Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #11  
Old 06-13-2005, 04:11 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

- Nghe đồn Bao đại nhơn đoán việc như thần. Chắc đại nhơn xem con ngỗng biết là nó biết nói nên đem về Nha đặng nó khai ai gian ai ngay bác nhỉ?
Bác cai già cũng chẳng biết nói sao chỉ ừ à cho xong chuyện.
Sáng hôm sau, Bao Công ra sân truyền lính nhắc lồng ngỗng lên để ông coi. Chú lính lệ mới, núp bên hông nhà dòm ra, thấy Bao Công khom khom nhìn xuống mặt đất, nhìn đáy lồng một lát, rồi lại nghe thấy Bao Công bảo bác cai già:
- Thôi để lồng xuống, cấm không được dọn dẹp vội.
Lại thấy Bao Công quay ra gọi thơ lại sắp giấy bút để ông làm án.
Chú lính trẻ tuổi lấy làm lạ lắm bèn đón đường chú cai già và hỏi:
- Con ngỗng nó làm gì thế hở bác?
Bác cai già đáp:
- Thì nó bậy đầy ra đó chứ chú còn muốn nó làm gì nữa? Khi nào quan truyền dọn chỗ ngỗng bậy thì chú mày mở mắt cho to mà quét cho sạch. Phân ngỗng này xanh lè dọn không kỹ nó lẫn với rêu xanh ở mặt gạch, quan mà thấy thì mày ăn đòn đau.
Chú lính trẻ ngây thơ hỏi:
- Thế con ngỗng nó không nói chi với quan hở bác? Sao hồi hôm bác bảo nó biết nói mà.
Bác cai già bực mình, gắt:
- Thì mày ra mà nghe nó nói, hỏi chi tao?
Chú lính trẻ tưởng thật lén ra bên lồng ngỗng ngồi thụp xuống thò 2 ngón tay qua nan lồng gãi gãi đầu ngỗng và hỏi nhỏ:
- Ngỗng! Ngỗng! Thằng Tài và thằng Lộc đứa nào gian ngay nói cho ta biết đi ngỗng.
Chẳng thấy ngỗng trả lời, chú lính trẻ lại chọc vào đầu nó và hỏi lại như trên. Chẳng dè lần này chọc mạnh quá, ngỗng hoảng sợ chạy kêu “cà kíu, cà kíu” nghe điếc cả con ráy.
Có tiếng Bao Công quát vang như sấm từ trong công đường vọng ra:
- Đứa nào láo vậy?
Chú lính trẻ nhà ta hết hồn co giò lên cổ chạy mất hút vào sau dinh.
Một lát sau, trống hầu thong thả điểm một hồi. Cửa nha từ từ mở rộng. Bộ ba ông Bá, Trương Tài và Chiêu Lộc kéo nhau vào sân chờ trình diện Bao Công
Lính lệ vào bẩm, Bao Công truyền cho dẫn 3 người đến trước công đường.
Bao Công nhìn Trương Tài và biểu:
- Con ngỗng hôm qua đúng là của Chiêu Lộc.
Trương Tài cãi liền:
- Hôm qua, ai cũng biết là ngỗng của tôi, nay Thượng quan lại nói ngược, bảo là ngỗng của Chiêu Lộc, thiệt là ức cho tôi lắm. Xin quan xét lại.
Bao Công cả giận đứng phắt dậy chỉ mặt Trương Tài quát vang như sấm:
- Mi nuôi ngỗng ở thành thường cho nó ăn gì?
Trương Tài sợ lắm nhưng thu hết can đảm đáp:
- Cũng như những người khác ở thành, chủ tôi nuôi nó bằng lúa vì không sẵn cỏ vì vậy nó mới béo.
Bao Công lại quát hỏi:
- Phân nó màu gì?
Trương Tài bẩm:
- Dạ, màu vàng.
Bao Công lại hỏi:
- Mi từng ở ruộng tất biết ở miệt quê người ta thường nuôi ngỗng bằng gì? Có cho ăn lúa không?
Trương Tài thưa:
- Dạ, thường thả nó ngoài đồng thành bầy cho mò ốc, ăn cỏ, ăn rau chứ không cho ăn lúa.
Bao Công hỏi tiếp luôn:
- Phân nó ra sao? Màu gì?
Trương Tài dường như chợt hiểu dụng ý của Bao Công, lúng túng chưa trả lời thì Bao Công đã hỏi dồn:
- Phân nó màu gì? Sao hỏi không nói, bộ mày điếc hả.
Trương Tài đáp:
- Dạ phân mềm, màu xanh.
Bao Công không thèm ngó Trương Tài nữa, ông quay lại bảo viên cai già:
- Lôi cổ nó ra, nhấc lồng ngỗng lên cho nó coi con ngỗng hồi hôm bậy phân gì? Vàng hay xanh?
Hai người lính xáp vô lôi Trương Tài ra sân nhấc lồng lên cho coi đoạn lại dẫn trở vô.
Bao Công hỏi:
- Mi có nhìn đó là ngỗng nuôi ở đồng quê và của Chiêu Lộc mà mi ăn cắp không?
Trương Tài đáp:
- Dạ đúng là ngỗng nuôi ở quê nhưng không phải là của Chiêu Lộc! Bởi nếu là của Chiêu Lộc tại sao nó lại không nhập bầy bữa qua?
Bao Công trợn tròn mắt, lông mày dựng ngược lên và ông la:
- Mày xảo trá đem ngỗng nhúng nước cho ướt lông rồi lấy bùn trét lèm nhèm, chừng lúc thả trở lại, bầy ngỗng thấy lạ tất phải cắn rượt không cho nhập bầy. Mi tưởng ta không biết sao?
Trương Tài cứng họng, hết đường chối cãi.
Bao Công dạy lính vật Trương Tài ra đất, nện cho 20 côn rồi đuổi về.
Rồi ông truyền trả lại con ngỗng cho Chiêu Lộc sau khi khen nó tinh mắt có óc nhận xét và nhất là biết giữ của người ta đã tín nhiệm giao phó cho mình trông coi.
LỜI BÀN
Trong vụ án con ngỗng, Trương Tài can tội lấy trọm ngỗng của ông Bá. Ngày nay, Trương Tài cũng bị buộc vào tội trộm hay đạo thiết.
Đạo thiết tức là lấy một cách gian lận một đồ vật do người khác làm chủ. (điều 379 Hình Luật Canh Cải).
A.- BỐN YẾU TỐ THÀNH TỘI:
Muốn khép một người vào tội đạo thiết phải xem có đủ 4 yếu tố sau đây:
Yếu tố thứ nhất: Can phạm đã chiếm đoạt đồ vật trái với ý muốn của người chủ đồ vật hay khi người này không hay biết. Nói rõ ra can phạm phải có ý định chiếm đoạt, lấy của người khác làm của mình.
Trường hợp người bán hàng không chịu giao đồ vật mà người mua đã trả tiền rồi, thì không có phạm tội đạo thiết vì đồ vật vẫn ở trong tay người bán (vậy không có sự lược thủ đồ vật) còn số tiền thì do người mua thỏa thuận đưa cho bán (vậy cũng không có sự lược thủ số tiền).
Yếu tố thứ hai: Đồ vật phải có tính cách có thể bị lấy trộm được nghĩa là có thể mang đi được.
Hễ nói đồ vật dĩ nhiên là hữu hình rồi, nhưng hơi điện tuy là vô hình nhưng án lệ công nhận tội ăn cắp hơi điện.
Yếu tố thứ ba: Đồ vật lấy trộm phải là do người khác làm chủ.
Của vô thừa nhận hay chưa bị ai chiếm làm của riêng tư thì mình lấy được mà không sợ phạm tội đạo thiết, chẳng hạn như… chim trong rừng!
Nhưng nếu lượm đồ bỏ rơi ngoài đường thì lại bị án lệ coi là phạm tội đạo thiết.
Yếu tố thứ tư: Can phạm phải có gian ý nghĩa là y biết đồ vật ấy không phải của y mà cứ chiếm đoạt làm của riêng. Nếu y không có gian ý thì tội đạo thiết không thành tựu.
B.- ĐẠO THIẾT THƯỜNG VÀ ĐẠO THIẾT ĐẶC XƯNG:
Người ta cũng lại phân biệt đạo thiết thường (voi simple) và đạo thiết đặc xưng (vol qualifié).
Đạo thiết đặc xưng là trộm trong những trường hợp gia trọng do luật định. Tội trạng sẽ biến thành đại hình và bị trừng trị bằng những hình phạt đại hình.
Theo điều luật 381 Hình Luật Canh Cải, có bốn trường hợp gia trọng là:
1) đạo thiết ban đêm (gia trọng thuộc thời gian)
2) gia trọng vì địa điểm: vô ăn trộm trong nhà dùng để ở hay nhà phụ thuộc dù có người ở thực sự hay không, vườn đất có rào xung quanh v.v…
3) gia trọng vì phương pháp sử dụng để ăn trộm. Thí dụ: trèo, bẻ khóa, cậy phá, mang theo võ khí, đánh gia chủ, giả danh nhà chức trách v.v…
4) gia trọng do tư cách phạm nhân. Thí dụ: gia nhân đầy tớ trộm của chủ; thợ trộm đồ trong xưởng; chủ quán trộm đồ của khách; chủ xe đò trộm đồ của khách giao cho v.v…
Khi một hay hai trường hợp gia trọng này kết hợp với nhau như luật đã định thì tội lại nặng thêm lên.
C.- CÁC HÌNH PHẠT:
Về đạo thiết thường, can phạm bị phạt từ 1 đến 5 năm tù và có thể bị phạt vạ.
Về đạo thiết đặc xưng, các điều 381 đến 386 HLCC đã ấn định những hình phạt như khổ sai chung thân, khổ sai hữu hạn, tội đồ… tùy theo trường hợp.
D.- NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC MIỄN:
Chồng trộm của vợ, vợ trộm của chồng, con cháu trộm của cha mẹ ông bà, con rể trộm của cha mẹ vợ… thì không bị tội. Người bị mất trộm chỉ có thể đệ đơn trước Tòa Hộ xin bồi thường mà thôi. Luật gọi những trường hợp này là đặc miễn.
Cần để ý là chỉ can phạm được hưởng sự đặc miễn còn kẻ đồng phạm và tòng phạm vẫn bị truy tố.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 06-13-2005, 04:13 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 05

AI GIẾT CON ÔNG HÀNG THỊT?


Ngày xưa, ở huyện Hiếu Cẩm, thuộc phủ An Đức bên tàu, có cậu Hứa Hiến Trung, bảnh trai rất thông minh con nhà khá giả, được cha mẹ cho trọ tại phố huyện để theo đuổi sự học hành.
Năm 18 cậu đã đậu Tú tài. Theo tục lệ thời đó, học trò đậu Tú tài được mặc áo dài xanh, và Tú Trung nhà ta cũng có cái vinh dự đó. nhà giàu, học giỏi, đẹp trai, ba yếu tố mà nhiều cô gái mơ tưởng nơi người bạn trăm năm tương lai, Tú Trung đều có cả.
Tuy được trời và đời ưu đãi như thế, song Tú Trung vẫn nhã nhặn, lễ độ và chăm chỉ dọn thi Cử Nhân. Cho nên con người tài ba ấy là mục tiêu số một của các gia đình trong phố huyện có con gái tới tuần cặp kê.
Nói cho ngay, Tú Trung không phải là sắt đá gì mà không thấy trái tim rung động, cõi lòng rộn rã khi bắt gặp những cái nhìn trìu mến của những cô gái đang độ trăng tròn lẻ, nhưng nhờ xã hội thời bấy giờ rất nghiêm khắc đối với tuồng tiền dâm hậu thú nên việc trai gái bậy bạ, ngoài vòng lễ giáo là chuyện ít xảy ra. Hơn nữa những kẻ sĩ như Tú Trung mà làm chuyện thương luân bại lý, một khi đổ bể thì ngoài các trừng phạt về hình sự còn bị mất chức Tú tài do quyết định của quan Đốc Học. Xã hội thời đó còn khắt khe hơn nữa đối với kẻ manh danh biết chữ Thánh hiền: nếu gây điều tai tiếng đáo tụng đình thì dù có trắng án kẻ học trò ấy cũng bị lột chức khoa bảng trừ khi được quan Đốc Học tha cho, chiếu lời xin của vị quan xét xử vụ án.
Tuy nhiên mãnh lực của tình yêu hay của những đòi hỏi về thể xác đôi khi cũng xô đẩy những kẻ không tự kiềm chế nổi, phá vỡ hàng rào luân lý, phong tục để rơi vào đường tội lỗi.
Đối diện nhà Tú Trung trọ học, là ngôi nhà có lầu của ông bà Tiêu Phụ Hớn. Cặp vợ chồng này mở tiệm bán thịt nên suốt ngày bận lo làm ăn, không có thì giờ chăm sóc đến con gái duy nhất năm nay tuổi vừa 16, mắt đen nhánh, môi đỏ :Dt như son, mặt mũi xinh xắn, tên là Tiêu Thục Ngọc.
Vợ chồng Tiêu Phụ Hớn ở căn phòng phía sau cửa hàng, còn nàng Thục Ngọc được cha mẹ cho ở một mình trên lầu có cửa sổ trông xuống đường. Nhờ cha mẹ có của ăn của để nên Thục Ngọc cả ngày chỉ quanh quẩn trong phòng the, may vá thuê thùa.
Làm bạn với mũi kim sợi chỉ suốt ngày cũng chán, nên thỉnh thoảng nàng lại đến bên cửa sổ vén rèm nhìn xuống đường coi người qua lại. Từ ít lâu nay nàng thấy tâm hồn thay đổi và nàng bắt đầu để ý đến Tú Trung chàng thư sinh đẹp trai tài giỏi ở đối diện nhà nàng mà cha mẹ nàng trong bữa ăn thường hay nói đến và không tiếc lời khen nào là ngoan ngoãn, học giỏi, diện mạo khôi ngô, sau này sẽ đỗ đạt làm quan to. Có một hôm nàng nấp trong rèm nhìn trộm Tú Trung lúc chàng ở trong nhà đi ra. Chợt Tú Trung ngước mắt nhìn lên, Thục Ngọc hốt hoảng lùi lại, đầu đụng phải cái bánh xe bằng gang treo ở xà nhà nghe đau điếng một bên đầu. Nàng bưng đầu đi vội về giường nằm vật xuống miệng hít hà ra chiều đau đớn lắm. Một lúc sau, cơn đau đã dịu, nàng ngước nhìn lên mái ngói. Nàng có cảm giác như bị úp trong một cái nón lớn và tự nhiên bực mình với lối kiến trúc mà nàng cho là kỳ cục. Nhà cửa gì mà thấp lè tè.
Từ dưới đất lên đến mặt sàn gác một người lớn giơ tay với tới. Phía trước lầu có trổ 1 cái cửa sổ hình tròn, cách mặt sàn độ 2 gang tay, không có chấn song chỉ có hai cánh cửa gỗ hình bán nguyệt mở ra ban ngày, đóng lại ban đêm. Phía trong cửa hình mặt nguyệt này có che một bức màn the xanh. Mỗi khi muốn ra bên cửa sổ nhìn xuống đường cho đỡ buồn, Thục Ngọc phải cúi lom khom lại gần chiếc cầm đôn gần bên cửa sổ, để khỏi bị đụng đầu vào mái nhà.
Còn cái bánh xe bằng gang treo ở xà nhà thứ tư đếm từ cửa sổ vào, do cha mẹ nàng cho gắn từ lâu để kéo các rương đựng đồ quý giá từ dưới nhà lên lầu hay từ trên lầu xuống dưới nhà. Nàng còn nhớ hồi nhỏ, có một bữa gần Tết cha nàng mở nắp ván đậy chỗ khoét lớn bằng cái bàn trên sàn gỗ, rồi thòng dây qua bánh xe gang để chuyển một rương quần áo xuống nhà. Cột xong rương quần áo cha nàng bảo người cậu nàng hôn đó được gọi đến làm giúp kéo bổng rương thả từ từ xuống còn ông thì xuống trước đón. Thục Ngọc lúc ấy lên chín mười tuổi chi đó, đứng bên cậu thấy hay hay bèn bảo người cậu cho ngồi trên rương mà xuống. Gặp người cậu cũng tinh nghịch bằng lòng cho cháu ngồi lên rương níu lấy dây để cậu thả xuống. Thục Ngọc thấy mình như bay từ trên lầu xuống nên thích lắm cười như nắc nẻ.
