Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #31  
Old 11-04-2012, 02:23 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 22

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 22

QUẦN HÙNG QUI TÂM ƯỚC TAM CHƯƠNG


Oán thù càng kết càng chồng,
Lửa mê muốn dập từ lòng đi ra.

Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn của phái Nga Mi nói với các đệ tử:
- Thanh niên này võ công cực kỳ quái dị nhưng hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đã kiềm chế được y, khiến y bị bó chân bó tay. Võ công Trung Nguyên bác đại tinh thâm, bàng môn tả đạo của Tây Vực đời nào sánh kịp. Lưỡng nghi hóa tứ tượng, tứ tượng hóa bát quái, chính biến tám tám sáu mươi tư chiêu, kỳ biến tám tám sáu mươi tư chiêu, chính kỳ tương hợp, sáu mươi bốn lần sáu mươi bốn thành ra bốn nghìn chín mươi sáu cách biến hóa. Võ công thiên hạ biến hóa tuy có phức tạp, nhưng cũng không đâu bằng được.
Từ khi Trương Vô Kỵ hạ trường tới giờ, Chu Chỉ Nhược trong lòng khắc khoải. Trong đám môn hạ phái Nga Mi, nàng vốn được Diệt Tuyệt sư thái cưng chiều nên đã tâm truyền Dịch kinh nguyên lý, bây giờ liền lớn tiếng nói:
- Sư phụ, chính phản lưỡng nghi này, chiêu số tuy nhiều thật, nhưng cũng không ra khỏi thái cực hóa từ đạo lý âm dương lưỡng nghi. Đệ tử xem bốn vị tiền bối này chiêu số quả thật tinh diệu, nhưng lợi hại nhất chính là bộ pháp phương vị ở chân.
Tiếng nàng trong trẻo, mỗi tiếng đều dùng khí từ đan điền chậm rãi nói ra, Trương Vô Kỵ tuy đang ra sức chiến đấu nhưng nghe vẫn rõ ràng, liếc mắt thấy người nói chính là Chu Chỉ Nhược, không khỏi xao xuyến: “Tại sao nàng lại nói lớn thế, chẳng lẽ cố ý chỉ điểm cho mình chăng?”.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Mắt con nhìn quả không sai, đã thấy được chỗ tinh yếu trong võ công các vị tiền bối.
Chu Chỉ Nhược tự nói một mình:
- Dương chia ra Thái Dương, Thiếu Âm, âm chia ra Thiếu Dương, Thái Âm, đó là tứ tượng. Thái Dương gồm Càn Đoài, Thiếu Âm gồm Ly Chấn, Thiếu Dương gồm Tốn Khảm, Thái Dương gồm Cấn Khôn. Càn ở phương Nam, Khôn ở phương Bắc, Ly ở phương Đông, Khảm ở phương Tây, Chấn là Đông Bắc, Đoài là Đông Nam, Tốn là Tây Nam, Cấn là Tây Bắc. Từ Chấn đến Càn là thuận, tự Tốn đến Khôn là nghịch.
Nàng bỗng lớn tiếng hỏi:
- Sư phụ, đúng như thầy đã dạy: Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, lôi phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thác. Sổ vãng giả thuận, tri lai giả nghịch[1]. Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp của phái Côn Lôn đi từ Chấn vị đến Càn vị là thuận, còn Phản Lưỡng Nghi đao pháp của phái Hoa Sơn, đi từ Tốn vị đến Khôn vị là nghịch, sư phụ, có phải thế không?
Diệt Tuyệt sư thái thấy học trò vạch ra được như thế thật hả dạ, gật đầu nói:
- Học trò như con không uổng công ta dạy dỗ.
Bà ta trước nay rất ít khi khen ai trước mặt người ngoài, hai câu như thế là đã tưởng lệ tột cùng rồi.
Diệt Tuyệt sư thái vì quá vui mừng nên không để ý tại sao học trò mình lại lớn tiếng, hai người đối diện nói chuyện việc gì phải dùng trung khí để truyền âm thanh ra xa? Thế nhưng chung quanh người lưu tâm đến chuyện hơi khác thường đó không phải ít. Chu Chỉ Nhược thấy nhiều cặp mắt đổ dồn vào mình, giả vờ làm như ngây thơ vô tình, vỗ tay reo lên:
- Sư phụ, đúng rồi, đúng rồi. Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi ta trong tròn có vuông, âm dương tương thành. Bên ngoài tròn là dương, bên trong vuông là âm, tròn mà động là trời, vuông mà tĩnh là đất, thiên địa âm dương, vuông tròn động tĩnh, so với chính phản lưỡng nghi xem ra còn hơn một mức.
Diệt Tuyệt sư thái trước nay vẫn tự cao tự đại cho rằng Tứ Tượng Chưởng của phái Nga Mi là tuyệt học trong thiên hạ, nghe Chu Chỉ Nhược nói thế, chính là gãi đúng chỗ ngứa, mỉm cười nói:
- Đạo lý thì thế đấy, nhưng cũng còn phải xem công lực tu tập sử dụng thế nào.
Về phương vị bát quái, Trương Vô Kỵ lúc còn nhỏ đã từng nghe phụ thân giảng qua nhưng sở học thật là nông cạn, chỉ từ khi trong đường hầm đọc di thư của Dương Đính Thiên, được Tiểu Siêu chỉ điểm, mới biết được vị trí của hướng Vô Vọng. Tới lúc này chàng nghe Chu Chỉ Nhược nói về lẽ thuận nghịch trong tứ tượng, trong lòng chấn động, để ý đến bộ pháp chiêu số của vợ chồng họ Hà và hai ông già cao lùn, quả nhiên biến hóa từ tứ tượng bát quái mà ra, thảo nào Càn Khôn Đại Na Di của mình không sao thi triển được.
Thì ra võ học cao thâm nhất của Tây Vực gặp phải sở học tinh diệu nhất của Trung Thổ, cứ hình thức mà nói thì nghĩa lý của Trung Thổ sâu xa hơn. Trương Vô Kỵ sở dĩ đến bây giờ chưa bị thua, chỉ vì chàng đã luyện võ công Tây Vực đến mức tối cao rồi, còn vợ chồng họ Hà và hai ông già lùn cao sở học Trung Thổ còn nông cạn.
Chỉ trong nháy mắt, trong đầu chàng nổi lên bảy tám ý niệm, tìm ra bảy tám phương pháp, cách nào cũng chỉ ra tay là đánh bại bốn người này ngay.
Thế nhưng chàng lại nghĩ thầm: “Nếu như ngay bây giờ mình thi triển, chỉ e Diệt Tuyệt sư thái lại đổ tội cho Chu Chỉ Nhược, bà ni cô này lòng dạ độc ác, việc gì mà chẳng dám làm? Ta không nên làm liên lụy đến Chu cô nương”.
Thành ra chiêu thức trên tay không đổi thay chút nào, chàng chỉ chăm chú quan sát chiêu số của bốn địch thủ, để học thêm tổng cương về võ học của họ, thấy chỗ nào cũng có đường đi nước bước, không như lúc đầu chỉ thấy rối như tơ vò, không biết đâu mà mò.
Chu Chỉ Nhược thấy chàng không thay đổi chút nào, trong bụng hơi băn khoăn, nghĩ thầm: “Chàng đang hết sức chống đỡ kẻ địch, không thể nào trong chốc lát mà hiểu được chỗ tinh vi đó”. Lại thấy vợ chồng họ Hà mỗi lúc một ép tới gần hơn, Trương Vô Kỵ xem chừng càng lúc càng khó chống đỡ nên lớn tiếng nói:
- Sư phụ, đệ tử xem ra bước sắp tới của Thiết Cầm tiên sinh sẽ là cung Qui Muội, không biết có phải hay không?
Diệt Tuyệt sư thái chưa kịp trả lời, Ban Thục Nhàn đã dựng ngược mày tằm, quát lớn:
- Này tiểu cô nương của phái Nga Mi, tiểu tử này là gì của cô mà cô lại nối giáo cho giặc vậy? Đừng có ở ngoài xía vào, phái Côn Lôn ta không vừa đâu nhé?
Chu Chỉ Nhược bị bà ta nói trúng tim đen, mặt đỏ bừng. Diệt Tuyệt sư thái cũng lớn tiếng mắng:
- Chỉ Nhược, không được lắm lời, phái Côn Lôn người ta không phải vừa, con không nghe sao?
Hai câu đó giọng điệu rõ ràng là bênh học trò. Trương Vô Kỵ trong lòng thật là cảm kích, nghĩ thầm nếu còn cố gắng dây dưa, Chu Chỉ Nhược lại nghĩ cách giúp mình nữa, thể nào Diệt Tuyệt sư thái cũng nhìn ra, nàng sẽ thật là nguy hiểm. Chàng cất tiếng cười ha hả, nói:
- Ta là bại tướng dưới phái Nga Mi, đã từng bị Diệt Tuyệt sư thái bắt giữ, phái Nga Mi hiển nhiên cao thâm hơn phái Côn Lôn nhiều.
Chàng đi qua bên trái hai bước, tay phải cầm cành mai phất ra, một luồng kình lực đánh ngay vào sau lưng ông già lùn. Chiêu này cả phương vị lẫn thời khắc đều hết sức nhịp nhàng khít khao, ông già lùn không điều khiển được thân mình, cương đao nhắm ngay vai Ban Thục Nhàn chém xuống. Thì ra Trương Vô Kỵ đã sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, cũng theo đúng phương vị bát quái, đẩy luôn thế đao của ông già lùn ra chỗ khác. Ban Thục Nhàn vội thu kiếm về đỡ, nghe phụp một tiếng, đao của ông già cao cũng chém tới luôn.
Hà Thái Xung vội tiến lên bảo vệ cho vợ, giơ kiếm gạt luôn đao ông già cao ra ngoài, Trương Vô Kỵ liền rút tay về đánh tới, dẫn đao của ông già lùn đâm vào bụng dưới y. Ban Thục Nhàn giận lắm, soẹt soẹt soẹt ba kiếm, áp đảo ông già lùn đến cuống cả chân tay. Ông già lùn kêu lên:
- Đừng mắc kế của tiểu tử này.
Hà Thái Xung lập tức tỉnh ngộ, quay kiếm lại đâm vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ xoay chuyển càn khôn, thế kiếm đi đến giữa đường liền đổi hướng, nghe bụp một tiếng đâm luôn vào cánh tay bên trái ông già cao. Ông già cao đau quá kêu lên oai oái, giơ đao nhắm ngay đầu Hà Thái Xung bổ xuống, ông già lùn vội vung đao gạt ra, quát lên:
- Sư đệ đừng có lộn xộn, đó là tên tiểu tử này tác quái, ối trời...
Thì ra ngay lúc đó. Trương Vô Kỵ đã chuyển hướng kiếm của Ban Thục Nhàn, đâm vào sau vai ông già lùn.
Chỉ trong khoảnh khắc, Hoa Sơn nhị lão đều trúng kiếm thụ thương, người đứng xem chung quanh đều náo loạn cả lên. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ phất nhẹ cành mai, tay đi xéo theo, dẫn đao của ông già cao chém vào mạng sườn Ban Thục Nhàn, còn kiếm Hà Thái Xung thì đâm vào lưng ông già lùn. Đấu thêm vài hiệp nữa, chẳng hiểu sao kiếm của vợ chồng Hà Thái Xung gạt lẫn nhau, song đao của hai ông già cũng người nọ chém người kia.
Tới lúc này thì mọi người đã thấy rõ là Trương Vô Kỵ đã dẫn dắt khiến binh khí của bốn người mất hết phương hướng, thế nhưng chàng sử dụng phương cách nào thì không ai có thể giải thích được. Chỉ có Dương Tiêu đã từng học chút công phu sơ bộ Càn Khôn Đại Na Di nên nhìn ra được chút manh mối, nhưng cũng không tin nổi là chàng thanh niên này lại học được thần công.
Trên đấu trường vợ chồng đánh lẫn nhau, đồng môn chém loạn xạ, càng lúc càng ác liệt. Ban Thục Nhàn không ngớt hô hoán:
- Chuyển qua Vô Vọng, tiến qua vị trí Mông, cướp lấy chỗ Minh Di...
Thế nhưng Càn Khôn Đại Na Di bốn phương tám hướng chỗ nào cũng bao trùm cả, dù họ có chuyển biến thay đổi phương vị cách nào, dù cố gắng cách mấy thì mỗi khi sử dụng đao kiếm, đều không cách nào có thể điều khiển được mà vẫn chém vào bên mình. Ông già cao kêu lên:
- Sư ca ra tay nhẹ một chút được không?
Ông già lùn đáp:
- Ta chém tên tiểu tặc chứ có chém ngươi đâu.
Ông già cao lại lớn tiếng:
- Sư ca cẩn thận nhé, đao này đệ chém e rằng chuyển hướng...
Quả nhiên không ngoài dự liệu, nói chưa dứt câu, thanh đao trên tay y đã chém xiên xiên vào ngang lưng ông già lùn. Hà Thái Xung nói:
- Nương tử, tên tiểu tặc này...
Ban Thục Nhàn vứt kiếm xuống đất, nghe keng một tiếng. Ông già lùn thấy vậy hiểu ngay, nếu như dùng quyền cước bắt nắm, tên tiểu tử này chắc không thể nào sử dụng tà pháp, bèn ném đơn đao xuống, giơ tay đấm vào ngực Trương Vô Kỵ. Nào ngờ nghe vù một tiếng, trường kiếm của Hà Thái Xung đâm luôn vào mặt. Ông già lùn trong tay không có binh khí vội vàng hụp xuống né tránh. Ban Thục Nhàn kêu lên:
- Vứt hết binh khí.
Hà Thái Xung vung tay một cái, ném trường kiếm ra tận xa. Ông già cao cũng bắt chước vứt đao đi, dùng cầm nã thủ chộp vào sau ót Trương Vô Kỵ. Năm ngón tay bóp chặt, trong tay đã bắt được một vật cứng ngắc, nhìn lại hóa ra cương đao của chính mình. Thì ra Trương Vô Kỵ đã bắt lấy nhét lại vào tay ông ta. Ông già cao kêu lên:
- Ta không dùng binh khí.
Rồi cố sức vứt xuống đất. Trương Vô Kỵ nghiêng người bắt lấy, lại nhét vào tay ông ta. Qua mấy lần như thế, ông già cao không sao có thể vứt bỏ binh khí được, sợ hết hồn, càng nghĩ càng thấy lạ lùng, cười lên sằng sặc nói:
- Con mẹ nó, tiểu tử thối tha này đúng là tà môn.
Khi đó ông già lùn và vợ chồng Hà Thái Xung cùng thi triển quyền cước, chia ra tấn công Trương Vô Kỵ. Quyền chưởng của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn đâu có kém gì binh khí, một cú đấm, một ngọn đá đều uy lực rất lớn. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại trơn như cá đang bơi, luồn lách chỉ trong tơ tóc, thỉnh thoảng phản kích lại một chiêu nửa thức, lại làm cho ba người phải tránh né thật khó khăn.
Đến khi đó, bốn người biết rằng chẳng hi vọng gì thắng được Trương Vô Kỵ, ai cũng chỉ mong rút lui êm thắm mà thôi. Ông già cao đột nhiên hét lên:
- Xú tiểu tử, coi ám khí đây.
Ông ta khạc một cái, một bãi đờm nhắm ngay Trương Vô Kỵ phun tới. Trương Vô Kỵ nghiêng mình tránh qua, ông già cao nhân cơ hội đó ném cương đao về phía sau, cười nói:
- Để xem ngươi... ối trời... xin lỗi nhé.
Thì ra Trương Vô Kỵ tay trái kéo luôn, lôi luôn Ban Thục Nhàn tới, nghe bẹt một tiếng, cục đờm của ông già cao trúng ngay giữa mặt bà ta. Ban Thục Nhàn giận quá, mười ngón tay chồm tới vồ Trương Vô Kỵ. Ông già lùn cũng một tay chộp tới, chặn đường không cho Trương Vô Kỵ tháo lui. Ông già cao và Hà Thái Xung thấy có cơ hội tốt, cùng xông lên, chắc ăn lần này bao vây được rồi, thể nào cũng bắt được địch thủ, nên cả bọn tay nắm, bóp, bẻ, vặn, tuy xem ra có chiều bất nhã, nhưng để chàng không cách nào chạy thoát được.
Hai tay Trương Vô Kỵ đồng thời thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, hú lên một tiếng, thân hình bay vọt lên cao, trên không trung lượn một vòng, nhẹ nhàng đáp xuống bên ngoài cả trượng.
Chỉ thấy Hà Thái Xung ôm lưng vợ, Ban Thục Nhàn túm vai chồng, còn hai ông già lùn cao ôm chặt lấy nhau, bốn người đang lăn lộn dưới đất. Vợ chồng họ Hà thấy không ổn, vội buông tay nhỏm dậy. Ông già cao kêu lên:
- Bắt được rồi, xem lần này ngươi chạy được đi đâu? Ối ối không phải...
Ông già lùn giận dữ quát:
- Bỏ ra mau.
Ông già cao đáp:
- Sư ca không bỏ tay ra, làm sao đệ bỏ ra được?
Ông già lùn nói:
- Nói bớt đi một câu có được không?
Ông già cao đáp:
- Bớt đi một câu, dĩ nhiên là được, có điều...
Ông già lùn buông tay ra, hậm hực nói:
- Đứng lên.
Ông già cao đối với sư ca vốn e ngại, vội vàng rụt tay lại, cả hai cùng nhỏm dậy. Ông già cao nói:
- Này, xú tiểu tử, cái này không phải là tỉ võ, chỉ là tà pháp, đâu có gì là anh hùng?
Ông già lùn biết rằng nếu đấu thêm nữa chỉ càng thêm bẽ mặt, ôm quyền hướng về Trương Vô Kỵ nói:
- Các hạ thần công cái thế, lão hủ từ khi cha sinh mẹ để đến giờ chưa từng gặp, phái Hoa Sơn xin chịu thua.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ đáp:
- Xin lỗi, vãn bối may mắn, nếu chẳng được bốn vị tiền bối thủ hạ dung tình thì đã chết vì chính phản lưỡng nghi đao kiếm rồi.
Câu nói đó chẳng phải nói khiêm tốn lấy lòng, nếu Chu Chỉ Nhược không chỉ điểm, chàng hẳn khó mà sống sót. Dẫu rằng sau cùng đã thắng, đối với võ công của bốn người này quả không dám coi thường chút nào, nhưng cũng biết cả bốn đều xuất toàn lực, thành thử “thủ hạ dung tình” cốt để cho dễ nghe thôi.
Ông già cao đắc ý, mặt mày hớn hở nói:
- Thế sao? Ngươi cũng biết thắng chẳng qua là may mắn thôi ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xin hỏi tôn tính đại danh của hai vị? Ngày sau nếu gặp lại cho tiện đường xưng hô.
Ông già cao đáp:
- Sư ca của ta là Uy Chấn...
Ông già lùn quát lớn:
- Câm mồm.
Rồi quay sang Trương Vô Kỵ nói:
- Tướng của đội quân đánh thua, xấu hổ không có đất mà dung, tiện danh đâu có đáng nhắc tới?
Nói xong quay trở lại đám người của phái Hoa Sơn. Ông già cao phủi tay cười đáp:
- Thắng bại là chuyện thường của binh gia, lão đây chẳng coi vào đâu cả.
Nhặt hai thanh đao dưới đất, lững thững đi về.
Trương Vô Kỵ đi đến bên cạnh Tiên Vu Thông, cúi xuống điểm hai nơi huyệt đạo của y, nói:
- Đại sự ở đây xong rồi, ta sẽ chữa độc cho các hạ, bây giờ tạm cho độc khí khỏi đi vào tâm khẩu đã.
Ngay lúc đó, bỗng thấy gió lạnh thổi vào sau lưng, hơi thấy đau, Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, không kịp tránh né, đầu ngón chân nhún một cái thân hình xeo xéo phóng vụt lên. Chỉ nghe hai tiếng soẹt soẹt nho nhỏ, tiếp theo là một tiếng “A” rú lên thảm thiết, chàng ở trên không quay đầu nhìn xuống, thấy hai thanh kiếm của Hà Thái Xung và Ban Thục Nhàn đã cắm vào ngực Tiên Vu Thông.
Thì ra vợ chồng Hà Thái Xung tung hoành nửa đời người, nay trước đám đông thua về tay một thanh niên hậu bối, dù cách nào cũng không thể nuốt mối căm hờn. Khi hai người nhặt trường kiếm lên, thấy Trương Vô Kỵ đang cúi xuống điểm huyệt Tiên Vu Thông, đưa mắt nhìn nhau, tâm ý tương thông, cùng gật đầu, đột nhiên ra chiêu “Vô Thanh Vô Sắc”, cùng phóng vào lưng Trương Vô Kỵ.
Chiêu Vô Thanh vô sắc này là một tuyệt chiêu trong kiếm học của phái Côn Lôn, sử dụng phải có hai người, công lực tương đương, nội kình tương đồng. Khi kiếm chiêu tung ra, kình lực hai bên trái ngược, nên những phản lực của hai thanh kiếm, tiếng rít trong không gian, đều làm triệt tiêu lẫn nhau.
Lộ kiếm chiêu này vốn dùng trong khi chiến đấu trong đêm tối không cho đối phương có thể nghe tiếng gió mà biện vị, trước khi ra tay hoàn toàn không có hình tích gì nên kiếm đụng vào người mới biết, vào ban ngày nếu dùng để đánh trộm từ sau lưng sẽ khiến người ta không sao phòng bị được.
Nào ngờ Trương Vô Kỵ tuy tâm ý bất động, Cửu Dương thần công tự nhiên hộ thân, biến chiêu cực nhanh, tuy vậy áo sau lưng vẫn bị rách một đường dài, thực là nguy hiểm. Vợ chồng họ Hà không thu kiếm về kịp, khiến song kiếm đâm chết tươi chưởng môn phái Hoa Sơn.
Trương Vô Kỵ rơi xuống đất rồi, nghe tiếng xôn xao, la lối. Hà thị phu phụ đâm lao phải theo lao, song kiếm cùng hướng về tấn công Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: “Cái trò đê tiện đâm sau lưng thì mọi người ai cũng đã nhìn thấy rồi, từ nay về sau còn mặt mũi nào? Không đâm chết được y thì vợ chồng mình cũng sống làm gì?”.
Thành thử chiêu nào cũng đều là đánh thí mạng. Trương Vô Kỵ tránh được mấy nhát rồi, thấy đường kiếm nào cũng muốn hai bên cùng chết, quả thực khó có thể yên ổn mà ngừng tay, nghĩ ra một mẹo, bèn ngồi thụp xuống, tay trái nhặt ngay một cục đất, một mặt né tránh kiếm chiêu, một mặt dùng mồ hôi tay vo thành hai viên thuốc nho nhỏ. Khi Hà Thái Xung từ phía bên trái, Ban Thục Nhàn từ phía phải tấn công tới, chàng liền nhảy vọt tới chỗ thi thể Tiên Vu Thông, giả vờ mò trong bọc của y mấy cái, quay đầu lại, song chưởng chia ra đánh vào hai người. Kỳ này chàng sử dụng đến sáu, bảy thành công lực, vợ chồng họ Hà thấy tức ngực, khó thở dường như muốn ngộp, vội vàng há mồm để hút khí trời. Trương Vô Kỵ vung tay một cái, hai viên đất chui tọt vào mồm hai người, thuận theo luồng kình lực mãnh liệt tuột luôn vào cổ họng.
Vợ chồng Hà Thái Xung thấy vật đó lấy từ trong người Tiên Vu Thông, nghĩ thầm người này thích dùng độc dược độc trùng, thì trong người đâu có thứ gì tốt lành, trong bụng kinh hoảng, liên tiếp ho khạc, nhưng không sao có thể nhả được viên đất ra. Hai người mặt tái mét, nghĩ lại thảm trạng Kim Tàm trùng độc mà Tiên Vu Thông vừa phải chịu, Ban Thục Nhàn gần như muốn ngất đi.
Trương Vô Kỵ lạnh lùng nói:
- Vị Tiên Vu chưởng môn này nuôi Kim Tàm, dấu trong bao sáp, hai vị mỗi người uống một viên. Nếu như thổ được ra ngay, nhân khi bao sáp chưa tan, may ra cứu được.
Nghe nói như thế vợ chồng họ Hà cố trấn tĩnh, vội vận nội lực, hết sức rặn để nôn viên thuốc. Hai người nội công cao siêu, ọe hai ba lần quả nhiên nhả được “lạp hoàn” ra, nhưng lúc này đã tan vào dịch vị, đâu có còn gì?
Ông già cao của phái Hoa Sơn chạy đến coi, chỉ chỉ trỏ trỏ cười nói:
- Ối chao, đây là cứt con Kim Tàm, Kim Tàm vừa mới vào trong bụng đã ỉa ngay rồi.
Ban Thục Nhàn vừa sợ vừa tức, chưa có chỗ phát tiết, lập tức giơ tay đánh ngay một chưởng. Ông già cao hụp xuống tránh khỏi, nhảy trở ra lớn tiếng nói:
- Con mụ ngang ngược phái Côn Lôn kia, ngươi giết chết chưởng môn bản phái, phái Hoa Sơn không thể bỏ qua cho ngươi đâu.
Vợ chồng Hà Thái Xung nghe y nói thế, trong bụng càng lo thêm, nghĩ thầm Tiên Vu Thông tuy nhân phẩm gian ác, nhưng dẫu sao cũng là chưởng môn phái Hoa Sơn, vợ chồng mình lỡ tay giết chết y, tạo nên một vụ án lớn trong võ lâm. Thế nhưng Kim Tàm trùng độc đã vào bụng rồi, chẳng còn sống được bao lâu, chuyện gì thôi cũng đành chịu. Xem ra chỉ có tên tiểu tử Trương Vô Kỵ này là giải được thuốc độc, nhưng trước đây mình đã tệ bạc với y, y lẽ nào ra tay cứu mạng?
Trương Vô Kỵ cười nhạt nói:
- Hai vị không phải hoảng sợ, Kim Tàm tuy đã vào bụng rồi, độc tính phải sáu giờ sau mới phát tác, chuyện lớn ở đây xong rồi, vãn bối sẽ tìm cách cứu chữa cho. Chỉ mong Hà phu nhân không ép tại hạ uống rượu độc nữa là được rồi.
Vợ chồng Hà Thái Xung mừng quá, tuy bị chàng mắng xéo một câu, nhưng cũng không dám để bụng, nhưng lời cám ơn cũng không dám nói ra, chỉ bẽn lẽn đi về chỗ. Trương Vô Kỵ nói:
- Hai vị đến phái Không Động xin bốn viên Ngọc Động Hắc Thạch Đơn uống đi, để cho độc tính tạm thời không chạy vào tim.
Hà Thái Xung cúi mặt nói:
- Xin đa tạ đã chỉ giáo.
Lập tức sai đại đệ tử đến phái Không Động xin thuốc uống ngay. Trương Vô Kỵ cười thầm, thứ Ngọc Động Hắc Thạch Đơn này tuy là thuốc giải dược thật, nhưng uống vào thì hai tiếng đồng hồ liền bụng đau như thắt ruột lại, thành thử chẳng bao lâu vợ chồng họ Hà thấy quặn bụng, chỉ nghĩ là Kim Tàm trùng độc phát tác, biết đâu chuyện đó. Chẳng qua Trương Vô Kỵ chỉ răn đe sơ sơ cho họ hoảng sợ một phen, nếu như để báo thù lúc trước, đâu lẽ nào chỉ nhẹ nhàng như thế? Thế nhưng từ nay trở về sau, chỉ cần không cho họ giải dược, nếu như có cùng các phái phân tranh, phái Côn Lôn thể nào chẳng phải đứng về phe mình. Nhớ năm xưa chàng dùng Tang Bối Hoàn gọi là Cưu Tì Hoàn để cho cô Năm uống, nhưng vì nói thật quá sớm, suýt nữa chết dưới tay Hà Thái Xung, lần này nhất định không đi lại vết xe đổ nữa.
Ở bên kia Diệt Tuyệt sư thái nói với Tống Viễn Kiều:
- Tống đại hiệp, trong sáu đại phái chỉ còn lại quí phái và chúng tôi, lão ni cô là phận nữ lưu, toàn do Tống đại hiệp chủ trì toàn cục.
Tống Viễn Kiều nói:
- Tại hạ đã cùng Ân giáo chủ tỉ thí quyền cước nhưng không thắng nổi. Sư thái kiếm pháp thông thần, hẳn sẽ chế phục được gã tiểu bối này.
Diệt Tuyệt sư thái cười nhạt một tiếng, rút phắt Ỷ Thiên kiếm đeo trên lưng, từ từ đi ra. Du Liên Châu Du nhị hiệp của phái Võ Đương từ nãy vẫn chăm chú xem xét động tĩnh của Vô Kỵ, rất là lo lắng, lúc này nghĩ thầm: “Diệt Tuyệt sư thái kiếm pháp tuy tinh, chưa chắc đã hơn được bốn người của Hoa Sơn, Côn Lôn liên thủ, nếu như bà ta không xong, phái Võ Đương cũng chế phục không được, thì cả sáu phái đều thua hết, ta phải xem hư thực thế nào”. Ông liền rảo bước tiến vào trong sân nói:
- Sư thái, để cho năm sư huynh đệ chúng tôi vào thử xem công lực thanh niên này đến đâu, sư thái sau cùng chỉ ra tay một lần là thắng ngay.
Mấy câu đó ý thật rõ ràng, phái Võ Đương trước nay vẫn nổi tiếng về nội lực bền bỉ, từ Tống Viễn Kiều đến Mạc Thanh Cốc năm người nếu luân phiên tỉ đấu với Trương Vô Kỵ, dẫu cho không thắng được, nhưng dù cho cao thủ bậc nào trên đời mà liên tiếp đấu với Võ Đương ngũ hiệp cũng phải mỏi mệt kiệt sức, thành thế cung cứng giương quá đà đấu với Diệt Tuyệt sư thái kiếm thuật vô song, phái Nga Mi thể nào cũng phải thắng.
Diệt Tuyệt sư thái hiểu ngay dụng ý của Du Liên Châu, nghĩ thầm: “Phái Nga Mi lẽ nào lại phải chịu ơn phái Võ Đương? Nếu thế thì dù có thắng chăng nữa cũng chẳng vinh hạnh gì. Chưởng môn phái Nga Mi lại phải lợi dụng như thế để đối phó với một tiểu bối hậu sinh hay sao?”. Bà ta xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, mục hạ vô nhân, tuy thấy Trương Vô Kỵ võ công kinh người, nhưng cho rằng người các phái ra đấu toàn là đồ bị thịt, tiểu tử này hôm trước mình vừa ra tay là bắt được ngay. Về sau khi mình ra tay đồ sát giáo đồ Ma giáo của Nhuệ Kim Kỳ, tiểu tử này chen vào can thiệp, nội lực tuy lạ lùng, nhưng cũng có gì là ghê gớm đâu?
Nghĩ thế bèn phất tay áo một cái, nói:
- Xin mời Du nhị hiệp trở về. Ỷ Thiên kiếm của lão ni đã ở trong tay, không thể vô cớ cho trở vào bao được.
Du Liên Châu nghe bà ta nói thế, chỉ còn nước ôm quyền chào nói:
- Vâng.
Rồi quay trở về phái Võ Đương. Diệt Tuyệt sư thái giơ kiếm ngang ngực, mũi kiếm chênh chếch hướng lên trời, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ. Giáo chúng Minh giáo chết dưới thanh kiếm Ỷ Thiên không biết bao nhiêu, lúc này thấy bà ta ra đấu trường, người nào người nấy đều căm phẫn, lớn tiếng xôn xao. Diệt Tuyệt sư thái cười khẩy nói:
- Nhốn nháo cái gì? Để ta lo liệu xong tiểu tử này, sẽ thanh toán các ngươi từng người một, bộ sợ chết chưa được sớm sủa hay sao?
Ân Thiên Chính biết thanh Ỷ Thiên kiếm của bà ta thật là khó đối phó, nhiều hảo thủ của bản giáo chịu chưa nổi một hiệp, binh khí đã bị chặt đứt, bị chém chết ngay, nên hỏi:
- Tăng thiếu hiệp dùng binh khí gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vãn bối không có binh khí. Lão gia tử, tiền bối thử xem đối phó với bảo kiếm đó cách nào mới xong?
Thanh kiếm Ỷ Thiên cứng rắn dị thường, chính mắt chàng đã thấy, nghĩ đến không lạnh mà run, trong bụng không biết phải tính toán ra sao. Ân Thiên Chính từ cái bọc bên mình lấy ra một thanh trường kiếm, nói:
- Thanh Bạch Hồng kiếm này ta tặng cho thiếu hiệp. Thanh kiếm này tuy không nổi danh như thanh kiếm Ỷ Thiên của lão tặc ni, nhưng cũng là một món binh khí hãn hữu trên giang hồ.
Nói xong giơ tay búng vào lưỡi kiếm một cái, lưỡi kiếm bèn cong lại, rồi bật ngược trở ra, kêu lên u u, âm thanh trong vắt. Trương Vô Kỵ cung kính nhận lấy, nói:
- Đa tạ lão gia tử.
Ân Thiên Chính nói:
- Thanh kiếm này theo ta đã lâu, hơn mười năm nay không còn dùng tới. Ỷ vào binh khí sắc bén để mà thắng, ha ha, thế có gì là anh hùng hảo hán đâu? Hôm nay mong được thấy nó uống máu cổ họng của lão tặc ni, lão phu có chết cũng không còn ân hận gì nữa.
Trương Vô Kỵ không trả lời, nghĩ thầm: “Ta quyết không thể giết sư thái này được”.
Chàng cầm thanh Bạch Hồng kiếm, quay đầu lại, tiến lên mấy bước, mũi kiếm chỉ xuống đất, hai tay ôm lấy cán kiếm, nói với Diệt Tuyệt sư thái:
- Kiếm pháp của vãn bối thật là tầm thường, không thể nào là địch thủ của sư thái được, quả thực không dám cùng tiền bối tỉ đấu. Tiền bối đã từng tha cho không giết giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim Kỳ, lẽ nào không nương tay thêm một lần nữa?
Hai hàng lông mày dài của Diệt Tuyệt sư thái xụ hẳn xuống, lạnh lùng đáp:
- Chúng tặc của Nhuệ Kim Kỳ là do ngươi cứu, dưới tay Diệt Tuyệt sư thái quyết chẳng tha ai. Ngươi thắng được trường kiếm trong tay ta, lúc đó muốn gì cũng chưa muộn.
Những giáo chúng Minh giáo trong Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ Ngũ Hành Kỳ liền xôn xao mắng chửi, kêu lên:
- Lão tặc ni, ngươi có giỏi thì tay không đánh với Tăng thiếu hiệp xem nào.
- Kiếm pháp của nhà ngươi có gì là ghê gớm đâu, chỉ ỷ vào thanh kiếm sắc thôi.
- Tăng thiếu hiệp kiếm pháp giỏi hơn ngươi nhiều, ngươi có giỏi thì thay một thanh kiếm thường, nếu đỡ được ba chiêu thì phái Nga Mi mới gọi là cao minh.
- Cái gì mà ba chiêu? Sợ một chiêu nửa thức cũng chưa xong nữa là.
Diệt Tuyệt sư thái thần sắc trơ trơ, không để ý gì đến những lời khích bác đó, lớn tiếng nói:
- Tiến chiêu đi.
Trương Vô Kỵ chưa từng luyện qua kiếm pháp, lúc này phải ra chiêu tấn công, chân tay quờ quạng, nghĩ đến Lưỡng Nghi kiếm pháp của bọn Hà Thái Xung mới rồi quả là tinh diệu, nên xeo xéo đâm ra một kiếm. Diệt Tuyệt sư thái hơi lạ lùng, nói:
- Tiêu Bích Đoạn Vân của phái Hoa Sơn.
Thanh kiếm Ỷ Thiên hơi lắc một cái, không thèm đỡ nhát kiếm của đối phương, chiêu đầu tiên đã tấn công liền, mũi kiếm đâm ngay vào huyệt Đan Điền của Trương Vô Kỵ, ra tay vừa độc địa, vừa cực kỳ nhanh nhẹn không ai ngờ nổi.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng, lách qua tránh né, chỉ thấy kiếm của Diệt Tuyệt sư thái lóe lên một cái, mũi kiếm đã ngóc lên phóng vào yết hầu chàng. Trương Vô Kỵ hoảng hốt vội lăn xuống đất, vừa nhỏm dậy cảm thấy sau cổ khí lạnh ùa tới, biết là không ổn, đầu ngón chân phải vội đạp một cái, thân hình bay vọt lên không.
Cảnh tượng đó quả thực là thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, mọi người chung quanh ai nấy hò reo, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái không đợi chàng rơi xuống, nhẹ nhàng phi thân lên, giữa lưng chừng trời giơ kiếm múa tới, kiếm quang bao phủ một vòng mấy thước chung quanh.
Trương Vô Kỵ còn đang trên không, không cách nào có thể tránh né, trong vòng bao vây của Diệt Tuyệt sư thái, nếu như thân hình rơi xuống một thước thì hai chân ắt sẽ đứt ngay, còn nếu xuống đến ba thước thì sẽ bị chặt đứt ngang hông.
Tình cảnh đó thực kinh hiểm vạn phần, chàng không còn kịp suy nghĩ gì nữa, vội đâm ra, mũi kiếm thanh Bạch Hồng điểm luôn vào đầu kiếm Ỷ Thiên, thanh kiếm lập tức cong lại, nghe coong một tiếng, lưỡi kiếm bật lại, chàng đã mượn sức vọt lên trên cao.
Diệt Tuyệt sư thái lập tức xông tới tấn công, soẹt soẹt soẹt đâm luôn ba nhát, đến chiêu thứ ba thân hình Trương Vô Kỵ đã rơi xuống thấp, chỉ còn nước vung kiếm ra gạt, nghe keng một tiếng, thanh Bạch Hồng kiếm trong tay đã gãy làm hai. Tay phải chàng thuận thế nhắm ngay đỉnh đầu Diệt Tuyệt sư thái đánh xuống, lão ni cô liền vung kiếm lên toan chặt đứt cổ tay Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ nhắm thật chính xác, búng luôn một cái vào sống kiếm, thân hình lại bay vọt ra ngoài. Diệt Tuyệt sư thái tay tê dại, hổ khẩu đau nhói, trường kiếm bị Trương Vô Kỵ búng phải tưởng như muốn tuột ra, trong lòng chấn động. Trương Vô Kỵ rơi xuống cách xa hơn hai trượng, tay cầm thanh kiếm gãy, ngơ ngẩn như kẻ mất hồn.
Mấy chiêu đó thật nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ nháy mắt, Diệt Tuyệt sư thái đã công liên tiếp tám chiêu, chiêu nào cũng chí mạng độc địa. Trương Vô Kỵ nhất nhất phá giải trong đường tơ kẽ tóc, tám lần tử lý đào sinh, trong cái chết tìm đường sống. Người tấn công đã tinh xảo không đâu sánh bằng, người né tránh cũng lại lạ lùng kỳ quái. Không ai tin con người có thể làm nổi, người tấn công tựa hồ thiên tướng ra oai, kẻ né tránh thật như quỉ mị biến hình, khác gì sấm vang chớp dậy, tuy qua đã lâu rồi nhưng người người vẫn còn kinh hãi, ai ai cũng nín thở, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài.
Qua một lúc lâu, tiếng hoan hô vang cả trời đất bấy giờ mới nổi lên. Qua tám chiêu tấn công, tám chiêu trốn tránh, Trương Vô Kỵ hoàn toàn chỉ chống đỡ, trường kiếm trong tay lại bị chém gẫy, rõ ràng ở vào thế hạ phong, nhưng Ỷ Thiên kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái bị chàng búng một cái, lập tức nửa người tê bại, Trương Vô Kỵ vì ít kinh nghiệm đối địch, nếu không thừa thế phản kích lúc đó thì đã thắng rồi. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng thấy thật may, không khỏi kinh hãi thầm, nói:
- Ngươi thay binh khí khác, ra đây tái đấu.
Trương Vô Kỵ nhìn thanh kiếm gãy trong tay, nghĩ thầm: “Ông ngoại tặng cho ta thanh bảo kiếm này, ta vừa ra tay đã bị hủy, đối với lão nhân gia thực không phải tí nào. Đâu còn bảo đao lợi kiếm nào có thể chống đỡ được với Ỷ Thiên kiếm?”.
Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng thấy Chu Điên kêu lên:
- Ta có một thanh bảo đao, thiếu hiệp dùng nó đấu với kiếm của lão tặc ni một phen. Lại đây cầm lấy.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kiếm Ỷ Thiên quá ư sắc bén, chỉ sợ làm hỏng mất bảo đao của tiền bối.
Chu Điên nói:
- Hỏng thỉ hỏng cũng chẳng sao. Ngươi đấu không lại mụ ta, bọn ta ai ai cũng tống mệnh qui thiên, còn giữ gì được bảo đao?
Trương Vô Kỵ nghị lại thấy quả không sai, đi đến tiếp lấy thanh đao. Dương Tiêu hạ giọng nói:
- Trương công tử, công tử nên tấn công bà ta, đừng chống đỡ nữa.
Trương Vô Kỵ thấy ông ta gọi mình là “Trương công tử”, hơi ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay, Dương Bất Hối đã nhận ra mình, thể nào chẳng nói cho cha hay, liền nói:
- Cám ơn tiền bối đã chỉ giáo.
Vi Nhất Tiếu cũng nói nhỏ:
- Hãy thi triển khinh công đừng ngừng lại nửa bước.
Trương Vô Kỵ thật mừng, nói:
- Đa tạ tiền bối chỉ điểm.
Quang Minh sứ giả Dương Tiêu, Vi Bức Vương Vi Nhất Tiếu võ công cao thâm, đấu với Diệt Tuyệt sư thái chưa chắc đã thua, chỉ vì bị Viên Chân ám toán trọng thương nên một thân võ công không còn thi thố gì được. Thế nhưng đôi mắt vẫn còn tinh, những điều hai người chỉ cho Vô Kỵ, chính là yếu quyết đối phó với bảo kiếm khoái chiêu của Diệt Tuyệt sư thái.
Trương Vô Kỵ cầm đao trên tay, thấy thanh đao này nặng độ hơn bốn mươi cân, ánh xanh lấp lánh, sống dày lưỡi mỏng, trên lưỡi đao có khắc hoa văn cổ kính, quả là một trân phẩm lâu đời. Chàng nghĩ đến làm hủy thanh kiếm Bạch Hồng tuy đáng tiếc thật, nhưng dẫu sao cũng là binh khí ông ngoại đã tặng cho mình, còn bảo đao này là vật sở hữu của Chu Điên, không thể làm hư trong tay mình nữa nên quay lại nói:
- Sư thái, vãn bối tiến chiêu đây.
Chàng triển khai khinh công, như một làn khói bay vụt ra sau lưng Diệt Tuyệt sư thái, không đợi bà ta quay lại, né bên phải, lách qua trái, chạy xuôi một vòng, chạy ngược một vòng, soẹt soẹt chém ra hai nhát.
Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm chặn lại, đang toan biến thế ra chiêu, Trương Vô Kỵ đã biến mất đi đâu không biết. Ngay từ trước khi luyện Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, khinh công chàng đã cao hơn Diệt Tuyệt sư thái rồi, lúc này càng chạy càng nhanh, chẳng khác gì gió bay lửa bốc, chớp giật sấm ran, ngay cả Vi Nhất Tiếu khinh công vốn dĩ hơn hẳn quần hùng cũng phải ngầm kinh hãi. Chỉ thấy Trương Vô Kỵ bốn bề tám hướng chuyển động, thỉnh thoảng sấn vào chém một đao, chiêu số chưa xong đã lùi ra ngoài. Kỳ này công thủ đổi khác, Diệt Tuyệt sư thái không còn cơ hội nào phản kích một kiếm, chỉ vì Trương Vô Kỵ ngại rằng kiếm Ỷ Thiên quá sắc bén nên không dám tới thật gần. Chàng chạy qua mấy chục vòng rồi, Cửu Dương chân khí trong người càng lúc càng sung vượng thêm, chân không bén đất chẳng khác gì lăng không phi hành.
Quần đệ tử phái Nga Mi thấy tình hình không ổn, nếu đấu dây dưa, thể nào sư phụ cũng thua. Tĩnh Huyền kêu lên:
- Hôm nay chúng ta vây diệt ma giáo, không phải là tỉ võ tranh thắng. Các vị sư muội sư đệ cùng tiến lên chặn tiểu tử này lại, không để cho y ma mãnh, bắt phải đem bản lãnh chân thực đấu với sư phụ.
Nói xong cầm kiếm nhảy tới. Nam nữ đệ tử phái Nga Mi liền cùng xông lên, tay cầm binh khí, chặn hết bốn phương tám hướng, Chu Chỉ Nhược đứng ở góc phía tây nam. Đinh Mẫn Quân cười nhạt nói:
- Chu sư muội, chặn hay không là ở ngươi, mà nhường hay không cũng là ở ngươi đó.
Chu Chỉ Nhược vừa giận vừa thẹn, nói:
- Sao sư tỉ lại chỉ nói mình tôi là sao?
Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ đã vọt tới trước mặt, Đinh Mẫn Quân liền vung kiếm đâm ra. Trương Vô Kỵ tay trái vươn ra, khoắng một cái đoạt luôn thanh trường kiếm, tiện tay ném luôn vào Diệt Tuyệt sư thái. Diệt Tuyệt sư thái vung kiếm lên chém đứt thanh kiếm bay tới. Thế nhưng sức của Trương Vô Kỵ ném thanh kiếm đó thật là mạnh, kiếm đã bị chém gãy rồi, kình lực vẫn làm cho cổ tay bà ta ngâm ngẩm tê. Trương Vô Kỵ vẫn không dừng bước, tay trái vung ra liên tiếp đoạt kiếm, liên tiếp ném vào. Phái Nga Mi kỳ này đi đánh Tây Vực toàn là cao thủ, nhưng mỗi khi chàng vung tay đoạt kiếm, không ai né được mảy may, khiến cứ thò tay là được, mấy chục thanh trường kiếm bay lượn trên không, bạch quang lấp loáng, không ngừng phóng vào Diệt Tuyệt sư thái.
Diệt Tuyệt sư thái mặt lạnh như phủ một làn sương, thấy kiếm bay tới là chém gãy, đến lúc tay phải tê dại, vội chuyển kiếm sang tay trái. Công phu sử dụng kiếm bằng tay trái của bà ta không kém tay phải bao nhiêu, nên chỉ thấy kiếm bay tung tóe trên trời, có mảnh bay văng ra ngoài, kình lực vẫn còn mạnh mẽ khiến người đứng chung quanh phải lật đật tháo lui. Chỉ trong giây lát, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy tay không, chỉ còn một mình Chu Chỉ Nhược trường kiếm vẫn còn trong tay chưa bị cướp mất.
Trương Vô Kỵ muốn báo ơn nàng mới rồi chỉ điểm, ngờ đâu như thế bỗng dưng nàng trở nên khác hẳn mọi người. Nàng biết rằng chẳng ổn, tiến lên định công kích vài chiêu, nhưng Trương Vô Kỵ thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, huống chi lại cố ý tránh nàng ra, không đến gần nàng trong vòng năm thước. Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, nhất thời chân tay luống cuống. Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:
- Chu sư muội, quả nhiên y đối với ngươi không như người khác.
Lúc này Trương Vô Kỵ tuy bị đám đệ tử phái Nga Mi ngăn trở nhưng chàng chạy qua chạy lại, coi như không có ai, ánh đao nhằm những nơi yếu hại của Diệt Tuyệt sư thái mà tấn công. Diệt Tuyệt sư thái ở vào thế chỉ còn chống đỡ, không còn cách nào phản kích được, trong bụng gấp gáp, lời ăn tiếng nói của Đinh Mẫn Quân từng tiếng lọt vào tai:
- Ngươi thấy sư phụ đang bị tiểu tử này công kích, sao không tiến lên tương trợ? Ngươi trong tay có kiếm, sao đứng như trời trồng, chắc trong bụng ngươi mong cho tiểu tử này đánh bại sư phụ chăng?
Diệt Tuyệt sư thái chợt hiểu ra: “Sao tiểu tử này lại không đoạt binh khí của Chỉ Nhược, không lẽ hai đứa ngầm cấu kết với nhau? Ta thử xem thì biết ngay”. Liền lớn tiếng quát:
- Chỉ Nhược, ngươi dám khi sư diệt tổ sao?
Giơ kiếm lên nhắm ngay ngực Chu Chỉ Nhược đâm tới. Chu Chỉ Nhược cực kỳ kinh hãi, không dám giơ kiếm lên đỡ, chỉ kêu:
- Sư phụ, con... con...
Tiếng “con” mới ra khỏi miệng, kiếm của Diệt Tuyệt sư thái đã đâm tới ngực rồi. Trương Vô Kỵ đâu biết nhát kiếm đó chỉ là để dò xét xem hai người có tình ý gì với nhau không, mũi kiếm tới ngực sẽ rút ngay về. Chàng chính mắt thấy bà ta cực kỳ ác độc giết chết Kỷ Hiểu Phù, biết rằng bà tru sát đồ đệ không dung tình chút nào, không kịp suy nghĩ, nhảy vọt tới, ôm ngay Chu Chỉ Nhược nhảy ra ngoài xa cả trượng.
Diệt Tuyệt sư thái liền chuyển khách thành chủ, trường kiếm rung động, đâm ngay vào sau lưng Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nội lực tuy mạnh, nhưng chưa từng luyện qua khinh công nên không được như Vi Nhất Tiếu tay ôm một người mà chân không chậm lại, nghe thấy hơi gió từ sau lưng, chỉ còn nước quay đao lại gạt, nghe cách một tiếng, bảo đao trong tay đã cụt mất một nửa. Thanh kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái liền tiện đà đâm tới, Trương Vô Kỵ vận kình, sử đến chín thành công lực ném ngược nửa thanh đao lại. Diệt Tuyệt sư thái liền cảm thấy ngộp thở, không dám giơ kiếm lên chặt, vội vàng phục xuống né tránh. Nửa thanh đao bay xẹt qua đỉnh đầu, kình phong khiến bà ta rát cả mặt. Trương Vô Kỵ không bỏ lỡ dịp may, chưa kịp bỏ Chu Chỉ Nhược xuống, lập tức lướt tới, tay phải vươn ra, múa chưởng đánh tới. Diệt Tuyệt sư thái chân phải khuỵu xuống, giơ kiếm lên toan chém cổ tay chàng, Trương Vô Kỵ lập tức biến chưởng thành cầm nã, uốn tay giựt về, nhẹ nhàng đoạt luôn thanh Ỷ Thiên kiếm.
Công phu biến chuyển chỉ trong một sát na từ cương thành nhu, chính là thần công Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, Diệt Tuyệt sư thái võ công tuy cao, nhưng trong lúc đang đối phó với chưởng lực cương mãnh ép vào người, làm sao có thể sách giải được thế chuyển sang cầm nã nhu hòa của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tuy đắc thắng, nhưng đối với một đại địch như Diệt Tuyệt sư thái vẫn phải hết sức cẩn thận, không dám khinh thị chút nào, liền cầm kiếm Ỷ Thiên chỉ thẳng vào yết hầu bà ta, sợ bà ta có kỳ chiêu thi triển, sau đó mới từ từ lùi trở lại hai bước.
Chu Chỉ Nhược đãy dụa kêu lên:
- Buông ta ra.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng kêu lên:
- Ối, vâng.
Mặt chàng đỏ bừng, vội để nàng xuống đất, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, chỉ thấy làn tóc mềm mại của nàng quệt qua má, không khỏi liếc nàng một cái, thấy nàng dường như muốn ngất đi, vừa thẹn thùng vừa bối rối, tuy thần sắc sợ hãi nhưng ánh mắt đầu mày không khỏi có phần hoan hỉ.
Diệt Tuyệt sư thái từ từ đứng dậy, không nói nửa lời nhìn Chu Chỉ Nhược, lại nhìn Trương Vô Kỵ, mặt mỗi lúc một tái đi. Trương Vô Kỵ quay ngược thanh kiếm nói với Chu Chỉ Nhược:
- Chu cô nương, bảo kiếm của quí phái, xin cô nương chuyển lại cho tôn sư.
Chu Chỉ Nhược đưa mắt nhìn sư phụ, thấy bà thần sắc trơ trơ, chẳng biết là nên nhận hay không nên nhận, trong một giây trong lòng chuyển qua bao nhiêu ý niệm: "Cục diện hôm nay tuy thật là đáng xấu hổ, Trương công tử đãi ta như thế, sư phụ thể nào chẳng cho là ta có tình ý với chàng, từ nay ta sẽ là khí đồ của phái Nga Mi, thành một kẻ phản bội vô sỉ trong võ lâm. Trời đất mang mang, ta biết đi đâu dung thân bây giờ? Trương công tử đối với ta như thế nhưng quyết không thể vì chàng mà phản bội sư môn”. Bỗng nghe Diệt Tuyệt sư thái hậm hực rít lên:
- Chỉ Nhược, đâm một kiếm giết nó đi.
Năm xưa Chu Chỉ Nhược theo Trương Tam Phong lên núi Võ Đương, Trương Tam Phong thấy núi Võ Đương không có đàn bà, thật là bất tiện nên đưa thư giới thiệu nàng sang đầu nhập làm môn hạ Diệt Tuyệt sư thái. Nàng thiên tư thật là thông tuệ, lại gặp đại biến cha mẹ đều qua đời từ nhỏ, cố gắng học nghệ, tiến bộ thần tốc, được sư phụ hết sức thương yêu. Trong bảy năm qua, mỗi lời nói, mỗi cử động của sư phụ đối với nàng quả như thiên kinh địa nghĩa, trong đầu chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện trái lời, bây giờ nghe sư phụ quát lên, không kịp suy nghĩ, thuận tay cầm luôn thanh kiếm Ỷ Thiên đâm ra, nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ phóng tới.
Trương Vô Kỵ đâu ngờ rằng nàng lại hạ thủ với mình nên không tránh né, chỉ nháy mắt kiếm đã chạm vào ngực. Chàng giật mình kinh hãi, định tránh qua thì không còn kịp nữa. Chu Chỉ Nhược cổ tay run rẩy, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ mình đâm chết chàng thực sao?”. Trong cơn hoảng loạn, tay hơi chếch qua, trường kiếm lệch sang một bên, nghe soẹt một tiếng nhỏ, kiếm Ỷ Thiên đã đâm vào ngực bên phải Trương Vô Kỵ.
Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên, vội rút kiếm ra, thấy mũi kiếm đỏ loang, máu từ trên ngực Trương Vô Kỵ vọt ra như suối, bốn bên tiếng xôn xao vang lên. Trương Vô Kỵ giơ tay chặn vết thương, thân hình lảo đảo, thần sắc thật là cổ quái tựa hồ muốn hỏi: “Cô quả thực muốn giết tôi ư?”. Chu Chỉ Nhược lắp bắp:
- Tôi... tôi...
Định bước tới xem vết thương cho chàng, nhưng ngần ngừ không dám, sau cùng ôm mặt chạy về. Nàng chỉ một kiếm đã thành công, thật ngoài dự liệu của mọi người. Tiểu Siêu mặt tái nhợt, chen lên đỡ Trương Vô Kỵ luôn mồm gọi:
- Công tử... công tử...
Trương Vô Kỵ nhìn Tiểu Siêu hỏi:
- Cô... cô... cô sao lại muốn giết tôi...
Nhát kiếm đó cũng may lệch qua, không trúng tim, nhưng cũng làm lá phổi bên phải bị thương nặng. Chàng nói mấy tiếng, phổi không hút được hơi vào, khom lưng ho sù sụ. Chàng bị thương nặng rồi, nhìn không phân biệt được Tiểu Siêu và Chu Chỉ Nhược, máu tươi vẫn tiếp tục vọt ra, ướt đẫm cả một nửa áo trên Tiểu Siêu. Người chung quanh không kể là lục đại môn phái, Minh giáo hay Thiên Ưng giáo nhất thời lặng yên không một tiếng động. Trương Vô Kỵ mới rồi liên tiếp đánh bại cao thủ các phái, võ công cao cường, lòng dạ quảng đại, không kể là bạn hay thù, ai nấy đều ngầm kính phục, bây giờ thấy chàng vô cớ bị Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm, không khỏi phẫn nộ, thấy Ỷ Thiên kiếm đâm thẳng vào ngực, thương thế cực kỳ nghiêm trọng, đều tự hỏi không biết nhát kiếm có chí mạng không.
Tiểu Siêu đở chàng từ từ ngồi xuống, lớn tiếng hỏi:
- Vị nào có thuốc kim sang tốt không?
Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm vội vàng bước ra, lấy trong bọc ra một bao thuốc bột, nói:
- Ngọc Linh Tán của tệ phái là thánh dược trị thương.
Ông đưa tay xé luôn áo trước ngực Trương Vô Kỵ, thấy vết thương sâu đến mấy tấc, vội đắp Ngọc Linh Tán vào, nhưng máu vẫn túa ra, trôi hết cả thuốc. Không Tính không biết làm sao, vội hỏi:
- Làm thế nào đây? Làm thế nào đây?
Vợ chồng Hà Thái Xung cực kỳ bồn chồn, hai người nghĩ mình đã uống phải Kim Tàm trùng độc, nếu như người này trọng thương chết đi, hai vợ chồng không còn ai cho thuốc giải, cũng không thể nào sống được. Hà Thái Xung chen đến trước mặt Trương Vô Kỵ, hỏi gấp:
- Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu? Nói mau, nói mau.
Tiểu Siêu khóc nói:
- Cút ra. Ông hối cái gì? Trương công tử nếu không sống được, mọi người đều chết hết.
Nếu như bình thời, thân phận cao quí như Hà Thái Xung, đâu có để cho một tiểu tì áo xanh la lối như thế. Thế nhưng lúc này tình hình gấp gáp, y vẫn liên tiếp hỏi gặng:
- Kim Tàm trùng độc làm sao giải cứu?
Không Tính cáu quá quát lên:
- Thiết Cầm tiên sinh, nếu ông không đứng tránh ra, lão nạp sẽ chẳng nể nang gì đâu nhé.
Ngay lúc đó, Trương Vô Kỵ mở mắt ra, hơi suy nghĩ, giơ ngón trỏ tay trái điểm luôn bảy nơi huyệt đạo chung quanh vết thương, máu liền chảy chậm lại. Không Tính mừng quá, lập tức đắp luôn Ngọc Linh Tán lên. Tiểu Siêu xé vạt áo, giúp chàng buộc chặt vết thương, thấy Trương Vô Kỵ mặt trắng bệch, không còn chút huyết sắc nào, trong lòng vừa bồn chồn, vừa lo sợ.
Trương Vô Kỵ lúc này thần trí đã hơi tỉnh táo, ám vận nội tức lưu chuyển, thấy chân khí đi đến ngực bên phải thì bị chặn lại, nghĩ thầm: “Ta còn một hơi thở, quyết không để cho lục đại phái giết một người của Minh giáo”. Chàng liền đem chân khí vận chuyển qua bên trái ngực và bụng vài lần, từ từ đứng lên, nói:
- Phái Nga Mi, phái Võ Đương nếu còn vị nào không phục tại hạ dàn xếp, xin mời bước ra tỉ thí.
Chàng nói câu đó, mọi người ai nấy đều kinh hãi, thấy Chu Chỉ Nhược đâm một kiếm lợi hại như thế, vậy mà vẫn dám mở mồm khiêu chiến. Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
- Phái Nga Mi hôm nay thì đã thua rồi, nếu ngươi không chết, ngày sau thể nào cũng có dịp thanh toán. Chúng ta nay chỉ còn trông vào phái Võ Đương. Công việc này thành hay bại, đều do phái Võ Đương lo liệu cả.
Sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đính, năm phái Không Động, Thiếu Lâm, Hoa Sơn, Côn Lôn, Nga Mi đều đã thua Trương Vô Kỵ rồi, chỉ còn một phái Võ Đương chưa từng giao thủ với chàng. Lúc này chàng đã bị kiếm thương, mười phần chết, một phần sống, không nói gì một cao thủ hạng nhất mà chỉ cần vài người thường đến gây rối, chàng cũng chịu không nổi, thậm chí không cần phải ai ra tay, đợi một lát có thể cũng lăn ra chết rồi. Võ Đương ngũ hiệp bất cứ người nào tiến lên, không phải phí sức cũng có thể giết được chàng, sau đó cứ theo kế sách đã vạch ra mà tru diệt Minh giáo.
Mọi người đều nghĩ thầm, phái Võ Đương từ trước đến nay vốn rất trọng hai chữ “hiệp nghĩa”, nếu muốn họ ra tay đối phó với một thanh niên đang bị thương nặng ắt thanh danh sẽ bị tổn hại rất lớn, e rằng Võ Đương ngũ hiệp không ai đứng ra đâu. Thế nhưng nếu như phái Võ Đương không chịu ra tay, không lẽ việc “lục đại phái vi công Quang Minh Đính” vang rền võ lâm kia lại cụp đuôi ra về? Như thế thì từ nay trở về sau, sáu đại môn phái còn mặt mũi nào trong giang hồ nữa? Sự chọn lựa quả thực là khó khăn biết bao. Câu nói đó của Diệt Tuyệt sư thái, ý nói hôm nay vinh nhục của sáu đại môn phái, toàn do phái Võ Đương quyết định cả, xem phái Võ Đương có ai dám vì bảo toàn đại cục mà hi sinh thanh danh cá nhân không?
Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình, Mạc Thanh Cốc năm người nhìn nhau, mặt mày đăm chiêu, không ai dám có chủ ý. Tống Thanh Thư đột nhiên nói:
- Thưa cha, thưa bốn vị sư thúc, để hài nhi ra lo liệu y cho.
Võ Đương ngũ hiệp hiểu ngay ý của Tống Thanh Thư, y là hậu bối của phái Võ Đương, nếu có ra tay cũng không làm tổn thương anh danh của ngũ hiệp. Du Liên Châu nói:
- Không được. Chúng ta để cháu ra tay, có khác gì chính chúng ta ra tay đâu.
Trương Tùng Khê nói:
- Nhị ca, cứ ý kiến của đệ, đại cục là nặng mà tên tuổi năm anh em mình là nhẹ.
Mạc Thanh Cốc nói:
- Tên tuổi chỉ là vật ngoại thân, có điều đối phó với một thanh niên trọng thương như thế, lương tâm mình không an.
Nhất thời bàn cãi không quyết định được, mọi người đưa mắt nhìn Tống Viễn Kiều, chờ ý kiến của ông ta. Tống Viễn Kiều thấy Ân Lê Đình trước sau không nói nột lời, nhưng trên mặt đầy vẻ phẫn nộ, biết rằng người vợ chưa cưới là Kỷ Hiểu Phù bị thất thân vì Dương Tiêu của Minh giáo, khiến cho phải chết, là một đại hận, đại sỉ trong đời, nếu không giết tận Minh giáo, quét sạch gian ác dâm đồ thì làm sao tiêu tan được nỗi niềm đó, nên chậm rãi nói:
- Ma giáo tác ác biết bao nhiêu, trừ ác phải trừ cho hết, chính là đại tiết của đạo hiệp nghĩa. Thanh danh dĩ nhiên quan trọng rồi, nhưng trước mắt không thể vẹn được cả hai, thành thử chỉ giữ được cái lớn. Thanh Thư, con cẩn thận.
Tống Thanh Thư khom lưng đáp: “Vâng” đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, lớn tiếng nói:
- Tăng thiếu hiệp, nếu thiếu hiệp không phải là người trong Minh giáo, vậy thì cứ tự tiện đi khỏi, xuống núi tìm cách dưỡng thương. Lục đại phái chỉ tru diệt tà đồ ma giáo, không liên can gì đến người khác.
Trương Vô Kỵ tay trái giữ vết thương trên ngực, nói:
- Đại trượng phu đứng ra lo chuyện khó cho người, đến chết mới thôi. Đa tạ... đa tạ hảo ý của Tống huynh, có điều tại hạ... tại hạ quyết cùng với Minh giáo sống cùng sống chết cùng chết.
Người trong Minh giáo và Thiên Ưng giáo xôn xao lớn tiếng kêu lên:
- Tăng thiếu hiệp, thiếu hiệp đối với chúng tôi như thế là hết lòng hết dạ rồi, anh em chúng tôi cảm kích vô cùng. Đến nước này, không cần phải tái đấu nữa.
Ân Thiên Chính loạng choạng bước đến gần, nói:
- Họ Tống kia, để lão phu tiếp cao chiêu của ngươi.
Nào ngờ hơi thở đứt quãng, đầu gối nhũn xuống, ngã phịch trên mặt đất. Tống Thanh Thư nhìn Trương Vô Kỵ nói:
- Tăng huynh, nếu đã như thế, tiểu đệ chỉ vì đại cục, đành phải đắc tội.
Tiểu Siêu chặn ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kêu lên:
- Vậy ngươi giết ta trước đi rồi hãy tính.
Trương Vô Kỵ nói nhỏ:
- Tiểu Siêu, sao cô đối với tôi tốt quá như thế?
Tiểu Siêu nghẹn ngào đáp:
- Chỉ vì... chỉ vì công tử đối với tôi thật tốt.
Trương Vô Kỵ chăm chăm nhìn nàng giây lát, nghĩ thầm: “Nếu như mình có chết ngay bây giờ, cũng có một người tri kỷ đối với mình thật hết lòng hết dạ”.
Tống Thanh Thư quay sang quát Tiểu Siêu:
- Ngươi mau cút ra chỗ khác.
Trương Vô Kỵ nói:
- Sao ngươi đối với vị tiểu cô nương này hung hăng hò hét, thật là vô lễ.
Tống Thanh Thư giơ tay xô vào vai Tiểu Siêu một cái, đẩy nàng ra mấy bước, nói:
- Yêu nữ, tà nam, có ra quái gì đâu. Mau đứng dậy, đỡ chiêu của ta.
Trương Vô Kỵ nói:
- Lệnh tôn Tống đại hiệp là người khiêm khiêm quân tử, thiên hạ không ai không phục. Các hạ lại thô bạo như thế, cùng ngươi động thủ, chắc chẳng cần... chắc chẳng cần đứng lên đâu.
Kỳ thực chàng không vận nổi kình lực, biết mình không sao đứng lên được. Trương Vô Kỵ sau khi bị thương, mất hết hơi sức, ai ai cũng đều biết cả. Du Liên Châu lớn tiếng nói:
- Thanh Thư, điểm huyệt để y không cử động được là đủ, không cần phải giết hắn ta làm gì.
Tống Thanh Thư đáp:
- Vâng.
Tay trái khoát lên lấy đà, tay phải tung ra nhắm ngay đầu vai Trương Vô Kỵ điểm tới. Trương Vô Kỵ ngồi yên, đợi ngón tay y điểm tới huyệt Kiên Trinh, mới dẫn nội lực đi lên, đẩy chỉ lực của y bật ra ngoài. Một chỉ đó của Tống Thanh Thư tưởng như đâm vào nước, không thấy một chút lực khí nào, vì bất ngờ không dự liệu, nên thân hình bổ nhào tới trước, suýt nữa ngã đè lên Trương Vô Kỵ, vội vàng gượng lại, nhưng cũng không khỏi luống cuống.
Y định thần, đá chân phải lên, nhằm ngay ngực Trương Vô Kỵ đạp tới, ngọn cước đó sử dụng đến sáu, bảy thành công lực. Tuy Du Liên Châu bảo y không nên giết Trương Vô Kỵ, nhưng không hiểu vì sao, trong lòng y đối với thanh niên này đầy thù hận, chẳng phải vì đã mắng y là thô bạo, mà chính vì Chu Chỉ Nhược nhìn chàng bằng cặp mắt đầy trìu mến, thiết tha, tuy sau vâng lệnh thầy đâm chàng một kiếm nhưng sắc mặt thật đau khổ, rõ ràng trong lòng hết sức xót xa.
Tống Thanh Thư từ khi gặp Chu Chỉ Nhược, mắt như dán vào người nàng, tuy đã hết sức tự chế, không dám nhìn lâu, để người khác khỏi coi y là người khinh bạc, nhưng nhất cử nhất động của nàng, dù khi nhíu mày, khi cười nụ, đều không qua khỏi mắt y, trong lòng chua chát nghĩ thầm: “Sau khi nàng đâm y một kiếm rồi, dù y chết hay y sống, kể từ nay trong lòng nàng sẽ không thể nào quên y được nữa”. Y biết rằng nếu như y đánh chết Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược sẽ cực kỳ oán hận, thế nhưng lửa ghen bốc lên, y không thể nào bỏ qua cơ hội hiếm có này để giết kẻ thù. Tống Thanh Thư văn võ song toàn, lại là nhân vật xuất quần bạt tụy trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Võ Đương, vốn xưa nay chính trực trọng nghĩa, thế nhưng khi vướng vào cái cửa “tình” này, bụng dạ không còn an bình được nữa.
Mọi người thấy Tống Thanh Thư đá cú ấy, nếu Trương Vô Kỵ không nhảy ra ngoài tránh thì cũng phải giơ tay lên đỡ, thế nhưng chàng gượng ngồi cũng đã cực kỳ khó khăn, xem ra cú đá này thể nào cũng khiến chàng táng mạng. Vừa thấy năm ngón chân chạm vào ngực, năm ngón tay của Trương Vô Kỵ liền phẩy nhẹ, chân Tống Thanh Thư lập tức chuyển hướng, đâm xéo xuống bên cạnh người, chỉ cách Vô Kỵ chừng ba tấc, cú đá đó hóa ra đá vào chỗ không.
Tống Thanh Thư không cách nào có thể thu chân về, liền tiện đà bước tới một bước, gót chân trái nhắm ngay lưng Trương Vô Kỵ đạp trở lại, chiêu đó vừa nhanh lại vừa ác liệt, là một chiêu số cực kỳ cao minh khó ai liệu nổi. Thế nhưng mấy ngón tay của Trương Vô Kỵ lại phất nhẹ, lập tức đẩy ngay gót chân y ra ngoài.
Ba chiêu qua, những người chung quanh ai nấy đều lạ lùng. Tống Viễn Kiều kêu lên:
- Thanh Thư, bản thân y không còn một chút hơi sức nào cả, đây là phép bốn lượng gạt nghìn cân đấy thôi.
Ông nhãn quang già dặn, nhìn thấy Trương Vô Kỵ hoàn toàn mất hết kình lực, công phu sử dụng có vẻ quái dị, nhưng căn bản cũng không ngoài phương pháp mượn sức đánh sức trong võ học.
Tống Thanh Thư được cha lên tiếng chỉ bảo, chiêu số liền biến đổi, hai tay nhẹ nhàng phiêu phiêu, khi có khi không đánh ra, chính là Miên Chưởng, một trong những tuyệt học của phái Võ Đương. Tá lực đả lực chính là căn bản võ công của phái Võ Đương nên Miên Chưởng y sử dụng lúc có lúc không chính là để đối phương không có cách nào mượn sức. Thế nhưng Trương Vô Kỵ đã luyện đến Càn Khôn Đại Na Di thần công cấp thứ bảy, Miên Chưởng tuy nhẹ nhàng nhưng vẫn hữu hình hữu kình, tay trái chàng chặn vết thương trên ngực, năm ngón tay phải tưởng như gảy đàn, lúc khẩy lúc xoay, khi búng khi gạt, nửa thân trên hoàn toàn bất động, trong giây lát đã hoàn toàn hóa giải ba mươi sáu chiêu Miên Chưởng của Tống Thanh Thư.
Tống Thanh Thư hết sức kinh hãi, ngẫu nhiên quay đầu, chạm phải ánh mắt Chu Chỉ Nhược, thấy nàng mặt đầy vẻ lo âu, cảm thấy vừa cay cú vừa tức bực, biết nàng quan thiết không phải cho mình, lập tức hít một hơi dài, tay trái giơ ra tát mạnh mào má Trương Vô Kỵ, tay phải giơ chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái. Chiêu đó có tên là Hoa Khai Tịnh Đế, tên dễ nghe như vậy nhưng chiêu số cực kỳ lợi hại, hai tay đánh xong rồi, lập tức tay phải biến thành tát, tay trái biến thành chỉ điểm vào huyệt Khuyết Bồn của vai bên phải. Cả hai chiêu Hoa Khai Tịnh Đế liền lạc thành một, liên tiếp bốn thức đánh ra, tưởng như gió táp mưa sa, thế đạo cực kỳ mãnh liệt, thủ pháp nhanh nhẹn cấp kỳ, quả thật ghê gớm không thể tả. Mọi người trông thấy tình hình như thế ai nấy hoảng hốt kêu lên, không hẹn mà cùng tiến lên một bước.
Chỉ nghe bốp bốp hai tiếng thật dòn, chưởng trái của Tống Thanh Thư đánh luôn vào má trái của mình, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn trên đầu vai trái, tiếp theo chưởng phải đánh luôn vào má bên phải, tay trái lại điểm luôn vào huyệt Khuyết Bồn bên phải. Bốn thức của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế Tống Thanh Thư đánh ra đều trúng cả, nhưng bị Trương Vô Kỵ dùng Càn Khôn Đại Na Di công phu đẩy ngược lại chính mình. Nếu y đánh ra chậm đi một tí, thì khi huyệt Khuyết Bồn trên vai phải của mình bị điểm rồi, hai chiêu sau không có lực đánh ra, nhưng vì bốn thức liên hoàn, cực kỳ nhanh nhẹn, huyệt bên vai trái tuy đã bị điểm rồi, cánh tay vẫn chưa kịp tê, đến khi sử xong nửa sau của chiêu Hoa Khai Tịnh Đế rồi, bấy giờ chân tay mới nhũn ra, bình một tiếng ngã ngửa, vùng vẫy một hồi mới đứng lên được.
Tống Viễn Kiều lập tức lao vụt ra, tay trái nắn mấy cái, giải khai huyệt đạo cho con. Chỉ thấy hai bên má y sưng vù, mỗi bên hằn vết năm ngón tay tím bầm, biết y bị thương tuy nhẹ nhưng Tống Thanh Thư tâm cao khí ngạo, hôm nay bị nhục trước mặt mọi người, so với giết y đi còn dễ chịu hơn, thành thử không nói một lời, dắt tay con trở về bản phái.
Bấy giờ bốn bên tiếng hoan hô nổi lên, kẻ đứng lên, người ngồi xuống, bàn tán khen ngợi xôn xao, nghe ù cả tai. Đột nhiên Trương Vô Kỵ há hốc mồm, ọc ra một ngụm máu tươi, tay chặn ngực ho lên sù sụ. Mọi người chăm chăm nhìn chàng, hết sức lo lắng, nghĩ thầm: “Y sau khi bị thương nặng rồi còn phải cố gắng chống đỡ thế tấn công như bão táp của Tống Thanh Thư, tuy đắc thắng, nhưng nội lực tiêu hao rất nhiều”. Có người nhìn chàng, rồi lại nhìn phái Võ Đương, không biết đã chịu thua chưa, hay vẫn cử người khác ra đấu tiếp.
Tống Viễn Kiều nói:
- Việc ngày hôm nay, phái Võ Đương cũng đã tận lực rồi, chắc rằng ma giáo khí số chưa dứt, nên trời mới sai một thanh niên kỳ quái xuống đây. Nếu còn tiếp tục đấu dây dưa mãi, danh môn chính phái và ma giáo có khác gì nhau?
Du Liên Châu nói:
- Đại ca nói đúng lắm. Bọn ta hôm nay lập tức quay về núi, xin sư phụ chỉ điểm thêm. Ngày sau phái Võ Đương có dịp quay lại, đợi thanh niên này thương thế khỏi rồi, tái quyết thắng phụ.
Mấy câu đó ông nói thật quang minh lỗi lạc, hào khí ngùn ngụt, hôm nay tuy thua, nhưng không tin là phái Võ Đương tài nghệ lại chịu kém người. Trương Tùng Khê và Mạc Thanh Cốc cũng nói:
- Quả đúng như thế.
Bỗng nghe soạt một tiếng, Ân Lê Đình đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, đôi mắt rưng rưng, hung hăng tiến tới, mũi kiếm chỉ vào Trương Vô Kỵ, nói:
- Họ Tăng kia, ta và ngươi vô oán vô cừu, nếu bây giờ ra tay giết ngươi, Ân Lê Đình này không đáng xưng là “hiệp nghĩa”. Thế nhưng Dương Tiêu và ta thù sâu như bể, ta không giết y không xong, ngươi đứng tránh ra.
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Vãn bối còn một hơi thở, quyết không để ai giết một người nào của Minh giáo.
Ân Lê Đình nói:
- Nếu thế ta phải giết ngươi trước.
Trương Vô Kỵ lại hộc ra một ngụm máu, thần trí hôn mê, tâm tình khích động, thều thào nói:
- Ân lục thúc, lục thúc giết cháu đi.
Ân Lê Đình nghe thấy ba tiếng “Ân lục thúc” giọng điệu cực kỳ quen thuộc, trong đầu chợt lóe lên: “Vô Kỵ khi còn bé vẫn thường gọi ta như thế, thanh niên này...”. Ông chăm chăm nhìn chàng, càng nhìn càng thấy giống, tuy xa cách đã chín năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé nay thành một thanh niên tráng kiện, tướng mạo đã thay đổi rất nhiều, nhưng trong lòng Ân Lê Đình đã nghĩ rằng “không lẽ đây là cháu Vô Kỵ”, nên khi nhìn kỹ, từng điểm từng điểm khuôn mặt xưa kia của Vô Kỵ hiện ra, giật mình run run kêu lên:
- Ngươi... ngươi là Vô Kỵ đấy ư?
Trương Vô Kỵ toàn thân không còn một chút khí lực, biết mình sắp chết đến nơi, không còn gì để phải dấu diếm, kêu lên:
- Ân lục thúc, cháu... cháu lúc nào cũng... nhớ tới chú.
Ân Lê Đình nước mắt ròng ròng, nghe keng một tiếng ném luôn thanh kiếm, cúi xuống bế ngay chàng lên, kêu lớn:
- Ngươi là Vô Kỵ, ngươi là cháu Vô Kỵ, ngươi là thằng cháu con của ngũ ca Trương Vô Kỵ.
Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người lập tức vây quanh, vừa mừng vừa sợ. Trong giây lát ai nấy đều hết sức hoan hỉ, bao nhiêu thù hận tranh chấp của sáu đại môn phái và Minh giáo đều biến mất. Tiếng kêu của Ân Lê Đình, trừ vợ chồng Hà Thái Xung, Chu Chỉ Nhược, Dương Tiêu vài người, những người khác ai nấy đều kinh ngạc, ai dám ngờ kẻ xả mệnh cứu Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đương.
Ân Lê Đình thấy Trương Vô Kỵ đã ngất đi, vội vàng lấy ra một viên Thiên Vương Hộ Tâm Đơn nhét vào miệng chàng, đưa cho Du Liên Châu bế, nhặt trường kiếm lên, xông đến trước mặt Dương Tiêu, chỉ vào mặt mắng:
- Họ Dương kia, ngươi là một dâm đồ không bằng loài cầm thú, ta... ta...
Chàng nghẹn lời, không chửi thêm được nữa, trường kiếm vung ra, định đâm vào ngực Dương Tiêu. Dương Tiêu không thể cử động được, mỉm cười, nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên bên cạnh một thiếu nữ chạy vụt ra, chắn ngay trước mặt Dương Tiêu, kêu lên:
- Đừng giết cha tôi.
Ân Lê Đình ngừng kiếm lại không đâm tới, nhìn kỹ, đột nhiên “A” lên một tiếng, toàn thân run rẩy, thấy cô gái nọ thân hình mảnh mai, mắt to mày dài, chính là Kỷ Hiểu Phù chứ ai đâu.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #32  
Old 11-04-2012, 02:25 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 22

