Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #21  
Old 06-19-2004, 03:55 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C18:Giai nhân Tô, Hàng.

Hôm ấy, sau một ngày duyệt binh về, Long Xưởng họp các em với Thủ Huy tại ngự thiện đường để cùng ăn cơm trưa. Mục đích, sau bữa ăn, anh em cùng vào cung vấn an phụ hoàng, mẫu hậu, rồi lên đường tiến quân.
Cơm xong, anh em đang vui đùa với nhau thì Thủ Huy ghé miệng vào tai công chúa Đoan Nghi nói nhỏ :
- Trên nóc điện có hai gian nhân nghe trộm.
- Muội khám phá ra từ lâu rồi. Trong hai tên, thì một tên già, một tên trẻ. Hai tên này nội công rất cao thâm. Chúng thở ra nhỏ như tơ. Không biết chúng thuộc môn phái nào ?
- Nội công chúng hơi giống nội công nhà mình. Để anh bảo Tăng Khoa lôi cổ chúng xuống.
Long Xưởng cũng đã khám phá ra hai người nghe trộm. Vương để chung rượu xuống bàn rồi nói lớn :
- Cao nhân phương nào giá lâm Đông cung, sao không xuống đây cùng anh em tiểu vương đồng ẩm, đàm văn, luận võ, mà núp trên nóc điện chi cho nhẹ thể ?
Nói rồi vương cầm chung rượu tung lên nóc nhà. Chung rượu xuyên thủng mái ngói ra ngoài.
Tăng Khoa lạng người một cái, y đã ra ngoài sân. Trên nóc điện bốn thị vệ đang bao vây hai người bịt mặt. Một người đàn ông to lớn, uy nghi mặc áo vàng, một người đàn bà nhỏ bé mặc áo xanh. Chỉ hai chiêu, người áo xanh đã đánh bay bốn thị vệ rơi xuống sân. Lối đánh rất đặc biệt, tuy dũng mãnh, nhưng nhẹ nhàng, giống như hai sư huynh sư đệ đồng môn tập luyện vậy.
Tăng Khoa thấy hai người không có ác ý, hầu tung mình lên nóc cung, chắp tay hướng người hai người:
- Thái tử có lời thỉnh nhị vị xuống uống chung rượu.
Trong khi vái, Tăng vận kình lực ra hai tay. Người áo vàng lơ đãng nhìn trời. Trong khi người áo xanh phất tay một cái, kình lực phát ra như sóng vỗ. Bình một tiếng, Tăng Khoa cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngừng. Hầu phải lùi liền ba bước để hóa giải kình lực.
Long Xưởng kinh ngạc không ít, vì suốt mấy năm qua Tăng Khoa được Thủ Huy chỉ dạy không ngừng cùng với Long Minh, Long Đức, Long Hòa. Hơn nữa Tăng luyện tập rất cần cù. Có thể nói, bản lĩnh của Tăng hiện không thua vương làm bao. Trong các võ tướng của triều đình, rất hiếm người đấu ngang tay được với Tăng.
Long Xưởng đưa mắt ra hiệu cho Thủ Huy, rồi cả hai cùng tung mình lên nóc điện. Long Xưởng cung tay :
- Cao nhân giá lâm, không biết có gì dạy bảo ?
Người áo xanh hất hàm hỏi :
- Phải chăng người là Lý Long Xưởng, được phong tước Hiển Trung vương ?
- Quả đúng như cao nhân nói.
Người áo xanh lại nhìn Thủ Huy :
- Phải chăng người là cháu nội của đại hiệp Trần Tự Kinh ?
Thấy người này có vẻ coi thường Long Xưởng, mà lại tỏ ra kính trọng ông nội mình. Thủ Huy cung tay :
- Dường như cao nhân có quen biết với ông nội vãn bối ?
Người áo xanh không trả lởi, y phát một chiêu chưởng đánh thẳng vào mặt Thủ Huy. Kình lực chưa ra hết mà Thủ Huy đã cảm thấy ngộp thở. Công kinh hãi, vội xuất chiêu Đông hải lưu phong đỡ. Ầm một tiếng, người áo xanh bật lui liền ba bước, hai tay xoa vào nhau tỏ vẻ đau đớn. Còn Thủ Huy bật tung người lên cao, ngói trên nóc điện bay khắp bốn phía. Tiếng chưởng chạm nhau, tiếng ngói rơi, còn có mấy tiếng la hoảng của Đoan Nghi, Trang Hòa và anh em Long Xưởng. Bởi hiện công lực Thủ Huy có thể nói là cao thâm nhất trong các võ quan của triều đình, thế mà dường như ngang sức với người áo xanh.
Thủ Huy lộn hai vòng trên không, rồi đáp xuống nóc điện. Công cung tay hướng người áo xanh :
- Xin cao nhân cho biết cao danh quý tính.
Người áo xanh không trả lời Thủ Huy mà nói một mình :
- Chiêu Đông hải lưu phong sao đang dương, lại chuyển sang âm được nhỉ ?
Bà ta gật gật đầu :
- Người quả thực là cháu của một vĩ nhân nổi danh nhân nghĩa nhất Đại Việt.
Người áo xanh hướng người áo vàng :
- Chủ nhân ! Y là con giòng cháu giống, mình có thể đối thoại được.
Đến đó Nghĩa Thành vương vừa đến. Vương đưa mắt nhìn người áo vàng : Từ tướng đi, từ hai vai, từ cái lưng đều rất quen thuộc, rất thân ái, mà vương không đoán ra là ai. Người áo vàng đang bước đi, khi nhìn thấy vương, ông ta cũng dừng lại. Bốn mắt nhìn nhau, tay ông run run, dường như súc động.
Dù bị coi thường, nhưng Long Xưởng vẫn tỏ ra lễ độ. Vương kéo ghế mời hai người ngồi trên, ngang với Nghĩa Thành vương. Còn mình thì ở ngôi chủ vị tiếp khách. Nhưng chỉ người áo vàng ngồi, còn người áo xanh thì khoanh tay đứng hầu phía sau.
Người áo vàng xuất hồn nhìn khắp ngự thiện đường một lượt, rồi nói một mình, nhưng để cho Thủ Huy nghe :
- Ta có một thắc mắc là từ xưa đến giờ, đại hiệp Tự Kinh nổi tiếng nhân từ, hiệp nghĩa nhất Đại Việt, thường dạy con cháu nên đứng ngoài vòng danh lợi để giữ cho thân thể thơm tho. Cớ sao người lại cho cháu nội lăn mình vào chốn hôi tanh này nhỉ ?
Thủ Huy thấy phong thái của hai người, công chắp tay :
- Thưa tiền bối, thời vua Trưng, các anh hùng cùng cắp gươm phò tá ngài, có ai vì mấy đấu gạo đâu ?
Người áo vàng phẩy tay một cái, tỏ ra cử chỉ tát yêu Thủ Huy :
- Khá lắm, người ứng đối nhanh như vậy thì hẳn là con trai của Bùi Anh Hoa? Người là Thủ Huy hay Thủ Lý ?
- Thưa, cháu là Thủ Huy.
- Hồi người đầy năm, ta có gửi tặng cho người một món quà. Món quà đó là cái khánh ngọc đỏ khắc hình con rồng với con chim âu quấn lấy nhau. Món quà đó đâu rồi ?
Thủ Huy giật bắn người lên, công mở to mắt nhìn người áo vàng. Vì ông chính là người ấy, mà ông nội, bố mẹ cùng các sư thúc muốn đưa lên ngôi vua, thay cho Chính long Bảo ứng hoàng đế. Suốt từ thời thơ ấu, Thủ Huy cũng như một số các đệ tử phái Đông a đều nghe các bậc trưởng thượng nhắc đến, mà không biết người ấy là ai. Một lần Thủ Huy hỏi mẹ : Cái khánh ngọc đeo trên cổ từ đâu mà có ? Bà Anh Hoa trả lời : Do người ấy tặng cho con lúc đầy năm. Thủ Huy hỏi người ấy là ai, thì bà Anh Hoa lắc đầu không muốn nói. Bây giờ nghe người áo vàng xưng là nhân vật đã tặng khánh ngọc cho mình, thì công biết ông chính là người ấy.
Nghe câu nói đó, Thủ Huy vội lậy phục xuống đất :
- Cháu...cháu... xin kính cẩn ra mắt sư bá.
Nói rồi công kéo chiếc khánh đeo trên cổ trao cho người áo vàng. Người áo vàng vẫy tay tỏ ý không cần coi. Ông phát một chiêu nhẹ nhàng, kình lực đỡ Thủ Huy đứng dậy. Ông cười :
- Cháu gọi ta là sư thúc chứ đừng gọi là sư bá, mà sau này bà chị Anh Hoa lại mắng ta. Vừa rồi cháu tự ví việc ra làm quan của cháu với các anh hùng thời Lĩnh Nam. Như vậy cũng được đi. Song quần hùng Lĩnh Nam theo phò vua Trưng là phò cái chí của ngài. Đức của vua Trưng cao vòi vọi. Còn ngày nay cháu theo phò cái cục bột Thiên Tộ (ghi chú : tức vua Anh tông hay Chính long Bảo ứng hoàng đế) chỉ biết có gái, thì thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô, bán bò tậu ễnh ương mất rồi.
Kiến Ninh vương vốn nóng tính. Vương thấy người áo vàng nhục mạ phụ hoàng thì quát lớn :
- Im cái mồm. Người có biết đây là đâu không mà nói lời vô phép như vậy ? Hay người ỷ có võ công cao, rồi muốn nói gì thì nói ư ? Người hãy nhìn xung quanh mà xem, thị vệ đã vây kín Đông cung. Ta chỉ hô lên một tiếng, là thị vệ sẽ băm người ra như băm chả ngay.
Mọi người chỉ thấy hoa mắt một cái, tiếp theo hai tiếng bốp. Người áo xanh đã tát Kiến Ninh vương hai cái, rồi lùi trở về chỗ, tay chỉ vào mặt vương :
- Bây giờ chính ta bảo mi im cái mồm, bằng không ta lấy tính mệnh mi.
Người áo vàng vẫn nói bằng giọng kẻ cả :
- Ta tiếc cho cháu ! Tài trí không thua gì Kinh Nam vương xưa. Kinh Nam vương tuy đem tài ra giúp Tống, nhưng Tống Nhân tông là người biết tài vương, lại thương dân, thực xứng đáng là đấng quân phụ. Còn Thiên Tộ, thì hỡi ơi !
Thủ Huy chỉ vào Long Xưởng :
- Thưa sư thúc, nếu nhìn bề ngoài thì thế. Nhưng sự thực lại khác. Xưa kia, ông Cổ Tẩu là người ương gàn, thế mà lại sinh ra bậc thánh là vua Thuấn. Cha của Tăng Tử là người ác, thế mà con lại là người hiền. Đệ tử tuân lệnh nội tổ ra giúp nghĩa huynh, khi vận nước chông chênh như trứng trồng, chứ đâu có vì bổng lộc !
- Cái gì mà trứng chồng ?
Thủ Huy tóm lược việc Tống sai mật sứ sang mưu chiếm ngôi vua, biến Đại Việt thành quận huyện. Rồi các đại tôn sư họp nhau phá vỡ. Tiếp theo đến việc bắt Tống công nhận quốc danh, khi phong, phải phong làm An Nam quốc vương, chứ không được phong làm Giao chỉ quận vương. Cuối cùng, là viêc đi sứ Kim.
Người áo vàng gật đầu :
- Lâu nay ta ẩn thân, nên không biết rõ tình hình. À thì ra thế. Ta có nghe nhiều người ca tụng cái đức của thằng bé con Long Xưởng. Ta không tin. Bây giờ nghe cháu nói, ta cũng tin một phần.
Ông nhìn Long Xưởng :
- Này bé con ! Ta nghe con nhỏ Từ Thụy Hương trước đây là tỳ thiếp của người, rồi tại sao y thị lại trở thành Tuyên phi ? Sự việc ra sao ?
Long Xưởng chưa kịp trả lời, thì Kiến Tĩnh vương đã lên tiếng :
- Việc phụ hoàng ta phong cho ai làm phi, làm thiếp, người không có quyền hỏi. Người là ai mà dám có giọng điệu đại bất kính như vậy ?
Người áo xanh búng tay một cái, một hạt vàng bay ra, bay thực chậm, nhưng quay tròn với tốc độ cực nhanh kêu lên tiếng vi vu, rồi thình lình véo một tiếng , hột vàng bay vòng cầu trúng vào huyệt Á môn của Kiến Tĩnh vương. Lập tức toàn thân vương bị tê liệt, mở miệng không ra.
Công chúa Đoan Nghi thấy anh bị áp chế, thì chịu không được. Nàng rút kiếm, rồi chuyển thân mình một cái, kiếm đã dí vào cổ người áo xanh.
Người áo xanh kinh hoàng, bà lộn liền ba vòng về sau để tranh mũi kiếm. Sau ba vòng, bà lại đáp xuống giữa ngự thiện đường. Nhưng khi bà đáp xuống, thì mũi kiếm vẫn dí vào cổ bà. Thì ra Đoan Nghi đã dùng một chiêu võ trấn môn của Long biên kiếm pháp, nàng chuyển thân theo bà như bóng với hình. Lòng nguội như tro tàn bà lên tiếng :
- Mi đánh trộm ta mà thành công. Ta không phục.
Bấy giờ bà mới nhìn kẻ khống chế mình, đó là một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, nhan sắc diễm lệ. Chợt bà kêu lên :
- Mi... Mi là công chúa Đoan Nghi. Nếu mi là anh hùng, thì hãy đường đường chính chính đấu với ta mà thắng ta, ta mới phục.
Công chúa Đoan Nghi thu kiếm về :
- Được ! Người hãy rút kiếm ra. Nếu người thắng được ta, thì ta sẽ tha cho người rời khỏi nơi đây.
Người áo xanh rút kiếm, rồi gật đầu :
- Nào chúng ta qua lại mấy chiêu với nhau.

Thấp thoáng ánh thép, Đoan Nghi đã ra một chiêu, cắt đứt giải buộc khiến chiếc khăn bị mặt của người áo xanh rơi xuống đất. Tất cả mọi người hiện diện đều bật lên tiếng ái chà. Vì bộ mặt người áo xanh cực đẹp. Thực là một giai nhân tuyệt thế.
Người áo xanh hét lên một tiếng, rồi vung kiếm tấn công. Chiêu số của bà rất quái dị, khi thì giống Mê linh kiếm pháp. Khi thì giống Đông a kiếm pháp. Khi thì giống Hoa sơn kiếm pháp. Trong khi Đoan Nghi dùng kiếm chiêu, thì người kia dùng kiếm khí, kình lực phát ra kêu vo vo. Đoan Nghi khoan thai trả đòn. Đấu được trên trăm hiệp, Đoan Nghi đã tìm ra nguyên tắc kiếm thuật của người áo xanh : Bà ta khéo phối hợp kiếm pháp Mê linh, Đông a và Hoa sơn làm một, mà không một chút sơ hở.
Từ đầu đến cuối, người áo vàng không nói một câu, ông lơ đãng nhìn trận đấu giữa người áo xanh với Đoan Nghi, thình lình ông nhổm người dậy, tay ông phóng ra hai chỉ. Choang, choang hai tiếng kiếm của Đoan Nghi với người áo xanh bị vuột khỏi tay, bay lên trần nhà, cắm vào cây xà. Đoan Nghi kinh hãi lùi lại ba bước.
Người áo vàng nói một mình :
- Hà ! Con nhỏ này học ở đâu được kiếm pháp của Linh Nhân hoàng thái hậu. Khá lắm.
Thủ Huy giật mình hỏi :
- Thưa sư thúc, cháu tưởng đó là Mê linh kiếm pháp chứ...
- Cháu biết một mà không biết hai. Dĩ nhiên căn bản là Mê linh kiếm pháp. Nhưng, cháu nên nhớ, Linh Nhân hoàng thái hậu đã học võ công Hoa sơn, Đông a, Hồng thiết, trước khi học Mê linh kiếm, vì vậy khi ngài xử dụng Mê linh kiếm pháp, thì không còn là kiếm pháp nguyên thủy nữa. Cho nên, sau này, ngài truyền kiếm pháp ấy lại cho hậu thế, thì kiếm pháp đó là thứ kiếm pháp bị ngài pha trộn thành một loại kiếm pháp mới. Cũng như cháu, cháu học võ công Đông a, Hoa sơn một lúc, thành ra dù cháu xử dụng võ công nào, thì cũng không còn thuần túy nữa.
Thủ Huy cau mày suy nghĩ, công chợt nhớ ra, có rất nhiều chiêu công dạy cho Đoan Nghi phảng phất võ công Đông a, Hoa sơn. Bất giác công đưa mắt nhìn người áo vàng, và nghĩ thầm : Ông là bạn của bố ta có khác. Bác học đến thế là cùng.
Nguời áo vàng hỏi Long Xưởng :
- Người đã biết ta là ai chưa ? Chắc là chưa, vì vậy khi ta mắng gã Thiên Tộ thì người bực mình.
Ông mở khăn bịt mặt ra, mọi người cùng ồ lên một tiếng, vì ông giống Chính long Bảo ứng hoàng đế như hai giọt nước. Có điều đôi mắt ông sáng long lanh, da hồng hào, chứng tỏ nội công của ông cao thâm khôn lường.
Nghĩa Thành vương rưng rưng nước mắt, bật kêu lên :
- Đại huynh ! Thì ra đại huynh vẫn còn tại dương thế ! Hỡi ơi, gần hai chục năm qua, đệ cứ tưởng đại huynh bị Cảm Thánh với Đỗ Anh Vũ hại rồi. Tạ ơn trời phật, đại huynh vẫn cơn sống, mà võ công cao đến dường này.
Người áo vàng ôm lấy Nghĩa Thành vương :
- Anh thoát cả trăm lần chết, ngày nay mới được thấy em.
Ông hỏi Long Xưởng :
- Người đã biết ta là ai rồi mà sao không quỳ gối ra mắt ?
Long Xưởng cẩn thận hơn :
- Tiểu bối ở địa vị cầm đại quyền quốc gia, không thể chỉ vì gương mặt tiền bối mà nhẹ dạ tin ngay được. Vãn bối phải dè dặt.
Người áo vàng móc trong bọc ra một con nai bằng ngọc xanh biếc trao cho Long Xưởng :
- Người cẩn thận như vậy là phải. Người hãy coi xem vật này là gì đây ?
Long Xưởng khúm núm cầm lấy con nai, trên có khắc ị Thiên Thuận ngũ niên, ngũ nguyệt, sóc nhật, Sửu thì, Thiên Lộc Ể. Nghĩa là niên hiệu Thiên Thuận thứ năm (DL.1132, Nhâm Tý), tháng năm, ngày 1, giờ Sửu, Thiên Lộc sinh.
Long Xưởng chợt nhớ lại, trong tập Thần tông thực lục có chép :
ị... Khi Thần tông được 12 tuổi, thì mẹ là Chiêu Hiếu hoàng thái hậu (Vợ Sùng Hiền hầu) đã tuyển cho hàng chục phi tần. Nhưng nhà vua không sủng ái người nào. Cho đến năm ngài 16 tuổi, thì có sự thay đổi lớn. Một ngày, nhà vua trốn khỏi Hoàng thành đạo chơi phường bán hoa ngoài thành Thăng long, thì ngài gặp thiếu nữ bán hoa tên Hồng Hạnh. Ngay từ lúc mới gặp nàng, ngài đã say mê. Từ đấy, đêm nào ngài cũng trốn ra gặp nàng, khi thì mua hoa, khi thì làm thơ tặng. Nhưng nàng là một thiếu nữ được giáo dục rất kỹ về tam tòng, tứ đức, nên dù ngài đeo đuổi cả tháng trời, mà nàng vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Việc này đến tai mẫu thân Hồng Hạnh, bà đùa với ngài rằng :
- Nếu cậu muốn hỏi con gái tôi, thì cậu hãy về làm một bông hồng hạnh bằng vàng đem đến đây dẫn lễ.
Lập tức ngài trở về cung, sai làm một bông hồng hạnh bằng vàng thực lớn, rồi hôm sau đem ra cho bà mẹ nàng. Bà mẹ giật mình, nhưng vẫn đùa :
- Được rồi, tôi gả nó cho cậu. Vậy giờ Thìn ngày mai, cậu phải đem kiệu rồng đến đây rước dâu.
Kiệu rồng là kiệu dành cho vua ngự. Bà nói câu đó, có ý nhắn nhủ rằng bà không gả Hồng Hạnh cho ngài. Ngài trở về truyền lễ quan, cung nga, thái giám, hôm sau đem kiệu rồng ra đón Hồng Hạnh nhập cung, phong làm Tu dung. Bấy giờ cha mẹ nàng mới biết ngài là vua. Ngài cực kỳ sủng ái Hồng Hạnh. Nhưng Chiêu Hiếu thái hậu, cùng Cảm Thánh hoàng hậu và hai bà Thục phi, Tuyên phi cực kỳ ghét nàng.
Nhập cung được hai tháng thì Tu dung Hồng Hạnh có thai. Niên hiệu Thiên Thuận thứ 5, tháng 5, ngày mùng một, giờ Sửu, thì tu dung sinh ra một hoàng nam. Vua đặt tên là Thiên Lộc, lập làm thái tử, truyền lấy viên ngọc xanh lớn nhất khắc hình con nai, với hai sừng, ban cho. Tu dung Hồng Hạnh được thăng lên Thần phi.
Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ tư (Bính Thìn, DL. 1136), Cảm Thánh hoàng hậu lại sinh ra hoàng tử Thiên Tộ. Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ 6 (Mậu Ngọ, DL.1138) vua Thần tông bệnh nặng, truyền gọi Tham tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn Thông vào để viết di chiếu.
Cảm Thánh hoàng hậu, Tuyên phi Nhật Phụng, Thục phị Phụng Thánh đem vàng hối lộ cho Thông. Khi nhà vua truyền Thông viết chiếu truyền ngôi cho Thái tử Thiên Lộc, thì Thông cầm bút suy nghĩ. Một lát ba bà Cảm Thánh Nhật Phụng, Phụng Thánh vào khóc rằng :
Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của người thiếp được vua yêu. Nếu cho Thiên Lộc nối ngôi, thì bà mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con bọn thiếp tránh sao cho khỏi bị tai vạ ?
Vì thế vua xuống chiếu lập hoàng tử Thiên Tộ kế vị, còn thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương...
...Niên hiệu Đại Định nguyên niên (Canh Thân. DL. 1140), phong Thần phi Hồng Hạnh làm Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu và phong một vị sủng phi khác của vua Thần tông là Đức phi Quỳnh Chi, một bà phi bác học đa năng, thường được vua dùng như một đại học sĩ phụ tá làm Linh khang Chiêu đức thái phi. Ể
Sau không thấy ai nhắc đến Minh Đạo vương cùng bà phi Hồng Hạnh ra sao. Một lần Long Xưởng có hỏi Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, thì ông nói rằng : "Nhờ Từ Văn Thông giúp mà hoàng thượng được lên ngôi vào lúc ba tuổi. Quyền hành do Chiêu Hiếu hoàng thái hậu và em hậu là Đỗ Anh Vũ. Trước đây Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu có theo học với một đạo cô phái Tản viên, nay ngài theo đạo cô này đi tu. Niên hiệu Đại Định thứ 8 (DL1147), Chiêu Hiếu thái hậu khám phá ra vụ Đỗ Anh Vũ tư thông với Cảm Thánh hoàng thái hậu. Anh Vũ với Cảm Thánh hoàng thái hậu ám hại Chiêu Hiếu thoàng thái hậu. Quyền vào tay Anh Vũ với Cảm Thánh hoàng thái hậu. Một lần Minh Đạo vương cùng với vương phi trên đường về Cổ pháp viếng lăng mộ tiên đế, thì bị cướp giết cả nhà. Ai cũng bảo Cảm Thánh hoàng thái hậu với Anh Vũ ra tay ám toán."
Bây giờ thấy người mặc áo vàng giống phụ hoàng như hai giọt nước, cùng di vật từ đời vua Thần tông, nhất là Nghĩa Thành vương đã nhận ra anh mình, Long Xưởng không nghi ngờ gì nữa. Vương hô các em quỳ xuống, rồi khấu đầu :
- Bọn thần xin khấu đầu trước hoàng thúc. Vì không biết rõ thân thế Hoàng thúc, nên bọn thần có nhiều điều vô lễ. Mong Hoàng thúc đại xá cho.
Minh Đạo vương chỉ ghế :
- Các người không nên đa lễ. Các người ngồi đây đi. Đức Thái tổ nhà ta xuất thân là đứa trẻ chăn trâu ở chùa Tiêu sơn, Linh Nhân hoàng thái hậu thủa hàn vi cũng từng chăn trâu. Ta muốn cùng các người dùng tình mà ở với nhau, chứ không muốn lễ nghi phiền phức.
Ông chỉ vào thiếu nữ áo xanh :
- Đây là đệ tử thứ ba của ta, tên Bạch Phụng.
Ông ngửa mặt nhìn vào quãng xa xôi, rồi tiếp :
- À, để ta thuật cho các người nghe bằng cách nào ta sống sót cho tới ngày hôm nay? Hồi sáu tuổi ta đã bắt đầu luyện võ với một sư phụ phái Đông a, năm mười ba tuổi, thân mẫu định tuyển phi tần cho ta. Song, ta xin khất lại, để có thời gian học văn luyện võ. Mãi đến năm mười sáu tuổi, thì ta gặp một thầy đồ nghèo khổ, vợ chết không có tiền chôn cất. Ông đến yết kiến, xin bán con gái với giá ba lượng bạc. Ta thương tình, ban cho ông mười lượng bạc, lại sai sắm quan quách, chôn cất vợ ông ta, mà không nhận con gái. Ông ta thâm cảm ơn nghĩa, xin ta nhận ông với con gái làm gia thuộc trong phủ. Ta nhận lời cho ông làm gia sư, phụ trách chức trưởng sử. Còn con gái ông, thì tuyển làm cung nga tại ngự thư phòng. Nhưng khi ta gặp con gái ông, thì hỡi ơi, nàng là một giai nhân tuyệt thế. Cho nên, chỉ hơn tháng sau, ta quyết định tuyển nàng làm vương phi. Việc này, khắp triều đình đều phản đối, duy mẫu thân ta thì lại vui vẻ. Nàng tên là Phạm thị Thanh Thủy.
Vương ngước mắt nhìn lên trời :
- Thanh Thủy vốn được cha dạy văn, ta cho nàng luyện võ. Chỉ ít lâu sau, võ công nàng trở thành cao thâm. Gia sư trong phủ đều bị nàng vượt qua. Còn ta...Tuy ta bị truất ngôi thái tử, nhưng trong lòng không một chút oán hờn, bởi đó là ý chỉ của phụ hoàng. Ta nghĩ : Mình không được làm vua, thì mình cũng có thể giúp em mình, như Khai Quốc vương xưa đã giúp vua Thái tông. Ta hết sức học văn, luyện võ, lại bỏ tiền bạc ra kết thân, chiêu mộ hào kiệt. Cho đến năm 17 tuổi, ta là một trong những đệ tử có võ công cao nhất của phái Đông a. Bản lĩnh của ta ngang với hai người con của sư phụ là Tự Hấp, Tự Duy, với Đại Việt ngũ tuyệt. Anh hùng Chiêm, Việt, Hoa ra vào cửa ta rầm rập, họ thấy Cảm Thánh dâm loạn quá, Anh Vũ lại cực kỳ ác độc. Họ đưa ý kiến rằng nên giết Cảm Thánh, Anh Vũ rồi đưa ta lên làm vua. Ta cực lực từ chối. Vì vậy Cảm Thánh với Đỗ Anh Vũ không yên tâm. Họ sợ ta hỏi cái tội dâm loạn, chuyên quyền của họ, nên họ bàn mưu với nhau trừ ta trước. Kể ta với lực lượng anh hùng theo ta, ta có thể giết Cảm Thánh, Anh Vũ dễ dàng. Nhưng dù sao Anh Vũ cũng là ông cậu của phụ hoàng ta. Cảm Thánh là hoàng hậu thời tiên hoàng. Vì vậy ta khoanh tay, mặc cho hai người lộng hành. Thế nhưng, đùng một cái, ta được cung nga thân tín báo cho biết rằng Đỗ Anh Vũ bàn với Cảm Thánh hoàng thái hậu định vu cho ta cái tội mưu phản rồi đem đại quân làm cỏ trang ấp của ta. Quá kinh hoàng, ta nghĩ chỉ có cách giả chết ẩn thân mới thoát nạn. Một mặt ta phân tán tân khách, thủ hạ đi khắp nơi. Một mặt ta đem vương phi về Cổ pháp lễ lăng mộ tiên đế, rồi trốn sang Trung quốc. Không ngờ chuẩn bị của ta bị Anh Vũ biết. Y sai một đội cao thủ sáu người, gồm ba nam, ba nữ đón đường giết ta. Ta với vương phi chống trả giết được 5 tên, còn một tên cuối cùng, võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Y chỉ đánh có hai chiêu, vương phi của ta bị táng mạng. Còn ta, y chỉ đánh có mười chiêu ta bị ngã. Gữa lúc chúng ta tuyệt vọng, thì sư phụ Trần Tự Kinh cùng hai người con là Trần Tự Hấp và Trần Tự Duy xuất hiện. Tên cao thủ của Cảm Thánh thấy ba người thì bỏ trốn biệt. Sau đó ta quy ẩn, âm thầm luyện võ, thu đệ tử. Các hào kiệt nghe ta còn sống, thì lại tụ họp về với ta.
Thủ Huy hỏi :
- Thưa sư thúc, cái tên cao thủ của Anh Vũ ấy dùng võ công môn phái nào ?
- Y dùng võ công Đông a.
Thủ Huy bật lên tiếng than :
- Ái chà. Không lẽ là Mao Khiêm ?
- Đúng ! Chính là y.

Minh Đao vương chỉ lên tường, nơi treo nhiều tranh và bút pháp :
- Đây là Đông cung, nơi ta đã ở mấy năm. Khi phụ hoàng người lên ngôi, ta bị truất ngôi thái tử, trở thành Minh Đạo vương, ta phải rời nơi này để trở về phủ đệ riêng. Từ ngày bị ám hại phải xa Thăng long, lòng tưởng nhớ quê hương, mỗi năm ta lại âm thầm về thăm lại chốn cũ. Lần này, bị các người khám phá ra.
Ông chỉ vào Bạch Phụng :
- Tuy xa Thăng long, nhưng ta an trí mỗi châu, mỗi trấn, mỗi huyện một đệ tử để theo dõi tình hình đất nước. Bạch Phụng là người phụ trách vùng Thăng long.
Ông hỏi Bạch Phụng :
- Ta trao cho con phụ trách vùng kinh thành. Thế sao cái vụ Thiên Tộ cướp Từ Thụy Hương của Long Xưởng, mà con không biết ?
- Thưa sư phụ, tự đệ tử không muốn biết.
Bạch Phụng thuật : Khi trao cho đệ tử coi vùng Thăng long, sư phụ có dạy rằng ị Chư sự lớn nhỏ đều phải biết, khi hành sự phải tôn trọng luật lệ. Duy có việc trong Hoàng thành thì tuyệt đối không được tò mò vào, cũng không được can thiệp vào Ể. Chính vì vậy mà việc Chính long Bảo ứng hoàng đế đem Từ Thụy Hương vào cung, rồi phong làm Tuyên phi, đệ tử không theo dõi. Tuy nhiên nếu sư phụ muốn, đệ tử sẽ cho điều tra.
Minh Đạo vương tỏ vẻ buồn rầu, ông hỏi Long Xưởng :
- Ta nghe võ lâm anh hùng đàm tiếu về việc này quá nhiều, nên phải về đây điều tra cho rõ ngọn nguồn. Sự đã ra thế này thì còn dấu diếm làm gì ? Người hãy thuật cho ta rõ uyên nguyên ra sao !
Long Xưởng đành thuật lại từng chi tiết : Nguồn gốc ca kỹ của vú Mai, kẻ vô danh đánh chồng vú bị tê liệt, trong khi đó vú mang thai rồi sinh Thụy Hương. Vú được tuyển làm nhũ mẫu cho Đoan Nghi, sau ba năm vú muốn ở lại thì bị quan Ngự sử đại phu đàn hặc về việc chồng vú bị liệt, mà vú mang thai. Ngự y cũng xác nhận rằng chồng vú bị tổn thương xương sống, không thể giao hợp với đàn bà, mà vú vẫn có thai, thì cái thai đó là con hoang. Sau nhờ Đoan Nghi xin, Long Xưởng cho vú vào ở trong Đông cung. Thụy Hương học văn, luyện võ đều thành, và Đại Việt thất tiên kết thân với nhau, phá tan âm mưu chiếm Đại Việt của Tống. Rồi mối tình Thụy Hương với Thủ Huy diễn ra mà Long Xưởng không biết. Khi Thủ Huy lấy vợ thì Thụy Hương lại trở thành người tình của Long Xưởng. Cuối cùng Thụy Hương được phong Tuyên phi và phụ chính cho nhà vua.
Nghe Long Xưởng thuật, mặt Minh Đạo vương tái đi, ông hỏi bằng giọng run run :
- Thế... Thế...Triệu Mai Hương hiện ở đâu ?
- Thưa hoàng thúc, Triệu Mai Hương là ai ?
- Là...là vú Mai đó. Triệu Mai Hương là một giai nhân gốc người Dương châu, bên Trung nguyên.
Đoan Nghi kinh ngạc :
- Không biết hoàng thúc có lầm không ? Bởi vú Mai có khuê danh là Trần Lệ Mai, khi đem vú vào nuôi sữa cho hài nhi, Khu mật viện đã về quê vú ở Đăng châu điều tra. Viên quan điều tra còn đến cả nhà từ tổ của vú xem xét gia phả. Như vậy thì sao vú là người Dương châu được ? Suốt thời gian nuôi sữa hài nhi, cũng như trong mười năm ở Đông cung, vú không biết nói tiếng Hoa, thì sao có thể là người Tống ? Theo hài nhi nghĩ, có lẽ hoàng thúc đã lầm ca kỹ Triệu Mai Hương với vú Mai thì phải.
Trán Minh Đạo vương nhăn lại, ông hỏi :
- Có thể như thế. Không chừng trong thời gian Triệu Mai Hương nức danh đế đô, thì vú Mai cũng nổi tiếng, nên có sự lầm lẫn chăng ? Thế vú Mai đâu ? Cứ cho ta gặp nàng là ta biết ngay.
Long Xưởng đáp thay em :
- Từ khi Thụy Hương trở thành Tuyên phi thì vú vào ở trong cung với con gái.
- Ta sẽ thân vào Hoàng cung điều tra vụ này.
Thủ Huy nghĩ thầm :
- Cứ nghe ngôn từ của Minh Đạo vương, thì dường như trước đây vú Mai là người tình của vương thì phải ? Bằng không tại sao ông biết bà có tên là Mai Hương ?
Minh Đạo vương thẫn thờ như người mất hồn. Ông nhìn Bạch Phụng :
- Phải theo dõi vụ này thực chi tiết. Bạch Phụng ơi ! Con cố tìm hiểu xem tại sao vú Mai đang là một ca kỹ tài sắc nhất Thăng long, có biết bao nhiêu vương, hầu, khanh, tướng cầu hôn, mà thị không nhận lời ; mà lại nhận lời cầu hôn của một thị vệ võ công bình thường, tiền không, văn tài cũng không, cho đến cái dáng đẹp đẽ bên ngoài cũng không có. Vấn đề thứ nhì là liệu thủ phạm ám toán chồng vú Mai có phải là gian phu ăn nằm với vú Mai sinh ra Thụy Hương không ? Cuối cùng, phải điều tra xem vú Mai có phải là Triệu Mai Hương không. Việc này hơi khó đối với bất cứ người đàn ông nào. Nhưng con là nữ thì không khó. Bởi ngay trên nhũ hoa trái của Mai Hương có một vết sẹo hình hoa mai.
Minh Đạo vương nhìn Long Xưởng, rồi lắc đầu :
- Ban nãy các cháu bàn nhau chuẩn bị ra quân thực mật, cho đến phút :Dt có phải thế không ?
- Quả như hoàng thúc dạy.
Ông hỏi Thủ Huy :
- Phàm khi ra quân thì chúa tôi phải một lòng, thì mới thành công. Nay cháu tuổi còn trẻ, tước tới công, mà lại cầm binh quyền trong tay, liệu có tránh được miệng thế có dèm pha không ?
Nghe Minh Đạo vương hỏi, Long Xưởng rùng mình nghĩ thầm :
- Quả mẫu hậu, Giai phi vơí ta cùng nghi ngờ Thủ Huy ! Vị hoàng thúc này sao lại đoán ra được ? Ta im lặng, xem Thủ Huy trả lời thế nào.
- Thưa sư thúc ! Đối với phụ hoàng, cháu là phò mã. Đối với anh Long Xưởng cháu là nghĩa đệ, là em rể. Là phò mã, nếu cháu không làm được những việc nghiêng trời lệch đất như thánh Tản với vua Hùng, thì ít ra cháu cũng noi gương tổ của là Kinh Nam vương đối với vua Nhân tông nhà Tống. Lòng cháu sáng như trăng, như sao. Vì vậy cháu nghĩ dù phụ hoàng, dù nghĩa huynh... đều tin vào lòng trung của cháu, chứ có đâu nghi ngờ ?
Long Xưởng nghĩ thầm :
- Ta không tin người đâu.
Minh Đạo vương lắc đầu :
- Ừ thì ta cứ tạm tin như vậy. Còn việc ra quân, các cháu có giữ đươc bí mật không ?
- Dạ được ạ !
- Ta không tin ! Các cháu hành động như thế này thì không khác gì lậy ông tôi ở bụi này ! Cháu đã biết, xung quanh cháu có con rắn độc, mà cho đến giờ này cháu cũng chưa biết y là ai ? Y làm việc này thì được hưởng gì ? Ai sai y vào tiềm ẩn ở đây ? Khi chưa tìm ra căn cước y, mà lại họp nhau bàn tiến binh thì thực là nguy hiểm. Tỷ như y làm việc cho Tống thì sao ? Cháu nên nhớ, hiện mọi hoạt động trọng đại đều phát xuất từ Đông cung cả. Cho nên dù Tống, dù Chiêm, dù phe chủ hòa, không ít thì nhiều đều cài người vào Đông cung. Những cao thủ, những bộ mặt lớn ra vào Đông cung, thì người của Tống biết hết.
Nghe Minh Đạo vương nói, Long Xưởng, Thủ Huy đưa mắt nhìn nhau. Cả hai như cùng tự nhủ : Vị hoàng thúc này nói rằng ông ẩn thân từ lâu, thế sao ông biết rất chi tiết những bí mật ở Đông cung như việc có con rắn độc chưa tìm ra ? Mọi quyền lực mưu kế đều phát ra từ Đông cung?
Cung nga dâng trà. Minh Đao vương bưng chung trà lên uống. Sau khi uống xong, ông chỉ cái chung hỏi Trang Hòa :
- Cái chung này ai biếu cháu ?
Vương phi Trang Hòa tiếp lấy chung, phi giật bắn người lên, vì đó chính là chung của Đông cung, song ai đó đã khắc lên hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, biểu hiệu của Côi sơn song ưng. Cạnh hình, có mấy chữ ịHiển Trung vương tài trí thì tài trí, nhưng bàn quốc sự lại để gian nhân nghe trộm, thì còn gọi là mẫn tiệp nữa chăng ? Ể.
Minh Đạo vương, Nghĩa Thành vương, Long Xưởng cùng nhìn Thủ Huy như hỏi : Có biết gian nhân ở đâu ? Thủ Huy đưa mắt cho công chúa Đoan Nghi. Công chúa hướng vào Trung Tĩnh phu nhân tức Á Nương :
- Vân Đài tiên tử ! Người là người phái Hoa sơn tiềm ẩn trong Đông cung bấy lâu nay như vậy cũng đủ rồi. Chúng tôi nể tình công chúa Huệ Nhu là cao tổ mẫu phái Đông a, trước đây xuất từ quý phái, nên lờ đi cho người ẩn thân. Nhưng nay bị Côi sơn song ưng mắng vốn, chúng tôi xin người hãy ra mặt để cho ai nấy đều biết một tiên tử Hoa sơn đẹp như thế nào ?
Á Nương vẫn cúi đầu lau chùi, như không nghe thấy gì. Như Như là vợ của Tăng Khoa, hiện giữ nhiệm vụ cai quản nhân sự trong Đông cung, nàng chắp tay :
- Khải công chúa điện hạ, bà này bị câm, trước đây bà là tỳ nữ của Thục phi Đỗ. Hồi Thục phi nhập cung thì mang theo. Vì bà có tài tẩm quất, nên Thục phi dâng cho hoàng hậu. Khi Thái tử lập Đông cung, hoàng hậu ban cho thái tử. Bà tuy câm nhưng cực kỳ trung thành. Ngay từ hồi thái tử chưa ra Đông cung, bà hầu hạ thái tử không một chút khiếm khuyết. Bà vốn bị ác tật, lưng gù có cái bướu to bằng quả dưa, mặt méo, nhưng bà rất chăm chỉ. Ngày thái tử dẹp triều đình gà mái gáy, hoàng hậu sa thải hết cung nga do thái hậu tuyển, chỉ giữ lại Á Nương với con Nhài. Khi công chúa hạ giá với phò mã, thì Nhài được phong tước Tín Hương phu nhân, theo công chúa. Còn Á Nương được phong Trung Tĩnh phu nhân. Á Nương sao có thể là gian tế ?
Đoan Nghi mỉm cười, nàng lạng người tới bắt Á Nương. Á Nương đứng trơ trơ, không có phản ứng gì, rõ ra người chưa luyện võ. Bị Đoan Nghi bắt, bà ta kinh ngạc mở to mắt tỏ vẻ sợ hãi. Đoan Nghi chĩa ngón tay trỏ ra nói bằng tiếng Hàng châu:
- Đây là Lĩnh Nam chỉ, ta mà điểm vào người bà, dù bà là cao thủ phái Hoa sơn, thì bao nhiêu độc khí của Huyền âm chưởng sẽ làm bà lạnh như băng mà chết. Bà hiểu không ?
Nói rồi nàng phóng chỉ đến véo một tiếng. Á Nương lách mình nhanh không thể tưởng tượng nổi, tránh khỏi chiêu chỉ. Bấy giờ mọi người mới tin Á Nương là người của phái Hoa sơn. Á Nương lộn người hai cái, bà ta đã ra khỏi ngự thiện đường, đáp xuống giữa sân. Hơn mười thị vệ bao vây xung quanh bà ta. Bà ta lên tiếng :
- Các người đều là cao nhân Đại Việt, mà lại dùng số đông người để thắng ta ư ?
Tiếng nói của bà rất thanh tao, nhẹ như gió thoảng, ngọt như cam thảo, âm rất trẻ.
Long Xưởng vẫy tay cho thị vệ lùi ra xa. Vương nói với Á Nương bằng giọng ôn tồn :
- Vân Đài tiên tử, mới ngày nào chúng ta gặp nhau trên bến sông ở Thiên trường, thế mà thấm thoắt đã mười năm dư. Thời gian qua mau thực. Khi tiên tử cùng đạo sư Lạc Nhạn, chuồn xuống nước, trốn khỏi con thuyền của phái Hoa sơn, Khu mật viện truy lùng nhị vị khắp nơi mà không thấy, cô gia cứ tưởng các vị chết đuối rồi. Nào ngờ tiên tử chính là Á Nương của Đông cung. Hồi ấy, trước ngày cô gia lên đường đi Thiên trường, tiên tử có xin phép nhũ mẫu của cô gia về quê ở Đông triều thăm nhà ít ngày. Thì ra tiên tử giả xin phép để có thể đi Thiên trường với bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ. Sau khi trốn khỏi con thuyền giam lỏng, tiên tử trở về Đông cung thì bị công chúa Đoan Nghi khám phá ra. Nhưng cô gia bảo công chúa rằng cứ lờ đi, xem tiên tử mưu đồ gì hơn là bắt giam. Hiềm vì hôm nay đây, Côi sơn song ưng phiền trách, nên Đoan Nghi phải bắt tiên tử xuất hi
Vậy tiên tử còn chờ gì mà không bỏ mặt nạ ra. Cô gia xin lấy lễ mà tiếp tiên tử.
Á Nương cười nhạt, chỉ thấy thấp thoáng, mụ nghiêng mình một cái đã đoạt thanh kiếm trên lưng của một thị vệ. Ánh thép lóe lên, kiếm xỉa vào cổ Thủ Huy. Thủ Huy tung người lên cao. Á Nương vọt người theo, vung kiếm chặt chân đối thủ. Đang chới với trên không, Thủ Huy chĩa ngón tay phóng xuống một Lĩnh Nam chỉ. Chỉ chạm vào kiếm choang một tiếng, trong khi chân công đá gió một cái, người bật tung ra xa. Á Nương cũng xê dịch người theo. Đoan Nghi rút kiếm tung cho chồng. Thủ Huy bắt kiếm, rồi xỉa vào làn kiếm quang của Á Nương. Lại choang tiếng nữa hai kiếm chạm nhau tóe lửa. Cánh tay công cảm thấy tê rần. Bất giác công nảy ra niềm khâm phục :
- Võ công Hoa sơn quả danh bất hư truyền. Tuy tuyệt học của họ bị mai một, thế mà công lực của Vân Đài cũng đến mức này. Sứ đoàn Ngô Giới, Lưu Kỳ sang đây với mục đích cướp nước bằng cái mã đẹp trai của Lưu Kỳ. Mấy năm trước bọn Ngu Doãn Văn tuy được trao Vô Trung kinh, nhưng lại không có thuật ngữ, thì cũng vô ích mà thôi. Bây giờ nếu như ta dùng võ công Vô Trung kinh, thì chẳng hóa ra ta học lóm võ công của họ ư ? Đã vậy ta dùng toàn những chiêu bình thường của Hoa sơn, cho mụ này hết dò la.