Mẹ nàng hoảng hốt la bai bải thì rương cũng vừa chạm mặt đất. Thục Ngọc bị mẹ nàng đánh cho mấy roi đau điếng. Còn người cậu bị cha mẹ nàng rầy la ầm ĩ. Lát sau nàng lại lỏn lên gác xem người cậu rút rương quần áo lên. Nàng thấy công việc cũng chẳng khó khăn gì nhờ đầu dây trên lầu được cột vào một trục gỗ có nấc hãm hễ kéo đến đâu thì nấc hẽm giữ đến đấy nên lúc kéo lên hay lúc thả xuống cũng không sợ tuột tay. Cũng nhờ vậy mà ai cũng có thể kéo được một vật nặng gấp hai ba lần mình mà không thấy mệt nhọc. Từ 2 năm nay cha mẹ Thục Ngọc nói rằng nàng đã lớn nên giao hết chìa khóa rương tủ trên lầu cho nàng, hễ có muốn lấy gì xuống hay đem đồ lên, mẹ Thục Ngọc sai con gái lo liệu lấy, bà khỏi phải bận tâm đến nữa. Và cũng vì thế mà cái bánh xe bằng gang trở thành vô dụng, nhất là từ cái bữa cha Thục Ngọc tháo cuộn dây thừng đem xuống nhà dùng vào việc khác.
Nói về Tú Trung tuy ở căn nhà đối diện với lầu Thục Ngọc chỉ nghe nói trên đó có con gái ông hàng thịt nhưng phần thì cho rằng nàng còn nhỏ tuổi và phần thì cũng chẳng thấy nàng ra ngoài mấy khi, nên Tú Trung cũng không để ý.
Nhưng ít lâu nay mỗi sáng cắp sách ra cửa đi học, chàng có cảm giác như bị nhìn trộm. Ngước lên lầu Thục Ngọc thì thấy có bóng người con gái thấp thoáng sau màn the xanh.
Lúc đầu, Tú Trung cho là sự tình cờ nhưng sau thấy sáng nào người con gái cũng ngồi nhìn mình qua rèm thì Tú Trung đánh bạo nháy mắt, mỉm cười ra chiều khuyến khích.
Một sớm mai, hai sớm mai, ba sớm mai… rồi một buổi sáng nọ, trong ánh nắng tưng bừng rực rỡ của buổi ban mai, nguồn sống mãnh liệt như dâng lên trong vạn vật, tấm rèm trên lầu Thục Ngọc lay động mạnh rồi một bàn tay búp măng, trắng nuốt, mềm mại nhẹ nhàng hé rèm. Khuôn mặt trái xoan của nàng Thục Ngọc hiện ra giữa hai tấm màn the xanh màu hy vọng. Đôi mắt đen nháy của nàng như trìu mến như tha thiết. Đôi môi xinh xắn nở một nụ cười tươi như đóa hao giữa mùa xuân. Mái tóc huyền đổ xuống hai vai như có mãnh lực hấp dẫn kẻ nhìn càng thêm say đắm. Oâi, đẹp, đẹp tuyệt trần là đẹp, khiến Tú Trung bàng hoàng, ngây ngất.
Người đẹp lại khẽ cúi đầu, nửa như muốn chào nửa như e lệ.
Thế rồi từ bữa đó trở đi, chàng và nàng, kẻ trên lầu người dưới đường, ngày ngày trao đổi nụ cười khóe mắt. Mối tình đầu càng thêm thắm thiết.
Tú Trung tìm đủ mọi cách để gần người yêu mà chẳng được. Từ một tháng nay chàng sao lãng cả việc học hành, ngày đêm chỉ tính sao được vai kề vai cùng Thục Ngọc giãi bày tâm sự tỏ nỗi nhớ thương. Nhưng chàng tốn công vô ích, vì cha mẹ Thục Ngọc tuy là người làm ăn buôn bán nhưng lại bắt chước nhà quý phái cấm cung con gái trên lầu. Một năm có lẽ Thục Ngọc chỉ ra đến ngoài đường vài lần: đêm giao thừa để đi lễ chùa hái lộc, sáng mùng Một để đi chúc Tết họ hàng hai bên nội ngoại và thỉnh thoảng đi dự cưới xin, ma chay mà thôi. Mỗi chuyến đi ra của Thục Ngọc đều được cha mẹ nàng coi như một cuộc “hành quân” nhỏ: Sợ những chàng trai “phục kích” chọc ghẹo Thục Ngọc, nên bà cụ bao giờ cũng đích thân hướng dẫn con đi, lại còn cẩn thận đem theo người tớ gái mà bà ưng ý nhất để đi tập hậu cho chắc ăn. Nói là người tớ gái ưng ý nhất vì hai lẽ. Aû này vốn là cháu họ của bà lại được cái trời phú cho một thân hình đồ sộ, ngón tay nhỏ hơn trái chuối cau một chút, chân đi nhẹ tựa hình voi bước. Cụ bà cũng lại thường khen nó có giọng thanh thanh tựa lõ la, nhỡ có động dạng gì nó quạt một tiếng cũng đủ để kẻ gian hết hồn bỏ chạy. Người ta nói dòng dõi người Mông Cổ. Thảo nào.
Sau khi dò hỏi biết đích như vậy, Tú Trung sinh ra buồn bã vô cùng. Thật là khó lòng mà đến gần được người yêu.
Bỗng một sáng như thường lệ chàng ra đi học nhìn lên lầu Thục Ngọctha61y cửa sổ đóng kín mịt. Chàng bần thần, lo lắng vô cùng. Chợt chợt nhớ cách đây mấy bữa chàng thấy có nhiều người dáng chừng là bà con với gia đình Thục Ngọc tới lui trò chuyện cùng cha mẹ nàng, Tú Trung giật mình lo sợ không hiểu có chuyện chi không hay xảy ra cho gia đình người yêu chăng?
Chàng bèn trở vô nhà, nói dối là bị đau bất thần nên phải nghỉ học buổi nay. Suốt sáng chốc chốc chàng lại ra cửa nhìn lầu Thục Ngọc rồi lại nhìn vào cửa hiệu của cha mẹ nàng để dò xét. Uûa, sao kỳ vậy, sáng nay mẹ Thục Ngọc không ra cửa hàng phụ giúp chồng. Thục Ngọc đau hay mẹ nàng đau chăng?
Không có cách nào để biết được tin tức của Thục Ngọc, Tú Trung thở dài sườn sượt, mặt mày buồn xo, đứng ngồi chẳng yên, lòng như lửa đốt.
Ngày hôm ấy rồi đến chiều hôm sau, cửa sổ trên lầu Thục Ngọc vẫn đóng chặt. Chàng ngồi yên lặng hằng giờ bên cửa ra vào, mắt hướng ra đường như ngóng đợi… Đến lúc người nhà kêu đi ăn cơm chiều, chàng uể oải ngồi vào bàn ăn bậy lưng chén cơm cho có lệ.
Buông bát đũa xuống bàn, Tú Trung chậm chạp đứng dậy ra sân sau rửa mặt. Đoạn chàng mở cửa hậu, men theo cái hẻm nhỏ, chạy dọc theo hông nhà ăn thông qua mặt tiền phố Tú Trung ở.
Đi gần hết hẻm chút nữa thì chàng té vì vấp phải cái thang tre để nằm dưới đất. Vẫn cái này là của mấy người thợ nề đang sửa sang lại nhà bên cạnh từ mấy bữa nay. Cứ chiều đến họ thu dọn về nghỉ thì lại đem thang ra hẻm để nằm dựa vào chân tường nhà. Chắc vừa rồi có ai đi qua sơ ý đụng phải nên thang lật ra và nằm trên lối đi. Tú Trung chắc lưỡi toan bước xéo qua bên mà đi nhưng chàng nghĩ rằng trời sắp tối rồi nếu cứ để vậy sợ e lát nữa người khác vấp phải té lọi xương không chừng. Cho nên chàng lom khom dựng lại cái thang tre sát vào chân tường rồi cẩn thận lấy hòn gạch chẹn cho khỏi lật.
Đoạn Tú Trung phủi tay cho sạch và lững thững đi ra đầu hẻm đứng. Từ chỗ ấy không có thể dễ dàng nhìn lên lầu Thục Ngọc mà không bị ai để ý. Lát sau, thấy trời đã nhá nhem tối, Tú Trung bèn ra đường đi chầm chậm ngang qua hiệu thịt của cha mẹ Thục Ngọc dòm vào có ý dò la nhưng vẫn chỉ thấy có một mình cha người yêu đang lo dọn dẹp đóng cửa hiệu để nghỉ.
Lòng bâng khuâng tràn ngập một niềm nhớ nhung Thục Ngọc vô tả, Tú Trung thẫn thờ đi thẳng ra đầu phốn huyện, quẹo qua tay mặt, ra bờ sông cho vơi cơn sầu.
Chàng đi xuống con lộ nhỏ chạy giữa hai dải đất cao, ra phía sông. Ông già bà cả thường kể lại là con lộ đó nguyên trước là lòng một con sông nhánh nay đã cạn, mà bằng chứng rõ rệt là ngày nay còn lại chiếc cầu đá bắc qua lộ.
Tú Trung tách khỏi lộ theo con đường mòn đi lên gò phía tay trái. Trên đỉnh gò có một bãi đất bằng phẳng trên cất một ngôi chùa nhỏ gọi là Quan Aâm Các, không biết dựng lên từ đời nào mà nay đã hư nát quá nên bỏ phế đã lâu.
Dọc theo hông chùa có con đường nhỏ chạy xuống chiếc cầu đá. Chính giữa cầu có cất một cái nhà nhỏ bằng cây còn tốt, tên là Nguyệt Kiều Viện trước dùng làm đền cúng thần cầu, thần sông chi đó nhưng từ ngày sông nhánh cạn thì ngôi đền cũng bỏ hoang.


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 06-13-2005, 04:13 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tú Trung toan lần xuống ngồi lên thành cầu nhưng lại thôi và chàng đi ra phía trước chùa ngồi vì chàng chợt nhớ rằng vài tháng nay mới có một gả nghèo túng tên là Minh Tu tuổi đã 40 không biết từ đâu trôi dạt về đây được dân trong vùng thương tình cho trú ngụ tại Nguyệt Kiều Viện. Minh Tu thường ngày đi rảo quanh khắp các nhà xem có ai cần đến thì vào phụ giúp đổi lấy bữa cơm.
Chiều nào hắn cũng ghé qua mấy ngôi chùa ở phía dưới chợ dọn dẹp dùm và được các vị hòa thượng cho ăn tử tế, đôi khi còn cho quần áo và chút đỉnh tiền nong nữa. Bởi vậy, đêm đêm cứ cuối canh một, đầu canh hai (vào khoảng 10 giờ khuya) Minh Tu mới đi phía dưới chợ đi về Nguyệt Kiều Viện nghỉ, vai y đeo cái túi nhỏ trong đựng mấy thứ đồ dùng và một con dao nhỏ mũi nhỏ lưỡi thật bén mà hễ gặp đám giỗ chạp, quan hôn tang tế, y thường đem ra để chọc tiết heo, cắt cổ gà vịt rất mau lẹ và khéo léo, ai cũng khen.
Trông bộ vó hắn có vẻ hung tợn nhưng lại nhát gan và thứ nhất hay sợ ma quỷ, nên ban đêm trên đường về nhà, đi được vài bước y lại gõ “cốc cốc” vào cái mõ của nhà chùa bỏ đi mà hắn xin được. Có người hỏi hắn sao lại làm thế, hắn ngiêm giọng đáp: “Để đuổi tà ma quỷ quái”. Mới đầu người ta còn bàn ra tán vào nhưng rồi mọi người cũng quen tai và hễ cứ nghe thấy “cốc cốc” nổi lên là biết đã sang đầu canh hai.
Nói về Tú Trung ngồi nghĩ ngợi mung lung trước chùa…
Màn đêm buông xuống đã từ lâu, tinh tú lấp lánh đầy trời, quanh quẩn đâu đây con cú mèo buông ba tiếng rời rạc và buồn thảm. Bỗng có tiếng soạt soạt nổi lên từ bụi rậm gần đó khiến Tú Trung giật mình, tan giấc mơ màng. Chàng đứng dậy lần theo đường cũ về nhà. Tới phố huyện nhà nhà đều leo lét ánh đèn dầu lạc, Tú Trung chậm chạp đi bên đường lót đá, chốc chốc lại nhìn về phía trước, nơi lầu Thục Ngọc. Còn 3 nhà nữa thì đến lầu người yêu. Tú Trung giật mình, dụi mắt ngỡ mình chiêm bao. Rõ ràng cửa lầu Thục Ngọc mở rộng, có ánh đèn le lói lại như có bóng người con gái thấp thoáng bên rèm. Chàng bước nhanh tới trước nhà nhìn lên thì vừa lúc ấy Thục Ngọc cũng quay gót đi vô bên trong.
Tú Trung đứng chết trân một lúc, chàng toan cất tiếng gọi song chợt thấy nguy hại nên lại thôi.
Tú Trung đứng tựa cửa nhà mà nhìn sang lầu Thục Ngọc như thế bao lâu, chàng cũng không rõ, chỉ khi biết người bà con cho chàng trọ học mang đèn ra soi lại cửa ngõ, gọi chang vào ngủ, chàng mới hay là đã khuya rồi.
Tú Trung sợ người nhà nghi ngờ vặn hỏi nên chàng ngoan ngoãn trở vô nhà, leo lên giường nằm. Chàng ngồi lên nằm xuống mấy phen, chân tay bứt rứt khó chịu vô cùng. Chung cuộc, Tú Trung nhất quyết phải gặp mặt Thục Ngọc ngay đêm nay. Giờ phút này chàng mới nhận thấy chàng đã yêu Thục Ngọc, yêu say đắm, yêu thiết tha.
Nhưng làm thế nào để gặp Thục Ngọc bây giờ? Nằm suy nghĩ một hồi Tú Trung bỗng vỗ trán đánh đét một cái và ngồi nhỏm dậy, lẩm bẩm nói: “Có thế mà tính mãi chẳng ra”.
Người bà con của Tú Trung đang lo dọn giường phía ngoài để đi nghỉ, nghe vậy mới cất tiếng hỏi:
- Gì vậy cậu?
Tú Trung thản nhiên đáp:
- Cháu vừa đánh được con muỗi to. Bữa nay nóng nực quá, bác cho cháu ra ngoài ngủ ở cánh phản phía hiên sau nhé.
Người bà con đáp gỏn lọn: cái đó tùy cậu.
Được lời như cởi tấm lòng, Tú Trung bèn vác chăn gối, mùng mền ra ngủ sau nhà.
Chừng khi nghe tiếng ngáy quen thuộc của người bà con nổi lên đều đều, Tú Trung lẹ làng ngồi dậy thả chân xỏ vào đôi dép để dưới chân giường đoạn chàng rón rén qua sân đến gần cửa nhỏ bên hông nhà, khẽ nâng chốt hãm rồi hé cửa lách ra ngoài hẻm. Tú Trung cẩn thận lấy dây cột cửa lại cho gió khỏi đập đoạn chàng men theo hẻm mà ra đến ngoài lộ.
Chàng mừng rỡ vô cùng khi thấy trên lầu Thục Ngọc còn ánh đèn. Tú Trung đưa mắt nhìn quanh: đường phố vắng tanh, nhà nhà đều đóng cửa tắt đèn đi ngủ hết. Chàng lùi vào trong hẻm đến gần cái thang tre, cúi xuống nhắc hòn gạch chèn ra đoạn nhắc bỗng thang tre đi ra.
Tú Trung vừa vác thang ra đến đầu hẻm chàng bỗng đứng sững lại vì vừa lúc đó từ phía dưới chợ có tiếng mõ đưa tới mỗi lúc một gần. Chàng vội vã lùi vô đặt thang tre xuống đất rồi trở ra nép bên hông nhà ló đầu nhìn về phía chợ.
Chàng lẩm bẩm: “Chút nữa bị lão này bắt gặp thì phiền quá”.
Tiếng mõ mỗi lúc một gần. Rồi một người đi ngang qua hẻm Tú Trung đang nấp. Tú Trung lẩm bẩm: “Minh Tu”.
Phải, đúng đó là Minh Tu, mỗi đêm cứ vào đầu canh hai từ phía dưới chợ đi về Nguyệt Kiều Viện nghỉ.
Chờ cho tiếng mõ xa dần Tú Trung mới chạy thụt vô hẻm vác thang băng qua lộ rồi đem dựng theo mặt tiền nhà Thục Ngọc mà leo lên lầu. Tới cửa sổ chàng dòm qua màn the thấy Thục Ngọc bận quần áo lụa màu hường ngồi trên giường dựa lưng vô vách đang lơ đãng nhìn lên trần nhà, tóc huyền xõa xuống ngang vai, trông nàng lúc này mới kiều diễm lộng lẫy làm sao. Trên chiếc bàn kê gần đầu giường hai ngọn bạch lạp đang bừng bừng cháy.
Đảo mắt quanh phòng, không thấy có ai, Tú Trung mừng rỡ vô cùng bèn vén màn the khẽ cất tiếng gọi: “Thục Ngọc, Thục Ngọc, Tú Trung đây”.