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 22

QUẦN HÙNG QUI TÂM ƯỚC TAM CHƯƠNG


Từ khi chàng dự tính kết thân với Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi luyện võ có chút thì giờ thong thả, trong đầu lại êm đềm tơ tưởng đến hình ảnh yêu kiều của người vị hôn thê. Về sau khi nghe tin nàng bị Dương Tiêu bắt cóc, thất thân cùng y, lại vì đó mà táng mạng, trong lòng phẫn uất không nói cùng ai được; bây giờ đột nhiên gặp lại nàng, thân hình loạng choạng, kêu lên thất thanh:
- Hiểu Phù muội tử, em... em...
Người con gái đó chính là Dương Bất Hối, nói:
- Tôi họ Dương, Kỷ Hiểu Phù là mẹ tôi, bà ấy chết lâu rồi.
Ân Lê Đình sững sờ, bấy giờ mới hiểu, lẩm bẩm:
- Ừ, đúng rồi, tôi thật hồ đồ. Cô tránh ra, hôm nay tôi vì mẹ cô mà báo thù rửa hận.
Dương Bất Hối chỉ Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Hay lắm! Ân thúc thúc, chú lại giết lão tặc ni kia đi.
Ân Lê Đình lắp bắp:
- Sao... sao lại thế?
Dương Bất Hối đáp:
- Mẹ tôi bị lão tặc ni đánh một chưởng chết đó.
Ân Lê Đình nói:
- Nói nhăng nói cuội nào. Cô là trẻ con biết gì đâu?
Dương Bất Hối lạnh lùng đáp:
- Hôm xưa ở Hồ Điệp Cốc, lão tặc ni sai mẹ tôi đi giết cha tôi, mẹ tôi không chịu, lão tặc ni liền đánh chết mẹ tôi. Chính mắt tôi trông thấy, Vô Kỵ ca ca cũng trông thấy. Nếu chú không tin, sao không tự mình lại hỏi lão tặc ni thử xem.
Khi Kỷ Hiểu Phù chết, Dương Bất Hối còn nhỏ không hiểu chuyện gì, nhưng về sau lớn lên, nghĩ lại tự nhiên hiểu được chuyện năm xưa. Ân Lê Đình quay đầu lại, nhìn Diệt Tuyệt sư thái, nét mặt ngờ vực, ấp úng hỏi:
- Sư thái... cô ta nói... Kỷ cô nương bị...
Diệt Tuyệt sư thái giọng khàn khàn đáp:
- Đúng vậy, thứ nghiệt đồ vô liêm sỉ đó, để sống trên đời này làm gì? Nó với Dương Tiêu hai người tình ý với nhau, phản bội sư môn, không nghe lệnh thầy đi giết tên dâm đồ ác tặc. Ân lục hiệp, vì muốn giữ thể diện cho lục hiệp, ta trước sau cố nhịn không nói ra. Hừ, thứ con gái vô sỉ đó, sao lục hiệp vẫn canh cánh không quên là sao?
Ân Lê Đình mặt tái đi, lớn tiếng kêu:
- Ta không tin, ta không tin.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Ông hỏi con bé kia xem, tên nó là gì?
Mắt Ân Lê Đình chuyển qua nhìn Dương Bất Hối, nước mắt chan hòa, mông lung chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù, tai nghe rõ ràng tiếng nàng nói:
- Tôi tên Dương Bất Hối. Mẹ tôi bảo rằng, chuyện này mẹ tôi không bao giờ hối hận cả.
Keng một tiếng, Ân Lê Đình ném trường kiếm xuống đất, quay người lại, hai tay ôm mặt chạy xuống núi. Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu cùng gọi:
- Lục đệ, lục đệ.
Thế nhưng Ân Lê Đình không trả lời, cũng chẳng quay đầu, đề khí chạy thật nhanh, bỗng nhiên xẩy chân vấp một cái, lại đứng dậy, chỉ giây lát không còn thấy bóng dáng đâu nữa.
Chuyện của chàng và Kỷ Hiểu Phù mọi người ai cũng nghe qua, biết đến, thấy việc đã hơn mười năm mà vẫn còn thương tâm như vậy, không khỏi đau lòng dùm, võ công như Ân lục hiệp của phái Võ Đương, lẽ nào lại chạy có thể vấp được? Chẳng qua chỉ vì ý loạn tình mê, mất hồn mất vía mà ra cớ sự.
Bấy giờ Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc bốn người ngồi bốn phía, mỗi người giơ một chưởng ra, đè lên bụng ngực, lưng eo bốn nơi đại huyệt của Trương Vô Kỵ vận nội công giúp chàng trị thương. Bốn người vừa nhả nội lực, thấy trong thân thể chàng có một sức hút rất mạnh, cuồn cuộn tuôn ra. Bốn người kinh hãi, nghĩ thầm nếu cứ tiếp tục bị hút như thế, chỉ trong một hai giờ, không ai còn chút nội lực nào nữa. Thế nhưng chưa biết chàng sống chết ra sao, biết làm thế nào cho phải? Còn đang phân vân, Trương Vô Kỵ từ từ mở mắt ra, kêu “A” lên một tiếng. Cả bọn Tống Viễn Kiều thấy giật một cái, lòng bàn tay có một luồng hơi ấm, chính là Cửu Dương thần công của chàng đang truyền ngược lại cho bốn người.
Tống Viễn Kiều kêu lên:
- Không được đâu, cháu tĩnh dưỡng cho mình cần hơn.
Bốn người vội rụt tay về đứng lên, thấy như có một dòng suối chạy quanh cơ thể, khoan khoái vô cùng, hiển nhiên không những chàng đã trả lại nội lực đã mượn, mà chân khí Cửu Dương còn tuôn vào, tăng cường nội lực cho họ nữa. Cả bọn ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc thầm, thấy chàng bị thương tưởng chết, không ngờ nội lực vẫn còn hồn hậu mạnh mẽ đến thế.
Đến lúc này, Trương Vô Kỵ ngoại thương tuy nặng, nội tức đã lưu chuyển như thường, từ từ đứng lên, nói:
- Tống đại bá, Du nhị bá, Trương tứ bá, Mạc thất thúc, xin tha cho điệt nhi tội vô lễ. Chẳng hay thái sư phụ lão nhân gia phúc thể có an khang chăng?
Du Liên Châu đáp:
- Sư phụ lão nhân gia vẫn mạnh khỏe. Vô Kỵ, cháu... cháu... lớn quá rồi...
Nói đến đây, trong đầu tuy có trăm nghìn điều muốn nói, nhưng nghẹn ngào không nên lời, chỉ nở một nụ cười, nước mắt long lanh chạy quanh.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thấy đại ân nhân cứu mạng cho mình lại chính là đứa cháu ngoại, cao hứng quá cười lên ha hả, nhưng vẫn không cách nào đứng lên được. Diệt Tuyệt sư thái mặt tím ngắt, phất tay một cái, lập tức dẫn quần đệ tử phái Nga Mi xuống núi.
Chu Chỉ Nhược cúi đầu đi mấy bước, sau cùng không nhịn nổi phải liếc Trương Vô Kỵ một cái. Trương Vô Kỵ lúc ấy cũng nhìn theo tiễn nàng, ánh mắt hai người gặp nhau, đôi má trắng bệch của Chu Chỉ Nhược liền đỏ bừng lên, nhãn quang dường như muốn nói: “Em đâm chàng một kiếm bị thương nặng như thế, thật đáng tội biết bao nhiêu, chàng cố gắng bảo trọng thân thể”. Trương Vô Kỵ dường như cũng hiểu ý nàng, nhè nhẹ gật đầu. Chu Chỉ Nhược lập tức mặt mày sáng rỡ, thần thái phi dương, vội quay lại rảo bước ra đi.
Phái Võ Đương và Trương Vô Kỵ nhận ra nhau rồi, kế đến phái Nga Mi bỏ đi, công việc vi tiễu Minh giáo của lục đại môn phái không nói mà tan. Phái Không Động, phái Hoa Sơn kẻ khiêng người chết, dìu người bị thương cũng lục tục xuống núi.
Hà Thái Xung tiến lên mấy bước, ấp úng nói:
- Tiểu huynh đệ, chúc mừng huynh đệ và người thân gặp lại a...
Trương Vô Kỵ không đợi ông ta nói hết câu, móc trong túi ra hai viên thuốc trừ lam sơn, chướng khí, khứ uế tầm thường, đưa cho ông ta, dặn:
- Xin hiền phu phụ mỗi người uống một viên, Kim Tàm trùng độc sẽ tiêu giải.
Hà Thái Xung nhận hai viên thuốc, chỉ thấy màu đen xì chẳng đẹp chút nào, không tin rằng có thể tiêu trừ được thiên hạ chí độc Kim Tàm trùng. Trương Vô Kỵ nói:
- Tại hạ đã nói tiêu giải được, thì tiêu giải được.
Tiếng nói của chàng tuy còn yếu ớt, nhưng trận chiến trên đỉnh Quang Minh trấn nhiếp cả sáu môn phái, trong khí độ đó tự nhiên giọng nói có một vẻ uy nghiêm, khiến Hà Thái Xung không thể không tin. Y nghĩ thầm: “Nếu y nói láo, thuốc này không tiêu giải được trùng độc thì có Võ Đương tứ hiệp ở đây, cũng không thể nào ép y cho mình thuốc thật được. Huống chi thêm lão trọc Không Tính của phái Thiếu Lâm lại có vẻ như bênh gã này, hôm nay chỉ đành chịu vậy biết sao hơn”. Nghĩ thế đành cười gượng nói:
- Cám ơn.
Chia cho Ban Thục Nhàn mỗi người uống một viên, chỉ huy môn nhân đệ tử thu thập người chết, cáo từ hạ sơn.
Du Liên Châu nói:
- Vô Kỵ, cháu bị thương nặng không thể xuống núi, tốt hơn hết là ở đây điều dưỡng, bọn ta không thể ở lại với cháu được. Bao giờ khỏi rồi thì đi về núi Võ Đương một chuyến, để sư phụ gặp lại cháu cho người được vui.
Trương Vô Kỵ nuốt nước mắt gật đầu. Mỗi người có biết bao nhiêu chuyện cần hỏi, bao nhiêu điều cần nói, nhưng thấy chàng thần tình ủ rũ, biết rằng nói thêm một câu chỉ làm thương thế chàng nặng thêm một chút, nên đành nhịn không ai mở lời.
Bỗng nghe từ phái Thiếu Lâm có người lớn tiếng kêu lên:
- Thi thể Viên Chân sư huynh đâu mất rồi?
Lại có người tiếp theo:
- Lạ nhỉ, sao không thấy pháp thể Viên Chân sư bá đâu?
Mạc Thanh Cốc cảm thấy lạ lùng, bước qua xem thử, thấy bảy tám xác nhà sư chết trong khi giao chiến thu thập tại đó, quả nhiên không thấy Viên Chân đâu. Viên Âm chỉ vào giáo chúng Minh giáo, lớn tiếng quát:
- - Mau đem pháp thể Viên Chân sư huynh giao ra ngay, nếu không hòa thượng này nổi khùng lên, cho một mồi lửa thì chúng bay thành tro hết.
Chu Điên cười:
- Ha ha, ha ha! Thật là tức cười quá đỗi. Đến thằng trọc sống là ngươi bọn ta chẳng cần, thì lấy hòa thượng chết để làm gì? Chẳng lẽ làm như con lợn con dê, mổ ra lấy xương gặm hay sao?
Người của phái Thiếu Lâm nghĩ cũng phải, hơn một chục nhà sư liền tản ra tìm kiếm nhưng không ai thấy thi thể Viên Chân đâu. Mọi người tuy lạ lùng, nhưng chắc có lẽ phái Hoa Sơn, Không Động khi thu thập đệ tử bản môn đã lấy nhầm xác Viên Chân, nên cũng không kiếm thêm nữa.
Sau đó hai phái Võ Đương, Thiếu Lâm lần lượt xuống núi. Trương Vô Kỵ tiến lên mấy bước, khom lưng tiễn đưa. Tống Viễn Kiều nói:
- Vô Kỵ hài nhi, cuộc chiến hôm nay, tên tuổi con đã vang khắp thiên hạ, đối với Minh giáo ân trọng như sơn. Cháu từ nay nên khuyên răn dẫn dắt, làm sao cho Minh giáo cải tà qui chính, bớt làm điều xằng bậy.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hài tử xin ghi nhớ lời giáo huấn của sư bá, sẽ hết sức để làm chuyện ấy.
Trương Tùng Khê nói:
- Con phải hết sức cẩn thận, mọi việc đề phòng tiểu nhân gian ác.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xin vâng.
Chàng và Võ Đương tứ hiệp xa cách lâu ngày, nay mới gặp lại chia tay ngay, năm người ai nấy lưu luyến không muốn rời.
Dương Tiêu và Ân Thiên Chính đợi cho mọi người của sáu môn phái đi rồi, đưa mắt nhìn nhau, cùng nói:
- Toàn thể giáo chúng Minh giáo và Thiên Ưng giáo, rập đầu tạ ơn Trương đại hiệp hộ giáo cứu mạng.
Chỉ trong khoảnh khắc, toàn thể mọi người cùng quì xuống đầy cả mặt đất. Trương Vô Kỵ thấy thế chân tay quýnh quáng, huống chi trong đó lại có cả ông ngoại và cậu mình, vội vàng quì xuống hoàn lễ. Chàng hành động gấp gáp, vết thương trên ngực lại bung ra, miệng phun ra mấy ngụm máu, lập tức ngất đi.
Tiểu Siêu vội tiến lên đỡ dậy. Hai đầu mục không bị thương trong số giáo chúng liền mang lên một cái giường vải, để chàng nằm lên. Dương Tiêu nói:
- Mau đưa Trương đại hiệp vào phòng ta tĩnh dưỡng.
Hai tên đầu mục khom lưng vâng lệnh, đưa Trương Vô Kỵ vào phòng của Dương Tiêu. Tiểu Siêu lẽo đẽo theo sau, khi qua trước mặt Dương Bất Hối, Dương Bất Hối lạnh lùng nói:
- Tiểu Siêu, ngươi giả vờ thật khéo. Ta đã biết ngươi có điều gì khác lạ, chỉ không ngờ một người xấu như ma hóa ra lại là một tiểu mỹ nhân thiên kiều bách mị.
Tiểu Siêu cúi đầu không trả lời. Trong mấy ngày liền, giáo chúng Minh giáo lo chuyện ma chay chữa trị, bận rộn đủ mọi chuyện. Qua một trận đại chiến tưởng chừng cả bọn phải bỏ mình, ai nấy đều thấy chuyện tranh giành chém giết nhau trước đây để cho người ngoài khai thác quả là không phải. Ai ai cũng lo cho thương thế của Trương Vô Kỵ, không người nào dám nhắc lại thù xưa, chỉ yên ổn nằm dưỡng thương trên Quang Minh Đính.
Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ đã thành, tuy vết thương có nặng thật, nhưng khi Chu Chỉ Nhược đâm vào lệch qua mấy tấc, chỉ trúng lá phổi mà không trúng tim, thành ra chỉ tĩnh dưỡng bảy tám ngày thì miệng vết kiếm đã dần dần khép lại. Bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cũng phải nằm trên cáng vải, ngày nào cũng cho người khiêng vào thăm nom, thấy chàng càng ngày càng khá thêm ai nấy đều mừng rỡ.
Đến ngày thứ tám, Trương Vô Kỵ đã ngồi dậy được. Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu lại đến hỏi thăm, Trương Vô Kỵ hỏi:
- Hai vị từ khi trúng phải Huyễn Âm Chỉ đến giờ, mấy hôm nay thấy sao?
Dương Vi hai người ngày nào cũng bị hàn độc thấu xương dày vò khổ sở, thương thế xem ra mỗi lúc một nặng nhưng sợ chàng lo lắng nên cùng đáp:
- Xem ra đỡ nhiều.
Trương Vô Kỵ thấy hai người mặt xám ngoét, nói năng thều thào yếu ớt nói:
- Nội lực của cháu đã hồi phục được sáu, bảy phần, để cháu thử trị cho hai vị xem sao.
Dương Tiêu vội nói:
- - Chớ, chớ nên! Trương đại hiệp làm gì mà gấp gáp thế? Đợi khi nào quí thể hoàn toàn khỏi hẳn, lúc đó hãy chữa cho chúng tôi cũng không muộn. Bây giờ sử lực quá sớm, vết thương quay trở lại, chúng tôi sao an lòng?
Vi Nhất Tiếu nói:
- Chữa sớm hay muộn đâu phải chỉ vài ngày. Trương đại hiệp tĩnh dưỡng mới là quan trọng.
Trương Vô Kỵ nói:
- Oâng ngoại cháu Ưng Vương, nghĩa phụ cháu Sư Vương đều ngang vai với hai vị, hai vị là bề trên của cháu, nếu còn gọi “đại hiệp” gì gì đó, điệt nhi đâu có dám nhận.
Dương Tiêu mỉm cười nói:
- Sau này chúng tôi đều là thuộc hạ của đại hiệp, ở trước mặt ngài đến ngồi cũng không được ngồi, đâu dám nói chuyện vai trên, vai dưới.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, hỏi lại:
- Dương bá bá nói thế là sao?
Vi Nhất Tiếu đáp:
- Trương đại hiệp, trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, nếu không do ngài đảm trách, thì còn ai vào đây nữa?
Trương Vô Kỵ hoảng hốt xua tay, nói ngay:
- - Ấy chết, chuyện đó không thể được, nhất quyết không thể được.
Ngay lúc đó, từ hướng đông có tiếng còi lanh lảnh chói tai xa xa truyền đến, chính là tín hiệu dưới chân Quang Minh Đính có việc phải báo động. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Không lẽ lục đại môn phái thua nhưng chưa phục, quay lại đánh nữa hay sao?”. Thế nhưng mặt hai người vẫn trấn tĩnh như thường, Dương Tiêu hỏi:
- Hôm qua nhân sâm ăn có vừa miệng không? Tiểu Siêu, ngươi trở lại dược thất lấy thêm, sắc cho Trương đại hiệp dùng.
Lại nghe phía tây và phía nam tiếng còi cùng nổi lên, Trương Vô Kỵ hỏi:
- Có ngoại địch đến tấn công ư?
Vi Nhất Tiếu nói:
- Bản giáo và Thiên Ưng giáo không thiếu hảo thủ, Trương đại hiệp không phải quan tâm, vài tên giặc cỏ có đáng gì đâu?
Thế nhưng chỉ trong giây lát, tiếng còi nổi lên càng gần, địch nhân tiến vào thật nhanh, hiển nhiên chẳng phải chỉ là giặc cỏ. Dương Tiêu nói:
- Để tôi ra sắp xếp, Vi huynh ở trong này bồi tiếp Trương đại hiệp. Ha ha, Minh giáo không lẽ tệ hại đến nỗi ai ai cũng có thể khinh khi được hay sao?
Ông ta tuy bị thương nặng không cử động nổi, nhưng trong giọng vẫn đầy hào khí. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thiếu Lâm, Nga Mi là danh môn chính phái, nhất quyết không thể bất kể tín nghĩa, quay lại báo thù. Kẻ đến đây ắt là bọn gian ác, tàn nhẫn, trên Quang Minh Đính cao thủ đều bị trọng thương, trong bảy tám ngày qua đâu đã ai khỏi, không thể nào chống lại ngoại địch cho nổi, nếu như miễn cưỡng xuất chiến, chỉ uổng mạng mà thôi”.
Đột nhiên bên ngoài có bước chân rầm rập, một người chạy vào, mặt đầy máu, trên ngực còn cắm một con dao găm, kêu lên:
- Địch nhân từ ba mặt... đánh lên trên núi... anh em không... không chống nổi...
Vi Nhất Tiếu hỏi lại:
- Địch nhân nào thế?
Người kia chỉ tay ra ngoài, đang định nói gì, bỗng ngã sấp mặt xuống, chết rồi. Lại nghe tiếng còi kêu gọi cứu viện, chỗ này ngừng thì chỗ kia nổi lên, rõ ràng tình hình thật là cấp bách.
Lại có thêm hai người chạy đến, Dương Tiêu nhận ra người đi trước là chưởng kỳ phó sứ Hồng Thủy Kỳ, trên mình đầy máu, mặt mày gớm ghiếc như ma quỉ nhưng vẫn có vẻ trấn tĩnh, hơi cúi mình, bẩm:
- Trương đại hiệp, Dương tả sứ, Vi pháp vương, bên dưới chân núi đến tấn công là nhân vật trong Cự Kình Bang, phái Hải Sa, Thần Quyền Môn các lộ.
Dương Tiêu lông mày nhướng lên, hừ một tiếng nói:
- Mấy tên nhãi nhép đó mà cũng dám coi thường mình sao?
Chưởng kỳ phó sứ đáp:
- Địch nhân vốn không có gì lợi hại, có điều anh em hầu hết đều mang thương tích...
Y nói đến đây, Lãnh Khiêm, Thiết Quan đạo nhân Trương Trung, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên năm người lục tục do người khiêng đến. Chu Điên hổn hển quát lớn:
- Bọn Cái Bang giỏi thật, dám cấu kết với Tam Môn Bang, Vu Sơn Bang đến đây cháy nhà hôi của, Chu Điên này còn một hơi thở, cùng chúng nó suốt đời không...
Y nói đến đây, hai cha con Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương cũng chống gậy, tiến vào phòng. Ân Thiên Chính nói:
- Vô Kỵ hài nhi, cháu cứ ngủ đi đừng lo gì cả. Con mẹ nó chứ hai cái môn phái bé tí teo là Ngũ Phụng Đao và Đoạn Hồn Thương mà cũng dám coi chúng ta không ra gì ư?
Trong đám ở đây, trong Minh giáo thì Dương Tiêu có địa vị cao nhất, còn Ân Thiên Chính là giáo chủ của Thiên Ưng giáo, Bành Oánh Ngọc là người mưu trí hơn cả, ba người bình sinh gặp không biết bao nhiêu phong ba bão táp, lần nào cũng tùy cơ mà ứng xử, chuyển nguy thành an, thế nhưng trước mặt hãm vào tuyệt cảnh, mọi người ai nấy trọng thương, kẻ địch lại đến đánh, không nói gì những bang hội môn phái khác, riêng Cái Bang vốn là đệ nhất đại bang trên giang hồ, trong bang rất nhiều nhân tài, thanh thế thật không phải nhỏ, xem ra chỉ còn nước bó tay chịu chết. Lúc này ai ai đều coi Trương Vô Kỵ như giáo chủ, không hẹn mà cùng nhìn chàng mong đưa ra kế lạ giải quyết cảnh ngộ khó khăn.
Trương Vô Kỵ trong giờ phút ấy, trong đầu xoay chuyển bao nhiêu ý niệm. Chàng biết rằng tuy võ công so với Dương Tiêu, ông ngoại, Vi Nhất Tiếu mình có giỏi hơn, nhưng kiến thức mưu kế, những cao thủ kia đương nhiên hơn chàng rất nhiều, nếu họ không có kế hay, thì mình làm sao có thể có được biện pháp lạ cho được. Còn đang suy nghĩ, đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vội buột miệng nói ngay:
- Bọn mình tạm thời chui xuống bí đạo trốn tránh, địch nhân chưa chắc đã phát giác được, nếu có tìm ra, nhất thời chưa chắc đã đánh vào được.
Chàng nghĩ ra kế đó, tự cảm thấy đây là cách tốt nhất trong lúc này, giọng đầy hào hứng, nào ngờ mọi người ai nấy ngơ ngẩn nhìn nhau, không ai lên tiếng phụ họa, dường như đều cho rằng phương pháp đó không thể nào thi hành được. Trương Vô Kỵ nói:
- Đại trượng phu khi co khi duỗi, bọn mình chỉ tạm thời trốn tránh, đợi khi thương thế khỏi rồi sẽ cùng địch nhân một phen sống mái, cái đó cũng không có gì gọi là mất uy danh.
Dương Tiêu nói:
- Kế của Trương đại hiệp hay lắm.
Oâng ta quay lại nói với Tiểu Siêu:
- Tiểu Siêu, ngươi đỡ Trương đại hiệp vào đường hầm đi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tất cả mình cùng vào.
Dương Tiêu đáp:
- Mời Trương đại hiệp vào trước, chúng tôi sẽ đi sau.
Trương Vô Kỵ nghe giọng điệu của ông ta, biết họ sẽ không đi cùng, chẳng qua nói thế để mình đi đấy thôi, lớn tiếng nói:
- Các vị tiền bối, cháu tuy không phải người trong quí giáo, nhưng đã cùng quí giáo qua chung một phen hoạn nạn, có thể nói l à sinh tử chi giao. Không lẽ cháu lại là người tham sống sợ chết, bỏ các vị lại, một mình mình đi lánh nạn hay sao?
Dương Tiêu đáp:
- Trương đại hiệp có điều chưa hiểu rõ, Minh giáo trước nay truyền lại nghiêm qui, cái bí đạo trên Quang Minh Đính này, ngoại trừ giáo chủ ra, các giáo chúng bản giáo không một ai được vào cả, ai vào thì mang tội chết. Đại hiệp và Tiểu Siêu không thuộc Minh giáo, nên không phải giữ cái qui củ này.
Bấy giờ nghe văng vẳng tiếng kêu la chém giết từ bốn phương tám hướng truyền đến. Cũng may là đường đi trên Quang Minh Đính đều khó khăn, địa thế hiểm trở, chỗ nào cũng có cửa đá, khóa sắt, tuy Minh giáo không chống cự kịch liệt, kẻ đến tấn công cũng không dễ dàng vượt qua được. Lại thêm danh tiếng Minh giáo rất lớn, địch nhân vẫn còn e dè, không dám khinh suất tiến vào. Thế nhưng tiếng kêu la hò hét, xem chừng mỗi lúc một gần thêm. Đột nhiên nghe thấy từ xa vọng về mấy tiếng kêu rống lên khi sắp chết, hiển nhiên giáo chúng Minh giáo đã kiệt lực ngự địch, đến lúc này đang bị chém giết.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu không trốn tránh, chỉ e trong một giờ nữa thôi, Minh giáo trên dưới không còn ai sống sót”. Nghĩ thế bèn nói:
- Cái qui củ không được đi vào bí đạo này, không lẽ không thay đổi được hay sao?
Dương Tiêu mặt mày sầu thảm, buồn bã lắc đầu. Bành Oánh Ngọc đột nhiên nói:
- Các vị nghe tôi một lời: Trương đại hiệp võ công cái thế, nghĩa khí ngất trời, có đại ân mất còn sống chết với bản giáo. Chúng ta ủng hộ Trương đại hiệp lên làm giáo chủ đời thứ ba mươi tư của bản giáo. Nếu như giáo chủ ra lệnh, cho phép mọi người tiến nhập bí đạo, lúc đó tất cả chúng ta tuân lệnh giáo chủ, như thế không ai vi phạm giáo qui nữa.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu ai ai cũng đã có ý tôn Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ, nay nghe Bành hòa thượng nói thế, đều gật đầu khen hay. Trương Vô Kỵ vội vàng xua tay, nói:
- Tiểu tử tuổi còn nhỏ, kiến thức nông cạn, không tài không đức, đâu có dám đảm đương trách nhiệm lớn lao như thế? Lại thêm thái sư phụ cháu là Trương chân nhân năm xưa đã từng căn dặn, bảo cháu không được gia nhập Minh giáo, tiểu tử đã vâng dạ rồi. Lời của Bành đại sư thật vạn lần không dám.
Ân Thiên Chính nói:
- Ta là ông ngoại của cháu, bảo cháu gia nhập Minh giáo. Dẫu rằng ông ngoại sao thân bằng thái sư phụ được, chung qui thì cũng kẻ tám lạng, người nửa cân, lời của Trương chân nhân và của ta coi như ngang nhau đều không còn gì nữa, cứ xem như chưa ai từng nói gì. Gia nhập hay không gia nhập Minh giáo, toàn do cháu tự quyết định cả.
Ân Dã Vương cũng nói:
- Lại thêm một người cậu nữa không lẽ chẳng thêm một phần phân lượng nào ư? Người đời nói rằng, thấy cậu khác gì thấy mẹ. Mẹ cháu nay không còn nữa, ta có khác gì mẹ cháu đâu.
Trương Vô Kỵ nghe ông ngoại và cậu nói thế, trong lòng khó nghĩ, nói:
- Năm xưa Dương giáo chủ có một di thư, cháu lấy trong đường hầm ra, vốn định khi mọi người bị thương khỏi rồi sẽ đưa cho xem. Dương giáo chủ di mệnh cho nghĩa phụ cháu Kim Mao Sư Vương tạm nhiếp quyền giáo chủ.
Nói xong chàng lấy trong túi ra tờ thư của Dương Đính Thiên, giao lại cho Dương Tiêu. Bành Oánh Ngọc nói:
- Trương đại hiệp, đại trượng phu gặp lúc đại biến, không nề tiểu tiết. Tạ Sư Vương là nghĩa phụ của ngài, cũng có khác gì cha ruột, xưa nay con kế nghiệp cha, Tạ Sư Vương không có ở đây, vậy xin đại hiệp cứ theo di ngôn của Dương giáo chủ, tạm nhiếp chức giáo chủ.
Mọi người cùng nói:
- Nói thế đúng lắm.
Trương Vô Kỵ nghe thấy tiếng chém giết càng gần thêm, trong bụng càng thêm gấp rút, nhất thời không biết tính sao, nghĩ thầm: “Hiện tại chuyện cứu người là quan trọng, chuyện khác tính sau”. Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Các vị nếu như đã có lòng thương như thế, tiểu tử nếu không vâng lời ắt sẽ thành đại tội nhân của Minh giáo. Tiểu tử Trương Vô Kỵ, tạm nhiếp chức vị giáo chủ Minh giáo, qua khỏi khó khăn hôm nay rồi, lúc ấy xin các vị sẽ tuyển người hiền năng khác.
Mọi người cùng lớn tiếng hoan hô, tuy đại địch đã đến gần, họa như lửa cháy lông mày, nhưng ai nấy đều vui sướng hiện ra nét mặt. Ai nấy nghĩ rằng từ khi tiền giáo chủ Dương Đính Thiên bất ngờ mất đi, không ai thống suất, một đại giáo phái trên giang hồ trở nên tàn sát lẫn nhau, chia năm xẻ bảy. Kẻ gác đi mọi chuyện đứng ngoài cũng có, kẻ tự mình lập thành môn hộ cũng có, kẻ lại làm điều sằng bậy cũng có, khiến cho Minh giáo dần dần suy bại, mọi nguy cơ từ đó mà ra. Hôm nay trùng lập giáo chủ, có hi vọng trung hưng, làm sao mọi người không phấn chấn? Kẻ có thể hành động lập tức quì xuống vái lạy. Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương tuy là người thân thuộc trưởng bối cũng không ngoại lệ.
Trương Vô Kỵ vội vàng quì xuống hoàn lễ, nói:
- Xin các vị đứng lên. Nhờ Dương tả sứ truyền hiệu lệnh xuống: bản giáo từ trên xuống dưới, tất cả thoái nhập bí đạo.
Dương Tiêu đáp:
- Vâng! Cẩn tôn lệnh dụ giáo chủ. Khải bẩm giáo chủ, chúng ta cho Liệt Hỏa Kỳ phóng hỏa ngăn chặn địch, đốt hết phòng xá trên Quang Minh Đính. Địch nhân sẽ tưởng chúng ta bỏ chạy cả rồi, không biết có nên không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Kế này hay lắm, xin Dương tả sứ truyền lệnh cho.
Bụng nghĩ thầm: “Phép này Chu Trường Linh đã từng sử dụng, kế sách vốn dĩ hay, nhưng có điều y dùng để lường gạt ta mà thôi”. Dương Tiêu lập tức tuyền hiệu lệnh xuống, triệt hồi giáo chúng đang chống giữ, yêu cầu Hồng Thủy, Liệt Hỏa hai kỳ đoạn hậu, mọi người còn lại, rút lui vào đường hầm. Minh giáo là chủ, Thiên Ưng giáo là khách, nên truyền cho giáo chúng Thiên Ưng giáo rút xuống trước, kế đến là Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, các chức sự nhân viên trên Quang Minh Đính, Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hậu Thổ ba kỳ, Ngũ Tản Nhân và Vi Nhất Tiếu trước sau đi xuống. Sau khi Dương Tiêu và Trương Vô Kỵ rút xuống rồi, Hồng Thủy kỳ mới đi xuống, hai mặt đông tây lửa bốc lên ngất trời.
Lửa càng lúc càng cao, người trong Liệt Hỏa Kỳ tay cầm ống phun, liên tiếp phun thạch du[2] là đặc sản của vùng Tây Vực vào, thạch du gặp lửa bén ngay, bốc lên cực kỳ lợi hại, các môn các phái đến tấn công tuy đông, nhưng đều sợ lửa không dám tiến đến gần, chỉ xa xa vây bốn mặt, không cho người của Minh giáo chạy lọt mà thôi. Người của Liệt Hỏa Kỳ rút vào hầm rồi đóng cửa lại. Chẳng mấy chốc phòng xá đều sụp đổ, bịt chặt luôn cả miệng hầm
Lửa cháy liên tiếp hai ngày hai đêm vẫn chưa tắt hẳn. Quang Minh Đính là tổng đàn của Minh giáo, đã xây đắp hơn một trăm năm qua, mấy trăm căn sảnh đường, nhà cửa cực kỳ tráng lệ nay thành tro cả. Địch nhân đợi lửa tắt rồi, đi đến vùng lửa cháy xem xét, thấy một số lớn giáo đồ Minh giáo chết cháy đã thành than, không còn nhận ra ai với ai, chỉ nghĩ rằng giáo chúng Minh giáo thà chết không hàng, tự đốt mà chết, bọn Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu chắc cũng trong số đó.
Giáo chúng Thiên Ưng giáo và Minh giáo theo bản đồ đường hầm, chia nhau vào từng phòng để ở. Dĩ nhiên họ đã ở sâu trong lòng đất, bên trên tuy lửa cháy bừng bừng nhưng trong bí đạo không nghe tiếng gì cả, cũng không thấy nóng chút nào. Mọi người mang theo đủ lương thực nước uống, dù cho một hai tháng cũng không sợ đói khát. Minh giáo và Thiên Ưng giáo, kỳ nào về kỳ nấy, đàn nào về đàn nấy không nói một lời. Mọi người biết rằng bí đạo này vốn là thánh địa không được bén mảng tới, nhờ ân điển giáo chủ mới được vào để tị nạn, thành ra không ai dám tự ý đi lại.
Dương Tiêu và các nhân vật thủ lãnh đều xúm quanh thi thể vợ chồng Dương Đính Thiên, nghe Trương Vô Kỵ thuật lại làm sao nhặt được di thư của Dương giáo chủ, làm sao luyện thành Càn Khôn Đại Na Di thần công tâm pháp. Chàng nói xong, đem tấm da dê ghi tâm pháp giao lại cho Dương Tiêu. Dương Tiêu không nhận, khom lưng đáp:
- Dương tiền giáo chủ trong thư đã viết rõ ràng: Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp tạm do Tạ Tốn tiếp chưởng, về sau sẽ giao lại cho tân giáo chủ. Vậy thì tâm pháp này phải do chính giáo chủ chưởng quản.
Sau đó mọi người chuyền tay nhau đọc di thư của Dương Đính Thiên, ai nấy đền phẫn khái thở dài:
- Có ai ngờ một người thần dũng trí mưu như Dương giáo chủ, chỉ vì tình nghĩa vợ chồng đến nỗi tẩu hỏa nhập ma mà qui thiên. Nếu như chúng ta sớm được đọc lá thư này, thì đâu đến nỗi hôm nay thua một trận không còn manh giáp thế này.
Mọi người nghĩ đến đồng bọn bị chết thảm, chính mình phải bỏ chạy nhục nhã, ai nấy nghiến răng chửi bới Thành Côn. Dương Tiêu nói:
- Gã Thành Côn kia tuy là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, là sư phụ của Kim Mao Sư Vương nhưng trước kia chúng ta chưa ai gặp y lần nào, thấy người này quả thực là tâm kế. Thì ra mấy chục năm trước, y đã chăm chăm tìm cách phá hủy bản giáo rồi.
Chu Điên nói:
- Dương tả sứ, Vi Bức Vương, hai người đều rơi vào kế của y mà không hề hay biết, có thể nói là bất tài đó.
Y vốn định nói cả Ân Thiên Chính luôn, nhưng vì nể mặt giáo chủ nên không nhắc đến bốn chữ “lão già Bạch Mi” mà thôi. Dương Tiêu mặt đỏ lên, nói:
- Thế nhưng “lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”, tên ác tặc Thành Côn kia sau cùng cũng bị táng mạng dưới chưởng của Dã Vương huynh.
Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa Kỳ là Tân Nhiên hậm hực nói:
- Tên ác tặc Thành Côn kia làm biết bao điều ác nghiệt, vậy mà chết như thế thì quả thật là sướng cho y.
Mọi người bàn tán một hồi, rồi chia ra tĩnh tọa dụng công để dưỡng lành thương thế. Ở trong bí đạo bảy tám ngày, vết thương của Trương Vô Kỵ đã khỏi đến chín phần, thành một cái sẹo dài hơn tấc, liền ra tay trị cho các anh em bị ngoại thương. Tuy nơi đây dược vật thiếu thốn, nhưng với tài xoa nắn, châm cứu của chàng, vẫn chẳng kém gì một đại danh y. Trước kia mọi người chi biết rằng vị giáo chủ trẻ tuổi này võ công cao thâm không ai lường được, có biết đâu y đạo chàng cũng tinh thông đến thế, chẳng kém gì Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu năm xưa.
Lại thêm vài ngày nữa, kiếm thương của Trương Vô Kỵ hoàn toàn khỏi hẳn, lập tức vận Cửu Dương thần công giúp cho Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ngũ Tản Nhân khu trục hàn độc Huyễn Âm Chỉ trong người ra. Chỉ trong ba ngày, nội thương của các đại cao thủ đều hết, người nào người nấy ý khí phấn chấn, muốn ra khỏi đường hầm, tiến lên tấn công kẻ địch. Trương Vô Kỵ nói:
- Các vị thương thế mới khỏi, nội lực chưa đầy đủ, mình đã nhẫn nại lâu nay, vậy xin cố đợi thêm ít hôm nữa.
Mấy ngày đó mọi người càng ra công rèn luyện, kẻ võ công thấp thì mài đao dũa kiếm, kẻ võ công cao thì luyện khí vận kình, từ khi lục đại phái vi công Quang Minh Đính đến giờ, Minh giáo chỉ toàn là bị đánh thật là nhục nhã, bao nhêu oán khí đều tích tụ vào đây.
Buổi chiều hôm đó, Dương Tiêu đem giáo nghĩa tông chỉ của Minh giáo, các qui củ tương truyền từ đời trước đến nay, thế lực chi đàn các nơi thế nào, tính cách tài năng các nhân vật thủ lãnh, bẩm báo Trương Vô Kỵ hết cả.
Bỗng nghe tiếng dây xích leng keng, Tiểu Siêu bưng trà đem vào, đưa lên hai chén trà nóng. Trương Vô Kỵ nói:
- Dương tả sứ, cô gái này gần đây không làm điều gì sai trái, xin ông mở khóa thả cô ta ra đi.
Dương Tiêu đáp:
- Giáo chủ đã có lệnh, đâu không dám không theo.
Lập tức gọi Dương Bất Hối vào, nói:
- Bất Hối, giáo chủ dặn rằng con mở khóa cho Tiểu Siêu đi.
Dương Bất Hối đáp:
- Chìa khóa con để trong ngăn kéo trong phòng, không đem xuống đây.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cái đó cũng không sao, chìa khóa chắc đốt không cháy đâu.
Dương Tiêu đợi con gái và Tiểu Siêu ra khỏi rồi, nói:
- Giáo chủ, con tiểu a đầu Tiểu Siêu tuy tuổi nhỏ, nhưng lại thực là quái lạ, với nó không thể không lưu tâm giữ gìn.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Lai lịch tiểu cô nương đó ra sao?
Dương Tiêu trả lời:
- Nửa năm trước đây, thuộc hạ và Bất Hối xuống núi du ngoạn, gặp nó một thân một mình trong sa mạc, đang ngồi ôm hai cái xác chết khóc lóc. Chúng tôi liền đến gần tra hỏi, nó nói người chết chính là cha mẹ nó. Cha nó ở Trung Nguyên đắc tội với quan quân, cả nhà ba người bị xung quân đưa đi Tây Vực, mấy hôm trước vì không chịu nổi cảnh lăng nhục của quân Mông Cổ nên bỏ trốn. Cha mẹ nó bị thương nên kiệt lực hai người cùng chết cả. Tôi thấy đứa bé này còn nhỏ mà đã cô khổ lênh đênh, tuy mặt mày cực kỳ xấu xí, nhưng nói năng không đến nỗi ngu đần nên giúp nó chôn cha mẹ, nhận nó đem về hầu hạ Bất Hối.
Trương Vô Kỵ gật đầu nghĩ thầm: ‘Thì ra cha mẹ Tiểu Siêu cùng chết cả rồi, thân thế thật là đáng thương, chẳng khác gì ta cả”. Dương Tiêu nói tiếp:
- - Chúng tôi đưa Tiểu Siêu về Quang Minh Đính rồi, một hôm tôi dạy võ nghệ cho Bất Hối, Tiểu Siêu đứng bên cạnh nghe, nào ngờ khi tôi giải thích phương vị của sáu mươi tư quẻ, Bất Hối còn chưa hiểu, mắt của Tiểu Siêu đã nhìn đúng ngay vị trí rồi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Có lẽ cô ta thiên tư thông tuệ, ngộ tính so với Bất Hối muội tử nhanh hơn chăng?
Dương Tiêu nói:
- Lúc đầu thuộc hạ cũng nghĩ như thế cho nên rất cao hứng, nhưng chỉ suy nghĩ lại, bỗng khởi nghi, cố ý nói sai mấy câu khẩu quyết thật khó mà tôi chưa dạy Bất Hối bao giờ. Lúc đó mặt trời đã ngả về phương tây, địa hỏa Minh Di, thủy hỏa Vị Tế[3], tôi cố tình nói sai phương vị, con bé đó liền cau mày, dĩ nhiên đã nhìn ra chỗ sai của tôi. Từ đó thuộc hạ lưu tâm, biết là tiểu cô nương này đã được cao nhân truyền thụ, thân mang thượng thừa võ công, lên Quang Minh Đính này không phải là chuyện bình thường, mà có một mục đích nào đó.
Trương Vô Kỵ nói:
- Hoặc giả cha cô ta tinh thông Dịch lý, đây là sở học gia truyền, nên biết được như thế.
Dương Tiêu đáp:
- Xin giáo chủ minh giám: cái học về Dịch lý của văn sĩ so với dịch lý trong võ học có chút khác nhau. Nếu như sở học của Tiểu Siêu là do cha mẹ truyền cho thì cha mẹ nó phải là nhất lưu cao thủ trong võ lâm, thế thì lẽ nào lại bị quan quân Mông Cổ lăng nhục mà chết? Khi đó tôi giả tảng như không biết, vài hôm sau mới hỏi qua tên tuổi, thân thế cha mẹ nó. Nó chối sạch nhưng cũng không để lộ một chút dấu vết nào. Khi đó tôi cũng chưa hành động chỉ dặn Bất Hối để ý thôi.
Một buổi kia tôi kể chuyện vui, Bất Hối cười khanh khách, Tiểu Siêu đứng bên nghe, nhịn không nổi cũng cười theo. Khi đó nó đứng đằng sau tôi và Bất Hối, nghĩ rằng cha con tôi không nhìn thấy nó, nào ngờ trong tay Bất Hối đang cầm chơi một con dao găm, con dao đó sáng loáng như gương, phản chiếu rõ ràng nụ cười của con bé đó. Nó đâu có phải là một con bé xấu như ma lem mà so với Bất Hối còn đẹp hơn nhiều. Đến khi tôi quay đầu nhìn lại, nó lập tức biến thành một đứa bé quái tướng mồm méo mắt lệch.
Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
- Suốt ngày giả cách thành quái dị như thế, quả thực không phải dễ dàng.
Bụng lại nghĩ: “Dương tả sứ là một nhân vật lợi hại thế này, Tiểu Siêu chỉ là một cô bé con mà lại muốn bẻ trộm hoa trước mặt ông ta thì làm sao dấu nổi”.
Dương Tiêu nói tiếp:
- Thế nhưng khi đó tôi vẫn để yên không nói, tối hôm đó, canh khuya khi mọi người đã ngủ yên, tôi len lén đến phòng con gái để xem Tiểu Siêu làm gì. Ngay lúc đó Tiểu Siêu từ phòng Bất Hối đi ra, đi qua bên các phòng phía đông, không biết đi tìm cái gì, mỗi gian, mỗi chỗ kín đáo đều lục lọi cả. Tôi không còn nhịn nổi nữa, bước ra hỏi nó tìm cái gì, do ai phái đến Quang Minh Đính dò xét nằm vùng.
Nó vẫn trấn tĩnh, không một chút hoảng hốt, nói không ai phái đến cả, chỉ vì hiếu kỳ thích đi nơi này nơi khác chơi cho vui thôi. Tôi dọa nạt khuyên bảo dụ dỗ cách nào, nó chung qui vẫn không lộ nửa câu. Tôi nhốt nó bảy ngày bảy đêm không cho ăn, đói đến nỗi chỉ còn thoi thóp, nó cũng không chịu nói. Thành thử tôi mới đem chiếc xích lưu truyền trong bản giáo đã lâu nay khóa nó lại, để khi nào đi lại vang tiếng leng keng, không thể lén gia hại Bất Hối. Tôi sở dĩ chưa giết nó ngay, cốt để tra xét lai lịch của nó. Giáo chủ, con tiểu a đầu này do địch nhân sai đến đây nằm vùng, không còn nghi ngờ gì nữa, cứ xét việc nó tinh thông phương vị bát quái ra, e rằng nếu không phải Côn Lôn, cũng là Nga Mi gửi đến. Thế nhưng một đứa bé con thì làm được gì? Vì tình nó chăm lo hầu hạ giáo chủ, giáo chủ từ bi tha cho nó, cũng là may cho nó lắm rồi.
Trương Vô Kỵ đứng dậy, cười nói:
- Bọn mình ở trong địa lao này tù túng đã lâu ngày, bây giờ đi ra ngoài cho thư thái một chút nên chăng?
Dương Tiêu mừng rỡ, hỏi lại:
- Mình định đi ra ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Những người bị thương chưa khỏi, dù thế nào chăng nữa cũng không được động thủ, muốn lập công không phải chỉ ngày hôm nay. Còn bao nhiêu đều ra cả, có được không?
Dương Tiêu liền đi ra truyền lệnh, trong bí đạo tiếng hoan hô ầm ỹ. Mọi người khi vào đường hầm là theo cửa ngõ trong phòng Dương Bất Hối, bây giờ đi ra là theo cửa hông, đi thông qua phía hậu sơn. Trương Vô Kỵ đẩy tảng đá chắn lối, tự mình ra trước, đợi mọi người ra hết rồi mới đẩy tảng đá trở lại. Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên là người có thần lực mạnh nhất trong Minh giáo, liền đẩy thử tảng đá trông như hòn núi nhỏ kia xem sao, thấy chẳng khác nào chuồn chuồn lay cột nhà, không nhúc nhích chút nào, kinh hãi le lưỡi không rụt lại được, càng nghĩ càng phục vị giáo chủ trẻ tuổi này.
Mọi người ra khỏi bí đạo, sợ rằng địch nhân phát giác, đến tiếng đằng hắng cũng không ai dám mở miệng. Trương Vô Kỵ đứng trên một tảng đá lớn, dưới ánh trăng, thấy giáo chúng Thiên Ưng giáo dàn thành vị trí khách ở hướng tây, Thiên Vi, Tử Vi, Thiên Thị tam đường, Thần Xà, Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Võ ngũ đàn, đâu đâu cũng có hàng ngũ, sắp đặt nhịp nhàng trật tự. Ở phía đông là ngũ kỳ của Minh giáo: Nhuệ Kim, Cự Mộc, Hồng Thủy, Liệt Hỏa, Hậu Thổ các kỳ do chính, phó chưởng kỳ sứ tất lãnh anh em trong kỳ chia theo phương vị ngũ hành mà đứng. Ở giữa là thuộc hạ của Dương Tiêu gồm Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn do các môn chủ thống lãnh giáo chúng trên Quang Minh Đính. Thiên Tự Môn là nam giáo chúng Trung Nguyên, Địa Tự Môn là nữ giáo chúng, Phong Tự Môn là người tu hành Thích gia, Đạo gia, còn Lôi Tự Môn là người thuộc phiên bang, Tây Vực. Tuy liên tiếp chiến đấu nhiều ngày qua, Ngũ Hành, Tứ Môn số người thương vong rất lớn nhưng lúc này ai ai cũng đều phấn chấn. Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu và Ngũ Tản Nhân đứng sau lưng hộ vệ giáo chủ. Ai nấy đều yên lặng chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh.
Trương Vô Kỵ chậm rãi nói:
- Địch nhân đến tấn công trọng địa của bản giáo, chúng ta tuy muốn chấm dứt một cách an lành nhưng cũng không xong. Thế nhưng bản nhân vốn không muốn tàn sát, cũng mong các vị thể niệm ý nguyện đó cho. Thiên Ưng giáo do Ân giáo chủ tất lãnh, từ phía tây tấn công tới, Ngũ Hành Kỳ do Cự Mộc Kỳ chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng thống lãnh, từ phía đông đánh qua. Dương tả sứ tất lãnh Thiên, Địa Tự Môn từ phía bắc đánh xuống. Ngũ Tản Nhân tất lãnh Phong, Lôi Tự Môn từ phía nam đánh lên còn Vi Bức Vương cùng bản nhân ở giữa điều động.
Mọi người cùng khom lưng nhận lệnh. Trương Vô Kỵ phất tay một cái, hạ giọng nói:
- Tiến lên.
Bốn đội giáo chúng liền chia ra bốn mặt đông tây nam bắc bao vây Quang Minh Đính. Trương Vô Kỵ quay sang nói với Vi Nhất Tiếu:
- Bức Vương, bọn mình từ đường hầm chui lên, đánh cho chúng trở tay không kịp.
Vi Nhất Tiếu mừng quá, nói:
- Hay lắm.
Hai người quay trở lại đường hầm, theo khuê phòng của Dương Bất Hối đi ra. Lúc đó bên trên đã đầy gạch ngói, gỗ cháy sụp xuống, mất rất nhiều công lao mới chui ra được, mùi khói khét lẹt. Khi đó giáo chúng Minh giáo còn ở xa nhưng địch nhân trú đóng trên Quang Minh Đính đã phát giác rồi, kêu la om xòm, báo động lẫn cho nhau. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu hai người nhìn nhau, nghĩ thầm: “Bọn này hoảng hoảng hốt hốt, chưa cần đánh đã biết thắng bại ra sao rồi”.
Qua một lúc lâu, Thuyết Bất Đắc và Chu Điên cùng tiến vào, từ phía nam đến, xông vào trong đám người chém giết chẳng khác gì cắt dưa, thái rau. Kế đến Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Ngũ Hành Kỳ cũng đến, hung hăng hò hét chẳng khác gì hổ vào đàn dê.
Bọn đến chiếm đóng Quang Minh Đính là Cái Bang, Vu Sơn Bang, Hải Sa phái bao gồm hơn một chục tiểu bang hội, thấy Quang Minh Đính cháy thành một khu đất trống, giáo chúng Minh giáo không thoát một ai, những tưởng mình đã toàn thắng. Cái Bang, Cự Kình Bang và những phái khác hơn một nửa mấy ngày qua đã từ từ xuống núi, trên núi chỉ còn Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao bốn môn phái bang hội. Giáo chúng Minh giáo đột nhiên tấn công vào chém giết, bốn môn phái đó tuy cũng có một số hảo thủ, nhưng làm sao có thể chống với Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, thành thử thời gian chưa đến một bữa ăn, tử thương đã quá nửa.
Trương Vô Kỵ liền ra mặt, lớn tiếng nói:
- Các cao thủ Minh giáo đã tụ hội trên Quang Minh Đính rồi, các môn phái, bang hội hãy vứt binh khí đầu hàng, đừng tiếp tục đánh nữa vô ích. Ta sẽ tha mạng cho các ngươi, đưa xuống núi.
Các hảo thủ trong Thần Quyền Môn, Tam Giang Bang, Vu Sơn Bang, Ngũ Phượng Đao đã chết gần hết, những người còn lại thấy địch tụ tập quá đông, không ai còn ý chí nào mà chiến đấu lần lượt ném binh khí đầu hàng. Chỉ có hơn hai chục hán tử ngoan cố kháng cự, trong giây lát đã bị giết sạch.
Trong mấy chục ngày qua, bọn Vu Sơn Bang đã cắt tranh, lá dựng trên núi tạm mấy chục cái lều để trú thân, giáo chúng trong Cự Mộc Kỳ liền cắt gỗ, xẻ cây, dựng thêm nhà cửa, còn đàn bà con gái trong Địa Tự Môn thì đun nước, đắp lò nấu ăn.
Trên đỉnh Quang Minh đốt lên một ngọn lửa lớn để cảm tạ Minh Tôn, Hỏa Thánh đã gia hộ phù trì.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính đứng lên, dõng dạc nói:
- Các người trong Thiên Ưng giáo nghe đây: Bản giáo và Minh giáo đồng khí liên chi, vốn là một phái cả. Hơn hai mươi năm trước, bản nhân cùng với một số anh em trong Minh giáo bất hòa, vì thế đi xuống tận miền đông nam, tự lập môn hộ. Hiện nay Minh giáo do Trương đại hiệp đứng ra đảm trách nhiệm vụ giáo chủ, ai ai cũng bỏ qua hết hiềm thù cũ, cùng nhau chung lo chung sức. Thiên Ưng giáo mấy chữ đó trên đời này kể từ hôm nay không còn nữa, tất cả chúng ta đều là giáo đồ Minh giáo cả, ai ai cũng dưới quyền Trương giáo chủ phân phái hiệu lệnh. Nếu có ai không bằng lòng, thì mau ra khỏi đây, hạ sơn đi.
Giáo chúng trong Thiên Ưng giáo hoan hô ầm ỹ, cùng nói:
- Thiên Ưng giáo vốn từ Minh giáo mà ra, chuyện này chẳng qua chỉ là phản bản qui tông mà thôi. Anh em chúng ta ai ai cũng gia nhập Minh giáo, còn gì tốt đẹp hơn. Ân giáo chủ với Trương giáo chủ là người nhà chí thân, nghe hiệu lệnh vị giáo chủ nào thì cũng vậy.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
- Kể từ hôm nay thì chỉ còn Trương giáo chủ mà thôi, nếu ai còn gọi ta một tiếng Ân giáo chủ tức là phạm thượng phản nghịch đó.
Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
- Thiên Ưng giáo và Minh giáo chia rồi lại hợp, quả thực không còn điều gì vui mừng hơn. Chỉ vì tại hạ tình thế cấp bách, tạm nhiếp chức vụ giáo chủ. Hiện nay đại địch đã trừ xong rồi, chính là lúc chúng ta suy cử một vị giáo chủ khác. Trong bản giáo có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt, tiểu tử tuổi trẻ, tài nông, đâu dám đứng đầu quí vị.
Chu Điên lớn tiếng nói:
- Giáo chủ, xin ngài nghĩ hộ cho chúng tôi, chúng tôi vì chức vụ giáo chủ mà trở thành chia năm xẻ bảy, bây giờ anh em ai ai cũng cảm phục ông. Nếu ông lại từ chối nữa, thì cứ đưa ra một người khác làm giáo chủ mà xem. Hứ hừ, dù ai chăng nữa, Chu Điên này là người đầu tiên không phục. Còn nếu bảo Chu Điên này làm ư, người khác cũng chẳng phục.
Bành Oánh Ngọc nói:
- Nếu ông không chịu đảm trách việc lớn, Minh giáo trở lại tàn sát lẫn nhau, đi lại vết xe cũ, không lẽ lúc đó lại mời ông ra cứu nữa hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Mấy người này quả thực bụng mà nói, trong tình huống như thế ta không thể nào tụ thủ không lý đến. Thế nhưng cái chức giáo chủ này, ta thực tình không muốn làm, mà cũng chẳng nghĩ đến chuyện làm”. Chàng bèn lớn tiếng nói:
- Nếu quả thực các vị có bụng thương yêu, tiểu tử không dám suy từ, chỉ đành tạm trọng nhiệm chức vụ giáo chủ, nhưng có ba điều mong các vị bằng lòng cho, nếu không tiểu tử dù chết cũng không dám nhận
Mọi người nhao nhao nói:
- Giáo chủ đã ra lệnh, đừng nói ba điều, mà có đến ba mươi điều cũng đều tôn phụng, không dám trái. Khộng hiểu ba điều đó là điều gì, xin giáo chủ chỉ thị cho.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bản giáo vốn bị người ngoài coi là tà ma ngoại đạo, tuy người ta quả có không hiểu rõ chân tướng chúng ta, nhưng nhân số của bản giáo thật đông, không khỏi xấu tốt chen nhau, có kẻ không ra gì làm điều càn rỡ, tàn hại người lương thiện. Thành ra điều thứ nhất là hôm nay trở đi, từ bản nhân trở xuống, ai ai cũng phải nghiêm thủ giáo qui, làm điều thiện, trừ kẻ ác, hành hiệp trượng nghĩa. Anh trong bản giáo, phải thân ái giúp đỡ, tình như chân tay, cố gắng không được chống chỏi lẫn nhau.
Chàng quay sang liếc mắt nhìn Chu Điên, nói:
- Mồm chửi thì không sao, động thủ nhất quyết là không được. Bản nhân mời Lãnh Khiêm Lãnh tiên sinh đảm nhiệm giới đường chấp pháp, nếu ai vi phạm giáo qui, giết hại anh em trong nhà, nhất luật dùng trọng hình xử tội, dù cho có là tôn trưởng như ông ngoại, cậu của bản nhân cũng không đứng ngoài.
Mọi người khom lưng đồng thanh đáp:
- Chính là như thế.
Lãnh Khiêm tiến lên một bước, nói:
- Phụng lệnh.
Oâng ta không thích nói nhiều, nhưng hai tiếng đó đã nói lên sẽ kiệt tận sở năng, tuân hành mệnh lệnh giáo chủ. Trương Vô Kỵ nói:
- Việc thứ hai xem ra còn khó hơn nhiều. Bản giáo và các đại môn phái ở Trung Nguyên kết oán đã sâu, hai bên môn nhân đệ tử, gia nhân bằng hữu, bên nào cũng có người chết. Từ nay chúng ta chuyện cũ bỏ qua, không nhớ oán thù xưa nữa, không được đi tìm các môn phái khác trả thù.
Mọi người nghe xong, trong bụng ai nấy không cảm thấy hài lòng, một hồi lâu không ai nói tiếng nào. Chu Điên nói:
- Nếu như người các môn phái khác đến gây chuyện với mình thì sao?
Trương Vô Kỵ nói:
- Lúc đó tùy cơ ứng biến, nếu như đối phương nhất định làm khó mình, mình đâu có thể bó tay chịu chết.
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Thôi được, tính mạng chúng ta dó giáo chủ cứu, giáo chủ bảo sao chúng ta nghe vậy.
Bành Oánh Ngọc lớn tiếng nói:
- Các vị huynh đệ, những môn phái Trung Nguyên giết anh em chúng ta không phải là ít, anh em chúng ta giết họ cũng nhiều, thành ra hai bên thù oán dây dưa, qua qua lại lại, người chết mỗi lúc một nhiều. Giáo chủ bảo chúng ta không được tầm cừu, chính là điều tốt lành cho mình đó.
Mọi người nghe thấy điều đó quả không sai nên đều chấp nhận. Trương Vô Kỵ trong lòng vui lắm, vòng tay nói:
- Các vị khoan hồng đại lượng, là phúc cho võ lâm, thật may mắn cho tất cả mọi người.
Bèn ra lệnh cho các kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ thả hết những người của Thần Quyền Môn, Vu Sơn Bang bị bắt giữ, nói với họ Minh giáo sẽ không còn là kẻ địch của các môn phái Trung Nguyên, rồi thả họ xuống núi. Trương Vô Kỵ nói tiếp:
- Chuyện thứ ba là cứ theo di mệnh của Dương tiền giáo chủ mà theo. Dương tiền giáo chủ trong thư có viết là người nào đem được thánh hỏa lệnh về sẽ tiếp nhiệm chức vụ đời thứ ba mươi tư, khi ông chết đi thì do Kim Mao Sư Vương tạm thời đảm trách. Chúng ta lập tức phải đi ra hải ngoại, nghênh đón Tạ pháp vương trở về, để ông ta nhiếp hành giáo chủ, sau đó sẽ tìm cách đi tìm thánh hỏa lệnh. Lúc đó tiểu tử sẽ thoái vị nhượng hiền, các vị không thể dị nghị được nữa.
Mọi người nghe xong, ai nấy bần thần, nghĩ thầm: “Bọn mình như rắn mất đầu mấy chục năm qua, nay may mắn được một người trí dũng song toàn, nhân nghĩa hào hiệp làm giáo chủ. Sau này nếu như bản giáo có một kẻ tầm thường vô năng vô ý cướp được thánh hỏa lệnh, không lẽ cũng đưa y lên làm giáo chủ?”.
Dương Tiêu nói:
- Di ngôn của Dương tiền giáo chủ viết hơn hai chục năm trước, lúc đó thế cục so với hôm nay không giống nhau chút nào. Kim Mao Sư Vương lẽ dĩ nhiên phải đi đón rồi, thánh hỏa lệnh cũng phải đi tìm rồi, thế nhưng để người khác làm giáo chủ thì thật khó mà làm cho mọi người tâm phục.
Trương Vô Kỵ cương quyết cho rằng lệnh của Dương tiền giáo chủ không thể nào vi phạm, mọi người không biết tính sao, chỉ đành y theo, nghĩ thầm: “Kim Mao Sư Vương có khi chết rồi không chừng, còn thánh hỏa lệnh thất lạc đã gần trăm năm nay, biết đâu mà kiếm? Cứ theo lời ông ta đã, sau này nếu có gì thay đổi, lúc đó sẽ xét lại”.
Ba điều này, Trương Vô Kỵ mấy chục ngày qua đã suy đi tính lại, lúc này nghe thấy mọi người đồng ý tuân theo, rất lấy làm hoan hỉ, liền ra lệnh giết dê mổ bò, cùng mọi người trích máu ăn thề, không vi phạm ba điều ước ngôn.
Trương Vô Kỵ nói:
- Việc to lớn trước mắt của bản giáo là đi ra hải ngoại nghênh đón Kim Mao Sư Vương Tạ pháp vương trở về, không chính bản nhân đi thì không xong, vậy có ai nguyện ý đi với bản nhân không?
Mọi người ai nấy đều đứng lên, nói:
- Nguyện đi theo giáo chủ cùng ra hải ngoại.
Trương Vô Kỵ mới đảm nhiệm trọng trách, biết mình tài năng, hiểu biết đều không có, xử phân đại sự khó mà chu đáo, nên hạ giọng thương nghị với Dương Tiêu một hồi rồi mới lớn tiếng nói:
- Đi ra hải ngoại không cần đông, huống chi ngoài ra còn rất nhiều việc phải làm gấp. Thành thử ra, mời Dương tả sứ tất lãnh Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, xây dựng lại tổng đàn. Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ ngũ kỳ chia nhau đi các nơi, chiêu tập những anh em trong bản giáo bị tứ tán, truyền dụ ba điều anh em chúng ta đã ước định. Xin ông ngoại và cậu tất lãnh Thiên Ưng Kỳ, nghe ngóng xem có còn ai định làm khó bản giáo nữa không, luôn thể đi tìm Quang Minh hữu sứ và Tử Sam Long Vương xem ở đâu. Còn Vi Bức Vương đi đến các chưởng môn lục đại môn phái nói rõ ý định tốt đẹp muốn ngừng chiến của Minh giáo, nếu như không thể hóa địch thành bạn, thì cũng chấm dứt can qua. Việc này thật không phải dễ, nhưng với đại tài của Vi Bức Vương, mong rằng sẽ thành công. Còn việc đi ra hải ngoại nghênh đón Tạ pháp vương, thì do bản nhân và Ngũ Tản Nhân cùng đi.
Lúc này chàng là giáo chủ, tuy ngôn ngữ khiêm tốn lễ độ, nhưng câu nào câu nấy đều là mệnh lệnh không thể vi phạm, ai ai cũng tuân theo không dám phản kháng câu nào. Dương Bất Hối nói:
- Cha ơi, con muốn đi ra hải ngoại xem cảnh băng sơn thế nào.
Dương Tiêu mỉm cười nói:
- Con xin với giáo chủ, cha không thể quyết định được.
Dương Bất Hối dẩu môi, không nói lời nào. Trương Vô Kỵ mỉm cười, nghĩ đến mấy năm trước đưa cô nàng qua Tây Vực, trên đường đi đòi chàng kể chuyện xưa, mình đã từng nói về cảnh vật kỳ lạ trên Băng Hỏa đảo, đến cả gấu trắng, hải cẩu, quái ngư các loại động vật lạ lùng cho cô ta nghe, thành thử giờ phút này cô nàng muốn đến tận nơi xem, bèn nói:
- Bất Hối muội tử, hải hành rất nhiều nguy hiểm, em không sợ nhưng Dương tả sứ không yên tâm. Thôi thế thì cả Dương tả sứ lẫn cô em cùng đi với tôi ra hải ngoại vậy.
Dương Bất Hối vỗ tay reo lên:
- Có gì đâu mà sợ? Cha ơi, mình cùng đi với Vô Kỵ ca ca... không, đi với giáo chủ nhé.
Dương Tiêu không trả lời, nhìn Trương Vô Kỵ đợi lệnh. Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu đã như thế, phiền Lãnh tiên sinh ở lại trấn giữ Quang Minh Đính, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn tạm do Lãnh tiên sinh thống suất.
Lãnh Khiêm đáp:
- Vâng.
Chu Điên vỗ tay dậm chân, kêu lên:
- Hay lắm, hay lắm.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Chu huynh, hay cái gì thế?
Chu Điên nói:
- Giáo chủ coi trọng Lãnh Khiêm như thế, cũng nở mày nở mặt cho Ngũ Tản Nhân chúng ta. Hơn nữa, biển cả mênh mông, không biết phải đi bao nhiêu ngày giờ trên thuyền. Có thêm cha con Dương tả sứ, nói chuyện nọ chuyện kia, có phải thích không? Ta muốn kiếm người cãi qua cãi lại, chỉ có Dương tả sứ là đối thủ thôi. Nếu như đi cùng với Lãnh Khiêm, có khác gì đi với cái khúc gỗ không mở mồm.
Mọi người cười ồ cả lên. Lãnh Khiêm cũng không giận, cũng chẳng cười, làm như không nghe thấy. Hôm đó mọi người ăn uống xong chia ra nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối mở khóa cho Tiểu Siêu nhưng chìa khóa bị lạc mất trong đám gạch ngói, than gỗ cháy đen tìm không thấy. Tiểu Siêu thản nhiên nói:
- Cháu đeo sợi dây xích này kêu leng keng, đi lại nghe càng hay, có nó cũng tốt.
Trương Vô Kỵ an ủi cô:
- Tiểu Siêu, cô cứ an tâm ở lại trên Quang Minh Đính, tôi đi đón nghĩa phụ về rồi, mượn thanh đao Đồ Long của ông ấy chặt đứt dây xích này cho cô.
Tiểu Siêu buồn bã lắc đầu, không trả lời. Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ tất lãnh mọi người, chia tay cùng Lãnh Khiêm. Lãnh Khiêm nói:
- Giáo chủ, bảo trọng.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Lãnh tiên sinh tọa trấn tổng đàn, thật là khó nhọc quá.
Lãnh Khiêm lại quay sang nói với Chu Điên:
- Cẩn thận, quái ngư, ăn ngươi.
Chu Điên nắm chặt tay y, trong lòng thật cảm kích. Ngũ Tản Nhân tình như anh em, Lãnh Khiêm hôm nay phá lệ nói thêm sáu chữ, quả thật hết sức lo lắng quái ngư trên biển cả ăn thịt anh em. Lãnh Khiêm và các thủ lãnh Thiên, Địa, Phong, Lôi tứ môn tiễn chân mọi người xuống khỏi Quang Minh Đính rồi mới chịu chia tay.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Đây là những câu để nhớ phương vị theo Tiên Thiên bát quái (Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn Khôn) trong đó Càn Khôn (Thiên Địa) đối xứng, Cấn Đoài (Trạch Sơn) đối xứng, Chấn Tốn (Lôi Phong) đối xứng, Khảm Ly (Thủy Hỏa) đối xứng. Càn Đoài Ly Chấn đi ngược chiều kim đồng hồ là thuận, Tốn Khảm Cấn Khôn đi xuôi chiều kim đồng hồ là nghịch.
[2] Dầu thô (tức dầu hỏa chưa chế biến, còn trong dạng thiên nhiên là dạng mà người Trung Hoa biết dùng từ thời cổ).
[3] Hai quẻ trong sáu mươi tư quẻ Dịch
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #33  
Old 11-04-2012, 02:26 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 23

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 23

LINH PHÙ TÚY KHÁCH LỤC LIỄU TRANG


Hương thắm thơm nồng nơi thủy các,
Sóng tình Mông-Hán đã xiêu xiêu.
Dẫu cho hai ngả khôn đường gặp,
Một lần rung động cũng nên yêu.

Đoàn người đi được độ hơn một trăm dặm, giữa sa mạc liền dừng lại nghỉ ngơi. Trương Vô Kỵ ngủ đến giữa đêm, bỗng nghe từ phía tây mơ hồ vọng về tiếng leng keng, leng keng kim loại chạm nhau, trong bụng thảng thốt, lập tức len lén trở dậy, đi về phía thanh âm truyền tới. Được hơn một dặm, chàng thấy một bóng người mảnh khảnh di động dưới ánh trăng, vội tiến tới, kêu lên:
- Tiểu Siêu, sao cô lại tới đây?
Bóng người đó chính là Tiểu Siêu. Nàng đột nhiên gặp lại Trương Vô Kỵ, òa lên khóc, sà vào lòng chàng, nức nở không nói gì. Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ lên đôi vai, nói:
- Thôi em ngoan, đừng khóc nữa, đừng khóc nữa.
Tiểu Siêu dường như bao nhiêu nỗi niềm bây giờ mới có dịp phát tiết, lại càng khóc lớn thêm, thổn thức:
- Công tử đi đâu, em... em sẽ đi theo đó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cô bé này cha mẹ mất cả rồi, lại bị cha con Dương tả sứ nghi ngờ, mười phần đáng thương. Có lẽ vì mình đối với cô ta ôn hòa trìu mến, nên cô ta mới quyến luyến không muốn rời”. Chàng bèn nói:
- Được rồi, đừng khóc nữa, vậy tôi mang cô cùng đi hải ngoại nhé.
Tiểu Siêu mừng quá, ngẩng đầu lên, dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt xinh đẹp nhỏ nhắn của nàng như phủ một lớp lụa mỏng, những giọt lệ chưa khô lấp lánh, đôi mắt xanh như màu nước biển dường như tỏa ra một nỗi bồi hồi. Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
- Tiểu Siêu, mai này lớn lên cô thể nào cũng cực kỳ xinh đẹp.
Tiểu Siêu hỏi lại:
- Sao công tử biết?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, bỗng nghe phía đông bắc có tiếng vó ngựa lộp bộp, một đại đội nhân mã từ tây sang đông, chạy vụt qua, ít ra cũng phải hơn trăm con. Qua một lúc sau, Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu trước sau chạy đến, nói:
- Giáo chủ, trong đêm hôm khuya khoắt có đại đội nhân mã chạy như thế, không chừng có địch ý với bản giáo.
Trương Vô Kỵ bảo Tiểu Siêu đi đến gặp bọn Bành Oánh Ngọc, còn mình cùng Dương Vi hai người chạy về phía có tiếng vó ngựa để tra xét. Đi đến gần, quả nhiên trên sa mạc còn một dãy vết chân ngựa. Vi Nhất Tiếu cúi xuống xem, bốc một nắm cát lên, nói:
- Có vết máu.
Trương Vô Kỵ cũng bốc một nắm cát đưa lên mũi, quả nhiên ngửi thấy mùi máu tanh. Ba người theo vết chân ngựa đến ba bốn dặm, Dương Tiêu bỗng thấy phía bên trái trong bãi cát có một mảnh đao gãy, vội cầm lên xem, thấy cán đao có khắc ba chữ “Phùng Viễn Thanh”, hơi trầm ngâm, nói:
- Đây là người của phái Không Động. Thưa giáo chủ, có lẽ phái Không Động dự bị ngựa xe tại chỗ này để về Trung Nguyên.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Từ Quang Minh Đính xuống đã hơn nửa tháng, nếu như họ còn lẩn quẩn ở đây chẳng biết làm trò quỉ quái gì?
Ba người thấy là phái Không Động rồi, không thèm để ý nữa, quay về chỗ cũ nằm ngủ.
Đi được năm ngày, từ thảo nguyên trước mặt có một đoàn người đi đến, phần lớn mặc áo đen kiểu ni cô, nhưng cũng có bảy tám nam nhân. Hai bên đến gần, một ni cô the thé kêu lên:
- Đây là ác tặc của ma giáo.
Cả bọn lập tức rút binh khí, tản ra nghinh địch. Trương Vô Kỵ thấy đây là người của phái Nga Mi, không hiểu sao đã đi rồi còn quay trở lại, mà những người này chàng chưa gặp bao giờ nên cao giọng nói:
- Các vị sư thái có phải là môn hạ phái Nga Mi chăng?
Một ni cô người nhỏ bé vượt đám đông tiến ra, gay gắt hỏi:
- Ác tặc ma giáo kia, hỏi cái gì? Mau ra đây chịu chết.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sư thái thượng hạ xưng hô ra sao? Cớ sao lại nổi giận như thế?
Ni cô đó quát lớn:
- Ác tặc, thứ như ngươi mà dám hỏi danh hiệu ta ư? Ngươi là ai?
Vi Nhất Tiếu phóng vụt ra, vào thẳng đám đông, điểm huyệt hai nam đệ tử, nắm cổ cả hai người, chạy thẳng ra ngoài xa, ném xuống đất, rồi lại chạy về chỗ cũ. Hành động đó chẳng khác gì chim cắt bắt mồi, nhanh không thể tả. Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
- Vị này là Trương giáo chủ của Minh giáo, người võ công đệ nhất đời nay, một kỳ nam tử can đảm vô song, thống suất Tả Hữu Quang Minh Sứ Giả, Tứ Đại Hộ Giáo Pháp Vương, Ngũ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ, Thiên Địa Phong Lôi tứ môn, đã từng đuổi phái Nga Mi xuống núi, đoạt thanh bảo kiếm Ỷ Thiên trong tay Diệt Tuyệt sư thái, với một nhân vật như thế có đủ để hỏi pháp danh của sư thái hay chăng?
Y nói một thôi một hồi, quần đệ tử phái Nga Mi ai nấy đều kinh hãi, lại vừa mới thấy Vi Nhất Tiếu trổ chút công phu ngoài sức tưởng tượng như thế, còn ai dám hoài nghi lời nói của y. Ni cô trung niên kia lấy lại bình tĩnh rồi nói:
- Các hạ là ai?
Vi Nhất Tiếu đáp:
- Tại hạ họ Vi, ngoại hiệu là Thanh Dực Bức Vương.
Trong phái Nga Mi có mấy tiếng kêu lên hoảng hốt, bốn người vội chạy đến xem hai gã đồng môn vừa bị Vi Nhất Tiếu điểm huyệt vứt ngoài xa. Vi Nhất Tiếu nói:
- Phụng Trương giáo chủ hiệu lệnh, Minh giáo và lục đại môn phái chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ giao hảo với nhau. Quí đồng môn cũng may lắm đó nên Vi Bức Vương lần này tha không hút máu họ đâu.
Từ khi y được Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công chữa thương, không những trừ hết âm độc Huyễn Âm Chỉ mà những độc khí từ trước tích tụ cũng hết đi quá nửa, nên không cần phải hút máu kháng hàn mỗi khi hành công vận kình.
Bốn người đó dìu hai đồng môn bị điểm huyệt kia về, đang định tìm cách giải huyệt chữa trị, bỗng nghe tách tách hai tiếng, tiếp theo nghe tiếng bay vút trong không khí, hai viên sỏi nhỏ đã bắn tới, trúng ngay huyệt đạo hai người kia, lập tức giải khai ngay các nơi bị điểm. Đó là Dương Tiêu dùng Đạn Chỉ Thần Thông[1] ngược lại với công phu Trịch Thạch Điểm Huyệt[2].
Ni cô trung niên kia thấy đối phương người cũng không ít, mà chỉ mới hai người lộ chút tài năng, võ công đã cao siêu ghê gớm, nếu như động thủ, không thể nào không bị đánh tan tành. Thành thử dù tám chữ “chấm dứt binh đao, bỏ hết thù cũ” không biết thật hay giả cũng nói:
- Bần ni pháp danh Tĩnh Không. Các vị có thấy sư phụ chúng tôi đâu không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôn sư từ Quang Minh Đính xuống núi đã hơn nửa tháng, chắc lúc này đã vào Ngọc Môn Quan rồi đó. Các vị từ phía đông lại, không lẽ trên đường không gặp nhau hay sao?
Một người đàn bà chừng khoảng ba mươi ở đằng sau Tĩnh Không liền nói:
- Sư tỉ đừng nghe y nói láo, chúng ta chia ba ngả tiếp ứng, có hỏa tiễn làm tín hiệu liên lạc, lẽ nào trên đường lại hụt không bắt gặp nhau?
Chu Điên thấy người kia ăn nói vô lễ, muốn dạy cho mấy câu bèn nói:
- Cái đó cũng lạ thật...
Trương Vô Kỵ hạ giọng nói:
- Chu tiên sinh đừng chấp nhất bà ta làm chi. Bọn họ không kiếm thấy sư phụ, dĩ nhiên nóng ruột.
Tĩnh Không mặt đầy vẻ hoài nghi, nói:
- Gia sư và anh em đồng môn có phải đã vào tay Minh giáo rồi chăng? Đại trượng phu quang minh lỗi lạc, việc gì phải dấu diếm?
Chu Điên cười nói:
- Thôi nói thực cho các người nghe, phái Nga Mi không lượng sức mình, đến đánh Quang Minh Đính, từ Diệt Tuyệt sư thái trở xuống đều bị bắt cả rồi, hiện nay đang nhốt dưới thủy lao, để cho họ ăn năn sám hối mười năm tám năm, đến lúc đó có thả hay không còn tùy.
Bành Oánh Ngọc vội nói:
- Các vị đừng nghe vị Chu huynh này nói giỡn. Diệt Tuyệt sư thái thần công cái thế, môn hạ đệ tử ai ai võ công cũng cao cường, làm sao lại lạc vào tay Minh giáo cho được? Lúc này hai bên quí phái và bản giáo đã ngừng chiến giảng hòa với nhau, các vị trở về núi Nga Mi đi, tự nhiên sẽ gặp.
Tĩnh Không nửa tin nửa ngờ, chần chừ không thể quyết định được. Vi Nhất Tiếu nói:
- Vị Chu huynh này thích nói đùa, không lẽ đường đường địa vị giáo chủ tôn quí của bản giáo cũng lại đánh lừa tiểu bối hay sao?
Người đàn bà trung niên kia lại nói:
- Trước nay ma giáo quỉ kế đa đoan, gian trá giảo hoạt, lời nói làm sao tin cho được?
Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy Kỳ là Đường Dương liền phất tay một cái, lập tức Ngũ Hành Kỳ giãn ra xa xa, sau đó lại bao vây trở lại. Cự Mộc ở phía đông, Liệt Hỏa tại phía nam, Nhuệ Kim tại phía tây, Hồng Thủy tại phía bắc, còn Hậu Thổ thì ở bên ngoài di động tiếp ứng, vây chặt tất cả người của phái Nga Mi.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
- Lão phu là Bạch Mi Ưng Vương, chỉ cần một mình ta ra tay, là đã có thể bắt được tất cả bọn tiểu bối chúng bay rồi. Minh giáo hôm nay thủ hạ lưu tình, những người ít tuổi các ngươi sau này ăn nói cho có ý tứ.
Mấy câu đó oang oang vang động, chấn động đến nỗi những người của phái Nga Mi ù cả tai, tâm thần hoảng hốt, không tự chế nổi. Chỉ thấy ông ta mày râu trắng xóa, thần uy lẫm lẫm, ai nấy đều kinh hãi.
Trương Vô Kỵ chắp tay nói:
- Khi nào gặp lại tôn sư, xin cho Trương Vô Kỵ của Minh giáo gửi lời hỏi thăm sức khỏe lão nhân gia.
Nói xong quay về hướng đông đi thẳng. Đường Dương đợi Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính cả bọn đi rồi lúc ấy mới vẫy tay triệu hồi Ngũ Hành Kỳ. Quần đệ tử phái Nga Mi thấy thế, trong bụng hãi thầm, đứng nhìn Trương Vô Kỵ và đồng bọn đi xa xa, miệng há hốc, không nói nên lời. Bành Oánh Ngọc nói:
- Giáo chủ, tôi xem chuyện này bên trong có điều bất thường. Diệt Tuyệt sư thái cùng đệ tử trở về theo hướng đông, không lẽ lại lạc không gặp môn nhân. Các môn các phái đi đường thể nào chẳng có tín hiệu, lẽ nào biến mất không để lại tăm hơi gì?
Mọi người vừa đi vừa bàn thảo, cảm thấy phái Nga Mi bao nhiêu người bỗng dưng mất tích trên sa mạc, quả thật khó hiểu, Trương Vô Kỵ lại lo lắng cho an nguy của Chu Chỉ Nhược, nhưng không tiện nói với người ngoài.
Hôm đó đi đến tối, chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ là Nhan Viên bỗng nói:
- Ở đây có điều gì khác lạ.
Y chạy đến một hàng cây thấp ở phía trước quan sát, giật một chiếc thuổng từ tay một giáo chúng bản kỳ rồi hì hục đào dưới đất. Một lát sau, quả nhiên lộ ra một xác người. Cái xác đó đã thối rữa, mặt mũi không còn nhận ra, nhưng cứ theo quần áo trên người, rõ ràng là đệ tử phái Côn Lôn. Các giáo chúng Hậu Thổ Kỳ liền nhất tề đào bới, trong chốc lát đã thành một cái hố lớn, trong hố để chất đống mười sáu tử thi, tất cả đều là người của phái Côn Lôn. Nếu như người của môn phái họ chôn cất, ắt không thể nào đơn sơ như thế, hiển nhiên là do kẻ địch mai táng. Xem xét những xác này, ai ai cũng có vết thương trên người. Trương Vô Kỵ ra lệnh cho Hậu Thổ Kỳ chia ra từng người chôn cất riêng rẽ cho tử tế.
Cả bọn người nọ nhìn người kia, bụng ai cũng hỏi thầm: “Ai giết bọn này?”. Ngơ ngẩn một hồi, Bành Oánh Ngọc nói:
- Nếu không truy cứu cho đến đầu đến đũa, cái món nợ này thể nào cũng đổ lên đầu Minh giáo chúng ta.
Thuyết Bất Đắc lớn tiếng nói:
- Các anh em nghe đây, nếu như đánh nhau ban ngày ban mặt, mình có giáo chủ tất lãnh, tuy không dám nói là vô địch thiên hạ, nhưng cũng không thể thua ai. Thế nhưng tên bắn trộm thì khó mà đề phòng, từ rày trở đi, ăn uống gì, nghỉ ngơi ở đâu, chỗ nào cũng phải đề phòng địch nhân ám toán, hạ độc.
Tất cả đồng thanh đáp ứng. Đi một quãng nữa, thấy mặt trời đỏ như máu, trời từ từ tối dần, mọi người đang tính chuyện tìm chỗ nghỉ ngơi, bỗng thấy trên trời phía đông bắc có bốn con kên kên ở trên không bay lượn vòng vòng. Đột nhiên một con bay lao xuống, rồi lại bay vọt lên, lông rơi tơi tả, kêu kéc kéc mấy tiếng, hiển nhiên bị vật gì đánh trúng.
Từ khi chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ Trang Tranh bị chết vì kiếm Ỷ Thiên, Trương Vô Kỵ đưa phó kỳ sứ Ngô Kình Thảo lên làm chính kỳ sứ, lúc này thấy chim kên kên có vẻ lạ lùng, liền nói:
- Để tôi đi xem.
Y dẫn theo hai người đồng bọn, vội chạy về phía đó. Một lúc sau, một giáo chúng chạy trở lại, bẩm với Trương Vô Kỵ:
- Bẩm cáo giáo chủ, Ân lục hiệp của phái Võ Đương bị rơi xuống dưới vực cát.
Trương Vô Kỵ giật mình kinh hãi, nói:
- Ân lục hiệp ư? Có bị thương không?
Người kia đáp:
- Dường như bị thương nặng, Ngô kỳ sứ thấy là Ân lục hiệp, sai thuộc hạ cấp tốc báo cho giáo chủ. Ngô kỳ sứ hiện đang xuống dưới sa cốc cứu giúp...
Trương Vô Kỵ lòng nóng như lửa đốt, không đợi y nói hết, vội vàng chạy đi. Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn lục tục chạy theo. Đi đến gần, thấy đó là một cái vực cát thật lớn, sâu đến hơn chục trượng, Ngô Kình Thảo tay trái ôm Ân Lê Đình, đi một bước lại sụp một cái, đang cố gắng hết sức để trèo lên. Trương Vô Kỵ liền theo vách cát trượt xuống, đưa tay nắm cánh tay phải của Ngô Kình Thảo, tay kia đưa vào thăm hơi thở, thấy vẫn còn thoi thóp, cũng hơi yên lòng, vội đón lấy Ân Lê Đình. Chàng nhảy mấy cái đã ra khỏi sa cốc, để ông ta nằm trên mặt đất, chăm chú xem kỹ, không khỏi vừa kinh hãi, vừa tức giận, không biết tính sao.
Chỉ thấy Ân Lê Đình hơi thở yếu ớt đầu gối, khuỷu tay, cổ chân, cổ tay, ngón chân, ngón tay tất cả các khớp xương đều bị đánh gãy không cử động được, đối phương hạ độc đến thế thực khiến người ta phải ghê rợn. Tuy nhiên thần trí vẫn chưa đến nỗi hôn mê, thấy Trương Vô Kỵ, mặt lộ vẻ vui mừng, nhả ra hai viên đá. Thì ra sau khi bị thương, chàng bị người ta vứt xuống vực cát, nhờ có nội lực tinh thuần, không đến nỗi chết ngay, kên kên sà xuống toan ăn thịt, bị chàng nghiêng đầu ngoạm mấy viên đá, phun ra chặn chúng lại, cứ khổ sở chống đỡ như thế đã mấy hôm nay.
Dương Tiêu thấy bốn con kên kên kia vẫn vòng vòng chưa chịu bỏ đi, chắc chúng đợi khi nào bỏ xác Ân Lê Đình rồi sẽ đáp xuống ăn thịt, liền nhặt bốn viên sỏi dưới đất, tách tách bắn liền mấy phát, cả bốn con kên kên đều rơi xuống, con nào đầu cũng bị viên sỏi bắn trúng vỡ tan.
Trương Vô Kỵ trước hết cho Ân Lê Đình uống thuốc an thần giảm đau, sau đó mói coi kỹ lại một lần nữa, thấy chân tay đến hơn hai mươi chỗ gãy, mỗi nơi gãy đều bị địch dùng trọng thủ, lấy ngón tay bóp nát nhừ, không cách nào nối lại được. Ân Lê Đình nói nhỏ:
- Chẳng khác gì tam ca, bị phái Thiếu Lâm dùng... Kim Cương chỉ lực... đánh đó...
Trương Vô Kỵ nhớ tới năm xưa nghe cha kể chuyện Du tam sư bá Du Đại Nham bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương chỉ lực bóp nát các khớp xương, phải nằm liệt trên giường hơn hai mươi năm nay. Lúc đó cha chàng chưa gặp mẹ chàng, không ngờ việc đã bao nhiêu năm, lại thêm một vị sư thúc bị thương vì Kim Cương chỉ lực của phái Thiếu Lâm lần nữa. Chàng suy nghĩ một lát rồi nói:
- Lục thúc không phải lo lắng, chuyện này cứ giao cho điệt nhi, kẻ gian nhất định chạy trời không khỏi nắng. Kẻ nào trong phái Thiếu Lâm, lục thúc có nhận ra không?
Ân Lê Đình lắc đầu, mấy hôm nay chàng kiệt lực ráng sống, hơi sức không còn chút nào, lúc này trong lòng vừa hết lo, chịu không nổi lập tức ngất đi. Trương Vô Kỵ nghĩ đến thân thế mình, cha mẹ tự vẫn mà chết, cũng chỉ vì không nên không phải với Tam sư bá, bây giờ Lục sư thúc lại gặp nạn, nếu không ép được phái Thiếu Lâm giao ra kẻ gây nên tội lỗi, thì còn ra gì với hai vị Du Ân? Thì còn ra gì đối với song thân đã quá cố? Chàng thấy Ân Lê Đình tuy bất tỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại, chỉ có điều tay chân gãy khó mà nối lại được, xem ra sẽ chẳng khác gì Du Đại Nham.
Chàng kinh lịch chưa nhiều, thấy việc không quyết định được, phải kiếm chỗ nào thanh tĩnh suy nghĩ cho chín, bèn chắp tay sau lưng, đi ra đằng xa, trèo lên trên một cái gò nhỏ ngồi xuống, trong đầu hai ý nghĩ không ngừng xung đột: “Nên hay không nên lên chùa Thiếu Lâm đi tìm kẻ tội khôi họa thủ kia, để báo thù cho cha mẹ, tam sư bá, lục sư thúc? Nếu phái Thiếu Lâm thừa nhận giao hung thủ ra thì mọi việc đều tốt đẹp, nếu không Minh giáo sẽ phải liên kết với phái Võ Đương, cùng đối phó với phái Thiếu Lâm? Mình đã cùng tất cả anh em cắt máu ăn thề, nhất quyết không đi sinh sự, tầm thù các môn phái bang hội khác, nhưng nay việc lại đến ngay với mình, chính mình lại vứt bỏ lời thề không lý gì nữa thì làm sao cho mọi người tuân phục được? Một khi đầu họa đã mở ra rồi, từ nay oán oán tương báo, e rằng không biết bao nhiêu đời máu chảy, bao nhiêu anh hùng hảo hán bỏ mạng vì chuyện này?”.
Lúc này trời đã tối hẳn, người của Minh giáo liền đốt lửa lên, làm lò nấu ăn. Trương Vô Kỵ vẫn ngồi trên ngọn đồi, nhìn trăng lên dần, vẫn không định được chủ ý, mãi đến nửa đêm, mới quyết định: “Phải lên núi Thiếu Lâm gặp chưởng môn Không Văn thần tăng, nói rõ đầu đuôi, yêu cầu ông ta đưa ra một biện pháp”. Nghĩ thế xong lại tưởng: “Nếu như mình nói xong rồi không đến đâu, phải động thủ thì làm sao đây?”.
Chàng thở dài một tiếng, đứng lên, nghĩ thầm: “Ta tuổi còn trẻ, mới giữ nhiệm vụ lớn, gặp ngay một chuyện thật khó nghĩ, chỉ một lòng muốn bãi chiến, không tranh giành, thế nhưng những món nợ máu này lại ép mình phải tiến tới. Ta đảm đương trọng nhiệm giáo chủ Minh giáo, từ chối cũng không xong, bỏ đi cũng không được, từ nay còn bao nhiêu là lo buồn, khốn khổ thực không kể đâu cho xiết. Giá như không làm giáo chủ có phải sướng biết bao?”.
Chàng trở về bên đống lửa, mọi người tuy bụng đói, nhưng chưa ai dám cầm đũa ăn trước, vội vàng cung kính đứng lên. Trương Vô Kỵ thấy vậy áy náy, vội nói:
- Các vị từ rày về sau cứ dùng bữa tự nhiên, không phải đợi tôi làm gì.
Chàng đến thăm Ân Lê Đình, thấy Dương Bất Hối đang dùng nước nóng lau những vết thương, đang cho chàng ăn cháo. Ân Lê Đình thần trí mơ hồ, đột nhiên mắt mở to, trừng trừng nhìn Dương Bất Hối, kêu lên:
- Hiểu Phù muội tử, anh nhớ em biết là chừng nào, em có biết không?
Dương Bất Hối mặt đỏ bừng, thần sắc thật là bẽn lẽn, tay phải cầm muỗng nói nhỏ:
- Lục hiệp uống thêm vài thìa nữa.
Ân Lê Đình nói:
- Em hứa đừng bao giờ xa anh nữa nhé.
Dương Bất Hối nói:
- Được rồi, được rồi. Lục hiệp ăn thêm vài thìa rồi sẽ nói sau.
Ân Lê Đình dường như trong lòng hết sức vui sướng, vội há mồm ăn ngay. Hôm sau Trương Vô Kỵ truyền lệnh xuống, mọi người tạm thời đừng phân tán vội, tất cả cùng đi lên chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, hỏi cho ra nguyên ủy việc Ân Lê Đình bị thương rồi sẽ tính sau. Cả bọn Vi Nhất Tiếu, Chu Điên thấy Ân Lê Đình bị thương nặng như thế, trong bụng ai cũng bất bình, nghe giáo chủ bảo đi lên Thiếu Lâm vấn tội, đều lớn tiếng hoan hô. Dương Tiêu vì việc Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình hết sức thương cảm, tuy không nói ra nhưng trong bụng đã có chủ ý, quyết tâm hết sức vì chàng mà báo thù, lại bảo con gái cố gắng chăm lo săn sóc, bù lại phần nào lỗi lầm khi xưa.
Từ đó trên đường không gặp chuyện gì khác lạ. Ân Lê Đình lúc mê lúc tỉnh, Trương Vô Kỵ hỏi chàng bị thương thế nào, Ân Lê Đình ngơ ngẩn không kể rõ được, chỉ nói:
- Năm hòa thượng phái Thiếu Lâm vây đánh một mình ta. Đúng là võ công phái Thiếu Lâm không thể nào lầm được.
Chẳng bao lâu cả đoàn tiến vào Ngọc Môn Quan, liền bán hết lạc đà chuyển sang cưỡi ngựa, lại sợ người ngoài dòm ngó nên mua quần áo cải trang làm khách thương. Có người thì đánh xe lừa, giả vờ như chở theo hàng hóa, thuốc men.
Hôm đó sáng sớm mọi người đã ra đi, theo đường lớn Cam Lương mà đi, ánh mặt trời chói lọi, trời đã bắt đầu nóng. Đi được chừng hai giờ, thấy trước mặt một hàng dương liễu khoảng hai chục cây, ai nấy đều mừng rỡ, vội vàng thúc ngựa đi tới dưới bóng cây nghỉ ngơi.
Đến gần hơn, đã thấy dưới tàn cây có chín người ngồi đó, tám người đàn ông mặc quần áo kiểu thợ săn, bên hông đeo đao, lưng đeo cung tên, còn thêm năm sáu con chim ưng dùng để đi săn, lông đen móng sắc, hình dáng trông rất hiên ngang. Một người nữa là thanh niên công tử, mặc áo dài lam, phe phẩy quạt lông không dấu vẻ ung dung sang trọng.
Trương Vô Kỵ nhảy xuống ngựa, liếc nhìn thanh niên công tử kia một cái, thấy chàng ta tướng mạo cực kỳ đẹp đẽ, đôi mắt trắng đen rõ ràng, lấp loáng hữu thần, cái quạt trong tay cán làm bằng bạch ngọc, bàn tay cầm quạt cũng trắng không khác gì cán quạt. Bỗng mọi người không hẹn mà cùng nhìn xuống ngang hông công tử đó, thấy thắt lưng có khóa bằng vàng, đeo một thanh trường kiếm, trên cán kiếm có khắc hai chữ Ỷ Thiên theo kiểu triện. Nhìn kiếm đó, hình dáng dài ngắn, chính là thanh kiếm Ỷ Thiên mà Diệt Tuyệt sư thái đã dùng để đồ sát giáo chúng Minh giáo và Chu Chỉ Nhược đã dùng để đâm Trương Vô Kỵ một nhát suýt chết. Người trong Minh giáo ai nấy ngạc nhiên, Chu Điên nhịn không nổi toan lên tiếng hỏi. Ngay lúc đó, thấy trên đường cái từ phía đông có tiếng vó ngựa lộp cộp, một đoàn người cưỡi ngựa chạy ào tới.
Đoàn người đó là một đội quân Nguyên, khoảng chừng năm sáu chục người, lại có thêm khoảng trên trăm phụ nữ, bị quân Mông Cổ dùng thừng trói lôi theo. Những người đàn bà đó phần lớn chân yếu tay mềm, làm sao chạy kịp với ngựa, có người ngã lăn, liền bị kéo lê trên đất. Họ đều là người Hán, hiển nhiên là dân chúng bị đoàn quân Nguyên này bắt cóc, hơn nửa y phục rách bươm, có người lộ cả thân trên, khóc khóc mếu mếu, cực kỳ thảm thiết. Quân Nguyên có đứa tay cầm bình rượu, uống đã nửa tỉnh nửa say, có kẻ vung roi đánh túi bụi vào đám phụ nữ. Những tên quân Mông Cổ này lớn lên trên lưng ngựa, thuật đánh roi cực kỳ xảo diệu, roi vung ra lúc rút về đều cuốn một mảng quần áo của những người đàn bà. Những kẻ khác liền lớn tiếng reo hò, cười nói xí xố.
Người Mông Cổ xâm nhập Trung Quốc đã gần một trăm năm, trước nay vẫn coi người Hán chẳng bằng súc vật, nhưng ngay giữa ban ngày ban mặt làm trò dâm ô hối nhục thế này thì là điều ít thấy. Người trong Minh giáo ai nấy mắt như đổ lửa, chỉ chờ Trương Vô Kỵ ra lệnh một tiếng, là lập tức xông ra giết bọn quân binh cứu người.
Thanh niên công tử kia bỗng nói:
- Ngô Lục Phá, ngươi ra bảo bọn chúng thả những người đàn bà ra, quấy rối như thế, còn ra cái giống gì nữa.
Thanh âm trong trẻo, vừa yểu điệu vừa nũng nịu, tưởng như giọng con gái. Một đại hán đáp lời: “Vâng”, cởi giây buộc một con ngựa vàng dưới gốc cây, nhảy lên lưng ra roi chạy lên, lớn tiếng quát:
- Này, ban ngày mà làm loạn như thế, các ngươi không có quan trưởng ước thúc hay sao? Mau thả đàn bà con gái ra ngay lập tức.
Một tên quan quân trong đám Nguyên binh giục ngựa chạy ra, mắt lờ đờ say, tay vẫn còn cắp một thiếu nữ, cười ha hả nói:
- Thằng chó chết kia không muốn sống hả, sao dám xen vào chuyện của các ông?
Đại hán nọ cười nhạt nói:
- Thiên hạ loạn lạc khắp nơi, cũng vì chúng mày không biết thương xót trăm họ mà ra cả, để ta dạy các ngươi một trận cho biết phép tắc.
Tên quân nọ đánh giá đám người dưới bóng cây, trong lòng hơi lấy làm lạ, nghĩ thầm dân chúng mỗi khi thấy quan binh, chạy cho nhanh còn không kịp, còn bọn này không biết uống mật báo, ăn gan hổ hay sao mà lại dám can thiệp vào việc của quan quân? Y liếc qua thấy trên khăn đầu của công tử nọ có đính hai hạt châu to bằng quả long nhãn, lấp lánh phát quang, liền nổi lòng tham, cười lớn:
- Này chú thỏ con kia, đi theo ông, ta cho mày hưởng phúc.
Nói xong hai đùi thúc một cái, giục ngựa xông đến chàng thanh niên công tử. Chàng kia vốn dĩ mặt mày hòa hoãn, thấy bọn Nguyên binh bạo hành không nổi giận, bấy giờ nghe tên quân này vô lễ như thế, đôi lông mày hơi nhướng lên nói:
- Không để tên nào sống sót.
Tiếng “sót” vừa ra khỏi miệng, nghe vụt một tiếng, một mũi tên đã xuyên thủng ngực tên quân kia, chính là do một người thợ săn đứng bên cạnh chàng thanh niên bắn ra. Người đó phát tiễn thủ pháp thật nhanh nhẹn, kình lực lại mạnh, dường như là một cao thủ bậc nhất võ lâm, thợ săn tầm thường làm sao có tài như thế?
Chỉ nghe tách tách tách liên tiếp, cả tám người cùng bắn, quả thực có tài bách bộ xuyên dương, không mũi tên nào hụt, một mũi tên bắn chết một tên Nguyên binh. Bọn quân Nguyên thấy tình thế đột biến, giật mình kinh hoảng, nhưng vốn cung tên thuần thục nên lớn tiếng kêu la lập tức bắn trả. Bảy người thợ săn cũng đều nhảy lên lưng ngựa xông ra, cứ một mũi tên là một đứa, chỉ trong khoảnh khắc đã bắn chết trên ba chục tên. Những đứa còn lại thấy tình hình không ổn, luôn mồm kêu la, vội bỏ đám phụ nữ giục ngựa chạy ngay. Thế nhưng ngựa của tám người thợ săn đều là tuấn mã, chạy nhanh như gió đuổi theo, cứ tám mũi tên buông ra là có tám tên ngã xuống, đuổi chưa đầy một dặm, tất cả quân Mông Cổ không còn ai sống sót.
Thanh niên công tử kia cũng nhảy lên ngựa, giục ngựa chạy đi, không quay đầu nhìn lại lấy một lần. Y ra lệnh cho bộ thuộc trong nháy mắt giết hơn năm chục tên quân Mông Cổ, tưởng như ăn cơm uống nước thường ngày, không coi vào đâu cả. Chu Điên kêu lên:
- Này, này, hượm đã, cho tôi hỏi một câu.
Công tử kia không thèm để ý đến, do tám người thợ săn hộ vệ theo sau, chạy về hướng xa xa.
Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu nếu như thi triển khinh công đuổi theo, cũng có thể kịp ngựa đang chạy, hỏi chàng công tử này cho minh bạch, thế nhưng thấy tám người thợ săn kia thần tiễn sát địch như thế, vẻ đầy hiệp nghĩa, trong bụng ai cũng ngầm kính phục, không tiện mạo phạm đến họ. Mọi người bàn tán xôn xao nhưng không ai đoán ra được lai lịch của chín người này. Dương Tiêu nói:
- Thanh niên công tử kia rõ ràng là gái giả trai, còn những cao thủ ăn mặc như thợ săn kia đối với chàng ta cực kỳ cung kính. Tiễn pháp của tám người đó thật là thần diệu, không giống nhân vật của môn phái nào ở Trung Nguyên.
Lúc đó Dương Bất Hối và những giáo chúng trong Hậu Thổ Kỳ đã chạy ra an ủi những người đàn bà bị bắt cóc, hỏi thăm tình hình mới biết đều là người ở các thôn trấn chung quanh, bèn lục các xác quân Nguyên lấy kim ngân tài bảo chia cho họ bảo họ tìm đường nhỏ tự kiếm đường về nhà.
Mấy ngày liền, quần hào vẫn tiếp tục bàn về chín người dừng cung tên giết quân Nguyên kia, trong bụng ai ai cũng có chiều ái mộ, ân hận không có dịp làm quen. Chu Điên nói với Dương Tiêu:
- Dương huynh, lệnh ái vốn dĩ là một mỹ nữ, thế nhưng so với tiểu thư mặc giả trai kia, cứ bề ngoài mà nói, xem ra còn kém một chút.
Dương Tiêu nói:
- Đúng vậy, đúng vậy. Bọn họ nếu như gia nhập bản giáo, cứ tám người thợ săn kia phải xếp hạng trên cả Ngũ Tản Nhân.
Chu Điên giận dữ nói:
- Nói thối bỏ mẹ, bọn ta cưỡi ngựa có kém gì ai đâu? Ngươi thử bảo bọn họ thi tài với Chu Điên xem nào.
Dương Tiêu trầm ngâm rồi nói:
- Cứ so với Chu huynh thì quả có kém thực, nhưng nếu chỉ tính võ công thôi, xem ra họ có vẻ hơn Lãnh Khiêm huynh một chút.
Trong năm người Ngũ Tản Nhân của Minh giáo thì Lãnh Khiêm võ công đứng đầu, chuyện đó ai ai cũng biết. Dương Tiêu và Chu Điên trước nay vẫn không hợp tính, tuy không còn công khai kèn cựa với nhau nhưng Chu Điên hễ có cơ hội là cãi với Dương Tiêu vài câu ngay, bây giờ nghe y nói võ công tám người thợ săn kia cao hơn Lãnh Khiêm, rõ ràng là trên tất cả Ngũ Tản Nhân, trong bụng tức lắm, đang tính châm chọc mấy câu trả miếng, Bành Oánh Ngọc cười nói:
- - Chu huynh lại bị Dương tả sứ cho vào tròng rồi, y định chọc cho Chu huynh tức đấy mà.
Chu Điên cười sằng sặc nói:
- Vậy ta không thèm tức xem làm gì được nào?
Thế nhưng chẳng mấy chốc, Chu Điên lại chỉ trích Dương Tiêu cưỡi ngựa không được tinh thông, quần hào chỉ mặc kệ không ai trả lời.
Ân Lê Đình được Trương Vô Kỵ ngày ngày chữa trị, thần trí đã tỉnh táo nhiều, kể lại hôm đó từ Quang Minh Đính chạy xuống, tâm thần khích động, nên lạc lối, càng chạy càng xa, lang thang trong sa mạc mênh mông tám chín ngày. Đến khi kiếm được đường cũ quay về thì không còn liên lạc được với huynh đệ đồng môn phái Võ Đương nữa.
Hôm đó chàng bất ngờ gặp phải năm nhà sư Thiếu Lâm, những hòa thượng đó không nói một lời, lập tức tiến lên gây sự. Năm nhà sư đó võ công rất cao, tuy Ân Lê Đình đánh bại hai người nhưng quả bất địch chúng, cuối cùng bị đánh trọng thương. Chàng thấy võ công họ đều thuộc phái Thiếu Lâm không còn nghi ngờ gì nữa, nhưng chưa từng lên Quang Minh Đính nên không gặp mặt bao giờ, xem ra có thể là người đi sau tiếp viện, nhưng vì cớ gì lại hạ độc thủ thì không nghĩ ra. Chàng cũng đã thông báo tên tuổi, như thế không thể nói là lầm người được.
Trên đường đi, Dương Bất Hối săn sóc Ân Lê Đình cực kỳ chu đáo, nàng biết cha mẹ mình đã không phải với chàng thật nhiều, lại thấy bị nạn thê thảm như thế, không khỏi chạnh lòng thương hại.
Đế sẩm tối hôm đó, quần hào qua khỏi Vĩnh Đăng, cố giục ngựa chạy nhanh hơn mong đến được Giang Thành Tử nghỉ ngơi. Đang đi bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, trên đường cái có hai kỵ sĩ song song chạy đến, cách chừng mươi trượng liền nhảy xuống ngựa, đứng tránh qua một bên đường, cử chỉ thật là cung kính. Hai người đó mặc theo lối đi săn, chính là người trong bát hùng bắn tên giết quân Nguyên hôm trước. Quần hào vui mừng, vội vàng nhảy xuống ngựa đến chào hỏi.
Hai người đó đi đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng hành lễ. Một người cao giọng nói:
- Tệ thượng[3] ngưỡng mộ hành vi nhân hiệp cao nghĩa của Trương giáo chủ Minh giáo, cùng cung cách anh hùng của quí liệt vị, nên sai tiểu nhân mời các vị dừng ngựa nơi tệ trang để tỏ lòng hâm mộ.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ hỏi lại:
- Không dám, không dám. Không hiểu quí thượng tên họ xưng hô thế nào?
Người kia đáp:
- Tệ thượng họ Triệu, khuê danh không dám gọi tới.
Mọi người thấy y nhận ngay thanh niên công tử kia là con gái giả trang, quả thực có thành ý, trong bụng mừng thầm. Trương Vô Kỵ nói:
- Từ khi được chứng kiến thần kỹ bắn tên của quí vị, chúng tôi ai ai cũng khen ngợi hết lời, quí vị không hiềm hạ mình kết giao thì thật vinh dự xiết bao, chỉ e như thế không tiện.
Người kia đáp:
- Các vị là anh hùng đời nay, tệ thượng đã ngưỡng mộ từ lâu, hôm nay có dịp đi qua đất nhà, nếu chẳng được dâng lên ba chén rượu nhạt thì e không hết được lễ nghi của địa chủ.
Trương Vô Kỵ đang muốn được quen biết thêm với những nhân vật anh hùng này, lại muốn hỏi xem thanh kiếm Ỷ Thiên vì đâu qua tay đổi chủ như thế nên nói:
- Nếu đã như thế, từ chối quả là không cung kính, vậy xin được đến viếng quí trang.
Hai người kia mừng lắm, lên ngựa đi trước dẫn đường. Qua khoảng chưa tới một dặm, trước mặt lại có hai người cưỡi ngựa chạy đến, ở xa xa xuống ngựa đứng đợi, cũng là người trong thần tiễn bát hùng. Đi thêm một dặm nữa, bốn người còn lại trong bát hùng lại phi ngựa đến đón tiếp. Quần hào Minh giáo thấy bên kia lễ số chu đáo như thế, ai nấy cực kỳ cảm động.
Cả bọn đi theo một con đường lát đá xanh dẫn đến một đại trang viện, có sông nhỏ uốn khúc vây quanh, bờ sông trồng đầy dương liễu xanh rờn, suốt một dải Cam Lương bây giờ bỗng thấy phong cảnh chẳng khác gì ở Giang Nam, quần hào ai cũng thấy tinh thần sảng khoái hẳn lên. Trước mặt trang môn mở lớn, cầu treo đã hạ xuống từ bao giờ, vị cô nương họ Triệu kia vẫn mặc nam trang, đứng ngay tại cửa nghênh tiếp.
Triệu tiểu thư tiến lên hành lễ, dõng dạc nói:
- Quí vị hào hiệp của Minh giáo hôm nay giá lâm Lục Liễu Sơn Trang, quả thực là rạng rỡ cho nhà tranh vách đất của chúng tôi. Xin mời Trương giáo chủ, mời Dương tả sứ, mời Ân lão tiền bối, mời Vi Bức Vương...
Nàng biết hết từng người trong quần hào Minh giáo, không cần phải giới thiệu, thuận miệng nói ra danh hiệu, kẻ cao người thấp không sai một ai. Cả bọn kinh ngạc, Chu Điên nhịn không nổi liền hỏi:
- Đại tiểu thư, sao cô biết hết tên tuổi chúng tôi? Chẳng lẽ cô có bản lãnh tiên tri hay sao?
Triệu tiểu thư mỉm cười nói:
- Quần hiệp Minh giáo danh mãn giang hồ, ai chẳng hay biết? Trận đánh trên Quang Minh Đính mới rồi, Trương giáo chủ dùng tuyệt thế thần công uy nhiếp lục đại môn phái, việc đó đã vang động cả võ lâm. Các vị đến Trung Nguyên, trên đường biết bao bằng hữu võ lâm mong được tiếp đãi, có phải chỉ mình tiểu nữ đâu?
Mọi người nghe thấy quả không sai, trong bụng mừng thầm nhưng miệng ai cũng khiêm tốn, hỏi ngay đến sư thừa tên tuổi thần tiễn bát hùng. Một người thân thể cao to đáp:
- Tại hạ là Triệu Nhất Thương, đây là Tiền Nhị Bại, đây là Tôn Tam Hủy, đây là Lý Tứ Tồi.
Y chỉ tiếp qua mấy người kia nói:
- Đây là Chu Ngũ Thâu, đây là Ngô Lục Phá, đây là Trịnh Thất Diệt, còn đây là Vương Bát Suy.
Quần hào Minh giáo nghe xong, ai cũng ngẩn người, nghĩ thầm tám người này họ sắp xếp theo Bách Gia Tính[4] là Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh Vương, đã là hết sức lạ lùng rồi nhưng tên lại toàn những chữ không gì tốt lành như Vương Bát Suy chẳng hạn, thật ngoài dự liệu. Thế nhưng người trên giang hồ vì lánh nạn, tránh thù, tùy nghi lấy tên giả là chuyện rất thường, thành ra không dám hỏi thêm.
Triệu tiểu thư tự mình dẫn đường, nhường cho mọi người tiến vào đại sảnh trước. Quần hào thấy đại sảnh trên cao có treo một tấm biển viết bốn chữ đại tự Lục Liễu Sơn Trang. Ngay tại chính giữa treo một bức tranh Bát Tuấn Đồ[5] do Triệu Mạnh Phủ[6] vẽ, tám con ngựa mỗi con một kiểu không con nào giống con nào, con nào cũng ra vẻ thần mã. Bên phía trái treo một bức bút thiếp, văn viết:
Bạch hồng tòa thượng phi,
Thanh xà hạp trung hống.
Sát sát sương tại phong,
Đoàn đoàn nguyệt lâm nữu.
Kiếm quyết thiên ngoại vân,
Kiếm xung nhật trung đẩu.
Kiếm phá yêu nhân phục,
Kiếm phất nịnh thần thủ.
Tiềm tương tịch lị mị,
Hốt đãn kinh thiếp phụ.
Lưu trảm hoằng hạ giao,
Mạc thí nhai trung cẩu.
Mống trắng bay vụt lên,
Rắn xanh kêu lồng lộn.
Sương đọng trên đỉnh núi,
Mây quấn quanh vầng trăng.
Kiếm quyết tỏa tận mây,
Kiếm khí xung tinh đẩu.
Kiếm phá phục yêu ma,
Kiếm cắt đầu gian nịnh.
Nằm yên ma quỉ kinh,
Vung lên thiếp rùng mình.
Xuống vực chém giao long,
Ai giết chó chạy rông.
Dưới bài thơ đề một hàng chữ nhỏ: “Dạ thí Ỷ Thiên bảo kiếm, tuân thần vật dã, tạp lục Thuyết Kiếm thi dĩ tán chi. Biện Lương Triệu Mẫn” (Ban đêm lấy bảo kiếm Ỷ Thiên ra thử, thấy quả là thần vật nên tạm chép Thuyết Kiếm ra để ca ngợi. Triệu Mẫn ở Biện Lương đề thơ)
Trương Vô Kỵ thư pháp tuy không giỏi nhưng đã theo Chu Cửu Chân học tập phép viết chữ, người khác viết xấu đẹp chàng cũng tạm nhận ra, thấy bức thiếp đó nét bút tung hoành, nhưng vẫn có nét ủy mị, rõ ràng là chữ con gái, biết là vị Triệu tiểu thư này viết. Chàng ngoài y thư ra chẳng đọc sách bao nhiêu, nhưng ý thơ không mấy khúc mắc, đọc là hiểu ngay, nghĩ thầm: “Thì ra nàng vốn là người Biện Lương[7], tên chỉ có một chữ Mẫn, liền nói:
- Triệu cô nương văn võ toàn tài, thật là bội phục. Thì ra cô nương vốn là thế gia ở cựu kinh đô.
Triệu tiểu thư Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- Tôn đại nhân của Trương giáo chủ có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, hẳn là danh gia thư pháp. Trương giáo chủ gia học uyên nguyên, tiểu nữ mong được giáo chủ ban cho một bức thiếp.
Trương Vô Kỵ nghe câu đó, mặt đỏ bừng. Cha chàng mất khi mới lên mười, chưa từng được theo cha tập viết chữ, về sau học thuốc học võ, chữ nghĩa quả thật ít ỏi, liền nói:
- Cô nương bảo tôi viết chữ, có khác gì giết tôi. Tại hạ bất hạnh, tiên phụ qui tiên từ khi còn nhỏ, chưa được kế thừa sở học của cha, thật là xấu hổ.
Còn đang nói chuyện, trang đinh đã đem trà lên, thấy trong những chén sứ vũ quá thiên thanh (màu xanh như trời sau cơn mưa), nổi mấy lá trà Long Tỉnh xanh rờn, mùi thơm ngào ngạt. Quần hào ai nấy đều lạ lùng, nơi này cách đất Giang Nam cả mấy nghìn dặm, làm sao có được trà Long Tỉnh còn tươi như thế này? Cô nương này cái gì cũng đều cực kỳ lạ lùng. Triệu Mẫn cầm chén lên uống trước một ngụm, dường như muốn cho mọi người biết trà không có gì độc, đợi mọi người uống xong mới nói:
- Các vị đường xa chiếu cố đến, tệ trang thật là giản mạn, xin thứ tội cho. Các vị đi đường chắc cũng đã mệt, xin qua bên này ăn chút cơm dùng chút rượu.
Nói xong, nàng đứng dậy, đưa quần hào qua một hành lang đến một vườn hoa lớn. Trong vườn có giả sơn đá xù xì, suối hồ nước trong vắt, hoa tuy không nhiều nhưng thật là thanh nhã. Trương Vô Kỵ chưa lãnh hội được vẻ đẹp của thú chơi vườn cảnh nhưng Dương Tiêu đã ngầm gật gù, biết rằng chủ nhân của vườn hoa này là kẻ lòng mang chí lớn không phải người thô tục tầm thường.
Trong thủy các đã bày hai mâm tiệc, Triệu Mẫn liền mời mọi người vào bàn, còn bọn thần tiễn bát hùng Triệu Nhất Thương, Tiền Nhị Bại thì ở sảnh đường bên cạnh bồi tiếp các giáo chúng Minh giáo khác. Ân Lê Đình không sao dậy được, nên Dương Bất Hối phải ở trong phòng đút cơm cho ăn.
Triệu Mẫn rót đầy một chén rượu lớn, một hơi cạn sạch, nói:
- Đây là Nữ Trinh Thiệu Hưng trần tửu, đã được một trăm mười tám năm, các vị thử nếm xem tửu vị thế nào?
Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Thiên Chính tuy đã tin rằng Triệu tiểu thư là người hiệp nghĩa, nhưng vẫn mười phần cẩn thận, xem kỹ hồ rượu, chén rượu không có gì khác lạ, Triệu tiểu thư lại uống một chén trước rồi, mới hết nghi kỵ ăn uống tự nhiên. Giáo qui Minh giáo trước nay vẫn là “ăn chay thờ ma” cấm uống rượu, kỵ ăn mặn nhưng từ khi tổng đàn dọn vào trong dãy Côn Lôn mới bỏ đi các lề luật cấm kỵ này. Tây Vực khó kiếm rau dưa, chỉ toàn là thịt, hơn nữa khí hậu lạnh buốt, nếu như không ăn mỡ bò mỡ cừu, chỉ thuần nội lực thì không đề kháng nổi.
Trong hồ bao quanh nơi thủy các có trồng bảy tám cây hoa trông giống như thủy tiên nhưng lớn hơn, hoa màu trắng hương thơm thoang thoảng. Quần hào được ngửi hoa thơm, uống rượu ngon, gió hiu hiu mát rượi thật không còn gì thoải mái bằng.
Triệu tiểu thư ăn nói rất tự nhiên, bàn luận về các nhân vật võ lâm Trung Nguyên thật sành sỏi, nhiều điều đến cha con Ân Thiên Chính cũng không biết. Đối với võ công các phái Thiếu Lâm, Nga Mi, Côn Lôn nàng không khen ngợi lắm nhưng khi nhắc tới Trương Tam Phong và Võ Đương thất hiệp thì hết lời tán tụng, cũng ca ngợi võ công môn phái các thủ lãnh Minh giáo, thoạt nghe tưởng như không có gì đặc sắc nhưng mỗi câu khen ngợi đều đúng vào chỗ trọng yếu. Quần hào vừa hoan hỉ, vừa bội phục, thế nhưng khi hỏi đến võ công môn phái của chính nàng, Triệu Mẫn chỉ mỉm cười không đáp, lảng qua chuyện khác.
Rượu được mấy tuần, rót đến đâu nàng cạn ly đến đó, thật là hào sảng. Mỗi món ăn đưa lên, nàng cũng đưa đũa gắp một miếng ăn trước, đôi má hồng lên, dường như đã hơi say, trông càng thêm diễm lệ. Người đẹp xưa nay, nếu không dịu dàng ẻo lả thì cũng kiều diễm tươi tắn, nhưng cô gái họ Triệu này không những mười phần xinh đẹp, lại thêm ba phần anh khí, ba phần hào hùng, mà vẫn ung dung cao quí, toát ra một vẻ đoan nghiêm khiến người ta phải nổi lòng kính trọng, không dám coi thường.
Trương Vô Kỵ nói:
- Triệu cô nương, được cô nương hậu đãi như thế này, tệ giáo từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích. Tại hạ có một câu muốn hỏi, có điều ngại nên không dám mở miệng mà thôi.
Triệu Mẫn đáp:
- Trương giáo chủ sao phải dè dặt thế? Chúng ta hành tẩu giang hồ, bốn bể đều là anh em, các vị nếu không hiềm thì cho tiểu muội được kết bạn. Có chuyện gì sai bảo hỏi han, ắt sẽ hết sức trình bày.
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu đã như thế, tại hạ mong được thỉnh vấn, thanh bảo kiếm Ỷ Thiên của cô nương vì sao mà có được?
Triệu Mẫn mỉm cười, cởi thanh kiếm Ỷ Thiên ở hông ra, đặt lên trên bàn, nói:
- Tiểu muội từ khi gặp các vị đến giờ, ai nấy chăm chăm mắt không rời thanh kiếm này, không hiểu vì duyên cớ gì, mong cho biết được chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
- Quả không dám dấu, thanh kiếm này nguyên là sở hữu của Diệt Tuyệt sư thái chưởng môn phái Nga Mi, anh em trong tệ giáo táng thân dưới thanh kiếm này không phải ít. Chính tại hạ đây cũng đã từng bị kiếm này đâm vào ngực, suýt nữa bỏ mạng, vì thế mà ai nấy đều để ý.
Triệu Mẫn nói:
- Trương giáo chủ thần công vô địch, từng nghe dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt thanh kiếm này trên tay Diệt Tuyệt sư thái, sao lại có thể bị thương vì nó được? Lại nghe nói kẻ dùng kiếm đâm Trương giáo chủ chỉ là một nữ đệ tử trẻ tuổi của phái Nga Mi, võ công cũng chỉ bình bình, tiểu muội quả không sao hiểu được.
Nàng nói câu đó không chớp mắt, chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, trên môi dường như điểm một nụ cười. Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên, nghĩ thầm: “Sao cô ta biết rõ như thế nhỉ?” liền đáp:
- Đối phương đâm đột ngột quá, tại hạ chưa kịp để ý cho nên sẩy tay.
Triệu Mẫn mỉm cười:
- Chắc Chu Chỉ Nhược Chu tỉ tỉ xinh đẹp lắm, phải không nhỉ?
Trương Vô Kỵ mặt đỏ như gấc, ngượng nghịu nói:
- Cô nương lại nói đùa rồi.
Chàng cầm chén lên định uống một ngụm để chữa thẹn, nào hay tay trái hơi run, làm sánh mấy giọt rượu ra ngoài, văng cả lên tà áo. Triệu Mẫn cười nụ nói:
- Tiểu muội tửu lực không bao nhiêu, ăn nói đã không biết nặng nhẹ nữa rồi, sợ uống thêm đâm ra thất thố. Để xin phép vào trong thay quần áo, sẽ trở ra ngay, xin các vị cứ tự nhiên, đừng khách sáo gì cả.
Nói xong đứng dậy, làm như kiểu cách nam nhi, cung kính vái một vái rồi đi ra khỏi thủy các, lần theo những luống hoa cành liễu vào bên trong. Thanh Ỷ Thiên kiếm kia vẫn để trên bàn, không đem theo.
Các gia đinh phục thị tiếp tục đem các món ăn lên. Quần hào không dám ăn tiếp nữa, đợi một lúc lâu, không thấy Triệu Mẫn quay trở lại. Chu Điên nói:
- Nàng ta để bảo kiếm lại đây, quả là tin bọn mình quá.
Nói xong cầm thanh kiếm lên để trong tay, đột nhiên “Ối” một tiếng, nói:
- Sao nhẹ thế này?
Y cầm cán kiếm rút ra, kiếm vừa khỏi vỏ, quần hào đều đứng bật cả lên, ai nấy cực kỳ kinh ngạc. Kiếm này đâu phải Ỷ Thiên bảo kiếm, chém vàng chặt sắt sắc bén phi thường đâu? Chẳng qua chỉ là một thanh kiếm gỗ màu vàng. Mọi người lập tức ngửi thấy một mùi hương thơm nhè nhẹ, chính là bằng gỗ đàn hương.
Chu Điên nhất thời không hiểu tại sao, đút kiếm trở lại vỏ, lắp bắp:
- Dương... Dương tả sứ, cái này... cái này là cái trò gì đây?
Y tuy ngày ngày cãi cọ với Dương Tiêu, nhưng trong bụng thực sự bội phục Dương Tiêu kiến thức siêu việt, bây giờ gặp chuyện nghi nan, tự nhiên mở mồm hỏi ngay như thế. Dương Tiêu mặt mày trịnh trọng, hạ giọng nói:
- Giáo chủ, Triệu tiểu thư này mười phần đến chín không có ý tốt đâu. Bây giờ bọn mình ở trong cảnh nguy khốn, nên đi ngay là hơn.
Chu Điên nói:
- Việc gì mà sợ? Nếu nàng ta có giở trò gì, với bây nhiêu người chúng ta, chẳng lẽ không đánh cho một trận tan tành hay sao?
Dương Tiêu nói:
- Từ khi vào trong Lục Liễu Sơn Trang này, cái gì cũng thấy thần bí, chính chẳng ra chính, tà chẳng ra tà, không biết đường đâu mà mò. Bọn mình việc gì phải ở nơi đây, để cho mọi việc người ta khắc chế?
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Dương tả sứ nói phải lắm. Bọn mình ăn uống xong rồi, cáo từ là vừa.
Nói xong lập tức đứng lên. Thiết Quan đạo nhân hỏi:
- Thế thanh Ỷ Thiên kiếm thực nay ở đâu, giáo chủ không muốn dò hỏi hay sao?
Bành Oánh Ngọc nói:
- Theo thuộc hạ, Triệu tiểu thư này dàn nghi binh, đã toan tính chuyện gì rồi. Mình nếu không đi kiếm cô ta, cô ta sẽ đi kiếm mình.
Trương Vô Kỵ nói:
- Đúng thế, chúng mình bây giờ đang có việc phải làm, không nên thêm việc làm chi. Mai sau mình cứ chờ họ đến, bao giờ rõ ràng mọi việc hãy hay.
Mọi người ra khỏi thủy các, trở về đại sảnh, bảo gia đinh thông báo tiểu thư, gửi lời cảm ơn bữa thịnh yến rồi lập tức cáo từ. Triệu Mẫn lật đật đi ra, nàng đã thay một bộ áo thêu màu vàng nhạt, hình dung thật là tiêu sái phiêu dật, mặt mày sáng rỡ nói:
- Vừa mới gặp nhau sao đã vội đi? Hay là chê tiểu nữ tiếp đãi đơn sơ quá chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đa tạ cô nương tiếp đãi hậu hĩ như thế, đâu thể gọi là “đơn sơ” được. Chúng tôi có những việc cần kíp, không dám ở nán lại lâu. Ngày sau có dịp gặp lại, sẽ xin học hỏi thêm.
Khóe miệng Triệu Mẫn tưởng như cười mà không phải cười, đưa mọi người ra khỏi sơn trang. Thần tiễn bát hùng cung kính đứng hai bên đường, khom lưng tiễn khách. Quần hào ôm quyền từ biệt, không nói một lời giục ngựa chạy ngay, chẳng mấy chốc thấy đã cách xa Lục Liễu Sơn Trang, bốn bề chung quanh là đồng trống, nhưng không thấy ai khác. Chu Điên lớn tiếng nói:
- Cái cô Triệu tiểu thư này chưa chắc đã sắp đặt chuyện gì không tốt đâu, chẳng qua tính đàn bà trẻ con hay dỡn hớt, nên đem một thanh kiếm gỗ để đùa giáo chủ, có gì mà lo? Dương tả sứ, kỳ này ngươi đi quá xa rồi.
Dương Tiêu trầm ngâm nói:
- Là cái trò gì, thực tình tôi không biết rõ, chỉ thấy có gì không ổn thôi.
Chu Điên cười nói:
- Dương tả sứ đại danh vang dậy của chúng ta sau trận chiến Quang Minh Đính đã biến thành kinh cung chi... ối chà...
Y nói tới đây bỗng lảo đảo ngã xuống ngựa. Thuyết Bất Đắc ở gần y nhất, vội vàng nhảy ra, đỡ y lên, hỏi:
- Chu huynh, sao thế?
Chu Điên cười nói:
- Chẳng... chẳng sao cả. Có lẽ uống quá chén, đầu hơi váng vất thôi.
Y nói tới “váng vất”, quần hào ai nấy đều thất sắc. Thì ra từ khi rời Lục Liễu Sơn Trang, trên đường chạy, ai ai cũng thấy hơi váng vất, nhưng cũng chỉ cho rằng vì uống mấy chén rượu, không ai để ý, thế nhưng Chu Điên võ công cao cường, tửu lượng lại mạnh, uống có vài chén đâu đến nỗi phải ngã ngựa? Bên trong hẳn có gì bất thường.
Trương Vô Kỵ ngửng đầu lên, duyệt lại một lượt Độc Kinh của Vương Nạn Cô trong đầu, xem có loại độc dược nào không vị, không sắc, không mùi, làm cho người ta choáng váng. Khắp cuốn Độc Kinh xem ra không thấy chỗ nào phù hợp, mà chính mình cùng với quần hào uống chung ăn chung, sao không thấy gì khác lạ? Đột nhiên, trong óc như một ánh chớp lóe lên, giật mình nghĩ tới một chuyện, khiến chàng kinh hoảng kêu to:
- Tất cả các vị uống rượu ở trong thủy các xuống ngựa hết, ngồi xếp bằng trên đất, nhất định không được vận khí điều tức, cứ để tự nhiên.
Chàng lại hạ lệnh:
- Các đệ tử Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia ra bố phòng bốn mặt, nghiêm mật bảo vệ các thủ lãnh, bất luận ai đến gần đều giết hết không tha.
Mọi người nghe thấy giáo chủ hạ nghiêm lệnh, đáp ứng vang dậy, lập tức rút binh khí chia ra tứ phương. Trương Vô Kỵ lại nói:
- Phải đợi đến khi ta về, không được ly tán.
Quần hào không hiểu lý do tại sao, chỉ thấy hơi hơi váng vất, không thấy gì khác, sao giáo chủ lại có vẻ kinh hoảng như thế? Trương Vô Kỵ lại dặn thêm:
- Dù cho có nhức đầu khó chịu đến đâu, tuyệt đối không được điều vận nội tức, nếu không chất độc phát ra không sao chữa được.
Quần hào ai nấy hoảng sợ tự hỏi: “Mình trúng độc như thế nào?”.
Trương Vô Kỵ thân hình hơi lắc một cái, đã vọt ra ngoài hơn chục trượng. Chàng sợ cưỡi ngựa chậm quá, lập tức thi triển khinh công chạy về phía Lục Liễu Sơn Trang. Chàng gấp gáp dị thường biết rằng kỳ này bọn Dương Tiêu, Ân Thiên Chính đều trúng chất kịch độc, nếu phát tác thì tính mạng chỉ còn được một giờ ba khắc, không phải như trúng Huyễn Âm Chỉ xong còn có thể diên trì ngày này sang ngày khác, nếu không cướp được giải dược, tất cả mọi người đều chết cả. Đoạn đường hơn hai mươi dặm kia chốc lát đã tới ngay, đến trước sơn trang, chàng lao một cái, thân hình như một mũi tên bắn tới. Những trang đinh canh nơi cửa chỉ thấy hoa mắt, dường như có một cái bóng vụt qua nhưng không nhìn rõ là người nào đã vào trang môn.

