Go Back   Vina Forums > Vườn Thơ > Vườn Tao Đàn > Thơ Sưu Tầm
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 09-09-2005, 04:10 PM
PhuongOanh PhuongOanh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Sep 2005
Nơi Cư Ngụ: Florida USA
Bài gởi: 82
Send a message via ICQ to PhuongOanh Send a message via AIM to PhuongOanh Send a message via MSN to PhuongOanh Send a message via Yahoo to PhuongOanh
Câu: 1-199

Trước đèn xem chuyện Tây Minh
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le
Hỡi ai lẵng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dà thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Có người ở quận Đông Thành
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền
Đặt tên là Lục Vân Tiên
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành
Theo thầy nấu sử sôi kinh
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao
Văn đà khởi phụng đằng giao
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì

Xẩy nghe mở hội khoa thi
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa Thánh dư.a kề
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần
Nay đà gặp hội long vân
Ai ai mà chẳng lập thân buổi nàỵ
Chi lăm bắn nhạn ven mây
Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa
Làm trai trong cõi người ta
Trước lo báo bổ, sau là hiển vang"
Tôn sư bàn luận tai nàn
Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa
Máy trời chẳng dám nói ra
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng
Sau dầu tỏ nỗi đục trong
Phải toan một phép để phòng hộ thân
Rày con xuống chốn phong trần
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo
Chẳng may mà gặp lúc nghèo
Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an
Tôn sư trở lại hậu đàng
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi
Chẳng hay mình mắc việc chi
Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa
Hay là bối rối việc nhà
Hay là đức bạc hay là tài sơ
Bấy lâu ra sức công thư
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao
Nên hư chẳng biết làm sao
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh
Đặng cho rõ nỗi sư. tình
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an
Tôn sư ngồi hãy thở than
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô
Hỏi rằng: Vạn lý trường đồ
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì
Hay là con hãy hồ nghi
Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa
Vân Tiên nghe nói liền thưa
Tiểu sinh chưa biết nắng mưa thế nào
Song đường tuổi hạc đã cao
Xin thầy nói lại âm hao con tường
Tôn sư nghe nói thêm thương
Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng
Nhân cơ tàng sư. dặn rằng:
Việc người chẳng khác việc trăng lên trời
Tuy là soi khắp nơi nơi
Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy
Sau con cũng tỏ lẽ này
Lư.a là trước phải hỏi thầy làm chi
Số con hai chữ khoa kỳ
Khôi tinh đã rạng, tử vi thêm lòa
Hiềm vì ngư.a chạy đằng xa
Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan
Bao giờ cho tới bắc phang
Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh
Sau dầu đặng chữ hiển vinh
Mấy lời thầy dạy tiền trình chẳng sai
Trong cơ bĩ cư.c thái lai
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn
Vân Tiên vội vã tạ ơn
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lờị
Ra đi vừa rạng chân trời
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường
Tiên rằng : Thiên các nhất phương
Thầy đeo đoạn thảm, tớ vương mối sầu
Quản bao thân trẻ dãi dầu
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên
Bao giờ cá nước gặp duyên
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay
Kể từ tách dặm đến nay
Mỏi mê tính đã mấy ngày xông sương
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương
Vơi vơi dặm cũ, nẻo đường còn xa
Chi bằng kiếm chỗ lân gia
Trước là tìm bạn sau là nghĩ chân
Việc chi than khóc tưng bừng
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non
Tiên rằng : Bớ chú cõng con
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài
Dân rằng: Tiểu tử là ai
Hay là một lũ sơn đài theo tao
Tiên rằng: cớ sư. làm sao
Hãy dừng gót lại mà trao một lời
Dân nghe tiếng nói khoan thai
Kêu nhau đứng lại vài lời phân qua
Nhân rày có đảng lâu la
Tên là Đỗ Dư., hiệu là Phong Lai
Nhóm nhau ở chốn sơn đài
Người đều sợ nó có tài khôn đương
Bây giờ xuống cướp thôn hương
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi
Xóm làng chẳng dám nói chi
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng
E khi mắc đảng hành hung
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu
Thôi thôi chẳng dám nói lâu
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình
Vân Tiên nổi giận lôi đình
Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao
Tôi xin ra sức anh hào
Cứu người cho khỏi lao đao buổi nàỵ
Dân rằng: Lũ nó còn đây
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành
E khi họa hổ bất thành
Khi không mình lại xô mình xuống hang.
Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vộ
Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào lại dám lẫy lừng vào đâỵ
Trước gây việc dữ tại mày
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng
Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rừng thân vong
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe nàỷ
Thưa rằng: tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên
mới lầm tay hung đồ
Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu tôi lạy cứu cô tôi cùng
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la
Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai
Tiểu thư con gái nhà ai
Đi đâu đến nỗi mang tai bất kỳ
Chẳng hay tên họ là chi
Khuê môn phận gái việc gì đến đâỷ
Trước sau chưa hãn dạ này
Hai nàng ai tớ ai thầy nói rả
Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt Nga
Còn con tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ngồi miền Hà-khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành
Chẳng qua là sư. bất bình
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi
Trước xe quân tử tạm ngồi
Ngõ chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa
Chút tôi liễu yếu đào thơ
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần
Hà khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng
Gặp đây đương lúc giữa đàng
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không
Tương câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươị
Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng
Đó mà biết chữ thủy chung
Lư.a là đây phải theo cùng làm chi
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: Tiện thiếp đi đường
Chẳng qua quân tử quê hương nơi nàỏ
Phút nghe lời nói thanh tao
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha
Đông Thành vốn thiệt quê ta
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên.
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm
Thưa rằng: Nay gặp tri âm
Xin đưa một vật để cầm làm tin
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na
Vật chi một chút gọi là
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ
Của này là của vất vơ