Thục Ngọc giật bắn người quay ra phía cửa sổ, hai tay nàng chặn vội lên ngực.
Khi nhận ra là Tú Trung, Thục Ngọc hớn hở vùng đứng lên và không kịp xỏ chân vào hài, nàng chạy ra cửa sổ, nắm tay Tú Trung kéo đại vô phòng. Nàng cho chàng hay vừa cùng mẹ về quê thăm bà ngoại đau nặng.
Hai ngọn nến vụt tắt. Căm lầu chìm trong bóng tối… Sau vài tiếng sột soạt nhẹ nhàng người ta chỉ nghe thấy tiếng thì thào của đôi trẻ rồi một hai tiếng cự nự khe khẽ của Thục Ngọc. Một chú cắc kè nấp đâu đây chừng ghen tuông với Tú Trung nên bực mình gáy một tràng dài.
Tiếp đó trong chòm cây sau nhà, một bác cú mèo buông ba tiếng nghe như tiếng hừ hừ của một nha mô phạm bất bình trước cảnh thuần phong mỹ tục bị chà đạp…
Khi gà gáy tiếng gáy sáng lần đầu, cảnh vật còn chìm trong bóng tối, Tú Trung sửa soạn ra về. Nghe tiếng gà gáy từa tựa như nói rằng: “Đời chỉ có thế mà thôi” Thục Ngọc rụng rời ôm choàng lấy người yêu rồi khóc mà nói rằng:
- Thiếp chỉ sợ chàng không giữ lời thề, chơi hoa rồi lại tìm đường tháo thân. Chàng là người đàn ông đầu tiên trong đời thiếp. Nếu chàng bỏ thiếp, thiếp sẽ mượn khúc dây kết liễu cuộc đời, thiếp quyết chẳng chịu ôm cầm thuyền khác. Dầu sao cớ sự đã đến nước này, thiếp xin chàng hãy mau nhắn mẹ cha ở vườn lên thu xếp cưới hỏi cho xong.
Nói đoạn nàng quá xúc động gục vào vai Tú Trung nức nở khóc.
Tú Trung vỗ về an ủi người đẹp:
- Nàng khá an tâm. Ta đâu có phải hạng người vô liêm sỉ. Ta đã thề sẽ lấy nàng làm vợ thì trước sau ta vẫn quyết một lòng như vậy. Nàng lại đã tin ta trao thân gởi phận đêm nay, khi nào ta lại nỡ phụ nàng. Nàng hãy nghe ta, cứ an lòng, đừng nghĩ ngợi cho sắc đẹp tàn phai. Tối nay ta lại lên nàng nhé, bây giờ nàng để ta về kẻo trời sắp sáng, có ai trông thấy thì bất tiện cho đôi ta.
Nói đoạn lấy vạt áo lau nước mắt cho Thục Ngọc, rồi dìu nàng ra phía cửa sổ.
Lúc Tú Trung sắp sửa vén màn the bước xuống thang tre, Thục Ngọc níu áo kéo chàng lại, thì thầm:
- Nếu tối nay chàng lại dùng thang lên đây thiếp e sợ có ai đi ngang qua trông thấy thì khốn cả. Trên đây có cái bánh xe trước ba mẹ thiếp vẫn dùng để thòng dây trục hàng lên xuống. Đêm nay vào canh hai thiếp sẽ luồn một tấm vải trắng vào bánh xe rồi tắt đèn tối thiu đoạn thiếp buông tấm vải trắng xuống đường chàng cứ việc giật mạnh hai cái, thiếp ở trên này sẽ kéo chàng lên. khi chàng lên rồi, thiếp sẽ kéo tấm vải vào. Như vậy chàng đỡ phải vất vả, phí sức và lại thêm phần kín đáo.
Nhưng chàng phải nhớ đêm hôm không được cất tiếng gọi thiếp dù là lên đến cửa sổ kẻo có người nghe thấy. Khi chàng vào đến lầu rồi thiếp sẽ gọi khe khẽ chàng cứ hướng theo tiếng thiếp mà tiến đến để khỏi vấp phải đồ đạc té lọi xương thì khốn lắm đa.
Tú Trung vui mừng đáp:
- Nàng nói rất hợp tai ta. Ta cũng quên phứt mất rằng mai mốt, thợ chữa xong nhà sẽ đem thang đi, lúc đó ta làm cách nào mà lên. nàng nghĩ thế thì chu đáo lắm rồi. Thôi ta về nhé.
Nói đoạn Tú Trung vén màn the che cửa, bước đại xuống thang tre, trong khi Thục Ngọc nhắn khẽ:
- Xin chàng cẩn thận kẻo té thì khổ thân.
Tú Trung ậm ừ rồi thoăn thoắt leo xuống. Tới đất chàng hạ vội thang tre và vác lên vai chạy thẳng một hơi vào trong hẻm, dựng nó bên hông nhà y như cũ.
Song đâu đấy chàng lần về giường ngủ một mạch cho đến sáng bạch người nhà ke6o đôi ba lần chàng mới dậy.
Tối đó rồi kế tiếp những tối sau, cứ canh hai trước giờ Minh Tu đi qua một chút là Tú Trung giựt tấm vải trắng hai cái làm hiệu rồi đánh đu vào đó. Tức thì Thục Ngọc ở trên lầu rút lên. buổi đầu tiên t lượt được kéo lên và lược được thả xuống, Tú Trung cũng thấy hơi ớn xương sống, mặc dầu chàng biết Thục Ngọc khỏe mạnh béo tốt hơn chàng nhiều, tất nhiên dư sức để kéo chàng lên, thả chàng xuống và Thục Ngọc cũng đã chỉ cho chàng xem đầu tấm vải quấn vào chốt hãm thì dù nàng có lỡ tay Tú Trung cũng chỉ bị lao đao tí chút chớ chẳng đến nỗi rơi bộp xuống đất lọi xương bể sọ đâu mà sợ.
Mặc dầu biết chắc như vậy nhưng Tú Trung cũng vẫn thấy trống ngực đánh như trống làng. Nhưng rồi mọi sự đều suôn sẻ hết và hai người tới lui với nhau tính ra đã được gần sáu tháng mà cha mẹ Thục Ngọc không hay biết gì cả.
Lối xóm có vài người tình cờ bắt gặp Tú Trung đu theo tấm vải trắng lên lầu Thục Ngọc nhưng phải cái họ toàn là người tứ chiếng đến phố huyện trú ngụ lại bận rộn làm ăn buôn bán nên dẫu có biết, họ chỉ để bụng chẳng ai nói ra. Vả lại cha mẹ Thục Ngọc không ưa giao dịch bạn bè với ai nên lối xóm chẳng ai đến tâm sự với ông bà và ông bà cũng chẳng hề tâm sự với ai cả.
Riêng mẹ Thục Ngọc bà có nhận thấy dạo này con bà có khác trước. Bà thấy con bà ngày càng xinh đẹp và lại vui tươi, cười cười nói nói luôn miệng, khiến lắm lúc bà phải quát mắng nàng. Thỉnh thoảng nàng cũng lại hay gợi chuyện về Tú Trung nhưng nàng vẫn làm bộ chê bai này nọ, những khi bà không tiếc lời khen chàng thư sinh. Một lần bà hơi thắc mắc bèn hỏi ý kiến chồng thì cha Thục Ngọc bảo là con gái đến tuổi ấy tất nhiên như vậy, can chi mà phải nghĩ ngợi lôi thôi. Cho nên ba mẹ Thục Ngọc lại càng yên trí và bà cũng cho rằng với vị trí phòng the của con gái bà cùng những phương pháp bà áp dụng mỗi lần Thục Ngọc phải ra đường, tất chẳng có việc gì không hay có thể xảy ra được.
Trong thâm tâm bà ao ước được đứa rể hiền như Tú Trung. Bà lại định bụng hễ hai trẻ lấy nhau rồi, bà sẽ bắt Tú Trung ở rể lấy cớ là ông bà chỉ có một mụn con gái, muốn có nó bên cạnh cho vui cửa vui nhà. Bởi nghĩ vậy cho nên về sau hễ có dịp là bà lại tán dương Tú Trung với Tú Trung và bà cũng tự bảo hễ có dịp là bà phải dò ý chồng xem sao, để bà còn lo liệu bắn tin chứ.
Một hôm trong buổi cơm trưa, mẹ Thục Ngọc thấy con uể oải, biếng ăn, bà cầm đĩa tiết heo gạt một nửa vào bát Thục Ngọc mà nói:
- Này, cô ăn đi, trông cô dạo này xanh lắm đấy. Ông nó coi tôi nói đúng không?
Cha Thục Ngọc uống cạn ly rượu nhắm một miếng bồ dục trần rồi mới nói một hơi:
- Ui dà! Bà mày hay lắm chuyện. Thì nó cũng vẫn to sù sù có gầy yếu đâu mà lo. Xanh với đỏ thì ăn nhậu gì? Nó ở trong nhà có ra nắng đâu mà đỏ với ai. Chẳng lẽ lấy tiết bôi lên mặt à.
Nói xong ông cười khà khà, tự thưởng một ve rượu đầy vì câu nói hợp cảnh ấy.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 06-13-2005, 04:14 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Mẹ Thục Ngọc cụt hứng nhưng cũng cố cười khì hai tiếng cho vừa lòng đức ông chồng.
Mấy bữa sau, Thục Ngọc đang ngồi trên lầu mải mê may vội chiếc áo bâu xanh mới cho người tình vì ngày xuân sắp tới, thì đứa tớ gái lên kêu nàng xuống ăn cơm tối. Nàng thu vén vải vó kim chỉ cất vô rương khóa lại rồi mới mang hài nhẹ nhàng đi xuống lầu.
Đến nửa cầu thang nàng đứng sững lại vì chợt nghe thấy tiếng mẹ nàng hỏi:
- Gớm tôi thấy người ta đến đặt lợn quay cưới hỏi ầm ầm mà phát phiền cho số phận con Thục Ngọc.
Tiếng cha nàng đáp lại:
- Bà này rắc rối thế. Con Ngọc trẻ đẹp can chi. Cứ lời lão già bà con với thằng Tú Trung thì cha mẹ nó cũng chưa nhắm nơi nào cả, mà bà sốt ruột có hơn gì. Cũng phải chờ nhà nó phải đến hỏi không nhẽ mình gọi nó sang gả con Thục Ngọc cho sao?
Tiếng mẹ nàng nói:
- Thì tôi cũng nhắc ông thôi. Đám ấy nhất Huyện đấy, ông cũng nên lo liệu trước thì hơn.
Rồi hai người yên lặng, chỉ có tiếng bát đũa chạm nhau. Thục Ngọc bèn bước mạnh xuống thang, lòng hớn hở, vui tươi… Thế là cha nàng cũng đã chọn Tú Trung…
Tối đó, nàng bồn chồn, đứng ngồi chẳng yên chỉ mong :Dng tới khuya đặng báo tin lành này cho Tú Trung. Nàng chờ khuya rồi mới tắt đèn tối hù đoạn buông tấm vải trắng dọc theo mặt tiền nhà đoạn về nằm trên giường quấn châm vào khúc dây nối liền với tấm vải trắng dùng để kéo Tú Trung lên. Đêm đó, khi tiếng mõ từ xa vẳng lại được một lát thì cái dây giựt mạnh. Thục Ngọc chồm dậy xỏ chân vô hài rồi chạy lại nắm đầu tấm vải trắng, hơi nhún chân để lấy đà kéo mạnh. Một kéo, hai kéo rồi ba bốn kéo… một bóng đem bước vội qua thành cửa sổ. Thục Ngọc kéo thêm một sải nữa tấm vải trắng chạy tuột hẳn vô trong lầu, tòn ten bên cạnh bóng đen. Thục Ngọc khẽ cất tiếng gọi như để hướng dẫn người tình trong đêm tối… Tú Trung, đúng bóng đen ấy là Tú Trung, cứ yên lặng theo đúng ước hiệu bình tĩnh mà bước tới.
Khi hai người đụng tay nhau, Tú Trung và Thục Ngọc ôm chầm lấy nhau…
Thục Ngọc vội vã kể lại cho người yêu nghe câu chuyện giữa cha mẹ nàng mà nàng nghe trộm được. Nàng vừa rứt lời, Tú Trung cũng nói ngay:
- Thiệt là kỳ lạ, sáng nay ta cũng được tin cha mẹ ở vườn nhắn lên bằng lòng hỏi nàng cho ta…
Thục Ngọc nghe đoạn vui sướng quá ôm chầm lấy Tú Trung và gục vào vai chàng khóc nức nở… Thế là từ nay hết nỗi lo âu. Lát sau nàng thủ thỉ với người yêu là ít lâu nay nàng nghe trong người khác khác thế nào ấy, có lẽ điều nàng lo ngại từ lâu đã thành sự thật.
Tú Trung vốn người trung thủy, vỗ về Thục Ngọc và nói:
- Ta trước sau như vậy. Dù nàng có tin mừng thật hay không ta cũng phải lo toan cưới hỏi gấp để danh dự nàng được vẹn toàn mà ta cũng không bị cười chê là phường bội bạc vô liêm.
Tâm sự hồi lâu, đôi trẻ càng thấy yêu nhau thiết tha, say đắm hơn bao giờ hết.
Oâi! Thiệt là hạnh phúc chứa chan. Mối tình tội lỗi tưởng đã lâm vào ngõ bí ai ngờ lại được thời cơ thuận tiện đem lại cho một lối thoát đẹp cả hai chữ hiếu, tình.
Trong khi chờ đợi Tú Trung nhắn về quê xin cha mẹ nhờ người làm mai hỏi Thục Ngọc cho chàng, đôi trẻ vẫn tiếp tục gặp nhau hằng đêm với lòng tin tưởng ngày càng tăng về tương lai tươi đẹp.
Cho tới một tối, Tú Trung đi dự tiệc cưới mừng người đồng môn, chẳng dè mềm môi quá chén, say khướt đi không vững, bạn bè phải dìu về nhà trọ. Tú Trung nằm mê man trên giường. Đến lúc tiếng mõ văng vẳng từ phía chợ càng lúc càng rõ, thì chàng vẫn mê man như chết.
Về phần Thục Ngọc, cứ theo thường lệ, nghe thấy tiếng mõ nàng vội tắt nến và thả tấm vải trắng xuống đường và chờ như mọi khi. Nàng không hay biết gì về việc Tú Trung say rượu cả.
Nói về Minh Tu đêm đó, đi ngang qua nhà Thục Ngọc, thấy tấm vải trắng buông theo mặt tiền nhà tưởng là vải chủ nhà phơi ở cửa sổ tuột xuống, nên sanh lòng tham muốn lấy. Minh Tu bèn lướt tới gần, hai tay nắm chặt lấy đầu tấm vải trắng giật mạnh một cái. Thấy vải còn mắc kẹt trên lầu, Minh Tu lại giật mạnh cái nữa. Tức thì Minh Tu thấy toàn thân bị nhấc bỗng lên khỏi mặt đất và từ từ bị kéo lên. thì ra vô tình Minh Tu đã dùng đúng ám hiệu nên Thục Ngọc ở trên lầu cấp tốc rút tấm vải lên…
Thoạt đầu Minh Tu hơi sợ nhưng rồi đoán ra ngay rằng trên lầu có đàn bà con gái thả tấm vải này xuống để kéo trai lên. Nghĩ vậy Minh Tu cứ đeo cứng lấy tấm vải lên lầu chơi xem sao.
Tới cửa sổ, Minh Tu níu lấy thành cửa đu mình vào trong. Y còn đang sờ soạng trong bóng tối chợt nghe tiếng Thục Ngọc gọi khẽ khẽ: “Đây chàng! Đây chàng…”
Minh Tu cả mừng đi tới, khi đụng người Thục Ngọc y dang hai tay ôm đại Thục Ngọc thì vừa vặn Thục Ngọc đã ngã vào trong tay Minh Tu mà nàng tưởng là Tú Trung! Đến chừng Thục Ngọc biết là lầm nàng cố vùng vẫy đẩy Minh Tu ra thì đã muộn rồi. Hai cánh tay vạm vỡ của Minh Tu đã quấn cứng ngắc thân hình tròn trịa của Thục Ngọc.
Minh Tu cả mừng bảo nhỏ Thục Ngọc:
- Ta là Minh Tu thường đêm đêm đi qua đây. Nàng với ta hẳn có duyên nợ ba sinh. Xin nàng cho ta chăn gối một đêm, ân đức ấy xem bằng trời bể.
Thục Ngọc giận dữ mắng rằng:
- Ta đã sánh vai với người tài cao học rộng, nhà ngươi sao dám vô lễ. Thôi ta cho một cây trâm vàng, ngươi hãy buông ta ra và mau mau xuống lầu.