Trương Vô Kỵ liền vọt vào ngay vườn sau, chạy đến thủy các, thấy một thiếu nữ mặc áo màu xanh nhạt, tay trái cầm chén, tay phải cầm sách, đang ngồi uống trà đọc sách, chính là Triệu Mẫn. Lúc này cô ta đã đổi sang y phục đàn bà.
Nàng nghe thấy tiếng chân Trương Vô Kỵ, quay đầu nhìn lại, mỉm cười. Trương Vô Kỵ nói:
- Triệu cô nương, tại hạ xin cô vài cây hoa.
Không đợi nàng trả lời, chân trái điểm một cái, nhảy từ bờ hồ sang thủy các, thân hình tà tà bay qua, chẳng khác gì chuồn chuồn điểm nước, hai tay đã nhổ sạch mấy cây hoa trông như thủy tiên trồng trong hồ. Chàng đang toan đạp lên thủy các, bỗng nghe soẹt soẹt, mấy ngọn ám khí nhỏ li ti đã bắn vào mặt. Tay áo phải Trương Vô Kỵ liền phất một cái, cuộn hết ám khí vào trong, tay áo bên trái hất ra, đánh vào Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn nghiêng người né tránh, chỉ thấy gió nổi vù vù, bao nhiêu bình trà, chén trà, đĩa trái cây trên bàn bị tụ phong thổi bay qua hồ rơi vào trong đám cây cỏ, vỡ tan tành. Trương Vô Kỵ thân hình đứng vững rồi, nhìn lại mấy cây hoa trong tay, thấy mỗi cây đều có một chùm rễ dài màu tím, trên mỗi cái rễ dính đầy những củ lớn bằng hạt hạt ngọc trai, xanh biếc như phỉ thúy, mừng lắm biết là đã có được thuốc giải, lập tức bỏ vào trong túi nói:
- Đa tạ giải dược, cáo từ.
Triệu Mẫn nói:
- Đến thời dễ nhưng đi thì khó.
Nàng ném quyển sách đi, thuận tay rút từ trong quyển sách hai lưỡi kiếm mỏng như giấy, sáng loáng như gương, đâm tới. Trương Vô Kỵ lo cho thương thế của bọn Ân Thiên Chính, không dám đánh lâu, tay áo phải phất ra, hơn chục mũi kim châm dính trong tay áo cùng bắn tới. Triệu Mẫn nghiêng người nhảy ra khỏi thủy các, chân trái điểm vào bậc thềm một cái nhảy trở lại, trong khi nhảy ra nhảy vào như thế, những mũi kim châm đều rơi cả xuống ao. Trương Vô Kỵ khen ngợi:
- Hảo thân pháp.
Chàng lại thấy nàng tay trái ra trước, tay phải ra sau đâm hai thanh đoản kiếm tới, nghĩ thầm: “Con a đầu này lòng dạ độc ác đến thế, nếu ta không luyện được Cửu Dương thần công, đọc được Độc Kinh của Vương Nạn Cô, hôm nay Minh giáo đều bị chết vì tay nó một cách bất minh bất bạch”. Chàng hai tay vươn ra, khi chập lại toan cướp hai thanh đoản kiếm. Triệu Mẫn liền xoay cổ tay dùng kiếm chặt ngón tay Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ không cướp được binh khí của đối phương, cũng hơi lấy làm lạ nhưng thần công của chàng biến ảo khôn lường, khéo léo biết bao, mấy ngón tay liền phất một cái trúng ngay những huyệt đạo trên cổ tay. Kiếm trong tay Triệu Mẫn cầm không vững, thừa thế ném tới, Trương Vô Kỵ nghiêng đầu, nghe băng băng hai tiếng, hai thanh kiếm cắm luôn vào cột thủy các, kình lực vẫn còn rung rung không ngớt. Trương Vô Kỵ trong bụng hơi sợ, nếu nói về võ công, nàng kém xa Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu, nhưng nói về cơ cảnh linh mẫn, biến chiêu vừa nhanh vừa độc, song kiếm không còn giữ được vẫn còn toan đả thương người, nếu như né tránh chậm một chút có phải chết dưới kiếm của nàng rồi không?
Triệu Mẫn mất hai thanh kiếm rồi, liền lật tay lại cầm luôn thanh kiếm gỗ Ỷ Thiên nhưng không rút ra, múa lên đâm vào hông Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền giơ ngón tay trỏ và ngón tay giữa bên trái điểm vào huyệt Kiên Trinh trên vai nàng, đợi Triệu Mẫn vừa né qua, liền thò tay phải dùng Càn Khôn Đại Na Di đoạt luôn thanh kiếm gỗ.
Triệu Mẫn vừa đứng vững liền cười hì hì nói:
- Trương công tử, công phu đó là công phu gì thế? Có phải Càn Khôn Đại Na Di đấy không? Tôi xem cũng bình bình không có gì lạ.
Trương Vô Kỵ liền xòe tay trái ra, trong lòng bàn tay có một đóa hoa kết bằng ngọc trai đang rung động, chính là bông hoa nàng cắm ở trên mái tóc. Triệu Mẫn sắc mặt hơi đổi khác, Trương Vô Kỵ lấy bông hoa trên tóc nàng không hay biết gì cả, nếu như thay vì thò tay lấy bông hoa lại đánh vào huyệt thái dương một cái thì mạng nàng đâu còn nữa. Thế nhưng Triệu Mẫn trấn tĩnh ngay, cười nhạt một tiếng nói:
- Nếu công tử thích bông châu hoa đó thì tôi tặng cho công tử cần gì phải ra tay cướp đoạt.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói dường như cho mình có ý không tốt, tay trái liền vung lên một cái ném trả bông hoa, nói:
- Trả lại cho cô.
Quay mình ra khỏi thủy các. Triệu Mẫn giơ tay đón lấy bông hoa, kêu lên:
- Khoan đã.
Trương Vô Kỵ quay đầu lại thấy nàng cười nói:
- Sao công tử lại lấy mất hai viên ngọc trai lớn nhất trên đóa hoa này là sao?
Trương Vô Kỵ nói:
- Chỉ nói quấy quá, tôi không hơi đâu mà đùa với cô.
Triệu Mẫn giơ cao đóa hoa, nghiêm mặt nói:
- Xem này, chẳng phải mất hai viên ngọc trai đấy ư?
Trương Vô Kỵ nhìn đến quả nhiên có hai sợi chỉ vàng thiếu mất hạt châu, biết là nàng cố tình giựt đứt để dụ cho mình đến gần hầu thi hành ngụy kế nên chỉ hừ một tiếng không thèm để ý đến nữa. Triệu Mẫn tay vịn vào thành bàn, thống thiết kêu lên:
- Trương Vô Kỵ, ngươi có giỏi thì đến cách ta ba bước xem nào.
Trương Vô Kỵ không mắc vào kế nói khích của nàng, nói:
- Cô bảo tôi nhát gan sợ chết cũng chẳng sao.
Nói xong nhảy xuống hai bậc thềm. Triệu Mẫn thấy mình khích tướng không đi đến đâu mặt liền biến sắc, buồn bã nói:
- Thôi rồi, thôi rồi. Hôm nay ta đã đến nước này, còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ?
Nàng vói tay rút ngay một thanh đoản kiếm cắm trên cột, kêu lên:
- Trương giáo chủ, đa ta ngươi đã thành toàn cho ta.
Trương Vô Kỵ quay đầy nhìn lại, chỉ thấy một ánh sáng trắng lóe lên, nàng đã đâm thẳng mũi kiếm vào ngực. Trương Vô Kỵ cười nhạt:
- Ta đâu có để cho...
Chưa nói tới chữ “cô lừa” thì thấy mũi kiếm quả thật đã đâm vào ngực, Triệu Mẫn thảm thiết kêu lên một tiếng, gục ngay xuống bàn. Trương Vô Kỵ kinh hoảng không để đâu cho hết, không ngờ cô gái lại ngang ngạnh đến vậy, vài chiêu chưa thắng đã vung kiếm tự sát ngay, nghĩ thầm nếu như nhát kiếm không trúng tim thì may ra còn cứu được. Chàng liền quay trở lại chạy tới coi thương thế của nàng thế nào.
Chàng vừa tới cách bàn chừng ba bước, đang toan thò tay nắm lấy vai cô ta, bỗng nhiên dưới chân hỗng xuống, đạp vào chỗ không, thân hình rơi tụt ngay xuống. Chàng biết là không ổn, hai tay áo vận khí phất xuống, thân hình đang trên không lập tức ngừng lại, liền giơ tay đánh một chưởng vào cạnh bàn. Chưởng đó nếu đánh trúng, chàng có thể mượn sức vọt lên, không để rơi vào chiếc hầm dưới chân. Nào ngờ Triệu Mẫn tự sát là giả nên đã liệu trước chuyện này, chưởng phải vận kình đánh ra không để cho tay chàng đụng vào bàn.
Chuyện đó nhanh như chim cắt bắt mồi, chỉ trong nháy mắt, song chưởng đụng nhau, Trương Vô Kỵ đã rơi tụt xuống lưng chừng, vội vàng lật tay một cái, chộp luôn mấy ngón tay phải của Triệu Mẫn. Bàn tay nàng trơn tuột, dường như muốn thoát ra, nhưng Vô Kỵ chỉ cần một chút lực có thể mượn được, là có thể bay vụt lên, chàng liền vươn tay nắm cánh tay cô gái. Thế nhưng đang sức rơi rất mạnh, chàng vừa nắm được Triệu Mẫn, hai người cùng lộn xuống hầm.
Chỉ thấy tối đen như mực, thân hình tiếp tục rơi xuống, nghe một tiếng cách ở trên đầu, cửa hầm bên trên đã đóng chặt lại. Hai người rơi đến bốn năm trượng mới tới đáy. Trương Vô Kỵ vừa chạm đất, lập tức nhảy lên, thi triển Bích Hổ Du Tường Công[8] bò lên đến tận trên, giơ tay đẩy nắp đậy. Tấm bửng đó vừa chắc vừa lạnh, là một thiết bản thật lớn, đẩy vào chỉ trơ trơ. Chàng tuy có Càn Khôn Đại Na Di thần công nhưng thân hình lơ lửng trên không đâu có được như đứng trên mặt đất mà lực đạo chuyển qua chuyển lại, đẩy tới đẩy lui một hồi, tấm sắt không hề lay chuyển, thân hình lại tụt trở xuống.
Triệu Mẫn cười khanh khách:
- Bên trên có tám thanh sắt to chặn lại, công tử ở bên dưới, dù có mạnh đến đâu cũng không sao mở được.
Trương Vô Kỵ giận nàng giảo hoạt gian trá, không thèm để ý đến, lần mò chung quanh cái hố để tìm cách thoát thân nhưng cả bốn bề đều lạnh ngắt, trơn tuột, cứng rắn dị thường. Triệu Mẫn cười nói:
- Trương công tử, công phu Bích Hổ Du Tường cửa công tử thật là tài tình. Cái hầm này làm bằng thép đúc, rèn trơn như thế, ngay cả đường nối cũng không, thế mà công tử vẫn trèo lên được, hi hi, ha ha.
Trương Vô Kỵ giận dữ nói:
- Chính cô cũng bị nhốt chung với tôi ở dưới đây, có gì đáng cười đâu?
Đột nhiên nghĩ ra: “Con a đầu này gian xảo lắm, cái hố này hẳn phải có đường ra, không thể để nó trốn ra một mình”. Chàng bèn tiến lên nắm chặt tay cô gái. Triệu Mẫn kinh hoảng kêu lên:
- Ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô đừng nghĩ chuyện thoát ra một mình. Nếu muốn sống thì mau mau mở tấm nắp đậy ra.
Triệu Mẫn cười đáp:
- Công tử làm gì mà lo thế? Mình đâu có chết đói ở dưới này đâu mà sợ. Để họ tìm không thấy tôi, ắt sẽ mở cho mình ra. Có lo là thủ hạ của tôi lại tưởng tôi đi ra ngoài, cái đó mới là phiền.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Thế cái hố này không có cơ quan để mở đường ra hay sao?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Trông mặt công tử có vẻ thông minh mà sao hỏi một câu ngớ ngẩn thế? Cái hố này có phải làm ra để chơi cho vui đâu. Làm ra để bắt kẻ địch mà lại cố ý thiết lập cơ quan đóng mở thì địch nhân ra mất còn gì?
Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ta nói không sai nói:
- Có người rơi xuống hố, không lẽ bên ngoài không hay biết gì? Cô mau bảo người ta mở nắp hầm ra.
Triệu Mẫn nói:
- Thủ hạ của tôi sai đi ra ngoài cả rồi, công tử có thấy ai khác ở trong thủy các đâu? Ngày mai giờ này họ mới trở về. Công tử không phải nóng ruột, cứ nghỉ một lát, mình cũng mới ăn xong chưa đến nỗi đói.
Trương Vô Kỵ nổi khùng, nghĩ thầm: “Ta có đợi thêm cũng đâu có sao nhưng làm sao cứu được ông ngoại với những người khác?”. Năm ngón tay bóp chặt, sử đến hai thành kình lực, quát lên:
- Cô không thả tôi ra ngay, tôi sẽ giết cô trước.
Triệu Mẫn cười nói:
- Nếu công tử giết tôi thì vĩnh viễn không thể nào ra khỏi cương lao này được. Mà này, nam nữ thụ thụ bất thân, sao công tử cứ nắm tay tôi mãi thế?
Trương Vô Kỵ bị cô ta trách cứ, vội vàng bỏ tay nàng ra, lùi lại hai bước, ngồi dựa vào tường. Cái hầm này vuông vức bất quá vài thước, dù có xa nhất hai người cũng chỉ cách nhau một bước, càng bồn chồn, càng bực bội, ngửi thấy hơi thở của cô gái, cộng thêm hương thơm của những cây hoa trong túi, lòng chàng không khỏi lâng lâng liền đứng lên giận dữ nói:
- Minh giáo chúng tôi vốn không quen biết, không thù oán gì với cô, sao cô lại mưu tính ác độc đưa tất cả chúng tôi vào chỗ chết?
Triệu Mẫn nói:
- Công tử còn nhiều chuyện chưa biết, nếu đã hỏi đến, để tôi nói cho nghe từ đầu. Công tử có biết tôi là ai không?
Trương Vô Kỵ nghĩ lại quả không sai, tuy cũng muốn biết dụng ý và lai lịch của cô gái này nhưng nếu chờ được cô ta từ đầu kể lại đầy đủ, bọn Ân Thiên Chính chắc đã bị chất độc phát tác chết cả rồi, huống chi biết được cô ta nói thật hay giả, nếu như bịa chuyện nói lăng nhăng thì mất biết bao nhiêu thì giờ. Trước mắt thấy không còn biện pháp gì khác chỉ còn cách ép cho nàng phải mở cửa hầm cho mình ra, liền nói:
- Tôi không biết cô là ai, cũng không có hơi đâu mà nghe cô nói. Cô có gọi người mở cho tôi ra không thì bảo?
Triệu Mẫn nói:
- Có ai đâu mà gọi? Hơn nữa, ở dưới này có kêu gào bên trên cũng không nghe thấy. Nếu công tử không tin thì kêu mấy tiếng thử xem.
Trương Vô Kỵ giận dữ giơ tay nắm đầu vai cô gái, Triệu Mẫn hoảng sợ kêu lên một tiếng, giơ tay ra gạt nhưng đã bị điểm trúng huyệt đạo nơi hông không cử động được. Trương Vô Kỵ tay trái giơ ra nắm ngay yết hầu nàng nói:
- Tôi chỉ bóp nhẹ một cái thì cô sẽ táng mạng ngay.
Lúc đó hai người đứng sát bên nhau, thấy nàng thở hổn hển, hơi thơm như lan, Trương Vô Kỵ vội ngửng đầu về sau cho mặt mình xa mặt cô ta một tí. Triệu Mẫn đột nhiên khóc rấm rứt:
- Ngươi hà hiếp ta, ngươi hà hiếp ta.
Việc đó quả ngoài dự liệu nên chàng ngạc nhiên, vội vàng bỏ tay ra nói:
- Tôi đâu có ý định hà hiếp cô, chỉ muốn cô thả tôi ra thôi.
Triệu Mẫn khóc nói:
- Có phải tôi không bằng lòng đâu. Được rồi, để tôi gọi.
Nàng cao giọng gọi lớn:
- Này, này, có ai không? Mở nắp hầm ra, ta bị rơi xuống cương lao đây này.
Nàng liên tiếp kêu réo, bên ngoài vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Triệu Mẫn cười nói:
- Thấy chưa, có ích gì đâu?
Trương Vô Kỵ cực kỳ giận dữ nói:
- Không biết xấu, vừa khóc xong lại cười, còn ra cái trò gì nữa?
Triệu Mẫn nói:
- Chính ngươi mới là không biết xấu. Thân con trai mà sao lại ăn hiếp con gái chân yếu tay mềm?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô mà chân yếu tay mềm ư? Cô ngụy kế đa đoan, còn ghê gớm gấp mười người đàn ông.
Triệu Mẫn cười:
- Cám ơn Trương giáo chủ đã khen ngợi, tiểu nữ không dám nhận.
Trương Vô Kỵ thấy tình thế khẩn cấp, nếu không ra tay độc ác thì toàn thể người trong Minh giáo sẽ chết sạch, liền nghiến răng, thò tay ra, soẹt một tiếng đã xé ngay một mảnh vải quần của cô ta. Triệu Mẫn tưởng chàng đột nhiên có tà ý, lúc này cực kỳ hoảng sợ kêu lên:
- Ngươi... ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ nói:
- Nếu cô bằng lòng thả tôi ra thì gật đầu.
Triệu Mẫn nói:
- Để làm gì?
Trương Vô Kỵ không thèm để ý, nhổ nước miếng cho ướt mảnh vải nói:
- Xin lỗi nhé, tôi cũng đành vậy biết sao hơn.
Chàng lấy mảnh vải bịt chặt mồm mũi cô gái lại, Triệu Mẫn không thở được nữa chỉ giây lát đã thấy tức ngực chịu không nổi. Thế nhưng nàng ta thật ương ngạnh, nhất định không gật đầu, sau cùng dãy dụa mấy cái rồi ngất đi.
Trương Vô Kỵ giơ tay thăm mạch thấy nhảy rất yếu ớt nên bỏ miếng vải ướt bịt miệng mũi cô ta ra. Một lát sau, Triệu Mẫn từ từ tỉnh lại, rên lên mấy tiếng. Trương Vô Kỵ nói:
- Như thế đâu có thích thú gì phải không? Cô thả tôi ra hay không nào?
Triệu Mẫn hậm hực nói:
- Dù ta có ngất đi một trăm lần, ta cũng không thả, để xem ngươi có dám giết ta chăng?
Nàng đưa tay chùi miệng mũi, hứ mấy tiếng nói:
- Nước miếng ngươi, hừ, thối muốn chết được.
Trương Vô Kỵ thấy nàng ta cứng đầu như thế, không biết phải làm sao, thêm một lúc nữa càng thêm nóng ruột nói:
- Tôi vì cứu mạng cho mọi người đành phải làm ẩu một phen, đừng trách vô lễ nhé.
Chàng nắm lấy bàn chân trái nàng, lột luôn giày vớ ra. Triệu Mẫn vừa giận vừa sợ, kêu lên:
- Xú tiểu tử, ngươi làm gì thế?
Trương Vô Kỵ không trả lời, lại lột luôn giày vớ chân phải, giơ ngón tay trỏ điểm vào huyệt Dũng Tuyền dưới gan bàn chân, vận Cửu Dương thần công lên, một luồng khí ấm liền theo ngón tay truyền vào.
Huyệt Dũng Tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân khởi đầu của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, là nơi nhạy cảm hơn cả. Trương Vô Kỵ tinh thông y lý biết rõ như thế. Trẻ con chơi đùa thường lấy tay cù vào gan bàn chân sẽ làm cho đối phương tê cả người, lúc này chàng dùng khí nóng của Cửu Dương thần công mơn man huyệt Dũng Tuyền, so với lấy lông chim hay tóc cọ xát vào còn khó chịu gấp bội. Chỉ mới cù mấy cái, Triệu Mẫn nhịn không nổi phải cười lên khanh khách, toan rút chân về để tránh nhưng khổ nỗi huyệt đạo đã bị điểm làm sao cử động gì được? Nỗi khổ đó còn khó chịu hơn dùng dao cắt, dùng roi đánh, chẳng khác gì muôn ngàn con rận cùng thi nhau cắn ngũ tạng lục phủ, cốt tủy huyết quản một lượt, khiến nàng chỉ cười được mấy tiếng rồi chịu không nổi khóc òa lên.
Trương Vô Kỵ mặc kệ tiếp tục tra tấn. Trái tim Triệu Mẫn dường như muốn nhảy khỏi lồng ngực ra ngoài, các chân lông chân tóc toàn thân ngứa không chịu nổi như muốn rụng hết, mở miệng mắng chửi:
- Tên thối tha... tên giặc con... sẽ có ngày ta đem ngươi ra... lăng trì tùng xẻo... thôi... thôi... tha... tha cho tôi... Trương... Trương giáo chủ... Trương công tử... Trương giáo... giáo chủ... hu hu... hu hu...
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Cô đã chịu thả tôi ra chưa?
Triệu Mẫn khóc nói:
- Để tôi... thả... mau ngừng... ngừng tay...
Trương Vô Kỵ bấy giờ mới ngưng lại nói:
- Xin lỗi nhé.
Chàng nắn mấy cái vào lưng giải khai huyệt đạo cho nàng. Triệu Mẫn thở phào một hơi, mắng:
- Tặc tiểu tử, đi vớ xỏ giày vào cho ta.
Trương Vô Kỵ cầm chiếc vớ lụa, một tay cầm chân nàng. Khi trước chàng chỉ chăm chăm lo thoát thân, không có ý gì khác, lúc này cầm bàn chân nhỏ nhắn mềm mại của cô gái, trong lòng không khỏi lâng lâng. Triệu Mẫn thẹn thùng rụt chân về, mặt đỏ bừng, cũng may là trong hầm tối đen nên Trương Vô Kỵ không nhìn thấy, nàng chẳng nói chẳng rằng tự mình đi vớ xỏ giày, trong chỉ một giây bỗng thấy lòng nổi lên một cảm giác lạ kỳ, tưởng như lại mong được chàng cầm chân mình lần nữa. Bỗng nghe Trương Vô Kỵ hậm hực quát lên:
- Mau lên, mau lên, thả tôi ra.
Triệu Mẫn không nói một lời, giơ tay mò lên tường kiếm chỗ có khắc một cái vòng tròn, xoay ngược cán kiếm, tại cái vòng đó gõ khi chậm khi nhanh, lúc dài lúc ngắn đâu bảy tám tiếng. Gõ vừa xong, nghe xạch một tiếng, một luồng ánh sáng từ trên đầu chiếu xuống, cái nắp hầm đã mở ra. Cái vòng đó có cơ quan liên lạc với bên ngoài, nàng đã ước định tín hiệu nên khi nghe thấy, người canh cửa liền mở nắp hầm ra.
Trương Vô Kỵ đâu ngờ bảo mở là mở nhanh đến thế, không khỏi ngạc nhiên nói:
- Thôi mình đi ra.
Triệu Mẫn cúi đầu đứng qua một bên, không nói lời nào. Vô Kỵ nghĩ nàng là một cô gái nhỏ, nếu mình còn chì chiết thêm nữa không khỏi thất thố, vái một vái nói:
- Triệu cô nương, vừa rồi chuyện chẳng đặng đừng mới làm như thế, bây giờ xin tạ tội.
Triệu Mẫn hất đầu quay sang nhìn vào tường, đôi vai rung rung hình như đang khóc. Khi nàng ta gian trá độc ác, Trương Vô Kỵ cùng nàng đấu trí đấu lực không có một chút tạp niệm nào, bây giờ thấy lòng hổ thẹn, thấy tấm lưng thon của nàng, nước da nơi cổ trắng như ngọc, làn tóc xõa ra, không khỏi nhủ lòng thương cảm nói:
- Triệu cô nương, tôi đi nhé. Trương mỗ thật là không phải.
Chàng thấy bóng lưng Triệu Mẫn rung rung nhưng nàng không quay lại. Trương Vô Kỵ không dám nấn ná thêm, lập tức thi triển công phu Bích Hổ Du Tường trèo lên, đến khoảng còn chừng hơn một trượng, chân phải điểm vào tường một cái, bay vọt lên cao, tay áo phất một cái bảo vệ trên đỉnh đầu sợ có kẻ nào ở trên đánh lén. Chân chàng chưa rơi chạm đất nhìn chung quanh, thấy thủy các không một bóng người. Chàng không muốn gây thêm chuyện, vượt qua tường theo đường nhỏ chạy về nơi quần hào Minh giáo đang đợi. Trước mắt thấy trời đã ngả bóng, hóa ra chàng bị hãm dưới hầm hơn nửa giờ, không biết tính mệnh bọn Ân Thiên Chính giờ này ra sao, trong bụng lo lắng lại càng chạy nhanh hơn, chẳng bao lâu đã về gần tới nơi quần hào dừng chân, không khỏi giật mình kinh hãi.
Trước mặt đại đội kỵ binh Mông Cổ chạy qua chạy lại, vây chặt người của Minh giáo, quân Nguyên ai nấy giương cung, nhắm vào người trong vòng bắn tới. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: "Những nhân vật thủ lãnh của bản giáo ai ai cũng trúng độc cả, không ai ra lệnh chỉ huy, làm sao chống trả được với đại đội quân địch vây đánh?". Chàng gia tăng cước lực, chạy vọt lên.
Chạy đến gần hơn, thấy trong đám người một giọng con gái trong trẻo cất lên:
- Nhuệ Kim Kỳ tấn công mặt đông bắc, Hồng Thủy Kỳ bao vây phương tây nam.
Đó chính là giọng của Tiểu Siêu. Nàng vừa ra lệnh xong, một đội giáo chúng mang cờ trắng liền xung sát mặt đông bắc, còn một đội giáo chúng mang cờ đen bao vòng qua mặt tây nam. Quân Nguyên chia ra chống đỡ, đột nhiên đội cờ vàng Hậu Thổ Kỳ, cờ xanh Cự Mộc Kỳ song song từ trong đánh ra, chẳng khác gì một con rồng xanh, một con rồng vàng chộp tới. Quân Nguyên bị đánh tập hậu, trận thế liền đại loạn, phải lùi về sau.
Trương Vô Kỵ nhảy mấy cái, đã tới trước mặt các giáo chúng. Mọi người thấy giáo chủ quay về đều reo hò ầm ỹ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Trương Vô Kỵ thấy Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Chu Điên và các chính phó kỳ sứ của Ngũ Hành Kỳ vẫn ngồi dưới đất, còn Tiểu Siêu tay cầm cờ lệnh, đứng trên gò đất chỉ huy giáo chúng ngự địch. Những người trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ đều võ nghệ cao cường, chỉ vì thủ lãnh trúng độc nên loạn cả lên, đến khi Tiểu Siêu dùng thuật số bát quái bố trí chống đỡ, quân Nguyên không thể tấn công lên được nữa.
Tiểu Siêu mừng rỡ kêu lên:
- Trương công tử, mời công tử lên chỉ huy.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi đang bận, cô cứ chỉ huy tốt hơn, để tôi xung sát một trận, giết vài tên quân quan.
Chỉ thấy vèo vèo mấy tiếng, mấy mũi tên nhắm chàng bắn tới. Trương Vô Kỵ giật ngay một thanh trường mâu của một giáo chúng, gạt hết những mũi tên đó ra, vung tay một cái ném chiếc thương đó bay vụt ra ngoài, xuyên qua ngực một tên bách phu trưởng, đóng chặt y xuống đất. Quân Nguyên liền kêu la ầm ỹ, lui ra ngoài mấy chục bước.
Đột nhiên nghe tiếng tù và u u vang lên, độ mươi tên kỵ binh từ xa chạy tới. Trương Vô Kỵ thấy đi trước chính là bọn thần tiễn bát hùng, thủ hạ của Triệu Mẫn, không khỏi nhíu mày nghĩ thầm: “Tám người này tiễn pháp quá ư ghê gớm, nếu để bọn chúng bắn tên e rằng anh em sẽ bị thương không phải ít, ta nên tiên hạ thủ vi cường”.
Người thủ lãnh của thần tiễn bát hùng là Triệu Nhất Thương tay cầm một cây đoản trượng khắc đầu rồng màu vàng kêu lớn:
- Chủ nhân có lệnh, lập tức thu binh.
Người thiên phu trưởng chỉ huy đội quân Nguyên liền nói xí xố mấy tiếng Mông Cổ, bọn quân quan liền quay đầu ngựa chạy đi. Tiền Nhị Bại tay cầm một cái khay, xuống ngựa tiến đến trước mặt Trương Vô Kỵ, khom lưng nói:
- Chủ nhân chúng tôi xin giáo chủ nhận món quà lưu niệm.
Trương Vô Kỵ nhìn đến thấy khay lót một tấm nhiễu màu vàng, trên để một chiếc hộp hoàng kim, trạm trổ cực kỳ tinh xảo. Trương Vô Kỵ không ngại y làm trò quỉ gì, giơ tay cầm lấy. Tiền Nhị Bại cung thân hành lễ, lùi lại ba bước, quay mình lên ngựa đi thẳng.
Trương Vô Kỵ thuận tay giao luôn cái hộp cho Tiểu Siêu, chàng lo lắng cho bệnh tình của mọi người, không thì giờ đâu mà xem trong hộp có gì, lập tức lấy trong bọc ra những cây hoa, sai người đem nước lạnh tới nghiền nát những rễ màu đỏ và những củ màu xanh, hòa vào trong nước, chia cho Ân Thiên Chính, Dương Tiêu và các chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ uống. Chuyến đi này, tất cả những ai yến ẩm nơi thủy các, trừ Trương Vô Kỵ có Cửu Dương thần công hộ thể ra nên chư độc bất xâm, các thủ lãnh Minh giáo ai ai cũng đều bị trúng độc cả. Chỉ có Dương Bất Hối vì phải đút cơm cho Ân Lê Đình ở bên ngoài, Tiểu Siêu và các giáo chúng ăn cơm ngoài đại sảnh, ai ai theo lệnh giáo chủ, phàm vật gì trước khi cho vào mồm đều dùng ngân châm thử trước nên không ai bị trúng độc.
Thuốc giải độc thật công hiệu, chưa đến nửa giờ sau, độc tính trong cơ thể quần hào đều tiêu giải không còn thấy đầu váng mắt hoa nhưng toàn thân dường như hơi sức mất hết, lập tức hỏi xem đã bị trúng độc như thế nào.
Trương Vô Kỵ thở dài:
- Bọn ta mọi việc đều đã đề phòng, những món ăn uống rượu thịt không hề có chất độc bản nhân đã xem xét kỹ. Nào ngờ cách hạ độc của Triệu cô nương thật không sao ngờ nổi. Cây hoa trông như thủy tiên kia gọi là Túy Tiên Linh Phù, tuy rất khó kiếm nhưng vốn không có độc tính. Còn thanh kiếm Ỷ Thiên giả kia làm bằng một loại gỗ dưới đáy biển tên là Kỳ Lăng Hương Mộc, vốn cũng không độc. Thế nhưng hai mùi kia trộn lại với nhau thì biến thành kịch độc.
Chu Điên vỗ đùi kêu lên:
- Cũng tại ta cả, ai bảo ta ngứa tay rút thanh kiếm Ỷ Thiên kia ra làm cái mẹ gì cơ chứ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô ta nếu đã tính toán chuyện hại chúng ta, nếu Chu huynh không động thủ thì cũng sai người đến rút ra để hạ độc không thể nào phòng bị nổi.
Chu Điên nói:
- Đi, mình đến cho một mồi lửa đốt rụi cái Lục Liễu Sơn Trang đó cho rồi.
Y vừa nói tới câu đó, thấy đằng xa khói đen đã bốc lên, bên trong ánh lửa thấp thoáng chính là Lục Liễu Sơn Trang đang cháy.
Quần hào ai nấy nhìn nhau không nói được một lời nào, trong bụng ai cũng nghĩ thầm: “Triệu cô nương này chuyện gì cũng tính trước được cả, biết rằng mình giải độc xong thể nào cũng tới đốt trang viện thành ra phóng hỏa trước cho chắc ăn. Cô ta tuổi còn nhỏ, lại phận đàn bà nhưng quả là một kình địch”.
Chu Điên lại vỗ đùi kêu lên:
- Cô nàng đốt trang viện thì ăn thua gì? Mình cũng cứ tới đuổi đánh cho một trận tan tành mới thôi.
Dương Tiêu nói:
- Đến như trang viện cô ta cũng đã đốt rồi đủ biết chuyện gì cũng tính toán trước, xem ra mình có đuổi cũng không kịp đâu.
Chu Điên nói:
- Dương huynh, võ công ngươi không nói làm gì, ngay cả mưu kế xem ra cũng còn hơn Chu Điên này một bực.
Dương Tiêu cười:
- Không dám, không dám. Chu huynh thần cơ diệu toán, tiểu đệ làm sao bì kịp?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Hai vị bất tất quá khiêm nhường. Bọn mình kỳ này không bị tổn thất lớn, chỉ có mười ba mười bốn anh em bị trúng tên, cũng là may lắm rồi, thôi lên đường là vừa.
Trên đường đi quần hào hỏi Vô Kỵ xem làm sao tìm ra được nguyên ủy bị trúng độc, Trương Vô Kỵ nói:
- Ta nhớ trong Độc Kinh có một đoạn chép:
Kỳ Lăng Hương Mộc nếu như gặp phải hương thơm của một loại giống như thủy tiên, có thể làm cho người ta say sưa mê mẩn mấy ngày, nếu dùng cái củ tròn của cây hoa pha với nước thì giải được. Nếu không giải kịp, độc tính sẽ ăn vào tim phổi.
Túy Tiên Linh Phù so với loại phù dung thường còn lợi hại hơn nhiều. Vì thế tôi dặn các vị chớ nên vận tức dụng công, nếu không hương hoa sẽ đi vào các kinh mạch có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Không ngờ con a hoàn Tiểu Siêu lại lập được kỳ công, nhân khi nguy cấp nếu không có cô ta đứng ra, bọn mình bị chết chắc nhiều lắm.
Dương Tiêu vốn cho rằng Tiểu Siêu là của kẻ địch sai đến nằm vùng nhưng sau chuyện hôm nay, cô nàng đã thành một công thần của Minh giáo, khiến y không sao ngờ nồi, nhất thời không hiểu nguyên do ra sao.
Mọi người trên đường đi đàm luận lai lịch Triệu Mẫn nhưng chẳng ai có được đầu mối nào. Trương Vô Kỵ không nói chuyện chàng bị rơi xuống hố cùng với Triệu Mẫn, việc mình cù gan bàn chân nàng để thoát thân, tuy trong lòng không có điều gì phải hổ thẹn nhưng trước mặt mọi người thì chuyện này thì cũng khó ăn khó nói. Tối hôm đó mọi người vào quán trọ nghỉ ngơi, còn đại đội nhân mã chia ra tìm đền đài miếu mạo ngủ tạm. Tiểu Siêu lấy một thau nước bưng vào phòng, Trương Vô Kỵ nói:
- Tiểu Siêu, hôm nay em lập được kỳ công, từ rày không phải làm những tiện dịch của tôi đòi như trước nữa.
Tiểu Siêu cười nói:
- Em rất thích được hầu hạ công tử, có gì đâu mà tiện dịch hay không tiện dịch?
Đợi chàng rửa mặt xong, Tiểu Siêu lấy chiếc hộp vàng ra nói:
- Không biết bên trong hộp có độc trùng độc dược, độc tiễn ám khí gì không?
Trương Vô Kỵ nói:
- Đúng vậy, cứ cẩn thận là hơn.
Chàng để chiếc hộp trên bàn, cầm tay nàng kéo ra xa, lấy trong túi ra một đồng tiền vung tay ném tới, nghe keng một tiếng trúng ngay mép cái hộp, nắp hộp liền mở tung ra, không có gì khác lạ. Chàng đến gần xem thấy trong hộp là một chiếc hoa kết bằng trân châu, vẫn còn đang rung rinh, chính là đóa hoa Triệu Mẫn cài trên đầu. Hai viên ngọc trai Triệu Mẫn ngắt đi nay đã đính lại trên sợi chỉ bằng vàng. Chàng không khỏi ngẩn người, không hiểu có dụng ý ra sao.
Tiểu Siêu cười nói:
- Công tử, vị Triệu cô nương này đối với công tử tốt quá, trịnh trọng sai người đến biếu công tử một đóa hoa kết bằng ngọc trai.
Trương Vô Kỵ nói:
- Ta là đàn ông, có được món trang sức của đàn bà này làm gì? Tiểu Siêu, cô cầm lấy mà đeo vậy.
Tiểu Siêu xua tay, cười nói:
- Thế sao được? Người ta có tình ý với công tử, sao em dám lấy?
Trương Vô Kỵ dùng ba ngón tay cầm lấy bông hoa, cười nói:
- Trúng.
Vung tay ném ra, không nặng không nhẹ cắm luôn vào tóc Tiểu Siêu, chiếc kim dưới bông hoa không hề chạm vào da thịt. Tiểu Siêu toan dứt xuống, Trương Vô Kỵ xua tay nói:
- Chẳng lẽ tôi tặng em một món quà nhỏ cũng không được hay sao?
Tiểu Siêu hai má hồng lên, nói nhỏ:
- Vậy thì đa tạ công tử. Chỉ sợ tiểu thư thấy lại bực mình.
Trương Vô Kỵ nói:
- Hôm nay cô đã làm được một việc lớn, cha con Dương tả sứ lẽ nào còn nghi ngờ cô?
Tiểu Siêu lòng đầy vui sướng, nói:
- Em thấy công tử đi lâu quá không về, trong bụng thật nôn nóng. Thế rồi bọn Thát tử đến tấn công, không biết vì sao dám lớn mật đứng lên hô hoán, bây giờ nghĩ lại thật là sợ hãi. Công tử, nhờ công tử nói lại với quí vị trong Ngũ Hành Kỳ, Thiên Ưng Kỳ là Tiểu Siêu to gan làm càn, xin các vị đó đừng trách.
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Bọn họ cám ơn cô còn chưa đủ, sao lại trách cứ?
Chẳng bao lâu đã đến cảnh giới tỉnh Hà Nam. Lúc ấy thiên hạ đại loạn, quần hùng bốn phương nổi lên, quan quân Mông Cổ tra xét càng thêm nghiêm nhặt. Đại đội Minh giáo đi thành đoàn không tiện, chia ra nhiều nhóm hẹn đến chân núi Tung Sơn sẽ gặp lại nhau, rồi sẽ cùng lên ngọn Thiếu Thất, lúc ấy Chưởng kỳ sứ Cự Mộc Kỳ là Văn Thương Tùng sẽ đem danh thiếp mọi người đưa lên chùa Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ biết rằng kỳ này mình lên Thiếu Lâm vấn tội, tuy không muốn tái động can qua nhưng kết quả ra sao thực khó mà biết. Nếu tăng chúng chùa Thiếu Lâm ngang ngược không nói phải quấy ra tay động võ, Minh giáo không thể không tiếp chiến, thành thử truyền lệnh xuống, các thủ lãnh tiến vào chùa trước, còn các giáo chúng trong Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ sẽ chia ra vây bốn mặt chờ ở bên ngoài, nếu nghe ba tiếng hú, thì lập tức tấn công vào tiếp ứng. Các giáo chúng nhận lệnh chia nhau mà đi.
Chẳng bao lâu, một tri khách tăng đã già đi theo Văn Thương Tùng xuống núi nói:
- Phương trượng và các trưởng lão bản tự đều bế quan tịnh tu, xin lỗi không tiếp khách được.
Quần hào nghe thấy nói thế ai nấy đều biến sắc. Chu Điên giận dữ nói:
- Vị này là giáo chủ Minh giáo đích thân đến chùa Thiếu Lâm bái sơn, lão hòa thượng cũng không cho gặp chẳng lẽ coi thường lắm ư?
Vị tri khách tăng kia cúi đầu ủ rũ, mặt đầy vẻ sầu khổ chỉ nói:
- Không tiếp.
Chu Điên nổi cọc, giơ tay nắm ngay ngực áo nhà sư, Thuyết Bất Đắc vội giơ tay ngăn lại nói:
- Chu huynh không được lỗ mãng.
Bành Oánh Ngọc nói:
- Phương trượng nếu đã tọa quan, chúng tôi xin gặp hai vị Không Trí, Không Tính thần tăng cũng được.
Nhà sư kia chắp hai tay, nói cụt ngủn:
- Không tiếp.
Bành Oánh Ngọc hỏi tiếp:
- Thế còn thủ tọa Đạt Ma Đường thì sao? Thủ tọa La Hán Đường thì sao?
Vị tri khách tăng kia cũng chỉ đáp:
- Không tiếp.
Ân Thiên Chính quát lên một tiếng như sấm rền:
- Nhất định không tiếp hay sao?
Song chưởng đẩy ra như bài sơn đảo hải, nghe bùng một tiếng đánh gãy đôi một cây đại tùng ở bên đường, nửa thân trên cả cành cả lá, thêm ba tổ quạ đều lách cách ngã xuống. Nhà sư lúc này mặt mới có vẻ sợ, nói:
- Các vị đường xa đến đây, đúng ra phải lấy lễ tiếp đãi, có điều tất cả các trưởng lão đều tọa quan cả rồi, xin để dịp sau vậy.
Nói xong chắp tay khom mình, quay lưng đi thẳng. Vi Nhất Tiếu thân hình hơi rung động đã chặn ngay trước mặt ông ta nói:
- Đại sư thượng hạ xưng hô thế nào?
Vị tri khách tăng đáp:
- Pháp danh của tiểu tăng, không nói tới là hơn.
Vi Nhất Tiếu vỗ nhẹ hai cái vào đầu vai ông ta, cười nói:
- Tốt lắm, tốt lắm. Oâng chỉ nói hai chữ “bất kiến”, chắc hẳn là Bất Kiến đại sư, là sư huynh của Không Kiến thần tăng. Thế nhưng không biết nếu Diêm Vương mời đi, không biết Bất Kiến thần tăng có chịu gặp hay không?
Nhà sư kia bị y vỗ hai cái, một luồng khí lạnh chạy thẳng từ vai vào tim, toàn thân lập tức run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau lập cập. Y cố nhịn, xoay người lách qua bên hông Vi Nhất Tiếu chạy đi, vừa đi vừa run, thất thểu lên núi. Vi Nhất Tiếu nói:
- Gã này đái nghệ đầu sư [9], võ công của y không phải thuộc phái Thiếu Lâm.
Trương Vô Kỵ nghĩ ngay đến Viên Chân, biết rằng chuyện đi học nơi khác rồi sau học võ Thiếu Lâm là chuyện bình thường, nói:
- Vi Bức Vương đánh y hai đòn Hàn Băng Miên Chưởng, sư tổ, sư phụ y lẽ nào bỏ qua? Thôi cả bọn mình lên, xem các đại hòa thượng có thật tiếp hay không tiếp?
Mọi người biết rằng khó có thể tránh khỏi một trường ác đấu, phái Thiếu Lâm trước nay vẫn là Thái Sơn, Bắc Đẩu của võ lâm, hơn một nghìn năm qua giang hồ vẫn gọi là "môn phái chỉ thắng mà không thua", hôm nay đại chiến một trận, xem thử Minh giáo và Thiếu Lâm bên nào mạnh, bên nào yếu.
Mọi người ai nấy hăng tiết, rảo bước lên núi, nghĩ đến phái Thiếu Lâm cao thủ nhiều vô kể, trận đại chiến trước mắt nhất định ác liệt không để đâu cho hết. Chưa tới thời gian uống một chén trà đã đến thạch đình trước cửa chùa. Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa theo thái sư phụ lên núi, gặp tam đại thần tăng chính ở tại nơi đây, hôm nay trở lại, tuy trước sau chỉ mới vài năm, nhưng năm xưa là một đứa bé bệnh hoạn gầy gò, cô khổ lênh đênh, hôm nay là giáo chủ Minh giáo tôn quí, nghĩ lại chuyện xưa tưởng như chuyện từ tiền kiếp.
Căn thạch đình đó hai chiếc cột đá bị gãy, chiếc bàn đá cũng đổ lăn lóc. Thuyết Bất Đắc cười nói:
- Các nhà sư chùa Thiếu Lâm thích đánh nhau thật, mấy cái cột này mới gãy đây thôi, xem ra mấy hôm trước có một trận chiến khủng khiếp nên mới không kịp tu sửa.
Chu Điên nói:
- Để khi mình đắc thắng rồi, mình sẽ phá hết cái đình này.
Quần hào ở nơi thạch đình chờ đợi, liệu rằng trong chùa sẽ có một đám cao thủ ào ra nên đã định tiên lễ hậu binh, trách hỏi tại sao hạ độc thủ đối với Ân Lê Đình, nếu chúng tăng vẫn ngang ngược không nghe, lúc ấy mới động võ. Nào ngờ chờ cả nửa ngày, trong chùa hoàn toan không thấy chút gì động tĩnh. Thêm một lúc nữa, thấy một đoàn người từ sau chùa chạy xuống hậu sơn, nhìn từ xa phải đến bốn năm chục người. Bành Oánh Ngọc nói:
- Hừ, chắc họ điều binh khiển tướng, mai phục bốn bên chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
- Thôi vào chùa.
Lập tức Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu ở phía bên trái, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương bên phải, Thuyết Bất Đắc, Bành Oánh Ngọc, Thiết Quan đạo nhân và Chu Điên tứ tản nhân tại đằng sau, cùng hộ vệ Trương Vô Kỵ tiến vào chùa. Đến Đại Hùng Bảo Điện, thấy chiếc bàn thờ trước tượng Phật ngã chỏng chơ một bên, lư hương còn lăn lóc dưới đất, mặt đất đầy tàn nhang nhưng không thấy một ai. Thuyết Bất Đắc cười nhạt nói:
- Phái Thiếu Lâm thấy bọn mình đến đây, tâm hoảng thần loạn, chân tay quờ quạng, đến bình hương mà cũng đánh rơi, nực cười ơi là nực cười.
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
- Minh giáo Trương Vô Kỵ, cùng với các người trong tệ giáo Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vi Nhất Tiếu tiền lai bái sơn, cầu kiến phương trượng đại sư.
Tiếng của chàng tuy không lớn lắm nhưng nội lực hồn hậu, các chuông trống treo bên ngoài đại điện bị âm thanh khích đãng, cùng u u vang lên. Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cùng đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: “Giáo chủ nội lực thật thâm hậu thực ai nghe thấy cũng phải sợ, đương niên Dương giáo chủ còn tại thế, xem ra cũng còn kém xa. Trận chiến hôm nay, bản giáo thể nào cũng thắng”.
Mấy câu đó của Trương Vô Kỵ, tiền viện hậu viện chùa Thiếu Lâm chỗ nào cũng nghe thấy cả. Thế nhưng đợi thêm một hồi, trong chùa vẫn không thấy ai bước ra. Chu Điên quát lớn:
- Này, tất cả bọn sư sãi lớn bé chùa Thiếu Lâm đâu, rụt đầu rụt cổ trốn cả thì còn ra giống gì nữa? Bộ còn hú hí với vợ hay sao?
Tiếng của y so với Trương Vô Kỵ lớn hơn nhiều, nhưng chuông trống trong điện không thấy vang lại. Quần hào lại đợi thêm một lát, vẫn không thấy ai ra. Bành Oánh Ngọc nói:
- Tôi trong lòng bỗng thấy khác lạ, thấy chùa này âm khí u uất, thật là điều không hay.
Chu Điên cười nói:
- Hòa thượng quay về chùa là đúng chỗ rồi, còn gì mà khác lạ nữa?
Thiết Quan đạo nhân bỗng nói:
- Ồ, nơi đây có một thiền trượng gãy đầu.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Ồ, nơi đây lại có một vũng máu lớn.
Chu Điên cười nói:
- Chắc là sau trận chiến Quang Minh Đính, uy danh giáo chủ truyền ra xa nên phái Thiếu Lâm mới treo cao “miễn chiến bài”. Xem chừng họ chạy bán sống bán chết, đến binh khí cũng quẳng bỏ luôn.
Thiết Quan đạo nhân lắc đầu:
- Không phải thế đâu.
Chu Điên hỏi:
- Có gì mà không phải?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Thế còn vũng máu này thì sao?
Chu Điên nói:
- Chắc là họ sợ quá nên cắt phải tay...
Nói tới đây y khựng lại, tự biết như thế không đúng nên không hết câu. Ngay lúc đó, một trận gió thổi qua, khiến quần áo mọi người tung bay. Chu Điên vui vẻ nói:
- Gió mát quá.
Bỗng nghe có tiếng lách cách, một cây tùng lớn ngả xuống cách vài mươi trượng ở phía tây. Quần hào ai nấy kinh ngạc, cùng nhảy lên chạy ngay đến chỗ cây đổ, thấy cây tùng đó ở bên góc đông nam của một tòa đại viện, trong viện cũng không có ai, không hiểu vì sao cây tùng lớn thế mà lại bị gió thổi gãy được, làm sập cả một mảng tường. Mọi người tới gần quan sát, thấy các sớ gỗ nát vụn, hiển nhiên bị người nào dùng trọng thủ đánh nát, chỗ gãy cũng đã khô, không phải mới gãy.
Quần hào coi kỹ một hồi, bàn tán xôn xao:
- Ồ, không phải.
- A, nơi đây có động thủ.
- Ghê gớm thật, chết nhiều người quá.
Trong tòa đại viện chỗ nào cũng có dấu vết một cuộc kịch chiến, trên nền đá xanh, những cành cây khô, tường đá vây quanh để lại biết bao nhiêu vết binh khí chém xuống, quyền cước đấm đá. Nơi nào cũng đầy vết máu, đủ biết nơi đây giao chiến kịch liệt dị thường. Trên nền đất cũng còn nhiều vết chân nông sâu, là của cao thủ tỉ đấu nội lực còn lưu lại.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Mau bắt gã tri khách tăng kia hỏi cho ra lẽ.
Vi Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc mọi người liền chia ra tìm kiếm, nhưng không biết nhà sư kia trốn nơi đâu. Ngũ Hành Kỳ cũng chia ra các nơi tra xét, qua đến nửa giờ, các chưởng kỳ sứ quay về bẩm báo, nói là trong chùa không có ai nhưng chỗ nào cũng có dấu vết kịch đấu. Nhiều điện đường còn cả vết máu, binh khí gãy nhưng không thấy xác người. Trương Vô Kỵ hỏi:
- Dương tả sứ, ông nghĩ sao?
Dương Tiêu đáp:
- Trận chiến ghê gớm này chỉ mới hai ba ngày trước, không lẽ toàn thể phái Thiếu Lâm bị tiêu diệt, hoặc bị giết, hoặc bị bắt không còn một ai hay sao?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Hồi nãy chẳng có mấy chục người chạy về phía hậu sơn đấy ư?
Dương Tiêu đáp:
- Rất có thể đó là bọn đối đầu của phái Thiếu Lâm lựu lại thủ ngự nơi đây, thấy đại đội nhân mã của mình nên bỏ chạy trước.
Bành Oánh Ngọc nói:
- Cứ theo sự thế mà suy đoán thì hẳn là như thế. Gã tri khách tăng kia cũng chỉ là mạo xưng thôi, tiếc là không giữ hắn lại. Thế nhưng đối đầu với phái Thiếu Lâm có môn phái bang hội nào ghê gớm đến thế? Không lẽ là Cái Bang?
Chu Điên nói:
- Cái Bang thế lực tuy có lớn thật, cao thủ tuy nhiều thật nhưng đâu có thể chỉ đánh một trận mà giết sạch bọn đầu trọc chùa Thiếu Lâm đâu. Chỉ có Minh giáo chúng ta mới làm nổi, nhưng rõ ràng bọn mình đâu có làm?
Thiết Quan đạo nhân nói:
- Chu Điên, ngươi nói bớt một câu tầm ruồng đi có được không? Bản giáo có làm chuyện đó hay không, không lẽ chính bọn ta không biết?
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên quay về báo:
- Khải bẩm giáo chủ, mười tám pho tượng Phật La Hán trong La Hán Đường không biết ai đã di động, không hiểu có chuyện gì không?
Quần hào biết Nhan Viên giỏi ngành nề mộc xây cất, nếu y đã khởi nghi, ắt có chuyện gì liền nói:
- Bọn mình đến xem thử.
Đến La Hán Đường thấy trên tường đầy vết máu, giới đao thiền trượng còn đầy mặt đất. Chu Điên nói:
- Nhan huynh, mười tám vị La Hán này có gì khác lạ?
Nhan Viên đáp:
- Tòa La Hán nào cũng bị người ta xô đẩy, lúc đầu huynh đệ nghi đằng sau có thể có lối đi, nhưng xem xét tường vách không thấy có cửa bí mật hay đường bí mật.
Dương Tiêu trầm ngâm một hồi, nói:
- - Mình thử đẩy tượng La Hán ra lần nữa xem sao?
Nhan Viên nhảy lên bệ thờ, đẩy tượng trường mi La Hán sang một bên, lộ tường ra quả nhiên không có gì khác lạ. Dương Tiêu cũng nhảy lên bệ, xem kỹ pho tượng La Hán, đột nhiên “Ồ” một tiếng nói:
- Sau lưng La Hán có viết chữ.
Liền xoay ngược pho tượng lại. Quần hào ngạc nhiên thấy có khắc một chữ “Diệt” lớn bằng cái đấu. Pho tượng này vốn dĩ sơn son thếp vàng, lúc này lớp sơn bên ngoài bị người nào dùng lợi khí khắc một chữ Diệt lớn, sâu vào cả tấc, lộ cả đất ra. Vết xem ra còn mới hiển nhiên khắc chưa bao lâu. Chu Điên nói:
- Chữ Diệt này là cái quái gì? A, đúng rồi, chắc là phái Nga Mi đến quấy phá chùa Thiếu Lâm, Diệt Tuyệt sư thái để chữ lại thị uy đấy mà.
Ai nấy thấy chuyện đó ngoài sức tưởng tượng, đều lắc đầu. Trong khi đang nói chuyện, những người khác đã xoay cả mười tám pho tượng lại, trừ pho Hàng Long La Hán ở tận cùng bên phải, và Phục Hổ La Hán ở tận cùng bên trái, mười sáu pho tượng La Hán còn lại sau lưng đều có khắc mỗi pho một chữ, từ phải sang trái thành như sau:
Tiên tru Thiếu Lâm,
Tái diệt Võ Đương.
Duy ngã Minh giáo,
Võ lâm xưng vương.
(Diệt phái Thiếu Lâm trước,
Rồi diệt Võ Đương sau.
Chỉ còn mình Minh giáo,
Trong võ lâm đứng đầu.)
Ân Thiên Chính, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc mọi người không hẹn mà cùng kêu lên:
- Đây là kế Di Họa Giang Đông.
Quần hào thấy mười sáu chữ đó giương nanh khoe vuốt, hình dáng thật ghê rợn, nghĩ đến quần tăng chùa Thiếu Lâm bị thảm họa, bao nhiêu tội lỗi đổ lên đầu Minh giáo, không khỏi lo âu. Chu Điên kêu lên:
- Mình mau mau cạo sạch mấy chữ này đi, để khỏi bị tiếng oan.
Dương Tiêu nói:
- Địch nhân dụng tâm ác độc, chỉ cạo mấy chữ đi đâu đã đủ.
Lần này Chu Điên thấy y ăn nói có lý, không cãi lại chỉ hỏi:
- Thế thì làm thế nào?
Thuyết Bất Đắc nói:
- Cứ để sau làm chứng cớ. Mình đi kiếm kẻ lập tâm di họa, bắt đối chất với mười sáu chữ này.
Dương Tiêu gật đầu khen phải. Bành Oánh Ngọc nói:
- Tiểu tăng vẫn còn một chuyện chưa rõ, muốn được Dương tả sứ chỉ giáo. Kẻ khắc mười sáu chữ này là đã lập tâm giá họa cho bản giáo, để chúng ta phải chịu cái đại tội tiêu diệt Thiếu Lâm, khiến cho anh hùng võ lâm cùng nổi lên tấn công, thế nhưng sao lại xoay lưng các pho tượng này quay vào tường? Sao không để mười sáu chữ đó hướng ra ngoài? Nếu Nhan kỳ sứ không xét nét, thì có ai biết được sau lưng tượng La Hán lại có khắc chữ?
Dương Tiêu mặt mày ngưng trọng nói:
- Cứ mỗ suy xét, các pho tượng La Hán này có ai đó xoay ngược lại, hẳn là bí mật giúp cho bản giáo, mình chịu một ân tình lớn của người đó.
Quần hào cùng hỏi:
- Người đó là ai? Sao Dương tả sứ lại biết?
Dương Tiêu thở dài:
- Nguyên ủy khúc chiết trong chuyện này, chính mỗ cũng chưa nghĩ ra...
Câu nói của ông ta chưa xong, Trương Vô Kỵ bỗng nhiên “A” lên một tiếng, kêu hoảng lên:
- Tiên tru Thiếu Lâm, tái diệt Võ Đương, chỉ sợ... chỉ sợ phái Võ Đương cũng đang gặp nạn rồi.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Chúng ta nghĩa chẳng dung từ, lập tức đến cứu viện ngay, để xem bọn chó má nào tính làm gì.
Ân Thiên Chính cũng nói:
- Việc không thể chậm trễ, mình phải lập tức đi ngay. Bọn gian tặc này đã đi trước một hai ngày rồi.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Thần công búng ngón tay
[2] Ném đá điểm huyệt
[3] tiếng khiêm tốn để nói tới cấp trên của mình
[4] Một trăm họ phổ biến nhất ở bên Tàu làm thành một bài thơ có vần điệu cho dễ nhớ, tương truyền là từ đời Tống nên lấy họ Triệu (hoàng tộc) đứng đầu trăm họ.
[5] Tám con ngựa
[6] Một danh họa gia đời Nguyên (xin xem thêm Thư Họa, bài viết của Nguyễn Duy Chính)
[7] kinh đô đời Bắc Tống, còn gọi là Biện Kinh, nay thuộc Hà Nam.
[8] Công phu bò trên tường như con thạch sùng
[9] đã học võ trước rồi sau mới xin học chùa Thiếu Lâm
__________________

thay đổi nội dung bởi: Helen, 11-04-2012 lúc 02:29 PM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #34  
Old 11-04-2012, 02:36 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 24

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 24

THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG


Âm dương đắp đổi,
Thái cực xoay vòng.
Đỉnh đầu lơ lửng như bông,
Tọa thiền kia với hành công khác gì[1].

Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và các người không biết đã từ Tây Vực về đến núi chưa, trên đường đi tuyệt nhiên không nghe tin tức gì của họ cả, nếu như gặp phải biến cố, ở lại núi chỉ có thái sư phụ và một số đệ tử đời thứ ba, tam sư bá Du Đại Nham tàn phế nằm đó, nếu như cường địch đến lấy gì chống trả? Chàng nghĩ vậy, trong bụng không khỏi bồn chồn như lửa đốt liền lớn tiếng nói:
- Các vị tiền bối, huynh trưởng, phái Võ Đương là nơi tiên phụ xuất thân, thái sư phụ đối với tại hạ ơn nặng như núi. Hiện nay đang gặp đại nạn, cứu binh như cứu hỏa, sớm khắc nào hay khắc đó. Vậy xin Vi Bức Vương đi theo bản nhân, đến cứu viện trước, các vị kế tiếp chia ra đến sau, mọi việc nhờ Dương tả sứ và ông ngoại an bài.
Nói xong vòng hai tay lên chào, lách mình vọt ra khỏi cửa. Vi Nhất Tiếu thi triển khinh công, đi song song với chàng. Tiếng đáp ứng của quần hào chưa dứt, hai người đã đến cửa chùa Thiếu Lâm rồi, khinh công đẹp như thế, nhanh như thế thật trên đời không có được một người thứ ba sánh kịp.
Hai người không dám hao phí một giây một khắc, chân không ngừng bước, chạy một mạch mấy chục dặm. Thoạt đầu Vi Nhất Tiếu không kém chút nào nhưng càng lâu, nội lực dần dần sút giảm. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Đường lên núi Võ Đương thật xa, không thể chạy một mạch không nghỉ như thế này. Huống chi cường địch ngay trước mặt, mình phải giữ sức để còn chiến đấu”. Chàng liền nói với Vi Nhất Tiếu:
- Đến thị trấn đằng trước mình tìm mua hai con ngựa cưỡi để dưỡng sức.
Vi Nhất Tiếu vốn có ý ấy nhưng không tiện nói ra, liền đáp:
- Giáo chủ, mua bán ngựa mất nhiều thì giờ lắm.
Chẳng mấy chốc, thấy từ xa có năm sáu người cưỡi ngựa chạy lại, Vi Nhất Tiếu liền tung mình nhảy tới, nắm cổ hai người, nhẹ nhàng vứt ngay xuống đất, kêu lên:
- Giáo chủ, lên ngay.
Trương Vô Kỵ chần chừ đứng lại, nghĩ thầm mình chặn đường cướp ngựa như thế có khác gì cường đạo đâu? Vi Nhất Tiếu kêu lên:
- Làm chuyện lớn đừng câu nệ tiểu tiết, họ còn nhiều mà.
Trong khi la lối, y lại vứt thêm hai người khác xuống đất. Mấy người đó cũng biết chút ít võ nghệ, quát mắng chửi bới, rút binh khí ra toan động thủ. Vi Nhất Tiếu hai tay cầm bốn con ngựa, giơ chân đá tung hết võ khí trong tay bốn người đó. Lại nghe một người quát lên:
- Kẻ cậy mạnh cướp đường kia, có giỏi thì để lại tên tuổi.
Trương Vô Kỵ nghĩ nếu còn dây dưa, ắt sẽ thêm nhiều phiền phức, tung mình nhảy lên lưng ngựa, cùng Vi Nhất Tiếu mỗi người dắt thêm một con, quất ngựa chạy thẳng. Những người kia luôn mồm chửi rủa nhưng không dám đuổi theo.
Trương Vô Kỵ nói:
- Chúng ta ở vào chỗ không còn cách nào khác, nhưng biết đâu người ta cũng có việc gấp phải làm, làm thế này trong bụng không an.
Vi Nhất Tiếu cười đáp:
- Giáo chủ, chuyện nhỏ nhặt này có đáng gì đâu? Năm xưa Minh giáo hành sự, có thể nói là “không còn e dè, ngang ngược vô pháp”.
Nói xong cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Minh giáo bị người ta coi là tà giáo dị đoan cũng có lý của nó. Thế nhưng thế nào là ngay, thế nào là cong thì cũng thật khó mà luận”. Nghĩ đến mình mang trọng nhiệm giáo chủ trên vai nhưng kiến thức ít ỏi, nhiều chuyện không quyết định được, ngay như chuyện nhỏ nhặt đoạt ngựa đây, cũng do dự không biết sao cho phải, dù có võ công cao cường, nhưng việc trên đời đâu phải chỉ dựa vào võ lực? Chàng nghĩ đến đó, trong lòng cảm thán, chỉ mong sớm đón được Tạ Tốn về để trút được gánh nặng trên vai không còn phải lo gì nữa.
Ngay lúc đó, bỗng thấy thấp thoáng, hai người nhảy ra chặn ngay lối đi, trong tay đều cầm cương trượng. Vi Nhất Tiếu quát lên:
- Tránh ra.
Y lấy roi cuốn bên lưng vung ra, giục ngựa phóng tới. Một người giơ trượng đỡ roi, còn người kia huýt một tiếng còi, giơ gậy ra chặn. Con ngựa Vi Nhất Tiếu đang cỡi hoảng sợ, dựng hai vó trước. Ngay lúc đó, từ trong lùm cây bốn hán tử mặc áo đen chạy ra, xem thân pháp đều là những tay luyện ngạnh công. Vi Nhất Tiếu kêu lên:
- Giáo chủ cứ việc đi trước, để bọn chuột nhắt này thuộc hạ tính cho.
Trương Vô Kỵ thấy họ có ý ngăn chặn cứu binh cho phái Võ Đương, dụng tâm ác độc thoáng nhìn là biết, tình hình rất là hung hiểm, biết Vi Nhất Tiếu khinh công võ kỹ đều xuất chúng, có thể lo liệu được bọn này, nếu không thắng thì cũng tự bảo vệ được thân. Chàng bèn kẹp hai đùi, giục ngựa xông tới. Hai tên hắc y giơ cương trượng ra chặn ngay đầu ngựa, Trương Vô Kỵ cúi xuống, vung hai tay đoạt luôn hai cây gậy, thuận thế ném ra. Chỉ nghe “a” “a” hai tiếng thảm khốc, hai tên áo đen đã bị hai cây gậy chia ra đánh gãy xương đùi, ngã lăn quay trên mặt đất. Chàng thấy bốn tên quấy rối Vi Nhất Tiếu võ công không phải là kém, e rằng mình đi rồi, Vi Nhất Tiếu sẽ khó mà xoay trở nên giúp y thanh toán trước hai tên.
Tung Sơn và Võ Đương sơn mặc dù ở hai tỉnh Dự Ngạc khác nhau, nhưng một đằng ở Dự Tây, một đằng ở Ngạc Bắc, cách nhau không xa lắm. Đi qua Mã Sơn Khẩu rồi, về phía nam đường toàn đồng trống, ngựa chạy thật nhanh, mới chính ngọ đã đến Nội Hương. Trương Vô Kỵ trong bụng đói meo, liền ghé một cái chợ mua mì, bánh bao ăn đỡ, bỗng nghe phía sau một con ngựa của mình hí lên thảm thiết, quay đầu nhìn lại, đã thấy một con dao sáng loáng đâm dưới bụng ngựa, một bóng người thoáng qua rồi biến mất.
Trương Vô Kỵ phi thân đuổi theo chộp được người nọ, thấy y mặc áo đen, vạt trước áo dính đầy máu ngựa. Chàng quát hỏi:
- Ngươi là thủ hạ của ai? Bang hội môn phái nào? Đại đội nhân mã chúng bay đã đến núi Võ Đương chưa?
Chàng hỏi liền mấy câu nhưng người kia chỉ nhắm mắt không trả lời. Trương Vô Kỵ không muốn mất thì giờ thêm, nghĩ thầm cứ lên đến núi Võ Đương sẽ biết, lập tức giơ tay đóng huyệt Đại Truy để cho y đau đớn khổ sở ba ngày ba đêm cho biết. Chàng giục ngựa chạy tiếp một mạch đến Tam Quan Điện, qua sông Hán Thủy đi về hướng nam. Thuyền đến giữa dòng, nhìn thấy nước sông cuồn cuộn nghĩ đến năm nào thái sư phụ dẫn mình đi lên núi Thiếu Lâm cầu chữa bệnh không xong phải quay về, trên sông Hán Thủy gặp Thường Ngộ Xuân, lại cứu được Chu Chỉ Nhược. Trong đầu chàng hiện ra hình bóng kiều diễm của nàng, nhớ đến đôi mắt chăm chăm nhìn mình trên Quang Minh Đính khiến chàng không khỏi xuất thần.
Qua Hán Thủy rồi chàng tiếp tục phóng ngựa xuôi nam. Bấy giờ trời đã nhá nhem, chỉ nhìn thấy lờ mờ, chạy thêm một giờ nữa không có ánh trăng sao, con ngựa cực kỳ mỏi mệt, không còn sức nữa, khụy xuống đường. Chàng vỗ vỗ lưng nó nói:
- Ngựa ơi, ngựa ơi, ngươi ở đây nghỉ ngơi, rồi muốn đi đâu thì đi.
Nói xong chàng thi triển khinh công chạy tiếp. Chạy đến canh tư, bỗng nghe văng vẳng tiếng vó ngựa phía trước, xem ra một đoàn người đang đi. Chàng càng gia tăng kình lực, đi lẻn qua đoàn người này. Thân pháp chàng vừa nhanh vừa nhẹ, lại trong đêm khuya cho nên không một ai hay biết. Cứ xem hướng đi của bọn này chính là đang lên núi, hơn hai chục người không nói một tiếng thành thử không thể biết được lai lịch thế nào, nhưng ai ai cũng mang binh khí hẳn là đối địch với phái Võ Đương, không còn ngờ gì nữa. Chàng trong lòng thấy an tâm: “Thế là mình cũng đuổi kịp bọn chúng rồi, phái Võ Đương như vậy chưa bị tấn công”.
Lại chạy thêm nửa giờ nữa, trước mặt lại có một đoàn người cũng đi lên núi Võ Đương. Trước sau chàng gặp năm nhóm, mỗi nhóm nhiều thì ba chục người, ít cũng khoảng mươi người. Khi gặp đoàn thứ năm, chàng bỗng thấy lo lắng: “Không biết đã có bao nhiêu nhóm lên trên núi rồi? Đã có nhóm nào động thủ cùng người trong bản phái chưa?”.
Chàng tuy không phải đệ tử Võ Đương, nhưng vì gốc tích của cha nên từ trước tới nay vẫn coi phái Võ Đương là môn phái của mình. Nghĩ như thế chàng càng cố chạy nhanh hơn.
Chẳng mấy chốc chàng đã lên núi, cũng may không gặp nhóm địch nào. Đến lưng chừng bỗng thấy đằng trước có một người đang cố sức chạy, áo rộng đầu trọc chính là một nhà sư, khinh công cực giỏi. Trương Vô Kỵ chạy theo xa xa để xem động tĩnh của y.
Nhà sư đó chạy một mạch lên núi, tới trên đỉnh rồi bỗng nghe một người quát hỏi:
- Bằng hữu ở lộ nào đó mà đang đêm lại đến viếng núi Võ Đương?
Tiếng quát chưa dút, đằng sao khe đá chạy ra bốn người, hai đạo sĩ, hai tục gia chính là đệ tử đời thứ ba, thứ tư của phái Võ Đương. Tăng nhân đó chắp tay làm lễ nói:
- Thiếu Lâm tăng nhân Không Tướng, cớ chuyện gấp cầu kiến Võ Đương Trương chân nhân.
Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên: “Thì ra y là một tiền bối hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm, cùng Không Văn phương trượng, các vị Không Trí, Không Tính thần tăng là sư huynh đệ. Y không nề gian khổ chạy lên núi Võ Đương, hẳn là đi đến báo tin.
Một đạo nhân của phái Võ Đương nói:
- Đại sư đường xa mệt nhọc, xin mời quá bước vào tệ quan dùng trà.
Nói xong đi trước dẫn đường. Không Tướng bỏ giới đao đeo ở hông xuống, giao cho một đạo nhân, để tỏ ý không dám đeo binh khí bước vào quan. Trương Vô Kỵ thấy đạo nhân đó dẫn Không Tướng vào điện Tam Thanh trong Tử Tiêu Cung, liền náu ở bên ngoài cửa sổ. Lại nghe Không Tướng lớn tiếng nói:
- Xin đạo trưởng lập tức bẩm báo Trương chân nhân, sự việc khẩn cấp không thể diên trì một phút nào cả.
Đạo nhân kia đáp:
- Đại sư đến thật không phải lúc, tệ sư tổ tọa quan từ năm ngoái, đến nay đã hơn một năm, đệ tử bản phái đã lâu chẳng một ai được thấy tư phạm của lão nhân gia.
Không Trí nói:
- Như vậy phiền thông báo Tống đại hiệp.
Đạo nhân trả lời:
- Đại sư bá cùng gia sư và các chư vị sư thúc, liên minh với quí phái, viễn chinh Minh giáo chưa trở về.
Trương Vô Kỵ nghe đến mấy tiếng “viễn chinh Minh giáo chưa trở về”, trong bụng kinh hoảng, quả nhiên nhóm Tống Viễn Kiều đã gặp chuyện gì không hay trên đường trở về. Lại nghe Không Tướng thở dài một tiếng nói:
- Nếu quả như thế phái Võ Đương cũng không khác gì phái Thiếu Lâm chúng tôi, hôm nay khó mà qua khỏi được kiếp nạn này.
Đạo nhân kia không hiểu ý tứ nói:
- Sự vụ trong tệ phái, hiện nay do Cốc Hư Tử sư huynh chủ trì, tiểu đạo sẽ thông báo ngay, mời ra tham kiến đại sư.
Không Tướng hỏi:
- Cốc Hư đạo trưởng là đệ tử của vị nào thế?
Đạo nhân kia đáp:
- Là môn hạ Du tam sư thúc.
Không Tướng nhướng đôi lông mày dài nói:
- Du tam hiệp tay chân bị thương, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, mấy câu này lão tăng nói lại với Du tam hiệp vậy.
Đạo nhân kia nói:
- Vâng, xin theo lời đại sư chỉ bảo.
Nói xong quay mình đi vào. Nhà sư Không Tướng ở trong sảnh đi đi lại lại, xem ra cực kỳ nóng ruột, thỉnh thoảng lại nghiêng tai nghe ngóng, hiển nhiên lo lắng địch nhân tấn công lên núi. Chẳng bao lâu, đạo nhân kia rảo bước đi ra, khom mình nói:
- Du tam sư thúc có lệnh mời, nói là xin đại sư tha thứ cho tội không đi ra ngoài nghênh tiếp được.
Lúc này thần thái cử chỉ của đạo nhân kia so với khi trước cung kính hơn nhiều, chắc là Du Đại Nham nghe thấy nhà sư thuộc hàng chữ Không của phái Thiếu Lâm giá lâm nên dặn y lễ mạo phải mười phần chu đáo. Không Tướng gật đầu, đi theo y vào ngọa phòng của Du Đại Nham. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Tam sư bá tàn phế tứ chi, tai mắt hẳn là linh mẫn hơn nhiều, nếu ta đến bên ngoài phòng ông ta nghe ngóng, chỉ e sẽ bị phát giác”. Chàng đi đến cách phòng Du Đại Nham chứng vài trượng liền dừng lại.
Qua chừng thời gian uống một chén trà, đạo nhân kia lật đật đi ra khỏi phòng Du Đại Nham, hạ giọng gọi:
- Thanh Phong, Minh Nguyệt, qua bên này.
Liền có hai đạo đồng chạy đến trước mặt ông ta, kêu lên một tiếng:
- Sư thúc.
Đạo nhân kia nói:
- Chuẩn bị cáng, tam sư thúc muốn ra ngoài.
Hai đạo đồng bèn vâng dạ đi ngay. Trương Vô Kỵ ở trên núi Võ Đương mấy năm, tri khách đạo nhân kia là đệ tử của Du Liên Châu mới thu về sau nên chàng không biết, nhưng lại biết hai đạo đồng Thanh Phong, Minh Nguyệt. Mỗi khi Du Đại Nham muốn ra ngoài phải nằm trên cáng do hai đạo đồng đó khiêng đi. Chàng thấy hai đạo đồng đó đi về hướng phòng để cáng liền rón rén đi theo sau, đợi cho hai người vào phòng đột nhiên gọi:
- Thanh Phong, Minh Nguyệt, nhận ra ta không?
Hai tiểu đồng sợ hãi nhảy dựng lên, chăm chú nhìn Trương Vô Kỵ, xem thấy quen quen, nhưng chưa biết là ai. Trương Vô Kỵ cười nói:
- Ta là Vô Kỵ tiểu sư thúc đây, các ngươi quên rồi sao?
Hai đưa tiểu đồng liền nhớ lại, mừng rỡ kêu lên:
- Ồ, tiểu sư thúc về rồi. Sư thúc khỏi bệnh chưa?
Ba người tuổi tác cùng lứa, trước kia thường chơi đùa với nhau. Trương Vô Kỵ nói:
- Thanh Phong, để ta giả làm ngươi, đến khiêng tam sư bá, xem ông ấy có nhận ra ta không?
Thanh Phong trù trừ nói:
- Cái đó. .. không được đâu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tam sư bá thấy ta khỏi bệnh trở về, vui không để đâu cho hết, vui sướng còn chưa đủ, lẽ nào còn trách mắng ngươi?
Hai đạo đồng biết là từ tổ sư Trương Tam Phong trở xuống, Võ Đương lục hiệp đối với vị tiểu sư thúc này cực kỳ sủng ái, y khỏi bệnh về núi, thật là một chuyện vui rất lớn, muốn nghịch ngợm một tí, Du Đại Nham đang bệnh sẽ vui không có gì là không được. Minh Nguyệt nói:
- Tiểu sư thúc bảo sao thì làm vậy.
Thanh Phong nghe thế liền cười hì hì cởi đạo bào, giày vớ để cho chàng thay. Minh Nguyệt thì giúp Trương Vô Kỵ tết một cái búi tóc. Chỉ trong giây lát, chàng đã biến thành một tiểu đạo đồng. Minh Nguyệt nói:
- Nếu sư thúc mạo xưng Thanh Phong, tướng mạo không giống, vậy nói là đệ tử mới thu trong đạo quan. Thanh Phong bị ngã què chân nên sư thúc vào thay.
Trương Vô Kỵ cười đáp:
- Hay lắm. ..
Đạo nhân kia ở ngoài quát mắng:
- Hai thằng nhãi kia, còn hi hi ha ha cái gì trong đó, sao lâu thế không chui ra.
Trương Vô Kỵ và Minh Nguyệt le lưỡi, vác cáng lên vai đi về phía phòng Du Đại Nham. Hai người đỡ Du Đại Nham ngồi vào cáng, Du Đại Nham mặt thật là trịnh trọng không để ý đến đạo đồng là ai nói:
- Đến tiểu viện sau núi để gặp tổ sư gia gia.
Minh Nguyệt đáp:
- Vâng
Quay mình lại tiến bước còn Trương Vô Kỵ khiêng đằng sau. Du Đại Nham chỉ thấy sau lưng Minh Nguyệt nhưng không thấy Trương Vô Kỵ. Không Tướng đi theo ngang bên cáng cùng đến hậu sơn. Viên tri khách đạo nhân kia không được Du Đại Nham gọi đến nên không dám đi theo.
Nơi Trương Tam Phong bế quan tĩnh tu là một tiểu viện nằm sâu trong rừng trúc tại sau núi, cây cối um tùm, bóng râm che phủ mặt đất, ngoài tiếng chim kêu không nghe một tiếng nào khác. Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ khiêng Du Đại Nham đến trước tiểu viện, hạ võng xuống. Du Đại Nham đang toan mở miệng cầu kiến, bỗng nghe từ sau cửa truyền ra tiếng nói già cả của Trương Tam Phong:
- Vị cao tăng nào của phái Thiếu Lâm quang lâm hàn cư, lão đạo không kịp ra xa nghênh tiếp, mong thứ lỗi.
Nghe kẹt một tiếng, cửa tre mở rộng, Trương Tam Phong từ từ bước ra. Không Tướng ngạc nhiên, thấy Trương Tam Phong nhận ra người đến thăm thuộc phái Thiếu Lâm thật là kỳ quái nhưng nghĩ ngay có lẽ tri khách đạo nhân đã đến bẩm trước rồi. Du Đại Nham biết là sư phụ càng ngày càng tinh thâm, chỉ nghe tiếng bước chân Không Tướng đã nhận ra ngay môn phái võ công, trình độ nông sâu. Nội công của Trương Vô Kỵ cao thâm hơn Không Tướng nhiều, từ thực quay trở lại hư, quá tinh thuần nên lại thành giản phác, cử chỉ, ánh mắt, bước chân, giọng nói mọi thứ đều không lộ ra chút nào khiến Trương Tam Phong không nhận ra. Chàng thấy thái sư phụ tuy mặt mày hồng hào nhưng râu tóc đã bạc phơ, so với lúc chia tay năm xưa đã già hơn một chút, trong lòng vừa hoan hỉ, vừa bi thương, nhịn không nổi nước mắt chảy ròng ròng, vội quay đầu ra chỗ khác.
Không Tướng chắp tay vái chào nói:
- Tiểu tăng Thiếu Lâm Không Tướng, tham kiến Võ Đương tiền bối Trương chân nhân.
Trương Tam Phong cũng chắp tay đáp lễ nói:
- Không dám, đại sư bất tất đa lễ, xin mời vào nói chuyện.
Cả năm người bước vào tiểu viện. Chỉ thấy trên bàn có một bình trà, một chén uống trà, dưới đất là một tấm bồ đoàn, trên tường treo một thanh kiếm gỗ, ngoài ra không còn gì khác. Trên bàn dưới đất đầy những bụi bặm.
Không Tướng nói:
- Trương chân nhân, phái Thiếu Lâm gặp phải kiếp nạn nghìn năm qua chưa hề có, ma giáo đột nhiên bất ngờ tấn công, bản phái từ phương trượng Không Văn sư huynh đổ xuống, hoặc chiến đấu đến chết vì chùa, hoặc sức yếu bị bắt, chỉ một mình tiểu tăng liều chết chạy thoát. Đại đội ma giáo đang tiến về núi Võ Đương, vinh nhục mất còn của võ lâm Trung Nguyên hôm nay toàn nằm trong tay một mình Trương chân nhân đấy thôi.
Nói xong khóc òa lên. Trương Vô Kỵ bị chấn động mạnh, chàng biết rõ phái Thiếu Lâm đã bị tai kiếp ra sao nhưng không ngờ toàn phái đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ngay cả Trương Tam Phong đã một trăm năm tu tập, nghe tin đó cũng giật mình kinh hoảng, một hồi lâu không nói được tiếng nào, định thần rồi mới hỏi:
- Ma giáo tuy ngang ngược như thế nhưng phái Thiếu Lâm cao thủ biết bao nhiêu, làm sao đến nổi phải rơi vào độc thủ của chúng được?
Không Tướng nói:
- Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh đem môn hạ đệ tử, cùng năm đại môn phái Trung Nguyên thề ước tây chinh, vây đánh Quang Minh Đính. Tăng chúng còn ở lại chùa ngày ngày mong ngóng tin vui. Hôm đó dưới chân núi báo tin lên, những người viễn chinh đại thắng trở về. Phương trượng Không Văn sư huynh nghe tin mừng lắm, cùng mọi người trong chùa ra nghênh đón, quả nhiên thấy Không Trí, Không Tính hai vị sư huynh cùng các đệ tử trở về đến chùa rồi, ngoài ra còn bắt được đến mấy trăm người dẫn theo.
Mọi người vào đến đại viện, phương trượng hỏi han tình hình đắc thắng, Không Trí sư huynh ấp úng nói không ra. Không Tính sư huynh đột nhiên kêu lên: “Sư huynh cẩn thận, chúng tôi đã lọt vào tay người ta rồi, những kẻ bị bắt toàn là địch nhân. ..”. Phương trượng còn đang kinh ngạc, bọn tù binh liền rút binh khí dấu trong người ra tay tấn công. Đệ tử bản phái một là trở tay không kịp, hai là các hảo thủ tây chinh bị địch bắt rồi, những người còn lại trong chùa chẳng bao nhiêu, mọi hướng ra trong đại viện đều bị địch chặn lại hết, kịch đấu một trận, đều bị chúng đánh cho tan tành cả, Không Tính sư huynh tuẫn nạn ngay tại đương trường. ..
Nói tới đây Không Tướng khóc lên thành tiếng. Trương Tam Phong trong bụng xót xa, nói:
- Bọn ma giáo tàn độc như thế, thi hành ác kế làm sao ai mà đề phòng cho nổi?
Không Tướng cởi cái bọc vải màu vàng đeo trên lưng, mở bao ra, bên trong là một lớp vải dầu, mở lớp vải dầu, quả nhiên lộ ra một cái thủ cấp, mắt tròn xoe trợn ngược, mặt đầy vẻ phẫn nộ, chính là một trong ba đại thần tăng của phái Thiếu Lâm Không Tính đại sư. Trương Tam Phong và Trương Vô Kỵ đều biết mặt Không Tính, vừa thoạt nhìn không nhịn nổi cùng kêu “A” lên một tiếng.
Không Tướng khóc nói:
- Tiểu tăng liều chết cướp được pháp thể của Không Tính sư huynh, Trương chân nhân, ngài xem đại cừu này làm sao trả được?
Nói xong cung kính đặt chiếc đầu của Không Tính lên bàn rồi phục xuống lạy. Trương Tam Phong buồn bã khom lưng chắp tay đáp lễ. Trương Vô Kỵ nhớ đến khi tỉ võ trên Quang Minh Đính, Không Tính thần tăng khẳng khái lỗi lạc, hào khí hơn người, không thên là đường đường một đại tông sư của phái Thiếu Lâm, đâu ngờ bị gian nhân làm hại đến nỗi đầu một nơi, mình một nẻo, trong lòng thật là đau xót.
Trương Tam Phong thấy Không Tướng nằm phục xuống hồi lâu không dậy, khóc lóc thật thảm thiết, liền đưa tay ra đỡ lên nói;
- Không Tướng sư huynh, Thiếu Lâm Võ Đương vốn cũng một nhà, thù này không thể không báo. ..
Oâng vừa nói tới chữ “báo” thì không ngờ nghe bình một tiếng, song chưởng của Không Tướng cùng đánh thẳng vào bụng dưới.
Biến cố đó thật là đột ngột, Trương Tam Phong võ công tuy đã đến mức tòng tâm sở dục, cảnh giới tối cao muốn gì được nấy, nhưng đâu ngờ nhà sư Thiếu Lâm đang mang mối huyết cừu, từ xa đến báo tin cho mình tự nhiên lại bất ngờ đánh lén. Ngay lúc đầu, ông tưởng đâu Không Tướng vì bi thương quá độ nên tâm trí mê man, trong cơn hôn loạn tưởng mình là địch nhân, nhưng lập tức biết rằng không phải, nơi bụng dưới trúng phải chưởng lực, chính là ngoại môn thần công Kim Cương Bát Nhã Chưởng, cảm thấy Không Tướng đang dồn hết sức đẩy kình lực ra, mặt mày trắng bệch nhưng khóe miệng lộ một nụ cười hiểm ác.
Trương Vô Kỵ, Du Đại Nham, Minh Nguyệt ba người đâu ngờ biến cố đó xảy ra, ai nấy kinh sợ đến chết trân. Du Đại Nham khổ nỗi thân thể tàn phế, không cách nào tiến lên giúp sư phụ một tay, còn Trương Vô Kỵ tuổi trẻ hiểu biết ít, trong một sát na, đâu đã hiểu được rằng Không Tướng đang toan giết chết thái sư phụ mình. Hai người vừa kêu lên một tiếng thì Trương Tam Phong đã đẩy chưởng trái ra, nghe bộp một tiếng nhỏ, đánh trúng ngay đỉnh đầu Không Tướng. Chưởng đó thật mềm như bông mà cứng còn hơn sắt, sọ Không Tướng nát bấy, người sụm xuống như một đống bùn nát chết ngay, chẳng kịp kêu lên một tiếng.
Du Đại Nham vội kêu:
- Sư phụ, lão nhân gia. ..
Nói tới đó ông liền ngừng lại thấy Trương Tam Phong nhắm mắt ngồi xuống, chỉ trong chốc lát, trên đầu tỏa ra những làn hơi trắng li ti, bỗng dưng há mồm hộc ra một ngụm máu tươi.
Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, biết rằng thái sư phụ bị thương thực không phải nhẹ, nếu như ông nôn ra máu bầm đen, thì với nội công thâm hậu vô tỉ của ông chỉ ba bốn ngày sẽ hoàn toàn bình phục, thế nhưng lại hộc máu tươi, phun ra ồng ộc ắt là tạng phủ đã bị trọng thương. Trong giây phút đó, lòng chàng trù trừ không biết tính sao: “Mình có nên lập tức bước ra thố lộ thân phận để cứu thái sư phụ? Hay làm cách nào?”.
Ngay khi đó bỗng nghe tiếng chân, có người đã đến trước cửa, nghe có vẻ gấp rút, xem ra mười phần hoảng hốt nhưng không dám tiến vào. Du Đại Nham hỏi:
- Linh Hư đấy ư? Chuyện gì thế?
Tri khách đạo nhân Linh Hư đáp:
- Bẩm báo tam sư thúc, đại đội ma giáo đã đến bên ngoài cung, xin gặp tổ sư gia gia, nói ra những lời thô bỉ, nói muốn san phẳng phái Võ Đương. ..
Du Đại Nham quát lên:
- Câm mồm. ..
Oâng sợ Trương Tam Phong bị phân tâm sẽ khích động đến thương thế. Trương Tam Phong từ từ mở mắt, nói:
- Kim Cương Bát Nhã chưởng của phái Thiếu Lâm quả thực là ghê gớm, nếu không tĩnh dưỡng ba tháng thì không khỏi được.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hóa ra thái sư phụ bị thương còn nặng hơn ta tưởng nhiều”.
Lại nghe Trương Tam Phong nói:
- Minh giáo kéo đại đội binh mã lên núi, ôi, không biết Viễn Kiều, Liên Châu bọn nó có được bình an không? Đại Nham, con nghĩ mình phải làm sao?
Du Đại Nham lặng yên không đáp, biết rằng trên núi ngoài sư phụ và mình ra, còn lại đệ tử đời thứ ba thứ tư chẳng có gì đáng kể, đưa ra ngự địch, chẳng qua chỉ đẩy vào chỗ chết. Việc hôm nay, chỉ có nước mình liều mạng ra cho địch làm gì thì làm, để sư phụ tìm nơi dưỡng thương, sau này sẽ tìm cách báo thù. Nghĩ thế ông bèn cao giọng nói:
- Linh Hư, ngươi đi ra bảo họ chờ tại điện Tam Thanh ta sẽ ra gặp.
Linh Hư vâng lời đi ngay. Trương Tam Phong và Du Đại Nham tình thầy trò với nhau đã lâu, tâm ý tương thông, nghe ông nói như thế biết ngay ý định nói:
- Đại Nham, sống chết ăn thua, chẳng có gì đáng phải để bụng cả nhưng tuyệt học phái Võ Đương không thể vì chuyện này mà đứt gánh. Ta tọa quan mười tám tháng, đắc ngộ tinh yếu võ học, một pho Thái Cực Quyền và một pho Thái Cực Kiếm bây giờ ta truyền cho con.
Du Đại Nham ngẩn ngơ, nghĩ thầm bản thân mình tàn phế đã lâu làm sao còn học được quyền pháp kiếm thuật? Huống chi lúc này cường địch đã nhập quan, còn đâu ở không mà tập luyện võ công, nên chỉ kêu lên:
- Sư phụ.
Rồi không nói thêm gì được nữa. Trương Tam Phong cười buồn nói:
- Từ khi ta khai sáng phái Võ Đương đến nay, hành hiệp giang hồ, làm nhiều điều nhân nghĩa, cứ đại số mà nói, quyết không thể nào bị đứt đoạn như thế này. Hai pho Thái Cực Quyền và Thái Cực Kiếm của ta so với đạo lý võ học từ trước đến nay hoàn toàn khác hẳn, chuyên về lấy tĩnh chế động, hậu phát chế nhân. Sư phụ con đã hơn trăm tuổi, nếu như chẳng gặp cường địch, thì cũng còn sống được bao năm? Điều vui là đến cuối cuộc đời lại sáng chế được pho võ công này.
Viễn Kiều, Liên Châu, Tùng Khê, Lê Đình, Thanh Cốc chẳng có ai ở bên ta, còn đệ tử đời thứ ba, thứ tư thì trừ Thanh Thư ra không có nhân tài nào kiệt xuất, mà y lại cũng không có ở trên núi. Đại Nham, con phải mang trọng trách truyền lại bình sinh tuyệt nghệ của ta, vinh nhục một ngày của phái Võ Đương có gì đáng kể? Nếu như pho Thái Cực Quyền này truyền lại được cho người sau, thanh danh của phái Võ Đương sẽ lưu đến muôn đời.
Ông nói đến đây, thần thái phấn khởi, hào khí bốc lên ngùn ngụt, tưởng như coi cường địch đang uy hiếp kia chẳng để vào đâu.
Du Đại Nham vâng vâng dạ dạ, hiểu ý sư phụ muốn mình nhẫn nại để đảm trách việc lớn, làm sao tiếp truyền tuyệt kỹ của bản phái mới là quan trọng. Trương Tam Phong từ từ đứng dậy, hay tay buông thõng, lưng bàn tay hướng ra ngoài, ngón tay để tự nhiên, hai chân dang ra ngang nhau. Kế đến hai cánh tay từ từ đưa lên đến ngang ngực thì tay trái ôm thành hình bán nguyệt, lòng bàn tay úp thành âm chưởng, tay phải lật lên thành dương chưởng, nói:
- Đây là thế khởi đầu của Thái Cực Quyền.
Rồi tiếp tục từng chiêu, từng thức diễn ra một lượt, miệng đọc các tên thế: Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Xí, Lâu Tất Câu Bộ, Thủ Huy Tì Bà, Tiến Bộ Ban Lan Truy, Như Phong Tự Bế, Thập Tự Thủ, Bão Hổ Qui Sơn …
Trương Vô Kỵ ngưng thần nhìn không nháy mắt, lúc đầu tưởng là thái sư phụ cố ý đem từng thức diễn thật chậm, cốt để cho Du Đại Nham nhìn cho rõ ràng, nhưng đến chiêu thứ bảy “Thủ Huy Tì Bà”, chỉ thấy ông tay trái dương chưởng, tay phải âm chưởng, mắt chăm chú nhìn cánh tay bên trái, hay tay từ từ hợp lại, xem tưởng ngưng trọng như núi, lại tựa nhẹ nhàng như lông. Trương Vô Kỵ đột nhiên tỉnh ngộ:
- Đây là một loại võ công thượng thừa lấy chậm chống với nhanh, lấy tĩnh chế động, không ngờ là trên thế gian này lại có một loại công phu cao minh đến thế.
Chàng vốn dĩ võ công cực cao, một khi đã lãnh hội, càng xem càng thêm nhập thần. Chỉ thấy Trương Tam Phong hai tay ôm thành hình vòng tròn, chiêu nào cũng hàm ý âm dương biến hóa, tinh vi ảo diệu, quả thực mở ra một khung trời mới cho võ học.
Ước chừng ăn xong một bữa cơm, Trương Tam Phong sử đến thượng bộ Cao Thám Mã, thượng bộ Lãm Tước Vĩ, Đơn Tiên rồi hợp trở lại thái cực. Ông đứng yên thần định khí nhàn, tuy mới bị trọng thương mà luyện xong quyền pháp, tinh thần xem ra lại sung vượng hơn. Trương Tam Phong hai tay ôm vòng thành thức thái cực, nói:
- Quyết khiếu của môn quyền pháp này là mười sáu chữ "hư linh đính kình, hàm hung bạt bối, túng yêu thùy đồn, trầm kiên trụy trửu[2]". Thuần lấy ý mà đi quyền, tối kỵ dùng sức, hình thần hợp nhất, đó chính là yếu chỉ của quyền pháp.
Nói xong ông giải thích kỹ lưỡng một lần. Du Đại Nham không nói một lời chỉ chăm chú lắng nghe, biết rằng thời thế khẩn bách, không có thì giờ để hỏi, tuy có rất nhiều điều chưa hiểu rõ nhưng chỉ cốt chăm chăm ghi nhớ, nếu như sư phụ có chuyện gì chẳng lành, những khẩu quyết chiêu thức mình còn truyền lại được, sau này có kẻ nào tài trí thông minh suy nghĩ được chỗ tinh áo trong đó. Còn Trương Vô Kỵ lãnh hội được nhiều hơn, mỗi câu mỗi thế Trương Tam Phong diễn ra đều khiến chàng như được mở ra một con đường mới, lòng vui sướng không sao tả nổi.
Trương Tam Phong thấy mặt Du Đại Nham có vẻ như hoang mang chưa rõ, hỏi lại:
- Con hiểu được mấy phần?
Du Đại Nham đáp:
- Đệ tử ngu độn, chỉ hiểu độ ba bốn phần nhưng chiêu thức và khẩu quyết thì nhớ hết.
Trương Tam Phong nói:
- Cũng thật khó cho con. Nếu như Liên Châu ở đây thì có thể hiểu được năm thành. Ôi, ngũ sư đệ của con ngộ tính cao hơn cả, tiếc thay không may chết sớm, nếu ta có được ba năm ra tay điểm bát, thì có thể truyền môn tuyệt kỹ này cho y.
Trương Vô Kỵ nghe ông đề cập đến cha mình, trong lòng không khỏi chua xót. Trương Tam Phong lại nói tiếp:
- Quyền kình của môn này chủ yếu là tưởng lỏng nhưng không phải lỏng, sắp bung ra nhưng chưa bung ra, kình dứt rồi mà ý chưa dứt. ..
Ông đang định giải thích tiếp, bỗng nghe từ phía điện Tam Thanh xa xa truyền đến một giọng già nua:
- Nếu Trương Tam Phong lão đạo cứ rụt đầu không ra, bọn ta đem đồ tử đồ tôn của y giết sạch đã.
Lại có một giọng đàn ông ồm ồm nói:
- Hay lắm, cứ cho một mồi lửa đốt tiêu cái đạo quan này rồi tính sau.
Tiếp đến có một giọng the thé:
- Để lão chết thui thì lão sướng quá. Mình phải tóm cổ lão, trói lại dẫn đi các môn các phái cho họ nể mặt, để mọi người xem cái lão già sống dai vẫn được gọi là Thái Sơn, Bắc Đẩu mặt mũi ra thế nào.
Tiểu viện nơi hậu sơn cách tiền điện đến hơn hai dặm, nhưng thanh âm mấy người này truyền đến rõ ràng, hiển nhiên địch nhân cố ý khoe khoang công lực, mà công lực cũng quả không tầm thường.
Du Đại Nham nghe những lời hối nhục sư tôn, trong bụng giận lắm, mắt như muốn tóe lửa. Trương Tam Phong nói:
- Đại Nham, những lời ta dặn dò con, mới đây sao đã quên rồi? Không nhẫn nại được, làm sao đảm trách chuyện lớn?
Du Đại Nham nói:
- Vâng, con xin theo lời giáo huấn của sư phụ.
Trương Tam Phong nói:
- Con đã hoàn toàn tàn phế, địch nhân sẽ không đề phòng, tuyệt đối không được gấp gáp nóng nảy. Nếu như tuyệt nghệ ta khổ tâm sáng chế không truyền được cho hậu thế, thì con sẽ là tội nhân của phái Võ Đương ta đó.
Du Đại Nham nghe mà lưng toát mồ hôi, biết dụng ý tại sao sư phụ nói thế thế, dù địch nhân lăng nhục thầy trò thế nào chăng nữa, thì cũng phải giả như hèn nhát để sống, cốt sao truyền được tuyệt nghệ. Trương Tam Phong lấy bên mình ra một đôi La Hán bằng thép đúc, giao cho Du Đại Nham nói:
- Tên Không Tướng này nói phái Thiếu Lâm đã bị diệt sạch, không biết có thật hay không. Người này là cao thủ của phái Thiếu Lâm, đến như y mà còn đầu hàng kẻ địch, đến trước ám toán ta thì phái Thiếu Lâm ắt đã bị đại nạn không còn nghi ngờ gì nữa. Đôi La Hán này là do Quách Tương Quách nữ hiệp tặng cho ta một trăm năm trước, con sau này gửi lại truyền nhân của phái Thiếu Lâm, may ra từ đôi La Hán này mà còn lưu truyền được một tuyệt nghệ của môn phái.
Nói xong ông phất tay áo một cái, đi ra khỏi cửa. Du Đại Nham nói:
- Khiêng ta đi theo sư phụ.
Minh Nguyệt và Trương Vô Kỵ hai người liền ghé vai khiêng chiếc cáng đi theo Trương Tam Phong.
Bốn người đến điện Tam Thanh, thấy trong điện đầy kẻ đứng người ngồi, phải đến ba bốn trăm chứ không ít. Trương Tam Phong đứng giữa điện, ra hiệu chào khách nhưng không nói lời nào. Du Đại Nham lớn tiếng nói:
- Vị này là sư tôn chúng tôi Trương chân nhân. Các vị đến núi Võ Đương, không hiểu muốn dạy bảo điều gì?
Đại danh Trương Tam Phong uy chấn võ lâm, lập tức bao nhiêu cặp mắt đều đổ dồn vào ông, chỉ thấy ông mặc một chiếc đạo bào cũ kỹ dơ bẩn màu tro, râu mày bạc trắng, thân thể cực kỳ cao to, ngoài ra không có gì khác thường.
Trương Vô Kỵ nhìn thấy những người kia thấy một nửa ăn mặc theo lối giáo chúng Minh giáo, còn hơn chục người đứng đầu mặc quần áo bản phái, có lẽ vì thân phận cao cấp, không muốn mạo xưng người khác. Cao lùn tăng tục, mấy trăm người đều dồn vào trong điện, nhất thời không thể nhìn rõ mặt từng người.
Ngay lúc đó, nghe thấy bên ngoài có người truyền vào:
- Giáo chủ đến.
Người trong điện nghe thế, lập tức im phăng phắc, hơn chục thủ lãnh liền tiến ra ngoài nghênh tiếp, những người khác cũng rảo bước theo sau. Chỉ trong giây lát, mấy trăm người đều đi hết sạch không còn một ai.
Lại nghe tiếng chân hơn chục người kia từ xa đến gần, đến trước điện thì dừng lại. Trương Vô Kỵ từ trong ngó ra, không khỏi giật mình, thấy tám người khiêng một chiếc kiệu bọc gấm vàng, có thêm bảy tám người đi trước sau ủng vệ, dừng ngay trước cửa. Tám người kiệu phu kia chính là thần tiễn bát hùng ở Lục Liễu Sơn Trang.
Trương Vô Kỵ trong lòng chợt nảy ra một ý, hai tay liền bốc đất dưới chân xoa đầy lên mặt. Minh Nguyệt nghĩ rằng chàng thấy đại địch đến đánh, hãi sợ vô cùng nên mới giả làm như thế, nhất thời cũng bấn loạn theo, bắt chước cũng bốc đất trét lên mặt. Hai đứa đạo đồng lập tức biến thành hai ông vua bếp, không còn nhìn ra mặt mũi thật ra sao.
Cửa kiệu mở ra, từ trong bước ra một thanh niên công tử, mặc áo bào trắng, trên áo thêu một ngọn lửa đỏ đang cháy, tay cầm quạt lông phe phẩy, chính là Triệu Mẫn cải nam trang.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra mọi việc đều do cô này sắp xếp, thảo nào phái Thiếu Lâm một trận tan tành”. Triệu Mẫn đi vào trong điện, có độ hơn chục người đi theo. Một gã thân thể cao lớn bước tới một bước, khom lưng nói:
- Khải bẩm giáo chủ, người này là lão đạo Trương Tam Phong của phái Võ Đương, còn gã tàn phế kia ắt là đệ tử thứ ba của y là Du Đại Nham.
Triệu Mẫn gật đầu, đi lên vài bước, cụp quạt lại, vái Trương Tam Phong một vái thật sâu nói:
- Vãn sinh Trương Vô Kỵ chấp chưởng Minh giáo, hôm nay được dịp gặp bậc Thái Đẩu của võ lâm, thực là may mắn biết chừng nào.
Trương Vô Kỵ giận lắm, trong bụng chửi thầm: “Con tặc a đầu này mạo xưng giáo chủ Minh giáo, cái đó cũng chẳng sao, lại cả gan mạo luôn cả tên ta đến lừa dối thái sư phụ”. Trương Tam Phong nghe ba chữ “Trương Vô Kỵ” thật lạ lùng: “Sao giáo chủ Minh giáo lại là một cô gái tuổi trẻ xinh đẹp thế này, tên lại giống thằng cháu Vô Kỵ của ta”. Oâng liền chắp tay hoàn lễ nói:
- Không biết giáo chủ đại giá quang lâm, chẳng kịp ra xa nghênh đón, xin tha lỗi cho”.
Triệu Mẫn nói:
- Không dám, không dám.
Tri khách đạo nhân Linh Hư đưa các đạo đồng nhà bếp đem trà lên. Triệu Mẫn một mình ngồi trên ghế, các thủ hạ của nàng đứng thõng tay xa xa ở đằng sau, không dám đến gần nàng quá năm thước, tựa hồ sợ là bất kính mạo phạm đến nàng. Trương Tam Phong đã tu luyện một trăm năm, khiêm xung tĩnh lãng, đến mức vạn sự không còn gì phải để trong lòng nữa nhưng tình thầy trò thâm trọng, nghĩ đến an nguy sống chết của bọn Tống Viễn Kiều, mười phần khắc khoải nên hỏi ngay:
- Mấy đứa học trò của lão đạo không biết lượng sức mình, từng đến quí giáo học hỏi cao chiêu, đến nay chưa về, không biết bọn chúng bây giờ ra sao, xin được Trương giáo chủ minh thị.
Triệu Mẫn cười hì hì nói:
- Tống đại hiệp, Du nhị hiệp, Trương tứ hiệp, Mạc thất hiệp bốn vị, hiện nay nằm trong tay bản giáo. Mỗi người bị thương chút đỉnh nhưng tính mệnh không có gì đáng ngại.
Trương Tam Phong nói:
- Bị thương chút đỉnh ư? Có lẽ trúng chút đỉnh chất độc thì đúng hơn.
Triệu Mẫn cười nói:
- Trương chân nhân quả thật tự hào về Võ Đương tuyệt học. Nếu chân nhân bảo họ trúng độc, thì cứ coi như là trúng độc đi.
Trương Tam Phong biết rằng các học trò mình đều là cao thủ bậc nhất đời nay, nếu vì ít người không chống lại được với số đông, thì dẫu sao cũng có một hai người thoát thân quay về báo, còn nếu cả bọn bị bắt, chắc là trúng phải độc dược vô ảnh vô tung khó mà phòng bị. Triệu Mẫn thấy ông đoán trúng ngay như thế nên thản nhiên thừa nhận.
Trương Tam Phong lại hỏi:
- Thế còn tiểu đồ họ Ân thì sao?
Triệu Mẫn thở dài:
- Ân lục hiệp bị phái Thiếu Lâm mai phục, cũng bị y hệt chẳng khác gì vị Du tam hiệp kia, bốn chân tay bị đại lực Kim Cương Chỉ bẻ gãy, chết thì không chết nhưng cử động thì không được.
Trương Tam Phong nhìn mặt mà xét, thấy những lời của nàng ta không phải nói láo, trong lòng đau đớn, òa một tiếng, lại phun ra một ngụm máu tươi.
Những người đứng sau Triệu Mẫn lộ vẻ mừng rỡ, biết là Không Tướng đã đánh lén được rồi, vị cao nhân của phái Võ Đương đã bị thương nặng, bọn họ vốn chỉ sợ một mình Trương Tam Phong, lúc này không còn gì phải úy kỵ nữa. Triệu Mẫn nói:
- Vãn sinh có một lời khuyên bảo, không hiểu Trương chân nhân có muốn nghe không?
Trương Tam Phong đáp:
- Xin nói ra.
Triệu Mẫn nói:
- Dưới khắp gầm trời này, không chỗ nào không phải là đất của hoàng đế. Tất cả mọi thứ trên bờ cõi của nhà vua, không gì không phải là phận bầy tôi[3]. Hoàng đế Mông Cổ chúng ta uy trùm bốn bể, nếu như Trương chân nhân tòng thuận thì hoàng thượng lập tức tấn phong, cả phái Võ Đương đều được vinh sủng, cả bọn Tống đại hiệp ai nấy đều an toàn không còn gì phải nói nữa.
Trương Tam Phong ngửng đầu nhìn xà nhà, lạnh lùng đáp:
- Minh giáo tuy làm nhiều điều bất nghĩa, càn rỡ không đâu vào đâu, nhưng xưa nay vẫn chống lại người Mông Cổ, không biết qui thuận triều đình từ bao giờ? Lão đạo thật là quê mùa kém hiểu biết quá.
Triệu Mẫn đáp:
- Bỏ chỗ tối vào chỗ sáng, xưa nay kẻ am hiểu thời vụ mới là người tuấn kiệt. Phái Thiếu Lâm từ Không Văn, Không Trí thần tăng đổ xuống, ai ai cũng qui thuận, tận trung với triều đình. Bản giáo chẳng qua nhìn thấy được đại thế nên đi theo các bậc hiền hào, chứ có gì đâu?
Trương Tam Phong hai mắt sáng quắc, nhìn thẳng vào Triệu Mẫn nói:
- Người Nguyên tàn bạo, tàn hại bách tính, khiến cho hôm nay thiên hạ quần hùng đều nổi lên, chính là lúc đuổi quân Hồ Lỗ, lấy lại giang sơn. Chúng ta phàm đã là con cháu Hoàng Đế [4] ai ai mà chẳng có chí đuổi quân Thát Đát, đó mới chính là đại thế phải theo. Lão đạo tuy là người xuất gia không lý chuyện đời, nhưng cũng biết được đâu là đại nghĩa. Không Văn, Không Trí là bậc đương thế thần tăng, lẽ nào khuất phục trước thế lực? Sao cô nương lại nói năng lăng nhăng, lộn xộn như thế?
Đằng sau Triệu Mẫn vọt ra một đại hán, lớn tiếng quát lên:
- Lão đạo đần độn kia, nói năng không biết nặng nhẹ gì cả. Phái Võ Đương chỉ trong chớp mắt là bị tiêu diệt rồi, lão không sợ chết, không lẽ hơn trăm đạo nhân đệ tử trên núi này, đứa nào cũng không sợ chết?
Kẻ đó nói năng trung khí sung túc, thân thể cao to, bắp tay gân guốc, hình tướng thật là uy võ. Trương Tam Phong liền cất tiếng ngâm:
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
(Có ai sống mãi đâu nào,
Lòng son sao được ghi vào sử xanh)
Đây là hai câu thơ của Văn Thiên Tường[5]. Khi Văn Thiên Tường khẳng khái chết vì nghĩa thì Trương Tam Phong tuổi còn nhỏ, rất kính ngưỡng vị thừa tướng anh hùng này. Về sau ông hay than thở khi đó võ công chưa thành nếu không thể nào cũng xả thân cứu ông ta thoát nạn, nay đến lúc vào cảnh sinh tử quan đầu, tự nhiên ngâm ra hai câu thơ trên. Ông ngừng lại một chút nói tiếp:
- Xem ra Văn thừa tướng cũng còn có chỗ chấp nê, chỉ cần giữ mình một tấm lòng son còn sử sách sau này chép sao thì chép.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #35  
Old 11-04-2012, 02:38 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 24

