#1
|
|||
|
|||
Câu: 1-199
Trước đèn xem chuyện Tây Minh Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le Hỡi ai lẵng lặng mà nghe Dữ răn việc trước, lành dà thân sau Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình Có người ở quận Đông Thành Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền Đặt tên là Lục Vân Tiên Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học hành Theo thầy nấu sử sôi kinh Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao Văn đà khởi phụng đằng giao Võ thêm ba lược sáu thao ai bì Xẩy nghe mở hội khoa thi Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về: "Bấy lâu cửa Thánh dư.a kề Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần Nay đà gặp hội long vân Ai ai mà chẳng lập thân buổi nàỵ Chi lăm bắn nhạn ven mây Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa Làm trai trong cõi người ta Trước lo báo bổ, sau là hiển vang" Tôn sư bàn luận tai nàn Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa Máy trời chẳng dám nói ra Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng Sau dầu tỏ nỗi đục trong Phải toan một phép để phòng hộ thân Rày con xuống chốn phong trần Thầy cho hai đạo phù thần đem theo Chẳng may mà gặp lúc nghèo Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an Tôn sư trở lại hậu đàng Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi Chẳng hay mình mắc việc chi Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa Hay là bối rối việc nhà Hay là đức bạc hay là tài sơ Bấy lâu ra sức công thư Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao Nên hư chẳng biết làm sao Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh Đặng cho rõ nỗi sư. tình Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an Tôn sư ngồi hãy thở than Ngó ra trước án thấy chàng trở vô Hỏi rằng: Vạn lý trường đồ Sao chưa cất gánh trở vô việc gì Hay là con hãy hồ nghi Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa Vân Tiên nghe nói liền thưa Tiểu sinh chưa biết nắng mưa thế nào Song đường tuổi hạc đã cao Xin thầy nói lại âm hao con tường Tôn sư nghe nói thêm thương Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng Nhân cơ tàng sư. dặn rằng: Việc người chẳng khác việc trăng lên trời Tuy là soi khắp nơi nơi Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy Sau con cũng tỏ lẽ này Lư.a là trước phải hỏi thầy làm chi Số con hai chữ khoa kỳ Khôi tinh đã rạng, tử vi thêm lòa Hiềm vì ngư.a chạy đằng xa Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan Bao giờ cho tới bắc phang Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh Sau dầu đặng chữ hiển vinh Mấy lời thầy dạy tiền trình chẳng sai Trong cơ bĩ cư.c thái lai Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn Vân Tiên vội vã tạ ơn Trăm năm dốc giữ keo sơn một lờị Ra đi vừa rạng chân trời Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường Tiên rằng : Thiên các nhất phương Thầy đeo đoạn thảm, tớ vương mối sầu Quản bao thân trẻ dãi dầu Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên Bao giờ cá nước gặp duyên Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay Kể từ tách dặm đến nay Mỏi mê tính đã mấy ngày xông sương Đoái nhìn phong cảnh thêm thương Vơi vơi dặm cũ, nẻo đường còn xa Chi bằng kiếm chỗ lân gia Trước là tìm bạn