Thấy Thục Ngọc thấp giọng nói nhỏ, Minh Tu biết thóp là nàng sợ người trong nhà nghe thấy và y yên trí là nàng chẳng dám la cầu cứu nên cố ý nới lỏng hai tay tính chuyển sang giai đoạn khác rồi khẽ cười đáp:
- Chính nàng kéo ta lên đây, nay lại biểu ta phải xuống, chuyện đời đâu có dễ vậy.
Minh Tu chưa dứt lời thì Thục Ngọc đã thừa dịp y sơ hở vung mạnh hai tay xô Minh Tu lảo đão suýt ngã. Minh Tu không giận dữ, y còn tấm tắc khen:
- Aùi chà, nàng khỏe thiệt đa.
Lúc này Minh Tu đã quen với bóng tối nên y trông thấy Thục Ngọc đang len lén đi về phía giường ngủ. Minh Tu lấy lại thăng bằng rồi nhắm lại vị trí con mồi lấy lại thăng bằng rồi nhắm lại vị trí con mồi. Thấy nàng chỉ cách y có một bước Minh Tu bèn xáp tới vồ đại lấy Thục Ngọc.
Bàn tay trái của Minh Tu nắm trúng cần cổ Thục Ngọc còn bàn tay mặt y vồ ngay giữa ngực người yêu của Tú Trung.
Thế là Thục Ngọc lại thấy hơi thở dồn dập của Minh Tu nóng hổi bên má nàng.
Thất kinh nàng cất tiếng la cầu cứu. Nhưng nàng mới kịp nói: “Bớ” thời Minh Tu đã dùng tay mặt bịt miệng lại. nàng ghé răng toan cắn thì y đã rụt kịp tay về. Thục Ngọc bèn la: “Bớ người ta! có kẻ cường đạo!”.
Rủi cho nàng cha mẹ ở dưới nhà làm việc cả ngày nên ngủ mệt, chẳng nghe thấy gì cả. Nàng toan la to hơn nữa, Minh Tu sợ động có người đến cứu tất nguy cho va, nên tay trái y ra sức nắm chặt cần cổ Thục Ngọc còn tay mặt lẹ làng rút trong bọc con dao nhỏ nhè cổ họng Thục Ngọc đưa mạnh một nhát.
Thục Ngọc chết tức thì, không kịp la thêm tiếng nào, toàn thân mềm dần và đổ xuống chân giường.
Minh Tu thở dốc một hồi rồi đi ra khép cửa sổ lại đoạn trở vô đốt đàn cầy cho sáng và lau sạch vết máu vấy trên tay y và trên lưỡi dao. Hắn cúi xuống rút cây trâm, lột bông tai và chiếc cà rá của Thục Ngọc, tháo tấm vải trắng ném xuống sàn rồi tắt đèn, mở cửa sổ leo xuống lầu, dông thẳng về nhà.
Sáng sau, cha mẹ Thục Ngọc cũng chưa hay biết gì. Vì đã từ lâu cả nhà đều quen với tật ngủ dậy muộn của Thục Ngọc.
Chừng đến bữa cơm trưa, không thấy con xuống, mẹ Thục Ngọc mới lên lầu gọi thì chỉ còn gặp xác con nằm bên vũng máu đã khô.
Bèn tri hô cầu cứu. Lối xóm đổ đến bu kín trước nhà.
Một vài thanh niên ghen ghét Tú Trung mới nhân dịp này đến tố cáo với bố mẹ Thục Ngọc rằng:
- Tú Trung thường leo lên lầu Thục Ngọc mỗi đêm. Hai người vụng trộm đã hơn nửa năm rồi.
Đêm qua tên Trung ăn tiệc ở nhà bạn rồi vì quá say rượu y về giết lầm Thục Ngọc.
Nếu là kẻ lạ mặt lên lầu tất cô Thục Ngọc đã phải la cầu cứu. Đằng này cô Ngọc bị hại một cách êm thấm như vậy, thủ phạm phải là người quen biết với cô Ngọc. Như thế chẳng phải Tú Trung đã giết cô Ngọc thì conø ai nữa?
Rồi họ khuyên Tiêu Phụ Hớn nên đệ đơn kêu với Bao Công để xin xét rõ trắng đen mà trừng trị kẻ sát nhân.
Tiêu Phụ Hớn nghe lời đệ lên Bao Công lá đơn nội dung như sau:
“Tôi là Tiêu Phụ Hớn xin cáo với Thượng quan, tên Hứa Hiến Trung đã cưỡng dâm rồi lại giết người.
“Nguyên tên này tuy là học trò nhưng tính tình dữ tợn mà lại dâm ô thấy con gái tôi là Tiêu Thục Ngọc xinh đẹp, y buông lời chọc ghẹo chẳng được nên tính chuyện cưỡng dâm. Đêm qua y uống rượu say giắt dao trong mình, tréo lên lầu toan hãm hiếp con gái. Chẳng dè con gái tôi tiết hạnh chẳng chịu, y liền rút dao cắt đứt cuống họng nó. Y lại còn đoạt luôn cả của nạn nhân bông tai, chiếc cà rá và cây trâm, hết thảy bằng vàng y.
“Việc này có người lối xóm làm chứng vậy xin tố cáo với Thượng quan để xin Thượng quan tra xét trừng trị Hứa Hiến Trung. Hắn ta bề ngoài hiền lành song thực ra là kẻ ác nghịch coi thường phép quan luật nước, nên mới dám giết oan con tôi.”
Nhận được cáo trạng của Tiêu Phụ Hớn, Bao Công liền cho làm các thủ tục thường lệ về sự khám tử thi, lấy khẩu cung tại chỗ. Sau đó, Bao Công cho áp giải Hứa Hiến Trung về Nha và đòi hai nhơn chứng là Tiêu Mỹ và Ngô Phạm, ở kế cận nhà Tú Trung và Tiêu Phụ Hớn hớn đến công môn.
Trước hết Bao Công hỏi Tiêu Mỹ và Ngô Phạm về chuyện trai gái giữa Thục Ngọc và Tú Trung.
Tiêu Mỹ khai đại ý như sau:
- Tiêu Thục Ngọc nhà ở lề đường lại được cha mẹ để ở một mình trên lầu. Thục Ngọc trai gái cùng Hứa Hiến Trung đã hơn nửa năm. Cha mẹ nàng không hay biết gì…
Bao Công ngắt lời, hỏi:
- Nó lên bằng cách nào?
Tiêu Mỹ khai:
- Nó đeo cứng vào tấm vải trắng rồi Thục Ngọc rút lên.
- Người ở kế cận biết rõ sự trai gái bậy bạ vậy cớ sao không biểu cho cha mẹ chúng hay?
Tiêu Mỹ đáp:
- Vì Tiêu Phụ Hớn không giao du với ai nên chúng tôi duy là xóm giềng nhưng ít khi nói chuyện với nhau. Còn người chủ trọ của Tú Trung, y thường vắng nhà đi buôn bán xa nên tôi cũng không thân mấy.
Bao Công hỏi tiếp:
- Người có biết thủ phạm giết Thục Ngọc không? Có nghi cho ai không?
Tiêu Mỹ lắc đầu:
- Aùn mạng xảy ra trong đêm khuya, tôi không biết thủ phạm là ai. Còm Tú Trung có giết Thục Ngọc không, điều đó tôi không biết được.
Đến lượt Ngô Phạm, nhân chứng này cũng trả lời tương tự như Tiêu Mỹ.
Bao Công cho hai người chứng lui ra rồi truyền lịnh dẫn Hứa Hiến Trung vào. Ông chăm chú nhìn Tú Trung một lát rồi cất tiếng hỏi:
- Nhà ngươi theo đòi bút nghiên, sao không biết trọng lễ giáo đã trai gái với Thục Ngọc lại còn sanh lòng hung bạo hạ sát người ta. nhà ngươi đáng tội chết chém. Ngươi hãy thuật lại ta nghe làm sao ngươi lên được lầu Thục Ngọc và ngươi tư thông với nàng lâu mau?
Tú Trung bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện rồi nói:
- Tôi nhận có thông gian với Tiêu Thục Ngọc và xin vui lòng chịu tội ấy. Còn về việc giết Thục Ngọc thì tôi không có. Xin Thượng quan minh xét.
Tiêu Phụ Hớn vội đáp:
- Nó chịu tội nhẹ, chối tội nặng. Chỉ có nó mới vô đặng phòng con tôi, chẳng phải nó giết con tôi thì còn ai vào đấy nữa? Bởi con tôi không cho nó tới lui nên nó oán giận nên mới cố ý giết con tôi. Nêu Thượng quan không tra tấn thì tất y chẳng chịu khai.
Bao Công không nói chi cả, cứ nhìn chằm chằm vào Tú Trung, tay ông nhè nhẹ vuốt râu…
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 06-13-2005, 04:15 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Bỗng ông kêu líng đem ra tấm vải trắng thấy trong phòng Thục Ngọc.
Tú Trung nhìn nhận đúng là tấm vải Thục Ngọc luồn vào bánh xe gang treo trên lầu để rút chàng lên. Bao Công bèn hỏi lại Tiêu Phụ Hớn, ông này nhận trên lầu có bánh xe gang còn việc Thục Ngọc kéo Tú Trung lên lầu thì ông không tin.
Bao Công suy nghĩ hồi lâu thấy có điểm nghi ngờ trong vụ này vả lại ông nhận thấy Tú Trung tính tình hòa nhã, không phải là đứa hung bạo, giết người trong cơn giận dữ.
Ông bèn hỏi Tú Trung:
- Nhà ngươi nói đêm nàng Thục Ngọc bị giết ngươi say rượu nằm nhà suốt đêm. Chớ chủ trọ có hay biết không?
Tú Trung đáp:
- Tô say rượu đi không vững bạn tôi phải dìu về nhà. Chủ trọ cò biết. Tiêu Phụ Hớn vội xen vào:
- Nó thường đêm đêm lẻn ra khỏi nhà chủ trọ không hay biết. Xin Thượng quan đừng tin lời nó.
Bao Công ra hiệu bảo Tiêu Phụ Hớn hãy yên lặng rồi hỏi tiếp Tú Trung:
Những lúc ngươi tới lui lầu Thục Ngọc có ai đi ngang qua trông thấy không?
Tú Trung đáp:
- Dạ không có ai thấy. Nếu có, dễ thường là Minh Tu đêm đêm đi gõ mõ ngoài đường.
Nghe đoạn, Bao Công giả bộ giận dữ vỗ án la:
- Chính người đã giết Thục Ngọc chớ còn ai? Tội ngươi phải xử tử, ngươi đa 4nhận chịu chưa?
Rồi ông hô lính vật Tú Trung ra đánh. Tú Trung tuổi còn nhỏ thấy vậy sợ quá, líu cả lưỡi, lắp bắp xin nhận tội.
Bao Công truyền lính đánh Tú Trung 20 roi rồi đem tống giam vào ngục. Đoạn ông bảo Tiêu Phụ Hớn ra về.
Sau đó, Bao Công bí mật gọi hai người lính tâm phúc là Vương Trung và Lý Nghĩa vào và bảo:
- Ta thấy trong vụ án Thục Ngọc này, có nhiều điều nghi ngờ. Vậy các ngươi khá chia nhau điều tra thêm về hai nguyên bị, về các nhơn chứng và về Minh Tu. Ta chắc rằng thủ phạm là đứa nào khác chớ không thể là Tú Trung. Không có lý do gì Tú Trung lại giết Thục Ngọc, nhất là nếu đêm đó quả có say rượu thật thì làm sao nó leo được xuống lầu? Vậy hai ngươi khá xét kỹ lại điều này. Cũng phải điều tra cho rõ tính tình hạnh kiểm của hai nhơn chứng và Minh Tu.
Trưa hôm sau, bọn Vương Trung và Lý Nghĩa đã phúc trình đầy đủ về các người kể trên.
Suốt buổi chiều, Bao Công ngồi nghiên cứu hồ sơ vụ án Thục Ngọc. Đôi ba lần ông kêu hai thám tử Vương Trung và Lý Nghĩa vô hải thêm vài chi tiết. Khi trời đã xế chiều Bao Công truyền dẫn Tú Trung lên hỏi một lúc rồi lại sai lính giải về ngục.
Lát sau, Bao Công đuổi hết tả hữu ra ngoài rồi kêu riêng Vương Trung và Lý Nghĩa vào phòng ông thì thầm hồi lâu với hai thám tử. Đoạn ông mở tủ lấy chút bạc trao cho hai người và dặn:
- Các ngươi cứ y kế mà thi hành, cấm không được để lộ cho ai hay. Xong việc ta sẽ thưởng công cho. Thôi các ngươi đi sửa soạn cho kịp.
Hai thám tử thưa xin tuân lệnh rồi đi ra.
Nói về Minh Tu đêm đó, như thường lệ hết canh một, sang canh hai mới trở về cầu nghỉ ngơi.
Bỗng Minh Tu nghe tiếng oan hồn khóc lóc, kêu than nổi lên từ hai đầu. Chút sau lại nghe tiếng đàn bà kêu than ở ngay sau lưng.
Minh Tu thất kinh luôn miệng niệm kinh Di Đà. Minh Tu liếc mắt ra phía sau lưng thấy một bóng ma đàn bà trắng toát, đầu tóc rã rượi đang ngồi bưng mặt khóc lóc kể lể. Minh Tu càng niệm mau kinh Di Đà. Bỗng ma đàn bà nhích dần lại sau lưng Minh Tu, lớn tiếng kóc than rằng:
- Bớ Minh Tu, ngươi là kẻ sát nhân phải đền mạng. Hãy ngưng đọc kinh Di Đà bởi lẽ mi tránh sap khỏi tội. Bởi ngươi muốn hãm hiếp ta nhưng ta chẳng chịu, người bèn sát hại ta. Ngươi lại nhẫn tâm lột hết cả trâm, bông tai và cà rá vàng của ta. Ta chết oan, chưa tới số nên hồn ta đầu cáo nơi Diêm Vương. Ngài cho ta hai sứ giả dẫn ta về để bắt hồn ngươi. Hãy ngưng niệm kinh đi, bớ Minh Tu, bớ Minh Tu! Oan hồn, hồn hiện về đây, người đã thấy chưa?
Trong khi con ma đàn bà kể tội Minh Tu thì hai con quỷ mặt mày dữ tợn, một con mặt xanh lè, một con mặt đỏ rực, ranh nanh chìa ra ngoài miệng, hình thù quái dị, lảo đảo từ hai đầu cầu xáp gần lại giữa cầu.
Hai con quỷ vừa đi vừa gầm gừ nghe rợn người, một con múa cây giáo dài một con vung gươm sáng quắc.
Khi hai con quỷ còn cách Minh Tu lối vài bước, nó dừng lại hoa tay múa chân như chờ giờ bắt Minh Tu.
Con ma đàn bà thấy thế khóc rống lên, réo tên Minh Tu hỏi tội rồi nói tiếp:
- Mi phải trả lại nữ trang cho ta ngay, còn như mi không chịu ta sẽ kêu oan tới Thiên Đình, tất ngươi phải chết không ai cứu đặng.
Minh Tu nghe vậy đáp:
- Thôi ma nàng ơi. Ta đã hối hận nhiều rồi. Bữa đó ta tính chuyện ô dâm mà chẳng đặng, ngặt vì nàng la to, ta sợ bị bắt nên quá hoảng sợ lỡ tay giết nàng. Xin nàng tha tội cho ta. trâm và bông tai cà rá còn đây ta xin trả lại nàng. Để ta xin tụng kinh siêu độ cho, nàng hãy rũ lòng thương chớ tâu Thiên Tào.
Con ma đàn bà nghe nói lại khóc rống lên một hồi và đòi Minh Tu phải trả nữ trang ngay để nó về âm phủ cho kịp. Minh Tu vội đáp:
- Nữ trang ta giấu trong bọc đây. Ta xin trả lại ngay.
Nói đoạn Minh Tu thò tay vào bọc tìm. Vừa lúc ấy hai con quỷ nhào tới, con phía trước chĩa giáo vào ngực Minh Tu, con phía sau kề gươm vào cổ Minh Tu, hô ngồi im, không được chống cự.
Vẫn hai con quỷ này chính là thám tử hành động theo kế của Bao Công. Còn người đàn bà là một gái điếm do hai người mướn giả làm oan hồn Thục Ngọc đặng nhát Minh Tu cho y tự khai tội.
Thám tử Vương Trung lấy mũi giáo ngửa mặt Minh Tu lên và bảo:
- Hai ta vâng lệnh Bao đại nhơn đến bắt người về tội giết hại nàng Thục Ngọc chớ chẳng phải là quỷ sứ gì đâu.
Minh Tu sợ tái mặt, chắp tay năn nỉ xin tha.
Vương Trung lắc đầu nói:
- Người tàn ác quá còn xin gì nữa? Thôi mau đứng lên cho ta làm phận sự.