Công nghiêng người ra chiêu Thương tùng nghênh khách, tiếp theo tới chiêu Sơn trung lạc diệp. Vân Đài bật lên tiếng úi chà, rồi nhảy lùi lại trả đòn. Hai người quấn lấy nhau, khi tới khi lui, ánh thép lấp lánh. Vân Đài thì dở hết bản lĩnh ra, chỉ với mục đích bắt Thủ Huy phải xử dụng võ công trong bộ Vô Trung kinh. Còn Thủ Huy thì lại đánh cầm chừng, cứ hai ba chiêu Hoa sơn, công lại xen vào một chiêu của Tản viên, Đông a hay Mê linh.
Trải qua một trăm hiệp, công nghĩ thầm :
- Hôm ở Thiên trường mình với Vỵ xuyên ngũ tiên bầy mưu bắt Hoa nhạc tam nương, thành ra không biết rõ bản lãnh họ như thế nào. Cứ như Nghi Hòa sư thái kể : Người đã kết bạn với Tam nương, và không ngớt khen ngợi công lực, kiếm thuật của Tam nương. Thế mà sao hôm nay công lực, cũng như kiếm thuật của Vân Đài lại quá tầm thường thế này ?
Chợt công để ý đến cái bướu trên lưng Vân Đài, mồi lần mụ ra chiêu, thì cái bướu lại thóp vào, phình ra rất quái dị. Như vậy thì không phải là bướu rồi. Không biết nó là cái gì ? Chợt công nghĩ ra : Chắc cái bướu đó là cái bọc, trong đó mụ dấu vật chi bí mật đây. Đã vậy ta phải rạch cái bọc ra cho biết.
Nghĩ là làm, thình lình công biến chiêu, dùng một chiêu trong Mê linh kiếm pháp tên Nguyệt quang tùy ảnh, khiến Vân Đài phải lộn liền ba vòng về sau để tránh. Công chỉ chờ có thế, lúc mụ lộn một vòng, thì công biến từ Mê linh kiếm, chuyển qua chiêu Phong ba hợp bích của Đông a kiếm. Kiếm hoa lên, xoẹt một cái, bướu trên lưng Vân Đài bị rạch nửa vòng. Áo rách ra, bên trong là một cái bọc lớn cũng bị rạch. Giữa lúc đó mụ lộn sang vòng thứ nhì, thứ ba, vật dụng trong túi rơi xuống đầy sân.
Đám thị vệ nhặt các vật dụng đó trình cho Long Xưởng.
Biết bị mắc mưu, Vân Đài quay kiếm đánh thục mạng, giống như lối đánh cả hai cùng chết. Thủ Huy giật mình, không tự chủ được, công ra liền ba chiêu Hoa sơn, biến hóa mỗi chiêu ra âm, dương ; rồi âm, dương thành tứ tượng ; tứ tượng thành bát quái. Đúng ra mỗi biến chiêu đó kiếm có thể xuyên thủng da thịt Vân Đài, nhưng Thủ Huy kịp ngừng lại, khiến y phục mụ bị rách mà thôi. Người Vân Đài bị bao trùm trong làn kiếm quang, y phục bị khoét mất hàng chục lỗ. Người mụ trông thực thảm thiết.
Động lòng trắc ẩn, Thủ Huy thu chiêu nhảy lùi lại. Công chúa Đoan Nghi cởi áo khoác tung cho mụ. Áo tỏa ra như chiếc dù rồi che khắp thân mụ.
Những người đàn ông hiện diện đều là cao nhân đạo đức, vội quay mặt đi chỗ khác.
Còn Thủ Huy nhìn Vân Đài, chợt nhớ lại một chuyện cũ bất giác công bật lên tiếng cười khúc khích, rồi quay mặt nhìn ra chỗ khác. Trong khi Vân Đài nổi giận phừng phừng :
- Tên tiểu mao đầu kia, cái việc ấy dù trải đã mười năm dư, dù mi lớn rồi, dù mi là quan to, lão nương vẫn không quên được mối hận mi làm nhục lão nương. Suốt mấy năm qua, vì quốc sự, lão nương phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai tôi đòi trong Đông cung. Lão nương chưa có dịp băm vằm mi ra làm nghìn mảnh, thì chưa hả giận. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện cũ, lão nương lại ứa gan...
Thủ Huy cung tay :
- Tiên t
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #22  
Old 06-19-2004, 03:56 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C18:Giai nhân Tô, Hàng.

Hôm ấy, sau một ngày duyệt binh về, Long Xưởng họp các em với Thủ Huy tại ngự thiện đường để cùng ăn cơm trưa. Mục đích, sau bữa ăn, anh em cùng vào cung vấn an phụ hoàng, mẫu hậu, rồi lên đường tiến quân.
Cơm xong, anh em đang vui đùa với nhau thì Thủ Huy ghé miệng vào tai công chúa Đoan Nghi nói nhỏ :
- Trên nóc điện có hai gian nhân nghe trộm.
- Muội khám phá ra từ lâu rồi. Trong hai tên, thì một tên già, một tên trẻ. Hai tên này nội công rất cao thâm. Chúng thở ra nhỏ như tơ. Không biết chúng thuộc môn phái nào ?
- Nội công chúng hơi giống nội công nhà mình. Để anh bảo Tăng Khoa lôi cổ chúng xuống.
Long Xưởng cũng đã khám phá ra hai người nghe trộm. Vương để chung rượu xuống bàn rồi nói lớn :
- Cao nhân phương nào giá lâm Đông cung, sao không xuống đây cùng anh em tiểu vương đồng ẩm, đàm văn, luận võ, mà núp trên nóc điện chi cho nhẹ thể ?
Nói rồi vương cầm chung rượu tung lên nóc nhà. Chung rượu xuyên thủng mái ngói ra ngoài.
Tăng Khoa lạng người một cái, y đã ra ngoài sân. Trên nóc điện bốn thị vệ đang bao vây hai người bịt mặt. Một người đàn ông to lớn, uy nghi mặc áo vàng, một người đàn bà nhỏ bé mặc áo xanh. Chỉ hai chiêu, người áo xanh đã đánh bay bốn thị vệ rơi xuống sân. Lối đánh rất đặc biệt, tuy dũng mãnh, nhưng nhẹ nhàng, giống như hai sư huynh sư đệ đồng môn tập luyện vậy.
Tăng Khoa thấy hai người không có ác ý, hầu tung mình lên nóc cung, chắp tay hướng người hai người:
- Thái tử có lời thỉnh nhị vị xuống uống chung rượu.
Trong khi vái, Tăng vận kình lực ra hai tay. Người áo vàng lơ đãng nhìn trời. Trong khi người áo xanh phất tay một cái, kình lực phát ra như sóng vỗ. Bình một tiếng, Tăng Khoa cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra những tiếng vo vo không ngừng. Hầu phải lùi liền ba bước để hóa giải kình lực.
Long Xưởng kinh ngạc không ít, vì suốt mấy năm qua Tăng Khoa được Thủ Huy chỉ dạy không ngừng cùng với Long Minh, Long Đức, Long Hòa. Hơn nữa Tăng luyện tập rất cần cù. Có thể nói, bản lĩnh của Tăng hiện không thua vương làm bao. Trong các võ tướng của triều đình, rất hiếm người đấu ngang tay được với Tăng.
Long Xưởng đưa mắt ra hiệu cho Thủ Huy, rồi cả hai cùng tung mình lên nóc điện. Long Xưởng cung tay :
- Cao nhân giá lâm, không biết có gì dạy bảo ?
Người áo xanh hất hàm hỏi :
- Phải chăng người là Lý Long Xưởng, được phong tước Hiển Trung vương ?
- Quả đúng như cao nhân nói.
Người áo xanh lại nhìn Thủ Huy :
- Phải chăng người là cháu nội của đại hiệp Trần Tự Kinh ?
Thấy người này có vẻ coi thường Long Xưởng, mà lại tỏ ra kính trọng ông nội mình. Thủ Huy cung tay :
- Dường như cao nhân có quen biết với ông nội vãn bối ?
Người áo xanh không trả lởi, y phát một chiêu chưởng đánh thẳng vào mặt Thủ Huy. Kình lực chưa ra hết mà Thủ Huy đã cảm thấy ngộp thở. Công kinh hãi, vội xuất chiêu Đông hải lưu phong đỡ. Ầm một tiếng, người áo xanh bật lui liền ba bước, hai tay xoa vào nhau tỏ vẻ đau đớn. Còn Thủ Huy bật tung người lên cao, ngói trên nóc điện bay khắp bốn phía. Tiếng chưởng chạm nhau, tiếng ngói rơi, còn có mấy tiếng la hoảng của Đoan Nghi, Trang Hòa và anh em Long Xưởng. Bởi hiện công lực Thủ Huy có thể nói là cao thâm nhất trong các võ quan của triều đình, thế mà dường như ngang sức với người áo xanh.
Thủ Huy lộn hai vòng trên không, rồi đáp xuống nóc điện. Công cung tay hướng người áo xanh :
- Xin cao nhân cho biết cao danh quý tính.
Người áo xanh không trả lời Thủ Huy mà nói một mình :
- Chiêu Đông hải lưu phong sao đang dương, lại chuyển sang âm được nhỉ ?
Bà ta gật gật đầu :
- Người quả thực là cháu của một vĩ nhân nổi danh nhân nghĩa nhất Đại Việt.
Người áo xanh hướng người áo vàng :
- Chủ nhân ! Y là con giòng cháu giống, mình có thể đối thoại được.
Đến đó Nghĩa Thành vương vừa đến. Vương đưa mắt nhìn người áo vàng : Từ tướng đi, từ hai vai, từ cái lưng đều rất quen thuộc, rất thân ái, mà vương không đoán ra là ai. Người áo vàng đang bước đi, khi nhìn thấy vương, ông ta cũng dừng lại. Bốn mắt nhìn nhau, tay ông run run, dường như súc động.
Dù bị coi thường, nhưng Long Xưởng vẫn tỏ ra lễ độ. Vương kéo ghế mời hai người ngồi trên, ngang với Nghĩa Thành vương. Còn mình thì ở ngôi chủ vị tiếp khách. Nhưng chỉ người áo vàng ngồi, còn người áo xanh thì khoanh tay đứng hầu phía sau.
Người áo vàng xuất hồn nhìn khắp ngự thiện đường một lượt, rồi nói một mình, nhưng để cho Thủ Huy nghe :
- Ta có một thắc mắc là từ xưa đến giờ, đại hiệp Tự Kinh nổi tiếng nhân từ, hiệp nghĩa nhất Đại Việt, thường dạy con cháu nên đứng ngoài vòng danh lợi để giữ cho thân thể thơm tho. Cớ sao người lại cho cháu nội lăn mình vào chốn hôi tanh này nhỉ ?
Thủ Huy thấy phong thái của hai người, công chắp tay :
- Thưa tiền bối, thời vua Trưng, các anh hùng cùng cắp gươm phò tá ngài, có ai vì mấy đấu gạo đâu ?
Người áo vàng phẩy tay một cái, tỏ ra cử chỉ tát yêu Thủ Huy :
- Khá lắm, người ứng đối nhanh như vậy thì hẳn là con trai của Bùi Anh Hoa? Người là Thủ Huy hay Thủ Lý ?
- Thưa, cháu là Thủ Huy.
- Hồi người đầy năm, ta có gửi tặng cho người một món quà. Món quà đó là cái khánh ngọc đỏ khắc hình con rồng với con chim âu quấn lấy nhau. Món quà đó đâu rồi ?
Thủ Huy giật bắn người lên, công mở to mắt nhìn người áo vàng. Vì ông chính là người ấy, mà ông nội, bố mẹ cùng các sư thúc muốn đưa lên ngôi vua, thay cho Chính long Bảo ứng hoàng đế. Suốt từ thời thơ ấu, Thủ Huy cũng như một số các đệ tử phái Đông a đều nghe các bậc trưởng thượng nhắc đến, mà không biết người ấy là ai. Một lần Thủ Huy hỏi mẹ : Cái khánh ngọc đeo trên cổ từ đâu mà có ? Bà Anh Hoa trả lời : Do người ấy tặng cho con lúc đầy năm. Thủ Huy hỏi người ấy là ai, thì bà Anh Hoa lắc đầu không muốn nói. Bây giờ nghe người áo vàng xưng là nhân vật đã tặng khánh ngọc cho mình, thì công biết ông chính là người ấy.
Nghe câu nói đó, Thủ Huy vội lậy phục xuống đất :
- Cháu...cháu... xin kính cẩn ra mắt sư bá.
Nói rồi công kéo chiếc khánh đeo trên cổ trao cho người áo vàng. Người áo vàng vẫy tay tỏ ý không cần coi. Ông phát một chiêu nhẹ nhàng, kình lực đỡ Thủ Huy đứng dậy. Ông cười :
- Cháu gọi ta là sư thúc chứ đừng gọi là sư bá, mà sau này bà chị Anh Hoa lại mắng ta. Vừa rồi cháu tự ví việc ra làm quan của cháu với các anh hùng thời Lĩnh Nam. Như vậy cũng được đi. Song quần hùng Lĩnh Nam theo phò vua Trưng là phò cái chí của ngài. Đức của vua Trưng cao vòi vọi. Còn ngày nay cháu theo phò cái cục bột Thiên Tộ (ghi chú : tức vua Anh tông hay Chính long Bảo ứng hoàng đế) chỉ biết có gái, thì thực là gánh vàng đi đổ sông Ngô, bán bò tậu ễnh ương mất rồi.
Kiến Ninh vương vốn nóng tính. Vương thấy người áo vàng nhục mạ phụ hoàng thì quát lớn :
- Im cái mồm. Người có biết đây là đâu không mà nói lời vô phép như vậy ? Hay người ỷ có võ công cao, rồi muốn nói gì thì nói ư ? Người hãy nhìn xung quanh mà xem, thị vệ đã vây kín Đông cung. Ta chỉ hô lên một tiếng, là thị vệ sẽ băm người ra như băm chả ngay.
Mọi người chỉ thấy hoa mắt một cái, tiếp theo hai tiếng bốp. Người áo xanh đã tát Kiến Ninh vương hai cái, rồi lùi trở về chỗ, tay chỉ vào mặt vương :
- Bây giờ chính ta bảo mi im cái mồm, bằng không ta lấy tính mệnh mi.
Người áo vàng vẫn nói bằng giọng kẻ cả :
- Ta tiếc cho cháu ! Tài trí không thua gì Kinh Nam vương xưa. Kinh Nam vương tuy đem tài ra giúp Tống, nhưng Tống Nhân tông là người biết tài vương, lại thương dân, thực xứng đáng là đấng quân phụ. Còn Thiên Tộ, thì hỡi ơi !
Thủ Huy chỉ vào Long Xưởng :
- Thưa sư thúc, nếu nhìn bề ngoài thì thế. Nhưng sự thực lại khác. Xưa kia, ông Cổ Tẩu là người ương gàn, thế mà lại sinh ra bậc thánh là vua Thuấn. Cha của Tăng Tử là người ác, thế mà con lại là người hiền. Đệ tử tuân lệnh nội tổ ra giúp nghĩa huynh, khi vận nước chông chênh như trứng trồng, chứ đâu có vì bổng lộc !
- Cái gì mà trứng chồng ?
Thủ Huy tóm lược việc Tống sai mật sứ sang mưu chiếm ngôi vua, biến Đại Việt thành quận huyện. Rồi các đại tôn sư họp nhau phá vỡ. Tiếp theo đến việc bắt Tống công nhận quốc danh, khi phong, phải phong làm An Nam quốc vương, chứ không được phong làm Giao chỉ quận vương. Cuối cùng, là viêc đi sứ Kim.
Người áo vàng gật đầu :
- Lâu nay ta ẩn thân, nên không biết rõ tình hình. À thì ra thế. Ta có nghe nhiều người ca tụng cái đức của thằng bé con Long Xưởng. Ta không tin. Bây giờ nghe cháu nói, ta cũng tin một phần.
Ông nhìn Long Xưởng :
- Này bé con ! Ta nghe con nhỏ Từ Thụy Hương trước đây là tỳ thiếp của người, rồi tại sao y thị lại trở thành Tuyên phi ? Sự việc ra sao ?
Long Xưởng chưa kịp trả lời, thì Kiến Tĩnh vương đã lên tiếng :
- Việc phụ hoàng ta phong cho ai làm phi, làm thiếp, người không có quyền hỏi. Người là ai mà dám có giọng điệu đại bất kính như vậy ?
Người áo xanh búng tay một cái, một hạt vàng bay ra, bay thực chậm, nhưng quay tròn với tốc độ cực nhanh kêu lên tiếng vi vu, rồi thình lình véo một tiếng , hột vàng bay vòng cầu trúng vào huyệt Á môn của Kiến Tĩnh vương. Lập tức toàn thân vương bị tê liệt, mở miệng không ra.
Công chúa Đoan Nghi thấy anh bị áp chế, thì chịu không được. Nàng rút kiếm, rồi chuyển thân mình một cái, kiếm đã dí vào cổ người áo xanh.
Người áo xanh kinh hoàng, bà lộn liền ba vòng về sau để tranh mũi kiếm. Sau ba vòng, bà lại đáp xuống giữa ngự thiện đường. Nhưng khi bà đáp xuống, thì mũi kiếm vẫn dí vào cổ bà. Thì ra Đoan Nghi đã dùng một chiêu võ trấn môn của Long biên kiếm pháp, nàng chuyển thân theo bà như bóng với hình. Lòng nguội như tro tàn bà lên tiếng :
- Mi đánh trộm ta mà thành công. Ta không phục.
Bấy giờ bà mới nhìn kẻ khống chế mình, đó là một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, nhan sắc diễm lệ. Chợt bà kêu lên :
- Mi... Mi là công chúa Đoan Nghi. Nếu mi là anh hùng, thì hãy đường đường chính chính đấu với ta mà thắng ta, ta mới phục.
Công chúa Đoan Nghi thu kiếm về :
- Được ! Người hãy rút kiếm ra. Nếu người thắng được ta, thì ta sẽ tha cho người rời khỏi nơi đây.
Người áo xanh rút kiếm, rồi gật đầu :
- Nào chúng ta qua lại mấy chiêu với nhau.

Thấp thoáng ánh thép, Đoan Nghi đã ra một chiêu, cắt đứt giải buộc khiến chiếc khăn bị mặt của người áo xanh rơi xuống đất. Tất cả mọi người hiện diện đều bật lên tiếng ái chà. Vì bộ mặt người áo xanh cực đẹp. Thực là một giai nhân tuyệt thế.
Người áo xanh hét lên một tiếng, rồi vung kiếm tấn công. Chiêu số của bà rất quái dị, khi thì giống Mê linh kiếm pháp. Khi thì giống Đông a kiếm pháp. Khi thì giống Hoa sơn kiếm pháp. Trong khi Đoan Nghi dùng kiếm chiêu, thì người kia dùng kiếm khí, kình lực phát ra kêu vo vo. Đoan Nghi khoan thai trả đòn. Đấu được trên trăm hiệp, Đoan Nghi đã tìm ra nguyên tắc kiếm thuật của người áo xanh : Bà ta khéo phối hợp kiếm pháp Mê linh, Đông a và Hoa sơn làm một, mà không một chút sơ hở.
Từ đầu đến cuối, người áo vàng không nói một câu, ông lơ đãng nhìn trận đấu giữa người áo xanh với Đoan Nghi, thình lình ông nhổm người dậy, tay ông phóng ra hai chỉ. Choang, choang hai tiếng kiếm của Đoan Nghi với người áo xanh bị vuột khỏi tay, bay lên trần nhà, cắm vào cây xà. Đoan Nghi kinh hãi lùi lại ba bước.
Người áo vàng nói một mình :
- Hà ! Con nhỏ này học ở đâu được kiếm pháp của Linh Nhân hoàng thái hậu. Khá lắm.
Thủ Huy giật mình hỏi :
- Thưa sư thúc, cháu tưởng đó là Mê linh kiếm pháp chứ...
- Cháu biết một mà không biết hai. Dĩ nhiên căn bản là Mê linh kiếm pháp. Nhưng, cháu nên nhớ, Linh Nhân hoàng thái hậu đã học võ công Hoa sơn, Đông a, Hồng thiết, trước khi học Mê linh kiếm, vì vậy khi ngài xử dụng Mê linh kiếm pháp, thì không còn là kiếm pháp nguyên thủy nữa. Cho nên, sau này, ngài truyền kiếm pháp ấy lại cho hậu thế, thì kiếm pháp đó là thứ kiếm pháp bị ngài pha trộn thành một loại kiếm pháp mới. Cũng như cháu, cháu học võ công Đông a, Hoa sơn một lúc, thành ra dù cháu xử dụng võ công nào, thì cũng không còn thuần túy nữa.
Thủ Huy cau mày suy nghĩ, công chợt nhớ ra, có rất nhiều chiêu công dạy cho Đoan Nghi phảng phất võ công Đông a, Hoa sơn. Bất giác công đưa mắt nhìn người áo vàng, và nghĩ thầm : Ông là bạn của bố ta có khác. Bác học đến thế là cùng.
Nguời áo vàng hỏi Long Xưởng :
- Người đã biết ta là ai chưa ? Chắc là chưa, vì vậy khi ta mắng gã Thiên Tộ thì người bực mình.
Ông mở khăn bịt mặt ra, mọi người cùng ồ lên một tiếng, vì ông giống Chính long Bảo ứng hoàng đế như hai giọt nước. Có điều đôi mắt ông sáng long lanh, da hồng hào, chứng tỏ nội công của ông cao thâm khôn lường.
Nghĩa Thành vương rưng rưng nước mắt, bật kêu lên :
- Đại huynh ! Thì ra đại huynh vẫn còn tại dương thế ! Hỡi ơi, gần hai chục năm qua, đệ cứ tưởng đại huynh bị Cảm Thánh với Đỗ Anh Vũ hại rồi. Tạ ơn trời phật, đại huynh vẫn cơn sống, mà võ công cao đến dường này.
Người áo vàng ôm lấy Nghĩa Thành vương :
- Anh thoát cả trăm lần chết, ngày nay mới được thấy em.
Ông hỏi Long Xưởng :
- Người đã biết ta là ai rồi mà sao không quỳ gối ra mắt ?
Long Xưởng cẩn thận hơn :
- Tiểu bối ở địa vị cầm đại quyền quốc gia, không thể chỉ vì gương mặt tiền bối mà nhẹ dạ tin ngay được. Vãn bối phải dè dặt.
Người áo vàng móc trong bọc ra một con nai bằng ngọc xanh biếc trao cho Long Xưởng :
- Người cẩn thận như vậy là phải. Người hãy coi xem vật này là gì đây ?
Long Xưởng khúm núm cầm lấy con nai, trên có khắc ị Thiên Thuận ngũ niên, ngũ nguyệt, sóc nhật, Sửu thì, Thiên Lộc Ể. Nghĩa là niên hiệu Thiên Thuận thứ năm (DL.1132, Nhâm Tý), tháng năm, ngày 1, giờ Sửu, Thiên Lộc sinh.
Long Xưởng chợt nhớ lại, trong tập Thần tông thực lục có chép :
ị... Khi Thần tông được 12 tuổi, thì mẹ là Chiêu Hiếu hoàng thái hậu (Vợ Sùng Hiền hầu) đã tuyển cho hàng chục phi tần. Nhưng nhà vua không sủng ái người nào. Cho đến năm ngài 16 tuổi, thì có sự thay đổi lớn. Một ngày, nhà vua trốn khỏi Hoàng thành đạo chơi phường bán hoa ngoài thành Thăng long, thì ngài gặp thiếu nữ bán hoa tên Hồng Hạnh. Ngay từ lúc mới gặp nàng, ngài đã say mê. Từ đấy, đêm nào ngài cũng trốn ra gặp nàng, khi thì mua hoa, khi thì làm thơ tặng. Nhưng nàng là một thiếu nữ được giáo dục rất kỹ về tam tòng, tứ đức, nên dù ngài đeo đuổi cả tháng trời, mà nàng vẫn tỏ ra lạnh nhạt. Việc này đến tai mẫu thân Hồng Hạnh, bà đùa với ngài rằng :
- Nếu cậu muốn hỏi con gái tôi, thì cậu hãy về làm một bông hồng hạnh bằng vàng đem đến đây dẫn lễ.
Lập tức ngài trở về cung, sai làm một bông hồng hạnh bằng vàng thực lớn, rồi hôm sau đem ra cho bà mẹ nàng. Bà mẹ giật mình, nhưng vẫn đùa :
- Được rồi, tôi gả nó cho cậu. Vậy giờ Thìn ngày mai, cậu phải đem kiệu rồng đến đây rước dâu.
Kiệu rồng là kiệu dành cho vua ngự. Bà nói câu đó, có ý nhắn nhủ rằng bà không gả Hồng Hạnh cho ngài. Ngài trở về truyền lễ quan, cung nga, thái giám, hôm sau đem kiệu rồng ra đón Hồng Hạnh nhập cung, phong làm Tu dung. Bấy giờ cha mẹ nàng mới biết ngài là vua. Ngài cực kỳ sủng ái Hồng Hạnh. Nhưng Chiêu Hiếu thái hậu, cùng Cảm Thánh hoàng hậu và hai bà Thục phi, Tuyên phi cực kỳ ghét nàng.
Nhập cung được hai tháng thì Tu dung Hồng Hạnh có thai. Niên hiệu Thiên Thuận thứ 5, tháng 5, ngày mùng một, giờ Sửu, thì tu dung sinh ra một hoàng nam. Vua đặt tên là Thiên Lộc, lập làm thái tử, truyền lấy viên ngọc xanh lớn nhất khắc hình con nai, với hai sừng, ban cho. Tu dung Hồng Hạnh được thăng lên Thần phi.
Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ tư (Bính Thìn, DL. 1136), Cảm Thánh hoàng hậu lại sinh ra hoàng tử Thiên Tộ. Niên hiệu Thiên chương Bảo tự thứ 6 (Mậu Ngọ, DL.1138) vua Thần tông bệnh nặng, truyền gọi Tham tri chính sự (Phó tể tướng) Từ Văn Thông vào để viết di chiếu.
Cảm Thánh hoàng hậu, Tuyên phi Nhật Phụng, Thục phị Phụng Thánh đem vàng hối lộ cho Thông. Khi nhà vua truyền Thông viết chiếu truyền ngôi cho Thái tử Thiên Lộc, thì Thông cầm bút suy nghĩ. Một lát ba bà Cảm Thánh Nhật Phụng, Phụng Thánh vào khóc rằng :
Bọn thiếp nghe rằng người xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của người thiếp được vua yêu. Nếu cho Thiên Lộc nối ngôi, thì bà mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét làm hại, thì mẹ con bọn thiếp tránh sao cho khỏi bị tai vạ ?
Vì thế vua xuống chiếu lập hoàng tử Thiên Tộ kế vị, còn thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương...
...Niên hiệu Đại Định nguyên niên (Canh Thân. DL. 1140), phong Thần phi Hồng Hạnh làm Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu và phong một vị sủng phi khác của vua Thần tông là Đức phi Quỳnh Chi, một bà phi bác học đa năng, thường được vua dùng như một đại học sĩ phụ tá làm Linh khang Chiêu đức thái phi. Ể
Sau không thấy ai nhắc đến Minh Đạo vương cùng bà phi Hồng Hạnh ra sao. Một lần Long Xưởng có hỏi Thái phó Hoàng Nghĩa Hiền, thì ông nói rằng : "Nhờ Từ Văn Thông giúp mà hoàng thượng được lên ngôi vào lúc ba tuổi. Quyền hành do Chiêu Hiếu hoàng thái hậu và em hậu là Đỗ Anh Vũ. Trước đây Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu có theo học với một đạo cô phái Tản viên, nay ngài theo đạo cô này đi tu. Niên hiệu Đại Định thứ 8 (DL1147), Chiêu Hiếu thái hậu khám phá ra vụ Đỗ Anh Vũ tư thông với Cảm Thánh hoàng thái hậu. Anh Vũ với Cảm Thánh hoàng thái hậu ám hại Chiêu Hiếu thoàng thái hậu. Quyền vào tay Anh Vũ với Cảm Thánh hoàng thái hậu. Một lần Minh Đạo vương cùng với vương phi trên đường về Cổ pháp viếng lăng mộ tiên đế, thì bị cướp giết cả nhà. Ai cũng bảo Cảm Thánh hoàng thái hậu với Anh Vũ ra tay ám toán."
Bây giờ thấy người mặc áo vàng giống phụ hoàng như hai giọt nước, cùng di vật từ đời vua Thần tông, nhất là Nghĩa Thành vương đã nhận ra anh mình, Long Xưởng không nghi ngờ gì nữa. Vương hô các em quỳ xuống, rồi khấu đầu :
- Bọn thần xin khấu đầu trước hoàng thúc. Vì không biết rõ thân thế Hoàng thúc, nên bọn thần có nhiều điều vô lễ. Mong Hoàng thúc đại xá cho.
Minh Đạo vương chỉ ghế :
- Các người không nên đa lễ. Các người ngồi đây đi. Đức Thái tổ nhà ta xuất thân là đứa trẻ chăn trâu ở chùa Tiêu sơn, Linh Nhân hoàng thái hậu thủa hàn vi cũng từng chăn trâu. Ta muốn cùng các người dùng tình mà ở với nhau, chứ không muốn lễ nghi phiền phức.
Ông chỉ vào thiếu nữ áo xanh :
- Đây là đệ tử thứ ba của ta, tên Bạch Phụng.
Ông ngửa mặt nhìn vào quãng xa xôi, rồi tiếp :
- À, để ta thuật cho các người nghe bằng cách nào ta sống sót cho tới ngày hôm nay? Hồi sáu tuổi ta đã bắt đầu luyện võ với một sư phụ phái Đông a, năm mười ba tuổi, thân mẫu định tuyển phi tần cho ta. Song, ta xin khất lại, để có thời gian học văn luyện võ. Mãi đến năm mười sáu tuổi, thì ta gặp một thầy đồ nghèo khổ, vợ chết không có tiền chôn cất. Ông đến yết kiến, xin bán con gái với giá ba lượng bạc. Ta thương tình, ban cho ông mười lượng bạc, lại sai sắm quan quách, chôn cất vợ ông ta, mà không nhận con gái. Ông ta thâm cảm ơn nghĩa, xin ta nhận ông với con gái làm gia thuộc trong phủ. Ta nhận lời cho ông làm gia sư, phụ trách chức trưởng sử. Còn con gái ông, thì tuyển làm cung nga tại ngự thư phòng. Nhưng khi ta gặp con gái ông, thì hỡi ơi, nàng là một giai nhân tuyệt thế. Cho nên, chỉ hơn tháng sau, ta quyết định tuyển nàng làm vương phi. Việc này, khắp triều đình đều phản đối, duy mẫu thân ta thì lại vui vẻ. Nàng tên là Phạm thị Thanh Thủy.
Vương ngước mắt nhìn lên trời :
- Thanh Thủy vốn được cha dạy văn, ta cho nàng luyện võ. Chỉ ít lâu sau, võ công nàng trở thành cao thâm. Gia sư trong phủ đều bị nàng vượt qua. Còn ta...Tuy ta bị truất ngôi thái tử, nhưng trong lòng không một chút oán hờn, bởi đó là ý chỉ của phụ hoàng. Ta nghĩ : Mình không được làm vua, thì mình cũng có thể giúp em mình, như Khai Quốc vương xưa đã giúp vua Thái tông. Ta hết sức học văn, luyện võ, lại bỏ tiền bạc ra kết thân, chiêu mộ hào kiệt. Cho đến năm 17 tuổi, ta là một trong những đệ tử có võ công cao nhất của phái Đông a. Bản lĩnh của ta ngang với hai người con của sư phụ là Tự Hấp, Tự Duy, với Đại Việt ngũ tuyệt. Anh hùng Chiêm, Việt, Hoa ra vào cửa ta rầm rập, họ thấy Cảm Thánh dâm loạn quá, Anh Vũ lại cực kỳ ác độc. Họ đưa ý kiến rằng nên giết Cảm Thánh, Anh Vũ rồi đưa ta lên làm vua. Ta cực lực từ chối. Vì vậy Cảm Thánh với Đỗ Anh Vũ không yên tâm. Họ sợ ta hỏi cái tội dâm loạn, chuyên quyền của họ, nên họ bàn mưu với nhau trừ ta trước. Kể ta với lực lượng anh hùng theo ta, ta có thể giết Cảm Thánh, Anh Vũ dễ dàng. Nhưng dù sao Anh Vũ cũng là ông cậu của phụ hoàng ta. Cảm Thánh là hoàng hậu thời tiên hoàng. Vì vậy ta khoanh tay, mặc cho hai người lộng hành. Thế nhưng, đùng một cái, ta được cung nga thân tín báo cho biết rằng Đỗ Anh Vũ bàn với Cảm Thánh hoàng thái hậu định vu cho ta cái tội mưu phản rồi đem đại quân làm cỏ trang ấp của ta. Quá kinh hoàng, ta nghĩ chỉ có cách giả chết ẩn thân mới thoát nạn. Một mặt ta phân tán tân khách, thủ hạ đi khắp nơi. Một mặt ta đem vương phi về Cổ pháp lễ lăng mộ tiên đế, rồi trốn sang Trung quốc. Không ngờ chuẩn bị của ta bị Anh Vũ biết. Y sai một đội cao thủ sáu người, gồm ba nam, ba nữ đón đường giết ta. Ta với vương phi chống trả giết được 5 tên, còn một tên cuối cùng, võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Y chỉ đánh có hai chiêu, vương phi của ta bị táng mạng. Còn ta, y chỉ đánh có mười chiêu ta bị ngã. Gữa lúc chúng ta tuyệt vọng, thì sư phụ Trần Tự Kinh cùng hai người con là Trần Tự Hấp và Trần Tự Duy xuất hiện. Tên cao thủ của Cảm Thánh thấy ba người thì bỏ trốn biệt. Sau đó ta quy ẩn, âm thầm luyện võ, thu đệ tử. Các hào kiệt nghe ta còn sống, thì lại tụ họp về với ta.
Thủ Huy hỏi :
- Thưa sư thúc, cái tên cao thủ của Anh Vũ ấy dùng võ công môn phái nào ?
- Y dùng võ công Đông a.
Thủ Huy bật lên tiếng than :
- Ái chà. Không lẽ là Mao Khiêm ?
- Đúng ! Chính là y.

Minh Đao vương chỉ lên tường, nơi treo nhiều tranh và bút pháp :
- Đây là Đông cung, nơi ta đã ở mấy năm. Khi phụ hoàng người lên ngôi, ta bị truất ngôi thái tử, trở thành Minh Đạo vương, ta phải rời nơi này để trở về phủ đệ riêng. Từ ngày bị ám hại phải xa Thăng long, lòng tưởng nhớ quê hương, mỗi năm ta lại âm thầm về thăm lại chốn cũ. Lần này, bị các người khám phá ra.
Ông chỉ vào Bạch Phụng :
- Tuy xa Thăng long, nhưng ta an trí mỗi châu, mỗi trấn, mỗi huyện một đệ tử để theo dõi tình hình đất nước. Bạch Phụng là người phụ trách vùng Thăng long.
Ông hỏi Bạch Phụng :
- Ta trao cho con phụ trách vùng kinh thành. Thế sao cái vụ Thiên Tộ cướp Từ Thụy Hương của Long Xưởng, mà con không biết ?
- Thưa sư phụ, tự đệ tử không muốn biết.
Bạch Phụng thuật : Khi trao cho đệ tử coi vùng Thăng long, sư phụ có dạy rằng ị Chư sự lớn nhỏ đều phải biết, khi hành sự phải tôn trọng luật lệ. Duy có việc trong Hoàng thành thì tuyệt đối không được tò mò vào, cũng không được can thiệp vào Ể. Chính vì vậy mà việc Chính long Bảo ứng hoàng đế đem Từ Thụy Hương vào cung, rồi phong làm Tuyên phi, đệ tử không theo dõi. Tuy nhiên nếu sư phụ muốn, đệ tử sẽ cho điều tra.
Minh Đạo vương tỏ vẻ buồn rầu, ông hỏi Long Xưởng :
- Ta nghe võ lâm anh hùng đàm tiếu về việc này quá nhiều, nên phải về đây điều tra cho rõ ngọn nguồn. Sự đã ra thế này thì còn dấu diếm làm gì ? Người hãy thuật cho ta rõ uyên nguyên ra sao !
Long Xưởng đành thuật lại từng chi tiết : Nguồn gốc ca kỹ của vú Mai, kẻ vô danh đánh chồng vú bị tê liệt, trong khi đó vú mang thai rồi sinh Thụy Hương. Vú được tuyển làm nhũ mẫu cho Đoan Nghi, sau ba năm vú muốn ở lại thì bị quan Ngự sử đại phu đàn hặc về việc chồng vú bị liệt, mà vú mang thai. Ngự y cũng xác nhận rằng chồng vú bị tổn thương xương sống, không thể giao hợp với đàn bà, mà vú vẫn có thai, thì cái thai đó là con hoang. Sau nhờ Đoan Nghi xin, Long Xưởng cho vú vào ở trong Đông cung. Thụy Hương học văn, luyện võ đều thành, và Đại Việt thất tiên kết thân với nhau, phá tan âm mưu chiếm Đại Việt của Tống. Rồi mối tình Thụy Hương với Thủ Huy diễn ra mà Long Xưởng không biết. Khi Thủ Huy lấy vợ thì Thụy Hương lại trở thành người tình của Long Xưởng. Cuối cùng Thụy Hương được phong Tuyên phi và phụ chính cho nhà vua.
Nghe Long Xưởng thuật, mặt Minh Đạo vương tái đi, ông hỏi bằng giọng run run :
- Thế... Thế...Triệu Mai Hương hiện ở đâu ?
- Thưa hoàng thúc, Triệu Mai Hương là ai ?
- Là...là vú Mai đó. Triệu Mai Hương là một giai nhân gốc người Dương châu, bên Trung nguyên.
Đoan Nghi kinh ngạc :
- Không biết hoàng thúc có lầm không ? Bởi vú Mai có khuê danh là Trần Lệ Mai, khi đem vú vào nuôi sữa cho hài nhi, Khu mật viện đã về quê vú ở Đăng châu điều tra. Viên quan điều tra còn đến cả nhà từ tổ của vú xem xét gia phả. Như vậy thì sao vú là người Dương châu được ? Suốt thời gian nuôi sữa hài nhi, cũng như trong mười năm ở Đông cung, vú không biết nói tiếng Hoa, thì sao có thể là người Tống ? Theo hài nhi nghĩ, có lẽ hoàng thúc đã lầm ca kỹ Triệu Mai Hương với vú Mai thì phải.
Trán Minh Đạo vương nhăn lại, ông hỏi :
- Có thể như thế. Không chừng trong thời gian Triệu Mai Hương nức danh đế đô, thì vú Mai cũng nổi tiếng, nên có sự lầm lẫn chăng ? Thế vú Mai đâu ? Cứ cho ta gặp nàng là ta biết ngay.
Long Xưởng đáp thay em :
- Từ khi Thụy Hương trở thành Tuyên phi thì vú vào ở trong cung với con gái.
- Ta sẽ thân vào Hoàng cung điều tra vụ này.
Thủ Huy nghĩ thầm :
- Cứ nghe ngôn từ của Minh Đạo vương, thì dường như trước đây vú Mai là người tình của vương thì phải ? Bằng không tại sao ông biết bà có tên là Mai Hương ?
Minh Đạo vương thẫn thờ như người mất hồn. Ông nhìn Bạch Phụng :
- Phải theo dõi vụ này thực chi tiết. Bạch Phụng ơi ! Con cố tìm hiểu xem tại sao vú Mai đang là một ca kỹ tài sắc nhất Thăng long, có biết bao nhiêu vương, hầu, khanh, tướng cầu hôn, mà thị không nhận lời ; mà lại nhận lời cầu hôn của một thị vệ võ công bình thường, tiền không, văn tài cũng không, cho đến cái dáng đẹp đẽ bên ngoài cũng không có. Vấn đề thứ nhì là liệu thủ phạm ám toán chồng vú Mai có phải là gian phu ăn nằm với vú Mai sinh ra Thụy Hương không ? Cuối cùng, phải điều tra xem vú Mai có phải là Triệu Mai Hương không. Việc này hơi khó đối với bất cứ người đàn ông nào. Nhưng con là nữ thì không khó. Bởi ngay trên nhũ hoa trái của Mai Hương có một vết sẹo hình hoa mai.
Minh Đạo vương nhìn Long Xưởng, rồi lắc đầu :
- Ban nãy các cháu bàn nhau chuẩn bị ra quân thực mật, cho đến phút :Dt có phải thế không ?
- Quả như hoàng thúc dạy.
Ông hỏi Thủ Huy :
- Phàm khi ra quân thì chúa tôi phải một lòng, thì mới thành công. Nay cháu tuổi còn trẻ, tước tới công, mà lại cầm binh quyền trong tay, liệu có tránh được miệng thế có dèm pha không ?
Nghe Minh Đạo vương hỏi, Long Xưởng rùng mình nghĩ thầm :
- Quả mẫu hậu, Giai phi vơí ta cùng nghi ngờ Thủ Huy ! Vị hoàng thúc này sao lại đoán ra được ? Ta im lặng, xem Thủ Huy trả lời thế nào.
- Thưa sư thúc ! Đối với phụ hoàng, cháu là phò mã. Đối với anh Long Xưởng cháu là nghĩa đệ, là em rể. Là phò mã, nếu cháu không làm được những việc nghiêng trời lệch đất như thánh Tản với vua Hùng, thì ít ra cháu cũng noi gương tổ của là Kinh Nam vương đối với vua Nhân tông nhà Tống. Lòng cháu sáng như trăng, như sao. Vì vậy cháu nghĩ dù phụ hoàng, dù nghĩa huynh... đều tin vào lòng trung của cháu, chứ có đâu nghi ngờ ?
Long Xưởng nghĩ thầm :
- Ta không tin người đâu.
Minh Đạo vương lắc đầu :
- Ừ thì ta cứ tạm tin như vậy. Còn việc ra quân, các cháu có giữ đươc bí mật không ?
- Dạ được ạ !
- Ta không tin ! Các cháu hành động như thế này thì không khác gì lậy ông tôi ở bụi này ! Cháu đã biết, xung quanh cháu có con rắn độc, mà cho đến giờ này cháu cũng chưa biết y là ai ? Y làm việc này thì được hưởng gì ? Ai sai y vào tiềm ẩn ở đây ? Khi chưa tìm ra căn cước y, mà lại họp nhau bàn tiến binh thì thực là nguy hiểm. Tỷ như y làm việc cho Tống thì sao ? Cháu nên nhớ, hiện mọi hoạt động trọng đại đều phát xuất từ Đông cung cả. Cho nên dù Tống, dù Chiêm, dù phe chủ hòa, không ít thì nhiều đều cài người vào Đông cung. Những cao thủ, những bộ mặt lớn ra vào Đông cung, thì người của Tống biết hết.
Nghe Minh Đạo vương nói, Long Xưởng, Thủ Huy đưa mắt nhìn nhau. Cả hai như cùng tự nhủ : Vị hoàng thúc này nói rằng ông ẩn thân từ lâu, thế sao ông biết rất chi tiết những bí mật ở Đông cung như việc có con rắn độc chưa tìm ra ? Mọi quyền lực mưu kế đều phát ra từ Đông cung?
Cung nga dâng trà. Minh Đao vương bưng chung trà lên uống. Sau khi uống xong, ông chỉ cái chung hỏi Trang Hòa :
- Cái chung này ai biếu cháu ?
Vương phi Trang Hòa tiếp lấy chung, phi giật bắn người lên, vì đó chính là chung của Đông cung, song ai đó đã khắc lên hình hai con chim ưng bay qua ngọn núi, biểu hiệu của Côi sơn song ưng. Cạnh hình, có mấy chữ ịHiển Trung vương tài trí thì tài trí, nhưng bàn quốc sự lại để gian nhân nghe trộm, thì còn gọi là mẫn tiệp nữa chăng ? Ể.
Minh Đạo vương, Nghĩa Thành vương, Long Xưởng cùng nhìn Thủ Huy như hỏi : Có biết gian nhân ở đâu ? Thủ Huy đưa mắt cho công chúa Đoan Nghi. Công chúa hướng vào Trung Tĩnh phu nhân tức Á Nương :
- Vân Đài tiên tử ! Người là người phái Hoa sơn tiềm ẩn trong Đông cung bấy lâu nay như vậy cũng đủ rồi. Chúng tôi nể tình công chúa Huệ Nhu là cao tổ mẫu phái Đông a, trước đây xuất từ quý phái, nên lờ đi cho người ẩn thân. Nhưng nay bị Côi sơn song ưng mắng vốn, chúng tôi xin người hãy ra mặt để cho ai nấy đều biết một tiên tử Hoa sơn đẹp như thế nào ?
Á Nương vẫn cúi đầu lau chùi, như không nghe thấy gì. Như Như là vợ của Tăng Khoa, hiện giữ nhiệm vụ cai quản nhân sự trong Đông cung, nàng chắp tay :
- Khải công chúa điện hạ, bà này bị câm, trước đây bà là tỳ nữ của Thục phi Đỗ. Hồi Thục phi nhập cung thì mang theo. Vì bà có tài tẩm quất, nên Thục phi dâng cho hoàng hậu. Khi Thái tử lập Đông cung, hoàng hậu ban cho thái tử. Bà tuy câm nhưng cực kỳ trung thành. Ngay từ hồi thái tử chưa ra Đông cung, bà hầu hạ thái tử không một chút khiếm khuyết. Bà vốn bị ác tật, lưng gù có cái bướu to bằng quả dưa, mặt méo, nhưng bà rất chăm chỉ. Ngày thái tử dẹp triều đình gà mái gáy, hoàng hậu sa thải hết cung nga do thái hậu tuyển, chỉ giữ lại Á Nương với con Nhài. Khi công chúa hạ giá với phò mã, thì Nhài được phong tước Tín Hương phu nhân, theo công chúa. Còn Á Nương được phong Trung Tĩnh phu nhân. Á Nương sao có thể là gian tế ?
Đoan Nghi mỉm cười, nàng lạng người tới bắt Á Nương. Á Nương đứng trơ trơ, không có phản ứng gì, rõ ra người chưa luyện võ. Bị Đoan Nghi bắt, bà ta kinh ngạc mở to mắt tỏ vẻ sợ hãi. Đoan Nghi chĩa ngón tay trỏ ra nói bằng tiếng Hàng châu:
- Đây là Lĩnh Nam chỉ, ta mà điểm vào người bà, dù bà là cao thủ phái Hoa sơn, thì bao nhiêu độc khí của Huyền âm chưởng sẽ làm bà lạnh như băng mà chết. Bà hiểu không ?
Nói rồi nàng phóng chỉ đến véo một tiếng. Á Nương lách mình nhanh không thể tưởng tượng nổi, tránh khỏi chiêu chỉ. Bấy giờ mọi người mới tin Á Nương là người của phái Hoa sơn. Á Nương lộn người hai cái, bà ta đã ra khỏi ngự thiện đường, đáp xuống giữa sân. Hơn mười thị vệ bao vây xung quanh bà ta. Bà ta lên tiếng :
- Các người đều là cao nhân Đại Việt, mà lại dùng số đông người để thắng ta ư ?
Tiếng nói của bà rất thanh tao, nhẹ như gió thoảng, ngọt như cam thảo, âm rất trẻ.
Long Xưởng vẫy tay cho thị vệ lùi ra xa. Vương nói với Á Nương bằng giọng ôn tồn :
- Vân Đài tiên tử, mới ngày nào chúng ta gặp nhau trên bến sông ở Thiên trường, thế mà thấm thoắt đã mười năm dư. Thời gian qua mau thực. Khi tiên tử cùng đạo sư Lạc Nhạn, chuồn xuống nước, trốn khỏi con thuyền của phái Hoa sơn, Khu mật viện truy lùng nhị vị khắp nơi mà không thấy, cô gia cứ tưởng các vị chết đuối rồi. Nào ngờ tiên tử chính là Á Nương của Đông cung. Hồi ấy, trước ngày cô gia lên đường đi Thiên trường, tiên tử có xin phép nhũ mẫu của cô gia về quê ở Đông triều thăm nhà ít ngày. Thì ra tiên tử giả xin phép để có thể đi Thiên trường với bọn Ngô Giới, Lưu Kỳ. Sau khi trốn khỏi con thuyền giam lỏng, tiên tử trở về Đông cung thì bị công chúa Đoan Nghi khám phá ra. Nhưng cô gia bảo công chúa rằng cứ lờ đi, xem tiên tử mưu đồ gì hơn là bắt giam. Hiềm vì hôm nay đây, Côi sơn song ưng phiền trách, nên Đoan Nghi phải bắt tiên tử xuất hi
Vậy tiên tử còn chờ gì mà không bỏ mặt nạ ra. Cô gia xin lấy lễ mà tiếp tiên tử.
Á Nương cười nhạt, chỉ thấy thấp thoáng, mụ nghiêng mình một cái đã đoạt thanh kiếm trên lưng của một thị vệ. Ánh thép lóe lên, kiếm xỉa vào cổ Thủ Huy. Thủ Huy tung người lên cao. Á Nương vọt người theo, vung kiếm chặt chân đối thủ. Đang chới với trên không, Thủ Huy chĩa ngón tay phóng xuống một Lĩnh Nam chỉ. Chỉ chạm vào kiếm choang một tiếng, trong khi chân công đá gió một cái, người bật tung ra xa. Á Nương cũng xê dịch người theo. Đoan Nghi rút kiếm tung cho chồng. Thủ Huy bắt kiếm, rồi xỉa vào làn kiếm quang của Á Nương. Lại choang tiếng nữa hai kiếm chạm nhau tóe lửa. Cánh tay công cảm thấy tê rần. Bất giác công nảy ra niềm khâm phục :
- Võ công Hoa sơn quả danh bất hư truyền. Tuy tuyệt học của họ bị mai một, thế mà công lực của Vân Đài cũng đến mức này. Sứ đoàn Ngô Giới, Lưu Kỳ sang đây với mục đích cướp nước bằng cái mã đẹp trai của Lưu Kỳ. Mấy năm trước bọn Ngu Doãn Văn tuy được trao Vô Trung kinh, nhưng lại không có thuật ngữ, thì cũng vô ích mà thôi. Bây giờ nếu như ta dùng võ công Vô Trung kinh, thì chẳng hóa ra ta học lóm võ công của họ ư ? Đã vậy ta dùng toàn những chiêu bình thường của Hoa sơn, cho mụ này hết dò la.