Chú thích:
1.Truyện Tây Minh không rõ lai lịch, hoặc một
tiểu thuyết cũ của Trung Quốc, hoặc là tác giả bịa ra, đó còn
là một điều nghi vấn\. Xét trong sách Tính-lý, Tây Minh là một bài
triết là do Trương Tái nhà nho học đời Tống soạn ra, luận về
đạo hiếu và đạo nhân, có lẽ Nguyễn Đình Chiểu mượn đầu
đề ấy mà đặt tên cho truyện để nêu cao cái bản lĩnh hiếu và
nhân của Lục Vân Tiên, mà tư.u trong là phản ánh cái bản lĩnh
của mình.

2.Dữ răn việc trước, lành dà thân sau: câu này
ý nói là người nghe nên trông gương nhân vật trong chuyện mà răn
sợ điều lành đạ hưởng phúc yên về saụ

3.Trau mình: sửa mình (tiếng miền Nam)\. Trau có
nghĩa là làm cho tốt hơn, đẹp hơn.

4.Đông Thành: tên một huyện ở tỉnh An-huy,
Trung Quốc\. Những địa danh trong truyện Lục Vân Tiên không chắc
chắn là chỉ những địa điểm ở Trung Quốc\. O+? tỉnh An-giang
(Châu-đốc) xưa kia cũng có Đông-Thành và con sông Đông-Thành.

5.Tu nhân tích đức: sửa điều nhân, chứa điều
đức, nghĩa là làm cho lòng thương người, trí làm lành của mình
ngày càng tăng thêm.
6.Nấu sử sôi kinh: học kinh và sử nhiều lần
cho thật chín.
7.Sân trình: sân nhà họ Trình (tức anh em Trình
Hiệu hiệu Minh Đạo và Trình Di hiệu Y Xuyên, là hai nhà đại nho
đời trước thuật các sách nho giáo, dạy được nhiều học trò
hiền tài ở thời bấy giờ)\. Người ta thường nói cửa Khổng
(Khổng Tử) sân Trình là chỉ những người theo nèn nếp đạo nho
hay những trường học tậo đạo nhọ
8.Khởi phụng đằng giao: con phượng trỗi dậy,
con rồng bay cao, chỉ văn chương xuất sắc lỗi lạc.

9.Ba lược sắc thao: do chữ Hán Tam lược, Lục
thao, tên hai quyển sách nói về cách dùng binh.

