải chú ý rằng bệnh bướu cổ đang là một nỗi phiền muộn thường thấy nơi đây. Bên đường có rất nhiều cây ngôi mộ được cắm thập giá, và tất cả những bạn đồng hành của tôi đều làm dấu thánh khi chúng tôi đi qua chúng. Rải rác có những nông dân, nam và nữ, quỳ bên cạnh những ngôi mộ và thậm chí chẳng buồn quay lại khi chúng tôi đến gần, hầu như mọi giác quan của họ, cả tai và mắt, đều đang để ở một thế giới khác. Lại thêm nhiều điều mới mẻ với tôi. Ví dụ như những đám cỏ khô trên cây, rải rác những khóm cây bulô ẩm ướt, với những thân cây sáng như bạc với những chiếc lá xanh mỏng manh.
Bây giờ thì chúng tôi đang đi qua loại xe bò đặc biệt của những người nông dân, được thiết kế giống như hình đốt sống rắn, được tính tóan để có thể di chuyển được trên mọi địa hình. Và đây chắc chắn là những nhóm nông dân đang trên đường trở về nhà, những người Cszeck trong y phục trắng, những người Slovak trong những bộ quần áo da cừu sặc sỡ, mang trên mình một cây thương dài bằng kim loại với một cây rìu gắn ở đầu. Khi chiều xuống, trời trở lạnh, bóng đêm hòa lẩn thứ ánh sáng chạng vạng tạo nên một vẻ u ám trên những cây thông, sồi mọc xuyên qua thung lũng giữa những ngọn đồi, chúng tôi đang đi qua Con Đường, bóng đêm đang bắt đầu đầu cuộc chiến của mình chống lại nền tuyết trắng bao la. Có những lúc, khi con đường bị cắt ngang bởi những rừng thông thì chúng tôi giống như là bị cả một màn đêm phủ ụp xuống đầu, những thân cây trở thành những khối màu xám thấp thóang rải rác, tạo nên một cảm giác huyền bí và uy nghiêm lạ thường, khiến cho những suy nghĩ và cảm giác ghê sợ vào buổi chiều quay trở lại, khi hòang hôn buông xuống, mặt trời gần biến mất sau những đám mây ma quái cứ trôi không dứt qua vùng thung lũng Carpathian. Đôi khi những ngọn đồi trở nên quá dốc, nhưng đàn ngựa chỉ đi chậm lại dưới sự điều khiển vội vã của người đánh xe. Tôi muốn xuống xe và đi bộ giống như ở quê nhà, nhưng người đánh xe không đồng ý. "Không, không", anh ta bảo, "ông không thể đi bộ ở đây. Lũ chó rừng ở đây rất hung hãn." Và anh ta còn nói thêm, bằng một vẻ dịu dàng kiên quyết, với những nụ cười đồng tình của các hành khách còn lại khi anh ta liếc nhìn chung quanh – "Và ông sẽ có đủ những vấn đề để giải quyết trước khi ngủ đêm nay đấy." Người đánh xe chỉ dừng lại một lần duy nhất để thắp sáng ngọn đèn trên xe.



Khi bóng đêm lan dần, những người hành khách xem ra sôi nổi hơn, họ thay phiên nhau nói chuyện với người đánh xe, càng lúc càng dồn dập. Về phần mình, người đánh xe liên tục quất thẳng cánh ngọn roi của mình lên lũ ngựa. khuyến khích chúng bằng những tiếng hú man dại. Xuyên qua bóng đêm, tôi đã có thể nhìn thấy một dãi xám phía trên chúng tôi, nằm giữa những ngọn đồi. Những người hành khách cùng xe với tôi càng lúc càng tỏ ra bị kích thích. Cỗ xe điên khùng phóng đi với sự rung lắc khủng khiếp, và lắc lư như một con tàu giữa cơn bão lớn. Tôi phải cố bám chặt. Con đường đang dẩn chúng tôi lên một vùng cao hơn nữa, và chúng tôi xem như đang lơ lững giữa trời. Những vách núi càng lúc càng đến gần chúng tôi và có vẻ như sắp rơi xuống đầu tôi. Chúng tôi đã đến Borgo Pass. Nhiều hành khách lần lượt trao cho tôi những món quà nhỏ, họ ấn vào tay tôi với một sự tha thiết không cho phép từ chối. Đó là nhiều món đồ lạ lùng khác nhau, nhưng chúng đều gửi kèm một sự cầu mong tốt lành, những lời nói tốt đẹp, những lời chúc phúc, và tất cả đều gửi đến cho tôi cái dấu hiệu lạ lùng đầy kinh sợ mà tôi đã nhận thấy ở Bistriz – hai ngón tay bắt chéo hình chữ thập để bảo vệ chống lại con mắt của ma quỷ. Rồi liền đó, khi chúng tôi đang đơn độc giữa trời, người đánh xe nghiêng về phía trước, các hành khách chồm ra từ hai bên cửa xe, nhìn chăm chú vào bóng đêm với một vẻ bồn chồn. Rõ ràng là sắp sữa diển ra một điều gì đó rất kỳ lạ và ghê gớm, nhưng không một hành khách nào chịu trả lời những câu hỏi của tôi một cách rõ ràng. Trạng thái kích động này trôi qua khá lâu. Cuối cùng, con đường chúng tôi đang đi hướng sang phía Tây. Một đám mây đen cuồn cuộn phía trên, không khí trở nên ngột ngạt, nghe như có tiếng sấm đâu đây vọng về. Rặng núi đá này giống như chia khí quyển ra làm hai phần, và chúng tôi đang đi vào phần sấm sét của nó. Tôi đang ngắm nhìn chuyến hành trình của chính mình đi gặp bá tước. Mỗi khỏanh khắc trôi qua, tôi lại chờ đợi một tia sáng xuyên qua màn đêm, nhưng tất cả quanh tôi vẩn hòan tòan tăm tối. Rọi sáng trên đường đi chỉ là ngọn lửa bập bùng trên chiếc xe của chúng tôi, và sự nỗ lực tột cùng của những con ngựa kéo xe tìm đến những đám mây trắng trong lành. Chúng tôi bây giờ đã có thể nhìn thấy con đường trắng đầy cát phía trước chúng tôi, nhưng chẳng có dấu hiệu nào về một chiếc xe khác đang chờ đợi như trong thư hẹn. Những người hành khách ngả người ra phía sau với một vẻ hân hoan, xem ra họ đang chế giễu cuộc lỡ hẹn của tôi. Tôi đang suy tính xem mình nên làm gì thì người đánh xe nhìn quanh, nói với những hành khách khác rất khẽ, khiến tôi rất khó nghe "Còn gần một giờ nữa." Và quay về phía tôi, anh ta nói bằng một thứ tiếng Đức còn tệ hơn của tôi.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 05-03-2005, 02:23 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

" Không có chiếc xe nào ở đây. Ông người Anh không nên chờ ở đây. Ông ta nên đến luôn Bukoniva và trở về đây ngày mai hoặc ngày tiếp theo, tốt hơn là ngày tiếp theo nữa." Trong khi anh ta nói, bầy ngựa chợt hí vang và khịt mũi với một vẻ hoang dại. Rồi, những người nông dân cùng thốt lên những tiếng kêu và đồng lọat làm dấu thánh, một cỗ xe với bốn ngựa xuất hiện phía sau chúng tôi và dừng lại bên cạnh cỗ xe của tôi. Tôi có thể nhìn thấy từ ánh đèn và qua những vệt chân chúng để lại, rằng đây là những con ngựa ô than tuyệt vời. Chúng được điều khiển bởi một người đàn ông cao gầy, với một bộ râu dài màu nâu và cái nón đen lớn. Hình như ông ta muốn giấu mặt với chúng tôi. Tôi chỉ có thể nhìn thấy tia mắt từ một đôi mắt rực lửa, đỏ rực như hai ngọn đèn, và ông ta quay sang phía chúng tôi.
Ông ta nói với người đánh xe, "Tối nay anh đến sớm đấy, anh bạn."
Người đánh xe lắp bắp trả lời, " Ông người Anh rất bận."
Người lạ mặt nói tiếp, "Và tôi cho rằng đó là lý do khiến anh đề nghị ông ta tiếp tục đến Bukoniva. Anh bạn, anh không thể đánh lừa tôi, và những con ngựa của tôi thì rất nhanh."
Khi ông ta nói, ông ta mỉm cười, ánh đèn chiếu vào soi rõ đôi môi rất đỏ và hàm răng trắng như ngà của ông ta. Một trong những bạn đồng hành của tôi thì thầm với một người khác một dòng trong kinh thánh "Lenore"
"Denn die Todten reiten Schnell." ("Hãy để cho cái chết đến mau.")
Người đánh xe lạ hẳn nhiên là nghe thấy câu nói này, ông ta nhìn lên với một nụ cười sáng trắng đến rợn da gà. Người hành khách quay mặt đi, cùng lúc đưa ra hai ngón tay bắt chéo và làm dấu thánh. "Hãy chuyển cho tôi hành lý của ngài đây", người đánh xe lạ mặt nói, và với một sự sốt sắng quá mức, ông ta đón hành lý của tôi ra và chuyển sang chiếc xe của ông. Khi tôi xuống xe, người đánh xe giúp tôi một tay. Cánh tay ông ta nắm lấy tay tôi cứng như thép. Người này hẳn là có sức khỏe phi thường.
Không nói một lời, ông ta giật cương, đàn ngựa quay đầu, và chúng tôi tiến trở lại vào vùng bóng tối. Khi nhìn lại, tôi thấy qua ánh đèn bầy ngựa của cỗ xe khách đang cuống cuồng, và hình ảnh cuối cùng về những người bạn đồng hành của tôi đang làm dấu thánh. Rồi người đánh xe quất roi và gọi lũ ngựa, tiếp tục chuyến đi của chúng đi Bukoniva. Khi họ đã hòan tòan chìm khuất trong đêm, tôi đột ngột cảm thấy rùng mình, và một cảm giác cô đơn xâm chiếm lấy tôi. Nhưng một tấm áo chòang đen chòang qua vai tôi, một tấm mền vắt ngang đầu gối tôi, và người tài xế cất tiếng bằng một thứ tiếng Đức tuyệt hảo:
"Bóng đêm thật là đáng sợ, thưa quý Ngài, và ngài bá tước chủ tôi ra lệnh cho tôi phải chăm sóc ngài. Có một bình slivovitz (một thứ rượu mạnh làm từ mận của đất nước này) dưới chỗ ngồi, và ngài nên dùng thử nó."
Tôi không nói lời nào, nhưng đã bắt đầu trấn tĩnh. Tôi cảm thấy lạ lùng, nhưng không phải là một cảm giác kinh sợ. Tôi nghĩ rằng mọi sự đã diễn tiến thay đổi và tôi có thể chấp nhận được, bất chấp một chuyến xe đêm kỳ lạ đang cuốn tôi đi. Cỗ xe phóng nước đại thẳng tiến, và chúng tôi đã hòan tòan quay trở lại và tiến vào một con đường thẳng khác. Hình như là chúng tôi đang quay đi quay lại cùng một nơi, và đó là cái điều chính yếu nhất tôi ghi lại được. Tôi muốn hỏi người đánh xe xem điều đó nghĩa là gì, nhưng tôi lại sợ phải làm điều đó, bởi tôi nghĩ rằng, vùng đất mà tôi đang ở có một cái gì đó không an tòan, và tốt hơn là đừng nên ở lại đây thêm một phút nào..
Tuy nhiên, sau đó tôi tò mò muốn biết thời gian, tôi bật lửa và liếc nhìn đồng hồ của mình. Đã quá nữa đêm vài phút. Điều này làm tôi run rẩy, bởi những điều mê tín huyền bí về cái sự nữa đêm này mà tôi liên tục thu nhận được trong những ngày gần đây. Tôi cố trấn áp cảm giác bệnh lý này.

Rồi một con chó nào đó bắt đầu tru lên ở một ngôi nhà nông dân nằm xa phía dưới con đường, một tiếng kêu đau đớn quằn quại như đang kinh sợ điều gì. Âm thanh này được nối tiếp bởi một con chó khác, rồi con này tiếp theo con khác, gia tăng bởi tiếng gió đang thổi trên Con Đường. Hình như là những tiếng tru hoang dại kia đang bắt đầu lan đi khắp đất nước, lan đi xa đến bất cứ nơi nào mà trí tưởng tượng có thể vươn tới trong cái đêm u ám này.
Ngay từ khi tiếng tru đầu tiên cất lên, những con ngựa bắt đầu căng thẳng và lồng lên, những người đánh xe đã nói với chúng bằng một giọng dịu dàng. Chúng dần trở lại bình tĩnh, nhưng run rẩy và tóat mồ hôi như thể chúng đang chạy trốn nỗi sợ hãi bất thình lình. Và vọng lại từ những sườn núi phía xa, những tiếng tru có vẻ càng lớn hơn và rõ ràng hơn. Tiếng tru của những con sói, điều này cùng lúc tác động lên lũ ngựa và tôi. Trong khi tôi đang chuẩn bị nhảy phắt ra khỏi cổ xe và bỏ chạy, bầy ngựa lại trở nên căng thẳng và bắt đầu hóa rồ, dù người đánh xe đã cố dùng hết cái sức mạnh kinh khiếp của ông ta để giữ chúng đừng chạy trốn. Tuy nhiên, sau vài phút, khi mà tai tôi đã bắt đầu quen với những âm thanh này, bầy ngựa đứng khựng cả lại, im lặng. Người đánh xe tuột xuống và đứng trước mặt chúng.
Ông ta âu yếm và dịu dàng với chúng, thì thào vào tai chúng, như là tiếng của người dạy thú nói với ngựa, và với một nỗ lực phi thường, dưới sự vuốt ve của người đánh xe, bầy ngựa lại một lần nữa trở lại dưới sự điều khiển, dù chúng vẩn còn run rẩy. Người đánh xe một lần nữa trở về vị trí, giật dây cương, và chuyến xe lại bắt đầu phóng vùn vụt. Lúc này, sau khi đi về phía xa của Con Đường, thình lình ông ta đổi hướng và rẽ vào một con đường hẹp chạy thẳng về phía phải.
Chúng tôi nhanh :Dng chui vào những lùm cây, và khi rẽ vào vùng đất phía phải con đường chúng tôi tiếp tục đi xuyên qua một đường ống. Những vách đá hiểm trở bao bọc lấy chúng tôi một cách vững chắc.Dù chúng tôi đã được bảo vệ như thế, chúng tôi vẩn có thể nghe thấy tiếng gió gào, với những tiếng than van và thì thầm của vách đá, những cành cây xào xạc vào nhau khi chúng tôi phóng qua. Càng lúc trời càng trở lạnh, bụi tuyết rơi càng lúc càng nhiều, và chẳng mấy chốc gần như chúng tôi được phủ bởi một lớp màn trắng. Những cơn gió lạnh lẽo vẩn mang theo tiếng tru của :D chúng càng lúc càng ngột ngạt trên con đường chúng tôi qua.Tiếng chó sói sủa càng lúc càng gần, hình như chúng đang tiến đến chỗ chúng tôi từ mọi hướng. Tôi sợ điếng người, và bầy ngựa thì cũng thế. Người tài xế, ngược lại, chẳng chút bận tâm. Ông ta liên tục nhìn sang hai bên, nhưng tôi thì chẳng thấy gì ngòai bóng đêm dày đặc.
Thình lình, phía bên trái tôi xuất hiện một ngọn lửa màu xanh lập lòe. Người đánh xe dừng lại một thóang. Ông ta kiểm tra lại lũ ngựa, rồi nhảy xuống đất, biến mất vào bóng đêm. Tôi không biết phải làm gì, trong khi tiếng sói tru càng lúc càng gần. Trong khi tôi còn đang phân vân, người đánh xe thình lình xuất hiện trở lại, và chẳng nói một lời trở lại vị trí của mình, rồi chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Tôi nghĩ là tôi đang ngủ, đang ở trong một giấc mơ chẳng bao giờ chấm dứt, và những gì đã xảy ra với tôi thật là một cơn ác mộng khủng khiếp. Khi ngọn lửa xuất hiện gần con đường, gần đến nỗi với bóng tối bao trùm như vậy tôi vẩn có thể nhìn thấy mọi cử động của người đánh xe. Ông ta nhanh :Dng đi thẳng đến chỗ ngọn lửa xanh đang hồi sinh, nó yếu ớt đến nỗi không thể phản chiếu được những vùng đất chung quanh. Người đánh xe nhặt một số hòn đá và tạo thành một thứ dụng cụ gì đó.
Ở đây hình như có một ảo ảnh thị giác nào đó. Khi người đàn ông đứng giữa tôi và đám lửa, ông ta hòan tòan không che khuất nó, nên tôi vẩn có thể nhìn thấy tòan bộ cái thứ ánh sáng ma quái này như thường. Điều đó khiến tôi giật bắn mình, nhưng hiện tượng này chỉ diễn ra trong thóang chốc, cho nên tôi nghĩ rằng mắt mình đã bị đánh lừa khi nhìn xuyên qua bóng đêm. Đến lúc không còn cái thứ ánh sáng xanh này nữa, thì chúng tôi hình như đang ở một vùng tối u ám, với những tiếng chó tru đang bao quanh chúng tôi, hình như chúng đang đi theo chúng tôi theo một vòng tròn.
Cuối cùng người đánh xe đã đi khuất qua khỏi cánh đồng, trong thời gian ông ta biến mất, bầy ngựa bắt đầu run rẩy và lồng lộn và hí lên những tiếng đầy sợ hãi. Tôi không thể xác nhận được nguyên nhân, bởi vì ngay lúc này những tiếng sói tru đã thình lình dừng lại. Nhưng khi mặt trăng đi ra khỏi đám mây đen, bắt đầu rọi ánh sáng phủ lên những vách đá lởm chởm một thứ ánh sáng hồng, tôi đã có thể nhìn thấy bao quang chúng tôi là một vòng tròn sói, với hàm răng trắng và cái lưỡi dài thè lè ra, những cái cẳng gân guốc và bộ lông bờm xờm. Sự im lặng ghê rợn của chúng còn đáng sợ trăm lần hơn là những tiếng tru của chúng. Tôi gần như bị tê liệt bởi sợ hãi. Điều này chỉ xảy ra khi một người nào đó đối mặt với một điều ghê rợn mà chính bản thân anh ta có thể cảm nhận được hết tầm quan trọng của nó. Ngay lập tức bầy sói bắt đầu tru lên như thể ánh trăng có một tác dụng đặc biệt với chúng. Những con ngựa nhảy vọt đi và lồng lên, nhìn quanh tuyệt vọng với những con mắt hỏang loạn tìm kiếm một con đường sống. Nhưng cái vòng tròn sống kinh khiếp kia đã bao quanh khắp mọi hướng và giữ chặt bên trong chúng con mồi của mình. Tôi gọi người đánh xe quay lại, với chúng tôi bây giờ, cơ hội sống còn duy nhất là vượt qua vòng vây sói này với sự trợ giúp của người đánh xe. Tôi gào lớn và hung hãn từ trong xe, hy vọng rằng giọng nói của tôi có thể làm bầy sói hỏang sợ ở một hướng nào đó, và giúp cho người đánh xe có được một cái bẫy đánh lừa lũ sói này. Ông ta đã đến như thế nào, tôi cũng chẳng biết, nhưng tôi nghe tiếng ông ta cất lên những mệnh lệnh đầy uy lực, và nhìn theo hướng của âm thanh, tôi thấy ông ta đang đứng trên đường. Ông ta vung những cánh tay dài của mình, giống như đang quét đi những chướng ngại vô hình nào đó. Lũ sói lùi dần về phía sau. Lúc này một đám mây khác lại che phủ mặt trăng, và chúng tôi lại đứng giữa một vùng đất tối tăm.
Khi tôi có thể thấy người đàn ông một lần nữa leo trở lại lên xe, thì bầy sói đã biến mất. Cái điều kỳ lạ và phi thường này làm tôi kinh khiếp, và tôi không thể cất tiếng hay cử động gì được với nỗi sợ hãi của mình. Thời gian lại trôi đi khi chúng tôi tiếp tục con đường, nhưng bây giờ bóng tối lại bao phủ, bởi một đám mây cuộn quanh mặt trăng.
Chúng tôi đang đi lên, đôi khi đi xuống một đoạn ngắn, nhưng nhìn chung là đang đi lên. Thình lình tôi như sực tỉnh khi người đánh xe dừng bầy ngựa trước một tòa lâu đài rộng lớn hoang tàn, với những ô cửa sổ đen cao không cho ánh sáng lọt vào, với những bức tường đổ nát không có lỗ châu mai cắt thành một đường lởm chởm ngang bầu trời.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 05-03-2005, 02:25 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 2