Công nghiêng người ra chiêu Thương tùng nghênh khách, tiếp theo tới chiêu Sơn trung lạc diệp. Vân Đài bật lên tiếng úi chà, rồi nhảy lùi lại trả đòn. Hai người quấn lấy nhau, khi tới khi lui, ánh thép lấp lánh. Vân Đài thì dở hết bản lĩnh ra, chỉ với mục đích bắt Thủ Huy phải xử dụng võ công trong bộ Vô Trung kinh. Còn Thủ Huy thì lại đánh cầm chừng, cứ hai ba chiêu Hoa sơn, công lại xen vào một chiêu của Tản viên, Đông a hay Mê linh.
Trải qua một trăm hiệp, công nghĩ thầm :
- Hôm ở Thiên trường mình với Vỵ xuyên ngũ tiên bầy mưu bắt Hoa nhạc tam nương, thành ra không biết rõ bản lãnh họ như thế nào. Cứ như Nghi Hòa sư thái kể : Người đã kết bạn với Tam nương, và không ngớt khen ngợi công lực, kiếm thuật của Tam nương. Thế mà sao hôm nay công lực, cũng như kiếm thuật của Vân Đài lại quá tầm thường thế này ?
Chợt công để ý đến cái bướu trên lưng Vân Đài, mồi lần mụ ra chiêu, thì cái bướu lại thóp vào, phình ra rất quái dị. Như vậy thì không phải là bướu rồi. Không biết nó là cái gì ? Chợt công nghĩ ra : Chắc cái bướu đó là cái bọc, trong đó mụ dấu vật chi bí mật đây. Đã vậy ta phải rạch cái bọc ra cho biết.
Nghĩ là làm, thình lình công biến chiêu, dùng một chiêu trong Mê linh kiếm pháp tên Nguyệt quang tùy ảnh, khiến Vân Đài phải lộn liền ba vòng về sau để tránh. Công chỉ chờ có thế, lúc mụ lộn một vòng, thì công biến từ Mê linh kiếm, chuyển qua chiêu Phong ba hợp bích của Đông a kiếm. Kiếm hoa lên, xoẹt một cái, bướu trên lưng Vân Đài bị rạch nửa vòng. Áo rách ra, bên trong là một cái bọc lớn cũng bị rạch. Giữa lúc đó mụ lộn sang vòng thứ nhì, thứ ba, vật dụng trong túi rơi xuống đầy sân.
Đám thị vệ nhặt các vật dụng đó trình cho Long Xưởng.
Biết bị mắc mưu, Vân Đài quay kiếm đánh thục mạng, giống như lối đánh cả hai cùng chết. Thủ Huy giật mình, không tự chủ được, công ra liền ba chiêu Hoa sơn, biến hóa mỗi chiêu ra âm, dương ; rồi âm, dương thành tứ tượng ; tứ tượng thành bát quái. Đúng ra mỗi biến chiêu đó kiếm có thể xuyên thủng da thịt Vân Đài, nhưng Thủ Huy kịp ngừng lại, khiến y phục mụ bị rách mà thôi. Người Vân Đài bị bao trùm trong làn kiếm quang, y phục bị khoét mất hàng chục lỗ. Người mụ trông thực thảm thiết.
Động lòng trắc ẩn, Thủ Huy thu chiêu nhảy lùi lại. Công chúa Đoan Nghi cởi áo khoác tung cho mụ. Áo tỏa ra như chiếc dù rồi che khắp thân mụ.
Những người đàn ông hiện diện đều là cao nhân đạo đức, vội quay mặt đi chỗ khác.
Còn Thủ Huy nhìn Vân Đài, chợt nhớ lại một chuyện cũ bất giác công bật lên tiếng cười khúc khích, rồi quay mặt nhìn ra chỗ khác. Trong khi Vân Đài nổi giận phừng phừng :
- Tên tiểu mao đầu kia, cái việc ấy dù trải đã mười năm dư, dù mi lớn rồi, dù mi là quan to, lão nương vẫn không quên được mối hận mi làm nhục lão nương. Suốt mấy năm qua, vì quốc sự, lão nương phải ngậm đắng nuốt cay đóng vai tôi đòi trong Đông cung. Lão nương chưa có dịp băm vằm mi ra làm nghìn mảnh, thì chưa hả giận. Cứ mỗi lần nghĩ đến chuyện cũ, lão nương lại ứa gan...
Thủ Huy cung tay :
- Tiên t
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #23  
Old 06-19-2004, 04:13 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C19:Gánh vàng đi đổ sông Ngô.

Tám năm trước khi bọn Ngô Giới đem toàn bộ phái Hoa sơn định đột nhập trang Thiên trường, tìm bộ Vô Trung kinh, rồi bị bắt trọn, thì Thủ Huy mới mười hai, mười ba tuổi, mà Thủ Lý đã mười sáu, mười bẩy. Tuy với cái tuổi ấy, Thủ Lý chưa thành một người lớn hoàn toàn. Nhưng vì tính tình trầm lặng, hành sự cẩn trọng, lại là người tinh minh mẫn cán bậc nhất trong đám đệ tử đời thứ ba, nên chàng đã được gia đình, môn phái coi như một người lớn. Hôm ấy trong khi ông bà Tự Hấp trao cho Thủ Huy với Vỵ xuyên ngũ tiên nhiệm vụ bắt Hoa nhạc tam nương, thì trao cho Thủ Lý, Trung Từ, Tá Chu, Phương Lan đi bắt Hoa nhạc tam phong. Rồi khi phái Đông a họp đệ tử chào đón ngũ vị chưởng môn Đại Việt, Thủ Huy cùng Long Xưởng để hết tâm đối đáp, luận bàn; thì Thủ Lý, Tá Chu, Trung Từ, Phương Lan, Kim Ngân rửng rưng, âm thầm ngồi trong đám đệ tử đời thứ ba.
Sau này Thủ Huy về Thăng long làm quan, rồi làm phò mã, Thủ Lý không cản trở em, nhưng chàng lãnh đạm với mọi biến cố. Chàng vốn có ác cảm, thành kiến với triều đình, từ khi nghe chuyện Cảm Thánh hoàng thái hậu dâm đãng, rồi tàn sát tôn thất. Chàng thường nói với em: Tại sao chúng ta là những kẻ sĩ, những cao thủ võ lâm đầy khí phách, mà phải cúi đầu cho con mụ dâm đãng sai bảo ? Để mụ ngồi trên đầu trên cổ, bắt làm những chuyện thương luân bại lý ?
Ngay từ hồi sáu bẩy tuổi, tính tình Thủ Lý, Thủ Huy khác nhau đã đành, mà đến cái nhìn về cuộc đời cũng khác nhau.
Nếu Thủ Huy ham ăn, thích đùa nghịch, cùng với Kim Ngân, với anh em họ Tô, với mấy người con của chú Tự Duy thì Thủ Lý đã có phong thái của một người lớn tuổi, mỗi lời nói đều cân nhắc, mỗi cử chỉ đều đường bệ. Hàng ngày ngoài giờ học văn, luyện võ ra, thì Thủ Lý không ngồi đọc sách với Phương Lan, lại rủ nàng cùng với Tá Chu, Trung Từ theo lực điền ra đồng xem xét công việc cầy bừa. Thủ Huy chưa từng làm vườn, trồng cây, đánh cá bao giờ. Ngược lại từ năm mười tuổi, Thủ Lý theo lực điền học cầy, học bừa, đánh kỳ, làm cỏ, cuốc đất, bón phân như những nông dân. Vì nội công cao, nên chàng có sức mạnh, vì vậy năng xuất làm việc của chàng cao hơn bất cứ nông dân nào. Thủ Lý còn vào bếp xin chị bếp dạy nghệ thuật nấu nướng Đại Việt. Cho nên khi đến tuổi trưởng thành, không một công việc của người giúp việc trong nhà nào mà chàng không hiểu biết. Nhờ vậy chàng thông cảm với người nghèo phải đi làm tôi tớ. Mỗi lời nói, mỗi cử chỉ của chàng đối với họ đều nhẹ nhàng, ôn tồn. Vì vậy họ coi chàng như một ông phúc của đời họ.
Thấy cháu có tư cách của người lớn, đại hiệp Tự Kinh thầm dặn ông bà Tự Hấp, Tự Duy cứ để yên mặc Thủ Lý làm, cho sáng kiến phát huy. Thỉnh thoảng, chỉ cố vấn khi thấy cần thiết mà thôi.
Trước khi Long Xưởng về Thiên trường, thì Thủ Lý cùng với Tô Trung Từ, Tá Chu, Kim Ngân, Phương Lan, Phương Liên và đám con của Đại Việt ngũ tuyệt đã tổ chức một đoàn thiếu niên nam nữ hơn năm trăm người, mở phong trào phá hoang làm ruộng, lập ra các ấp Thần nông ; các trại Thần nông nuôi gia súc, đào ao nuôi tôm, cá, cua. Chính chàng với Trung Từ, Tá Chu đã dùng những người này, đắp đập ngăn nước, khiến nước lên, mà thuyền phái Hoa sơn vẫn mắc cạn mà bắt Hoa nhạc tam phong.
Sau khi giúp nhà vua dẹp cái triều đình gà mái gáy, Thủ Lý, Trung Từ, Tá Chu không nhận chức tước, chàng chỉ xin triều đình ân xá cho tù nhân trấn Thiên trường, để ba người đem về giáo huấn. Triều đình chấp thuận. Thế là hơn ba trăm tù được ân xá, trao cho ba người. Lĩnh tù ra, việc đầu tiên Thủ Lý cho di chuyển gia đình các tội nhân về sống trong những ấp chàng mới lập. Giao cho mỗi xóm cưu mang một gia đình. Rồi cấp thực phẩm cho họ ăn trong sáu tháng, lại cấp ruộng, đất, ao, dụng cụ làm ruộng nữa. Bọn người phạm tội hối hận những việc làm cũ, chúng làm việc rất chăm chỉ. Hơn năm sau, các gia đình này trở thành khá giả.
Thủ Lý phân công: Trung Từ phụ trách phá hoang, huấn luyện canh nông, trực tiếp trông coi vấn đề canh tác ; nghĩa là những gì trên mặt đất. Phương Lan phụ trách huấn luyện gia chánh, nuôi tằm, trồng dâu, diệt vải, dệt lụa. Phương Liên phụ trách huấn luyện nuôi gia súc, nuôi cá, nuôi tôm, cua. Kim Ngân phụ trách huấn nghệ, như nghề mộc, nghề nề, chế xe, đóng thuyền, xây lò nung gạch. Tá Chu thì lo huấn luyện ngư dân, đóng thuyền, đan lưới, tổ chức đánh cá, vận tải.
Từ khi Thủ Lý bắt đầu chương trình lập toán phá hoang đến nay trải hơn mười năm. Dân chúng nghèo khó các nơi tụ về đông đảo vô cùng. Thiên trường trở thành trấn đông dân nhất Đại Việt (cho đến nay, 1997, vùng Thái bình, Nam định cũng là nơi có mật độ dân đông nhất). Thủ Lý chia các ruộng đất khai hoang làm hai loại. Loại tư điền, cấp cho mỗi người dân hai mẫu. Còn lại là công điền, đây là công điền của xã. Loại ruộng này, nếu nông dân muốn cấy, thì phải nộp tô cho xã, nhưng rất thấp. Tô đó, xã dùng để xây trường học, mượn thầy dạy con em, xây lò gạch, làm cầu, lát đá đường đi. Hóa cho nên đến nay, toàn thể nông dân trong các trang ấp Thần nông đều trở thành trung nông... Tiếng tăm vang khắp nơi, dân chúng gọi Thủ Lý làThần nông sứ, gọi Tô Trung Từ là Khai hoang sứ, Tá Chu là Hải hà sứ.
Vương Thúy Thúy từng thấy Thủ Lý hôm nàng bị bắt ở Thiên trường. Rồi khi Thủ Lý về cư ngụ trong Đông cung thì Thúy Thúy bị giam lỏng cùng phái Hoa sơn trên con thuyền ít ngày. Khi nàng đào thoát trở về Đông cung, nàng được sống với Thủ Lý mấy tháng. Thủ Lý dạy nàng với Tín Hương nấu những món ăn dân gian, cùng phép trồng hoa, tỉa hoa. Nay tuy mấy năm xa cách, Thủ Lý trở thành một thanh niên có thân thể hùng vĩ, nhưng nàng vẫn nhận ra. Nàng cung tay đáp bằng tiếng Việt :
- Tiểu tỳ xin ra mắt Thần nông sứ.
Thủ Lý xua tay :
- Vương cô nương. Cô nương là cao đồ của phái Hoa sơn gửi sang Đại Việt, đối với võ lâm, thân phận cô nương đâu có tầm thường ? Cô nương không nên xưng tiểu tỳ với tên nhà quê chân lấm, tay bùn như tại hạ.
Nghe Thủ Lý nói, Tín Hương phu nhân cau mày rồi rời khỏi phòng khách.
Tuy giọng nói của Thủ Lý nhẹ nhàng, mà mỗi câu, mỗi lời, Vương Thuý Thúy cảm thấy như một nhát kiếm tấn công mình. Thúy Thúy tự hào về sắc đẹp của nàng, nàng được sư phụ dạy dỗ rằng : Khi ta có sắc đẹp, thì bất cứ người đàn ông nào cũng phải mềm trước ta. Ngay lúc Thủ Huy hỏi cung nàng, mà trước sắc đẹp của nàng, công cũng dịu dàng như một thiếu niên đa tình đang cầu xin nàng ban ân huệ. Vừa rồi, một thiếu niên tên Tô Trung Từ vừa thấy nàng mà đã run lên bần bật. Thế mà bây giờ, nàng đã liếc mắt đưa tình, nghiêng vai, uốn lưng, ưỡn ngực ra trước để chinh phục, để khích động. Nhưng, người thiếu niên đầy sinh lực như Thủ Lý lại tỏ ra rửng rưng, dường như không hề động tâm gì cả. Lạ hơn nữa, sao chàng lại biết họ tên của nàng, biết nàng là người Hàng châu ? Biết nàng là quận chúa ?
Tự nhiên Thúy Thúy thấy ớn trên vai. Nàng vội chữa :
- Thưa thiếu hiệp, tiểu tỳ là bộc phụ Đông cung, nay được Thái tử cho về hầu hạ phò mã với công chúa... Thì cũng là tỳ nữ của thiếu hiệp.
Thủ Lý cười rất tươi :
- Vương cô nương ơi ! Chúng ta đều là người thức thời, thì nên lấy lòng mà ở với nhau. Những gì cô nương làm, tại hạ biết rõ từ lâu, nên rất kính trọng cô nương. Cô nương là một cánh hồng, phải lưu lạc xa cha mẹ, xa quê hương chỉ vì lòng trung quân, ái quốc. Cô nương chịu trăm cay nghìn đắng suốt bao năm qua, chỉ vì Trung quốc, chỉ vì Tống triều. Trong khi đó, biết bao nhiêu người tự hào là nam nhi đại trượng phu, mà chỉ quanh quẩn ở xó nhà với vợ, với con ; chỉ biết ăn ngon, mặc đẹp. Vương cô nương ơi ! Tại hạ biết rằng thái tử không có ý đem cô nương về đây để làm bộc phụ cho xá đệỳ, mà để xá đệ bảo vệ cho cô nương. Có đúng thế không ?
- Quả như thiếu hiệp dạy.
Qua mấy câu đối đáp, Thúy Thúy biết rằng Thủ Lý là người không thể dùng sắc đẹp lung lạc được. Muốn lấy cảm tình với chàng, thì chỉ có một đường duy nhất là chân thật.
Đoan Nghi bảo ông Ty, người quản dinh :
- Chú Ty tìm một phòng sạch sẽ cho Trung Tĩnh phu nhân ở.
Nàng lại nói với Thúy Thúy :
- Phu nhân vào thay đổi y phục, rồi ra đây đàm luận với đại huynh của tôi.
Vào trong thư phòng, Thủ Lý nháy mắt ra hiệu cho Phương Lan với Kim Ngân ngụ ý bảo im lặng. Hai người cười tủm tỉm ngồi im.
Thủ Lý hỏi Thủ Huy :
- Trước khi vào việc, chú thuật cho anh biết những gì đã xẩy ra tại Hoàng cung, Đông cung mấy ngày gần đây đã.
Thủ Huy thứ tự trình bầy tất cả những diễn biến về cuộc chuẩn bị tiến quân đòi lại cố thổ, vụ sinh con của Đỗ thục phi, Từ tuyên phi, vụ án đứa trẻ bị bắt đi mất còn mẹ thì bị giết chết, vụ hai bà mụ ngủ rồi chết luôn. Tiếp theo tới vụ Long Xưởng họp các em ăn cá, Minh Đạo vương cùng với Bạch Phượng xuất hiện, Côi sơn song ưng trách cứ Long Xưởng, rồi Đoan Nghi khám phá ra Á Nương là Vân Đài, cuối cùng tới cuộc thẩm vấn nàng ra sao.
Vương Thúy Thúy đã thay y phục, nàng mặc một bộ quần áo của một quận chúa Tống, quần mầu trắng, áo mầu hồng nhạt, áo khoác ngoài mầu tím. Tóc nàng chải, cuốn theo kiểu cung nga Nam Tống, trên dắt một cành hoa bằng ngọc đỏ :Di. Nàng vốn đã đẹp, nay được mặc loại y phục quen thuộc, mỗi bước đi của nàng, thân thể uyển chuyển như muôn ngàn bông hoa bay trên mây. Thủ Huy, Đoan Nghi, Kim Ngân, Phương Lan ngây người ra mà nhìn. Chỉ Thủ Lý là vẫn thản nhiên như thường. Chàng chỉ ghế :
- Mời quận chúa an tọa.
Thúy Thúy kéo ghế lùi ra sau Đoan Nghi một bước, rồi vén vạt áo, e lệ ngồi xuống.
Chàng lại nói với Đoan Nghi :
- Em là công chúa Đoan Nghi của Đại Việt, còn Vương cô nương đây tước phong tới Khâm minh, Đoan duệ, Vân Đài quận chúa. Thành ra quận chúa ngồi sau em một chút, hầu tỏ ra là người biết lễ nghi. Con gái Giang Nam không những đẹp người mà còn đẹp nết nữa.
Vợ chồng Thủ Huy giật mình đến thót một cái, trong lòng rối như tơ vò : Hỡi ơi, thì ra Vương Thúy Thúy đã lập nhiều công trạng, được Tống triều phong tới quận chúa. Còn Thúy Thúy thì hoảng hốt, tự hỏi : Ta mới được phong quận chúa chưa quá hai tháng, mà sao người này đã biết ? Với nhan sắc của ta, chưa từng ai thấy mà không khuất phục. Còn thanh niên này lại rửng rưng ?
- Thím nó này.
Thủ Lý hỏi Đoan Nghi : Thím khám phá ra Tông tích Á Nương từ bao giờ vậy ?
- Em đoán mò, may mà trúng chứ có biết trước đâu. Nguyên anh Thủ Huy thuật cho em nghe việc phái Đông a bắt các cao thủ Hoa sơn, rồi kể về Vân Đài như sau : ị Đạo cô Vân Đài tuy lớn tuổi, da dăn deo, nhưng lưng ong, chân tay dài, trắng mịn như một khuê nữ. Vậy em cũng nên luyện nội công Hoa sơn để giữ cho sắc đẹp khỏi bị tàn phai Ể. Một sự kiện khác làm em nhớ mãi : Hồi ấy Á Nương xin phép về thăm nhà có mười ngày, mà sao một tháng sau mới trở lại ? Thời gian Á Nương vắng mặt đúng vào thời kỳ bọn Hoa sơn đi Thiên trường. Khi Á Nương trở về cũng đúng vào ngày Vân Đài trốn khỏi con thuyền giam lỏng phái Hoa sơn. Buổi sáng nay, bị Côi sơn song ưng khiển trách, mọi người đang bàn luận, thì Á Nương lại vào ngự thiện đường lau chùi, mà thông thường Á Nương chỉ vào khi anh Long Xưởng ăn xong. Rồi dường như lo lắng, Á Nương qui tức thở đúng theo nội công Hoa sơn... Bằng ấy việc, làm cho em tỉnh ngộ, rồi đoán già, may mà trúng.
Nghe Đoan Nghi nói, Thúy Thúy mới hối hận rằng mình non tay hơn cô công chúa này. Thì ra Đoan Nghi chỉ đọa già, ta nhát gan, vội tự nhận.
Thủ Lý tiếp :
- Ông sai anh lên giúp hai em tìm cho ra tất cả bọn gian tế của Tống, ẩn dưới danh nghĩa đệ tử Hoa sơn đi tìm Võ kinh. Vâng lời ông thì anh làm, chứ trong tâm anh, thì anh không thích cái công việc này. Vì mình có cố gắng thì cũng chẳng đi đến đâu, bởi cái nọc độc gà mái gáy từ khi vua Nhân Tông băng đến giờ nó đã ăn sâu vào tủy, vào tim gan của các bà trong nội cung rồi. Hầu hết các quan đều mong muốn có một hoàng đế còn bế ngửa, một thái hậu tham dâm để họ tha hồ tác oai, tác quái.
Nghe anh nói, Thủ Huy kinh hãi :

- Em tưởng bọn Hoa sơn chủ động trong việc này chứ ? Chúng lợi dụng các sứ đoàn, để tìm Võ kinh. Nay thì anh lại luận sự việc trái ngược. Như thế nghĩa là ?
Kim Ngân hỏi Thủ Huy :
- Căn cứ vào đâu mà anh lại tin rằng bọn Hoa sơn chủ động, mà không phải là Khu mật viện Tống ?
- Anh giải đoán như vậy vì tin theo các bản tấu chương của Khu mật viện. Mà Khu mật viện lại tin vào lời khai của đệ tử phái Hoa sơn bị bắt. Thái tử Long Xưởng bắt đầu nắm Khu mật viện, sau khi bọn Hoa sơn bị bại ở Thiên trường. Khu mật viện đã sai biệt giam chúng, không cho liên lạc với nhau, rồi thẩm cung. Kết quả, chúng đều khai giống nhau, thì làm sao mà sai được ? Rồi từ đó đến giờ, có rất nhiều đệ tử Hoa sơn bị bắt. Họ cũng khai giống những người trước. Như vậy, Long Xưởng với anh cũng chưa tin hẳn. Điều làm bọn anh tin hoàn toàn, là trước đây các vị tôn sư Đại Việt sang Trung nguyên dự lễ giỗ tổ của phái Hoa sơn. Trong hơn tháng lưu lại, các vị đã đàm luận, kết thân với Ngũ nhạc đại lĩnh, Hoa nhạc tam phong, Hoa nhạc tam nương. Hôm ở Thiên trường, chính các vị ấy đã nhận diện bọn cao thủ Hoa sơn, rồi than thở không ít về hành động của họ. Tổng kết hai nguồn tin như thế, nên Long Xưởng với anh mới tin.
Mặt Thủ Lý lạnh như tiền, chàng nói rất nhỏ, nhưng dõng dạc :
- Từ thái tử đến em, cho chí Khu mật viện, bị Tống lừa hơn mười năm có dư rồi mà không biết. Anh nói cho em biết : Đến nay bọn tế tác Tống sang đây đã ba thế hệ. Thế hệ một là thế hệ của cái tên Trung Nhạc Tung sơn tiền nhiệm của Ngô Giới. Thế hệ thứ hai là thế hệ sư phụ của quận chúa đây. Họ đã có chỗ đứng, có thế lực rất lớn tại triều đình, không biết em với Long Xưởng có thể phá được không thì anh khó mà đoán trước. Quận chúa đây chỉ là thế hệ thứ ba mà thôi.
Đoan Nghi hỏi :
- Chúng là các đại thần chủ hòa ư ?
- Hơn thế nữa ! Các đại thần chủ hòa chỉ là chân tay của chúng mà thôi.
- Ông nội cho anh về đây chắc hẳn người nghĩ rằng : Nếu như bọn em biết chúng là ai, mà không thể giết chúng được, thì anh ra tay. Có phải thế không ?
- Trái lại, người dạy anh bằng mọi giá phải tìm cách cứu các đệ tử Hoa sơn không để triều đình giết. Nhất là tránh sao cho phái Hoa sơn với võ lâm Đại Việt giết lẫn nhau. Người nói : Triều Tống không đáng để cho các đệ tử Hoa sơn hy sinh. Đại Việt là Đại Việt. Ngôi vua Đại Việt dành cho người có đức, chứ không phải của riêng họ Lý.
Kim Ngân chỉ vào Thúy Thúy :
- Huống hồ những người đẹp như thế này, đáng lẽ phải xây nhà vàng cho ở, thì chúng gửi sang Đại Việt sống chui, sống nhủi như chuột, làm công việc của bọn tôi đòi hèn hạ. Trong khi đó chúng sống trên nhung lụa, hầu xinh, vợ đẹp. Thực là bọn chồn cáo.
Đoan Nghi hỏi :
- Anh giúp triều đình bằng cách nào ?
- Không ! Anh không giúp triều đình. Anh nhắc lại chủ trương của ông nội, cũng như môn phái Đông a nhà ta là : Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Còn như triều Lý hay triều Lê, triều gì đi nữa làm vua, cũng cứ được đi. Cho nên trải qua hai bà thái hậu Chiêu Hiếu, Cảm Thánh, tàn sát tôn thất, giết hại quan lại, nhà ta đều không can thiệp vào. Oạng nội chỉ cho can thiệp khi Tống định dùng Lưu Kỳ, biến Đai Việt thành quận huyện. Tương lai, nếu có cuộc tranh dành quyền lực trong giòng họ Lý thì nhà ta không biết tới. Còn em, thì em là công chúa, Thủ Huy là phò mã thì các em phải đem hết sức ra phò phụ hoàng em, đó là lẽ đương nhiên.
Đoan Nghi hỏi :
- Thưa anh, anh muốn nói cuộc tranh ngôi giữa phụ hoàng với Minh Đạo vương chăng ?
- Ý anh muốn nói cuộc tranh quyền giữa người họ Lý với người họ Lý. Có thể Cảm Thánh hoàng thái hậu lại trở về tranh quyền với hoàng thượng. Có thể trong các hoàng tử khác tranh với Long Xưởng. Cũng có thể Minh Đạo vương tranh ngôi với hoàng thượng.
Đoan Nghi biết chồng không muốn hỏi Thủ Lý nhiều về sự tranh ngôi trong triều đình. Nàng lên tiếng hỏi sang vấn đề khác :
- Cứ như anh ước đoán thì Tống bắt đầu đem tế tác sang ta để mưu chiếm nước từ bao giờ ?
- Ngay từ khi triều Nam Tống được thành lập, bốn tướng có công đầu trong việc trung hưng là Hàn Thế Trung, Ngô Lân, Ngô Giới, Lưu Kỳ đều thuộc phái Hoa sơn. Thành ra các danh tướng hầu như xuất thân từ cửa bốn tướng này. Thế lực phái Hoa sơn tại triều Tống cực mạnh. Khu mật viện luôn luôn là người của họ. Vì thế, võ lâm Trung nguyên thường cho rằng phái Hoa sơn là triều Tống, triều Tống là phái Hoa sơn. Hồi đầu, các tướng gốc Hoa sơn chủ trương đánh Đại Việt, rồi nhân đó lấy vũ kinh. Nên chi Khu mật viện Tống mới gửi thực nhiều tế tác sang ta. Sau khi tế tác thu thập tin tức về Hoa sơn tứ đại thần kiếm, về Mao Cung, Mao Kính, Khu mật viện Tống mới thiết kế chiếm Đại Việt bằng cách đặt nội gián mỹ nhân kế. Do vậy họ tìm ba thiếu nữ sắc nước hương trời, dạy văn, luyện võ, lại dạy cho thuật cầm ca, dạy cho học tiếng Việt, rồi cho làm Hoa nhạc tam nương, do một đạo sư vai sư thúc, sư bá của Ngô Giới cầm đầu. Triều đình Tống thì phong cho tước tiểu thư, ban cho hưởng bổng ngang với tuyên vũ sứ. Bổng cấp cho cha mẹ. Ba người này có quyền ngang với tuyên vũ sứ. Ba người sang được ba năm, thì họ đã thành công. Bao nhiêu tin tức của triều đình, võ lâm Đại Việt, Khu mật viện Tống biết hết. Họ được phong tước nhất phẩm phu nhân. Bên Trung nguyên, cha được phong hàm tước nam, mẹ được phong phu nhân. Lúc này Tống triều thấy Tam nươngỳ đã trở thành vợ của những nhân vật tối cao của Đại Việt, các đại thần Khu mật viện Tống bèn nghĩ đến việc tre già thì cho măng mọc. Họ lại tuyển một thiếu nữ Hàng châu, một thiếu nữ Tô châu và một thiếu nữ gốc Dương châu, sinh đẻ, lớn lên ở Đại Việt. Cả ba được phái Hoa sơn huấn luyện, rồi được cử làm Hoa nhạc tam nương, gửi sang Đại Việt. Nhưng sợ ba người trước phật lòng, phái Hoa sơn đặt ba thiếu nữ này làm đệ tử ba người trước.
Thủ Lý nhìn Thúy Thúy :
- Một trong ba thiếu nữ này là Vương quận chúa.
Thủ Lý nói đến đây thì Thúy Thúy run lẩy bẩy. Còn Phương Lan đứng lên, ra sân xem hoa.
Đoan Nghi hỏi nàng :
- Trung Tĩnh phu nhân, sự đã như thế này, thì phu nhân cũng chẳng nên dấu điếm làm gì. Ba vị Hoa nhạc tam nương tiền nhiệm là ai ? Hai sư muội của phu nhân là ai ? Cái ông Lạc Nhạn hiện ở đâu ?
Thủ Lý xua tay, tỏ ý không cần Thúy Thúy khai :
- Hai năm sau nữa, họ lại lập đại công, được phong quận chúa, cha được phong hàm tước tử, mẹ được phong nhất phẩm phu nhân. Sau vụ án Đỗ Anh Vũ, Tam nươngỳ giúp sứ đoàn Ngô Giới, Lưu Kỳ, cùng thái hậu lật ngược thế cờ, họ được phong công chúa. Ở bên Trung nguyên, bố được phong hàm tước bá, mẹ được phong quận chúa. Thủ Lý lại nhìn Thúy Thúy :
- Tôi nói có chỗ nào sai chăng ?
Mặt Thúy Thúy tái ngắt, nàng đáp :
- Thưa không có chỗ nào sai cả.
Đoan Nghi hỏi :
- Thưa anh, thế Hoa nhạc tam nương tiền nhiệm là ai ?
Kim Ngân xòe tay ra trước mặt chị dâu :
- Chị có phải là công chúa không ? Một công chúa đầy uy quyền, không thua công chúa Bình Dương, Kim Thành, Thiên Thành xưa, mà lại hỏi anh cả à ? Chị đã tìm ra Vương quận chúa là Vân Đàợi, thì tự nhiên phải tìm ra sư phụ nàng là ai, rồi cũng từ đó tìm ra hai sư muội của người là chúa Công Chúa, Mao Nữ chứ ?
Bây giờ Đoan Nghi mới hiểu rõ ý nghĩa những câu nói xa xôi của Thủ Lý trong ngày tiếp sứ đoàn Tống. Hôm ấy, Ngu Doãn Văn chỉ đòi hài cốt Lạc Nhạn, Vân Đài, thì Thủ Lý lại hứa trả tám bộ xương, trong đó có bộ xương của Trung Nhạc Tung sơn, Lạc Nhạn, hai Vân Đài, hai Công Chúa, hai Mao Nữ. Thủ Lý còn hăm đem họ cho quạ rỉa thịt, vì vậy từ Ngu Doãn Văn cho chí Tần Hy đều tái mặt, rồi không dám đòi người nữa.
Kim Ngân mỉm cười bí hiểm nhìn Thủ Huy :
- Sao anh không thẩm vấn Vương tiểu thư đây để biết sư phụ, sư thúc, hai sư muội của người ?
Cả Đoan Nghi lẫn Thủ Huy cùng lắc đầu :
- Anh đã thẩm vấn quận chúa đây, nhưng người cứ chối rằng không biết sư phụ của người hiện là ai ? Nhà ở đâu ? Hiện là nhân vật nào của Đại Việt ? Thì làm sao có thể biết hành trạng hai sư thúc cũng như hai sư muội.
Kim Ngân chù mỏ ra :
- Triều đình có Khu mật viện, có thị vệ, công nho chi ra biết bao nhiêu tiền mà không tìm được bọn tế tác Tống. Bây giờ em đã tìm ra, triều đình muốn thì em bán tin tức cho, giá rẻ thôi. Một là trả ngay, với giá năm nghìn lượng vàng, số vàng này chỉ bằng nửa số kinh phí chi cho Khu mật viện hằng năm. Hoặc miễn thuế cho toàn thể các trại Thần Nông.
Biết rằng Kim Ngân nói đùa, nhưng Đoan Nghi cũng cảm thấy chua chát : Phái Đông a không lĩnh của triều đình một đấu gạo, một đồng tiền, mà lại làm lợi cho triều đình không biết bao nhiêu mà kể, trong khi đó, bọn văn quan ăn hại cứ kiếm chuyện hoài.
Thủ Lý xua tay không cho em gái đùa nữa, chàng cười nhạt :
- Có thể Vương quận chúa không biết, có thể người không muốn khai, vì sợ bản thân và gia đình bị trả thù. Thôi được rồi, anh vì hai em mà phải vô phép với giai nhân Hàng châu vậy.
Chàng quay lại phía sau :
- Kính mời Thạc hòa Anh văn quận chúa ra tương hội. Sự đã như thế này, mà quận chúa còn dấu thân phận ư ?
Chỉ thấy thấp thoáng một cái, Tín Hương phu nhân từ sau cánh cửa tung mình chạy. Nhưng khi bà ta vừa tới hàng rào thì bị một người đứng chặn trước mặt. Người đó là Phương Lan. Tín Hương phát một chiêu Hoa sơn chưởng đẩy về trước. Phương Lan vội phát chiêu đỡ. Bình một tiếng, Tín Hương bị bay tung trở lại ngay trước mặt Đoan Nghi. Đoan Nghi điểm huyệt nàng, rồi xách vào nhà, đặt ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế.
Kim Ngân gỡ lớp da giả trên mặt Tín Hương, dùng khăn lau mặt cho nàng. Lập tức hiện ra một khuôn mặt cực kỳ thanh tú : Làn da trắng mịn, môi hồng mọng, nhất là đôi mắt đen, có đuôi thực khả ái.
Thủ Lý cười với Tín Hương phu nhân :
- Quận chúa đừng sợ. Bởi mục đích chuyến về Thăng long của tại hạ là tránh cho các đệ tử Hoa sơn khỏi bị Côi sơn song ưng giết chết. Mà quận chúa hiện là chưởng quản ngọn núi Mao Nữ trong Ngũ nhạc, chẳng may bị bọn quan lại Tống đánh lừa, đưa sang đây để mưu đồ bất chính cho chúng. Tại hạ có bổn phận bảo vệ quận chúa. Vậy người cứ thư thả về khuê phòng thay y phuc quận chúa, trang điểm, rồi ra đây để chúng ta cùng luận bàn.
Tín Hương biết không dấu thân phận được nữa. Nàng cười nhạt nói với Đoan Nghi :
- Công chúa, xin công chúa giải huyệt cho thần. Vì trong khi phóng chưởng, Thần nông phu nhân đã vận Cổ loa tâm pháp. Nếu như tiểu tỳ trốn, thì ba ngày sau các mạch máu sẽ vỡ ra mà chết.
Đoan Nghi giải huyệt cho Tín Hương. Nàng lui vào hậu đường. Vương Thúy Thúy hỏi Thủ Lý :
- Thần nông sứ ! Tiểu muội sống với Tín Hương mấy năm dư mà không biết đó là sư muội đồng môn. Thế sao người ở mãi Thiên trường thì lại biết rõ chân tướng nhị sư muội của muội ?
- À, chính là cái hôm đầu tiên cô nương trốn thoát khỏi con thuyền giam lỏng, rồi trở lại Đông cung. Bấy giờ tại hạ từ Thiên trường về giúp Long Xưởng dẹp loạn gà mái gáy. Chỉ nhìn dáng đi, cùng thân thể của nhị vị là tại hạ biết ngay. Vì trên đời làm gì có bộc phụ mà từ thân thể, chân tay, dáng đi đẹp đến như thế được ? Nhất là lúc cô nương với Tín Hương quay lưng bước đi, rõ ràng là thân pháp Hoa sơn, mà thân pháp này mới do đạo sư Ngô Giới chế ra không lâu. Vì vậy, trong suốt thời gian ở Đông cung, tại hạ đã đối xử với nhị vị như những quý khách, chứ không coi là tôi tớ. Ngay sau đó, tại hạ thưa với với song thân và Đại Việt ngũ tuyệt về thân phận hai vị. Hỡi ơi, thì ra các vị cũng biết, đâu phải mình tại hạ. Phụ thân tại hạ trở về trình với ông nội. Ông nội khuyên : Cứ để nguyên như vậy, không nên nói cho Thủ Huy biết. Phái Đông a sẽ cho đệ tử theo dõi, để biết hết những nội gián của Tống.