10.Xẩy nghe: chợt nghe, sư.c nghẹ

11.Tôn sư (si): thầy học đáng kính trọng\. Chữ
sư chính âm đọc là chữ si, ta đọc chệnh ra sư.

12\. Cửa thánh: chỉ trường học đạo thánh, cũng
như cửa Khổng.

13\. Khí tượng: cái nghĩa cũ: cái khí thế, cái dáng
cách biểu hiện ra bên ngoài\. -nghĩa mới: hiện tượng của không
khí, như mưa gió, nóng lạnh v.v\... Đây dùng nghĩa cũ\. Xuê: xinh
tốt, đẹp đẽ (tiếng miền Nam)\. ý Vân Tiên nói: những đạo đức
và nghề văn nghề võ mà thầy trau giồi cho bản thân tôi nó đã
dành chứa ở phần tinh thần bên trong và biểu lộ ra phần khí tượng
bên ngoài một cách tốt tươị

14.Long Vân: rồng mây\. Kinh dịch có câu "Vân
tùng long, phong tùng hổ", nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp,
ý nói những vật cùng khí cùng loại thường cảm ứng và tìm đến
với nhau, như rồng hiện thì mây kéo lại, cọp gầm thì gió sinh
ra, người sau nhân ý ấy dùng chữ long vân hay phong vân (gió mây)
để chỉ sư. gặp gỡ tốt đẹp trong một cơ hội, như vua giỏi
tôi hiền gặp nhau, hay thi đỗ, công danh thành đạt...

15\. Lập thân: lo cho thành người có sư. nghiệp
giúp dân giúp nước.

16\. Lăm: rắp toan nhưng có ý quyắt tâm

17 Ven: bên, quyết bắn nhạn bên mây, nghĩa là
muốn trổ tài để thỏa chí.

18\. Tôi: đây có nghĩa là học trò\. Tác giả dùng
chữ tôi, tớ để chỉ học trò trong câu: Thầy đeo đoạn thảm
tớ vương mối sầụ

19\. Báo hổ: báo đáp đền bù\. Hiển vang: hiển
vinh\. ý nói: Làm người vừa phải lo đền ơn thầy học, ơn cha
mẹ vừa phải lo xây dư.ng công danh sư. nghiệp của mình.

20\. Tai nàn: tai nạn.

21\. Khoa tràng (trường): chính nghĩa là trường
thi, nơi thi cử, mượn dùng là việc thi cử hay kỳ thi cử\. Đây nói:
xét theo số phận thì còn lâu mới thi đỗ.

22.Máy trời: do chữ Hán là "thiên cơ", cái
lẽ huyền diệu của trờị

23\. Đục trong: dịch chữ Hán thường: thanh trọc,
những thói hay dở ở đờị
Trong truyện Lục Vân Tiên cũng như trong những văn
thơ khác, Nguyễn Đình Chiểu thường dùng hai chữ đục, trong để
hình dung một cách cụ thể đạo đức nhân nghĩa (trong) và bất
nhân bất nghĩa (đục).

30\. Phong trần: gió bụi\. Danh từ này có ba nghĩa:
1) chỉ cõi đời rối ren hỗn tạp; 2)chỉ cảnh lữ khách gian
khổ hay nói chung sư. gian khổ ở đời; 3)chỉ việc giặc giã
loạn lạc\. ở đây dùng chỉ cõi đời rối ren, phức tạp và gian
khổ.

31\. Phù thần: đạo bùa thiêng để hổ mệnh.

32\. Nghèo: hiểm nghèo, nguy hiểm.

33\. Hậu đàng: (hậu đường): nhà saụ

34\. Khoa kỳ: kỳ thi cử\. Đây nói thời kỳ thi đỗ.

35\. Đức bạc: đức mỏng, không được bao nhiêụ

36.Tài sơ: sơ là thô sơ, ý nói không giỏị

37.Công thư: công: chuyên làm một việc gì, công
thư: chuyên vần vẳ sách vở.

38.Nên hư: do chữ Hán "thành bại", nhưng
dùng nghĩa rộng hơn: cùng thông, bĩ thái, hay dở, tốt xấu v.v\...
ở đây dùng như nghĩa hay dở.