Phần tiếp theo trong nhật ký của Jonathan Harker

Ngày 5 tháng 5:


Buộc lòng tôi phải đi ngủ, bởi vì nếu cứ thao thức thì tôi sẽ không thể kìm lại được sự thôi thúc phải ghi chép về cái nơi kỳ lạ này. Một phần lớn ở nơi đây chìm trong bóng tối ảm đạm. Lãnh địa của bóng đêm kéo dài trên một vòng tròn có bán kính gần như không thể đo lường được. Có thể là nó còn lớn hơn sự ước lượng của tôi. Thật sự tôi chưa hề trông thấy ban ngày ở nơi đây.
Khi cỗ xe ngựa dừng trước lâu đài, người đánh xe nhảy xuống và đưa tay giúp tôi xuống xe. Một lần nữa tôi không thể không có ấn tượng về cái sức mạnh phi thường ẩn chứa trong con người này. Cái cánh tay này thật sự là một cái êtô thép có thể kẹp nát cánh tay của tôi nếu ông ta muốn. Rồi ông ta tóm lấy hành lý của tôi và đặt xuống cạnh tôi. Lúc này tôi đang đứng trước một cái cổng lớn làm bằng đá tảng khép chặt với một cái đấm cửa được đóng vào bằng những chiếc đinh thép lớn. Thật ra cái cổng này là một khối đá tảng đã được mài mòn bởi thời gian và thời tiết. Tôi thậm chí không thể một tia sáng lờ mờ nào nơi đây. Người đánh xe nhảy lên ngựa và giật cương. Bầy ngựa đi thẳng để lại mớ hành lý và cả một vùng bao quanh tôi một màu tối tăm.
Tôi đứng yên lặng, bởi vì tôi chẳng biết phải làm gì. Không có chuông và đừng có mơ tưởng đến việc gõ cái cổng đá này. Giọng nói của tôi không thể xuyên qua bức tường sừng sững và những cánh cửa sổ đen ngòm kia được. Thời gian chờ đợi trôi đi dường như vô tận, và cái cảm giác nghi ngờ pha lẩn sợ hãi mà đám đông kia gây ra đã quay lại với tôi. Tôi đang ở đâu và sắp phải gặp những loại người nào? Thật sự tôi đang dấn thân vào một cuộc phiêu lưu quái quỷ gì vậy? Bản năng của một người cố vấn pháp luật đã khiến tôi rời khỏi London để cố vấn về một vụ mua bán bất động sản cho một người nước ngòai muốn mua đất tại đây phải chăng để gặp những chuyện như thế này. Một cố vấn luật pháp! Mina đã không muốn tôi làm cái nghề này. Ngay trước khi rời khỏi Luân Đôn tôi đã vượt qua một kỳ thi để trở thành một người cố vấn luật pháp một cách vẻ vang. Tôi dụi mắt và tự véo mình để tin rằng mình không nằm mơ. Đáng ra thì tôi phải giật mình thức dậy ngay giữa nhà mình, ngắm ánh bình minh rọi qua cửa sổ để tận hưởng một buổi sáng khoan khóai sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng cái cảm giác đau nhói do bị véo đã khiến tôi thực tỉnh. Mắt tôi không hề bị đánh lừa. Tôi đang tỉnh như sáo và đang ở đâu đó giữa dãy Carpathian. Bây giờ thì tôi chỉ còn nước đợi trời sáng mà thôi.
Thình lình, một người đàn ông già xuất hiện, mày râu nhẵn nhụi, chỉ chừa lại một hàng ria mép trắng, vận đồ đen từ đầu đến chân. Không thể tìm thấy một màu nào khác trên y phục của ông ta. Ông ta cầm trong tay một ngọn đèn bạc cổ. Nó cháy sáng dù chẳng hề có một cái ống thông gió hay chao đèn nào. Bóng tối như run lên bởi tiếng kéo cửa lách cách của con người này. Bằng một cử chỉ thanh nhã, ông ta ra hiệu cho tôi và nói bằng tiếng Anh tuyệt hảo, tuy có đá giọng nước ngòai:
" Mừng ngài đã đến thăm tệ xá. Xin mời vào và hãy cứ tự nhiên cho." Ông ta không làm thêm một cử động nào nữa. Ngoại trừ động tác mời chào đầy lịch sự, thì xem ra ông ta chẳng khác gì cái khối cửa đá này mấy. Tuy nhiên, sau một lúc, thấy tôi vẩn đứng ngẩn ra ở ngòai cửa, ông ta bước đến, nắm lấy tay tôi bởi một bàn tay lạnh giá như tay người chết và với một sức mạnh khủng khiếp khiến tôi nhăn mặt. Ông ta nói lại lần nữa:
"Xin mời vào! Mời ngài vào. Mọi vật ở đây đều vui mừng chào đón ngài." Cái bắt tay của con người này ẩn chứa một cái sức mạnh mà tôi đã từng bắt gặp nơi người đánh xe khi nãy, người mà tôi chẳng hề nhìn thấy mặt. Trong một thóang, tôi nghi ngờ cả hai chính là một người. Để tìm lời giải đáp, tôi hỏi lại, "Ngài là bá tước Dracula?"
Ông ta cúi chào một cách rất lịch sự cùng với câu trả lời: "Tôi chính là Dracula, người đã mời ngài đến đây. Xin mời, đêm nay thật là phiền ngài quá, và cái ngài cần bây giờ là một bữa ăn và sau đó là sự nghỉ ngơi." Nói xong, ông ta nhấc lấy hành lý của tôi, đi trước. Tôi phản đối, nhưng ông ta cứ khăng khăng.
Không, thưa ngài, ngài là khách của tôi. Bây giờ đã trễ và chắc là bọn đầy tớ đã ngủ sạch rồi. Hãy cho tôi cái hân hạnh được phục vụ ngài." Ông ta cứ nhất quyết mang hành lý của tôi đi trước, dẩn tôi qua một cái cầu thang uốn lượn khủng khiếp, rồi sau đó đi qua một lối đi lớn khác mà nền đá rung lên dưới bước chân của chúng tôi. Cuối cùng ông ta mở một cánh cửa lớn và nặng nề, dẩn vào một căn phòng.Tôi vui mừng khi thấy căn phòng này đầy ánh sáng. Bên trong là một cái bàn đã trải khăn sẳn sàng cho bữa khuya, và cái mà tôi đang cần nhất cho sức khỏe của mình là một cái lò sưởi mới được chất đầy củi đang cháy sáng rực rỡ.
Bá tước dừng lại, đặt hành lý của tôi xuống, đóng cửa lại, rồi băng ngang phòng, mở một cánh cửa khác thông vào một căn buồng bát giác được chiếu sáng bởi một ngọn đèn duy nhất. Đi qua nó, ông ta lại mở một cánh cửa khác, và ra hiệu tôi đi vào. Sự đón tiếp của bá tước quả thật vô cùng chu đáo. Phòng trong này là một phòng ngủ lớn, được chiếu sáng và sưởi ấm bởi một lò sưởi khác đang cuồn cuộn nhả khói qua một cái lỗ thông hơi lớn. Củi ở đây cũng chỉ mới được chất vào, do những que trên cùng vẩn còn tươi. Bá tước đích thân đem hành lý của tôi vào trong và lui ra. Trước khi đóng cửa, ông ta lên tiếng:
" Tôi tin rằng trong nhà tắm đã có đủ mọi thứ ngài cần cho mình sau một chuyến đi vất vả. Và bữa ăn tối sẽ sẳn sàng khi ngài bước ra phòng ngòai."
Sự tiếp đón ân cần và nồng hậu cùng với vẻ quý phái của Bá tước đã xua tan mọi nghi ngờ và sợ hãi trong tôi. Khi đã trở lại bình thường, tôi mới nhận ra rằng mình gần như đã chết một nữa vì đói. Do đó, sau khi tắm táp một cách vội vã, tôi đi ra phòng ngòai.
Bữa ăn tối đã dọn sẳn. Người chủ nhà của tôi đang dựa vào các bệ đá khổng lồ của lò sưỡi, trang nhã đưa tay về phía bàn ăn, cất tiếng.
"Xin mời ngài dùng bữa. Xin lỗi vì tôi không thể hầu tiếp ngài được vì tôi đã dùng bữa rồi."
Tôi đưa ông ta bức thư mà ngài Hawkin đã chuyển cho tôi. Ông ta mở nó ra và đọc một cách trịnh trọng. Cuối cùng, với một nụ cười quyến rủ, ông ta chuyển lại cho tôi đọc nó. Và nội dung bức thư khiến tôi rất hài lòng,
" Tôi rất tiếc là hiện nay tôi đang phải chăm sóc cho một người bệnh mà tình trạng bệnh lý khiến tôi phải túc trực thường xuyên cạnh bệnh nhân. Tuy nhiên, tôi có thể giới thiệu với ngài một người hòan tòan xứng đáng thay thế tôi. Đó là một con người trẻ tuổi đầy sức lực, tài năng và hòan tòan trung thực. Anh ta kín đáo và dè dặt, và sẽ trở thành một trong những người phụ tá tài ba của tôi. Anh ta sẽ luôn sẳn sàng khi ngài cần và cung cấp cho ngài những lời chỉ dẩn hữu ích cho bất kỳ vấn đề gì."
Bá tước tự mình bước đến để tiếp thức ăn cho tôi. Và tôi bắt đầu tấn công vào một món gà rôti ngon tuyệt. Cùng với phó mát và xà lách, thêm vào hai cốc rượu tokay lâu năm, đấy là bữa tối của tôi. Trong khi tôi ăn, bá tước hỏi thăm về chuyến đi của tôi, và tôi kể lại cho ông ta những gì mình đã trải qua.
Sau khi tôi ăn xong bữa tối, người chủ nhà mời tôi ngồi trên một chiếc ghế cạnh lò sưỡi. Ông ta mời tôi hút xì gà và cáo lỗi vì không hút thuốc. Lúc này tôi mới có cơ hội quan sát ông ta và thấy rằng ông ta có một diện mạo rất đặc biệt.
Ông ta có một khuôn mặt tráng kiện, rất tráng kiện, hơi khoằm. Mũi cao, gầy với hai lỗ mũi cong lên một cách đặc biệt. Trán ông rộng, nhô cao, mái tóc phủ lơ phơ bên thái dương nhưng mọc rất dày ở những chỗ khác. Lông mày ông ta rất dài, gần chạm đến mũi và uốn cong lên cùng với mái tóc rậm của ông. Miệng ông, với những gì tôi nhìn thấy dưới hàng ria mép dày, mím chặt và và có vẻ hơi độc ác với hàm răng trắng tóat nhô ra từ một cặp môi đỏ rực thể hiện một sức khỏe đáng kinh ngạc đối với một con người đã ở vào một lứa tuổi như vậy. Cuối cùng, tai ông ta trắng bợt, nhô rất cao. Cằm ông rộng và mạnh mẽ, gò má nhô cao. Nhìn chung thì con người này tóat ra một vẻ xanh xao rất kỳ lạ.
Đến lúc này tôi vẩn không rời mắt khỏi đôi bàn tay của người đàn ông này đang dặt lên đầu gối bên lò sưởi. Chúng trông có vẻ hồng hào và trắng trẻo. Tuy nhiên, khi nhìn gần, tôi nhận ra rằng đó là một đôi bàn tay to bè, thô lỗ với những ngón tay thô kệch, với những sợi lông mọc giữa lòng bàn tay gây một cảm giác dị thường. Móng tay dài và đẹp, được cắt nhọn hoắt. Khi bá tước xích lại gần và chạm vào tôi, tôi không thể không để lộ sự rùng mình. Có thể là do hơi thở khó chịu của ông ta gây cho tôi cảm giác buồn nôn, và cảm giác này tôi không thể che đậy được.