Đến đây thì Tín Hương đã trở ra. Nàng không còn coi mình là bộc phụ nữa, ngang nhiên ngồi đối diện với Đoan Nghi.
Thủ Lý chỉ Tín Hương :
- Mao Nữ tiên tử đây có khuê danh là Nhạc Bảo Bảo, nguyên xuất thân trong một gia đình trung lương. Phụ thân là Nhạc Bình, một đệ tử Hoa sơn, lĩnh chức đô thống trong đạo binh của Hàn Thế Trung. Hồi Nhạc tiểu thư mới năm tuổi thì phụ thân tuẫn quốc. Tiểu thư được trao cho phu nhân của Hàn Thế Trung nuôi dưỡng. Năm lên sáu tuổi, Thế Trung gửi tiểu thư cho đạo cô Vân Hà nuôi. Cũng như Vương tiểu thư, Nhạc tiểu thư được học văn, luyện võ, học tiếng Việt. Năm mười hai tuổi, Khu mật viện tìm cách đưa sang Đại Việt ; nhưng nói thác là do phái Hoa sơn sai đi, để tìm Vô Trung kinh với cái hư danh là quản lĩnh ngọn núi Mao Nữ. Sang Đại Việt tiểu thư đặt dưới sự chưởng quản của Mao Nữ tiên tử tiền nhiệm. Vị tiên tử này mới xếp đặt cho tiểu thư làm con một thầy lang. Rồi từ đó thành nô bộc cho vú Loan, cuối cùng thành Tín Hương phu nhân của Đông cung, rồi quản dinh của công chúa Đoan Nghi.
- Tín Hương phu nhân !
Đoan Nghi thiết tha : Sự đã như thế này, phu nhân hãy cho tôi biết Hoa nhạc tam nương tiền nhiệm với sư muội Công Chúa của phu nhân là ai ? Hiện cư ngụ ở đâu ?
Nhạc Bảo Bảo thở dài, đưa mắt nhìn Thúy Thúy. Thúy Thúy vuốt tóc Bảo Bảo :
- Sư muội ơi ! Sư tỷ chỉ có một thân một mình, thì sư tỷ có khai cũng không hề chi, miễn được phái Đông a bảo vệ là yên. Nhưng sư tỷ lại không biết rõ sư phụ hiện là nhân vật nào của Đại Việt? Còn sư muội thì sư muội biết rõ sư phụ là ai, hiện ở đâu. Hiềm vì sư muội lo sợ rằng nếu khai hết thì má má, anh chị tại quê nhà sẽ bị chết chém hết. Mà không khai thì không được. Làm sao bây giờ ?
Như chợt nhớ ra điều gì, Kim Ngân, Phương Lan cùng đứng dậy lui vào trong hậu đường. Phương Lan dùng Lăng không truyền ngữ nói với chồng :
- Cứ quan sát sơ, em cũng biết Bảo Bảo là người có bản lĩnh, và hay lý sự. Nếu anh muốn khai thác tin tức ở nàng thì không khác gì bắc thang lên trời. Anh thấy không? Là tội nhân, mà nàng chưng diện, trang điểm thực lộng lẫy. Ta có thể căn cứ vào đây mà khống chế nàng.
Biết vợ mình là người mưu trí cực cao thâm, Thủ Lý mừng lắm. Chàng hỏi :
- Khống chế bằng cách nào ?
- Nàng coi sắc đẹp trọng hơn tính mệnh. Anh nên làm như thế... như thế...
Thủ Lý mỉm cười với Bảo Bảo :
- Nhạc cô nương ơi ! Trong Hoa nhạc tam nương, thì cô nương là người quyền biến, mưu lược nhất, mà cô nương không nghĩ ra phương cách an toàn cho mình, thì một là cô nương không muốn nghĩ, hai là cô nương có chủ tâm riêng. Anh em tại hạ đã lấy lòng mà đối xử với cô nương, sao cô nương lại không tự biết ? Chắc cô nương nghĩ rằng, theo thể lệ bang giao Hoa Việt, thì hai bên không được giết tù hàng binh, cũng không được giết tế tác. Có đúng thế không ?
- Quả như người nói.
- Chính vì lẽ đó, mà mấy năm trước Đại Việt mới không giết đám mật sứ Ngô Giới, Lưu Kỳ. Nay cô nương với Vương cô nương nghĩ rằng bọn tại hạ không thể tra tấn cô nương, nên cô nương không chịu khai. Có phải thế không ?
Bảo Bảo im lặng.
- Cô nương nên nhớ, cho đến lúc này vẫn chưa có gì chứng minh thân phận cô nương là tế tác của Tống. Như vậy cô nương vẫn là người Việt. Người Việt mà phạm tội làm gian tế cho ngoại bang, thì bản thân sẽ bị lăng trì (xẻo thịt), còn ba họ bị xử trảm. Ví thử bây giờ bọn tại hạ đem cô nương xẻo ít miếng thịt thì cô nương nghĩ sao ?
Mắt phượng quắc lên, Bảo Bảo ngồi ngay ngắn lại :
- Người thực là một tên thợ cầy không tim, không gan. Ngay khi mới gặp nhau, người đã biết rõ chân tướng ta. Suốt thời gian người ở Đông cung, cũng như sau này người về thăm em, ta không hề dấu diếm rằng ta yêu người, ta đã nhiều lần bầy tỏ những cảm tình, những cử chỉ nhu nhã với người, mà người không bao giờ đáp lại.
Nàng bưng mặt khóc :
- Thế mà người còn tàn nhẫn. Người đe dọa chúng ta hẳn ? Được, người cứ đem chúng ta ra mà giết đi. Sống ta làm thần tử nhà Tống, chết ta sẽ được phong thần, mẹ được phủ tuất. Ta không sợ chết đâu.
- Nhạc cô nương thực là nữ trung hào kiệt, đáng khen. Nhưng tại hạ không giết cô nương đâu, mà chỉ xẻo ít miếng trên mặt cô nương. Lập tức cái mặt cô nương xinh đẹp thế kia sẽ biến thành lồi lõm, thì thực là đáng tiếc.
Bảo Bảo hứ một tiếng :
- Người nên nhớ đây là dinh Côi sơn quốc công Còn ta, ta được sắc phong là Tín Hương phu nhân, trong khi người chỉ là một gã nông phu vai u thịt bắp. Sở dĩ chúng ta để cho người múa lưỡi, vì người là anh của phò mã Thủ Huy, chứ người không có quyền chức gì mà đe dọa chúng ta. Dù sao, Đại Việt cũng có quốc pháp, phong tục cũng có trên dưới. Một tên thợ cầy, không thể được vô lễ với một tước phu nhân. Người hiểu không ?
Thủ Lý bật lên tiếng cười dòn dã :
- Khu mật viện Tống thực có mắt tinh đời khi họ chọn cô nương đóng vai Mao Nữ tiên tử. Họ cũng tốn không biết bao nhiêu công lao để dạy cô nương về luật pháp Đaị Việt. Nhưng có điều họ biết, mà không biết đến nơi đến chốn. Họ không biết đến chủ đạo tộc Việt, nên họ không dạy cho cô nương. Chắc cô nương cũng biết hơn trăm năm trước, trong trận Tản lĩnh, viễn tổ của tôi đã thẳng tay tàn sát bọn Hồng thiết giáo Tây vực, sau đó mới cáo với vua bà Bắc biên. Người lấy lý rằng chủ đạo của tộc Việt định rõ : Việc bảo vệ đất nước là nhiệm vụ của mọi con dân.
Ghi chú của thuật giả :
Về trận Tản lĩnh : Xin đọc Anh hùng Bắc cương, 4 quyển của Yên tử cư sĩ, so Xuân thu Hoa kỳ xuất bản.
Chàng nhìn Đoan Nghi :
- Từ nãy đến giờ, tại hạ không hề nhân danh triều đình, không hề nhân danh chú em tại hạ, hay cô em dâu tại hạ, mà chỉ nhân danh con dân Đại Việt nói chuyện với cô nương. Bây giờ tại hạ sắp nhân danh tên thôn phu Đại Việt, tên thôn phu có bổn phận trừ gian cứu nước. Tại hạ sẽ dùng dao khắc vào má cô nương một cái hình con cua, và một cái hình con ếch, hay con ốc, rồi lấy bồ hóng trộn với vôi bôi lên. Bồ hóng với vôi sẽ theo vết thương , ăn sâu vào da cô nương. Mặt cô nương sẽ có hình con ếch, con cua ; coi đẹp gớm. Sau đó triều đình Đại Việt trả cô nương về Tống, nhất định triều đình Tống sẽ phong cô nương làm ị Eãch cua công chúa Ể, rồi ban cho vài trăm mẫu đồng lầy làm ấp để nuôi cua, nuôi ếch.
Cho rằng Thủ Lý dọa già, Bảo Bảo cười nhạt :
- Được, đại ca muốn làm gì thì làm đi. Con nhỏ họ Nhạc này mà có nhăn mặt, thì không phải là người nữa.
Thấy Tín Hương đổi cách xưng hô gọi Thủ Lý bằng đại ca ; Đoan Nghi, Thủ Huy tưởng rằng ông anh sẽ mềm lòng. Nào ngờ Thủ Lý lạnh lùng :
- Cái đó thì dễ lắm.
Thình lình Thủ Lý phóng chỉ véo, véo hai tiếng, điểm vào huyệt đại chùy của Thúy Thúy, và huyệt kiên ngung của Bảo Bảo. Hai nàng định tránh, nhưng không kịp. Cả hai bị tê liệt, ngồi im như pho tượng. Thủ Lý nói bằng giọng êm đềm :
- Tại hạ điểm huyệt khiến mặt cô nương tê dại rồi. Bây giờ tại hạ có rạch mặt thì cô nương sẽ không cảm thấy đau đớn gì.
Chàng hướng tay lên tường, nơi treo đầy vũ khí, phẩy một cái, thanh chủy thủ rời khỏi vị trí vọt tới nằm gọn trong tay. Chàng gại lưỡi dao vào bàn tay hai cái, rồi cầm quả ổi trong đĩa trái cây trên bàn, đưa phớt qua, quả ổi đứt làm hai rất ngọt. Miệng mỉm cười, chàng ướm thử lên má trái Bảo Bảo như định rạch.
Bảo Bảo ớn da gà nghĩ thầm :
- Tên Nam man dọa ta đây. Trên đời này, làm gì có thằng con trai nào mà không khuất phục trước sắc đẹp của ta. Ta mà non gan thì bị thua trí nó.
Nghĩ vậy nàng nhìn Thủ Lý nở một nụ cười, ánh mắt sáng long lanh liếc ngang một cái. Đoan Nghi, Thủ Huy ngồi cạnh mà cũng choáng váng. Bảo Bảo ngửa mặt lên đầy vẻ mời mọc, đầy vẻ khiêu khích :
- Đại ca cứ rạch đi. Muội không sợ đâu.
Thủ Lý hứ một tiếng :
- Cô nương khỏi cần thách thức.
Nói dứt chàng vạch vạch mấy đường trên má phải Bảo Bảo. Lập tức máu chảy từ má nàng nhỏ lách tách xuống đất. Thủ Huy, Đoan Nghi cùng bật lên tiếng úi cha đầy kinh ngac, đầy thương tiếc :
- Tín Hương phu nhân ơi, người khai thực đi, bằng không đại ca của tôi rạch nữa, e mặt ngọc của phu nhân có vết thì thực là mối hận thiên cổ.
Nghe Đoan Nghi than, Bảo Bảo bở vía. Muôn ngàn lần nàng không ngờ Thủ Lý lại làm thực. Nàng hét lên :
- Tàn nhẫn ! Tàn nhẫn ! Người giết ta đi cho rảnh.
Thủ Lý lại rạch má trái, máu lại nhỏ xuống chiếc xiêm trắng của Bảo Bảo. Thủ Huy can anh :
- Đại ca ! Hỡi ơi ! Trên mặt Tín Hương phu nhân bị khắc hình con cua, con ếch thế này thì coi sao được. Đại ca ngừng tay đi thôi.
Bảo Bảo vẫn quật cường :
- Muội... Muội thà chết chứ không chịu khuất phục.
Thủ Lý gọi tỳ nữ :
- Lấy cho ta ít bồ hóng, trộn với vôi, để ta bôi lên má Nhạc cô nương, thì chỉ một khắc là những chỗ rạch sẽ bị ăn sâu vào, thành hình con ếch, con cua.
Tỳ nữ vào trong nhà.
Bảo Bảo bở vía, nàng run run :
- Muội xin khuất phục. Muội xin khai. Em xin anh đừng trát bồ hóng với vôi lên mặt em ! Tội nghiệp em mà.
Bảo Bảo xuống nước, xưng muội, rồi lại dùng ngôn từ Đại Việt xưng em với Thủ Lý, lại ngiêng đầu để ánh mắt chiếu vào người chàng. Nàng lại hít hơi thực mạnh, ngực nhô lên thụp xuống. Những tưởng bằng ấy thứ, thì dù tim Thủ Lý bằng thép cũng phải nhũn ra. Thế mà Thủ Lý vẫn cười lạnh lùng :
- À, có thế chứ.
Bảo Bảo quát :
- Người thực là tên nhà quê không tim, không gan, tàn nhẫn nhất thiên hạ. Với sắc đẹp của bản cô nương, anh hùng thiên hạ hễ trông thấy là líu ríu tuân lệnh. Còn người, thì người rửng rưng. Thực là quân mọi rợ. Người phải mau lau vết máu cho bản cô nương đã, rồi hãy nói đến chuyện cung khai.
- Cô nương phải khai trước, rồi tại hạ lau sau cũng được. Đầu tiên cô nương cho biết sư phụ của cô nương là ai ? Hiện ở đâu ?
Bảo Bảo biết gặp tay kình địch, nàng thở dài :
- Sư phụ của muội chính là giai phi Chế Bì la bút.
Thủ Huy, Đoan Nghi cùng bật lên tiếng ái chà, không lẽ. Nhưng Thủ Lý thì gật đầu :
- À, thì ra giai phi Chế bì La bút là Mao Nữ tiên tử đấy. Cô nương cứ thực thà khai hết đi. Tại hạ hứa sẽ chu toàn tính mệnh cho cô nương với gia đình.

Tá Chu từ ngoài vào, chàng nghiêng mình chào Bảo Bảo, Thúy Thúy, rồi mở ra một cuốn trục lụa. Trên trục vẽ hình Bảo Bảo trong y phục quận chúa Tống. Nàng đang đứng cạnh Giai phi Chế bì La bút. Giai phi trong y phục công chúa Tống. Nét vẽ cực kỳ sống động. Cạnh đó có chữ đề đẹp như rồng bay, phượng múa :
Nhất cố khuynh nhân thành,
Tái cố khuynh nhân quốc.
Khởi tái cố thành khuynh,
Giai nhân nan tái đắc
Nghĩa là : Một nghiêng đầu, khiến thành nghiêng. Tái nghiêng đầu, khiến nước nghiêng. Đâu cần nghiêng đầu lần nữa để nghiêng thành. Người đẹp khó mà có hai.
Bảo Bảo hừ một tiếng, nghĩ thầm :
- Từ trước đến giờ, sư bá, sư phụ, chỉ đề phòng Thủ Huy, mà quên mất bọn Thủ Lý, Tá Chu, Trung Từ. Về tài trí, bọn này mỗi đứa đều có sở trường riêng. Cứ như hình vẽ này, thì tên Tá Chu từng theo dõi bọn Hoa sơn nhà mình từ lâu rồi. Ta có dấu diếm nữa cũng vô ích.
Nghĩ vậy Bảo Bảo tiếp :
- Vào niên hiệu Thiệu Hưng thứ 22 (DL.1152) bên Đại Việt là niên hiệu Đại Định thứ 13, một hoàng thân nước Chiêm thành tên Uông Minh Ta Điệp sang đút lót vàng bạc cho ác nhân Đỗ Anh Vũ, để xin y tâu với Đại Định hoàng đế phong ông làm vua Chiêm. Anh Vũ không cần tâu vua, y sai tướng Lý Mông đem 5 nghìn quân đưa Uông Minh Ta Điệp về làm vua Chiêm. Nhưng quân Việt bị vua Chiêm là Chế bì La bút đánh thua. Lý Mông, Uông Minh Ta Điệp đều bị chết. Chế bì La bút sợ Đại Việt mang quân hỏi tội, ông ta sai sứ sang Tống cầu cứu. Bấy giờ Tống triều đang phải chống với Kim, thì sao dám mó tay vào cái tổ ong Đại Việt ? Khu mật viện Tống gửi thư cho thái sư bá của ta là Trung nhạc Tung sơn, vốn đã tiềm ẩn bên Đại Việt từ lâu rằng : Bằng mọi cách trong bóng tối vận động với triều đình Đại Việt bãi quân Nam chinh. Việc này thái sư bá thành công. Thái sư bá nhân đó bắt vua Chiêm phải nhận sư phụ làm con, rồi dâng cho vua Đại Việt để tạ tội.
Ghi chú của thuật giả.
Việc này ĐVSKTT, VSL chép trong Lý kỷ, Anh tông kỷ.
Uông Minh Ta Điệp, phiên âm theo Phạn ngữ là Ông Vangsaraja. Còn Chế bì La bút là Jaya Havivarman.
- Đúng thế, trí nhớ cô nương tốt lắm. Xin cô nương tiếp cho.
- Sở dĩ có việc này vì thái sư b
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #24  
Old 06-19-2004, 04:20 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C20:Tiêu sơn di hận.

Bấy giờ là giờ Mùi (15 17 giờ), ngày 5 tháng 9, niên hiệu Thiên cảm Chí bảo nguyên niên (DL.1174 Giáp Ngọ). Trong một soái thuyền lớn của hạm đội Âu Cơ, neo tại căn cứ Đồn sơn. Phụ quốc thái úy Trần Thủ Huy cùng chư tướng ngồi ở phòng hội chính. Tất cả, vừa uống trà, vừa đàm đạo. Mỗi khi có tiếng chân ngựa phi, Thủ Huy lại lắng tai nghe, phóng mắt nhìn ra ngoài, xem ai đến ? Song đã không biết bao nhiêu ngựa tới, lui, mà Thủ Huy với chư tướng vẫn lắc đầu.
Mặt trời đã xế về Tây, ánh sáng vàng vọt của buổi chiều Thu tỏa xuống rừng núi đầy lá vàng. Gió biển buổi chiều mang theo cái lạnh len lỏi ở trong.
Đã sang giờ Thân, Thủ Huy không kiên nhẫn được nữa, công đứng lên nói :
- Thái tử cùng Nghĩa Thành vương hứa sẽ hiện diện hôm nay, để khích lệ chư tướng, cùng ban chỉ dụ cuối cùng, trước khi chúng ta vượt biên. Nhưng, cho tới giờ này, cũng không thấy hai vị giá lâm, chúng ta đành tùng quyền, mà hành sự.
Các tướng im lặng nghe lệnh.
Thủ Huy để kiếm lệnh lên bàn, rồi hướng vào chư tướng :
- Tôi nhắc lại. Chúng ta tiến quân làm hai cánh, mỗi cánh có hai mũi. Cánh thứ nhất do Kiến Ninh vương làm chánh tướng, Kiến An vương làm phó tướng, thống lĩnh bốn hạm đội, chở năm hiệu Thiên tử binh tiến đánh Quảng châu, Khâm châu. Để che mắt tế tác Tống, bốn hạm đội, cũng như năm hiệu binh hiện đều đồn trú tại Thanh hóa. Vậy nhị vương khẩn lấy ngựa lên đường ngay đêm nay, chuyển quân xuống thuyền, tuyền hạm đội nhổ neo. Nhớ phải ban lệnh cho hạm đội ra thực xa bờ, để tránh thuyền buôn, thuyền đánh cá Tống biết. Nếu trên đường đi gặp bất cứ thuyền nào, cũng bắt đem theo. Sau khi đổ bộ hãy thả ra. Khi tới ngoài khơi Quảng châu, Khâm châu, thì đổi hướng, vào bờ. Lúc di chuyển phải tính toán sao, để đúng giờ Dần ngày 15 tháng 9 thì đổ bộ.
Thủ Huy lại hướng Long Hòa, Tăng Khoa :
- Cánh thứ nhì do Kiến Tĩnh vương làm chánh tướng, Vũ kị thượng tướng quân làm phó, thống lĩnh bẩy hiệu Thiên tử binh, hiệu kị binh Phù Đổng, hiệu ngưu binh Hoa lư vượt biên đánh lên Ung châu bằng đường bộ. Tất cả các hiệu binh này hiện đều đồn trú rải rác ở Thăng long, Kinh Bắc, Đông triều, Lạng châu. Đợi đến ngày 14 hãy di chuyển, đúng giờ Dần ngày 15 tháng 9, đồng vượt biên tràn sang đánh 18 ải, rồi tốc thẳng lên chiếm Ung châu, Côn lôn, Quế châu, Linh lăng, vượt Ngũ lĩnh đánh Trường sa.
Khoang soái thuyền rất rộng, cử tọa có trên trăm người mà không một tiếng động. Tiếng Thủ Huy vẫn sang sảng :
- Tin tế tác cho biết hiện khắp vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Tống chỉ có bảo binh và hai hiệu binh địa phương. Ta ra quân bất thình lình, đánh như sét nổ, bọn biên quan chưa tập họp được quân, thì thành đã bị chiếm.
Công hỏi cử tọa :
- Ai có gì thắc mắc không ?
Kiến Tĩnh vương hỏi :
- Thành Ung, Linh lăng rất chắc. Trường hợp quân Tống rút vào trong cố thủ, thì tôi phải hạ được thành rồi mới tiến quân, hay cứ tiến quân ?
- Thành chắc, nhưng quân thủ thành không đông, cũng không tinh. Ta không cần hạ thành. Cứ để lại một ít quân bao vây, rồi tiến quân tiếp.
- Có ai thắc mắc gì nữa không ?
Chư tướng đều im lặng.
- Thôi, xin mời chư vị lên đường.
Các tướng cùng đứng lên.
Thình lình có nhiều tiếng ngựa phi. Thủ Huy vẫy mọi người ngồi lại :
- Không chừng Thái tử tới trễ.
Một thân binh vào báo :
- Thưa Thái úy, có sứ giả tới xin cầu kiến.
Thủ Huy giật mình :
- Sứ giả là ai vậy ?
- Thưa là Dao thụ Thái phó, lĩnh Cần chính điện đại học sĩ, Trường yên quốc công, thượng thư bộ Lễ Ngô Lý Tín.
Theo quan giai, thì hàm Dao thụ Thái phó của Ngô thấp hơn Phụ quốc Thái úy của Thủ Huy nhiều. Nhưng Ngô là khâm sứ, nên Thủ Huy phải ra đón.
Lễ nghi tất.
Thủ Huy hô lớn :
- Chư tướng quỳ gối nghe chỉ.
Ngô Lý Tín mở chiếu chỉ đọc:
Thừa thiên khải vận,
Đại Việt hoàng đế chiếu viết :
Tự cổ từ Tam hoàng, Ngũ đế, các vị thánh nhân cai trị dân, đều nêu cao đức hiếu để làm gương. Từ khi đức Thái tổ nhà ta thừa mệnh trời, ứng lòng người mà lập nền chính thống, trải 164 năm có dư, đều dạy dân lấy hiếu phụng dưỡng cha mẹ.
Long Xưởng là hoàng trưởng tử, trẫm chiếu lời tâu của chư đại thần, lập làm thái tử. Gần đây, long thể bất an, trẫm lại trao hết quyền hành cho. Ngày một, ngày hai, khi trẫm về chầu tiên đế, thì ngôi trời ắt truyền cho Xưởng. Thế mà y lại nảy lòng hươu dạ vượn, đêm hôm trước, lén nhập cấm cung, toan cưỡng dâm sủng phi, giết thái giám, cung nga.
Than ôi ! Làm con mà bất hiếu đến như vậy, thì sao có thể cai trị thiên hạ ? Làm đấng trừ quân mà tham dâm bất chính đến thế, thì sao có thể cầm giềng mối quốc gia ? Trẫm lấy làm đau đớn trong lòng đã sinh ra đứa nghịch tử, nên đành nuốt lệ tế cáo trước lăng mộ các tiên đế. Nay trẫm tuyên chỉ với bách quan, với quốc dân ba điều.
Một là bắt giam đứa con bất hiếu, để chờ ngày xử tội, lại phế bỏ ngôi thái tử, giáng xuống làm con út, tức con thứ bẩy.
Hai là, trong khi chờ đợi lập thái tử mới, tạm truyền đóng cửa Đông cung, giải tán Đông cung triều.
Ba là các hiệu Thiên tử binh, các hạm đội, thủy đội đâu ở yên đấy. Việc ra quân bãi bỏ. Bất cứ hoàng thân, đại thần, tướng sĩ nào còn bàn đến chuyện này sẽ bị xử trảm.
Vậy các hoàng tử, thân vương, phò mã, công chúa phải khẩn về Thăng long chờ chỉ dụ.
Thiên cảm Chí bảo nguyên niên, tháng 9 ngày Canh Dần.
Khâm thử.
Thủ Huy, Đoan Nghi cùng chư tướng ngơ ngác nhìn nhau, đồng lậy tạ rồi đứng dậy.
Ngô Lý Tín nói với Thủ Huy :
- Hoàng thượng truyền công chúa với phò mã dẫn ba vương Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh khẩn về triều phục mệnh ngay. Việc hoàng tử Long Xưởng phạm tội quá nặng, khiến hoàng thượng buồn sầu mà long thể khiếm an, không biết sẽ băng hà lúc nào.
Nghe Ngô nói mà lòng Thủ Huy chán cho tình đời, vì y dùng chữ hoàng tử Long Xưởng, chứ không gọi là thái tử nữa.
Đoan Nghi không kiên nhẫn được, nàng hỏi :
- Ngô Thái phó, cái vụ này ra sao ?
- Khải điện hạ, thần cũng không biết gì hơn nội dung của chiếu chỉ. Sáng nay, thần vừa thức dậy thì được báo cổng thành đóng kín. Trên thành, quân sĩ đi lại tuần hành. Đến giờ Thìn thì cổng thành mở cho các đại thần vào thiết triều ở điện Càn nguyên.
Lý Tín thở dài :
- Khi hoàng thượng với Tuyên phi ra ngự triều một lát, thì Thái sư Tô Hiến Thành với Tể tướng Đỗ An Di vào tâu rằng đã cho bắt hết cung nga, thái giám, thị vệ, bộc phụ Đông cung giam lại. Tài vật thì niêm phong. Trong Hoàng thành, binh sĩ canh phòng rất cẩn mật, trên kinh thành thì Thái bảo Phí Công Tín chỉ huy hiệu binh Sơn Nam trấn đóng. Rồi hoàng thượng cho tuyên đọc chiếu chỉ này, và truyền thần khẩn mang lên cho điện hạ với phò mã tường.
Kiến Ninh vương bảo Ngô Lý Tín :
- Thôi, Ngô Thái phó hãy trở về trước đi. Chúng tôi sẽ rút quân từ từ, khi nào xong, chúng tôi sẽ về phục mệnh phụ hoàng.
Ngô chắp tay vái :
- Khi thần lên đưởng, hoàng thượng ban chỉ rằng phải thỉnh cho được ba vị vương gia, công chúa phò mã về cùng, ngay ngày hôm nay.
Ngô nhìn ba vương, nói nhỏ :
- Hoàng thượng muốn ba vị điện hạ về ngay, để người còn chọn một vị phong làm thái tử thay thế hoàng tử Long Xưởng. Vả bệnh tình hoàng thượng đang nguy kịch. Ba điện hạ không nên chậm trễ.
Bao nhiêu cái uất ức chồng chất không nơi phát tiết, bây giờ lại nghe lời thúc dục của Lý Tín, dường như y muốn bắt mình. Kiến Ninh vương nổi cáu, vương túm tóc y, rồi vung tay một cái, người y bay bổng lên cao, rơi xuống biển đến ùm một cái. Lý Tín không biết bơi, y chới với dưới nước. Kiến An vương hất hàm ra lệnh cho người thuyền trưởng. Anh ta ném sợi dây xuống cuốn lấy Lý Tín, giật mạnh, người y tung lên cao, rơi xuống sàn thuyền.
Kiến Ninh vương rút kiếm dí vào cổ Lý Tín :
- Người là văn quan thì phải biết rằng : Tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải nghe lệnh vua. Vả nếu có chỉ dụ bắt bọn ta, thì hẳn phụ hoàng đã ban chiếu. Cái vụ bắt bọn ta về ngay, là do nhà người bịa ra, có phải thế không ? Vì người có chiếu chỉ trong mình, bằng không ta băm người ra như băm chả. Khôn hồn thì người phải khai cho rõ, người bịa ra chỉ dụ của phụ hoàng hay có kẻ bắt người bịa ?
Ngô Lý Tín run lật bật không nói lên lời. Thủ Huy đưa mắt cho Đoan Nghi, với ý muốn Đoan Nghi nhả ít Huyền âm nội lực vào người Lý Tín bắt y phải khai. Nhưng Đoan Nghi lắc đầu :
- Y là sứ giả của phụ hoàng. Muội không thể...
Thủ Huy chợt nhớ rằng mình đã hút ngũ độc cứu Đoan Nghi, mình cũng có thể vận khí nhả nọc. Nghĩ đến đâu, chân khí tòng tâm chuyển vận. Ngón tay của Thủ Huy run lên bần bật. Công sẽ vỗ vào vai Lý Tín :
- Thôi, Thái phó vào khoang thuyền thay y phục rồi về kinh phục mệnh.
Ngô lồm cồm bò dậy, nào biết đã bị truyền độc. Ngô vào trong khoang thuyền thay y phục. Lát sau y trở ra. Thủy Huy nháy mắt cho Kiến Ninh vương. Vương hiểu ý ông em rể, bảo Lý Tín :
- Cái vụ người bịa ra chỉ dụ của phụ hoàng, khó mà biết thực hư. Vậy người hãy quỳ gối xuống, rồi thề rằng : ị Chư vị thần linh Đại Việt chứng cho. Nếu Ngô Lý Tín có gian dối trong việc truyền chỉ thì sẽ bị đau đớn cùng cực trong 49 ngày rồi chết Ể.
Lý Tín run run quỳ xuống, rồi thề như Kiến Ninh vương nói. Khi y vừa đứng dậy, thì cảm như có con dao đâm vào ngực, đau đớn đến muốn ngất đi. Không chịu nổi y, hét lên :
- Ái...ái....ái.
Tiếp theo ba, bốn rồi năm con dao cùng đâm khắp người y. Y lăn lộn kêu gào thảm thiết.
Kiến Ninh vương hỏi :
- Thì ra người thề gian, nên ngũ phương thần dùng dao đâm người. Bây giờ người khai thực đi, ta sẽ truyền chỉ bảo chư thần ngừng tay.
Lý Tín vẫn lăn lộn :
- Thần không... Không hề thề dối ! Ối...
Kiến Tĩnh vương hỏi Thủ Huy :
- Đại ca, đại ca nghĩ sao ?
Thủ Huy vẫy tay cho chư tướng vào khoang thuyền, sai canh gác cẩn thận, rồi nói :

- Tôi thấy trong vụ này ẩn tàng một điều gì khó hiểu. Nhất định cái việc thái tử nhập cấm cung cưỡng dâm cung nga là không thể có rồi. Bởi cứ lý mà suy, thái tử chỉ sủng ái có một mình vương phi Bùi Trang Hòa mà thôi. Xung quanh thái tử không thiếu gì những cung nga xinh đẹp, mà có bao giờ người ngó ngàng tới đâu ? Vậy, mặc dù có chiếu chỉ, chúng ta cũng không thể về Thăng long vội. Ta phải sai người dò thám tình hình xem đã. Nhưng nếu chúng ta không về thì chẳng hóa ra tử bất hiếu, thần bất trung hay sao ?
Đoan Nghi bàn :
- Hay là bọn Tô Hiến Thành làm loạn, có bọn tế tác Tống trợ giúp ? Cứ như Ngô nói ban nãy thì Tô dùng hiệu binh địa phương Sơn Nam chiếm đóng Kinh thành, Hoàng thành. Không biết hiệu binh này do ai chỉ huy ?
Thủ Huy trả lời :
- Là Mạc Hiển Tích, trước kia y là gia tướng của Đỗ An Di.
Mọi người cùng bật lên tiếng ồ kinh ngạc.
Đoan Nghi thở dài :
- Có lẽ khi khởi sự, Tô Hiến Thành, Đỗ An Di cũng muốn dùng Thiên tử binh. Nhưng chúng biết rằng Thiên tử binh đều đang chuẩn bị Bắc chinh, nên chúng không thể dùng chỉ dụ để sai khiến họ, chúng mới nghĩ tới tìm một lực lượng địa phương. Di không ngần ngại gì mà dùng tình nghĩa cũ của chủ tớ, móc nối Mạc Hiển Tích tham dự. Không chừng việc này chúng chuẩn bị từ lâu rồi mà ta không hay. Biết đâu y bắt phụ hoàng, rồi ép ban chỉ cũng nên. Được, tôi sẽ dùng chim ưng liên lạc với mẫu hậu xem sao.
Nói là làm. Đoan Nghi viết thư, rồi sai chim ưng mang đi. Hơn giờ sau, thì chim ưng trở về mang theo trong ống dưới chân một bức thư. Đoan Nghi nóng ruột, mở ra đọc :
Nhận được thư, mẫu hậu báo cho con hay : Anh Long Xưởng bị giam ở đâu, hay hoăng rồi, mẫu hậu cũng không biết nữa. Cung Long thụy có binh lính canh gác rất kỹ, không ai được vào. Chỉ thấy bọn Đỗ An Di, Tô Hiến Thành, Phí Công Tín ra vào mà thôi ; phụ hoàng ban chiếu, thay đổi toàn thể các quan trong triều. Quyền nằm trong tay bọn Tô, Đỗ. Án binh tại chỗ, chờ tin tức. Đừng về vội, về thì chết hết.
Đến đây Ngô Lý Tín đau quá, chịu không nổi y hét lên :
- Xin chư thần tha mạng. Việc này là do...là do... Tuyên phi bắt tôi phải làm như vậy.
Kiến Ninh vương hỏi :
- Người muốn sống hay chết ?
- Thần... muốn số..ố..ống !
Biết đã có hiệu quả, vương ngửa mặt lên trời ban chỉ :
- Hỡi chư thần ! Hãy tạm ngừng hành hạ Ngô Lý Tín, y xin khai thực. Nếu y có điều gì giả dối, chư thần hãy làm tội y cũng không muộn.
Nói dứt, vương túm cổ áo y nhắc dậy, trong khi đó chìa ngón tay chỏ điểm vào huyệt đại trùy. Toàn thân y tê liệt, cảm giác đau đớn biến mất, y lại tưởng linh thần tạm tha cho y.
Ngô Lý Tín là một nho thần, thông minh, tài trí. Đúng ra từ cái việc thề, tới việc điểm huyệt, y cũng đoán ra. Nhưng sau khi bị kề kiếm vào cổ, bị ném xuống biển, rồi bị ngũ độc hành hạ, thần trí y mơ mơ, hồ hồ, y tin rằng mình bị chư thần phạt. Y khai :
- Những gì thần nói ban nãy đều không đúng sự thực. Chính Tuyên phi bắt thần phải nói như vậy.
- Thế sự thực ra sao ?
- Đêm hôm qua, vào giờ Tuất, tất cả các đại thần đều được thái giám đến tuyên triệu phải vào cung Long thụy trong Hoàng thành nhận chỉ dụ khẩn cấp. Khi thần vào tới nơi thì đã thấy hoàng thượng nằm dài trên long sàng, chân tay run lẩy bẩy vì giận dữ. Các đại thần như Thái sư Tô Hiến Thành, Tể tướng Đỗ An Di, Thái bảo Phí Công Tín, Thiếu bảo Ngô Nghĩa Hòa đang chắp tay đứng hầu, mặt người nào cũng đầy lo âu. Một lát hoàng thượng ban chỉ : Các người hãy sang cung Tuyên phi, để thấy tận mắt cái việc mà đứa nghịch tử đã làm. Thái sư Tô Hiến Thành dẫn đầu, bọn thần theo sau. Trong khi đi, Đỗ Tể tướng thuật sơ cho biết rằng : Thái tử đột nhập Hoàng cung định cưỡng dâm Tuyên phi.
Mọi người cùng bật lên tiếng ái chà !
-... Tuyên phi chống trả, thì bị thái tử đánh trọng thương. Bọn cung nga, thái giám xúm vào ôm lấy thái tử cứu phi. Họ bắt được thái tử trói lại, nhưng tám trong mười người bị thái tử đánh chết. Hai người bị thương nặng. Thân mẫu của Tuyên phi là Thạc hòa Anh văn phu nhân vội chạy sang cung Long thụy cầu cứu với hoàng thượng. Hoàng thượng hô thị vệ theo người đến cung Tuyên phi, truyền giam thái tử lại, rồi đích thân thẩm vấn bọn cung nga, thái giám. Chúng đều khai giống như Thạc hòa phu nhân.
Kiến Tĩnh vương quát lên :
- Vô lý ! Không thể có việc đó.
Đoan Nghi vẫy tay :
- Anh tạm buông lỏng cái nóng nảy, để Ngô Thái phó thuật.
Nàng dục Ngô Lý Tín :
- Xin Thái phó tiếp cho.
- Bọn thần đến cung Tuyên phi, thì thấy thị vệ vây kín cung. Bên trong, một cảnh kinh hoàng diễn ra. Ngay cửa cung, một thái giám nằm chết cong queo, đầu vỡ, óc, máu bê bết. Một thái giám nữa bị vỡ lồng ngực , nằm bẹp dí như con tép bị dẵm lên. Hai thái giám gẫy xương sống nằm sấp. Hai thái giám bị đánh bật vào tường đầu vỡ, ngực bẹp. Hai cung nga, một người nằm vắt vẻo trên cái án thư, khắp thân mạch máu vỡ ra, mũi, miệng, mắt, tai đều ri rỉ ra máu. Một người chết ngồi, ngực bị chỉ lực xuyên qua, mặt tươi tỉnh, miệng cười mà không phải cười. Hai cung nữ khác bị thương, đang ngồi bưng mặt khóc. Không thấy Tuyên phi đâu, bọn thần hỏi mấy thị vệ, thì chúng nói Tuyên phi bị thương nặng, đang ngủ trong tẩm phòng. Bọn thần nhờ Thạc hòa Anh văn phu nhân vào thỉnh phi ra. Phu nhân vừa vào tẩm phòng thì người khóc thét lên. Bọn thần tùng quyền chạy vào thì thấy Tuyên phi thắt cổ toòng teeng trên sàn nhà. Phu nhân cắt dây đỡ Tuyên phi xuống, rất may chưa băng. Vừa lúc đó thì ngự y Hoàng cung là y sư Trần thị Phương Thanh tới. Người cứu Tuyên phi tỉnh dậy, rồi khám các vết thương của phi. Ngự y còn khám nghiệm xác tám người chết, chẩn bệnh hai người còn sống, dùng châm cứu chữa bệnh cho họ.
Thủ Huy hỏi :
- Ngự y có đưa ra nhận xét gì không ?
- Người ghi chú mọi sự việc, rồi ban lệnh : Tất cả xác chết đều không được chôn cất. Bọn thái giám bị thương không được ra khỏi Hoàng thành. Người nói với Tô Thái sư rằng cần giữ nguyên như vậy, chờ ba vương gia, công chúa điện hạ với Trần phò mã về, mới thấy rõ tội trạng thái tử.
Đoan Nghi cau mặt :
- Rồi sao ?
- Hoàng thượng tuyên chỉ trao thị vệ, cấm quân cho Thái sư Tô Hiến Thành, Thái bảo Phí Công Tín giữ an ninh Hoàng thành, Kinh thành ; giải tán, niêm phong Đông cung. Nhưng Tả thiên Ngưu vệ thượng tướng quân Tăng Quốc, tổng lĩnh thị vệ, kiêm thống lĩnh cấm quân không chịu trao quyền. Tăng tướng quân nói rằng, quân luật của Đại Việt từ đời đức Thái tổ định rằng, người trực thuộc Phụ quốc Thái úy là phò mã, thì khi bàn giao, phải có sự chứng kiến của phò mã. Người chỉ tuân lệnh Thái sư huy động thị vệ bảo vệ Hoàng cung, và huy động cấm quân phòng vệ Kinh thành mà thôi. Vì vậy Tể tướng Đỗ An Di mới xin hoàng thượng ban chỉ gọi Vân ma đại tướng quân Mạc Hiển Tích đem hiệu binh địa phương Sơn Nam về trấn Thăng long.
Lòng Thủ Huy nóng như lửa công hỏi :
- Thế Nghĩa Thành vương đâu mà hoàng thượng không tuyên triệu người, mà tuyên triệu Thái sư Tô Hiến Thành ?
- Vương gia đã lên đường đi Thanh hóa, đích thân chỉ huy cuộc vận tải lương tiếp tế cho các hạm đội.
- Thế khi hiệu binh Sơn Nam về, thì có đụng chạm với thị vệ ngự lâm quân không ?
- Thưa không. Tô Thái sư lệnh cho hiệu binh Sơn Nam canh gác Hoàng thành, các cung điện trong Hoàng thành, niêm phong phủ Đông cung, bao vây cơ sở Binh bộ, các bến thủy quân, phủ thừa Thăng long. Còn các cửa Kinh thành, kho vũ khí, lương thực, Khu mật viện, các phủ đệ của thân vương, đại thần thì khi quân Sơn Nam tới, thị vệ, cấm quân không chịu trao cho. Thành ra Thăng long đang có cuộc dằng co, bất cứ lúc nào cũng có thể xẩy ra cuộc giao chiến.
- Rồi sao ?
Đoan Nghi hỏi : Thế sao ban nãy người nói là sáng nay người nhập triều, rồi được chỉ dụ đi sứ ?
- Khải điện hạ, khi thần lên đường thì Tuyên phi dặn phải nói dối như vậy. Tuyên phi trao cho thần một mật chỉ, dặn thần rằng : Sau khi tuyên chỉ thì phải nài nỉ sao để ba vương, công chúa, phò mã cùng về. Khi về tới Gia lâm, qua làng Siêu loại, thì đem mật chỉ ra đọc. Trong chỉ ban cho ba vương, phò mã, công chúa được chết. Đợi sau khi năm vị tự tử rồi, thì đem chôn ngay tại chỗ. Nhưng Tể tướng Đỗ An Di cho rằng phò mã, công chúa với ba vương là những người linh mẫn, không hồ đồ như thái tử Phò Tô với Mông Điềm đâu, phải có kế hoạch an toàn. Tuyên phi truyền Mạc Hiển Tích sai một đội cung thủ phục sẵn ở đây. Nếu năm vị không tự tử, thì cung thủ sẽ ra tay.
Nói rồi Ngô xuất trong một ống bạc đeo bên hông ra một chỉ dụ. Kiến An vương mở chỉ dụ xem, thì là bút tự của Tuyên phi Từ Thụy Hương, còn chữ ký thì đúng là của phụ hoàng.
Ghi chú của thuật giả.
Tần Thủy Hoàng đã lập con trưởng là Phò Tô làm thái tử. Phò Tô cùng tướng Mông Điềm đem quân lên xây Vạn lý trường thành. Ở kinh đô, Tần Thủy Hoàng lâm bệnh. Khi sắp băng, nhà vua truyền gọi Phò Tô về gấp để truyền ngôi. Chỉ vừa ban ra, thì Thủy Hoàng băng. Thừa tướng Lý Tư với Thái phó Triệu Cao muốn chuyên quyền. Hai người tôn em của Phò Tô là Hồ Hợi lên ngôi vua, rồi giả chiếu chỉ của Thủy Hoàng gửi cho Phò Tô, Mông Điềm kể một số tội, truyền cho được chết. Các tướng cản không cho Phò Tô tự tử, mới khuyên rằng : Hãy về triều minh oan, rồi có chết cũng cam lòng. Phò Tô ngửa mặt lên trời than : Vua bắt bầy tôi chết, mà không chết thì bất trung. Cha muốn con chết, mà không chết thì bất hiếu. Nói rồi rút gươm tự tử. Mông Điềm cũng tự tử theo.
Kiến Ninh vương bảo thân binh :
- Người đem Thái phó về soái thuyền của ta, nhớ canh gác, hầu hạ cho chu đáo.
Ngô Lý Tín biết mình bị giam lỏng, nhưng ông ta biết có phân trần gì cũng vô ích, nên líu ríu theo tên thân binh ra ngoài khoang thuyền.
Thủ Huy lên tiếng hỏi bốn đô đốc chỉ huy bốn hạm đội và mười hai đô thống chỉ huy mười hai hiệu Thiên tử binh :
- Các vị nghĩ sao về lời khai của Ngô Thái phó ?
Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa đứng lên nói :
- Thưa Thái úy, thuộc hạ thấy sự việc xẩy ra có rất nhiều điều đáng nghi ngờ. Trước hết cái việc thái tử tham dâm cưỡng hiếp Tuyên phi, có ba điều bô lý. Một là, bản lĩnh võ công mà Thái úy truyền cho Tuyên phi so với thái tử, thì một mười, một tám. Hôm trước Vân Đài Vương Thúy Thúy đấu với Thái úy, bản lãnh nàng có lẽ cao hơn thái tử. Vân Đài sang Đại Việt từ nhỏ, bản lĩnh do sư phụ Trịnh Nam Phương âm thầm truyền thụ mà còn cao như vậy. Trong khi đó Tuyên phi do đích thân vú Mai, nguyên là cao thủ Công Chúa của Hoa sơn, với phụ thân là Lạc Nhạn chân truyền thì phải cao hơn Vân Đài nhiều. Vậy, nếu như khi thái tử vừa định hành sự, mà Tuyên phi chống lại, ắt có cuộc giao đấu ít ra phải vài trăm hiệp mới phân thắng bại. Bấy giờ vú Mai đứng ngoài, sao bà không cứu con gái ? Bà là cao thủ Công Chúa của Hoa sơn mà ? Lại nữa, Tuyên phi bị bại, thì thương thế phải trầm trọng lắm, chứ có đâu chỉ sưng má, đỏ mặt ? Hai là, thời gian giao đấu vài trăm hiệp, ít ra kéo dài đến hơn giờ (2 giờ ngày nay). Trong hơn giờ đó, thái giám cung nữ lại đứng nhìn ư ? Nhất định chúng chạy đi báo với hoàng thượng hay tri hô lên cho thị vệ giải cứu chứ? Tại sao lại chờ cho thái tử bị bắt rồi mới báo cho hoàng thượng ? Ba là, võ công cao như Tuyên phi, mà còn bị đánh bại, hỏi với mấy đứa thái giám làm sao bắt sống được thái tử ?
Cử tọa đều công nhận lý luận của Tăng Khoa là hợp lý.