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 24

THÁI CỰC SƠ TRUYỀN NHU KHẮC CƯƠNG


Ông liếc Du Đại Nham một cái, nghĩ thầm: “Ta mong sao pho Thái Cực Quyền được lưu truyền hậu thế, có khác gì Văn thừa tướng muốn để tiếng thơm cho đời sau? Thực ra nếu đã hành sự không hổ cùng trời đất rồi, thì còn lo gì Thái Cực Quyền Kiếm có truyền hay không truyền, phái Võ Đương tồn tại hay không tồn tại”.
Bàn tay trắng như ngọc của Triệu Mẫn vẫy nhẹ một cái, đại hán kia liền lui lại phía sau. Nàng mỉm cười nói:
- Nếu Trương chân nhân đã cố chấp như thế, tạm thời mình không nói đến nữa. Vậy thì mời các vị đi theo ta.
Nói xong nàng đứng lên, bốn người đứng đằng sau lập tức tiến lên vây Trương Tam Phong lại. Bốn người đó gồm một đại hán cao to, một người áo vải đầy mụn vá, một hòa thượng gầy gò, và một người Hồ Tây Vực râu xồm mắt biếc. Xem ra nếu Trương Tam Phong nếu không đi theo họ, bốn người này sẽ ra tay.
Trương Vô Kỵ thấy mấy người đó thân pháp kẻ ngưng trọng, kẻ phiêu dật ai nấy đều thật là phi thường, trong bụng hơi hoảng: “Sao dưới tay cô ả họ Triệu này lại nhiều cao thủ đến thế?” Chàng lại nghĩ thầm: “Phe địch cao thủ thật nhiều, bọn này ai nấy đều gian trá vô sỉ, không kể tín nghĩa, không phải như sáu môn phái vây công Quang Minh Đính. Ta muốn bảo hộ thái sư phụ và tam sư bá được bình an không phải dễ. Nếu có đánh bại được vài người, bọn họ nhất định không chịu thua, thể nào cũng ùa lên một lượt. Thế nhưng việc đến nước này, chỉ còn một phen hết sức, tốt nhất là làm sao bắt giữ được Triệu cô nương để uy hiếp đối phương”.
Chàng đang toan tiến ra ngăn trở bọn kia, bỗng nghe bên ngoài cửa một tiếng cười dài ghê rợn, một người áo xanh bay vụt vào trong điện, thân pháp chẳng khác gì quỉ mị, thoáng một cái như gió bay, như chớp lòe đã tới sau lưng gã cao to, múa chưởng đánh ra. Đại hán đó liền xoay người, múa ngược tay lại đỡ, ý muốn dùng ngạnh công đấu với người kia. Thế nhưng người áo xanh không để chiêu đó đánh xong, tay trái đã đánh luôn vào vai người Hồ Tây Vực. Người Hồ nghiêng qua né tránh, giơ chân lên đá vào bụng dưới y. Người kia khi đó đã đánh tiếp qua nhà sư gầy gò, vội vàng nghiêng người lùi lại, tả chưởng đánh luôn vào người ăn mặc rách rưới. Chỉ trong nháy mắt, y liên tiếp đánh ra bốn chưởng, công kích bốn cao thủ, tuy không chưởng nào trúng nhưng thủ pháp nhanh như thế không ai ngờ nổi. Bốn người kia biết mình đã gặp kình địch nên đều nhảy lùi mấy bước, ngưng thần tiếp chiến.
Người áo xanh không thèm để ý đến phía địch, khom lưng xuống vái Trương Tam Phong nói:
- Vãn bối Vi Nhất Tiếu, tọa hạ của Trương giáo chủ Minh giáo, tham kiến Trương chân nhân.
Người đó chính là Vi Nhất Tiếu. Y thoát khỏi những kẻ chặn đường rồi lập tức chạy đến đây. Trương Tam Phong thấy y xưng là “Minh giáo Trương giáo chủ tọa hạ”, cho rằng y cũng cùng bọn với Triệu Mẫn, giơ tay đánh bốn người kia chắc có âm mưu gì nên lạnh lùng đáp:
- Vi tiên sinh không phải đa lễ. Đã từ lâu nghe danh Thanh Dực Bức Vương khinh công tuyệt đính, trên đời ít có, hôm nay được thấy quả thực danh bất hư truyền.
Vi Nhất Tiếu mừng lắm, y ít đến Trung Nguyên, trước nay tên tuổi không mấy nổi, nào ngờ Trương Tam Phong cũng nghe tiếng khinh công cao siêu của mình, khom mình đáp:
- Trương chân nhân là Bắc Đẩu của võ lâm, vãn bối được chân nhân khen một câu, quả thực vinh hạnh không để đâu cho xiết.
Y quay lại, chỉ vào Triệu Mẫn nói:
- Triệu cô nương, sao cô lén lút mạo danh Minh giáo làm bại hoại tên tuổi bản giáo là để làm gì? Nam tử hán, đại trượng phu sao lại độc ác, âm hiểm như thế?
Triệu Mẫn cười khanh khách nói:
- Ta vốn có phải nam tử hán đại trượng phu đâu, độc ác âm hiểm thì ngươi làm gì được nào?
Vi Nhất Tiếu mới nói một câu đã bị bắt bẻ khiến không biết đối đáp ra sao, y ngẩn ngơ rồi nói:
- Các vị tấn công Thiếu Lâm rồi lại tới làm phiền phái Võ Đương, rốt ráo lai lịch thế nào? Nếu như các vị có oán cừu với hai phái này, Minh giáo trước nay không hay xen vào việc người khác, thế nhưng nếu mạo xưng tên tuổi chúng tôi, ăn mặc giả làm giáo chúng thì Vi Nhất Tiếu này không thể không can thiệp.
Trương Tam Phong vốn biết Minh giáo là tử địch với triều đình đã hơm trăm năm nên không tin nay lại đầu hàng Mông Cổ, nghe Vi Nhất Tiếu nói mấy câu đó bấy giờ mới minh bạch, nghĩ thầm: “Thì ra cô gái này mạo xưng. Ma giáo tuy thanh danh không tốt nhưng những chuyện lớn thế này họ không thể hồ đồ được”. Triệu Mẫn quay sang người to cao kia nói:
- Nghe y to mồm huyên hoang nhỉ, ngươi ra thử xem y có tài thật hay chỉ nói phét?
Đại hán kia khom lưng đáp :
- Vâng.
Y đưa tay sửa lại dây thắt lưng, khệnh khạng đi ra giữa điện nói:
- Vi Bức Vương, tại hạ muốn lãnh giáo công phu Hàn Băng Miên Chưởng.
Vi Nhất Tiếu không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Gã này làm sao lại biết ta có môn Hàn Băng Miên Chưởng? Y biết thế mà vẫn tiến lên khiêu chiến, ta hẳn không thể coi thường được”. Y hai tay vỗ một cái nói:
- Xin thỉnh giáo tính danh của các hạ?
Người kia đáp:
- Bọn ta đã mạo xưng Minh giáo đến đây, không lẽ lại dùng tên thật? Câu hỏi đó của Bức Vương quả thật ngốc quá.
Hơn một chục tên đứng sau lưng Triệu Mẫn bật lên tiếng cười ha hả. Vi Nhất Tiếu lạnh lùng nói:
- Đúng thế, câu hỏi của ta ngu thật. Các hạ cam chịu làm ưng khuyển cho triều đình, làm nô tài cho dị tộc, không nói tên ra tốt hơn, nếu không thì làm nhục cả tổ tiên.
Đại hán kia đỏ mặt, lửa giận bốc lên, nghe vù một tiếng đã đánh ra một chưởng vào thẳng ngực Vi Nhất Tiếu, kình lực thật là lợi hại. Vi Nhất Tiếu xoay chuyển cước bộ né qua ngay, thân hình chỉ nhấp nháy đã lòn ra sau lưng giơ tay điểm vào lưng địch. Y chưa giở Hàn Băng Miên Chưởng ra vì còn muốn thăm dò xem đối phương kia hư thực nông sâu thế nào. Đại hán kia liền giơ tay trái đỡ ngược lại, trong thủ có ẩn thế công. Chỉ qua mấy chiêu, chưởng thế của gã kia nhanh dần, chưởng lực mỗi lúc một thêm mạnh mẽ. Tuy nội thương Vi Nhất Tiếu đã được Trương Vô Kỵ chữa, mỗi lần vận công không còn phải uống máu nóng để chế ngự âm độc trong cơ thể như trước, nhưng mới khỏi chưa bao lâu, nay gặp cường địch lại ra tay trước mặt một đại tông sư như Trương Tam Phong, thành thử không dám khinh suất, lập tức vận dụng Hàn Băng Miên Chưởng công phu ra chống đỡ. Hai người chưởng thế chậm dần, dần dần đi vào chỗ đấu nội lực.
Đột nhiên nghe vù một tiếng, từ cửa chính một vật đen xì ném thẳng vào gã đại hán. Vật đó xem ra còn to hơn một bao gạo, quả thật lạ kỳ thiên hạ làm gì có loại ám khí nào lớn đến thế. Đại hán chẳng biết vật gì liền vận kình đánh bật vật đó ra văng xa hơn một trượng. Chỉ nghe một tiếng “A” thảm khốc, thì ra đó là một cái bao trong đó có người, kẻ đó bị một chưởng mãnh liệt vô luân của đại hán kia làm sao không đứt gân gãy xương cho được?
Đại hán kia còn đang ngạc nhiên, chưa hiểu ra sao, Vi Nhất Tiếu lập tức lẻn ra sau, lẳng lặng đánh ngay một Hàn Băng Miên Chưởng vào huyệt Đại Truy chính giữa hậu tâm y. Đại hán đó vừa giận vừa sợ, vội quay lại, hết sức đánh một chưởng lên đầu Vi Nhất Tiếu.
Vi Nhất Tiếu cười ha hả, không tránh né cũng không đỡ gạt. Chưởng của đại hán đó đến giữa chừng, cánh tay đột nhiên mềm nhũn không hơi sức, chưởng đó tuy đánh trúng thiên linh cái đối phương nhưng hoàn toàn không có một chút kình lực, chẳng khác gì để tay lên đầu. Vi Nhất Tiếu biết rằng một khi trúng phải Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực đối phương lập tức mất hết thế nhưng cao thủ đối chiến, ai dám cho địch đánh vào đầu mình, liều lĩnh như thế xưa nay chưa ai thấy, người đứng ngoài không khỏi toát mồ hôi.
Nếu đại hán kia có thuật chế ngự Hàn Băng Miên Chưởng, kình lực nhất thời chưa mất, chưởng đó đánh lên đỉnh đầu, làm sao khỏi nát sọ? Vi Nhất Tiếu suốt đời hành sự quá đản lạ lùng, những chuyện không ai dám làm, không chịu làm, chưa từng làm y càng khoái chí. Y thừa cơ đối phương phân tâm ra tay đánh lén, xem ra cũng không được quang minh chính đại, thế nhưng lại đám để cho địch thẳng cánh đánh vào đầu, thì tuy không quang minh chính đại thì cũng phải là lớn mật làm càn, đem sống chết ra đùa cợt.
Gã áo quần rách rưới liền xé chiếc bao, lôi ra một người, thấy y mặt đầy máu, đã bị đại hán nọ đánh một chưởng chết rồi. Kẻ đó mặc áo đen, chính là đồng bọn của họ, không hiểu vì sao lại bị bỏ trong bao vứt vào đây. Gã giận quá, quát lên:
- Đứa nào thập thò. ..
Nói chưa hết câu, một chiếc bao trắng đã chụp xuống đầu y. Y đề khí nhảy lùi lại, tránh được, thấy ngay một nhà sư mập mạp đứng ngay trước mặt đang cười hì hì, chính là Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc.
Chiếc túi Càn Khôn Nhất Khí của Thuyết Bất Đắc bị Trương Vô Kỵ làm vỡ trên Quang Minh Đính rồi, không có binh khí cầm tay, đành phải lấy mấy cái túi vải dùng tạm, dĩ nhiên không thể nào lợi hại như cái túi Càn Khôn đao kiếm chém không đứt kia được. Khinh công của y tuy không bằng Vi Nhất Tiếu, nhưng cũng ghê gớm lắm, trên đường lại không bị ngăn trở, chân trước chân sau đã đến ngay.
Thuyết Bất Đắc khom mình chào Trương Tam Phong nói:
- Tọa hạ Trương giáo chủ Minh giáo, nhà sư túi vải rày đây mai đó Thuyết Bất Đắc xin tham kiến chưởng giáo tổ sư Trương chân nhân của phái Võ Đương.
Trương Tam Phong hoàn lễ đáp:
- Đại sư đi đường xá xa xôi vất vả quá.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Các anh em tọa hạ của tệ giáo chủ gồm Quang Minh sứ giả, Bạch Mi Ưng Vương , Tứ Tản Nhân, Ngũ Hành Kỳ cùng nhân mã các lộ đều đã kéo đến núi Võ Đương. Xin Trương chân nhân xuôi tay đứng ngoài, để xem Minh giáo chúng tôi cùng bọn vô liêm sỉ mạo danh người khác quấy hôi bôi nhọ này so tài cao thấp.
Câu này của y chỉ là hư trương thanh thế, đại đội nhân mã của Minh giáo làm gì đến nhanh thế được. Thế nhưng Triệu Mẫn nghe rồi, đôi lông mày nhíu lại, nghĩ thầm: “Bọn chúng đến nhanh như thế là do kẻ nào tiết lộ cơ mật?”. Nàng nhịn không nổi buột miệng hỏi:
- Trương giáo chủ các ngươi đâu? Bảo y ra gặp ta.
Nói xong trừng mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, ánh mắt dường như có ý nghi ngờ, hỏi xem giáo chủ bây giờ ở đâu? Vi Nhất Tiếu cười ha hả nói:
- Thế bây giờ cô không mạo xưng nữa ư?
Y trong bụng cũng hỏi thầm :”Giáo chủ hẳn đã đến rồi, nhưng bây giờ đang ở đâu?”. Trương Vô Kỵ từ nãy đến giờ đứng nấp đằng sau Minh Nguyệt, biết rằng Vi Nhất Tiếu và Thuyết Bất Đắc chưa nhận ra mình, thấy có hai tay thuộc hạ đắc lực, bụng thật mừng rỡ.
Triệu Mẫn cười nhạt nói:
- Một con dơi độc, một nhà sư thối thì làm được trò trống gì?
Nói chưa dứt, bỗng từ góc mái nhà phía đông một chuỗi cười dài rồi có tiếng hỏi:
- Thuyết Bất Đắc đại sư, Dương tả sứ đã tới hay chưa?
Người đó tiếng nói vang dội, già dặn hào hùng, chính là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính. Thuyết Bất Đắc chưa kịp trả lời, tiếng cười của Dương Tiêu ở trên mái nhà phía tây đã vọng xuống vui vẻ nói:
- Ưng Vương, lão huynh đúng là càng già càng dẻo càng dai, đã đến trước đệ một bước.
Ân Thiên Chính cười đáp:
- Dương tả sứ không phải khách sáo làm gì, hai người mình cùng đến một lượt, chẳng ai hơn ai. Hẳn là tả sứ nể mặt Trương giáo chủ nên nhường mỗ đấy thôi.
Dương Tiêu nói:
- Đương nhân bất nhượng[6]. Tại hạ đã dùng hết sức mình, nhưng vẫn không thể nào nhanh được như Ưng Vương.
Hai người trên đường thi đua kình lực xem ai chạy nhanh hơn, nội lực Ân Thiên Chính cao thâm, còn bộ pháp của Dương Tiêu thì nhanh nhẹn nên khởi hành cùng một lượt, cùng đến một lần. Hai người cười ha hả, nhảy từ trên mái nhà xuống.
Trương Tam Phong đã nghe danh Ân Thiên Chính từ lâu, hơn nữa ông ta lại là nhạc phụ của Trương Thúy Sơn, còn Dương Tiêu thì là nhân vật nổi danh trên giang hồ, cho nên tiến lên ba bước, chắp tay nói:
- Trương Tam Phong cung nghinh Ân huynh, Dương huynh đại giá.
Trong bụng có điều không hiểu: “Ân Thiên Chính rõ ràng là giáo chủ Thiên Ưng Giáo, sao lại nói cái gì “nể mặt Trương giáo chủ” là sao?”.
Ân Dương hai người khom mình đáp lễ, Ân Thiên Chính nói:
- Đã từ lâu nghe tiếng của Trương chân nhân, nhưng chưa có duyên bái kiến, hôm nay được thấy tôn nhan, đúng là tam sinh hữu hạnh.
Trương Tam Phong nói:
- Hai vị đều là nhất đại tông sư, lại cùng đại giá quang lâm, quả thực là hiếm có.
Trong bụng Triệu Mẫn mỗi lúc thêm bực bội, thấy các cao thủ của Minh giáo càng lúc càng đông, tuy chưa thấy Trương Vô Kỵ xuất hiện nhưng e rằng lời của Thuyết Bất Đắc không phải dọa xuông, y quả đang đứng sau sắp xếp, bố trí một trận thế ghê gớm hơn. Kế hoạch của mình đã an bài đâu đấy, xem ra khó mà thành công, nhưng việc ám toán được Trương Tam Phong trọng thương là chuyện ngàn năm một thuở, không thể nào có lần thứ hai, hôm nay không đánh tan phái Võ Đương để sau này ông ta chữa khỏi rồi thì không còn cơ hội nào nữa.
Nàng liếc qua liếc lại đôi mắt đen nhánh, cười khẩy nói:
- Giang hồ vẫn truyền ngôn Võ Đương là danh môn chính phái nhưng tai nghe đâu bằng mắt thấy? Thì ra phái Võ Đương lén lút bắt tay với ma giáo, được ma giáo đỡ đầu, còn võ công bản môn chẳng đáng vào đâu.
Thuyết Bất Đắc nói:
- Triệu cô nương, nói như cô đúng là giọng điệu đàn bà, kiến thức con nít. Thời Trương chân nhân uy chấn võ lâm, chỉ sợ đến ông nội cô cũng chưa ra đời, thứ trẻ con như cô biết làm sao được?
Đằng sau Triệu Mẫn lập tức có mươi người hung hăng tiến ra, hầm hầm nhìn y. Thuyết Bất Đắc mặt nhơn nhơn, cười nói:
- Các ngươi bảo ta không được nói như thế phải không? Thì tên ta đã là “Thuyết Bất Đắc” mà. Cái gì nói được là ta nói, các ngươi làm gì ta đây?
Nhà sư gầy gò thủ hạ Triệu Mẫn giận dữ nói:
- Chủ nhân, để thuộc hạ giải quyết tên to mồm lắm miệng này.
Thuyết Bất Đắc kêu lên:
- Hay lắm, hay lắm. Ngươi là sư đi hoang, mà ta cũng lang thang không chùa, hai đứa mình làm một keo xem nào. Mời Võ Đương tông sư Trương chân nhân chỉ điểm những chỗ sai sót, còn hơn tự mình khổ luyện mười năm.
Nói xong hai tay vung ra, từ trong bọc lấy thêm một cái túi vải nữa. Người ngoài thấy y hết túi này đến túi khác, lấy mãi không hết, không biết dưới áo bào y còn dấu bao nhiêu cái túi nữa.
Triệu Mẫn khe khẽ lắc đầu:
- Hôm nay chúng ta lên đây học hỏi tuyệt nghệ của phái Võ Đương, phái Võ Đương vị nào hạ trường, chúng ta đều vui vẻ phụng bồi. Phái Võ Đương có chân tài thực học không, hay chỉ được cái tiếng hão, một trận hôm nay cả thiên hạ sẽ biết hết. Còn Minh giáo với chúng ta dây mơ rễ má thế nào, ngày sau tính sổ cũng chưa muộn. Tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ gian trá giảo quyệt, ta chưa rút được gân, lột được da y thì chưa tiêu được mối hận lòng, nhưng không gấp gì một hôm nay.
Trương Tam Phong nghe nói “tên tiểu quỉ Trương Vô Kỵ”, trong bụng lạ lùng: “Không lẽ giáo chủ Minh giáo tên là Trương Vô Kỵ thật? Thế nhưng sao lại “tiểu quỉ” là sao?”. Thuyết Bất Đắc cười khì khì nói:
- Trương giáo chủ bản giáo tuổi trẻ tài cao, Triệu cô nương e rằng còn kém bản giáo chủ vài tuổi, chi bằng lấy quách giáo chủ chúng tôi, hòa thượng này xem ra xứng đôi. ..
Y nói chưa hết câu, bọn người sau lưng Triệu Mẫn cùng gầm lên:
- Đừng nói láo.
- Câm mồm.
- Sư hoang nói thối lắm.
Triệu Mẫn hai má đỏ bừng, dung nhan càng thêm kiều diễm, thần sắc chỉ có ba phần tức giận nhưng đến bảy phần e ấp, một thủ lãnh quần hào oai nghi trong giây lát thành ngay một thiếu nữ thẹn thùng. Thế nhưng thần thái đó chỉ chớp mắt đã qua ngay, nàng lập tức trấn tĩnh, mặt trở lại lạnh như tiền, quay sang nói với Trương Tam Phong:
- Trương chân nhân, nếu ông không muốn ra tay, chỉ cần nói một câu thôi cũng đủ. Cứ nhận rằng phái Võ Đương trước nay chỉ bịp bợm tiếm danh, bọn ta sẽ vỗ tay đi ngay, bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cũng được thả về chẳng suy suyển một mảy.
Ngay lúc đó, Thiết Quan đạo nhân và Ân Dã Vương trước sau cùng đến, chẳng bao lâu thêm Chu Điên và Bành Oánh Ngọc cũng tới nơi, Minh giáo thế là có thêm bốn tay hảo thủ.
Triệu Mẫn đoán định tình hình, nếu hai bên quyết chiến, chưa chắc đã thắng ngay được, sợ nhất là Trương Vô Kỵ còn trong bóng tối ra tay gì chưa biết. Nàng đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người trong Minh giáo, nghĩ thầm: “Trương Tam Phong trở thành mối lo gan ruột của triều đình, chẳng qua chỉ vì có cái uy danh quá lớn, trong võ lâm ai ai cũng coi như Bắc Đẩu, Thái Sơn, nếu đối địch với triều đình thì võ lâm cũng không ai qui phục. Thế nhưng y già cả heo hắt như ngọn đèn trước gió, sống thêm được bao lâu? Hôm nay không cần phải giết lão, chỉ cần làm nhục một phen, cho tiếng tăm phái Võ Đương tiêu ma hết, thế cũng coi như thành công lớn rồi”. Nàng bèn lạnh lùng nói:
- Bọn ta đến thăm núi Võ Đương, chỉ muốn lãnh giáo võ công Trương chân nhân xem thật hay giả, nếu như muốn tiễu diệt Minh giáo, chẳng lẽ không biết tìm đường lên Quang Minh Đính? Việc gì phải tỉ võ trên núi Võ Đương, không lẽ trên đời này chỉ có một mình Trương chân nhân là có thể phẩm bình cao thấp, thắng bại hay sao? Thôi chuyện đó gác qua một bên. Trong nhà tôi có ba người giúp việc, một người luyện được vài ngày chút kiếm pháp giết heo, mổ chó, một người biết sơ qua chút ít nội công, còn một người thì học được vài miếng quyền mèo quào. A Đại, A Nhị, A Tam[7], ba người đứng ra đây! Trương chân nhân chỉ cần đánh bại được ba gia nhân vô tích sự của ta, thì mọi người sẽ bội phục võ công phái Võ Đương là thật chứ không phải giả. Còn không thì giang hồ sẽ có công luận, ta chẳng phải nói nhiều làm gì.
Nói xong nàng ta vỗ tay một cái. Chỉ thấy "A Đại" là một ông già mình hạc xác ve, hai tay bưng một thanh trường kiếm, chính là bảo kiếm Ỷ Thiên. Người đó vừa gầy vừa cao, mặt đầy nếp nhăn, dúm dó khổ sở, tưởng như mới bị ai chửi mắng, đánh đập một hồi, nếu không thì hẳn là vợ con mới chết, ai nhìn mặt y cũng thấy chạnh lòng muốn rơi nước mắt. "A Nhị" thì cũng gầy gò như thế, người hơi thấp hơn, đầu nhẵn thín, hói đến nỗi không còn một sợi tóc nào, hai bên huyệt thái dương tụt lõm xuống, sâu đến nửa tấc. Còn "A Tam" thì thân hình rắn rỏi chắc nịch, dềnh dàng có uy, trên mặt, cánh tay, cần cổ chỗ nào có bắp thịt cũng thấy cuồn cuộn săn chắc, tưởng như toàn thân đầy tinh lực muốn bật tung ra ngoài. Trên má trái y có một nốt ruồi đen, trên nốt ruồi có một sợi lông dài. Trương Tam Phong, Ân Thiên Chính, Dương Tiêu nhìn thấy hình dáng ba người này, trong bụng ai cũng kinh thầm.
Chu Điên nói:
- Triệu cô nương, ba người này đều là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm, Chu Điên này một tên đánh còn chưa lại, sao không biết thẹn đóng vai kẻ ăn người làm, đến đùa cợt với Trương chân nhân?
Triệu Mẫn nói:
- Có thực họ là cao thủ tuyệt đỉnh trong võ lâm không? Sao ta lại không biết? Thế tên bọn họ là gì?
Chu Điên tắc tị ú ớ, nhưng lập tức giả vờ cười ha hả, nói:
- Vị này là Nhất Kiếm Chấn Thiên Hạ Xu Mi Thần Quân, vị này là Đơn Khí Bá Bát Phương Ngốc Đầu Thiên Vương. Còn vị này ư, thiên hạ ai mà chẳng biết, ai mà không hay, hì hì, chính là. .. chính là. . Thần Quyền Cái Thế Đại Lực Tôn Giả.
Triệu Mẫn nghe y nói quấy nói quá, không khỏi cười khúc khích nói:
- Ba người ở nhà tôi nấu cơm pha trà, lau bàn quét rác, làm gì có thần quân, thiên vương, tôn giả nào ở đây? Trương chân nhân, xin ông tỉ quyền cước với A Tam trước.
"A Tam" tiến lên một bước, vòng tay nói:
- Xin mời Trương chân nhân.
Chân trái y dậm một cái, nghe lách cách một tiếng, ba miếng gạch vuông dưới chân đã nát vụn. Y dậm nát miếng gạch dưới chân không có gì lạ, nhưng lạ là hai miếng gạch hai bên cũng bị y dậm vỡ luôn. Dương Tiêu đưa mắt nhìn Vi Nhất Tiếu, hai người cùng nghĩ: “Tay này ghê thật”.
Hai tên còn lại "A Đại, A Nhị" từ từ lui về sau, vẫn cúi gầm mặt xuống, chẳng nhìn một ai. Ba người này từ khi vào trong điện, chỉ đứng sau lưng Triệu Mẫn, lúc nào cũng lặng lẽ cúi đầu, dáng điệu hèn mọn, không một ai thèm để ý, không ngờ vừa mới bước ra chẳng khác nào ngọn núi vươn ra khỏi vực sâu, có ngay khí phái của một đại tông sư, nhưng khi lui về, lại rụt rè co ro, trở lại dáng điệu một người đầy tớ.
Tri khách đạo nhân của phái Võ Đương Linh Hư từ nãy vẫn lo lắng cho thương thế của thái sư phụ, lúc này không còn nhịn nổi quát lên:
- Thái sư phụ ta vừa mới bị thương thổ huyết, các ngươi không thấy hay sao? Các ngươi sao lại. .. sao lại. ..
Nói đến đây, âm thanh nghẹn ngào muốn khóc. Ân Thiên Chính nghĩ thầm: “Thì ra Trương chân nhân đã bị thương thổ huyết, nhưng không biết bị ai đả thương. Dù cho ông ta còn khỏe mạnh thì tuổi tác đã cao, làm sao có thể tỉ quyền cước với gã kia cho được? Xem võ công người này, toàn là một đường cương mãnh, để ta ra thử xem nào”. Nghĩ thế ông cao giọng nói:
- Trương chân nhân thân phận thế nào mà lại động thủ với một kẻ ăn người ở? Nghe thế có tức cười không? Không nói gì đến Trương chân nhân, ngay cả họ Ân này, hừ hừ, thứ đầy tớ như ngươi không chịu nổi một quyền một cước.
Oâng biết rõ "A Đại, A Nhị, A Tam" đâu phải loại tầm thường, nhưng chê họ không đáng vào đâu cốt để buộc y đấu với mình. Triệu Mẫn nói:
- "A Tam", việc mới nhất của ngươi là việc gì? Nói cho họ nghe đi, xem có xứng để đấu với cao nhân phái Võ Đương không?
Nàng mỗi câu mỗi chữ đều nhấn mạnh hai tiếng “Võ Đương”. "A Tam" đáp:
- Tiểu nhân gần đây chẳng làm được chuyện gì, chỉ tại đường đi nơi mạn tây bắc quá chiêu với một hòa thượng chùa Thiếu Lâm tên là Không Tính, chỉ lực đấu với chỉ lực, phá được Long Trảo Thủ của y, tiện tay cắt luôn thủ cấp.
Câu đó nói xong, cả đại sảnh ai nấy đều rúng động. Không Tính thần tăng từng dùng Long Trảo Thủ đấu với Trương Vô Kỵ trên Quang Minh Đính, có hồi đã chiếm thượng phong, người trong Minh giáo ai ai cũng chứng kiến, không ngờ táng mạng trong tay gã này. Với thân phận giết được Thiếu Lâm thần tăng đã có thể đấu tay đôi với Trương Tam Phong được rồi.
Ân Thiên Chính lớn tiếng nói:
- Được lắm, đến cả Không Tính thần tăng của phái Thiếu Lâm cũng bị ngươi giết chết, vậy để cho họ Ân này đấu với ngươi một phen, cũng là một việc thật thú vị.
Nói xong tiến lên hai bước, xoải chân xuống tấn, lông mày trắng dựng ngược thần uy lẫm lẫm.
"A Tam" nói:
- Bạch Mi Ưng Vương, nhà ngươi là tà ma ngoại đạo, còn "A Tam" này thì cũng ngoại đạo tà ma. Hai chúng ta cũng cùng một “lò”, phe mình lẽ nào đánh phe ta. Nếu ngươi thích đánh thì cứ định ngày trước rồi sẽ đấu một phen. Hôm nay chủ nhân chỉ ra lệnh cho ta thử xem phái Võ Đương võ công hư thực thế nào.
Y quay sang nói với Trương Tam Phong:
- Trương chân nhân, nếu như ông không muốn hạ trường, chỉ cần nói một câu là xong, bọn ta không ngang ngược ép uổng gì đâu. Phái Võ Đương chỉ cần nhận thua là được, không lẽ bọn ta nhất định phải lấy mạng ông hay sao?
Trương Tam Phong mỉm cười, nghĩ thầm tuy mình đang bị thương nặng nhưng nếu thi triển thượng thừa pháp môn “dĩ hư ngự thực” trong pho Thái Cực Quyền mới sáng chế, chưa chắc y đã thắng được. Cái khó là sau khi đánh bại "A Tam" rồi, tên "A Nhị" thể nào cũng lên đấu nội công, cái đó không thể nào khôn khéo gì được, cửa ải đó khớ mà có thể vượt qua. Thế nhưng sự việc như lửa cháy lông mày, tình thế trước mắt, chỉ có cách đánh bại tên "A Tam" đã rồi tính sau.
Nghĩ thế ông từ từ đi ra giữa điện, quay sang nói với Ân Thiên Chính:
- Mỹ ý của Ân huynh, bần đạo xin tâm lãnh. Bần đạo mấy năm gần đây có sáng tạo được một môn quyền thuật, gọi là Thái Cực Quyền, tự biết không giống như những ngành võ học khác. Vị thí chủ này nếu muốn ấn chứng công phu phái Võ Đương, nếu như Ân huynh đánh bại y, y sẽ không cam lòng. Vậy bần đạo đem vài chiêu số trong pho Thái Cực Quyền ra đấu xem sao, cũng là dịp tốt để bần đạo được trình cho các vị xem pho quyền nhiều năm tâm huyết này.
Ân Thiên Chính nghe thế, vừa vui mừng, vừa lo lắng, nghe giọng ông nói đến Thái Cực Quyền đầy vẻ tự tin. Trương Tam Phong là hạng người thế nào, đã nói như thế, hẳn đã có chủ định, đâu lẽ làm mất cả thanh danh một đời? Thế nhưng ông vừa bị thương thổ huyết, chỉ e quyền kỹ tuy tinh, nội lực lại không chịu nổi. Ông không tiện nói thêm, chỉ còn nước vòng tay nói:
- Vãn bối cung kính đứng ngoài chiêm ngưỡng thần kỹ của Trương chân nhân.
"A Tam" thấy Trương Tam Phong vẫn thản nhiên hạ trường, trong bụng nẩy sinh ba phần khiếp sợ nhưng chuyển niệm nghĩ ngay: “Hôm nay ta chỉ hết sức cùng lão đạo sĩ già này lưỡng bại câu thương”, cũng đã rúng động võ lâm rồi. Nghĩ thế y nín thở ngưng thần, hai mắt chăm chăm nhìn vào mặt Trương Tam Phong, lẳng lặng vận nội tức, xương cốt toàn thân chuyển động nghe răng rắc, phát ra tiếng lốp bốp không ngừng. Mọi người thấy thế ai nấy đều kinh ngạc, biết đây là võ công tối thượng thừa của Phật môn chính tông, trông tưởng ngoại hình mà thực sự là nội công, không nhuốm chút tà khí nào, chính là Kim Cương Phục Ma thần thông.
Trương Tam Phong thấy y như thế, cũng phải kinh hãi: “Người này lai lịch không phải nhỏ. Không biết pho Thái Cực Quyền của ta có đối phó nổi chăng?”. Nghĩ rồi ông từ từ giơ hai cánh tay lên, ý muốn nhường "A Tam" tiến chiêu.
Đột nhiên một tiểu đạo đồng đầu bù tóc rối, mặt mày nhem nhuốc từ đằng sau Du Đại Nham chạy ra, nói:
- Thái sư phụ, vị thí chủ này nếu muốn biết quyền kỹ của phái Võ Đương ta thì việc gì phải mất công thái sư phụ đại giá? Để đệ tử diễn vài chiêu cho y xem, cũng đã đủ rồi.
Đạo đồng mặt mũi dơ dáy kia chính là Trương Vô Kỵ. Cả bọn Ân Thiên Chính, Dương Tiêu cùng chàng chia tay chưa bao lâu, tuy lúc này hình dáng, quần áo hoàn toàn thay đổi, nhưng chỉ nghe giọng nói, lập tức nhận ra ngay. Quần hào Minh giáo thấy giáo chủ đã ở đây tự bao giờ, ai ai cũng mừng rỡ.
Thế nhưng Trương Tam Phong và Du Đại Nham làm sao nghĩ ra được? Trương Tam Phong nhìn không rõ diện mạo của chàng, nhưng theo áo quần trên người chỉ đoán là Thanh Phong, liền nói:
- Vị thí chủ này chuyên về Kim Cương Phục Ma ngoại công của phái Thiếu Lâm, hẳn là một cao thủ của Thiếu Lâm Tây Vực. Còn trẻ như con chỉ một chiêu là đã nát xương đứt gân, đâu phải chuyện đùa.
Trương Vô Kỵ tay trái nắm chéo áo Trương Tam Phong, tay phải cầm bàn tay ông lắc nhè nhẹ, nói:
- Thái Cực Quyền thái sư phụ dạy cho con, con chưa hề dùng đến, cũng chẳng biết có được hay không. May quá có vị thí chủ đây là ngoại gia cao thủ, xin để con ra đấu xem nhu có khắc nổi cương không, hư có chế ngự được thực không, chẳng hay lắm ư?
Trong khi nói, chàng vận dụng Cửu Dương thần công đưa một luồng khí cực kỳ hồn hậu, cực kỳ nhu hòa theo bàn tay truyền vào cơ thể Trương Tam Phong. Trong một sát na, Trương Tam Phong thấy một luồng lực đạo vô cùng mạnh mẽ theo lòng bàn tay đi vào mình, tuy còn kém xa nội lực của ông về mặt tinh thuần chuyên nhất, nhưng hàng hàng lớp lớp, liên miên bất tuyệt dường như không bao giờ dứt, không bao giờ cùng. Ông kinh hoảng, định thần nhìn kỹ mặt Trương Vô Kỵ, thấy mắt chàng không lộ quang hoa, chỉ ẩn dấu một nét trong sáng, ôn hòa, hiển nhiên đã đạt tới cảnh giới tuyệt đỉnh, bình sinh ông gặp chỉ có vài người như bản sư Giác Viễn đại sư, đại hiệp Quách Tĩnh là đạt đến cảnh giới này thôi. Còn đương thời, ngoại trừ chính ông ra, không tìm ra một người thứ hai có mức độ tương đương. Trong nháy mắt, lòng ông rộn lên bao nỗi hồ nghi, nhưng nội lực của thanh niên này truyền vào rõ ràng để giúp ông trị thương, quyết không phải vì ác ý, vì nhất thời chưa nghĩ ra, ông mỉm cười đáp:
- Ta tầm thường lẩm cẩm, có được công phu gì dạy cho con đâu? Con muốn lãnh giáo công phu ngoại môn tuyệt đính của vị thí chủ này thì cũng được, nhưng phải cẩn thận.
Oâng chỉ đoán rằng tiểu đạo đồng là một thanh niên cao thủ của một môn phái nào đến tiếp viện, cho nên trong ngôn ngữ có phần khiêm tốn nể nang. Trương Vô Kỵ đáp:
- Thái sư phụ đối với hài nhi ơn nặng như non, dù hài nhi có tan xương nát thịt cũng chưa trả nổi đại ân của thái sư phụ và các sư bá sư thúc. Phái Võ Đương ta tuy võ công không dám nói là thiên hạ vô địch nhưng quyết không thua môn hạ của Tây Vực Thiếu Lâm, thái sư phụ cứ yên tâm.
Mấy câu đó chàng nói hết sức thành khẩn, những chữ “thái sư phụ” ra khỏi cửa miệng thật là tự nhiên, không một chút ngập ngừng khiến Trương Tam Phong cũng ngạc nhiên: “Hay là y đúng là đệ tử bản môn thật, bí mật cố công tập luyện, chẳng khác gì bản sư Giác Viễn năm xưa?”. Oâng nhẹ nhàng thả tay Trương Vô Kỵ ra, lùi lại chỗ cũ, ngồi xuống ghế, đưa mắt nhìn Du Đại Nham, thấy người học trò cũng ngơ ngẩn không hiểu ra sao.
"A Tam" thấy Trương Tam Phong để một tiểu đạo đồng xuất chiến, có thể nói là khinh miệt coi thường mình đến cực điểm, định bụng sẽ đánh một quyền chết tươi đối phương, khích cho lão đạo thảng thốt bồn chồn, rồi sẽ cùng ông ta động thủ, lúc đó sẽ dễ dàng chế thắng hơn. Nghĩ thế y không nói gì, chỉ nói:
- Thằng nhãi kia, ra chiêu đi.
Trương Vô Kỵ nói:
- Pho quyền thuật này là do thái sư phụ Trương chân nhân nhiều năm tâm huyết mới sáng tạo ra, tên gọi Thái Cực Quyền. Vãn bối mới học, chưa kịp tập luyện, không chắc đã lãnh ngộ được tinh yếu của quyền pháp, trong ba mươi chiêu e rằng không đánh ngã được các hạ. Nếu thế bởi vì tôi học nghệ chưa tinh, chứ không phải là vì pho quyền thuật này không hiệu quả, chuyện đó phải nói để các hạ biết trước.
"A Tam" không giận nổi mà phá ra cười, quay đầu lại nói với "A Đại", "A Nhị":
- Đại ca, nhị ca, trên đời này sao lại có một tiểu tử cuồng vọng đến thế nhỉ?
"A Nhị" cũng cười ha hả theo. Còn "A Đại" nhìn ra tiểu đạo đồng này không phải là kẻ đối phó dễ dàng nói:
- Tam đệ, chớ có khinh địch.
"A Tam" tiến lên một bước, nghe vù một tiếng, tay phải đánh thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Chiêu đó thần tốc như điện, quyền đến nửa chừng, quyền bên trái lại thành nhanh hơn, phát chiêu sau mà tới trước, đánh luôn vào mặt Trương Vô Kỵ, chiêu số kỹ thuật thật là kỳ quái, trên đời ít thấy.
Trương Vô Kỵ từ khi nghe Trương Tam Phong diễn giảng về nguyên lý Thái Cực Quyền, hơn một giờ liền, chàng chỉ suy nghĩ về quyền lý của pho quyền này, thấy quyền tay trái của "A Tam" đánh ra, lập tức sử chiêu Lãm Tước Vĩ [8] trong Thái Cực Quyền, chân phải thực, chân trái hư, vận dụng yếu quyết chữ “tễ”, nương theo đối phương, chưởng phải đã nắm được cổ tay trái của địch, vận kình đẩy ngang ra. "A Tam" thân hình lập tức bổ nhào về trước, loạng choạng liền hai bước mới đứng lại được. Người chung quanh thấy thế ai nấy đều kinh hãi kêu lên.
Chiêu Lãm Tước Vĩ này là chiêu đầu tiên từ khi pho Thái Cực Quyền được sáng tác ra đến nay mới có dịp dùng, Trương Vô Kỵ thân mang đầy Cửu Dương thần công, lại thiện dụng phép chuyển đổi trong Càn Khôn Đại Na Di, đột nhiên sử dụng yếu quyết chữ “niêm” trong Thái Cực Quyền, tuy học chưa đầy hai giờ nhưng cũng không kém gì người cả đời khổ luyện.
"A Tam" bị chàng “vuốt” một cái, kình lực nghìn cân của ngọn quyền như rơi vào biển cả, không còn thấy tăm hơi, chính mình cũng bị quyền kình lôi tới trước hai bước. Y trong cơn kinh hãi, trở thành tức giận liên tiếp đánh ra, tưởng như có hàng chục cánh tay, hàng chục nắm đấm cùng tung ra một lượt. Mọi người thấy y tấn công chẳng khác gì gió táp mưa sa, ai nấy nghĩ thầm: “Thảo nào một người cao cường như Không Tính đại sư mà cũng bỏ mạng dưới tay y”. Ngoại trừ đám đồng đảng đi theo Triệu Mẫn, ai ai cũng lo thầm cho Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ cố ý hiển dương uy danh phái Võ Đương nên chàng không sử dụng đến võ công của mình, mọi chiêu thức đều dùng pho Thái Cực Quyền do Trương Tam Phong sáng tạo như Đơn Tiên, Đề Thủ Thượng Thế, Bạch Hạc Lượng Sí, Lâu Tất Câu Bộ. Đến khi chàng ra chiêu Thủ Huy Tì Bà, tay phải lỏng ra, tay trái thu vào, trong nhất thời hiểu ngay được chỗ tinh vi áo diệu trong pho quyền nên chiêu này chàng sử dụng chẳng khác gì nước chảy mây trôi, cực kỳ nhàn nhã.
"A Tam" thấy thượng bàn bị song chưởng của chàng nhốt chặt như trong một cái lồng, không thể nào tránh né được, cũng không chống đỡ gì được, chỉ còn nước vận kình ra lưng, chịu cho chàng đánh một chưởng, đồng thời quyền bên phải đấm ra, cốt sao mỗi người chịu một chiêu, thành thế cả hai cùng chết, lấy đòn đổi đòn. Nào ngờ Trương Vô Kỵ hai tay vòng lại như ôm thái cực trong người, một luồng kình đạo vô cùng hồn hậu hợp thành một cơn gió lốc, lôi "A Tam" xoay luôn tại chỗ bảy tám vòng như con quay, khiến y phải vội vàng xuống tấn Thiên Cân Trụy mới đứng lại được nhưng cũng thẹn đến mặt đỏ gay, cực kỳ bẽ bàng.
Quần hào Minh giáo lớn tiếng reo hò. Dương Tiêu kêu lên:
- Công phu Thái Cực Quyền của phái Võ Đương thật là thần diệu quả thực khiến người ta được mở mắt.
Chu Điên cười nói:
- "A Tam" lão huynh, ta khuyên ngươi nên đổi tên đi, gọi là “A Chuyển”.
Ân Dã Vương nói:
- - Có quay thêm vài vòng cũng chẳng có gì xấu mặt, cổ nhân chẳng từng nói "Ba mươi sáu kế, kế xoay là hơn cả" đấy ư?
Thuyết Bất Đắc bồi thêm:
- Năm xưa hảo hán Lương Sơn Bạc có một người tên Hắc Toàn Phong, đã có gió lốc thì đương nhiên là xoay tít.
"A Tam" nghe xong tức giận đến mặt đang đỏ biến thành tím ngắt, rống lên một tiếng, nhảy chồm tới, tay trái lúc thì quyền lúc thì chưởng, biến ảo khôn lường, trong khi tay phải lại dùng thuần chỉ lực công phu, chộp cào đâm chọc, vồ cào cấu phất, năm ngón tay khi thì như phán quan bút, lúc lại như điểm huyệt quyết, như đao như kiếm, như thương như kích, thế công cực kỳ ác liệt.
Thái Cực Quyền của Trương Vô Kỵ chưa thuần thục, cho nên tay chân luống cuống, không ứng phó nổi, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, tay áo đã bị rách một đường, chỉ còn nước thi triển khinh công, vừa chạy vừa né tránh mới tạm thoát được công phu chỉ lực ghê gớm chưa từng thấy kia. "A Tam" hò hét đuổi theo, nhưng làm sao theo kịp khinh công phiêu dật của đối phương, chộp luôn mười trảo đều hụt cả.
Trương Vô Kỵ một mặt né tránh, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu ta chỉ chạy mà không đấu, chẳng hóa ra thua hay sao? Pho Thái Cực Quyền này ta chưa nhuần nhuyễn lắm, chi bằng sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công, đấu với y xem sao”. Chàng liền quay lại, hai tay ra chiêu Dã Mã Phân Tông[9] trong Thái Cực Quyền nhưng tay trái lại sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp. Một ngón tay phải của "A Tam" đâm vào đầu vai đối phương, nhưng không hiểu sao bị lôi kéo thế nào, nghe cạch một tiếng lại đâm ngay vào bên trái của chính mình, đau đến mắt nổ đom đóm, cánh tay dường như không nhắc lên nổi.
Dương Tiêu biết đó không phải là Thái Cực Quyền nhưng lập tức nói khỏa lấp đi:
- Thái Cực Quyền quả hay thực là hay.
"A Tam" vừa đau vừa tức, quát lên:
- Cái này là yêu pháp tà thuật, Thái Cực Quyền cái gì?
Vụt vụt vụt y đâm luôn ba chỉ. Trương Vô Kỵ tung mình tránh được, thấy "A Tam" lại vươn tay, hai ngón tay đâm tới chàng liền sử dụng Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, vừa kéo vừa dẫn, nghe cộp một tiếng, hai ngón tay của "A Tam" đâm luôn vào một cái cột gỗ lớn trong đại điện, lút tới tận gốc. Mọi người vừa tức cười, vừa kinh hãi.
Trong khi ai nấy đang cười ồ, bỗng có tiếng của Du Đại Nham cất lên:
- Khoan đã! Ngươi đang sử dụng Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm, phải không?
Trương Vô Kỵ tung mình nhảy qua, nghe thấy “Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm” lập tức nghĩ ra, Du Đại Nham bị thương vì Kim Cương chỉ lực, trong hơn hai mươi năm qua, phái Võ Đương vẫn vì việc này mà thâm thù phái Thiếu Lâm, xem ra hung thủ ngay tại trước mắt. Chỉ nghe "A Tam" cười khẩy nói:
- Kim Cương Chỉ Lực thì đã sao? Ai bảo ngươi cứng đầu, không chịu nói nơi dấu đao Đồ Long? Nếm mùi tàn phế hai mươi năm qua có thích không?
Du Đại Nham hậm hực nói:
- Cám ơn ngươi hôm nay nói ra chân tướng, thì ra thân ta tàn phế là do phái Tây Vực Thiếu Lâm hạ độc thủ. Chỉ đáng buồn. .. đáng buồn thay ngũ sư đệ ta.
Ông nói đến câu cuối, giọng nghẹn ngào. Năm xưa Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết chỉ vì Du Đại Nham bị Ân Tố Tố dùng ngân châm đả thương, không còn mặt mũi nào nhìn sư huynh. Thực ra Du Đại Nham trúng phải ngân châm rồi, Ân Tố Tố đã nhờ Long Môn tiêu cục đưa lên núi Võ Đương, chữa thuốc chừng một tháng là sẽ khỏi. Chân tay ông bị người bẻ gãy, chính là do độc thủ của Đại Lực Kim Cương Chỉ, nếu khi đó tìm được ra kẻ gây nên tội lỗi, vợ chồng Trương Thúy Sơn đâu đến nỗi chết thảm như thế?
Du Đại Nham thương cho sư đệ chẳng tội tình gì chết oan, lại hận cho mình thành người tàn phế, mắt như muốn tóe lửa ra ngoài. Trương Vô Kỵ chỉ nghe hai người đối đáp, lập tức minh bạch tiền nhân hậu quả. Khi còn nhỏ chàng đã từng nghe cha nói qua, nhà sư nấu bếp ở chùa Thiếu Lâm học lén võ nghệ, đánh chết thủ tọa Đạt Ma Đường là Khổ Trí thiền sư, các cao thủ trong phái Thiếu Lâm tranh chấp đến nỗi Khổ Tuệ thiền sư phải chạy sang Tây Vực, khai sáng phái Thiếu Lâm Tây Vực, xem ra gã này là truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư năm xưa.
Quả nhiên nghe Trương Tam Phong nói:
- Thí chủ bụng dạ thật là tàn ác, ta không ngờ trong những truyền nhân của Khổ Tuệ thiền sư, lại có một người như thí chủ.
"A Tam" cười gằn:
- Khổ Tuệ là cái quái gì thế?
Trương Tam Phong vừa nghe, lập tức hiểu ngay. Năm xưa khi Du Đại Nham bị Đại Lực Kim Cương Chỉ đả thương, phái Võ Đương đã cho người sang chất vấn phái Thiếu Lâm, chưởng môn phái Thiếu Lâm kiên quyết không nhận, nên cũng nghi là phái Thiếu Lâm Tây Vực. Thế nhưng nghe ngóng lâu năm biết phái này rất ít ỏi, đệ tử chuyên về nghiên cứu Phật học, không thông võ công, lúc này nghe "A Tam" nói một câu “Khổ Tuệ là cái quái gì thế?”, lập tức biết ngay nếu y là người của phái Thiếu Lâm Tây Vực, quyết không thể nào dám mở miệng nhục mạ tổ sư khai sáng, ông liền cao giọng nói:
- Thảo nào! Thảo nào! Thì ra thí chủ là truyền nhân của hỏa công đầu đà, không những học được võ công của ông ta, lại học luôn được cả tính tình độc ác âm hiểm. Thế gã gọi là Không Tướng gì gì đó, có phải là sư huynh đệ của thí chủ không?
"A Tam" đáp:
- Đúng đó. Y là sư đệ của ta, nhưng không phải tên là Không Tướng mà pháp danh Cương Tướng. Trương chân nhân, Bát Nhã Kim Cương chưởng của Kim Cương môn, so với chưởng pháp của phái Võ Đương thì thế nào?
Du Đại Nham hậm hực đáp:
- Kém xa thật là xa. Đầu y bị sư phụ ta đánh một chưởng, phọt óc chết ngay. Đánh trống qua cửa nhà sấm, thật đáng kiếp.
"A Tam" rống lên một tiếng, tung mình xông tới. Trương Vô Kỵ liền dùng chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền chặn y lại, nói:
- "A Tam", mau đưa Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao ra đây.
Vừa nói chàng vừa đưa tay ra. "A Tam" giật mình kinh hãi: “Tục cốt diệu dược của bản môn cực kỳ bí mật, ngay cả đệ tử tầm thường cũng chưa biết tên, tên tiểu đạo đồng này nghe ở đâu thế?”.
Y đâu biết trong Y Kinh của Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có chép là “Tây Vực có một lộ ngoại gia võ công, nghi là bàng chi của phái Thiếu Lâm, thủ pháp thật là quái dị, bẻ gẫy xương chân ta người ta, không có thuốc gì trị được chỉ có bí dược của chính họ là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao mới có thể cứu thôi, nhưng cao đó phương thuốc phối chế thế nào thì không truyền ra ngoài”. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chi tiết đó, thuận mồm nói ra, vốn chỉ thử xem có đúng không, nhưng thấy y biếc sắc liệu là mình đoán không sai, nên lớn tiếng nói:
- Đưa đây.
Chàng nghĩ đến cha mẹ chết thảm, lại thêm hai vị Ân Dư sư bá sư thúc bị tàn phế, hận không thể lập tức giết chết y, nhưng cũng không muốn nói thêm với y lời nào. Còn "A Tam" vừa rồi giao thủ với Trương Vô Kỵ tuy có lúc bị nguy hiểm đôi chút, nhưng khi sử dụng Đại Lực Kim Cương Chỉ thì đối phương chỉ có nước trốn tránh, không cách gì hoàn thủ. Y nghĩ thầm chỉ cần để ý đừng để bị thủ pháp cổ quái lôi kéo, đấu thêm nữa thể nào cũng thắng, nên tiến lên một bước, quát lớn:
- Thằng nhãi kia, ngươi quì xuống rập đầu cho kêu lạy ta ba lạy thì ta tha cho, nếu không thì cũng như tên họ Du kia thôi.
Trương Vô Kỵ nhất định lấy cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, nhưng đối phó với Kim Cương Chỉ thế nào, nhất thời chàng chưa nghĩ ra, Càn Khôn Đại Na Di tuy có thể làm y bị thương nhưng làm sao ép y đưa thuốc ra mới là khó. Còn đang trầm ngâm, Trương Tam Phong bỗng nói:
- Này con, con lại đây.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Thưa thái sư phụ, vâng.
Trương Tam Phong nói:
- Dùng ý chứ không dùng sức, cốt sao thái cực xoay vòng, không được để cho đứt đoạn. Nếu được như thế rồi, cái gốc của đối phương tự nhiên sẽ đứt. Mỗi chiêu mỗi thức, cần phải liền lạc với nhau, như sông dài biển rộng, chảy hoài không hết.
Oâng thấy Trương Vô Kỵ đối địch ra chiêu cũng đã phần nào thấu được cái tinh hoa của pho quyền, nhưng chỉ vì còn quá rạch ròi, quyền pháp minh bạch chiêu nào ra chiêu nấy nên không thể hiện được ý tứ bốn chữ “viên chuyển bất đoạn” (xoay vòng không đứt).
Trương Vô Kỵ võ công đã cao rồi, biết được nguyên lý của nó, nghe Trương Tam Phong nói mấy câu đó, lập tức lãnh ngộ ngay, liền nhẩm thử cái ý xoay vòng không đứt, âm dương biến hóa của pho quyền.
"A Tam" cười khẩy nói:
- Lâm trận học võ không trễ lắm sao?
Trương Vô Kỵ lông mày dựng lên, nói:
- Có kịp hay không, các hạ cứ thử thì biết.
Nói xong quay lại, tay phải vòng ra phía trước, nhắm ngay mặt "A Tam" đánh tới, chính là chiêu Cao Thám Mã trong Thái Cực Quyền. Năm ngón tay phải của "A Tam" lập tức chụm lại thành hình cương đao chém xuống, Trương Vô Kỵ biến thành chiêu Song Phong Quán Nhĩ, vẫn tiếp tục đánh cả hai tay. Biến chiêu đó đúng là lãnh hội được tinh nghĩa “viên chuyển bất đoạn” trong Thái Cực Quyền mà thái sư phụ vừa chỉ điểm, rồi khi thì vòng tay trái, khi thì vòng tay phải, hết vòng này tới vòng khác, vòng to, vòng nhỏ, vòng ngang, vòng dọc, vòng thẳng, vòng xéo, hết vòng nọ lại tới vòng kia liên tiếp, khiến cho "A Tam" phải lật đật lắc lư, chân đứng không vững chẳng khác nào người say rượu.
Đột nhiên năm ngón tay "A Tam" hết sức đâm tới, Trương Vô Kỵ liền sử chiêu Vân Thủ, tay trái cao, tay phải thấp thành một vòng tròn chặn ngay tay y lại, kình lực Cửu Dương thần công vận ra, chỉ nghe cắc một tiếng, cánh tay phải của "A Tam" cả trên lẫn dưới đều gãy rời. Cương kình của Cửu Dương thần công thật là ghê gớm, xương bả vai của "A Tam" gãy thành năm sáu mảnh, các đầu xương nát vụn, không còn thành hình thù gì nữa. Cứ riêng kình lực đó không thôi, pho Thái Cực Quyền lấy nhu kình làm chủ không thể nào bì kịp.
Trương Vô Kỵ hận y tàn ác, Vân Thủ chàng sử ra liên miên bất tuyệt, như một áng mây trắng bay ngang bầu trời, vòng tròn này chưa xong, vòng kế tiếp đã bắt đầu, lại nghe cắc thêm một tiếng nữa, cánh tay trái "A Tam" cũng gãy luôn, tiếp theo cắc cắc hai tiếng, cả hai bên đùi trái phải của y cũng gãy vụn. Trương Vô Kỵ trong đời động thủ cùng người, chưa bao giờ hạ độc thủ như thế, nhưng người này giết hại cha mẹ mình, là hung thủ làm khổ tam sư bá, lục sư thúc, nếu không phải vì còn cần Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì chàng đã hạ thủ đánh chết y rồi.
"A Tam" chỉ hự được một tiếng, đã nằm gục xuống, trong đám thủ hạ Triệu Mẫn một người liền vọt ra, ôm y lên quay về chỗ. Những người chung quanh thấy thần công của Trương Vô Kỵ như thế, ai nấy kinh hãi, ngay đến các cao thủ Minh giáo cũng ngơ ngẩn không kịp mở miệng hò reo.
Tên đầu hói "A Nhị" lập tức nhào ra, chưởng phải nhắm ngay ngực Trương Vô Kỵ tấn công. Chưởng của y chưa tới, Trương Vô Kỵ đã thấy tức ngực, vội vàng sử dụng chiêu Tà Phi Thế, dẫn lực đạo của y lệch qua một bên. Gã hói đầu đó chẳng nói chẳng rằng, hạ bàn vững chãi như đóng đinh xuống đất, chăm chăm hết chưởng này đến chưởng khác đánh ra, nội lực hùng hồn không ai sánh kịp.
Trương Vô Kỵ thấy chưởng pháp của y với "A Tam" cũng cùng một loại, nhìn tuổi tác hẳn là sư huynh của "A Tam", tuy không nhanh nhẹn bằng nhưng trầm ổn hơn nhiều, chàng liền sử dụng các chiêu thức niêm, dẫn, tễ, án trong Thái Cực Quyền định đẩy cho y nghiêng qua, nào ngờ người này nội lực quá mạnh, lại kéo chàng nhủi tới một bước.
Hùng tâm của Trương Vô Kỵ nổi lên, nghĩ thầm: “Để ta tỉ đấu với y một phen xem nội lực Tây Vực Thiếu Lâm kia mạnh, hay Cửu Dương thần công của ta ghê gớm hơn”. Chàng thấy chưởng của y đánh ra liền múa chưởng ra đỡ, đó là thuần lấy cứng chọi cứng, không có chút nào khéo léo gì ở bên trong. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, cả hai người đều lắc lư.
Trương Tam Phong “Ý” một tiếng, trong bụng kêu thầm: “Không xong, đánh kiểu thô lỗ này, ai mạnh người ấy thắng, hoàn toàn tương phản với quyền lý của Thái Cực. Gã hói đầu này nội lực hồn hậu, trong võ lâm quả ít thấy, chỉ e đấu thêm chưởng nữa, tiểu hài nhi sẽ bị trọng thương”.
Ngay lúc đó, chưởng thứ hai của đôi bên lại đụng nhau, nghe bình một tiếng, "A Nhị" thân hình lảo đảo, lùi lại một bước, còn Trương Vô Kỵ thản nhiên nhàn nhã vẫn đứng tại chỗ.
Cửu Dương thần công và nội công của phái Thiếu Lâm nếu luyện đến cảnh giới tối cao, có thể nói không bên nào kém bên nào. Thế nhưng sáng phái tổ sư hỏa công đầu đà của Kim Cương Môn bên Tây Vực là người học lén võ công của chùa Thiếu Lâm. Quyền cước binh khí thì học trộm được, còn nội công là cách vận chuyển khí tức trong cơ thể, dù có trông thấy người ta đả tọa tĩnh tu mười năm, tám năm, cũng không sao hiểu được phương pháp điều quân thế nào, dẫn các đường chân khí đi ra sao? Thành ra ngoại công y cớ thể bắt chước, còn nội công thì không sao học lóm được. Kim Cương Môn ngoại công rất mạnh không kém gì Thiếu Lâm chính tông, còn nội công thì thua xa không thể nào bằng.
"A Nhị" là một dị nhân trong môn phái Kim Cương, vốn có thần lực trời sinh, từ ngoại công biến ngược trở lại thành nội công, đi theo một đường riêng luyện thành một người nội công cực kỳ thâm hậu, tài năng còn hơn xa cả tổ sư hỏa công đầu đà năm xưa, có thể coi là trời cho. Dưới song chưởng của y, rất ít ai đỡ nổi ba chiêu, lúc này đánh theo kiểu tay ngang, nhưng lại bị chưởng lực của Trương Vô Kỵ đẩy lùi một bước.
Y vừa giận vừa sợ, hít một hơi dài, hai chưởng cùng đánh ra, nhắm thẳng vào Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ân lục thúc, chú xem cháu rửa hận cho chú đây.
Thì ra khi đó Ân Lê Đình đang được Dương Bất Hối, Tiểu Siêu hộ tống, do hai tên giáo chúng Minh giáo dùng cáng khiêng, vừa tới núi Võ Đương. Trương Vô Kỵ vừa quát lên, chưởng phải đánh ra, nghe bình một tiếng lớn, gã hói đầu phải lùi liên tiếp ba bước, hai mắt lồi ra, khí huyết trong ngực trộn trạo. Trương Vô Kỵ quát lớn:
- Ân lục thúc, trong đám vây đánh chú có tên đầu hói hay không?
Ân Lê Đình đáp:
- Chính hắn, tên này chính là đầu sỏ.
Chỉ thấy tên đầu hói "A Nhị" toàn thân xương cốt kêu lách cách mấy tiếng, chính đang vận kình. Du Đại Nham biết tên này nội lực cương mãnh, y vận nội công, chưởng lực sẽ không biết đâu mà lường, cực kỳ khó chống đỡ, kêu lên:
- Qua sông chưa xong, đánh vào giữa dòng.
Ý xúi Trương Vô Kỵ đừng đợi "A Nhị" vận kình hoàn thành, hãy tiến lên đánh cho y trở tay không kịp. Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng.
Chàng tiến lên một bước nhưng không ra tay. "A Nhị" hay tay đẩy ra, một luồng lực đạo bài sơn đảo hải đánh tới. Trương Vô Kỵ hít một hơi, chân khí trong cơ thể lưu chuyển, hữu chưởng đánh ra, một tay đỡ một tay đón, đem toàn bộ chưởng lực đối phương hất trả lại. Hai luồng chưởng lực dồn lại làm một, "A Nhị" chỉ kêu lên được một tiếng, chẳng khác nào viên đá nằm trên nỏ bắn ra, nghe lách cách lách cách, thân hình y đụng vỡ tung bức tường, bay thẳng ra ngoài.
Ai nấy còn đang kinh hãi thất sắc, bỗng thấy một người theo lỗ hổng trên tường chui vào, xách "A Nhị" đặt ngay dưới đất. Người đó béo tròn lùn xủn như cái trống đá, hình dáng thật là tức cười nhưng thân pháp hết sức nhanh nhẹn, chính là chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ của Minh giáo Nhan Viên. Hai xương cánh tay, xương lồng ngực, xương đòn gánh, tất cả đều bị chưởng lực cương mãnh hồn hậu chấn động gãy nát. Nhan Viên bỏ "A Nhị" xuống đất rồi, khom lưng chào Trương Vô Kỵ, rồi lại theo lỗ hổng trên tường chui ra, luồn ra luồn vào, chẳng khác gì một con chuột chũi mập mạp.
Triệu Mẫn thấy tiểu đạo đồng liên tiếp đánh bại hai cao thủ hạng nhất của mình, vốn đã sinh nghi, lại thấy Nhan Viên hành lễ, nàng liền nhìn kỹ lập tức nhận ra ngay, tự trách mình: “Đáng chết thực, đáng chết thực. Ta vào trước là chủ, vẫn tưởng tên tiểu quỉ này ở ngoài bố trí, đâu ngờ y giả trang đạo đồng, ở đây phá bĩnh, làm hỏng hết việc của ta”.
Nghĩ thế nàng liền khinh khỉnh nói:
- Trương giáo chủ, sao giáo chủ không nghĩ đến thanh danh mà lại đi giả làm đứa tiểu đồng? Luôn mồm thái sư phụ nọ, thái sư phụ kia không biết thẹn hay sao?
Trương Vô Kỵ thấy nàng đã nhận ra mình, liền cao giọng đáp:
- Tiên phụ Thúy Sơn công chính là đệ tử thứ năm của thái sư phụ, tôi không gọi “thái sư phụ” thì gọi bằng gì bây giờ? Có gì mà thẹn hay không thẹn?
Nói xong chàng quay lại quì xuống khấu đầu trước Trương Tam Phong, nói:
- Hài nhi Trương Vô Kỵ, khấu đầu bái kiến thái sư phụ và tam sư bá. Sự việc cấp bách, không kịp bẩm rõ mọi điều, mong tha tội khinh mạn cho hài nhi.
Trương Tam Phong và Du Đại Nham vừa mừng vừa lo, không thể nào ngờ thanh niên đánh bại hai cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực, lại chính là đứa bé ốm o, chết đi sống lại ngày nào. Trương Tam Phong cười ha hả, đưa tay đỡ dậy, nói:
- Hảo hài tử, con chưa chết, Thúy Sơn đã có người nối dòng.
Trương Vô Kỵ võ công trác tuyệt, cũng chỉ là thứ yếu, việc Trương Tam Phong mừng hơn cả chính là vì vẫn tưởng chàng chết rồi, không ngờ vẫn còn sống, thành thử đúng là trời cho, lòng như mở cờ trong bụng, quay đầu sang nói với Ân Thiên Chính:
- Ân huynh, chúc mừng Ân huynh có được đứa cháu ngoại thế này.
Ân Thiên Chính cười đáp:
- Trương chân nhân, chúc mừng Trương chân nhân dạy được một đồ tôn giỏi là dường ấy.
Triệu Mẫn trả miếng liền:
- Cái gì mà hảo ngoại tôn, hảo đồ tôn. Hai lão già sống dai, dạy được một tên tiểu quỉ gian trá giảo hoạt. "A Đại", ngươi ra thử kiếm với y xem nào!
Kẻ mặt mày sầu khổ "A Đại" kia liền lớn tiếng đáp: “Vâng”, nghe soẹt một tiếng rút phắt thanh Ỷ Thiên kiếm, mọi người chỉ thấy ánh sáng xanh lè, dường như có một làn khí lạnh tỏa ra, đúng là một thanh kiếm tốt. Trương Vô Kỵ nói:
- Kiếm này là sở hữu của phái Nga Mi, sao lại ở trong tay cô được?
Triệu Mẫn hứ một tiếng nói:
- Tiểu quỉ, ngươi biết gì mà nói? Diệt Tuyệt lão ni ăn cắp thanh kiếm này của nhà ta, bây giờ vật về chủ cũ, kiếm Ỷ Thiên có liên quan gì đến phái Nga Mi đâu?
Trương Vô Kỵ đâu có biết lai lịch của thanh kiếm Ỷ Thiên ra thế nào, bị nàng hỏi vặn ngược lại, không biết trả lời ra sao, bèn đánh trống lảng qua chuyện khác, nói:
- Triệu cô nương, xin cô cho tôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, để tôi trị dứt xương gãy cho tam sư bá và lục sư thúc, mọi sự đã qua chúng ta bỏ đi không nói đến nữa.
Triệu Mẫn nói:
- Hừ, bỏ qua chuyện cũ? Nói dễ nghe nhỉ? Thế ngươi có biết Không Văn, Không Trí của phái Thiếu Lâm, cùng bọn Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu của phái Võ Đương, hiện nay đang ở đâu không?
Trương Vô Kỵ lắc đầu:
- Tôi không biết. Mong cô nương chỉ rõ.
Triệu Mẫn cười khẩy nói:
- Việc gì ta phải nói cho ngươi nghe? Ta chưa chém ngươi thành muôn mảnh thì chưa trả được cái tội khinh bạc làm nhục hôm trước ở trong cương lao tại Lục Liễu Sơn Trang.
Nàng nói tới mấy tiếng “khinh bạc làm nhục”, nghĩ đến tình cảnh ở trong hầm tối, không khỏi mặt đỏ lên, vừa tức vừa thẹn.
Trương Vô Kỵ nghe tới chuyện “khinh bạc làm nhục” cũng bẽn lẽn, nghĩ đến việc hôm đó vì phải cứu quần hào Minh giáo bị trúng độc, việc đang khẩn cấp thành ra phải giở hạ sách, dùng tay cù gan bàn chân nàng, tuy không có ý trăng hoa, nhưng nam nữ thụ thụ bất thân, dẫu phải tòng quyền, cũng chưa nói với ai, nhưng nếu có người biết được chàng đùa dỡn với đàn bà con gái, thì thật than ôi. Thấy không cách gì biện bạch lúc này, chàng chỉ còn nước lảng qua:
- Triệu cô nương, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao cô có cho tôi hay không nào?
Triệu Mẫn liếc một cái, cười hì hì nói:
- Ngươi muốn có Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao, cũng chẳng có gì khó cả. Ngươi chỉ bằng lòng nhận làm ba điều, ta sẽ hai tay dâng lên ngay.
Trương Vô Kỵ hỏi dồn:
- Ba chuyện gì thế?
Triệu Mẫn đáp:
- Ba điều đó bây giờ ta chưa nghĩ ra. Sau này khi nào nghĩ ra được, nói điều nào thì ngươi làm điều đó.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cái đó sao được? Chẳng lẽ cô bảo tôi tự sát, hay bảo tôi làm heo làm chó, tôi cũng phải theo hay sao?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Ta không bảo công tử tự sát, cũng không bảo công tử làm heo làm chó, nhưng đã nhận lời thì sau đừng có chối.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô nói cho tôi nghe trước đi, nếu như không vi phạm đạo hiệp nghĩa, mà tôi có thể làm được, thì tôi sẽ làm cho cô nương.
Triệu Mẫn đang toan trả lời, nhìn qua bỗng thấy trên mái tóc của Tiểu Siêu có đính một bông hoa kết bằng ngọc trai, chính là đóa hoa nàng tặng cho Trương Vô Kỵ, lập tức nổi giận, lại thấy Tiểu Siêu mắt sáng miệng tươi, mặt mày rạng rỡ, tuổi tuy còn nhỏ nhưng đã mơn mởn như một đóa phù dung, thật là dễ thương, trong bụng càng bực bội, liền nghiến răng nói với "A Đại":
- Ra chém đứt hai cánh tay tiểu tử họ Trương cho ta.
"A Đại" đáp lời: “Vâng”, tay cầm kiếm Ỷ Thiên tiến lên một bước, nói:
- Trương giáo chủ, chủ nhân ra lệnh, sai tại hạ chém hai cánh tay của giáo chủ đó.
Chu Điên trong bụng ấm ức đã lâu, lúc này không nhịn nổi, ngoạc mồm chửi ngay:
- Con mẹ mày nói nghe thối quá, sao ngươi không chém chính tay mình đi có được không?
"A Đại" mặt mày sầu khổ, nhăn nhăn nhó nhó nói:
- Nói thế cũng hợp lý lắm.
Chu Điên nghe thế như mở cờ trong bụng, lớn tiếng nói:
- Thế thì mau chặt tay đi.
"A Đại" đáp:
- Chẳng đi đâu mà vội.
Trương Vô Kỵ thấy hơi lo, thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén dị thường, binh khí nào đụng phải cũng gãy ngay, chỉ còn một nước dùng Càn Khôn Đại Na Di tay không đoạt binh khí của y, thế nhưng khi đưa tay vào gân thanh kiếm nếu như kiếm chiêu của y kỳ lạ, biến hóa không lường được, tay chàng dù chỗ nào đụng phải cũng sẽ đứt ngay. Chàng chưa biết phải đối địch cách nào, còn đang trù trừ, bỗng nghe Trương Tam Phong nói:
- Vô Kỵ, ta sáng tạo ra Thái Cực Quyền con đã học rồi, còn một pho Thái Cực Kiếm, để ta truyền cho con luôn, để dùng quá chiêu với vị thí chủ này.
Trương Vô Kỵ mừng rỡ đáp:
- Đa tạ thái sư phụ.
Chàng quay sang nói với "A Đại":
- Vị tiến bối kia, tôi kiếm thuật không tinh xảo, cần được thái sư phụ chỉ điểm thêm, sau đó sẽ đấu với ông.
"A Đại" vốn có lòng e ngại Trương Vô Kỵ, tuy có bảo kiếm trong tay chiếm được ưu thế, nhưng thắng được không cũng chưa biết, nghe chàng muốn học chiêu thức mới, thật mừng hết cỡ, nghĩ thầm kiếm chiêu mới học dù có tinh diệu đến đâu, không khỏi ngượng nghịu. Trong đạo kiếm, cốt nhất là nhẹ nhàng linh động, ít nhất cũng phải luyện một hai chục năm, khi lâm địch mới lòng muốn sao tay ra chiêu như thế, thuần thục tự nhiên. Y liền gật đầu, nói:
- Ngươi đi học chiêu, ta ở đây chờ. Học hai giờ liệu có đủ chưa?
Trương Tam Phong nói:
- Chẳng cần phải đi đâu xa, ta dạy ngay tại đây, Vô Kỵ học ngay ở đây, “hàng mới ra lò nóng hổi[10]”. Chẳng đến nửa giờ là dạy xong pho Thái Cực Kiếm.
Ông nói câu đó, ngoại trừ Trương Vô Kỵ ra, ai nấy kinh hãi, tưởng như không tin vào tai mình, nghĩ thầm: “Dù cho Thái Cực Kiếm pháp của phái Võ Đương áo diệu thần kỳ đến đâu, nhưng ở đây công nhiên dạy kiếm thuật, địch nhân nhìn thấy rõ ràng, thì còn gì gọi là bí áo nữa?”.
"A Đại" đáp:
- Thế cũng được, vậy ta ra ngoài điện đứng chờ.
Y chứng tỏ mình không muốn được lợi thế, dẫu là phận đầy tớ, nhưng hành vi chẳng khác gì một bậc tông sư trong võ lâm. Trương Tam Phong nói:
- Không cần phải vậy, pho kiếm pháp này ta mới sáng tạo ra, chẳng biết có dùng được không? Các hạ là danh gia kiếm thuật, chính mong được các hạ nhìn xem, chỉ cho những chỗ sơ hở, khiếm khuyết.
Lúc ấy Dương Tiêu bỗng chợt nghĩ ra, lớn tiếng hỏi:
- Thì ra các hạ chính là Bát Tí Thần Kiếm[11] Phương trưởng lão. Các hạ đường đường đứng đầu trong các trưởng lão Cái Bang, sao lại cam chịu làm đầy tớ cho người khác?
Quần hào Minh giáo nghe nói thế, ai nấy đều kinh hãi. Chu Điên hỏi:
- Ngươi chẳng phải đã chết rồi sao? Sao lại sống đây. .. cái đó. .. cái đó sao lại thế được?
"A Đại" thở dài một tiếng, cúi đầu nói:
- Lão hủ trăm lần chết cũng chưa đủ, chuyện đã qua chẳng nói làm gì nữa. Tại hạ không còn là trưởng lão Cái Bang từ lâu rồi.
Những người lớn tuổi một chút ai cũng biết Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch là người đứng đầu trong tứ đại trưởng lão của Cái Bang, kiếm thuật tinh kỳ, danh vang thiên hạ, nổi tiếng là xuất kiếm cực nhanh chẳng khác nào có bảy tám cánh tay nên được cái danh hiệu đó. Hơn mười năm trước, người ta nghe y bị bệnh nặng chết đi, khi đó ai cũng lấy làm tiếc, đâu ngờ vẫn còn sống đến ngày nay.
Trương Tam Phong nói:
- Pho Thái Cực Kiếm của lão đạo nếu được Bát Tí Thần Kiếm chỉ điểm cho vài chiêu thì thật là vinh hạnh. Vô Kỵ, con có mang kiếm không?
Tiểu Siêu liền tiến lên mấy bước, đưa cho ông thanh kiếm Ỷ Thiên giả bằng gỗ Trương Vô Kỵ lấy được của Triệu Mẫn. Trương Tam Phong cầm lên cười nói:
- Kiếm gỗ à? Lão đạo có vẽ bùa bắt quyết, trừ tà tróc quỉ đâu?
Ông đứng lên, tay trái cầm kiếm, tay phải thành hình kiếm quyết, hai tay ôm thành vòng tròn, từ từ đưa lên, đó là Khởi Thủ Thức, tiếp theo là Tam Hoàn Sáo Nguyệt, Đại Khôi Tinh, Yến Tử Sao Thủy, Tả Lan Tảo, Hữu Lan Tảo. .. từng chiêu một diễn ra, đến thế thứ năm mươi ba Chỉ Nam Châm, hai tay cùng vẽ thành hình tròn, vòng trở lại thành thức thứ năm mươi bốn Trì Kiếm Qui Nguyên.
Trương Vô Kỵ không ghi nhớ chiêu thức, chỉ nhìn kỹ những yếu chỉ “thần tại kiếm tiên, miên miên bất tuyệt[12]” trong kiếm chiêu mà thôi. Trương Tam Phong sử xong pho kiếm pháp, chẳng thấy một ai reo hò, người nào cũng đều thất vọng: “Thứ kiếm pháp chậm như rùa, mềm như bún thế này làm thế nào có thể dùng để ra chiêu đối địch?”. Nhưng lại nghĩ ngay "Chắc là Trương chân nhân cố ý múa kiếm thật chậm, cốt để cho giáo chủ có thể nhìn cho rõ".
Trương Tam Phong hỏi:
- Hài nhi, con có nhìn ra không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Con nhìn ra rồi.
Trương Tam Phong hỏi tiếp:
- Có nhớ được chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đã quên gần một nửa rồi.
Trương Tam Phong nói:
- Hay lắm, cũng thật khó cho con. Con tự mình suy nghĩ thêm đi.
Trương Vô Kỵ cúi đầu trầm tư, một lúc sau, Trương Tam Phong hỏi lại:
- Bây giờ ra sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đã quên mất quá nửa rồi.
Chu Điên thất thanh kêu lên:
- Ôi chao, càng lúc càng quên nhiều hơn. Trương chân nhân, lộ kiếm pháp này thâm áo quá, xem một lần làm sao nhớ được? Xin ngài diễn thêm một lần nữa cho giáo chủ chúng tôi xem lại.
Trương Tam Phong mỉm cười:
- Được, để ta biểu diễn lại một lần nữa.
Ông cầm kiếm ra chiêu, diễn lại lần thứ hai. Mọi người mới coi vài chiêu, trong bụng ai cũng lạ lùng, lần này không chiêu nào giống lần trước. Chu Điên kêu lên:
- Ôi chao, ôi chao, thế này thì càng làm cho người ta thêm rối trí.
Trương Tam Phong vạch kiếm thành vòng tròn, hỏi:
- Hài nhi, thấy thế nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Còn ba chiêu chưa quên được.
Trương Tam Phong gật đầu, quay về chỗ ngồi. Trương Vô Kỵ đi chầm chậm vòng quanh trong điện, trầm tư hồi lâu, lại đi thêm nửa vòng nữa, ngửng đầu lên, mặt rạng rỡ, kêu lên:
- Con đã quên hết rồi, quên không còn chút nào nữa rồi.
Trương Tam Phong nói:
- Khá lắm, khá lắm. Quên nhanh như thế, con có thể mời Bát Tí Thần Kiếm chỉ giáo được rồi.
Nói xong đưa thanh kiếm gỗ trong tay cho chàng. Trương Vô Kỵ khom mình tiếp lấy, quay lại nói với Phương Đông Bạch:
- Xin mời Phương tiền bối.
Chu Điên vò đầu bứt tai, cực kỳ lo lắng. Phương Đông Bạch vươn mình đâm ra nói:
- Xin mạo muội.
Chỉ thấy ánh sáng xanh lấp lánh, nghe vù một tiếng, nội lực mạnh chẳng kém gã "A Nhị" chút nào. Ai nấy rùng mình kinh hãi, nghĩ thầm dẫu y chỉ cầm một thanh đồng nát sắt rỉ, với nội lực như thế uy lực cũng không gì đương cự nổi, huống chi lại cầm bảo kiếm Ỷ Thiên sắc bén cắt vàng chặt ngọc. Hai chữ Thần Kiếm quả nhiên danh bất hư truyền.
Trương Vô Kỵ tay trái để xéo kiếm quyết, mộc kiếm đưa ngang qua, vạch thành nửa vòng tròn, đè luôn lên trên sống kiếm Ỷ Thiên, kình lực truyền vào, thanh bảo kiếm lập tức bị dìm xuống. Phương Đông Bạch khen:
- Hảo kiếm pháp.
Y lật cổ tay hất thanh kiếm, mũi kiếm liền ngóc lên đâm thẳng vào sườn bên trái của đối phương. Trương Vô Kỵ liền quay kiếm vòng về, nghe cách một tiếng, hai thanh kiếm đụng nhau, cả hai đều phi thân lùi ra ngoài. Thanh kiếm Ỷ Thiên trong tay Phương Đông Bạch rung động không ngừng, nghe tiếng u u hồi lâu chưa hết.
Hai thứ binh khí, một đằng là bảo kiếm, một đằng là kiếm gỗ, thế nhưng khi chạm vào nhau, hai bên không bên nào hơn bên nào. Chiêu đó của Trương Vô Kỵ đã “dùng cái cùn nhụt của mình, đụng vào chỗ không sắc bén của địch” chính là tinh áo của Thái Cực Quyền. Nên biết Trương Tam Phong truyền cho chàng là truyền “Kiếm Ý”, không phải “Kiếm Chiêu”, cho nên bao nhiêu kiếm chiêu chàng quên hết, chính là đã đạt được cốt tủy của kiếm pháp, đến khi lâm địch dùng ý mà ra chiêu, thiên biến vạn hóa, vô cùng vô tận.
Nếu như còn một hai chiêu không quên được, trong lòng sẽ vướng mắc, kiếm pháp sẽ không thể nào tinh thuần. Nguyên lý đó những cao thủ như Dương Tiêu, Ân Thiên Chính lờ mờ hiểu được, còn Chu Điên dẫu sao cũng kém một mức, khiến y phải lo lắng một hồi lâu.
Khi đó tiếng vi vút trong điện càng lúc càng mạnh, kiếm chiêu của Phương Đông Bạch lợi hại ghê gớm, lại thêm nội lực vô cùng hồn hậu, thanh kiếm cực kỳ sắc bén, ra chiêu thật là tinh diệu, ánh sáng xanh lập lòe, kiếm khí bao phủ, người trong điện tưởng như một khối tuyết đang di động trước mắt, tỏa ra một làn hơi lạnh thấu xương. Thanh kiếm gỗ của Vô Kỵ trong vòng hàn khí đó vạch thành vòng tròn, chiêu nào cũng thành vòng cung đâm ra, lại theo hình vòng cung thu về, trong lòng chàng không mảy may vương vấn, chỉ lấy ý mà vận dụng thanh kiếm, thanh kiếm gỗ tung ra chẳng khác nào một sợi tơ mỏng manh, quấn lấy thanh Ỷ Thiên kiếm. Thế nhưng sợi tơ ấy mỗi lúc một dày, tưởng chừng biến thành một khối bông, bao chặt lấy thanh bảo kiếm. Hai người đấu đến quá hai trăm chiêu, Phương Đông Bạch kiếm chiêu mỗi lúc một thêm trì trệ, thanh kiếm trong tay càng lúc càng nặng, từ năm cân, thành sáu cân, bảy cân. .. mười cân, hai chục cân. .. thỉnh thoảng vận kiếm tung ra không đủ kình lực, lại bị kiếm gỗ lôi đi mấy vòng.
Phương Đông Bạch càng đấu càng hoảng sợ, đến ba trăm chiêu mà hai lưỡi kiếm không đụng vào nhau, trong đời y chưa từng gặp phải bao giờ. Đối phương tưởng như tung ra một cái lưới lớn, thắt mình vào giữa. Phương Đông Bạch liên tiếp thay đổi đến sáu, bảy kiếm thuật khác nhau, tung hoành biến hóa, huyễn ảo vô cùng người chung quanh ai cũng phải hoa cả mắt. Còn Trương Vô Kỵ trước sau cũng chỉ vạch kiếm thành vòng tròn, người ngoài trừ Trương Tam Phong ra, không biết chàng ra chiêu đó là công hay thủ. Lộ Thái Cực Kiếm pháp này chỉ có đủ các loại vòng, cái to cái nhỏ, cái ngược, cái xuôi, cái thẳng, cái xéo, nếu nói là chiêu số, có thể nói chỉ có một chiêu, nhưng chiêu đó biến hóa khôn cùng.
Chỉ nghe Phương Đông Bạch hú lên một tiếng dài, râu tóc dựng đứng, kiệt tận toàn lực bình sinh nhằm thẳng trung cung đâm tới. Trương Vô Kỵ thấy thế đâm tới ác liệt thu kiếm về gạt, Phương Đông Bạch cổ tay hơi lắc, thanh kiếm Ỷ Thiên liền ngóc lên, nghe cạch một tiếng nhỏ, mũi kiếm gỗ đã gãy một khúc chừng sáu tấc. Thanh kiếm Ỷ Thiên không còn gì ngăn chặn đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ kinh hãi, kiếm quyết tay trái vung ra, hai ngón tay trỏ và giữa kẹp ngay vào thân thanh Ỷ Thiên kiếm, nửa thanh kiếm gỗ bên tay phải chém luôn xuống tay phải Phương Đông Bạch. Tuy chỉ là thanh kiếm gỗ, nhưng với Cửu Dương thần công vận vào cũng chẳng khác gì cương đao. Phương Đông Bạch vận lực vào cánh tay giật về, nhưng kiếm Ỷ Thiên đã bị đối phương kẹp chặt, như trong một chiếc kìm sắt không lay chuyển gì được. Trong tình cảnh đó, ngoại trừ buông kiếm nhảy vọt về sau, không còn cách nào khác.
Chỉ thấy Trương Vô Kỵ quát lên:
- Rút tay mau.
Phương Đông Bạch nghiến răng, không chịu buông, chỉ như một ánh chớp lóe lên, nghe chát một tiếng, một cánh tay của y đã bị thanh kiếm gỗ chặt đứt, không khác gì một thanh kiếm sắc bén. Phương Đông Bạch không chịu buông ra là đã có ý hi sinh cánh tay để bảo vệ binh khí, tay trái liền vươn ra chộp ngay không để thanh kiếm rơi xuống. Cánh tay đứt kia đã rời ra rồi, năm ngón tay vẫn khư khư giữ chặt thanh kiếm Ỷ Thiên. Trương Vô Kỵ thấy y dũng cảm như thế, bụng hơi ái ngại, lòng thấy ăn năn, không còn muốn tranh đoạt thanh kiếm của y nữa.
Phương Đông Bạch đi đến trước mặt Triệu Mẫn, khom lưng nói:
- Chủ nhân, tiểu nhân vô năng, cam chịu trách phạt.
Triệu Mẫn không nhìn đến y, lạnh lùng nói:
- Hôm nay ta nể mặt Trương giáo chủ của Minh giáo, tha cho phái Võ Đương.
Nàng phất tay một cái, ra lệnh:
- Thôi đi!
Các thủ hạ của nàng ẵm Phương Đông Bạch, gã hói đầu "A Nhị", "A Tam" đi ra khỏi điện. Trương Vô Kỵ kêu vói theo:
- Khoan đã, không để lại Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì đừng tính chuyện rời khỏi núi Võ Đương.
Chàng phóng mình tới, giơ tay ra chộp vào đầu vai Triệu Mẫn. Tay Trương Vô Kỵ còn cách người Triệu Mẫn chừng một thước, bỗng thấy có hai luồng chưởng phong vô thanh vô tức từ hai bên đánh tới, trước đó không có dấu hiệu gì, chàng giật mình kinh hãi, hai chưởng đẩy ra, tay phải đỡ chưởng đánh từ bên phải, tay trái đỡ chưởng đánh từ bên trái, bốn chưởng đụng nhau, chỉ thấy kình lực mạnh lạ thường, bên trong chưởng lực có một luồng hàn khí âm độc vô tỉ. Luồng hàn khí đó chàng thật là quen thuộc, chính là hơi lạnh làm chàng chết đi sống lại khi còn nhỏ, Huyền Minh thần chưởng.
Trương Vô Kỵ kinh hoảng, Cửu Dương thần công trong người lập tức nảy sinh, nhưng tiếp theo hai bên mạng sườn đã bị địch nhân đánh trúng mỗi bên một chưởng. Chàng chỉ kêu hự lên một tiếng, ngã ngửa về sau, thấy hai người tấn công mình là hai ông già cao gầy. Hai người ra hai chưởng bị Trương Vô Kỵ đỡ được, còn lại hai tay vô hình vô ảnh đánh luôn vào người chàng. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng giận dữ quát lên, tung mình xông tới. Hai lão kia lại múa chưởng đánh ra, bình bình hai tiếng, Dương Vi hai người lịch kịch lùi lại mấy bước, máu trong ngực trộn trạo, khí lạnh thấu xương. Hai lão già cũng lảo đảo. Người bên phải cười khẩy nói:
- Minh giáo tên tuổi là thế, hóa ra cũng chỉ có vậy.
Cả hai quay lại, hộ tống Triệu Mẫn ra đi.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Lấy ý của Hư Vân hòa thượng
[2] Lòng trống không, đỉnh đầu treo. Ngực thu vào, lưng ưỡn ra. Eo thả lỏng, mông trĩu xuống. Vai để chìm, khuỷu tay buông.
[3] Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần.
[4] Một trong những vị vua khai sáng nước Tàu, cũng như Hùng Vương nước ta.
[5] Người đời Tống, tự Tống Thụy, hiệu Văn Sơn, đỗ tiến sĩ đời Lý Tông, làm quan tới chức An Vũ Sứ Giang Tây. Khi quân Nguyên đánh nước Tàu, ông vâng chiếu cần vương đem quân chống lại quân Mông Cổ. Sau được cử đi sứ nhà Nguyên, ông bị giặc bắt. Đời Đoan Tông ông được phong Tín Quốc Công, lại đem quân đánh với Nguyên binh nhưng thế yếu bị cầm tù rồi bị giết, trong ngục có làm bài Chính Khí Ca rất nổi danh.
[6] Đương nhân bất nhượng ư sư (Gặp việc nhân thì không nhường thầy mà mình phải làm trước)
[7]A Đại, A Nhị, A Tam là những cái tên này rất thông dụng giống như ta gọi anh Hai, anh Ba ở miền Nam nhưng không nhất thiết chỉ có một nghĩa mà tùy tuổi tác có thể tương đương với thằng, chú, bác, ông. .. Tuy nhiên phần lớn dùng để chỉ một người vai vế thấp kém hay kẻ ăn người ở trong nhà. Người dịch lúc đầu toan dịch là chú Hai, chú Ba, chú Tư cho có vẻ Việt Nam vì những người này tuổi đã lớn, dịch là thằng nghe không ổn. Tuy nhiên về sau giữ nguyên tiếng Hán để khỏi thêm khó khăn. Độc giả có ý kiến hay đề nghị gì xin cho biết. Đa tạ.
[8] nắm đuôi con chim sẻ
[9] ngựa hoang dựng bờm
[10] Trương Tam Phong là người thích hoạt kê, hay đùa rỡn
[11] Thần Kiếm có tám cánh tay
[12] thần đi trước kiếm, liên miên không dứt
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #36  
Old 11-04-2012, 03:10 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 25

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 25

CỬ HỎA LIỆU THIÊN HÀ HOÀNG HOÀNG


Bừng bừng lửa thánh cháy lên,
Làm trai quyết chí báo đền núi sông.
Muôn người trên dưới một lòng,
Xua quân Hồ Lỗ đại công cáo thành.