sau là nghĩ chân Việc chi than khóc tưng bừng Đều đem nhau chạy vào rừng lên non Tiên rằng : Bớ chú cõng con Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài Dân rằng: Tiểu tử là ai Hay là một lũ sơn đài theo tao Tiên rằng: cớ sư. làm sao Hãy dừng gót lại mà trao một lời Dân nghe tiếng nói khoan thai Kêu nhau đứng lại vài lời phân qua Nhân rày có đảng lâu la Tên là Đỗ Dư., hiệu là Phong Lai Nhóm nhau ở chốn sơn đài Người đều sợ nó có tài khôn đương Bây giờ xuống cướp thôn hương Thấy con gái tốt qua đường bắt đi Xóm làng chẳng dám nói chi Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn. Con ai vóc ngọc mình vàng Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng E khi mắc đảng hành hung Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu Thôi thôi chẳng dám nói lâu Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình Vân Tiên nổi giận lôi đình Hỏi thăm lũ nó còn đình nơi nao Tôi xin ra sức anh hào Cứu người cho khỏi lao đao buổi nàỵ Dân rằng: Lũ nó còn đây Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành E khi họa hổ bất thành Khi không mình lại xô mình xuống hang. Vân Tiên ghé lại bên đàng Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vộ Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân Phong Lai mặt đỏ phừng phừng Thằng nào lại dám lẫy lừng vào đâỵ Trước gây việc dữ tại mày Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng Vân Tiên tả đột hữu xung Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương dang Lâu la bốn phía vỡ tan Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay Phong Lai trở chẳng kịp tay Bị Tiên một gậy thác rừng thân vong Dẹp rồi lũ kiến chòm ong, Hỏi: Ai than khóc ở trong xe nàỷ Thưa rằng: tôi thiệt người ngay Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ Trong xe chật hẹp khôn phô Cúi đầu tôi lạy cứu cô tôi cùng Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng: Ta đã trừ dòng lâu la Khoan khoan ngồi đó chớ ra Nàng là phận gái ta là phận trai Tiểu thư con gái nhà ai Đi đâu đến nỗi mang tai bất kỳ Chẳng hay tên họ là chi Khuê môn phận gái việc gì đến đâỷ Trước sau chưa hãn dạ này Hai nàng ai tớ ai thầy nói rả Thưa rằng: Tôi Kiều Nguyệt Nga Còn con tì tất tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên Cha làm tri phủ ngồi miền Hà-khê Sai quân đem bức thư về Rước tôi qua đó định bề nghi gia Làm con đâu dám cãi cha Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành Chẳng qua là sư. bất bình Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi Lâm nguy chẳng gặp giải nguy Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi Trước xe quân tử tạm ngồi Ngõ chi tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa Chút tôi liễu yếu đào thơ Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần Hà khê qua đó cũng gần Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng Gặp đây đương lúc giữa đàng Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không Tương câu báo đức thù công Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươị Vân Tiên nghe nói liền cười Làm ơn há dễ trông người trả ơn Nay đà rõ đặng nguồn cơn Nào ai tính thiệt so hơn làm gì Nhớ câu kiến ngãi bất vi Làm người thế ấy cũng phi anh hùng Đó mà biết chữ thủy chung Lư.a là đây phải theo cùng làm chi Nguyệt Nga biết ý chẳng đi Hỏi qua tên họ một khi cho tường. Thưa rằng: Tiện thiếp đi đường Chẳng qua quân tử quê hương nơi nàỏ Phút nghe lời nói thanh tao Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha Đông Thành vốn thiệt quê ta Họ là Lục thị tên là Vân Tiên. Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên Tai nghe lời nói tay liền rút trâm Thưa rằng: Nay gặp tri âm Xin đưa một vật để cầm làm tin Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na Vật chi một chút gọi là Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ Của này là của vất vơ Chú thích: 1.Truyện Tây Minh không rõ lai lịch, hoặc một tiểu thuyết cũ của Trung Quốc, hoặc là tác giả bịa ra, đó còn là một điều nghi vấn\. Xét trong sách Tính-lý, Tây Minh là một bài triết là do Trương Tái nhà nho học đời Tống soạn ra, luận về đạo hiếu và đạo nhân, có lẽ Nguyễn Đình Chiểu mượn đầu đề ấy mà đặt tên cho truyện để nêu cao cái bản lĩnh hiếu và nhân của Lục Vân Tiên, mà tư.u trong là phản ánh cái bản lĩnh của mình. 2.Dữ răn việc trước, lành dà thân sau: câu này ý nói là người nghe nên trông gương nhân vật trong chuyện mà răn sợ điều lành đạ hưởng phúc yên về saụ 3.Trau mình: sửa mình (tiếng miền Nam)\. Trau có nghĩa là làm cho tốt hơn, đẹp hơn. 4.Đông Thành: tên một huyện ở tỉnh An-huy, Trung Quốc\. Những địa danh trong truyện Lục Vân Tiên không chắc chắn là chỉ những địa điểm ở Trung Quốc\. O+? tỉnh An-giang (Châu-đốc) xưa kia cũng có Đông-Thành và con sông Đông-Thành. 5.Tu nhân tích đức: sửa điều nhân, chứa điều đức, nghĩa là làm cho lòng thương người, trí làm lành của mình ngày càng tăng thêm. 6.Nấu sử sôi kinh: học kinh và sử nhiều lần cho thật chín. 7.Sân trình: sân nhà họ Trình (tức anh em Trình Hiệu hiệu Minh Đạo và Trình Di hiệu Y Xuyên, là hai nhà đại nho đời trước thuật các sách nho giáo, dạy được nhiều học trò hiền tài ở thời bấy giờ)\. Người ta thường nói cửa Khổng (Khổng Tử) sân Trình là chỉ những người theo nèn nếp đạo nho hay những trường học tậo đạo nhọ 8.Khởi phụng đằng giao: con phượng trỗi dậy, con rồng bay cao, chỉ văn chương xuất sắc lỗi lạc. 9.Ba lược sắc thao: do chữ Hán Tam lược, Lục thao, tên hai quyển sách nói về cách dùng binh. 10.Xẩy nghe: chợt nghe, sư.c nghẹ 11.Tôn sư (si): thầy học đáng kính trọng\. Chữ sư chính âm đọc là chữ si, ta đọc chệnh ra sư. 12\. Cửa thánh: chỉ trường học đạo thánh, cũng như cửa Khổng. 13\. Khí tượng: cái nghĩa cũ: cái khí thế, cái dáng cách biểu hiện ra bên ngoài\. -nghĩa mới: hiện tượng của không khí, như mưa gió, nóng lạnh v.v\... Đây dùng nghĩa cũ\. Xuê: xinh tốt, đẹp đẽ (tiếng miền Nam)\. ý Vân Tiên nói: những đạo đức và nghề văn nghề võ mà thầy trau giồi cho bản thân tôi nó đã dành chứa ở phần tinh thần bên trong và biểu lộ ra phần khí tượng bên ngoài một cách tốt tươị 14.Long Vân: rồng mây\. Kinh dịch có câu "Vân tùng long, phong tùng hổ", nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp, ý nói những vật cùng khí cùng loại thường cảm ứng và tìm đến với nhau, như rồng hiện thì mây kéo lại, cọp gầm thì gió sinh ra, người sau nhân ý ấy dùng chữ long vân hay phong vân (gió mây) để chỉ sư. gặp gỡ tốt đẹp trong một cơ hội, như vua giỏi tôi hiền gặp nhau, hay thi đỗ, công danh thành đạt... 15\. Lập thân: lo cho thành người có sư. nghiệp giúp