Bá tước có vẻ nhận ra điều này. Ông ta thu người lại, và với cái nụ cười ma quái bằng hàm răng trắng tóat của mình, ông ta quay lại chỗ của mình bên lò sưỡi. Chúng tôi im lặng trong phút chốc. Và tôi chợt nhận ra một vệt sáng lờ mờ nào đó đang hạ xuống bên ngòai cửa sổ. Rõ ràng là những điều kỳ lạ vẩn chưa hề chấm dứt. Rồi tôi nghe thấy hàng loạt tiếng sói tru từ bên ngòai thung lũng. Mắt bá tước ánh lên một tia kỳ lạ, ông ta nói.
" Hãy nghe đi, bài ca được cất lên bởi những đứa con của bóng đêm!" Và có thể là nhận thấy vẻ khác lạ trên mặt tôi, ông ta tiếp tục, "A, có thể rằng do ngài là người thành thị, và ngài không có được cái cảm xúc của dân săn bắn." Đoạn ông ta đứng dậy và cất tiếng.
Nhưng ngài hẳn phải mệt lắm rồi. Phòng ngủ của ngài đã sẳn sàng. Xin ngài hãy ngủ cho thỏa thích suốt ngày mai. Mai tôi có việc bận cho đến tận chiều tối, và vì vậy, thưa ngài, ngài hãy ngủ ngon và có thật nhiều giấc mơ đẹp." Với một cái cúi chào nhã nhặn, ông ta đích thân mở cánh cửa vào căn phòng bát giác cho tôi, và tôi đi vào giường ngủ của mình.
Rõ ràng là tôi đang chìm ngập giữa những điều kỳ lạ. Tôi nghi ngờ. Tôi sợ hãi. Mọi thứ đều quá lạ lùng với tôi, và tôi thậm chí không dám thú nhận mình đang nghĩ gì. Chúa sẽ phù hội cho tôi, và sẽ mang lại cho tôi mọi điều tốt lành.

Ngày 7 tháng 5:

Lại thêm một buổi sáng sớm nữa khi tôi thức dậy. Nhưng thật ra tôi đã ngủ suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ và ngay bây giờ, tôi cố lắm mới thức dậy bằng ý chí của chính mình. Sau khi thay quần áo, tôi đi ra phòng ăn và nhìn thấy một bữa ăn sáng nguội lạnh, một ấm cà phê được giữ nóng trên lò sưởi, và một tấm thiếp với những dòng chữ sau:
"Tôi phải vắng mặt một thời gian. Vì vậy xin đừng đợi tôi. D." Tôi ngồi xuống và ăn uống ngon lành. Ăn xong, tôi tìm một cái chuông để gọi người hầu, nhưng không thể tìm được. Ngôi nhà này có vẻ như thiếu hụt một cái gì đó một cách rất không bình thường, so với sự giàu có ghê gớm mà nó tỏ ra. Cái bàn được làm từ vàng, và vẻ đẹp của nó chứng tỏ nó có giá trị rất cao. Màn cửa và vải bọc trên ghế ngồi lẩn ghế xôpha cũng như những thứ được treo trên giường tôi được làm từ loại vải đẹp và đắt tiền nhất, và do chúng được làm từ những thế kỷ xa xưa, nên giá trị của chúng cao đến mức khó tin, thật tuyệt vời. Một vài thứ hình như được làm ở Hampton Court, nhưng chúng đã sờn và bị rệp cắn. Nhưng trong phòng tuyệt đối không có một cái gương nào, ngay cả trong phòng tắm của tôi. Tôi phải cạo râu và chải đầu bằng cái gương nhỏ tôi mang theo trong hành lý. Tôi không hề thấy một người hầu nào, hay nghe thấy một tiếng động nào trong lâu đài ngoại trừ tiếng sói tru. Sau khi tôi kết thúc một bữa ăn mà chính tôi cũng không biết nên gọi nó là bữa sáng hay bữa trưa, bởi vì lúc này là khỏang giữa năm hay sáu giờ gì đó, tôi tìm một cái gì đó để đọc, nhưng tôi không muốn đi thăm thú lâu đài trước khi có sự cho phép của bá tước. Hòan tòan không có sách, báo hay một cái gì đó có thể đọc trong phòng. Nhưng khi tôi mở một cánh cửa trong phòng thì thấy nó dẩn vào một thư viện. Cái cửa đối diện tôi cũng đã thử mở, nhưng nó đã được khóa.
Trong thư viện tôi vô cùng vui mừng khi nhận thấy có rất nhiều sách tiếng Anh chất đầy trên những cái kệ, và hàng tập tạp chí và báo khác. Trên cái bàn giữa thư viện vung vãi những tạp chí và báo, tuy không phải là những số ra gần đây. Sách thì gồm rất nhiều loại, lịch sử, địa lý, chính trị, kinh tế chính trị, thực vật học, địa chất học luật pháp, tất cả đều liên quan đến nước Anh, đến cuộc sống và phong tục tập quán nơi Anh quốc. Chúng thậm chí còn có các loại sách tham khảo như bản chỉ dẩn London, các sách "Xanh" và "Đỏ", niên giám Whitaker, sổ kê khai quân đội và hải quân, và tôi vui mừng tìm thấy cuốn sổ kê khai luật pháp.
Trong khi tôi còn đang mãi đọc, thình lình cửa mở ra. Bá tước bước vào. Ông ta chào tôi một cách thân mật và mong rằng tôi đã có một giấc ngủ ngon. Đoạn ông tiếp tục.
"Tôi rất mừng là ngài cảm thấy hài lòng ở nơi đây, và tôi tin chắc rằng nơi đây sẽ còn nhiều thứ hấp dẩn ngài. Ở đây tôi có những thứ này," và ông ta đặt ra bàn những cuốn sách ông ta cầm trên tay nãy giờ, "đây là những người bạn tốt của tôi. Nhiều năm trước, tôi đã có ý định đến London, và chúng đã cho tôi những giờ khắc đầy thú vị. Qua chúng, tôi biết được nhiều về nước Anh vĩ đại của ngài, và càng biết về nó tôi lại càng yêu thích nó. Tôi đã lang thang giữa những đường phố nhộn nhịp của thành phố London hùng vĩ, để hòa mình vào giữa một đám đông người nhộn nhịp và vội vã, để cùng sống, cùng phấn đấu, cùng chết, cùng chia xẻ những gì họ có. Nhưng Chúa ơi, tôi chỉ có thể làm điều đó qua những quyển sách. Và nay nhờ có ngài, bạn thân mến, tôi có thể diễn đạt điều đó thành lời."

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 05-03-2005, 02:27 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

"Nhưng, bá tước ạ," tôi nói, "ngài hiểu và nói tiếng Anh rất tuyệt!" Ông ta nghiêng người khiêm tốn.
"Tôi cám ơn ngài, bạn của tôi về những đánh giá quá tốt của ngài, nhưng tôi e rằng như thế là còn quá ít để tôi có thể du hành trên những nẻo đường tôi sẽ đi. Thật sự thì tôi đã nắm vững cú pháp và từ vựng, nhưng tôi chưa thể giao tiếp tốt lắm."
"Thật ra ngài nói tiếng Anh rất tuyệt."
"Không thật thế đâu," ông ta trả lời, "Tôi biết vậy vì tôi đã đến và nói chuyện ở thành phố London của ngài, và không ai không biết tôi là một người lạ. Điều đó chưa đủ đối với tôi. Ở đây tôi là nhà quý tộc, là người có dòng máu quý phái. Mọi người ở đây đều biết tôi và tôi là chúa tể. Nhưng là một người lạ mặt ở một vùng đất lạ, tức thị chẳng là gì cả. Không ai biết anh là ai và cũng chẳng ai cần biết. Tôi muốn làm sao cho chẳng một ai dừng lại chú ý khi anh ta thấy tôi, hoặc chẳng ai thốt lên khi nghe tôi nói: "Ha ha! Một người lạ ở đâu vất vưởng tới đây!" Tôi đã làm chúa tể quá lâu trên đời này và tôi muốn vẩn tiếp tục làm chúa tể, hoặc ít ra không ai làm chúa tể của tôi. Ngài đến với tôi không chỉ với tư cách là một nhân viên của anh bạn Peter Hawkins, hoặc Exeter, để cố vấn với tôi về vấn đề bất động sản ở London. Tôi muốn ngài sẽ ở lại đây với tôi một thời gian, để giúp tôi hòan thiện ngữ điệu tiếng Anh của mình qua những cuộc đàm thoại của chúng ta. Và tôi muốn ngài chỉnh lại cho tôi, dù là những lỗi nhỏ nhất trong văn nói của tôi. Tôi rất tiếc rằng phần lớn thời gian vào ban ngày tôi phải đi ra ngòai, nhưng tôi tin rằng ngài sẽ tha thứ cho một người đang có trong tay nhiều công chuyện phải giải quyết." Tất nhiên tôi nói rằng tôi sẳn lòng, và muốn biết rằng tôi có thể vào thăm bất kỳ căn phòng nào trong lâu đài không. Ông ta trả lời" Vâng, tất nhiên là được." và thêm vào.
"Ngài có thể đi bất cứ đâu ngài muốn trong lâu đài, ngoại trừ một số cửa được khóa kín. Lý do là bên trong đó có những thứ mà khi ngài quan sát chúng cùng với tôi, cùng hiểu chúng như tôi hiểu, ngài có thể sẽ biết rõ thêm những vấn đề liên quan." Tôi nói rằng điều đó là hiển nhiên, và ông ta tiếp tục.
"Chúng ta đang ở Transylvania, và Transylvania không phải là nước Anh. Cách sống của chúng tôi có thể khác với ngài, và ngài sẽ cảm thấy một số điều xem ra lạ lùng. Ngài có thể hỏi tôi về tất cả những chuyện đó, về những gì lạ lùng mà ngài đã trải qua."
Điều này đã dẩn đến một cuộc đối thoại sôi nổi, và đó cũng thật sự là điều mà ông ta muốn. Tôi hỏi ông ta nhiều câu hỏi về những gì đã nảy ra cho tôi và những điều mà tôi đã ghi chép. Đôi khi ông ta lẩn tránh các vấn đề, hoặc giả vờ không hiểu để chuyển hướng cuộc nói chuyện. Tuy nhiên phần lớn các câu hỏi của tôi đã được trả lời khá thành thực. Sau một lúc đàm thoại, tôi đã được làm sáng tỏ khá nhiều điều. Tôi hỏi ông ta về những điều kỳ lạ đã xảy ra vào các đêm trước, ví dụ như việc người đánh xe đã tìm đến chỗ có ngọn lửa xanh. Ông ta giải thích rằng đó là vì mọi người đều tin rằng vào một đêm đặc biệt trong năm, chính xác là đêm ấy, các hồn ma sẽ được tòan quyền ngự trị trên mặt đất, và những ngọn lửa xanh sẽ xuất hiện ở những nơi có của cải được chôn giấu.
"Những của cải được chôn giấu trên" ông ta nói tiếp "có thể là trong một vùng đất mà ngài đã đến tối hôm qua, điều đó không còn nghi ngờ gì nữa. Những vùng đất này đã được cày xới lên hàng thế kỷ bởi người Wallachian, người Saxon, và người Thổ Nhĩ Kỳ. Bởi vì những vùng đất màu mỡ ở đây đã được làm cho màu mỡ thêm bởi máu của những con người, những người yêu nước và những kẻ xâm lược. Trong những ngày tháng xa xưa khi người Aùo và người Hungari lũ lượt xâm chiếm chiếm nơi này, những người yêu nước đã nối tiếp nhau chống lại họ. Đàn ông và đàn bà, người già và trẻ con, họ đã đợi kẻ thù từ trên những dốc đá phía trên con đường, và đã tiêu diệt kẻ thừ bởi những dòng thác nhân tạo những chướng ngại. Khi những kẻ xâm lược chiến thắng, chúng đã tìm thấy một số châu báu nhưng rất ít, bởi vì phần lớn chúng đã được chôn giấu trong đất mẹ bạt ngàn."
"Nhưng vì sao những của cải này vẩn còn được chôn giấu lâu như vậy mà không bị phát hiện, trong khi chắn chắn nó đã được chỉ dẩn lại, chẳng lẻ chúng lại vô cùng khó tìm?" Bá tước mỉm cười, và môi ông ta nhếch lên đến tận lợi, lộ ra đôi hàm răng dài sắc như răng sói, nhìn thật kinh hãi. Ông ta trả lời.
"Bởi vì những người nông dân của ngài thật là ngu xuẩn và hèn nhát. Những ngọn lửa như vậy chỉ xuất hiện trong những đêm mà không một kẻ nào trên vùng đất này dám ra khỏi nhà của mình. Và, thưa ngài thân mến, thậm chí nếu hắn dám, hắn cũng sẽ không biết phải làm gì. Chính là vì liệu cái tên nông dân ấy có dám đến đánh dấu những ở những nơi mà ngọn lửa ấy xuất hiện hay không. Nếu hắn không dám thì không bao giờ hắn xác định được nơi chính xác ngọn lửa ấy xuất hiện vào ban ngày. Ngay cả ngài nữa, tôi dám thề rằng ngài cũng không thể xác định lại vùng đất ấy một lần nữa."
"Ngài nói đúng," tôi trả lời. " tôi gần như chết khiếp khi trông thấy chúng." Và chúng tôi chuyển sang đề tài khác.
"Nào," cuối cùng ông ta bảo, "hãy kể cho tôi nghe về London và về những ngôi nhà mà ngài đã chuẩn bị cho tôi." Với một lời xin lỗi về sự chểnh mảng của mình, tôi đi vào phòng tôi và lấy ra những giấy tờ từ hành lý của mình. Trong khi tôi sắp lại thứ tự chúng, tôi nghe những tiếng va chạm của đồ sứ và đồ bạc ở phòng bên cạnh. Và khi tôi đi qua chúng trở lại, tôi để ý thấy rằng cái bàn đã được dọn sạch, và ngọn đèn đã được thắp sáng. Trước đó thì nó để tối. Một ngọn đèn nữa được thắp sáng trong phòng thư viện mà cũng có thể là phòng nghiên cứu, ở đó tôi thấy bá tước đang ngồi trên ghế sofa, châu đầu vào hàng tá những loại sách vở khác nhau, cùng với một cẩm nang Bradshaw bằng tiếng Anh bên cạnh. Khi tôi đến, ông ta dọn dẹp lại các loại sách báo trên bàn để tôi trải các bản đồ, văn bản và hình ảnh lên. Ông ta tỏ vẻ rất quan tâm và hỏi tôi hàng tá những câu hỏi về những vùng đất này và các vùng lân cận. Rõ ràng ông ta đã có sự chuẩn bị từ trước về những nơi này qua các mối quan hệ của mình, và thật sự ông ta còn biết nhiều hơn tôi nữa. Khi tôi nói về điều này, ông ta trả lời.

"Tất nhiên, bạn thân mến, đương nhiên là tôi phải chuẩn bị kỹ lưỡng rồi, đúng không? Khi tôi đến đấy, tôi sẽ cô độc hòan tòan, không còn ông bạn Harker Jonathan nữa, xin thứ lỗi cho tôi. Tôi sẽ lại sống theo tập quán của nước tôi thay vì của nước các bạn, và lúc đó bạn Jonathan Harker sẽ không có bên cạnh để bổ khuyết hay giúp đỡ cho những lỗi lầm của tôi. Anh ta lúc đó sẽ ở Exeter, cách xa hàng dặm, có thể đang chìm ngập trong đống giấy tờ luật pháp của một người bạn khác của tôi, Peter Hawkins. Thế đấy!"
Chúng tôi chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc mua bán bất động sản ở Purfleet. Khi tôi đã chỉ dẩn mọi thứ cho ông ta và có được chữ ký của ông ở những giấy tờ cần thiết, tôi viết một bức thư để gửi cùng với chúng cho ông Hawkin, ông ta thăm hỏi tôi xem tôi cảm thấy thế nào ở nơi ở mới. Tôi đọc cho ông ta những ghi chép của mình về vùng này mà tôi có mang theo.
" Purfleet là một con đường phụ, ít người qua lại. Tôi đã đến xem xét, và thấy nó có một vẻ hoang tàn thường thấy ở những mảnh đất đang được rao bán. Nó là một dinh thự xây cất theo lối cổ bằng đá, được bao quanh bởi những bức tường cao, và đã bị bỏ hoang chẳng được sữa chữa nhiều năm. Cổng nhà nặng chịch bằng gỗ sồi và thép, gần như hoen rỉ hòan tòan, đóng lại quanh năm suốt tháng.