Minh Tu ríu ríu vâng lời. Lý Nghĩa đứng sau lưng tra gươm vào vỏ rồi rút dây trói chặt Minh Tu lại, đoạn cúi xuống lượm túi đồ của Minh Tu rồi phụ với Vương Trung áp giải Minh Tu về Nha trình Bao Công. Người đàn bà cũng đã quấn lại tóc, buông tấm vải trắng phủ ngoài ra lanh lẹ đi về nhà sau khi nghe Vương Trung dặn sớm mai đến Nha mà lãnh thưởng.
Hai thám tử áp giải Minh Tu tới Nha thấy khuya rồi bèn đem thẳng xuống giao cho lính coi ngục giam lại. đoạn hai người trở lên nạp tang vật vào phòng thơ lại rồi đi nghỉ.
Sáng sau, Vương Trung, Lý Nghĩa dẫn người đàn bà đêm qua và Minh Tu đến trước mặt Bao Công.
Hai thám tử và người đàn bà thuật lời Minh Tu đã nói hồi đêm. Minh Tu hết đường chối cãi đành nhận tội.
Bao Công lấy bạc thưởng cho cả ba người rồi cho mở gói nữ trang bày ra trên bàn đoạn cho gọi Tiêu Phụ Hớn đến. Ông ta nhận đúng là đồ nữ trang của con gái mình, nên được Bao Công cho lãnh đem về.
Sau đó ông lên án chém đầu Minh Tu và truyền tống giam vào ngục chờ ngày hành quyết.
Đoạn Bao Công cho dẫn Tú tài Hứa Hiến Trung đến mà bảo rằng:
- Kẻ giết Thục Ngọc là Minh Tu. Y đã bị tống giam chờ ngày đền tội. Về phần nhà ngươi đã đậu Tú tài mà còn làm chuyện gian dâm với con gái người ta, lẽ ra phải lột áo bâu xanh, mất chứa Tú tài. Tuy nhiên, xét vì nhà ngươi chưa vợ mà Thục Ngọc cũng chưa chồng, hai bên có làm chuyện bậy bạ, ngoài vòng lễ giáo, âu cũng là tiền duyên. Phần nàng Thục Ngọc thả cầu rút người lên chẳng dè rút lầm Minh Tu mới sanh chuyện. Nhưng nàng đã biết thủ tiết cùng nhà ngươi đến nỗi phải chết vì lưỡi dao của Minh Tu. Như thế nàng cũng xứng đáng làm vợ nhà ngươi.
Bao Công ngưng một lát như để dò xét phản ứng của Tú Trung, đoạn ông ôn tồn nói tiếp:
- Nay ta ra hai điều cho ngươi chọn: Một là lấy vợ khác thì mất chức Tú tài; hai là biết nghĩ đến tình cũ, nghĩa xưa, lấy Thục Ngọc làm vợ chánh thì phải giữ lễ, lo ma chay, thờ phượng cho nàng và không được lấy vợ khác nữa. Trong hai điều ấy, ngươi muốn điều nào?
Tú Trung chắp tay thưa rằng:
- Tôi biết Thục Ngọc thà chết chứ không chịu thất tiết. Lúc còn sống nàng vẫn bảo tôi thế nào cũng phải cưới nàng làm vợ. Tôi cũng đã hứa lấy nàng và đang tính dịp thuận tiện để gia đình cưới hỏi đàng hoàng. Ai ngờ nửa đường đứt gánh nàng bị hại vì muốn thủ tiết cùng tôi. Như vậy tôi lấy vợ khác sao đành. Để khỏi phụ lòng nàng, tôi xin nhận nàng làm vợ chánh, xin thờ phượng cúng quẩy tử tế và xin nhất định không lấy vợ khác từ nay.
Nghe nói vậy, Bao Công có ý vui lòng, bèn dạy rằng:
- Lòng ngươi như vậy là hợp lẽ Trời. Ta sẽ giúp đỡ nhà ngươi. Thôi để lát nữa ta viết thơ cho quan Đốc học xin cho nhà ngươi khỏi mất khoa Tú tài. Bây giờ người có thể thong thả ra về, ráng học hành chăm chỉ nghe. Người khá đến thuật lại lời ta dạy cho ông bà Tiêu Phụ Hớn rõ và đôi bên bên thu xếp cho xong việc ấy đi.
Tú Trung vòng tay tạ ơn Bao Công rồi buồn rầu ra về.
Tú Trung đi khỏi, Bao Công bèn lấy giấy bút ra viết cho quan Đốc học một bức công văn đại ý như sau:
“Thưa quan Đốc học,
“Bổn chức, chiếu theo đơn kiện của Tiêu Phụ Hớn có bắt giữ Tú tài Hứa Hiến Trung để điều tra về cái chết của Thục Ngọc.
“Nay xét ra y vô can vì thủ phạm là Minh Tu đã thú nhận hết tội lỗi. Tên này lên lầu toan chuyện ô dâm, chẳng ngờ việc không êm, y bèn rút dao giết Thục Ngọc rồi thừa dịp đoạt trâm, cà rà, bông tai nạn nhân. Y bị án tử hình và chờ ngày đền tội.
“Về phần Tú Trung, nó còn trẻ tuổi, chưa vợ đối diện với nhà có Tiêu Thục Ngọc cũng chưa chồng. Hai trẻ thuận tình, đêm khuya vắng vẻ thông gian cùng nhau, thấm thoát đã hơn nửa năm mà gia đình đôi bên không ai hay biết. Hai trẻ cũng đã cùng nhau giao kết việc trăm năm. Nếu không có Minh Tu gây ra tai họa thì đâu có cảnh rẽ thúy chia uyên, kẻ khuất người còn.
“Nàng Thục Ngọc thác oan nhưng còn giữ được trọn niềm tiết nghĩa. Thương vậy thay! Còn Tú tài Hứa Hiến Trung nguyện không lấy vợ khác. Khá vậy thay!
“Bổn chức nghĩ rằng: Kẻ sát nhân đã bị khép vào tội tử hình. Còn Hứa Hiến Trung vì ăn ở có nghĩa nên đề nghị không bị mất chức Tú tài.
Xin chờ ngài phân xử.
Nay kính
Ký tên Bao Công
Quan Đốc học xem công văn xong bèn trả lời chấp thuận đề nghị của Bao Công.
Sách có chép rằng từ ngày nhờ tài minh xét của Bao Công, mà được trả lại tự do, Tú Trung chăm lo học tập ngày đêm đến sau thi đậu Cử nhân. Buổi vinh quy bái tổ, Hứa Hiến Trung nay thành Cử Trung đến Nha của Bao Công để tạ ơn cứu tử ngày trước.
Bao Công mời ngồi ghế, dùng nước trà rồi thủng thẳng hỏi Cử Trung:
- Chớ bây giờ có muốn lấy vợ không?
Cử Trung nghiêm trang đáp:
- Tôi dù có chết cũng không dám.
Bao Công vuốt râu cười nói:
- Người ra có ba điều bất hiếu, nặng nhất là không con cái nối dõi tông đường. Ta tưởng nên nghĩ lại.
Cử Trung thưa:
- Cám ơn đại quan song tôi xét đã giữ chữ “nghĩa” tất không tròn chữ “hiếu” được. Nay Thục Ngọc chịu chết vì thủ tiết với tôi và đã lấy nàng làm vợ chánh, đành chịu mang tiếng là bất hiếu chớ không thể làm phường phi nghĩa.
Bao Công gật đầu nói:
- Anh ăn ở thủy chung, đúng mực, rất đáng khen. Nhưng ta nghĩ ngươi nay công thành danh toại, hồn Thục Ngọc tất cũng ngậm cười nơi suối vàng. Nếu như nàng còn sống chắc cũng bằng lòng cho anh lấy vợ lẽ, nàng hầu. Vậy cứ để nàng Thục Ngọc làm vợ chánh mà cưới vợ thứ nhì thì cũng chẳng sao. Chẳng hay ý kiến anh ra thế nào?
Cử Trung một mực không chịu.
Bao Công bèn nói sang chuyện khác.
Hai người đàm đạo hồi lâu về văn chương thi phú rồi Cử Trung đứng dậy cáo biệt ra về.
Ít bữa sau Bao Công mời một Cử nhân tân khoa, đậu cùng một lượt với Cử Trung đến và nhờ dỗ khéo Cử Trung lấy con gái họ Hoạt làm vợ thứ. Nói mãi Cử Trung mới miễn cưỡng ưng thuận. Người bạn bèn đứng ra làm mai, thế rồi Cử Trung và con gái họ Hoạt làm lễ thành hôn ít lâu sau.
Thục Ngọc giữ được chữ “tiết” còn Cử Trung giữ được chữ “nghĩa” mà không phạm chữ “hiếu”. Cả hai đều vẹn đạo cương thường.
Thiên hạ ai biết chuyện cũng ca tụng tài đức Bao Công.



LỜI BÀN
Trong chuyện trên đây, Minh Tu ép liễu nài hoa mà chẳng được, y toan làm càn thì Thục Ngọc la làng :Di lói. Sợ đổ bể câu chuyện y cắt cổ nạn nhân, lột nữ trang rồi leo xuống lầu bườm êm ru. Minh Tu bị Bao Công lên án tử hình.
Ngày nay nếu xảy ra trường hợp tương tự, tên Minh Tu tân thời cũng bị Tòa khép vào tội cố sát với trường hợp gia trọng và phải chịu tử hình, chiếu điều 304 Hình Luật Canh Cải. Vì lẽ trước và sau tội cố sát, y đã phạm 2 tội khác: xâm phạm tiết hạnh trước rồi cắt cổ nạn nhân chết, sau lại phạm tội trộm.
Về tội cố sát với trường hợp gia trọng, Bao Tử đã có lời bàn sau truyện “Con nhện đoán án” (PLBNS số 1-15 9-62 trang 32) xin miễn nhắc lại nơi đây.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #16  
Old 06-13-2005, 04:17 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 06

ĐỒNG MƯU HẠI CHỒNG


Xưa kia tại huyện Hoát Thôn, thuộc phủ Lư Châu bên Tàu có một người thợ may tên là Chương Tân, tuổi độ 50 vóc người ốm yếu, tánh hạnh dễ thương, ưa làm điều lành, nhất là hay giúp đỡ bạn bè. Nhờ cần cù làm ăn, nên Chương Tân cũng dư ăn dư xài lại cho tá điền trong vùng vay tiền làm mùa với lời phải chăng nên chi gia đình ngày càng khá giả.
Chương Tân goá vợ, không con cái chi, mới nuôi một đứa cháu trai tên là Kế Tổ, từ lúc còn bé dại nay đã lớn khôn. Hai chú cháu thương mến nhau như cha con vậy.
Mấy năm gần đây, Tân cưới Vương Thị về làm vợ kế, Vương Thị tuổi còn nhỏ, xinh đẹp sắc mặt hồng hào, chăm lo việc nhà nhưng phải cái lẳng lơ và tính nết dâm đãng…
Hai vợ chồng và đứa cháu sống yên vui, hòa thuận trong một căn nhà cao ráo, rộng rãi, cất trên một thửa đất khoảng khoát, xung quanh có vườn trồng cây đẹp đẽ. Xóm Chương Tân ở gồm toàn những gia đình khá giả, nhà nọ cách biệt nhà kia bởi một khoảng vườn hay cái sân rộng không có rào giậu chi cả. Giới hạn giữa hai nhà thường là một hàng cây hay một vài cái mốc bằng đá bằng cây chôn xuống đất. Tuy thế cũng không có sự chi rắc rối, lộn xộn xảy ra vì ai nấy đều lo công chuyện làm ăn, ít dòm ngò tới việc người khác.
Vợ chồng Chương Tân ăn ở với nhau đã vài năm mà Vương Thị cũng không có tin mừng gì cả. Chương Tân thấy mình tuổi ngày mỗi cao lại hiếm hoi không con cái nên mới tính chuyện lấy vợ cho Kế Tổ nhà có thêm người và sau thêm trẻ nhỏ cho vui nhà.
Chương Tân thường bảo vợ:
- Nhà ta căn trên có ba phòng lại còn dãy nhà bếp với 2 căn, ba người ở rộng quá nhiều khi thấy trống trải, lạnh lùng. Nay có cưới vợ cho Kế Tổ thời cũng còn dư chỗ. Vả lại ta bận việc suốt ngày và thường phải cùng Kế Tổ đi đo cắt áo mướn trong vùng, khi thì cả buổi, lúc lại mất cả ngày, nay thêm vợ Kế Tổ, nàng cũng có người đỡ đần công việc và chuyện trò những lúc nhàn rỗi, như vậy đỡ quạnh hiu.
Vương Thị cho là phải, và Kế Tổ cũng khứng chịu. Chương Tân rất đẹp lòng bèn để tâm tìm bạn trăm năm cho cháu. Thấy Lưu Thị, con gái một người buôn bán cùng xóm, đã xinh đẹp lại chăm làm, Chương Tân cậy làm mai cưới Lưu Thị về cho Kế Tổ. Gia đình Lưu Thị ưng thuận, thế là hai đàng chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn cho đôi trẻ.
Có người bà con gần và rất thân với Chương Tân, nghe tin lật đật đến thì thầm với Tân rằng:
- Có chuyện chi mà bác làm gấp rút việc cưới xin cho cháu vậy? bác có biết câu lấy vợ kén tông không. Lưu Thị là con vợ bé thường bị mẹ ghẻ và lũ con lớn của cha hành hạ, áp bức bắt làm vất vả suốt ngày…
Chương Tân ngắt lời:
- Thì tôi biết chớ sao không biết cái điều đó. Chính nhờ thế sau này nó về làm dâu bên tôi nó không cậy của, hợm mình vả lại gia đình tôi là nhà làm ăn được đứa quan làm lụng vất vả càng tốt chớ sao?
Người bà con cười đáp:
- Nếu thực tình bác lấy thì tôi chẳng dám bàn. Nhưng nếu bác muốn Lưu Thị đóng vai kỳ đà cản mũi bác gái nhà ta không cho lăng nhăng… thì bác sẽ thất vọng đấy. Vì Lưu Thị quen bị đè nén, áp bức lại quá hiền lành nên nó nhút nhát, sợ sệt, dễ bị người khác dùng cách này hay cách khác buộc nó phải theo ý họ không hề có phản ứng gì ráo trọi.
Chương Tân cười vỗ vai người bà con biểu:
- Bác nó vậy tôi cũng cám ơn, thực tình tôi hỏi vợ cho cháulà để có thêm người cho vui cửa vui nhà và để cho cháu yên bề gia thất, khỏi lông bông, chớ tôi không có ý gì khác cả.
Rồi hai người ngồi nói chuyện vãn hồi lâu về chuyện làm ăn buôn bán, không đả động đế vấn đề Lưu Thị nữa. Ít tháng sau, đám cưới Kế Tổ lấy Lưu Thị được cử hành trong bầu không khí vui vẻ, tưng bừng. Kế Tổ rất hài lòng được vợ vừa xinh đẹp lại hiền lành, bảo sao nghe vậy, thức khuya, dậy sớm, lo đủ mọi việc trong nhà thiệt là chu đáo, Lưu Thị vẫn quen như khi chưa xuất giá, chỉ quanh quẩn ở phía bếp và sau vườn, ít khi bước chân lên đến nhà trên. Tuy vợ chồng Kế Tổ được Chương Tân dành riêng cho một phòng song cứ trời vừa sáng là Lưu Thị đã bò ra khỏi giường xuống nhà dưới lo mọi việc, chờ tới khuya mọi người ngủ cả nàng mới dám trở về phòng.
Vợ chồng Kế Tổ rất mực cung kính, hầu hạ vợ chồng Chương Tân y như cha mẹ đẻ, đổi lại Chương Tân cũng thương vợ chồng Kế Tổ như con ruột vậy. riêng có Vương Thị xem ra bằng mặt mà chẳng bằng lòng và có chiều ghen tuông, hằn học với cặp vợ chồng son trẻ. Sáng nào Lưu Thị lỡ dậy muộn một chút là người ra lại nghe tiếng thím ta đay nghiến, riếc móc, bắt bẻ cháu dâu, nói mát, nói xéo đủ điều. Tuy vậy hòa khí trong gia đình cũng không đến nỗi bị sứt mẻ, một phần vì Lưu Thị tốt nhịn, biết vui vẻ chịu đựng, một phần vì Chương Tân và Kế Tổ mải lo công việc làm ăn, đi đi, về về suốt ngày nên hai người cũng chẳng còn thì giờ mà ghe chuyện đàn bà.
Chú cháu yên tâm về chuyện gia đình, xuất toàn lực lo phát triển công việc làm ăn, ngày càng phát đạt. Hai người dự tính qua năm tới sẽ đi xứ xa lập tiệm may mướn và họ bàn nhau chừng 3 tháng nữa sẽ đi thăm dò địa điểm làm ăn.