dân giúp nước. 16\. Lăm: rắp toan nhưng có ý quyắt tâm 17 Ven: bên, quyết bắn nhạn bên mây, nghĩa là muốn trổ tài để thỏa chí. 18\. Tôi: đây có nghĩa là học trò\. Tác giả dùng chữ tôi, tớ để chỉ học trò trong câu: Thầy đeo đoạn thảm tớ vương mối sầụ 19\. Báo hổ: báo đáp đền bù\. Hiển vang: hiển vinh\. ý nói: Làm người vừa phải lo đền ơn thầy học, ơn cha mẹ vừa phải lo xây dư.ng công danh sư. nghiệp của mình. 20\. Tai nàn: tai nạn. 21\. Khoa tràng (trường): chính nghĩa là trường thi, nơi thi cử, mượn dùng là việc thi cử hay kỳ thi cử\. Đây nói: xét theo số phận thì còn lâu mới thi đỗ. 22.Máy trời: do chữ Hán là "thiên cơ", cái lẽ huyền diệu của trờị 23\. Đục trong: dịch chữ Hán thường: thanh trọc, những thói hay dở ở đờị Trong truyện Lục Vân Tiên cũng như trong những văn thơ khác, Nguyễn Đình Chiểu thường dùng hai chữ đục, trong để hình dung một cách cụ thể đạo đức nhân nghĩa (trong) và bất nhân bất nghĩa (đục). 30\. Phong trần: gió bụi\. Danh từ này có ba nghĩa: 1) chỉ cõi đời rối ren hỗn tạp; 2)chỉ cảnh lữ khách gian khổ hay nói chung sư. gian khổ ở đời; 3)chỉ việc giặc giã loạn lạc\. ở đây dùng chỉ cõi đời rối ren, phức tạp và gian khổ. 31\. Phù thần: đạo bùa thiêng để hổ mệnh. 32\. Nghèo: hiểm nghèo, nguy hiểm. 33\. Hậu đàng: (hậu đường): nhà saụ 34\. Khoa kỳ: kỳ thi cử\. Đây nói thời kỳ thi đỗ. 35\. Đức bạc: đức mỏng, không được bao nhiêụ 36.Tài sơ: sơ là thô sơ, ý nói không giỏị 37.Công thư: công: chuyên làm một việc gì, công thư: chuyên vần vẳ sách vở. 38.Nên hư: do chữ Hán "thành bại", nhưng dùng nghĩa rộng hơn: cùng thông, bĩ thái, hay dở, tốt xấu v.v\... ở đây dùng như nghĩa hay dở. 39\. Minh: Rõ ràng. 40.Ngõ sau: ngõ hầu sau lúc ấỵ 41.Đăng trình: lên đường. 42.Án: Bàn đọc sách. 43.Vạn lý trường đồ: đường dài (xa) muôn dặm. 44.Tiểu sinh: học trò nhỏ tuổi, tiếng xưng hô khiêm tốn. 45.Song đường: cha mẹ, lấy ở chữ Hán "xuân đường" và "huyên đường" (chữ xuân ta quên đọc là thung, nhưng chính là âm xuân)\. Người ta thường gọi cha là "xuân đường" (nhà xuân) và mẹ là huyên đường (nhà huyên). 46.Tuổi hạc: Hạc là loài chim sống lâu, tiêu biểu tuổi già. 47.Âm hao: Tin tức. 48.Tiền đường: nhà trước, nhà trên. 49.Nhân cơ tàng sư.: nhân cơ hội coi trăng mà ngụ ý việc người trong lời nói bí ẩn để chỉ bảo Vân Tiên. 50.Khôi tinh: sao Thiên khôi\. Theo thuật số tử vi, sao Thiên khôi chủ về văn học, sao Tử vi chủ về thân mệnh người ta\. Cả câu ý nói: sao văn rạng lên, văn chương được nổi danh, nhưng sao mệnh lại mờ đi vận hạn gặp không may, đó là giải nghĩa theo chữ "lòa" là lu mờ\. Lòa còn nghĩa là sáng :Di, nên có người giải: văn tài đã rạng rỡ, thì thân phận cũng cao quí, nhưng xét đoạn văn, dưới có câu: Thỏ vừa ló bóng, gà vừa gáy tan (năm mão vừa học thành tài, năm dậu đã bị hoạn nạn), ngụ ý tài và mệnh tương phản với nhau, thì câu này cũng nên giải theo ý nghĩa tương phản, cái nọ tỏ thì cái kia mờ, để cho mạch văn được trên dưới hô ứng với nhaụ 52\. Theo cách tính năm, tính tuổi trong môn thuật số, ngư.a tiêu biểu năm "ngọ" , thỏ năm "mão", gà năm "dậu", chuột năm "tí", ám chỉ năm "nhâm tí"\. Ngư.a chạy đường xa: ý nói Thân thế Vân Tiên còn phải trải nhiều gian khổ, như con người, như con ngư.a còn phải chạy hoài trên khoảng đường xạ 53\. Bắc phang (phương): phương Bắc, tính