Thủ Huy hỏi :
- Chiếu chỉ của hoàng thượng bắt ba vương, công chúa với tôi phải về Thăng long ngay. Rồi khi về tới Gia lâm lại ban chiếu thứ nhì bắt phải chết. Ngược lại hoàng hậu lại bảo đừng về. Vậy ta nên hành động ra sao ?
Các tướng bàn luận phân vân, hơn khắc mà không tìm được lói thoát.
Ngay lúc đó, thân binh chạy vào báo :
- Có hai thiếu nữ nhà quê xin cầu kiến công chúa, phò mã.
Thủ Huy hỏi :
- Họ tên gì ?
- Hai vị không chịu xưng tên.
Đoan Nghi ban chỉ :
- Cho vào !
Lát sau thân binh dẫn hai người mặc quần lụa, áo cánh, đội nón xuống thuyền. Vừa nhác trông thấy, Đoan Nghi đã giật bắn người lên. Vì đó là Kim Ngân với Phương Lan. Hai nàng hành lễ với cử tọa.
Đoan Nghi giới thiệu với mọi người :
- Đây là bà chị dâu và em gái của chồng tôi.
Thủ Huy chưa kịp lên tiếng, thì Phương Lan đã nói trước :
- Chú hai ! Chị với Kim Ngân lên gặp chú thím là việc tư. Song việc tư này có liên quan đến chư vị hiện diện ở đây. Vậy chị xin nói ra ở chỗ này, để tránh nghi ngờ giữa chú thím với chư tướng.
Đoan Nghi đồng ý :
- Xin chị cứ tự nhiên.
- Biến cố ở Thăng long xẩy ra đúng như anh Lý ước đoán trước. Oạng nội vội họp môn phái lại để định rõ đường lối hành động. Bố, Đại Việt ngũ tuyệt, chư đệ tử đời thứ nhì, Vỵ xuyên ngũ tiên, chư đệ tử đời thứ ba đều đưa ra ý kiến rằng mình không nên can thiệp vào. Anh Thủ Lý nói: Mình đã đem hết tâm huyết ra giúp thái tử, mà thái tử không nghe lời, thì nay mình còn có lý gì mà can thiệp nữa ?
Phương Lan đưa mắt nhìn chư tướng, rồi tiếp :
- Mẹ cũng nói : Huống hồ đây không phải là nạn ngoại xâm, không phải mối nguy của xã tắc, mà là người họ Lý hại người họ Lý. Chuyện cha làm vui lòng gái đẹp mà giết con, vua nghe lời mỹ nữ giết đại thần, là việc của họ Lý.
Anh Thủ Lý còn gay gắt hơn :
- Trước đây đã có cô con dâu là Cảm Thánh thái hậu mê tình nhân Anh Vũ, đã giết mẹ chồng Chiêu Hiếu thái hậu cho y vui lòng. Cũng đã có bà chị dâu Cảm Thánh thẳng tay tàn sát các thân vương em chồng, để được lòng tình nhân Anh Vũ. Rồi cũng chính bà định bưng tính mệnh con trai, con dâu, cháu nội, ngôi vua, giang sơn cho Lưu Kỳ, cho Tống... Thì nay, có ông vua muốn giết con trai, con gái, con rể ; dâng giang sơn, bưng sự nghiệp tổ tiên cho gái đẹp thì là chuyện thường trong cái triều Lý mà. Suốt trăm năm qua, những việc như thế, môn phái Đông a không hề tham dự vào.
Kim Ngân tiếp lời chị dâu :
- Tuy nhiên, mẹ, chị Phương Lan với em thì xin ông nội cho phép chúng em lên đường cứu anh, không để cho anh chết rồi, mà hậu thế chê là ngu trung, ngu hiếu. Vì vậy hai đứa này mới có mặt ở đây.
Ba vương Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh cũng như Đoan Nghi đều biết Phương Lan là người trí tuệ vô song, mưu cơ không biết đâu mà lường. Kiến Ninh vương trình bầy sơ lược tin tức, cùng diễn biến đã xẩy ra, rồi hỏi :
- Thần nông phu nhân ! Anh em chúng tôi đang phân vân gữa hai việc. Một là về phục mệnh phụ hoàng, tuân chỉ lĩnh cái chết như chỉ dụ ban. Hai là, mẫu hậu lại bảo không nên về. Phu nhân là người trí tuệ, vậy phu nhân quyết cho : Nên về hay không ?
Phương Lan cười :
- Chư vị điện hạ phân vân cũng phải. Bởi nếu tuân chỉ dụ mà về thì dĩ nhiên là chết. Nhưng có thực ý phụ hoàng muốn giết con mình hay không ? Còn không về thì mang tiếng tử bất hiếu, thần bất trung. Xưa nay, khi bị vua kết án tử tình, thì các đại thần của triều đình Trung quốc, Đại Việt đều vui vẻ chấp hành. Dường như cái đạo đó xuất phát từ câu : Vua bắt bầy tôi chết, thì phải chết, nguyên văn là Quân xử thần tử, thần tử. Kìa, Nhạc Phi tài trí biết bao, đang cầm quân nghiêng nước giúp triều Tống. Thế mà bị cái ông vua Thiệu Hưng gọi về giết, Phi vui vẻ tuân thủ, chỉ để được tiếng là trung. Rồi mới đây ngay trong triều đình Đại Việt, Chiêu hòa vương Lý Long Vũ, Trí minh vương Lý Long Dũng, Bảo ninh hầu Lý Long Can, Bảo Thắng hầu Lý Long Hiền, phò mã Dương Tự Minh cùng biết bao nhiêu đại thần văn võ, bị Đỗ Anh Vũ ép vua ban chỉ giết bản thân và gia đình, chỉ vì cái tội trung với vua. Những người đó đều biết rõ không do ý nhà vua, mà vẫn cúi đầu thọ hình, cũng chỉ muốn tỏ ra mình là trung thần. Có đúng thế không ?
- Đúng vậy.
- Về hoàn cảnh các điện hạ, trong lịch sử đã từng xẩy ra rồi. Tôi xin vì các vị mà dẫn tích đó trong Tả truyện : Thái tử Lịch Sinh là con Tấn Linh Công. Linh Công băng, dì ghẻ giả chiếu gọi Lịch Sinh trở về triều phục mệnh. Lịch Sinh biết là chỉ giả, nhưng vẫn về, rồi bị giết. Sau sử sách khen Lịch Sinh là người con hiếu. Ngược lại, thái tử Trùng Nhĩ không tuân chỉ, lưu vong khắp nơi, rồi dựng lên nghiệp bá. Sử cũng khen là người trí, là anh hùng. Bộ Sử ký, Tư Mã Thiên chép trong Thủy Hoàng bản kỷ : Lý Tư, Triệu Cao, giả chiếu chỉ của Thủy Hoàng bắt thái tử Phò Tô, tướng Mông Điềm phải chết. Hai người tuân chỉ tự tử. Đời sau chê là ngu trung, ngu hiếu.
Mọi người đều gật đầu tỏ ý hiểu.
Phương Lan tiếp :
- Tôi có hai con đường, xin ba điện hạ chọn một.
- Phu nhân cứ dạy.
- Trường hợp thái tử Long Xưởng cũng giống như Lịch Sinh, Phò Tô. Còn các vị điện hạ, cùng công chúa đây ; muốn làm Lịch Sinh, Phò Tô để được khen là tử hiếu, thần trung thì cứ về Thăng long, tắm rữa sạch sẽ, đem đầu cho cái cô gái Dương châu là Từ Thụy Hương chặt, đầu được bêu cho dân chúng xem, thân vứt cho quạ rỉa. Vợ con thì bị đuổi khỏi Kinh thành, về làm nông dân. Triều đình khen rằng đó là những người con hiếu, những người tôi trung. Không biết các vị nghĩ sao ?
Kiến An vương nhăn mặt :
- Trung, hiếu kiểu đó thì chúng tôi không chịu nổi. Xin phu nhân chọn cho con đường khác.
- Còn các điện hạ muốn làm như Trùng Nhĩ, thì hãy đem quân về Thăng long, trước ta bắt bọn Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Từ Thụy Hương chặt đầu, rồi an dân trong sáu tháng. Sau đó Bắc tiến cũng chưa muộn mà !
Kiến An vương hỏi Thủ Huy :
- Đại ca, đại ca sẽ hành xử như thế nào ?
Lòng Thủ Huy rối như tơ vò. Công hỏi Phương Lan:
- Chị ! Chị bảo em phải có thái độ nào ?
Phương Lan lắc đầu :
- Chú vốn là người trí. Nhưng chú như người trong cuộc cờ, chú bị u mê, mà không nhìn ra. Còn chị, thì chị là người ngoài cuộc, chị thấy rất rõ ràng.
- Xin chị cứ nói.
- Chú có con đường trung dung là vừa làm Lịch Sinh, Phò Tô vừa làm Trùng Nhĩ.
- Em không hiểu.
- Chú hãy trả lời cho chị ít câu.
- Chị cứ hỏi.
- Có phải tất cả các đô đốc, các đô thống ngồi đây đều do thái tử Long Xưởng với chú đào tạo ra. Có phải thế không ?
- Đúng vậy.
- Thế thì ngoài cái tình của thuộc cấp đối với thượng cấp ra, các vị ấy còn có cái hiếu giữa đệ tử với sư phụ nữa. Có phải thế không ?
- Vâng.
- Ví thử bây giờ thái tử Long Xưởng với chú hoặc bị giết, hoặc bị mất chức, thì họ cũng có thể bị giết hay bị mất chức. Có phải thế không ?
- Vâng.
- Chú có thể đem đầu về dâng lên cho cô tình nhân cũ là Thụy Hương chặt, để nàng vui lòng. Nhưng chú không có quyền để cô ta chặt đầu bằng này tinh hoa của Đại Việt. Không thể để vợ, con họ bị chặt đầu chỉ vì họ có tấm lòng son, muốn khôi phục đất tổ mà theo thái tử với chú.
Phương Lan hỏi chư tướng :
- Các vị có đồng ý đem đầu cho Tuyên phi Từ Thụy Hương chặt không ?
Tất cả đều trả lời :
- Không.
Phương Lan nói thực chậm :
- Bây giờ chú phải làm ba việc. Một là, ban lệnh cho các đô đốc, các tướng thống lĩnh Thiên tử binh, các tướng thống lĩnh các hiệu binh địa phương rằng : Vì sự an nguy của xã tắc, vì sự sống còn của các vị ấy. Các vị ấy một mặt giữ vững quân lữ, nhất nhất chỉ tuân theo mệnh lệnh của chú mà thôi. Bất cứ trường hợp nào, dù có chỉ dụ của nhà vua sai người đến thay thế, cũng không được bàn giao cho người khác. Hai là, chú cùng chư vương, công chúa đem quân về Thăng long, đóng ngoài thành để dương oai. Còn chú, thì chú dẫn chư vương, công chúa vào thành xin yết kiến phụ hoàng, mẫu hậu, rồi điều tra cho ra sự thực vụ thái tử Long Xưởng cưỡng dâm Tuyên phi. Ba là, sau khi điều tra xong, chú bắt giam toàn thể chính phạm, tòng phạm, gia quyến bọn vu oan, mưu hại thái tử, mưu hại các vị điện hạ đây đem giết ngay. Chú không cần chỉ dụ của phụ hoàng, lấy cớ rằng, tướng cầm quân có toàn quyền xử tử tội phạm mà không cần lệnh vua. Điều quan trọng là phải giết ngay, nếu để chậm trễ, e không phụ hoàng thì cũng thái tử Long Xưởng dùng quyền ân xá cho chúng, thì mèo lại hoàn mèo.
Thủ Huy là người thông minh, trí dũng có thừa. Chẳng may bị dằng co giữa đạo hiếu, chữ trung với lý trí mà thiếu minh mẫn trong chốc lát. Bây giờ được Phương Lan mở lối cho, tính cương quyết trở lại. Công cầm kiếm lệnh để lên bàn, rồi nói :
- Cứu binh như cứu hỏa. Nếu chúng ta chậm trễ một ngày thì Từ Thụy Hương với bọn Tô Hiến Thành có thể khống chế gia đình chư tướng, cùng giết hết người của Đông cung. Ta phải hành động ngay.
Chư vương, các tướng cùng thở phào nhẹ nhõm ; họ ngồi ngay ngắn lại chờ lệnh. Thủ Huy rút lệnh bài trao cho Tăng Khoa :
- Từ đây về Thăng long, chỉ có năm giờ sức ngựa. Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa đem hiệu binh Phù Đổng, phi bất kể ngày đêm về Thăng long. Về tới nơi thì bắt liên lạc ngay với phụ thân. Phụ thân đem thị vệ đánh chiếm Hoàng cung. Cấm quân thì đánh chiếm các điện thuộc Kinh thành. Tướng quân phân binh ra, một nửa trấn giữ các cửa thành. Một nửa chiếm Khu mật viện, các cơ sở thuộc lục bộ, thuộc phủ thừa Thăng long, phủ đệ của thân vương, đại thần. Ai chống lại thì giết ngay, bất kể đó là thân vương, đại thần. Nếu lúc đó có chiếu chỉ ban ra bắt rút binh, thì tướng quân trả lời rằng tướng quân chỉ biết tuân lệnh Thái úy.
Tăng Khoa đứng lên đi liền.
Thủ Huy ra lệnh cho Kiến Ninh vương :
- Vương tức tốc sai chim ưng mang lệnh cho hạm đội Âu Cơ dàn ra lãnh hải Hoa Việt phòng Tống nhân ta có nội chiến, rồi tràn sang xâm chiếm. Lại lệnh cho hạm đội Thần phù dàn ra lãnh hải Chiêm Việt, phòng Chiêm thừa cơ sang cướp phá. Đích thân vương đem hạm đội Bạch đằng, Động đình về dàn ra trên các sông hồ Thăng long, cô lập không cho bất cứ thuyền nào di chuyển, phòng bọn gian trốn chạy.
Kiến Ninh vương đứng dậy rời khỏi phòng họp.

Thủ Huy lại ra lệnh cho Kiến An vương :
- Vương tổng chỉ huy hiệu binh trâu Hoa lư, bẩy hiệu Thiên tử binh dàn ra biên giới phòng Tống sang cướp. Rồi cũng về Thăng long.
Kiến An vương tuân lệnh, rời khỏi phòng họp.
Thủ Huy nói với Kiến Tĩnh vương, công chúa Đoan Nghi :
- Chúng ta đem ba hiệu binh Ngự long, Quảng vũ, Quảng thánh tiến về Thăng long. Thôi, giải tán, và lên đường ngay.
Thủ Huy nói với Phương Lan, Kim Ngân :
- Xin chị với Kim Ngân đi theo Đoan Nghi, ngay bây giờ lên đường, âm thầm nhập Hoàng thành bảo vệ mẫu hậu với phụ hoàng, cùng giải cứu thái tử Long Xưởng.
Mắt Kim Ngân liếc ngang sắc như dao, nàng lắc đầu :
- Anh có nhớ hôm ở dưới thuyền trên hồ Tây không ? Hôm ấy, chúng ta mang hết tâm huyết ra giúp Long Xưởng, thế mà ông ta nói ngang : Đây là chuyện của ông ta, để ông ta giải quyết. Oạng ta giải quyết thế nào mà lại vào nhà tù mà ngủ, rồi xã tắc nghiêng ngả thế này đây. Con người trì nghi không quyết đoán như vậy mà sau lên ngôi vua, thì cũng chỉ làm cho đất nước tan nát mà thôi. Em thấy, dường như ông ta sung sướng khi được bưng giang sơn của vua Hùng, vua An Dương, cùng ngôi vua của họ Lý dâng cho cô tình nhân cũ là Từ Thụy Hương, rồi đem đầu cho cô ta chặt thì phải. Hôm ấy, anh Thủ Lý, chị Phương Lan, Phương Liên với em đã thề rằng : Không bao giờ lý đến triều đình nhà Lý nữa. Hôm nay, anh bảo em đi giải cứu ông ta ? Em không làm đâu. Em chỉ đi theo bà chị dâu Đoan Nghi, phòng khi bà ấy bị người ta hại, thì em cứu mà thôi. Sự nghiệp quả núi Tiêu sơn đến đây coi như hết.
Lời nói của Kim Ngân tuy nhỏ nhưng các tướng cũng nghe thấy hết. Bất giác họ cùng đưa mắt nhìn trộm nàng, trong lòng họ nhủ thầm :
- Cô này trông bề ngoài xinh đẹp thế kia, mà ai ngờ lại cứng rắn quá.
Đoan Nghi, Phương Lan, Kim Ngân lấy ngựa lên đường ngay đêm hôm ấy.
Sáng hôm sau, các đô thống chỉ huy hiệu binh Ngự long, Quảng thánh, Quảng vũ đến trình diện Thủ Huy :
- Thưa Thái úy, quân đã chuẩn bị sẵn. Xin Thái úy ban lệnh.
Thủ Huy trao lệnh bài cho đô thống chỉ huy hiệu Ngự long :
- Hiệu Ngư long hiện đóng ở Gia lâm ngoài thành Thăng long. Đô thống đem hiệu Ngự long đi làm tiền đạo. Khi tới bến Bắc ngạn thì sẽ có thủy quân chở sang sông. Sang sông rồi, đô thống được đặt dưới quyền Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa : Dàn quân trấn tại các cửa thành để hiệu Phù Đổng lùi ra đóng ở hồ Tây.
Lại trao binh phù cho đô thống chỉ huy hiệu Quảng thánh :
- Hiệu Quảng thánh hiện đóng tại lăng Quốc tổ, rất gần Thăng long. Đô thống đem quân đi sau hiệu Ngự long trấn tại Bắc ngạn, làm trừ bị.
Cuối cùng công gọi đô thống chỉ huy hiệu Quảng vũ :
- Hiệu Quảng vũ hiện đóng ở dưới chân núi Tản viên, không xa Thăng long làm bao. Đô thống đem hiệu Quảng vũ trấn tại Cổ pháp bảo vệ lăng tẩm tiên đế.
Thủ Huy, Kiến Tĩnh vương cùng đội võ sĩ bảo vệ bộ tham mưu dùng ngựa mà đi. Đường từ Đồn sơn về Thăng long ước khoảng bốn trăm dặm (200 cây số ngày nay). Quân đi phải năm ngày mới về tới Bắc ngạn. Trong khi đi đường Thủ Huy vẫn nhận được đầy đủ tin tức của các đạo quân tường trình :
- Ngay ngày 6 tháng 9 Tăng Khoa đã làm chủ Thăng long, bao vây hiệu binh Sơn Nam, và giải giới chúng. Tuy nhiên hiệu này còn hai sư trấn trong Hoàng thành là chưa giải giới được, vì kị binh không được vào đó. Không có cuộc xô sát nào xẩy ra.
- Ngày 7 tháng 9, hiệu Ngự long đã tiến vào Thăng long, hiệu Phù Đổng lùi ra trấn ở hồ Tây. Vô sự.
- Ngày 8 tháng 9 hiệu Quảng thánh đã trấn tại Bắc ngạn. Hiệu Quảng vũ đã trấn ở Cổ pháp.
Trưa ngày 9 tháng 9, thì Thủ Huy đã về tới bến Bắc ngạn, dùng thuyền của thủy quân đưa sang sông. Công dẫn Kiến Tĩnh vương cùng bộ tham mưu vào điện Uy viễn là nơi đặt trụ sở Khu mật viện. Lát sau thì Nghĩa Thành vương, Kiến Ninh vương, Kiến An vương cũng về tới. Tăng Quốc, Tăng Khoa, hai đô đốc chỉ huy hạm đội Bạch đằng, Động đình, ba đô thống chỉ huy ba hiệu Thiên tử binh Ngự long, Quảng thánh, Quảng vũ cũng lục tục về chờ lệnh.
Nghĩa Thành vương nổi cáu :
- Cái vụ này tên Đỗ An Di đã chuẩn bị từ lâu rồi mà ta không biết. Cách đây ít lâu, y báo cho ta biết rằng trấn Thanh hóa gửi tấu trình về triều cáo giác viên quan phụ trách thu mua lương thực cho quân Bắc phạt tham ô, bắt dân nộp thuế nhiều quá. Y xin ta gửi người vào giải quyết. Ta ngay thực, đích thân lên đường điều tra, rồi ở nhà y hành sự. Như vậy cuộc rối loạn này phải có bàn tay của Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Từ Thụy Hương và bọn gian tế Tống cùng hiệp nhau mà làm.
Là người tính khí cương quyết, Kiến Ninh vương hỏi Thủ Huy :
- Nhị ca ! Đệ muốn nhờ nhị ca một chuyện.
- ? ? ?
- Hiện chị Phương Lan, Kim Ngân đang cùng Đoan Nghi ẩn ở cạnh phụ hoàng, mẫu hậu để hộ giá. Nhị ca có thể gửi thêm mươi cao thủ theo ba người đó. Rồi nhân lúc chúng ta cho quân tiến vào, giữa trận giao tranh, các võ sĩ nhân lúc hỗn quân, hỗn quan, giết sạch đám quan lại ù l
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #25  
Old 06-19-2004, 04:22 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C21:HAI MƯƠI NĂM TÌNH CŨ.

Vẫn trong điện Uy viễn.
Thủ Huy hỏi Tăng Khoa :
- Tăng tướng quân ! Tại sao tướng quân chưa cho quân tiến vào Hoàng thành ?
- Trình Thái úy, khi tiểu tướng xua quân vào, thì Thái sư Tô Hiến Thành ra ngăn lại. Người ban một chỉ dụ của hoàng thượng, bắt tiểu tướng phải trao binh quyền cho Mạc Hiển Tích rồi vào bệ kiến. Tiểu tướng trả lời rằng, quân luật bản triều rất nghiêm, muốn tiểu tướng bàn giao thì phải có sự hiện diện của Thái úy. Tô Thái sư lệnh cho Mạc Hiển Tích dàn quân, sẵn sàng chống lại, nếu tiểu tướng cho quân tiến vào Hoàng thành. Tuy nhiên tiểu tướng đã cho bao vây Hoàng thành bằng kị binh, thị vệ, và cấm quân.
Thủ Huy hài lòng về người em kết nghĩa tinh, minh, mẫn, cán, và trung thành :
- Hiện trong Hoàng thành, Hiển Tích có bao nhiêu binh sĩ ?
- Hiệu binh Sơn Nam có bốn sư, thì tiểu tướng đã giải giới hai sư. Còn hai sư, khoảng hai nghìn rưởi người. Tiểu tướng đành chờ Thái úy về quyết định, nên đánh vào hay không ? Bởi nếu tiến quân vào, hai bên giao tranh, khó mà bảo toàn được sư an nguy của hoàng thượng, hoàng hậu, các phi tần, công chúa.
Thủ Huy hỏi Nghĩa Thành vương :
- Xin hoàng thúc ban chỉ !
Nghĩa Thành vương hỏi Kiến Ninh vương :
- Cháu nghĩ sao ?
- Cứ như Tăng phu nhân cho biết, thì anh Long Xưởng của cháu lành ít dữ nhiều. Cái khó là không biết phụ hoàng, mẫu hậu các cung ra sao ? Nếu như việc dàn quân là ý của phụ hoàng, thì ta không thể xua quân vào.
Tăng Khoa hỏi :
- Không biết việc công chúa Đoan Nghi với hai tỷ tỷ Phương Lan, Kim Ngân nhập Hoàng thành hiện ra sao ?
Thủ Huy đang trì nghi, chưa quyết, thì thân binh báo :
- Có ngự y Trần thị Phương Thanh xin cầu kiến.
Thủ Huy vội đứng lên ra đón vào.
Lễ nghi tất.
Thủ Huy hỏi :
- Thưa phu nhân. Phu nhân đã có mặt tại cung Tuyên phi. Phu nhân đã khám nghiệm các tử thi, phu nhân có nhận xét gì ?
Phương Thanh trầm ngâm một lúc rồi nói :
- Vừa nhìn sáu thái giám bị giết, tôi thấy rõ họ bị đánh bằng chưởng lực Hoa sơn. Người đánh phải có nội công cao thâm hơn sư phụ của tôi. Bởi mỗi chiêu đánh ra khiến nạn nhân không bị vỡ đầu, thì cũng bị dập ngực, hoặc gẫy đôi người ra. Còn hai cung nữ thì bị giết bằng võ công Đông a.
Thủ Huy kinh hãi :
- Phu nhân nói sao ? Họ bị chết vì võ công Đông a ư ?
- Đúng vậy. Một người chết vì chỉ lực, dường như là chiêu Phong xuyên hoa lạc. Một người chết vì Bức mạch chưởng, dường như là chiêu Đông hải lưu phong.
Kiến Ninh vương hỏi lại :
- Phu nhân có chắc thế không ?
Phương Thanh thản nhiên :
- Vương gia ơi ! Trong thiên hạ này chỉ có võ công nội lực của phái Hoa sơn là khi đánh trúng đối thủ, mới khiến cho đối thủ như bị đá đập vào người, thịt xương dập nát ra mà thôi. Tử thi sáu thái giám đều bị dập thịt, gẫy xương cả.
Thủ Huy gật đầu :
- Phu nhân luận đúng. Còn thương tích hai cung nga ?
- Gốc của võ công Đông a do Thiền công rồi biến đổi đi. Tuy vậy căn bản vẫn không mất. Trong thế gian này, duy Đông a chỉ là khi đánh trúng người, mới khiến cho người đó cảm thấy cực kỳ sảng khoái mà chết. Cung nữ bị trúng chỉ nằm chết, mà mặt rất tươi, môi còn nở nụ cười. Còn một cung nữ nữa bị giết bằng chiêu Đông hải lưu phong, dùng nội công Bức mạch, bao nhiêu mạch máu vỡ ra mà chết.
Thủ Huy gật đầu khâm phục. Công hỏi :
- Còn Tuyên phi với hai cung nữ bị thương thì do võ công môn phái nào ?
- Cả ba người chỉ bị thương nhẹ, mặt sưng, chân tay bầm mà thôi. Kết lại có hai cao thủ hiện diện. Một cao thủ Hoa sơn, công lực cực kỳ cao thâm, người này giết sáu thái giám. Một cao thủ bậc trung phái Đông a, người này giết hai cung nữ. Thế nhưng Tuyên phi với Thạc hòa Anh văn phu nhân lại khai là mình thái tử đã ra tay. Nếu bảo rằng thái tử giết hai cung nữ thì tin được, vì người cũng luyện võ công Đông a, công lực hung thủ ngang ngang với thái tử. Còn hung thủ giết sáu thái giám, thì chỉ... thì chỉ sư bá Tự Hấp mới có công lực, chưởng lực Hoa sơn đến trình độ đó mà thôi.
Tăng Khoa cãi :
- Thưa đại phu, sư bá Tự Hấp là một đại tôn sư võ học, người đâu có ra tay giết bọn thái giám không biết võ công ?
- Quân hầu đừng nghĩ lầm. Tôi chỉ ví von thế thôi, chứ tôi đâu có kết luận rằng sư bá Tự Hấp làm việc đó ? Một điều tôi kinh ngạc nữa nhưng không nói ra là, sáu thái giám hai cung nữ bị giết đều là người của Đông cung.
Vú Loan giật bắn người lên :
- Đại phu nói sao ? Họ là người Đông cung ư ?
- Đúng vậy, bởi khi tuyển thái giám cung nữ cho Đông cung, chính tôi đã khám bệnh họ. Tôi nhớ cả tên họ nữa kia.
Thủ Huy đứng dậy :
- Như vậy là Tuyên phi phục sẵn người hại thái tử. Sau khi hại thái tử với vương phi, Như Như, chúng ra tay giết sáu thái giám, hai cung nữ tùy tòng, rồi đổ cho thái tử.
Kiến Ninh vương đập bàn nói với Nghĩa Thành vương :
- Thưa chú, cháu không chịu được nữa rồi. Cháu quyết xua quân vào Hoàng thành giết chết hai con ác phụ Triệu Mai Hương với Vương Thụy Hương rồi muốn ra sao thì ra.
Thủ Huy nắm tay ông anh vợ !
- Hãy bình tĩnh. Nếu chọn đường lối xua quân, thì dễ quá rồi. Ngặt vì ném chuột sợ vỡ đồ. Ta phải tìm cách nào để giải cứu phụ hoàng, mẫu hậu với các phi cho an toàn đã.
Nghĩ ra một huyện Thủ Huy hỏi Tăng Khoa :
- Tăng tướng quân. Tướng quân có biết con thuyền của bọn Hoa sơn hiện đậu ở đâu không ?
- Khi tiểu tướng đem quân về giải tỏa Thăng long, nghe mẫu thân thuật chuyện, lập tức tiểu tướng cho phong tỏa con thuyền này với phủ Tể tướng liền. Không thấy Vương Cương Trung trong thuyền. Bọn thủ hạ của y gồm một trăm tám mươi người chỉ còn hiện diện chín mươi người. Còn trong phủ Tể tướng thì không thấy Vân Đài Trịnh Nam Phương đâu cả.
Thủ Huy tuyệt không ngờ người em sữa của Long Xưởng lại minh mẫn đến vậy. Công nói mấy câu khen ngợi rồi gõ tay lên án thư :
- Tôi xin giải đoán như thế này : Tuyên phi đã năn nỉ xin phụ hoàng ân xá cho bọn gian tế Tống. Sau khi Vương Cương Trung cùng thủ hạ được thả ra thì y biết ta đang điều quân Bắc tiến. Nếu như y trở về Tống giữa lúc ta tiến quân tới Trường sa, thì bọn mặt dơi, tai chuột trong Khu mật viện Tống sẽ đổ hết tội lên đầu y, để che dấu cái thất bại của chúng. Chúng sẽ xin giết cả nhà Vương. Vì vậy Vương đánh một ván bài liều. Y bí mật nhập cung gặp con gái là Tuyên phi với vợ là vú Mai thiết kế. Tuyên phi bịa ra chuyện long thể phụ hoàng bất an, để dụ thái tử nhập cung. Rồi không biết bằng cách nào chúng hại được thái tử, vương phi, Như Như. Sau đó chính Vương Cương Trung dùng võ công Hoa sơn giết sáu thái giám. Còn Tuyên phi dùng võ công Đông a giết hai cung nữ. Rồi Tuyên phi với hai cung nữ tự làm bị thương, và cáo gian, đổ hết lỗi cho thái tử.
Nghĩa Thành vương bàn :
- Như vậy trắng đen đã rõ rệt. Tôi sợ giờ này Vương Cương Trung với hơn trăm thủ hạ đều hiện diện trong Hoàng thành. Hoàng thượng bị chúng kiềm chế, bắt ban chỉ giết chư vương, công chúa, phò mã. Chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc đánh tràn vào, cứu giá mà thôi.
Thủ Huy quyết định :
- Chỉ có đường lối đó. Nếu chẳng may phụ hoàng băng hà, thì đất nước vẫn là đất nước Đại Việt. Còn như để phụ hoàng bị chúng khống chế, thì có thể mất nước.
Công hỏi Tăng Quốc :
- Mình hiện có bao nhiêu thị vệ, cấm quân ?
- Thưa Thái úy thị vệ có một lữ, năm trăm người. Cấm quân có hai lữ , một nghìn người. Tổng cộng một nghìn rưởi.
- Quân số của hai sư trong Hoàng thành khoảng năm nghìn người. Muốn đánh chớp nhoáng để tránh thiệt hại phải cần một lực lượng gấp năm. Vậy cần đưa về ba hiệu binh. Ở đây ta đã có hiệu Ngự long, Phù Đổng, vậy chỉ cần đem hiệu Quảng thánh ở Bắc ngạn sang nữa là đủ. Khi đánh ta phải phân rõ nhiệm vụ. Thiên tử binh tràn vào giết giặc. Nếu chúng ẩn trong các cung, các điện, thì hai đội võ sĩ Côi sơn, Long biên tiến vào giết chúng.
Chư tướng đều đồng ý.
Thủ Huy trao lệnh bài cho Tăng Khoa :
- Ta đặt hai hiệu Quảng thánh, Quảng vũ đưới quyền của tướng quân. Hãy bao vây Hoàng thành, nghiên cứu kế hoạch đánh sao cho thực mau, thực gọn, tránh thiệt hại.
Tăng Khoa rời điện Uy viễn ra ngoài, thì thân binh vào báo :
- Có sứ giả tới.
- Sứ là ai vậy ?
- Thưa là Đặc tiến Thái bảo , Càn nguyên điện đại học sĩ Phí Công Tín.
Thủ huy vội ra đón.
Nguyên Phí Công Tín xuất thân là quan văn, rồi sang cầm binh quyền, ông từng đánh Đông dẹp Bắc, lập được khá nhiều công lao. Mười năm trước ông lĩnh Binh bộ thượng thư. Cách đây bốn năm, vì tuổi cao, thích an phận, hơn nữa xuất thân là nho gia, ông chủ trương quy phục Tống. Vì vậy, thái tử Long Xưởng tâu xin nhà vua thăng ông lên hàm Thái bảo, giao Binh bộ cho Nghĩa Thành vương. Ông cũng như đám nho thần thủ cựu, cứ cho rằng bọn Long Xưởng, Thủ Huy là đám con nít, thì việc tổ chức binh bị không thể bằng ông. Bây giờ ông nhận chỉ dụ của nhà vua đi sứ. Từ Hoàng thành tới điện Uy viễn, ông thấy binh sĩ hiệu Ngự long, Phù Đổng hùng tráng, uy nghiêm, trên đời ông chưa từng nghe, từng thấy. Bất giác trong lòng ông nảy ra một niềm khâm phục.
Lễ nghi tất.
Phí Công Tín lên tiếng :
- Hoàng thượng có chỉ dụ. Xin chư vương với Thái úy tiếp chỉ.
Nghĩa Thành vương hô lớn :
- Tất cả quỳ xuống.
Phí Công Tín cầm trục giấy đọc :
Thừa thiên khải vận Đại Việt hoàng đế chiếu rằng :
Trẫm thất đức, sinh ra đứa con Long Xưởng, y làm truyện nghịch thiên, bạo địa, bất trung, bất hiếu, trẫm truyền bắt giam. Trẫm giáng xuống làm Bảo Quốc vương.

Nay niên kỷ trẫm đã cao, không thể một ngày không có trừ quân. Trẫm có bẩy con trai, duy con út là Long Trát, khôi ngô, mới sinh ra, đã có khí tượng đế vương, có thể nối ngôi trẫm. Vậy trẫm phong làm thái tử. Trẫm chỉ định Lý Kính Tu làm Kinh diên quan, để dạy. Lại cử Tô Hiến Thành lĩnh chức Thái úy phụ chính, bình chương quân quốc trong sự. Này Hiến Thành, Kính Tu, các người hãy noi gương Chu Công, Gia cát Vũ hầu, mà gắng sức phò ấu chúa, làm lên sự nghiệp hiển hách.
Thiên cảm Chí bảo nguyên niên, tháng 9 ngày Giáp Ngọ.
Khâm thử.
Đọc chiếu xong, Phí Công Tín hỏi Thủ Huy :
- Hoàng thượng được tin phò mã đem quân về Thăng long. Người ban chỉ sai lão phu ra hỏi phò mã rằng tại sao, nước đang vô sự, Thăng long không trộm cướp mà phò mã lại đem quân về là ý gì ?
Thủ Huy chỉ các thân vương:
- Thái phó Ngô Lý Tín mang chiếu chỉ lên Bắc cương truyền cho chúng tôi phải về phục mệnh. Chúng tôi tuân chỉ mà về. Trên đường về, tôi được tin hiệu binh Sơn Nam tiến vào Thăng long, có ý bất thiện. Tôi là tướng cầm binh quyền toàn quốc, tôi phải điều quân về để bảo giá.
Kiến Tĩnh vương tiếp lời Thủ Huy :
- Thưa Thái bảo, xưa nay các hiệu binh địa phương được dùng để bắt trộm, bắt cướp. Còn trong Hoàng thành, chỉ có thị vệ được vào. Thế mà nay trong Hoàng thành lại có đến hai sư binh địa phương. Quan tổng lĩnh thị vệ yêu cầu cho thị vệ vào, thì Thái sư Tô Hiến Thành cản trở. Như vậy là loạn rồi. Cô gia thân làm tổng lĩnh Thiên tử binh, cô gia nhờ Thái bảo về nói với Tô Thái sư, phải cho quân Sơn Nam rời khỏi Hoàng thành ngay trong vòng một giờ. Bằng không thì trước hết cô gia đem toàn gia nhà Tô Thái sư ra xử tử tận số, rồi đánh vào.
Thủ Huy đứng dậy, tỏ ý tiễn khách. Phí Công Tín rời điện Uy viễn lên ngựa. Ngựa vừa cất bước, thì ông nhăn mặt ôm lấy đầu, rồi ngã lăn xuống đất. Tăng Khoa lách mình một cái đã đến cạnh ông, đỡ ông vào trong.
Thủ Huy dẫn ngự y Trần thị Phương Thanh vào xem bệnh Phí. Thoáng nhìn gương mặt Phí, bà đã đuổi tất cả mọi người ra ngoài. Trong phòng chỉ còn mình Thủ Huy với Nghĩa Thanh vương mà thôi. Bà cầm mạch ông rồi mỉm cười nói với Thủ Huy :
- Thưa Thái úy, xin Thái úy ghé tai vào miệng Thái bảo. Người có truyện muốn nói với Thái úy.
Khi Phí Công Tín ngã ngựa, Thủ Huy đã nghi ngờ rồi. Vì Phí tuy là quan văn, nhưng một đời ngồi trên mình ngựa, thì sao có thể ngã ngựa dễ dàng như vậy ? Bây giờ nghe ngự y Phương Thanh nói, công biết Phí giả ngã ngựa để được nói chuyện riêng với công. Công ngồi sát lại bên Phí.
Phí nói sẽ :
- Thái tử bị đánh thuốc mê cùng với vương phi Trang Hòa, quận chúa Như Như, hiện bị giam ở phía sau cung Giai phi. Hoàng hậu, Thần phi, bị cô lập ở cung Chiêu Linh. Tuyên phi cùng với mẹ là Triệu Mai Hương, cha là Vương Cương Trung, thêm Giai phi Chế bì La bút, phu nhân Tể tướng là Trịnh Nam Phương đã đem hơn trăm võ sĩ Tống vào cung Long Thụy khống chế hoàng thượng. Còn đệ tử của Cương Trung là Mạc Hiển Tích thì chỉ huy hai sư Sơn Nam, trấn đóng, bao vây các cung. Tuy vậy bên trong cũng có sự bất đồng ý kiến. Thái sư Tô Hiến Thành, Tể tướng Đỗ An Di thì cho rằng đã phế thái tử Long Xưởng, bỏ tiến quân lên Bắc là xong rồi. Chủ trương này Tuyên phi, Giai phi, phu nhân Tể tướng đều đồng ý. Nhưng Cương Trung với vợ, lại muốn giết cho được Nghĩa Thành , Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương, công chúa Đoan Nghi với phò mã Thủ Huy để tuyệt hậu hoạn. Binh Sơn Nam tuy dưới quyền
Mạc Hiển Tích, nhưng hai sư trưởng thấy bọn võ sĩ Tống khống chế hoàng cung, thì bất mãn ra mặt. Không biết lúc nào sẽ xẩy ra cuộc giao tranh. Bọn Cương Trung đe dọa các đại thần rằng người của chúng tiềm ẩn trong tất cả các phủ, bộ. Nếu như người nào không theo chúng thì chúng sẽ giết cả nhà. Vậy lão phu báo cho Thái úy biết để còn liệu mà dùng binh. Ngay trong phủ của lão phu cũng có ba tên.
Thủ Huy nói thầm vào tai Phí :
- Tôi sai võ sĩ Côi sơn đưa ngài về. Ngài chỉ mặt bọn võ sĩ Tống tiềm ẩn trong phủ ngài, võ sĩ sẽ giết chúng ngay.
Thủ Huy gọi Tăng Quốc, công nói lớn :
- Phí Thái bảo bị :Dng mặt, lại ngã ngựa, không thể vào Hoàng thành chầu hầu hoàng thượng. Vậy Tăng tướng quân khẩn sai võ sĩ Côi sơn đưa ngài về tư dinh nghỉ ngơi.
Phí Công Tín giả vờ run run đừng dậy, theo Tăng Quốc ra ngoài.
Tuy trong lòng nóng như lửa đốt, mà Thủ Huy vẫn cố giữ bình tĩnh chờ hiệu binh Quảng thánh, Quảng vũ, vượt sông tiến về Thăng long. Xế Ngọ, thì Tăng Khoa vào báo : Hai hiệu binh độ giang đã hoàn tất. Hoàng thành được vây kín như thành đồng vách sắt. Binh Sơn Nam sớn xác lo sợ.
Ghi chú của thuật giả.
Sự kiện này, ĐVSKTT chép như sau :
Giáp Ngọ(1174). Thiên cảm Chí bảo nguyên niên, Tống Thuần Hy nguyên niên...
Mùa Thu tháng 9, thái tử Long Xưởng có tội, bắt giam, phế làm thứ dân. Trước đó Long Xưởng thông dâm với sủng phi, vua không nỡ bắt tội chết, nên mới có chỉ này. Một hôm vua gọi Tể tướng đến dụ rằng : Thái tử là gốc lớn của xã tắc. Long Xưởng đã làm điều vô đạo. Trẫm muốn cho Long Trát nối giữ nghiệp lớn, nhưng y còn nhỏ quá, sợ không đương nổi. Nếu đợi lớn, thì trẫm đã tuổi già, suy yếu, biết làm thế nào ? Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội. Vua chưa kịp tháo mũ đưa cho, thì càng khóc lớn. Vua bèn lấy mũ đội cho, Long Trát cả cười. Vua càng lấy làm lạ, ý lập Long Trát làm Thái tử đã định.
VSL chép tương tự.
Giáp Ngọ (DL.1174) Thiên cảm Chí bảo nguyên niên, tháng giêng, cải nguyên.
...
Giáng thái tử Long Xưởng xuống làm Bảo Quốc vương, lập Long Trát làm Thái tử.
Long Xưởng tính hiếu sắc. Những cung nhân được vua sủng ái, đều tư thông. Nhà vua ghét Xưởng về tội vô lễ này. Nguyên phi Từ thị được vua sủng ái. Hoàng hậu xui Long Xưởng tư tình, để nhà vua nghi ngờ, ý muốn tạo cho Từ thị không được vua gọi nữa. Từ thị nhân đó tâu hết với nhà vua. Vua giận lắm mới phế Xưởng.
Một hôm vua thiết triều, nhũ mẫu bồng Cao tông theo. Cao tông khóc không ngừng. Vua lấy mũ đội cho, thì nín. Vua lấy làm lạ nói: Đứa trẻ này tất hoàn thành đại nghiệp của ta đây. Tháng 11 lập làm thái tử, giáng Xưởng xuống tước vương.
Trần tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh thủy, huyện Chiêu dương, tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ; phần chép về Ninh tổ hoàng đế Trần Lý. Nguyên văn đoạn này như sau :
Vua có bẩy hoàng tử.
Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1151, Tân Mùi). Được phong tước Hiển Trung vương, lập làm thái tử. Niên hiệu Thiên cảm Chí bảo nguyên nhiên (DL.1174, Giáp Ngọ) bị giáng xuống làm Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù thứ sáu (DL.1181, Tân Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Đỗ An Di giết cả nhà, thọ 31 tuổi.
Hoàng tử thứ nhì Long Minh do Thần phi Bùi Chiêu Dương sinh vào niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL. 1152, Nhâm Thân). Tước phong Kiểm hiệu Thái sư, Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Trung vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại đô đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên cảm Chí bảo thứ nhì (DL.1175.). Thọ 24 tuổi.
Hoàng tử thứ ba Long Đức, cũng do Bùi Thần phi sinh niên hiệu Đại Định thứ 12 (DL.1153, Quý Dậu) ra. Chức tước phong như sau : Dao thụ Thái bảo, Khu mật viện sứ, Thượng thư tả bộc xạ, Phụ quốc thượng tướng quân, Long thành tiết độ sứ, Kiến An vương. Bị giết niên hiệu Thiên cảm Chí bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi.
Hoàng tử thứ tư Long Hòa do Quý phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Đại Định thứ 11 (DL.1152, Nhâm Thân). Chức tước phong như sau : Đặc tiến Thiếu sư, Khu mật viện sứ, Thượng thư tả thừa, Trấn Nam tiết độ sứ, Thượng thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng lĩnh Thiên tử binh, Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên cảm Chí bảo thứ nhì (1175) thọ 24 tuổi.
Hoàng tử thứ năm Long Ích, do Đức phi Đỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính long Bảo ứng thứ 5 (DL.1167, Đinh Hợi).Chức tước phong như sau : Dao thụ Thái phó, trấn Nam tiết độ sứ, Thượng thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến gia thứ 2 (DL.1212 Nhâm Thân), thọ 46 tuổi.
Hoàng tử thứ sáu Long Trát, do Thục phi Đỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính long Bảo ứng thứ 11 (DL.1172, Nhâm Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên cảm Chí bảo nguyên niên được lập làm thái tử. Năm thứ nhì được truyền ngôi. Băng niên hiệu Trị bình Long ứng thứ 6 (DL.1210, Canh Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.
Hoàng tử thứ bảy Long Tường do Hiền phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính long Bảo ứng thứ 12 (DL.1174, Giáp Ngọ). Chức tước phong như sau : Thái sư Thương trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Thượng thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu Kiến Trung thứ nhì đời đức Thái tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.
Hồi đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Đại Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu. Nay tôi được biết vương với hạm đội bị bão dạt vào Đài loan. Nghỉ ít lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao ly. Duy một người con của vương tên Lý Đăng Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại Đài loan. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại Đại hàn, thế tử Long Hiền là khai tổ của giòng họ Lý tại Đài loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ thuật ở những hồi sau, bộ Anh hùng Đông a này. Tôi đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam Hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt, nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng thống Lý Thừa Vãn của Đại hàn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng thống Lý Đăng Huy của Đài loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Đăng Hiền hay không, thì tôi không dám quyết, bởi Lý là giọng họ chiếm đa số ở Trung quốc.
Cả ba sử liệu cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh tông phế Long Xưởng lập Long Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống, sao không lập các con đã trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang vương Long Ích, năm ấy đã chín tuổi ? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm thái tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính ? Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới biết sự thực mà thôi.
Trời bắt đầu ngả về chiều, Thủ Huy ra sân viện Uy viễn nhìn những áng mây Thu vàng úa theo gió heo may, trôi lang thang trên nền trời. Công nghĩ thầm :
- Không biết giờ này nghĩa huynh Long Xưởng ra sao ? Phụ hoàng ra sao ? Mẫu hậu ra sao ? Thần phi ra sao ? Đoan Nghi ở đâu ?
Chợt có tiếng quát tháo, tiếng vũ khí chạm nhau từ phía Hoàng thành vọng lại. Rồi có tên thân binh báo :
- Trình Thái úy, trong Hoàng thành có cuộc giao tranh, nhưng không biết ai đánh với ai.
Thủ Huy vội lên ngựa, vọt tới cửa Nam, thì Tăng Khoa đã có mặt ở đó từ bao giờ. Tăng Khoa báo :
- Trình Thái úy ! Bọn võ sĩ Tống đang giao tranh với binh Sơn Nam.
Thủ Huy quyết định mau :Dng :
- Dùng loa gọi vào báo cho binh Sơn Nam biết, ta trợ giúp họ diệt bọn Tống. Dùng kị binh bao vây bên ngoài. Dùng Thiên tử binh tràn vào Hoàng thành thanh toán giặc. Còn những tên ẩn vào trong các cung, điện thì dùng thị vệ, cấm quân, võ sĩ Côi sơn, Long biên thanh toán.
Tăng Khoa truyền lệnh rất mau. Trong khoảnh khắc, kị binh dùng loa gọi vào trong Hoàng thành :
Cùng chư binh tướng hiệu binh Sơn Nam !