"Khu bất động sản này được gọi là Carfax, chắc chắn là đã chịu sự phá hủy của một cơn động đất thời cổ xưa. Đấy là một ngôi nhà bốn cạnh ứng với bốn hướng của la bàn. Nó rộng khỏang hai mươi arch, được bao quanh bởi một bức tường đá như đã kể trên. Bên trong có khá nhiều cây cối, tạo nên một vẻ u ám, và còn có một cái hồ hay cái ao gì đó, khá tăm tối, ăn thông với một ngọn suối nhỏ bên ngòai khiến nước hồ luôn sạch sẽ và hiền hòa. Đây là một ngôi nhà rất lớn và lâu đời, có thể là từ thời trung cổ, làm từ những tảng đá lớn với những cửa sổ cao và ngăn bởi những chấn song thép. Nó giống như một phần của một pháo đài, và chứa đựng bên trong một nhà thờ hoặc một tu viện cổ. Tôi không thể vào được vì tôi không có chìa khóa từ cánh cửa dẩn vào ngôi nhà này, nhưng tôi đã chụp hình nó từ chiếc máy Kodak này từ nhiều góc độ khác nhau.Ngôi nhà này gồm nhiều phần ghép lại, nhưng trông có vẻ rất lộn xộn. Tôi chỉ có thể đóan là nó tọa lạc trên một vùng đất rất lớn. Bên trong có nhiều tòa nhà ghép với nhau, nhưng có một ngôi nhà rất lớn chỉ mới thêm vào gần đây, đang được xây dựng thành một nhà thương điên tư nhân. Tuy nhiên, nó trông không được rõ lắm."



Sau khi tôi ngừng lời, bá tước nói,"Tôi rất vui mừng khi đấy là một ngôi nhà to lớn và cổ kính. Bản thân tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình cổ, và bắt tôi sống trong một ngôi nhà hiện đại tức là đang giết tôi. Một ngôi nhà thì không thể ở được chỉ sau một ngày, và anh biết đấy, biết bao nhiêu ngày người ta mới tạo nên một thế kỷ. Tôi cũng rất thích là nơi đấy có một nhà thờ. Chúng tôi là những nhà quý phái xứ Transylnavia, chúng tôi không thích những nắm xương của mình rồi cũng sẽ chìm đắm giữa bao kẻ tầm thường khác. Tôi không tìm kiếm những sự vui vẻ hay đùa giỡn, tôi không tìm đến những ánh mặt trời khóai lạc, những con nước rực rỡ dành cho những người trẻ tuổi và ham vui. Tôi không còn trẻ nữa, và trái tim của tôi, qua bao năm tháng đau buồn bởi tang tóc và chết :Dc, đang trở lại với niềm vui. Thêm nữa, những bức tường trên lâu đài của tôi đã sắp đổ sập. Bóng đêm ngày càng nhiều, và những cơn gió lạnh đang thổi xuyên qua những lỗ châu mai cũng như những khung cửa sổ. Tôi yêu thích bóng tối và ban đêm, nhưng không thể sống đơn độc mãi với chính mình." Trong khi ông ta nói, đôi khi tia nhìn và lời nói của ông ta không hòa hợp vào nhau, hoặc giả nụ cười xuất hiện trên mặt ông ta mang một dáng vẻ lạnh lùng và độc ác nào đó.



Ngay sau đó, với một lời xin lỗi, ông ta biến đi, hỏi mang theo tất cả những giấy tờ của tôi. Ông ta đi một lúc, còn tôi bắt đầu đọc những cuốn sách chung quanh tôi. Tóm được một cuốn bản đồ, theo bản năng, tôi lật ngay đến chỗ nước Anh, và tấm bản đồ này đang được bá tước sử dụng. Tôi nhìn thấy một vùng được khoanh tròn, và tôi xác định được rằng đó là một nơi gần phía Đông London, rõ ràng là ông ta vừa mới mua một vùng đất ở nơi đó. Hai nơi khác ở Exeter và Whitby nằm trên bờ biển Yorkshire.



Khỏang hơn nữa giờ sau, bá tước quay lại. "A ha", ông ta nói. "Vẩn không dứt ra được các quyển sách à? Tối lắm, nhưng không cần phải cần mẫn thế. Lại đây! Ý tôi muốn nói là bữa ăn tối đã sẳn sàng." Ông ta nắm lấy tay tôi và chúng tôi đi vào phòng bên, nơi đã bày sẳn bữa ăn tối ngon lành. Bá tước lại xin lỗi lần nữa, rằng ông ta đã ăn khi ông đi ra ngòai. Nhưng cũng giống như lần trước, ông ta ngồi lại và trò chuyện trong khi tôi ăn. Sau bữa ăn, tôi hút thuốc, và cũng giống như đêm trước, bá tước ngồi lại với tôi, trò chuyện và trao đổi về những vấn đề chúng tôi cùng quan tâm hàng giờ. Tôi nhận thấy rằng lúc này đã quá khuya, nhưng tôi không nói gì. Tôi thật sự cảm thấy cần phải ở bên cạnh người chủ nhà của tôi với bất kỳ cách nào . Tôi không buồn ngủ, do tôi đã ngủ quá dài ngày hôm trước, và tôi đã có kinh nghiệm rằng nỗi run sợ của tôi thường xảy đến vào lúc bình minh, nó giống như những đợt thủy triều. Người ta nói rằng những người sắp chết thường chết vào lúc bình minh hoặc những lúc thay đổi của thủy triều. Những người nào khi mệt mõi, muốn tìm một cái gì đó để bám víu, sẽ thấy rằng sự thay đổi không khí sẽ giúp họ lấy lại niềm tin. Và thình lình chúng tôi nghe thấy tiếng gà gáy cất lên lanh lảnh báo hiệu một ngày mới bắt đầu.

Bá tước Dracula nhảy dựng lên, cất tiếng "Ồ, trời lại sáng rồi! Tôi thật sơ xuất khi để ngài thức khuya như vậy. Rõ ràng là cuộc trao đổi của ngài về đất nước Anh mới mẻ và thân mến của tôi kém thú vị đến nỗi, tôi không thể nhận ra thời gian đã trôi qua như thế nào," và với một cái nhún người lịch sự, ông ta nhanh :Dng biến đi.



Tôi quay trở lại buồng mình và buông màn, nhưng còn ghi chép thêm một chút. Cửa sổ tôi trông ra một khỏang sân nhỏ, và tôi có thể thấy những tia nắng mặt trời xám ấm áp soi rọi một khỏang trời đón ánh ban mai. Vì vậy tôi đóng màn lại và chấm dứt việc ghi chép cho ngày hôm nay.

Ngày 8 tháng 5:

Tôi sợ rằng tôi đã quá dài dòng khi viết đoạn này. Nhưng tôi thấy rằng cần phải đi vào chi tiết trước, do đã có quá nhiều điều kỳ lạ diễn ra tại nơi đây và tôi không thể cảm thấy bình tĩnh được. Tôi ước ao rằng tôi có thể an tòan rời khỏi đây, hoặc giả tôi sẽ chẳng bao giờ ra khỏi đây được nữa. Có thể rằng sự hiện hữu của cái đêm kỳ lạ này đã gây ra cho tôi cảm giác này, hoặc do tất cả mọi thứ! Nếu có ai để trò chuyện thì tôi còn có thể chịu đựng được, nhưng ở đây không có ai. Tôi chỉ có bá tước để nói chuyện, và ông ta thì – tôi e rằng tôi là linh hồn sống duy nhất còn tồn tại nơi đây. Hãy để tôi có thể sống thật với những gì đang diễn ra. Nó sẽ giúp tôi chịu đựng, và những điều tưởng tượng sẽ không nổi loạn chống lại tôi. Nếu không thì tôi chết mất. Hãy để cho tôi kể về những gì xảy ra với tôi, hoặc có vẻ như thế.

Tôi chỉ ngủ được vài giờ sau khi lên giường, và sau khi cảm thấy không thể ngủ được nữa, tôi tỉnh dậy, tôi treo cái kính cạo râu của tôi lên cửa sổ, và bắt đầu cạo râu. Thình lình tôi giật bắn người khi nghe thấy giọng của bá tước vọng từ sau lưng tôi, "Chào buổi sáng." Tôi hỏang hồn vì tôi không hề nhìn thấy ông ta, dù cái gương của tôi phản chiếu tòan bộ căn phòng sau lưng tôi. Lưỡi dao cạo râu của tôi cắt cả vào da thịt, nhưng tôi hầu như không nhận ra điều này trong một thoáng. Sau khi đáp trả lời chào của bá tước, tôi nhìn lại vào gương để xác định rằng mình không hề nhầm lẫn. Lúc này không thể có sự sai sót nào ở đây, bởi vì người đàn ông đã đứng quá gần tôi, tôi có thể nhìn thấy ông ta qua vai mình. Nhưng hòan tòan không có hình ảnh phản chiếu của ông ta trên gương. Cả căn phòng sau lưng tôi đều được hiện rõ, nhưng chẳng có bóng dáng một người nào, ngoại trừ tôi.
Điều này làm tôi giật bắn người, và nó đã lên đến đỉnh điểm của hàng loạt những điều kỳ lạ, những cảm giác mơ hồ về những sự lạ lùng tôi luôn luôn cảm thấy khi bá tước lại gần tôi. Trong thóang chốc, tôi cắt phải một cái mụn nhỏ, và một tia máu bắn ra trên cằm tôi. Tôi để lưỡi dao cạo xuống, nhìn quanh để tìm một miếng băng dính. Khi bá tước nhìn thấy mặt tôi, mắt ông ta chợt rực lên một nỗi thèm khát mãnh liệt. Ông ta thình lình chộp lấy cuống họng của tôi. Tôi gạt ra và tay ông ta chạm phải chuỗi hạt tôi đeo cây thánh giá trên đó. Nó tạo nên một sự thay đổi ngay tức khắc nơi con người này, và cơn thèm khát thịnh nộ kia biến đi nhanh đến mức tôi không sao tin được. "Hãy cẩn thận," ông ta nói "chú ý đừng để tự cắt phải da thịt của chính mình. Ở đất nước này điều đó sẽ khiến ngài gặp nguy hiểm hơn là ngài tưởng đó." Và tóm lấy cái gương cạo râu, ông ta tiếp tục, "Và cái vật gớm giếc này có thể gây ra những việc xấu xa. Nó chỉ là một món đồ trang sức xa hoa bẩn thỉu của con người. Vứt nó đi!" Và giật tung cửa sổ ra bằng cánh tay ghê gớm của mình, ông ta ném mạnh cái gương đi. Nó vỡ tan ra hàng nghìn mảnh khi chạm vào nền sân đá phía dưới. Rồi ông ta đi ra chẳng nói thêm lời nào. Thật là chẳng ra làm sao, vì tôi chẳng thể nào cạo râu được, trừ khi dùng cái vỏ đồng hồ hoặc phần đáy của hộp cạo râu, may thay là nó lại bằng kim loại.
Khi tôi đi vào phòng ăn, bữa ăn sáng đã sẳn sàng, nhưng tôi không tìm thấy bá tước. Vì vậy tôi ăn sáng một mình. Lạ lùng thật, hình như ông bá tước này chẳng hề ăn hoặc uống thì phải. Ông ta quả là một con người kỳ dị! Sau bữa ăn sáng tôi bắt đầu thử tham quan lâu đài. Tôi đi ra cầu thang, và tìm thấy một căn phòng trông về phía Nam.
Quang cảnh thật là nguy nga, và tôi có thể tha hồ thưởng ngoạn. Lâu đài nằm ở một địa thế cheo leo hết sức nguy hiểm trên một đỉnh núi thẳng dốc. Một hòn đá rơi ra từ cửa sổ có thể rơi hàng nghìn food mà chẳng chạm vào bất kỳ cái gì. Phóng xa tầm mắt có thể nhìn thấy một rừng cây bạt ngàn, thỉnh thỏang lại bổ khuyết bởi những đường nứt. Đây đó là những đường chỉ bạc là nơi mà những con sông luồn lách vào bên trong rừng rậm.
Nhưng tôi chẳng còn tâm trạng đâu mà miêu tả cảnh đẹp, bởi vì sau khi tham quan thêm một lúc nữa, tôi đã nhìn ra tình trạng thật sự của mình. Khắp nơi tòan là cửa, và tất cả đã được khóa và chèn chắc. Không một cửa sổ nào trong lâu đài có thể mở ra một con đường thóat an tòan. Tóm lại, lâu đài là một nhà tù thật sự, và tôi đã trở thành tù nhân.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 05-03-2005, 02:28 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 3

Nhật ký của Jonathan Harker(tiếp theo)


Khi biết rằng mình là một tù nhân, tôi như hóa điên hóa dại. Tôi cuống cuồng lên xuống các cầu thang, thử mọi cánh cửa và xăm xoi mọi cửa sổ mà tôi tìm thấy được. Tuy nhiên một lúc sau, trong người tôi chỉ còn một cảm giác bất lực bao trùm. Sau vài giờ vẫy vùng bất lực, tôi đã bình tâm lại, và thấy rằng đóng vai một con chuột đang vật lộn trong cái bẫy như nãy giờ thì thật là điên khùng. Đến khi biết rõ rằng mình hòan tòan bất lực thì tôi ngồi lặng xuống thật bình tĩnh. Chưa bao giờ trong đời tôi lại bình tĩnh hơn thế, và tôi bắt đầu suy xét xem phải làm gì. Tôi nghĩ rằng, mọi sự chưa phải đã hòan tòan kết thúc. Chỉ có một điều tôi chắc chắn phải làm. Đó là đừng để cho bá tước biết tôi đã nắm được sự tình. Ông ta biết rõ là tôi đang bị giam lỏng. Không nghi ngờ gì nữa, chính ông ta là kẻ chủ mưu vụ này, và hẳn là phải có nguyên do. Và phải đánh lừa ông ta bằng cách giả vờ tin tất cả những gì ông ta nói. Tôi nhận thức rõ rằng mình chỉ có một kế hoạch duy nhất là giữ kín trong lòng nỗi sợ hãi cùng những gì đã khám phá được, và ngược lại, phải mở to mắt ra. Trong trường hợp này, hoặc là tôi sẽ bị đánh lừa như một đứa trẻ, hoặc là tôi phải dốc hết sức vào một cuộc mạo hiểm nhằm thóat khỏi tình thế. Muốn làm được điều sau này thì tôi cần phải tập trung tất cả những cái gì có trong đầu mình.
Trong khi tôi đang dần đến quyết định cuối cùng này, thình lình tôi nghe thấy tiếng cánh cửa lớn phía dưới đóng lại, báo hiệu rằng bá tước đã trở về. Ông ta không đi vào thư viện ngay, và tôi rón rén trở về phòng mình. Tôi thấy ông ta đang dọn giường cho tôi. Điều này thật là lạ lùng, nhưng nó xác nhận điều tôi nghĩ. Ngòai ông ta ra, tôi hòan tòan đơn độc trong lâu đài, không có một người hầu nào khác. Khi tôi thấy ông ta luồn qua bản lề cửa để vào trải bàn cho bàn ăn thì tôi hòan tòan chắc chắn. Do ông ta tự mình làm hết tất cả các công việc của người hầu, chứng tỏ là chẳng còn ai khác trong lâu đài, và chính bá tước là người đánh xe cho tôi trong cái đêm tôi mới đến. Đó là một ý nghĩ làm tôi tôi kinh hòang. Ông ta là người như thế nào mà có thể điều khiển bầy sói, có thể giữ chúng im lặng bằng những dấu hiệu? Những người ở Bistriz và trong xe ngựa lo sợ điều khủng khiếp gì cho tôi? Họ tặng cho tôi cây thánh giá, tỏi, hoa hồng dại và tần bì núi để làm gì?
Xin Chúa hãy phù hộ người đàn bà tốt bụng, thật là tốt bụng đã đeo cây thánh giá quanh cổ tôi. Bây giờ, khi chạm vào nó, tôi cảm thấy lấy lại niềm tin và sức mạnh. Cái vật kỳ lạ mà ban đầu tôi đã không muốn nhận, và giờ đây nó mang lại một sự trợ giúp đầy linh thiêng trong những lúc cô đơn và bối rối. Đó phải chăng là bản chất thật sự của nó, hay nó là một phương tiện giúp đỡ hữu hình, để chuyên chở những nỗi lòng cảm thông và an ủi? Tôi sẽ cố kiểm tra lại vấn đề này khi nào có thể để giúp mình có được sự xác nhận chính xác. Trong khi chờ đợi thì tôi sẽ tìm hiểu về bá tước Dracula, và điều này giúp tôi có thể hiểu thêm nhiều vấn đề khác. Tối nay thì may ra ông ta sẽ nói về chính mình, nếu tôi chuyển hướng đối thoại một cách khéo léo. Tất nhiên là phải cẩn thận đừng để ông ấy đâm ra nghi ngờ.
Nữa đêm. Tôi đã có một cuộc nói chuyện dài với bá tước. Tôi hỏi ông ta những câu hỏi về lịch sử Transylvania, và ông ta rất sôi nổi với chủ đề thú vị này. Ông ta nói về những sự kiện và những con người, đặc biệt là những trận đánh, ông ta kể lại như thể chính ông ta có mặt tại các thời khắc đó. Lúc sau ông giải thích rằng niềm kiêu hãnh đã lưu danh tại ngôi nhà của ông ta, và tên tuổi của người Boyar chính là niềm kiêu hãnh của ông ta, vinh quang của họ là vinh quang của ông ta, và định mệnh của họ cũng chính là định mệnh của ông ta. Bất cứ lúc nào nói về ngôi nhà của mình, ông ta đều dùng từ "chúng tôi" và chia các động từ ở số nhiều, cứ như ông là một vì vua đang kể về đế chế của mình. Ước gì tôi có thể ghi lại hòan tòan chính xác những gì ông ấy kể, chúng quá hấp dẩn. Nó gần như dựng lại tòan bộ lịch sử của đất nước này. Khi kể chuyện, ông ta thật là khích động. Ông ta đi vòng quanh phòng, vuốt hàm ria trắng của mình, tóm lấy bất cứ cái gì trong vòng tay như thể sắp bẻ phăng chúng bằng sức mạnh của mình. Trong lúc ông ta nói thì tôi ngồi sát lại, cố nắm bắt lại câu chuyện được kể một cách sôi nổi của ông.