Gia đình êm ấm, tiền bạc dư xài, chú cháu Kế Tổ thật là tràn trề hạnh phúc. Cho đến một hôm, trời đã về chiều, hau chú cháu vừa về tới nhà được một lát thì có hai người thợ sơn tên là Dương Vân và Trương Tú vốn cùng quê với Chương Tân, nay nghe nói Chương Tân làm ăn khá giả mới từ xa lần đến xin giúp đỡ. Lạ gì tánh con người ta sống nơi đất lạ nay gặp kẻ đồng hương tất sẵn lòng cưu mang đùm bọc, huống chi Chương Tân vốn dĩ đã có lòng nhân, ưa giúp người hoạn nạn. Cho nên khi Dương Vân và Trương Tú vừa ngỏ lời thời Chương Tân vui vẻ nhận cho ở đậu và hứa sẽ giúp vốn làm ăn, chừng nào trả cũng được. Đoạn Chương Tân gọi giết gà, mở rượu khoản đãi hai người và sai vợ là Vương Thị cấp tốc dọn dẹp căn phòng kế cận phòng vợ chồng Chương Tân cho hai người tạm ở. Kế Tổ từ lúc gặp Dương Vân và Trương Tú đã cố ý không ưng. Thấy hai người cùng trạc lối 25, 26 tuổi, khỏe mạnh, ăn nói hoạt bát lại hay nhìn trộm Vương Thị và Lưu Thị mỗi lần hai người đàn bà này bưng món ăn lên tiếp, thời Kế Tổ thấy ngài ngại và có linh cảm chuyện không hay đã theo gót hai tên này vô nhà mình. Chàng định bụng cơm nước xong sẽ nói riêng với chú điều mình nhận xét nhưng sau lại thôi vì nghĩ lại chàng thấy chú có vẻ hiểu lầm là chàng không muốn chú giúp người khác như chú đã từng giúp chàng.
Dương Vân, Trương Tú đến ở đậu nhà Chương Tân thấm thoát đã được hai tuần. Tuần đầu hai người lo mua sắm vật liệu dụng cụ làm sơn đem về chất đầy nửa căn nhà dưới cạnh bếp. Qua tuần sau, họ thay phiên nhau người chạy ngoài, kẻ lo việc ở nhà.
Chương Tân thấy cả hai còn trẻ tuổi đã biết lo làm ăn đứng đắn nên lấy làm ưng ý lắm thường khích lệ họ và ra thêm tiền bạc giúp vốn. Phần Kế Tổ lúc đầu có ý chẳng ưa sau thấy họ không tỏ vẻ chi xấc láo hỗn hào, chàng cũng dần dần có cảm tình với hai người. Còn về Vương Thị từ bữa có haic hàng trai trẻ đến ở chung nhà, nàng bớt gắt gỏng, bớt dằn vặt, bớt đay nghiến cháu dâu. Nàng lại thường dậy sớm hơn trước và hay chải chuốt óng ả hơn xưa. Nhiều lần nàng còn khuyên vợ Kế Tổ chẳng nên thức khuya dậy sớm e có hại vì đang tuổi ăn tuổi ngủ. trước kia ít khi Vương Thị xuống bếp thì nay nàng lại hay quanh quẩn ở sau nhà, chạy lăng xăng, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Nàng chăm lo săn sóc cho Dương Vân Trương Tú và nhất là cho Vân mà nàng dường như có chiều mến hơn. Thị lại khuyên chồng san sẻ bớt cho nàng và Lưu Thị công việc vặt tỉ như việc đi giao cho khách hàng áo quần đã may xong.
Chương Tân cả mừng thấy vợ sốt sắng giúp đỡ công việc làm ăn của mình. Riêng vợ Kế Tổ, từ ngày thấy thím dâu đối xử tử tế, độ lượng lại hay giao cho công việc chạy ngoài đưa hàng cho khách, thị lấy làm mừng lắm vì nhờ đó thị có dịp về thăm gia đình và đem quà cáp về cho các em.
Một bữa, Dương Vân và Trương Tú lên chợ Huyện sắm lễ vật về xin với Chương Tân và Vương Thị nhận hai người làm con nuôi. Chương Tân cảm động đến sa nước mắt, bèn làm lễ cáo gia tiên mời xóm giềng đến dự rồi nhận hai người làm dưỡng tử. Kế Tổ hơn họ một tuổi được làm anh, Dương Vân làm thứ còn Trương Tú làm út. Từ đó mọi người càng thân nhau hơn trước. Xem ra có Vương Thị và Dương Vân là vui mừng hơn cả. Một sáng ở nhà chỉ còn hai người, Vương Thị bèn lân la đền gần Dương Vân cười cợt, mắt liếc đưa tình. Vẫn Vương Thị biết Vân và Tú đều không đứng đắn và có ý ve vãn, tán tỉnh, ham muốn thị từ lâu. Quả nhiên Vương Thị đánh trúng tim đen của Dương Vân… Thế rồi việc phải đến đã đến, lạ gì lửa gần rơm phải bén rồi bốc cháy phừng phừng. Hai người bèn đưa nhau vào phòng ân ái. Dương Vân mới nhân dịp này cho Vương Thị biết hắn giả xin làm con nuôi Chương Tân để được ở mãi tại nhà này và được dịp thân mật với Vương Thị mà không sợ người ngoài dị nghị và Chương Tân, Kế Tổ nghi ngờ. Vợ Chương Tân đập nhẹ vào vai Dương Vân và khúc khích cười nói: “Thiếp biết thâm ý của chàng từ bữa đó. mưu chàng thế mà hay.”


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Old 06-13-2005, 04:18 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tấn tuồng thương luân bại lý đó cứ tiếp diễn mà không ai hay biết. Vân thường Trương Tú nhanh nhẹn hơn để vịn vào đó đẩy Tú đi lo việc giao dịch mua bán bên ngoài đặng hắn được ở nhà liên miên. Nhưng một bữa, Tú thấy hai mẻ sơn Vân ủ đều hỏng cả vì thiếu chăm nom. Tú cự nự và buộc Vân phải đi giao dịch thế cho Tú một vài ngày để Tú lo làm mẻ sơn thứ ba cho hoàn hảo. Vương Thị nghe vậy cũng phụ họa với Tú và khuyên Vân nên nghe theo, lấy cớ đừng để mọi người nghi ngờ tìm hiểu…
Thế là sáng sau Dương Vân buộc lòng phải đi thế Trương Tú. Một lát, Chương Tân, Kế Tổ và Lưu Thị cũng đi công việc thường lệ. Trong nhà chỉ còn Vương Thị và Trương Tú, Vương Thị cài cửa ra vào rồi đến bên cửa sổ trông ra lộ, ngồi chăm chỉ khâu áo quần cho khách hàng. Phía sau nhà Trương Tú cũng đang hăn hái ra sức pha chế, trộn, ủ mẻ sơn thứ ba. Hắn vừa làm vừa nhịp nhàng ca hát. Một hồi lâu sau, tiếng hát bỗng ngưng bặt và nếu ai tò mò nhìn vào nhà Chương Tân cũng không thấy Vương Thị ngồi khâu áo bên cửa sổ nữa. Một chú mèo mướp từ đâu chiu ra, nhảy lên giường nằm ườn trên đống vải, lăn lộn chán rồi lại vờn cuộn chỉ trắng. Thấy cuộn chỉ tròn lăn đều, lăn đều, mèo ta thấy hay hay chồm dậy vồ. Cuộn chỉ lăn mau, lăn mau rồi rơi xuống gầm giường. Phía sau sân nhà, một chú sáo đen huyền mỏ vàng tươi, từ đâu bay đến xà xuống đậu ngay vào nắp chiếc thùng mà thợ sơn vẫn dùng để trộn sơn cho đều trước khi ủ. Chừng nắp thùng được để một cách vội vã nên chú sáo vừa đáp xuống nó đã mất thăng bằng và rơi xuống sân đất nghe “bịch” một tiếng hko6 khan và ngắn ngủi. Sáo ta hoảng hồn tung cánh bay vọt lên chòm cây nghiêng đầu xuống như dò la, quan sát. Rồi thì tứ bề im lặng…
Không biết tối hôm ấy Vương Thị giải thích sao đó với Dương Vân mà từ bữa sau, Vân và Tú vui vẻ thỏa thuận luân phiên nhau kẻ ở nhà, người chạy ngoài y như trước.
Ngày lại ngày kế tiếp êm đềm trôi qua… Thấm thoát đã 2 tháng từ ngày Dương Vân và Trương Tú làm chuyện đồi bại với Vương Thị mà Chương Tân vợ vợ chồng Kế Tổ không hay biết chút gì. Nghĩ cũng tội nghiệp cho Chương Tân quá tin người nên rước họa vô nhà, nuôi lầm rắn độc.
Một tối vợ chồng Chương Tân cùng vợ chồng Kế Tổ và Dương Vân, Trương Tú, tất cả 6 người ngồi ăn cơm. Bốn người đàn ông cười cười nói nói vui vẻ lắm. Bỗng Chương Tân nói ra việc mình sắp cùng Kế Tổ lên tỉnh tìm địa điểm lập tiệm may cắt mai sau. Vương Thị và hai tên thợ sơn chột dạ lén nhìn Chương Tân và Kế Tổ như để dò xét. Khi được biết thên đó là dự định Chương Tân đã có từ lâu, cả ba đưa mắt nhìn nhau, mở cờ trong bụng. Cơm nước xong, Chương Tân dặn Vương Thị và Lưu Thị sửa soạn hành lý cho đầy đủ vì chuyến này hai chú cháu còn ở lại trên tỉnh ít lắm cũng phải hai tháng. Ngày đi được ấn định vào sáng 16 tháng 8 tức là còn 6 bữa nữa.
Chiều ngày 14, người bà con gần rất thân với Chương Tân đã đến bữa trước để nói về vụ Kế Tổ lấy Lưu Thị, lại đến thăm Chương Tân. Vừa ngồi xuống ghế, người ấy đã rút trong bọc ra một bức tranh cuộn tròn và nói với Chương Tân rằng:
- Tôi được người bạn ở Hàm Dương gởi cho tấm tranh này, nhưng nhà chật hẹp không có chỗ treo, lại thấy bác có đủ điều kiện để trương bức tranh này nên tôi xin đem biếu bác.
Chương Tân mừng lắm, đóm lấy bức tranh mở ra coi, thấy vẻ cảnh một con gà mái óng ả đẹp đẽ đứng giữa ba con gà trống. Góc trên có 4 chữ “thiên hạ thái bình”. Tântấm tắc khen bức tranh đẹp, có ý nghĩa rồi cảm ơn người bà con rối rít. Lát sau, người ấy cáo từ ra về. Chương Tân đem bức tranh treo lên vách nơi phòng khách rồi suốt bữa cơm Tân vừa nhắm rượu vừa bàn về bức tranh. Kế Tổ cũng khen nét vẽ linh động. Còn Vương Thị và Dương Vân, Trương Tú ba người chỉ nói đôi ba câu cho có lệ rồi đưa mắt nhìn nhau… Tối đó không biết Vương Thị năn nỉ ỉ eo thế nào mà qua sáng sau Chương Tân rinh bức tranh treo vô phòng riêng của hai vợ chồng. Kế Tổ hỏi, Tân trả lời treo ngoài sợ sái.
Sớm mười sáu, hai chú cháu khăn gói lên đường. Hôm ấy cũng là phiên Dương Vân ở nhà. Vương Thị lại sai Lưu Thị chạy việc bên ngoài như thường lệ, nhưng lần này có lẽ không e sợ Chương Tân và Kế Tổ về bất chợt nên Vương Thị chỉ dặn cháu dâu khi đi nhớ khép cửa ra vào lại.
Lưu Thị vừa đi khỏi, Vương Thị và Dương Vân hai đứa dắt nhau vào buồng giỡn hót tự nhiên không gìn giữ chi cả.
Nói về Lưu Thị đi được một quãng xa mới sực nhớ quên mang theo gói quà định đem cho các em. Nàng liền quay về nhà. Thấy cửa khép, vợ Kế Tổ mừng lắm nhẹ nhàng lách vô.
Nghe thấy tiếng thím dâu và Dương Vân nô giỡn bên trong Lưu Thị lấy làm lạ bèn lỏn vào phòng Chương Tân dòm sang. Chẳng dè vô ý chạm phải chiếc âu đồng đựng trầu của Vương Thị để trên chiếc bàn kê giáp vách. Aâu đồng rớt xuống đất lăn tròn kêu bong bong như báo động. Lưu Thị hết hồn ù té tông cửa chạy ra lộ rông thẳng một mạch. Nhưng chậm mất rồi, Vương Thị đầu tóc rối bù cũng vừa ló ở cửa phòng Dương Vân ra.
Tên thợ sơn hỏi giật giọng: “Ai vậy?” Vương Thị gắt: “Vợ Kế Tổ chứ ai”.
Dương Vân vội nói:
- Vậy thì nguy rồi, phải làm nó như mình thì mới bịt miệng nó được.
Rồi đôi gian pgu dâm phụ thì thào bàn mưu tính kế với nhau hồi lâu ra vẻ tương đắc lắm.
Khi Lưu Thị trở về, Vương Thị và Dương Vân làm như không có chuyện gì xảy ra cả. Đến tối, Trương Tú về, cả ba hội lại bàn tán với nhau hồi lâu mới tắt đèn đi ngủ.
Đêm ấy Lưu Thị ngủ một mình trong phòng. Đến khuya, Dương Vân lẻn vô giường đè Lưu Thị. Vợ Kế Tổ toan la thì Vương Thị đã đứng sẵn bên giường từ lúc nào, xáp vô bịt miệng giữ tay Lưu Thị để Vân mặc tình làm ô nhục nàng. Lưu Thị thế cô đành phải chịu. Sau đó Trương Tú vô phòng bắt cặp với Vương Thị.
Từ đếm đó, hai tên thay nhau khi bắt cặp với thím dâu lúc bắt cặp với cháu dâu.
Mấy thàng sau, Chương Tân và Kế Tổ trở về nhà. Chương Tân gặp nhiều lần vợ và hai tên thợ sơn có vẻ thân mật gần như suồng sã nên có ý nghi ngờ dò xét. Tân giả đau thỉnh thoảng về nhà bất chợt. Nhưng bọn kia đã đề phòng rồi nên Tân không bắt được quả tang. Hai tên đốn mạt bèn bàn với Vương Thị tìm cách hại Chương Tân và Kế Tổ. Aùc phụ khứng chịu thế là chúng đợi cơ hội thuận tiện để thi hành thủ đoạn bất nhân. Chúng không phải chờ lâu.
Một bữa Chương Tân bảo Kế Tổ:
- Nay đã đến mùa gặt, ta phải chia nhau đi đòi nợ. Vậy mai sớm ta cùng đi. Qua khỏi quãng rừng cây sơn đến xóm làng ở chân núi, ta sẽ chia tay nhau, con sang huyện Cửu Giang đòi mười khỏan nợ, phần ta sẽ qua Thôn Vọng thâu ba món tiền. Thôn Vọng gần hơn vả lại ta chỉ có ít việc tại đó tất sẽ xong sớm và về nhà trước con. Lượt về ta cũng ghé chơi vài người quen tại xóm làng ở chân núi, mà con đã biết. Vậy khi đòi nợ xong, con khá qua đó nếu ta còn ở đấy thì cùng về cho vui, bằng không, tức là ta đã về nhà rồi.
Nói đoạn lấy giấy tờ biên nợ ra trao cho Kế Tổ và dặn dò cặn kẽ về việc thâu tiền bạc sao cho phân minh.
Vương Thị nghe lỏm được liền cho Dương Vân và Trương Tú hay.
Sớm hôm sau, hai chú cháu sắp sửa lên đường xảy có người lối xóm đến nhờ Chương Tân qua đo cắt mấy bọ tang phục vì nhà có bà già đang hấp hối chắc khó lòng qua khỏi hôm nay. Chương Tân bèn bảo vợ qua bển lấy ni tấc rồi sửa soạn sẵn vải sô, vải trắng để chiếu tối ông về cắt may cho kịp. Ông cũng lại hối Kế Tổ sớm xong công việc mà về. Đoạn hai người ra đi.
Năm ấy trúng mùn nên việc đòi nợ không mấy khó khăn. Lối 10 giờ sáng Chương Tân đến Thôn Vọng thì quá ngọ ông đã thâu xong nợ. Ông vào quán ăn lưng cơm rồi trở về liền. Đến xóm làng ở chân núi ông vô thăm hỏi đôi ba người quen rồi tất tả băng qua cánh rừng sơn về nhà. Lúc đó đã xế chiều.