Bọn Tống đang phạm giá hoàng thượng cùng chư vị đại thần. Các người là binh, là tướng. Các người ăn cơm, mặc áo của triều đình. Các người hãy can đảm dùng sức cứu giá. Thiên tử binh, thị vệ, cấm quân, võ sĩ Long biên, Côi sơn sẽ vào cùng ra sức giết giặc. Ta, phò mã, Thái úy phụ quốc Trần Thủ Huy đích thân chỉ huy trận chiến này. Các người hãy mở cửa thành cho mau.
Loa vừa dứt, thì bốn cửa thành mở toang. Hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn vọt vào như những mũi tên. Thị vệ , Cấm quân Thiên tử binh theo sau. Không đầy một khắc, thì đã thanh toán hết bọn võ sĩ Tống, chiếm các cung, các điện dễ dàng.
Thủ Huy, dẫn chư vương tiến vào Hoàng thành.
Tăng Khoa báo cáo :
- Giết bốn mươi lăm võ sĩ Tống. Tất cả các cung, các điện đều vô sự. Mười tám binh Sơn Nam tuẫn quốc. Chỉ còn có cung Long Hoa là chưa chiếm được mà thôi. Hiện võ sĩ đã vây kín bên ngoài.
- Hoàng hậu, với các phi đâu ?
Có tiếng nói đầm ấm ngay bên cạnh :
- Phò mã, người hay thực. Ta với hoàng hậu vẫn bình an.
Thần phi Bùi Chiêu Dương (sinh mẫu công chúa Đoan Nghi,) chỉ tay về phía trước. Thủ Huy nhìn theo, thì thấy hoàng hậu trong võ phục, lưng đeo bảo kiếm đang tiến tới. Hậu nói :
- Bọn Tô Hiến Thành nói rằng phụ hoàng có chỉ dụ bắt chúng ta đâu ở yên đấy. Bên ngoài thì dùng binh Sơn Nam bao vây, nên chúng ta phải chịu phép. Bây giờ binh Sơn Nam mở vòng vây, chúng ta mới được ra.
Thủ Huy tường trình sơ lược tình hình lên hoàng hậu. Hoàng hậu quyết định :
- Con cứ đánh vào cung Long hoa, giết hết bọn Tống. Dù phụ hoàng, dù anh Long Xưởng có tuẫn quốc, thì ta còn Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh. Dù họ Lý có tuyệt tử tuyệt tôn, thì đất nước này vẫn còn. Tăng Khoa báo :
- Thái úy ! Hiện hoàng thượng, cùng chư đại thần đều bị khống chế ở Long hoa đường. Xin Thái úy quyết định.
Thủ Huy chưa kịp ban lệnh, thì một cung nữ chạy ra cung tay :
- Hoàng thượng ban chỉ mời chư vương, phò mã vào triều kiến.
Kiến Ninh vương đưa ý kiến rất mau :
- Dù bọn Tống có đông đến đâu, ta há sợ sao ? Nhị ca, chúng ta vào thôi.
Nghĩa Thành vương đi trước, tiếp theo là ba vương Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh, rồi tới Thủ Huy.
Bên trong, Thiên cảm Chí bảo hoàng đế ngồi trên chiếc sập. Phía sau là Vương Cương Trung, Mạc Hiển Tích, cùng khoanh tay đứng hầu. Bên trái ngài có hai người ngồi : Thục phi Đỗ Thụy Châu bế thái tử Long Trát, cạnh đó là Giai phi Chế bì La bút. Bên phải là các đại thần cùng đứng thõng tay. Tại các cửa Long hoa đường, bọn võ sĩ Tống tay thủ võ khí trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Nghĩa Thành vương hô lớn :
- Bọn thần giáp trụ trên người, không hành đại lễ được, xin bệ hạ xá tội.
Nhà vua chỉ ghế :
- Ngự đệ cùng các vương nhi an tọa.
Thình lình có tiếng nói trầm, nhưng rất lớn :
- Khoan !
Năm lưỡi đoản kiếm bay tới cắm vào năm cái ghế, mà bọn Nghĩa Thành vương định ngồi. Rồi một nam, một nữ bịt mặt, cùng xuất hiện, phía sau còn có một đôi nam nữ tuổi khoảng trên hai chục theo hầu ; nữ mặc quần đen, áo xanh, nam mặc quần áo trắng. Cả bốn người đều có con chim ưng lông mầu nâu đậu trên vai.
Vương Cương Trung hỏi :
- Phải chăng bốn vị là Côi sơn song ưng ?
Thiếu nữ áo xanh trả lời :
- Chính thị !
Người đàn bà bịt mặt hừ một tiếng rồi nói :
- Hoa sơn là danh môn chính phái. Ngày xưa tổ Trần Đoàn nức tiếng thiên hạ về đạo đức, mà nay sao đồ tử đồ tôn lại đốn mạt đến thế này ? Chưa đánh nhau, đã dùng thuốc độc hại người, thì rõ ràng là tự biết mình hèn kém rồi.
Giọng nói của bà ngọt như cam thảo, dường như của một thiếu nữ mười tám đôi mươi. Bà chỉ vào năm cái ghế nói với Thủ Huy:
- Năm cái ghế là năm tên quỷ Vô Thường, nếu các người ngồi xuống, thì sẽ trúng độc, chân tay tê liệt. Bấy giờ người ta muốn băm vằm, muốn mổ thế nào thì làm.
- Các người là Côi sơn song ưng hẳn ?
Giai phi Chế bì La bút hỏi : Các người có biết đây là đâu không ? Dù các người có võ công cao đến thế nào chăng nữa, thì các người cũng là con dân Đại Việt. Thế mà các người thấy thiên tử lại không hành đại lễ !
Chỉ thấy thấp thoáng bóng xanh, rồi bốp, bốp. Giai phi bị thiếu nữ áo xanh tát hai cái. Nàng mắng :
- Cho mi hai cái tát, để mi không được vô phép với chúng ta. Chúng ta là ai thì cũng không đến cái con Hàn Dũ Linh được tra hỏi. Mi tưởng bọn bị thịt Hoa sơn phong cho mi chưởng quản ngọn núi Mao Nữ là võ công mi giỏi ư ? Hay mi tưởng mi là Giai phi rồi lên mặt dạy đời ư ?
Nàng chỉ vào người đàn bà bịt mặt :
- Ta chưa hỏi tội cái gã Thiên Tộ kia, sao chưa quỳ gối trước lão nhân gia là may rồi. Ta ra lệnh : Mi im cái mõm lại, bằng không ta lấy tính mệnh mi ngay.
Giọng nói của nàng cực kỳ uy nghiêm.
Mọi người thấy chiêu số của thiếu nữ áo xanh rất bình thường, có điều nàng ra tay nhanh quá, nên Hàn Dũ Linh không tránh kịp mà thôi. Tất cả các cao thủ hiện diện đều tự hỏi :
- Nếu như vừa rồi, thiếu nữ áo xanh tát mình, thì mình cũng không tránh kịp.
Mạc Hiển Tích rút kiếm ra, chỉ vào mặt bốn người mới tới :
- Hoàng thượng ban chỉ cho bốn vị vương gia với phò mã an tọa, các người ở đâu xen vào rồi nói láo là ghế có thuốc độc. Tại sao các người lại bất kính với thiên tử như vậy ?
Thiếu nữ áo xanh rút kiếm lao tới trước sập nhà vua, tay nàng như dài ra, kiếm phớt qua đầu Hiển Tích. Hiển Tích gạt ngang kiếm đỡ. Nhưng y đỡ vào quãng không. Cườm tay y bị đau điếng, rồi tê liệt, kiếm rơi xuống nền cung kiêu lên tiếng choang. Tay trái Hiển tích ôm tay phải lùi lại, máu chảy ròng ròng. Y bị thiếu nữ áo xanh đâm trúng huyệt thần môn.
Mặt y tái mét.
Thái sư Tô Hiến Thanh chỉ năm cái ghế :
- Hoàng thượng ban chỉ cho chư vương an tọa. Hà cớ các vị bảo đó là con quỷ Vô Thường ?
Thấp thoáng, một cái, thiếu niên áo trắng lách mình nhanh không thể tưởng tượng được, tay y đã túm cổ một tên võ sĩ Tống đặt xuống một trong năm cái ghế. Tên võ sĩ Tống kinh hãi, vội vọt người lên cao rồi tà tà đáp xuống. Nhưng khi y đáp xuống thì té đến ạch một cái, nằm thẳng cẳng, mặt tím bầm, máu từ thất khiếu (2 mắt, 2 tai, hai mũi, và miệng) ri rỉ chảy ra, rồi nằm bất động. Dường như y đã chết.
Thủ Huy nhìn Nghĩa Thành vương, tất cả đều bở vía. Giá như vừa rồi, không có bốn người này tung kiếm cản, thì cả năm người đã chết rồi.
Thiếu nữ áo xanh xê dịch thân mình, nàng đã túm áo Tô Hiến Thành:
- Ta sẽ cho người ngồi trên cái ghế này để nếm mùi.
Hiến Thành run lẩy bẩy. Người đàn ông bịt mặt ra lệnh :
- Linh Linh, hãy tha cho Tô Thái sư. Vụ bôi phấn độc lên ghế là do Tuyên phi Thụy Hương mật làm. Y không biết.
Thiếu nữ áo xanh buông Tô Hiến Thành xuống.
Thủ Huy hướng Vương Cương Trung nói :
- Người đường đường là một đại cao thủ phái Hoa sơn, xuất thân tiến sĩ, hàm tới Thái bảo, tước tới công, mà sao lại có hành vi hèn hạ như vậy ? Các người hèn hạ, biết không thể đánh với Đại Việt, quay ra lừa bịp mấy thiếu nữ, dùng thân xác họ làm trò mua vui cho đàn ông, để mưu chiếm nước ta. Việc làm bị vỡ lở, thay vì người tự tử, để giữ cái cao ngạo của kẻ sĩ thì người lại núp bóng mấy người phụ nữ, rồi vào đây mưu đồ bất chính. Bây giờ tất cả bọn gian tế, do người cho tiềm ẩn vào làm gia nhân các đại thần đều bị bắt. Bên ngoài, giáp sĩ của ta bao vây kín như thành đồng vách sắt. Dù người có cánh cũng không thoát khỏi. Người hãy đầu hàng đi thôi.
Vương Cương Trung rút kiếm kề vào cổ nhà vua, rồi chỉ ra tám cái cửa cung Long hoa :
- Hừ ! Người bao vây ta ư ? Nhưng trong điện này ta có hơn trăm võ sĩ. Các người có tài thì cứ đánh vào đi. Chúng ta có chết, thì cũng có gã Thiên Tộ này cùng chết.
Nhà vua run run :
- Vương Thái bảo ! Lúc nào trẫm cũng nghe lời Thái bảo, mà sao Thái bảo lại kề kiếm vào cổ trẫm ?
- Vậy thì dễ quá ! Xin quốc vương ban chỉ cho bọn Côi sơn phải rời khỏi đây.
Nhà vua còn đang ngần ngừ thì Cương Trung khẽ đẩy mũi kiếm một cái. Nhà vua nhăn mặt kêu đau, rồi xua tay :
- Côi sơn song ưng ! Các vị mau rời khỏi đây, rồi trẫm sẽ ban cho nghìn lượng vàng.
Thình lình một cung nga xẹt tới, tay rút kiếm đâm sau lưng Vương Cương Trung. Thân pháp nàng nhanh không thể tưởng tượng được. Cương Trung kinh hãi vội, xoay kiếm về sau đỡ kiếm của người kia. Hai kiếm chạm nhau tóe lửa. Cương Trung mượn thế tung mình nhảy lên cao.
Thủ Huy nhận ra cung nữ đó là công chúa Đoan Nghi thì mừng vô hạn.
Tuy Cương Trung tránh rất nhanh, nhưng Đoan Nghi cũng nhảy theo. Cương Trung rơi xuống thềm, thì mũi kiếm của Đoan Nghi thủy chung vẫn truy kích như bóng với hình. Quá kinh hãi, y hét lên be be, lăn mình đi ba vòng, rồi tung người dậy. Nhưng mũi kiếm lại chỉ vào ngực y.
Một cung nữ quát lên :
- Đánh trộm người ư ?
Y thị cầm cái ghế phang vào lưng Đoan Nghi. Đoan Nghi phải thu kiếm về gạt cái ghế. Nhờ vậy Cương Trung được an toàn. Chân đứng trung bình tấn, lưng khòm khòm, tay thủ kiếm, y run run nói một mình :
- Mê linh kiếm pháp.
Đoan Nghi nhìn lại xem cung nữ là ai ? Thì hóa ra vú Mai. Tình cảm của Đoan Nghi với vú Mai vẫn chưa hết. Nàng kinh ngạc :
- U...U...U.. Tại sao u lại đánh con ?
Nói dứt nàng chợt nhớ ra rằng vú là Công Chúa tiên tử Triệu Mai Hương của phái Hoa sơn, là vợ của Cương Trung, tức thị vệ Từ Nam, dĩ nhiên bà phải cứu y.
Mặc Đoan Nghi nói, vú Mai không trả lời, bà rút kiếm tấn công Đoan Nghi bằng những chiêu hiểm độc nhất, giống như lối đánh cả hai cùng chết. Đoan Nghi nhận ra kiếm pháp của vú là kiếm pháp Hoa sơn. Tình nghĩa mẹ sữa nồng nàn suốt bao nhiêu năm, khiến Đoan Nghi chỉ biết lùi, biết đỡ, mà không dám đánh trả.
Trong khi Đoan Nghi truy kích Cương Trung, thì Thủ Huy tung mình đến dùng một thế Ưng trảo, định chụp nhà vua, rồi vọt ra khỏi cái sập. Giai phi Chế bì La bút quát lên một tiếng, mụ phát chưởng đánh thẳng vào người Thủ Huy. Thủ Huy vội biến trảo thành chưởng đỡ. Bình một tiếng, công bật tung về sau. Công cảm thấy cánh tay ê ẩm. Bất giác công bật lên tiếng khen :
- Thực không hổ danh là Mao Nữ tiên tử phái Hoa sơn.
Giai phi Chế bì La bút biết rằng nếu không khống chế nhà vua, thì khó thoát khỏi cái chết hôm nay. Phi trút kiếm định dí vào cổ ngài, thì chỉ thấy hoa mắt một cái, cung nữ đứng sau lưng Tuyên phi Thụy Hương đã tung ra một vật tròn to bằng quả bưởi. Vật đó mở ra, xòe thành cái chài, chụp phi vào trong. Phi dùng kiếm gạt chài, thì các viên chì trên chài đã đánh vào huyệt khúc trì, đại trùy, toàn thân phi bị tê liệt.
Thủ Huy nhận ra cung nữ bắt sống Chế bì La bút là bà chị dâu Phương Lan của mình, thì mừng chi siết kể.

Nhờ vú Mai cản trở Đoan Nghi, mà Cương Trung rảnh tay, y đánh liền ba chiêu thực thần tốc vào người Phương Lan để cứu Giai phi. Phương Lan vung tay lên, cái chài cuộn tròn Giai phi đưa ra đỡ kiếm của y, khiến y phải thu kiếm nhảy lùi lại. Phương Lan quẳng Giai phi trước Thủ Huy.
Biết nguy hiểm, Cương Trung lại dí kiếm vào cổ nhà vua như cũ :
- Tất cả ngừng tay, bằng không ta nhả kình lực.
Nói dứt y áp kiếm vào cổ nhà vua mạnh hơn. Nhà vua đau quá, quýnh lên :
- Các người mau ngừng tay !
Mọi người đành tuân chỉ, thu chiêu, lùi lại. Duy Đoan Nghi với vú Mai là vẫn chiết chiêu.
Ưng sơn nam hiệp cất giọng trầm trầm nói với Vương Cương Trung :
- Vương Thái bảo, ta có món quà ban cho người.
Nói dứt ông đưa mắt cho thiếu niên theo hầu. Thiếu niên tung vào người y một cái túi lớn. Cương Trung lia kiếm xỉa vào cái túi. Cái túi bị rách, có năm sáu vật rơi lốp bốp xuống nền điện. Cương Trung nhìn lại, thì là đầu của chính thê, thứ thiếp, và ba đứa con của y.
Y hét lên :
- Đồ hèn hạ !
Quá căm hận, quên cả khống chế nhà vua, Cương Trung tung người, xả kiếm vào người thiếu niên, kình lực rít lên vo vo. Hai người thi diễn cuộc đấu.
Hoàng hậu cũng đã vào trong cung. Bà rút kiếm đứng sau nhà vua, cùng Phương Lan hộ giá.
Tất cả những hỗn loạn đó đang diễn ra, Tăng Khoa đứng ngoài cung Long thụy thấy rất rõ. Hầu hú lên một tiếng, đám võ sĩ Côi sơn, Long biên xông ngay vào tấn công bọn võ sĩ Tống.
Cung Long hoa rối loạn cả lên. Nhưng thực lạ lùng, tự nhiên đám võ sĩ Tống bị sùi bọt mép, rồi ngã lộp bộp xuống mê man. Võ sĩ Côi sơn chỉ việc trói lại. Trong khoảnh khắc, đám võ sĩ Tống bị bắt trọn vẹn.
Vương Cương Trung với thiếu niên vẫn chiết chiêu đến một mất một còn.
Hơn mười người từ ngoài vào trong cung. Người đi đầu là Long Xưởng, thứ đến vương phi Bùi Trang Hòa, Lý Kính Tu, Ngô Lý Tín, Phí Công Tín, Như Như , Kim Ngân.
Kiến Ninh vương nhớ tới vụ bàn với Thủ Huy giết sạch bọn quan lại ù lỳ, phản phúc, rồi Nghĩa Thành vương phản đối, và đề nghị hỏi ý kiến Long Xưởng. Vương đến bên anh, nhắc lại việc ấy.
Nghe em thuật, Long Xưởng nghĩ thầm :
- Lần này phụ hoàng, mẫu hậu, với ta cùng bị bọn Tống hại suýt nguy đến tính mạng ; phải nhờ đến Thủ Huy cứu viện. Công này quá lớn ! Sự việc yên, uy tín bọn Đông a với Thủ Huy lên đến cực điểm. Chắc phải phong vương cho y là điều ta không muốn. Sau này muốn trừ y cực khó. Bây giờ bọn văn thần chống ta như cá nằm trên thớt. Ta phải nhân chúng đang sợ hãi mà phủ dụ chúng, thì chúng sẽ quy phục ta. Ta sẽ dùng chúng để chống bọn Thủ Huy, Tăng Quốc, Tăng Khoa, Đào Duy, Như Yên, Như Như...
Nghĩ vậy Long Xưởng vội xua tay :
- Em nóng nảy quá như vậy thì e hỏng đại sự. Em ơi ! Bọn văn quan sở dĩ có thái độ đó là lỗi ở trong nhà mình mà ra. Từ Chiêu Hiếu hoàng thái hậu cho tới Cảm Thánh hoàng thái hậu đã ngu dốt, mà lại học đòi theo Linh Nhân hoàng thái hậu, rồi lộng quyền. Các quan như ngọn cỏ, gió chiều nào theo chiều đó, một là lo bảo vệ địa vị, hai là sợ mất mạng. Sau vụ này, thì ta sẽ đưa vài tên đầu sỏ ra xử, giết thực thảm khốc, là từ nay không tên nào dám ho he nữa. Ta làm theo Khổng tử : Sát nhát nhân, vạn nhân cụ (giết một người khiến vạn người sợ).
Thấy vú Mai cứ tấn công, mà Đoan Nghi chỉ chống đỡ, Kim Ngân cười lên một tiếng, rồi nàng phát hai chỉ hướng hai người. Choang, choang, kiếm của Đoan Nghi, vú Mai cùng rời khỏi tay, bay lên cắm vào nóc cung. Chuôi còn rung động không dứt. Kim Ngân lạng mình sang phải, nàng tung ra cái chài, chụp vú Mai. Vú Mai nhảy vọt lên cao tránh, Kim Ngân chuyển tay một cái. Chài hướng lên trên, chụp vú Mai nằm gọn bên trong.
Ưng sơn nam hiệp lạng mình đến chụp cái chài, gỡ vú Mai ra ngoài. Ông nói với Kim Ngân :
- Con bé ! Đây là người mà ta cực kỳ sủng ái. Tuy nàng có tội với Đại Việt, nhưng ta xin con bé tha cho nàng.
Kim Ngân ngước mắt nhìn lên trần nhà mỉm cười. Nàng lễ phép :
- Dạ ! Khi Ưng sơn tuyên án ai có tội thì không bao giờ sai. Ngược lại, khi bảo ai vô tội thì chắc cũng thế...
Ưng sơn nam hiệp bồng vú lên, rồi nói bằng giọng cực kỳ ôn nhu :
- Em ! Thì ra em đấy ư ? Từ ngày ấy đến giờ, anh vẫn tìm em, chờ em. Anh không nhìn đến một người đàn bà nào khác. Anh là Người đòi nợ đây.
Đòi nợ là một thuật ngữ đặc biệt, mà trên thế gian này chỉ có thư sinh tình quân của Mai Hương với nàng mới biết ý nghĩa mà thôi. Câu chuyện cực kỳ lãng mạn, tuy hơn hai mươi năm qua, mà Mai Hương vẫn còn nhớ :
Bấy giờ Mai Hương tuổi đã mười sáu, nức danh cầm ca đế đô Thăng long. Nào thân vương, nào đại thần, nào danh dĩ, nào võ học danh gia cầu hôn. Nhưng nàng đều từ chối. Một ngày, có thư sinh làm một bài ca xin cầu kiến với nàng. Bài ca như sau :
Hoa đào rực nở ngày Xuân,
Má hồng tiên nữ giáng trần phải chăng ?
Tây Thi, Phi Yến sao bằng ?(1)
Phải người thanh khí lẽ hằng đó sao ?

Giai nhân nan tái đắc,(2)
Một thoáng nhìn đã biết bạn tri âm.
Kẻ đa tình, ngày nhớ, đêm mong,
Trăm năm nữa cũng vẫn ghi tâm khắc cốt.

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng,
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.(3)
Nhớ xưa kia họ Chử, không khố, dưới lau,
Gặp công chúa, cùng nhau thành giai ngẫu.(4)

Công hầu k
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #26  
Old 06-19-2004, 04:23 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C22:LINH CHIẾU CHIÊU HÒA THÁI HẬU.

Trong tâm nhà vua định đáp rằng :
Xưởng là hoàng trưởng tử, là đích tử, đã lập làm trừ quân, cầm quyền Đông cung triều, nhân tâm thiên hạ đều hướng về. Còn Long Trát khi sinh ra, đã có mối nghi ngờ trong triều, ngoài dã lại là con thứ, đang tuổi bế ngửa thì sao có thể là thái tử ? Vừa rồi, bị Vương Cương Trung đe dọa tính mệnh của trẫm, của hoàng hậu, của các phi, mà trẫm ban chỉ phế Xưởng, lập Trát. Chứ thực tâm, trẫm không có ý đó.
Nhưng liếc khuôn mặt thanh tú, đôi mắt tuyệt vọng, chứa chất cầu xin, thiết tha yêu thương nồng nàn của Thụy Hương, long tâm lại nhũn ra. Trong khoảnh khắc đó, ông vua đa tình bậc nhất triều Tiêu sơn lại nghĩ :
ị Ta là chúa tể trời Nam, ngồi trên ngai vàng bốn mươi năm qua. Vàng bạc ta có đầy kho, dân chúng nơi nơi đều quy phục. Trong cung ta có mấy trăm người, nào hoàng hậu, nào bẩy phi, nào hai mươi bốn mỹ nữ, mấy chục tu dung, tu nghi, tài nhân... Nhưng không ai làm cho ta vui lòng, không ai đem cho ta tới tuyệt :Dnh Vu sơn, không ai cho ta ăn uống ngon miệng bằng Tuyên phi. Trước đây ta từng hứa cả đời chỉ sủng ái nàng. Bây giờ, trước khi phải ban chỉ xử tử nàng, nàng cầu xin ta giữ nguyên chỉ dụ, lập con nuôi nàng lên làm thái tử. Âu là ta cứ hứa cho nàng vui lòng. Rồi khi sắp băng ta sẽ đổi lại thì có sao đâu ? Vả hiện nay, quyền hành trong tay Xưởng nhi, khi ta lâm chung, hỏi ai dám chống đối Xưởng nhi ?

Nghĩ vậy, ngài liếc mắt nhìn hoàng hậu, Long Xưởng, các hoàng tử công chúa, phò mã, đại thần... Ai cũng chờ đợi quyết định của ngài. Ngài định ban chỉ : Long Xưởng là thái tử, nhưng ngài thoáng thấy hai giọt lệ lăn trên má Tuyên phi, không giữ nổi ý chí, ngài bật ra câu nói :
- Trẫm mới ban chỉ phế Xưởng lập Trát. Chỉ ban ra rồi, không thể thu lại ! Long Trát vẫn là thái tử.
Lời của Thiên cảm Chí bảo hoàng đế vừa ban ra, ngài thoáng thấy nét bất phục, thất vọng của hoàng hậu, chư hoàng tử, công chúa đều bàng hoàng. Chính ngài cũng :Dng mặt, cung Long hoa như xoay vần đảo lộn. Ngài phải nắm lấy cạnh sập để khỏi bị ngã.
Thụy Hương nở một nụ cười thực tươi, thực thỏa mãn. Nụ cười đó như hàng nghìn viên thuốc bổ, khiến nhà vua cảm thấy khỏe mạnh như hồi trai tráng. Nàng phục xuống trước nhà vua lạy đủ bốn lạy, rồi khẩn khoản :
- Thiếp xin bệ hạ gia ân, đại xá cho song thân thiếp. Không biết bệ hạ có chuẩn không ?
Nhà vua ngần ngừ chưa quyết, thì Thụy Hương quỳ gối, ôm lấy chân ngài , ngửa mặt nhìn lên chờ đợi.
Nhà vua cau mày, liếc nhìn : Quần thần, các quan đều lắc đầu. Thụy Hương tu lên khóc. Nàng đứng dậy, nói lớn :
- Hỡi ơi ! Vì luật lệ ràng buộc, vì quần than ước thúc, mà bệ hạ không thể ban ân cho thiếp ! Thôi thì thiếp xin lấy cái chết để tạ tội với bệ hạ.
Nói dứt nàng rút thanh trủy thủ trong bọc đâm thẳng vào ngực. Thanh trủy thủ ngập tới chuôi. Dư lực còn, nàng vẫn đứng nguyên, mắt mở trừng trừng nhìn mọi người !
Những người có võ công cao định ra tay ngăn cản, nhưng tất cả đều ở quá xa nàng.
Triệu Mai Hương thấy con gái tự tử, bà hét lên :
- Con ơi ! Ối ! Con tôi !
Rời khỏi lòng Ưng sơn nam hiệp, bà lạng người tới đỡ Thụy Hương, đặt nàng nằm dài trên sập trước mặt nhà vua.
Nước mắt đầm đìa, Thụy Hương vẫy tay gọi Thủ Huy, miệng nàng mấp máy như muốn nói gì. Thủ Huy quỳ gối dưới chiếc sập, ghé tai sát vào miệng nàng. Tiếng nàng nhỏ như tơ :
- Anh ơi ! Đời em trải qua ba người đàn ông. Mỗi người, mỗi hoàn cảnh, mỗi thái độ. Nhưng em chỉ yêu thương có mình anh thôi. Trước đây, anh với em đã luận bàn với nhau, sao cho anh nắm binh quyền ở ngoài, em khống chế bọn văn thần ở trong. Sau đó đưa anh lên làm vua, anh sẽ phong cho em làm hoàng hậu. Nhưng... Nhưng nay thì tuyệt vọng rồi.
Tuy Thụy Hương nói nhỏ, nhưng người người đều nghe rõ. Hoàng hậu đưa mắt nhìn nhà vua, nhìn Long Xưởng, như có ý nói :
- Tôi luận có sai đâu ? Quả Thủ Huy có ý phản nghịch từ lâu mà không ai biết.
Trong khi Long Xưởng nghĩ :
- Từ hôm nghe phụ hoàng, mẫu hậu luận về Thủ Huy, ta hơi nghiêng theo ý mẫu hậu. Tuy bề ngoài ta ngọt ngào với y mà trong lòng ta ngầm đề phòng. Thỉnh thoảng thấy thái độ nhiệt thành của y, ta cứ hối hận rằng nghi oan cho một đại công thần. Bây giờ trắng đen đã rõ sự thực !
Thủ Huy kinh hãi :
- Phi ! Làm gì có chuyện đó. Phi sắp băng rồi ! Phi đừng bịa ra những chuyện hoang đường nữa.
Thụy Hương vẫy tay cho Thủ Huy lùi ra. Từ nhà vua, Long Xưởng cho chí các đại thần đều nhìn công với con mắt nghi ngờ, hận thù :
- Thì ra cái tên này là một gian thần, nguy hại, mà không ai biết.
Nàng lại vẫy tay gọi Thục phi Đỗ Thụy Châu. Thụy Châu bế Long Trát lại bên cạnh nàng. Nàng cầm lấy tay Long Trát :
- Con tuy không phải do mẹ sinh ra, nhưng mẹ yêu thương con rộng như biển, cao như trời. Trong mười sáu tháng qua, mẹ bế bồng con, cho con bú sữa, hát ru cho con ngủ. Khi con được lập làm thái tử, trong lòng mẹ hân hoan, sẽ có ngày được nhìn con mặc áo ngự bào, ngồi lên ngai vàng. Nhưng bây giờ thì hy vọng đó tuyệt rồi.
Nàng nói rất nhỏ, vừa đủ lọt vào tai Đỗ Thụy Châu :
- Em sắp chết rồi ! Em chết rồi, thì không còn người đối chất về lý lịch Long Trát nữa. Chúng ta đã lừa được triều đình, thì cứ tiếp tục lừa luôn. Vừa rồi em nói với Long Trát mấy lời, chỉ với mục đích xác nhận Long Trát làm thái tử. Chị thấy em lừa bọn ngu thần già hay không ? Từ bao năm qua, mấy lão này kiếm đủ cớ hạ phái Đông a với Thủ Huy mà không được. Bây giờ chỉ mấy câu của em, thì những gì là Đại Việt ngũ tuyệt, Vỵ xuyên ngũ tiên sẽ bị triều đình nghi ngờ. Em chết rồi, chị cứ cương quyết rằng Long Trát do chị sinh ra. Mấy lão đại thần già, chỉ mong Long Trát lên làm vua để được an nhàn, sẽ hùa theo chị. Em thấy cái lão già Tô Hiến Thành kia, là người ham danh. Khi Long Trát lên ngôi, chị cứ phong cho y tước vương. Y sẽ cúi đầu cúc cung để chị sai như con :D Y già rồi, thì giỏi lắm chỉ sống được ba, bốn năm nữa là cùng. Bấy giờ chị trao quyền cho
Đỗ An Di, là mọi sự ban bài xong. Thôi chị bồng Long Trát ra chỗ khác, để nó khỏi phải nhìn thấy cảnh mẹ nó chết.
Nàng lại nói sẽ vào tai mẹ :
- Mẹ thấy không ? Phái Hoa sơn nhà mình tìm trăm phương ngàn kế phái người sang làm tế tác, để triều đình sẽ đưa quân sang chiếm Đại Việt. Thế mà gần trăm năm qua, bao nhiêu người, bao nhiêu công, bao nhiêu sức, mà cuối cùng cũng mua lấy cái thất bại ngày hôm nay. Chính vì vậy con phải ra tay. Chỉ một cái chết của con, mà loại vĩnh viễn Long Xưởng ra ngoài. Chỉ cần mấy năm nữa thôi, Long Trát sẽ làm vua Đại Việt. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, nào Tần, nào Hán, nào Đường, nào bản triều, đem quân nghiêng nước sang đánh Đại Việt, cuối cùng cũng thất bại. Nay, con không dùng kiếm, không dùng cung, mà biến An Nam thành quận huyện của ta.
Nàng nhắm mắt lại, thở hổn hển, rồi tiếp :
- Nhưng con nói thực ! Cái hôm bố mẹ bàn với con rằng, con phải hiến thân cho vị thái tử, thuộc giòng chính thống của Tống triều, hy vọng có con. Rồi tìm cách đưa đứa con đó lên làm vua An Nam. Con tuân theo, mà lòng bất phục. Sau hai đêm liền hiến thân đó, con cảm thấy thân thể dơ bẩn, hối hận vô tả. Bởi trước sau, con chỉ yêu có một mình Thủ Huy thôi. Còn Long Xưởng hay ông vua kia, con không hề để vào tâm. Mẹ hãy bình tĩnh để con bắn vào tim cái ông vua đa tình này mấy mũi tên độc nữa. Với mấy mũi tên này, thì triều đại Tiêu sơn không còn.
Đến đây hơi thở của Thụy Hương gần như muốn tuyệt. Nàng hướng nhà vua :
- Thiếp biết tội quá nhiều...Trong khoảnh khắc nữa...âm dương cách trở... Không biết rồi đây, ai sẽ thay thiếp phục thị, dâng hiến những miếng ngon, vật lạ lên bệ hạ.
Nhà vua quên cả mình là đấng chí tôn. Ngài nắm lấy hai vai Thụy Hương :
- Phi ! Trời ơi ! Làm sao bây giờ ?
Thình lình, Thụy Hương lách tay nhổ thanh trủy khỏi ngực. Máu vọt lên thành vòi. Người người đều kinh hãi, quay mặt đi. Nàng rùng mình một cái, rồi từ từ nhắm mắt.
Nước mắt đầm đìa, nhà vua ôm lấy Thụy Hương, nhắc lại ý nghĩ trong tâm lúc nãy cho mọi người nghe :
- Hỡi ơi ! Trẫm làm chúa trời Nam, con dân biết bao nhiêu mà kể. Trong cung cấm, nào hoàng hậu, nào phi tần có hàng trăm. Thế mà không ai làm cho trẫm vui lòng. Không ai cung phụng yến tiệc cho trẫm ngon miệng. Duy phi là người duy nhất làm cho trẫm vui, dâng cho trẫm những món ăn mà trẫm vừa lòng nhất. Bây giờ phi đã băng rồi, thì bao nhiêu tội lỗi cũng theo phi đi hết. Trẫm tuyên chỉ trước chư khanh : Trẫm ân xá cho Thái bảo Vương Cương Trung, ân xá cho tất cả mọi người. Ân xá cho tất cả tội nhân dù thành án hay chưa.
Giai phi Chế bì La bút đến trước nhà vua lạy bốn lạy :
- Tâu Bệ hạ ! Thiếp nhũ danh là Hàn Dũ Linh, trong phái Hoa sơn thiếp là Mao Nữ tiên tử. Quả Tống triều đã đưa thiếp sang giả làm công chúa Chế bì La bút. Từ ngày nhập cung, thiếp được bệ hạ ân sủng hơn bất cứ phi tần nào. Trong suốt mười mấy năm qua, tuy thiếp có lỗi đạo chúa tôi với bệ hạ. Song chuyện chăn gối, vợ chồng thiếp không hề khiếm khuyết. Bây giờ bệ hạ ban chỉ ân xá cho thiếp về Tống. Thiếp xin bệ hạ nhận lấy tám lậy này, trước khi kẻ Tống, người Việt.
Nói rồi phi lạy đủ tám lậy.
Phu nhân của Tể tướng Đỗ An Di cũng đến trước chồng. Nàng quỳ xuống rập đầu :
- Tể tướng ! Thiếp quả thực là người Tống, khuê danh là Trịnh Nam Phương, trong phái Hoa sơn, thiếp đứng đầu Hoa nhạc tam nương, chưởng quản Vân Đài lĩnh. Khu mật viện Tống cho thiếp sang Đại Việt với mục đích thu lượm tin tức gửi về. Thiên Hư sư bá đã cho tiền một nhà nghèo để họ nhận thiếp làm con, rồi bán cho tướng công. Từ ngày về làm tỳ thiếp, tướng công sủng ái thiếp trải mười mấy năm dư. Tình nghĩa vợ chồng thực là mặn nồng. Thiếp chưa từng làm phật lòng tướng công. Tướng công cũng chưa từng hắt hủi thiếp. Bây giờ trước lúc ly biệt, thiếp xin tướng công nhận mấy lậy, để tạ cái tội, thiếp đã thu nhặt tin tức của Đại Việt gửi về Tống.
Triệu Mai Hương ( vú Mai), đến trước Thần phi Bùi Chiêu Dương và công chúa Đoan Nghi, phục xuống, lậy bốn lậy, nước mắt đầm đìa :
- Nô tỳ nguyên là thần dân Tống triều. Trong phái Hoa sơn, nô tỳ trấn thủ ngọn núi Công chúa. Khu mật viện Tống đã đưa nô tỳ sang Đại Việt, ẩn thân dưới cái vỏ ca kỹ Trần Lệ Mai, mục đích đi đường tắt, làm tỳ thiếp của Minh Đạo vương. Thế nhưng, Minh Đạo vương đã có vương phi Phạm thị Thanh Thủy. Vì vậy sư huynh Lạc Nhạn phải ám hại vương phi Thanh Thủy, để nô tỳ có thể lọt vào phủ của người. Thế nhưng, khi sư huynh sai Mao Khiêm hại được vương phi Thanh Thủy, thì cũng đúng là lúc vương bị Cảm Thánh thái hậu với Đỗ Anh Vũ gia hại, mất hết địa vị, thế lực. Sư huynh Lạc Nhạn bỏ việc sắp xếp cho nô tỳ vào phủ Minh Đạo.
Bà đưa mắt nhìn Vương Cương Trung :
- Thế nhưng, con người ta ai cũng không thoát được đường tình. Đúng lúc đó nô tỳ gặp một đấng tài tử văn nhân. Chàng vốn nòi thư sinh. Thi, nhạc, họa không môn nào mà không thông. Cho hay, thanh khí lẽ hằng, nô tỳ vừa gặp người là quấn lấy nhau. Nô tỳ bỏ không hát nữa, cùng chàng ngao du bốn phương. Khi Bích động, khi Hàm rồng, lúc Nam giới, nô tỳ với chàng như đôi chim liền cánh. Bấy giờ Mao Khiêm đang đắc thế trong phủ Thái sư Đỗ Anh Vũ. Mao đã tiến cử nô tỳ làm tỳ thiếp cho Đỗ. Sư huynh Lạc Nhạn bắt nô tỳ phải chuẩn bị vào phủ Thái sư, và rời người thư sinh, không có chút địa vị, không tiền tài kia ngay tức thời. Nô tỳ không tuân lệnh sư huynh. Sư huynh theo dõi, rồi đích thân giết người tình của nô tỳ.
Mọi người đều chăm chú theo dõi một thiên tình sử hơn hai chục năm trước. Ai cũng ái ngại cho người thư sinh trói gà không chặt.
- Thế nhưng nào ngờ, sư huynh Lạc Nhạn phát chiêu giết thư sinh, thì bị phản công. Sau mười tám chiêu, sư huynh bị đánh bại. Thư sinh bắt sư huynh phải quỳ lạy, mới được tha mạng. Hai người hẹn hai mươi năm sau tái đấu, để phân cao thấp.
Đoan Nghi hỏi :
- Vú là cao thủ phái Hoa sơn, thế vú có biết thư sinh dùng võ công gì không ?
- Khi mới giao đấu, người bảo sư huynh Lạc Nhạn rằng : Mi là người phái Hoa sơn, vậy ta dùng võ công Hoa sơn thắng người, để người không ân hận. Võ công của Lạc Nhạn hay Ngô Giới, Lưu Kỳ đều là võ công Hoa sơn thất truyền. Còn võ công của thư sinh bao gồm cả Hoa sơn tứ đại thần kỹ.