Mọi người lo lắng Trương Vô Kỵ bị thương nên không đuổi theo, vội vàng xúm lại. Trương Vô Kỵ mỉm cười, xua tay, ý nói không sao cả, trong thân thể phát động Cửu Dương thần công, đẩy khí âm hàn của Huyền Minh thần chưởng ra ngoài. Trên đầu chàng như cái lồng hấp, những làn hơi trắng từng tia bay lên. Chàng cởi áo ngoài, hai bên mạng sườn có dấu hai bàn tay màu đen sậm. Cửu Dương thần công vận chuyển một hồi, hai bàn tay từ màu đen biến thành màu tía, từ màu tía biến thành màu tro, sau cùng biến mất không còn dấu vết gì nữa. Trước sau chỉ mất nửa giờ đồng hồ, khác hẳn trước kia mấy năm không khu trừ được âm độc của Huyền Minh thần chưởng, bây giờ khoảnh khắc là mất hẳn. Chàng đứng lên, nói:
- Lần này tuy hung hiểm thật, nhưng sau cùng chúng ta cũng biết được mặt mũi của kẻ đối đầu.
Khi Huyền Minh nhị lão đối chưởng với Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thì trước đó đã bị Cửu Dương thần công của Trương Vô Kỵ xung kích rồi, âm độc trong chưởng lực chưa được hai thành lúc bình thường, thế mà Dương Vi hai người phải ngồi đả tọa vận khí, một hồi thật lâu mới đẩy được hết âm độc ra. Trương Vô Kỵ quan tâm đến thương thế của thái sư phụ nhưng Trương Tam Phong nói:
- Hỏa công đầu đà nội công chẳng đáng gì, ngoại công tuy cương mãnh thật nhưng so với Huyền Minh thần chưởng thì còn kém xa, thương thế của ta không có gì đáng ngại.
Vừa lúc đó chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim Kỳ là Ngô Kình Thảo bước vào bẩm báo, tất cả địch nhân đến xâm phạm đã xuống núi rồi. Du Đại Nham liền sai tri khách đạo nhận dọn cỗ chay để mời quần hào Minh giáo. Trong bữa tiệc, Trương Vô Kỵ liền kể lại cho Trương Tam Phong và Du Đại Nham tất cả sự tình từ khi từ biệt tới bây giờ, ai nấy đều kinh hãi thở dài. Trương Tam Phong nói:
- Năm xưa cũng tại nơi điện Tam Thanh này, ta đã từng cùng một ông già trao đổi một chưởng, có điều là hồi đó y mặc giả làm quân Mông Cổ nên không biết là người nào trong hai người đó. Nói ra thật đáng hổ thẹn, cho đến hôm nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ kẻ đối đầu gốc gác thế nào.
Dương Tiêu nói:
- Không biết cô gái họ Triệu kia lai lịch thế nào mà sao cao thủ như loại Huyền Minh nhị lão cũng phải cam tâm để cho cô ta sai khiến.
Mọi người suy đoán đủ loại nhưng không biết rõ thế nào. Trương Vô Kỵ nói:
- Trước mắt có hai chuyện lớn phải làm. Việc thứ nhất là đi cướp Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho khỏi thương thế của Du tam sư bá và Ân lục sư thúc. Việc thứ hai là nghe ngóng tin tức nhóm Tống đại sư bá hiện nay ở đâu. Cả hai việc đó đều ở trong tay cô gái họ Triệu kia.
Du Đại Nham cười gượng nói:
- Ta tàn phế đã hai mươi năm, dù quả có tiên đan thần dược cũng trị không khỏi được đâu, lo việc cứu đại ca, lục đệ các anh em mới là cần.
Trương Vô Kỵ nói:
- Việc không thể trì hoãn, xin Dương tả sứ, Vi Bức Vương và Thuyết Bất Đắc đại sư ba vị đi cùng tôi xuống núi truy tìm tung tích địch nhân. Các chưởng kỳ phó sứ của Ngũ Hành Kỳ chia nhau ra đến các phái Nga Mi, Côn Lôn, Không Động và Nam Thiếu Lâm ở Phúc Kiến liên lạc với các phái, nghe ngóng tin tức. Xin ông ngoại và cậu đi xuống Giang Nam chỉnh đốn lại giáo chúng Thiên Ưng Kỳ. Thiết Quan đạo trưởng, Chu tiên sinh, Bành đại sư cùng các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ tạm thời ở lại núi Võ Đương, nghe lệnh thái sư phụ của tôi Trương chân nhân, ở giữa điều động hoạch định.
Chàng thuận miệng sắp đặt ngay trong bàn tiệc. Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu mọi người đều đứng dậy, khom lưng nhận lệnh. Trương Tam Phong lúc đầu còn ngờ rằng chàng trẻ quá, làm sao thống suất được quần hào, bây giờ thấy chàng phát hiệu ra lệnh, các đại hào kiệt trong võ lâm như Ân Thiên Chính, Dương Tiêu... đều nhất nhất tuân theo, trong lòng cực kỳ vui sướng nghĩ thầm: “Y học được Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm của ta chẳng qua chỉ do nội công có căn bản, ngộ tính cao, tuy cũng khó thật nhưng chưa phải thật là quí. Còn như y có thể quản thúc các đại ma đầu của Minh giáo, Thiên Ưng giáo đưa bọn họ đi lại con đường ngay thẳng, cái đó mới thực là một đại sự. Ôi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi, Thúy Sơn có người nối dõi rồi”. Nghĩ đến đây, ông không nhịn nổi vuốt râu mỉm cười.
Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu cả bọn ăn no rồi, lập tức từ biệt Trương Tam Phong xuống núi thám thính hành tung của Triệu Mẫn. Bọn Ân Thiên Chính tiễn đến ngoài núi mới quay lại. Dương Bất Hối lưu luyến không muốn rời xa phụ thân, đưa chân đến hơn một dặm. Dương Tiêu nói:
- Bất Hối, con về đi, cố gắng chăm sóc cho Ân lục thúc.
Dương Bất Hối đáp:
- Vâng.
Nàng đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, đột nhiên má đỏ bừng, nói nhỏ:
- Vô Kỵ ca ca, em muốn nói với anh đôi câu.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cả bọn ba người trong bụng cười thầm: “Hai người có tình thanh mai trúc mã[1], thể nào chẳng có vài lời muốn nói”. Lập tức gia tăng cước bộ, chạy xa một đoạn.
Dương Bất Hối nói:
- Vô Kỵ ca ca, anh đến đây.
Nàng nắm tay Vô Kỵ, đến ngồi xuống một tảng đá lớn bên sườn núi. Trương Vô Kỵ trong lòng nghi hoặc tự hỏi: “Ta và cô nàng biết nhau từ nhỏ, giao tình không phải tầm thường. Vậy mà lần này xa nhau lâu ngày không gặp, sao cô ta lại đối với mình thật là lạnh nhạt chẳng thân mật tí nào, bây giờ lại muốn nói chuyện?”.
Chỉ thấy Dương Bất Hối chưa mở miệng mặt đã đỏ bừng, cúi đầu lặng thinh. Một lúc lâu sau mới nói:
- Vô Kỵ ca ca, khi mẹ em mất có ủy thác cho anh lo lắng cho em, phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế!
Dương Bất Hối nói:
- Anh vạn dặm đường xa vời vợi, từ bờ sông Hoài đưa em đến Tây Vực giao tận tay cha em, đường đi bao nhiêu lần vào sinh ra tử, trăm cay nghìn đắng. Đại ân không thể đền đáp bằng lời, cái ơn nghĩa đó em chỉ để trong đáy lòng thôi, trước nay chưa nói với anh một lời nào.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cái đó có gì đáng nói đâu? Nếu như anh không đưa em đến Tây Vực, bản thân anh cũng không có những cơ duyên gặp gỡ, e rằng chất độc phát ra nay đã chết rồi.
Dương Bất Hối nói:
- Không, không đâu. Đại ca nhân hiệp rộng rãi, gặp việc gì rồi cũng phùng hung hóa cát. Vô Kỵ ca ca, em từ nhỏ không có mẹ, cha em tuy thân nhưng có nhiều điều em không thể nói với cha được. Đại ca là giáo chủ của bản giáo thật nhưng trong lòng em, em chỉ nghĩ anh như một người anh ruột thôi. Hôm đó trên Quang Minh Đính thấy anh lành lặn trở về, lòng em mừng không sao nói ra được, chỉ có điều em không tiện nói với anh, anh có giận em không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không đâu, đương nhiên là không giận.
Dương Bất Hối nói tiếp:
- Em đối với Tiểu Siêu thực hung ác, thực tàn nhẫn, chắc anh không vừa ý. Chỉ vì mẹ em chết thật thê thảm, đối với ác nhân, từ đó em lòng dạ thật cứng rắn. Về sau thấy Tiểu Siêu đối với anh thật tốt, em không còn ghét nó nữa.
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Con tiểu a đầu Tiểu Siêu quả thực có nhiều điều kỳ lạ, có điều anh thấy nó không phải là người xấu đâu.
Lúc này mặt trời đã ngả về phương Tây, gió thu mơn man thật mát mẻ. Dương Bất Hối vẻ mặt nhu tình vô hạn, sóng mắt long lanh, nói nhỏ:
- Vô Kỵ ca ca, anh nghĩ cha em và mẹ em có không nên không phải với Ân... lục thúc không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chuyện cũ rồi, mình không nên nhắc tới nữa.
Dương Bất Hối nói:
- Không đâu, đối với người ngoài thì chuyện đó đã quá lâu rồi, đến em nay cũng đã mười bảy tuổi rồi (?)[2]. Thế nhưng dù thế nào Ân lục thúc vẫn không quên được mẹ em. Bây giờ ông ta lại bị thương nặng, ngày đêm hôn mê, vẫn thường cầm tay em, không ngớt gọi: “Hiểu Phù, Hiểu Phù”. Ông ấy còn nói: “Hiểu Phù, em đừng bỏ anh. Chân tay anh gãy cả rồi, đã thành phế nhân, anh van em, đừng bỏ anh nhé, đừng làm ngơ không ngó ngàng gì đến anh”.
Nàng nói đến đây, nước mắt rưng rưng thật là khích động. Trương Vô Kỵ nói:
- Đó chẳng qua là lục thúc nói ra khi thần trí nửa mê nửa tỉnh, không có gì làm chắc chắn đâu.
Dương Bất Hối nói:
- Chẳng phải đâu. Anh không rõ nhưng em biết rõ. Khi ông ấy tỉnh táo rồi, mỗi lần nhìn em, ánh mắt và thần khí cũng vẫn như thế, có ý cầu khẩn em đừng bỏ ông ta, nhưng không dám nói ra lời đấy thôi.
Trương Vô Kỵ thở dài một tiếng, chàng biết rằng vị sư thúc này võ công tuy cao, tính tình lại thật yếu đuối. Hồi nhỏ chàng vẫn thường thấy chỉ một chuyện hết sức nhỏ nhặt cũng làm ông ta khóc một hồi, cái chết của Kỷ Hiểu Phù đối với ông thật là một biến cố lớn, bây giờ tứ chi lại gãy nát, dĩ nhiên ông ta tâm thần kinh hoảng bất an. Chàng bèn nói:
- Ngu huynh sẽ kiệt tận toàn lực tìm cách đoạt cho bằng được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để trị cho Tam sư bá và Lục sư thúc.
Dương Bất Hối nói:
- Mỗi lần Ân lục thúc nhìn em như thế, nghĩ lại em càng thấy cha em và mẹ em không phải, càng thấy ông ta đáng thương hơn. Vô Kỵ ca ca, em đã chính miệng bằng lòng với Ân... Ân lục thúc, chân tay ông ấy khỏi cũng thế, cả đời tàn phế cũng thế, em nguyện sẽ ở bên cạnh ông ấy mãi mãi, vĩnh viễn không rời xa ông ta.
Nàng nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng, thế nhưng thần thái vừa phấn khởi hớn hở, lại vừa thẹn thùng. Trương Vô Kỵ kinh hãi, không ngờ rằng nàng lại cả gan cùng Ân Lê Đình phó thác cuộc đời, nhất thời không biết phải phản ứng ra sao, chỉ ấp úng:
- Em... em...
Dương Bất Hối nói:
- Em đã nói chắc chắn như chém đinh chặt sắt là đã nhất định theo ông ta. Dù cho cả đời ông không cử động được thì em cũng sẽ hầu hạ bên giường, lo liệu việc ăn uống, nói chuyện vui cho ông ấy giải sầu.
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế nhưng cô...
Dương Bất Hối cướp lời:
- Chẳng phải vì em nhất thời khích động mà hứa thế với ông ấy đâu. Trên đường đi em đã suy nghĩ thật nhiều thật kỹ. Không những ông ấy không bỏ em được mà em cũng không bỏ ông ấy được. Nếu như ông ấy bị thương nặng không chữa nổi thì em cũng không sống được đâu. Mỗi khi em ở gần ông ấy, ông ấy say đắm nhìn em, em thấy sung sướng vô cùng. Vô Kỵ ca ca, khi còn bé chuyện gì em cũng kể cho anh nghe, em muốn ăn bánh nướng, cũng nói cho anh hay, trên đường đi muốn ăn kẹo cũng nói với anh. Khi đó mình làm gì có tiền để mua, nửa đêm anh vào lấy cắp của họ ra cho em, anh có còn nhớ không?
Trương Vô Kỵ nghĩ đến năm xưa khi chàng cầm tay cô ta dẫn đi tìm cha, hai anh em sống chết có nhau không khỏi chạnh lòng, hạ giọng nói:
- Anh nhớ chứ.
Dương Bất Hối cầm bàn tay chàng nói:
- Anh đưa cho em cái kẹo, em không nỡ ăn, cầm trong tay đi đường, ánh nắng chiếu vào kẹo chảy ra, em tiếc quá khóc mãi không thôi. Anh bảo để anh tìm cho em cái khác nhưng tiếc thay về sau đâu có tìm thấy loại kẹo đó nữa. Về sau anh mua cho em những cái kẹo vừa to vừa ngon, em không thích lại khóc nữa khiến anh bực mình quá mắng em là không biết nghe lời, có đúng không?
Trương Vô Kỵ mỉm cười nói:
- Anh mắng em anh đâu có nhớ.
Dương Bất Hối nói:
- Tính tình em cố chấp lắm, Ân lục thúc là chiếc kẹo đầu tiên em thích, em sẽ không thích cái kẹo nào thứ hai. Vô Kỵ ca ca, có khi em nghĩ thật là trẻ con, anh tốt với em như thế, mấy lần cứu em thoát chết, đúng ra em... em phải suốt đời hầu hạ anh mới phải. Thế nhưng em coi anh chẳng khác gì anh ruột, trong lòng em thương anh kính anh, thế nhưng đối với ông ta em thấy thương hại không để đâu cho xiết, mến ông ta không nói ra được. Ông ấy tuổi còn hơn gấp đôi em, lại là trưởng bối của em, người ta thể nào cũng cười em, cha em lại là kẻ thù không đội trời chung, em... em biết là không ổn... nhưng dù thế nào chăng nữa, em cũng sẽ nói với anh.
Nàng nói đến đây, không dám nhìn vào mặt Trương Vô Kỵ nữa, lập tức đứng dậy, chạy mất.
Trương Vô Kỵ nhìn lưng nàng khuất sau một sườn núi, trong lòng hoang mang, không biết tính sao, đứng ngơ ngẩn hồi lâu, rồi chạy đuổi theo ba người Vi Nhất Tiếu. Thuyết Bất Đắc và Vi Nhất Tiếu thấy khóe mắt chàng dường như có ngấn lệ, liếc Dương Tiêu mủm mỉm cười, ý như muốn nói: “Chúc mừng ngươi nhé, chẳng bao lâu nữa Dương tả sứ sẽ thành bố vợ của giáo chủ”.
Bốn người xuống khỏi núi Võ Đương. Dương Tiêu nói:
- Cô nương họ Triệu đó tiền hô hậu ủng, không phải chỉ đi một mình, muốn tìm tung tích nàng ta không có gì là khó. Chúng ta chia nhau ra bốn hướng đông tây nam bắc tra tìm, hẹn ngày mai đúng ngọ gặp nhau tại Cốc Thành. Tôn ý của giáo chủ ra sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Hay lắm, cứ như thế, để tôi đi về phương tây.
Cốc Thành nằm ở phía đông núi Võ Đương, chàng đi về hướng tây tra xét, có nghĩa là phải đi xa hơn những người kia một khúc đường. Chàng dặn tiếp:
- Võ công của Huyền Minh nhị lão rất là ghê gớm, ba vị nếu có gặp họ, nếu tránh được thì tránh, đừng một mình động thủ với họ làm gì.
Ba người vâng lệnh, lập tức hành lễ từ biệt, chia ra ba hướng đông nam bắc mà đi.
Về phía tây toàn là đường núi, Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy thật nhanh, chỉ hơn một giờ đã đến Thập Yển Trấn. Chàng ghé vào thị trấn kiếm một quán ăn gọi một tô mì, hỏi tiểu nhị hỏi xem có thấy một chiếc kiệu bọc gấm đoạn vàng đi qua không. Gã tiểu nhị đáp:
- Có chứ. Còn thêm ba người bệnh nặng, nằm trong võng khiêng theo nữa, đi về hướng Hoàng Long Trấn, mới chưa đến một giờ.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, nghĩ thầm bọn người này không thể đi nhanh, để khỏi tiết lộ hành tung của mình đến trời tối đuổi theo cũng không muộn. Chàng bèn tìm một nơi vắng lặng, nằm ngủ một giấc, đợi đến canh một mới thẳng hướng Hoàng Long Trấn mà đi.
Lúc đến trấn trời chưa tới canh hai, chàng náu mình dưới góc tường, thấy đường xa hoàn toàn yên tĩnh không một bóng người, nhưng ở một khách điếm lớn vẫn còn đèn đuốc sáng chưng. Chàng tung mình nhảy lên mái nhà, nhẩy vài cái, đã đến mái nhà bên cạnh khách điếm, nhìn quanh thấy ở bên ngoài đồng trống nơi bờ sông có một cái lều vải lớn, đằng trước đằng sau có người qua lại, canh gác thật nghiêm mật, nghĩ thầm: “Không lẽ Triệu cô nương lại ở nơi cái lều kia? Hình dáng nói năng cô ta chẳng khác gì người Hán, nhưng hành sự ngang tàng sảng khoái, có vài phần phong thái người Mông Cổ”. Khi đó người Nguyên cai trị Trung Hoa đã lâu, không hiếm những người Hán khá giả cố học cách của người Mông Cổ cho là vinh dự nên cũng không có gì là lạ.
Vô Kỵ đang tính toán làm sao đến gần cái lều đó được, bỗng nghe từ một cửa sổ nơi khách điếm vọng ra mấy tiếng rên. Chàng chợt động tâm vội nhảy xuống rón rén men đến cửa sổ, nhìn vào trong. Trong nhà có ba người nằm trên ba chiếc giường, trong đó hai người nhìn không rõ mặt. Người nằm gần cửa sổ hai tay hai chân đều quấn vải trắng chính là "A Tam", y xuýt xoa nho nhỏ xem chừng vết thương cực kỳ đau đớn. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chân tay y bị ta đánh gãy, thể nào cũng dùng linh dược bản môn là Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao để chữa trị. Lúc này nếu không cướp lấy thì còn lúc nào?”. Chàng lên đẩy tung cửa sổ, tung mình nhảy vào, một người đứng trong phòng kinh hãi kêu lên, vung chưởng đánh ra. Trương Vô Kỵ giơ tay chộp đầu quyền của y, tay phải điểm luôn vào huyện tê, quay lại nhìn thấy hai người nằm kia chính là gã đầu hói "A Nhị" và Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch. Còn người bị chàng điểm huyệt mặc trường bào vải xanh, tay còn cầm hai cái kim chắc là đang châm cứu cho ba người đỡ đau. Trên bàn để một cái bình màu đen, cạnh bình có mấy khối ngải cứu.
Trương Vô Kỵ cầm cái bình lên, mở nút ra ngửi, thấy một mùi cay nồng, cực kỳ hăng xông vào mũi. "A Tam" kêu lên:
- Có người đến cướp thuốc...
Trương Vô Kỵ ngón tay nhanh như gió điểm luôn á huyệt của cả ba người, mở băng của "A Tam" ra coi, quả nhiên tay chân y đều một màu đen, phủ một lớp cao mỏng. Chàng e ngại Triệu Mẫn ngụy kế đa đoan, cố ý để thuốc giả trong bình, để dụ cho mình tới nên vét tất cả thuốc cao trên người "A Tam" lẫn gã đầu hói "A Nhị" vào băng vải, thì dù thuốc trong bình có thể giả nhưng thuốc từ ngay vết thương của họ hẳn không thể nào giả được. Người canh gác bên ngoài nghe tiếng, đạp cửa xông vào. Trương Vô Kỵ không thèm nhìn đến họ, giơ chân đá mỗi người một cái văng cả ra ngoài. Chỉ trong giây lát, người trong khách điếm kêu la om xòm, náo loạn cả lên.
Trương Vô Kỵ liên tiếp đá sáu người mới vét được một nửa số thuốc cao trét trên người "A Tam" và lão hói đầu "A Nhị", nghĩ thầm nếu mình dây dưa thêm, để cho Huyền Minh nhị lão xông ra thì thật là khó khăn, nên bỏ ngay cái bình thuốc và cuốn băng vào túi, nhắc gã thầy thuốc lên ném luôn ra ngoài cửa sổ.
Không ngoài dự liệu của chàng, chỉ nghe bình một tiếng thật lớn, gã thầy thuốc kia đã bị đánh trúng một chưởng lăn quay ra đất, ngoài cửa sổ quả có cao thủ mai phục tập kích. Trương Vô Kỵ lợi dụng ngay giây phút đó, phi thân ra ngoài, trong bóng đêm ánh sáng lấp loáng, hai món binh khí đã đâm tới. Chàng tay trái kéo, tay phải đẩy, thi triển Càn Khôn Đại Na Di, kiếm bên trái liền đâm trúng người bên phải còn ngọn giáo bên phải đâm ngay vào người bên trái, đang lộn xộn thì chàng đã chạy xa rồi.
Chàng trên đường về cảm thấy vui vẻ, tuy chuyến đi chưa tìm ra được chân tướng Triệu Mẫn nhưng lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thì dù gì vẫn hơn. Chàng lập tức chạy về núi Võ Đương, nhờ Hồng Thủy Kỳ cho người đến Cốc Thành, báo cho bọn Dương Tiêu quay trở lại. Trương Tam Phong và những người khác nghe tin đã lấy được Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao đều hết sức vui mừng.
Trương Vô Kỵ xem xét kỹ thuốc cao bôi trên người "A Tam" rồi so sánh với thuốc cao trong bình, quả đúng là cùng một thứ. Cái bình đó là một khối ngọc lớn tạc thành, đen nhánh như sơn, cầm trên tay thấy âm ấm trông có vẻ cổ kính. Riêng cái bình đó không thôi cũng là một bảo vật quí giá rồi. Chàng không còn hoài nghi gì nữa, sai người khiêng Ân Lê Đình và Du Đại Nham vào phòng riêng, để hai chiếc giường song song.
Dương Bất Hối đi theo vào, nàng không dám nhìn thẳng vào mặt Vô Kỵ nhưng trên mặt đầy vẻ rạng rỡ, trong lòng cực kỳ cảm kích, đủ thấy Trương Vô Kỵ đưa nàng sang Tây Vực, uống thay nàng ly rượu độc ở nhà Hà Thái Xung, bao nhiêu ân tình đó cũng không bằng được việc chàng trị bệnh cho Ân Lê Đình.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tam sư bá, các vết thương cũ của sư bá nay đã lành rồi, muốn chữa bệnh thì điệt nhi phải đánh gãy các khớp xương rồi nối lại, chỉ mong sư bá cố chịu cái đau nhất thời này.
Du Đại Nham chẳng tin là mình đã tàn phế hai mươi năm nay lại có thể chữa lành, nhưng cùng lắm có không khỏi thì cũng đến như bây giờ thôi, trong hai mươi năm qua ông chẳng còn coi chuyện gì vào đâu nữa nên nghĩ thầm: "Vô Kỵ tận tâm kiệt lực, muốn đền đáp cái lỗi lầm của cha mẹ, không làm thì suốt đời không yên tâm. Cái đau nhất thời của ta, nào có đáng gì?”.
Ông không nói thêm, chỉ mỉm cười đáp:
- Cháu cứ tùy ý mà làm, không sao.
Trương Vô Kỵ bảo Dương Bất Hối ra ngoài, cởi hết y phục Du Đại Nham ra, lấy tay mò các chỗ xương gãy cho thật kỹ càng, sau đó điểm huyệt cho ông mê đi, vận kình lên mười ngón tay, nghe cắc cắc cắc liên thanh bất tuyệt, đánh gãy lại các chỗ xương cũ nay đã liền. Du Đại Nham tuy huyệt đạo bị điểm nhưng đau đến nỗi tỉnh lại. Trương Vô Kỵ thủ pháp nhanh như gió, xương lớn xương nhỏ gì cũng đánh gãy hết, sau đó nối lại tất cả các bộ vị, bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao lên rồi bó lại, ghép thêm giá gỗ bên ngoài, sau đó mới châm kim cho bớt đau.
Chữa cho Ân Lê Đình thì dễ dàng hơn nhiều, các xương gãy khi còn ở Tây Vực chàng đã nắn lại cho thẳng cả, lúc này chỉ cần bôi Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao là đủ. Xong xuôi, chàng sai chính phó kỳ sứ Ngũ Hành Kỳ luân phiên canh gác, đề phòng địch nhân kéo đến quấy nhiễu.
Quá trưa hôm đó, ăn cơm xong, Trương Vô Kỵ nằm trong vân phòng ngủ một lát lấy lại sức cho đêm qua chạy đôn chạy đáo, đang mơ màng nghe tiếng người đi tới trước cửa, liền tỉnh ngay dậy. Tiểu Siêu ở bên ngoài canh hỏi nhỏ:
- Chuyện gì thế? Giáo chủ đang ngủ.
Chưởng kỳ sứ Hậu Thổ Kỳ Nhan Viên nói nhỏ:
- Ân lục hiệp đau đến bất tỉnh ba lần, không biết giáo chủ...
Trương Vô Kỵ không đợi y nói hết câu, nhỏm dậy chạy ra, rảo bước đến phòng Du Đại Nham, thấy Ân Lê Đình hai mắt trợn ngược, đã bất tỉnh rồi. Dương Bất Hối hoảng đến hai mắt đẫm lệ, không biết phải làm sao. Nằm bên cạnh Du Đại Nham nghiến răng kêu ken két, hiển nhiên đang cố nhịn đau, chỉ vì tính ông kiên cường, không để lọt ra tiếng rên rỉ nào.
Trương Vô Kỵ thấy tình hình đó, cực kỳ lạ lùng, tại các huyệt Thừa Khấp, Thái Dương, Đàn Trung... của Ân Lê Đình nắn bóp mấy cái, cứu ông ta tỉnh lại, quay sang hỏi Du Đại Nham:
- Tam sư bá, các chỗ xương gãy đau lắm sao?
Du Đại Nham đáp:
- Chỗ xương gãy đau thì đã đành, có điều lục phủ ngũ tạng ngứa ngáy chịu không nổi... tưởng như, tưởng như có muôn ngàn con côn trùng đang đục khoét.
Trương Vô Kỵ kinh hãi không đâu cho hết, nghe Du Đại Nham nói, rõ ràng là trúng chất kịch độc, vội hỏi Ân Lê Đình:
- Lục thúc, chú thấy sao?
Ân Lê Đình nửa mê nửa tỉnh đáp:
- Đỏ có, tím có, xanh có, lục có, vàng có, trắng có, lam có... đẹp ơi là đẹp, biết bao nhiêu là bong bóng bay vòng vòng, chạy qua chạy lại... thật là dễ ưa... ngươi xem... ngươi xem...
Trương Vô Kỵ “Ối chà” một tiếng, tưởng như muốn ngất ngay tại chỗ. Chàng nghĩ ngay đến trong Độc Kinh của Vương Nạn Cô có chép:
Thất trùng thất hoa cao, dùng bảy loại độc trùng, bảy loại độc hoa, đem trộn lẫn nấu với nhau mà làm thành, người trùng độc trước thấy nội tạng ngứa ngáy như bảy loại trùng đang cắn xé, sau đó trước mắt thấy hiện lên bảy màu, đẹp đẽ huyễn ảo, như bảy loại hoa bay chập chờn. Thất trùng thất hoa cao dùng bảy loại trùng, bảy loại hoa tùy theo mỗi người một khác, nam bắc cũng chẳng giống nhau. Tối linh nghiệm thần hiệu có bốn mươi chín cách phối chế khác nhau, biến hóa ra sáu mươi ba phương thuốc. Chỉ có người chế thuốc giải được thôi.
Mồ hôi trán Trương Vô Kỵ vã ra như tắm, không ngờ lại trúng kế Triệu Mẫn. Nàng ta cố ý để thất trùng thất hoa cao trong bình ngọc đen, lại bôi thứ thuốc kịch độc đó lên người "A Tam" và "A Nhị", không coi tính mệnh của hai cao thủ đó vào đâu cốt sao dụ được mình vào tròng, tâm địa độc ác đến thế, không ai có thể tưởng tượng nổi.
Chàng hối hận quá, vội vàng hành động thật nhanh, cởi hết các giá gỗ buộc trên hai người, dùng rượu trắng rửa sạch chất cao độc. Dương Bất Hối thấy chàng mặt mày nghiêm trọng, biết rằng việc chẳng lành, nên cũng không còn hiềm kỵ gì nữa, giúp chàng dùng rượu rửa sạch tứ chi Ân Lê Đình. Thế nhưng màu đen đã thấm vào da thịt, rửa không ra, chẳng khác nào thợ sơn dính sơn vào tay, không dễ gì một ngày một buổi mà sạch được.
Trương Vô Kỵ không dám dùng thuốc một cách khinh suất, chỉ lấy các loại trấn thống an thần cho hai người uống. Chàng đi ra phòng ngoài, vừa hốt hoảng, vừa xấu hổ, không còn bụng dạ nào nữa hai đầu gối mềm nhũn ra, nằm phục xuống đất khóc òa lên. Dương Bất Hối kinh hãi, chỉ biết kêu lên:
- Vô Kỵ ca ca, Vô Kỵ ca ca.
Trương Vô Kỵ nức nở:
- Chính tay ta giết Tam sư bá và Lục sư thúc rồi.
Chàng trong bụng thầm tính toán: " Loại thất trùng thất hoa cao này có hàng trăm cách phối chế khác nhau, ai biết cô ta dùng bảy loại hoa nào, bảy loại trùng nào? Muốn hóa giải chất kịch độc toàn do phương pháp dĩ độc công độc, chỉ cần sai một loại độc trùng độc hoa, dùng thuốc lỡ tay, lập tức tam sư bá và lục sư thúc chết ngay”.
Trong giây phút đó, chàng hiểu ngay vì sao cha mình lại tự vẫn, cái sai lầm to lớn không cứu vãn được, ngoài việc lấy cái chết để tạ tội ra, thật chẳng còn cách nào khác. Chàng uể oải đứng lên, Dương Bất Hối liền hỏi:
- Quả không có thứ thuốc nào chữa được ư? Ngay cả miễn cưỡng làm thử cũng không được à?
Trương Vô Kỵ chỉ biết lắc đầu. Dương Bất Hối thở dài:
- Thôi được.
Thần sắc nàng thản nhiên, không còn vẻ gì kinh hoảng nữa. Trương Vô Kỵ trong lòng nhói lên, nhớ đến hôm trước nàng có nói: “Nếu như ông ấy không sống được, thì em cũng chẳng thiết sống nữa” nghĩ thầm: “Lần này ta đâu phải chỉ làm chết hai người, hai mà thành ba”. Trong lòng chàng còn đang nặng như chì, bỗng thấy Ngô Kình Thảo đến trước cửa bẩm:
- Giáo chủ, cô nương họ Triệu kia đang ở ngoài đạo quan xin được gặp.
Trương Vô Kỵ vừa nghe thế, bi phẫn không sao kìm được, kêu lên:
- Ta đang muốn đi kiếm cô nàng đây.
Chàng rút nganh thanh trường kiếm Dương Bất Hối đeo ở ngang hông rảo bước đi ra. Tiểu Siêu lấy chiếc hoa ngọc trai trên đầu đưa cho Trương Vô Kỵ:
- Công tử, công tử đem trả lại cho Triệu cô nương.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn nàng, nghĩ thầm: “Cô này thật là có ý tứ. Ta và cô nương họ Triệu kia thù sâu như bể, ta chẳng nên giữ của nàng ta cái gì”. Chàng một tay cầm kiếm, một tay cầm hoa, đi ra ngoài cửa đạo quan.
Chỉ thấy Triệu Mẫn một mình đứng đó, vẻ mặt tươi cười. Khi đó mặt trời buổi chiều đỏ rực như máu, chiếu xiên xiên lên mặt nàng, trông xinh đẹp không gì sánh kịp. Huyền Minh nhị lão đứng ở sau lưng nàng cách chừng hơn mười trượng. Hai người cầm ba con ngựa, mắt nhìn đi đâu đâu.
Trương Vô Kỵ chuyển mình một cái đã đến ngay trước mặt Triệu Mẫn, tay trái thò ra nắm được ngay hai cổ tay nàng, tay phải để mũi kiếm vào ngực, quát lên:
- Mau đem giải dược ra cho ta.
Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- Anh đã hiếp đáp tôi một lần, lần này lại định bức bách nữa hay sao? Tôi lên đây là để hỏi thăm anh, vậy mà mặt mày hầm hầm, sao gọi là đạo đãi khách được?
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi cần giải dược, nếu cô không đưa ra, tôi... tôi không muốn sống nữa, cô cũng chết theo.
Triệu Mẫn mặt hơi đỏ lên, xì một tiếng nói nhỏ:
- Hứ, nói chẳng đâu vào đâu. Anh chết kệ anh, có liên quan gì đến tôi, tại sao lại phải bắt tôi chết theo là sao?
Trương Vô Kỵ sẵng giọng:
- Ai hơi đâu mà nói đùa với cô? Cô không cho giải dược thì hôm nay là ngày cả tôi lẫn cô đều chết hết.
Hai tay Triệu Mẫn bị chàng nắm chặt, chỉ thấy người Trương Vô Kỵ run bần bật, khích động không để đâu cho hết, lại thấy trong lòng bàn tay chàng có vật gì cưng cứng, bèn hỏi:
- Trong tay anh cầm cái gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đó là châu hoa của cô, trả lại cô đó.
Chàng buông tay, cầm đóa hoa cắm lại trên đầu nàng, rồi lại vòng xuống chộp ngay lấy hai cổ tay, vừa buông vừa nắm, thủ pháp nhanh như ánh chớp. Triệu Mẫn nói:
- Cái đó tôi tặng cho anh, sao anh lại không lấy?
Trương Vô Kỵ hậm hực đáp:
- Cô làm tôi khổ đến thế, tôi không lấy gì của cô nữa đâu.
Triệu Mẫn nói:
- Có thật anh không lấy gì của tôi không? Nói thật hay đùa đấy? Thế sao vừa mở miệng anh đã đòi tôi đưa anh thuốc giải là sao?
Trương Vô Kỵ mỗi lần tranh cãi với nàng đều bị lép vế, lúc này cũng ngắc ngứ, nghĩ đến Du Đại Nham, Ân Lê Đình không còn sống được bao lâu, lòng đau như cắt, hai hàng nước mắt rưng rưng tưởng như muốn trào ra. Chàng đã toan mở miệng khẩn cầu, nhưng nghĩ lại Triệu Mẫn ác độc như thế nên chẳng muốn tỏ ra yếu đuối trước mặt nàng.
Lúc này bọn Dương Tiêu đã nghe tin, kéo nhau ra cửa, thấy Triệu Mẫn đã bị Trương Vô Kỵ bắt giữ, Huyền Minh nhị lão lại đứng tận đằng xa, tưởng như không quan tâm đến, hoặc giả ỷ y chẳng sợ hãi gì. Mọi người liền đứng sang một bên, bình tĩnh đứng xem.
Triệu Mẫn mỉm cười nói:
- Anh là giáo chủ Minh giáo, võ công chấn động thiên hạ, vậy mà mới gặp khó khăn một chút, đã khóc hu hu như trẻ con. Anh vừa mới khóc, có phải không nào? Rõ thật không biết xấu hổ. Để tôi nói đây, anh bị trúng hai chưởng của Huyền Minh nhị lão, tôi đến thăm anh thương thế ra sao. Ngờ đâu vừa mới gặp mặt anh đã xí xa xí xô gì sống sống, chết chết là sao? Anh có bỏ tay ra không thì bảo?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, dù nàng có muốn chạy trốn cũng không thể nào kịp, chỉ cần chân cô ta vừa động mình sẽ bắt lại ngay nên buông tay Triệu Mẫn ra. Triệu Mẫn giơ tay nắn lại bông hoa trên mái tóc, mỉm cười:
- Sao xem như anh không bị thương chút nào cả?
Trương Vô Kỵ lạnh lùng đáp:
- Chỉ bằng Huyền Minh thần chưởng dễ gì đả thương được người ta.
Triệu Mẫn nói:
- Thế còn Đại Lực Kim Cương Chỉ? Thất trùng thất hoa cao?
Hai câu đó chẳng khác nào hai cái búa giáng vào ngực Trương Vô Kỵ, chàng hậm hực đáp:
- Quả nhiên đúng là thất trùng thất hoa cao.
Triệu Mẫn nghiêm mặt nói:
- Trương giáo chủ, công tử muốn lấy Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao tôi cũng đưa. Giáo chủ muốn lấy giải dược của thất trùng thất hoa cao tôi cũng tặng. Chỉ cần công tử bằng lòng làm cho tôi ba chuyện, tôi sẽ lập tức bưng hai tay dâng lên. Còn nếu anh lấy sức uy hiếp tôi, giết tôi thì dễ, còn muốn thuốc giải đã khó càng khó thêm. Anh lại giở ác hình tra khảo tôi, tôi sẽ chỉ cho anh thuốc giả, thuốc độc.
Trương Vô Kỵ mừng quá, nước mắt đang chực trào ra, mặt lập tức tươi rói, vội vàng nói:
- Ba chuyện gì? Nói ngay, nói ngay.
Triệu Mẫn mỉm cười:
- Mới khóc lại cười, thật không biết xấu. Tôi đã nói với anh rồi, tôi chưa nghĩ ra, bao giờ tôi nghĩ ra được lúc đó sẽ nói với anh, chỉ cần anh kim khẩu một lời, quyết không vi ước là xong. Tôi không bắt anh đi hái mặt trăng trên trời, cũng chẳng đòi anh làm chuyện ác vi phạm đạo hiệp nghĩa, cũng chẳng bảo anh tự tử, dĩ nhiên cũng chẳng bảo anh làm heo làm chó.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, thì dù có khó khăn đến mực nào, ta cũng kiệt lực mà làm cho được”. Chàng bèn khẳng khái đáp:
- - Triệu cô nương, nếu được cô nương huệ tứ linh dược để tại hạ trị khỏi cho tam sư bá và lục sư thúc, dù cho cô nương sai bảo điều gì, dẫu phải dầu sôi lửa bỏng Trương Vô Kỵ này cũng nguyện mặc tình sai khiến quyết không từ nan.
Triệu Mẫn giơ bàn tay ra nói:
- Hay lắm, vậy mình đập tay ăn thề. Tôi sẽ đưa giải dược cho công tử để trị cho tam sư bá và lục sư thúc, sau này tôi đòi công tử làm cho ta ba chuyện, chỉ cần không vi phạm đạo hiệp nghĩa, công tử phải hết sức làm, không được từ chối đấy nhé.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Xin quyết tuân theo lời vàng ngọc của cô nương.
Hai người nhè nhẹ đập tay ba lần. Triệu Mẫn lấy chiếc hoa trên mái tóc nói:
- Thế bây giờ anh đã chịu lấy đồ của tôi tặng cho chưa?
Trương Vô Kỵ sợ nàng không đưa giải dược, không dám trái ý, vội cầm lấy bông châu hoa. Triệu Mẫn nói:
- Nhưng tôi không muốn anh đem cho con a hoàn đâu nhé.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng.
Triệu Mẫn mỉm cười lui lại ba bước, nói:
- Giải dược sẽ đem đến ngay, xin từ biệt Trương giáo chủ.
Nàng phất tay áo, quay mình đi. Huyền Minh nhị lão liền dắt ngựa lại, đỡ nàng lên yên đi trước. Tiếng chân ba con ngựa lộp cộp lộp cộp, thủng thẳng xuống núi.
Bọn Triệu Mẫn ba người vừa khuất sau một triền núi, bên tàn cây lớn phía trái liền nhô ra một người, chính là Tiền Nhị Bại trong thần tiễn bát hùng. Y tay cầm thiết cung, giương tên lớn tiếng nói:
- Chủ nhân chúng tôi trình lên Trương giáo chủ một phong thư, kính xin nhận lấy.
Nói xong nghe soẹt một tiếng đã bắn mũi tên ra. Trương Vô Kỵ khua tay một cái, chộp ngay được mũi tên, thấy mũi không có đầu sắt, đuôi buộc một phong thư. Trương Vô Kỵ cởi ra xem thấy trên phong bì đề: “Trương giáo chủ thân khải”. Chàng mở thư thấy có một bức hoa tiên, trên viết mấy dòng theo lối tiểu khải như sau:
Hộp vàng ấy hai tầng vốn sẵn,
Linh cao kia nằm ẩn bên trong.
Châu hoa ở giữa trống không,
Dược phương dấu đó để phòng cần đưa.
Hai món sớm tặng người quân tử,
Sao lại còn đôn đáo làm chi?
Vật hèn tuy chẳng đáng gì,
Đem lòng rẻ rúng coi như đất bùn.
Dẫu sao cũng từ tay tiện thiếp,
Nỡ lòng nào chàng lại coi khinh?
Tặng cho người ở kẻ ăn,
Hóa ra phụ tấm chân tình này sao?[3]
Trương Vô Kỵ đọc kỹ ba lần tờ thư, vừa mừng vừa sợ, lại thêm sượng sùng, vội lấy đóa châu hoa ra coi, vặn thử quả nhiên một viên ngọc trai có thể chuyển động, chàng liền tháo ra thấy cán hoa rỗng không trong có chứa một vật gì trăng trắng. Trương Vô Kỵ lấy trong bọc ra một chiếc kim vẫn dùng để châm huyệt đạo, khều vật đó ra, quả nhiên là một tờ giấy mỏng dính, trên đó ghi rõ bảy loại độc trùng nào và bảy loại hoa nào, người trúng độc giải cứu ra sao, từng loại từng loại thật minh bạch.
Thực ra chàng chỉ cần biết được các tên của bảy loại hoa, bảy loại trùng kia là biết cách chữa, không cần phải ai chỉ điểm. Chàng xem giải pháp hoàn toàn không có gì sai sẩy, biết Triệu Mẫn không có ý phá mình nữa, thực là mừng rỡ, chạy ngay vào nội viện, theo đúng đó mà phối chế thuốc men cứu chữa. Quả nhiên chỉ hơn một giờ sau, độc thế của Du Ân hai người nhẹ hẳn, trong người không còn ngứa ngáy nữa, mắt cũng không còn bị hoa.
Chàng lại lấy cái hộp vàng dùng để đựng bông hoa hạt châu của Triệu Mẫn tặng ra xem kỹ, sau cùng mở được hai tầng giáp nhau ra, bên trong quả đựng đầy thuốc cao đen nhánh, mùi thật thơm tho, mát dịu.
Lần này chàng không dám bộp chộp, bắt một con chó, bẻ gãy một bên chân sau, bôi thử cao lên vết thương, đợi đến sáng hôm sau, con chó vẫn tỉnh táo nhanh nhẹn, không có vẻ gì là trúng độc, chỗ vết thương đã thấy khá hơn nhiều.

Qua ngày thứ ba, chất độc trong người hai vị Du Ân đã hoàn toàn trừ hết, Trương Vô Kỵ liền đem Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao thật bôi lên tứ chi hai người. Lần này không chuyện gì xảy ra, Hắc Ngọc Đoạn Tục Cao quả nhiên công hiệu như thần, chỉ hai tháng sau, hai tay của Ân Lê Đình đã hoạt động lại, xem ra sau này không những tay chân cử động bình thường mà võ công cũng không mất mát lắm. Chỉ có Du Đại Nham tàn phế lâu năm, muốn được như xưa thì thật khó, nhưng xem tình hình hồi phục của ông ta, chỉ sáu tháng thôi, có thể dùng nạng cặp vào nách thay chân bước đi chầm chậm được rồi, tuy vẫn còn tàn phế nhưng không còn là một người nằm ỳ một chỗ không động đậy được gì như trước.
Trương Vô Kỵ ở lại trên núi Võ Đương lâu như thế, những người của Ngũ Hành Kỳ cử đi các phái trước sau đã quay trở về, đem toàn những tin tức khiến ai nấy đều kinh ngạc. Toàn bộ nhân chúng các phái Nga Mi, Hoa Sơn, Không Động, Côn Lôn viễn chinh Quang Minh Đính, không một người nào trở về cả. Trên giang hồ thì thầm đồn đãi, ai cũng bảo rằng Minh giáo người nhiều thế mạnh, đã tiêu diệt toàn bộ các cao thủ đi Tây Vực rồi, nay đang chia ra đi đánh các phái. Các tăng nhân phái Thiếu Lâm đột nhiên thất tung đã đem tới một trận phong ba không tiền khoáng hậu trong võ lâm. Cũng may các phó sứ Ngũ Hành Kỳ lần này đi ai cũng mang theo tín phù của Trương Tam Phong, lại không tiết lộ thân phận mình, nếu không chắc cũng đã bị đánh cho một trận tơi bời. Cũng theo các chưởng kỳ phó sứ, hiện nay các môn phái, bang hội, đến cả các tiêu hãng, sơn trại, thuyền bang, bến đò bãi nước đều đâu đâu cũng nghiêm mật canh phòng sợ Minh giáo bất ngờ đến đánh.
Thêm vài ngày nữa, cha con Ân Thiên Chính và Ân Dã Vương cũng quay về núi Võ Đương, cho hay Thiên Ưng Kỳ đã hoàn toàn chỉnh đốn, tất cả đều qui thuộc Minh giáo. Hai người cũng cho hay phía đông nam quần hùng đang nổi lên, những người phản Nguyên chỗ này xuống thì chỗ khác lại lên, thiên hạ đã thành đại loạn. Thời đó quân Nguyên còn rất mạnh, nơi nào cũng chỉ một mình chiến đấu, không ai liên lạc hô ứng với ai thành thử chưa được dân chúng hưởng ứng đã bị tiêu diệt.
Buổi chiều hôm đó, Trương Tam Phong cho dọn cỗ chay ở hậu điện ca ngợi tin tức của cha con Ân Thiên Chính. Trên bàn, Ân Thiên Chính phân tích nguyên nhân thất bại của các nơi, nơi nào cũng có người của Minh giáo và Thiên Ưng giáo tham gia, bị quân Nguyên hoặc bắt bớ, hoặc tàn sát số người tuẫn nạn thật là đông. Quần hào nghe thế không ai là không ngậm ngùi.
Dương Tiêu nói:
- Trăm họ khổ sở đã nhiều, ai ai cũng trong đợi có sự thay đổi, chính là lúc thuận tiện để đuổi quân Thát tử, lấy lại giang sơn. Năm xưa Dương giáo chủ còn tại thế, ngày đêm nghĩ chuyện hưng phục, có điều bản giáo xưa nay hành sự lệch lạc, hơn trăm năm qua gây oán chuốc thù vớ võ lâm Trung Nguyên, thành ra khó mà cùng nhau nắm tay giết giặc. Thế nhưng trời thương đưa Trương giáo chủ lên coi sóc giáo vụ, oán thù với các phái tạm cởi phần nào, chính là thời cơ đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chống lại Hồ Lỗ.
Chu Điên nói:
- Dương tả sứ, lời của ông nghe ra thì không sai. Có điều chỉ là nói chơi cho vui, cũng thật tào lao cán cuốc.
Dương Tiêu nghe rồi không nổi giận, chỉ nói:
- Vậy xin được Chu huynh chỉ giáo.
Chu Điên nói:
- Trên giang hồ ai cũng đồn là Minh giáo chúng ta giết sạch cao thủ các môn phái, chỉ nghe hai chữ “Minh giáo” là người ta đã giận thấu xương, lấy gì mà “đồng tâm hiệp lực, khu trừ Hồ Lỗ” cho được? Nói ra thì nghe hay lắm, nhưng làm sao mà thực hành?
Dương Tiêu nói:
- Chúng mình tuy bị mang tiếng xấu, nhưng thực ra mình sáng như ban ngày, huống chi lại có Trương chân nhân minh chứng điều đó.
Chu Điên cười nói:
- Nếu quả như mình có giết bọn Tống Viễn Kiều, Diệt Tuyệt lão ni, Hà Thái Xung thì Trương chân nhân cũng bị đánh lừa luôn, lấy gì mà làm chứng cho được?
Thiết Quan đạo nhân quát lên:
- Chu Điên, trước mặt Trương chân nhân và giáo chủ, không được nói lếu nói láo.
Chu Điên le lưỡi nhưng không nói gì thêm. Bành Oánh Ngọc nói:
- Lời của Chu huynh cũng không phải là hoàn toàn vô lý. Cứ như ý của bần tăng, chúng ta nên triệu tập một đại hội Minh giáo các thủ lãnh khắp nơi, nói rõ ý của Trương giáo chủ muốn thân thiện với các môn phái. Ngoài ra nhiều người sự việc cũng rõ ràng hơn, để xem Tống đại hiệp, Diệt Tuyệt sư thái các người ở đâu, trong đại hội cũng có thể tra cứu được.
Chu Điên nói:
- Muốn biết tung tích Tống đại hiệp thật là quá dễ, có thể nói là như thổi tro trong bếp.
Mọi người nhao nhao hỏi:
- Sao thế? Sao không nói sớm?
Chu Điên dương dương đắc ý, uống một chén rượu nói:
- Chỉ cần giáo chủ lại hỏi Triệu cô nương một câu, ít ra mười phần cũng biết được đến chín. Tôi dám nói là những người đó không bị cô ta giết thì cũng bị cô ta bắt rồi.
Hơn hai tháng qua, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc cả bọn chia nhau ra xuống núi dò tìm tông tích, lai lịch Triệu Mẫn, nhưng từ sau hôm nàng đến cửa quan cùng Trương Vô Kỵ đập tay thề thốt đến nay, không biết cả bọn họ đi đâu mất tăm, ngay những thủ hạ đông đảo thế mà cũng không tìm đâu ra một chút dấu vết nào. Quần hào ai nấy suy tính, tin chắc bọn họ thể nào cũng có liên quan đến triều đình, nhưng ngoài điều đó ra vẫn không thấy thêm đầu dây mối nhợ khác. Bây giờ lại nghe Chu Điên nói, ai nấy liền cự ngay:
- Ngươi nói mới thật là tào lao. Nếu như tìm ra được cô gái họ Triệu kia, chẳng lẽ bọn ta không biết dò hỏi chắc?
Chu Điên cười:
- Các ngươi tìm không ra là phải, ai mà chẳng biết. Thế nhưng giáo chủ còn nợ cô ta ba chuyện chưa làm, không lẽ một người ghê gớm như cô ta lại bỏ qua không hỏi đến? Ha ha, cô gái đó thật là nguyệt thẹn hoa nhường, thế mà mỗi lần nghĩ đến cô ta là Chu mỗ lại dựng tóc gáy, sợ muốn chết.
Mọi người nghe y pha trò đều cười ồ lên, nhưng nghĩ lại thì quả là đúng thế. Trương Vô Kỵ thở dài:
- Ta cũng chỉ mong cô ta ra ba nạn đề để hết sức làm cho xong món nợ, khỏi phải ngày đêm khắc khoải, không biết cô ta còn giở trò gì quái đản nữa không. Bành đại sư vừa đưa ý kiến bản giáo triệu tập thủ lãnh các nơi, việc này xem ra nên lắm, các vị có ý gì không?
Quần hào đều đáp:
- Nên lắm. Mình ở trên núi Võ Đương ngồi không cũng chẳng làm được việc gì.
Dương Tiêu nói:
- Giáo chủ nghĩ xem mình nên tập họp ở đâu cho phải?
Trương Vô Kỵ suy nghĩ một hồi, nói:
- Bản nhân hôm nay đảm nhiệm chức vị giáo chủ, vẫn thường nghĩ đến ân tình của hai vị trong bản giáo. Người thứ nhất là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu tiên sinh, lão nhân gia nay đã chết vì tay Kim Hoa bà bà. Người kia là Thường Ngộ Xuân đại ca, không biết lúc này đang ở nơi đâu. Tôi nghĩ đại hội kỳ này nên cử hành tại Hồ Điệp Cốc ở Hoài Bắc.
Chu Điên vỗ tay nói:
- Hay lắm, hay lắm. Cái lão Kiến Tử Bất Cứu năm xưa tôi vẫn hay cãi nhau với hắn, cũng không đến nỗi tệ hại, chỉ phải cái tính khí thất thường, so với Dương tả sứ thì cũng cá mè một lứa. Y thấy chết không cứu, thành ra lúc y chết cũng chẳng ai cứu cho, đúng là báo ứng. Chu Điên này cũng muốn đến trước mộ y rập đầu vài cái.
Quần hào không ai còn ý gì khác, qui định hơn ba tháng nữa nhằm tháng tám Trung Thu, tất cả các thủ lãnh của Minh giáo cùng đến nơi nhà cũ của Hồ Thanh Ngưu ở Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc tụ hội.
Sáng sớm hôm sau, các cấp của Ngũ Hành Kỳ và Thiên Ưng Kỳ chia nhau ra đi từ núi Võ Đương truyền hiệu lệnh của giáo chủ:
Các lộ giáo chúng, từ hương chủ trở lên hãy giao lại giáo vụ cho người phụ tá đảm trách, đến Hồ Điệp Cốc tại Hoài Bắc trước ngày Trung Thu tháng tám để tham kiến tân giáo chủ.
Từ nay đến ngày Trung Thu còn xa, Trương Vô Kỵ thấy Du Đại Nham và Ân Lê Đình bệnh tình chưa khỏi hẳn, sợ thương thế nếu như trở lại thì thật phí bao công phu, nên tạm ở lại núi Võ Đương lo lắng cho hai vị Du Ân, khi rảnh rỗi thì học hỏi Trương Tam Phong thêm về Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc thì đi du hành các nơi, thám thính tung tích của Triệu Mẫn.
Dương Tiêu theo lệnh giáo chủ ở lại núi Võ Đương, thế nhưng vì chuyện Kỷ Hiểu Phù, đối với Ân Lê Đình có phần bẽ mặt, bình thời chỉ đóng cửa đọc sách, chẳng mấy khi rời khỏi phòng một bước. Cứ thế đến hơn hai tháng, một buổi chiều, Trương Vô Kỵ đến gặp Dương Tiêu bàn về những việc cần phải truyền xuống các giáo chúng trong đại hội sắp tới tại Hồ Điệp Cốc. Chàng tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, bỗng dưng phải đảm trách trọng nhiệm, thường vẫn lo ngay ngáy, chỉ sợ thất thố làm hư đại sự. Dương Tiêu thông hiểu giáo vụ nên Trương Vô Kỵ giữ lại bên cạnh, có việc gì thì hỏi.
Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề “Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký”, bên dưới có một hàng chữ nhỏ “Đệ Tử Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu cung soạn”. Trương Vô Kỵ nói:
- Dương tả sứ, ông văn võ toàn tài, thật là rường cột của bản giáo.
Dương Tiêu chắp tay:
- Đa tạ giáo chủ khen ngợi.
Trương Vô Kỵ mở sách ra, thấy viết bằng chữ nhỏ theo lối khải, mọi việc đều dẫn chứng sách vở rõ ràng. Trong sách kể lại minh bạch, Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng sáu năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo.[4]
Trương Vô Kỵ đọc đến đoạn này, không khỏi thở dài, nói:
- Dương tả sứ, giáo chỉ của bản giáo nguyên là làm điều thiện, trừ điều ác, cùng với đạo Phật chẳng khác bao nhiêu, vậy mà từ đời Đường đến giờ, đời nào sao cũng bị giết hại thảm họa?
Dương Tiêu nói:
- Người trong Thích đạo tuy nói phổ độ chúng sinh, nhưng tăng chúng xuất gia đều cố giữ thanh tu, không để ý đến chuyện đời. Đạo gia cũng thế. Còn bản giáo tụ tập lương dân, bất luận ai gặp nguy nan khốn khổ thì mọi giáo chúng đều ra tay giúp đỡ. Quan phủ áp bức dân lành, có đời nào ít đâu? Có vùng nào ít đâu? Nếu có người nào bị quan phủ ức hiếp, oan khuất, bản giáo liền đứng ra chống lại.
Trương Vô Kỵ gật đầu:
- Chỉ khi nào triều đình, quan lại không còn áp bức dân lành, thổ hào ác bá không còn hoành hành vô phép tắc, đến lúc ấy bản giáo mới có thể hưng vượng được.
Dương Tiêu vỗ bàn đứng dậy, lớn tiếng nói:
- Lời của giáo chủ quả thật nói lên được tôn chỉ gốc rễ của bản giáo.
Trương Vô Kỵ nói:
- Dương tả sứ, ông xem có một ngày nào được như thế chăng?
Dương Tiêu trầm ngâm một hồi lâu rồi nói:
- Cũng chỉ mong được một ngày như thế. Phương Lạp, Phương giáo chủ của bản giáo đời Tống khởi sự cũng chỉ vì muốn quan lại không áp bức dân lành mà thôi.
Y lật quyển sách chỉ vào đoạn chép về giáo chủ Minh giáo Phương Lạp tại Chiết Đông nổi lên, chấn động thiên hạ. Trương Vô Kỵ đọc xong trầm ngâm, gập sách lại nói:
- Đại trượng phu cố nhiên phải như thế. Tuy Phương giáo chủ tuẫn nạn, thân vong nhưng cũng làm nên một sự nghiệp thật là oanh liệt.
Hai người cùng một lòng, không nói mà nhiệt huyết nổi lên bừng bừng.
Dương Tiêu lại nói:
- Bản giáo đời nào cũng bị nghiêm cấm, thế nhưng thủy chung vẫn đứng được mà không sụp đổ. Năm Thiệu Hưng thứ tư đời Nam Tống có một viên quan tên là Vương Cư Chính gửi lên hoàng đế một đạo tấu chương, nói về việc của bản giáo, giáo chủ có thể xem qua.
Nói rồi lật cuốn sách đến đoạn sao lục tấu chương của Vương Cư Chính. Trương Vô Kỵ đọc thấy trong đó viết như sau:
“Thần thấy hai huyện Chiết Châu có tập tục ăn rau phụng thờ ma vương. Trước đời Phương Lạp, pháp cấm còn lỏng, mà việc tôn thờ ma quỉ chưa đến nỗi mạnh. Phương Lạp chết rồi, pháp cấm càng nghiêm, nhưng việc thờ ma lại càng mạnh không trừ nổi... Thần nghe nói rằng kẻ thờ ma, mỗi làng mỗi xóm có một hai tên kiệt hiệt, gọi là ma đầu, xem hết các tên họ trong thôn, đều có thề thốt gia nhập ma đảng. Kẻ thờ ma không ăn thịt. Một nhà có chuyện gì, tất cả đồng đảng đều đến giúp đỡ. Vì chưng chúng không ăn thịt nên giảm chi tiêu, mà giảm chi tiêu nên dễ đầy đủ. Cùng một đảng nên thân lẫn nhau, thân lẫn nhau nên có chuyện gì dễ giúp nhau …”
Trương Vô Kỵ đọc đến đây nói:
- Gã Vương Cư Chính này tuy là cừu địch nhưng quả biết rằng giáo chúng trong bản giáo sống tiết kiệm, giản phác, tương thân tương ái.
Chàng lại đọc tiếp đoạn sau của tấu chương:
“… vì thế thần cố theo đạo của tiên vương để làm cho dân tương thân, tương hữu, tương trợ. Cốt sống đạm bạc, dạy dân tiết kiệm, khuyến khích lối sống giản dị. Nay làm kẻ dẫn dắt nhân dân, nên không thể không lấy đó làm cách trị dân. Thế nhưng những ma đầu đã trộm cái cách của triều đình để khuyến dụ dân chúng rồi, nên người người đều ca tụng đạo ma, đi trợ giúp tà thuyết. Dân ngu không biết gì cả, nghe lời ma, thờ đạo ma, dễ đủ ăn, dễ trợ giúp, thành ra những gì ma đầu nói ra đều tin, tất cả đều theo về với chúng. Thành ra pháp cấm càng nghiêm, thì lại càng không thắng được những điều cấm.”
Chàng đọc đến đây, quay sang nói với Dương Tiêu:
- Dương tả sứ, cái câu “pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm” chính là rõ ràng nói lên việc bản giáo được lòng dân chúng. Tả sứ cho tôi mượn bộ sách này để tôi đọc, hiểu thêm công đức, các việc còn dở dang, cùng di huấn của các vị vãng thánh tiên hiền trong bản giáo, được chăng?
Dương Tiêu nói:
- Chính đang mong được giáo chủ chỉ giáo.
Trương Vô Kỵ cầm quyển sách cất đi, nói:
- Du tam bá và Ân lục thúc thương thế đã đỡ nhiều, ngày mai mình lên đường đi Hồ Điệp Cốc. Tôi còn một việc muốn bàn với Dương tả sứ, có liên quan đến em Bất Hối.
Dương Tiêu tưởng chàng mở miệng cầu hôn, trong lòng mừng lắm, nói:
- Tính mạng của Bất Hối toàn do giáo chủ ban cho, cha con thuộc hạ cảm ân đâu phải chỉ mong báo đáp một ngày mà xong. Giáo chủ có điều gì sai bảo cũng xin vui vẻ tuân theo.
Trương Vô Kỵ bèn đem chuyện Dương Bất Hối hôm trước thổ lộ với mình ra kể lại từ đầu chí cuối. Dương Tiêu nghe xong, ngạc nhiên quá đỗi đến thừ người ra, hồi lâu mới nói:
- Tiểu nữ được Ân lục hiệp ghé mắt đến, quả thực là may mắn cho nhà họ Dương biết chừng nào. Có điều hai người tuổi tác chênh lệch, vai vế kẻ thấp người cao, cái đó... cái đó...
Y ấp úng hai câu “cái đó” rồi không nói thêm được nữa. Trương Vô Kỵ nói:
- Ân lục thúc cũng chưa đến bốn mươi, đang tuổi khỏe mạnh. Bất Hối muội tử có gọi ông ta một câu “Ân thúc thúc”, nhưng thực ra nào có máu mủ liên quan gì đâu, sư môn hai bên cũng khác. Hai người nếu tình đầu ý hợp, nếu như thành được nhân duyên, cái hiềm khích cũ của đời trước nay hoàn toàn xóa sạch, chính là một mỹ sự rất lớn.
Dương Tiêu vốn dĩ là người khoáng đạt, chỉ vì chuyện của Kỷ Hiểu Phù, mỗi khi gặp Ân Lê Đình không khỏi sượng sùng, nghĩ thầm nếu như Bất Hối lại thương ông ta, kết thành tình thân, thì cũng giải quyết được cái khó xử của mình, từ nay Minh giáo và Võ Đương không còn khúc mắc gì nữa, bèn vái một cái thật sâu nói:
- Giáo chủ ngọc thành chuyện này đủ biết lo lắng cho cha con tôi biết dường nào. Thuộc hạ xin cảm ơn trước.
Tối hôm đó, Trương Vô Kỵ truyền tin đó ra, quần hào lục tục chúc mừng Ân Lê Đình. Dương Bất Hối cả thẹn, ẩn ở trong phòng không ló đầu ra. Trương Tam Phong và Du Đại Nham nghe chuyện đó, lúc đầu cũng hơi kinh ngạc, nhưng lập tức mừng cho Ân Lê Đình. Nói đến hôn kỳ, Ân Lê Đình nói:
- Đợi đại sư ca và anh em về núi rồi, tất cả đoàn tụ, lúc đó hãy tính đến chuyện vui cũng không muộn.
Hôm sau Trương Vô Kỵ cùng Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Thiết Quan đạo nhân, Chu Điên, Tiểu Siêu tất cả bọn từ biệt thầy trò Trương Tam Phong, cùng lên đường đi Hoài Bắc.
Dương Bất Hối ở lại núi Võ Đương phục thị Ân Lê Đình. Thời đó chuyện giao tiếp nam nữ tuy nghiêm nhặt nhưng họ đều là người trong võ lâm nên cũng không mấy để ý đến chuyện nhỏ nhặt.
Đoàn người Minh giáo ngày đi đêm nghỉ, theo hướng đông bắc mà đi. Trên đường đâu đâu cũng thấy đất đai hoang phế, dân chúng đói khổ. Miền duyên hải vốn là nơi trù phú màu mỡ, nhưng nay người chết đói đầy đường, dân chúng khốn khó đến cùng cực. Quần hào thương cho nhân dân bị tai kiếp như thế, biết rằng người Mông Cổ tàn ác khốc liệt ắt không còn có thể ở tại trung thổ bao lâu nữa, chính là cơ hội tốt để anh hùng hào kiệt đứng lên chống lại.
Hôm đó đi đến Giới Bài Tập, còn cách Hồ Điệp Cốc không bao xa, đang đi trên đường bỗng nghe tiếng la hét chém giết từ phía trước vọng tới, hai phe nhân mã đang lúc giao tranh. Quần hào giục ngựa chạy lên, qua khỏi một khu rừng rậm, thấy khoảng hơn một nghìn lính Mông Cổ chia thành hai bên đang tấn công một tòa sơn trại. Trên sơn trại phất phới một lá cờ lớn có vẽ hình một ngọn lửa đỏ đang cháy, chính là cờ của Minh giáo. Trong trại nhân số không đông, xem chừng đánh không lại nhưng vẫn cố thủ không chịu thua. Quân Mông Cổ bắn tên như mưa, kêu lớn:
- Bọn phản tặc ma giáo kia, mau mau đầu hàng.
Chu Điên nói:
- Giáo chủ, mình tiến lên chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Phải, mình trước hết tiêu diệt bọn quân quan chỉ huy.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Chu Điên, Thiết Quan đạo nhân nghe lệnh xông ra, xông thẳng vào quân địch, trường kiếm tung hoành, hai tên bách phu trưởng bị chém ngã trước, kế đến tên thiên phu trưởng chỉ huy đội quân bị Ân Dã Vương một đao giết luôn. Quân Nguyên như rắn mất đầu, lập tức loạn cả lên.
Người trong sơn trại thấy có tiếp viện ở bên ngoài, lớn tiếng reo hò. Cổng trại mở ra, một người đàn ông mặt áo đen cầm trường mâu, xông ra trước tiên, quân Nguyên đều dạt cả ra không ai dám chống đỡ. Chỉ thấy đại hán đó trường mâu lấp loáng một cái là một tên lính Mông Cổ bị đâm chết, rơi ngay xuống ngựa. Quân Nguyên kinh hoảng hô hoán luôn mồm, chạy tứ tán.
Bọn Dương Tiêu thấy thanh niên đó uy phong lẫm lẫm, chẳng khác gì tướng nhà trời, ai nấy đều tấm tắc khen ngợi:
- Quả thực là một tướng quân anh hùng.
Lúc này Trương Vô Kỵ đã nhìn rõ diện mạo viên tướng đó, chính là đại ca Thường Ngộ Xuân, người mà chàng hằng mong nhớ. Chỉ hiềm đang lúc giao tranh, không tiện tiến lên gặp nhau. Người của Minh giáo trước sau giáp công, quân Nguyên chết đến năm sáu trăm người, còn lại không dám ham đánh tiếp, chia nhau ra tìm đường chạy.
Thường Ngộ Xuân cầm ngang ngọn giáo cười lớn, hỏi:
- Anh em ở lộ nào đến tương trợ đó? Thường mỗ thật là cảm kích.
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Thường đại ca, có nhớ tiểu đệ chăng?
Chàng tung mình chạy lên, nắm chặt lấy tay y. Thường Ngộ Xuân khom lưng phục xuống lạy, nói:
- Giáo chủ huynh đệ, ta tuy là đại ca thực nhưng lại là thuộc hạ của người, quả thực sung sướng không để đâu cho hết.
Thì ra Thường Ngộ Xuân thuộc về Ngũ Hành Kỳ, do Cự Mộc Kỳ cai quản. Việc Trương Vô Kỵ tiếp nhiệm giáo chủ ra sao đã được chưởng kỳ sứ Văn Thương Tùng cho biết rồi. Từ đó đến nay, y cùng anh em dưới quyền ngày ngày trông ngóng Trương Vô Kỵ, không ngờ quân Nguyên lại tiến đến vây đánh. Thường Ngộ Xuân thấy mình thế ít không đánh lại số đông, cố ý làm như khiếp sợ, dụ quân Nguyên vào trại sau đó sẽ xông ra tiêu diệt. Thế nhưng Trương Vô Kỵ và đồng bọn đến tiếp ứng, y liền thừa thế mở cổng xông ra. Y ở trong Minh giáo chức vị không cao, cho nên liền quay sang chào Dương Tiêu, Ân Thiên Chính tất cả mọi người. Quần hào thấy y là anh em kết nghĩa của giáo chủ, không ai dám tỏ vẻ bề trên, chắp tay hỏi thăm, đãi y cực kỳ lễ mạo.
Thường Ngộ Xuân mời tất cả vào trong, giết dê mổ bò, mở một tiệc rượu kể lại hết mọi sự tình. Mấy năm qua Hoài Nam, Hoài Bắc bị hạn hán liên tiếp, dân chúng khổ sở không sao kể xiết. Thường Ngộ Xuân không cách gì sinh nhai, liền tụ tập một số anh em, làm trò lục lâm thảo khấu sống cũng thoải mái. Trong sơn trại lương thực tiền bạc kha khá liền đem ra cứu tế chẩn bần. Quân Nguyên mấy lần tiến đánh đều không làm được gì.
Cả bọn nghỉ lại sơn trại một đêm, hôm sau cùng Thường Ngộ Xuân tất cả đi Hoài Bắc, liệu rằng quân Nguyên mới thua xong, trong vòng một vài tháng chưa thể nào lại tấn công lần nữa.
Vài ngày sau họ đến bên ngoài Hồ Điệp Cốc. Những giáo chúng đến trước nghe tin giáo chủ giá lâm, xếp thành hàng ra khỏi sơn cốc nghênh tiếp. Lúc đó Cự Mộc Kỳ đã ra lệnh cho anh em dưới trướng xây dựng một số nhà lá nhà gỗ trong Hồ Điệp Cốc để cho các lộ giáo chúng có chỗ nghỉ ngơi. Vi Nhất Tiếu, Bành Oánh Ngọc, Thuyết Bất Đắc đã tới đây từ trước, bẩm rằng chưa tìm ra được tin tức gì về Triệu cô nương cả.
Trương Vô Kỵ tiếp các lộ giáo chúng xong, chuẩn bị tế phẩm, đến mộ vợ chồng Hồ Thanh Ngưu và Kỷ Hiểu Phù thắp hương, nghĩ đến năm xưa lúc ra đi khỏi Hồ Điệp Cốc thê thảm bực nào, còn nay quay trở lại vinh hiển xiết bao, phong quang vô hạn, chẳng khác nào ở một kiếp khác.
Ba ngày sau là đúng ngày rằm tháng tám, trong Hồ Điệp Cốc xây một đài cao, bên trên đốt một ngọn lửa bừng bừng. Trương Vô Kỵ lên đài tuyên bố từ nay xóa bỏ hết các tị hiềm từ trước với các môn phái trung nguyên, cùng ý muốn phản Nguyên kháng Hồ, lại ban bố trở lại giáo qui tôn chỉ hành thiện khử ác, trừ bạo an dân. Các giáo chúng cùng đứng lên, người nào cũng đốt hương cầm trên tay, thề tuân hành lệnh chỉ của giáo chủ quyết không vi phạm.
Hôm đó trên đài lửa bốc ngất trời, khói hương mù mịt, từ xưa tới nay chưa có thời nào Minh giáo thịnh vượng như hôm nay. Các giáo chúng có tuổi thấy khí thế đó, nghĩ đến mấy chục năm nay chia năm xẻ bảy, mấy lần tưởng như sụp đổ đến nơi, mừng quá nhịn không nổi khóc òa lên.
Quá trưa giáo chúng thuộc hạ đến bẩm báo:
- Hạ thuộc Hồng Thủy Kỳ là bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt xin cầu kiến.
Trương Vô Kỵ mừng lắm, đích thân đi ra cửa đón chào. Chu Nguyên Chương, Từ Đạt cùng bọn Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cung kính đứng ở ngoài cổng, trông thấy Trương Vô Kỵ đi ra, tất cả đều khom lưng hành lễ, nói:
- Tham kiến giáo chủ.
Trương Vô Kỵ vẫn thường nhớ đến ơn cứu mạng năm xưa của Từ Đạt, thấy cả bọn mừng không để đâu cho xiết. Lập tức hoàn lễ, tay trái dắt Chu Nguyên Chương, tay phải nắm Từ Đạt cùng tiến vào trong nhà cùng tất cả ngồi xuống. Mọi người ai nấy xin lỗi rồi mới dám ngồi.
Khi đó Chu Nguyên Chương đã hoàn tục, không còn ăn mặc theo lối nhà sư, nói:
- Bọn thuộc hạ phụng lệnh chỉ của giáo chủ, đi đến Hồ Điệp Cốc, vốn định tới sớm để nghe sai bảo, ngờ đâu giữa đường gặp một chuyện cực kỳ quái lạ, bọn thuộc hạ vội vàng đi theo tra cứu khiến cho lỡ mất hội kỳ, xin được giáo chủ tha tội cho.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Không biết anh em gặp chuyện gì thế?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Thượng tuần tháng sáu, chúng tôi nhận được lệnh chỉ của giáo chủ, cả bọn cực kỳ hoan hỉ, anh em đều bàn tính phải đi kiếm món lễ vật gì để mừng giáo chủ. Đất Hoài Bắc đang khổ cực, chẳng có món gì đáng giá, cũng may kỳ hội còn xa, anh em liền lên đường đi Sơn Đông một chuyến. Anh em chúng tôi ngoại rằng quan quân nhận ra được nên giả làm bọn đánh xe lừa, thuộc hạ đóng vai đầu sỏ. Đến phủ Qui Đức, tỉnh Hà Nam chúng tôi gặp một bọn khách thuê xe đi Hà Trạch, Sơn Đông, đi giữa đường, đột nhiên có một bọn người chặn lại, vung đao giơ thương cực kỳ dữ dằn, đuổi hết những người khách trong xe xuống, bảo bọn tôi đi chở khách khác. Lúc đó Hoa huynh đệ đã toan cự lại, Từ huynh đệ liền đưa mắt cho y, bảo y xem rõ tình hình rồi có động thủ cũng chưa muộn. Bọn đó dẫn cả chín cái xe chúng tôi tới một hẻm núi, nơi đó cũng đã có sẵn hơn chục cái xe lớn chờ rồi, thế nhưng ngồi dưới đất lại toàn là sư sãi.
Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Toàn là sư sãi?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Đúng thế. Những hòa thượng đó ai nấy ủ rũ, dáng điệu uể oải, nhưng trong đó có vài người hình dáng không phải tầm thường, người thì thái dương huyệt nổi cao, người thì cao lớn vạm vỡ. Từ huynh đệ liền nói nhỏ cho tôi biết những nhà sư này ai nấy đều võ nghệ cao cường. Bọn người hung ác kia bảo các hòa thượng ngồi lên xe, rồi bắt chúng tôi đi về hướng bắc. Thuộc hạ nghĩ rằng bên trong ắt có gì khác lạ, nên lén dặn các anh em phải đề phòng, tuyệt đối không được làm lộ hình tích. Trên đường đi anh em chúng tôi cố lắng nghe bọn người hung ác kia nói những gì, nhưng bọn đó giữ thật là kín đáo, trước mặt chúng tôi không nói nửa câu. Về sau Ngô Lương huynh đệ thu hết can đảm, nửa đêm mò đến gần cửa sổ nghe trộm, liên tiếp bốn năm đêm, mới dò ra được chút đầu mối, thì ra các nhà sư đó đều ở chùa Thiếu Lâm tại Tung Sơn tỉnh Hà Nam.
Trương Vô Kỵ vốn đã đoán được đôi phần, nhưng cũng “A” lên một tiếng.
Chu Nguyên Chương kể tiếp:
- Ngô Lương huynh đệ lại nghe một trong những gã hung ác kia nói: “Chủ nhân quả thực thần cơ diệu toán, khiến cho ai cũng bái phục. Các cao thủ Thiếu Lâm, Võ Đương sáu môn phái đều lọt vào tay ta hết, từ xưa tới nay đã ai làm được thế bao giờ đâu?”. Lại một người khác nói: “Cái đó cũng chưa lấy làm lạ. Nhất tiễn song điêu, cái hay là làm cho các ma đầu của ma giáo cũng bị quàng vào trong”. Anh em bảy người chúng tôi giả vờ xuất cung[5], ở bên ngoài nhà xí nho nhỏ bàn tính, nếu như việc này có dính cả bản giáo vào trong may sao anh em mình lại biết, thì phải tra xét cho ra ngành ra ngọn, để trình lên cho giáo chủ biết.
Trương Vô Kỵ nói:
- Các vị tính vậy phải lắm.
Chu Nguyên Chương nói:
- Bọn chúng tôi tiếp tục đi lên miền bắc, càng làm ra vẻ ngu ngốc khờ khạo. Thanh Hòa huynh đệ và Đặng Dũ huynh đệ giả vờ tranh nhau năm tiền, tay chân quờ quạng đánh lẫn nhau, rõ ràng chẳng biết tí võ công nào. Bọn hung ác kia vỗ tay cười ha hả, không còn để ý gì đến chúng tôi. Chúng tôi lại luôn mồm lão gia, cung kính hầu hạ chúng, nịnh bợ đủ điều. Ngô Trinh huynh đệ đã tính đi kiếm một loại thuốc mê nào đó giữa đường cho chúng uống ngã lăn ra, cứu các hòa thượng Thiếu Lâm. Thế nhưng tôi suy nghĩ rồi, việc này đầu dây mối nhợ mình hoàn toàn chưa biết, xem ra bọn hung nhân này đều tinh minh, kỹ lưỡng, võ công cao cường, lỡ như đánh rắn không xong, động ổ động hang, lại làm hỏng hết đại sự cho nên không dám hạ thủ. Đến phủ Hà Gian, lại gặp sáu cái xe lớn, cũng có người áp giải, nhưng trong xe toàn là tục gia nhân. Trong khi ăn cơm, tôi nghe một nhà sư chùa Thiếu Lâm chào một người mới đến là: “Tống đại hiệp cũng ở đây ư?”.
Trương Vô Kỵ đứng bật dậy, hỏi dồn:
- Y nói là Tống đại hiệp ư? Người đó hình dáng thế nào?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Người đó thân hình cao gầy, độ năm sáu chục tuổi, ba chòm râu dài, tướng mạo thật là thanh nhã.
Trương Vô Kỵ nghe thấy đúng là hình dáng Tống Viễn Kiều, vừa mừng vừa lo, hỏi thêm hình mạo những người khác, quả nhiên Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng trong số đó nên hỏi tiếp:
- Những người đó đều bị thương hay sao? Hay là chân tay bị xiềng bằng xích sắt?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Không bị xiềng xích gì cả, cũng không thấy có thương tích, ăn uống nói năng không khác gì người bình thường, chỉ có tinh thần uể oải, đi đứng thì lảo đảo. Vị Tống đại hiệp kia nghe nhà sư Thiếu Lâm hỏi thế, chỉ đành cười gượng, không trả lời. Nhà sư toan hỏi thêm gì nữa, kẻ hung ác áp giải liền đến tách hai người ra. Sau đó hai bên cách xa nhau đến hơn chục dặm, không cùng ăn cùng ngủ, thành ra bọn thuộc hạ cũng không còn gặp lại nhóm Tống đại hiệp kia nữa. Ngày mồng ba tháng bảy, chúng tôi đưa quần tăng phái Thiếu Lâm đến Đại Đô[6].
Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Ồ, đến Đại Đô, quả nhiên là triều đình hạ độc thủ, về sau thế nào?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Bọn người hung ác dẫn chúng tôi đưa những nhà sư Thiếu Lâm đến một ngôi chùa lớn ở phía tây, bảo chúng tôi ngủ lại trong đó.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cái miếu đó tên là gì?
Chu Nguyên Chương đáp:
- Khi thuộc hạ vào chùa có ngửng đầu lên nhìn biển ngạch, thấy tên là Vạn An Tự, nhưng cũng vì nhìn mà bị ngay một tên hung ác quất cho một roi. Đêm đó anh em chúng tôi lén bàn nhau, bọn người hung ác kia thể nào cũng phải sát nhân diệt khẩu, không tha mình đâu nên trời tối lập tức chúng tôi trốn đi ngay.
Trương Vô Kỵ nói:
- Sự tình quả là hung hiểm, cũng may bọn hung ác kia không đuổi theo.
Thang Hòa mỉm cười:
- - Chu đại ca cũng đã tính đến nước đó, nên đã sắp đặt sẵn mọi việc. Chúng tôi đi đến các hãng xe lừa ở gần đó bắt bảy tên phu xe, đổi y phục cho bọn họ, sau đó giết luôn cả bảy người trong miếu, mặt mũi đâm chém bầy nhầy, không để cho bọn người hung ác kia nhìn ra được. Sau đó lại giết hết tất cả các phu xe đi cùng, tiền bạc rắc khắp nơi làm như hai bọn tranh nhau tiền bạc giết nhau vậy. Có thế bọn hung nhân quay lại mới khỏi nghi.
Trương Vô Kỵ trong lòng kinh hãi, chỉ thấy Từ Đạt mặt tỏ vẻ bất nhẫn, Đặng Dũ hơi có vẻ xấu hổ, Thanh Hòa nói vẻ mặt đắc ý dương dương, chỉ một Chu Nguyên Chương bình thản làm như không có gì xảy ra cả. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bọn này ra tay độc ác thật, thật là những tay ghê gớm”. Chàng bèn nói:
- Kế đó của Chu đại ca tuy hay thật, nhưng từ nay về sau, chúng ta không nên lạm sát người vô tội.
Đây là huấn dụ của giáo chủ, bọn Chu Nguyên Chương nhất tề đứng lên, khom lưng nói:
- Cẩn tôn giáo chủ lệnh chỉ.
Về sau Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Đặng Dũ, Thang Hòa hành quân giao chiến, quả nhiên tuân theo lệnh của Trương Vô Kỵ, không dám giết người bừa bãi, khiến cho dân tâm qui thuận, làm nên đại nghiệp một đời.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bảy vị của Chu đại ca thám thính được tin tức cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, công này thật không nhỏ. Đợi sắp đặt xong việc kháng Nguyên khởi nghĩa rồi, chúng ta sẽ đi Đại Đô một chuyến để cứu các người đó ra.
Chàng bàn công việc chung xong, lại cùng bọn Từ Đạt nói chuyện riêng, đến việc năm xưa ăn trộm bò của Trương viên ngoại, cả bọn cùng cười ha hả.
Đêm hôm đó, Trương Vô Kỵ tập họp tất cả giáo chúng, đốt lửa thắp hương, tuyên cáo các nơi đều cùng nổi dậy, chung sức kháng lại Nguyên triều, các lộ giáo chúng phải đỡ đần nhau, khiến cho quân Nguyên phải đôn đáo bôn ba việc lớn ắt sẽ thành.
Sau đó định ra phương sách, giáo chủ Trương Vô Kỵ cùng Quang Minh tả sứ Dương Tiêu, Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu chấp chưởng tổng đàn làm tổng soái cho toàn giáo.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính chỉ huy giáo chúng trong Thiên Ưng Kỳ khởi sự tại Giang Nam.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thang Hòa, Đặng Dũ, Hoa Vân, Ngô Lương, Ngô Trinh cùng với nhân mã của Thường Ngộ Xuân cùng Tôn Đức Nhai tại Hào Châu, Hoài Bắc khởi binh.
Bố đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc tất lãnh Hàn Sơn Đồng, Lưu Phúc Thông, Đỗ Tôn Đạo, La Văn Tố, Thịnh Văn Úc, Vương Hiển Trung, Hàn Hiệu Nhi khởi binh tại Dĩnh Châu, Hà Nam.
Bành Oánh Ngọc tất lãnh Từ Thọ Huy, Trâu Phổ Vượng, Minh Ngũ khởi sự tại các châu Cám, Nhiêu, Viên, Tín vùng Giang Tây.
Thiết Quan đạo nhân tất lãnh Bố Tam Vương, Mạnh Hải Mã tại các vùng Tương, Sở, Kinh Tương khởi binh.
Chu Điên tất lãnh Chi Ma Lý, Triệu Quân Dụng tại Từ, Tú, Phong, Bái khởi sự.
Lãnh Thiêm cùng các giáo chúng miền Tây Vực, ngăn chặn và chia cắt các đội quân tiếp viện của Mông Cổ từ Tây Vực đến Trung Nguyên.
Ngũ Hành Kỳ thuộc về quyền điều khiển của tổng đàn, nơi nào gặp nguy thì tới đó cứu viện.
Phương sách xếp đặt đó, mười phần đến chín là do Dương Tiêu và Bành Oánh Ngọc đưa ra. Trương Vô Kỵ công bố ra rồi, giáo chúng reo hò vang động. Trương Vô Kỵ nói:
- Chỉ dựa vào sức của một mình bản giáo mà thôi, khó mà có thể lay chuyển được cơ nghiệp đã có hàng trăm năm của Nguyên triều. Do đó cần phải liên lạc với anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, chung sức lo toan mới mong thành công được. Hiện nay các nhân vật đầu não của võ lâm Trung Nguyên đều bị triều đình bắt giữ cả, tổng đàn phải tìm cách cứu ra trước. Ngày mai các anh em rẽ đi ra khắp nơi, gặp cơ hội thì cứ việc giết quân Thát tử, tổng đàn lập tức đi Đại Đô cứu người trước. Hôm nay tất cả anh em vui say một chuyến, sau này không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Các anh em cần lấy nghĩa khí làm trọng, đại sự trước hết, quyết không nên tranh quyền đoạt lợi, tàn sát lẫn nhau, nếu như có ai giở trò bất nghĩa, tổng đàn quyết không tha thứ.
Mọi người đều lên tiếng đáp ứng:
- Lệnh chỉ của giáo chủ quyết không dám vi phạm.
Tiếng la ó vang cả sơn cốc. Mọi người lập tức trích huyết ăn thề, đốt hương làm chứng, thà chết không phụ đại nghĩa. Đêm hôm đó trăng sáng vằng vặc, các lộ giáo chúng ngồi cả dưới đất, các giáo chúng chấp sự tổng đàn đem bánh nhân chay ra chia cho mọi người. Ai nấy thấy bánh tròn như mặt trăng nên gọi là bánh Trung Thu. Về sau người ta truyền tụng người Trung Hoa ăn bánh Trung Thu để thề giết quân Mông Cổ chính là từ đại hội của Minh giáo mà ra.
Trương Vô Kỵ lại tuyên bố tiếp:
- Bản giáo từ đời trước truyền đến nay, không ăn thịt, không uống rượu. Thế nhưng hiện nay đâu đâu cũng tai ương thành thử gặp gì ăn nấy. Huống chi công việc lớn hàng đầu của anh em ta là khu trừ Thát tử, nếu không ăn thịt cá tinh thần không đủ mạnh, khó có đủ sức chiến đấu. Từ nay trở đi, bãi bỏ qui luật không ăn thịt, không uống rượu trong bản giáo. Chúng ta lập thân xử thế lấy đại tiết làm trọng, ẩm thực cấm kỵ chỉ là thứ yếu.
Cũng từ đó bánh Trung Thu giáo chúng Minh giáo có làm nhân thịt.
Sáng sớm hôm sau, các lộ giáo chúng cáo biệt Trương Vô Kỵ. Ai nấy tuy đều là hào kiệt khẳng khái, nhưng nghĩ đến mai này chiến đấu nơi nơi, biết ai còn ai mất, đại sự nếu như thành, người có mặt hôm nay tại đại hội Hồ Điệp Cốc e rằng còn sống chưa đầy một nửa, nên không khỏi quyến luyến khi chia tay. Lúc đó trước Hồ Điệp Cốc thánh hỏa bốc lên cao, đột nhiên ai đó lớn tiếng hát:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh bốc bừng bừng.
Khi sống có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Lập tức tất cả đều hát theo phụ họa:
Thiêu đốt thân tàn ta,
Hỏa thánh bốc bừng bừng.
Khi sống có gì vui,
Thì chết có gì khổ?
Nguyện hành thiện trừ ác,
Cốt sao cho quang minh.
Bao hỉ lạc bi sầu,
Cũng đều thành cát bụi.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Thương thay cho con người,
Lo buồn sao lắm vậy.
Những câu: “Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy. Thương thay cho con người, Lo buồn sao lắm vậy.” vang động cả Hồ Điệp Cốc. Quần hào ai nấy áo mặc trắng tinh, đi tới trước mặt Trương Vô Kỵ khom lưng hành lễ, ngửng đầu hùng dũng mà đi, không quay đầu nhìn lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến bao nhiêu dũng sĩ thế này, trong vòng một hai chục năm máu sẽ thấm đầy một giải Trung Nguyên, nhịn không nổi nước mắt rưng rưng.
Tiếng hát xa dần, tráng sĩ ly tán, Hồ Điệp Cốc mấy hôm qua ồn ào náo nhiệt nay trở lại vắng lặng như xưa, chỉ còn lại Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Chu Nguyên Chương và vài người khác. Trương Vô Kỵ hỏi kỹ chùa Vạn An tọa lạc chỗ nào, hình dáng bọn người hung dữ kia ra sao rồi nói:
- Chu đại ca, ở một giải Hào Tứ này đang đại loạn, không nên đễ lỡ cơ hội khởi sự. Các vị không cần phải đi theo tôi lên Đại Đô làm gì, thôi mình từ biệt nơi đây.
Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cả bọn cùng nói:
- Xin chúc giáo chủ mã đáo thành công, bọn thuộc hạ chờ đón tin mừng.
Lập tức bái biệt Trương Vô Kỵ, ra khỏi thung lũng lo việc khởi nghĩa.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bọn mình cũng đi thôi. Tiểu Siêu, cô có mang xích, đi lại không tiện, ở lại đây đợi tôi nhé.
Tiểu Siêu rầu rĩ vâng lời, nhưng khi đưa tiễn, đưa đến ba dặm rồi lại thêm ba dặm nữa, vẫn không chịu chia tay. Trương Vô Kỵ nói:
- Tiểu Siêu, cô càng đưa càng xa, coi chừng lúc về lạc đường đó.
Tiểu Siêu hỏi lại:
- Trương công tử lên Đại Đô liệu có gặp Triệu cô nương chăng?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Không chừng sẽ gặp đó.
Tiểu Siêu nói:
- Nếu công tử gặp cô ấy, có thể nhờ cô ấy giúp em một việc được không?
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Cô có chuyện gì muốn nhờ?
Tiểu Siêu nhún vai một cái, đáp:
- Công tử mượn Ỷ Thiên kiếm chặt cái dây xích này, chứ không cả đời em sẽ không được tự do nữa.
Trương Vô Kỵ thấy cô gái thần sắc ủ rũ thật đáng thương, trong lòng không nỡ, liền nói:
- Chỉ sợ cô ta không cho mượn đâu, nhất là lại mượn kiếm đem về tận đây.
Tiểu Siêu nói:
- Thế thì... thế thì, công tử đưa em đến trước mặt cô ấy, nhờ cô ta dùng kiếm chặt một nhát, có phải hơn không?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Nói qua nói lại, chẳng qua cô muốn theo tôi lên Đại Đô chứ gì? Dương tả sứ, ông xem có đem cô ta theo được không?
Dương Tiêu biết Trương Vô Kỵ đã nói thế là đã có ý cho cô ta theo nên nói:
- Cái đó cũng không sao, việc cơm nước áo quần đã có cô này lo, chỉ có điều dây xích leng keng sợ người ta chú ý. Đã thế cô ta giả vờ bị bệnh, chỉ ngồi trên xe, bình thời đừng ra ngoài làm gì.
Tiểu Siêu mừng lắm vội nói:
- Đa tạ công tử, đa tạ Dương tả sứ.
Cô quay qua nhìn Vi Nhất Tiếu nói thêm:
- Đa tạ Vi pháp vương.
Vi Nhất Tiếu cười:
- Sao cô lại cảm ơn tôi là sao? Cô coi chừng tôi mà bệnh trở lại là hút máu cô đó.
Nói xong nhe hai hàm răng trắng nhởn, giả vờ làm dữ. Tiểu Siêu biết y chỉ đùa, nhưng cũng không khỏi sợ hãi nói:
- Ông... ông đừng dọa tôi.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tình quen biết từ khi còn bé chơi đùa với nhau
[2] Kim Dung bị lúng túng cố tình sửa lại để câu chuyện hợp lý. Trong bản mới, Kim Dung cố tình sửa lại hai đoạn, trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù đã có ý cho Ân Lê Đình biết là mình không còn con gái nữa, rồi khi dẫn Dương Bất Hối vào Hồ Điệp Cốc, lại nói cô bé chừng tám chín tuổi. Thế nhưng cử chỉ ngôn ngữ Bất Hối lúc đó vẫn chỉ chừng bốn năm tuổi thôi. (lời người dịch)
[3] Nguyên văn: Kim hạp giáp tầng, Linh cao cữu tàng. Châu hoa trung không, Nội hữu dược phương. Nhị vật tảo trình quân tử tả hữu, hà lao ưu chi thâm dã? Duy dĩ vi vật bất túc nhất cố, tứ chi tì bộc, ủy chư trần thổ, khởi tiện thiếp chi sở vọng da?
[4] Ma trong Ma Ni viết với chữ thủ, Ma trong ma giáo viết với chữ quỉ là con ma.
[5] Đi cầu, tiếng văn hoa
[6] tức Bắc Kinh, tên gọi đời Nguyên
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #37  
Old 11-04-2012, 03:13 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 26

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG


Miệng không nói nhưng lòng ta vẫn nói,
Mặt không còn nhưng chí chẳng hề suy.
Cái danh Hữu Sứ bỏ đi,
Vào trong hang hổ ở khi chờ thời.