"Những người Szekelys chúng tôi đã có lý do chính đáng để tự hào, khi mà trong huyết mạch chúng tôi tuôn chảy dòng máu của những chiến binh dũng cảm đã chiến đấu với trái tim sư tử để giành lấy và bảo vệ vùng đất này. Ở đây, trong vòng xóay của những những cuộc trường chinh của châu Âu, những dòng giống người Ugric đã đến từ Iceland để tiến hành một cuộc chiến thần thánh do Thor và Wodin dẩn đầu. Những người này đã khiến mọi người phải tưởng họ là những con ma sói khi không biết bao lần những cơn thịnh nộ của họ đã tạo nên sự kinh hòang ở khắp bờ biển châu Âu, đến tận châu Phi và châu Á. Đến đây, họ gặp những người Hun, những kẻ làm nên những cuộc chinh phạt đã đốt sạch mặt đất như những ngọn lửa sống, đến nỗi những người chết nghĩ rằng trong mạch máu họ là những dòng máu của những phù thủy già bị trục xuất khỏi Scythia đã kết bạn cùng quỷ sứ ở sa mạc. Những kẻ ngu ngốc, ngu ngốc! Quỷ sứ hay phù thủy nào có thể sánh với Attila, với những dòng máu anh hùng như vậy?" Ông ta vung tay lên. "Chúng tôi đã chiến thắng tất cả, chúng tôi tự hào rằng, những người Magyar, người Lombard, người Avard, người Bulgar, người Thổ đã phơi xác hàng loạt trên biên giới chúng tôi, chúng tôi đã đánh lui tất cả, điều đó là là kỳ diệu, phải không? Khi Arpad và binh đòan của hắn quét qua đất nước Hungarian, hắn đã gặp chúng tôi tại biên giới và cuộc trường chinh Honfoglalas của hắn chấm dứt, kỳ lạ quá phải không? Rồi khi người Hungarian tạo thành cơn lũ quét về phía đông, người Szekelys đã cùng chia xẻ vinh quang bởi chiến thắng của người Magyars. Chúng tôi đã qua hàng thế kỷ bảo vệ đường biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Và những công việc nơi biên giới thì không bao giờ chấm dứt, giống như người Thổ đã nói ‘nước sông thì ngủ, nhưng kẻ thù thì chẳng hề ngủ bao giờ.’ Ai có thể tự hào hơn chúng tôi, những người trong cuộc chiến Bốn Dân Tộc đã nhận được ‘thanh gươm máu’, hoặc chính tại cuộc chiến này lời kêu gọi tập hợp dân chúng của chúng tôi còn có hiệu lực hơn chính lời hiệu triệu của vua? Đâu là lúc rửa nhục cho mối hờn dân tộc của chúng tôi, nỗi nhục nhã của Cassova, khi mà cờ chiến của người Wallach và người Magyar ngã xuống dưới Crescent? Ai là người trong dòng giống chúng tôi, giống như Voivode băng ngang sông Danube và khuất phục người Thổ ngay trên đất của họ? Đó chính là Dracula. Chỉ đau buồn rằng đó là một người anh em đáng khinh bỉ, khi hắn bại trận, hắn đã bán rẻ dòng tộc mình cho người Thổ và chấp nhận nỗi nhục nhã làm nô lệ cho họ. Đó không phải là dòng giống Dracula này, nòi giống đã được truyền lại để rồi không biết bao nhiêu lần mang theo sức mạnh của mình theo dòng sông lớn cuồn cuộn đổ vào đất Thổ, kẻ mà khi bị đánh bại, lại tiếp tục vùng lên, kẻ lang thang cô độc giữa cánh đồng máu, nơi mà các chiến binh của anh ta đã bị tàn sát, vững tin rằng dù chỉ còn lại một mình, anh ta cũng nhất định sẽ giành lấy thắng lợi sau cùng! Người ta nói rằng anh ta chỉ nghỉ đến mình. Bah! Những người nông dân mà không có lãnh đạo thì sẽ như thế nào? Làm sao chiến thắng được cuộc chiến tranh nếu thiếu đi khối óc và con tim để chỉ đạo nó? Một lần nữa, sau cuộc chiến với người Mohacs, chúng tôi lật đổ ách thống trị của người Hungarian, chúng tôi, những người mang trong mình dòng máu Dracula đã chống lại những kẻ cầm đầu họ, bởi vì truyền thống của chúng tôi không bao giờ chấp nhận chúng tôi là những kẻ mất tự do. Ah, thưa ngài trẻ tuổi, người Szekelys, mà dòng giống Dracula là máu trong tim họ, là khối óc của họ, là thanh gươm của họ, là một dân tộc kiêu hùng mà những bọn người Hapsburgs, người Romanoff mọc lúc nhúc như nấm kia không thể nào sánh nổi. Ngày nay chiến tranh đã chấm dứt. Máu đã trở thành một thứ quý giá trong những ngày tháng hòa bình đầy hổ thẹn này, và những vinh quang của những trận chiến oai hùng ngày xưa chỉ còn lại trong những truyền thuyết được kể lại cùng năm tháng mà thôi."
Lúc này đã gần sáng, và chúng tôi đi ngủ. (Có lẻ quyển nhật ký này đã trở thành một thứ gì đó kỳ lạ như câu chuyện về "Những đêm Ả rập", khi mà mọi chuyện sẽ kết thúc cùng với tiếng gà gáy sáng, hoặc giống như hồn ma của cha Hamlet.)
Ngày 12 tháng 5:
Hãy để tôi bắt đầu những sự kiện, những sự kiện đơn giản và rõ ràng, được kiểm chứng bằng sách vở và hình ảnh. Tôi sẽ không phải xáo trộn nó lên bởi những điều tôi quan sát hoặc nhớ về chúng. Vào buổi tối cuối cùng khi bá tước đến từ phòng ông ta, ông ta bắt đầu hỏi tôi những câu hỏi về các vấn đề luật pháp và tiến hành các công việc kinh doanh. Tôi đã trải qua những ngày mệt mõi giữa các trang sách, giải quyết một số vấn đề mà tôi đã kiểm chứng trong cuốn Nhà trọ Lincoln. Đó cũng là những yêu cầu của bá tước, và tôi đã ghi chép lại một cách tuần tự. Những kiến thức này đôi khi cũng hữu ích cho tôi một cách nào đó.
Trước tiên, ông ta hỏi tôi là tại nước Anh người ta có thể có hai luật sư riêng không. Tôi trả lời là nếu thích người ta có thuể thuê đến hàng tá, tuy nhiên một người khôn ngoan sẽ không thuê quá một luật sư cho một chuyện làm ăn. Khi có hai người trở lên thì thay vì đưa ra một ý kiến cho một công chuyện, họ sẽ quay ra bảo vệ những ý kiến khác nhau và điều đó chỉ có hại mà thôi. Ông ta xem ra rất hiểu, rồi ông ta hỏi tiếp về việc thuê một người để phục vụ, giao thiệp, mua bán, nói cách khác là một người chăm sóc về mọi mặt khi ở trên một chiếc tàu, thì liệu có khó khăn gì không. Tôi muốn ông ấy giải thích thật rõ, để tránh việc tôi hiểu sai ý ông ta, và ông ta nói.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 05-03-2005, 02:29 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