theo thập can, thuộc về "nhâm" và "quí"\. Bắc phang gặp chuột: tức "nhâm" gặp "tí", ám chỉ năm "nhâm tí"\. Mấy câu này cụ thể hóa "máy trời" và việc coi trăng mà Vân Tiên chưa hiểu rõ\. Đại ý là: Vân Tiên tuổi ngọ, cái tuổi còn nhiều vận hạn, đến năm mão học thành tài đi lập công danh, nhưng năm dậu gặp tai nạn, phải đắ năm nhâm tí mới công danh trọn vẹn. Đối chiếu với tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu thì năm sinh nhằm năm nhâm ngọ (1822, tuổi ngư.a), năm thi đỗ là quý mão (1843, Thỏ vừa ló bóng), năm bị mù là kỷ dậu (1849 -gà đã gáy tan), đúng với sư. việc trong mấy câu này\. Trong Lục Vân Tiên, tác giả đã tư. thuật thân thế mình. 54.Tiền trình: bước đường trước mắt, tức là tương laị 55.Bĩ thái: 2 tên quẻ trong kinh Dịch, bĩ tượng trưng sư. cùng khốn, thái tượng trưng hanh thông, Bĩ cư.c thái lai: cái cùng đến hết mức thì cái thông trở lại, hết khổ đến sướng. 56\. Việc ai chớ sờn: chớ sờn lòng về việc làm của người đời (ám chỉ những việc lừa đảo, bất nhân của Trịnh Hâm và Võ công sau này). 57.Keo sơn: hai chất dẻo, dính dùng để gắn đồ vật\. Người ta thường dùng để chỉ sư. bẳn chặt khăng khít trong tình bạn bè\. ở đây có nghĩa là gắn bó đinh ninh. 58.Thiên các nhất phương: mỗi người một phương. 59.Tử lộ: tên của Trọng Do, một hiền triết đời Xuân thu, học trò Khổng tử, nhà nghèo, thường đội gạo thuê, lấy tiền nuôi mẹ. 60.Nhan Uyên: Nhan Hồi, tên tư. là Tử Uyên, một hiền triết đời Xuân thu, học trò giỏi nhất của Khổng tử, ông sống trong cảnh nghèo, (một giỏ cơm hầm, một bầu nước lã, ở nơi hang cùng ngõ hẻm) mà vẫn vui vẻ, dốc lòng học đạo\. Cả hai câu có ý nói: với những hành lý thanh đạm của nhà nho, Vân Tiên vui vẻ lên đường, không quản ngại dãi dầụ 61.Cá nước: Chỉ sư. gặp gỡ mà tương đắc với nhau, như cá với nước\. ở đây chỉ sư. thi đỗ, công danh thành đạt 62.Phỉ nguyền: thỏa lòng\. Cả hai câu ý nói: biết bao giờ cá nước gặp duyên, công danh thành toại, để con người trung hiếu sẽ làm rạng rỡ gia đình và thỏa chí giúp vua giúp nước. 63\. Tách dặm: rời bước trên dặm đường. 64.Xông sương: xông pha sương gió. 65\. Vơi vơi: nghĩa chính của tiếng Bắc là cạn bớt, cạn dần dần, hơi vơi\. ở đây, tác giả dùng theo tiếng miền Nam, nghĩa là thăm thẳm\. ở câu 234 "Dặm dài vơi vơi" câu 279 " vơi vơi đất rộng trời dài" dưới đây cũng như ở câu này, chữ "vơi vơi" đẳu dùng với nghĩa thăm thẳm, mênh mông\. Dặm cũ: tức dặm đường về nhà. 66.Lân gia: nhà hàng xóm\. Đây nói nhà ở gần đó. 67.Tiểu tử: chú bé\. Nhân dân thấy Vân Tiên ít tuổi nên gọi là như thế. 68\. Sơn dài: bọn cướp ở núi\. Có lẽ trên quả núi mà bọn cướp ở có cái đài, nên gọi là sơn đàị 69.Phân qua: bày tỏ quạ 70\. Thôn hương: thôn làng. 71.Lạnh lùng: tiếng miền Nam, ý nói dung nhan rất đẹp. 72.Thục nữ: người con gái có đức hạnh tốt, đoan chính dịu dàng. 73\. Thất phu: kẻ tầm thường, đâu là kẻ hèn mọn, thô bỉ. 74.Âu: tức ưu, là lo\. Chữ này là chính âm là ưu, ta đọc chệch là ưụ 75.Lôi đình: sấm sét. 76.