39\. Minh: Rõ ràng.

40.Ngõ sau: ngõ hầu sau lúc ấỵ

41.Đăng trình: lên đường.

42.Án: Bàn đọc sách.

43.Vạn lý trường đồ: đường dài (xa) muôn
dặm.

44.Tiểu sinh: học trò nhỏ tuổi, tiếng xưng hô
khiêm tốn.

45.Song đường: cha mẹ, lấy ở chữ Hán "xuân
đường" và "huyên đường" (chữ xuân ta quên đọc là
thung, nhưng chính là âm xuân)\. Người ta thường gọi cha là
"xuân đường" (nhà xuân) và mẹ là huyên đường (nhà huyên).

46.Tuổi hạc: Hạc là loài chim sống lâu, tiêu
biểu tuổi già.

47.Âm hao: Tin tức.

48.Tiền đường: nhà trước, nhà trên.

49.Nhân cơ tàng sư.: nhân cơ hội coi trăng mà
ngụ ý việc người trong lời nói bí ẩn để chỉ bảo Vân Tiên.

50.Khôi tinh: sao Thiên khôi\. Theo thuật số tử vi,
sao Thiên khôi chủ về văn học, sao Tử vi chủ về thân mệnh người
ta\. Cả câu ý nói: sao văn rạng lên, văn chương được nổi danh,
nhưng sao mệnh lại mờ đi vận hạn gặp không may, đó là giải
nghĩa theo chữ "lòa" là lu mờ\. Lòa còn nghĩa là sáng :Di,
nên có người giải: văn tài đã rạng rỡ, thì thân phận cũng
cao quí, nhưng xét đoạn văn, dưới có câu: Thỏ vừa ló bóng, gà
vừa gáy tan (năm mão vừa học thành tài, năm dậu đã bị hoạn
nạn), ngụ ý tài và mệnh tương phản với nhau, thì câu này cũng
nên giải theo ý nghĩa tương phản, cái nọ tỏ thì cái kia mờ, để
cho mạch văn được trên dưới hô ứng với nhaụ

52\. Theo cách tính năm, tính tuổi trong môn thuật
số, ngư.a tiêu biểu năm "ngọ" , thỏ năm "mão",
gà năm "dậu", chuột năm "tí", ám chỉ năm
"nhâm tí"\. Ngư.a chạy đường xa: ý nói
Thân thế Vân Tiên còn phải trải nhiều gian
khổ, như con người, như con ngư.a còn phải chạy hoài trên
khoảng đường xạ

53\. Bắc phang (phương): phương Bắc, tính theo
thập can, thuộc về "nhâm" và "quí"\. Bắc phang
gặp chuột: tức "nhâm" gặp "tí", ám chỉ năm
"nhâm tí"\. Mấy câu này cụ thể hóa "máy trời" và
việc coi trăng mà Vân Tiên chưa hiểu rõ\. Đại ý là: Vân Tiên
tuổi ngọ, cái tuổi còn nhiều vận hạn, đến năm mão học thành
tài đi lập công danh, nhưng năm dậu gặp tai nạn, phải đắ năm
nhâm tí mới công danh trọn vẹn.
Đối chiếu với tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu thì
năm sinh nhằm năm nhâm ngọ (1822, tuổi ngư.a), năm thi đỗ là quý
mão (1843, Thỏ vừa ló bóng), năm bị mù là kỷ dậu (1849 -gà đã
gáy tan), đúng với sư. việc trong mấy câu này\. Trong Lục Vân Tiên,
tác giả đã tư. thuật thân thế mình.

54.Tiền trình: bước đường trước mắt, tức là
tương laị

55.Bĩ thái: 2 tên quẻ trong kinh Dịch, bĩ tượng
trưng sư. cùng khốn, thái tượng trưng hanh thông, Bĩ cư.c thái lai:
cái cùng đến hết mức thì cái thông trở lại, hết khổ đến sướng.

56\. Việc ai chớ sờn: chớ sờn lòng về việc làm
của người đời (ám chỉ những việc lừa đảo, bất nhân của
Trịnh Hâm và Võ công sau này).