Mai Hương thở dài não nuột :
- Rồi, một buổi sáng, khi thiếp thức dậy, thì không thấy thư sinh đâu nữa. Nô tỳ khóc hết nước mắt, bỏ ra không biết bao nhiêu tiền, thuê người điều tra lý lịch chàng, mà cũng biệt tăm. Mãi tới một hôm, kẻ mà tiểu tỳ bỏ tiền sai đi tìm lý lịch chàng báo cho nô tỳ biết một chuyện đau lòng : Chàng chính là người nức danh võ lâm, con trai đầu lòng đại hiệp Trần Tự Kinh phái Đông a, tên là Trần Tự Hấp. Tự Hấp với vợ là Bùi Anh Hoa, nổi tiếng Hoa Việt với cái tên Côi sơn song ưng.
Cả sảnh đường cùng bật lên tiếng kinh ngạc :
- Ủa !
- Ái chà chà !
- Ối trời ơi !
Rồi cùng đưa mắt nhìn Côi sơn song ưng. Chỉ có Đoan Nghi, Thủ Huy là im lặng cười nửa miệng mà thôi.
Mai Hương vẫn thuật lại cuộc đời thăng trầm của mình :
- Người đưa tin còn nói thêm rằng : Tự Hấp trốn vợ, ngao du với nô tỳ. Bây giờ bị vợ khám phá ra. Y thề không bao giờ gặp nô tỳ nữa. Nô tỳ tin ngay, vì trên thế gian này chỉ phái Đông a mới có bộ Vô trung kinh, trong đó chép đủ Tứ đại thần kỹ Hoa sơn. Nô tỳ nghiến răng căm hận kẻ bạc tình, thề sẽ có ngày đích thân giết chết y. Giữa lúc nô tỳ đau khổ cùng cực đó, thì sư huynh Lạc Nhạn ngỏ ý cầu hôn với nô tỳ. Thế là nô tỳ rơi vào tay người. Rồi...Nô tỳ trở thành vợ của Lạc Nhạn hay Vương Cương Trung, rồi đứa con Thụy Hương ra đời, rồi nô tỳ thành nhũ mẫu của công chúa. Hôm nay đây, nô tỳ gặp lại người thư sinh, gặp lại người tình Côi sơn , thì đứa con gái yêu thương lại phải chết. Hỡi ơi !
Bà lạy thêm một lạy :
- Nô tỳ xin Thần phi, xin công chúa nhận lấy cái lạy này, để tạ lỗi, đã mượn cung của Thần phi, lợi dụng lòng yêu thương của công chúa, làm gian tế bấy lâu nay.
- Có ai muốn nói gì nữa không ?
Côi sơn nữ hiệp hỏi : Nếu không ai nói gì nữa, thì chúng ta nói.
Bà chỉ Thụy Hương :
- Con nhỏ này tuy có nhan sắc, nhưng tiếc rằng nó bị cha, mẹ dạy cho một bản lĩnh điêu ngoa, xảo quyệt vô địch. Rồi đi đến kết quả là chết uổng. Khi ta mới vào đây, thì nó kết tội Long Xưởng bằng đủ mọi lời ác độc. Sau khi bị Trần Kim Ngân lột mặt nạ, nó lại tự tử. Nó nghĩ rằng khi tự tử, thì những lời nói cuối cùng sẽ làm cho ai nấy đều tin. Nhưng, chúng ta hiện diện tại đây, thì sao có thể qua mặt chúng ta được ?
Bà liếc mắt nhìn mọi người, rồi nhắc lại tất cả những gì Thụy Hương nói thầm với mẹ, với Thục phi Đỗ Thụy Châu một lượt. Nghe Côi sơn nữ hiệp thuật xong, ai nấy rùng mình về sự xảo trá của Từ Thụy Hương, và cái nguy mất nước, nếu mưu cơ của nàng không bị khám phá.
Ưng sơn nữ hiệp hỏi lại Đỗ Thụy Châu, Triệu Mai Hương :
- Những lời ta nhắc lại có đúng như Tuyên phi nói không ?
Hai người biết nội công Ưng sơn cực cao, bao nhiêu lời nói của Thụy Hương, bà đã nghe rõ rồi, thì có dấu diếm nữa cũng vô ích. Cả hai cùng nghĩ : Nếu mình chối cãi, không chừng Song ưng sẽ giết cả nhà đến con :D con mèo cũng không tha thì thực thảm khốc. Chi bằng nhận đi là hơn.
Hai người cùng gật đầu, mà chân tay phát run.
Ưng sơn nữ hiệp hướng nhà vua :
- Đứa đồi tử của nhà ta kia !
Ghi chú của thuật giả.
Tiếng đồi tử tôi lấy trong Trần tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc tại nhà từ ở thị xã Lãnh thủy, huyện Chiêu dương, tỉnh Hồ Nam, Trung quốc ; phần chép về Ninh tổ hoàng đế Trần Lý. Nguyên văn đoạn này như sau :
Đế (chỉ Anh tông) bất minh, phế đích tử Long Xưởng, nhi lập thứ tử Long Trát. Linh đức Chiêu hòa thái hậu vị đế mạ vi đồi tử. Đế mặc nhiên, đê đầu bất khả biện minh Ể. Nghĩa là : Nhà vua (chỉ vua Lý Anh tông) thiếu sáng suốt, phế bỏ con đích là Long Xưởng mà lập con thứ là Long Trát. Linh đức Chiêu hòa thái hậu mắng vua là đứa con hư hại. Vua im lặng, cúi đầu không biện bạch được tại sao.
Chữ đồi có để chỉ tinh thần suy thoái.
Tôi đã đọc nhiều sách Trung quốc, cũng như Đại Việt, chưa từng thấy ai mắng con cháu bằng tiếng đồi tử cả. Thấy đây là một từ ngữ hơi lạ, tôi giữ nguyên. Mong các vị cao minh thông cảm.
Nghe bà mắng nhà vua, mọi người cùng kinh hãi tự hỏi : Bà là ai mà lại gọi nhà vua là đứa con tồi của mình ? Không lẽ bà là Cảm Thánh hoàng thái hậu ?
Không ai lên tiếng, tất cả cùng lắng tai nghe. Bà vẫn tiếp tục mắng nhà vua :
- Cổ kim, một hoàng đế đa tình luôn là hoàng đế tốt. Nếu biết phân biệt quốc sự với cái đa tình, thì không ai có thể phê phán. Nhưng giữa đa tình với hiếu sắc lại không giống nhau. Đức Thánh tông chẳng từng nức tiếng đa tình, vì người biết sủng ái một cô thôn nữ, sau thành Linh Nhân hoàng thái hậu đó ư ? Đức Thần tông chẳng từng yêu thương một cô bán hoa, mà khắp thiên hạ, đều cho rằng ngài hiểu rõ cái tình là cái chi chi. Cho đến nay, không ai chê trách đức Thánh tông, Thần tông, mà còn khen là minh quân. Ngược lại, thân làm vua, mà đắm say nữ sắc, làm hại dân, hại nước, thì chỉ là tên ngu phu trước con đàn bà lăng loàn. Sử sách xưa không thiếu gì những gương sáng đó. Nào U vương say Bao Tự, Trụ vương say Đát Kỷ, Ngô vương say Tây thi, Hán vương say Phi Yến, Minh Hoàng say Dương phi, cuối cùng hoặc xã tắc nghiêng ngửa, hoặc mất ngôi, rồi bản thân chết như một con trâu thối tha trôi sông.
Bà chỉ vào Thụy Hương :
- Mi say mê y thị, thì cứ say mê, ta không cấm cản. Nhưng mi đem giang sơn của vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng ; mi đem sự nghiệp của năm vị tiên đế triều Tiêu sơn chỉ để làm vui lòng thị thì không được.
Thái phó Lý Kính Tu bước ra :
- Thưa bà ! Côi sơn song ưng nức tiếng là người chính đạo, tý dân, hộ quốc, lão phu hằng tâm phục, khẩu phục hơn hai chục năm qua. Nhưng bà nhục mạ Hoàng thượng như vậy là không chính đạo. Thánh nhân dạy : Để cho vua bị nhục, thì bầy tôi không đáng sống. Nay bà miệt thị hoàng thượng quá đáng, lão phu là bầy tôi, thì lão phu không thể chịu được. Lão phu chỉ là một văn thần trói gà không chặt. Nhưng cũng liều mình với bà.
Nói rồi ông mang hốt tiến lại đập vào Ưng sơn nữ hiệp. Bà mỉm cười, dơ tay ra cho lão đập, bà không dám vận công, vì sợ lão bị thương. Mỗi lần cái hốt trúng tay bà, kêu lên tiếng lốc cốc như đập vào cái mõ. Đập được năm cái thì lão mệt quá không đập được nữa. Lão đến trước nhà vua, quỳ xuống lạy bốn lạy :
- Kẻ mạt thần không đủ sức hộ giá, nay xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ của các vị tiên đế.
Nói dứt lão đập đầu vào cái cột bằng đá của cung Long hoa.
- Khoan ! Chưa đến lúc chết như vậy !
Tiếng nói thanh thoát nhẹ nhàng, tiếp theo bóng xanh xẹt đến. Mọi người chỉ thấy lóa mắt một cái, rồi thân Kính Tu bị nhắc bổng lên. Bóng xanh đó là Tô Phương Lan.
Phương Lan chỉ Ưng sơn nữ hiệp :
- Thái phó hãy nhìn xem người mắng hoàng thượng là ai ? Ưng sơn song hiệp có bao giờ hành sự ngoài đạo lý, ngoài luật pháp đâu ?
Minh Đạo vương mở khăn che mặt Ưng sơn nữ hiệp ra. Cả sảnh đường cùng bật lên tiếng kinh ngạc, bởi ai cũng tưởng bà là vợ của đại hiệp Trần Tự Hấp, thì ít ra tuổi của bà cũng phải trên dưới bốn mươi. Bây giờ thấy bà chỉ là một thiếu phụ tuổi khoảng hai chục, nhan sắc cực kỳ diễm lệ. Bất giác họ cùng so sánh với nhưng người đẹp hiện diện : Loại hơi lớn tuổi như Vân Đài Trịnh Nam Phương, Công Chúa Triệu Mai Hương, Mao Nữ Hàn Dũ Linh cho tới loại nhỏ tuổi Đoan Nghi, Thụy Hương, Trang Hòa, Như Như, Phương Lan, Kim Ngân, đều không thể so sánh với bà. Người người cùng bật lên tiếng kêu kinh ngạc :
- Ồ !
- Ái chà !
- Ối.
- Hỡi ơi.
Vừa nhìn thấy bà, thì từ nhà vua, hoàng hậu, cho đến các thân vương, đại thần, cùng tới trước mặt Ưng sơn nữ hiệp rập đầu :
- Thần nhi xin tham kiến thái hậu.
- Bọn thần xin khấu đầu trước thái hậu.
Vân Đài Trịnh Nam Phương thấy Ưng sơn nữ hiệp là một thiếu phụ nhan sắc diễm lệ, trẻ hơn Thụy Hương, mà sao mọi người đều cung cung, kính kính với bà ? Hơn nữa lại gọi là thái hậu ? Nam Phương ngơ ngơ ngác, rồi hỏi Vương Cương Trung :
- Sư huynh ! Bà...Bà ta là vợ Ưng sơn, mà sao họ lại gọi là thái hậu ?
- Bà này là một giai nhân nức tiếng Thăng long hơn bốn mươi năm trước, tên là Hồng Hạnh, được vua Thần Tông đón vào cung phong làm Thần phi. Khi cái ông vua bị thịt kia lên ngôi, tôn bà làm thái hậu. Bà không phải vợ của gã Trần Tự Hấp kia đâu. Bà chỉ đi cùng y mà thôi.
- Sư huynh nói sao ? Bà là Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu, vợ của vua Thần tông ư ? Không lẽ ! Nếu đúng vậy thì năm nay bà phải gần sáu chục tuổi rồi chứ ? Có đâu trẻ như gái hai mươi thế kia ?
- Đúng vậy ! Vì bà luyện thành Bảo Hòa vạn hoa công của công chúa Bảo Hòa, nên trẻ hoài không già.
Ghi chú của thuật giả
Công chúa Bảo Hòa là nhân vật lịch sử, lẫn thần thoại. Ngài là cháu ngoại của vua Lý Thái tổ, con của công chúa Lĩnh Nam Bảo quốc Hòa dân với phò mã Thân Thừa Quý. Ngài sống trải bốn đời vua nhà Lý : Thái tổ, Thái tông, Thánh tông, Nhân tông. Không rõ hoăng năm nào. Tương truyền ngài có thuật dưỡng sinh, khiến cơ thể trẻ mãi không già. Hành trạng của ngài, tôi thuật rất chi tiết, rất đầy đủ trong các bộ Anh hùng Tiêu sơn, Thuận thiên di sử, Anh hùng Bắc cương do Xuân Thu, và Nam quốc sơn hà do Đại Nam, Hoa kỳ xuất bản.
Trước khi sang Đại Việt, Nam Phương từng nghe sư phụ, sư bá không ngớt nhắc nhở đến tiên nương Bảo Hòa, nhân vật nửa lịch sử, nửa thần thoại này nhiều lần, và ước mơ sao tìm được Bảo Hòa vạn hoa công để giữ tuổi Xuân không tàn phai. Hồi ấy nàng không tin trên đời lại có loại thần công kỳ diệu đến thế. Bây giờ thấy Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu, mẹ của Minh Đạo vương, mà vương là anh lớn hơn nhà vua gần chục tuổi... sắc diện trẻ như thiếu nữ đôi mươi, thì trong lòng cực kỳ cảm phục.
Linh Chiếu thái hậu vẫy tay :
- Miễn lễ cho các người.
Nhà vua cung cung, kính kính thỉnh Linh Chiếu thái hậu ngồi lên giữa sập. Bà thản nhiên lên ngồi, rồi hỏi nhà vua :
- Hoàng nhi. Hoàng nhi hãy trả lời cho ta mấy câu.
- Thần nhi xin chờ chỉ dụ của mẫu hậu.
- Có phải khi ban chỉ phong Long Xưởng làm thái tử, hoàng nhi thể theo điển lệ thời tiên đế, cùng lời tâu của chư đại thần không ?
- Quả như mẫu hậu minh kiến.
- Hơn mười năm qua, Long Xưởng cùng Đông cung triều đã làm cho dân giầu, nước mạnh như thời đức Thái Tông, Thánh Tông. Trong, việc nông tang phồn thịnh, học phong rực rỡ. Ngoài, nước lớn nể, nước nhỏ phục, lại mở ra một lối mới trong việc giao thiệp với các nước khác. Như vậy sau này có xứng đáng nối ngôi không ?
- Tâu mẫu hậu, Xưởng nhi sau này sẽ là một minh quân.
- Còn cái việc Tuyên phi Vương Thụy Hương, giả chiếu chỉ gọi Long Xưởng vào cung cho hoàng nhi dặn dò việc sau, rồi bỏ thuốc mê vào nước cho Long Xưởng, Trang Hòa, Như Như uống. Khi ba trẻ mê man, thị ra tay giết hai cung nữ, Vương Cương Trung ra tay giết sáu thái giám. Rồi tri hô lên là Long Xưởng mang người vào định cưỡng gian y thị. Hoàng nhi có biết không ?
- Tâu mẫu hậu, được mẫu hậu mở mắt cho, thần nhi mới biết.
- Khi hoàng nhi ban chỉ cho Thủ Huy đình chỉ việc Bắc chinh, rồi gọi hoàng đệ Nghĩa Thành, sáu trẻ Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh Đoan Nghi, Thủ Huy về triều, cho phục binh giết. Đó là ý của hoàng nhi chăng ?
- Tâu, thần nhi bị Vương Cương Trung dí kiếm vào cổ bắt làm việc đó, chứ thần nhi không có ý như vậy.
- Được rồi ! Còn việc hoàng nhi ban chỉ phế Long Xưởng, lập Long Trát thì sao ?
- Tâu...Cũng do Vương Cương Trung áp chế.
Linh Chiếu thái hậu hướng quần thần :
- Các vị có nghe thấy không ? Bây giờ các vị hãy nghe hoàng thượng tuyên chỉ chính thức về việc lập trừ quân.
Nhà vua tuyên chỉ dõng dạc :
- Trẫm cho chư khanh biết, Long Xưởng vẫn là thái tử. Đông cung triều không có gì thay đổi.
Linh Chiếu thái hậu chỉ Ưng sơn nam hiệp :
- Bây giờ, ta muốn nhìn người này giải quyết những món nợ lâu năm với Vương Cương Trung.
Côi sơn nam hiệp vẫy tay gọi Vương Cương Trung :
- Tên gian manh kia ! Nếu mi có còn là con người, thì hãy ra đây cùng ta lý luận.
Vương Cương Trung cười gằn :
- Ai sợ Trần Tự Hấp, chứ họ Vương này đâu có sợ ? Mười mấy năm trước, khi chúng ta đến Thiên trường, phái Đông a hèn hạ, dìm chúng ta dưới nước, rồi làm nhục. Hôm nay, ta phải trả cái hận ấy.
Kim Ngân chỉ mặt Vương Cương Trung :
- Vương thái bảo. Hồi đó Hoa nhạc tam phong bị anh tôi là Thủ Lý dùng Thiên la thập bát thức bắt sống, mà sao Thái bảo lại nói là dìm xuống nước ? Trong Côi sơn song ưng thì thái hậu là đệ tử phái Tản viên. Còn nam hiệp thì là đệ tử phái Đông a. Nhưng Song ưng không dự vào việc bắt Hoa nhạc tam phong.

Cương Trung chỉ Ưng sơn nam hiệp :
- Y...Y không là Trần Tự Hấp, thì là ai ?
Nói rồi y đứng ra trước mặt Côi sơn nam hiệp :
- Tự Hấp, mi hãy mở khăn bịt mặt ra cho thiên hạ thấy một sự thật.
Nam hiệp nói lớn :
- Các người muốn biết mặt ta ư ? Cũng được. Để ta mở ra cho Mai Hương thấy ta là ta. Sư huynh Tự Hấp là sư huynh Tự Hấp.
Nói rồi ông mở khăn bịt mặt ra. Người người đều kinh hoảng :
- Minh Đạo đại vương !
Nhà vua cung bật lên tiếng kinh ngạc :
- Thì ra huynh trưởng đó sao ?
Từ hơn hai chục năm qua, Ưng sơn song hiệp qua lại giang hồ, tru diệt kẻ ác, cứu khốn phò nguy. Bất cứ hắc đạo, bạch đạo khi nghe đến tên đều kinh hồn động phách. Hai người ẩn hiện không chừng. Ưng sơn như một Hình bộ thương thư tư, luôn xử những vụ án bí mật, mà kẻ phạm tội đa số là bọn tham quan, bọn ác bá, bọn trộm cướp sống ngoài vòng pháp luật. Hai vụ mà Ưng sơn song hiệp xử lớn nhất là giết cả nhà ác nhân Đỗ Anh Vũ, đương kim Thái sư nắm toàn quyền sinh sát trong tay. Vụ thứ nhì là giết toàn gia bon Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên. Sau hai vụ đó, bọn gian thần tặc tử sợ hãi đến không còn biết chúng là ai nữa. Người ta cứ đoán già đoán non Ưng sơn song hiệp là ông bà Trần Tự Hấp của phái Đông a, hay ông bà Lê Thúc Cẩn của phái Sài sơn. Bây giờ nảy ra Song ưng không phải là vợ chồng mà là mẹ con. Mẹ là giai nhân Hồng Hạnh của phường bán hoa Thăng long, sau được phong làm Thần phi rồi Linh chiếu Chiêu hòa thái hậu. Còn con thì là Minh Đạo vương.
Mai Hương chạy lại bên Minh Đạo vương. Nước mắt đàm đìa :
- Anh ơi ! Từ trước đến giờ em cứ tưởng anh là Trần Tự Hấp, lại không bao giờ tưởng anh lại là Côi sơn nam hiệp. Hỡi ơi ! Quạ bạc đầu, ngựa mọc sừng, mặt trời mọc đằng Tây, em có thể tin được. Thế nhưng nếu ai nói anh là Minh Đạo vương, thì không bao giờ em tin.
Minh Đạo đại vương chỉ vào mặt Cương Trung :
- Hơn hai chục năm qua, ta cứ tưởng là tên Mao Khiêm tuân lệnh Anh Vũ, Cảm Thánh, giết ái thê của ta. Hôm nay, nhờ Mai Hương, ta được biết mi mới là chính phạm.
Ông quàng tay ra ôm lấy Triệu Mai Hương :
- Tên Vương Cương Trung định giết ái thê của ta, để cho nàng thay thế. Khi y giết được, thì ta mất hết địa vị, y bỏ kế hoạch dùng nàng làm tế tác trong phủ của ta, không cho nàng gặp ta. Thực đúng là duyên trời ! Lúc ái thê qua đời, ta quá buồn, đi tìm câu ca, tiếng hát thì gặp nàng.
Mai Hương dùng ngôn từ bình dân :
- Thế sao hồi đó , tự nhiên không từ giã, mà anh bỏ đi ?
- Bấy giờ hành tung của anh bị lộ, Đỗ Anh Vũ với Cảm Thánh sai thị vệ vây đánh anh. Anh thoát được thì bị thương nặng, phải dưỡng thương ba năm mới khỏi. Khi khỏi bệnh, anh tìm em, thì em đã không còn ở chỗ cũ nữa. Gần hai chục năm nay, bây giờ anh mới tìm được em.
Mai Hương nhìn Vương Cương Trung :
- Thực không ngờ, chính sư huynh Lạc Nhạn cũng nói rằng anh là Côi sơn song ưng, là Trần Tự Hấp.
- Côi sơn thì đúng, còn là Trần Tự Hấp thì y bịa ra. Tự Hấp là sư huynh của anh. Sở dĩ người ta lầm, vì bịt mặt lại, trông sau lưng, hay đằng trước, anh với sư huynh Tự Hấp giống hệt nhau. Chính y sai cái tên đưa tin cho em, bịa ra anh là Tự Hấp, để em tuyệt vọng, y mới chiếm được thân xác em.
Vương Cương Trung quát lên :
- Mai Hương ! Hãy rời tên Nam man ngay. Nàng đường đường là vợ một đại thần Thiên triều, tước phong tới công chúa, mà lại đi tình tự công khai với y ư ?
Dường như Mai Hương không coi Cương Trung ra gì. Nàng lại áp má vào ngực Minh Đạo vương rồi nói với y:
- Sư huynh ! Người này mới là chồng của muội. Sư huynh đã đánh lừa muội, để chiếm thân xác. Trong hơn hai mươi năm, tuy ở cạnh sư huynh, mà lòng muội lại chỉ tưởng nhớ tình quân. Hôm nay gặp lại, dù trời sập, muội cũng không rời người tình này đâu.
Mặt Cương Trung tái như gà cắt tiết. Y quát lên :
- Ta phải giết mi.
Nói dứt y rút kiếm phóng một chiêu thần tốc vào người Mai Hương. Minh Đạo vương phát chiêu chỉ đánh thẳng vào người Cương Trung, làm y phải thu kiếm về, lộn đi một vòng để tránh.
- Vương Cương Trung !
Minh Đạo vương chỉ tay vào mặt y : Hai mươi năm trước, vì muốn chiếm đoạt Mai Hương, mi ra tay ám toán, giết thư sinh tình quân của nàng, tình quân đó là ta. Không ngờ mi bị ta đánh bại. Mi phải quỳ gối van xin để được tha mạng, và hẹn hai mươi năm sau tái đấu phục hận. Thế mà đúng cái ngày hẹn tái đấu, mi trốn biệt. Hôm nay đây, mi không còn trốn được nữa.
Nói dứt, vương hướng tay lên xà nhà phẩy một cái, thanh kiếm của Đoan Nghi cắm trên đó rơi xuống, nằm gọn trong tay vương. Vương hôn lên má Mai Hương : - Hai mươi năm trước, ta đấu với người, chỉ với mục đích tự vệ. Còn hôm nay đây, ta phải trừng trị người về cái tội giết ái thê của ta, dùng thủ đoạn hèn hạ lừa dối Mai Hương. Người xuất chiêu đi !
Vương Cương Trung vòng tay ra chiêu Thương tùng nghênh khách của Hoa sơn kiếm pháp. Chân từ vị trí Thiên phong cấu cung Càn, bước sang vị trí Địa lôi phục cung Khôn, ánh kiếm lấp lánh, trông rất kỳ ảo. Một chiêu biến thành 64 chiêu. Kiếm quang bao phủ người Minh Đạo vương với Mai Hương. Minh Đạo vương vẫn ôm Mai Hương, đứng im một chỗ, vương phát chiêu, làn kiếm của vương quay thành vòng tròn, hàng nghìn vòng tròn xen lẫn nhưng chiêu của Cương Trung. Các chiêu của hai người quá ảo diệu, quá nhanh, không ai còn nhìn rõ nữa. Có tiếng loảng xoảng phát ra, rồi Cương Trung nhảy lùi lại.
- Kiếm pháp cao minh lắm.
Minh Đạo vương khen : Với trình độ kiếm pháp này, mi đã thành đệ nhất kiếm khách phái Hoa sơn rồi.
Quan sát kiếm chiêu của Cương Trung, Long Xưởng, Đoan Nghi cùng đưa mắt nhìn Thủ Huy, vì hôm trước công đã dùng chiêu này đấu với Vương Thúy Thúy.
Giai phi Chế bì La bút, tức Mao Nữ Hàn Dũ Linh reo lên :
- Sư huynh ! Mừng sư huynh luyện thành bộ Vô Trung kinh.
Cương Trung lại từ cung Chấn, vị trí Địa phong thăng bước sang vị trí Sơn lôi di cung Tốn, ra chiêu Hạc phi Đài sơn, một chiêu biến ra hai, hai thành bốn, rồi bốn thành 16. Đến đây người ta còn nhận ra, nhưng khi từ 16 thành 256, rồi 256 thành 65.536 chiêu thì không ai nhìn rõ nữa, làn kiếm quang bao trùm lấy người Minh Đạo vương.
Trong khi kiếm của Cương Trung huyền ảo, thần tốc như vậy, mà Minh Đạo vương vẫn đứng nguyên. Vương khoan thai đưa ra những chiêu kiếm thô kệch, nặng nề, chậm chạp. Ấy vậy mà Cương Trung cứ phải nhảy nhót , hò hét, tránh né khổ sở.
Đoan Nghi hỏi Thủ Huy :
- Anh ơi ! Phải chăng kiếm thuật mà Cương Trung xử dụng là Hoa sơn kiếm pháp chép trong Vô Trung kinh?
- Đúng thế.
- Em nghe nói trước kia Hoa sơn tứ đại thần kiếm đã nức danh Trung nguyên với bốn tuyệt kỹ trấn môn. Ngoài Mê linh kiếm pháp ra, không võ công nào có thể so sánh. Tuy nhiên Hoa sơn kiếm pháp mang một khuyết điểm lớn là khi xử dung, tiêu hao quá nhiều công lực. Cho nên tại trận Như nguyệt, Mộc Tồn hòa thượng phải áp dụng lối đánh kéo dài, khiến bốn vị đạo sư Hoa sơn mệt nhoài ra, rồi mới bắt được.
Nàng chỉ Cương Trung :
- Vương Cương Trung là người thông minh, tài trí, thì y cũng biết cái khuyết điểm đó chứ ? Tại sao y cứ nhảy nhót thế kia, thì lát nữa sẽ mệt lử ra ?
- Ấy, kiếm pháp Hoa sơn cũ với kiếm pháp Vô Trung khác nhau ở điểm, chiêu số giống nhau. Nhưng kiếm pháp mới, khi xử dụng thì chân di chuyển theo Bát quái, Hà lạc đồ thư. Chính cái di chuyển đó, lại sinh ra công lực, bổ túc cho chân khí bị tiêu hao. Cho nên Cương Trung nhảy nhót hoài mà công lực không bị hao hụt.
Minh Đạo vương vẫn đứng nguyên một chỗ, dùng tay trái ôm lấy vai Mai Hương, tay phải khoan thai xử dụng một thứ kiếm pháp kỳ lạ đấu với Cương Trung. Cứ mỗi lần Cương Trung ra một chiêu nào, vương lại tung ra một chiêu làm y bị mất căn bản. Vì vậy Cương Trung cứ phải hò hét, nhảy, nhót, không ngừng. Đấu được hơn trăm chiêu, Minh Đạo vương mỉm cười, hú lên một tiếng dài. Tất cả những người trong Long hoa cung đều ù tai, :Dng mặt. Vương cười lên một tiếng :
- Người đã xử dụng hết pho Vô Trung kiếm rồi. Bây giờ ta gọt lông mày người đây !
Vương xoay kiếm hai vòng, ra chiêu, ánh thép lấp lánh một cái, không ai nhìn rõ chiêu số ra sao. Cương Trung cảm thấy trán mát rượi. Hoảng hốt, y nhảy lùi lại, rồi sờ tay lên trán, quả hai lông mày của y đã bị cao nhẵn.
- Bạch hạc xung thiên.
Vương Cương Trung kêu lên : Sao mi biết xử dụng Hoa sơn kiếm pháp ?
Trong khoảnh khắc đó Cương Trung nghĩ thầm :
- Hôm trước, Ngu Doãn Văn được phái Đông a trả bộ Vô Trung kinh, chép trong những thẻ đồng. Y sao cho ta một bộ. Ta luyện cũng đã mấy năm, võ công ta tiến bộ tuy có tiến bộ, nhưng so với tên này, thì quá khác biệt. Bởi vẫn chiêu số đó, nhưng quá thần tốc, khi ta thấy, thì kiếm đã thu về ! Hỡi ơi ! Một là bọn Đông a trao võ kinh giả, hai là Ngu xấu bụng, đổi đi, khiến kiếm thuật của ta không chậm chạp, thiếu thần tốc ! Từ lúc nhập cuộc, rõ ràng y không muốn giết ta. Đã vậy ta cứ kéo dài cuộc đấu, để thấy kiếm thuật của y ra sao.
Nghĩ vậy, y lại lăn xả vào, dùng những chiêu chép trong thẻ đồng tấn công Minh Đạo vương. Nhưng thủy chung vương không rời khỏi chỗ đứng, tay trái vẫn ôm Mai Hương, áp ngực nàng vào ngực vương. Hai người mắt nhìn mắt mỉm cười.
Cử chỉ của Minh Đạo vương với Mai Hương làm Cương Trung hóa điên. Y nhào vào tấn công, mà không còn chú ý đến chiêu số của đối thủ nữa. Gì mà Minh Đạo vương không hiểu tâm lý Cương Trung. Vương vẫn xử dụng Hoa sơn kiếm pháp :
- Ta gọt chòm râu của mi đây.
Minh Đạo vương hú lên một tiếng, rồi, quay ngang kiếm một cái. Cương Trung cảm thấy môi, cằm mát rượi. Ba chòm râu dài, óng mượt của y rơi lả ta xuống đất. Thanh kiếm của Minh Đạo vương lại quay ba vòng nữa, những sợi râu đang rơi xuống bị cắt ra thành từng đoạn nhỏ, rơi xuống như lá thu gặp gió.
Cả Long hoa đường đều bật lên tiếng cười, càng làm cho Cương Trung uất hận. Y nghiến răng lăn xả vào tấn công.
- Ta gọt tóc của người đây !
Nói dứt Minh Đạo vương lại quay kiếm ba vòng, Cương Trung cảm thấy đầu mát rượi. Hoảng hốt y nhảy lùi về sau, thì vừa kịp thấy mái tóc của mình rơi xuống trước mặt. Y sờ tay lên đầu. Đầu y bị gọt bóng. Y hét lên :
- Đồ hèn hạ !
Rồi nhảy vào đánh liền mười chiêu, Minh Đạo vương vung kiếm, kiếm quang biến thành những vòng tròn lớn nhỏ. Từ trên người Cương Trung , những mảnh vải tới tấp rơi xuống, bay như bươm bướm. Hoảng hốt, y nhảy lùi lại, mọi người cùng bật cười vì : Y phục trên người y bị khoét mấy chục lỗ. Lỗ nào cũng tròn trịa.
Thấy tình trạng Cương Trung giống hết Vương Thúy Thúy, Đoan Nghi đưa mắt nhìn chồng, hỏi :
- Không biết giờ này Thúy Thúy có còn giận anh nữa không ?
Thủ Huy nói sẽ vào tai vợ :
- Giận thì không biết có còn giận không. Song nay nàng thành tỳ nữ của em rồi, thì anh...còn hy vọng gì nữa ? Thình lình, Cương Trung tung kiếm, phát một chiêu chưởng. Chưởng chưa ra hết, mà mọi người đã muốn ngộp thở. Bị bất ngờ, Minh Đạo vương tung kiếm lên xà nhà. Thanh kiếm lại cắm vào đúng chỗ trước. Vương buông Mai Hương, bước về trước, trả lại một chiêu. Ầm một tiếng. Hai người cùng lảo đảo lùi lại.
Thủ Huy kêu lên :
- Ác ngưu nan độ ! Cương Trung, người xử dụng Phục ngưu thần chưởng của phái Tản viên ư ?
Vương Cương Trung cười nhạt :
- Không những ta biết xử dụng Phục ngưu thần chưởng dương cương, mà còn biết cả Phục ngưu thần chưởng âm nhu nữa.

Nói rồi y lại phát chiêu Thanh ngưu nhập điền tấn công Minh Đạo vương. Vương cười nhạt, phát chiêu Phong đáo sơn đầu của phái Đông a. Lại ầm một tiếng. Cả hai người đều bật lui.
Thấy công lực của Lạc Nhạn cao thâm đến trình độ đó, Long Xưởng hỏi Thủ Huy :
- Nhi đệ ! Về công lực thì Ngô Giới, Lưu Kỳ cao thâm hơn Lạc Nhạn nhiều. Hồi ta gặp
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #27  
Old 06-19-2004, 04:24 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C23:CAO TÔNG HOÀNG ĐẾ.

Niên hiệu Thiên cảm Chí bảo thứ nhì, mùa Thu, tháng bẩy (DL.1175, Ất Tỵ), bên Trung nguyên, nhằm niên hiệu Thuần Hy thứ nhì đời Tống Hiếu Tông.
Sau ba tháng liền cho quân sĩ thao luyện tại Lạng châu, thì Thái úy phò mã Trần Thủ Huy cùng Kiến Tĩnh vương được tin Thái tử Long Xưởng, Kiến Ninh vương từ trấn Đồn sơn tới để thảo luận về tình hình quân lực Tống.
Lễ nghi tất.
Công chúa Đoan Nghi hỏi :
- Anh ! Phụ hoàng, mẫu hậu vẫn an lạc chứ ?
- Vì được tin Tống đem hạm đội Kinh Hồ tới Quảng châu, nên anh phải lên Đồn sơn duyệt xét tình hình ngay. Anh rời Thăng long đã hơn tháng rồi, thành ra không rõ tình hình sức khỏe các người ra sao.
Nguyên sau lần chính biến, diệt trọn bọn gian tế Tống tiềm ẩn ở Đại Việt. Thiên cảm Chí bảo hoàng đế ban chỉ ân xá cho bọn Vương Cương Trung, Vân Đài Trịnh Nam Phương, Mao Nữ Hàn Dũ Linh, cùng hơn trăm gia thuộc. Bọn Vương Cương Trung kéo nhau về Tống. Tống triều nghe bọn Vương Cương Trung tâu về việc Đại Viết chuẩn bị ra quân, may nhờ Thụy Hương phá vỡ thì kinh hoảng, vội sai sứ xin hòa với Kim, rồi đem trọng binh xuống trấn ở Nam thùy.
Vương Cương Trung được tôn làm chưởng môn phái Hoa sơn, thay Ngô Lân qua đời. Còn chức thì giữ nguyên, tước thăng lên Lĩnh nam công. Bọn Trịnh Nam Phương, Hàn Dũ Linh được phong tước công chúa. Riêng Vương Thụy Hương vì công lao quá lớn, được lưu lại triều, lĩnh một chức vụ mật.
Thái tử Long Xưởng được tin ấy, lập tức thiết Tinh triều để nghị kế đối phó. Triều đình quyết định cử Kiến Tĩnh vương, chỉ huy mười hai hiệu Thiên tử binh dàn ra tại Bắc cương, để phòng ngự. Lại cử Kiến Ninh vương lĩnh đại đô đốc, đem ba hạm đội trấn tại Đồn sơn. Còn Thái úy Trần Thủ Huy thì tổng chỉ huy hai mặt thủy bộ. Đại bản doanh đóng tại Đông triều.
Về phương Nam, tuy bấy lâu nay, Chiêm vẫn thần phục, nhưng không vì thế mà bỏ phòng ngự. Triều đình cử Kiến An vương trấn Nam thùy từ Thanh Nghệ tới Hải vân sơn.
Giữa lúc đó, thì Nghĩa Thành vương hoăng, Tả thiên ngưu vệ thượng tướng quân Tăng Quốc thay thế, quản Khu mật viện. Triều đình cử Thái bảo Phí Công Tín làm tổng lĩnh thị vệ, kiêm tổng lĩnh cấm quân.
Trước đây, Long Xưởng, Thủ Huy cùng tam vương bận rộn chuẩn bị cho cuộc Bắc phạt. Nay cuộc Bắc phạt bị hủy bỏ, thì tất cả thời giờ lại dồn vào việc tạo cho dân giầu, khuếch trương học phong. Thủ Huy dùng quân sĩ phá hoang làm ruộng. Vì thế, trong không đầy một năm, mà quốc sản trở thành dư giả. Dân chúng ấm no.
Vào nghị sự đường của tổng hành doanh Bắc cương, Long Xưởng hỏi Thủ Huy :
- Nhị đệ ! Tình hình quân Tống ở Nam thùy ra sao ?
- Không có gì thay đổi. Họ có khoảng mười đạo binh đóng rải rác từ Quế châu, Côn lôn, Đại giáp tới Ung châu. Năm vạn binh Quảng, hai vạn kị và năm vạn thủy quân. Tính chung, họ có 17 vạn. Tin tế tác cho biết, họ chỉ có kế hoạch thủ, mà không có kế hoạch đánh ta.
- Như vậy là được rồi. Mấy anh Tầu vẫn thế, mềm thì nắn, rắn thì buông. Cái tin ta định tiến quân, làm vua tôi bọn Tống hú hồn.
- Anh luận đúng.
Kiến Ninh vương bàn : Từ xưa đến giờ, mỗi khi Trung quốc đem quân đánh ta, thì bao giờ họ cũng phải nắm được bằng này điều kiện. Một là khích cho Chiêm đánh phía sau ta để chia lực lượng. Hai là xử dụng đội quân người Hoa, kiều ngụ bên ta nổi dậy làm nội ứng, hướng đạo, cùng làm gian tế báo tin tức cho họ. Ba là, phải có bọn Việt làm tay sai, nội phản. Bốn là, trong nước có sự chia rẽ giữa hoàng tộc với hoàng tộc , giữa triều đình với dân chúng, giữa đại thần với đại thần. Năm là, họ không bận binh sự với phương Bắc, phương Tây.
Đoan Nghi than :
- Nếu như năm trước ta không bị cái vạ Vương Cương Trung, thì giờ này triều Tống đâu có còn nữa ! Không biết đến bao giờ ta mới lại có dịp tiến binh như thế ? Đúng là mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Long Xưởng an ủi :
- Dù sao, ta cũng thu được một thắng lợi là kể từ nay, Tống không dám bắt ta tiến cống nhiều như trước. Lễ vật do ta định, chỉ có tính cách tượng trưng. Dần dần, ta sẽ bỏ tiến cống, không phải nhận sắc phong.
Thân binh vào báo :
- Khải điện hạ, có sứ giả xin yết kiến điện hạ khẩn cấp.
Long Xưởng dẫn mọi người ra đón sứ. Sứ giả là Tham tri chính sự Vũ Tán Đường.
Lễ nghi tất.
- Khải điện hạ.
Tán Đường trình : Long thể hoàng thượng thình lình bất an trầm trọng. Hoàng thượng, hoàng hậu truyền thần lên mời điện hạ khẩn hồi kinh để trao đại quyền, di chúc việc lớn.
Long Xưởng hô mọi người quỳ xuống tiếp chỉ. Nghe chỉ xong mọi người cùng hướng về Thăng long bái tạ.
Long Xưởng nghĩ thầm :
- Trước kia, thì ta cần tới Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh, Thủ Huy, Đoan Nghi, Tăng Khoa, Như Như để áp đảo bọn văn quan, rồi thi hành quốc kế. Nay quốc kế đã hoàn thành hết rồi, duy điều Bắc tiến đòi lại cố thổ thì hóa ra một tuồng hư ảo, vì Tống đã phòng thủ. Vậy thì ta dùng bọn này làm gì ? Khi ta lên ngôi vua, chỉ cần bọn cấm quân, thị vệ với ít hiệu binh địa phương cũng đủ. Quốc sản phải nuôi mười hai hiệu Thiên tử binh, kị binh, ngưu binh, thủy quân, tốn kém quá. Mà bốn đứa Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh, Thủ Huy vang danh thiên hạ. Chúng đều có tài, lại nắm giữ trọng binh, nếu như chúng cất quân soán ngôi vua, thì ta khó mà sống nổi. Được, ta phải tìm cách trừ hết bọn chúng, để tránh hậu hoạn. Người xưa nói, luận tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu.
Vương đưa mắt nhìn Đoan Nghi, nghĩ :
- Xưa vua Thuấn nhờ lấy hai công chúa Nga Hoàng, Nữ Anh của vua Nghiêu mà được truyền ngôi. Thái tổ nhà ta nhờ làm phò mã vua Lê, cầm trọng binh mà lấy được thiên hạ. Nay Thủ Huy cũng là phò mã, cũng cầm binh quyền, hơn nữa uy tín y trải khắp nước. Y còn nguy hơn đức Thái tổ nhà ta nữa. Đúng ra, ta phải cho Thủ Huy về chịu tang. Nhưng khi ta lên ngôi, thì phải phong chức tước cho bọn nịnh thần chống ta, để chúng ký vào biểu tôn ta lên ngôi. Nếu Thủ Huy có mặt tất y phản đối. Cái bọn văn quan chống ta, chúng chỉ là con chó của phụ hoàng với Thụy Hương. Chúng đâu có là mối nguy như Thủ Huy. Hà ! Lên ngôi rồi, ta ban mật chỉ cho bọn chúng, để bọn chúng bới lông, tìm vết kết tội bọn Thủ Huy, bọn Kiến Ninh, để loại trừ mối đe dọa. Muốn cho việc không bị cản trở, ta cần Thủ Huy vắng mặt. Bởi nếu y có mặt, ta ăn làm sao, nói làm sao với y ?. Vì vậy ta lấy cớ trao quyền cho y, để y không có mặt, ta mới dễ dàng hành sự.
Nghĩ vậy Long Xưởng nói với Thủ Huy :
- Ta nghĩ rằng lần này phụ hoàng khó qua khỏi. Ta phải dẫn Kiến Ninh, Kiến Tĩnh, Đoan Nghi về nhận di chiếu kế vị cùng chịu tang. Đúng ra theo luật bản triều từ thời đức Thái tổ, thì Thái úy không thể kiêm nhiệm một trong hai chức thống lĩnh Thiên tử binh, đại đô đốc thủy quân. Tuy nhiên Thiên tử có thể đặc cách trao cho một thân vương. Bây giờ ta về để lên ngôi thì coi như chính vị rồi. Ta có quyền thay đổi luật. Nhị đệ là phò mã có đại công với triều đình, thì nào khác gì thân vương ? Vậy nhị đệ hãy kiêm cả thống lĩnh Thiên tử binh cùng quyền đại đô đốc. Nhị đệ trấn cả hai mặt thủy bộ. Chúng ta dùng chim ưng liên lạc với nhau hằng ngày.
- Đại ca yên tâm.
Thấy Thủ Huy thản nhiên không nghi ngờ gì, Long Xưởng có hơi hối hận. Nhưng trong lòng lại nghĩ :
- Giết một tên Thủ Huy, mà sự nghiệp Tiêu sơn vững vàng, thì chẳng có gì đáng ân hận cả.
Long Xưởng dẫn ba người em dùng ngựa, cùng Vũ Tán Đường lập tức khởi hành. Năm người lên đường được một ngày mà không thấy chim ưng mang thư báo tin. Lòng Thủ Huy nóng như lửa đốt. Mãi trưa hôm sau, thì thân binh báo :
- Trình Thái úy có thân nhân lên thăm.
Thủ Huy truyền mời vào. Thì ra Thủ Lý, Tô Phương Lan ; Phùng Tá Chu, Kim Ngân ; Vương Thúy Thúy.
Vừa nhìn thấy Thúy Thúy, tim Thủ Huy đập liên hồi. Công mất hết tự chủ, đứng ngây người ra nhìn nàng.
Đã lâu lắm, kể từ sau buổi hội trên con thuyền ở hồ Tây. Thủ Lý hết sức khuyên Long Xưởng để cho mình giết sạch bọn gian tế Tống, mà Long Xưởng không quyết định. Thủ Lý, Trung Từ, Tá Chu cho rằng Long Xưởng là người thiếu quyết đoán, thì việc quốc gia đại sự khó mà thành. Cũng từ đấy, phái Đông a tuyệt giao với Đông cung, không trợ giúp gì nữa. Rồi sau quả như Thủ Lý đoán, chính bọn gian tế Tống gây ra chính biến, suýt nữa vua nghe lời Thụy Hương giết chết Long Xưởng, Thủ Huy, Đoan Nghi và ba em trai Long Xưởng. Việc Bắc phạt chuẩn bị hơn mười năm hóa thành một tuồng hư ảo, một trò đàm tiếu cho dân chúng. Tin này lọt ra ngoài, uy tín của Thủ Lý, Phương Lan, Trung Từ, Tá Chu, Thủ Huy Đoan Nghi lên cao. Từ trong triều, đến thôn dã, ai ai cũng chê nhà vua ù lỳ, chê Long Xưởng nhu nhược, e tương lai không hơn vua cha.
Cũng từ ngày đó, Thủ Huy chưa gặp lại anh. Bây giờ, thình lình thấy anh cùng nhiều người lên thăm, Thủ Huy biết phải có điều gì quan trọng lắm.
Phùng Tá Chu chỉ những người chầu hầu hỏi :
- Anh hai ! Liệu những người xung quanh anh có thể tin cậy được không ?
- Được ! Họ đều là người mẹ tuyển cho anh cả.
Thủ Lý ngồi ngay ngắn lại :
- Chú hai ! Một biến cố cực kỳ quan trọng vừa xẩy ra, có ảnh hưởng lớn lao đến trăm họ Đại Việt, nên anh phải lên gặp chú.
- Thưa là ? ? ?
- Sáng qua, vào giờ Dần, sứ giả Vũ Tán Đường vừa rời Thăng long thì Thiên cảm Chí bảo hoàng đế băng hà.
Thủ Huy giật bắn người lên :
- Ái chà !
Thủ Huy cảm thấy đau nhói trong tim. Vua Anh Tông tuy hiếu sắc, ù lỳ, không có chủ trương gì, nhưng giữa ngài với Thủ Huy lại rất hợp với nhau. Từ hồi Thủ Huy rời Thiên Trường về Thăng long lĩnh chức Thiện nhân, rồi dẹp triều đình gà mái gáy, được phong hầu...Cuối cùng lên tới cực cao là Phụ quốc Thái úy. Lúc nào nhà vua cũng dùng lời lẽ ôn tồn đối với Thủ Huy. Ngài lại hay ban thưởng cho công. Có thể nói, ngài thương yêu Thủ Huy như con đẻ. Cho nên giữa bố vợ, chàng rể, có mối thâm tình nồng nàn. Nay nghe tin nhà vua băng hà, Thủ Huy cảm thấy thương tiếc vô vàn.
Thủ Lý vẫn tiếp tục :
- Bọn Thái sư Tô Hiến Thành, Thái phó Lý Ngô Lý Tín, Thái bảo Phí Công Tín, Thái tử Thái phó Lý Kính Tu, Tể tướng Đỗ An Di đã tôn thằng bé con, mới có 26 tháng là Long Trát lên làm vua.
- Thực vậy sao ?
Phùng Tá Chu gật đầu :
- Thực chứ giả sao được. Sau khi tôn thằng nhỏ Long Trát lên ngôi vua. Chúng đặt cho thằng nhỏ cái tên là Trinh phù hoàng đế. Chúng nhân danh thằng oắt con đặt miếu hiệu cho nhà vua là Anh tông với một tràng tôn hiệu, ca tụng đức của ngài khi còn tại thế. Những từ đó, nếu ngài là người liêm sỉ, thì dù có nằm trong tử quan, cũng phải xấu hổ, ngồi bật dậy mà chửi : Tiên nhân cha bọn nịnh hót, bay đặt tôn hiệu như vậy có khác gì chửi ta không ?
Nghe lời nói ngỗ nghịch, phạm thượng của Tá Chu, Thủ Huy không bằng lòng. Dù vậy công cũng hỏi :
- Tôn hiệu của phụ hoàng là gì ?
- Anh hãy nghe cho rõ nhé : Thể thiên, Thuận đạo, Duệ văn, Thần võ, Thuần nhân, Hiển nghĩa, Huy mưu, Thánh trí, Ngự dân, Dục vật, Quần linh, Phi ứng, Đại minh, Chí hiếu hoàng đế.
Mọi người cười rộ lên.
Tá Chu tiếp :
- Chúng còn nịnh hót con đàn bà dâm loạn Đỗ Thụy Châu, làm chế, ra cái điều là thằng nhỏ làm, rồi tôn con mụ này lên làm Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu. Chúng cũng tôn hoàng hậu lên làm Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu. Bọn chúng lại tôn hiệu cho thằng nhỏ một tràng dài , với những đức tính, mà chưa từng hoàng đế nào có như sau :