Xế trưa hôm đó, ba con ngựa, một chiếc xe cùng lên đường hướng bắc, chẳng bao lâu đã đến kinh đô nhà Nguyên là Đại Đô. Thời đó người Mông Cổ dùng ngựa mà chinh phục nước Tàu, đất đai của họ rộng đến mấy vạn dặm, xưa nay các đế quốc tính theo diện tích không có nước nào lớn bằng. Đại Đô về sau gọi là Bắc Kinh, là nơi nhà vua ở, các tiểu quốc, các sứ thần đến triều cống không biết bao nhiêu mà kể. Bọn Trương Vô Kỵ vừa vào cửa thành đã thấy trên đường rất nhiều người qua lại, một số đông tóc vàng mắt xanh.
Bốn người đi đến phía tây, kiếm một khách điếm nghỉ ngơi. Dương Tiêu chi tiêu rộng rãi, làm như một khách thương buôn bán lớn, gọi ba phòng hạng nhất. Điếm tiểu nhị thấy thế xun xoe đon đả, phục thị rất ân cần.
Dương Tiêu hỏi thăm xem Đại Đô trong thành có cổ tích danh thắng nào, nói chuyện một hồi, làm như vô tình hỏi đến các chùa chiền miếu mạo. Chùa đầu tiên điếm tiểu nhị nói đến là chùa Vạn An:
- Chùa Vạn An có một cái rừng thật lớn, bên trong chùa lại có ba tượng Phật bằng đồng, dù có đi khắp thiên hạ cũng không tìm đâu ra pho tượng thứ tư lớn như thế, ai cũng nên đến xem cho biết. Có điều khách quan thật không may, độ nửa năm nay, trong chùa có các Phật gia tây phiên ở, dân thường không ai dám vào nữa.
Dương Tiêu hỏi:
- Có phiên tăng ở ư? Đến xem cũng không được à?
Tên tiểu nhị le lưỡi, nhìn quanh bốn bề nói khẽ:
- Không phải là tiểu nhân lắm chuyện nhưng khách quan mới đến kinh đô lần đầu, nói năng nên cẩn thận. Những Phật gia tây phiên kia gặp ai thích đánh là đánh, muốn giết là giết, thấy đàn bà con gái xinh đẹp là bắt vào chùa. Đó là do hoàng thượng kim khẩu hạ thánh chỉ cho họ làm. Đâu có ai dám vuốt râu hùm mà lại gần các tây phiên Phật gia đó làm chi?
Các phiên tăng Tây Vực dựa thế người Mông Cổ, hoành hành vô pháp, khinh khi người Hán, Dương Tiêu đã biết từ lâu, có điều không ngờ ngay giữa kinh thành mà không e ngại gì, nên không nói gì thêm với gã tiểu nhị nữa.
Ăn cơm chiều xong, mọi người nhắm mắt nghỉ ngơi một lát, đợi đến canh hai, ba người mới nhảy cửa sổ ra, chạy về hướng tây tìm kiếm. Chùa Vạn An có lầu cao bốn tầng, sau chùa có một tòa bảo tháp mười ba gác nên từ xa đã thấy ngay. Trương Vô Kỵ, Vi Nhất Tiếu, Dương Tiêu ba người thi triển khinh công, chỉ giây lát đã đến trước cửa chùa. Ba người ra hiệu cho nhau, cùng lẻn qua phía bên trái chùa, toan trèo lên bảo tháp, để từ trên cao nhìn xuống quan sát toàn cảnh. Ngờ đâu khi tới cách tháp chừng hai chục trượng, thấy trên tháp có bóng người thấp thoáng, trên mỗi tầng đều có người qua lại tuần tra, dưới chân tháp cũng có đến hai ba chục người canh gác.
Ba người thấy thế, vừa mừng vừa lo, tháp này thủ vệ nghiêm nhặt, các người của phái Thiếu Lâm, Võ Đương hẳn là bị nhốt nơi đây, cũng bõ công đi dò thám. Có điều kẻ địch canh gác cẩn mật như thế, muốn cứu người quả không phải dễ dàng. Huống chi Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê các người ai ai cũng võ công trác tuyệt, vậy mà đều bị bắt cả, hẳn là đối phương có nhiều cao thủ, thủ đoạn lại cũng hơn người, chẳng cần nói thì cũng biết. Trước khi đi, ba người đã bàn tính không thể hành sự cẩu thả, thành thử thấy vậy bèn toan tháo lui.
Ngay lúc đó, trên từng thứ sáu của bảo tháp có ánh lửa lấp loáng, tám chín người cầm đuốc đi chầm chậm đi xuống tầng thứ năm, rồi tầng thứ tư, đến tầng cuối cùng theo cửa chính của bảo tháp đi ra phía chùa. Dương Tiêu vẫy tay, từ bên hông men ra. Trong chùa Vạn An cây nào cây nấy đều là cổ thụ, ba người nấp sau gốc cây, cứ mỗi khi nghe gió thổi lại chạy lên vài trượng. Ba người khinh công tuy cao thật, nhưng cũng sợ bị người ta phát giác, nên cũng phải nhờ đến gió lay, lá rụng mới dám di động.
Cứ như thế khi lên được độ hơn hai chục trượng rồi mới thấy rõ hơn chục người đàn ông mặc áo vàng, trong tay ai cũng có binh khí, áp giải một ông già mặc trường bào, tay áo thụng. Người đó ngẫu nhiên quay đầu lại, Trương Vô Kỵ nhìn rõ mặt chính là chưởng môn phái Côn Lôn Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, trong lòng không khỏi xốn xang: “Quả nhiên cả Hà Thái Xung cũng ở đây”.
Bọn người đó đi vào chùa Vạn An bằng cửa sau, ba người chờ một lát, thấy bốn bề quả không có ai mới theo cửa đó lẻn vào. Ngôi chùa này thật nhiều phòng ốc, qui mô rất lớn, tương tự như chùa Thiếu Lâm, thấy bên trong song cửa một tòa đại điện đèn đuốc sáng trưng, xem chừng Hà Thái Xung bị bắt đem vào đây. Ba người len lén tiến tới, đến bên ngoài điện. Trương Vô Kỵ nằm phục dưới đất, nhìn vào khe hở của cửa sổ. Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng hai bên canh gác, đề phòng bị tập kích. Ba người tuy võ nghệ cao cường, đảm lược lớn, nhưng lúc này đi vào đầm rồng hang hổ, trong bụng không khỏi phập phồng.
Khe cửa rất hẹp, Trương Vô Kỵ chỉ nhìn được nửa thân dưới của Hà Thái Xung, còn bên trong có những ai thì không sao biết được. Chỉ nghe Hà Thái Xung hậm hực nói:
- Ta trúng phải gian kế, lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, muốn xẻo thì xẻo, một lời là xong. Còn bắt ép ta làm ưng khuyển cho triều đình thì nhất định là không được, dù có nói ba năm năm năm cũng chỉ phí lời thôi.
Trương Vô Kỵ ngầm gật đầu, nghĩ thầm: “Vị Hà tiên sinh này tuy không phải chính nhân quân tử, nhưng ở lúc nguy nan mà vẫn vững lòng, không mất khí khái của chưởng môn một phái”.
Lại nghe tiếng một người đàn ông giọng lạnh như tiền:
- Ngươi nếu cố chấp không đổi, chủ nhân cũng không ép. Thế qui củ ở đây ngươi đã biết chưa?
Hà Thái Xung nói:
- Dù có cả mười ngón tay ta đều bị chặt đứt, cũng không chịu đầu hàng.
Người kia nói:
- Được, để ta nói lại một lượt, nếu ngươi thắng được ba người trong chúng ta thì lập tức thả ngươi ra. Còn như nếu thua, thì sẽ bị chặt đứt một ngón tay, giam thêm một tháng, sẽ hỏi lại xem hàng hay không hàng.
Hà Thái Xung đáp:
- Ta đã đứt mất hai ngón tay rồi, có đứt thêm ngón nữa, thì cũng đã sao? Đưa kiếm cho ta.
Người kia cười khẩy:
- Đợi đến khi ngươi cả mười ngón tay đều đứt hết, lúc ấy mới đầu hàng thì bọn ta cũng chẳng cần cái con người bỏ đi ấy làm gì. Đưa kiếm cho y. Ma Ha Ba Tư, ngươi đấu với y xem nào.
Một người giọng ồm ồm đáp:
- Vâng.
Trương Vô Kỵ ám vận thần công lên ngón tay, nhẹ nhàng moi cái khe hở ra một mảng, thấy Hà Thái Xung tay cầm một thanh kiếm gỗ, mũi kiếm có bọc vải, vừa mềm vừa lụt, không cách nào có thể đả thương người khác được. Còn trước mặt y là một phiên tăng cao to, tay cầm một thanh giới đao sáng loáng. Hai bên binh khí kẻ sắc người cùn khác nhau như thế đâu cần phải tỉ thí, ai mạnh ai yếu đã thấy ngay. Thế nhưng Hà Thái Xung không sợ hãi chút nào, vung thanh kiếm gỗ một cái, nói:
- Xin mời.
Nghe soẹt một cái y đã đâm ra một kiếm khí thế thật là độc địa. Kiếm pháp của phái Côn Lôn, quả nhiên có chỗ độc đáo. Gã phiên tăng Ma Ha Ba Tư kia tuy thân thể to lớn nhưng hành động lại nhanh nhẹn, thanh giới đao liền vung ra, nhát nào cũng nhắm chỗ yếu hại của Hà Thái Xung chém tới. Trương Vô Kỵ chỉ coi mấy chiêu đã ngầm kinh hãi: “Sao Hà tiên sinh bước chân bông bênh, hơi thở dồn dập, dường như nội lực mất hết không còn gì cả?”.
Kiếm pháp của Hà Thái Xung tuy tinh diệu, nội lực so với người thường cũng chẳng khác gì, những lợi hại trong kiếm chiêu không sao thi thố được. Được cái là gã phiên tăng võ công kém y hai bực, mấy lần tấn công mãnh liệt đều bị Hà Thái Xung dùng kiếm thuật tinh kỳ chiếm lại tiên cơ. Hai bên đánh tới ngoài năm mươi chiêu, Hà Thái Xung quát lên một tiếng: “Trúng” thanh kiếm từ đông vòng ngược lại phía tây, đâm xéo về trước, nghe cạch một tiếng nhỏ, đã đâm trúng dưới nách gã phiên tăng. Nếu như trong tay y chỉ là một thanh kiếm thông thường, hoặc nội lực không mất, mũi kiếm cũng đã xuyên qua da thịt rồi.
Lại nghe tiếng lạnh lẽo của gã kia nói:
- Ma Ha Ba Tư lui, Ôn Ngọa Nhi lên.
Trương Vô Kỵ nhìn theo tiếng nói, thấy kẻ đó mặt như phủ một lớp khói đen, cằm mọc một chùm râu hoa râm lưa thưa, chính là một trong Huyền Minh nhị lão. Y khoanh tay đứng nhìn, mắt nửa thức nửa ngủ, làm như không quan tâm gì đến chuyện trước mắt.
Chàng nhìn lên trên, thấy trên một cái đôn thấp bọc gấm có một đôi bàn chân mang giày đoạn màu vàng nhạt, đầu giày có đính một hạt minh châu. Trương Vô Kỵ chợt rung động trong lòng, thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn xinh xắn, mắt cá chân tròn trịa, dường như quen quen, chính là đôi bàn chân mà chàng đã nắm được lúc ở Lục Liễu Trang của Triệu Mẫn. Khi chàng gặp lại cô ta trên núi Võ Đương, hai bên là kẻ thù nhưng lúc này nhìn thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn đó, không hiểu vì sao, tự nhiên đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch.
Chỉ thấy Triệu Mẫn đong đưa bàn chân, xem ra nàng đang để hết tâm hết ý vào trận đấu giữa Hà Thái Xung và Ôn Ngọa Nhi. Độ thời gian uống một tuần trà, Hà Thái Xung lại kêu lên: “Trúng”, bàn chân Triệu Mẫn liền dậm trên cẩm đôn một cái, Ôn Ngọa Nhi lại thua trận đó rồi. Lão già mặt đen trong Huyền Minh nhị lão lại nói:
- Ôn Ngọa Nhi xuống, Hắc Lâm Bát Phu lên.
Trương Vô Kỵ nghe tiếng Hà Thái Xung thở hổn hển, nghĩ chắc y liên tiếp đánh bại hai người, tốn rất nhiều hơi sức. Chỉ giây lát lại có tiếng kịch đấu nổi lên, gã Hắc Lâm Bát Phu sử dụng một cây thiền trượng vừa to vừa nặng, múa lên gió nổi vù vù, đèn nến trong điện lúc mờ lúc tỏ, bóng người chẳng khác gì mây bay thấp thoáng qua lại nơi chân Triệu Mẫn. Bỗng thấy trong điện tối sầm, mấy ngọn nến đỏ phía bên phải bị gió từ cây thiền trượng làm tắt ngúm, nghe cách một tiếng, thanh kiếm gỗ gẫy làm đôi. Hà Thái Xung thở dài một tiếng, ném kiếm xuống đất, trận này thế là y thua.
Huyền Minh lão nhân hỏi:
- Thiết Cầm tiên sinh, ông đã chịu hàng chưa?
Hà Thái Xung ngang nhiên đáp:
- Ta không chịu hàng, cũng không phục. Nếu như nội lực ta còn, tên phiên tăng kia đâu có phải là đối thủ của ta?
Huyền Minh lão nhân lạnh lùng nói:
- Chặt ngón tay vô danh bên trái của y, tống trở lại tháp.
Trương Vô Kỵ quay đầu lại, Dương Tiêu xua xua tay, ý muốn nói: “Lúc này xông vào điện cứu người, có thể làm lỡ việc lớn”. Chỉ nghe tiếng chặt tay trong điện, rịt thuốc, băng bó cầm máu nhưng Hà Thái Xung cũng rất cứng đầu, đến tiếng suýt xoa cũng không hé răng. Bọn người áo vàng lại cầm đuốc giải y trở lại giam trong tháp. Bọn Trương Vô Kỵ nép mình ở góc tường, dưới ánh lửa thấy Hà Thái Xung mặt xanh nhợt, nghiến răng bậm môi, thần sắc cực kỳ tức giận.
Cả đoàn người đó đi xa rồi, bỗng nghe một giọng thanh thoát yểu điệu từ trong điện vọng ra:
- Lộc Trượng tiên sinh, kiếm pháp phái Côn Lôn quả là cao siêu, y đâm trúng Ma Ha Ba Tư một chiêu, trước đó y chém phía bên trái, rồi vòng qua bên phải...
Trương Vô Kỵ hé mắt dòm vào, thấy người đang nói chính là Triệu Mẫn. Nàng vừa nói vừa đi vào giữa điện, tay cầm một thanh kiếm gỗ, bắt chước theo Hà Thái Xung vung kiếm ra. Phiên tăng Ma Ha Ba Tư tay múa song đao, cùng nàng tập luyện.
Huyền Minh lão nhân mặt đen mà Triệu Mẫn gọi là Lộc Trượng tiên sinh kia tên là Lộc Trượng Khách, lên tiếng khen ngợi:
- Chủ nhân quả thật thông minh, chiêu đó sử không sai một li nào.
Triệu Mẫn luyện một lần rồi lại luyện lần nữa, chiêu nào cũng đâm trúng nách Ma Ha Ba Tư, tuy chỉ là kiếm gỗ nhưng đâm mạnh như thế, lần nào cũng trúng cùng một chỗ, xem chừng cũng khá đau. Ma Ha Ba Tư tập trung hết tinh thần ra chiêu cho nàng tập, không dám suýt xoa, cũng chẳng dám né tránh.
Nàng luyện thành thục mấy chiêu đó rồi, lại gọi Ôn Ngọa Nhi ra, tập lại chiêu mà Hà Thái Xung đã sử dụng đánh bại y. Trương Vô Kỵ bây giờ đã rõ, thì ra Triệu Mẫn bắt giam các cao thủ tại đây, cho họ uống thuốc mất hết nội lực, bức bách họ đầu hàng triều đình. Bọn họ dĩ nhiên không hàng, nàng liền sai người ra đấu với họ, nàng ngồi bên quan sát, học trộm các chiêu số tinh diệu của các môn phái. Dụng tâm vừa ác độc, bày kế lại tàn ác khiến người ta phải dựng tóc gáy.
Sau đó Triệu Mẫn lại cùng Hắc Lâm Bát Phu đối luyện, đến lúc sau cùng nàng hơi chần chừ, hỏi lại:
- Lộc Trượng tiên sinh, có phải thế này không?
Lộc Trượng Khách trầm ngâm không đáp, quay đầu lại hỏi:
- Hạc huynh đệ, ngươi nhìn có rõ không?
Từ phía góc trái có tiếng người vọng ra:
- Khổ đại sư thể nào cũng nhớ rõ.
Triệu Mẫn cười:
- Khổ đại sư, làm phiền ông một chút đi ra chỉ cho tôi nào.
Chỉ thấy bên phải đi ra một đầu đà tóc dài đến vai, thân thể cao lớn, mặt có đến bảy tám vết sẹo dài vắt ngang, khiến cho bộ mặt thật của y không còn làm sao nhận nổi. Tóc của y màu đỏ hung hung, xem ra không phải người Trung Thổ. Y không nói một lời, cầm lấy thanh kiếm gỗ trong tay Triệu Mẫn, soẹt soẹt soẹt soẹt đâm luôn mấy nhát vào Hắc Lâm Bát Phu, sử dụng chính là kiếm pháp của phái Côn Lôn.
Người đầu đà được gọi là ‘Khổ đại sư” kia bắt chước kiếm chiêu của Hà Thái Xung nhưng cũng không dùng chút nội lực nào, còn gã Hắc Lâm Bát Phu kia thì giở toàn lực ra đấu, đến lúc sau cùng y vung thanh trượng tạt ngang, những ngọn nến lúc trước bị tắt nay đã châm lại cùng tắt phụp. Hà Thái Xung ở chiêu này không né tránh được, đành phải để kiếm gỗ đụng phải thiết trượng, nên bị gãy kiếm chịu thua. Thế nhưng khổ đầu đà liền đổi phương vị, nhẹ nhàng lách qua, chẳng khác gì con nhạn sà xuống chạm mặt nước, điểm vào thiết trượng rồi bay vụt lên.
Bàn tay Hắc Lâm Bát Phu cầm trượng bị kiếm lóc trúng, các huyệt đạo nơi hổ khẩu tê chồn, không cầm vững nữa, bỏ rơi thiết trượng nghe keng một tiếng, những miểng gạch dưới đất văng lên tung tóe.
Hắc Lâm Bát Phu mặt đỏ bừng, biết rằng nếu như kiếm gỗ mà là kiếm thật, tám ngón tay của mình đã đứt lìa, khom lưng nói:
- Bái phục, bái phục.
Y cúi xuống nhặt thiết trượng lên. Khổ đầu đà hai tay cầm thanh kiếm, trả lại cho Triệu Mẫn. Triệu Mẫn cười hỏi:
- Khổ đại sư, chiêu sau cùng đó tinh diệu tuyệt luân, có phải là kiếm pháp phái Côn Lôn không?
Khổ đầu đà lắc đầu. Triệu Mẫn nói tiếp:
- Thảo nào Hà Thái Xung không biết, khổ đại sư, ông dạy cho tôi nhé?
Khổ đầu đà tay không đấu với kiếm, Triệu Mẫn liền dùng kiếm ra chiêu. Luyện đến lần thứ ba, khổ đầu đà hành động nhanh như chớp, không sao tưởng nồi, Triệu Mẫn không sao tấn công được. Tuy kiếm chiêu của nàng có chậm nhưng cứ theo đúng như thế không sai chút nào. Khổ đầu đà xoay người qua, hai tay tống về phía trước, giữ như thế không cử động. Trương Vô Kỵ tấm tắc khen thầm: “Hay thật, quả là cao minh”.
Triệu Mẫn lúc ấy vẫn chưa hiểu rõ, nghiêng đầu nhìn tư thế của khổ đầu đà, suy nghĩ một hồi lúc ấy mới rõ, nói:
- Khổ đại sư, nến trong tay ông có binh khí, trượng đó đã đánh trúng vai tôi phải không? Chiêu này hóa giải cách nào?
Khổ đầu đà giơ tay làm hiệu nắm lấy cây gậy, chân trái đá lên, đầu ngẩng cao, ra vẻ đã đoạt được trượng của địch rồi đá y bay đi. Chiêu đó trông như vụng về nhưng lại thật là khéo léo, là một thức ngoại môn công phu cực kỳ cương mãnh. Triệu Mẫn cười nói:
- Hảo sư phụ, dạy ngay cho tôi đi nào.
Thần tình thật là nhõng nhẽo. Trương Vô Kỵ tim đập bình một cái nghĩ thầm: “Cô nội lực chưa đủ, làm sao học chiêu này được? Thế nhưng cô dáng điệu nũng nịu thế, thực khó mà từ chối”. Khổ đầu đà giơ tay ra hiệu hai lần, ý muốn nói là: “Cô nội lực không đủ không thể học được”. Y xoay mình đi luôn không ngó ngàng gì tới nàng nữa.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Khổ đầu đà võ công cao cường như thế, so ra cũng chẳng kém gì Huyền Minh nhị lão, không biết nội lực y đến đâu nhưng chiêu số thần diệu, quả là một kình địch. Y chỉ ra hiệu mà không nói năng gì, không lẽ y câm chăng? Thế nhưng tai y không điếc. Triệu cô nương đối với y có vẻ kính trọng, có lẽ y là một người lai lịch rất lớn”.
Triệu Mẫn thấy khổ đầu đà không chịu dạy mình nữa, nhoẻn miệng cười không tỏ ra tức giận, nói:
- Gọi Đường Văn Lượng của phái Không Động lên đây nào.
Một lát sau, Đường Văn Lượng bị áp giải tới điện. Lộc Trượng Khách lại sai ba người ra đấu với y. Đường Văn Lượng không vì địch nhân dùng binh khí mà thua sút, y tay không đấu chưởng, thắng được hai trận, đến trận thứ ba, đối thủ thúc đẩy nội lực ra, Đường Văn Lượng không cách nào chống cự nổi, nên cũng bị chặt một ngón tay.
Lần này Triệu Mẫn luyện chiêu do Lộc Trượng Khách đứng bên cạnh chỉ điểm. Trương Vô Kỵ lúc này đã nhìn ra ngọn nguồn, Triệu Mẫn vì nội lực không đủ, biết rằng khó lòng mà tốc thành, nên muốn học tất cả các sở trường của các môn phái để thành một cao thủ. Cách đó cũng có thể làm được vì chiêu số luyện đến mức thật tinh vi, có thể bổ túc cho nội công chưa đủ.
Triệu Mẫn luyện xong chưởng pháp rồi nói:
- Gọi Diệt Tuyệt lão ni lên đây.
Một tên trong đội áo vàng liền bẩm:
- Diệt Tuyệt lão ni đã tuyệt thực năm ngày rồi, hôm nay mụ ta lại cứng đầu lạ thường, không chịu tuân lệnh.
Triệu Mẫn cười nói:
- Cứ mặc cho mụ ta chết đói. Hừ, gọi tiểu cô nương Chu Chỉ Nhược của phái Nga Mi lên.
Bọn thủ hạ liền đáp ứng, quay mình đi ra khỏi điện.
Trương Vô Kỵ vẫn mang một nỗi cảm kích cái ơn Chu Chỉ Nhược năm xưa trên sông Hán Thủy ân cần lo lắng cho mình. Lú ở trên Quang Minh Đính, cô ta lại chỉ điểm cho chàng phương vị Dịch kinh, nhờ thế mới phá được đao kiếm liên thủ của hai phái Hoa Sơn, Côn Lôn. Về sau tuy nàng đâm chàng một kiếm, chẳng qua chỉ vì phải tuân nghiêm lệnh sư môn nên chàng không đem lòng oán trách, lúc này nghe Triệu Mẫn cho gọi nàng lên, trong lòng không khỏi thảng thốt.
Một lát sau, một bọn hoàng y áp giải Chu Chỉ Nhược vào trong điện. Trương Vô Kỵ thấy nàng vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ hơi tiều tụy so với khi ở trên Quang Minh Đính, tuy bị địch nhân bắt giữ, nhưng vẫn bình thản, tưởng như không còn coi chuyện sống chết vào đâu. Lộc Trượng Khách theo lệ hỏi nàng có chịu hàng không, Chu Chỉ Nhược lắc đầu, không trả lời.
Lộc Trượng Khách đang định cử người ra đấu kiếm với nàng, Triệu Mẫn bỗng nói:
- Chu cô nương, cô tuổi trẻ như thế mà đã là cao đệ trong phái Nga Mi, thực đáng khen ngợi. Nghe nói cô là một đệ tử đắc ý của Diệt Tuyệt sư thái, đã kế thừa được kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, có phải vậy không?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Gia sư võ công bác đại tinh thâm, nói đến học kiếm chiêu tuyệt học của lão nhân gia, tiểu nữ tuổi trẻ học vấn nông cạn thực còn xa mới tới được.
Triệu Mẫn cười nói:
- Qui củ ở đây, ai thắng được ba người trong bọn tôi, thì sẽ bình an đưa ra khỏi cửa, không làm khó gì. Tôn sư sao lại quá tự cao thân phận, không chịu hạ mình chỉ dạy cho bọn chúng tôi là sao?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Gia sư thà chết chứ không chịu nhục. Đường đường là chưởng môn phái Nga Mi, đời nào lại chịu cầu xin sống còn dưới tay các người sao? Cô nương nói quả không sai, gia sư coi bọn tiểu nhân âm độc hèn hạ không ra gì, không thể cùng chúng động thủ quá chiêu.
Triệu Mẫn không nổi giận, mỉm cười:
- Thế còn Chu cô nương thì sao?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Tôi tuổi còn nhỏ, có gì dám tự mình quyết định đâu? Sư phụ bảo thế nào thì tôi cứ làm đúng thế.
Triệu Mẫn hỏi:
- Tôn sư bảo cô không động thủ với chúng tôi, có phải thế không? Thế là vì duyên cớ gì?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Kiếm pháp của phái Nga Mi, tuy không dám nói là tuyệt học gì cả, nhưng cũng là võ công của một danh môn chính phái Trung Nguyên, không thể để cho bọn phiên bang Hồ Lỗ vô liêm sỉ học trộm được.
Nàng nói câu đó thần thái thật là nhu mì, nhưng ngôn từ sắc bén, chẳng nể mặt chút nào.
Triệu Mẫn ngạc nhiên, không ngờ dụng tâm của mình lại để Diệt Tuyệt sư thái đoán ra được, nghe Chu Chỉ Nhược nói đến "tiểu nhân âm độc", rồi "vô sỉ chi đồ", không thể không nổi cáu, nghe soẹt một tiếng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã cầm trong tay nói:
- Sư phụ ngươi chửi chúng ta là bọn vô sỉ ư? Được, để ta hỏi ngươi, thanh kiếm Ỷ Thiên này rõ ràng là bảo vật gia truyền nhà ta, sao phái Nga Mi lại ăn trộm là sao?
Chu Chỉ Nhược thản nhiên đáp:
- Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao, trước nay là hai món lợi khí của võ lâm Trung Nguyên, không nghe nói có liên can gì đến bọn phiên bang cả.
Triệu Mẫn mặt đỏ lên, giận dữ nói:
- Hừ, xem ra miệng lưỡi ngươi đáo để lắm. Ngươi nhất định không ra tay phải không?
Chu Chỉ Nhược lại lắc đầu. Triệu Mẫn nói:
- Người khác tỉ thí mà thua, hoặc không chịu động thủ thì ta chặt một ngón tay. Còn con nhãi này chắc nó cho là hoa dung nguyệt mạo cho nên mới kiêu ngạo đến thế, ta cũng chẳng thèm chặt tay nó làm gì.
Nói xong nàng giơ tay chỉ khổ đầu đà nói:
- Để ta làm cho ngươi giống vị đại sư phụ kia, trên mặt rạch hai ba chục nhát kiếm, xem ngươi có còn kiêu ngạo nữa không nào?
Nàng phất tay một cái, hai tên áo vàng liền xông lên, mỗi đứa nắm một bên tay Chu Chỉ Nhược. Triệu Mẫn cười khẩy:
- Muốn rạch mặt ngươi nát như tổ ong, chẳng cần phải sử dụng kiếm pháp tinh diệu của phái Nga Mi làm gì. Chỉ cần mấy miếng mèo quào của ta thôi, để xem có biến ngươi thành xấu như ma được không?
Chu Chỉ Nhược nước mắt doanh tròng, thân hình run rẩy, thấy mũi thanh kiếm Ỷ Thiên chỉ còn cách mặt mình vài tấc, con ác ma này chỉ nhấn một cái, trong nháy mắt mình sẽ chẳng khác gì gã đầu đà quái đản kia ngay. Triệu Mẫn cười hỏi:
- Ngươi có sợ không hả?
Chu Chỉ Nhược không còn dám ương ngạnh, gật đầu. Triệu Mẫn nói:
- Hay lắm, thế là ngươi chịu hàng phải không?
Chu Chỉ Nhược nói:
- Ta không hàng, ngươi cứ giết ta đi.
Triệu Mẫn cười:
- Ta trước nay chưa từng giết người. Ta chỉ rạch nát mặt ngươi ra thôi.
Ánh sáng lóe lên, trường kiếm trong tay Triệu Mẫn đã đâm vào mặt Chu Chỉ Nhược. Đột nhiên nghe keng một tiếng, một vật từ bên ngoài điện ném vào, đẩy Ỷ Thiên kiếm trệch qua một bên. Ngay lúc đó, cửa sổ vỡ tung, một người phi thân nhảy vào, hai tên đang nắm Chu Chỉ Nhược không hiểu sao bay văng lên. Người đó giơ tay đỡ ngang người Chu Chỉ Nhược, tay phải đánh ra, cùng Lộc Trượng Khách hai bên trao đổi một chưởng nghe bùng một tiếng, mỗi người đều lùi lại hai bước.
Mọi người nhìn kỹ hóa ra chính là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Chàng ra mặt chẳng khác gì tướng nhà trời bay xuống, ai nấy đều kinh hãi giật mình, ngay cả loại cao thủ bậc nhất như Huyền Minh nhị lão cũng không biết trước tí nào. Lộc Trượng Khách nghe thấy trường song bị vỡ, lập tức nhảy lên trước mặt Triệu Mẫn hộ vệ, đánh với Trương Vô Kỵ một chưởng, thế nhưng chân không đứng vững, phải lùi hai bước, toan đề khí tiến lên thì thấy trong ngực nóng ran chẳng khác nào rơi vào trong một lò lửa.
Chu Chỉ Nhược thấy đại họa lâm đầu, đâu ngờ lại có người ra tay cứu. Nàng được Trương Vô Kỵ ôm vào người, ép vào bộ ngực bề thế rắn chắc, mũi ngửi thấy một mùi đàn ông đậm đà, vừa mừng vừa sợ, trong một sát na thấy nhẹ nhàng thơ thới tưởng như muốn ngất đi. Trương Vô Kỵ dùng Cửu Dương thần công đối địch với Huyền Minh thần chưởng của Lộc Trượng Khách, chân khí toàn thân trào lên, Chu Chỉ Nhược trước nay chưa từng đụng chạm với da thịt đàn ông, huống chi người con trai đó lại chính là người nàng ngày đêm mơ tưởng, rày ước mai ao? Trong lòng nàng cảm thấy một niềm vui sướng không đâu kể hết, dù cho kẻ địch bốn bề có xông tới chém xuống nghìn vạn nhát dao, nàng cũng không hề sợ hãi.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ xông vào cứu người, lập tức cũng nhảy vào theo, chia ra đứng giữ hai bên. Thủ hạ của Triệu Mẫn thấy biến cố bất ngờ, lúc đầu cũng hơi rối loạn, nhưng thấy bên địch chỉ có ba người, các võ sĩ canh gác trong ngoài nghe tiếng đáp ứng, biết rằng ngoài ra không còn ai khác nữa, lập tức chia nhau chặn giữ các cửa nẻo, chờ lệnh Triệu Mẫn.
Triệu Mẫn không tỏ ra kinh hãi, cũng không giận dữ, chỉ ngẩn ngơ nhìn Trương Vô Kỵ một cái, rồi đưa mắt xuống khối vàng lấp lánh ở góc phòng. Thì ra khi nàng dùng Ỷ Thiên kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Trương Vô Kỵ ném một vật vào, đẩy mũi kiếm ra, vật đó chính là cái hộp vàng nàng đã tặng cho chàng.
Thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén lạ thường, vừa đụng phải, lập tức chặt đứt đôi cái hộp. Nàng nhìn hai mảnh vỡ một hồi, nói:
- Anh ghét cái hộp đó đến thế, không làm hỏng nó thì chưa vừa lòng hay sao?
Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng đầy vẻ u oán, tuyệt nhiên không có vẻ gì trách cứ tức tối, dường như thê thảm không đâu kể xiết, hơi ngẩn ngơ, cảm thấy hối hận, nhỏ nhẹ đáp:
- Tôi không mang ám khí, trong cơn hốt hoảng thò tay vào túi, chỉ có cái hộp đó thôi, thực không có ý gì, mong cô nương tha lỗi.
Ánh mắt Triệu Mẫn sáng lên, hỏi lại:
- Cái hộp này công tử luôn luôn mang theo ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đúng thế.
Chàng thấy Triệu Mẫn chăm chăm nhìn mình, còn mình trong tay vẫn ôm Chu Chỉ Nhược, mặt hơi đỏ lên, vội buông tay ra. Triệu Mẫn thở dài nói:
- Tôi không biết Chu cô nương là... là bạn của anh, nếu không đâu có đối xử với cô ta như thế. Thì ra hai người...
Nói đến đây nàng quay đầu nhìn sang chỗ khác. Trương Vô Kỵ nói:
- Chu cô nương và tôi... chưa có gì hết... chỉ là... chỉ là...
Chàng nói hai tiếng “chỉ là”, không nói tiếp được nữa. Triệu Mẫn lại đưa mắt nhìn hai mảnh hộp vàng dưới đất, không nói gì nhưng trong ánh mắt, thần sắc cũng chẳng khác gì nói lên nghìn lời. Chu Chỉ Nhược trong bụng hơi hoảng: “Con nữ ma đầu này đối với chàng thật là lưu luyến, không lẽ...”
Trương Vô Kỵ bụng dạ đâu có được sâu sắc như hai cô gái, thần sắc của Triệu Mẫn tuy chàng cũng lờ mờ đôi phần nhưng đâu có hiểu thâm ý bên trong. Chàng chỉ thấy rằng Triệu Mẫn tặng cho mình hộp vàng, hoa ngọc để trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình khỏi tàn phế, nay làm hỏng nó đi, xem ra có điều không phải, nên rảo bước tới góc điện cúi xuống nhặt hai mảnh hộp lên nói:
- Để tôi đi kiếm thợ hàn nó lại.
Triệu Mẫn mừng rỡ nói:
- Có thật không?
Trương Vô Kỵ gật đầu, nghĩ thầm cả cô lẫn tôi đều thống suất vô số anh hùng hào kiệt, lại quá coi trọng cái hộp chẳng quan trọng chút nào là sao? Cái hộp vàng này mặc dầu tinh vi nhưng đâu có phải quí giá lạ lùng gì, còn cao bên trong thì đã dùng hết, cái hộp không còn dùng vào việc gì nữa, có hỏng cũng chẳng đáng hối tiếc, có hàn lại thì cũng chỉ là chuyện nhỏ nhoi. Chàng thấy trước mắt còn biết bao nhiêu việc lớn phải làm, vậy mà cô gái này cứ hỏi đi hỏi lại chuyện cái hộp, đúng là bụng dạ đàn bà quan tâm đến những vật nho nhỏ nên bỏ luôn hai mảnh đó vào túi.
Triệu Mẫn nói:
- Thế thì đi đi.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá và những người khác chưa cứu được ra, đâu có thể đi được, nhưng bên địch cao thủ đông như kiến, bên mình lại chỉ có ba người, nói đến cứu người thật không phải dễ bèn nói:
- Triệu cô nương, cô bắt giữ cả bọn đại sư bá tôi là vì cớ gì?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Tôi vốn chỉ có lòng tốt muốn bọn họ ra sức cho triều đình cùng hưởng vinh hoa phú quí. Nào ngờ bọn họ cố chấp không nghe, ép họ không xong đành để từ từ khuyên giải.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, quay sang tiến đến bên cạnh Chu Chỉ Nhược. Chàng ở trong chốn đầy cao thủ mà đi đến nhặt cái hộp rồi đi về tự nhiên tưởng chừng như chỗ không người. Trương Vô Kỵ lạnh lùng nhìn quét qua một lượt, nói:
- Nếu đã như thế, bọn chúng tôi xin cáo từ.
Nói xong cầm tay Chu Chỉ Nhược, xoay người định ra đi. Triệu Mẫn hậm hực nói:
- Các người muốn đi, tôi cũng không giữ lại làm gì. Thế nhưng nếu công tử muốn dẫn Chu cô nương theo, cũng chẳng thèm nói với tôi một tiếng thì công tử coi tôi là hạng người gì?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cái này quả thực tại hạ khiếm lễ. Triệu cô nương, xin cô thả Chu cô nương để cô ta đi cùng với chúng tôi.
Triệu Mẫn không trả lời, đưa mắt ra hiệu cho Huyền Minh nhị lão. Hạc Bút Ông tiến lên một bước nói:
- Trương giáo chủ đến là đến, đi là đi, muốn cứu ai là cứu, thế thì còn mặt mũi nào bọn già chúng tôi nữa? Nếu ông không lưu lại một tuyệt kỹ, anh em chúng tôi không thể tâm phục được.
Trương Vô Kỵ nhận ngay ra tiếng của Hạc Bút Ông, lửa giận bừng bừng, quát:
- Năm xưa khi ta còn bé, bị ngươi bắt được, tính mệnh tưởng như không còn. Hôm nay ngươi còn mặt dày mày dạn đến nói chuyện với ta nữa sao? Tiếp chiêu.
Nghe vù một tiếng, chàng đã đánh ngay một chưởng vào Hạc Bút Ông. Lộc Trượng Khách mới rồi bị chàng cho nếm mùi đau khổ, biết rằng nếu chỉ một mình Hạc Bút Ông thì không phải là địch thủ của chàng, liền tiến lên đánh ra một chưởng. Trương Vô Kỵ tay phải đánh Hạc Bút Ông, tay trái đánh lòn dưới tay phải, trả lại Lộc Trượng Khách một đòn. Đây là chân lực đấu với chân lực, không ai có thể khéo léo ma mãnh gì được cả. Ba người bốn chưởng đụng nhau, ai nấy đều lảo đảo.
Hôm trước trên núi Võ Đương, Huyền Minh nhị lão song chưởng đánh với Trương Vô Kỵ, hai tay kia liền đánh ngay vào người Trương Vô Kỵ, lần này cũng giở đòn cũ, lại đánh thêm hai chưởng ra. Trương Vô Kỵ đã bị đòn một lần, lẽ nào lại còn đi theo vết xe cũ? Cùi chỏ chàng hơi chìm xuống, thi triển Càn Khôn Đại Na Di tâm pháp, nghe bụp một tiếng lớn, tả chưởng của Hạc Bút Ông liền đánh ngay vào hữu chưởng của Lộc Trượng Khách.
Hai người cùng học một thầy, chưởng pháp giống nhau, công lực ngang ngửa, cả hai liền bị chấn động đến cánh tay rã rời, còn làm cách nào mà hai sư huynh đệ lại đánh lẫn nhau, hai người võ công tuy cao, nhưng cũng không sao hiểu được cái áo diệu bên trong. Hai người còn đang kinh hãi tức tối, song chưởng của Trương Vô Kỵ đã đánh đến nơi. Huyền Minh nhị lão lại hai tay đánh ra, một bên thủ, một bên công, chưởng pháp hai người hoàn toàn khác hẳn hồi nãy. Thế nhưng Trương Vô Kỵ lại vừa dẫn vừa kéo, tả chưởng của Lộc Trượng Khách lại đánh trúng ngay hữu chưởng của Hạc Bút Ông. Càn Khôn Đại Na Di thủ pháp thật là khéo léo, tính toán lại thật là vừa vặn, không ai có thể ngờ nổi.
Huyền Minh nhị lão đều kinh hãi thất sắc, thấy Trương Vô Kỵ đánh ra lần thứ ba, không hẹn mà cùng đưa đơn chưởng ra chống đỡ. Ba người chân lực đụng nhau, Huyền Minh nhị lão thấy chưởng lực đối phương có một luồng thuần dương chân khí cuồn cuộn tuôn ra, khó mà đương cự nổi. Trương Vô Kỵ phát chưởng nhanh như gió, nghĩ đến năm xưa bị Hạc Bút Ông đánh một chưởng, trong mấy năm liền chịu biết bao thống khổ, cho nên chưởng đánh vào Lộc Trượng Khách còn nhẹ tay, còn đối với Hạc Bút Ông thật không nể nang chút nào.
Hơn hai mươi chưởng đánh ra, khuôn mặt xanh của Hạc Bút Ông biết thành đỏ rực. Y lại thấy đối phương đánh tới liền nhứ tay trái định hóa giải, tay phải tiếp theo hết sức đánh ra. Chỉ nghe hai tiếng bộp bộp, chưởng của Hạc Bút Ông trúng ngay vai Lộc Trượng Khách, còn chưởng của Trương Vô Kỵ trúng ngay ngực y. Trương Vô Kỵ chưa muốn lấy mạng đối phương, chưởng đó chỉ mới dùng ba thành chân lực, Hạc Bút Ông thân hình loạng choạng ọe một cái, hộc ra một ngụm máu tươi, khuôn mặt từ đỏ thành tím bầm. Nếu Trương Vô Kỵ thừa thế đánh thêm một chưởng thì y sẽ chết ngay tại đương trường, còn Lộc Trượng Khách vai bị trúng đòn, đau đến mặt mày biến sắc, môi cắn chặt bật cả máu ra.
Huyền Minh nhị lão là hai thủ hạ cao cường nhất của Triệu Mẫn, nào ngờ chưa đầy ba mươi chiêu đã bị thương cả. Các thủ hạ võ sĩ khác ai nấy thất sắc, ngay cả Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cũng kinh ngạc không ngờ. Hai người đã từng chính mắt trông thấy Huyền Minh nhị lão ra tay trên núi Võ Đương, Trương Vô Kỵ trúng chưởng bị thương, ngờ đâu chỉ qua vài tháng lại có thể tiến triển nhanh đến thế. Thế nhưng hai người cũng nghĩ ra ngay, Trương Vô Kỵ ở lại núi Võ Đương vài tháng, một mặt chữa trị cho Du Đại Nham và Ân Lê Đình, một mặt học thêm của Trương Tam Phong những võ công tinh vi áo diệu, thành ra Cửu Dương thần công, Càn Khôn Đại Na Di, với tuyệt học của phái Võ Đương là Thái Cực Quyền, Thái Cực Kiếm cả ba dần dần dung hợp thành một. Hai người càng nghĩ càng thấy Trương Tam Phong võ học kỳ tài, quả xứng đáng với bốn chữ “không sao lường nổi”.
Huyền Minh nhị lão đấu chưởng bại rồi, cả hai cùng hú lên một tiếng, đồng thới lấy binh khí ra. Lộc Trượng Khách trong tay cầm một thanh đoản trượng đen nhánh, đầu gậy chia ra hai nhánh như chiếc sừng hươu, không biết đúc bằng chất gì. Còn Hạc Bút Ông tay cầm song bút, đầu bút nhọn như mỏ chim hạc, sáng loáng như gương. Hai người đi theo Triệu Mẫn đã lâu, thế nhưng ngay nàng cũng chưa từng thấy họ sử dụng binh khí bao giờ. Ba món binh khí đó đánh ra, chỉ thấy một làn hắc khí, hai làn bạch khí quấn Trương Vô Kỵ vào giữa. Trương Vô Kỵ không mang binh khí, tay chân không quả có bất lợi, nhưng chàng chẳng sợ hãi gì, muốn thử xem võ công mình đến đâu, có thể tay không đánh với hai cao thủ được không.
Huyền Minh nhị lão tự cho mình nội lực thâm hậu, Huyền Minh thần chưởng là tuyệt học trong thiên hạ nên vừa bước ra liền cùng chàng đối chưởng, ngờ đâu Cửu Dương thần công không gì sánh kịp, chỉ vài chục chưởng đã thua. Binh khí của họ chỉ dùng chiêu số kỳ lạ để thắng, tên của hai người chính là do binh khí mà thành, đoản trượng sừng hươu và song bút mỏ hạc, chiêu nào chiêu nấy vô cùng lợi hại, trên đời ít thấy. Trương Vô Kỵ tập trung tinh thần, giữa ba món binh khí lượn qua lượn lại, công thủ dễ dàng nhưng nhất thời chưa nhìn ra đường đi nước bước của đối phương, muốn thắng cũng không phải dễ. Cũng may là Hạc Bút Ông mới bị thương nên ra chiêu chậm đi một chút.
Triệu Mẫn vỗ tay ba tiếng, trong điện ánh sáng lấp loáng, ba người tấn công Dương Tiêu, bốn người tấn công Vi Nhất Tiếu, còn hai người giơ binh khí chế ngự Chu Chỉ Nhược. Dương Tiêu lập tức cướp ngay được một thanh kiếm múa lên như ánh chớp, thoáng một cái đã khiến một người bị thương. Vi Nhất Tiếu cậy mình có khinh công tuyệt thế, dùng Hàn Băng Miên Chưởng đánh ngã hai người. Thế nhưng bên địch người quá đông, đánh ngã một người thì lập tức có hai người tiến lên.
Trương Vô Kỵ bị Huyền Minh nhị lão ngăn chặn, không cách gì có thể phân thân cứu viện. Chàng và Dương Vi ba người muốn chạy thoát, thật không có gì là khó, nhưng muốn cứu Chu Chỉ Nhược thì thật không sao làm được. Đang trong cơn gấp rút, bỗng nghe Triệu Mẫn nói:
- Tất cả ngừng tay.
Tuy tiếng nàng không lấy gì làm lớn nhưng các thủ hạ đều tuân lệnh, vội vàng lùi ra. Dương Tiêu vứt thanh kiếm xuống đất, Vi Nhất Tiếu cũng đoạt được một thanh đơn đao, thuận tay ném trả nguyên chủ, cười lên ha hả. Trương Vô Kỵ thấy một gã cầm đoản đao dí vào lưng Chu Chỉ Nhược, không khỏi lo lắng. Chu Chỉ Nhược buồn bã nói:
- Trương công tử, xin ba vị cứ tự nhiên. Tâm ý của ba vị, tiểu nữ cực kỳ cảm kích.
Triệu Mẫn cười nói:
- Trương công tử, cô gái hoa nhường nguyệt thẹn này, đến tôi cũng thích. Có phải cô ta là ý trung nhân của công tử không?
Trương Vô Kỵ mặt đỏ lên nói:
- Chu cô nương và tôi biết nhau từ nhỏ. Tại hạ khi còn bé trúng phải Huyền Minh thần chưởng của vị này...
Nói tới đây chỉ vào Hạc Bút Ông:
- ...âm độc vào trong cơ thể, toàn thân khó mà cử động, may nhờ Chu cô nương chăm sóc cho ăn cho uống, cái ân đức đó, không bao giờ quên.
Triệu Mẫn nói:
- Nếu như thế, hai người có cái tình thanh mai trúc mã[1]đấy nhỉ? Anh định lấy nàng làm giáo chủ phu nhân, phải không?
Trương Vô Kỵ mặt lại đỏ lên nói:
- Hung nô chưa diệt, nói gì đến chuyện gia thất.
Triệu Mẫn mặt sầm xuống nói:
- Anh nhất định chống tôi đến cùng, không diệt được tôi thì không được, có phải vậy chăng?
Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:
- Cho đến giờ này tôi nào đã biết gì về lai lịch của cô, tuy trước đây có vài lần tranh chấp, nhưng lần nào cũng là do cô tìm đến gây chuyện với Trương Vô Kỵ, đâu có phải Trương mỗ tìm cô nương kiếm chuyện. Chỉ cần cô nương thả sư bá sư thúc cùng các môn phái võ lâm ra, tại hạ cực kỳ cảm kích, không dám có địch ý với cô nương. Huống chi cô còn sai tôi làm ba chuyện, tại hạ nhất định tận tâm kiệt lực, không dám dối dá cho xong.
Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, trên mặt liền hiện vẻ vui mừng, chẳng khác gì bông hoa vừa hé nhụy, cười nói:
- Ha, thì ra anh vẫn chưa quên.
Nàng quay sang liếc Chu Chỉ Nhược một cái, nói với Trương Vô Kỵ:
- Nếu cô nương này không phải là ý trung nhân của anh, cũng không phải sư huynh sư muội, vợ chồng chưa cưới, thì nếu tôi có hủy dung mạo cô ta cũng có liên quan gì đến anh...
Nàng đưa mắt một cái, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông lập tức cầm binh khí đứng chắn ngay trước mặt Chu Chỉ Nhược, còn một hán tử cầm dao sắc, để luôn vào mặt Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ nếu như muốn xông lên cứu người, cái ải Huyền Minh nhị lão chưa dễ qua được. Triệu Mẫn cười nhạt nói:
- Trương công tử, anh có nói thực cho tôi không nào?
Vi Nhất Tiếu đột nhiên ngửa tay ra, nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, giơ ra xoa xoa mấy cái vào gót giày, cười lên ha hả, mọi người chưa biết y định làm trò quỉ gì, bỗng hấy một ánh xanh thấp thoáng. Triệu Mẫn cảm thấy má mình như có ai sờ phải, nhìn lại Vi Nhất Tiếu thì y đã đứng lại chỗ cũ nhưng tay cầm thêm hai thanh đoản đao, không biết lấy được của ai. Triệu Mẫn chợt động tâm, biết rằng không ổn, chẳng dám đưa tay chùi mặt, vội lấy khăn tay ra lau quả nhiên khăn đen sì bùn đất, đúng là nước bọt trộn chất bẩn nơi gót giày của Vi Nhất Tiếu, càng nghĩ càng thêm lợm giọng.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Triệu cô nương, cô muốn hủy dung mạo Chu cô nương, cái đó cũng tùy cô. Thế nhưng nếu như cô tâm địa độc ác thế, họ Vi này cũng chẳng bỏ qua đâu. Hôm nay cô rạch một đường trên mặt Chu cô nương, họ Vi này sẽ trả lại gấp đôi, rạch cô hai nhát. Cô rạch hai đường, ta rạch lại bốn đường, cô chặt một ngón tay, ta chặt cô hai ngón.
Y nói đến đây, lấy hai thanh đoản đao trong tay gõ vào nhau nghe keng một tiếng, tiếp:
- Họ Vi này nói được là làm được, Thanh Dực Bức Vương nói ra giữ lời, trước nay chưa bao giờ nói ngoa. Cô đề phòng được sáu tháng, một năm chứ làm sao đề phòng được tám năm, mười năm. Còn cô muốn sai người giết tôi ư, chưa chắc đuổi kịp. Cáo từ nhé!
Chữ “nhé” vừa dứt, y đã biến đâu mất, chỉ nghe hai tiếng phập phập, hai thanh đoản đao đã cắm vào trên cột, tiếp theo “Ối chà” “Ối” hai tiếng, hai tên phiên tăng ngồi phịch xuống, trường kiếm trong tay đã bị Vi Nhất Tiếu đoạt mất từ hồi nào, huyệt đạo trên người cũng bị điểm trúng.
Mấy câu đó Vi Nhất Tiếu nói ra nghe chẳng có ghê gớm, nhưng ai cũng biết y không chỉ dọa xuông, thấy khuôn mặt trắng trẻo của Triệu Mẫn có ẩn nét hồng, trên làn da mịn màng như mỡ đông kia bị Vi Nhất Tiếu quẹt mấy đường đất bẩn. Nếu như trong tay y là một con dao, khuôn mặt nàng ắt đã bị hủy rồi. Thân pháp y nhanh như chớp, không khác gì quỉ mị thì dù có cao thủ như Trương Vô Kỵ cũng phải chịu thua. Nếu chạy đường dài, Trương Vô Kỵ còn có thể dựa vào nội lực mà thắng, nhưng nếu chỉ ở bên trong một gian phòng thì tiến thoái nhanh như thế, thiên hạ không ai có thể hơn y được.
Trương Vô Kỵ cúi mình vái chào, nói:
- Triệu cô nương, hôm nay đắc tội vậy xin cáo từ.
Nói xong dắt tay Dương Tiêu, quay mình đi ra khỏi điện, trong bụng biết rằng Triệu Mẫn bị Vi Nhất Tiếu dọa như thế, ắt không dám giở trò gì với Chu Chỉ Nhược đâu.
Triệu Mẫn nhìn bóng hai người đi khỏi, vừa thẹn vừa tức nhưng không dám ra lệnh cho người giữ lại.
Trương Vô Kỵ và Dương Tiêu về đến khách điếm, Vi Nhất Tiếu đã ngồi chờ sẵn. Trương Vô Kỵ cười nói:
- Vi Bức Vương, hôm nay ông làm cho họ tởn mặt, để biết rằng Minh giáo không phải dễ đối phó.
Vi Nhất Tiếu cười:
- Dọa một tiểu cô nương thì có gì là khó đâu. Nàng ta làm ra vẻ hung thần ác sát nhưng nghe tôi dọa hủy dung mạo, bảo đảm là ba ngày ba đêm sẽ không ngủ được cho mà xem.
Dương Tiêu cũng cười:
- Nàng ta ngủ không được thì thật không hay chút nào, bọn mình đến cứu người lại càng khó khăn thêm.
Trương Vô Kỵ nói:
- Dương tả sứ, nói đến cứu người, ông có diệu kế gì không?
Dương Tiêu ngần ngừ nói:
- Bên mình ở đây chỉ có ba người, huống chi hình tích lại đã bại lộ rồi, chuyện này quả là bó tay thôi.
Trương Vô Kỵ sượng sùng nói:
- Tôi thấy Chu cô nương bị nguy nhịn không nổi nên ra tay thành ra làm hỏng đại sự.
Dương Tiêu nói:
- Đã đến nước đó, ai thì cũng không nhịn nổi thôi. Giáo chủ một mình đánh bại Huyền Minh nhị lão làm cho bọn địch mất hết uy phong, cũng là hay lắm. Huống chi bọn chúng biết được là mình đã đến đây rồi, đối với nhóm Tống đại hiệp ắt không dám vô lễ quá đáng.
Triệu Mẫn đối với Hà Thái Xung, Đường Văn Lượng dày vò nhục nhã như thế, Trương Vô Kỵ nghĩ đến Tống đại sư bá, Du nhị sư bá các người đang nằm trong tay kẻ địch, không khỏi lo lắng rất mực. Ba người bàn thảo một hồi nhưng chưa tìm ra phương cách nào, đành phải chia tay đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, trong giấc ngủ Trương Vô Kỵ nghe dường như ngoài cửa sổ có tiếng động, lập tức tỉnh dậy, vừa mở mắt ra, thấy cánh cửa từ từ mở ra, có người thò đầu vào nhìn chàng. Chàng kinh hãi vén màn lên coi, thấy khuôn mặt đó nhằng nhịt đầy vết sẹo, xấu xí đến ghê người, chính là gã khổ đầu đà. Chàng định thần nhảy từ trên giường xuống, thấy y ngơ ngẩn nhìn mình, nhưng xem ra không có ý ra tay làm hại. Trương Vô Kỵ gọi lớn:
- Dương tả sứ, Vi Bức Vương.
Dương Vi hai người ở phòng bên lên tiếng đáp lại. Chàng cảm thấy yên tâm, thấy khuôn mặt khổ đầu đà đã biến mất sau cửa sổ, vội vàng theo đó nhảy ra, thấy khổ đầu đà đang hấp tấp đi ra khỏi cửa chính. Lúc đó Dương Vi đã đến nơi, thấy bên ngoài không còn kẻ địch nào khác, ba người liền đuổi theo khổ đầu đà. Khổ đầu đà đợi ngay góc đường, thấy ba người ra đến lập tức quay mình chạy về hướng bắc, tuy rảo bước nhưng không chạy. Ba người ra hiệu cho nhau, lập tức theo sau.
Khi đó trời mờ mờ sáng, trên đường còn vắng vẻ nên chẳng mấy chốc đã ra khỏi cửa bắc. Khổ đầu đà tiếp tục đi, rẽ vào một con đường nhỏ, rồi lại đi thêm đến bảy tám dặm, đến một cái gò đầy đá tảng, lúc ấy mới ngừng. Y quay lại vẫy tay ra hiệu cho Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu hai người đứng tránh ra, sau đó ôm quyền chào Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ hoàn lễ, trong bụng nghĩ thầm: “Gã đầu đà này đưa bọn ta đến đây không biết có dụng ý gì? Ở đây chung quanh không có ai, nếu như động võ, y một mình địch với ba người, quả thực vô cùng bất lợi. Xem cách thức của y dường như không có địch ý”.
Chàng còn đang tính toán, khổ đầu đà đã gầm gừ, song trảo vồ tới. Y tay trái dùng hổ trảo, tay phải long trảo, mười ngón tay như mười cái móc, thế công cực kỳ mãnh liệt.
Trương Vô Kỵ tay phải vung lên hóa giải chiêu đó hỏi lại:
- Thượng nhân muốn gì? Xin nói rõ tôn ý trước, sau hãy hành động cũng chưa muộn.
Khổ đầu đà không để ý tới, làm như không nghe chàng nói gì, tay trái từ hổ trảo biến thành ưng trảo, tay phải từ long trảo biến thành hổ trảo, một bên đánh vào vai, một bên đánh vào bụng ra tay thật ác độc. Trương Vô Kỵ nói:
- Không lẽ không đánh nhau không được hay sao?
Khổ đầu đà chiêu lại biến ngay, ưng trảo liền thành sư chưởng, hổ trảo đổi ra hạc chủy, một bên đánh ra, một bên mổ tới. Chỉ mới ba chiêu, hai tay y đã biến sáu tư thức liền.
Trương Vô Kỵ không dám coi thường vội vàng thi triển Thái Cực Quyền, thân hình chẳng khác gì nước chảy mây trôi, đấu với y trên đống đá ngổn ngang. Khổ đầu đà chiêu số thật là phức tạp, có khi thì sử dụng võ công hoàn toàn quang minh chính đại, có lúc lại quái dị lạ lùng, toàn là võ công tà phái, rõ là tà chính kiêm tu, uyên bác vô cùng. Trương Vô Kỵ chỉ dùng Thái Cực Quyền để chiến đấu, đến bảy tám mươi chiêu, khổ đầu đà vù một tiếng, đánh một quyền thẳng vào trung cung. Trương Vô Kỵ dùng chiêu Như Phong Tự Bế, vây chặt lấy quyền lực của y, tiếp theo là chiêu Đơn Tiên, tay trái đánh vào lưng, nhưng chưởng đó không dùng nội lực, chỉ đụng tới rồi thu về.
Khổ đầu đà biết chàng hạ thủ lưu tình, nhảy về phía sau, nghiêng đầu nhìn Trương Vô Kỵ một hồi, đột nhiên giơ tay ra hiệu cho Dương Tiêu, muốn mượn thanh trường kiếm đang đeo. Dương Tiêu cởi giây buộc, cả kiếm lẫn bao hay tay thẩy tới trước mặt khổ đầu đà. Trương Vô Kỵ hơi ngạc nhiên thầm hỏi: “Tại sao Dương tả sứ lại đưa binh khí cho kẻ địch mượn là sao?”.
Khổ đầu đà rút kiếm ra khỏi bao, ra hiệu cho Trương Vô Kỵ mượn kiếm của Vi Nhất Tiếu. Trương Vô Kỵ lắc đầu, cầm lấy cái vỏ trên tay y, sử chiêu “Thỉnh Thủ”, dùng bao kiếm làm kiếm, tay trái thành kiếm quyết, múa vòng qua trước mặt, khổ đầu đà liền xeo xéo đâm lại một nhát. Trương Vô Kỵ đã thấy y dạy kiếm cho Triệu Mẫn, biết y kiếm thuật cực kỳ cao minh, nên sử dụng môn võ chàng nghiền ngẫm tập luyện mấy tháng qua trên núi Võ Đương là Thái Cực Kiếm, tập trung tinh thần tiếp chiến. Chỉ thấy đối phương kiếm chiêu khi nhanh khi chậm, chỗ nào cũng dấu những thế lợi hại, nhưng Trương Vô Kỵ vừa ra chiêu sách giải là y thu kiếm lại ngay, sử qua chiêu khác, làm như chẳng chiêu nào sử dụng đến đầu đến đũa.
Trương Vô Kỵ trong bụng khen thầm: “Nếu sáu tháng trước mình gặp phải y, kiếm pháp mình không phải là địch thủ. So với Bát Tí Thần Kiếm Phương Đông Bạch, khổ đầu đà còn cao hơn một mức”.
Chàng nổi lòng yêu tài, không muốn thắng y bằng chiêu số. Khổ đầu đà trường kiếm múa tít lên, sử thế Loạn Phi Phong, lưỡi kiếm dưới ánh mặt trời chẳng khác gì hàng nghìn hàng vạn con rắn vàng đang lồng lộn. Chàng liền nhắm kỹ, đảo ngược cái bao kiếm lại, nghe soẹt một tiếng, bao kiếm đã chụp luôn vào lưỡi kiếm, hai tay khua một vòng nhẹ nhàng nắm ngay hai cổ tay khổ đầu đà, mỉm cười tung mình nhảy vọt về phía sau. Khi đó nếu tay chàng chỉ hơi sử kình thì đã đoạt ngay được thanh trường kiếm. Chiêu này dùng đoạt kiếm thật là hung hiểm, lại cũng thật là khéo léo.
Chàng nhảy về sau, chân chưa chấm đất, khổ đầu đà đã vứt trường kiếm xuống, nghe vù một tiếng đánh ngay một chưởng. Trương Vô Kỵ nghe tiếng gió, biết ngay chưởng này chân lực sung mãn, mạnh mẽ vô cùng, có ý muốn xem y nội công bực nào, chưởng phải xoay lại, đón ngay lấy chưởng của y, chân trái lúc ấy mới đụng đất. Chỉ trong giây lát, nội lực của khổ đầu đà cuồn cuộn tuôn ra, Trương Vô Kỵ liền vận Càn Khôn Đại Na Di cấp thứ bảy, đem nội lực của y dần dần tụ lại, đột nhiên quát lên một tiếng, đánh ngược trở về, không khác nào chiếc hồ tích đầy nước bất ngờ đổ ào đánh vỡ bờ đê, nước cuồn cuộn tuôn ra, bao nhiêu chưởng lực khổ đầu đà đánh tới nay trả lại.
Chiêu đó đem tất cả hơn một chục chưởng của đối phương tụ thành một chưởng đánh ra, trên đời không ai có thể có nội lực mạnh đến thế. Nếu như khổ đầu đà bị trúng chưởng này, ắt sẽ cổ tay, cánh tay, đầu vai, xương sườn tất cả đều gãy nát, đến máu cũng không ọc ra nổi, thành ra một khối thịt bầy nhầy, chết thảm khốc không sao kể xiết.
Khi đó song chưởng hai bên dính chặt vào nhau, khổ đầu đà không cách gì có thể né tránh, Trương Vô Kỵ tay trái liền thò ra nắm ngực y tung lên, thân thể cao to của khổ đầu đà bay vụt lên trời, nghe bình một tiếng lớn, loạn thạch bay tung tóe, chưởng lực ghê gớm đó đã đánh trúng ngay những tảng đá.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu đứng bên thấy tình hình như vậy, cả hai cùng kinh hãi kêu lên. Hai người nghĩ khổ đầu đà cùng giáo chủ tỉ đấu nội lực, ít ra cũng phải thời gian uống một chén trà mới phân cao thấp, đâu ngờ chỉ trong giây lát, đã đến lúc sinh tử quan đầu. Hai người trong bụng tuy có điều muốn nói, nhưng chưa kịp nói ra, đến khi khổ đầu đà bình an rớt xuống, lòng bàn tay hai người đều toát mồ hôi.
Khổ đầu đà hai chân vừa chạm đất, lập tức hai tay để theo hình ngọn lửa đang bốc cháy, đặt lên ngực, cúi mình chào Trương Vô Kỵ, nói:
- Tiểu nhân Quang Minh hữu sứ Phạm Dao, tham kiến giáo chủ. Kính tạ cái ơn tha chết, tiểu nhân vô lễ mạo phạm, mong được tha tội cho.
Y hơn chục năm qua không mở mồm nói, thanh âm không mấy tự nhiên. Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa sợ, gã khổ đầu đà câm này mở miệng nói ra, hóa ra lại là Quang Minh hữu sứ của bản giáo, chuyện đó không sao ngờ được. Chàng vội đưa tay đỡ y lên nói:
- Thì ra là Phạm hữu sứ của bản giáo, thật là mừng không sao kể xiết, người nhà với nhau không cần đa lễ làm gì.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu khi đi theo đến gò loạn thạch đã đoán được ba phần, chỉ hiềm diện mạo Phạm Dao biến đổi quá nhiều, không tiện lên tiếng hỏi. Đến khi y thi triển võ công, hai người đoán ra đến tám chín phần, bây giờ nghe y tự báo tính danh, hai người liền tiến lên, nắm chặt lấy tay y. Dương Tiêu chăm chăm nhìn mặt y một hồi, nước mắt lã chã nói:
- Phạm hiền đệ, ca ca đâu ngờ em lại ra nông nỗi này.
Phạm Dao cũng nắm tay Dương Tiêu nói:
- Đại ca, đa tạ Minh Tôn phù trì, cho mình một vị giáo chủ tài ba đến thế, cho nên anh em mới có dịp gặp gỡ hôm nay.
Dương Tiêu hỏi:
- Huynh đệ sao lại biến thành thế này là sao?
Phạm Dao đáp:
- Nếu như tiểu đệ không tự hủy dung mạo thì làm sao đánh lừa được tên gian tặc Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn?
Ba người nghe rồi mới biết y cố ý hủy khuôn mặt, lẻn vào nằm phục trong phe địch. Dương Tiêu càng thêm thương cảm, nói:
- Huynh đệ, cái đó thật là khổ cho ngươi.
Dương Tiêu, Phạm Dao hai người năm xưa được giới giang hồ gọi tên là “Tiêu Dao nhị tiên”, là hai chàng trai tiêu sái đẹp đẽ, Phạm Dao lại tự mình hủy hoại nhan diện đến như thế, phải biết đau lòng đến chừng nào, người thường khó mà làm nổi. Vi Nhất Tiếu trước nay không mấy hòa thuận với Phạm Dao, bây giờ trong lòng cực kỳ cảm kích, phục xuống lạy nói:
- Phạm hữu sứ, Vi Nhất Tiếu này đến hôm nay mới thực sự phục ngươi.
Phạm Dao quì xuống trả lễ, cười nói:
- Vi Bức Vương khinh công độc bộ thiên hạ, còn hơn năm xưa nhiều, khổ đầu đà đêm qua quả thật mở mắt.
Dương Tiêu nhìn quanh bốn bề nói:
- Nơi này cách kinh thành không xa, tai mắt của kẻ địch rất nhiều, bọn mình đến thung lũng phía trước nói chuyện.
Bốn người chạy thêm mươi dặm nữa, đến sau một cái đồi. Ở đây nhìn chung quanh quan sát được cả dặm, không ngại có người nằm ẩn đâu đó nghe trộm, ở xa lại không nhìn thấy tình cảnh đẳng sau gò. Bốn người ngồi xuống, kể lại đầu đuôi khúc nhôi.
Năm xưa khi Dương Đính Thiên đột nhiên mất tích, các cao thủ Minh giáo tranh chấp địa vị giáo chủ, chẳng ai chịu nhường ai, đến thành chia năm xẻ bảy. Phạm Dao thì cho rằng giáo chủ chưa chết, một mình lê bước giang hồ, đi tìm tung tích của Dương Đính Thiên. Qua mấy năm liền không thấy chút dấu vết nào, về sau lại nghĩ hay là Cái Bang làm hại, lén bắt cóc mấy nhân vật trọng yếu của Cái Bang khảo đả bắt phải khai ra, nhưng không tìm được chút đầu mối nào, lại giết chết không ít bang chúng Cái Bang vô tội. Về sau nghe thấy người trong Minh giáo phân tranh, càng lúc càng thêm khốc liệt, lại có người đi tìm y, muốn y đứng lên làm đầu não. Phạm Dao tuyệt nhiên không có ý muốn tranh ngôi giáo chủ, cũng không muốn vướng vào vòng tranh chấp, nên ẩn trốn thật xa, lại e anh em trong Minh giáo gặp được nên để râu dài, giả làm một thư sinh già cả ngao du đó đây, tiêu dao tự tại.
Một hôm y ở Đại Đô gặp phải một người, nhận ra y là sư huynh của giáo chủ phu nhân Thành Côn, không khỏi ngầm kinh hãi. Lúc đó trong võ lâm đang loan truyền tin tức không ít cao thủ bị người giết chết, trên tường để lại hàng chữ: “Kẻ giết người là Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn”. Y muốn tra xét xem sự thực như thế nào, lại cũng muốn do thám xem tung tích Dương giáo chủ ở Thành Côn, nên đi theo ở xa xa. Y thấy Thành Côn đi vào một tòa tửu lâu, nơi đó đã có hai lão già đợi sẵn, chính là Huyền Minh nhị lão.
Phạm Dao biết Thành Côn võ công cao cường, nên ngồi xa xa giả vờ uống rượu, chỉ nghe loáng thoáng ba người nói chuyện nhưng nghe rõ ràng họ nói câu “cần phải phá hủy Quang Minh Đính”. Phạm Dao nghe thấy bản giáo gặp nạn, không thể thõng tay không ngó ngàng gì, nên len lén đi theo, thấy cả ba người vào phủ Nhữ Dương Vương. Về sau lại tra ra là Huyền Minh nhị lão chính là hai cao thủ đứng đầu trong các võ sĩ của vương phủ.
Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ[2] làm quan Thái Úy, chấp chưởng binh mã đại quyền, trí dũng song toàn, là người tài ba nhất trong triều đình. Nghĩa quân vùng Giang Hoài khởi sự bị y đem quân tiễu trừ, mấy lần nổi lên đều thất bại cũng vì Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ điều binh có phương lược. Bọn Trương Vô Kỵ đã nghe tên y từ lâu, nay mới biết bọn Lộc Trượng Khách là thủ hạ của y, tuy không kinh hãi nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #38  
Old 11-04-2012, 03:18 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 26

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 26

TUẤN MẠO NGỌC DIỆN CAM HỦY THƯƠNG


Dương Tiêu hỏi:
- Thế Triệu cô nương đó là ai?
Phạm Dao hỏi lại:
- Đại ca thử đoán xem nào?
Dương Tiêu đáp:
- Chẳng lẽ cô ta là con gái của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ?
Phạm Dao vỗ tay cười:
- Đúng đó, đoán một lần là đúng ngay. Nhữ Dương Vương sinh được một trai một gái, con trai là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, con gái là cô nương đó, tên Mông Cổ của cô ta là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ là thế tử của Nhữ Dương Vương, sau này sẽ tập vương tước, còn cô gái được phong làm Thiệu Mẫn quận chúa. Cả hai người con đều hiếu võ, ai cũng giỏi võ công. Hai người lại thích ăn mặc như người Hán, nói tiếng Hán, lại lấy một cái tên Hán, con trai là Vương Bảo Bảo, con gái là Triệu Mẫn. Triệu Mẫn chính là từ tước hiệu Thiệu Mẫn quận chúa mà ra.
Vi Nhất Tiếu cười:
- Hai anh em nhà này kể cũng lạ, một người họ Vương, một người họ Triệu, nếu như là người Hán mình thì tức cười đến chết được.
Phạm Dao nói:
- Thật ra họ đều thuộc họ Đặc Mục Nhĩ, nhưng tên lại để trước, phong tục của phiên bang là như thế. Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ cũng có tên Hán, ông ta họ Lý.
Nói đến đây cả bốn người cùng cười ồ[3].
Dương Tiêu nói:
- Triệu cô nương dung mạo hình dáng, có thể nói là một mỹ nữ người Hán. Thế nhưng khi nhìn nàng hành sự, tính tình man dã của con gái phiên bang lập tức hiện ra ngay.
Trương Vô Kỵ đến bây giờ mới biết lai lịch của Triệu Mẫn, tuy vẫn biết nàng hẳn là quí nhân trong triều đình nhưng không ngờ lại là quận chúa con gái của vị đại nguyên soái thống lãnh thiên hạ binh mã. Mấy lần chàng đụng độ với cô ta, lần nào cũng bị lép vế không nhiều thì ít, tuy võ công nàng không bằng mình, nhưng mưu lược tâm cơ, biến hóa vô cùng, chàng quyết không phải là địch thủ.
Phạm Dao lại kể tiếp:
- Thuộc hạ vẫn ngầm thám thính, biết Nhữ Dương Vương quyết tâm tiêu diệt hết các môn phái bang hội. Y nghe theo kế của Thành Côn, việc đầu tiên là làm sao tiêu diệt bản giáo. Tôi suy nghĩ rất kỹ, nội bộ của mình đang phân tranh khốc liệt, ngoại địch lại mạnh mẽ như thế, cái họa diệt vong thật ngay trước mắt, muốn tìm cách cứu thì phải làm sao trà trộn vào trong vương phủ, tìm cho ra âm mưu của Nhữ Dương Vương, rồi tùy cơ giải cứu, ngoài cách đó ra, không còn cách nào khác.
Có điều tôi vẫn ngạc nhiên không hiểu được là Thành Côn vốn là sư huynh của Dương giáo chủ phu nhân, lại là sư phụ của Tạ Pháp Vương, vì sao lại đối đầu với bản giáo một cách quyết liệt tàn độc đến thế. Nguyên do bên trong, không thể nào nghĩ ra được, chỉ nghĩ y tham đồ phú quí diệt bản giáo để lập công với triều đình. Tuy những anh em trong bản giáo biết Thành Côn không nhiều nhưng tôi đã gặp y rồi sợ y sẽ nhận ra và mưu tính của tôi sẽ bị bại lộ nên phải nghĩ cách giết y cho được.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Đúng là như thế.
Phạm Dao nói tiếp:
- Thế nhưng tên này quả thực giảo hoạt, võ công lại cao siêu, tôi liên tiếp ám toán y ba lần đều không thành công. Lần thứ ba tuy có đâm được y một kiếm, nhưng tôi cũng bị y đánh trúng một chưởng, cũng may mà chạy thoát được không đến nỗi lộ hình tích, nhưng cũng bị trọng thương phải dưỡng bệnh hơn một năm mới khỏi.
Khi đó Nhữ Dương Vương phủ đang toan tính việc tiêu diệt giới giang hồ, tôi nghĩ nếu mình có cải trang thì cũng chỉ được một thời gian. Năm xưa tôi cùng Dương huynh cùng nổi tiếng, trên giang hồ không phải là ít người biết mặt biết tên Tiêu Dao nhị tiên, nếu để lâu thể nào cũng lộ hình tích, đành nghiến răng hủy dung mạo mình, giả làm một đầu đà để tóc, dùng thuốc nhuộm đầu rồi đi sang nước Hoa Thích Tử Mô[4] bên Tây Vực.
Vi Nhất Tiếu lạ lùng hỏi:
- Sang bên Hoa Thích Tử Mô? Đường xa hàng vạn dặm, có liên can gì đến vụ này đâu?
Phạm Dao mỉm cười, đang định trả lời Dương Tiêu đã vỗ tay nói:
- Kế đó hay lắm. Vi huynh, Phạm huynh đệ sang nước Hoa Thích Tử Mô, tìm cách biểu diễn tài năng, các vương công Mông Cổ nhất định thu dụng. Nhữ Dương Vương đang lúc chiêu mộ võ sĩ bốn phương, vua chúa nước Hoa Thích Tử Mô muốn lấy lòng Nhữ Dương Vương thể nào chẳng đưa y sang vương phủ để lập công. Như thế, Phạm huynh đệ thành võ sĩ sắc mục từ bên Hoa Thích Tử Mô cống hiến, dung mạo lại biến đổi rồi, không mở miệng nói năng, Thành Côn dù có tài thánh cũng không nhận ra được.
Vi Nhất Tiếu thở dài một tiếng, nói:
- Dương giáo chủ để Tiêu Dao nhị tiên đứng trên Tứ Đại Pháp Vương, quả thực có mắt. Kế mưu đó Ưng Vương, Bức Vương không thể nào nghĩ ra được.
Phạm Dao đáp:
- Vi huynh khen quá lời. Quả đúng như Dương tả sứ đã liệu, tôi ở Hoa Thích Tử Mô giết sư tử đánh hổ, cũng có chút uy danh, vương công nơi đó liền đưa tôi vào Nhữ Dương Vương phủ. Thế nhưng lúc đó Thành Côn không còn ở trong vương phủ nữa không biết đi đâu.
Dương Tiêu liền thuật sơ qua cho Phạm Dao nghe Thành Côn kết oán với Minh giáo ra sao, lén lên Quang Minh Đính đánh trộm thế nào, rồi gian mưu bị Trương Vô Kỵ nói toạc ra sao, sau đấu nội lực với Ân Dã Vương chết như thế nào.
Phạm Dao nghe xong, ngơ ngẩn xuất thần, mới biết bên trong có nhiều điều uẩn khúc, đứng lên, cung kính nói với Trương Vô Kỵ:
- Giáo chủ, có một chuyện thuộc hạ phải thú tội với giáo chủ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Phạm hữu sứ hà tất quá khiêm tốn như thế.
Phạm Dao nói:
- Thuộc hạ đến Nhữ Dương Vương phủ rồi, để làm cho vương gia tin tưởng, tại nơi phố chợ kinh thành Đại Đô này, chính tay đánh chết ba tên hương chủ của bản giáo để cho mọi người biết bản nhân và Minh giáo đã có thù từ trước.
Trương Vô Kỵ không nói gì, nghĩ thầm: “Tàn sát anh em trong bản giáo là một trong năm điều đại cấm kỵ. Dương tả sứ, tứ pháp vương, ngũ hành kỳ các người tranh đoạt chức vị giáo chủ, tuy đánh nhau dữ dội nhưng không ai dám giết anh em trong Minh giáo. Tội này của Phạm hữu sứ thực không nhỏ, nhưng y bản tâm chỉ muốn hộ giáo, chẳng phải vì tư thù, theo lý thì không thể trách phạt y được”. Chàng bèn nói:
- Phạm hữu sứ vì tấm lòng muốn hộ giáo, bản nhân không thể trách cứ được.
Phạm Dao khom mình nói:
- Tạ ơn giáo chủ tha tội.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Vị Phạm hữu sứ này hành sự tàn nhẫn cũng ít ai dám làm. Y dám rạch lên mặt mình bảy tám nhát dao, nếu có giết vài tên hương chủ trong bản giáo chắc y cũng chẳng coi vào đâu. Minh giáo bị người ta gọi là tà ma ngoại đạo, cũng có nguyên do, không biết làm sao mai này y có thể thay đổi cái tà khí đó được?”.
Phạm Dao thấy Trương Vô Kỵ bề ngoài nói là “không thể trách cứ”, nhưng mặt lại lộ vẻ bất bình, liền giơ tay rút phắt ngay kiếm Dương Tiêu đeo ngang lưng, tay trái vung lên, chặt đứt ngay hai ngón tay phải. Trương Vô Kỵ giật mình hoảng hốt, giơ tay giựt lại thanh kiếm, hỏi:
- Phạm hữu sứ, ông ... ông ...sao thế?
Phạm Dao đáp:
- Tàn sát anh em vô tội trong bản giáo là một trọng tội. Phạm Dao đại sự chưa thành, không thể tự tận, chặt hai ngón tay trước, ngày sau sẽ chặt cái đầu trên cổ.
Trương Vô Kỵ nói:
- Bản nhân đã tha có cái lỗi cũ của Phạm hữu sứ rồi, sao lại còn phải khổ như thế? Thân đang phải lo nhiệm vụ quan trọng ắt phải tòng quyền. Phạm hữu sứ, chuyện này về sau không đề cập nữa.
Chàng vội lấy kim sang ra rịt vào vết thương cho y, tự xé vạt áo mình băng lại, biết người này tính quật cường, nói năng không thể xúc phạm đến y mà đến vẻ mặt cũng không thể khó chịu. Chàng nghĩ đến đó, sợ y sau này tự vẫn tạ tội thật, y đã vì bản giáo mà phải chịu biết bao nhiêu đắng cay, trong lòng hết sức cảm động, đột nhiên quì xuống, nói:
- Phạm hữu sứ, ông lập đại công cho bản giáo, xin nhận một lạy này. Nếu ông còn tự tàn hại thân thể, ấy là bảo tôi vô đức vô năng, không xứng đáng với nhiệm vụ giáo chủ. Ông còn tự mình đâm một kiếm, tôi sẽ đâm tôi hai kiếm. Tôi tuổi trẻ kiến thức nông cạn, không rõ sự tình thành ra không phân biệt được thế nào là tốt thế nào là xấu.
Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu thấy giáo chủ quì xuống cũng lật đật lạy phục dưới đất. Dương Tiêu gạt lệ nói:
- Phạm huynh đệ, ngươi không nên làm như thế. Bản giáo hưng suy toàn ở một mình giáo chủ, giáo chủ đã ra lệnh, ngươi nhất quyết không được vi phạm.
Phạm Dao lạy tạ nói:
- Thuộc hạ hôm nay tỷ kiếm thí chưởng, đối với giáo chủ dĩ nhiên kính phục lắm rồi. Khổ đầu đà tính tính ngang ngạnh, xin giáo chủ tha tội cho.
Trương Vô Kỵ hai tay đỡ y dậy. Chuyện này qua rồi, hai người trong lòng càng hiểu nhau hơn, không còn gì ngăn cách nữa. Phạm Dao lại kể tiếp những chuyện đã thấy đã nghe trong Nhữ Dương Vương phủ.
Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ thực sự là người có tài dùng binh, tuy nắm binh quyền nhưng triều chính bị kẻ gian chèn ép, lại thêm đương kim hoàng đế hôn ám vô đạo, khiến cho thiên hạ đại loạn, dân tâm công phẫn, toàn nhờ vào công Nhữ Dương Vương đông chinh tây thảo, đánh dẹp nghĩa quân. Thế nhưng diệt xong nơi này thì nơi khác lại nổi lên, không lúc nào yên, Nhữ Dương Vương vì bận chuyện điều binh khiển tướng nên chuyện tiêu diệt các môn phái bang hội phải dẹp qua một bên.
Mấy năm sau, con trai con gái của y khôn lớn, thế tử Khố Khố Đặc Mục Nhĩ theo cha chỉ huy quân, con gái Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ thì thống suất võ sĩ Mông Hán, phiên tăng Tây Vực tấn công các môn phái. Thành Côn đứng bên trong ngầm giúp nàng đưa ra sách lược, nhân dịp lục môn phái vây đánh Quang Minh Đính, Triệu Mẫn liền dẫn các đại cao thủ, mưu toan thừa cơ ngư ông đắc lợi, diệt luôn cả Minh giáo lẫn sáu đại môn phái. Việc hạ độc ở Lục Liễu Sơn Trang chính là vì thế mà ra. Có điều khi đó Phạm Dao phụng mệnh bảo vệ Nhữ Dương Vương nên không tham dự chuyến du hành Tây Vực, cho nên mãi về sau mới biết. Phạm Dao cho biết thêm, y ở phủ Nhữ Dương Vương tuy không lộ hình tích nhưng vì từ Tây Vực đến, Triệu Mẫn cũng không cho y tham gia chiến dịch, có lẽ đó cũng là chủ ý của Thành Côn không chừng.
Triệu Mẫn dùng độc dược các phiên tăng hiến cho nàng là Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, bỏ vào đồ ăn thức uống của sáu đại môn phái từ Quang Minh Đính trở xuống. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán này không sắc, không mùi, bỏ vào nước trà thì ai mà nhận ra cho được? Chất độc dược này một khi phát tác, lập tức toàn thân gân cốt mềm nhũn, một vài ngày sau, tuy có thể hành động như thường nhưng nội lực hoàn toàn không thể phát huy, cho nên các cao thủ của lục đại môn phái viễn chinh Quang Minh Đính chỉ trong vòng một tháng đều bị sa lưới.
Riêng phái Thiếu Lâm thì đoàn người thứ ba do Không Tính chỉ huy kẻ hạ độc sơ xuất bị lộ, hai bên liền giao tranh. Không Tính bị "A Tam" giết chết, những người còn lại không địch nổi Huyền Minh nhị lão, thần tiễn bát hùng cùng bọn "A Đại", "A Nhị", "A Tam" nên chết mất hơn chục người, số còn lại thì bị bắt cả.
Sau đó là tiến đánh ngay các cơ sở căn bản của các môn phái, đầu tiên là phái Thiếu Lâm. Chùa Thiếu Lâm phòng vệ nghiêm mật, muốn lẻn vào hạ độc thật không phải dễ, nếu tại các khách điếm nơi thị trấn trên đường đi bỏ thuốc độc thì dễ dàng hơn. Còn không hạ độc thì chỉ có cách lấy thịt đè người, ỷ đông tấn công vào.
Phạm Dao nói tiếp:
- Quận chúa muốn hạ thủ chùa Thiếu Lâm lại e không đủ người nên mới điều từ Đại Đô tới một nhóm tiếp viện, chính là do tôi dẫn đầu, cũng may là đi bắt bọn sư chùa Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm trước nay vẫn vô lễ với bản giáo, cho chúng nó nếm mùi đau khổ thật không gì sướng bằng. Nếu có đem bọn sư sãi thối tha của chùa Thiếu Lâm giết sạch, khổ đầu đà này cũng chẳng thèm nhíu mày. Giáo chủ, chắc giáo chủ cũng muốn thế phải không? Ha ha.
Dương Tiêu vội cướp lời:
- Huynh đệ, vậy những pho tượng La Hán bị xoay lại cũng là do tay ngươi phải không?
Phạm Dao cười đáp:
- Tôi thấy quận chúa sai người đục mười sáu chữ sau lưng tượng, ý muốn giá họa cho bản giáo, nên lẻn quay trở lại, xoay các tượng La Hán. Đại ca, các người quả thực tinh tế, vậy mà vẫn nhìn thấy được. Khi đó đại ca có nghĩ là tiểu đệ chăng?
Dương Tiêu đáp:
- Bọn ta suy nghĩ rằng bên trong bọn đối đầu, hình như có một vị cao thủ ẩn bên trong duy hộ bản giáo, nhưng đâu có ngờ được rằng đó là hảo huynh đệ cùng hàng với ta hồi xưa.
Cả bốn người cùng cười ha hả. Dương Tiêu liền nói sơ qua cho Phạm Dao nghe, Minh giáo từ nay quyết định làm hòa với các môn phái khác, bỏ hết hiềm khích để cùng chung sức kháng quân Mông Cổ, do đó muốn cứu các cao thủ ra. Phạm Dao nói:
- Địch đông ta ít, chỉ có bốn người mình thật khó mà làm được việc này. Chi bằng đi tìm giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán cho bọn sư sãi thối tha, ni cô khắm khú, cùng bọn mũi bò uống, đợi chúng nó phục hồi công lực rồi cùng xông ra, đánh cho bọn Thát tử trở tay không kịp, sau đó tất cả chạy ra khỏi Đại Đô.
Minh giáo trước nay vẫn thù nghịch với các phái Thiếu Lâm, Võ Đương và danh môn chính phái nên lời ăn tiếng nói của y với lục môn phái chẳng nể nang tí nào. Dương Tiêu cứ nháy mắt với y luôn nhưng Phạm Dao chẳng hề để ý. Trương Vô Kỵ cũng không coi những tiểu tiết đó ra gì, vỗ tay nói:
- Lời của Phạm hữu sứ đúng lắm, nhưng làm sao có được giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bây giờ?
Phạm Dao nói:
- Tôi trước nay không mở lời, thành thử quận chúa đối với tôi tuy có chút kính nể, nhưng không bao giờ bàn những chuyện quan trọng cả. Chỉ một mình nàng nói, người kia không trả lời nửa câu chẳng mất hứng sao? Huống chi tôi lại từ một tiểu quốc bên Tây Vực sang, nàng ta không coi là kẻ tâm phúc, thành ra giải dược của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán ra thế nào tôi không hề hay biết. Tôi chỉ biết là chuyện này trọng đại nên cũng cố gắng để ý. Nếu tôi không nhầm, độc dược và giải được do Huyền Minh nhị lão chia nhau cầm giữ, một kẻ cầm độc dược, một kẻ cầm giải dược, nhưng luôn luôn đổi qua đổi lại.
Dương Tiêu thở dài:
- Cái nàng quận chúa nương nương đó quả thật lắm mưu mẹo, đàn ông con trai bình thường không sao theo kịp. Chẳng lẽ đến cả Huyền Minh nhị lão cô ta cũng chưa tin hẳn hay sao?
Phạm Dao đáp:
- Thứ nhất cô ta không yên tâm, thứ nhì làm như thế càng thêm kỹ càng. Chẳng hạn như mình lúc này định ăn trộm thuốc giải, đâu có biết được đang do Lộc Trượng Khách giữ hay là do Hạc Bút Ông giữ. Hơn nữa, nghe nói thuốc độc và thuốc giải hương vị màu sắc hoàn toàn giống nhau, ngoài người giữ thuốc ra không ai biết được. Người ngoài ăn trộm thuốc giải, không chừng lại lấy nhằm thuốc độc. Thập Hương Nhuyễn Cân Tán lại có một chỗ rất ghê gớm là người trúng phải thuốc độc rồi, gân cốt mềm nhũn không cử động được, thế nhưng nếu uống thêm thuốc độc lần thứ hai, dù chỉ một tí xíu, lập tức máu chạy ngược lên, ngừng thở chết liền không thuốc gì cứu được.
Vi Nhất Tiếu le lưỡi nói:
- Nếu thế thuốc giải không thể nào lấy nhầm được.
Phạm Dao nói:
- Nói thế nhưng cũng không có gì quan trọng. Bọn mình cứ lấy thuốc của cả Huyền Minh nhị lão, kiếm một tên đệ tử tép riu nào của phái Hoa Sơn, Không Động gì đó cho uống thử, nếu y chết thì là thuốc độc, thế có phải tiện không?
Trương Vô Kỵ biết tà tính của y rất nặng, không coi tính mạng người khác ra gì, chỉ mỉm cười nói:
- Cái đó không được. Thế lỡ mình tốn bao nhiêu công sức lại chỉ ăn cắp được toàn là thuốc độc cả thì sao?
Dương Tiêu vỗ đùi nói:
- Giáo chủ nói vậy phải lắm. Đêm hôm qua mình đến quấy rối như thế, chắc làm cho quận chúa sợ lắm rồi, có thể giữ luôn giải dược ngay bên mình. Theo ý tôi, mình phải tra xét rõ ràng xem ai giữ thuốc giải trước đã, sau đó mới tính kế mà làm.
Y trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Huynh đệ, Huyền Minh nhị lão kia thích cái gì hơn cả?
Phạm Dao cười đáp:
- Lộc hiếu sắc, Hạc hiếu tửu thế thôi chứ chẳng còn thích gì nữa.
Dương Tiêu bèn hỏi Trương Vô Kỵ:
- Giáo chủ, có loại thuốc gì làm cho người ta gân cốt mềm nhũn, giống như là uống phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chăng?
Trương Vô Kỵ suy nghĩ một chốc, cười nói:
- Nếu muốn cho toàn thân không còn chút hơi sức nào, mơ mơ màng màng buồn ngủ thì không khó, nhưng dùng cho cao thủ thì chỉ được nửa giờ dược lực sẽ hết, còn để được lâu dài như Thập Hương Nhuyễn Cân Tán thì không có cách nào cả.
Dương Tiêu cười đáp:
- Được nửa giờ cũng đủ rồi. Thuộc hạ có một kế này, không biết có dùng được hay không, nhờ giáo chủ xem thế nào. Nói là kế thực không bõ cười. Phạm huynh đệ làm sao dụ được Hạc Bút Ông đi uống rượu, trong rượu bỏ thuốc giáo chủ chế ra. Sau đó Phạm huynh đệ sẽ giải vờ làm dữ nói là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán của Hạc Bút Ông, lúc đó giải dược ở trong tay ai là mình biết liền, thừa cơ đoạt lấy đem ra cứu người.
Trương Vô Kỵ nói:
- Kế đó có dùng được hay không, cũng còn tùy tính tình Hạc Bút Ông ra sao mới biết được, Phạm hữu sứ ông thấy sao?
Phạm Dao duyệt lại trong óc từ đầu chí cuối một lần, thấy kế đó tuy giản dị nhưng không có gì sơ hở liền nói:
- Tôi xem kế của Dương đại ca có thể làm. Hạc Bút Ông tính tình độc ác, nhưng mưu mẹo khôn ngoan không bằng Lộc Trượng Khách, nếu giải dược mà ở trong người Hạc Bút Ông, tôi võ công tuy không bằng y nhưng có thể đối phó được.
Dương Tiêu nói:
- Thế nếu giải dược ở trong người Lộc Trượng Khách thì sao?
Phạm Dao nhíu mày nói:
- Nếu thì thì khó thật.
Y đứng thẳng lên, tại bên cạnh ngọn đồi đi qua đi lại, một hồi lâu, bỗng vỗ tay một cái nói:
- Nếu như thế, Lộc Trượng Khách khôn ngoan hơn người, đánh lừa y thể nào y cũng nhìn ra được, chỉ có cách nắm đúng chỗ nhược của y. Nếu mình lấy ra để uy hiếp, y tính nặng nhẹ hơn thiệt, có chịu khuất phục hay không mình chưa biết. Đương nhiên chuyện ngang tàng thế này là chuyện mạo hiểm rất lớn, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào hay hơn.
Dương Tiêu hỏi:
- Lão ta có tâm sự gì vậy? Y già người trẻ bụng, có cái thóp nào huynh đệ nắm được chăng?
Phạm Dao đáp:
- Mùa xuân năm nay, Nhữ Dương Vương nạp thiếp, có mời mấy người chúng tôi đến hoa sảnh ăn tiệc. Nhữ Dương Vương muốn khoe người thiếp của mình xinh đẹp nên sai tân nương ra chuốc rượu. Tôi thấy đôi mắt cú vọ của Lộc Trượng Khách nhìn hau háu, mồm chảy nước dãi, dường như thèm muốn lắm.
Vi Nhất Tiếu hỏi:
- Rồi sau ra sao?
Phạm Dao đáp:
- Sau chẳng sao cả, đây là ái thiếp của vương gia, dù y lớn mật đến mấy, cũng chẳng dám giở trò gì.
Vi Nhất Tiếu nói:
- Chỉ nhìn hau háu thì đâu đã tội vạ gì?
Phạm Dao nói:
- Chẳng tội vạ gì thì mình làm cho thành tội vạ. Chuyện này phải nhờ đến Vi huynh thi triển khinh công, đến cướp ái cơ của Nhữ Dương Vương đem về, vứt vào giường của Lộc Trượng Khách. Cha già dê đó mười phần đến tám chín sẽ nhịn không nổi, thể nào cũng làm láo làm lếu một phen. Nếu y có cố gắng gò cương bờ vực, tôi cũng cứ xông vào phòng, khiến cho y có mồm cũng không cãi được, có rửa cũng không sạch tội, chỉ có nước hai tay dâng giải dược lên thôi.
Dương Tiêu và Vi Nhất Tiếu cùng vỗ tay cười nói:
- Cái kế chặn họng này quả là cao minh. Gã Lộc Trượng Khách kia gian ngoan cách mấy cũng sẽ bị ê mặt.
Trương Vô Kỵ vừa tức cười vừa ngại ngùng nghĩ thầm những người thuộc hạ mình hành sự gian trá âm độc, so với các thủ hạ của Triệu Mẫn cũng chẳng khác gì, chỉ điều một bên thiện, một bên ác, hai bên cách biệt rất xa, lấy gậy ông đập lưng ông, có thể nói là dĩ độc công độc. Chàng nghĩ đến đó cũng thấy yên tâm, mỉm cười nói:
- Chỉ có điều làm lụy đến người ái cơ của Nhữ Dương Vương.
Phạm Dao cười đáp:
- Tôi sẽ xông ngay vào phòng, không để cho Lộc Trượng Khách sơ múi gì, thế là xong.
Sau đó bốn người bàn tính cẩn thận, lấy được giải dược rồi sẽ do Phạm Dao đem vào trong tháp, chia cho cao thủ các phái Thiếu Lâm, Võ Đương uống. Trương Vô Kỵ và Vi Nhất Tiếu ở bên ngoài tiếp ứng, một khi thấy Phạm Dao nổi lửa tại chùa Vạn An, thì cũng đốt nhà dân chúng chung quanh, quần hiệp sẽ thừa cơ náo loạn chạy được ra ngoài. Dương Tiêu sẽ mua ngựa trước, dự bị xe cộ chờ sẵn nơi cửa tây, những người chạy ra sẽ chia nhau lên chạy tới Xương Bình gặp lại. Trương Vô Kỵ nghĩ đến chuyện đốt nhà dân chúng, không khỏi làm liên lụy người vô tội, Dương Tiêu nói:
- Giáo chủ, mọi việc không phải lúc nào cũng hai mặt đều chu toàn. Bọn mình cứu được quần hiệp sáu môn phái ra, mai sau nếu đuổi được Thát tử đó là tạo phúc cho muôn vạn dân lành, hôm nay nếu có phải hại vài trăm gia đình, cái đó cũng không đáng gì.
Bốn người kế sách đã định rồi, chia nhau vào thành lo liệu. Dương Tiêu thì đi lo mua ngựa mua xe, Trương Vô Kỵ điều chế một liều thuốc mê. Để cho bớt mùi thuốc, chàng phải thêm ba loại hương liệu để khi trộn vào rượu rồi, uống vào vẫn thấy thơm ngon. Vi Nhất Tiếu đi ra chợ mua một cái túi vải lớn, chờ trời tối sẽ lẻn vào Nhữ Dương Vương phủ cướp người ái cơ của vương gia.
*
* *
Phạm Dao và Huyền Minh nhị lão vì có nhiệm vụ canh chừng các cao thủ của lục đại môn phái nên đều ở luôn trong chùa Vạn An, còn Triệu Mẫn thì ở trong vương phủ, đến tối mới đánh xe tới chùa học võ. Phạm Dao mang thuốc mê về chùa Vạn An, nghĩ đến hơn hai mươi năm qua Minh giáo chia năm xẻ bảy, bây giờ mới có cơ trung hưng, không uổng công lao mình phải chịu muôn vàn khổ sở, trong lòng cảm thấy bồi hồi. Trương giáo chủ võ công cao cường, lại là người thật là nhân nghĩa khiến ai ai cũng tâm phục nhưng vì thiếu cái tính quyết liệt độc địa, không khỏi có tính mềm yếu đàn bà quả là mỹ trung bất túc.
Y ở bênh cánh tây, còn Huyền Minh nhị lão thì ở tại Bảo Tương tinh xá nơi hậu viện. Bình thời y cũng ngại hai gã này, sợ có khi lộ tẩy nên rất ít giao du, thành thử hai bên ở xa xa nhau, lúc này nghĩ đến việc mời Hạc Bút Ông đi uống rượu mà sao không lộ hình tích quả không phải dễ.
Y nhìn về phía sau chùa thấy mặt trời đang ngả về tây, hơn một nửa của mười ba tầng bảo tháp đã khuất nắng, mái ngói lưu ly trên đỉnh cũng nhạt dần. Y chưa biết phải tính sao, chắp hai tay sau lưng đi lững thững về phía hậu viện, đột nhiên ngửi thấy mùi thịt thật thơm từ hàng hiên đối diện với Bảo Tương tinh xá tỏa ra, chính là nơi ở của Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi, hai người trong thần tiễn bát hùng.
Phạm Dao chợt động tâm, đi đến trước sương phòng giơ tay đẩy cửa, mùi thịt liền bay thốc vào mũi. Lý Tứ Tồi đang ngồi xổm dưới đất đang quạt lấy quạt để một cái lò lửa đỏ hồng, trên lò để một cái nồi đất lớn, hương thơm từ đó bay ra. Tôn Tam Hủy thì đang xếp bát dọn đũa, rõ ràng hai tên đang sắp sửa đánh chén.
Hai người thấy khổ đầu đà đẩy cửa bước vào, giật mình kinh hãi, nhìn y mặt mày đăm đăm không khỏi chột dạ. Chúng mới rồi đánh chết một con chó vàng ngoài đường, chặt bốn chân len lén đem về phòng nấu ăn. Chùa Vạn An là chỗ sư sãi thanh tu, ở trong chùa đun thịt chó quả thực không phải. Chuyện này giá như người ngoài nhìn thấy thì cũng không đến nỗi nào nhưng khổ đầu đà này lại là đệ tử nhà Phật, y mà nổi nóng, đánh cho một trận, hai đứa không sao địch lại. Võ công khổ đầu đà đã cao cường, huống chi lại lỗi về phần họ, nếu như bị đòn cũng đáng.
Hai đứa đang phập phồng lo sợ, thấy khổ đầu đà đi đến bên bếp lửa, mở vung ra, nhìn vào rồi hít một hơi dài dường như muốn nói: “Thơm quá, thơm quá!”. Y đột nhiên thò tay vào trong nồi, không kể nước đang sôi sùng sục, nhón lấy một miếng thịt, bỏ vào mồm nhai nhồm nhoàm, chỉ giây lát ăn hết sạch. Y liếm môi xem chừng có vẻ ngon lắm khiến Tôn Lý hai người mừng không để đâu cho hết, vội nói:
- Mời khổ đại sư ngồi xuống đây, ngồi xuống đây. Chúng tôi có biết đâu lão nhân gia cũng thích món thịt cầy.
Khổ đầu đà không ngồi, lại thò tay vào nồi bốc thêm một miếng thịt khác, ngồi chồm hổm ngay bên bếp lửa mà ăn. Tôn Tam Hủy muốn lấy lòng y, rót ngay một bát rượu đem đến. Khổ đầu đà cầm bát rượu lên ực một hơi, đột nhiên nhổ toẹt xuống đất, tay trái đưa lên xua xua nơi mũi, ý nói rượu cay quá, uống không vừa miệng, đứng lên tất tả bước ra khỏi phòng.
Tôn Lý hai người thấy y hầm hầm bỏ đi, lại đâm lo, nhưng chẳng mấy chốc lại thấy y tay cầm một bầu rượu lớn quay lại, lúc ấy mới hoàn hồn, vui mừng nói:
- Đúng vậy, đúng vậy. Rượu của chúng tôi không phải loại ngon, khổ đại sư có mỹ tửu đem tới thì thật còn gì bằng.
Hai người vội vàng dọn bàn xếp bát cung kính mời khổ đầu đà ngồi chỗ thượng thủ, đem thịt chó bày đầy một mâm để ngay trước mặt. Khổ đầu đà võ công thật cao cường, là loại đệ nhất trong đám thủ hạ của Triệu Mẫn, bình thời thần tiễn bát hùng đâu có dám vói cao, hôm nay may sao lại mời được y ăn thịt chó, biết đâu lão nhân gia lại vui lòng truyền cho một hai tuyệt chiêu, thật cả đời dùng không hết.
Khổ đầu đà mở chiếc nút gỗ trên đầu hồ lô, rót ra ba bát. Rượu này màu vàng ánh, đặc sánh như mật ong, vừa rót ra đã bốc lên thơm ngát. Tôn Lý hai người cùng reo lên:
- Rượu ngon quá, ngon quá!
Phạm Dao nghĩ thầm: “Không biết Huyền Minh nhị lão có nhà không, nếu như y đi khỏi chưa về thì phen này mình thật phí công”. Y cầm bát rượu bở vào nồi nước đang sôi, lúc đó thịt chó nấu đã nhừ, hơi bốc lên càng làm mùi rượu thêm nồng. Tôn Lý thèm nhỏ dãi, đang định cầm rượu lên, khổ đầu đà liền giơ tay ra hiệu đừng vội, bảo hai người bỏ rượu vào hâm trước rồi hãy uống. Ba người thay phiên nhau hâm rượu, mùi bốc ra thơm lừng, Hạc Bút Ông chẳng ở trong chùa thì thôi, nếu không thì dù có cách mấy dãy nhà cũng phải ngửi thấy.
Quả nhiên từ bên phía Bảo Tương tinh xá nghe tiếng mở cửa kẹt một cái rồi nghe tiếng Hạc Bút Ông:
- Rượu ngon quá, ngon quá, hà hà.
Y chẳng khách khí gì liền đi qua sân đẩy cửa bước vào, thấy khổ đầu đà và Tôn Lý ba người ngồi bên bếp lửa uống rượu ăn thịt, đang lúc thích chí. Hạc Bút Ông ngạc nhiên cười nói:
- Khổ đại sư, hóa ra ngài cũng thích món này, đâu có ngờ mình lại là chỗ đồng đạo với nhau.
Tôn Lý hai người vội đứng dậy mời:
- Hạc công công, mời ngài ngồi uống vài chén, đây là mỹ tửu của khổ đại sư, chẳng mấy khi có được.
Hạc Bút Ông liền ngồi ngay trước mặt khổ đầu đà, hai người là khách mà làm như chủ ăn uống thật tận tình, còn Tôn Lý thành ra kẻ hầu bưng thịt rót rượu. Bốn người cao hứng ngồi uống một hồi, người nào cũng ngà ngà say. Phạm Dao nghĩ thầm: “Ta hạ thủ là vừa”. Y liền tự rót cho mình một bát đầy, tiện tay để cái bầu rượu nằm xuống. Thì ra y đã khoét rỗng cái nút đậy hồ lô, để bột thuốc Trương Vô Kỵ chế ra vào trong đó, bên ngoài bọc hai lần vải. Bầu rượu nếu để đứng thì bột thuốc không xuống được, bốn người chỉ uống rượu bình thường nhưng một khi để nằm xuống, rượu ngấm qua lần vải làm tan thuốc, rượu trong bình nay biến thành rượu độc. Đáy bầu vốn tròn, để đứng để nằm chẳng ai để ý, huống chi bốn người uống đã một lúc lâu, đang lúc mềm môi hơi men bừng bừng.
Phạm Dao thấy Hạc Bút Ông cầm bát rượu lên uống một hơi cạn sạch liền mở nắp rót thêm rượu cho y. Hạc Bút Ông thấy bát của mình đã đầy, tiện tay cũng châm thêm cho Tôn Lý, thấy bát của khổ đầu đà vẫn còn nguyên nên không rót. Bốn người liền bưng bát lên uống ừng ực.
Chỉ trừ Phạm Dao ra, ba người kia đều uống phải rượu độc. Tôn Lý hai người nội lực kém, độc tửu vừa vào bụng, chỉ giây lát đã thấy chân tay bải hoải, toàn thân rã rời không còn chút hơi sức nào. Tôn Tam Hủy liền nói:
- Tứ đệ, bụng ta sao có gì trục trặc.
Lý Tứ Tồi cũng nói:
- Ta ... ta ... cũng dường như trúng độc.
Lúc này Hạc Bút Ông cũng đã thấy khác, vội vận khí, nội tức sao không đưa lên được, mặt liền biến sắc. Phạm Dao liền đứng ngay lên, mặt hầm hầm, chộp ngực Hạc Bút Ông, miệng ú ớ gầm gừ nhưng không nói ra được. Tôn Tam Hủy sợ hãi nói:
- Khổ đại sư, chuyện gì thế?
Phạm Dao giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên trên bàn năm chữ “Thập Hương Nhuyễn Cân Tán”. Tôn Lý hai người đều biết Thập Hương Nhuyễn Cân Tán do Huyền Minh nhị lão cất giữ, thấy tình hình trước mắt xem ra khổ đầu đà và mình đều bị trúng phải thuốc độc này. Hai người đưa mắt nhìn nhau, khom lưng nói với Hạc Bút Ông:
- Hạc công công, anh em chúng tôi đâu có dám mạo phạm với lão nhân gia, xin ngài nương tay cho.
Tôn Lý cho rằng Hạc Bút Ông chắc chỉ muốn ra tay đối phó với khổ đầu đà, hai người chẳng may vướng vào tròng, cùng mắc phải cái vạ giữa đàng chứ đối phó với họ thì cần gì phải dùng đến độc dược.
Hạc Bút Ông cũng kinh ngạc vạn phần, Thập Hương Nhuyễn Cân Tán tháng này do y giữ, rõ ràng cất bên trong cây bút mỏ hạc phía bên trái, hai món binh khí đó là vật bất ly thân, dẫu có kẻ nào muốn trộm thuốc từ trong mình ra thật không sao làm được. Thế nhưng y vừa vận khí thấy không cách gì có thể dụng lực, thì đúng là trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán không sai vào đâu. Thực ra thuốc mê do Trương Vô Kỵ điều chế tuy có mạnh thật nhưng khác xa Thập Hương Nhuyễn Cân Tán, tình trạng lúc uống vào cũng không giống tí nào. Thế nhưng Hạc Bút Ông chỉ nghe là uống Thập Hương Nhuyễn Cân Tán vào thì gân cốt mềm nhũn, chân tay bải hoải nhưng chính mình chưa hề thử bao giờ, thành ra tuy hai loại thuốc khác nhau xa nhưng y làm sao phân biệt được? Chỉ thấy khổ đầu đà vừa hoảng hốt, vừa giận dữ, còn Tôn Lý hai người đứng bên van xin không ngớt nên không nghi ngờ liền nói:
- Khổ đại sư đừng có nóng, mình là chỗ anh em, tại hạ làm gì có ý gia hại? Chính tôi cũng trúng phải thuốc độc, thân thể rã rời, không biết đứa nào làm trò ma mãnh, thật là lạ.
Phạm Dao lại chấm tay vào rượu viết lên mấy chữ: “Lấy thuốc giải mau”. Hạc Bút Ông gật đầu nói:
- Đúng thế, mình uống thuốc giải trước đã, sau đó sẽ tìm tên gian tặc nào giở trò ra tính sổ với nó sau. Giải dược ở bên mình Lộc sư ca, xin khổ đại sư cùng đi với tôi.
Phạm Dao trong bụng mừng thầm, không ngờ kế của Dương Tiêu lại dễ dàng đến thế, biết ngay giải dược đang ở trong tay ai. Y giơ tay nắm cổ tay Hạc Bút Ông, cố ý làm ra vẻ lảo đảo đi về phía Bảo Tương tinh xá. Hạc Bút Ông thấy y dường như đi không nổi, trong bụng mừng thầm: “Gã khổ đầu đà này võ công vốn dĩ cực cao, nhưng chưa bao giờ anh em mình có dịp cùng y so tài cao thấp, xem y trúng độc rồi chân đi không vững, chắc nội lực kém mình xa lắc”.
Hai người đi đến trước cửa tinh xá, căn phòng phía nam là của Hạc Bút Ông, còn phòng phía bắc là của Lộc Trượng Khách, thấy phòng phía bắc cửa đóng kín mít. Hạc Bút Ông gọi lớn:
- Sư ca có nhà không?
Lập tức có tiếng Lộc Trượng Khách từ bên trong đáp lời. Hạc Bút Ông giơ tay đẩy cửa, nào ngờ cửa cài then từ bên trong. Y kêu lên:
- Sư ca mở cửa mau, có việc gấp.
Lộc Trượng Khách nói:
- Chuyện gấp cái gì? Ta đang luyện công, ngươi đừng đến quấy rầy có được không?
Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách cùng học một thầy, không ai kém ai nhưng một là Lộc Trượng Khách vai sư huynh, hai nữa y trí mưu hơn nhiều nên Hạc Bút Ông đối với y có phần tôn kính, nghe giọng y có vẻ không vui không dám réo nữa.
Phạm Dao nghĩ chuyện này không nên dây dưa, một khi thuốc mê tan rồi thì mình sẽ bị lộ tẩy nên chẳng nói chẳng rằng, ghé vai ẩy một cái, then cửa gãy ra, cánh cửa mở toang, nghe tiếng đàn bà kêu rú lên.
Lộc Trượng Khách đang đứng bên cạnh giường, nghe thấy tiếng cửa mở, quay đầu nhìn ra, vẻ mặt cực kỳ sượng sùng. Phạm Dao thấy trên giường có một người đàn bà, toàn thân quấn trong một chiếc chăn mỏng, chỉ hở cái đầu, bên ngoài tấm vải có buộc dây, trông như một cuộn mành mành. Người đàn bà tóc xõa ra ngoài, da dẻ trắng muốt, dung nhan cực kỳ diễm lệ, nhìn ra chính là Hàn thị, người ái cơ Nhữ Dương Vương mới nạp, bụng nghĩ thầm: "Vi Bức Vương quả nhiên giỏi thật, một mình vào ra vương phủ, bắt được Hàn cơ rồi".
Thực ra tuy Nhữ Dương Vương phủ canh gác cẩn mật nhưng tựu trung các võ sĩ chỉ hộ vệ vương gia, thế tử và quận chúa, còn cơ thiếp của Nhữ Dương Vương rất đông nên chẳng ai nghĩ đến việc có người đến cướp đem đi nên phải canh phòng. Hơn nữa Vi Nhất Tiếu đến nhanh như chớp, lại biến hóa thật gọn gàng, vừa vào phủ là vác ngay Hàn cơ đi, thật là thần không hay quỉ không biết. Còn như làm sao bỏ được vào trong phòng Lộc Trượng Khách thật khó hơn nhiều, y phải đợi cả nửa ngày mới gặp được lúc Lộc Trượng Khách ra đi cầu, lẻn vào đặt Hàn cơ lên trên giường, rồi lặng lẽ bỏ đi.
Lộc Trượng Khách trở về thấy có một người đàn bà nằm trên giường, vội vàng nhảy lên mái nhà, nhìn chung quanh bốn bề thì lúc đó Vi Nhất Tiếu đã chạy xa rồi, ngoài phòng Tôn Lý vọng ra tiếng ăn nhậu rức lác, không còn gì khác. Lộc Trượng Khách thấy việc này quả thật quái lạ, nhưng lặng thinh thản nhiên quay về phòng, nhìn lại cô gái kia, không khỏi trố mắt há hốc mồm. Ngày hôm đó vương gia nạp cơ có làm tiệc đãi luôn một số cao thủ hữu danh, nàng Hàn cơ kia lúc kính tửu mủm mỉm cười, Lộc Trượng Khách tuy tuổi đã cao nhưng cũng không khỏi mê mẩn. Y tham dâm hiếu sắc, một đời làm hại không biết bao nhiêu đời đàn bà con gái lương gia, nay thấy Hàn cơ xinh đẹp, trong bụng không khỏi tiếc rẻ, sao không sớm gặp được mỹ nhân. Nếu như trước khi vương gia lấy về mà trông thấy thì làm sao thoát được tay y. Về sau y có nghĩ đến mấy lần nhưng lại kiếm được người mới nên cũng quên đi. Bây giờ không hiểu đâu từ trời rơi xuống nàng Hàn cơ lại nằm ngay trên giường.
Y vừa sợ vừa mừng, suy nghĩ qua lập tức đoán ngay chắc là đại đệ tử Ô Vượng A Phổ biết được tâm ý sư phụ, nên lén đến cướp Hàn cơ đem về. Y thấy nàng thò đầu ra khỏi tấn chăn cuốn, mặt cổ nước da trắng ngần, thấp thoáng bờ vai trần, dường như trên người không mặt quần áo, y bụng phập phồng hỏi nhỏ vì sao nàng lại tới đây. Hỏi luôn mấy câu, Hàn cơ không trả lời, Lộc Trượng Khách bấy giờ mới biết nàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, đang toan giơ tay giải huyệt, đột nhiên Hạc Bút Ông đến trước cửa, rồi nghe cửa bị khổ đầu đà phá vỡ.
Biến cố đó thật là bất ngờ, Lộc Trượng Khách tuy rất ư là quỉ quyệt nhưng muốn che đấu cũng không kịp nữa rồi. Y chợt nghĩ ra, e chừng vương gia phát giác ái cơ bị cướp, sai khổ đầu đà đến tróc nã mình, việc đến nước này chỉ còn nước chạy là hơn cả. Chỉ nghe soẹt một tiếng, trượng đầu hươu đã nằm trong tay y, tay trái ôm luôn Hàn cơ lên, toan bề phá cổ sổ nhảy ra.
Hạc Bút Ông kinh hãi kêu lên:
- Sư ca, mau đưa giải dược đây.
Lộc Trượng Khách hỏi lại:
- Cái gì?
Hạc Bút Ông nói:
- Tiểu đệ và khổ đại sư chẳng hiểu vì sao trúng phải chất độc Thập Hương Nhuyễn Cân Tán.
Lộc Trượng Khách ú ớ:
- Ngươi nói sao?
Hạc Bút Ông lại nhắc lại lần nữa, Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:
- Thập Hương Nhuyễn Cân Tán chẳng phải do ngươi giữ hay sao?
Hạc Bút Ông đáp:
- Tiểu đệ chẳng biết táy máy thế nào cả bốn người đang ngồi uống rượu nhậu nhẹt, đột nhiên cả bọn đều bị trúng độc. Lộc sư ca, mau đem thuốc giải cho bọn tôi uống đi nào.
Lộc Trượng Khách nghe nói thế hồn phách bình tĩnh lại, để Hàn cơ lại trên giường, xoay mặt nàng về bên trong. Hạc Bút Ông vốn biết vị sư ca này tính tình phong lưu, trong phòng y có đàn bà con gái, cũng không lấy gì làm lạ nên chẳng để ý, huống chi Hạc Bút Ông trúng độc rồi, hồn vía lên mây còn hơi đâu mà để ý xem người đó là ai. Dẫu có bình thời y cũng không nhận ra vì hôm đó trong bữa tiệc nơi vương phủ, Hàn cơ bước ra mời rượu chỉ chào một cái rồi đi, Hạc Bút Ông chăm chăm vào việc uống rượu đâu có để ý xem người đàn bà đeo vòng ngọc, mặc áo gấm kia đẹp hay xấu?
Lộc Trượng Khách nói:
- Mời khổ đại sư về phòng Hạc huynh đệ nghỉ ngơi, tại hạ đem thuốc giải tới ngay.
Y vừa nói vừa giơ tay đẩy hai người ra khỏi phòng. Cái đẩy đó khiến cho Hạc Bút Ông lảo đảo, suýt nữa ngã. Phạm Dao cũng loạng choạng bước theo, giả vờ như nội lực cũng mất hết, tuy nhiên y nội lực thâm hậu, gặp ngoại lực tự nhiên sinh ra sức phản kích. Lộc Trượng Khách chỉ giơ tay ra lập tức phát giác sư đệ quả nhiên mất hết nội lực, khổ đầu đà thì giả vờ. Y sợ mình đoán nhầm, lại dụng lực đẩy thêm lần nữa, cả Hạc Bút Ông lẫn khổ đầu đà cùng ngã bổ chửng ra ngoài. Tuy cùng ngã, một người thân thể bông bênh, người kia rơi cái bịch.
Lộc Trượng Khách giả vờ như không cười nói:
- Khổ đại sư, quả thực đắc tội.
Nói rồi y đưa tay ra đỡ, vừa giơ tay đã nắm ngay hai huyệt Hội Tông và Ngoại Quan nơi cổ tay khổ đầu đà. Phạm Dao thấy y ra tay như thế, biết ngay mình đã bị bại lộ, tay trái vung lên, dùng trọng thủ đánh ngay vào huyệt Hồn Môn trên lưng Hạc Bút Ông, để cho y trong một thời gian thân thể uể oải không cử động được. Trong hai đại cao thủ trừ đi một người, còn một đánh một không sợ gì Lộc Trượng Khách. Y cất tiếng cười khẩy mấy tiếng nói:
- Ngươi không muốn sống hay sao mà dám đi trộm ái cơ của vương gia về đây?
Y vừa mở mồm nói, Huyền Minh nhị lão ngạc nhiên đến ngơ ngẩn cả người. Hai người biết khổ đầu đà đã mười lăm, mười sáu năm qua, chưa từng nghe y mở miệng nói một câu nào, vẫn tưởng trời sinh y câm. Lộc Trượng Khách tuy biết y chẳng phải tốt lành gì nhưng không ngờ y lại nói được, nên nghĩ ngay nếu như y cố tình đóng vai câm như thế thì tình cảnh như mình bây giờ ắt phải nguy nan, liền nói:
- Thì ra khổ đại sư không phải câm thật, hơn mười năm nay khổ tâm đóng kịch như thế là do cớ gì?
Phạm Dao đáp:
- Vương gia biết ngươi có bụng không ngay, sai ta giả làm thằng câm để tiện gần ngươi giám sát.
Câu đó đúng ra có rất nhiều sơ hở nhưng lúc này Hàn cơ đang nằm trên giường, Lộc Trượng Khách trong bụng có tà ý, không thể không tin, huống chi y vốn biết rõ Nhữ Dương Vương thích bày chuyện ràng buộc tròng tréo đối với thuộc cấp. Câu đó của Phạm Dao nói ra, Lộc Trượng Khách thấy thót cả ruột liền hỏi:
- Vương gia sai ngươi đến bắt ta ư? Ha ha, khổ đại sư võ nghệ tuy cao nhưng chưa chắc đã bắt Lộc Trượng Khách này giơ tay chịu trói được đâu?
Nói rồi y liền vung lộc trượng lên toan động thủ. Phạm Dao cười nói:
- Lộc tiên sinh, khổ đầu đà tuy võ công không bằng được ông, nhưng chắc hai bên cũng không hơn kém bao nhiêu. Nếu ông muốn đánh bại tôi, e rằng trong một hai trăm chiêu chưa chắc đã thắng. Ông thắng tôi một vài chiêu thì dễ nhưng nếu tính chuyện vừa ôm Hàn cơ đi, lại cứu cả sư đệ, Lộc Trượng Khách chắc gì đã có đủ tài làm chuyện đó.
Lộc Trượng Khách đưa mắt nhìn sư đệ, biết lời của khổ đầu đà chẳng phải ngoa. Y hai sư huynh đệ từ nhỏ học nghệ với nhau, lớn lên cho tới lúc già, mấy chục năm qua chưa rời xa nhau lấy một ngày. Hai người đều không vợ không con, có thể nói coi người kia như chính sinh mạng mình, bảo y bỏ sư đệ chạy lấy một mình, ắt không nỡ nào làm như thế.
Phạm Dao thấy y có vẻ động tâm liền quát gọi Tôn Lý hai người vào phòng, đóng chặt cửa lại nói:
- Lộc tiên sinh, việc này chưa bị bại lộ, cứ tin vào khổ đầu đà này nhất định sẽ che đậy cho ông đến nơi đến chốn.
Lộc Trượng Khách lạ lùng hỏi:
- Làm thế nào mà che đậy được?
Phạm Dao không quay đầu lại, thò tay ngược về sau điểm luôn huyệt câm và huyệt tê của hai gã Tôn Lý, thủ pháp nhanh nhẹn, nhận huyệt chuẩn xác, Lộc Trượng Khách cũng phải ngầm thán phục. Chỉ nghe khổ đầu đà nói tiếp:
- Chính ông không nói ra, lệnh sư đệ chắc chẳng thể nào làm khó sư huynh được, khổ đầu đà là người câm, từ nay vẫn là người câm không nói. Còn hai vị huynh đệ này, khổ đầu đà sẽ giúp ông bằng cách điểm vào tử huyệt để diệt khẩu, cái đó cũng chẳng đáng gì.
Tôn Lý hai người kinh hoàng thất sắc, nghĩ thầm chuyện này vốn dĩ chẳng liên quan gì đến mình, có ngờ đâu chỉ vì vài miếng thịt chó mà tội vạ ở đâu giáng xuống đầu, tuy muốn ngỏ lời van xin nhưng lại mở miệng không được. Phạm Dao lại chỉ vào Hàn cơ nói:
- Còn như cô hầu này, lão nạp đã sẵn hai phương sách. Một là phủi tay phủi chân, đem cô ta và Tôn Lý hai người xách đến chỗ nào vắng vẻ cho mỗi người một đao, báo cho vương gia hay cô nàng và tên đĩ đực Lý Tứ Tồi tằng tịu với nhau, hai đứa bỏ trốn bị khổ đầu đà bắt được, nổi giận giết cả gian phu dâm phụ, giết lây cả tên Tôn Tam Hủy. Cách thứ hai là do chính ông đem cô nàng đi dấu một nơi, về sau nếu có tiết lộ cơ mật cái đó là toàn ở ông cả.
Lộc Trượng Khách không khỏi quay đầu lại nhìn Hàn cơ một cái, thấy ánh mắt nàng đầy vẻ khẩn cầu, rõ là muốn y nhận giải pháp thứ hai. Lộc Trượng Khách nhìn khuôn mặt xinh đẹp trời cho kia, nếu như một đao giết chết quả thật là đáng tiếc, trong lòng rung động liền nói:
- Đa tạ ngươi đã sắp xếp cho ta chu đáo như thế. Vậy ngươi muốn ta làm gì nào?
Y biết rằng khổ đầu đà ắt có chuyện nhờ mình, nếu không chắc chẳn thể nào bỏ qua. Phạm Dao đáp:
- Việc này cũng thật là dễ. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái và tôi giao tình rất thâm, cô gái trẻ tuổi họ Chu kia là con tư sinh của tôi với lão ni cô. Cầu ông cho chút giải dược, rồi thả hai người đó ra. Trước mặt quận chúa, một mình lão nạp nhận hết cả, nếu mà có làm liên lụy đến ông thì gia đình khổ đầu đà và Diệt Tuyệt lão ni, trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương, chết không toàn thây, đời đời không được siêu sinh.
Y nghĩ Lộc Trượng Khách tính tình phong lưu, nếu dùng ngay truyện gái trai ra làm cớ thì dễ khiến y tin hơn. Y nghe Dương Tiêu nói anh em Minh giáo rất đông người chết dưới kiếm của Diệt Tuyệt sư thái, nên đặt ra ngay câu chuyện hoang đường hòa thượng ni cô kia. Y cả đời tà tính thành thói, ăn nói hành động không thể nào như một chính nhân quân tử bình thường. Còn như thề thốt “trai trộm cắp, gái bán phấn buôn hương” gì gì nữa, y cũng chẳng để tâm.
Lộc Trượng Khách nghe xong ngẩn người, nhưng lập tức mỉm cười, nghĩ thầm gã đầu đà này mọi chuyện đem ra bức bách mình thì ra là để cứu mụ tình nhân già cùng với đứa con gái, âu cũng là chỗ thường tình, việc này tuy rất nhiều nguy hiểm, nhưng đổi lại được một tuyệt sắc giai nhân, âu cũng đáng. Y thấy khổ đầu đà có chuyện cầu mình, trong bụng cởi được mối lo cười đáp:
- Vậy thì cướp ái cơ của vương gia đem tới đây, chắc cũng là do tay khổ đại sư phải không?
Phạm Dao đáp:
- Chuyện lớn như thế, lẽ nào chỉ tay không đến xin? Cũng phải có gì đền đáp chứ.
Lộc Trượng Khách mừng lắm, nhưng còn e bên ngoài có người nên không dám cười thành tiếng. Đột nhiên y nghĩ lại hỏi thêm:
- Thế thì sư đệ của ta tại sao lại trúng phải Thập Hương Nhuyễn Cân Tán? Độc dược này ngươi ở đâu mà có được?
Phạm Dao đáp:
- Cái đó có khó gì đâu? Lệnh sư đệ hiện đang giữ độc dược, y là người tham ăm thích uống, uống đến lúc ngà ngà, khổ đầu đà ăn cắp gì mà không được?
Lộc Trượng Khách không còn nghi ngại gì nữa liền nói:
- Hay lắm! Khổ đại sư, huynh đệ kết giao bằng hữu với ngươi, ta quyết không bán ngươi mà ngươi cũng đừng đẩy ta vào chỗ khó như thế này nữa.
Phạm Dao chỉ vào Hàn cơ nói:
- Lần tới nếu còn một việc khó mà xinh đẹp như thế này, xin Lộc tiên sinh cứ sắp đặt để đưa khổ đầu đà vào tròng, lão nạp vui vẻ mà nhận ngay.
Hai người nhìn nhau cười, nhưng trong bụng mỗi người một chủ ý. Lộc Trượng Khách ngầm tính toán, chuyện khó khăn trước mắt một khi qua rồi, làm sao xuất kỳ bất ý giết chết gã ác đầu đà này. Phạm Dao biết rằng Lộc Trượng Khách tuy nhất thời bị mình bức bách, nhưng Huyền Minh nhị lão là loại người cỡ nào, bị một vố đau như thế đâu lẽ chịu bỏ qua, chỉ đợi khi an trí Hàn cơ xong xuôi, giải được huyệt cho Hạc Bút Ông rồi, lập tức sẽ kiếm mình động thủ, nhưng khi đó các cao thủ sáu đại môn phái đã cứu xong, mình đã cúp đuôi chạy mất rồi.
Phạm Dao thấy Lộc Trượng Khách chần chừ không chịu đưa thuốc giải ra, nghĩ bụng nếu mình thúc giục, y sẽ càng làm khó thêm, nên ngồi xuống cười nói:
- Lộc huynh sao không giải khai huyệt đạo cho Hàn cơ, cả bọn cùng uống vài chén cho vui? Dưới đèn ngắm mỹ nhân, cái diễm phúc đó mấy kiếp tu dễ gì có được.
Lộc Trượng Khách biết rằng chùa Vạn An người qua kẻ lại, Hàn cơ ở đây thêm khắc nào thì thêm một phần nguy hiểm liền lấy trượng sừng hươu ra, mở một nhánh, lấy một cái chén đổ vào chén một ít bột phấn nói:
- Khổ đại sư, ngươi quả là thần cơ diệu toán, huynh đệ cam chịu lép vế, giải dược đây mau cầm lấy.
Phạm Dao lắc đầu:
- Có chút xíu bột như thế thì làm được trò gì?
Lộc Trượng Khách nói:
- Đừng nói chi cứu hai người, đến sáu bảy người cũng đủ.
Phạm Dao nói:
- Sao ngươi nhỏ mọn thế, cho thêm chút nữa thì đã sao? Nói thực, các hạ túc trí đa mưu, khổ đầu đà này sợ lại bị mắc hỡm nữa.
Lộc Trượng Khách thấy y đòi thêm thuốc giải, đột nhiên khởi nghi nói:
- Khổ đại sư, ngươi định cứu chẳng phải chỉ Diệt Tuyệt sư thái và lệnh ái mà thôi, phải không?
Phạm Dao đang định nói khéo để giải thích cho qua, bỗng nghe bên trong chùa có tiếng chân rầm rập, bảy tám người chạy tới, nghe một người nói:
- Dấu chân đến tận đây, không lẽ Hàn cơ lại ở trong chùa Vạn An chăng?
Lộc Trượng Khách mặt liền biến sắc, chộp ngay cái ly chứa thuốc giải, bỏ ngay vào bọc, cho rằng Khổ đầu đà phục sẵn người ở bên ngoài đợi vừa có giải dược liền phản mình ngay.
Phạm Dao xua tay, bảo y đừng kinh hoảng, lấy một chiếc chăn mỏng chùm lên người Hàn cơ từ đầu đến chân rồi bỏ màn che xuống. Lại nghe một người hỏi:
- Lộc trượng tiên sinh có nhà không?
Phạm Dao chỉ chỉ vào miệng mình, ý muốn nói mình câm, nên bảo Lộc Trượng Khách lên tiếng trả lời. Lộc Trượng Khách lớn tiếng quát:
- Cái gì thế?
Người kia đáp:
- Vương phủ có một cơ nhân bị gian đồ cướp đi, theo dấu kẻ gian thì tới chùa Vạn An.
Lộc Trượng Khách hầm hầm nhìn Phạm Dao, ý muốn nói: “Nếu không phải ngươi cố ý giá họa, với tài nghệ của ngươi làm sao lại có dấu chân được?”. Phạm Dao liền nhếch mép cười, giơ tay ra hiệu bảo y đuổi gã này đi, trong bụng nghĩ thầm: “Vi Bức Vương vu vạ tài thật, để dấu chân từ vương phủ tới tận đây”.
Lộc Trượng Khách liền cười khẩy đáp:
- Các ngươi không biết chia nhau đi lùng kiếm, tới đây léo nhéo cái gì?
Với địa vị và võ công như y, ai nấy đều hết sức kiêng nể, người kia vội vâng vâng dạ dạ, không dám nói thêm gì nữa, lập tức phân phái anh em tra tìm những vùng chung quanh. Lộc Trượng Khách biết lúc này chung quanh chùa Vạn An có rất đông người tra xét, tuy bọn họ không dám vào phòng mình mà tìm, nhưng ôm được Hàn cơ đi nơi khác để dấu thật không phải dễ, không khỏi nhíu mày hậm hực nhìn khổ đầu đà.
Phạm Dao bỗng nghĩ ngay một kế hạ giọng nói:
- Lộc huynh, chùa Vạn An có một nơi rất tốt, mình tạm dấu cục cưng này, qua một ngày một buổi bên ngoài tra xét dãn ra, lúc đó đem đi cũng chưa muộn.
Lộc Trượng Khách giận dữ nói:
- Trừ phi dấu ngay trong phòng ngươi thì được.
Phạm Dao cười:
- Người đẹp thế dấu ở phòng tôi, lão đầu đà chắc đâu đã không động lòng, Lộc huynh không ghen đấy chứ?
Lộc Trượng Khách hỏi lại:
- Thế ngươi bảo dấu ở đâu?
Phạm Dao mỉm cười giơ tay chỉ ngọn tháp ngoài cửa sổ. Lộc Trượng Khách thông minh cơ cảnh, thoáng cái biết ngay, giơ ngón tay cái lên khen:
- Hay lắm!
Bảo tháp đó là nơi giam giữ các cao thủ lục đại môn phái, tổng quản trông nom chính là đại đệ tử của Lộc Trượng Khách Ô Vượng A Phổ, người khác có nghi là nghi chỗ khác, chứ không ai lại ngờ rằng ái cơ của vương gia lại bị bắt dấu nơi nhà giam canh phòng giới bị cẩn mật này. Phạm Dao hạ giọng nói:
- Lúc này trong viện không có ai, chẳng nên chậm trễ, động thủ ngay đi.
Y cuốn bốn bề cái chăn trên giường lại, dấu kỹ Hàn cơ ở bên trong thành một cái bọc lớn, nhắc lên giao cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách nghĩ thầm ngươi không làm lại đẩy cho mình, ta vừa vác Hàn cơ ra khỏi cửa ngươi liền kêu toáng lên, lúc đó tang chứng rành rành, còn chối cãi vào đâu được nữa, mặt không khỏi biến sắc, không dám đưa tay nhận. Phạm Dao biết bụng dạ y liền nói:
- Đã giúp thì giúp cho trót, tiễn Phật tiễn tận Tây phương, khổ đầu đà hôm nay làm thêm vụ đưa dâu nữa thì đã sao nào? Ai bảo mình có việc phải cầu người làm chi?
Nói xong nhắc cái bọc lên, đẩy cửa bước ra, nói nhỏ:
- Ngươi đi trước dẹp đường, nếu có kẻ nào ngăn trở tra vấn, giết quách nó đi.
Lộc Trượng Khách nghiêng người lách qua, nhưng không dám đưa lưng ngay mặt Phạm Dao, sợ y từ sau đánh lén. Phạm Dao đưa tay khép cửa lại, cõng Hàn cơ đi lên bảo tháp.
Lúc đó đã cuối giờ tuất, ngoại trừ võ sĩ canh gác bảo tháp ra, không còn ai khác. Các võ sĩ thấy Lộc Trượng Khách và Phạm Dao, lập tức khom mình hành lễ, cung kính đứng tránh qua một bên. Hai người chưa đến chân tháp, Ô Vượng A Phổ được thủ hạ báo tin, đã chạy ra nghinh tiếp nói:
- Sư phụ, lão nhân gia hôm nay có hứng hay sao mà lên bảo tháp ngồi chơi?
Lộc Trượng Khách gật đầu, cùng Phạm Dao đang toan tiến lên bỗng nhiên từ chiếc cửa tròn ở phía tây một người bước ra, chính là Triệu Mẫn.
Lộc Trượng Khách có tật giật mình, kinh hoảng không để đâu cho hết, lại tưởng Triệu Mẫn đích thân đem thủ hạ đến bắt y, không biết tính sao chỉ đành thu hết cam đảm cùng Phạm Dao và Ô Vượng A Phổ tiến lên vái chào. Đêm hôm qua bọn Trương Vô Kỵ đến quấy rối, Triệu Mẫn có biết đâu tất cả Minh giáo chỉ có ba người, e ngại họ đem đại đội nhân mã đến tấn công nên muốn đích thân đến tháp xem xét, thấy Phạm Dao ở đây liền mỉm cười nói:
- Khổ đại sư, tôi đang định đi tìm ông đây.
Phạm Dao gật đầu, bình thản như không. Triệu Mẫn nói:
- Tôi muốn ông đi cùng với tôi đến một nơi.
Phạm Dao trong bụng kêu khổ thầm: “Mãi mới dụ được Lộc Trượng Khách vào trong bảo tháp mình sẽ ra tay rồi đoạt lấy giải dược của y thế là thành công, ngờ đâu con nhãi này lại đến đây tìm mình”. Đã toan tìm cớ thoái thác không đi, nhưng nhất thời không tìm ra được cách nào, huống chi y lại giả câm, nếu muốn từ chối cũng không nói nên lời được. Tình cấp trí sinh, nghĩ thầm: "Để mặc cho Lộc Trượng Khách tìm cách nào vậy". Y liền chỉ cái bọc trên tay mình, quay sang Lộc Trượng Khách lắc lắc mấy cái. Lộc Trượng Khách hoảng hốt, trong bụng chửi thầm khổ đầu đà hại mình không ít. Triệu Mẫn hỏi:
- Lộc tiên sinh, cái bọc của khổ đầu đà đựng gì thế?
Lộc Trượng Khách đáp:
- À, à, đó là chăn gối của khổ đại sư đấy mà.
Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:
- Chăn gối? Khổ đại sư mang chăn gối đi đâu?
Nàng mủm mỉm cười nói tiếp:
- Khổ đại sư thấy tôi tối dạ quá, không chịu thu làm đệ tử, tức mình ôm chăn gối đi không ở nữa đấy ư?
Phạm Dao lắc đầu, tay phải chỉ trỏ lung tung, nghĩ thầm: “Cứ để cho Lộc Trượng Khách nghĩ ra nói láo, mình câm cũng có cái lợi của người câm”. Triệu Mẫn trông không hiểu y làm thế nghĩa là sao, chỉ đành nhìn Lộc Trượng Khách chờ y giải thích. Lộc Trượng Khách động linh cơ có ngay một cớ liền nói:
- Chuyện như thế này, tối hôm qua mấy ma đầu của Ma giáo đến phá rối, thuộc hạ e ngại bọn hạ có âm mưu lớn ... biết đâu ... biết đâu ... chúng lại không đến tháp cứu người. Thành thử sư huynh đệ thuộc hạ cùng khổ đại sư quyết định ở ngay trên tháp, tự mình canh phòng để khỏi làm hỏng việc lớn của quận chúa. Cái bọc chăn gối này là đồ ngủ của khổ đại sư.
Triệu Mẫn mừng lắm, cười nói:
- Tôi vẫn định nhờ Lộc tiên sinh và Hạc tiên sinh đích thân trông coi, có điều như thế làm nhọc các ông quá nên không dám mở miệng. Ngờ đâu ba vị lại chia xẻ mối lo với tôi, thật còn gì bằng. Có Lộc Hạc hai vị ở nơi đây trấn giữ, bọn ma đầu đâu có dám héo lánh đến, tôi khỏi phải lên tháp trông coi làm gì. Khổ đại sư theo tôi đi đằng này một chút.
Nói xong nàng nắm tay Phạm Dao. Phạm Dao không còn cách nào khác, nghĩ thầm như lúc này có nói toạc âm mưu của Lộc Trượng Khách thì cũng chẳng đi đến đâu, thứ nữa Hàn cơ đang ở trong tay mình, chưa chắc đã làm cho Triệu Mẫn tin được, đành giao cái bọc lại cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách giơ tay đỡ lấy nói:
- Khổ đại sư, tôi đợi ông ở trên tháp nhé.
Ô Vượng A Phổ nói:
- Sư phụ, để đệ tử mang bọc chăn gối cho.
Lộc Trượng Khách cười đáp:
- Không sao, đây là đồ của khổ đại sư, thầy đang muốn lấy lòng ông ấy tự mình mang lên cũng được.
Phạm Dao nhếch mép cười, giơ tay vỗ vào cái bọc một cái, chính trúng ngay mông của Hàn cơ. Cũng may nàng ta đã bị điểm huyệt nên không thể kêu lên được, nhưng Lộc Trượng Khách cũng sợ đến mặt tái mét, không dám dây dưa thêm nữa, quay sang chào Triệu Mẫn rồi vác Hàn cơ đi lên tháp. Y trong bụng đã tính sẵn, một khi vào trong tháp rồi lập tức lấy chăn mền thật ra đổi ngay, nếu như khổ đầu đà có cáo giác với Triệu Mẫn thì y cũng nhất định chối phắt đi.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tình bạn từ lúc còn thơ (nguyên điển lấy từ thơ Lý Bạch)
[2] tức Chaghan Temur. Đặc Mục Nhĩ như vậy là một danh tướng gốc Tân Cương (Uighur), vốn là một địa chủ có công dẹp được cuộc nổi dậy của Bạch Liên Giáo ở đất Hoài trở thành một người có thế lực chính trị và quân sự. Đời Nguyên, địa chủ có quyền tuyển mộ, huấn luyện và chỉ huy dân quân riêng để chống nhau với những thế lực tôn giáo và các cuộc nổi dậy (xem thêm Cuộc Khởi Nghĩa của nhà Minh của dịch giả)
[3] Chú thích của Kim Dung: Theo Tân Nguyên Sử, quyển thứ hai trăm hai mươi “Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi truyện” chép: Ông tổ bốn đời Sát Hãn Thiếp Mộc Nhi là Khoát Khoát Đài, ông nội là Nãi Man Đài, cha là A Lỗ Ôn, sống ở Hà Nam, đất Tần Châu, Trẩm Khâu, sau đổi qua họ Lý. Khố Khố Đặc Mục Nhĩ (Koko Temur) tuy là thế tử nhưng thực ra là cháu gọi bằng cậu của Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, kế vị ông khi Sát Hãn bị ám sát năm 1362. Tiểu tiết này tác giả Kim Dung cố tình bỏ qua.
[4] Tức Khwraozm (hay Khuwraizm, Khwraezm, Khwraizm) là một nước Hồi giáo ở gần Ba Tư bị Thành Cát Tư Hãn chinh phục hồi thế kỷ thứ 13.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #39  
Old 11-04-2012, 03:20 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 27

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 27

BÁCH XÍCH CAO THÁP NHIỆM HỒI TƯỜNG


Tháp cao trăm thước ai người đỡ,
Thù oán bao đời một phút tan.
Tưởng nguy nhưng lại hóa an,
Lục đại môn phái chịu ơn muôn đời.