" Tôi sẽ minh họa nhé. Bạn của ngài và của tôi, ngài Peter Hawkins, người đang ẩn mình dưới bóng tòa thánh đường xinh đẹp của ngài ở Exeter, ở chốn London xa xôi, đã mua cho tôi dưới sự giúp đỡ của ngài một nơi ở tại London. Tốt! Nào, bây giờ thì tôi nói thật nhé, ngài đừng lấy làm lạ là tôi sẽ không tìm cho mình một người hầu trong số những cư dân tại thành phố London xa lắc đó, bởi vì đối với tôi, không ai có thể phục vụ được những ý muốn của tôi tốt hơn một người ở quê tôi, trong khi một người địa phương có thể phục vụ theo một cách gì đó không đơn thuần theo ý muốn của tôi, mà cho anh ta hay bạn bè của hắn chẳng hạn. Do vậy tôi sẽ tìm người hầu của mình trên những cánh đồng tại nơi đây, những người chỉ lao động vì ý thích của tôi. Bây giờ, giả sử là tôi đang cần làm ăn với những chuyến tàu chở hàng, giả dụ như từ Newcastle, Durham, Harwich hoặc Dover, thì liệu việc tôi ủy quyền cho một người khác làm việc tại những bến cảng như vậy có dễ dàng không?"
Tôi trả lời rằng sẽ không có gì dễ dàng hơn chuyện đó. Nhưng những luật sư chúng tôi thì có một hệ thống chi nhánh từ nơi này sang nơi khác, do đó những công việc tại các địa phương có thể hòan tòan làm việc dưới sự chỉ dẩn của bất cứ luật sư nào tại địa phương đó. Khách hàng chỉ cần đơn giản ủy quyền cho một người bất kỳ nào đó những ý muốn của mình, công việc sẽ tiến hành mà chẳng có rắc rối gì.
"Nhưng," ông ta nói, "tôi có thể làm việc đó trực tiếp, đúng không?"
"Tất nhiên," tôi trả lời, "vẩn có những chuyện thường xảy ra như vậy, một số người có những công chuyện kinh doanh riêng và không muốn một người nào khác biết về công chuyện của mình."
"Tốt!" ông ta nói, và tiếp tục bàn về việc thiết lập ủy quyền của những các dạng giấy tờ cần thiết, cẩn thận xem xét sao cho chẳng có sơ xuất nào. Tôi giải thích tất cả với ông ta bằng tất cả khả năng của mình, và rõ ràng là ông ta từ giã tôi với một ấn tượng là mình đang làm việc với một luật sư cự phách, do đó ông ta chẳng hề nghi ngờ điều gì cả. Trong khi ông ta còn đang đắm chìm trong sự tự thỏa mãn, còn tôi thì kiểm tra mọi thứ qua sách vở, thì chợt ông ta dừng lại và nói, "Hình như ngài có viết thêm những thứ gì đó sau khi ngài viết bức thư đầu cho người bạn của chúng ta, ngài Peter Hawkins, thì phải?"
Với một chút giật mình trong tim , tôi trả lời là không, cũng vì tôi không thấy có gì cần phải gửi thư cho ai cả.
"Vậy thì ngài hãy viết đi, người bạn trẻ của tôi," ông ta nói, đặt tay lên vai tôi, "viết cho bạn của chúng ta và những người nào ngài cần thông báo rằng ngài sẽ ở đây với tôi thêm một tháng nữa, nếu điều đó không làm phiền ngài."
"Ngài muốn tôi ở lại với ngài lâu đến thế sao?" tôi hỏi, cảm thấy tim mình trở nên lạnh ngắt trong một thóang.
"Tôi rất muốn điều đó, và tôi không muốn nghe về sự từ chối. Khi chủ của ngài, giao cho một người nào đó thay mặt cho ông ta, với mục đích rõ ràng là phục vụ cho việc thỉnh thị ý kiến của tôi, hẳn là người đó sẽ làm hết mình chứ, có phải không ạ?"
Tôi có thể làm gì ngòai việc cúi chào tán thành. Đây là quyền lợi của ngài Hawkins, chứ không phải tôi, và tôi nên nghĩ đến ông ta chứ không chỉ nghĩ đến mình. Ngòai ra, qua ánh mắt và cử chỉ của bá tước Dracula khiến tôi nhớ ra rằng mình là một tù nhân, và tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Khi bá tước thấy rõ sự thắng lợi của mình qua cái cúi chào của tôi, thấy được quyền lực của mình qua sự bối rối trên mặt tôi, ông liền bắt đầu sử dụng chúng một cách khéo léo không sao cản lại:
"Tôi mong rằng ngài, người bạn trẻ tuổi thân mến của tôi, rằng ngài sẽ không nói thêm gì trong những bức thư ấy ngòai công việc làm ăn của chúng ta. Nó sẽ làm các bạn của ngài an tâm rằng ngài đang rất khỏe mạnh, và sẽ về nhà sau khi xong công việc. Ngài có bằng lòng không ạ?" trong khi ông ta nói, ông ta trao cho tôi ba xấp giấy viết thư và ba chiếc phong bì, tất cả đều là những thứ giấy tờ bưu kiện thuộc loại mỏng nhất ở nước ngòai. Rồi ông ta, với nụ cười lặng lẽ, đưa ra đôi hàm răng chó sắc nhọn bên trong đôi môi đỏ rực, như thể nói rằng tôi nên cẩn thận với những gì viết trong thư, vì ông ta có thể đọc được chúng. Vì vậy tôi quyết định rằng bây giờ hãy tạm viết thư một cách bình thường theo ý ông ta, rồi hãy bí mật kể lại mọi chuyện cho ông Hawkin, và sẽ viết cho Mina qua một số ký hiệu viết tắt, điều sẽ làm cho bá tước Dracula lâm vào một bài tóan đố chữ đủ làm ông ta nhăn nhó nếu ông tìm cách đọc nó. Sau khi tôi viết hai lá thư trên xong, tôi ngồi yên và đọc sách, trong khi bá tước viết rất nhiều, tham khảo một số sách trên bàn. Sau đó ông ta lấy hai lá thư của tôi, đặt vào giữa những mớ giấy tờ ông ta vừa viết, rồi ông ta đi ra ngay tức khắc và đóng cửa lại. Tôi chồm qua bàn và đọc những lá thư vẩn còn nằm trên bàn. Tôi chẳng hề ân hận vì hành động của mình, bởi vì trong hòan cảnh này tôi phải tự bảo vệ mình bằng tất cả mọi cách có thể được.
Một trong những lá thư được gửi đến Samuel F.Billington, số 7, Crescent, Whitby, và một bức khác gửi cho Herr Leutner, Varna. Bức thứ ba gửi cho Coutts & Công ty, London, bức thứ tư gửi cho Herren Klopstock & Billreuth, giám đốc ngân hàng, Buda Pesh. Bức thứ hai và thứ tư chưa được dán lại. Tôi vừa định đọc nó thì kịp thấy tay nắm cửa động đậy. Tôi ngồi trở lại chỗ của mình, quay lại đọc tiếp cuốn sách của mình trước khi bá tước quay trở về phòng, trong tay là một bức thư khác. Ông ta thu nhặt những bức thư trên bàn, dán tem lại cẩn thận và quay lại về phía tôi, cất tiếng,
" Tôi tin là ngài sẽ bỏ qua cho tôi, vì tôi có một số việc riêng phải giải quyết trong chiều tối nay. Hy vọng là ngài sẽ có một đêm như ý." Đi ra đến cửa, ông ta quay lại, ngập ngừng một chút rồi nói, " Tôi sẽ cho ngài một lời khuyên, người bạn trẻ của tôi. Nói cho đúng hơn, đây là một lời khuyến cáo rất nghiêm túc. Ngòai căn phòng của ngài ra, thì chẳng có nơi nào trong lâu đài này ngài có thể qua đêm được. Đây là một tòa lâu đài cổ, mang trong nó nhiều câu chuyện của quá khứ, và nó mang lại cho những kẻ dại dột nhiều cơn ác mộng khó quên. Hãy cẩn thận! Ngài hãy ngủ lại đây. Còn nếu có điều gì xảy ra cho ngài tại những nơi khác, hãy nhanh :Dng quay trở về phòng riêng của mình hoặc những căn phòng chung quanh, đó là nơi ngài sẽ ngủ an giấc. Nếu như ngài không lưu ý vào những điều cảnh báo này, thì," Ông ta kết thúc bài nói của mình một cách đầy đe dọa, tay ông vung vẫy thành những cử động như đang quét sạch những cái gì. Tôi hiểu ra. Tôi chỉ nghi ngờ là liệu có một cơn ác mộng nào có thể ghê gớm hơn cái lưới khủng khiếp và siêu nhiên của những điều bí ẩn ma quái đang siết dần lại chung quanh tôi hay không.
Đêm khuya.—Tôi đã ghi lại tất cả những điều ông ta nói, nhưng không thêm vào đó sự nghi ngờ của mình. Tôi không sợ ngủ lại ở bất kỳ nơi nào trong lâu đài nếu ông ta không có trong đó. Tôi sẽ đặt cây thánh giá của mình lên đầu giường ngủ, và tôi tin rằng điều đó sẽ làm giấc ngủ của tôi sẽ được giải phóng khỏi những cơn ác mộng.
Khi ông ta đi khỏi tôi đi vào phòng của mình. Một lúc sau, không còn nghe tiếng động nào nữa, tôi đi ra và leo lên một cái cầu thang đá, đứng ở đây tôi có thể trông về phía Nam. Một dãi đất rộng mênh mang trải dài trước mắt tôi, khiến sự khao khát tự do của tôi càng cháy bỏng khi tôi so sánh nó với khỏang sân tối tăm chật hẹp của lâu đài. Nhìn thấy nó, tôi càng nhận thức rõ tôi là một tù nhân thật sự, và tôi càng thèm muốn được hít thở bầu không khí trong lành của tự do, dù cho bây giờ đang là đêm đen. Tôi bắt đầu cảm thấy thấy rõ sự hiện hữu của đêm tối bên trong tôi, nó hủy hoại đi ý chí của tôi. Tôi đang bắt đầu tự làm cho mình u mê với những nỗi tưởng tượng kinh khủng. Chúa biết rõ rằng nguồn gốc của những nỗi sợ hãi kinh khủng trong tôi chính là vùng đất đáng nguyền rủa này! Tôi nhìn ra vùng đất rộng mênh mông xinh đẹp đang tắm mình trong ánh trăng đêm sáng rực như thể đang ở giữa ban ngày. Trong cái thứ ánh sáng huyền dịu đó, những ngọn đồi cao ngất như bị tan ra trong bóng đêm mượt mà của những thung lũng và kẽ núi. Vẻ đẹp này đã khiến tôi bị cuốn hút vô cùng. Mỗi hơi thở tôi hít vào mang theo sự êm ả và cảm giác an ủi. Khi tôi trườn người ra từ cửa sổ, tôi chợt thấy có cái gì đang chuyển động ở tầng dưới tôi, nằm ở phía bên trái, nơi tôi nghĩ rằng theo sự bố trí các phòng của lâu đài, thì đó là nơi cửa sổ phòng bá tước trông ra. Cái cửa sổ tôi đang đứng là một cái cửa sổ rộng và cao, bao bằng những đá, xem ra hòan tòan bền vững với mọi thời tiết. Nhưng rõ ràng là có cái gì đó đang diễn ra ở đằng kia. Tôi thu người lại sau bệ đá, và chăm chú quan sát.
Tôi thấy cái đầu của bá tước thò ra từ cửa sổ. Tôi không thấy rõ mặt, nhưng tôi biết đó là một con người bởi cái cổ và sự chuyển động của lưng và cánh tay. Tôi không thể nhầm lẫn những cánh tay mà tôi đã nhiều lần nếm thử sức mạnh của nó. Tôi cảm thấy thích thú và ở chừng mực nào đó là sự buồn cười, bởi vì bất kỳ một chuyện nhỏ nào cũng sẽ làm cho người ta thích thú và buồn cười khi anh ta là một tù nhân. Nhưng tôi nhanh :Dng chuyển sang kinh hòang và sợ hãi khi thấy tòan bộ thân người của bá tước nhô ra cửa sổ và bắt đầu trườn xuống. Bao quanh lâu đài là những vực thẳm chết :Dc, và khi bá tước tuột xuống, cái áo chòang xám của ông ta bay phấp phới như những cái cánh khổng lồ. Thoạt tiên tôi không tin vào mắt mình. Tôi nghĩ đó là ảo giác của ánh trăng, là sự đánh lừa của bóng đêm, nhưng khi tiếp tục quan sát, tôi biết rằng mình không hề lầm. Tôi thấy những ngón tay và mũi giày bám vào những góc cạnh vào những hòn đá trên bức tường mà lớp vôi vữa đã bị bào mòn bởi thời gian, tận dụng từng góc cạnh lồi lõm để tuột xuống với một tốc độ ghê hồn, như là một con thằn lằn đang bò trên tường.
Đây là loại người gì, hay đúng hơn là loại sinh vật gì, mà có thể làm được những chuyện như thế? Tôi sợ chết khiếp cái vùng đất ma quái đang chế ngự tôi. Tôi sợ hãi, sợ hãi đến rụng rời, và hầu như tôi không thể trốn thóat khỏi nơi đây được nữa.Tôi bị bao bọc bởi những điều kinh khủng mà tôi thậm chí không dám nghĩ đến.
Ngày 15 tháng 5:
Một lần nữa tôi thấy bá tước đi ra ngòai bằng kỹ năng của thằn lằn. Ông ta trườn xuống theo một con đường nghiêng về bên trái dài tới hàng trăm food. Khi cái đầu của ông ta đã khuất, tôi trường người ra để cố nhìn thêm nhưng vô hiệu. Khỏang cách đã quá xa và góc nhìn đã hòan tòan bị che khuất. Tôi biết rằng lúc này ông ta đã rời khỏi lâu đài, và đây là lúc tôi nên lợi dụng cơ hội này để thám hiểu thêm về lâu đài, một điều mà tôi chưa từng dám làm. Tôi trở về phòng, lấy một cái đèn, và thử tất cả các cửa. Như tôi dự đóan, chúng được khóa sạch, và những cái khóa vẩn còn mới. Nhưng khi tôi đi xuống cầu thang đá để đi vào đại sảnh, nơi tôi đã vào lúc mới đến, tôi có thấy rằng tôi có thể đẩy được then cửa cũng như tháo sợi dây xích lớn dễ dàng, nhưng cánh cửa thì đã bị khóa, và chìa khóa đã bị lấy mất. Chiếc chìa khóa này chắc hẳn ở trong phòng của bá tước. May ra thì cửa phòng ông ta không khóa, tôi có thể lấy chìa khóa và trốn thóat. Tôi cẩn thận kiểm tra mọi lối đi và cầu thang, thử mở tất cả mọi cánh cửa. Một hoặc hai cánh cửa nhỏ gần đại sảnh không khóa, nhưng bên trong trong nó không có gì đáng để ý, ngoài những vật dụng cũ kỹ đầy bụi bởi thời gian và mối gặm. Tuy nhiên, tôi tìm thấy một cánh cửa trên đỉnh cầu thang, mặc dù cũng bị khóa, nhưng khi tôi thử đẩy thì nó nhúch nhích. Tôi thử mạnh hơn, và thấy rằng cánh cửa thật ra không bị khóa, nó bị kẹt bởi bản lề long ra và cánh cửa nặng nề giống như đang được dựa vào sàn nhà. Đây là một cơ hội có một không hai, tôi cố sức đẩy cho cánh cửa dịch chuyển được một khỏang tôi có thể len vào. Bây giờ thì tôi đang ở vào một tầng bên của lâu đài, có lẽ là nằm ở tầng dưới và ở phía bên phải căn phòng tôi đã biết. Từ cửa sổ tôi có thể nhìn thấy một dãy phòng nằm dọc theo phía nam lâu đài, cửa sổ của cái cuối cùng trông ra phía tây và phía nam. Cả hai phía đều là những vách đá dựng đứng. Lâu đài được xây dựng trên một mỏm đá cao, trong đó có đến ba phía là không thể vượt qua được, với những cánh cửa sổ cao ngất mà không một cây ná, cánh cung hay một cánh chim câu nào có thể vươn tới. Phía tây là một thung lũng rộng, và vươn ra phía xa là những rặng núi nhấp nhô, các đỉnh nối tiếp nhau. Giữa những vách đá thẳng đứng là những cây tần bì núi và bụi gai có gốc bám cứng vào những vết và kẽ nứt trên đá. Chắc là phần này của lâu đài vào những ngày xa xưa được sử dụng bởi những người phụ nữ, vì những đồ vật trong phòng trong có vẻ tiện nghi hơn những phòng khác.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 05-03-2005, 02:30 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Cửa sổ ở đây được trải màn, và ánh trăng vàng lấp lánh tràn ngập qua những tấm cửa sổ lóng lánh, làm mọi vật trở nên rực rỡ hơn, mặc dù chúng chìm ngập trong bụi, trông như chúng đang cố cải trang khỏi sự tàn phá của thời gian và mối. Ngọn đèn của tôi góp thêm phần vào ánh trăng huyền dịu này. Nhưng tôi rất cần có nó bên mình, nếu không thì sự cô độc khủng khiếp ở nơi này sẽ làm con tim tôi lạnh giá và thần kinh của tôi run lên trong sợ hãi. Dù sao, ở nơi đây vẩn tốt hơn là cô độc trong những căn phòng mà sự hiện diện thường xuyên của bá tước đã làm cho tôi chán ghét, và sau những cố gắng để tìm lại sự cân bằng cho thần kinh, tôi đã tìm thấy nơi đây một cảm giác bình thản an lành. Và tôi đang ngồi đây, trước một cái bàn nhỏ bằng gỗ thông, nơi mà ngày xưa có lẽ là một tiểu thư đã từng ngồi, mơ mộng và thẹn thùng, viết những lá tình thư của cô ta, tôi lại viết tốc ký tiếp tục vào sổ nhật ký của tôi tất cả những gì xảy ra cho tôi từ lần tôi gấp lại gần đây nhất. Bây giờ đã gần cuối thế kỷ mười chín, nhưng nếu như cảm giác không lừa dối tôi, thì những thế kỷ trước vẩn tồn tại trong nó những năng lực mà sự "hiện đại" không thể tiêu diệt được.

Đêm khuya. Buổi sáng của ngày 16 tháng 5:

Chúa hãy phù hộ cho lý trí của tôi, đó là điều tôi cần. An tòan và những bảo đảm cho sự an tòan đã thuộc về quá khứ. Trong khi tôi sống tại nơi đây, tôi chỉ hy vọng vào một điều là tôi sẽ không hóa điên, nếu như tôi vẩn còn chưa điên. Nếu như tôi còn tỉnh, thì rõ ràng tôi sẽ hóa điên nếu nghĩ đến những việc khủng khiếp đã diễn ra ở cái nơi ở đáng ghét này của bá tước, đó là việc tệ hại nhất cho tôi. Nếu chỉ có một mình bá tước, thì tôi sẽ còn được an tòan, mặc dầu điều đó chỉ là vì tôi đang còn có ích cho ông ta. Chúa cao cả, Chúa từ bi, hãy để cho tôi được bình tĩnh, tránh xa được những chuyện giả dối điên khùng đang diễn ra. Tôi đã tìm thấy được những tia sáng mới giữa những mớ hỗn độn đang đánh đố tôi. Đến bây giờ tôi mới hiểu Shakespeare muốn nói gì khi ông ta cho Hamlet nói " Những tấm thẻ ghi của tôi! Nhanh, những thẻ ghi của tôi! Tôi sẽ viết ngay khi có nó,!" v.v., Đến nay, những lúc nào tôi cảm thấy đầu óc mình không còn cân bằng được nữa, hoặc những cú sốc đã gần đánh quỵ được tôi, tôi lại tìm sự cân bằng nơi quyển nhật ký của mình. Sở thích này thật sự đã làm tôi dịu đi.
Những điều cảnh cáo bí ẩn của bá tước đã làm tôi kinh hỏang trong một lúc. Nó không còn làm tôi hoảng sợ nữa khi tôi nghĩ về nó, bởi vì trong tương lai ông ta sẽ còn tiếp tục cầm giữ tôi một cách đầy ghê sợ. Và tôi sẽ sợ để hiểu những điều ông ta có thể nói!
Khi tôi viết xong cuốn nhật ký, may mắn là tôi đã kịp cất cuốn nhật ký và viết vào túi khi tôi bắt đầu buồn ngủ. Những lời cảnh cáo của bá tước lỡn vỡn trong tâm trí tôi, nhưng tôi sẽ rất vui lòng không tuân lệnh ông ta. Cảm giác buồn ngủ tràn ngập tâm trí tôi, và cùng với nó là sự bướng bĩnh khiến giấc ngủ càng trở nên quyến rủ. Ánh trăng đêm êm dịu, và khỏang không bao la dù không mang lại sự tự do đã làm tôi phục hồi. Tôi quyết định đêm nay sẽ không trở về căn phòng ma quái u ám của tôi nữa, mà sẽ ngủ lại đây, nơi mà ngày xưa những tiểu thư đã ngồi bên song cửa, cất cao tiếng hát, đã sống những cuộc sống êm ả trong khi tâm tưởng họ tràn ngập những nỗi buồn về những người đàn ông đã ra đi vì những cuộc chiến tranh tàn nhẫn. Tôi thấy một cái tràng kỷ lớn nằm gần góc phòng, và khi tôi nằm đấy, tôi có thể thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ ở phía đông và phía nam. Chẳng thèm nghĩ ngợi hay quan tâm gì đến bụi bặm, tôi có thể dỗ được giấc ngủ của mình. Tôi nghĩ rằng tôi đang ở trong một giấc mộng. Tôi hy vọng như vậy, nhưng tôi sợ rằng những gì xảy ra tiếp theo cho tôi là sự thật, rất thật, diễn ra trong ánh sáng ban ngày rực rỡ, và tôi không thể tin rằng đó là một giấc mơ.
Tôi không ở một mình. Căn phòng vẩn như vậy, không hề thay đổi so với lúc tôi bước vào. Tôi có thể nhìn thấy dưới ánh trăng rực rỡ, những dấu chân của tôi trên sàn khi tôi làm xáo trộn những lớp bụi dày được tích lũy nơi đây. Đứng đối diện với tôi dưới ánh trăng là ba phụ nữ trẻ, ba tiểu thư qua cách ăn mặc và dáng vẻ của họ. Khi nhìn thấy họ, tôi nghĩ rằng tôi đang nằm mơ, bởi vì trên sàn nhà không hề có bóng của họ. Họ tiến lại gần tôi, quan sát tôi một lát rồi bắt đầu quay qua rì rầm với nhau. Hai người trong số họ ngăm ngăm, có những chiếc mũi chim ưng cao như bá tước, với những đôi mắt đen, trũng sâu, có vẻ như đỏ rực lên tương phản với ánh trăng vàng nhạt. Người phụ nữ còn lại xinh đẹp, đẹp tuyệt vời, tóc vàng và mắt lóng lánh như ngọc bích. Hình như tôi có biết khuôn mặt xinh đẹp này, nó nằm đâu đó trong những cơn ác mộng của tôi, nhưng lúc này tôi chưa thể xác định được là tôi đã gặp nó ở đâu và như thế nào. Cả ba đều có những hàm răng tuyệt vời, sáng trắng trên những đôi môi đầy quyến rủ màu hồng ngọc. Họ có một cái gì đó làm tôi không thể bình tâm được, nữa thèm muốn và một nữa là chết khiếp. Tôi cảm thấy trong tim mình một nỗi khao khát cháy bỏng, không thể cưỡng lại được là được họ hôn với những cặp môi đỏ rực kia. Có lẽ ghi lại những điều này là không hay, bởi một ngày nào đó có thể nó sẽ đập vào mắt Mina và làm cô ấy đau khổ, nhưng đó lại là sự thật. Họ thì thầm với nhau, rồi cả ba phá lên cười, những tiếng cười trong trẻo như tiếng bạc va vào nhau, nhưng cũng có cái gì đó rờn rợn trong những tiếng cười này. Những âm thanh này không thể phát ra từ những đôi môi mềm dịu của con người. Nó mang một âm điệu thô kệch, :Di tai giống như những kẻ vụng về chơi đàn. Người con gái xinh đẹp lắc đầu một cách đỏm dáng, và hai cô kia tranh cãi với cô ta.
Một người nói, "Nào! Bạn làm trước đi, và chúng tôi sẽ tiếp tục. Bạn bắt đầu là đúng rồi."
Người kia thêm vào, "Anh ta trẻ và khỏe mạnh. Cả ba chúng ta sẽ hôn anh ấy."
Tôi nằm yên trên giường, liếc nhìn dưới mi mắt cái niềm hạnh phúc đang sắp sửa diễn ra. Người con gái xinh đẹp bước lên và cuối sát xuống tôi đến nỗi tôi có thể cảm thấy ngực cô ta sát phía trên tôi. Cô ta phát ra những âm thanh dịu dàng, âu yếm cùng với một sự khát khao nồng cháy, kích động, nhưng kèm theo đó là một cái gì đó kinh khiếp dưới sự ngọt ngào, một cảm giác tấn công kinh khủng, giống như một kẻ ngửi thấy mùi máu.
Tôi không dám nhướng mi lên, nhưng có thể nhìn thấy được rất rõ qua khe mắt. Cô gái quỳ xuống trên đầu gối, cúi sát vào tôi với vẻ thèm muốn tột độ. Đó là một sự thèm muốn có cân nhắc, bao gồm sự xúc động và sự kinh tởm. Cô ta uốn éo cổ và liếm môi như một con thú. Tôi có thể thấy rõ dưới ánh trăng hơi nước lóng lánh trên đôi môi đỏ rực của cô ta, và cái lưỡi hồng đang liếm trên hàng răng trắng sắc nhọn. Đầu cô ta càng lúc càng cúi thấp, đôi môi cô ta lướt xuống dưới môi và cằm tôi và tiến nhanh về phía cổ họng của tôi. Khi cô ta ngừng lại, tôi có thể nghe thấy tiếng lưỡi cô ta vờn quanh môi và răng, tôi có thể cảm thấy hơi thở nóng hổi của cô trên cổ mình. Rồi làn da nhạy cảm nơi cổ họng của tôi ngứa lên như cảm giác bị ai đó cù vào, càng lúc càng gần, gần hơn nữa. Tôi cảm thấy đôi môi mềm mại và run rẩy của cô ta ở chỗ nơi da thịt nhạy cảm nhất trên cổ họng tôi, hàm răng lởm chởm cứng rắn chạm vào và ngừng lại. Tôi nhắm chặt mắt trong một cảm giác u mê không lý trí, chờ đợi với nhịp tìm thình thịch trong lồng ngực.
Nhưng trong một thóang, một cảm giác khác lướt ngang qua tôi nhanh như ánh sáng. Tôi cảm thấy hình như bá tước đã có mặt, đang giận dữ điên cuồng. Tôi mở mắt không tự chủ được và thấy cánh tay ghê gớm của ông đang chộp lấy cái cổ họng mảnh khảnh của cô gái xinh đẹp, bẻ ngược nó về sau với một sức mạnh kinh hồn, đôi mắt xanh chuyển sang sắc màu giận dữ, đôi hàm răng trăng nghiến ken két đầy cuồng nộ, đôi má cao đỏ rực lên điên cuồng. Nhưng mà, bá tước! Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng thấy một sự giận dữ và phẫn nộ đến như vậy, dù là ở ma quỷ đi nữa. Mắt ông ta rực lên. Màu đỏ trong mắt ông ta thật kinh khủng, cứ như rằng những ngọn lửa địa ngục đang cháy sáng phía sau chúng. Mặt ông ta trắng bệch ra một cách chết :Dc, và những đường gân nổi lên như những sợi dây kẽm. Đôi lông mày dày gần như chạm đến mũi, nhìn giống như một thanh kim loại trắng nóng nặng nề. Với một cử động giận dữ, ông ta ném mạnh cô gái đi và bước đến những cô còn lại như thể sắp ăn thịt họ.Dáng điệu của ông ta giống với những dáng điệu hống hách mà tôi đã từng thấy ông ta làm với những con sói. Bằng một giọng nói, dù nhỏ nhẹ như những lời thì thầm, nhưng chúng xé tung bầu không khí trong phòng như những tiếng chuông, ông ta cất tiếng,
"Ai cho phép bọn mày động đến nó, tất cả bọn mày? Ai cho phép bọn mày xuất hiện trước nó dù ta đã cấm? Cút đi, cả lũ bọn mày! Con người này thuộc về ta! Nếu còn dám động vào nó, hãy coi chừng ta."
Cô gái xinh đẹp, phá lên cười một cách đỏm dáng và vô lễ, quay lại và trả lời ông ta.
"Ông đã không bao giờ biết yêu. Ông chẳng bao giờ biết yêu cả!" Và những cô gái khác cũng hòa vào với những tiếng cười buồn bã, nặng nề, không hề có sức sống, chúng vang dội khắp phòng làm tôi gần như lợm giọng khi nghe chúng. Nó giống như sự khao khát đầy kinh tởm của ma quỷ.
Bá tước quay lại, sau khi quan sát khuôn mặt tôi một cách kỹ lưỡng, ông ta nhẹ nhàng thì thầm, "Phải, ta cũng có thể yêu vậy. Chúng mày đã tự biết điều đó trong quá khứ . Phải thế không? Tốt, ta hứa với tụi bây là khi ta xong việc với nó thì tụi bây sẽ được hôn nó nếu tụi mày muốn. Còn bây giờ thì cút! Cút! Ta phải đánh thức nó, có một số chuyện phải giải quyết đây."
"Như vậy là bọn tôi chẳng được gì tối nay ư?" một người trong bọn họ hỏi, với một giọng cười trầm buồn, cô ta chỉ về một cái túi mà ông ta đã vứt trên sàn nhà, đang chuyển động như thể có một vật gì sống bên trong. Ông ta gật đầu để trả lời. Một trong số những người phụ nữ nhảy đến và mở nó ra. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi thì bên trong nó là một tiếng khóc khẽ hổn hển của một nữa đứa bé đang thò ra. Người con gái tiến vòng quanh cái túi, còn tôi kinh hãi đến tột độ. Nhưng khi tôi nhìn lại, họ đã biến mất với cái túi khủng khiếp kia. Không có cánh cửa nào ở gần họ, và họ không thể đi khỏi mà tôi không nhìn thấy. Họ chỉ đơn giản là biến vào ánh trăng và đi xuyên qua cửa sổ, và tôi còn có thể thấy bên ngòai hình bóng họ mập mờ, thấp thóang trong chốc lát cho đến khi họ hòan tòan biến mất.
Sự khủng khiếp đã chiến thắng tôi, và tôi nằm gục đi, bất tỉnh nhân sự.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 05-03-2005, 02:32 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 4