Đinh: dừng lạị 77.Qua, bậu: tiếng miền Nam "qua" là ta, "bậu là "người", màỵ 78\. Họa hổ bất thành: vẽ hổ không nên hình\. Đây nói: Vân Tiên muốn giúp người, nhưng e rằng làm không nên việc, lại gặp tai nạn. 79.Hồ đồ: lờ mờ, không rõ ràng\. Đây nói không nghĩa lý chính đáng. 80.Bịt bùng: kín mít. 81\. Tả xung, hữu xông: đánh vào bên trái, xông sang bên phải\. Tung hoành trong trận. 82.Triệu Tử: chàng họ Triệu\. Triệu Vân tên là Tử Long, một tướng tài của Lưu Bị đời Tam quốc, một mình phá vòng vây của Tào Tháo ở trận Đương Dương bảo vệ được A Đẩu là con nhỏ của Lưu Bị. 83.Thân vong: thân mạng mất đi, tức là chết, nghĩa giống như chữ "mạng vong"\. Đây nói là chết bỏ thân. 84.Khôn phô: phô là bày ra\. ý nói trong xe chật hẹp, không để đứng lên để là lễ chào được. 85.Mang tai bất kỳ: thình lình gặp tai nạn. 86.Khuê môn: (quê môn) cửa phòng con gái\. Chữ khuê chính là âm quê (chữ khuê là sao khuê cũng thế)\. Khuê môn phận gái: việc của con gái là chỗ buồng the, không đi ra ngoàị 87\. Chưa hãn dạ này: tức dạ này chưa hãn, văn đặt đảo ngược\. Hán chưa rõ (tiếng miền Nam)\. Đây Vân Tiên nói: Lòng này nghi hoặc, chưa rõ sư. tình thế nàỏ 88.Tì tất: đày tớ gáị 89.Tây-xuyên: tên một tỉnh xưa ở phía Tây tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc), ở tỉnh An Giang (Châu Đốc) nước ta xưa cũng có quận Tây Xuyên. 90\. Hà Khê: trong nguyên từ điển Trung Quốc không có địa danh này\. ở tỉnh Hà Tiên nước ta trước kia có những huyện Hà Châu, Hà Âm, Hà Dương\. Có thể Nguyễn Đình Chiểu đã dư.a vào những tên ấy đã đặt ra tên Hà Khê chăng? 91\. Nghi gia: chính nghĩa là hòa thuận cửa nhà (nói người con gái khi về làm dâu)\. Đây chỉ việc lập gia đình, lấy chồng. 92.Bất bình: không thường, việc xảy ra trái ý mình. 93.Hay vầy: biết như thế này (thường dùng ở miền Nam). 94.Đăng trình: lên đường, cũng như thượng trình. 95.Quân tử: người có tài đức hơn người\. Trong khi xưng hô giữa nam với nữ, tiếng quân tử có nghĩa là "chàng" như "Trách người quân tử bạc tình" (Ca dao) "Đã lòng quân tử đa mang" (Truyện Kiều) 96.Tiện thiếp: người đàn bà hèn mọn\. Tiếng xưng hô khiêm tốn của phụ nữ ngày xưa\. Những danh từ quân tử và tiện thiếp chỉ thường dùng trong văn thư cổ. 97.Chút tôi: cái tôi nhỏ,cũng như tiếng chút thân,chút phận, cách nói khiêm tốn. 98.Đã phần: đã là phần của tôị 99.Báo đức công thù: đáp ơn đức, trả công laọ 100.Kiến ngãi (nghĩa)bất vi: thấy việc nghĩa không làm\. Sách Luận ngữ có câu: "Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã", nghĩa là thấy việc nghĩa không làm, không phải là người mạnh vậỵ 101.Phi anh hùng: chẳng phải anh hùng. 102.Thanh tao: trong trẻo 103.Phôi pha: nhạt đi, phai đi, kém vẻ đằm thấm, nhạt nhẽo lãnh đạm 104.Lục thị: họ Lục 105.Thuyền quyên: cái trạng thái tốt đẹp dễ coi, nói chung cả người và vật (như hoa, cây, trăng v.v...)\. Ta thường dùng để chỉ người "phụ nữ đẹp" hay người "phụ nữ" nói chung 106.Tri âm: hiểu biết tiếng đàn\. Nghĩa rộng là người biết mình, hiểu rõ mình, người bạn chí tình. 107.Thìn: tiếng miền Nam cũng như giữ gìn.
__________________
(¯`°•.¸¯`°•.¸ •:*´¨¨`*:•. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ VINA NET-WORK nằm lòng Lập ra là để cho người mua vui Đời như con nước ngược xuôi Nó trôi trôi mãi lênh đên giữa dòng Ví như phận gái đục trong Mười hai bến ấy long đông chãy hoài Thôi thì mời gái mời trai Mời anh mời chị vào chơi diễn đàn...(¯`°•.¸¯`°•.¸ •:*´¨¨`*:•. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ ¸.•'´¯.•:*´¨•:*´¨¨`*:•:*´¨¨`*: ??. .¯`'•.¸ \*/ |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|