Phạm Dao bị Triệu Mẫn nắm tay dẫn đi thẳng ra khỏi chùa Vạn An, trong bụng vừa bồn chồn, vừa ngạc nhiên, không biết nàng ta đưa mình đi đâu. Triệu Mẫn đội thêm một cái nón lá để che mái tóc dài, thản nhiên nói:
- Khổ đại sư, mình đi gặp tên tiểu tử Trương Vô Kỵ.
Phạm Dao kinh hoảng, liếc mắt nhìn cô ta thấy mắt nàng long lanh, má ửng hồng bảy phần thẹn thùng, ba phần hoan hỉ xem ra không phải đã khám phá ra chân tướng của y. Khổ đầu đà thấy an tâm, nhớ lại tình cảnh đêm trước ở chùa Vạn An Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai kẻ oan gia đối đầu gặp nhau. Y vừa nghĩ đến hai chữ “oan gia”, đột nhiên trong lòng nảy sinh một câu hỏi: “Oan gia ư? Hay là quận chúa có tình ý gì với Trương giáo chủ chăng?”. Y nghĩ tiếp: “Nàng ta sao không gọi Huyền Minh nhị lão là kẻ thân tín hơn mà lại bảo mình đi theo? Đúng rồi, chỉ vì mình câm không nói được nên sẽ không tiết lộ bí mật của cô ta”. Y bèn gật gù, nở một nụ cười kỳ bí.
Triệu Mẫn làm mặt giận nói:
- Ông cười gì thế?
Phạm Dao biết rằng chớ nên đùa với nàng, bèn hoa chân múa tay ra hiệu, ý nói khổ đầu đà sẽ hết sức bảo vệ cho quận chúa chu toàn, dù phải vào đầm rồng hang hổ cũng nhất quyết đi theo.
Triệu Mẫn không nói gì thêm, đi trước dẫn đường, không bao lâu đã đến trước cửa khách điếm nơi Trương Vô Kỵ đang trú ngụ. Phạm Dao ngầm kinh hãi: “Quận chúa quả thật thần thông quảng đại, mới đây đã tìm ra ngay chỗ giáo chủ đang ở”. Y liền đi theo Triệu Mẫn vào trong khách điếm.
Triệu Mẫn hỏi chưởng quĩ:
- Chúng tôi muốn tìm khách quan họ Tăng.
Thì ra Trương Vô Kỵ khi đến ở trọ lại dùng cái tên giả “Tăng A Ngưu”, điếm tiểu nhị liền đi vào thông báo.
Trương Vô Kỵ đang đả tọa dưỡng thần, chỉ chờ chùa Vạn An lửa bốc lên là chạy đến tiếp ứng, bỗng nghe có người đến thăm không khỏi ngạc nhiên, ra đến khách đường thấy Triệu Mẫn và Phạm Dao, kêu thầm: “Hỏng rồi, chắc là Triệu cô nương khám phá ra chân tướng của Phạm hữu sứ nên đem y tới đây nói phải quấy với mình chăng?”. Chàng đành tiến lên vái chào, hỏi:
- Không biết có Triệu cô nương giá lâm nên thất lễ nghinh tiếp.
Triệu Mẫn nói:
- Nơi đây nói chuyện không tiện, mình đi tìm một quán rượu nhỏ uống với nhau ba chén, có được chăng?
Trương Vô Kỵ đành trả lời:
- Hay lắm.
Triệu Mẫn lại đi trước dẫn đường đi đến một quán rượu nhỏ cách khách điếm chừng năm dãy phố. Trong quán bày biện sơ sài vài cái bàn, trên mỗi bàn để một ống đũa gỗ. Lúc ấy trời đã khuya, trong quán chẳng còn người khách nào. Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người ngồi đối diện nhau, Phạm Dao ra hiệu mình ra ngoài ngồi uống rượu. Triệu Mẫn gật đầu, sai điếm tiểu nhị đem lên một cái bếp than và ba cân thịt dê sống, thêm hai cân rượu trắng.
Trương Vô Kỵ trong bụng đầy ngờ vực, nghĩ thầm nàng là một quận chúa cao quí như thế, sao lại mời mình đến một cái nhỏ bé tồi tàn dơ dáy như thế này ngồi uống rượu là sao, không biết sắp xếp kế mưu gì. Triệu Mẫn rót ra hai chén rượu, cầm chén của Trương Vô Kỵ lên, nhấp một ngụm, cười nói:
- Trong rượu này không có bỏ thuốc độc đâu, công tử cứ yên tâm uống đừng ngại.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Cô nương gọi tôi đến đây, không biết có chuyện gì dạy bảo?
Triệu Mẫn nói:
- Uống xong ba chén đã rồi mình hãy nói vào chuyện chính. Tôi cạn chén trước mời công tử.
Nói xong nàng nâng ly một hơi cạn sạch. Trương Vô Kỵ cầm chén lên, dưới ánh lửa bập bùng thấy miệng chén còn lưu lại mờ mờ một vết son môi, mũi ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, không biết hương thơm đó từ vết son trên chén hay từ người nàng tỏa ra, lòng không khỏi lâng lâng, vội uống cạn. Triệu Mẫn nói:
- Mình uống thêm hai chén nữa. Tôi biết anh chưa hết nghi ngại nên mỗi chén tôi uống trước một ngụm.
Trương Vô Kỵ biết nàng ngụy kế đa đoan, việc gì cũng nên đề phòng, may là nàng nhắp trước như thế, mình đỡ phải mạo hiểm nên liên tiếp uống cạn ba ly rượu nàng uống dở dang, trong bụng không thấy có gì khác lạ, ngửng lên thấy nàng tủm tỉm cười, hơi rượu khiến nàng hồng hồng đôi má, thật kiều diễm không sao tả xiết. Trương Vô Kỵ không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
- Trương công tử, anh có biết tôi là ai không?
Trương Vô Kỵ lắc đầu. Triệu Mẫn nói:
- Hôm nay tôi nói cho anh biết, cha tôi là Nhữ Dương Vương hiện đang chấp chưởng binh mã đại quyền đương triều. Tôi là gái Mông Cổ, tên thực là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ. Hoàng thượng phong cho tôi làm Thiệu Mẫn quận chúa. Hai chữ Triệu Mẫn là tên Hán tôi tự đặt cho tôi đó.
Nếu như Phạm Dao không nói qua rồi, Trương Vô Kỵ lúc này ắt không khỏi hết sức lạ lùng, nhưng thấy nàng không dấu diếm gì đem thân phận nói cho mình hay cũng thật ngoài dự liệu, có điều chàng không khéo giả vờ nên không làm ra vẻ ngạc nhiên.
Triệu Mẫn lạ lùng hỏi:
- Sao? Anh biết trước rồi ư?
Trương Vô Kỵ nói:
- Không, làm sao tôi biết được? Thế nhưng tôi thấy một cô gái trẻ tuổi như thế vậy mà có thể sai khiến bao nhiêu là cao thủ võ lâm, thân phận ắt không phải là tầm thường.
Triệu Mẫn xoay xoay nghịch cái chén, một hồi lâu không nói gì, lại cầm bầu rượu lên rót thêm hai chén nữa, chậm rãi nói tiếp:
- Trương công tử, tôi hỏi anh một câu nhé, anh cứ thực lòng mà trả lời tôi. Nếu như tôi đem Chu cô nương giết đi, anh sẽ đối với tôi thế nào?
Trương Vô Kỵ trong bụng kinh hãi, hỏi lại:
- Chu cô nương có đắc tội gì với cô đâu, sao bỗng dưng lại giết cô ta là sao?
Triệu Mẫn đáp:
- Người nào tôi không thích là tôi muốn giết, chứ đâu phải cứ đắc tội với tôi tôi mới giết đâu? Có người thì đắc tội với tôi nhiều lần, tôi lại để yên không giết, chẳng hạn như anh, đắc tội với tôi mấy lần rồi thì sao?
Nàng nói tới đây, ánh mắt long lanh ẩn một nụ cười. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
- Triệu cô nương, tôi đắc tội với cô âu cũng là chuyện bất đắc dĩ. Thế nhưng cô đã tặng cho tôi thuốc để chữa bệnh cho tam sư bá, lục sư thúc tôi, lòng tôi thật là cảm kích.
Triệu Mẫn cười nói:
- Anh nói câu đó có phần dở hơi. Du Đại Nham và Ân Lê Đình bị thương đều do thuộc hạ của tôi gây ra, anh chẳng trách thì thôi, sao lại cảm ơn là sao?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Tam sư bá của tôi bị thương đã ngoài hai mươi năm, khi đó cô chưa ra đời.
Triệu Mẫn nói:
- Thì do bộ thuộc của cha tôi cũng có khác gì là bộ thuộc của tôi? Anh đừng nói lảng qua chuyện khác: tôi hỏi anh, nếu như tôi giết Chu cô nương, anh sẽ đối với tôi như thế nào? Anh có định giết tôi báo thù cho cô ta không?
Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi rồi nói:
- Tôi cũng không biết nữa.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Sao lại không biết? Anh không chịu nói, có phải không nào?
Trương Vô Kỵ nói:
- Cha mẹ tôi bị người ta bức tử. Bức tử cha mẹ tôi là phái Thiếu Lâm, phái Hoa Sơn, phái Không Động. Sau này khi tôi lớn lên, thấy mọi việc rõ ràng hơn nhiều, nhưng càng suy nghĩ lại càng chẳng hiểu, thực sự ai là người hại cha mẹ tôi? Không thể nói là Không Trí đại sư, Thiết Cầm tiên sinh những người đó được; cũng không thể bảo là ông ngoại tôi hay cậu tôi; thậm chí cũng không thể nói là những thủ hạ của cô như "A Nhị", "A Tam" hay Huyền Minh nhị lão. Cái lý do nào trời xui đất khiến ra thế, biết bao nhiêu điều tôi không hiểu được. Dẫu như có những người là hung thủ thực chăng nữa, dù tôi có giết hết tất cả thì cũng để làm gì? Cha mẹ tôi có sống lại được đâu. Triệu cô nương, mấy hôm nay tôi chỉ nghĩ rằng nếu tất cả mọi người không giết lẫn nhau, sống hòa bình thân ái làm bạn của nhau chẳng hay hơn ư? Tôi không nghĩ đến chuyện báo thù giết người, cũng mong người khác cũng đừng hại ai giết ai.
Chàng nói một mạch những gì đã nghĩ trong lòng rất lâu, nhưng chưa hề nói cho Dương Tiêu hay, cũng chẳng nói cho Trương Tam Phong biết, cũng không nói cho Ân Lê Đình hay, bỗng nhiên nơi quán rượu nhỏ bé này lại nói cho Triệu Mẫn nghe, những lời đó nói ra rồi chính chàng cũng lấy làm lạ.
Triệu Mẫn thấy chàng nói thật thành khẩn, suy nghĩ một lát nói:
- Đó là tại anh tâm địa nhân hậu, nếu phải tay tôi ư tôi sẽ làm tới nơi tới chốn. Nếu như ai làm hại cha tôi, anh tôi, tôi sẽ giết sạch cả nhà người đó, ngay cả thân thích bằng hữu, phàm người nào y quen biết, tôi sẽ giết sạch không còn một mống.
Trương Vô Kỵ nói:
- Như thế tôi sẽ ngăn không cho cô làm.
Triệu Mẫn hỏi lại:
- Vì sao vậy? Anh về phe kẻ thù của tôi ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Cô giết một người, bản thân cô sẽ thêm một phần tội nghiệt. Người bị cô giết, chết đi ra sao thì không biết, cái đó cũng đã xong, thế nhưng còn cha mẹ con cái, vợ chồng anh em người ta đau lòng biết mấy? Về sau mỗi khi cô nghĩ lại, lương tâm cô sẽ không an. Nghĩa phụ tôi giết nhiều người lắm, tôi biết tuy ông không nói ra, nhưng trong lòng thật là hối hận.
Triệu Mẫn không nói, chỉ suy nghĩ về những điều Trương Vô Kỵ vừa nói ra. Trương Vô Kỵ hỏi lại:
- Cô đã giết người bao giờ chưa?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Hiện tại thì chưa, tương lai khi tôi lớn rồi, muốn giết thật nhiều người. Tổ tiên tôi là Thành Cát Tư Hãn đại đế, là Đà Lôi, là Bạt Đô, là Húc Liệt Ngột, là Hốt Tất Liệt đều anh hùng. Tôi chỉ hận mình là con gái, nếu tôi là con trai ư, ha ha, thể nào cũng phải làm một đại sự nghiệp thật là oanh liệt.
Nàng rót thêm một chén rượu, tự mình uống cạn nói:
- Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nếu như cô giết Chu cô nương, hoặc giả giết bất cứ một người thủ hạ thân cận nào của tôi, tôi sẽ không coi cô là bạn tôi nữa. Tôi sẽ vĩnh viễn không gặp lại cô, nếu có gặp cũng không nói chuyện.
Triệu Mẫn cười:
- Thế ra hiện tại anh coi tôi là bạn của anh ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Nếu như trong lòng tôi thù ghét cô, tôi đâu có ngồi uống rượu với cô như thế này. Ôi, tôi chỉ thấy thù ghét một người quả là khó. Tôi bình sinh chỉ ghét một mình Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn, thế nhưng nay y cũng chết rồi, tôi lại thấy thương y, dường như muốn y đừng chết.
Triệu Mẫn nói:
- Nếu như ngày mai tôi chết đi, trong lòng anh sẽ nghĩ sao? Trong bụng anh thể nào chẳng nói: tạ trời tạ đất, con bé điêu ngoa hung ác đại đối đầu kia chết rồi, từ nay ta bớt đi được bao nhiêu là phiền muộn.
Trương Vô Kỵ lớn tiếng nói:
- Không, không đâu. Tôi không mong cô chết đâu, hoàn toàn không bao giờ. Vi Bức Vương dọa cô, đòi sẽ rạch mặt cô mấy vết dao, từ đó đến nay tôi nghĩ đi nghĩ lại thật là lo cho cô.
Triệu Mẫn nở một nụ cười, đôi má đỏ lên liền cúi đầu xuống. Trương Vô Kỵ nói:
- Triệu cô nương, cô đừng làm khó chúng tôi nữa, thả hết các cao thủ của lục đại môn phái ra đi, tất cả vui vẻ làm bạn với nhau, chẳng hay lắm sao?
Triệu Mẫn vui mừng nói:
- Hay lắm, chính tôi cũng chỉ muốn như thế. Anh là giáo chủ Minh giáo, một lời nặng như chín cái đỉnh, anh đến nói tất cả qui hàng triều đình. Cha tôi sẽ tâu lên hoàng thượng phong thưởng cho mọi người.
Trương Vô Kỵ chầm chậm lắc đầu nói:
- Người Hán chúng tôi ai ai cũng có một tâm nguyện, muốn người Mông Cổ rút ra khỏi đất của người Hán.
Triệu Mẫn đứng phắt dậy, nói:
- Cái gì? Sao anh dám nói những lời phạm thượng tác loạn như thế, chẳng phải là công nhiên phản loạn hay sao?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi vốn dĩ là kẻ phản loạn, không lẽ đến bây giờ cô mới biết hay sao?
Triệu Mẫn nhìn chàng hồi lâu, nét phẫn nộ và kinh ngạc trên mặt dầu dần dịu xuống, trở lại thật ôn nhu, nhưng cũng thật thất vọng, sau cùng ngồi lại xuống ghế nói:
- Tôi cũng sớm biết thế rồi, nhưng bây giờ chính miệng anh nói ra, tôi mới thật là tin hẳn, không còn làm sao hơn được nữa.
Mấy câu đó nàng nói ra nghe thật là đau đớn. Trương Vô Kỵ lòng chùng hẳn đi, dường như không còn chịu nổi cảnh thấy nàng đau lòng như muốn buột miệng nói ra: “Thôi tôi bằng lòng nghe lời cô vậy”. Thế nhưng ý nghĩ đó vừa lóe lên là tắt ngay, cố hết sức nhưng không biết nói thế nào để an ủi nàng.
Hai người lặng yên ngồi đối diện nhau một lúc. Trương Vô Kỵ nói:
- Triệu cô nương, đêm đã khuya rồi, để tôi đưa cô về nhé!
Triệu Mẫn nói:
- Đến ngồi thêm với tôi một chút anh cũng không muốn hay sao?
Trương Vô Kỵ vội vàng đáp:
- Không đâu, nếu cô thích ngồi đây uống rượu nói chuyện, tôi sẽ ngồi với cô.
Triệu Mẫn mỉm cười, chậm rãi nói:
- Có lúc tôi nghĩ rằng giá như tôi không phải là gái Mông Cổ, cũng chẳng phải là quận chúa, chỉ là một người như Chu cô nương, là một cô gái người Hán con nhà bình thường, chắc anh sẽ tử tế với tôi hơn. Trương công tử, anh bảo tôi và Chu cô nương ai đẹp hơn?
Trương Vô Kỵ đâu ngờ nàng lại hỏi câu đó, nghĩ thầm con gái phiên bang tính tình sảng trực, không biết môi miếng, dưới ánh đèn thấp thoáng, thấy nàng kiều diễm bội phần, buột miệng nói luôn:
- Dĩ nhiên là cô đẹp.
Triệu Mẫn giơ tay ra đặt lên tay chàng, ánh mắt đầy vẻ vui mừng nói:
- Trương công tử, anh thích hay không thích gặp tôi? Nếu tôi thỉnh thoảng rủ anh ra đây uống rượu, anh có đi không?
Bàn tay Trương Vô Kỵ bị lòng bàn tay mềm mại của nàng đè vào, tim đập thình thình, cố gắng định thần rồi nói:
- Tôi ở lại đây không lâu, chỉ độ vài ngày sẽ xuôi nam.
Triệu Mẫn hỏi:
- Anh về phương nam làm gì?
Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
- Tôi chẳng nói thì cô cũng đoán ra được, nhưng nói ra thì cô sẽ nổi giận...
Triệu Mẫn nhìn ra vầng trăng ngoài song cửa, bỗng nói:
- Anh bằng lòng làm cho tôi ba việc, chưa quên chứ?
Trương Vô Kỵ nói:
- Dĩ nhiên là không quên. Xin cô nương cứ việc sai bảo, tôi sẽ tận lực mà làm.
Triệu Mẫn quay đầu lại nhìn thẳng vào mặt chàng nói:
- Bây giờ tôi chỉ mới nghĩ ra một việc thứ nhất. Tôi muốn anh đi với tôi để lấy thanh đao Đồ Long.
Trương Vô Kỵ vốn đã đoán trước, ba việc nàng ta bảo mình làm thể nào cũng rất khó nhưng không ngờ việc đầu tiên là một nạn đề tày trời đến thế. Triệu Mẫn thấy chàng đầy vẻ nghi ngại, nói:
- Làm sao? Anh không chịu à? Chuyện này đâu có đi ngược lại đạo hiệp nghĩa, cũng không phải không thể làm được.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Đao Đồ Long nằm trong tay nghĩa phụ ta, trên giang hồ ai cũng biết rồi, không thể nào nói dối nàng”. Chàng bèn nói:
- Đao Đồ Long là của nghĩa phụ tôi, Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp. Tôi làm sao có thể phản bội cha nuôi, lấy đao đó cho cô được?
Triệu Mẫn nói:
- Tôi đâu có bảo anh đến ăn trộm ăn cướp, đánh lừa hay sang đoạt, tôi không phải thực sự muốn có thanh đao này. Tôi chỉ muốn anh đến mượn nghĩa phụ anh, cho tôi nghịch chơi một giờ thôi, sau đó sẽ trả lại ngay. Hai người là cha nuôi, con nuôi, chẳng lẽ mượn một giờ mà không được hay sao? Chỉ mượn xem đâu có phải là lấy luôn, cũng chẳng phải dùng nó đi cướp của giết người, không lẽ cũng đi ngược lại đạo hiệp nghĩa ư?
Trương Vô Kỵ nói:
- Thanh đao đó tuy danh tiếng vang động võ lâm, thực ra có đẹp đẽ gì đâu, chỉ thật là nặng nề, và rất sắc bén thôi.
Triệu Mẫn nói:
- Vậy sao người ta nói “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng. Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Ỷ Thiên kiếm nay ở trong tay tôi rồi, tôi muốn xem thử thanh đao Đồ Long như thế nào. Nếu anh không yên tâm, khi tôi xem thanh đao, anh đứng ngay bên cạnh. Với bản lãnh của anh, tôi đâu có thể cưỡng chiếm không trả lại được.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cứu được sáu đại môn phái ra rồi, ta vốn định bụng sẽ đi đón nghĩa phụ ngay để mời lão nhân gia giữ chức vụ giáo chủ. Triệu cô nương đã nói là chỉ mượn xem một giờ, tuy không biết chắc nàng ta có ngụy kế gì hay không, nhưng mình hết sức đề phòng, không để cho nàng ta đoạt thanh đao. Có điều nghĩa phụ nói rằng trong thanh đao Đồ Long có bí mật dấu một pho võ công tuyệt học. Khi nghĩa phụ chưa mù đã lấy được thanh bảo đao, thông minh tài nhứ như ông mà vẫn không nghĩ ra được, Triệu cô nương chỉ một giờ đồng hồ thì làm được gì? Huống chi ta và nghĩa phụ xa nhau đã mười năm, ông ta một mình trên hoang đảo đã tìm ra được bí mật trong thanh đao không chừng”.
Triệu Mẫn thấy chàng trầm ngâm không trả lời, cười nói:
- Nếu anh không chịu, cũng tùy anh thôi. Tôi sẽ nhờ anh làm một việc khác còn khó hơn thế nhiều.
Trương Vô Kỵ biết cô gái này cực kỳ điêu ngoa giảo hoạt, nếu quả đưa ra một nạn đề e rằng mình sẽ không làm nổi, vội nói:
- Được rồi, tôi bằng lòng đi mượn thanh đao Đồ Long cho cô. Thế nhưng mình nói trước với nhau, cô chỉ được mượn xem một giờ thôi, nếu như có ý chiếm đoạt, tôi không để yên đâu đấy nhé.
Triệu Mẫn cười nói:
- Đúng thế. Tôi không biết sử đao, nặng chình chịch thế tôi lấy làm gì? Dù anh có cung kính hai tay đưa lên cho tôi, tôi cũng chẳng thèm. Vậy bao giờ thì anh khởi hành?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Độ vài ngày nữa.
Triệu Mẫn nói:
- Thế thì càng tốt. Để tôi đi thu xếp, chừng nào anh đi thì đến hẹn trước với tôi.
Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:
- Cô cũng đi nữa ư?
Triệu Mẫn nói:
- Đương nhiên là thế. Nghe nói nghĩa phụ anh ở trên một hòn đảo hoang ở ngoài biển, lỡ như ông ta không chịu về, không lẽ anh đường xa vạn dặm tít mù mượn thanh đao về đây cho tôi xem một giờ rồi lại quay lại trả? Trên đời này có ai lại làm thế bao giờ.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến sóng to gió cả nơi biển bắc, biển cả mênh mông, tìm cho ra được Băng Hỏa đảo quả thật khó khăn vô cùng, nếu như đi đi về về ba lần chẳng đâu vào đâu, thật không cách gì làm nổi. Cô ta nói quả không sai, nghĩa phụ ở nơi hoang đảo đã hai chục năm, chưa chắc đã muốn sống những ngày tàn của cuộc đời nơi Trung Thổ. Chàng bèn nói:
- Trên biển cả sóng gió vô tình, cô phải mạo hiểm như thế làm gì?
Triệu Mẫn đáp:
- Anh mạo hiểm được, sao tôi lại không được?
Trương Vô Kỵ chần chừ nói:
- Liệu cha cô có chịu cho cô đi không?
Triệu Mẫn nói:
- Gia gia bảo tôi thống suất quần hào giang hồ, mấy năm nay tôi chạy đông chạy tây, cha tôi không ngó ngàng gì đến cả.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói “Cha tôi bảo tôi thống suất quần hào giang hồ”, trong bụng chột dạ: “Ta đi Băng Hỏa đảo nghênh tiếp nghĩa phụ, không biết năm nào tháng nào mới quay về. Nếu như đây là kế điệu hổ ly sơn của cô ta, nhân dịp mình không có nơi đây đem đại binh đối phó với bản giáo thì sao. Mình không thể không đề phòng, nếu như nàng ta đi chung, thủ hạ của cô ta có điều cấm kỵ, cũng đỡ lo phần nào”. Nghĩ vậy bèn gật đầu:
- Thế thì được, khi nào tôi ra đi sẽ đến hẹn với cô.
Câu nói chưa dứt, đột nhiên bên ngoài cửa sổ đỏ rực, tiếng người reo hò từ nơi xa xa truyền đến. Triệu Mẫn chạy lại cửa sổ nhìn ra, kinh hoảng kêu lên:
- Ối chao, bảo tháp của chùa Vạn An bị cháy rồi. Khổ đại sư, khổ đại sư, lại đây mau.
Nàng gọi luôn mấy tiếng, không thấy khổ đầu đà đâu vội chạy ra ngoài cũng chẳng thấy tăm hơi Phạm Dao đâu cả, hỏi chưởng quĩ thì y nói rằng vị đầu đà vừa đến là đi ngay, xem ra cũng đã lâu rồi. Triệu Mẫn cực kỳ lạ lùng, nghĩ đến hồi tối y nở một nụ cười bí hiểm, đôi má không khỏi đỏ bừng, cúi đầu quay lại liếc Trương Vô Kỵ một cái.
Trương Vô Kỵ thấy lửa bốc mỗi lúc một cao, sợ rằng đại sư bá các người công lực chưa khôi phục, bị chết cháy ở trên tháp nên nói:
- Triệu cô nương, xin lỗi tôi phải đi đây.
Nói chưa dứt câu, chàng đã vội vàng chạy ra. Triệu Mẫn gọi:
- Chờ chút nào, để tôi đi với anh.
Thế nhưng khi nàng ra đến cửa thì Trương Vô Kỵ đã chạy đâu mất rồi.
*
* *
Lộc Trượng Khách thấy khổ đầu đà bị quận chúa gọi đi, cảm thấy yên tâm lập tức cõng Hàn cơ đi đến phòng của đệ tử Ô Vượng A Phổ. Bảo tháp chùa Vạn An cả thảy mười ba tầng, cao mười ba trượng. Ba tầng trên cùng để thờ Phật, chứa kinh và xá lợi không ai được ở. Ô Vượng A Phổ là tổng quản trông coi bảo tháp, y ở tầng thứ mười cho tiện việc nhòm ngó chung quanh, khống chế toàn cục.
Lộc Trượng Khách vào trong phòng rồi nói với Ô Vượng A Phổ:
- Ngươi đứng canh ở bên ngoài, không cho ai vào.
Ô Vượng A Phổ vừa ra khỏi cửa, y lập tức đóng chặt cửa phòng, cởi cái bọc cho Hàn cơ ra. Chỉ thấy nàng sợ hãi đến mặt hoa tái mét, ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn. Lộc Trượng Khách ôn tồn nói:
- Cô đã đến nơi đây, không có gì phải sợ cả, tôi sẽ đối đãi tử tế.
Y chưa tiện giải huyệt cho nàng ta, sợ cô ta kêu lên thì hỏng việc, nên đặt nàng nằm trên giường Ô Vượng A Phổ, lấy chăn đắp lên, lại lấy thêm một cái mền chèn ở bên cạnh. Nơi Hàn cơ đang ở đây không phải là nơi có thể sàm sỡ được nên y không dám ở lâu, vội vàng ra khỏi phòng dặn Ô Vượng A Phổ không được vào, cũng không được cho ai vào. Y biết tên đại đệ tử này vừa kính vừa sợ mình, quyết không dám trái lời.
Y tính thầm trong bụng: “Việc này nếu muốn cho khổ đầu đà giữ bí mật cho mình, không thể không mua lòng y, chi bằng mình đi thả mụ tình nhân và con gái y ra trước. Cũng may đêm qua giáo chủ ma giáo đến quấy phá, mọi việc lại chính ngay từ Chu cô nương mà ra, mình cứ đổ cho giáo chủ ma giáo cứu Diệt Tuyệt lão ni và Chu cô nương đi, thế là ổn thỏa, quận chúa chắc sẽ không nghi ngờ gì. Tên tiểu ma đầu võ công cao cường như thế, quận chúa sẽ không thể trách mình phòng bị không kỹ càng được”.
Các nữ đệ tử phái Nga Mi bị giam ở tầng thứ bảy, riêng Diệt Tuyệt sư thái là địa vị chưởng môn, bị giam một mình tại một căn phòng nhỏ. Lộc Trượng Khách bảo người cai ngục mở cửa cho y vào, thấy Diệt Tuyệt sư thái ngồi xếp bằng trên nền, nhắm mắt tĩnh tu. Bà ta đã tuyệt thực mấy ngày nay, dung nhan tuy có đôi chút tiều tụy nhưng lại đầy vẻ ngạo nghễ ngang tàng.
Lộc Trượng Khách nói:
- Diệt Tuyệt sư thái, khỏe chứ?
Diệt Tuyệt sư thái từ từ mở mắt ra nói:
- Ở nơi đây là đã không khỏe, còn gì phải hỏi?
Lộc Trượng Khách nói:
- Bà ương ngạnh như thế, chủ nhân nói là có để thêm cũng vô dụng nên sai ta đến đưa bà về Tây phương đây.
Diệt Tuyệt sư thái đã quyết chí chọn cái chết bèn nói:
- Hay lắm, không cần phải mất công các hạ động thủ, cho ta mượn một thanh đoản kiếm, để ta lo lấy cũng xong. Xin các hạ gọi đứa học trò Chu Chỉ Nhược của ta lại đây, ta có vài lời trối trăn với nó.
Lộc Trượng Khách quay mình đi ra, sai người dẫn Chu Chỉ Nhược đến, nghĩ thầm: “Hai người mẹ con quả nhiên cũng khác, sao không gọi đại đệ tử đến mà lại chỉ gọi cô ta”. Chẳng mấy chốc Chu Chỉ Nhược đã đến phòng sư phụ, Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Lộc tiên sinh, xin ông ra ngoài chờ, ta chỉ nói vài câu là xong.
Chu Chỉ Nhược đợi Lộc Trượng Khách ra khỏi, khép cửa lại, sà vào lòng sư phụ khóc tấm tức. Diệt Tuyệt sư thái vốn tính tình cứng rắn nhưng lúc sinh ly tử biệt này không khỏi thương cảm, nhẹ nhàng đưa tay vuốt tóc nàng.
Chu Chỉ Nhược biết rằng không có thì giờ nói chuyện lâu với sư phụ, liền đem chuyện đêm hôm qua Trương Vô Kỵ đến cứu nàng như thế nào kể lại cho sư phụ nghe. Diệt Tuyệt sư thái nhíu mày, trầm ngâm một hồi nói:
- Tại sao y lại chỉ cứu mình con mà không cứu những người khác? Hôm đó con đâm y một kiếm trên Quang Minh Đính, sao y lại trở ngược cứu con là sao?
Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng nhỏ nhẹ nói:
- Con cũng không biết nữa.
Diệt Tuyệt sư thái giận dữ nói:
- Hừ, tên tiểu tử đó cực kỳ âm hiểm ác độc, y là đại ma đầu của ma giáo, làm gì có lòng tốt bao giờ. Y chính là sắp xếp một cái bẫy để cho con chui đầu vào đó.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Y... y sắp xếp để đưa con vào bẫy ư?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Chúng ta là tử đối đầu của ma giáo, dưới kiếm Ỷ Thiên của ta không biết bao nhiêu tà ác gian đồ của ma giáo bị bỏ mạng. Lẽ dĩ nhiên ma giáo hận phái Nga Mi thấu xương, sao lại quay ra cứu mình là sao? Tên ma đầu họ Trương kia hẳn là thích con, muốn con bị sa vào vòng tay y nên y sai người giả vờ bắt bọn mình, sau đó cố ý lấy lòng, giả vờ cứu con ra, để con từ nay hết lòng hết dạ nhớ ơn y.
Chu Chỉ Nhược nhỏ nhẹ nói:
- Sư phụ, con xem ra y... y không phải giả đâu.
Diệt Tuyệt sư thái giận quá, quát lên:
- Ngươi lại định đi theo vết của đứa không ra gì Kỷ Hiểu Phù kia hay sao mà lại phải lòng một dâm đồ của ma giáo? Nếu ta công lực không mất, một chưởng đánh chết ngươi là xong.
Chu Chỉ Nhược sợ đến toàn thân run rẩy, nói:
- Đồ nhi không dám thế.
Diệt Tuyệt sư thái gay gắt nói:
- Ngươi quả thực không dám hay lại chỉ mồm mép xuông, đánh lừa sư phụ?
Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
- Đồ nhi quyết không dám trái lời dạy dỗ của ân sư.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Vậy con quì xuống lập một trọng thệ xem nào.
Chu Chỉ Nhược y lời, quì xuống không biết nói sao cho phải. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Con nói như thế này: tiểu nữ là Chu Chỉ Nhược xin thề cùng trời đất, nếu như sau này có lòng ái mộ tên dâm đồ Trương Vô Kỵ giáo chủ của ma giáo, kết thành vợ chồng cùng y, cha mẹ con chết nằm dưới đất xương cốt không yên, sư phụ con Diệt Tuyệt sư thái sẽ thành ma quỉ khiến cho con một đời ngày đêm không ổn, nếu như con sau này sinh con đẻ cái với y, con trai thì đời đời làm đầy tớ, con gái thì đời đời làm gái lầu xanh.
Chu Chỉ Nhược giật mình hoảng sợ, nàng bản tính nhu hòa ôn thuận, chưa bao giờ nghĩ đến chuyện thề một câu độc địa đến thế, không những rủa xả cả đến cha mẹ đã chết rồi, lại rủa xả đến cả sư phụ, luôn cả lời nguyền lây đến con cái mình nhưng thấy sư phụ mắt trừng trừng, hầm hầm nhìn thẳng vào mặt nàng, không khỏi mắt hoa đầu váng, liền y theo lời thầy nói đọc lại một lần.
Diệt Tuyệt sư thái thấy nàng thề độc như thế gương mặt liền dịu lại, ôn tồn nói:
- Ngoan lắm, thôi con đứng lên đi.
Chu Chỉ Nhược nước mắt lã chã tuôn rơi, uể oải đứng lên. Diệt Tuyệt sư thái mặt trầm xuống nói:
- Chỉ Nhược, ta không phải cố ý ép buộc con đâu, chỉ vì muốn tốt lành cho con đấy thôi. Con chỉ là một cô gái còn nhỏ tuổi, từ rày sư phụ đâu có còn để lo cho con nữa, nếu như con lại sa vào bước chân của Kỷ sư tỉ, sư phụ ở dưới cửu tuyền cũng không được an tâm. Huống chi sư phụ muốn con đảm trách trọng nhiệm hưng phục bản phái, không thể lầm lỡ chút nào được.
Nói đến đây bà tháo chiếc nhẫn sắt ở ngón tay vô danh nơi bàn tay trái ra, đứng thẳng dậy nói:
- Nữ đệ tử của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược quì xuống nghe dụ.
Chu Chỉ Nhược ngạc nhiên, lập tức quì xuống. Diệt Tuyệt sư thái giơ chiếc nhẫn lên cao khỏi đỉnh đầu, nói tiếp:
- Chưởng môn đời thứ ba của phái Nga Mi nữ ni Diệt Tuyệt, kính cẩn truyền chức chưởng môn bản phái cho chưởng môn đời thứ tư Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược bị sư phụ ép phải thề độc, đầu óc hỗn loạn bỗng nghe sư phụ truyền chức chưởng môn bản phái cho mình, lại càng hoang mang ngơ ngẩn, kinh hãi đến thừ người ra. Diệt Tuyệt sư thái lại từng tiếng một nói thật rõ ràng:
- Chu Chỉ Nhược, đưa tay trái ra phụng tiếp thiết chỉ hoàn chưởng môn của bản phái.
Chu Chỉ Nhược hoảng hốt giơ tay ra, Diệt Tuyệt sư thái liền đeo chiếc nhẫn vào ngón tay áp út cho nàng. Chu Chỉ Nhược run rẩy nói:
- Sư phụ, đệ tử tuổi trẻ, nhập môn cũng chưa lâu làm sao có thể đảm đương việc lớn được? Lão nhân gia thể nào cũng thoát khỏi cảnh khốn cùng, mà nếu có không ra được thì đệ tử cũng không thể...
Nói đến đây, nàng ôm hai đầu gối sư phụ, khóc òa lên.
Lộc Trượng Khách ở bên ngoài đợi lâu đã thấy khó chịu, nghe tiếng khóc liền đẩy cửa nhìn vào nói:
- Này, hai người nói chuyện xong chưa? Ngày sau còn dài nói lúc nào chẳng được?
Diệt Tuyệt sư thái quát:
- Ngươi léo nhéo cái gì?
Nói xong quay lại Chu Chỉ Nhược:
- Mệnh lệnh sư tôn, con dám trái lời sao?
Nói xong đem giới luật của chưởng môn bản phái nói hết một lượt bắt nàng phải nhớ nằm lòng. Chu Chỉ Nhược thấy trong cách nói của sư phụ như có vẻ trối trăn lời sau cùng, lại càng kinh sợ nói:
- Đệ tử không muốn, đệ tử không đủ tài...
Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng nói:
- Ngươi không nghe lời ta, vậy là kẻ khi sư diệt tổ rồi.
Bà thấy Chu Chỉ Nhược nem nép thật tội nghiệp, nghĩ đến chính mình còn thấy là quá to lớn, nay đem gánh nặng trút lên vai đưa học trò nhu thuận yếu đuối này, e rằng nàng không sao làm nổi. Thế nhưng trong các đệ tử của phái Nga Mi chỉ có nàng ngộ tính cao hơn cả, muốn tu tập võ công tối cao, làm rạng rỡ cho môn phái, ngoại trừ nàng ra không một người thứ hai nào thích hợp. Bà nghĩ đến rồi đây con đường đằng đẵng, biết bao gian lao khổ sở đang đón chờ đứa học trò nhỏ bé này, trong lòng không khỏi se lại, giơ tay đỡ nàng lên, ôm vào trong lòng ôn tồn vỗ về:
- Chỉ Nhược, ta sở dĩ đem chức vụ chưởng môn truyền cho con mà không truyền cho các sư tỉ, không phải vì sư phụ thiên vị, chỉ vì phái Nga Mi nữ lưu làm chủ, chưởng môn ắt phải võ công trác tuyệt để có thể đứng vững trước quần hùng trong võ lâm.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Võ công của đệ tử làm sao sánh được với các vị sư tỉ?
Diệt Tuyệt sư thái mỉm cười nói:
- Bọn nó thành công chỉ có hạn, đến mức như hiện nay, không còn tiến thêm bao nhiêu, đó là do thiên tư mà có chứ chẳng phải ý muốn con người. Con hiện nay tuy không bằng các sư tỉ của con, nhưng sau này không biết đâu mà kể. Ôi, không biết đâu mà kể, không biết đâu mà kể, cũng vì ở những chữ ấy.
Chu Chỉ Nhược thần sắc hoang mang, nhìn sư phụ không hiểu ý bà muốn nói gì. Diệt Tuyệt sư thái ghé miệng vào tai nàng nói nhỏ:
- Con đã là chưởng môn của bản phái rồi, ta đem một đại bí mật của môn phái kể cho con nghe.
Tổ sư khai sáng ra môn phái Quách nữ hiệp, vốn là con gái út của đại hiệp Quách Tĩnh. Năm xưa Quách đại hiệp danh chấn thiên hạ, trong đời có hai môn tuyệt nghệ, một là binh pháp hành quân chiến đấu, hai là võ công. Quách phu nhân Hoàng Dung nữ hiệp cực kỳ thông minh cơ trí, bà thấy thế của quân Nguyên quá lớn, thành Tương Dương rồi cũng sẽ không giữ được, hai vợ chồng quyết tâm lấy cái chết để đền nợ nước, ấy là biết không làm được đành giữ tấm lòng son tận trung, nhưng nếu vì thế mà tuyệt nghệ của Quách đại hiệp bị thất truyền, không đáng tiếc lắm hay sao? Huống chi bà nghĩ người Mông Cổ dù nhất thời có chiếm được Trung Quốc, người Hán cũng không cam chịu làm nô lệ mãi mãi. Sau này huyết chiến đất trung nguyên, hai môn binh pháp và võ công kia thể nào chẳng có chỗ đại dụng. Vì thế bà gọi các thợ đúc lành nghề, lấy thanh huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá Dương đại hiệp tặng cho Quách tổ sư của bản phái nấu chảy ra, lại thêm thép ròng của người Tây phương đúc thành một thanh đao Đồ Long, một thanh Ỷ Thiên kiếm.
Chu Chỉ Nhược nghe tiếng hai thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đã lâu, bây giờ mới biết hai thanh đao kiếm này là do mẫu thân của tổ sư bản phái Quách Tương nữ hiệp đúc thành. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Trước khi đúc đao rèn kiếm, Hoàng nữ hiệp cùng Quách đại hiệp hai người để ra một tháng, chép hết võ công và binh pháp tinh yếu, chia ra dấu trong hai thanh đao và kiếm. Trong đao Đồ Long cất giữ binh pháp, cái tên Đồ Long ý muốn người sau học được binh thư trong đao có thể đuổi được Thát tử, giết được hoàng đế Mông Cổ. Còn trong kiếm Ỷ Thiên thì cất giữ võ học bí cấp, trong đó hai môn quí giá nhất gồm có một bộ Cửu Âm Chân Kinh và một bộ Hàng Long Thập Bát Chưởng chưởng pháp tinh nghĩa, hi vọng hậu nhân tập được võ công trong thanh kiếm, thế thiên hành đạo, vì dân trừ hại.
Chu Chỉ Nhược mở to đôi mắt, càng nghe càng thấy lạ lùng, lại nghe sư phụ kể:
- Vợ chồng Quách đại hiệp đúc đao kiếm xong, đem bảo đao giao cho con trai là Quách công Phá Lỗ, bảo kiếm giao cho Quách tổ sư bản phái. Lẽ dĩ nhiên Quách tổ sư đã từng được cha mẹ dạy võ công rồi, còn Quách công Phá Lỗ thì được truyền thụ binh pháp. Thế nhưng khi thành Tương Dương thất thủ, cả vợ chồng Quách đại hiệp lẫn Quách công Phá Lỗ đều tuẫn nạn. Quách tổ sư tính tình không hợp với võ công của cha, thành thử võ học bản phái không cùng đường với võ công của Quách đại hiệp khi trước.
Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Một trăm năm sau, trong võ lâm biết bao nhiêu sóng gió, đôi đao kiếm đó qua tay đổi chủ nhiều lần. Người sau chỉ biết đao Đồ Long là võ lâm chí tôn, chỉ có kiếm Ỷ Thiên mới đương cự nổi, thế nhưng vì sao mà tôn quí hơn hết thì không ai biết cả. Quách công Phá Lỗ tuẫn quốc từ khi còn thanh niên, không có truyền nhân, thành ra bí mật trong hai thanh đao kiếm chỉ một mình Quách tổ sư bản phái biết mà thôi. Lão nhân gia lúc sinh tiền từng hết tâm hết sức đi tìm thanh đao Đồ Long nhưng không thành công. Đến khi lìa trần mới đem bí mật đó truyền lại cho ân sư ta là Phong Lăng sư thái. Ân sư ta nhận di mệnh của tổ sư đi tìm thanh đao Đồ Long cũng không có kết quả. Lão nhân gia lúc viên tịch lại đem thanh kiếm và di mệnh của tổ sư truyền lại cho ta. Ta tiếp nhiệm chức vụ chưởng môn bản phái chưa lâu thì sư bá ngươi Cô Hồng Tử gây sự với một thanh niên cao thủ của ma giáo, hai bên ước định tỉ võ, một đánh một, không ai có người giúp đỡ. Sư bá ngươi biết đối thủ tuy tuổi còn trẻ, võ công lại rất ghê gớm, nên mới đến mượn thanh Ỷ Thiên kiếm của ta.
Chu Chỉ Nhược nghe tới “thanh niên cao thủ trong ma giáo”, trong bụng chột dạ, tự nhiên mặt đỏ lên, nhưng lại nghĩ ngay: “Không phải chàng đâu, e rằng khi đó chàng chưa ra đời nữa”.
Lại nghe Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Khi đó ta muốn đi theo để trợ giúp nhưng sư bá ngươi là người hết sức tín nghĩa, nói rằng đã nói trước với ma đầu kia rằng không để cho người thứ ba nào tham dự thành thử kiên quyết không cho ta đi. Trận tỉ thí đó, sư bá ngươi võ công tuy không kém gì đối thủ nhưng gã ma đầu liên tiếp thi hành ngụy kế, sau cùng bị trúng một chưởng vào ngực, kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi vỏ thì đã bị ma đầu kia đoạt mất.
Chu Chỉ Nhược “A” lên một tiếng, nghĩ đến khi Trương Vô Kỵ đoạt kiếm từ tay Diệt Tuyệt sư thái lúc ở Quang Minh Đính, thì nghe sư phụ kể thêm:
- Gã ma đầu kia liên tiếp cười khẩy nói: “Kiếm Ỷ Thiên nghe danh ghê gớm thế nhưng dưới mắt ta có khác gì đồng nát sắt rỉ đâu”. Nói xong y vứt toẹt thanh kiếm xuống đất rồi đi thẳng. Sư bá ngươi nhặt thanh kiếm lên, muốn quay lại núi trả cho ta. Ngờ đâu ông tâm cao khí ngạo, càng nghĩ càng tức không chịu nổi, chỉ mới đi được ba ngày thì ở trên đường ngã bệnh không dậy được, thanh kiếm Ỷ Thiên bị quan phủ lấy mất đem hiến cho triều đình. Con có biết tên ma đầu đã chọc tức sư bá Cô Hồng Tử đó là ai không?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Không...con không biết. Ai thế?
Diệt Tuyệt sư thái đáp:
- Chính là kẻ sau này đã hại đời làm chết Kỷ Hiểu Phù sư tỉ con đại ma đầu Dương Tiêu đó.
Bỗng nghe Lộc Trượng Khách giơ tay gõ cửa nói:
- Xong chưa nào? Ta không đợi thêm được nữa đâu.
Diệt Tuyệt sư thái đáp:
- Không việc gì phải gấp, chỉ một lúc nữa là xong thôi.
Bà điềm nhiên nói với Chu Chỉ Nhược:
- Thời khắc không còn nhiều, ta không nói với con được bao nhiêu nữa. Thanh kiếm Ỷ Thiên sau đó hoàng đế Thát tử ban cho Nhữ Dương Vương, ta đến phủ Nhữ Dương Vương đoạt lại. Lần này bất hạnh thay trúng phải gian kế, thanh kiếm đó vào tay bọn ma giáo.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Không phải đâu, đó là bị cô nương họ Triệu kia đoạt mất đó.
Diệt Tuyệt sư thái trừng mắt nhìn nàng, nói:
- Con bé họ Triệu rõ ràng cùng bọn với ma đầu của ma giáo, không lẽ giờ phút này, con vẫn chưa tin lời sư phụ hay sao?
Chu Chỉ Nhược quả thực khó mà tin như thế nhưng không dám cãi lại lời sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Sư phụ muốn con tiếp nhiệm chưởng môn cũng là có thâm ý. Ta kỳ này rơi vào tay bọn gian đồ, anh danh một đời trôi theo giòng nước, thực không còn muốn sống mà ra khỏi cái tháp này. Tên dâm đồ họ Trương kia có tà ý, ắt sẽ không hại tính mạng con, thành thử con có thể giả vờ khứng chịu, thừa cơ đoạt lại thanh Ỷ Thiên kiếm. Còn thanh đao Đồ Long ở trong tay nghĩa phụ y là ác tặc Tạ Tốn. Tên tiểu tử đó dù cách nào cũng không thổ lộ chỗ ở của Tạ Tốn nhưng trên đời này chỉ một người có thể bảo y đi lấy thanh đao đó được thôi.
Chu Chỉ Nhược biết sư phụ nàng nói đây là nói về mình, vừa thẹn thùng vừa e ngại, vừa sợ hãi vừa vui mừng. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Người đó chính là con đó. Ta muốn con dùng sắc đẹp dụ y lấy được bảo đao bảo kiếm, việc đó quả không phải là đường lối của người hiệp nghĩa. Thế nhưng để thành được đại sự không thể nề tiểu tiết. Con thử nghĩ xem, thanh kiếm Ỷ Thiên nay ở trong tay con bé họ Triệu, còn đao Đồ Long ở trong tay ác tặc Tạ Tốn, chúng nó cùng một phường tồi bại với nhau, nếu như một ngày nào đó đao kiếm tương phùng, lấy được binh pháp võ công của Quách đại hiệp, dùng đó tàn hại dân lành, thiên hạ biết bao nhiêu kẻ vô tội bị bỏ mạng, vợ chồng chia lìa, cha con ly tán, việc đuổi quân Thát tử đã khó lại càng khó hơn.
Chỉ Nhược, ta biết việc này khó tày trời, thực không nỡ để con phải gánh vác, thế nhưng chúng ta một đời học võ cốt để làm gì? Chỉ Nhược, ta vì trăm họ mà cầu khẩn con.
Bà nói tới đây, đột nhiên đứng lên quì hai gối, hướng về Chu Chỉ Nhược phục xuống lạy. Chu Chỉ Nhược kinh hãi không để đâu cho hết, vội vàng quì theo, kêu lên:
- Sư phụ, sư phụ, thầy...
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Bình tĩnh nào, đừng để cho ác tặc bên ngoài kia nghe thấy, con có bằng lòng không? Nếu con không nhận lời, ta sẽ không đứng lên đâu.
Chu Chỉ Nhược lòng rối như tơ vò, trong một thời gian ngắn ngủi như thế, sư phụ bảo nàng làm ba chuyện thật to lớn, trước là lập một lời thề thật độc không được phải lòng Trương Vô Kỵ, kế đến bắt nàng tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, sau cùng lại bắt nàng dùng mỹ sắc để dụ dỗ Trương Vô Kỵ hầu lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long. Ba chuyện ấy trong vòng mười năm mà bảo nàng làm, dẫu nàng tính hạnh ôn nhu cũng đã thấy không làm nổi, huống chi chỉ trong một giây một phút? Nàng thần trí bấn loạn, lúc này người mê đi không còn biết gì nữa.
Đột nhiên nàng thấy môi trên đau nhói, mở mắt ra thấy sư phụ vẫn quì sừng sững ở trước mặt. Chu Chỉ Nhược khóc nói:
- Sư phụ, xin lão nhân gia đứng lên đi.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Vậy con đã bằng lòng làm việc sư phụ cầu ở con chưa?
Chu Chỉ Nhược nước mắt chảy dài lặng lẽ gật đầu nhưng dường như lại muốn ngất đi lần nữa. Diệt Tuyệt sư thái nắm lấy cổ tay nàng, hạ giọng nói:
- Con lấy được kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long rồi, tìm một nơi thật kín đáo, một tay cầm đao, một tay giữ kiếm vận nội lực lên lấy đao kiếm chém vào nhau, cả bảo đao lẫn bảo kiếm sẽ cùng gãy cả, là cách duy nhất lấy được bí cấp dấu bên trong thân đao và lưỡi kiếm, từ nay về sau đao kiếm đã bị hủy rồi. Con có nhớ không?
Bà ta tuy nói rất nhỏ nhưng âm thanh cực kỳ gay gắt. Chu Chỉ Nhược gật đầu.
Diệt Tuyệt sư thái lại tiếp:
- Đây là bí mật tối quan trọng của bản phái, từ thuở Quách đại hiệp truyền lại cho Quách tổ sư tới nay chỉ một mình người chưởng môn được biết. Ai cũng biết đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đều sắc bén tuyệt luân, dẫu người nào có được cả hai món binh khí này, ai dám mạo hiểm đem bảo đao bảo kiếm chém vào nhau? Con lấy được binh pháp rồi, chọn người nào tâm địa nhân hậu, hết lòng hết dạ với đất nước, đem truyền thụ cho y, bắt y thề phải dùng để đuổi quân Hồ Lỗ. Còn võ công bí cấp thì con tự mình luyện lấy. Hàng Long Thập Bát Chưởng là môn thuần cương mãnh, con không luyện được, chỉ nên luyện công phu Cửu Âm chân kinh.
Cứ như ân sư ta thuật lại di ngôn của Quách tổ sư thì pho Cửu Âm chân kinh này bác đại tinh thâm, vốn không thể mong tốc thành được nhưng vì Hoàng nữ hiệp nghĩ đến việc tru diệt bọn Thát tử hung ác là chuyện thật gấp gáp, sớm ngày nào thiên hạ đỡ khổ ngày nấy cho nên trong bí cấp dấu nơi kiếm Ỷ Thiên có viết mấy chương cốt luyện cho nhanh. Thế nhưng sau khi đã làm xong đại sự, phải đi lại từ đầu cho có căn cơ, công phu gấp gáp kia chỉ dùng được một thời, là do trí tuyệt đính thông minh của Hoàng nữ hiệp sáng tạo ra dùng lúc quyền nghi mà thôi, không phải là võ học chân chính vô địch thiên hạ. Chỗ đó con phải ghi nhớ kỹ trong lòng.

Chu Chỉ Nhược ngơ ngẩn bần thần lặng lẽ gật đầu. Diệt Tuyệt sư thái nói tiếp:
- Cả cuộc đời thầy chỉ có hai tâm nguyện lớn, một là làm sao đuổi được bọn Thát tử lấy lại giang sơn cho người Hán; hai là làm sao cho phái Nga Mi võ công đứng đầu thiên hạ, vượt cả Thiếu Lâm, Võ Đương trở thành môn phái số một của trung nguyên. Hai chuyện đó thật là khó khăn nhưng đến bây giờ thấy có chút hi vọng, chỉ cần con theo đúng lời dặn dò của sư phụ thì chuyện gì rồi cũng xong, ta dù ở nơi cửu tuyền cũng còn cảm kích chịu ơn con.
Bà ta nói tới đây, bỗng nghe bên ngoài có tiếng Lộc Trượng Khách gõ cửa. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Vào đi.
Cửa mở toang ra, người bước vào không phải là Lộc Trượng Khách mà là khổ đầu đà. Diệt Tuyệt sư thái cũng không ngạc nhiên, nghĩ bọn này đều cá mè một lứa, người nào thì cũng thế thôi liền nói:
- Ngươi đem đứa bé này ra đi.
Bà không muốn tự vẫn trước mặt Chu Chỉ Nhược để nàng khỏi thêm đau lòng. Khổ đầu đà đến gần hạ giọng nói khẽ:
- Đây là thuốc giải, mau uống đi. Đợi đến khi nào bên ngoài có tiếng la hét tất cả cùng xông ra chém giết một lượt.
Diệt Tuyệt sư thái lạ lùng hỏi:
- Các hạ là ai? Sao lại đưa thuốc giải cho ta.
Khổ đầu đà đáp:
- Tại hạ là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo Phạm Dao, trộm được thuốc giải, đặc biệt đến đây cứu sư thái.
Diệt Tuyệt sư thái giận dữ đáp:
- Gian tặc Ma giáo kia, đến giờ này còn đùa cợt với ta nữa sao?
Phạm Dao cười nói:
- Hay nhỉ, nếu như ta đùa cợt với mụ thì thuốc độc uống rồi, thêm thuốc độc nữa, mụ có gan thì uống đi? Thuốc này uống vào bụng một giờ sau ruột đứt ra từng tấc, chết thảm không đâu kể xiết.
Diệt Tuyệt sư thái không thèm nói thêm một tiếng nào, cầm ngay lấy thuốc bột trên tay y há mồm uống ngay vào bụng. Chu Chỉ Nhược kinh hoảng kêu lên:
- Sư phụ... sư phụ...
Phạm Dao giơ một bàn tay ra, quát lên:
- Không được lên tiếng, ngươi cũng uống thuốc độc ngay đi.
Chu Chỉ Nhược sợ quá nhưng đã bị Phạm Dao bóp mồm, đổ thuốc vào miệng, tiếp theo lấy một bình nước tưới vào, thuốc liền trôi ngay xuống họng. Diệt Tuyệt sư thái hoảng hốt nghĩ nếu như Chu Chỉ Nhược chết đi, tất cả những gì mình mưu tính trôi theo giòng nước, nên cố hết sức xông lên, múa chưởng đánh thẳng vào Phạm Dao. Thế nhưng bà ta công lực hoàn toàn mất hết, chưởng đó chiêu số tinh diệu nhưng không có chút hơi sức nào, bị Phạm Dao đẩy nhẹ một cái đã văng vào tường.
Phạm Dao cười nói:
- Tăng chúng Thiếu Lâm, chư hiệp Võ Đương cũng đều uống thuốc độc của ta rồi. Minh giáo hay hay dở, xấu hay tốt một lát nữa thì biết ngay.
Y nói xong cười sằng sặc, quay ra đóng trái cửa phòng lại.
*
* *
Thì ra Phạm Dao hộ tống Triệu Mẫn đến gặp Trương Vô Kỵ, trong lòng khắc khoải làm sao có được thuốc giải nên khi Triệu Mẫn ra lệnh cho y ở ngoài quán rượu chờ nàng, y lập tức đi ngay, chạy thẳng về chùa Vạn An đi lên trên tháp đến tầng thứ mười nơi ngoài phòng của Ô Vượng A Phổ.
Ô Vượng A Phổ lúc đó đang đứng ngoài cửa, vừa thấy y liền cung kính chào một tiếng:
- Khổ đại sư.
Phạm Dao gật đầu, trong bụng cười thầm: “Giỏi thật, tên già họ Lộc làm thầy mà chẳng ra thể thống gì, chui ở trong phòng hú hí với ái cơ của vương gia, lại bắt học trò đứng ngoài canh cửa. Lợi dụng lúc tên này còn đang không biết trời trăng, ta phải xông vào cướp lấy giải dược mới được”. Y bèn khom người lại, đi ngang qua người Ô Vượng A Phổ, bất ngờ giơ ngón tay điểm luôn vào huyệt đạo nơi bụng dưới y. Chẳng nói Ô Vượng A Phổ tuyệt nhiên không đề phòng, dẫu y có chăm chăm phòng bị cũng không sao tránh được một chỉ đó. Yếu huyệt của y bị điểm trúng rồi, lập tức đứng trơ trơ không cử động gì được, trong bụng cực kỳ ngạc nhiên, không biết làm gì nên nỗi, gây tội với lão đầu đà câm này. Không lẽ câu “Khổ đại sư” kia chào chưa đủ cung kính hay sao?
Phạm Dao vừa bước vào phòng, nhanh như điện xông luôn tới bên giường, hai chân chưa chấm đất, một chưởng đã đánh luôn vào người nằm ở trên. Y biết Lộc Trượng Khách võ công rất ghê gớm, nếu chưởng này không đánh y trọng thương hai bên sẽ phải đánh nhau một trận chưa biết bên nào sống bên nào chết, bên nào được bên nào thua. Thành thử chưởng đó y sử dụng đủ mười phần kình lực. Chỉ nghe một tiếp bộp, chiếc chăn bị đánh nát, bông bay tứ tán. Y lật mền lên coi, chỉ thấy Hàn cơ mũi mồm ứa máu, người đẹp kia ngọc nát vàng phai còn Lộc Trượng Khách không thấy đâu cả.
Phạm Dao chợt nghĩ ra một kế, vội vàng đi ra ngoài ôm Ô Vượng A Phổ vào, nhét xuống gầm giường, vừa khép cửa lại đã nghe tiếng Lộc Trượng Khách ở bên ngoài gắt lên:
- A Phổ, A Phổ, sao ngươi dám chạy đi đâu?
Thì ra Lộc Trượng Khách đứng bên ngoài phòng giam Diệt Tuyệt sư thái đợi một hồi, nghĩ thầm hai mẹ con mụ kể lể dông dài biết chừng nào mới xong, nhưng vì không dám đắc tội với khổ đầu đà, nên đành để yên, y ngong ngóng nhớ đến Hàn cơ, không còn chịu nổi nữa bèn quay trở lại phòng Ô Vượng A Phổ. Y đến nơi không thấy tên đệ tử ngoan ngoãn kia đâu, trong bụng bực dọc, đẩy cửa bước vào may quá chưa thấy gì khác, Hàn cơ nằm xoay mặt vào trong, trên mình phủ chiếc chăn bông.
Lộc Trượng Khách cầm then cài cửa phòng lại, quay mình cười nói:
- Người đẹp ơi, để ta giải huyệt cho nàng, nhưng nàng không được lên tiếng đấy nhé.
Y vừa nói vừa thò tay xuống dưới chăn, toan mò vào lưng Hàn cơ, đột nhiên cổ tay bị nắm chặt, năm ngón tay ai như gọng kìm bấm ngay vào mạch môn. Y kình lực toàn thân mất hết, không còn chút hơi sức nào nữa. Đột nhiên chăn tung qua, một nhà sư để tóc dài nhảy ra chính là khổ đầu đà.
Phạm Dao tay phải nắm được mạch môn, tay trái nhanh như gió liên tiếp điểm mười chín đại huyệt trên người Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền nhũn ra xụm người xuống không còn cử động chút nào nhưng mắt dường như nổ lửa.
Phạm Dao chỉ vào y nói:
- Lão phu đi không đổi họ, ngồi chẳng thay tên, chính là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo, họ Phạm tên Dao đây. Hôm nay ngươi bị ta ám toán, uổng cho ngươi tự cho mình là cơ trí tuyệt luân, thực ra tầm thường ngu độn quá lắm. Nếu lúc này ta giết ngươi, không phải là kẻ anh hùng hảo hán nên tạm cho ngươi sống, nếu ngươi có giỏi thì ngày sau đi kiếm Phạm Dao này báo thù.
Y cao hứng chưa hết, lột luôn quần áo Lộc Trượng Khách không còn một mảnh vải, để y nằm chung với cái xác Hàn cơ, lấy chăn bao ra bên ngoài chùm cả hai người một sống một chết lại.
Sau đó y mới lấy trượng sừng hươu, mở cái nhánh đổ hết thuốc giải đi từng phòng giam, chia cho Không Văn đại sư, Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu mọi người uống. Đợi cho mọi người uống xong thời giờ cũng khá lâu, lại còn mất công giải thích mỗi người ít câu. Sau cùng đi đến phòng của Diệt Tuyệt sư thái, Phạm Dao thấy bà ta không tin đây là thuốc giải đành phải dọa một trận nói là độc dược. Y hận bà giết hại rất nhiều anh em trong Minh giáo nên hù được mấy câu cũng khoái trong lòng.
Y chia thuốc giải xong rồi, cảm thấy đắc ý bỗng nghe thấy dưới chân tháp có tiếng người lao xao, trong đó tiếng của Hạc Bút Ông nghe rõ ràng hơn cả:
- Tên khổ đầu đà là gian tế, mau bắt y xuống đây.
Phạm Dao kêu khổ thầm: “Bỏ mẹ, hỏng rồi, không biết ai cứu tên đó ra vậy?”. Vừa thò đầu ra ngoài nhìn xuống dưới chân tháp, thấy Hạc Bút Ông tất lãnh một bầy võ sĩ vây chặt tháp lại, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi thấy y liền liền bắn hai mũi tên, chửi lớn:
- Ác tặc đầu đà, ngươi hại bọn ta quá đỗi.
Ba người Hạc Bút Ông bị điểm huyệt, vốn dĩ không thể thoát thân, lại nằm trong phòng Lộc Trượng Khách nên đâu có ai dám tự tiện tiến vào. Nào ngờ bọn võ sĩ do Nhữ Dương Vương phủ sai đến chùa Vạn An tra xét, không thấy tung tích ái cơ của vương gia đâu, liền có người nghĩ ngay đến tính tình hiếu sắc tham hoa của Lộc Trượng Khách. Thế nhưng các võ sĩ xưa nay vẫn e ngại y, tuy nghi ngờ việc mất tích của ái cơ vương gia có dính líu đến y nhưng có ai dám vuốt râu hùm? Mãi một lúc sau, người chỉ huy đội võ sĩ là Cáp tổng quản nghĩ ra một kế, sai một tên lính hầu đến gõ cửa phòng Lộc Trượng Khách, Lộc Trượng Khách thân phận cực cao dù có nổi nóng, không lẽ lại trừng phạt một tên tiểu binh như thế. Tên lính gõ cửa mấy lần trong phòng không nghe tiếng đáp lại.
Cáp tổng quản bậm môi, ra lệnh cho tên lính đẩy cửa vào xem có gì khác lạ không. Vừa nhìn vào, y liền thấy Hạc Bút Ông, Tôn Tam Hủy và Lý Tứ Tồi ba người nằm lăn dưới đất. Lúc đó Hạc Bút Ông vận khí xung huyệt cũng đã giải được ba bốn phần, Cáp tổng quản liền giúp y giải huyệt nên chẳng mấy chốc lại hành động được như thường.
Hạc Bút Ông nộ khí xung thiên, liền tra hỏi xem Lộc Trượng Khách và khổ đầu đà đi đâu, biết được hai người lên trên tháp liền dẫn đám võ sĩ bao vây, lớn tiếng reo hò, gọi khổ đầu đà xuống một phen tử chiến.
Phạm Dao chửi thầm trong bụng: “Muốn tử chiến thì tử chiến, không lẽ họ Phạm này sợ ngươi chắc? Có điều bọn hòa thượng ni cô thối tha uống thuốc chưa bao lâu, nhất thời công lực chưa khôi phục. Tên Hạc Bút Ông đã nghe ta và Lộc Trượng Khách nói chuyện rồi, dù ta có đem lão Lộc này giết đi, cũng không thể diệt khẩu, phải làm sao bây giờ đây?”. Y còn bàng hoàng chưa nghĩ ra kế gì, lại nghe Hạc Bút Ông kêu lên:
- Đầu đà chết tiệt kia, ngươi không xuống thì ta lên.
Phạm Dao liền trở vào đem chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ ra bao lơn, giơ cao lên nói:
- Con hạc già kia, ngươi mà tiến lên tháp một bước, ta sẽ ném con hươu dâm này xuống đó.
Bọn võ sĩ tay giơ cao đuốc, chiếu sáng như ban ngày mặc dù ngọn tháp quá cao, ánh lửa không chiếu tới, nhưng trong ánh sáng bập bùng, vẫn thấp thoáng nhìn thấy mặt Lộc Trượng Khách và Hàn cơ. Hạc Bút Ông kinh hãi, kêu lên:
- Sư ca, sư ca, anh không sao chứ?
Y gọi liên tiếp mấy câu không nghe Lộc Trượng Khách đáp lại tưởng đã bị khổ đầu đà giết chết rồi, trong lòng đau khổ kêu lên:
- Tặc đầu đà, ngươi giết sư ca ta, ta quyết một mất một còn với ngươi.
Phạm Dao liền giải huyệt câm cho Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách liền lên tiếng chửi:
- Tặc đầu đà, ngươi là gian tế nội ứng ngoại hợp, ta sẽ lăng trì tùng xẻo giết ngươi mới hả...
Phạm Dao chỉ để cho y nói vài câu, lại điểm huyệt câm của y. Hạc Bút Ông thấy sư huynh chưa chết, trong bụng cũng yên chỉ sợ khổ đầu đà ném xuống thật nên không dám tiến đến cửa tháp nữa. Hai bên cứ dây dưa như thế một hồi lâu, Hạc Bút Ông không dám lên cứu sư huynh, còn Phạm Dao thì chỉ mong kéo dài thời khắc, thêm được chút nào hay chút nấy. Y đứng ở lan can cười ha hả nói:
- Hạc lão nhi, sư huynh ngươi thật là mật lớn tày trời, dám đi bắt trộm ái cơ của vương gia về đây. Ta bắt kẻ gian bắt luôn cả đôi, quả tang cả hai người. Ngươi vẫn còn mong che đậy cho sư huynh ngươi hay sao? Tổng quản đại nhân, mau mau bắt lấy gã đó. Hai sư huynh đệ của y phản loạn, tội đó không thể tha được. Ông bắt được y rồi, vương gia thể nào cũng trọng thưởng.
Cáp tổng quản liếc nhìn Hạc Bút Ông, đã toan ra tay nhưng lại không dám. Y thấy khổ đầu đà đột nhiên biết nói, tuy quái lạ thực nhưng rõ ràng nhìn thấy Lộc Trượng Khách và Hàn cơ nằm chung trong một cái chăn, huống chi trước đây vốn đã nghi ngờ nên nay tin cũng phải chín phần mười. Y liền lớn tiếng nói:
- Khổ đại sư, xin mời ông xuống đây, tất cả cùng đến gặp vương gia trình bày ai trái ai phải. Cả ba vị đều là tiền bối cao nhân, tiểu nhân không dám mạo phạm người nào cả.
Phạm Dao vốn là kẻ lớn mật, nghĩ thầm nếu tất cả cùng đến gặp vương gia, để khi phân biện trắng đen trái phải rồi, chư hiệp trên tháp uống thuốc giải cũng đã ngấm, liền kêu lên:
- Hay lắm, hay lắm! Ta đang muốn đi gặp vương gia lãnh thưởng. Tổng quản đại nhân, ông canh chừng tên hạc già này, quyết chớ để y có dịp đào tẩu.
Ngay lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn rịp, một người cưỡi ngựa chạy vào tiến đến ngay dưới chân tháp. Các võ sĩ trông thấy liền khom lưng hành lễ:
- Tiểu vương gia.
Phạm Dao từ trên tháp nhìn xuống, thấy người đó mặc cẩm bào đội mũ vàng sáng loáng, cưỡi trên một con ngựa trắng cao to, chính là thế tử của Nhữ Dương Vương Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, có tên Hán là Vương Bảo Bảo.
Vương Bảo Bảo gay gắt quát hỏi:
- Hàn cơ đâu? Phụ vương đang nổi cơn lôi đình, sai ta đích thân tới tra xét.
Cáp tổng quản liền tiến lên bẩm báo, nói là Lộc Trượng Khách bắt cóc Hàn cơ, hiện đã bị khổ đầu đà bắt được. Hạc Bút Ông vội nói:
- Tiểu vương gia, đừng nghe y nói năng láo lếu. Tên đầu đà đó là gian tế, y hãm hại sư ca tôi...
Vương Bảo Bảo nhướng mày lên, quát:
- Tất cả xuống đây nói chuyện.
Phạm Dao ở vương phủ đã lâu, biết rằng Vương Bảo Bảo sáng suốt tinh minh không kém gì cha, ngụy kế của mình chỉ lừa được người khác nhưng không lừa nổi y. Một khi xuống chân tháp rồi, chỉ một hai câu là tiểu vương gia biết ngay, hạ lệnh cho võ sĩ vây đánh, riêng Hạc Bút Ông không thôi cũng đã gay go, một mình thoát thân không khó nhưng chư hiệp trên tháp không thể nào cứu ra được. Y liền lớn tiếng nói:
- Tiểu vương gia, tôi bắt được Lộc Trượng Khách rồi, sư đệ y căm hận thấu xương, tôi chỉ xuống tới nơi là y giết tôi ngay.
Vương Bảo Bảo nói:
- Ngươi mau xuống đây, Hạc tiên sinh không dám giết ngươi đâu.
Phạm Dao lắc đầu, cao giọng nói:
- Tôi ở trên tháp thấy yên tâm hơn. Tiểu vương gia, khổ đầu đà này một đời không nói năng, hôm nay việc chẳng đặng đừng phải mở miệng cũng toàn là do tấm lòng son trung nghĩa đối với vương gia. Nếu tiểu vương gia không tin, khổ đầu đà này sẽ nhảy xuống, vỡ đầu chết trước mặt ngài là xong.
Vương Bảo Bảo nghe y nói, mười phần đến bảy tám là láo lếu, rõ ràng có ý diên trì, hạ giọng hỏi nhỏ Cáp tổng quản:
- Y có mưu toan gì mà cố tình lần khân, chẳng lẽ còn chờ ai chăng?
Cáp tổng quản nói:
- Tiểu nhân không biết...
Hạc Bút Ông liền xen vào:
- Tiểu vương gia, tên tặc đầu đà này cướp thuốc giải của sư huynh tôi, muốn cứu bọn phản nghịch đang giam ở trong tháp.
Vương Bảo Bảo nghe liền hiểu ngay, gọi lớn:
- Khổ đại sư, ta biết công lao của ông rồi, mau xuống đây ta sẽ trọng thưởng.
Phạm Dao đáp:
- Tôi bị Lộc Trượng Khách đá hai cái, xương đùi gãy cả, bây giờ không sao cử động được. Tiểu vương gia, xin ngài đợi cho một chút, tôi vận khí chữa thương sẽ xuống ngay.
Vương Bảo Bảo quát lên:
- Cáp tổng quản, ngươi sai người lên cõng khổ đại sư xuống dưới này.
Phạm Dao vội kêu:
- Không được đâu, không được đâu, người nào đụng đến tôi là hai chân sẽ bị phế đó.
Vương Bảo Bảo lúc này không còn hoài nghi gì nữa, thấy Hàn cơ và Lộc Trượng Khách hai người nằm chung trong một cái chăn, dẫu như chưa có chuyện gì, phụ vương cũng không còn có thể giữ nàng hầu đó nữa, liền nói nhỏ:
- Cáp tổng quản, nổi lửa đốt cái tháp đi. Cho người nạp sẵn cung tên, dù ai nhảy ra cũng bắn chết hết.
Cáp tổng quản tuân lệnh truyền xuống, các võ sĩ cung tên sẵn sàng vây quanh ngọn tháp, còn những người khác chạy đi kiếm củi cỏ để đốt lửa. Hạc Bút Ông hoảng quá, kêu lên:
- Tiểu vương gia, sư ca tôi cũng ở trên đó.
Vương Bảo Bảo lạnh lùng đáp:
- Tên đầu đà đó không dám ở trên đó lâu đâu, một khi đốt lửa lên là y phải chạy xuống.
Hạc Bút Ông lập cập nói:
- Lỡ như y vứt sư ca tôi xuống thì làm thế nào? Tiểu vương gia, không thể đốt lửa được.
Vương Bảo Bảo hừ một tiếng không thèm để ý gì đến y. Chỉ trong giây lát, các võ sĩ đã mang củi cỏ và các đồ bén lửa, đốt dưới chân tháp. Hạc Bút Ông là người rất có thân phận trong võ lâm, được Nhữ Dương Vương dùng lễ mời vào phủ, trước nay đối đãi cực kỳ kính trọng, nào ngờ hôm nay vì trúng kế của khổ đầu đà, đến tiểu vương gia cũng chẳng coi y vào đâu. Y thấy tính mạng sư huynh nguy ngập đến nơi, không còn coi tiểu vương gia, đại vương gia ra gì nữa, cầm đôi bút mỏ hạc, nhảy vọt lên gạt hai tên võ sĩ đang châm lửa, huỵch huỵch hai tiếng, hai đứa đó liền văng ra xa.
Vương Bảo Bảo giận lắm, quát lên:
- Hạc tiên sinh, ngươi muốn phạm thượng tác loạn hay sao?
Hạc Bút Ông đáp:
- Tiểu vương gia đừng sai đốt lửa, tôi đâu có dám làm gì.
Vương Bảo Bảo quát lên:
- Châm lửa.
Y phất tay một cái, năm tên phiên tăng áo đỏ từ đằng sau nhảy lên, cầm lấy mấy bó đuốc trong tay các võ sĩ, ném luôn vào đống củi dưới chân tháp. Cỏ củi bén lửa, lập tức cháy lên bùng bùng.
Hạc Bút Ông quýnh quít, cướp một cây giáo của một tên võ sĩ, gạt những củi đang cháy ra. Vương Bảo Bảo quát lên:
- Bắt y.
Năm tên hồng y phiên tăng tay cầm giới đao liền vây Hạc Bút Ông lại. Hạc Bút Ông giận lắm, vứt trường mâu xuống, giơ tay toan cướp giới đao trong tay một phiên tăng. Tên đó không phải tầm thường, giới đao vòng lại chém luôn lên đầu vai y. Hạc Bút Ông đang toan né tránh, đằng sau đã nghe tiếng gió, lại có thêm hai thanh đao chém tới.
Thủ hạ Vương Bảo Bảo có mười tám phiên tăng võ công cao cường, gọi là Thập Bát Kim Cương, chia thành ngũ đao, ngũ kiếm, tứ trượng, tứ bạt. Năm phiên tăng này là Ngũ Đao Kim Cương, nếu một chọi một thì họ kém Hạc Bút Ông xa nhưng cả năm người cùng ra tay, kẻ công người thủ tương trợ lẫn nhau thì uy lực rất lớn. Hạc Bút Ông võ công tuy cao cường nhưng hôm trước bị Trương Vô Kỵ đánh cho bị thương hộc máu, nội lực giảm đi nhiều, lại thêm lửa cháy bừng bừng, tính mạng sư huynh đang nguy cấp, nên trong bụng phập phồng hốt hoảng không thể nào thắng ngay được.
Thủ hạ của Vương Bảo Bảo liên tục thêm củi thêm lửa, càng lúc cháy càng mạnh. Bảo tháp này xây vừa gạch vừa gỗ, chẳng mấy chốc những tầng dưới cùng đã bén lửa cháy lốp bốp rồi. Phạm Dao vội để Lộc Trượng Khách xuống, đến phòng giam chư hiệp phái Võ Đương, kêu lên:
- Thát tử đang đốt tháp, các vị nội lực đã hồi phục chưa?
Chỉ thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu cả bọn đang ngồi xếp bằng vận công, hết sức tập trung tinh thần, không người nào lên tiếng trả lời hiển nhiên đang ở vào lúc sinh tử quan đầu của việc luyện công. Có mấy tên võ sĩ canh giữ tiến lên ngăn trở đều bị Phạm Dao chộp từng tên vứt xuống dưới chân tháp chết tươi. Số còn lại cố xông qua khói lửa chạy xuống dưới.
Một lúc sau, lửa đã bén đến từng thứ tư, những người bị giam nơi đây là phái Hoa Sơn không đợi công lực hồi phục, hốt hoảng chạy lên tầng thứ năm. Lửa vẫn tiếp tục cháy lên cao, khiến cho những người bị giam ở tầng thứ năm là phái Không Động cũng phải chạy lên. Có người chậm chân, quần áo râu tóc bị cháy xém.
Phạm Dao không biết làm cách nào, bỗng nghe có tiếng người gọi:
- Phạm hữu sứ, đón lấy.
Chính là tiếng của Vi Nhất Tiếu. Phạm Dao mừng quá, nhìn theo hướng thanh âm thấy Vi Nhất Tiếu đứng trên nóc hậu viện chùa Vạn An vung tay một cái ném một sợi dây dài qua, Phạm Dao vội vàng giơ tay bắt lấy. Vi Nhất Tiếu nói:
- Ngươi buộc vào lan can để làm một cái cầu dây.
Phạm Dao còn đang loay hoay buộc, Triệu Nhất Thương trong thần tiễn bát hùng liền bắn ra một mũi tên, trúng ngay giữa sợi dây thừng đứt đôi. Cả Phạm Dao lẫn Vi Nhất Tiếu cùng cất tiếng chửi, biết rằng muốn làm cái cầu dây không thể không trừ bọn thần tiễn bát hùng trước. Vi Nhất Tiếu mắng:
- Bắn cái con mẹ ngươi. Đứa nào không ném cung tên đi thì ông giết trước.
Y vừa chửi vừa rút kiếm ra nhảy ngay xuống đất. Chân y chưa chấm đất, năm tên phiên tăng áo xanh lập tức cầm kiếm tiến lên vây lại, chính là Ngũ Kiếm Kim Cương trong thập bát phiên tăng của Vương Bảo Bảo. Năm người đó kiếm vung lên loang loáng, kiếm chiêu quái lạ đấu với Vi Nhất Tiếu.
Hạc Bút Ông vẫn múa đôi song bút mỏ hạc chiến đấu, lớn tiếng kêu:
- Nếu tiểu vương gia không ra lệnh cứu hỏa, ta sẽ không còn nể nang gì nữa đâu.
Vương Bảo Bảo không thèm để ý, bốn tên phiên tăng cầm trượng liền chia nhau ra đứng bốn bên tiểu vương gia, e sợ có người đánh lén. Hạc Bút Ông nóng ruột, song bút đột nhiên sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, đẩy dạt ba phiên tăng trước mặt, đề khí chạy đến bên chân tháp, năm tên phiên tăng lập tức đuổi theo. Hạc Bút Ông nhún mình một cái đã nắm ngay được mái hiên tầng thứ nhất, năm phiên tăng thấy lửa đang cháy to liền ngừng lại không đuổi theo nữa.
Hạc Bút Ông từng tầng một tiếp tục nhảy lên, đến khi y tới từng thứ tư, Phạm Dao ở trên tầng thứ bảy thò đầu ra trông thấy liền giơ cao Lộc Trượng Khách lớn tiếng nói:
- Hạc lão nhi, mau đứng lại. Ngươi còn đi thêm một bước là ta cho Lộc lão nhi nát bấy ra ngay.
Quả nhiên Hạc Bút Ông không dám tiến thêm kêu lên:
- Khổ đại sư, anh em tôi trước đây không thù oán gì với ông, sao lại làm khó chúng tôi thế? Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì.
Diệt Tuyệt sư thái uống thuốc giải của khổ đầu đà rồi, tưởng rằng đó là thuốc độc và mình thể nào cũng chết, lại thấy Chu Chỉ Nhược cũng bị ép đổ thuốc vào mồm, bao nhiêu kỳ vọng tan ra mây khói, trong lòng cực kỳ đau đớn. Đang lúc thương tâm, bỗng nghe dưới tháp tiếng người lao xao, sau đó là Hạc Bút Ông và khổ đầu đà tranh cãi, Vương Bảo Bảo ra lệnh đốt tháp... mọi việc bà ta đều nghe rõ ràng. Diệt Tuyệt sư thái trong bụng lạ lùng: “Không lẽ tên đầu đà trông như quỉ này quả thực muốn cứu mình chăng?”. Bà ta liền thử vận khí, lập tức thấy ở đan điền có một luồng hơi ấm xông lên, so với tình hình từ khi trúng độc đến giờ hoàn toàn khác hẳn.
Bà ta không khứng chịu việc Triệu Mẫn gọi ra điện tỉ võ nên nhịn ăn đã sáu bảy ngày, trong dạ dày không còn một chút gì, giải dược vào ruột liền chạy thẳng vào máu cho nên thuốc ngấm nhanh hơn những người khác nhiều. Huống chi bà ta nội lực thâm hậu, còn cao hơn cả Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Hà Thái Xung có lẽ chỉ kém Không Văn thần tăng của phái Thiếu Lâm một chút thôi, thành thử độc tính của Thập Hương Nhuyễn Cân Tán bị thuốc giải làm tiêu tan rất mau, Diệt Tuyệt sư thái chỉ vận khí một hồi, nội lực lập tức tái sinh chưa đến nửa giờ đã khôi phục được năm sáu thành.
Bà ta thấy vậy đang tính vận công gấp rút hơn bỗng nghe Hạc Bút Ông ở bên ngoài la lối: “... Nếu ông muốn cứu người tình cũ Diệt Tuyệt sư thái và con gái bà ta là Chu Chỉ Nhược thì cứ việc cứu, tôi nhất định không ngăn cản gì”. Mấy chữ “lão tình nhân” vân vân từng tiếng như tên nhọn đâm vào tai, bà ta nghe không nổi giận sao được, liền bước ra lan can, bực tức quát lên:
- Ngươi nói nhăng nói càn, không biết trước biết sau gì cả là sao?
Hạc Bút Ông liền năn nỉ:
- Lão sư thái, xin bà làm ơn khuyên ông... ông bạn già thả sư huynh tôi ra. Tôi đảm bảo một nhà ba mạng bình an ra khỏi đây. Huyền Minh nhị lão nói một là một, nói hai là hai, không phải là loại nói rồi lại nuốt lời.
Diệt Tuyệt sư thái càng giận thêm, hỏi dồn:
- Cái gì mà một nhà ba mạng?
Phạm Dao tuy đang trong cảnh nguy nan, vẫn cười sằng sặc, thật là đắc ý nói:
- Lão sư thái, tên già đó nói tôi với bà là cựu tình nhân, còn Chu cô nương kia, thì là con tư sinh của hai đứa mình.
Diệt Tuyệt sư thái giận không để đâu cho hết, trong ánh lửa khi mờ khi tỏ, khuôn mặt trông thật đáng sợ, nghiến răng nói:
- Hạc lão nhi, ngươi lên đây, ta với ngươi trao đổi một trăm chưởng rồi hãy tính.
Nếu phải lúc bình thời, nói Hạc Bút Ông lên là y lên ngay, há sợ gì người chưởng môn phái Nga Mi, nhưng phút này sư huynh y rơi vào tay người khác nên không dám ngang tàng, kêu lên:
- Khổ đầu đà, cái đó là chính ngươi nói ra, chứ đâu phải ta bịa đặt đâu.
Diệt Tuyệt sư thái hầm hầm nhìn Phạm Dao, gay gắt hỏi lại:
- Có phải ngươi nói đó không?
Phạm Dao lại cười ha hả, đang định nói châm chọc bà ta mấy câu, bỗng nghe dưới chân tháp có tiếng người lao xao, ghé mắt nhìn xuống, thấy trong ánh lửa có một người thân hình chẳng khác gì bướm vờn hoa chạy qua chạy lại nhanh nhẹn dị thường, giữa đám đông lạng qua lạng lại, tiếng loảng xoảng, loảng xoảng liên tiếp không dứt, binh khí trong tay các phiên tăng, võ sĩ đều rơi xuống đất, chính là giáo chủ Trương Vô Kỵ đã đến nơi.
Trương Vô Kỵ vừa ra tay, năm thanh kiếm trong tay những người vây đánh Vi Nhất Tiếu đều bay đi cả. Vi Nhất Tiếu mừng quá, lạng người đến gần chàng, nói nhỏ:
- Để thuộc hạ đến đốt phủ Nhữ Dương Vương.
Trương Vô Kỵ gật đầu hiểu ngay ý của y, bên mình nơi đây chỉ có vài người, nếu như không cứu kịp quần hào lục đại môn phái ra, đối phương viện binh sẽ đến mỗi lúc một đông. Thanh Dực Bức Vương đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa, các võ sĩ sẽ thấy việc bảo vệ vương gia cần hơn, chính là kế điệu hổ ly sơn, phủ để trừu tân[1] thật tuyệt diệu. Chỉ thấy một bóng xanh vụt qua, Vi Nhất Tiếu đã nhảy qua tường chạy mất.
Trương Vô Kỵ thấy tình hình như thế, lớn tiếng hỏi:
- Phạm hữu sứ, ra sao rồi?
Phạm Dao đáp:
- Nguy ngập lắm, đường xuống bị cháy mất rồi, không một ai có thể chạy thoát được cả.
Lúc đó trong số mười tám phiên tăng thủ hạ của Vương Bảo Bảo, đã có mười bốn người tiến đến vây đánh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nghĩ phá giặc phải bắt thủ lãnh trước, có bắt được gã vương công Thát tử đầu đội kim quan kia thì mới có thể ép bọn thuộc hạ dập lửa thả người ra, thành thử chẳng khác gì con cá quẫy mình, lắc người một cái đã vọt ra khỏi bọn phiên tăng, tới ngay trước mặt Vương Bảo Bảo.
Nào ngờ từ phía trái một thanh kiếm đâm tới, hàn quang lạnh người, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực. Trương Vô Kỵ vội vàng lùi lại, chỉ nghe một giọng đàn bà nói:
- Trương công tử, đây là gia huynh, xin đừng đụng đến.
Chỉ thấy người đứng đó thân hình yểu điệu, thanh kiếm trong tay rung động, lưỡi kiếm sáng loáng như nước chính là thanh kiếm Ỷ Thiên, còn người thì mặt đẹp như hoa chính là Triệu Mẫn. Nàng đuổi theo Trương Vô Kỵ đến đây cũng chỉ chậm hơn một bước.
Trương Vô Kỵ nói:
- Cô nương mau hạ lệnh dập lửa cứu người, nếu không tại hạ sẽ phải vô lễ với hai vị đó.
Triệu Mẫn quát lên:
- Thập bát Kim Cương, người này võ công ghê gớm lắm, mau lập thành Kim Cương trận chặn y lại.
Mười tám phiên tăng mới rồi đã nếm mùi đau khổ của Trương Vô Kỵ, chẳng cần quận chúa chỉ điểm cũng đã biết chàng tới bực nào. Chỉ nghe choang một tiếng lớn, tám chiếc thanh la bằng đồng trong tay Tứ Bạt Kim Cương cùng gõ vào nhau, mười tám người chạy qua chạy lại, làm thành một bức tường người chặn ngay trước mặt Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn, đẩy lùi Trương Vô Kỵ ra.
Trương Vô Kỵ thấy mười tám phiên tăng chạy vòng quanh, bộ pháp kỳ lạ, xem ra bên trong còn chất chứa nhiều biến hóa. Chàng đang toan nhảy vào phá trận Kim Cương này xem sao, thì ngay lúc ấy nghe một tiếng bình thật lớn, một chiếc cột từ trên tháp đổ xuống.
Chàng quay đầu lại thấy lửa đã bén đến tầng thứ bảy, trong ánh lửa đỏ rực lem lém có bóng hai người đang đấu với nhau cực kỳ khốc liệt. Đó chính là Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông, còn trên lan can tầng thứ mười đầy những người của các phái Thiếu Lâm, Võ Đương, những người đó võ công chưa hoàn toàn hồi phục, huống chi tháp cao đến hơn chục trượng, dù có khinh công tuyệt đính mà nội lực không mất chút nào, nhảy xuống cũng chết tươi ngay.
Một ý nghĩ liền nảy vụt ra trong đầu Trương Vô Kỵ: “Trận Kim Cương này không phải trong chốc lát mà phá được, huống chi đánh bại được bọn phiên tăng thì lại có những hảo thủ khác xông lên, muốn bắt người anh của Triệu cô nương thật không phải dễ. Diệt Tuyệt sư thái đấu với Hạc Bút Ông từ nãy giờ không thấy sút kém chút nào, xem chừng võ công đã khôi phục, như thế nhóm đại sư bá nội lực cũng đã có rồi, chỉ điều bảo tháp này quá cao không thể nào nhảy xuống được”.
Chàng nghĩ như thế lập tức chạy khắp nơi, hay tay lúc đánh lúc bắt, lúc đập lúc đoạt đánh ngã toàn bộ bọn thần tiễn bát hùng, ngoài ra bọn võ sĩ ai cầm cung tên đều bị chàng hoặc bẻ gãy, hoặc điểm huyệt, đến khi tất cả chung quanh không còn một hảo thủ cung tiễn nào, lúc ấy mới cao giọng nói:
- Các vị tiền bối trên tháp, xin nhảy xuống đây, tại hạ ở dưới này sẽ đỡ cho.
Những người ở trên tháp nghe thế đều ngạc nhiên, nghĩ thầm nơi đây cao đến hơn mười trượng, nhảy xuống thế sẽ mạnh lắm, dù chàng có sức nghìn cân cũng không thể nào đón được. Phái Không Động, phái Côn Lôn liền có người nhao nhao lên:
- Không thể nào được, chớ nên mắc hỡm tiểu tử đó. Y định lừa cho mình nhảy xuống chết nát xương đấy mà.
Trương Vô Kỵ thấy lửa đã bốc lên gần đến các cao thủ rồi, nếu như mọi người không nhảy xuống, thế tất đều chết cháy cả nên lớn tiếng nói:
- Du nhị bá, bác đối với cháu ơn nặng như núi, không lẽ tiểu điệt lại có bụng dạ hại bác hay sao? Bác nhảy xuống trước đi.
Du Liên Châu xưa nay vẫn tin tưởng Trương Vô Kỵ, biết võ công chàng cao cường nhưng không chắc có thể đỡ nổi mình. Tuy nhiên ở lại để bị bị chết thui và ngã xuống chết có khác gì nhau, nên kêu lên:
- Được, để ta nhảy xuống.
Ông liền tung mình, từ cao tháp nhảy vọt ra. Trương Vô Kỵ nhắm kỹ càng, đợi đến khi người ông còn cách mặt đất chừng năm thước, một chưởng nhẹ nhàng đánh ra, trúng ngay vào hông. Trong chưởng đó chàng đã vận dụng môn võ công tuyệt đính Càn Khôn Đại Na Di, cực kỳ khéo léo biến sức từ trên đi xuống trở thành từ trái sang phải.
Thân hình Du Liên Châu văng ngang qua, xa đến mấy trượng. Lúc này công lực ông đã khôi phục được bảy tám thành, vừa xoay mình một cái đã trầm ổn đứng được trên mặt đất, thuận tay một chưởng đánh ra hộc máu một võ sĩ Mông Cổ. Ông lớn tiếng gọi:
- Đại sư ca, tứ sư đệ, mau nhảy xuống đi thôi.
Người trên tháp thấy Du Liên Châu bình an rơi xuống, lớn tiếng reo hò. Tống Viễn Kiều thương con, muốn y thoát hiểm trước, nói:
- Thanh Thư, con nhảy xuống đi.
Tống Thanh Thư từ khi ra khỏi tù thất, lúc nào cũng đứng bên cạnh Chu Chỉ Nhược liền nói:
- Chu cô nương, cô nhảy đi.
Chu Chỉ Nhược công lực chưa hồi phục không thể giúp gì cho sư phụ được, nhưng cũng không muốn một mình chạy thoát, nghe Tống Thanh Thư nói liền lắc đầu:
- Tôi đợi sư phụ tôi.
Lúc đó Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đã trước sau nhảy xuống, đều được Trương Vô Kỵ thi triển Càn Khôn Đại Na Di thần công xuất chưởng đánh ra, sức rơi thẳng biến thành văng ngang nên ai nấy đều thoát hiểm. Những người đó công lực tuy chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng chỉ cần năm sáu thành, cũng đã khiến cho bọn phiên tăng, võ sĩ không sao đương cự nổi.
Bọn Du Liên Châu trong giây lát đã đoạt được binh khí, bao vây hộ vệ cho Trương Vô Kỵ. Thủ hạ của Vương Bảo Bảo và Triệu Mẫn toan xông lên ngăn chặn, đều bị Du Liên Châu, Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn đẩy lui. Trên tháp một người nhảy xuống, bên Trương Vô Kỵ lại có thêm một người tiếp tay. Những người này từ khi bị Triệu Mẫn bắt giam nơi tháp đến nay, ai nấy chịu biết bao nhiêu nhục nhã, biết bao nhiêu người bị chặt ngón tay, bây giờ thoát khỏi lao lung, căm phẫn phát tiết chỉ trong giây lát đã có hơn hai chục võ sĩ bị đánh chết lăn trên mặt đất.
Vương Bảo Bảo thấy tình hình không ổn, truyền lệnh:
- Mau điều đội thân binh cung nỏ của ta lại đây.
Cáp tổng quản đang toan đi ra truyền lệnh của tiểu vương gia, bỗng thấy góc đông nam lửa cháy ngút trời, y hoảng hốt kêu lên:
- Tiểu vương gia, vương phủ đang cháy. Chúng ta quay về bảo vệ vương gia là hơn.
Vương Bảo Bảo cũng lo cho an nguy của phụ thân, không còn lòng dạ nào tính chuyện bắt bọn phản tặc, vội nói:
- Muội tử, ta về phủ trước, em ở lại phải cẩn thận.
Y không đợi Triệu Mẫn trả lời, quay đầu giục ngựa chạy thẳng ra ngoài. Vương Bảo Bảo đi rồi, mười tám kim cương cũng chạy theo, bọn võ sĩ cũng đi đến quá nửa. Những người còn lại thấy vương phủ bị cháy, đâu ngờ chỉ một mình Vi Nhất Tiếu gây ra, lại tưởng bọn phản tặc đã kéo đại đội binh mã đến tấn công nên ai nấy đều kinh hoàng.
Đến lúc này, Tống Viễn Kiều, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc cũng đã nhảy xuống khỏi tháp, hai bên yếu mạnh nay đổi chiều, đến khi Không Văn phương trượng, Không Trí đại sư cùng các cao tăng trong Đạt Ma Đường, La Hán Đường xuống cả rồi, các võ sĩ thủ hạ của Triệu Mẫn không cách gì kháng cự nổi.
Triệu Mẫn nghĩ lúc này mình không chạy cho nhanh, lại bị bên kia bắt được không chừng, lập tức hạ lệnh:
- Tất cả lui ra khỏi chùa Vạn An.
Nàng quay lại nói với Trương Vô Kỵ:
- Chiều ngày mai, tôi lại mời công tử đi uống rượu, nhớ đến nhé.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, chưa kịp trả lời, Triệu Mẫn đã cười đi vào hậu điện của chùa Vạn An. Chỉ nghe Phạm Dao trên tháp cao hô to:
- Chu cô nương, mau nhảy xuống, lửa cháy đến nơi rồi, không nhảy ngay là thành mỹ nhân nướng trui đó.
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Tôi phải theo sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái và Hạc Bút Ông hai bên đánh nhau một trận kịch liệt, mỗi khi khói lửa bén lên thì lại nhảy lên một tầng sau cùng đến tận tầng thứ mười. Bà ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, nhưng lúc này không còn coi sống chết vào đâu, chưởng pháp chỉ công mà không thủ. Hạc Bút Ông một mặt lo cho sư huynh nên phân tâm, hơn nữa bị thương chưa khỏi hẳn, lại mới uống phải thuốc mê, huyệt đạo bị đóng khá lâu nên chân tay không được linh hoạt thành thử hai bên không phân cao thấp. Diệt Tuyệt sư thái nghe tiếng học trò trả lời, kêu lên:
- Chỉ Nhược, con mau nhảy xuống đi, đừng lo cho ta làm gì. Tên giặc già này làm nhục ta quá lắm, không thể để cho y sống được.
Hạc Bút Ông lòng kêu khổ thầm: “Con mụ ni cô này đánh kiểu thí mạng, ta cứu sư huynh mới là cần, không lẽ chết chùm với mụ trong đống lửa này hay sao?”. Y liền lớn tiếng nói:
- Diệt Tuyệt sư thái, câu đó là của khổ đầu đà nói chứ có liên quan gì đến ta đâu.
Diệt Tuyệt sư thái liền thu chưởng về, hỏi Phạm Dao:
- Tên đầu đà chết tiệt kia, câu nói điên khùng kia có phải do ngươi nói không?
Phạm Dao cười rung cả mặt nói:
- Câu nói điên khùng nào?
Câu nói đó rõ ràng y muốn cho Diệt Tuyệt sư thái tự miệng mình nói ra một lần: “Y bảo ta và ngươi là người tình cũ, Chu Chỉ Nhược là con tư sinh của ta”. Thế nhưng hai câu đó làm sao bà ta có thể nói ra? Tuy nhiên khi nghe Phạm Dao nói thế, bà ta biết là lời Hạc Bút Ông quả không sai, tức đến run lên được.
Hạc Bút Ông thấy Diệt Tuyệt sư thái lưng quay về phía mình, vừa lúc có một đám khói đen ùa tới, đúng là cơ hội bằng vàng nên y liền đánh luôn một chưởng. Chu Chỉ Nhược và Phạm Dao đều nhìn rõ, cùng kêu lên:
- Sư phụ coi chừng.
- Lão ni cô cẩn thận.
Thế nhưng không kịp nữa, Hạc Bút Ông đã đánh trúng ngay lưng bà ta. Huyền Minh thần chưởng lợi hại biết là chừng nào, năm xưa trên núi Võ Đương chỉ có mình Trương Tam Phong có thể đỡ được một chưởng, Diệt Tuyệt sư thái trúng rồi, thân hình lảo đảo, ngã quị xuống. Chu Chỉ Nhược kinh sợ, chạy đến đỡ sư phụ lên.
Phạm Dao giận quá, quát lên:
- Quân tiểu nhân âm độc đê tiện, còn để ngươi làm gì?
Y xách chiếc chăn gói Lộc Trượng Khách và Hàn cơ lên, ném ngay xuống. Hạc Bút Ông tình đồng môn thắm thiết, trong cơn nguy cấp không kịp suy xét, liền nhảy theo để chộp lấy Lộc Trượng Khách. Thế nhưng cái bọc đó văng ra quá xa, Hạc Bút Ông chỉ nắm được một góc, chính y cũng rơi theo.
Trương Vô Kỵ đứng bên dưới, trong khói lửa không nhìn rõ mọi việc bên trên, chỉ thấy một vật lớn từ cao rơi xuống, đâu còn kịp nhìn xem là vật gì, thấp thoáng dường như có người trong đó, còn ở bên ngoài chính là Hạc Bút Ông. Chàng biết y là kẻ gây ra cho mình bao nhiêu khổ sở, ngay cả cái chết của cha mẹ mình cũng có liên quan rất nhiều, nhưng không nỡ thõng tay để cho y bị rơi xuống nát thây, lập tức nhảy tới, hai tay chia ra đánh vào Hạc Bút Ông và cái chăn, mỗi bên văng ra xa hơn ba trượng.
Hạc Bút Ông xoay người một cái đã đứng được, trong bụng kêu thầm: “Nguy hiểm thực”. Y không ngờ Vô Kỵ lấy đức báo oán, cứu mạng cho mình, quay qua nhìn đến sư huynh, không khỏi giật mình kinh hãi. Thì ra Trương Vô Kỵ đánh trúng, chiếc chăn tung ra hai người trần truồng như nhộng, rơi ngay vào đống lửa. Lộc Trượng Khách huyệt đạo chưa giải, không cử động được, đầu tóc liền bắt lửa cháy ngay. Hạc Bút Ông kêu lên:
- Sư ca.
Y liền xông vào trong đám lửa bồng Lộc Trượng Khách lên, vừa nhảy ra ngoài, chân chưa vững đã nghe Du Liên Châu quát:
- Nếm một chưởng của ta nào.
Chưởng trái liền đánh luôn vào vai y. Hạc Bút Ông không dám chống đỡ, hạ vai xuống tránh, nhưng Du Liên Châu chưởng đó chưa ra hết tay, vai đã hạ xuống, đánh luôn xuống dưới, nghe bịch một tiếng, khiến y đau đến trán toát mồ hôi. Lúc này việc cứu sư huynh quan trọng hơn, Hạc Bút Ông vội ôm Lộc Trượng Khách phi thân nhảy qua tường.
Ngay khi đó, từ trên tháp một cái cột đang cháy bừng bừng đổ xuống, đè luôn lên xác Hàn cơ, chỉ trong giây lát lửa bao phủ toàn thân. Người đứng dưới tất cả đều kêu lên:
- Mau nhảy xuống, mau nhảy xuống.
Phạm Dao chạy qua né lại cố tránh lửa tạt vào. Cái cột cái của bảo tháp đã bị hủy, gạch ngói tung tóe rơi xuống, đỉnh tháp bắt đầu lung lay, không biết lúc nào đổ ụp xuống. Diệt Tuyệt sư thái gắt lên:
- Chỉ Nhược, con nhảy xuống đi.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Sư phụ nhảy trước đi, con sẽ nhảy theo.
Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên vọt tới, đánh thẳng vào vai trái Phạm Dao, quát lên:
- Ác tặc của ma giáo kia, không thể nào tha cho ngươi được.
Phạm Dao cười một tràng dài, tung mình nhảy xuống. Trương Vô Kỵ một chưởng đánh ra, nhẹ nhàng đẩy y vọt sang một bên, khen ngợi:
- Phạm hữu sứ, việc lớn đã xong, công của ông quả thực khó ai bì kịp.
Phạm Dao vừa đứng vững đã nói:
- Nếu không có thần công cái thế của giáo chủ, tất cả mọi người đã thành heo quay trên tháp rồi. Phạm Dao hành sự chẳng đâu vào đâu, có công cán gì?
Diệt Tuyệt sư thái giơ tay ôm Chu Chỉ Nhược, nhảy vọt xuống, đợi còn cách mặt đất chừng một trượng, hai tay vận kình tung lên, ném Chu Chỉ Nhược lên vài thước. Hành động đó khiến cho Chu Chỉ Nhược giống như chỉ từ hơn một trượng rơi xuống, không bị nguy hiểm chút nào trong khi Diệt Tuyệt sư thái rơi xuống càng mạnh thêm.
Trương Vô Kỵ tiến lên, vận Càn Khôn Đại Na Di đẩy vào ngang hông bà ta. Nào ngờ Diệt Tuyệt sư thái không còn muốn sống nữa, cũng không để phải chịu ơn của Minh giáo, thấy chàng tung chưởng đánh ra, thu hết tàn lực toàn thân, đánh ngược lại một chưởng. Hai chưởng đụng nhau, nghe bình một tiếng lớn, chưởng lực của Trương Vô Kỵ bị bà ta làm sai phương hướng, nghe lách cách mấy tiếng, Diệt Tuyệt sư thái đã rơi phịch xuống đất, xương sống gãy thành mấy đoạn. Trương Vô Kỵ cũng bị chưởng của lão ni cô cộng thêm sức rơi từ trên xuống khiến ngực bị chấn động, khí huyết nhộn nhạo phải lùi về sau mấy bước, trong lòng không hiểu tại sao Diệt Tuyệt sư thái lại muốn tự sát.
Chu Chỉ Nhược nhào tới ôm sư phụ khóc lóc:
- Sư phụ, sư phụ.
Các môn đệ phái Nga Mi cũng chạy tới vây quanh Diệt Tuyệt sư thái, náo loạn cả lên. Diệt Tuyệt sư thái nói:
- Chỉ Nhược, từ nay trở đi, con là chưởng môn bản phái. Điều ta bảo con làm, con chớ... chớ có sai lời, nghe chưa?
Chu Chỉ Nhược khóc đáp:
- Thưa sư phụ vâng, đệ tử quyết không dám quên.
Diệt Tuyệt sư thái nở một nụ cười nhợt nhạt:
- Có thế, ta chết mới nhắm mắt...
Lúc đó Trương Vô Kỵ đã chạy tới, định thăm mạch bà ta, Diệt Tuyệt sư thái liền lật tay, nắm chặt cổ tay chàng, rít lên:
- Dâm đồ của ma giáo kia, nếu ngươi làm ô uế tấm thân thanh bạch của ái đồ ta, dù thành quỉ ta cũng không tha...
Chữ “ngươi” sau cùng chưa ra khỏi miệng, hơi thở đã tuyệt nhưng Diệt Tuyệt sư thái vẫn còn nắm chặt tay Trương Vô Kỵ không buông, năm móng tay bấm vào cổ tay chàng bật cả máu ra.
Phạm Dao kêu lên:
- Tất cả mọi người chạy theo tôi qua đến cửa thành phía tây gặp nhau. Nếu như còn chần chừ, đại đội nhân mã của gian vương kéo đến bây giờ.
Trương Vô Kỵ ôm xác Diệt Tuyệt sư thái lên, nói nhỏ:
- Thôi mình đi.
Chu Chỉ Nhược nhẹ nhàng gỡ mấy ngón tay ân sư ra khỏi cổ tay chàng, đỡ lấy thi thể lão ni cô, không nhìn Trương Vô Kỵ đến một lần, chạy thẳng ra ngoài cửa chùa.
Khi đó cao thủ các môn phái Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động cũng đã chạy khỏi rồi, chỉ còn Không Văn, Không Trí hai vị cao tăng không mất phong phạm tiền bối, bước tới chắp tay vái chào cảm tạ Trương Vô Kỵ, cùng Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu các người nói mấy câu thăm hỏi, sau đó mới đi ra. Trương Vô Kỵ sử dụng Càn Khôn Đại Na Di thần công giúp cho sáu đại môn phái xuống đất an toàn, nội lực hao phí rất nhiều, sau cùng lại đối chưởng với Diệt Tuyệt sư thái, nguyên khí bị thương tổn trầm trọng, lúc này bước đi không nổi nữa. Mạc Thanh Cốc liền cõng trên lưng, Trương Vô Kỵ vận Cửu Dương thần công, nội lực mới dần dần trở lại.
Khi ấy trời đã hưng hửng sáng, quần hùng đi ra đến cửa tây, đánh đuổi bọn quan binh giữ cửa rồi chạy ra khỏi thành. Chạy được mấy dặm, cả bọn gặp Dương Tiêu đem xe ngựa đến đón, chúc mừng mọi người thoát cơn hoạn nạn.
Không Văn đại sư nói:
- Hôm nay nếu như không được Trương giáo chủ của Minh giáo và các vị cứu giúp thì không biết sáu đại môn phái của Trung Nguyên khí vận sẽ đi về đâu. Đại ân không thể chỉ dùng lời cảm tạ là đủ, kế hoạch lúc này phải làm sao xin Trương giáo chủ đứng ra sắp đặt.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tại hạ kiến thức nông cạn, chẳng dám có chủ ý gì, xin phương trượng chùa Thiếu Lâm phát hiệu thi lệnh cho.
Không Văn đại sư cương quyết từ chối không nhận. Trương Tùng Khê nói:
- Nơi đây cách thành không xa, đêm qua mình quấy phá long trời lở đất ngay trong kinh đô của Thát tử, gian vương đời nào chịu bỏ qua? Đến khi vương phủ dập được lửa rồi, thể nào cũng đem binh mã đuổi theo. Chúng ta nên đi khỏi nơi đây rồi sau đó hãy bàn tính cũng được.
Hà Thái Xung nói:
- Gian vương nếu đem binh đuổi theo thì còn gì bằng, mình sẽ đánh cho chúng một trận tơi bời hoa lá cho hả cơn giận bấy lâu nay.
Trương Tùng Khê nói:
- Hầu hết chúng ta công lực chưa hoàn toàn hồi phục, việc giết Thát tử không phải chỉ một ngày hôm nay, mình nên tránh trước là hơn.
Không Văn đại sư nói:
- Trương tứ hiệp nói phải lắm, nếu hôm nay mình chém giết Thát tử, bên mình thương vong cũng không phải là ít, nên tạm thời tránh đi cũng phải.
Lời của phương trượng chùa Thiếu Lâm nói ra so với người khác hơn hẳn thành thử không còn ai bàn thêm gì nữa. Không Văn đại sư lại hỏi:
- Trương tứ hiệp, theo như cao kiến của ông, chúng ta nên đi về hướng nào?
Trương Tùng Khê đáp:
- Thát tử sẽ nghĩ mình nếu không đi về hướng nam thì cũng đi về hướng đông nam. Thành ra mình đi ngược lại, đi hướng tây bắc, các vị nghĩ sao?
Mọi người ai nấy ngạc nhiên, Dương Tiêu liền vỗ tay nói:
- Ý kiến của Trương tứ hiệp thật là cao. Phía tây bắc đất rộng người thưa, chỗ nào cũng có núi hoang, muốn tìm chỗ trú ẩn cũng dễ, bọn Thát tử không thể nào ngờ tới được.
Mọi người càng nghĩ càng thấy kế của Trương Tùng Khê rất hay, cùng quay đầu ngựa đi về hướng tây bắc.
Đi được chừng hơn năm chục dặm, quần hiệp ghé lại một thung lũng nghỉ ngơi. Dương Tiêu vốn đã dự bị mọi thứ, lương khô rượu thịt không thiếu món gì. Mọi người kể lại chuyện thoát khỏi nguy khốn vừa qua, đều nói toàn là do Trương Vô Kỵ và Phạm Dao hai người cứu mạng.
Tới đây Chu Chỉ Nhược và các đồng môn phái Nga Mi mới đem xác Diệt Tuyệt sư thái ra hỏa táng. Không Văn, Không Trí, Tống Viễn Kiều, Trương Vô Kỵ tất cả đều đến hành lễ chia buồn. Diệt Tuyệt sư thái là một đại hiệp danh vọng, tuy tính tình hơi khác thường nhưng bình sinh hành hiệp trượng nghĩa, chính khí lẫm lẫm trong võ lâm ai ai cũng kính trọng. Quần đệ tử phái Nga Mi khóc lóc thảm thiết khiến ai nấy đều phải mủi lòng.
Không Văn đại sư lớn tiếng nói:
- Người chết rồi không thể sống lại được, chư hiệp phái Nga Mi nếu cố kế thừa di chí của sư thái, thì người đã chết rồi cũng như còn sống vậy. Lần này chúng ta bị gian nhân hạ độc, ai ai cũng gặp phải cảnh đau lòng, Không Tính sư đệ của bản phái cũng bị Thát tử giết chết, mối thù này không thể không báo, thế nhưng làm thế nào thì mình phải từ từ mà tính.
Không Trí đại sư tiếp lời:
- Sáu đại môn phái của Trung Nguyên vốn coi Minh giáo là thù nghịch, nhưng Trương giáo chủ lấy đức báo oán, ra tay cứu chúng ta, bao nhiều hiềm thù cũ của đôi bên từ nay xóa hết. Từ giờ trở đi tất cả chúng ta đồng tâm hiệp lực, quyết đuổi quân Hồ Lỗ ra khỏi cõi bờ.
Tất cả mọi người đều một lòng như thế. Thế nhưng nói tới chuyện làm sao báo thù, các môn phái bàn ra tán vào mãi không có định kiến nào cả. Sau cùng Không Văn đại sư nói:
- Chuyện này không phải một ngày một buổi có thể quyết định được, chúng ta nên nghỉ ngơi ít ngày, chia tay nhau quay trở về bản sơn. Việc báo thù sẽ cùng thương lượng sau để tìm ra thiện sách.
Mọi người gật đầu khen phải. Trương Vô Kỵ nói:
- Hiện nay đại sự coi như đã xong, tôi có một số việc riêng, phải quay lại Đại Đô một chuyến, xin từ biệt các vị. Từ nay về sau mong rằng mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.
Quần hào đều hô to:
- Mọi người chúng ta cùng nắm tay nhau, một phen sống mái với quân Thát tử.
Tiếng reo vang trời dậy đất vang mãi trong sơn cốc. Mọi người tiễn chàng ra tận ngoài thung lũng. Trương Vô Kỵ hành lễ cáo từ, Dương Tiêu nói:
- Bao nhiêu anh hùng thiên hạ đều kỳ vọng vào giáo chủ, xin cố gắng bảo trọng tấm thân.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Huynh đệ đã hiểu được điều đó.
Nói xong chàng giục ngựa chạy về hướng nam.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Rút củi dưới nồi ý nói làm cho nước mau nguội. Đây là một trong ba mươi sáu kế (tam thập lục kế) cổ của Trung Hoa.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #40  
Old 11-04-2012, 03:22 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ỷ Thiên Đồ Long Ký - Hồi 28