Trương Tú đừng rính bên đường thấy Chương Tân từ xa đi lại bèn ra hiệu cho Dương Vân hay. Hai tên giả bộ lấy rìu đẽo vỏ cây sơn ở ven đường để coi đã lấy được chưa. Khi Chương Tân đi tới gần, Trương Tú làm như chợt ngửng lên nhìn thấy và reo lên: “Cha đã về” rồi gọi Dương Vân rối rít. Hai đứa giắt rìu vào thắt lưng rồi chạy a lại đón đường Chương Tân hỏi:
- Cha về sớm vậy, cha đưa gói đồ con mang đỡ.
Nói đoạn hai đứa làm bộ tranh nhau mang đồ cho Chương Tân nhưng rồi Trương Tú nhường cho Dương Vân ôm gói đồ, còn y thì đi sát sau lưng Chương Tân, làm bộ cười nói vui vẻ. Ba người đi gần đến cái hồ sen lớn bên đường. Dương Vân tiến lên, vỗ nhẹ vào vai Trương Tú. Trương Tú gật đầu bước qua bên trái đi ngang hàng với Chương Tân, trong khi Vân xáp lại sau lưng cha nuôi. Bỗng Vân hét lớn “Giết nó đi”, rồi hắn vươn hai cánh tay hộ pháp nhấc bỗng Chương Tân lên. Trương Tú nghe hiệu lệnh tức thì khom lưng chụp lấy hai cẳng Chương Tân lôi về phía trước. Trong chớp mắt, người thợ may xấu số kia bị hai tên ác ôn vác lên vai chạy như bay đến hồ sen. Chương Tân cố sức vùng vẫy, hết la hét cầu cứu rồi lại van xin. Nhưng không may cho ông ta, chẳng có ai đi tới cả.
Đến bờ hồ sen, hai tên bất nhơn ném mạnh ân nhân của chúng xuống đất. Chương Tân lồm cồm bò dậy thời Trương Tú đã phóng chân đạp giữa mặt người cha nuôi. Chương Tân nằm ngửa trên cỏ, máu mũi trào ra lai láng. Ông chống hai cánh tay gầy còm toan ngồi lên nhưng Trương Tú đã nhào tới đè ông xuống và Dương Vân cũng đã rút chiếc rìu lưỡi sáng và bén vung trước mặt Chương Tân, rồi tên sát nhân nhắm giữa đỉnh đầu người cha nuôi bổ mạnh xuống. Lưỡi rìu cắm sâu vào sọ Chương Tân, sau một tiếng “rắc” khô khan. Đôi mắt người chồng Vương Thị chan hòa nước mắt rồi lại dại dần, dại dần… Tội nghiệp cho ông ta suốt một đời ăn ở lương thiện, từ tâm, chẳng may gặp phải phường vô lại mà bị chết thảm thương.
Bỗng từ phía xa, tiếng khỉ kêu choe :De vang dậy cả một khu rừng. Hai tên sát nhơn sợ có người đi đến nên hối hả lấy vải cột đá vào thây kẻ bạc mạng rồi thả xuống hồ, mà quên không rút chiếc rìu trong sọ nạn nhân. Đoạn hai đứa lượm hành lý ra về, vừa đi vừa cười nói huyên thuyên. Tới nhà chúng mừng rỡ thuật lại cho Vương Thị nghe, thị cũng tỏ vẻ hài lòng và căn dặn hai đứa kín tiếng đừng tiết lộ cho Lưu Thị hay.
Tối đó Vương Thị hỏi Trương Tú:
- Nếu Kế Tổ về hỏi chú nó đâu thì trả lời làm sao?
Trương Tú đáp:
- Thì đừng để nó hỏi nàng hãy hỏi nó trước là chú đâu. Chừng nó trả lời không biết tưởng chú về nhà rồi, lúc đó nàng sẽ vu cho nó giết chú rồi đi trình quan. Tất nhiên nó sẽ bị tù, nàng và Lưu Thị cùng hai đứa tôi, tha hồ vùng vẫy.
Vương Thị khen là diệu kế.
Hai hôm sau, Kế Tổ về tới nhà. Vừa thấy mặt Kế Tổ, Vương Thị đã lớn tiếng hỏi:
- Chú mày đâu sao không về cùng?
Kế Tổ đáp:
- Con về Thôn Vọng miền, y theo lời chú dặn, có ghé qua rước chú nhưng mấy người quen cho hay chú đã về được ba hôm rồi.
Vương Thị túm lấy Kế Tổ la làng ầm ĩ, đỗ diệt cho Kế Tổ đã giết chú đoạt của. Kế Tổ sững sờ, chưa biết trả lời ra sao thì lối xóm đã đổ đến, bu kín trong ngoài. Vương Thị bèn hô trói Kế Tổ rồi nhờ người viết cáo trạng giải Kế Tổ lên cáo với Bao Công.
Bao Công xem đơn xong, quát hỏi Kế Tổ:
- Chú nuôi mi từ nhỏ sao chẳng lo đền ơn mà lại giết chú?
Thây giấu ở đâu phải khai mau.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Old 06-13-2005, 04:19 AM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Kế Tổ sa nước mắt đáp:
- Thiệt tình tôi oan. Tôi và chú tôi đi đòi nợ. Nửa đường hai người đi hai xứ khác nhau: Chú tôi qua thôn Vọng Miền còn tôi qua huyện Cửu Giang. Đòi xong, tôi ghé làng ở chân núi rước chú thì người ta nói chú tôi về trước 3 ngày rồi. Tôi ơn chú tôi nhiều, lẽ nào lại giết chú. Xin Thượng quan xét cho.
Vương Thị vội kêu với Bao Công:
- Xin Thượng quan đừng tin lời nó. Nó tánh du đãng, ngỗ nghịch, xài phá tiền bạc. Chồng tôi răn dạy nó sanh lòng oán hờn mà giết đi. Xin quan cho tra tấn nó phải khai đã giấu thây chồng tôi ở đâu.
Bao Công không nói chi, ông nhìn Vương Thị có vẻ nghi ngờ. Bỗng ông biểu lính kêu mấy người ở cận nhà Chương Tân đến hỏi. Mấy người chứng đến. Thơ lại theo lệ toan cho lính dẫn Kế Tổ và Vương Thị ra ngoài chờ để Bao Công hỏi nhân chứng. Nhưng Bao Công ra hiệu cứ để hai người ở lại.
Bao Công hỏi mấy người hàng xóm về tánh hạnh của Kế Tổ. Họ đều khai Kế Tổ thật thà, chăm lo làm ăn và nhất là kính mến chú lắm.
Bao Công vờ quát mắt mấy người chứng là ăn tiền của Kế Tổ để nói tốt cho bị cáo.
Rồi ông sai lính đánh mỗi người 5 roi và đuổi về. Ông lại sai lính nện cho Kế Tổ 20 côn và gông lại đem giam vào ngục, hẹn cho 3 ngày phải khai chỗ giấu xác chú. Đoạn Bao Công ôn tồn bảo Vương Thị cứ yên tâm ra về, ông sẽ trừng trị nặng nề Kế Tổ. Vương Thị nghe nói, mừng rỡ vô cùng, vòng tay vái Bao Công và nói:
- Thượng quan thật là sáng suốt, tử tế. Xin Trời Phật độ trì cho đại quan sống lâu để trị dân cho thiên hạ được nhờ.
Bao Công lạnh lùng nhếch mép cười gằn mà không nói chi cả.
Vương Thị đi khỏi, Bao Công cho thám tử đi theo bén gót đặng dò la. Ngay tối đó, vào canh một (khoảng 8 đến 10 giờ tối) Bao Công giả dạng làm thường dân, sai lính dẫn đường đến nhà Vương Thị. Các nhà lân cận đều đã tắt đèn đi ngủ cả, riêng nhà Vương Thị còn chưng đèn sáng choang, Bao Công bảo nhỏ hai người lính hầu đứng canh chừng đoạn ông nhẹ nhàng tiến vào sân lần theo vách, kiếm chỗ thủng nhằm vô nhà Vương Thị.
Vương Thị vai kề vai Trương Tú còn Dương Vân ngồi kế bên Lưu Thị. Cả bốn đang ăn uống. Bỗng Dương Vân nâng ly rượu đế nói với Vương Thị và Trương Tú:
- Nếu chẳng cao kế thì ngày nay đâu có được như vầy! Nào cạn chén.
Rồi cả ba cười đùa vui vẻ, riêng có Lưu Thị vẻ mặt buồn rầu nói:
- Các người chỉ biết vui sướng lấy thân, làm chồng ta bị oan.
Dương Vân cười nham nhở nói:
- Bốn ta ở chung với nhau há chẳng vui hơn sao?
Nói rồi ôm đại Lưu Thị vào lòng mà vỗ về: “Thôi để ta giải sầu cho”, Lưu Thị cả giận mắng:
- Trước mặt mọi người sao dám vô lễ vậy?
Vương Thị thấy gay go muốn gỡ giùm nên hỏi Dương Vân:
- Quan dạy Kế Tổ nội 3 ngày phải khai chỗ giấu thây. Vậy chớ mình giấu có kín không?
Tên bất lương đáp:
- Thây quăng dưới hồ sen trên có dằn đá lớn chẳng bao lâu thì tan, ai tìm ra nổi.
Rồi cả bọn cười đùa ăn uống no say. Cơm xong Trương Tú hỏi Lưu Thị đêm nay muốn bắt cặp với ai. Lưu Thị không trả lời. Vân và Tú hai đứa giành nhau cãi lộn om sòm, Vương Thị vội giải hòa:
- Thôi y theo lệ cũ cho khỏi sanh chuyện.
Rồi 4 đứa dắt nhau nằm chung một giường tính chuyện mây mưa.
Bao Công từ nãy đến giờ đã nghe và trông thấy hết. Tới đây, giận lắm ông bèn lui ra lộ đi như bay về Nha. Vừa vào đến cổng ông sắn tay áo, vớ dùi nện một hồi trống lệnh. Giữa đêm thanh vắng, tiếng trống nổi lên ầm ầm… Báo hại ba quân đang ngủ phải vùng dậy, la gọi nhau ồn ào, rồi quơ vội giáo mác chạy ra tập hợp trước công đường.
Trông thấy Bao Công sắc mặt hầm hầm, mắt long lanh, giận dữ, các toán lính lấm lét nhìn nhau. Bao Công điểm hai đội lính võ trang đầy đủ biểu đem theo bốn chiếc gông cùm rồi ông truyền lệnh chia quân làm 4 toán kéo đến bao vây tứ phía và bắt tất cả các người đang ở trong nhà Vương Thị giải về Nha.
Dương Vân, Trương Tú thấy đang đêm có quân lính kéo đến ầm ầm, biết là câu chuyện đã đổ bể chúng liền mở cửa sau chạy trốn. Nhưng thiên bất dung gian chúng vừa ra tới vườn nhà bên cạnh thì bị toán quân thứ hai của Bao Công phục tại đây thộp tóc. Vương Thị và Lưu Thị lúng túng trong nhà chưa kịp chạy cũng bị lình tông cửa vô bắt ráo. Cả bốn đều bị cùm và giải về Nha. Bao Công nhìn mặt thấy đúng là 4 đứa ban nãy liền quát lính vật chúng ra đất nện cho mỗi tên 30 côn thiệt đau rồi đem tống giam vào ngục.
Sáng hôm sau, Bao Công cho dẫn Kế Tổ lên nói qua cho biết việc bắt bớ hi632i đêm và hỏi:
- Từ đây qua xóm làng ở chân núi có cái hồ sen lớn nào ở trong rừng không?
Kế Tổ đáp có. Bao Công truyền mở gông cho Kế Tổ rồi biểu đi trước dẫn đường còn ông lên kiệu theo sau với mười người lính biết lặn giỏi.
Quan quân và Kế Tổ băng qua rừng hồi lâu mới đến chỗ có hồ sen. Nơi này vắng vẻ thật. Bao Công xuống kiệu gọi Kế Tổ và 4 người lính đi theo đến bên bờ hồ. Bao Công chăm chú xem xét đám sen gần bờ bỗng ông dừng lại chỉ tay xuống chỗ có nhiều lá sen bị gãy và bảo Kế Tổ:
- Thây chú ngươi ở dưới đó.
Kế Tổ nghe nói khóc rống lên rồi nhảy đại xuống hồ mò xác chú, 4 người lính cũng lội theo xuống tìm kiếm. Hồi lâu họ mới gặp xác Chương Tân và khiêng lên bờ. Thấy lưỡi búa kẹt trong sọ người chết, Bao Công sai quân lấy ra cho ông coi. Trên cán rìu có khắc hai chữa Dương Vân.
Bao Công đưa rìu cho Kế Tổ coi và hỏi có phải là của một trong hai tên bị bắt đêm qua không. Kế Tổ đáp phải. Bao Công lại hỏi:
- Thằng đó bà con chi với chú ngươi?
- Nó là người cùng quê sau được chú tôi nhận làm con nuôi cùng với Trương Tú.
Rồi Kế Tổ nhất nhất thuật lại sự việc từ đầu đến đuôi. Bao Công nghe đoạn lắc đầu, nhìn xác Chương Tân, nét mặt buồn rầu có ý thương thay cho người bạc phước, lỡ nuôi ong tay áo. Đoạn ông quay lại bảo tốp lính:
- Ta để lại hai người giúp Kế Tổ chôn cất xác chú y.
Về đến Nha, Bao Công lập tức đăng đường truyền lính dẫn 4 tù nhơn bắt đêm trước lên cho ông xét hỏi.
Bao Công chỉ mặt Dương Vân, Trương Tú mà quát mắng rằng:
- Tụi bây là phường vô ân bạc nghĩa, đang lúc thất cơ lỡ vận cười người ta có lòng tốt cưu mang đùm bọc, cấp vốn liếng cho làm ăn lại nhận làm dưỡng tử, sao còn sanh dạ sài lang, đã phá hoại gia đạo người ta lại còn nhẫn tâm đón đường giết ân nhân, rồi dìm thây xuống hồ. Tội chúng bây thực đáng chết.
Hai tên bất lương thất Bao Công nói vậy đã chột dạ, mặt mày xanh mét nhưng còn cố cãi là oan. Bao Công cả giận cầm chiếc rìu vất xuống đất trước mặt hai đứa và phán rằng:
- Tang vật ràng rành chối cãi nữa thôi. Hay cần phải xem lại tử thi mới chịu nhận tội.
Hai đứa cứng họng, đứng chết trân nhìn nhau nhưng vẫn gan không chịu khai một lời. Bao Công thét lính nọc cổ hai đứa đánh cho một trận rồi lại sai sửa soạn cực hình để tra khảo.
Hai tên khiếp sợ vội thú nhận hết tội lỗi, nhận có thông dâm với Vương Thị nhưng sợ Chương Tân biết và oán hận nên giết đi.
Bao Công dạy lính đóng gông xiền cho chắc và đem giam cả hai vào gian tử tội.
Đoạn Bao Công điểm mặt Vương Thị, trợn mắt vỗ án la:
- Thân đàn bà đã phản chồng lấy trai sao còn độc ác đồng mưu giết hại chồng?
Vương Thị mếu máo đổ tội cho hai tên kia:
- Bẩm Thượng quan, mưu mô hại chồng tôi là do nơi hai tên Vân và Tú còn tôi không biết, xin quan sinh phúc, xét lại cho.
Bao Công vỗ án la:
- Như ngươi không biết sao lại dám vu tội hại Kế Tổ.
Nói rồi truyền lính đánh Vương Thị 30 gậy và đem tống giam nơi tử tội.
Đến lượt Lưu Thị, Bao Công quắc mắt hỏi:
- Còn nhà ngươi là gái có chồng lại là phận cháu dâu, sao không biết ngăn cản kẻ làm bậy hay cáo quan mà còn lừa dối chồng ăn nằm với trai rồi lại thuận tình giết chú hại chồng?
Lưu Thị khóc lóc thưa rằng:
- Bẩm Thượng quan, tôi bị thím dâu phụ họa với hai tên ép buộc, tôi thế cô nên đành chịu ô nhục còn việc giết chú chồng tôi, thiệt tình tôi không biết. Đến lúc sự việc đã rồi và chồng tôi cũng bị chúng hại mà lâm vòng tù tội, tôi lại bị chúng đe dọa nên chẳng dám cáo quan. Xin quan thương tình minh xét cho.
Bao Công quở mắng Lưu Thị một hồi rồi sai lính đem tống giam vào ngục.
Lưu Thị đi khỏi, Bao Công truyền sắp bút giấy để ông làm án. Ông nghị xử chém và bêu đầu Dương Vân và Trương Tú, xử lăng trì Vương Thị, đầy Lưu Thị ra nơi biên ải.
Gia tài của Chương Tân được giao cho Kế Tổ.