Nhật ký của Jonathan Harker(tiếp theo)


Khi tỉnh giấc, tôi thấy mình đang nằm trên giường của mình. Nếu như không phải là tôi vừa trải qua một giấc mơ thì chắc là bá tước đã mang tôi trở về phòng. Tôi cố trấn an rằng mình vừa nằm mơ, nhưng điều đó không thể giải thích được những gì đang diễn ra bên tôi. Một ví dụ nhỏ để chắc chắn về việc này là quần áo tôi đã được thay ra và gấp lại, nhưng tôi không bao giờ gấp quần áo theo kiểu như thế. Đồng hồ của tôi được tháo ra, nhưng tôi luôn luôn đeo đồng hồ trong khi ngủ, và có rất nhiều những chi tiết đại loại như thế. Nhưng những gì đã xảy ra cho tôi khó tin đến nỗi, có thể giải thích là đầu óc tôi đang có vấn đề, là thần kinh tôi đang rối loạn. Tôi cần phải xem lại điều này. Chỉ có một điều khiến tôi vui mừng. Đó là việc nếu thật sự bá tước mang tôi về phòng và thay quần áo cho tôi, thì hẳn là ông ta làm việc đó hết sức vội vã, và chẳng kịp dòm ngó gì vào túi tôi. Và hiển nhiên là ông ta chưa biết về những gì tôi viết trong nhật ký, nếu không thì ông ta hẳn đã lấy hoặc hủy nó đi. Và bây giờ căn phòng của tôi, tôi đã nhìn nó với cảm giác như đây là nơi trú ẩn của mình. Dù nó vẩn tràn đầy những cảm giác đáng sợ, nhưng không có gì đáng khiếp hãi hơn những người phụ nữ kinh khiếp kia, những kẻ đang thèm khát máu của tôi.

Ngày 18 tháng 5:

Khi tôi trở xuống căn phòng nọ vào ban ngày để tìm hiểu sự thật. Cửa căn phòng nằm ở đỉnh cầu thang đã được đóng kín. Nó đã được chắn ngang bằng một thang gỗ để ngăn chặn những nỗ lực đẩy nó. Tôi thấy khóa cửa không được gài, nhưng nó đã được buộc chặt từ bên trong. Như vậy đó không phải là giấc mộng, đúng như tôi đã lo sợ, và cần phải hành động trên cơ sở của sự suy đóan này.

Ngày 19 tháng 5:

Tôi chắc chắn sắp phải vất vả đây. Tối hôm qua bá tước yêu cầu tôi viết ba bức thư với giọng điệu đầy đe dọa. Bức đầu tiên nói rằng tôi sắp xong công việc và sắp trở về nhà, bức thứ hai nói rằng tôi đã lên đường vào buổi sáng viết thư, và bức thứ ba nói rằng tôi đã rời lâu đài và đang ở Bistriz. Tôi muốn cưỡng lại, nhưng thấy rằng trong tình hình hiện nay, khi mà tôi hòan tòan nằm trong quyền lực của bá tước thì không có gì điên khùng hơn là tranh cãi công khai với ông ta. Và sự từ chối sẽ làm kích động mối nghi ngờ trong lòng ông ta và khiến ông nỗi giận. Ông ta hẳn đã biết là tôi biết quá nhiều, và để tôi sống là sẽ khiến ông gặp nguy hiểm. Cơ hội duy nhất của tôi là kéo dài các cơ hội. Có thể một sự kiện nào đó sẽ xảy ra và cho tôi cơ hội thóat hiểm. Tôi đã từng thấy sự giận dữ bùng lên trong mắt ông ta khi ông ném tung người phụ nữ xinh đẹp nọ. Ông ta giải thích với tôi là bưu điện ở đây hoạt động rất thất thường, và những bức thư của tôi nên viết từ bây giờ để khiến bạn bè đừng lo lắng. Ông ta còn bảo đảm với tôi một cách đầy tin tưởng rằng những bức thư trên sẽ được giữ tại Bistriz trong khi tôi còn ở lại đây, và sẽ được gửi đi vào những lúc thích hợp. Tranh cãi chỉ khiến ông ta có thêm những mối nghi ngờ mới, tôi giả vờ là đồng ý với những ý kiến của ông ta, và hỏi ông ta rằng tôi nên đề ngày tháng như thế nào trong thư.
Ông ta tính tóan trong một phút, rồi trả lời, "Bức đầu nên đề ngày 12 tháng 6, Bức thứ hai ngày 19 tháng 6 và bức thứ ba ngày 29 tháng 6."
Tôi biết rằng đó là quãng đời còn lại của tôi. Chúa hãy giúp tôi!

Ngày 28 tháng 5:

Có một cơ hội để trốn thóat, hay ít ra để gửi đôi chút tin tức về nhà. Một đoàn dân du mục Szgany vừa đến và cắm trại trong khuôn viên lâu đài. Đó là dân gipsy. Tôi đã từng viết về họ. Mặc dù vẩn liên kết với với các chủng tốc gipsy bình khác ở khắp nơi trên thế giới, thì ở nơi này, họ rất đặc biệt. Họ có hàng ngàn người ở Hungary và Transylvania, và luôn luôn sống ngòai vòng pháp luật. Họ có những luật lệ riêng, những quy định riêng về sự quý phái, và gọi nhau bằng những tên riêng. Họ chẳng sợ cái gì cả, chẳng có tín ngưỡng dù vẩn mê tín, và họ chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng digan riêng của mình.
Tôi sẽ viết về nhà vài lá thư và nhờ họ chuyển. Tôi đã thử làm quen với họ bằng cách nói chuyện qua cửa sổ. Họ giở nón, cúi rạp người chào tôi và làm nhiều dấu hiệu khác, tuy nhiên tôi hiểu về những điều này chẳng khác gì tôi hiểu về ngôn ngữ của họ, nghĩa là gần như chẳng hiểu gì…
Tôi đã viết xong những lá thư. Tôi viết cho Mina bằng những ký hiệu viết tắt và nhờ ông Hawkin chuyển giùm. Tôi giải thích cho Mina tình thế của tôi hiện nay, nhưng không nhắc đến những chuyện kinh dị mà tôi chỉ mới phỏng đóan. Nó sẽ làm nàng sốc và khiếp hãi đến chết nếu tôi nói hết với nàng. Như vậy, nếu những bức thư không được chuyển đi, thì bá tước cũng chẳng thể biết những bí mật của tôi cùng những gì tôi đã khám phá được…
Tôi đã gửi những lá thư. Tôi ném nó ra từ chấn song cửa sổ cùng với vài đồng vàng, và ra dấu là tôi muốn nhờ họ chuyển giùm. Người đàn ông nhặt được lá thư này đã đưa nó lên ngực, cúi chào rồi nhét nó vào chiếc mũ lưỡi trai. Tôi không thể làm gì hơn. Tôi quay về thư viện và bắt đầu viết. Khi bá tước không có mặt thì tôi vào đây để viết…
Bá tước đến. Ông ta ngồi cạnh tôi, và với một giọng nói hòa nhã nhất, ông ta lấy ra hai lá thư, "Những người Szgany vừa đưa cho tôi những thứ này, và dù tôi chẳng biết vì sao họ có, tất nhiên là tôi vẩn nhận. Đây!" – ông ta chắc là đã đọc chúng rồi – "Một bức từ ngài gửi cho ông bạn Peter Hawkins của chúng ta. Còn bức kia" – khi ông ta mở phong bì và nhìn thấy những ký hiệu lạ trong bức thư, mặt ông ta tối sầm lại, còn mắt ánh lên vẻ giận dữ man dại, - "bức thư kia là một vật ghê tởm, nó là tổn thương tình bạn và tinh thần hiếu khách của chúng ta! Nó không được ký tên. Tốt thôi! Nó sẽ chẳng gây nên vấn đề gì giữa chúng ta." Và ông ta bình thản đưa bức thư và phong bì vào lửa cho đến khi chúng hòan tòan được thiêu trụi.
Và ông ta tiếp tục, "Còn về bức thư gửi cho ngài Hawkins, hẳn nhiên là tôi sẽ gửi nó, vì nó là của ngài. Thư từ của ngài là bất khả xâm phạm đối với tôi. Xin ngài thứ lỗi vì tôi đã vô tình bóc nó ra. Mong ngài dán nó lại một lần nữa, có được không ạ?" Ông ta đưa bức thư cho tôi, và với một cái cúi chào nhã nhặn đưa cho tôi một phong bì trống.
Tôi chỉ có thể làm theo với sự im lặng. Khi ông ta rời khỏi phòng tôi nghe tiếng chìa khóa xoay nhẹ. Vài phút sau tôi tiến lại và xoay thử. Cửa đã bị khóa.
Một hoặc hai giờ sau, bá tước lặng lẽ đi vào phòng. Sự xuất hiện của ông ta đánh thức tôi, vì tôi ngủ trên ghế sofa. Ông ta rất nhã nhặn và vui vẻ, và do thấy tôi đang ngủ, ông nói, "Ồ, bạn tôi, ngài mệt ư? Hãy lên giường. Đấy là nơi tốt nhất để ngủ. Tôi không thể nói chuyện với ngài tối nay, do còn nhiều chuyện để làm, nhưng mong ngài hãy ngủ ngon giấc."
Tôi đi vào phòng và leo lên giường, và thật lạ lùng, ngủ ngon lành chẳng mộng mị gì. Sự tuyệt vọng đã mang lại sự bình thản cùng với nó.

Ngày 31 tháng 5:
Sáng nay khi thức dậy, tôi định lục trong túi của mình tìm một số giấy và phong bì cho vào túi, để khi có cơ hội thì lại viết, nhưng một lần nữa tôi được dành cho một sự ngạc nhiên và một cú sốc.