Ỷ Thiên đồ long ký


Hồi 28

ÂN ĐOẠN NGHĨA TUYỆT TỬ SAM VƯƠNG


Đứng đầu Tứ Đại Pháp Vương,
Chúa rồng kia lại thiên hương một cành.
Ra tay dứt nghĩa đoạn tình,
Hôm nao huynh muội nay thành người dưng.

Khi đến gần Đại Đô, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm đêm qua trận chiến nơi chùa Vạn An rất nhiều thủ hạ, võ sĩ của Nhữ Dương Vương đã biết mặt mình nên đi lại rất là bất tiện. Chàng bèn kiếm một nhà nông mua một bộ quần áo cũ thay vào, đầu đội thêm một chiếc nón, lấy tro than bôi lên cho đầu cổ tay chân đen đúa rồi mới vào thành.
Chàng về đến khách điếm nơi thành phía tây, nhìn quanh bốn bề, trước sau trái phải không thấy có gì khác mới lẻn vào trong, tiến đến phòng của mình. Tiểu Siêu lúc đó đang ngồi bên song cửa, tay cầm một chiếc kim đan, thấy chàng đi vào đang ngạc nhiên nhưng nhận ra ngay, vẻ mặt vui mừng như bông hoa mới nở, cười nói:
- Công tử gia, em lại tưởng anh nhà quê nào vào nhầm phòng, đâu có ngờ là công tử.
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Cô làm gì đó? Ở một mình có buồn không?
Tiểu Siêu mặt đỏ lên, dấu chiếc áo đang đan ra sau lưng, thẹn thùng đáp:
- Em đang tập đan áo, chưa cho ai xem được.
Nàng dấu chiếc áo xuống dưới gối, rót trà cho Trương Vô Kỵ uống, thấy chàng mặt đầy bùn than cười nói:
- Công tử có rửa mặt không?
Trương Vô Kỵ mỉm cười:
- Tôi cố ý xoa lên mặt nên không cần rửa.
Chàng cầm chén trà lên, trong bụng suy tính: “Triệu cô nương muốn ta đưa nàng đi mượn thanh đao Đồ Long. Đại trượng phu một lời nặng như núi, không thể thất tín cùng người, huống chi chính ta cũng muốn đi mời nghĩa phụ quay về trung thổ. Nghĩa phụ vốn ngại kẻ thù quá nhiều, sau khi mắt bị mù rồi không đối phó nổi. Lúc này quần hào võ lâm đồng tâm kháng Hồ, mọi thù oán riêng tư tất cả đều hòa giải hết. Chỉ cần ta ở bên cạnh lão nhân gia, người ngoài không ai dám động đến một cái lông của cha nuôi ta. Biển cả sóng to gió lớn, cô bé Tiểu Siêu không nên đi cùng. Thôi, được rồi, để ta nhờ Triệu cô nương đem Tiểu Siêu vào gửi trong vương phủ, so với nơi khác còn bình an hơn nhiều”.
Tiểu Siêu thấy chàng bỗng nhiên mỉm cười, hỏi:
- Công tử nghĩ gì thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Tôi phải đi đến một nơi xa thật là xa, đem cô theo thật là bất tiện. Tôi vừa nghĩ ra một nơi có thể gửi cô ở nhờ được.
Tiểu Siêu nghe thế mặt liền biến sắc nói:
- Công tử gia, em nhất định đi theo, Tiểu Siêu muốn được ngày ngày hầu hạ công tử.
Trương Vô Kỵ vội khuyên:
- Chuyện đó cũng là để cho cô thôi. Tôi phải đi một nơi thật xa, thật nguy hiểm, không biết đến bao giờ mới quay về.
Tiểu Siêu nói:
- Từ khi ở trong đường hầm nơi Quang Minh Đính, em đã quyết định trong lòng, công tử đi đâu em đi theo tới đó, trừ khi công tử giết em đi thì mới ngăn được em thôi. Hay là công tử chán ghét em, không muốn em ở bên cạnh?
Trương Vô Kỵ nói:
- Không, không đâu. Cô biết tôi rất thích cô, tôi chỉ không muốn cô phải mạo hiểm một cách vô lý thôi. Tôi trở về là sẽ đi kiếm cô ngay.
Tiểu Siêu lắc đầu:
- Chỉ cần ở bên cạnh công tử, dù có nguy hiểm tới đâu em cũng không sờn. Công tử gia dẫn em đi theo nhé?
Trương Vô Kỵ cầm tay Tiểu Siêu nói:
- Tiểu Siêu, tôi cũng không dấu cô nữa làm gì. Tôi nhận lời Triệu cô nương đưa cô ta đi hải ngoại. Biển cả mênh mông, sóng gió ngày này sang ngày khác, phần tôi không đi không được, còn cô mạo hiểm như thế thật chẳng ích lợi gì.
Tiểu Siêu mặt đỏ lên nói:
- Nếu đi chung với Triệu cô nương thì em lại càng cần phải ở bên cạnh công tử.
Nói xong câu đó, trong mắt nàng dường như đã long lanh ngấn lệ. Trương Vô Kỵ nói:
- Cô lại phải đi với tôi là sao?
Tiểu Siêu đáp:
- Cái cô họ Triệu đó tâm địa ác độc, ai biết cô ta sẽ đối với công tử ra sao. Có em đi cùng, ít ra cũng còn có người trông nom công tử.
Trương Vô Kỵ chợt động tâm, tự hỏi: “Không lẽ cô bé này cũng có tình ý với mình chăng?” Chàng thấy lời của cô thật thành khẩn, không khỏi cảm kích, cười nói:
- Được rồi, cô đi theo cũng không sao, trên thuyền sóng to gió cả lúc ấy đừng than khổ.
Tiểu Siêu mừng quá, luôn mồm vâng dạ, nói:
- Nếu như em làm công tử bực mình thì công tử cứ vứt em xuống biển cho cá ăn.
Trương Vô Kỵ cười:
- Làm sao tôi bỏ cô cho đành.
Hai người tuy ở cùng với nhau lâu ngày, có khi trên đường khách xá không tiện, ngủ chung một phòng nhưng Tiểu Siêu biết mình thân phận tôi tớ, còn Trương Vô Kỵ trước nay chưa bao giờ bông đùa chớt nhả, lúc này chàng buột miệng nói ra: “Làm sao tôi bỏ cô cho đành” biết mình lỡ lời không khỏi đỏ mặt, vội quay đầu giả vờ nhìn ra song cửa. Tiểu Siêu cũng nhè nhẹ thở dài, đến ngồi bên cạnh chàng.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao cô em lại thở dài thế?
Tiểu Siêu nói:
- Công tử thực sự không bỏ được đâu phải chỉ một người. Chu cô nương của phái Nga Mi, Quận Chúa nương nương của Nhữ Dương Vương phủ, rồi mai này không biết bao nhiêu người nữa, lúc đó trong lòng công tử liệu có còn nhớ đến đứa tớ gái này nữa chăng?
Trương Vô Kỵ đi vòng lại trước mặt nàng chậm rãi nói:
- Tiểu Siêu, em từ trước đến nay đối với tôi tốt biết mấy, chẳng lẽ tôi không biết đến hay sao? Chẳng lẽ tôi lại vong ân phụ nghĩa, không biết người tốt kẻ xấu hay sao?
Chàng nói hai câu đó vẻ mặt đầy trịnh trọng, lời nói thật chân thành. Tiểu Siêu vừa thẹn thùng, lại vừa vui sướng, cúi đầu nói nhỏ:
- Em chẳng mong được công tử đối với em khác gì hơn, chỉ mong được làm một đứa a hoàn suốt đời hầu hạ công tử, cũng đã thỏa nguyện lắm rồi. Đêm qua công tử không ngủ, chắc là mệt lắm, thôi lên giường nghỉ một lát đi.
Nói rồi nàng liền trải chăn, hầu hạ chàng đi nằm, còn mình thì lại ngồi bên cửa sổ, chăm chú đan áo. Trương Vô Kỵ nghe tiếng sợi dây xích nơi cổ tay Tiểu Siêu leng keng như tiếng khánh, cảm thấy trong lòng bình an phẳng lặng, chẳng bao lâu đã thiu thiu ngủ.
Chàng ngủ một mạch đến xế chiều mới dậy, ăn một bát mì rồi nói:
- Tiểu Siêu, tôi đưa cô đến gặp Triệu cô nương, mượn thanh kiếm Ỷ Thiên chặt dây xích ở chân tay cho cô.
Hai người đi ra đường, thấy binh lính Mông Cổ cưỡi ngựa đi qua đi lại, canh phòng thật nghiêm, chắc là vì chuyện đêm qua phủ Nhữ Dương Vương bị đốt, chùa Vạn An đại loạn mà ra. Hai người mỗi khi nghe tiếng chân ngựa lại nép mình vào dưới mái hiên hay góc nhà, không cho lính tuần trông thấy, chẳng mấy chốc đã đến cái quán rượu nhỏ.
Trương Vô Kỵ dẫn Tiểu Siêu tiến vào quán, đã thấy Triệu Mẫn ngồi ở chỗ hai người ngồi hôm qua, cười mủm mỉm đứng lên nói:
- Trương công tử quả là người thủ tín.
Trương Vô Kỵ thấy nàng thần sắc như thường, không có vẻ gì là khó chịu về chuyện đêm qua, nghĩ thầm: “Cô gái này quả là người có bản lãnh, cứ lý mà nói ta sai người giết mất ái cơ của cha cô ta, lại cứu thoát tất cả người của lục đại môn phái cô ta mất bao tâm huyết mới bắt được, đáng lẽ phải giận ta lắm, ngờ đâu vẫn bình tĩnh như không, chẳng biết nàng ta sẽ làm gì đây”.
Chàng thấy trên bàn đã bày hai chiếc bát, hai đôi đũa liền cúi chào một cái rồi ngồi xuống còn Tiểu Siêu đứng hầu ở xa xa.
Trương Vô Kỵ vòng tay nói:
- Triệu cô nương, chuyện xảy ra đêm qua, tại hạ quả là đắc tội, mong cô tha lỗi cho.
Triệu Mẫn cười đáp:
- Cái nàng Hàn cơ của gia gia õng a õng ẹo, tôi gặp là chán ngấy. Cảm ơn anh sai người giết đi, mẹ tôi cũng khen anh có tài.
Trương Vô Kỵ ngạc nhiên không ngờ lại ra thế, quả thực ngoài dự liệu. Triệu Mẫn nói tiếp:
- Bọn kia anh cứu ra cũng tốt, còn không họ chẳng qui hàng, tôi có giữ thêm cũng vô dụng. Anh cứu họ ra, mọi người hẳn là cảm kích lắm, từ nay thanh vọng trong võ lâm Trung Nguyên không ai bằng anh được. Trương công tử, để tôi kính mừng anh một chén.
Nói xong cười khúc khích nâng chén rượu lên.
Ngay khi đó, từ ngoài cửa một người bước vào, chính là Phạm Dao. Y tiến đến hành lễ với Trương Vô Kỵ, sau đó cung kính vái Triệu Mẫn, nói:
- Quận chúa, khổ đầu đà xin cáo từ â.
Triệu Mẫn không thèm đáp lễ, lạnh lùng đáp:
- Khổ đại sư, ông đánh lừa tôi thật quá lắm. Quận chúa của ông phen này thật hố to.
Phạm Dao đứng thẳng người lên, ngang nhiên nói:
- Khổ đầu đà họ Phạm tên Dao, là Quang Minh hữu sứ của Minh giáo. Bản nhân trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương, cũng có lý do mà đến, may được quận chúa dùng lễ kính đãi, hôm nay đến để từ biệt.
Triệu Mẫn vẫn lạnh lùng:
- Ông muốn đi thì đi, việc gì phải đa lễ thế?
Phạm Dao đáp:
- Đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, từ nay trở đi, tại hạ là kẻ địch của quận chúa, nếu không cáo từ minh bạch chẳng hóa ra phụ tấm lòng đối đãi lâu nay của quận chúa hay sao?
Triệu Mẫn nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi lại:
- Anh có tài gì mà thủ hạ đối với anh kiệt tâm tận lực đến thế?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Chúng tôi chỉ vì nước, vì dân, vì nhân hiệp, vì nghĩa khí. Phạm hữu sứ với tôi vốn không biết nhau, nhưng mới gặp đã như quen lâu, lấy ruột gan lo liệu cho nhau, cũng chẳng qua cũng chỉ là một chữ “nghĩa” của tình huynh đệ mà ra.
Phạm Dao cười ha hả nói:
- Mấy câu nói đó của giáo chủ chính đã nói lên tâm sự của thuộc hạ. Giáo chủ xin cố bảo trọng tấm thân. Vị quận chúa nương nương này tuy tuổi còn trẻ nhưng lòng dạ tàn độc không phải tầm thường. Giáo chủ tâm địa quá tốt không thể nào sánh được đâu.
Trương Vô Kỵ đáp:
- Vâng, bản thân tôi không dám khinh suất.
Triệu Mẫn cười:
- Đa tạ khổ đại sư đã ca ngợi.
Phạm Dao quay người đi ra khỏi quán rượu, đi ngang qua Tiểu Siêu, đột nhiên giật mình, trên mặt lộ vẻ kinh ngạc dị thường, chẳng khác gì trông thấy ma quỉ gớm ghiếc, thất thanh kêu lên:
- Ngươi ... ngươi ....
Tiểu Siêu lạ lùng:
- Cái gì thế?
Phạm Dao ngây người nhìn cô ta một hồi, lắc đầu đáp:
- Không phải... không phải ..., tôi nhìn lầm.
Y thở dài một tiếng, thần sắc trở lại bình thường đẩy cửa đi ra, miệng vẫn lẩm bẩm: “Giống quá, giống quá”.
Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ hai người nhìn nhau, không biết y nói giống đây là giống cái gì.
Bỗng nghe từ xa truyền tới mấy hồi còi, ba tiếng dài, hai tiếng ngắn, âm thanh sắc nhọn chói tai. Trương Vô Kỵ ngạc nhiên, nhớ lại đây là tiếng còi triệu tập đồng môn của phái Nga Mi, trước đây tại Tây Vực ở cùng đoàn người của phái Nga Mi đã thấy mấy lần họ dùng tiếng còi như thế này để liên lạc, nghĩ thầm: “Tại sao phái Nga Mi lại quay trở lại Đại Đô? Không lẽ họ gặp địch chăng?”. Triệu Mẫn nói:
- Đây là phái Nga Mi, dường như họ có chuyện gì gấp, mình đi xem coi thế nào, anh nghĩ sao?
Trương Vô Kỵ lạ lùng hỏi:
- Cô cũng biết thế à?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Tôi ở Tây Vực dẫn người đuổi theo họ luôn bốn ngày bốn đêm, sau cùng bắt được Diệt Tuyệt sư thái, không lẽ không biết?
Trương Vô Kỵ nói:
- Được, vậy mình đi xem sao. Triệu cô nương, tôi nhờ cô một việc trước, cô cho tôi mượn thanh kiếm Ỷ Thiên một chút.
Triệu Mẫn cười đáp:
- Anh chưa đi mượn đao Đồ Long cho tôi đã mượn thanh kiếm Ỷ Thiên rồi, tính thế quả thực tinh minh.
Nàng cởi thanh kiếm buộc bên hông đưa cho Vô Kỵ. Vô Kỵ cầm lấy, rút kiếm ra khỏi vỏ nói:
- Tiểu Siêu, cô lại đây.
Tiểu Siêu đi đến trước mặt chàng, Trương Vô Kỵ múa kiếm chém xuống, loảng xoảng mấy tiếng nho nhỏ, các khóa xích trên tay chân Tiểu Siêu đứt rời, rơi xuống đất. Tiểu Siêu phục xuống lạy nói:
- Đa tạ công tử, đa tạ quận chúa.
Triệu Mẫn cười nói:
- Cô bé này xinh thật. Giáo chủ hẳn là thích ngươi lắm.
Tiểu Siêu mặt đỏ bừng, mắt sáng lên một niềm vui vô bờ bến. Trương Vô Kỵ tra kiếm vào vỏ, trả lại cho Triệu Mẫn, thấy tiếng còi hiệu của phái Nga Mi chạy thẳng về hướng đông bắc, liền nói:
- Thôi mình đi.
Triệu Mẫn lấy ra một đĩnh bạc nhỏ vứt lên bàn, quay mình ra khỏi tiểu điếm. Trương Vô Kỵ sợ Tiểu Siêu không theo kịp, tay phải nắm lấy tay cô gái, tay trái đỡ ngang lưng, chạy theo sát ngay sau Triệu Mẫn. Chỉ chạy độ hơn chục trượng, chàng thấy thân hình Tiểu Siêu nhẹ lâng lâng, bước chân di động thật là nhanh nhẹn, chàng hơi lạ lùng, tay không đỡ nữa, thấy Tiểu Siêu vẫn đi ngang với mình, trước sau không bị sút kém chút nào. Tuy lúc này chàng chưa thi triển khinh công thượng thừa nhưng chân đã chạy rất nhanh, vậy mà Tiểu Siêu vẫn theo kịp.
Chẳng mấy chốc, Triệu Mẫn đã đi qua mấy đường hẻm vắng vẻ, đến bên ngoài một cái nhà nhỏ có tường vây quanh. Trương Vô Kỵ nghe loáng thoáng bên trong có tiếng đàn bà cãi cọ, biết ngay người của phái Nga Mi đang ở trong đó, liền nắm tay Tiểu Siêu nhảy qua tường, trong đêm tối rơi xuống không một tiếng động. Dưới chân tường cỏ mọc cao, thì ra là một khu vườn hoang. Triệu Mẫn cũng nhảy vào theo, cả ba người nằm phục trong đám cỏ dày.
Ở phía bắc khu vườn có một tòa lương đình đổ nát, bên trong thấp thoáng tụ tập phải đến hai chục người. Có tiếng đàn bà nói:
- Ngươi là đệ tử trẻ nhất của bản môn, nói đến dáng dấp bề ngoài cho chí võ công, chẳng chỗ nào thấy xứng đáng làm chưởng môn ...
Trương Vô Kỵ nhận ra ngay đó là tiếng nói của Đinh Mẫn Quân, liền bò lần trong đám cỏ cao tới gần hơn, đến cách đám người chừng vài trượng mới ngừng lại. Khi đó ánh sao mờ mờ, chỉ thấy một số đông người nhưng khi chàng định thần nhìn kỹ thấy dường như có cả nam lẫn nữ, toàn là đệ tử của phái Nga Mi, ngoài Đinh Mẫn Quân, các đệ tử lớn của Diệt Tuyệt sư thái cũng đều có mặt. Phía bên trái có một người thân hình dong dỏng, quần xanh dài chấm đất, chính là Chu Chỉ Nhược. Giọng của Đinh Mẫn Quân hết sức gay gắt, tiếp tục nói:
- Ngươi nói, ngươi nói ...
Chu Chỉ Nhược chậm rãi nói:
- Đinh sư tỉ nói phải lắm, tiểu muội là một đệ tử trẻ tuổi của bản môn, nói về kinh nghiệm, võ công, tài cán, phẩm hạnh không có mặt nào xứng đáng gọi là chưởng môn bản phái cả. Sư phụ ra lệnh cho tiểu muội đảm đương trọng nhiệm, tiểu muội đã hết sức chối từ, nhưng tiên sư nặng lời trách mắng, bắt tiểu muội phải thề độc không được phụ lời dặn bảo của sư phụ.
Đại đệ tử của phái Nga Mi là Tĩnh Huyền nói:
- Sư phụ anh minh, đã ra lệnh cho Chu sư muội nhận chức vụ chưởng môn, ắt có thâm ý. Chúng ta ai ai cũng chịu ơn của sư phụ tài bồi, phải tôn trọng di chí của lão nhân gia, đồng tâm phò tá Chu sư muội, làm rạng rỡ võ đức của bản môn.
Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:
- Tĩnh Huyền sư tỉ nói sư phụ ắt có thâm ý, bốn chữ “ắt có thâm ý” quả thực đúng rồi. Chúng ta khi ở chùa, người trên tháp, kẻ dưới đất, có ai không chính tai nghe khổ đầu đà và Hạc Bút Ông nói với nhau đâu? Cha mẹ của Chu sư muội là ai, tại sao sư phụ lại đặc biệt hơn hết đối với Chu sư muội, chuyện rành rành ra đó còn gì?
Khổ đầu đà nói với Lộc Trượng Khách Diệt Tuyệt sư thái là người tình cũ của y, Chu Chỉ Nhược là con riêng của hai người, chẳng qua là cái tính tình tà ma ngoại đạo của y, thuận mồm nói đùa cho vui, nhưng Hạc Bút Ông lại công khai nói ra, người ngoài nghe thấy, tuy chẳng ai hoàn toàn tin nhưng cũng không khỏi nghi ngờ vài phần. Chuyện tư tình nam nữ, người đời thường nặng phần tin cái có, mấy ai tin cái không, mà Diệt Tuyệt sư thái thương yêu đặc biệt đối với Chu Chỉ Nhược, các đệ tử đều chẳng hiểu vì đâu, thành thử mấy chữ “con gái riêng” giải thích ổn thỏa hơn cả. Mọi người nghe Đinh Mẫn Quân đề cập đến chuyện đó, ai nấy lặng yên không trả lời.
Chu Chỉ Nhược run run đáp:
- Đinh sư tỉ, nếu như chị không bằng lòng việc tiểu muội tiếp nhiệm chưởng môn, thì cứ nói thẳng ra. Còn chuyện chị nói năng bậy bạ, làm bại hoại thanh dự một đời của sư phụ, cái đó tội gì? Tiên phụ của tiểu muội họ Chu, là một người chèo thuyền trên sông Hán Thủy, không biết chút võ công nào. Tiên mẫu họ Tiết, tổ tiên cũng là thế gia, gốc người ở Tương Dương, khi thành Tương Dương bị vỡ chạy về phía nam, luân lạc không nơi nương tựa, kết duyên với cha tiểu muội. Tiểu muội may được Trương chân nhân của phái Võ Đương tiến dẫn nên được vào làm môn hạ phái Nga Mi, còn trước đó chưa bao giờ gặp sư phụ bao giờ. Sư tỉ chịu đại ân của sư phụ, hôm nay lão nhân gia vừa về Tây phương, đã mở miệng ăn nói những lời như thế, còn ... còn ...
Nàng nói tới đây, âm thanh nghẹn ngào, nước mắt lã chã rơi xuống, không nói thêm được nữa. Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
- Ngươi tiếp nhiệm chưởng môn bản phái nhưng chưa được đồng môn công nhận, thân phận mình còn mù mờ đã toan tác oai tác phúc, nói ta không phải, làm bại hoại thanh dự sư phụ, tội này tội nọ. Ngươi định trị tội ta chăng? Vậy ta hỏi ngươi: ngươi đã chịu lời dặn dò của sư phụ kế thừa chưởng môn, sao không lập tức quay về núi Nga Mi? Sư phụ tạ thế, công việc bản phái biết bao nhiêu, chuyện gì cũng cần có người chưởng môn để giải quyết. Tại sao ngươi lại một thân một mình quay lại Đại Đô, thế là cớ gì?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Sư phụ giao cho tiểu muội một việc hết sức quan trọng, tiểu muội không về Đại Đô không được.
Đinh Mẫn Quân hỏi lại:
- Chuyện đó là chuyện gì? Ở đây chỉ toàn là đồng môn bản phái, không người ngoài nào, sao ngươi không nói rõ ra đi?
Chu Chỉ Nhược nói:
- Đó là một chuyện tối bí mật của bản phái, trừ người chưởng môn ra, không thể nói cho ai khác.
Đinh Mẫn Quân lại cười khẩy:
- Gớm nhỉ, gớm nhỉ? Chuyện gì ngươi cũng đổ lên đầu ba chữ “chưởng môn nhân”, tưởng đánh lừa được ai chăng? Này ta hỏi ngươi: bản phái và ma giáo thù sâu như bể, đồng môn chúng ta biết bao nhiêu người táng mạng ở tay ma giáo, còn giáo chúng ma giáo chết dưới kiếm Ỷ Thiên của sư phụ cũng không phải là ít. Sư phụ sở dĩ qua đời, cũng chỉ vì không muốn chịu giáo chủ ma giáo ra tay đỡ cho. Vậy mà tro tàn của sư phụ chưa lạnh, ngươi đã đi tìm tên tiểu dâm tặc họ Trương, hiện là đại ma đầu giáo chủ của ma giáo là sao?
Mấy câu sau cùng Trương Vô Kỵ nghe vào tai mà choáng váng. Ngay lúc đó, chàng thấy một ngón tay mềm mại của ai quẹt quẹt vào má mấy cái, chính là Triệu Mẫn ở bên cạnh trêu chàng. Trương Vô Kỵ mặt đỏ ửng lên, nghĩ thầm: “Không lẽ Chu cô nương đi tìm ta thật chăng?”.
Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược bẽn lẽn nói:
- Sư tỉ ... lại nói quấy nói quá ...
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng đáp:
- Ngươi còn chối nữa ư? Ngươi bảo mọi người về núi Nga Mi trước, chúng ta hỏi ngươi quay lại Đại Đô có chuyện gì, ngươi ấp úng không chịu nói ra. Các đồng môn biết có chuyện không phải mới lén theo ngươi, ngươi hỏi cha ngươi là khổ đầu đà chỗ ở của tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao? Ngươi đến khách điếm kiếm tên tiểu dâm tặc, tưởng bọn ta không biết hay sao?
Mụ ta hết “tiểu dâm tặc” này đến “tiểu dâm tặc” khác, Trương Vô Kỵ vốn tốt nhịn nhưng cũng bực mình, đột nhiên thấy trên cổ có ai phà một hơi, biết ngay là Triệu Mẫn lại trêu mình nữa. Đinh Mẫn Quân nói tiếp:
- Ngươi muốn kiếm ai nói chuyện, muốn tằng tịu với ai, người ngoài ai rỗi hơi để ý tới làm gì. Thế nhưng tên tiểu dâm tặc họ Trương này là kẻ sinh tử đối đầu của bản phái, vậy mà đêm hôm qua tất cả chạy ra khỏi Đại Đô, trên đường đi, sao ngươi vẫn còn nhìn y đắm đuối? Y đi đâu, mắt ngươi liếc theo đó, cái đó chẳng phải là ta đặt điều mà đồng môn ai ai cũng chính mắt trông thấy cả. Hôm trước trên Quang Minh Đính, tiên sư bảo ngươi đâm y một kiếm, y chẳng tránh né thì thôi, còn cười tít mắt lên với ngươi. Còn ngươi thì cũng liếc mắt đưa tình, chỉ rạch một đường như gãi ngứa. Kiếm Ỷ Thiên sắc bén là thế, sao đâm y không chết? Nếu hai đứa chẳng chuyện nọ chuyện kia, có ai mà tin cho được?
Chu Chỉ Nhược khóc òa lên, nói:
- Ai liếc mắt đưa tình bao giờ? Chị đừng có đem mấy tiếng khó nghe đó ra để vu hãm người khác.
Đinh Mẫn Quân cười khan một tiếng nói:
- Ta nói khó nghe, thế sao những gì ngươi làm không bảo khó coi? Thế ngươi nói năng dễ nghe lắm đấy? Hứ, thế lúc đó ngươi hỏi người chưởng quĩ thế nào? “Xin lỗi ngài, ở đây có vị khách họ Trương nào không? Ồ, chừng hai mươi tuổi, thân hình cao cao, hoặc giả ông ta không dùng họ Trương, dùng họ khác cũng nên”.
Mụ ta eo éo, bắt chước giọng ngập ngừng của Chu Chỉ Nhược, giơ chân múa tay, cố làm cho ra vẻ yểu điệu, khiến người khác nghe phải nổi da gà. Trương Vô Kỵ trong lòng giận dữ, nghĩ thầm con mụ Đinh Mẫn Quân này là đứa điêu ngoa tai ác nhất trong phái Nga Mi, Chu Chỉ Nhược hiền lành yếu đuối, không thể nào là địch thủ của mụ được, nhưng nếu mình đứng ra che chở cho Chu Chỉ Nhược, trước là việc riêng của phái Nga Mi, người ngoài không tiện xen vào, thứ nữa như thế càng đẩy Chu Chỉ Nhược vào thêm bất lợi, nên thấy nàng bị dồn ép tới tận chân tường mà mình đành chịu bó tay.
Phái Nga Mi đại đa số đệ tử tuân theo di mệnh của sư phụ, nhận Chu Chỉ Nhược là chưởng môn, nhưng nay nghe Đinh Mẫn Quân lời nói sắc bén, nói ra hợp với thế thái nhân tình đều nghĩ thầm: “Sư phụ và ma giáo kết oán quá sau xa, nhưng Chu sư muội và giáo chủ ma giáo có liên hệ quả không tầm thường, ví như nàng đem bản phái bán đứt cho ma giáo thì biết làm sao đây?”.
Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói tiếp:
- - Chu sư muội, ngươi do Trương chân nhân của phái Võ Đương dẫn nhập làm môn hạ của sư phụ, còn tên tiểu dâm tặc Minh giáo kia lại chính là con trai của Trương ngũ hiệp. Bên trong có âm mưu gì quái lạ, nào ai biết đâu?
Mụ ta cao giọng nói:
- Chúng vị sư huynh, sư tỉ, sư đệ, sư muội, sư phụ tuy có di ngôn ra lệnh cho Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn, thế nhưng lão nhân gia không thể nào ngờ được người vừa viên tịch, tro tàn chưa lạnh thì người chưởng môn bản phái đã lẻn đi kiếm ngay giáo chủ ma giáo để tư tình. Việc đó có liên hệ trọn đại đến sự hưng suy tồn vong của bản phái, nếu như tiên sư có mặt hôm nay, lão nhân gia ắt sẽ chọn người chưởng môn khác. Di chí của sư phụ là làm sao bản phái phát dương quang đại, quyết chẳng thể nào mong muốn phái Nga Mi bị tiêu diệt bởi tay ma giáo. Cứ theo ý kiến tiểu muội, chúng ta nên kế thừa di chí của tiên sư, xin Chu sư muội giao lại thiết chỉ hoàn chưởng môn, chúng ta sẽ chọn một vị sư tỉ tài đức vẹn toàn, tiếng tăm võ công đều trội hơn tất cả đồng môn đứng ra giữ chức chưởng môn.
Mụ nói xong, trong đám đồng môn có đến sáu bảy người phụ họa. Chu Chỉ Nhược nói:
- Tiểu muội nhận mệnh lệnh của sư phụ, tiếp nhiệm chưởng môn bản phái, chiếc nhẫn sắt này quyết không giao lại. Tiểu muội quả thực không ham chức chưởng môn, nhưng đã từng lập trọng thệ trước sư phụ, quyết sẽ không ... quyết sẽ không phụ lòng lão nhân gia ủy thác.
Mấy câu đó dường như không có chút uy lực nào cả, có những đồng môn trước kia chẳng ở phe nào, nghe nàng nói thế không khỏi thầm lắc đầu. Đinh Mẫn Quân gay gắt nói:
- Cái nhẫn sắt chưởng môn kia, ngươi có chịu giao ra hay không? Hai giới luật nghiêm trọng nhất của môn qui bản phái là khi sư diệt tổ và dâm tà vô sỉ ngươi đều đã phạm thì có còn đủ tư cách để chưởng lý môn hộ của phái Nga Mi nữa chăng?
Triệu Mẫn ghé môi để sát tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:
- Chu cô nương của anh nguy mất rồi! Anh gọi tôi một tiếng “hảo tỉ tỉ”, tôi sẽ ra mặt giải vây cô ta cho.
Trương Vô Kỵ trong lòng rung động, biết cô gái này túc trí đa mưu, ắt có diệu kế giúp cho Chu Chỉ Nhược thoát cảnh khó khăn, nhưng nàng ta còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, phải hạ mình gọi nàng bằng chị không nhục nhã lắm ư. Chàng còn đang do dự, Triệu Mẫn nói tiếp:
- Anh không gọi cũng không sao, tôi đi đây.
Trương Vô Kỵ chẳng cách nào hơn, đành ghé tai nàng gọi một tiếng:
- Hảo tỉ tỉ.
Triệu Mẫn cười khúc khích, đang toan nhảy ra, trong đình đã có người phát giác. Đinh Mẫn Quân quát lên:
- Ai đó? Sao dám lén lút ở đó nghe lén?
Đột nhiên bên ngoài tường vọng vào mấy tiếng ho khan, tiếng một thiếu nữ trong trẻo hỏi:
- Đêm khuya thanh vắng, phái Nga Mi các ngươi ở đó lén lút làm cái gì?
Một làn gió theo mấy cái bóng lướt vào, bên ngoài lương đình đã có thêm hai người. Hai người đó dưới bóng trăng, Trương Vô Kỵ nhìn rõ ràng, một lão bà già cả, tay cầm quài trượng, chính là Kim Hoa bà bà, còn một cô gái thân hình yểu điệu, mặt mày xấu xí, chính là cô em họ của Trương Vô Kỵ Châu Nhi A Ly, con gái của Ân Dã Vương.
Hôm đó Vi Nhất Tiếu bắt được Châu Nhi, chưa kịp lên Quang Minh Đính thì hàn độc phát tác, cố nhịn không hút máu nàng, chịu không nổi ngã ra đất, về sau được Chu Điên cứu tỉnh, đi tìm Châu Nhi thì không còn thấy bóng dáng đâu. Trương Vô Kỵ từ khi chia tay với nàng vẫn thường tưởng đến, không ngờ giờ phút này nàng lại xuất hiện, chàng mừng quá suýt nữa thì lên tiếng gọi.
Đinh Mẫn Quân lạnh lùng nói:
- Kim Hoa bà bà, bà đến đây làm gì?
Kim Hoa bà bà hỏi lại:
- Sư phụ ngươi có ở đây không?
Đinh Mẫn Quân đáp:
- Tiên sư mới viên tịch tối hôm qua, bà ở ngoài tướng nghe trộm đã lâu, sao biết rồi mà còn hỏi?
Kim Hoa bà bà thất thanh kêu lên:
- A, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi đấy. Làm sao mà chết? Sao không đợi gặp ta một lần? Ôi chao, thật tiếc quá, tiếc quá ...
Bà ta chưa nói dứt câu đã gập người xuống ho sù sụ. Châu Nhi nhè nhẹ đấm lưng bà lão, nhìn Đinh Mẫn Quân cười khẩy nói:
- Ai thèm đến nghe lén chuyện của chúng bay? Ta và bà đi đi ngang qua đây, nghe thấy léo nhéo xí xố liên tu bất tận, nhận ra tiếng ngươi nên vào xem ra thế nào. Bà bà hỏi ngươi, ngươi không nghe à? Sư phụ ngươi vì sao mà chết?
Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
- Cái đó có liên can gì đến ngươi? Tại sao ta lại phải nói cho ngươi nghe?
Kim Hoa bà bà thở một hơi dài, chậm rãi nói:
- Ta bình sinh động thủ với người, chỉ thua sư phụ ngươi một lần. Cái đó chẳng phải vì võ công chiêu số không bằng, mà chỉ vì thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén quá. Ta mấy năm nay nguyện sẽ tìm ra một thanh bảo đao, để cùng với sư phụ ngươi phân cao thấp một lần nữa. Lão bà đi khắp chân trời góc bể, nhưng cũng không đến nỗi uổng công, đã được một người bạn cũ cho mượn đao để sử dụng. Ta nghe thấy phái Nga Mi bị triều đình bắt giam tại chùa Vạn An, định bụng đến cứu thầy ngươi ra, để hai bên tỉ đấu bằng bản lãnh chân thực, nà ngờ hôm nay đến đây, chùa Vạn An đã thành một đống gạch vụn. Ôi! Mệnh đã định rồi, Kim Hoa bà bà đời này không rửa được cái nhục bị thua. Diệt Tuyệt sư thái ôi là Diệt Tuyệt sư thái, sao mụ không chết trễ hơn một bữa nửa ngày?
Đinh Mẫn Quân nói:
- Nếu sư phụ ta lúc này nếu có còn tại nhân thế thì ngươi bất quá lại thua thêm một lần nữa thôi, để cho ngươi không còn bụng dạ nào ...
Đột nhiên nghe bốp bốp bốp bốp bốn tiếng thật ròn, Đinh Mẫn Quân mắt hoa đầu váng, lảo đảo muốn ngã, bị Kim Hoa bà bà xoạc cẳng xuống tấn đánh cho bốn cái liền. Mọi người thấy bà ta ốm yếu ho hen, luôn mồm húng hắng nào ngờ ra tay lại nhanh đến thế, thủ pháp lại hết sức quái dị, bốn cái tát đó khiến cho Đinh Mẫn Quân không có cách nào kháng cự hay tránh né. Bà ta đứng cách Đinh Mẫn Quân vốn đến cả hai trượng, trong nháy mắt vụt đến bên cạnh, đánh bốn cái xong lại quay về, hành động không khác gì ma quỉ.
Đinh Mẫn Quân vừa sợ vừa tức, rút phắt kiếm ra, xông lên chỉ vào Kim Hoa bà bà nói:
- Con mụ ăn mày kia, bộ ngươi không muốn sống hay sao?
Kim Hoa bà bà dường như không nghe mụ ta chửi mắng, còn thanh kiếm trong tay coi như không thấy, chỉ chậm rãi hỏi:
- Sư phụ ngươi vì cớ gì mà chết?
Giọng nói buồn thiu, dường như trong lòng chán chường hết sức. Mũi kiếm trong tay Đinh Mẫn Quân bất quá chỉ cách yết hầu bà ta chừng ba thước, nhưng vẫn không dám đâm vào, chỉ chửi:
- Mụ ăn mày, việc gì ta phải nói cho ngươi nghe?
Kim Hoa bà bà thở dài một tiếng, lẩm bẩm nói một mình: “Diệt Tuyệt sư thái, bà một đời anh hùng, đáng là một nhân vật xuất quần bạt tụy trong võ lâm. Vậy mà khi thác đi, trong đám đệ tử chẳng có đứa nào đứng ra tiếp nhiệm chưởng môn hay sao?”.
Tĩnh Huyền sư thái tiến lên một bước, chắp tay hành lễ nói:
- Bần ni Tĩnh Huyền, tham kiến bà bà. Tiên sư lúc viên tịch có di mệnh cho Chu Chỉ Nhược Chu sư muội tiếp nhiệm chưởng môn. Thế nhưng trong bản phái vẫn có một số đồng môn chưa phục. Tiên sư nay đã viên tịch rồi khiến cho bà bà không được thỏa lòng, âu cũng là cái số như thế còn biết nói sao bây giờ? Chưởng môn bản phái chưa định xong thành thử không thể cùng bà bà ước hội được. Thế nhưng phái Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm, không thể nào làm mất uy danh của tiên sư. Bà bà có điều gì dạy bảo, xin cứ cho biết, sau này người chưởng môn bản phái ắt sẽ theo qui củ võ lâm giải quyết cho xong. Còn như bà bà tự thị mình là bậc tiền bối, cưỡng bức khinh khi chúng tôi, phái Nga Mi tuy hôm nay gặp phải đại nạn nhưng cũng sẽ theo bà bà đến cùng, dù phải máu chảy khu vườn hoang này, cùng lắm đến chết thì thôi.
Những câu đó rạch ròi có lý, không ngang tàng mà cũng không luồn cúi, cả Trương Vô Kỵ lẫn Triệu Mẫn đều ngầm tấm tắc khen là đanh thép. Kim Hoa bà bà ánh mắt sáng lên nói:
- Thì ra lúc tiên sư viên tịch cũng đã truyền lại di mệnh, định người kế nhiệm chức chưởng môn, thế thì hay lắm. Vậy là vị nào đó? Xin cho gặp mặt.
Lời nói của bà ta lúc này so với khi nói chuyện với Đinh Mẫn Quân có vẻ khách sáo hơn nhiều. Chu Chỉ Nhược tiến lên thi lễ nói:
- Bà bà vạn phúc. Chưởng môn đời thứ tư của phái Nga Mi Chu Chỉ Nhược, xin chào bà bà.
Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
- Sao không biết xấu, tự phong cho mình làm chưởng môn đời thứ tư của bản phái.
Châu Nhi cười khẩy:
- Vị Chu tỉ tỉ này tốt lắm, hồi ta ở Tây Vực vẫn thường được Chu tỉ tỉ thăm nom. Chị ta không đáng làm chưởng môn, không lẽ ngươi mới đáng hay sao? Ngươi mà còn nói quấy quá trước mặt bà bà, ta sẽ thưởng cho ngươi thêm vài cái tát.
Đinh Mẫn Quân giận quá, rút phắt trường kiếm đâm luôn vào ngực Châu Nhi. Châu Nhi nghiêng người qua, giơ chưởng đánh luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân. Thân pháp của nàng y hệt của Kim Hoa bà bà, nhưng ra tay thì chậm hơn nhiều. Đinh Mẫn Quân lập tức hụp đầu xuống tránh nên kiếm của mụ ta không trúng Châu Nhi. Kim Hoa bà bà cười nói:
- Con bé này, ta dạy ngươi bao nhiêu lần, cái chiêu dễ thế vẫn học chưa xong. Xem cho kỹ đây này.
Bà ta vung tay phải ra, thuận thế tát luôn vào mặt Đinh Mẫn Quân một cái, tiếp theo tát trái vào má bên kia, thuận chiều tát qua má phải, lại qua bên trái, bốn cái cái nào cũng rõ ràng, ai cũng nhìn thấy thật rõ ràng nhưng Đinh Mẫn Quân tưởng như có ai dùng sức giữ chặt, chân tay không cử động được. Mụ ta bị bốn chưởng hoàn toàn không né tránh gì được cả, cũng may là Kim Hoa bà bà không vận nội kình lên tay nên mụ chưa bị trọng thương. Châu Nhi cười nói:
- Bà bà, thủ pháp đó con học được rồi, nhưng không có đủ nội kình như bà bà thôi. Để con thử lại.
Đinh Mẫn Quân bị nội lực của Kim Hoa bà bà giữ chặt, thấy Châu Nhi lại vả vào mặt mình, tức tối dường như muốn ngất đi. Đột nhiên Chu Chỉ Nhược lạng người tiến lên, tay trái đưa ra, đỡ chưởng của Châu Nhi lại, nói:
- Xin chị ngừng tay.
Nàng quay lại nói với Kim Hoa bà bà:
- Bà bà, Tĩnh Huyền sư tỉ chúng tôi mới đây đã nói rõ, đồng môn bản phái lúc này tuy võ học chưa tinh thâm được bằng bà bà, nhưng không chịu để cho bà bà muốn lăng nhục thế nào cũng được.
Kim Hoa bà bà cười nói:
- Con mụ họ Đinh kia mồm năm miệng mười, hở môi ra là không phục ngươi làm chưởng môn, ngươi lại còn ra đỡ cho y thị hay sao?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Việc bên trong môn phái chúng tôi, không liên can gì đến người ngoài. Tiểu nữ được tiên sư trối trăn, tuy bản lãnh thấp kém, nhưng quyết không để ai làm nhục đến môn nhân trong bản phái.
Kim Hoa bà bà cười:
- Giỏi lắm, giỏi lắm, giỏi lắm.
Bà ta mới nói ba tiếng “giỏi lắm” đã nổi cơn ho sù sụ. Châu Nhi liền lấy ra một viên thuốc đưa ra, Kim Hoa bà bà liền cầm lấy nuốt luôn, thở dốc một hồi, đột nhiên hai chưởng cùng tung ra, một tay để ngay ngực Chu Chỉ Nhược, một tay đè luôn lên lưng, ép chặt thân hình nàng giữa hai bàn tay, những nơi ấn vào đều là đại huyệt chí mạng.
Chiêu đó tung ra thật là quái dị, Chu Chỉ Nhược lúc này võ công tuy chưa nhiều nhưng cũng học được ba phần chân truyền của Diệt Tuyệt sư thái, không ngờ bị đối phương khống chế ngay các đại huyệt nơi ngực và lưng, khiến nàng sợ đến mặt tái mét, không nói ra được lời nào. Kim Hoa bà bà thản nhiên nói:
- Chu cô nương, cô là chưởng môn mà võ công sao quá tầm thường. Không lẽ sư tôn mang trọng nhiệm gánh vác phái Nga Mi giao cho một cô gái liễu yếu dào tơ như cô hay sao? Ta xem ra quá nửa là cô thổi phồng lên thôi.
Chu Chỉ Nhược định thần nghĩ thầm: “Lúc này bà ta chỉ cần nhả nội kình là tâm mạch ta bị chấn đoạn, chết ngay tại chỗ. Ta làm cách nào để khỏi làm mất uy phong của sư phụ đây?”. Nàng nghĩ đến thầy, dũng khí lập tức tăng gia gấp trăm lần, giơ tay ra nói:
- Đây là thiết chỉ hoàn của chưởng môn phái Nga Mi, do chính tiên sư đeo vào tay tiểu nữ, không lẽ còn giả hay sao?
Kim Hoa bà bà cười rộ nói:
- Lúc nãy sư tỉ ngươi có nói, Nga Mi là một môn phái lớn trong võ lâm. Lời đó xem ra cũng đúng, thế nhưng chỉ bằng chút bản lãnh như nhà ngươi mà có thể làm chưởng môn một phái lớn trong võ lâm hay sao? Xem ra các ngươi nên nghe lời ta dạy bảo là hơn.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Kim Hoa bà bà, tiên sư tuy đã viên tịch nhưng phái Nga Mi không phải vì thế mà bị tiêu diệt. Tiểu nữ rơi vào tay bà bà rồi, muốn giết thì giết, chứ đừng tưởng đến chuyện ép tôi làm điều không nên không phải. Bản phái bị hãm vào gian kế của triều đình, bị giam trong tháp nhưng có ai chịu đầu hàng đâu? Chu Chỉ Nhược này tuy chỉ là một đứa con gái tuổi thì trẻ, sức thì yếu nhưng đã gánh vác trọng nhiệm trên vai vốn đã chẳng coi sống chết vào đâu rồi.
Trương Vô Kỵ thấy nàng lưng và ngực đã bị Kim Hoa bà bà đè tay lên, sống chết chỉ còn là một hơi thở nhưng vẫn hiên ngang, chỉ e Kim Hoa bà bà nổi giận lên sẽ lấy mạng nàng không chừng. Trong cơn nguy cấp, chàng toan nhảy ra cứu nhưng Triệu Mẫn đã đoán được bụng dạ chàng, nắm cánh tay lay lay mấy cái ý nói đừng nóng.
Lại nghe Kim Hoa bà bà cười ha hả nói:
- Diệt Tuyệt sư thái quả nhiên có mắt thật. Cô tiểu chưởng môn này võ công tuy kém nhưng tính hạnh lại cứng cỏi. Ôi, quả là thế võ công kém còn luyện được cho giỏi chứ núi sông dễ đổi, bản tính khó thay.
Thực ra lúc này Chu Chỉ Nhược sợ đã đến mất hồn vía, chỉ vì nghĩ đến sư phụ khi lâm chung mang trọng nhiệm ủy thác cho mình nên cố gắng ngang tàng, không chịu khuất phục đấy thôi.
Các đồng môn phái Nga Mi vốn không coi Chu Chỉ Nhược ra gì, nhưng lúc này thấy nàng không kể tư hiềm, dám đứng ra bảo vệ Đinh Mẫn Quân, đến lúc bị địch uy hiếp vẫn không làm mất thanh danh bản phái, ai nấy đều mang lòng kính phục. Thanh trường kiếm trong tay Tĩnh Huyền rung một cái, huýt mấy tiếng còi, người của phái Nga Mi lập tức dãn ra, rút binh khí, bao vây tòa lương đình lại. Kim Hoa bà bà cười nói:
- Làm gì đấy?
Tĩnh Huyền đáp:
- Bà bà bắt giữ chưởng môn phái Nga Mi là có ý gì?
Kim Hoa bà bà ho mấy tiếng, nói:
- Các ngươi tưởng cậy đông mà thắng được hay sao? Ha ha, dưới mắt Kim Hoa bà bà này, dù có đông gấp mười cũng có khác gì bao nhiêu?
Đột nhiên bà ta bỏ Chu Chỉ Nhược ra, thân hình rung động vọt đến ngay trước mặt Tĩnh Huyền, ngón tay trỏ và ngón tay giữa đâm vào hai mắt. Tĩnh Huyền vội múa kiếm lên chém vào hai cánh tay, chỉ nghe “hự” một tiếng, một đồng môn sư muội đứng kế bên đã ngã gục. Kim Hoa bà bà giả vờ tấn công Tĩnh Huyền nhưng chân trái đã đá trúng huyệt đạo nơi hông của một nữ đệ tử phái Nga Mi. Chỉ thấy thân hình bà ta bay qua bay lại thoăn thoắt trong lương đình, cánh tay áo phất phới, thỉnh thoảng lại khúc khắc ho mấy tiếng, trường kiếm của phái Nga Mi đâm ra nhưng không ai trúng nổi vạt áo bà ta, trong nam nữ đệ tử đã có đến bảy tám người bị đánh trúng huyệt đạo ngã xuống. Thủ pháp đả huyệt của bà ta cũng thật lạ lùng, người trúng đòn ai nấy đều kêu rống lên. Trong giây lát, trong khu vườn hoang tiếng kêu la hết người nọ tới người kia thật ghê rợn, ai nghe thấy cũng phải rùng mình.
Kim Hoa bà bà vỗ tay một cái quay trở vào lương đình nói:
- Chu cô nương, võ công của phái Nga Mi so với Kim Hoa bà bà thì thế nào?
Chu Chỉ Nhược đáp:
- Võ công bản phái lẽ dĩ nhiên phải cao hơn bà bà rồi. Năm xưa bà bà bị đánh bại dưới kiếm của tiên sư, không lẽ bà quên rồi sao?
Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:
- Diệt tuyệt lão ni ỷ vào thanh kiếm sắc bén, đâu có tính được?
Chu Chỉ Nhược hỏi lại:
- Bà bà cứ theo lương tâm nói một câu, nếu như tiên sư và bà bà hai người tay không đấu với nhau thì ai thua ai được?
Kim Hoa bà bà trầm ngâm một hồi nói:
- Không biết nữa. Ta đã định để xem tôn sư và ta ai mạnh ai yếu, chính thế mà hôm nay mới tới Đại Đô. Ôi, Diệt Tuyệt sư thái đã viên tịch rồi, trong võ lâm lại mất đi một cao nhân. Tre già đã tàn rồi, măng mới lại chưa mọc, phái Nga Mi từ nay sẽ suy đồi.
Bảy đệ tử phái Nga Mi nằm ngoài kia kêu la không ngớt càng làm chứng cho lời của Kim Hoa bà bà. Tĩnh Huyền và những đệ tử lớn tuổi cố sức xoa bóp cho bọn họ được máu huyết lưu thông nhưng không thấy công hiệu chút nào, xem ra chỉ một mình Kim Hoa bà bà mới có thể giải được.
Trương Vô Kỵ năm xưa đã từng chữa cho biết bao nhiêu người bị Kim Hoa bà bà đả thương, biết rằng bà lão này ra tay rất ác độc, trên giang hồ ít thấy ai như thế. Chàng định nhảy ra cứu chữa nhưng nghĩ lại: “Nếu mình ra giúp Chu cô nương thì lại đắc tội với Châu Nhi. Biểu muội đối với ta rất tốt, lại là chỗ cốt nhục chí thân, ta đâu có thể bên dày bên mỏng cho được?”.
Chỉ nghe Kim Hoa bà bà nói:
- Chu cô nương, ngươi đã phục chưa?
Chu Chỉ Nhược cứng đầu cứng cổ đáp:
- Võ công bản phái sâu như biển cả, không thể chỉ một sớm một chiều mà thành tựu được. Chúng tôi tuổi còn trẻ, biết rằng không bằng bà bà nhưng ngày sau tiến triển, đâu có biết đến đâu cho cùng.
Kim Hoa bà bà cười đáp:
- Giỏi nhỉ! Giỏi nhỉ! Vậy thì Kim Hoa bà bà này xin cáo từ. Đợi đến khi các ngươi võ công tiến triển không biết thế nào cho cùng sẽ quay lại giải huyệt cho bọn kia cũng được.
Nói xong dắt tay Châu Nhi, quay mình đi ra. Chu Chỉ Nhược nghĩ đến nỗi khổ của đồng môn, một giờ một phút còn chịu không nổi, Kim Hoa bà bà một khi đi mất rồi, chỉ e họ đau đến chết mất, vội nói:
- Bà bà hãy khoan đã. Xin giải huyệt cho những vị sư tỉ sư huynh đồng môn này đi.
Kim Hoa bà bà nói:
- Muốn ta giải cứu cũng chẳng khó khăn gì. Từ nay trở đi, Kim Hoa bà bà và đứa học trò này đi đến đâu, người của phái Nga Mi phải tránh ra tìm đường khác mà đi.
Chu Chỉ Nhược nghĩ thầm: “Ta vừa mới làm chưởng môn đã gặp ngay đại địch thế này. Nếu như bằng lòng chịu khuất phục như thế, phái Nga Mi còn đứng trong võ lâm làm sao được? Không lẽ phái Nga Mi này lại bị hủy diệt trong tay ta ư?”.
Kim Hoa bà bà thấy nàng còn đang lưỡng lự không trả lời, cười nói tiếp:
- Ngươi không muốn thanh danh phái Nga Mi bị đắm chìm thì cũng chẳng sao, ngươi đưa thanh kiếm Ỷ Thiên cho ta dùng, ta sẽ giải cứu đồng môn cho.
Chu Chỉ Nhược nói:
- Thầy trò chúng tôi trúng phải gian kế của triều đình bị giam nơi cao tháp, thanh Ỷ Thiên kiếm còn ở trong tay chúng tôi sao được?
Kim Hoa bà bà vốn không nghĩ ra chuyện đó, chuyện đòi mượn kiếm xem ra chắc như cua gạch, nay nghe Chu Chỉ Nhược nói vậy, mặt đầy vẻ thất vọng, đột nhiên hậm hực nói:
- Nếu ngươi muốn bảo toàn thanh danh phái Nga Mi, thì không bảo vệ được tính mạng của mình ...
Nói xong lấy trong bọc ra một viên thuốc, nói:
- Đây là thuốc độc Đoạn Trường Liệt Tâm, ngươi uống đi thì ta cứu bọn kia cho.
Chu Chỉ Nhược nghĩ đến lời trối trăn của sư phụ mà đứt từng tấc ruột, nghĩ thầm: “Thầy ta bảo ta đánh lừa Trương công tử, chuyện đó ta vốn không thể nào làm được, có sống cũng chịu biết bao dày vò, chi bằng chết đi là hơn, một việc xong thì mọi việc cũng xong không còn gì phải lo lắng nữa”. Nàng nghĩ thế tay run run cầm viên thuốc độc. Tĩnh Huyền kêu lên:
- Chu sư muội, không được uống.
Trương Vô Kỵ thấy tình thế nguy cấp, toan nhảy ra ngăn cản, Triệu Mẫn liền ghé tai chàng nói thầm:
- Ngốc ơi là ngốc! Thuốc giả đấy, có phải thuốc độc đâu.
Trương Vô Kỵ còn đang ngạc nhiên thì Chu Chỉ Nhược đã bỏ viên thuốc vào mồm nuốt luôn. Bọn Tĩnh Huyền liền nhao nhao lên, tất cả xông vào Kim Hoa bà bà toan động thủ. Kim Hoa bà bà nói:
- Giỏi lắm, quả là có cốt khí, viên thuốc độc này không phát tác ngay đâu. Chu cô nương, ngươi đi theo ta, ngoan ngoãn nghe lời, nếu như lão bà vui lòng, không chừng sẽ cho ngươi thuốc giải.
Nói xong đi đến chỗ những đồng môn phái Nga Mi bị điểm huyệt, vỗ vào mỗi người mấy cái. Những người đó liền hết đau ngay, ai nấy vô cùng cảm kích, có người nói:
- Đa tạ chưởng môn.
Kim Hoa bà bà cầm tay Chu Chỉ Nhược, dịu dàng nói:
- Con ngoan lắm, đi theo ta, bà bà không ngược đãi con đâu.
Chu Chỉ Nhược chưa kịp trả lời, thấy một luồng kình lực cực mạnh nhấc lên, thân hình lập tức bay bổng. Tĩnh Huyền kêu lên:
- Chu sư muội ...
Người ni cô xông ra toan ngăn trở, bỗng thấy có một luồng chỉ phong đâm tới, chính là Châu Nhi ở bên cạnh dùng ngón tay tấn công. Tĩnh Huyền tay trái vung lên chặn lại, không ngờ chỉ đó chỉ là hư chiêu, nghe bộp một cái, tát trúng ngay mặt Đinh Mẫn Quân, môn “Chỉ Đông Đả Tây” ấy chính là võ học của Kim Hoa bà bà.
Chỉ nghe Châu Nhi cười khanh khách, đã nhảy vọt qua tường mà đi. Trương Vô Kỵ kêu lên:
- Mau đuổi theo!
Một tay chàng nắm Triệu Mẫn, một tay chàng dắt Tiểu Siêu, ba người cùng vượt tường ra ngoài. Bọn Tĩnh Huyền thấy trong đám cỏ có ẩn ba người ai nấy đều kinh ngạc. Khinh công của Kim Hoa bà bà và Trương Vô Kỵ cao siêu biết bao, đến khi người của phái Nga Mi nhảy được lên trên tường, cả sáu người đã chìm vào trong bóng đêm không biết đi về hướng nào.
Trương Vô Kỵ đuổi theo được chừng mươi trượng, Kim Hoa bà bà chân không chậm lại quát lên:
- Đệ tử của phái Nga Mi vẫn còn có kẻ dám đuổi theo Kim Hoa bà bà, ha ha, quả cũng gớm thật.
Triệu Mẫn quát:
- Mau thả chưởng môn bản phái ra.
Nàng thân hình lạng một cái, vọt lên mấy trượng, thanh kiếm Ỷ Thiên đã đâm luôn vào sau lưng Kim Hoa bà bà. Chiêu “Kim Đính Phật Quang”[1] chính là một chiêu đích truyền của phái Nga Mi, nàng học được từ các nữ đệ tử phái Nga Mi nơi chùa Vạn An, nhưng vì không được xem Diệt Tuyệt sư thái thi triển, thành thử không mấy tinh diệu.
Kim Hoa bà bà thấy tiếng binh khí xé gió ở sau lưng, liền buông Chu Chỉ Nhược ra, vội xoay người lại. Triệu Mẫn cổ tay lách một cái, dùng ngay chiêu “Thiên Phong Cạnh Tú”[2]. Kim Hoa bà bà biết món binh khí trong tay nàng chính là bảo kiếm Ỷ Thiên, trong lòng vừa mừng vừa sợ, liền tiến lên vươn tay toan cướp lấy. Hai bên trao đổi mấy chiêu, Kim Hoa bà bà đã tiến đến sát bên mình Triệu Mẫn, mấy ngón tay đang định chộp vào cổ tay cầm kiếm của nàng, nào ngờ Triệu Mẫn liền vòng kiếm lại, sử một chiêu “Thần Đà Tuấn Túc”[3] của phái Côn Lôn.
Kim Hoa bà bà thấy nàng là một cô gái trẻ tuổi, tay lại cầm kiếm Ỷ Thiên, sử dụng đích truyền kiếm pháp của phái Nga Mi nên vẫn tưởng nàng là người của phái Nga Mi. Để đối phó với Diệt Tuyệt sư thái, bà ta đã nghiên cứu kiếm pháp phái Nga Mi mấy năm qua, thấy Triệu Mẫn sử qua mấy chiêu, nghĩ nàng công lực chắc chẳng đến đâu nên đã tính toán rõ ràng, một khi tiến được đến gần nàng thì ắt sẽ đoạt được thanh kiếm. Nào ngờ cô gái này đột nhiên đổi qua Côn Lôn kiếm pháp, Kim Hoa bà bà nếu như không định tâm trước thì kiếm pháp phái Côn Lôn bà ta có coi vào đâu, chỉ vì chiêu này quá ư bất ngờ, nên dù võ công cao cường nhưng cũng sợ đến toát mồ hôi, vội lăn xuống đất mới tránh thoát được. Tuy thế tay áo bên trái cũng đã bị mũi kiếm rạch một đường mất một miếng lớn.
Kim Hoa bà bà vừa sợ vừa tức, lại xông lên. Triệu Mẫn biết võ công mình kém bà ta quá xa, không dám sách chiêu, chỉ múa thanh Ỷ Thiên kiếm, đâm trái chém phải, lách qua đông lượn qua tây, lúc thì kiếm pháp của phái Không Động, lúc thì của phái Hoa Sơn, vừa sử xong chiêu “Đại Mạc Phi Sa”[4] của phái Côn Lôn, lại ra ngay chiêu “Kim Châm Độ Kiếp” trong Đạt Ma kiếm pháp của phái Thiếu Lâm. Chiêu nào cũng là tinh hoa của các môn phái, chiêu nào cũng đầy uy lực, lại thêm thanh kiếm Ỷ Thiên sắc bén khiến Kim Hoa bà bà bụng kinh ngạc vô cùng, nhất thời chưa có cách nào tới gần được.
Châu Nhi xem lại càng gấp gáp, vội cởi thanh kiếm đeo bên hông ra ném cho Kim Hoa bà bà. Triệu Mẫn tấn công bảy tám thế liền, đến chiêu thứ chín, Kim Hoa bà bà không còn cách nào khác phải vung kiếm gạt ra, nghe soẹt một tiếng, trường kiếm đã gãy làm hai.
Kim Hoa bà bà mặt liền biến sắc, nhảy vọt ra ngoài, quát hỏi:
- Con nhãi kia, ngươi là ai?
Triệu Mẫn cười đáp:
- Sao mụ không rút đao Đồ Long ra?
Kim Hoa bà bà giận dữ đáp:
- Nếu ta có đao Đồ Long trong tay, ngươi làm sao đỡ được tám chiêu, mười chiêu? Ngươi có giỏi thì đi theo ta thử một phen xem nào?
Triệu Mẫn cười nói:
- Nếu như mụ có được đao Đồ Long thì hay lắm. Ta sẽ ở Đại Đô chờ mụ, để mụ đi lấy đao Đồ Long về đấu nữa.
Kim Hoa bà bà nói:
- Ngươi quay đầu lại cho ta nhìn rõ mặt nào.
Triệu Mẫn liền nghiêng người, le lưỡi, mắt trái nhắm, mắt phải mở, nhăn mặt méo mồm thành một người thật quái dị để trêu Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giận quá, nhổ toẹt một bãi xuống đất, ném thanh kiếm gãy đi, hai tay dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược đi mất.
Trương Vô Kỵ nói:
- Mình mau đuổi theo.
Triệu Mẫn đáp:
- Cái đó cũng không gấp gì, anh cứ để tôi. Tôi bảo đảm là Chu cô nương không sao đâu.
Trương Vô Kỵ hỏi:
- Sao cô lại nhắc tới đao Đồ Long?
Triệu Mẫn đáp:
- Tôi nghe bà ta nói nơi khu vườn hoang là đã đi khắp chân trời góc biển, sau cùng đã mượn được của người quen cũ một thanh bảo đao, muốn đấu với kiếm Ỷ Thiên của Diệt Tuyệt sư thái. “Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?”. Muốn tranh phong với kiếm Ỷ Thiên chỉ có đao Đồ Long thôi, không lẽ bà ta đã mượn được của Tạ tiền bối nghĩa phụ anh thanh đao này? Khi tôi múa kiếm đấu với bà ta chỉ cốt ép cho bà ta rút đao ra. Thế nhưng bà ta không có đao bên người, lại bảo tôi đi theo bà ta để thử, xem chừng đã biết được đao Đồ Long ở nơi đâu nhưng không lấy được đấy thôi.
Trương Vô Kỵ trầm ngâm rồi đáp:
- Kể cũng lạ thật.
Triệu Mẫn nói:
- Tôi chắc là bà ta ra bờ bể, giương buồm đi tìm thanh đao. Mình phải làm sao chặn trước đừng để một người hai mắt đã mù, tâm địa lại nhân hậu như Tạ lão tiền bối bị bà ta lừa dối.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nói đến câu sau cùng, nhiệt huyết trào lên, vội nói:
- Đúng lắm, đúng lắm.
Chàng lúc trước nhận lời Triệu Mẫn đi mượn thanh đao Đồ Long, chỉ vì lời nói của kẻ đại trượng phu đáng giá nghìn vàng, không thể nuốt lời, lúc này nghĩ đến Kim Hoa bà bà gây khó khăn cho nghĩa phụ mình lại hận không có cánh để bay ra cứu giúp.
Sau đó Triệu Mẫn dẫn hai người đến trước vương phủ, dặn dò người canh cửa một hồi. Tên vệ sĩ đó luôn mồm vâng dạ, quay mình đi vào, chẳng bao lâu dắt ra chín con tuấn mã, xách theo một bọc vàng bạc đưa cho nàng. Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu ba người cưỡi ba con ngựa, còn sáu con kia dẫn theo thay đổi, chạy về hướng đông.
Sáng sớm hôm sau, chín con ngựa đều đã mỏi mệt chịu không nổi. Triệu Mẫn liền đưa kim bài điều động binh mã của Nhữ Dương Vương cho quan địa phương, đổi lấy chín con ngựa khác nên tới khuya hôm đó đã đến bờ biển.
Triệu Mẫn cưỡi ngựa chạy thẳng vào huyện thành, ra lệnh cho quan huyện cấp tốc chuẩn bị một chiếc thuyền đi biển kiên cố nhất, trên thuyền chuẩn bị đà công, thủy thủ, lương thực, nước ngọt, binh khí, áo lạnh cho thật đầy đủ. Ngoài ra, các thuyền bè lập tức đuổi cả về phía nam, chung quanh bờ biển năm mươi dặm không cho một chiếc thuyền nào được đậu cả. Kim bài của Nhữ Dương Vương đưa đến, một tên quan huyện nho nhỏ lẽ nào dám trái lệnh? Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn và Tiểu Siêu ở lại vệ môn uống rượu chờ tin. Chưa tới một ngày, quan huyện đến báo cho hay mọi thứ đã sắp đặt hoàn bị.
Ba người đến bờ biển nhìn chiếc thuyền, Triệu Mẫn không khỏi dậm chân kêu lên:
- Hỏng rồi.
Thì ra chiếc thuyền đang đậu nơi đó là một chiếc hải thuyền thật lớn, cao hai tầng, đầu thuyền và hai bên mạn có gắn súng, chính là một chiếc pháo thuyền của quân Mông Cổ. Năm xưa người Mông Cổ đem đại quân viễn chinh Nhật Bản nên tập họp rất nhiều thuyền bè, không ngờ bị một cơn bão, bao nhiêu tàu bè bị đắm hết, việc đông chinh tan ra bọt nước. Thế nhưng qui củ của thuyền bè từ đó đã thành hình. Triệu Mẫn tính toán trăm sự đều hay, chỉ có một điều sơ sót, không ngờ gã huyện quan nhận lệnh xong muốn tâng công, chạy ngay đi gặp thủy sư mượn một chiếc pháo thuyền. Lúc này trên thuyền lương thực, nước uống đã dự bị đầy đủ cả, chung quanh mấy chục dặm thuyền bè theo lệnh Nhữ Dương Vương truyền xuống đã xuôi nam cả không còn một chiếc nào. Triệu Mẫn chỉ đành cười gượng, ra lệnh cho các thủy thủ lấy lưới cá treo đầy lên các khẩu thần công, trên thuyền để thêm vài chục sọt cá tươi, làm như chiến thuyền cũ không còn dùng nữa nên đã sửa lại thành thuyền đánh cá.
Triệu Mẫn, Trương Vô Kỵ và Tiểu Siêu thay quần áo mặc thành thủy thủ, dùng dầu màu bôi lên mặt cho vàng vọt, dán thêm mấy chiếc ria mép, trông không ai còn nhận biết được. Ba người lên thuyền ngồi chờ Kim Hoa bà bà đến nơi.
Nàng Thiệu Mẫn quận chúa kia liệu sự như thần, quả nhiên đến tối, một chiếc xe lớn đã chạy đến bến, Kim Hoa bà bà dắt Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược xuống hỏi thuê thuyền. Thủy thủ trên thuyền đã được Triệu Mẫn dặn trước nên đều từ chối, nói đây là pháo thuyền cũ nay sửa thành thuyền đánh cá, chỉ đi chài lưới chứ không chở khách, đến lúc Kim Hoa bà bà đưa ra hai đĩnh vàng trả công, gã đầu nậu mới miễn cưỡng nhận lời. Kim Hoa bà bà dẫn Châu Nhi và Chu Chỉ Nhược lên thuyền rồi lập tức truyền lệnh giương buồm ra khơi.
Trên biển cả mênh mang không bờ bến, một chiếc thuyền lênh đênh theo hướng đông nam mà đi. Thuyền đi được hai ngày, Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người ở dưới khoang nhìn ra cửa sổ, chỉ thấy mặt trời mọc lên buổi sáng, mặt trăng lặn xuống ban đêm ở phía tay trái, hiển nhiên thuyền đang đi về phương nam. Khi đó trời đã vào đầu mùa đông, gió bấc thổi mạnh, buồm căng gió trôi băng băng.
Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn hai người bàn với nhau mấy lần: “Nghĩa phụ tôi ở tại Băng Hỏa đảo miền cực bắc, mình muốn kiếm ông ta phải đi về hướng bắc mới phải, sao lại đi ngược về hướng nam?”. Lần nào Triệu Mẫn cũng trả lời: “Kim Hoa bà bà ắt có điều gì quái lạ, huống chi lúc này gió nam không thổi, có muốn lên phương bắc cũng không sao được”.
Đến chiều ngày thứ ba, đà công đi xuống khoang bẩm lại cho Triệu Mẫn, nói là Kim Hoa bà bà rất thuần thục với hải trình này, vùng nào có cồn cát, vùng nào có đảo san hô, so với đà công còn biết rõ hơn nhiều. Trương Vô Kỵ đột nhiên chợt nghĩ ra, nói:
- Hay là bà ta quay về Linh Xà đảo?
Triệu Mẫn hỏi:
- Linh Xà đảo nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Ông chồng của Kim Hoa bà bà ở tại đảo Linh Xà tên là Ngân Diệp tiên sinh, nay đã qua đời. Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà, không lẽ cô chưa nghe tới hay sao?
Triệu Mẫn cười khúc khích, nói:
- Anh lớn hơn tôi mấy tuổi, chuyện trên chốn giang hồ có vẻ rành quá nhỉ?
Trương Vô Kỵ cũng cười đáp:
- Tà ma ngoại đạo Minh giáo chắc chắn là phải biết những chuyện rỗi của chốn giang hồ hơn quận chúa nương nương chứ.
Hai người vốn là tử địch, mỗi bên chỉ huy một nhóm hào kiệt, đánh nhau mấy trận kịch liệt nhưng nay ở dưới khoang thuyền với nhau mấy ngày, nói năng không cần giữ ý, lại có chung một kẻ địch là Kim Hoa bà bà nên xa cách giữa hai người mỗi lúc một giảm thiểu. Đà công xuống bẩm báo rồi chỉ sợ Kim Hoa bà bà biết được nên lại vội quay về buồng lái. Triệu Mẫn cười nói:
- Đại giáo chủ, vậy phiền ngài kể lại chuyện Kim Hoa, Ngân Diệp của đảo Linh Xà uy chấn thiên hạ như thế nào kể lại cho con bé quê mùa kém cỏi này nghe có được không?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Nói ra thật xấu hổ, Ngân Diệp tiên sinh là người như thế nào, thực tình tôi cũng không biết. Còn Kim Hoa bà bà thì tôi đã phải đối phó với mụ ta một lần.
Chàng bèn kể lại ở Hồ Điệp Cốc học nghề thuốc với Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ra sao, các người của những môn phái bị Kim Hoa bà bà hạ độc sống dở chết dở thế nào phải đến Hồ Điệp Cốc nhờ chữa bệnh, chàng được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm mới chữa khỏi cho họ, rồi Kim Hoa bà bà đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái bị thua ra sao, về sau hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu, Vương Nạn Cô bị Kim Hoa bà bà hạ thủ kể hết mọi chuyện cho nàng nghe.
Chàng nghĩ đến Hồ Thanh Ngưu tuy tính khí có điều quái đản, nhưng đối với mình chẳng có điều gì không phải, nhớ lại xác hai vợ chồng bị giết treo trên cây, không khỏi rưng rưng nước mắt. Chàng lại kể sơ qua việc Châu Nhi muốn bắt mình lên đảo Linh Xà làm bạn, chàng cắn vào tay cô ta một cái ra sao. Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chỉ thuật sơ lược vụ này, hay là chuyện đó có vẻ gì bất nhã chăng.
Triệu Mẫn chăm chú nghe không nói một lời, mặt đầy vẻ trịnh trọng nói:
- Lúc đầu tôi chỉ nghĩ là bà bà này là một người võ công cực kỳ cao siêu thôi, không ngờ bên trong lại còn rất nhiều chuyện ân oán qua lại. Nghe anh nói chuyện, lão bà bà này không phải là kẻ dễ đối phó, chúng mình phải hết sức cẩn thận mới được.
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Quận chúa nương nương văn võ kiêm toàn, dưới tay lại biết bao nhiêu kỳ tài dị sĩ, đối phó với một mình Kim Hoa bà bà, có gì mà không được?
Triệu Mẫn cười:
- Có điều là trên biển cả mênh mông, không làm sao mà gọi các võ sĩ, phiên tăng thủ hạ của tôi tới được.
Trương Vô Kỵ nói:
- Thế mấy người nấu bếp, thủy thủ giương buồm chẳng phải là cao thủ hạng nhất trên chốn giang hồ hay mới chỉ là hạng nhì?
Triệu Mẫn ngạc nhiên, cười khanh khách nói:
- Bội phục, bội phục. Đại giáo chủ quả thật tinh đời, không thể nào dấu nổi chuyện gì.
Thì ra khi nàng quay về vương phủ lấy tiền và ngựa, đã ngầm dặn vệ sĩ điều động một số hạ thuộc chạy gấp ra bờ biển chờ lệnh, đến nơi chỉ chậm hơn bọn Trương Vô Kỵ nửa ngày. Những người này không tham dự cuộc chiến nơi chùa Vạn An, cũng chưa gặp Trương Vô Kỵ bao giờ, chia ra kẻ giả làm nhà bếp, thủy thủ. Thế nhưng người đã học võ, thần tình cử chỉ đều sẽ lộ ra, dù cho hết sức che dấu, nhưng Trương Vô Kỵ nhìn vào là đã biết ngay.
Triệu Mẫn nghe chàng nói thế, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ đã nhìn ra, Kim Hoa bà bà hiểu biết rộng rãi, mèo già hóa cáo, chắc đã sớm biết rồi. Cũng may bên mình người nhiều thế mạnh, Trương Vô Kỵ võ công cao cường, dù có biết hay không biết cũng thế thôi, nếu như phải động thủ, cả bà ta lẫn Châu Nhi cũng chỉ hai người không có gì phải ngại. Còn nếu như bà ta chưa nhìn ra thì mình cứ tiếp tục giả trang cũng không sao.
Trong mấy ngày qua, mối lo nhất của Trương Vô Kỵ là việc Chu Chỉ Nhược uống viên thuốc của Kim Hoa bà bà rồi chất độc đã phát tác chưa. Triệu Mẫn biết rõ bụng dạ chàng, thấy chàng nhíu mày liền sai người lên sàn thuyền giả vờ bưng trà rót nước, xem xét động tĩnh, mỗi lần quay về đều nói Chu cô nương hành động, ngôn ngữ chẳng có gì khác lạ, xem ra không có triệu chứng gì trúng độc cả. Sau mấy lần như thế, Trương Vô Kỵ cũng an tâm phần nào.
Chàng ngồi tĩnh tọa ở một góc khoang, nghĩ đến tình cảnh lúc trước nơi tuyết địa, Châu Nhi bầu bạn với mình thế nào, đến khi bị Hà Thái Xung, Võ Liệt, Đinh Mẫn Quân vây đánh cố đòi về gặp mình một lần, chính chàng trước mặt bọn Hà Thái Xung cũng từng lớn tiếng nói: “Từ nay trở đi, anh sẽ hết lòng yêu thương bảo vệ em, lo lắng cho em, dù ai đến gây khó dễ cho em, dù người đó tài ba ghê gớm thế nào đến khinh khi em, anh sẻ xả thân để bảo vệ cho em được chu toàn. Anh mong em được bình yên vui vẻ, quên đi những bất hạnh khổ đau từ trước”. Chàng nghĩ đến những câu đó không khỏi mặt đỏ bừng.
Triệu Mẫn nói:
- Hứ, anh lại nghĩ đến Chu cô nương rồi phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
- Đâu có.
Triệu Mẫn nói:
- Gớm, anh muốn nghĩ thì nghĩ, muốn không nghĩ thì không nghĩ, không lẽ tôi kiểm soát được sao? Đàn ông con trai việc gì phải dấu diếm.
Trương Vô Kỵ nói:
- Tôi dấu cô làm chi? Nói cho cô hay, tôi không nghĩ đến Chu cô nương đâu.
Triệu Mẫn nói:
- Nếu như anh nghĩ đến khổ đầu đà, Vi Nhất Tiếu thì bộ mặt anh đâu có thế. Những người đó mặt mày quái đản, không lẽ khi anh nghĩ đến lại ra vẻ vừa ôn nhu, vừa bẽn lẽn hay sao?
Trương Vô Kỵ cười nói:
- Cô quả thật là lợi hại, người khác nghĩ đến ai xấu hay đẹp cô cũng biết nữa. Nói thực cho cô hay, người mà tôi nghĩ đến đây lại chẳng xinh đẹp chút nào cả.
Triệu Mẫn thấy chàng nói rất thành khẩn, mỉm cười không lý đến nữa. Dù nàng thông minh thế nào cũng không thể tưởng tượng nổi người chàng đang nghĩ đến lại chính là cô gái xấu xí Châu Nhi đang ở trên sàn thuyền kia.
Trương Vô Kỵ nghĩ đến Châu Nhi đang luyện môn công phu âm độc Thiên Châu Vạn Độc Thủ nên diện mạo sưng vù, nổi u từng cục, đêm qua ở nơi vườn hoang chàng xem ra còn tệ hơn trước. Nghĩ đến đây chàng không khỏi buông tiếng thở dài, môn tà môn công phu đó càng luyện thêm e rằng cơ thể tâm tính đều hỏng cả. Chàng lại nghĩ đến lúc Ân Lê Đình nói chàng rơi xuống vực chết rồi, Châu Nhi phục xuống đất khóc lóc thật thảm thiết, trong lòng không khỏi cảm kích. Chàng từ khi lên Quang Minh Đính, ngày cũng như đêm, nếu không phải luyện công thì cũng bôn ba với Minh giáo, có mấy khi được yên tĩnh để nghĩ xem trong lòng mình như thế nào? Tuy cũng có khi nhớ đến Châu Nhi, cũng từng hỏi Vi Nhất Tiếu, cũng bảo Dương Tiêu sai người tìm kiếm chung quanh Quang Minh Đính, nhưng đều không thấy cô nàng đâu cả, bây giờ mới tự trách thầm: “Châu Nhi đối với ta tốt như thế, sao mình lại lạnh nhạt bạc bẽo với nàng như vậy? Sao trong bao lâu nay, dường như ta chẳng hề nghĩ tới nàng chút nào?”. Từ khi làm giáo chủ Minh giáo, mọi việc riêng tư chàng đều bỏ qua một bên không hề tính đến.
Triệu Mẫn đột nhiên hỏi:
- Anh lại hối hận chuyện gì chăng?
Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, đột nhiên trên sàn thuyền truyền xuống tiếng la hét, một hồi sau có thủy thủ chạy xuống bẩm báo:
- Trước mặt có đất liền, lão bà bà bảo chúng tôi dong thuyền đến.
Triệu Mẫn và Trương Vô Kỵ nhìn qua cửa sổ, thấy cách vài dặm có một hòn đảo lớn cây cối xanh tươi, có mấy ngọn núi cao vươn thẳng lên trời. Chiếc thuyền no gió, chạy băng băng về phía trước. Chỉ chừng một bữa ăn, thuyền đã đến đảo. Phía đông hòn đảo núi đá chạy thẳng xuống biển, không có bãi cạn thành thử chiến thuyền tuy chìm dưới nước sâu nhưng vẫn đậu được ngay cạnh bờ.
Chiến thuyền đậu nơi bến chưa xong, bỗng nghe từ phía trên núi vọng xuống một tiếng rống thật lớn, trung khí sung túc, cực kỳ uy mãnh. Nghe thấy thế Trương Vô Kỵ vừa mừng vừa lo, tiếng đó thật là quen thuộc, chính là do nghĩa phụ chàng là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn hú lên.
Hai người cách biệt mười năm, xem ra hùng phong của ông vẫn như xưa chàng không vui mừng sao được? Chàng không kịp suy nghĩ tại sao Tạ Tốn đang ở Băng Hỏa đảo nơi cực bắc lại đến được nơi đây, cũng chẳng nghĩ đến việc Kim Hoa bà bà có thể nhìn ra được chân tướng mình, liền vội vàng theo cầu thang đi lên sau thuyền, nhìn về phía sơn cương nơi phát ra tiếng hú.
Chỉ thấy bốn người đàn ông tay cầm binh khí, đang vây đánh một người thân thể cao to. Người đó tay không nghinh địch, chính là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Chỉ thoáng nhìn, Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ hai mắt đã mù, lại một chọi bốn, tay không chống với bốn món binh khí nhưng không kém sút chút nào. Chàng chưa bao giờ được thấy nghĩa phụ động thủ với ai, lúc này chỉ coi vài chiêu, trong bụng mừng thầm: “Năm xưa Kim Mao Sư Vương uy chấn thiên hạ, quả thật danh bất hư truyền. Nghĩa phụ ta quả võ công còn cao hơn Thanh Dực Bức Vương, có thể ngang với ông ngoại ta chứ không kém”. Bốn người kia võ công cũng khá cao cường, từ trên thuyền nhìn về mỏm núi không rõ mặt mũi, nhưng thấy áo quần lam lũ, lưng đeo túi vải, hẳn là người của Cái Bang. Bên cạnh còn có thêm ba người đứng tiếp ứng.
Chỉ nghe một người lên tiếng nói:
- Giao thanh đao Đồ Long ra ... tha cho ngươi khỏi chết ... bảo đao thế mạng ...
Gió núi thổi ra truyền tiếng của y lúc được lúc mất, vì khoảng cách khá xa nên nghe không rõ ràng nhưng cũng hiểu được bọn này đang muốn đoạt thanh đao Đồ Long. Tạ Tốn cười ha hả nói:
- Đao Đồ Long ở ngay bên cạnh ta đây, bọn giặc thối tha của Cái Bang kia, có giỏi thì cứ đến mà lấy.
Tuy miệng nói mà chân tay ông ta ra chiêu vẫn không chậm lại chút nào. Kim Hoa bà bà thân hình nhún một cái đã nhảy lên trên bờ, ho khúc khắc mấy tiếng, nói:
- Quần hiệp Cái Bang giáng lâm đảo Linh Xà, sao không đến nói chuyện với lão bà, lại đến làm phiền quí khách của đảo, ý muốn gì đây?
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Đảo này quả nhiên là Linh Xà đảo, nghe giọng của Kim Hoa bà bà, xem ra nghĩa phụ ta là khách bà ta mời đến? Năm xưa nghĩa phụ nhất định không chịu rời Băng Hỏa đảo để về Trung Nguyên, sao Kim Hoa bà bà lại mời ông ta đến đây được? Làm sao Kim Hoa bà bà biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta?”. Trong chốc lát trong đầu chàng nổi lên không biết bao nhiêu là nghi hoặc.
Bốn người trên đỉnh núi thấy chủ nhân hòn đảo đã đến, chỉ mong thanh toán Tạ Tốn cho xong nên thế công càng thêm gấp gáp. Họ có ngờ đâu đó chính là đại kỵ trong võ học, Tạ Tốn hai mắt đã mù, toàn do tiếng gió từ binh khí của địch mà biện vị để đối phó. Bốn người ra tay càng nhanh, phong thanh càng nhiều, Tạ Tốn cười ha hả một hồi dài, bình một quyền đã đánh trúng ngực một tên, người đó rú lên một tiếng, từ sơn cương lăn xuống, đầu vỡ tan, óc văng tung tóe.
Một người lược trận đứng bên ngoài liền quát:
- Lui ra.
Y nhẹ nhàng đấm ra một quyền, quyền lực dường như có như không, khiến Tạ Tốn không thể nào nhận được đường đi. Quả nhiên quyền đầu đến cách thân hình Tạ Tốn mấy tấc ông mới hay biết, vội vàng ra chiêu, chân tay luống cuống, cực kỳ hốt hoảng. Ba người đánh khi nãy vừa tránh ra, một lão già đứng ngoài liền gia nhập cuộc chiến. Người đó cũng dùng phương pháp đánh như người kia, xuất chưởng khinh nhu, chỉ trong mấy chiêu, Tạ Tốn đã lạng quạng suýt nữa thì trúng hiểm chiêu.
Kim Hoa bà bà quát lên:
- Quí trưởng lão, Trịnh trưởng lão, Kim Mao Sư Vương mắt không được sáng, các ngươi giở thủ đoạn đê hèn như thế, uổng cho hai tiếng anh hùng trong chốn giang hồ.
Bà ta một mặt nói, tay vẫn cầm gậy chạy lên núi. Trông người bà ta run rẩy già cả như thế, tưởng như bị gió núi thổi rơi xuống vực đến nơi nhưng thân hình di động cực kỳ nhanh nhẹn. Chỉ thấy bà ta điểm đầu gậy xuống đất một cái, thân hình đã phất phới vọt lên, chỉ nhún nhẩy mấy lần đã đến lưng chừng núi. Châu Nhi lẽo đẽo chạy theo, nhưng bị cách một quãng xa.
Trương Vô Kỵ lo cho an nguy của nghĩa phụ cũng đã chạy vọt lên núi. Triệu Mẫn chạy lên ghé tai nói nhỏ:
- Có lão bà đó rồi, Sư Vương không bị nguy hiểm gì đâu, anh không cần phải ra tay, ẩn tàng hình tích là hơn.
Trương Vô Kỵ gật đầu, chạy đằng sau Châu Nhi. Lúc này chàng chỉ thấy đằng sau Châu Nhi, thân hình yểu điệu, nếu không nhìn mặt nàng ai chẳng bảo là một tuyệt sắc giai nhân, đâu có kém Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, hay Tiểu Siêu chút nào? Chàng nghĩ như thế lại tự trách mình: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, nghĩa phụ ngươi đang gặp nguy nan, ngươi lại đi lo nhìn đàn bà con gái, trong bụng khen chê tướng mạo thân hình đẹp hay không đẹp là sao?”.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 12:28 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.