57.Keo sơn: hai chất dẻo, dính dùng để gắn đồ
vật\. Người ta thường dùng để chỉ sư. bẳn chặt khăng khít
trong tình bạn bè\. ở đây có nghĩa là gắn bó đinh ninh.

58.Thiên các nhất phương: mỗi người một phương.

59.Tử lộ: tên của Trọng Do, một hiền triết
đời Xuân thu, học trò Khổng tử, nhà nghèo, thường đội gạo
thuê, lấy tiền nuôi mẹ.

60.Nhan Uyên: Nhan Hồi, tên tư. là Tử Uyên, một
hiền triết đời Xuân thu, học trò giỏi nhất của Khổng tử, ông
sống trong cảnh nghèo, (một giỏ cơm hầm, một bầu nước lã,
ở nơi hang cùng ngõ hẻm) mà vẫn vui vẻ, dốc lòng học đạo\.
Cả hai câu có ý nói: với những hành lý thanh đạm của nhà nho,
Vân Tiên vui vẻ lên đường, không quản ngại dãi dầụ

61.Cá nước: Chỉ sư. gặp gỡ mà tương đắc
với nhau, như cá với nước\. ở đây chỉ sư. thi đỗ, công danh
thành đạt

62.Phỉ nguyền: thỏa lòng\. Cả hai câu ý nói:
biết bao giờ cá nước gặp duyên, công danh thành toại, để con
người trung hiếu sẽ làm rạng rỡ gia đình và thỏa chí giúp vua
giúp nước.

63\. Tách dặm: rời bước trên dặm đường.

64.Xông sương: xông pha sương gió.

65\. Vơi vơi: nghĩa chính của tiếng Bắc là cạn
bớt, cạn dần dần, hơi vơi\. ở đây, tác giả dùng theo tiếng
miền Nam, nghĩa là thăm thẳm\. ở câu 234 "Dặm dài vơi vơi"
câu 279 " vơi vơi đất rộng trời dài" dưới đây cũng như
ở câu này, chữ "vơi vơi" đẳu dùng với nghĩa thăm
thẳm, mênh mông\. Dặm cũ: tức dặm đường về nhà.

66.Lân gia: nhà hàng xóm\. Đây nói nhà ở gần đó.

67.Tiểu tử: chú bé\. Nhân dân thấy Vân Tiên ít
tuổi nên gọi là như thế.

68\. Sơn dài: bọn cướp ở núi\. Có lẽ trên quả
núi mà bọn cướp ở có cái đài, nên gọi là sơn đàị

69.Phân qua: bày tỏ quạ

70\. Thôn hương: thôn làng.

71.Lạnh lùng: tiếng miền Nam, ý nói dung nhan
rất đẹp.

72.Thục nữ: người con gái có đức hạnh tốt,
đoan chính dịu dàng.

73\. Thất phu: kẻ tầm thường, đâu là kẻ hèn
mọn, thô bỉ.

74.Âu: tức ưu, là lo\. Chữ này là chính âm là ưu,
ta đọc chệch là ưụ

75.Lôi đình: sấm sét.

76.Đinh: dừng lạị

77.Qua, bậu: tiếng miền Nam "qua" là ta,
"bậu là "người", màỵ

78\. Họa hổ bất thành: vẽ hổ không nên hình\.
Đây nói: Vân Tiên muốn giúp người, nhưng e rằng làm không nên
việc, lại gặp tai nạn.

79.Hồ đồ: lờ mờ, không rõ ràng\. Đây nói không
nghĩa lý chính đáng.

80.Bịt bùng: kín mít.

81\. Tả xung, hữu xông: đánh vào bên trái, xông
sang bên phải\. Tung hoành trong trận.

82.Triệu Tử: chàng họ Triệu\. Triệu Vân tên là
Tử Long, một tướng tài của Lưu Bị đời Tam quốc, một mình phá
vòng vây của Tào Tháo ở trận Đương Dương bảo vệ được A Đẩu
là con nhỏ của Lưu Bị.