LỜI BÀN
Xem vụ án “Đồng mưu hại chồng” trên đây, bạn thấy Bao Công đã lên 3 cái án tử hình và 1 án lưu đày: chém và bêu đầu tại nơi công cộng hai tên Dương Vân (thủ phạm) và Trương Tú (đồng lõa), xử lăng trì Vương Thị vợ của Chương Tân.
Còn Lưu Thị vợ của Kế Tổ bị lưu đày ra nơi biên ải (biết một trọng tội mà không tố cáo).
Nếu phải xử với pháp luật ngày nay thì Dương Vân cũng bị khép vào tội cố sát với trường hợp gia trọng chiếu điều 296 và 299 HLCC: gia trọng vì có dự mưu và vì tư cách nạn nhân (Chương Tân là cha nuôi của y). Và y cũng sẽ phải chịu hình phạt tử hình. Trương Tú và Vương Thị hai kẻ đồng lõa (tòng phạm) cũng phải chịu tử hình.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Old 06-14-2005, 02:14 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Hồi 07

ĐEM MÈO TRÁO CHÚA


Đời nhà Tống bên Tàu, vua Chơn Tôn, tức Thái Tử Hằng (con vua Thái Tôn Triệu Khuông Nghĩa, kêu Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn bằng bác. Tống Chơn Tôn trị vì từ năm 998 đến năm 1023 sau Chúa Giáng sinh, sinh 25 năm) lên ngôi năm Mậu Tuất, phong vợ lớn là Lưu thị làm hoàng hậu, vợ thứ là Lý thị chưa thần phi.
Từ năm 1004 sau tây lịch, rợ Khiết Đơn nước Liêu thế lực mạnh, dấy đao binh, ồ ạt xâm lấn biên thùy, vua Chơn Tôn phải ngự giá thân chinh. Rồi mặc dầu về sau, hai nước Tống, Liêu nghị hòa, vua Tống hằng năm phải nạp lễ cống. Chinh chiến dây dưa mãi cho đến hơn một thế kỷ sau, nước Tống dưới thời vua Huy Tôn, liên hiệp với nước Kim, một nước nằm về mạn Đồng nước Liêu, miền thượng du sông Hắc Long, mới tiêu diệt được hẳn nước Liêu, vào năm 1125.
Đây nhắc lại, triều vua Tống Chơn Tôn, trong hàng ngũ bá quan, trung có nịnh có. Bên trung, thì Thái sư Lý Hàng, tể tướng Khấu Chửng, Bao Chửng tức Bao Công đang giữ chức Phủ doãn tại Khai Phong; bên nịnh, thì có bọn Bàng Hồng, Khu mật phó sứ và rể y là Tôn Tú, đang làm tri giám viên, là hai tên đầu dọc, chước quỷ mưu thần, mãn đời chuyên ăn của hối, tâu ra tâu vào, hãm hại tôi ngay, chung quanh lại có một phồn gian thần làm vi cánh, đục khoét của công.
Vua sai kén 80 mỹ nữ tấn cung. Trong sốn người được chọn, thứ nhứt có Địch Thiên Kim, em gái Tổng binh tỉnh Nguyên Địch Quảng, dòng dõi trung thần. Nhì có nàng Khấu Thừa Ngự.
Tuy vua thấy Thiên Kim vừa ý, nhưng nghĩ đến cảnh cô đơn của Bát vương, anh bà con của mình, nếu nhường lại cho người, xung Nam thanh cung hầu hạ. Còn Khấu Thừa Ngự thì cho vào Chiêu dương cung, đứng đầu 78 mỹ nhân còn lại, cho Lưu hoàng hậu sử dụng và phân phát cho tam cung lục viện.
Lúc sửa soạn bình Liêu, vua rất hài lòng vì cả hai bà đang có mang sắp đến ngày sinh nở. Lòng vua lúc nào cũng mong có được hoàng nam để nối nghiệp mình.
Trong thời gian vắng bóng thiên tử, hai bà đều lâm bồn. Lưu hoàng hậu hạ sanh một gái. Lý trần phi lại được con trai. Hoàng hậu rất lo sợ cho số phận mình, bèn cho loan tin là mình cũng sanh được con trai. Ngày kia, bà cho đòi viên Thái giám Quách Hòe vào để bàn luận về việc đã lỡ phao tin thất thiệt và yêu cầu viên Thái giám bày mưu thiết kế, hầu tránh cho bà cái tội khi quân về sau, và giữ vững ngôi Hoàng hậu. Quách Hòe liền nghĩ ngay được một kế độc, là phải đem một con mèo đánh tráo hoàng tử hại Lý thần phi cho dứt hậu hoạn.
Hoàng hậu khen kế màu. Bèn cùng Quách Hòe và cung nữ ẵm công chúa sang Bích Vân cung, giả vờ đi thăm Lý thần phi. Sau câu chuyện ấm lạnh bề ngoài Lưu hoàng hậu mời Lý thần phi sang cung Chiêu dương chơi giao hoàng tử cho Quách Hòe bồng. Hoàng hậu nói:
“Hoàng – thượng đi vắng, chị buồn lắm. Vậy mẹ con em qua cung chị mà chơi một ngày cho khuây. Hãy giao hoàng tử cho Quách Thái giám vốn y là người hết lòng trung – hậu thì em khỏi lo ngại chi cả”.
Hoàng – hậu thì bồng công chúa, Quách Hòe thì ẵm hoàng tử, đồng thời về Chiêu dương cung. Đến nơi hoàng hậu truyền thết tiệc đãi đằng Lý thần phi rất trọng thể và chị chị em em cho đến chiều tối mà chưa mãn tiệc. Khi hỏi đến hoàng tử thì Hoàng hậu kiếm lời nói cho trôi. Đến khi từ tạ về Bích vân cung, thì trời đã sập tối. Hỏi cung nữ hoàng tử đâu, thì chúng bảo Thái giám dạy không nên làm kinh động, hoàng tử hãy còn ngaon giấc. Khi thần phi thay y phục, vào trướng, giở mền thì, hỡi ôi! Hoàng tử đâu không có, chỉ thấy một xác con mèo chết cứng từ bao giờ! Thần phi thét lên và ngất xỉu. Khi tỉnh lại, biết đã mắc kế Hoàng hậu và Quách Hòe. Vua thì chưa về, oan ức này biết kêu với ai? Đang khi sững sờ chết điếng, nước mắt ràn rụa, bỗng nghe gõ cửa. Mở ra, thì thấy cung nữ Khấu Thừa Ngự bên Chiêu dương cung. Thừa Ngự run rẩy lập cập trình rằng: “Tâu lịnh bà, người ta âm mưu hại bà. Qua canh ba thì Bích Vân cung sẽ cháy mà bà cũng không khỏi bị hại. Vậy xin bà kịp lo lắng mặt. Có thể đến Nam Thanh cung mà ẩn trú một thời gian, chời khi Thánh thượng ban sư rồi sẽ hay. Tôi có đem theo một tấm kim bài và y phục của nội giám, xin bà chớ diên trì”.
Tội cho Thần phi tâm hồn bấn loạn phải trốn ngay khỏi cung mình, đêm hôm tối như mực, không thuộc đường lối, phần thì vừa ra khỏi chẳng bao xa, quay lại thấy lửa đỏ trời… Bích Vân cung đang cháy. Dân chúng trong thành đều hãi hùng. Lý thần phi thoát khỏi, nhưng không vào Nam thanh cung.
Lưu hoàng hậu và Quách Hòe bèn sai cung nữ Khấu Thừa Ngự bồng hoàng tử đem quăng nơi Kim Thùy trì cho mất tích. Khấu Thừa Ngự vâng lịnh, khi tới bờ ao thì không nỡ nhẫn tâm, bèn ngồi đó mà khóc. May thay, Thái giám Trần Lâm vừa đi hái hoa Bát Vương, đến gần nghe tiếng khóc, hỏi ra mới rõ là một quốc gia đại sự. thái giám họ Trần cả kinh. Bèn bảo Khấu Thừa Ngự trao hoàng tử cho mình đem về Nam thanh cung. Trần Lâm vốn là một trung thần nên Thừa Ngự không ngần ngại. Trao xong hoàng tử, Thừa Ngự liền nhảy xuống ao mà chết.
Hoàng tử được Nam thanh cung Địch phi nuôi dưỡng, đặt tên là Triệu Thọ Ích, năm sau Địch phi sanh được một trai đặt tên là Triệu Bích.
Đến năm Thọ Ích 9 tuổi, Bát vương từ trần. Hai năm sau, vua dẹp xong rợ Khiết Đơn và hồi trào, nghe thuật chuyện Bích vân cung bị thiêu hủy và mẹ con Lý thần phi và cung nhân đều bị hại. Vua thương tiếc vô cùng, nên lập Thọ Ích làm đông cung thái tử cải tên là Triệu Trinh. Con của Bát vương thì phong làm Lộ huê vương.
Đến năm thái tử 14 tuổi, vua Chơn Tôn băng, triều thần tôn Triệu Trinh lên ngôi cửu ngũ, lấy hiệu là Nhơn Tôn, niên hiệu là Thiên Thành nguyên niên.
Về sau, nhơn dịp xứ Trần Châu thất mùa, vua hạ chỉ sai Bao Công đi chẩn bần, trên đường về kinh sư, bị một con trốt làm rớt mão, quân hầu bảo đó là “lạc mạo phong”. Bao Công sai đi bắt, hai người tùy viên là Trương Long, Triệu Hổ bị luồng gió mạnh thổi bay tờ trát tới tay một chàng bán rau, họ bèn bắt dẫn về. Bao Công hỏi dò rồi tìm đến một lò gạch hư, gặp một người đàn bà mù, tức là Lý thần phi, mẹ nuôi người bán rau Quách Hải Thọ. Cái án Quách Hòe khởi điểm từ lúc ấy.
Đọc xong đoạn truyện này, ai cũng ngẫm nghĩ: Lưu hoàng hậu bảo đã lỡ báo tin sanh được hoàng nam, e vua biết thì phải tội khi quân; thì tại sao không giữ luôn con Lý thần phi làm con mình, còn con gái của mình thì lưu một nơi khác, có tiện không? Lại đem giết hoàng tử đi? Nhà viết truyện sơ suất: giết mẹ con hoàng tử, đành rồi… Nhưng khi vua biết hoàng hậu sanh con gái mà bảo sanh con trai, thì mới trả lời làm sao? Như vậy, mưu kế của Quách Hòe có ích chi cho hoàng hậu?


__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #20  
Old 06-14-2005, 02:14 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tôi không muốn kể thêm nữa. Chỉ xin lạm bàn qua cái tội của gian thần Quách Hòe và thử hỏi: “nếu y ở vào thời nay, sẽ bị hành hình ra sao?”
Thì đây: âm mưu đốt Bích vân cung (là một dinh thự), tòa sẽ kêu tử hình, chiếu điều 434 Hình Luật. Đem xác một con mèo tráo hoàng tử, nếu đổi hoàng tử với công chúa, đem hoàng tử về cho hoàng hậu. Quách Hòe chỉ phạm tội hoánh nhi (substitution d’en fant) điều 345 Hình luật phạt cầm cố. Đồng lõa cũng bị như chính phạm. Quách Hòe và Lưu hoàng hậu sai cung nữ Khấu Thừa Ngự đem hoàng tử đi giết, ấy là tội đồng lõa mưu sát trẻ sơ sinh. Các điều 297, 298, 299 và 300 Hình luật phạt tử hình.
Khi Bao Công hết thúc vụ án hi hữu này rồi. Lưu thái hậu hổ thẹn tự ái mà chết. Lúc ấy Thái giám Trần Lâm hãy còn sống. Bao Công mới đến dự cuộc xử lăng trì Quách Hòe. Quân sĩ áp giải tử tội đến quỳ trước mặt Trần Lâm, Bao Công nói: Cho hay hai người cùng làm thái giám, mà kẻ nịnh người trung, nhục vinh có khác! Thật là: ti11ch thiện phùng thiện, tích ác phùng ác vậy”.
Quách Hòe bị căng xác ra , quân sĩ lóc từng miếng thịt, móc ruột gan ra cho vào một thùng nước giữa pháp trường.
Hình luật cổ tân thời tuy có tàn khốc, nhưng quân gian lấy đó răn mình. Trường hợp Quách Hòe phạm nhiều trọng tội đại hình. Đời nay, dầu với tình trạng giảm khinh, chưa chắc khỏi rơi đầu. Nhưng nếu tòa án áp dụng thời hiệu về hình sự, thì sao? Nói đến đây, lại thấy nếu ban phớt qua hai thứ thời hiệu tố quyền và thời hiệu hình phạt.
Thời hiệu tố quyền có nghĩa là trong một thời gian nào đó, tòa án chưa kêu, nếu không truy tố thì không có quyền truy tố nữa. Đối vớ bị cáo tự tử, công tố viên xin tòa tuyên cáo hình sự tố quyền tiêu diệt. Và tòa phải tuyên cáo như thế.
Thời hiệu hình phạt, thì bắt đầu “chạy” khi bản án thành nhứt định. Nếu vì một lẽ gì không đem thi hành trong thời hạn luật định, thì bản án đó mất hết hiệu lực. Người bị kết án khỏi thọ hình. Đó là một vấn đề liên hệ đến trật tự công cộng. Bị cáo tình nguyện thọ hình cũng không được. Khước biện có thể nêu lên lần đầu trước tòa Phá án. Người đồng lõa cũng được hưởng như chánh phạm. Nếu có một đạo luật mới sửa đổi thời hiệu, tòa án tùy nghi áp dụng luật thế nào có lợi cho bị can.
Lại còn một thứ thời hiệu nữa là thời hiệu dân sự tố quyền, nghĩa là quyền của người bị thiệt hại kiên kẻ phạm tội trước tòa hình để đòi tiền bồi thường thiệt hại.
Một khi nạn nhân sự phạm pháp, hay thừa kế của nạn nhân, đứng nửa hình nửa hộ, kiện đòi thiệt hại đúng phép tắc, thì tố quyền ấy cũng có hiệu lực giống như hình sự tố quyền, của ông biện lý, ông chưởng lý. Vả lại, miễn công tố viên đứng truy tố tội trạng, thì tố quyền dân sự được bảo vệ, vì sự truy tố làm ngưng thời hiệu tiêu diệt. Đối với tố quyền dân sự, thời hiệu cũng giống như tố quyền hình sự. Tuy nhiên, nếu sự phạm pháp không đủ yếu tố để tòa kết án bị can, thì tố quyền dân sự còn dùng được trong 30 năm. Nếu giữa bị can và nạn nhân có giao kèo gì khác, thì trong 30 năm nạn nhân hay người thừa kế vẫn còn kiện đòi bồi tổn được.
Trở lại thời hiệu hình sự tố quyền, tòa án áp dụng nó theo tất cả tội phạm kể luôn các tội thật nặng. Các thời hạn không giống nhau: 10 năm cho tội đại hình (điều 637 Hình sự tố tụng Pháp); 3 năm cho tội tiểu hình (điều 638 HSTTP); 1 năm cho tội vi cảnh (điều 640 HSTTP).
Nghĩa là trong những khoảng thời gian ấy àm không truy tố, không lập biên bản, không mở cuộc thẩm vấn, thì thời hiệu “chạy” kể từ khi xảy ra vụ phạm pháp, không bị gián đoạn. Nếu quá thời hạn, thì không còn quyền truy tố nữa.
Luật pháp rất tỉ mỉ: người ta phân biệt các vi phạm ra nhiều thứ, nào là vi phạm tức thành (in – fractions instannées), nào là vi phạm liên tiếp (infractions contirues), vi phạm quán hành (infractions d’habitude) mà ấn định khởi điểm của thời hiệu tố quyền.
Ví dụ như tài xế lái xe hơi cán một trẻ em, y sẽ bị truy tố về tội ngộ sát nếu do tai nạn ấy nó chết đi. Thời hiệu tố quyền hình sự bắt đầu từ ngày xảy ra tai nạn kia, chớ không phải từ ngày nạn nhân chết, vì tội ngộ sát là một vi phạm tức thành.
Còn về thời hiệu hình phạt, thì như vầy: 20 năm cho hình phạt đại hình (điều 635 HSTTP); 5 năm cho hình phạt tiểu hình (điều 636 HSTTP); 2 năm cho hình phạt vi cảnh (điều 639). Xin nhắc: đó là một vấn đề trật tự chung: tình nguyện thọ hình cũng không được.
Quách Hòe là nôi bọn đốt Bích Vân cung, sai giết hoàng tử, thời hiệu khởi “chạy”, vì không có truy tố; nếu tính đến 10 năm sau, thì công tố viện hết truy tố nữa được. Mà cho d0ến khi vỡ lở thì 18 năm đã trôi qua. Không có gì làm gián đoạn thời hiệu tố quyền hình sự. cả bọn có thể khỏi bị truy tố. Chỉ còn nước đạp cổ chúng ra khỏi dinh thự mà thôi…
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:35 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.