Tất cả những giấy tờ của tôi đã biến mất, tất cả những tài liệu của tôi, những giấy tờ vong lục liên quan đến xe lửa và du lịch, những tờ chi phiếu, nói tóm lại tất cả những gì cần thiết cho tôi khi tôi ra khỏi lâu đài đã bị mất sạch. Tôi ngồi suy nghĩ một lát, rồi một ý nghĩ chợt đến với tôi. Tôi vội kiểm tra lại valy quần áo trong tủ quần áo nơi tôi treo quần áo.
Tất cả những quần áo cần thiết để đi ra ngòai, bao gồm áo bành tô và chăn nệm, đã được lấy đi sạch. Thật là một kế hoạch đê hèn…

Ngày 17 tháng 6:

Sáng nay, khi tôi đang ngồi bên giường và cố trấn tĩnh lại đầu óc, thì tôi nghe thấy tiếng chân ngựa đi trên mỏm đá mà chẳng có tiếng roi, tiếng quất hay tiếng cãi cọ nào cả. Tôi vui mừng lao vội ra phía cửa sổ, thấy hai cỗ xe lớn, mỗi cỗ xe thắng tám con ngựa khỏe mạnh đang đi vào bãi rào. Điều khiển mỗi cổ xe là một người Slovak. với chiếc nón rộng, thắt lưng cài khuya to bản, mặc những bộ đồ da cừu dơ bẩn, và đôi giày cao. Họ cũng cầm trên tay mình những cây gậy. Tôi chạy vội về phía cửa, định lao xuống đại sảnh và nhập bọn với họ. Tôi cứ nghĩ rằng cửa sẽ mở ra đón họ. Nhưng một lần nữa tôi nhận một cú sốc. Cánh cửa phòng tôi đã được khóa từ bên ngòai.
Tôi liền chạy ngược về phía cửa sổ, la lớn về phía họ. Họ liếc nhìn tôi lạ lẫm và chỉ trỏ. Nhưng cái gã "hetman" của người Szgany tiến ra, thấy họ đang chỉ trỏ về phía tôi, hắn bèn nói điều gì đó và cười phá lên.
Do đó, những nỗ lực của tôi, những tiếng kêu gào thảm thương, những lời khẩn nài tuyệt vọng, chẳng có tác dụng gì. Họ cương quyết quay đi. Những cỗ xe ngựa chở nặng những cái hộp vuông, được buộc bằng những sợi dây thừng dày. Rõ ràng chúng rỗng bởi vì những người Slovak cầm chúng dễ dàng và qua những tiếng vang khi họ cẩu thả lôi chúng đi.
Khi lấy hàng xuống hết và chất thành một khối lớn trên một góc lớn trên bãi rào, những người Slovak nhận tiền từ những người Szgany, nhổ nước bọt lên nó để cầu may mắn, chậm chạp quay đầu ngựa. Chỉ một lúc sau, tôi nghe tiếng roi ngựa của họ chìm dần và xa khuất.

Ngày 24 tháng 6:



Tối qua bá tước từ giã tôi sớm, và tự khóa cửa nhốt mình trong căn phòng của ông ta. Liền đó, tôi bạo dạn chạy ra cầu thang lượn và nhìn ra cửa sổ trông ra hướng Nam. Tôi nghĩ dù sao cũng nên trông chừng bá tước về những gì sắp xảy ra. Những người Szgany đang tụ tập trong lâu đài và làm một số công việc gì đó. Tôi đóan ra được, vì thỉnh thoảng tôi nghe những tiếng động cố che giấu của cuốc và thuổng. Dù nó là cái gì đi nữa, thì đó cũng đang đi tới tận cùng của một kế họach đê hèn tàn nhẫn.
Tôi đứng tần ngần ở cửa sổ khỏang nữa giờ thì chợt thấy cái gì đó thò ra ở cửa sổ của bá tước. Tôi nép người lại và quan sát chăm chú, thì thấy tòan bộ một thân người thò ra. Lại một cú sốc mới cho tôi khi tôi thấy ông ta đang mặc bộ quần áo mà tôi đã mặc khi tới đây, và quàng qua vai ông là cái túi kinh khiếp mà tôi thấy những người phụ nữ kia mang đi. Tôi không còn nghi ngờ gì về mục đích của ông ta khi mặc quần áo của tôi! Đây là một kế hoạch độc ác mới của bá tước. Ông ta sẽ để cho mọi người nghĩ là họ đã thấy tôi, tạo ra một bằng chứng hiển nhiên là tôi đang ở trong thị trấn và dân làng đang chuyển thư cho chính tôi, và rồi bất kỳ những gì độc ác ông ta sắp làm sẽ được dân địa phương quy tội cho tôi.
Điều làm tôi phát điên lên là mọi thứ cứ tiếp tục diễn ra trong khi tôi phải đứng câm nín tại chỗ, làm một tù nhân thật sự, mà thậm chí còn không được bảo vệ hay an ủi bằng bất bất cứ luật pháp nào, thậm chí cả luật pháp dành cho kẻ phạm tội.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 05-03-2005, 02:33 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tôi nghĩ rằng mình nên đợi đến khi bá tước quay về, và tôi kiên trì đứng bên cửa sổ một lúc lâu. Chợt tôi bắt đầu nhận ra rằng trong những tia sáng mặt trăng xuất hiện những đốm nhỏ li ti. Chúng giống như những hạt bụi cực bé, và chúng đang gom dần lại thành một đám mây lờ mờ. Tôi nhìn chúng với một cảm giác dễ chịu, và cảm thấy cõi lòng mình đang thanh thản trở lại. Tôi trườn người ra phía lỗ châu mai, tạo cho mình một tư thế thoải mái để tận hưởng trò chơi của không khí này.
Chợt một tiếng sói tru trầm và thảm thiết vang lên phía xa trong thung lũng, vượt khỏi tầm nhìn của tôi, làm tôi bật dậy. Nó vang lên càng lúc càng lớn trong tai tôi, và đám mây bụi kia chuyển sang những hình dạng khác như thể chúng đang nhảy múa dưới ánh trăng. Tôi cảm thấy tôi phải đấu tranh dữ dội để chống lại bản năng của chính mình. Tâm hồn xáo trộn, và một nữa tri giác của tôi đang lồng lộn đòi đáp lại lời kêu gọi của tiếng sói tru kia. Tôi đang bắt đầu bị thôi miên!
Đám bụi kia nhảy múa càng lúc càng nhanh hơn. Ánh trăng rung lên như muốn đẩy tôi vào cái khối mờ ảo u ám đó. Càng lúc chúng càng tụ lại và định hình dần thành hình dạng lờ mờ của các bóng ma. Tôi chợt chòang tỉnh, phục hồi các giác quan của mình và gào lên một tiếng lớn làm rung động cả vùng đất.
Những bóng ma đang định hình dần từ những tia sáng trăng kia, chính là những phụ nữ ma quái mà tôi đã từng chịu đày đọa.
Tôi chạy cuống cuồng về phòng mình. Tôi cảm thấy đó là một nơi an tòan vào lúc này, nơi không có những ánh trăng mà chỉ có ngọn đèn để phát ra ánh sáng.
Vài giờ sau, tôi nghe những tiếng động từ phía phòng bá tước, giống như những tiếng than van rền rĩ bị chặn lại. Rồi tiếp sau đó là một khỏang yên lặng sâu lắng, rờn rợn làm tôi ớn lạnh. Với nhịp tim đập thình thịch, tôi thử mở cửa, nhưng nó đã khóa chặt tù nhân của mình. Không thể làm gì được nữa, tôi chỉ đơn giản ngồi xuống và gào lên.
Khi ngồi xuống tôi không nghe thấy những tiếng động nào trong vùng đất, ngoại trừ tiếng rền rĩ than van của một người phụ nữ. Tôi lao vội về phía cửa sổ, kéo màn lên, nhìn qua các chấn song.
Thật sự là có một người phụ nữ, đầu tóc rối bù, hai tay giữ chặt tim trong tình trạng mệt lử vì cố chạy. Bà ta với lên một góc của cửa chính. Khi nhìn thấy mặt tôi, bà ta ném người tới trước, gào lên với một giọng chất đầy sự đe dọa, "Quát vật, trả lại con cho tao!"
Bà ta quỵ người trên đầu gối, đưa tay lên, gào lại câu nói một lần nữa với một âm sắc như bóp nghẹt trái tim của tôi. Rồi bà ta xé tóc, đấm ngực, buông mình vào những hành vi của sự đau khổ tột cùng. Cuối cùng, bà ta lại phóng người tới. Tôi không còn thấy bà ta, như có thể nghe thấy những cánh tay trần của bà đang đấm thình thịch vào cửa.
Rồi từ phía trên cao, có thể là trên đỉnh tháp, vang lên những tiếng thì thầm khô khan, cộc cằn của bá tước. Có lẽ tiếng gọi của ông ta được trả lời bởi những tiếng tru dài và rộng của bầy sói. Vài phút sau, một đám đông sói xuất hiện, như một lũ quỷ địa ngục được dìm lại và bung ra, lao ào ào vào lối đi lớn đi vào bờ rào.
Không hề có tiếng kêu thét của người phụ nữ, chỉ còn những tiếng tru ngắn của lũ sói. Một lúc sau, chúng tản đi và liếm mép.
Tôi không thương hại người đàn bà. Tôi biết với những gì xảy ra cho con bà, bà thà chết còn hơn.
Tôi sẽ làm gì? Tôi có thể làm gì? Làm sao tôi trốn thóat được những điều khủng khiếp của đêm đen, của những điều đen tối và kinh sợ này.

Ngày 25 tháng 6:

Nào ai biết được khi con người phải chịu những điều đau khổ từ đêm đen thì buổi sáng mang lại cho trái tim và mắt anh ta những cảm xúc ngọt ngào và thân mến như thế nào. Khi mặt trời lên cao vào buổi sáng, đập vào đỉnh của cái cổng chính lớn đối diện với tôi, một đốm sáng từ nó chạm vào tôi như một sứ giả mang lại những ánh sáng tốt lành. Những nỗi sợ hải của tôi tan đi thành những lớp vỏ hư ảo của những tia nắng ấm áp.
Tôi phải hành động dưới sự khuyến khích của ánh sáng ban ngày đang rọi trên mình. Tối hôm qua một trong những lá thư đề ngày tháng sẵn của tôi đã được gửi, bắt đầu cho những kế hoạch đẫm máu sẽ xóa sạch mọi dấu vết về sự tồn tại của tôi trên trái đất.
Đừng nghĩ về nó nữa.Hành động thôi!
Tôi luôn luôn bị quấy rầy bởi những sự đe dọa nguy hiểm và kinh sợ vào ban đêm. Tôi chưa hề gặp bá tước vào ban ngày. Phải chăng ông ta ngủ trong khi những người khác thức và thức trong khi những người khác ngủ? Nếu tôi có thể vào được phòng ông ta nhỉ! Nhưng không thể được. Cửa luôn khóa chặt, vô phương.
Thật ra, vẩn còn một cách, nếu như tôi dám làm. Cái nơi mà hắn đi ra được thì liệu người khác cũng có thể làm được hay không? Tôi đã thấy hắn trườn ra từ cửa sổ. Vậy thì sao không bắt chước mà chui vào cửa sổ của hắn? Cách này liều thật, nhưng tôi sẽ còn phải liều hơn nữa. Tôi sẽ đánh cuộc với nó. Điều tệ nhất sẽ là cái chết, nhưng cái chết của con người không giống như cái chết của con bê. May ra tôi sẽ còn sống lại vào kiếp sau. Chúa sẽ giúp cho kế hoạch của tôi! Tạm biệt, Mina, nếu như tôi thất bại. Tạm biệt, những người bạn trung thực và người cha thứ hai của tôi. Tạm biệt tất cả, và sau tất cả là Mina!
Đêm khuya, cùng ngày. – Tôi đã cố hết sức, và Chúa đã giúp tôi trở về phòng mình an tòan. Tôi phải ghi lại thật chi tiết theo đúng thứ tự. Tôi lấy hết can đảm của mình tiến ra cửa sổ, và bắt đầu leo ra ngòai. Những tảng đá to lớn và lởm chởm, vôi vữa đã gần như trôi sạch dưới sự bào mòn của thời gian. Tôi tháo giày, và bắt đầu cuộc mạo hiểm của mình. Tôi liếc nhìn xuống một lần, và biết chắc rằng một cái nhìn bất chợt thoáng qua nữa sẽ khiến cái vực sâu ghê gớm này chiến thắng tôi, và tôi tránh không nhìn nó. Tôi xác định được phương hướng và khỏang cách đến chỗ cửa sổ của bá tước khá tốt, và dồn hết mọi sức lực của mình, tận dụng mọi cơ hội có thể có. Tôi gần như quá kích động đến nỗi chẳng còn cảm thấy hoa mắt :Dng mặt gì nữa, và hình như chỉ một lúc sau là tôi đã đứng trên ngưỡng cửa sổ của phòng bá tước và cố với lấy khung cửa. Tuy nhiên, tôi cảm thấy vô cùng xúc động , khi tôi cúi xuống và trượt người vào trong cửa sổ. Sau đó tôi nhìn quanh phòng tìm bá tước, và bắt đầu cuộc khai phá với sự ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Căn phòng trống rỗng! Trong phòng là một số vật dụng nghèo nàn, lạ lẫm và có vẻ chưa bao giờ được dùng đến.
Đồ vật trong phòng ở cùng tình trạng như ở trong căn phòng phía Nam, nghĩa là phủ đầy bụi. Tôi tìm chìa khóa, nó không cắm trong ổ khóa, và cũng chẳng thấy nó ở đâu cả. Vật duy nhất tôi tìm thấy là một khối vàng khổng lồ chất ở một góc, đủ các loại tiền vàng, Ý, Anh, Áo, Hungarian, Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, bao phủ bởi một lớp bụi, hình như đã nằm ở đây lâu lắm rồi. Không có loại nào ít hơn ba trăm năm cả. Cũng có các loại tiền đồng, đồ trang sức và nữ trang, nhưng chúng đã cũ kỹ và phai màu cả. Tại một góc phòng ở một cái cửa lớn, và tôi thử tiếp. Cái mà tôi muốn tìm, là chìa khóa phòng hoặc chìa khóa cửa ngòai đều chưa tìm được, và tôi phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc những cố gắng của tôi xem như bỏ đi. Cửa mở, và dẩn vào một lối đi bằng đá qua một cầu thang uốn khúc đi dần xuống.
Tôi đi xuống, cẩn thận từng chút một. Tôi đi trên một cầu thang tăm tối, chỉ soi sáng lờ mờ. Cuối cầu thnag là một lối đi hình ống tối tăm, tỏa ra một thứ mùi chết :Dc, bệnh hoạn, một thứ mùi của những thế giới cổ xưa đang quay về. Khi tôi đi qua lối đi này, cái mùi trên càng nặng nề và rõ hơn. Cuối cùng tôi đẩy một cánh cửa nặng nề đã hé mở, và đi vào một nhà thờ cổ hoang tàn, mà bây giờ đã được dùng làm bãi tha ma. Trần nhà bị vỡ, hai mảnh rơi xuống trên hầm mộ, nhưng nền nhà thì vừa mới được đào bới mới đây thôi. Giữa lòng đất là những cái hộp lớn bằng gỗ rõ ràng vừa được mang đến bởi những người Slovak.
Không có ai ở đây, và tôi cẩn thận dò xét từng inch một, sao cho không bỏ sót thứ gì. Tôi thậm chí còn cả gan lần xuống hầm mộ, dù ở đây ánh sáng chỉ lờ mờ run rẩy. Tôi vừa kiểm tra vừa run rẩy đến chết khiếp cả người. Ở hai cái mộ đầu tiên tôi chẳng tìm thấy gì đặc biệt, ngòai hai mảnh áo quan vỡ vụn và hàng đống bụi. Tuy nhiên ở cái thứ ba thì có lẽ tôi tìm thấy những thứ gì đó.
Ở đây, trong một cái hộp lớn, ở đây có đến mười lăm cái tất cả, nằm trong một vũng đất mới đào, là bá tước Dracula đang nằm! Hắn có vẻ chết hoặc đang ngủ. Tôi không thể khẳng định được, vì mắt hắn vẩn mở trừng trừng và bất động, nhưng không có cái vẻ lạnh giá của cái chết, đôi má thì ấm nóng dù xanh xao. Môi vẩn dỏ rực như thường lệ. Nhưng chẳng hề có sự chuyển động nào, không mạch, không hơi thở, không nhịp đập của tim.
Tôi cúi xuống hắn, thử tìm một dấu hiệu nào đó của sự sống, nhưng vô hiệu. Hắn không thể nằm đây lâu được, do dấu đất cho thấy là nó mới được đào lên vài giờ trước. Phía mặt kia của cái hộp được đục thủng vài lỗ đây đó. Tôi nghĩ là hắn giữ chìa khóa trên người, nhưng khi tôi vừa thử lục tìm, thì những con mắt chết ấy chợt trở nên căm tức, làm cho tôi gần như bất tỉnh. Tôi chạy vội ra khỏi nơi đó, rời khỏi phòng bá tước bằng cửa sổ, trườn trở lại trên những bờ tường của lâu đài. Trở về phòng mình, tôi buông mình xuống giường và suy nghĩ.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 05:21 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.