83.Thân vong: thân mạng mất đi, tức là chết,
nghĩa giống như chữ "mạng vong"\. Đây nói là chết bỏ thân.

84.Khôn phô: phô là bày ra\. ý nói trong xe chật
hẹp, không để đứng lên để là lễ chào được.

85.Mang tai bất kỳ: thình lình gặp tai nạn.

86.Khuê môn: (quê môn) cửa phòng con gái\. Chữ khuê
chính là âm quê (chữ khuê là sao khuê cũng thế)\. Khuê môn phận gái:
việc của con gái là chỗ buồng the, không đi ra ngoàị

87\. Chưa hãn dạ này: tức dạ này chưa hãn, văn
đặt đảo ngược\. Hán chưa rõ (tiếng miền Nam)\. Đây Vân Tiên nói:
Lòng này nghi hoặc, chưa rõ sư. tình thế nàỏ

88.Tì tất: đày tớ gáị

89.Tây-xuyên: tên một tỉnh xưa ở phía Tây
tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), ở tỉnh An Giang (Châu Đốc) nước ta
xưa cũng có quận Tây Xuyên.

90\. Hà Khê: trong nguyên từ điển Trung Quốc không
có địa danh này\. ở tỉnh Hà Tiên nước ta trước kia có những
huyện Hà Châu, Hà Âm, Hà Dương\. Có thể Nguyễn Đình Chiểu đã
dư.a vào những tên ấy đã đặt ra tên Hà Khê chăng?

91\. Nghi gia: chính nghĩa là hòa thuận cửa nhà (nói
người con gái khi về làm dâu)\. Đây chỉ việc lập gia đình,
lấy chồng.

92.Bất bình: không thường, việc xảy ra trái ý
mình.

93.Hay vầy: biết như thế này (thường dùng ở
miền Nam).

94.Đăng trình: lên đường, cũng như thượng trình.

95.Quân tử: người có tài đức hơn người\.
Trong khi xưng hô giữa nam với nữ, tiếng quân tử có nghĩa là
"chàng" như "Trách người quân tử bạc tình" (Ca
dao) "Đã lòng quân tử đa mang" (Truyện Kiều)

96.Tiện thiếp: người đàn bà hèn mọn\. Tiếng xưng
hô khiêm tốn của phụ nữ ngày xưa\. Những danh từ quân tử và
tiện thiếp chỉ thường dùng trong văn thư cổ.

97.Chút tôi: cái tôi nhỏ,cũng như tiếng chút thân,chút
phận, cách nói khiêm tốn.

98.Đã phần: đã là phần của tôị

99.Báo đức công thù: đáp ơn đức, trả công
laọ

100.Kiến ngãi (nghĩa)bất vi: thấy việc nghĩa không
làm\. Sách Luận ngữ có câu: "Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã",
nghĩa là thấy việc nghĩa không làm, không phải là người mạnh
vậỵ

101.Phi anh hùng: chẳng phải anh hùng.

102.Thanh tao: trong trẻo

103.Phôi pha: nhạt đi, phai đi, kém vẻ đằm
thấm, nhạt nhẽo lãnh đạm

104.Lục thị: họ Lục

105.Thuyền quyên: cái trạng thái tốt đẹp
dễ coi, nói chung cả người và vật (như hoa, cây, trăng v.v...)\. Ta
thường dùng để chỉ người "phụ nữ đẹp" hay người
"phụ nữ" nói chung

106.Tri âm: hiểu biết tiếng đàn\. Nghĩa
rộng là người biết mình, hiểu rõ mình, người bạn chí tình.

107.Thìn: tiếng miền Nam cũng như giữ gìn.
__________________
(¯`°•.¸¯`°•.¸ •:*´¨¨`*:•. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/
VINA NET-WORK nằm lòng
Lập ra là để cho người mua vui
Đời như con nước ngược xuôi
Nó trôi trôi mãi lênh đên giữa dòng
Ví như phận gái đục trong
Mười hai bến ấy long đông chãy hoài
Thôi thì mời gái mời trai
Mời anh mời chị vào chơi diễn đàn...
(¯`°•.¸¯`°•.¸ •:*´¨¨`*:•. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 02:00 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.