Ứng càn, Ngự cực, Hoành văn, Hiến vũ, Linh thụy, Chiếu phù, Chương đạo, Chí nhân, Ái dân, Lý vật, Duệ mưu, Thần chí , Hóa cảm, Chính thần, Phu huệ, Thị từ, Tuy du, Kiến mỹ, Công toàn, Nghiệp thịnh, Long hiện, Thần cư, Thanh minh, Quang hiến hoàng đế Ể.
Ghi chú của thuật giả.
Long Trát lên làm vua, lấy hiệu là Trinh Phù vào lúc mới có 26 tháng, khi băng hà được tôn miếu hiệu là Cao tông. Long Trát lên ngôi, mà cạnh không có một thân vương nào phò tá. Trong cung thì bà mẹ Đỗ Thụy Châu chỉ biết dâm dật, rồi chết non, 37 tuổi. Triều đình thì bị tình nhân của mẹ là Mạc Hiển Tích, bị cậu là Đỗ An Di chuyên quyền. Nhà vua lớn lên hoang chơi vô độ, khiến cho Đại Việt trải qua một thời kỳ cực kỳ rối loạn. Sự nghiệp vĩ đại kiến tạo Đại Việt thành một nước có kỷ cương, có văn hiến, có nền pháp trị vững chắc của vua Thái tổ, Thái tông. Huân nghiệp đánh Tống, bình Chiêm của vua Thánh tông, Nhân tông bị ông vua vô giáo dục này phá nát. Đến đây có thể coi như triều đại Tiêu sơn chấm dứt.
Thủ Huy than :
- Trời ơi ! Thực là bọn chồn cáo làm trò hề.
Thấy Thủ Huy ngớ người ra, Tá Chu vỗ vai :
- Cái việc này anh Thủ Lý với bọn em đã đoán ra ngay hôm hội trên thuyền rồi. Còn anh, thì anh như người mê cuộc cờ. Anh cóc biết gì cả.
Thủ Huy công nhận lời Tá Chu đúng. Giá như hôm đó Long Xưởng để cho Thủ Lý, Tá Chu, Trung Từ giết Vương Cương Trung với bọn Vân Đài, Công Chúa, Mao Nữ thì đã không có vụ chính biến, và dĩ nhiên không có cái việc tôn thằng nhỏ Long Trát lên làm vua.
Tá Chu tiếp :
- Rồi mấy lão đại thần già còn làm trò khỉ bằng cách cho lão Tô Hiến Thành bồng thằng nhỏ trong lòng mà ban chỉ ; ra cái điều chỉ này do vua, chứ không do lão. Thực là giống như mấy mụ lên đồng. Khốn thay, hiện thằng nhỏ đi tướt nặng. Cứ hơn khắc lại...bẹt...bẹt... ra tã, rồi khóc om sòm.
Mọi người không nín được, cùng bật cười, trong khi Thủ Huy nhăn nhó khổ sở :
- Bọn này đáng chết thực.
- Chưa hết đâu.
Tá Chu xua tay : Thằng nhỏ đi tướt mặc thằng nhỏ đi tướt. Cái lão Tô vẫn làm chiếu, rồi nói rằng do thằng nhỏ, để phong Đỗ An Di làm Thái sư đồng bình chương sự (Thái sư, kiêm đồng thủ tướng). Còn tự phong mình làm Thái úy phụ chính, bình chương quân quốc trọng sự (Tư lệnh quân đội, kiêm thủ tướng). Lại phong cho bố ghẻ thằng nhỏ là Mạc Hiển Tích làm tổng trấn Thăng long, tổng lĩnh thị vệ, cấm quân. Thế là triều đại Tiêu sơn thành triều đại...cầu tiêu. Khi ban chiếu, chúng cũng thì thụp lạy tạ đàng hoàng lắm. Lạy tạ cái cầu tiêu !
Hồi niên thiếu, ba anh em Thủ Lý, ba anh em Trung Từ, với Phùng Tá Chu sống chung với nhau trong trang Thiên trường, do ông nội là Trần Tự Kinh dạy dỗ. Suốt ngày họ không luyện võ, học văn, thì lại nô đùa với nhau. Cách nói năng của họ theo lối dân gian, hồn nhiên đã quen. Từ khi Thủ Huy theo Long Xưởng về Thăng long, làm quan, rồi làm phò mã. Công nói năng cẩn trọng theo lối cung đình đã thành nếp. Trong khi đó ngày đêm đám Thủ Lý vẫn sống lẫn với nông dân, suốt này đùa vui, bộc trực, riết rồi trong ngôn từ giữa Thủ Huy với những người bạn thời thơ ấu không còn giống nhau nữa. Họ có một khoảng cách xa. Bây giờ trong lúc tinh thần trấn động, căng thẳng, nghe Tá Chu nói lời trái tai, Thủ Huy bực mình :
- Cái chú này chỉ nói tục ! Triều đại mà chú ví với cầu tiêu, nghe nó có vẻ khinh bạc quá. Chú nên nhớ, chú có cái hàm phó đại đô đốc của triều đình, mà chú lại có lời thô lỗ như vậy sao ?
- Phó đại đô đốc ? Đó chẳng qua là hư vị. Em có mang y phục đô đốc bao giờ đâu ? Có lĩnh một hột gạo, một đồng tiền nào của triều Lý đâu ?
Thủ Huy nhăn mặt :
- Dù sao Long Trát cũng là giọt máu của phụ hoàng, là một hoàng tử.
Tá Chu càng trêu già :
- Hoàng tử đã bằng Phật Thích ca Mâu ni chưa ? Có thể so sánh với Khổng tử không ? Ông Thích, ông Khổng, hồi còn bé cũng đi tướt như thường, đâu phải mình thằng bé con Long Trát.
Thủ Huy hừ một tiếng, công im lặng.
Tá Chu bẹo tai Thủ Huy :
- Cái anh này đang lên đồng chắc ? Thánh nào nhập vào anh đây ? Cô Bơ Hoàng Thiều Hoa ? Cô Sáu Đào Phương Dung ? Thánh mẫu thượng ngàn Hồ Đề ? Em hỏi anh nhé.
- Chú cứ hỏi.
- Khi vua Khâm tông bị bắt đem về Kim, có phải con ông ta là thái tử Kinh cải thành họ Mạc không ?
- Ừ thì phải.
- Cái gã Mạc Hiển Tích có phải là con của thái tử Kinh không ? Tên Vương Cương Trung ép Tuyên phi Thụy Hương dâng hiến cái lỗ chôn mả tổ họ Triệu cho gã họ Hiển Tích xài hai đêm. Sau hai đêm đó, Thụy Hương có mang sinh ra Long Trát. Đúng không ?
- Cái đó là nghi vấn. Chứ sự thực thì Long Trát giống phụ hoàng như hai giọt nước.
- Hứ ! Em thì em tin Long Trát là con tên Hiển Tích. Bây giờ Long Trát lên làm vua, thì có phải là họ Triệu của Tống cai trị Đại Việt không ? Như thế có phải họ Lý bị ném vào cầu tiêu rồi không ?
- Bậy nào !
Long Trát giống phụ hoàng như hai giọt nước, sao có thể là con của Mạc Hiển Tích ?
Tá Chu cười :
- Thôi bỏ chuyện ấy đi. Nhưng nay anh mất chức Thái úy rồi. Chỉ nội ngày nay gã Tô Hiến Thành sẽ bồng thằng nhỏ đi té re, ban chiếu chỉ gọi anh về Thăng long. Vì vậy bọn em lên đây báo cho anh biết. Bằng không anh cũng tuân chỉ té re, về thì thụp lạy thằng bé con Long Trát, thì nhục lắm.
- Anh không tin bọn Tô Hiến Thành dám làm vậy !
Phùng Tá Chu hỏi :
- Vì lý do nào mà anh bảo sự ấy không xẩy ra được ?
- Vì Long Xưởng là thái tử, thì họ phải đợi anh ấy về, rồi lên ngôi chứ ! Nước có luật, chứ đâu ai muốn làm gì thì làm. Tô chỉ có mấy người, các quan dễ gì nghe lời chúng.
- Chú nói !
Phương Lan xen vào, nàng giảng giải :
- Chính vì nước có luật, họ mới căn cứ vào luật, mà thi hành.
- Chị nói gì em không hiểu.
Phương Lan vốn rất thân với ông em chồng này. Nàng ngồi nghiêm chỉnh lại :
- Để chị nói cho chú nghe. Xưa nay phàm vua chúa ban chỉ, các quan ban lệnh, khi cùng một sự, mà có hai lệnh khác nhau, lệnh nào trên giấy trắng mực đen thì có giá trị. Còn lệnh bằng miệng thì gọi là khẩu thiệt vô bằng (lệnh bằng miệng lưỡi không thể coi như bằng chứng) vô giá trị. Có phải vậy không ?
- Đúng.
- Xin chú trả lời cho chị câu thứ nhì : Trong việc cai trị, khi có nhiều luật cùng nói một vấn đề, thì luật nào ban sau cùng được coi là có giá trị. Có phải vậy không ?
- Đúng.
- Thế thì các đại thần Tô Hiến Thành, Đỗ An Di đã thi hành đúng luật lệ. Họ không có tội gì. Trăm quan đều theo họ, thì là điều bình thường.
- Nghĩa là ?
- Năm ngoái, niên hiệu Thiên cảm Chí bảo nguyên niên, ngày Canh Dần, tháng 9, nhà vua ban chỉ kể tội Long Xưởng, truất phế khỏi ngôi Đông cung, giải tán Đông cung triều. Bốn ngày sau, ngày Giáp Ngọ, lại ban chỉ phong Long Trát làm thái tử, giáng Long Xưởng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Trong chỉ này còn định Tô Hiến Thành phụ chính, Lý Kính Tu làm Thái phó. Có đúng không ?
Thủ Huy hừ một tiếng :
- Chỉ đó do Vương Cương Trung uy hiếp phụ hoàng, nên người phải ký, chứ đâu phải long ý ? Sau khi dẹp bọn Vương Cương Trung, Linh Chiếu thái hậu hỏi về vụ này, thì kim khẩu phụ hoàng đã tuyên rằng, anh Long Xưởng vẫn là thái tử, Đông cung triều vẫn còn nguyên. Từ hồi ấy đến giờ, Đông cung triều vẫn hoạt động đều đặn mà !
Thủ Lý cất tiếng lạnh như băng :
- Thế sau đó nhà vua có ban chỉ hủy bỏ hai đạo chỉ truất Long Xưởng, lập Long Trát không ?
Thủ Huy tỉnh ngộ, mặt công tái đi :
- Thôi rồi ! Phụ hoàng tuyên chỉ phục hồi Đông cung vị cho anh Long Xưởng, mà sau đó quên không ban chỉ. Thành ra là khẩu thiệt vô bằng. Hỏng rồi.
- Cái khúc mắc là chỗ đó.
Thủ Lý giảng giải : Lẽ ra, sau ngày hôm đó, gã Đỗ An Di là Tể tướng, thì gã phải làm chỉ, đệ lên cho nhà vua ký. Nhưng gã lờ đi. Rõ ràng gã phục sẵn một âm mưu, đến nay mới thi hành.
Phương Lan thuật :
- Sáng qua, khi nhà vua băng, cạnh long sàng chỉ có hoàng hậu, Thục phi Đỗ Thụy Châu, Thái sư Tô Hiến Thành. Hoàng hậu tuyên chỉ đóng các cửa thành lại, chờ thái tử Long Xưởng về lên ngôi. Nhưng Thái sư Tô Hiến Thành mở cửa cho các đại thần vào, mang hai chỉ dụ kia ra đọc lên, rồi nói rằng : Hoàng tử Long Xưởng bị giáng xuống làm Bảo Quốc vương, hoàng tử Long Trát được phong làm thái tử. Sự đã trên một năm rồi. Vậy bây giờ nước một ngày không thể không vua. Xin tôn thái tử Long Trát lên ngôi để an thiên hạ. Hoàng hậu phản đối. Nhưng Tô Hiến Thành, Đỗ An Di lập tức hỏi ý kiến các đại thần. Hầu hết các quan đều không đồng ý với Tô Hiến Thành, Đỗ An Di. Nhưng trước hai đạo chỉ dụ kia, thì không ai cãi được. Trong khi đó, bên ngoài, Mạc Hiển Tích dàn thị vệ, cấm quân ra như đe dọa. Các quan đành ký vào tờ biểu tôn Long Trát lên kế vị Anh tông.
Thủ Huy chết điếng trong lòng. Công hỏi Thủ Lý :
- Anh nghĩ em phải làm gì ?
Đạo đức, khí phách, nhân từ thì Thủ Lý nức danh từ nhỏ. Còn mưu trí, thì chàng thua vợ xa. Chàng đưa mắt nhìn vợ như hỏi ý kiến.
Phương Lan thở dài :
- Chị chọn cho chú ba con đường đi. Chú lựa lấy một.
- ? ? ?
- Khi Long Xưởng, Đoan Nghi, cùng chư vương về Thăng long, thì vua mới đã lập, sự đã rồi. Các quan đã được bổ nhiệm chức vụ mới, lại được thăng trật, thăng ngạch thì họ có bổn phận phải trung thành với thằng bé con. Chị độ chừng bọn Đỗ An Di sẽ đóng cổng thành không cho Long Xưởng vào. Hoặc Long Xưởng có được vào cũng không làm gì hơn là cúi lạy thằng bé con kia, rồi thui thủi rời Đông cung làm anh nhà giầu mà thôi. Còn chú, con đường thứ nhất chú có thể đi là chuẩn bị chờ Tô Hiến Thành mượn danh thằng nhỏ, triệu chú về bàn giao, sau đó chú dẫn Đoan Nghi về Thiên trường, cùng anh em vui với cỏ cây, thú biết bao ?
- Như vậy thì em là một phò mã có tội với các tiên đế, không xứng đáng làm chồng Đoan Nghi. Sau này lịch sử kết tội em là tên hèn.
- Được ! Chú coi vậy mà được.
Phương Lan tiếp : Con đường thứ nhì , thì người xưa đã nói : Khi nhà có sự mới biết con hiếu. Xã tắc nguy nan mới biết tôi trung. Phàm nam nhi đại trượng phu, ai cũng muốn làm anh hùng, danh ghi thanh sử. Nhưng không phải ai cũng có dịp làm anh hùng. Bây giờ, chú có dịp làm anh hùng đây. Chú truyền một hịch đi khắp các trấn, các phủ, rồi đem quân về Thăng long, phế thằng bé con kia xuống, lập Long Xưởng lên làm vua. Bọn quan lại nào chống đối thì đem ra chặt đầu hết. Nghìn năm sau lịch sử còn ghi tên.
- Còn con đường thứ ba ?
- Con đường thứ ba là chú treo ấn, rồi cùng Đoan Nghi bỏ đi ngao du thắng cảnh, học theo cụ tổ ta xưa, làm Ưng sơn song hiệp hay học theo Minh Đạo vương làm một Côi sơn song ưng.
Thủ Huy đập tay xuống bàn :
- Em xin chọn con đường thứ nhì.
Lập tức công cầm bút viết lệnh, trao cho thư lại sao làm nhiều bản, rồi ngay chiều hôm đó cho triệu hồi các tướng về họp. Sau khi giảng giải tình hình, công ban lệnh :
- Cuộc tiến quân này khác với cuộc tiến quân dẹp bọn gian tế Tống trước đây. Cuộc tiến quân này chắc chắn phải chấp nhận một cuộc giao tranh.
Công trao binh phù cho đô đốc chỉ huy hạm đội Âu Cơ :
- Đô đốc được đặt dưới quyền Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa. Hạm đội Âu Cơ đang trấn Thăng long. Đô đốc cho hạm đội cho dàn các chiến thuyền dọc sông Hồng, phong tỏa tất cả các sông, các hồ quanh Thăng long, không cho bất cứ thuyền bè nào đi lại. Đem các thuyền lớn chờ ở bến Bắc ngạn để chở quân qua sông. Viên đô đốc đứng dậy lên đường ngay.

- Hiện hiệu binh Phù Đổng đang cùng hiệu Ngự long, Quảng thánh, Quảng vũ thao luyện tại rừng tre. Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa, nhanh :Dng đem hiệu binh Phù Đổng về Thăng long, đánh chiếm các cửa thành, các cung điện, bao vây Hoàng thành. Đợi khi ba hiệu binh Ngư long, Quảng thánh, Quảng vũ qua sông, thì bao vây, khống chế tất cả dinh thự các quan lại. Đợi ta về sẽ chiếm Hoàng thành.
Tăng Khoa hỏi :
- Nếu thị vệ, cấm quân chống lại thì sao ?
- Tuyên đọc lệnh của ta cho họ nghe. Họ buông vũ khí thì thôi. Bằng không thì giết hết.
Thủ Huy dẫn các tướng lên ngựa hướng Thăng long khẩn cấp.
Thủ Lý nói với em.
- Anh lên đây vì chú, chứ anh không muốn về Thăng long nhìn cái bọn quan liêu ngu dốt, hèn hạ của triều đình. Anh lại không muốn nhìn cái gã Long Xưởng kia nữa.
Thấy nét mặt Thủ Huy dường như không bằng lòng vì mình cương quyết với Long Xưởng, Thủ Lý nhấn mạnh :
- Tuy em ban lệnh đem quân về, nhưng anh biết rút cuộc lại đầu voi đuôi chuột như vụ Vương Cương Trung, Thụy Hương gây loạn. Giá như hôm ấy, khi chú xua quân đánh vào Hoàng thành, chú mật lệnh cho đội võ sĩ Long biên, Côi sơn giết sạch bọn nịnh thần ăn hại, bọn Tống, bọn cung nga dơ bẩn, thì mọi chuyện đã êm thắm. Bây giờ trước mặt anh thì chú hăm hở, nhưng liệu chú có dám nhân lúc hỗn quân, hỗn quan, ra lệnh cho võ sĩ tru diệt hết bọn nịnh quan ăn hại không ?
- Nhất định em sẽ thẳng tay !
- Giả như, bấy giờ giữa lúc võ sĩ đang ra tay, Long Xưởng ra lệnh cho chú phải ngừng lại, rồi lui quân, thì chú tính sao ?
Thủ Huy ngây người ra suy nghĩ :
- Em đành phải nghe lệnh. Vì cái việc em ra làm quan, hoàn toàn vì nghĩa huynh Long Xưởng. Ngoài tình huynh đệ, còn tình anh vợ em rể, tình nghĩa chúa tôi. Em không thể trái lệnh anh ấy.
Thủ Lý nắm lấy tay em, mắt đỏ lên vì thương hại :
- Mưu sự tại em ! Thành sự tại Long Xưởng ngu ít hay ngu nhiều. Tiếc thay cho em đã làm cái việc của con dã tràng xây cát biển Đông ! Thôi, gia đình chờ em ở Thiên trường để cùng vui thú cỏ nội, hoa đồng.
Vương Thúy Thúy nói với Tô Phương Lan :
- Phu nhân, nô tỳ đã nguyện theo hầu phò mã cả đời. Bây giờ nô tỳ xin bái biệt phu nhân, để theo phò mã.
- Tỷ tỷ cứ theo lễ nghi mà làm.
Khi lên ngựa rời bản doanh Bắc biên, Phương Lan còn dặn Thủ Huy :
- Chú hãy bảo trọng lấy thân.
Thông thường thì thân binh lo áo quần, ăn uống cho Thủ Huy. Bây giờ, Thúy Thúy dành làm hết. Thúy Thúy mặc võ phục, lưng đeo bảo kiếm đi sát sau lưng Thủ Huy. Nhìn khuôn mặt thanh tú, mái tóc mây chảy dài xuống hai vai của Thúy Thúy, Thủ Huy sợ hãi, vội quay mặt nhìn đi chỗ khác.
Trên đường đi, Thủ Huy nhận được tin do Tăng Khoa gửi về liên tiếp :
Chim ưng của thái tử Long Xưởng báo : Khi thái tử cùng tam vương Kiến Ninh, Kiến An Kiến Tĩnh, công chúa Đoan Nghi về tới Thăng long, thì các cửa thành đóng kín. Cấm quân nói rằng họ tuân lệnh của quan tổng lĩnh Mạc Hiển Tích không cho ai vào. Long Xưởng bảo chúng gọi Hiển Tích ra, thì không thấy Hiển Tích mà chỉ thấy Tể tướng Đỗ An Di. Di hành lễ rồi báo cho Long Xưởng biết hoàng thượng băng hà vào giờ Dần. Ngay lập tức, triều thần chiếu chỉ dụ của hoàng thượng tôn thái tử Long Trát lên làm vua. Mọi sự đã an định. Vậy nếu Long Xưởng cùng các vương muốn vào thành chịu tang, cùng bái kiến Trinh phù hoàng đế, thì phải để tất cả tùy tùng ở lại. Long Xưởng chưa kịp trả lời thì An Di đã xuống khỏi địch lâu. Tuy nhiên chưa bắt liên lạc trực tiếp với Long Xưởng.
Mấy giờ sau lại có tin :
Hiệu Phù Đổng đã sang sông. Hạm đội Âu Cơ phong tỏa khắp các sông hồ quanh Thăng long. Đã bắt được liên lạc với thái tử Long Xưởng. Long Xưởng ban chỉ chờ ba hiệu Thiên tử binh qua sông, sẽ đánh vào trong thành.
Thủ Huy càng thúc mọi người đi thực gấp. Khi đến Kinh Bắc thì nghỉ lại qua đêm. Thúy Thúy mắc võng, mắc màn cho Thủ Huy nằm. Còn nàng, thì nàng cũng mắc võng ngay cạnh Thủ Huy. Thủ Huy leo lên võng, thì Thúy Thúy nói :
- Chủ nhân ! Chủ nhân suy nghĩ nhiều quá e mệt tâm thần. Để tiểu tỳ tẩm quất cho chủ nhân.
Thủ Huy chưa kịp từ chối, thì Thúy Thúy đã dùng hai tay nhẹ nhàng chà sát trên trán, thái dương, cằm, rồi cổ cho công. Công điếng người đi, nằm như khúc gỗ không dẫy được nữa. Hơi thở của nàng, vừa ấm áp, vừa thơm tho lướt trên má công.
Thúy Thúy lại chuyển tay xuống nắn hai bắp tay, rồi chà vào hai bên sườn. Thủ Huy định lên tiếng năn nỉ : Thôi ! Thôi ! Tôi chịu hết nổi rồi. Nhưng công mở miệng ra không được.
Thúy Thúy lại chà xuống bụng, rồi... Đến đây thì Thủ Huy gần như mê man. Thúy Thúy ngừng tay, nàng gục đầu vào ngực Thủ Huy. Thủ Huy rùng mình, khẽ nâng đầu nàng dậy :
- Thúy Thúy ! Nàng là tiên nữ ! Còn tôi...
Giọng Thúy Thúy nhẹ như tơ. Nàng nói như gió thoảng :
- Chủ nhân ! Tiểu tỳ đã nguyện hầu hạ chủ nhân cả đời ! Lúc nào tiểu tỳ cũng sẵn sàng dâng hiến cho chủ nhân.
Ghi chú của thuật giả.
Thuật đến đây, tôi xin ngừng lại, vì không biết những gì sẽ xẩy ra giữa anh hùng Trần Thủ Huy và giai nhân Vương Thúy Thúy. Tôi đã tra trong chính sử, huyền sử Tống Việt ; kể cả bia đá, gia phả cũng không thấy chép rằng sau đó Thủ Huy sẽ tỉnh táo, giữ tấm lòng chung thủy với Đoan Nghi, hay tiếp nhận tất cả những gì Thúy Thúy dâng hiến ? Độc giả Anh hùng Đông a vốn thông minh, xin đoán dùm.
Sáng hôm sau, giờ Dần, Thủ Huy thức giấc thì nhận được chỉ dụ của Long Xưởng :
Khi ta về Thăng long thì chỉ đem có vài tùy tùng theo. Sợ bọn Đỗ An Di tập kích, ta phải nhờ bà Như Yên đem đội thị vệ Đông cung theo hộ vệ. Vậy đệ phải cho hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn phi ngựa về bảo vệ Đông cung. Ta chờ nhị đệ, rồi đánh vào Thăng long giết hết bọn nghịch thần, tặc tử, bọn mãi quốc Ể.
Giờ Thìn, Thủ Huy về tới Bắc ngạn, thủy quân đưa công cùng bộ tham mưu qua sông. Đò vừa cập bến, thì gặp Long Xưởng, cùng chư vương, văn võ bách quan từ các trấn, phủ, huyện về chịu tang bị ùn lại, không được vào thành. Thủ Huy tạm đóng tổng hành doanh ở ngoài thành, rồi thỉnh Long Xưởng, cùng các quan vào nghỉ.
Thủ Huy mời chư vương, Đoan Nghi, Tăng Khoa họp riêng. Công trình bầy tất cả những tin tức do Thủ Liễu thu thập được, cùng những uẩn khúc về việc Long Xưởng bị truất, lập Long Trát, mà hai chỉ dụ cho đến nay cũng vẫn còn giá trị. Nghe Thủ Huy nói, Long Xưởng than :
- Sau khi diệt bọn gian tế Tống, an định được Thăng long, ta quên khuấy đi mất cái chuyện xin phụ hoàng ban chỉ phục hồi ngôi vị cho ta, lại cũng không xin chỉ phong tước cho Long Trát. Bây giờ các em nghĩ sao ?
Kiến Ninh vương đề nghị :
- Bọn Đỗ An Di tưởng rằng đặt thằng nhỏ lên làm vua, là cố tình tạo thành sự đã rồi. Em nghĩ anh nên lên ngôi cho chính vị, ban hịch đi khắp nước, cử sứ giả vào bắt bọn Đỗ An Di đầu hàng, bằng không chúng ta đánh thành, rồi làm cỏ bọn chúng.
- Thưa vương gia làm như vậy không đúng lễ.
Vũ Tán Đường giảng giải : Từ xưa đến giờ, khi hoàng đế băng hà thì bao giờ tự quân cũng phải lên ngôi trước tử cung. Vả lại bọn Vương Cương Trung, Thụy Hương ép hoàng thượng ban chiếu, dùng những lời lẽ hạ nhục thái tử quá đáng. Mà chiếu ấy gửi khắp các trấn, các phủ, huyện. Từ ngày đó đến giờ, dư đảng bọn Tống, bọn chân tay của tụi hủ nho, bọn vong mạng, bọn đầu trộm đuôi cướp không ngớt nhắc lại những lời vô quân, phạm tượng đó. Trong dân gian thì thầm đã nhiều. Nếu nay thái tử lên ngôi ở ngoài thành thế này, thì bọn Tô Hiến Thành, Đỗ An Di lại có cớ để nói với mọi người.
Tăng Khoa đứng dậy cung tay :
- Khải thái tử, thần nghĩ không cần phải gửi sứ. Thị vệ, cấm quân quá ít không đủ giữ Thăng long. Vậy Thái úy chỉ cần truyền một lệnh rằng người bảo giá thái tử cùng chư vương, đại thần về chịu tang. Cấm quân, thị vệ phải mở cổng thành. Bằng không thì cho đánh thành. Thần nghĩ, năm trước thị vệ, cấm quân đã theo thái tử đánh hiệu binh Sơn Nam. Họ thấy bọn này chống lại thái tử, rồi bị bọn Tống giết, bị xử tội sau biến cố. Nay vô tình họ bị đẩy vào cái thế đó, họ đã lo sợ lắm rồi. Họ chỉ chờ dịp là buông vũ khí. Cái bọn An Di, Hiến Thành gan có bằng trời cũng không dám chống lại ta. Vả thị vệ, cấm quân đều do Thái úy với thần huấn luyện. Họ biết tính cương quyết của Thái úy, nên không ai đủ can đảm cầm vũ khí chống lệnh Thái úy mà mang họa.
Long Xưởng hài lòng nói với Đoan Nghi :
- Lời nghị của Tăng đệ thực đúng luật pháp. Ở đây em là người cử bút thành văn, vậy em hãy soạn một lệnh gửi cho chư quân tướng, mà không nhắc gì tới bọn Tô, Đỗ cả.
Công chúa Đoan Nghi cầm bút viết :
Kiểm hiệu Thái sư, Thượng trụ quốc, Khai phủ nghị đồng tam tư, Trung vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại Đô đốc, Kiến Ninh vương.
Dao thụ Thái bảo, quản Khu mật viện, Thượng thư tả bộc xạ, Phụ quốc thượng tướng quân, trấn Nam tiết độ sứ, Kiến An vương.
Đặc tiến Thiếu sư, Khu mật viện sứ, Thượng thư tả thừa, Thượng thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng quân, tổng lĩnh Thiên tử binh Kiến Tĩnh vương.
Hiếu khang, Thạc hòa, Ôn huệ, Nhu mẫn, Anh văn, Đoan Nghi công chúa, tổng lĩnh nữ binh.
Phò mã Phụ quốc Thái úy, Tả kim ngô đại tướng quân, Thượng trụ quốc, Càn nguyên điện đại học sĩ, Côi sơn quốc công.
Lệnh cho các tướng sĩ cùng thị vệ, cấm quân trong thành Thăng long :
Được hung tin hoàng thượng băng hà. Thái tử cùng chư vương Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh, công chúa Đoan Nghi, phò mã Thái úy cùng các quan văn võ tại các trấn, phủ huyện về chịu tang. Mà các người lại đóng cửa thành là ý gì ? Vì vậy, chúng ta phải mang binh về bảo giá. Chúng ta hẹn cho các người đến giờ Mùi hôm nay phải mở cửa thành. Bằng không, chúng ta sẽ xua binh đánh vào, thì bản thân các người bị giết đã đành, mà gia đình cũng bị phanh thây.
Niên hiệu Thiên cảm Chí bảo, tháng bẩy, ngày vọng Ể
Long Xưởng đọc xong khen ngợi :
- Hay, lệnh này coi như không biết gì tới cái vụ Long Trát đã lên ngôi, không kể tội bọn Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, để mở cho chúng một con đường. Lại giải thích rõ về vụ mang quân về. Bọn phản thần không còn gì để có thể bắt quân đóng cổng thành.
Thủ Huy sai quân mang thư đi.
Tăng Khoa ra lệnh cho tướng sĩ :
- Hiệu Quảng thánh, Quảng vũ chia ra bao vây các cửa thành. Hiệu Phù Đổng, Ngự long cũng chia ra chờ đợi ở các cửa. Đến giờ Mùi, nếu cửa thành mở, thì nhất loạt tiến vào, nhanh :Dng chiếm đóng tất cả các phủ, dinh, kể cả Phủ thừa Thọ xương. Còn Hoàng thành thì chỉ bao vây thôi. Nhược bằng sang giờ Mùi, mà cửa thành không mở, thì đồng loạt tấn công. Cần đánh chớp nhoáng. Khi lọt vào thành thì cho mở cửa. Rồi hiệu Ngự long, Phù Đổng tiến vào thi hành như trên.
Long Xưởng thấy vợ chồng Đào Duy cũng có mặt, thì cảm động :
- Đào đại phu ! Đào phu nhân ! Từ ngày gặp gỡ nhau trên bến Bắc ngạn đến giờ, nhị vị đã cùng Xưởng này chịu không biết bao nhiêu cay đắng, thăng trầm. Nhị vị lại là sư phụ khai tâm về võ cho Xưởng. Thế mà bây giờ người vẫn giữ một chức vụ khiêm tốn là Đại phu nhạc quan. Phu nhân vẫn chỉ là chức quản lý Đông cung. Hôm nay, Xưởng lên ngôi vua, sẽ phong cho phu nhân tước công chúa, quản lĩnh cung nga. Còn Đào đại phu phải được phong hầu, thăng lên Thị lang bộ Lễ.
Hai người nói lời cảm tạ.
Vương nói với các em :
- Chúng ta chia nhau ra, mỗi người tiến vào một cửa. Kiến Ninh vương tiến vào cửa Tường phù. Kiến An vương tiến vào cửa Diệu đức. Kiến Tĩnh vương tiến vào cửa Đại hưng. Còn cửa Quảng phúc thì ta với Thủ Huy, Đoan Nghi tiến vào. Nhớ , dù phải công thành, hay không, cũng cần dàn nghi trượng sẵn, khi vào thành giữ cho uy nghi. Ta không có thị vệ hộ tống, tạm dùng đội thị vệ Đông cung của Đào phu nhân vậy.
Chư tướng đứng dậy, rời hành doanh, đi điều quân.
Kiến Ninh vương bàn với Long Xưởng :
- Từ hơn mười năm nay, bọn lão thần lười biếng, nếu không chống lại chúng ta, thì cũng ù lỳ. Chúng biết ta cầm binh quyền, tương lai anh cả lên ngôi, mà chúng dám chống lại. Tại sao ? Vì chúng hiểu rằng phụ hoàng không có chủ trương gì, chúng có thể dựa vào người mà khuynh đảo Xã tắc. Hồi ấy, bọn gian tế Tống gây ra việc biến loạn, em đề nghị trong lúc hỗn quân, hỗn quan, ta giết sạch bọn chúng đi, để triều đình không có nạn chia hai, chia ba. Anh cả cho rằng sau vụ ấy, thì chúng sẽ kinh hồn động phách mà quay đầu lại. Nếu ta tha cho chúng, chúng sẽ cảm phục, mà giúp ta. Như vậy ta tránh được sự phân hóa nhân tâm. Đại ca thấy không ? Chúng thoát được lần đó, bây giờ chúng gây ra vụ tầy trời này. Hôm nay, khi quân tràn vào, ta sai võ sĩ Côi sơn, Long biên giết sạch bọn chúng. Như vậy, từ nay không còn bọn hai lòng nữa.

Long Xưởng nghĩ thầm : Lên ngôi vua, ta không sợ bọn chúng, ngược lại cần bọn chúng. Trong khi đó ta không cần bọn bay, mà phải đề phong bọn bay. Tuy vậy vương giả bộ thở dài :
- Nếu em ở vào hoàn cảnh của anh, thì em mới hiểu được cho anh. Em nên biết, bọn đại thần theo Tô, Đỗ, chỉ vì hai di chiếu của phụ hoàng. Hơn nữa chúng là cố mệnh đại thần của phụ hoàng. Anh là tự quân, mà lại giết cố mệnh đại thần, chỉ vì họ thi hành di chiếu của tiên đế, thì sau này ai sẽ tuân chỉ của anh ?
Kiến Ninh vương đành lắc đầu chịu thua. Chờ lúc Long Xưởng đang luận bàn với chư đại thần ở các trấn, vương gọi Thủ Huy ra ngoài nói nhỏ :
- Nhị ca ! Cạnh nhị ca có đoàn võ sĩ Long biên, Côi sơn. Xin nhị ca ra mật lệnh cho chúng, khi ta đánh vào thành, lợi dụng lúc hỗn chiến, giết sạch bọn nịnh quan phản phúc, để trừ hậu hoạn. Nhị ca nghĩ sao ?
- Gần đây, đại ca không còn suy nghĩ, hành xử như chúng ta nữa. Những lời đề nghị của chúng ta, đại ca không còn coi trọng. Bây giờ đại ca đã không chịu cho chúng ta giết bọn ăn hại, mà chúng ta ra lệnh giết, thì sau này tình anh em sẽ sứt mẻ. Đệ chịu, không thể nghe lời huynh được.
- Hay thế này ! Nhị ca có thể nhờ anh Thủ Lý, Trung Từ, Tá Chu đem theo một ít cao t
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #28  
Old 06-19-2004, 04:25 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C24:KHI VUI MUỐN KHÓC, BUỒN TÊNH LẠI CƯỜI.

Anh Hào hỏi Thái hậu :
- Có giết chúng không ?
Thái hậu đang để hết tinh thần nhìn cuộc đấu giữa Tá Chu với Vương Nhất. Bà đâu có nghe thấy Anh Hào nói gì ? Giữa lúc Anh Hào thỉnh mệnh bà thì Tá Chu đang đánh một chiêu xuống :Dnh đầu Vương Nhất, bà mong cho chưởng đó Tá Chu giết chết đối thủ. Bị kích động bà hô :
- Giết !
Anh Hào, cùng Cảm Linh, Cảm Chi tưởng Thái hậu ban chỉ xử tử ba vương. Cả ba người đồng xuống tay. Ba vương Kiến Ninh, Kiến An Kiến Tĩnh bị chặt làm hai khúc.
Bọn võ sĩ Long biên trước đây từng là thủ hạ của Kiến An vương. Vương đối xử với họ bằng tất cả tình anh em ruột thịt. Bây giờ thấy vương chết thảm, họ cùng thét lên rồi buông tên : Anh Hào, Tô lịch nhị tiên bị tên ghim vào người như con nhím. Cả ba cùng ngã vật xuống. Đám võ sĩ như người hóa khùng, họ băm ba người ra như băm chả.
Long Xưởng vừa mừng, vừa sợ, vương quát lên :
- Ngừng tay !
Thủ Huy, Đoan Nghi, Tá Chu cùng nhảy lùi lại.
Trong điện Càn nguyên, xác chết, máu óc bầy nhầy khắp nơi.
Người bịt mặt chỉ vào mặt Cảm Thánh thái hậu, với bọn Mao Khiêm cất tiếng nói :
- Chúng ta là võ lâm dân dã Đại Việt. Chúng ta không can thiệp vào việc triều đình. Than ôi ! Từ khi vua Thái tổ lập nền chính thống đến giờ, triều đại Tiêu sơn được sĩ dân tuân phục, vì đem đức từ bi, hỷ xả của đức Thế tôn cai trị thiên ha, triều đình luôn làm gương về đạo đức cho trăm họ quy phục. Nhưng nay thì không thế nữa, trăm họ đều chán nản. Chúng nhân than : Họ Lý làm vua, hay họ khác làm vua cũng thế thôi. Này nhé, trên cao nhất thì Thái hậu chửa hoang, Hoàng đế có em cùng mẹ khác cha. Ôi còn gì dơ bẩn hơn nữa không ? Bây giờ, bà ra lệnh cho chú giết cháu, cốt nhục tương tàn. Đạo lý tộc Việt suy đồi ! Chúng ta không cần biết tới triều đình ! Chúng ta phải thế thiên hành đạo.
Oạng chỉ vào Vương Nhất, Cao Nhị :
- Hai tên hại nước kia. Đối với bọn mi, ta chỉ đánh ba chiêu. Nếu sau ba chiêu mà bọn mi còn sống thì ta sẽ đưa bọn mi rời khỏi đây.
Nói dứt, ông phát chiêu tấn công Vương Nhất, Cao Nhị. Chưởng phong cực kỳ hùng hậu mà trọn đời Long Xưởng chưa từng thấy. Trong chưởng cương, nhu hòa hợp, sát thủ cực kỳ ác liệt. Chưởng này mạnh hơn chưởng của Vương Cương Trung, Minh Đạo đại vương nhiều. Vương, Cao kinh hãi, cùng xuất chiêu đỡ. Bùng, bùng ! Cả hai bật tung vào cột đá trong điện, người vỡ làm năm sáu mảnh, ruột gan văng khắp điện.
Người bịt mặt chỉ tay vào mặt Cảm Thánh thái hậu :
- Con mụ dâm đãng cùng cực kia ! Mi thực là một đứa ác đầy trời đất. Mi tư thông với ác nhân Đỗ Anh Vũ, giết hại không biết bao nhiêu người trong tông tộc họ Lý ! Mi hãm hại không biết bao nhiêu trung thần, chẳng qua chỉ để làm vui lòng y. Y chết, mi lại gian dâm với tên Lưu Kỳ, rồi định đem sự nghiệp của chồng, đất nước của liệt tổ Đại Việt dâng cho Tống. Bây giờ mi già rồi, mà còn dâm đãng, mi muốn ngôi vua Đại Việt sẽ truyền sang họ Triệu, để hy vọng tên Lưu Kỳ sẽ được Tống triều phong vương. Y sẽ trở lại với mi. Hôm nay ta phải giết mi.
Mao Khiêm kinh hãi. Y hú lên một tiếng dài rồi đánh liền ra hai chưởng vào bàn thờ, phẩm vật bay tứ tung khắp điện. Trong khi người người mải tránh né, thì y ôm lấy Cảm Thánh thái hậu, tung mình chạy ra phía sau điện.
Tăng Khoa đã sai quân trói bọn văn quan phản nghịch, lùa ra trước điện, rồi dọn dẹp các xác chết, lau chùi sạch điện Càn nguyên.
Long Xưởng đứng chết lặng nhìn xác ba người em, trong lòng đầy hối hận :
"Tuy là anh em cùng cha, khác mẹ, nhưng trời sinh ra tính tình ta hợp với ba em. Hơn mười năm qua, ta cùng các em ngày đêm bên nhau, mưu cầu kiến tạo Đại Việt thành một nước nước hùng mạnh. Nay đã đạt được chín phần mười, thì vì bảo vệ ngôi vua, bảo vệ tính mệnh, mà ta đẩy ba người em vào chỗ chết. Mà lại bị chính bà nội mình giết chết... Bà giết cháu chỉ vì muốn làm vừa lòng người tình nhân già Lưu Kỳ. Nhưng thực đúng ý ta".
Thủ Huy gọi Trần Tử Kim, trưởng đoàn võ sĩ Long biên, chỉ bọn văn quan phản loạn :
- Đô thống đem bọn này ra chợ Tây nhai chặt đầu, rồi bêu khắp nơi cho dân chúng xem.
Công gọi Tăng Quốc :
- Tướng quân điều động thị vệ bao vây phủ đệ tất cả bọn quan lại phản loạn, niêm phong tài sản. Bất kể già, trẻ, lớn bé, đều giam vào ngục, chờ xét xử.
Tăng Khoa gọi Như Như, rồi chỉ vào Thục phi Đỗ Thụy Châu :
- Người này can tội khi quân. Y thị không có thai, mà nói rằng có thai. Lại lấy con của Vương Thụy Hương dối rằng con mình. Chính việc đó gây ra cuộc thảm thiết này. Giam y thị với Long Trát lại. Chờ anh cả lên ngôi, rồi sẽ xử sau.
Chư quan các trấn, cùng bách quan quỳ gối hướng Long Xưởng :
- Bọn thần xin kính thỉnh Thái tử lên ngai vàng, nối ngôi Anh tông hoàng đế.
Tiếng các quan hô làm Long Xưởng giật mình trở về với thực tại. Vương vẫy tay :
- Xin mời các vị đứng dậy.
Hoàng hậu tuyên chỉ :
- Hôm nay là ngày xấu. Hãy chờ ngày mai, hoàng nhi lên ngôi cũng chưa muộn.
Tham tri chính sự Vũ Tán Đường chỉ theo hướng bọn Tô Hiến Thành, Đỗ An Di đang bị điệu ra pháp trường :
- Khải Thái tử, nội ngày mai Thái tử sẽ lên ngôi cửu ngũ. Cổ, kim, dù Hoa, dù Việt, khi tân quân lên ngôi đều có lệ ân xá cho các tội phạm. Thần xin Thái tử khoan cho chính pháp các đại thần phạm tội. Rồi sau đó, sẽ xét trường hợp từng người một.
Long Xưởng thất kinh hồn vía hỏi :
- Ta có sai xử tử ai đâu ?
Mọi người đưa mắt nhìn Thủ Huy. Long Xưởng hốt hoảng hỏi :
- Nhị đệ ! Nhị đệ đã giết hết bọn Tô Hiến Thành rồi à ? Sao nhị đệ không thỉnh mệnh ta ?
Thủ Huy lạnh lùng :
- Chính vì điện hạ khoan dung cho chúng hai lần, mà ba vương bị chết. Bây giờ không còn gì để có thể khoan dung cho chúng. Thần là tướng cầm quân dẹp loạn, thần phải tru diệt chúng.
- Không ! Ta không muốn giết chúng. Tại sao nhị đệ lại hành động vô pháp vô thiên như vậy ?
Vũ Tán Đường tâu :
- Tâu điện hạ ! Thái úy đã thi hành đúng luật. Kể từ khi Thái sư Tô Hiến Thành đem thị vệ, ngự lâm quân đóng cửa thành Thăng long, thì coi như lúc đó trong nước có loạn. Phò mã là Thái úy, cầm trọn binh quyền trong tay, thì Thái úy không cần thỉnh mệnh, mà người phải dẹp loạn. Từ khi Thái úy đem quân về Thăng long, cho đến lúc này, thanh bình vẫn chưa trở lại. Luật bản triều định rằng trong lúc dẹp loạn, tướng cầm quân được toàn quyền giết phản loạn, không phải thỉnh Thiên tử.
Long Xưởng gọi Long nhương thượng tướng quân Lưu Khánh Bình, hiện là Tổng trấn Thanh Nghệ, trao thanh kiếm lệnh cho ông :
- Lưu huynh mau lấy ngựa đuổi đuổi theo, nói với viên đô thống giám trảm rằng đây là chỉ dụ của ta : Ngưng cuộc hành hình ngay.
Lưu Khanh Bình lĩnh gươm rời điện.
- Đại ca !
Tăng Khoa nắm lấy tay Long Xưởng, hầu nói bằng giọng thiết tha : Đại ca nên nghĩ lại ! Phàm muốn thành đại sự, thì phải bỏ tiểu tiết. Cái bọn phản thần ăn hại này không thể và không nên tha thứ ! Tội chúng cao như núi, nếu tha cho chúng thì sau này sẽ nảy sinh ra nhiều bọn gian thần, tặc tử nữa. Mặt khác, bọn đệ cùng các vị trung thần là những người khuông phò đại ca bấy lâu, mà nay đại ca cũng coi như bọn phản thần, thì tất cả...tất cả sẽ cảm thấy hối tiếc...
- Ta có chủ trương của ta. Mai này ta sẽ lên ngôi Thiên tử, không ai có quyền ép ta phải thế này, thế nọ. Đệ không thể, không nên nói nhiều.
Tăng Khoa nhìn Trang Hòa, Đoan Nghi, Thủ Huy lắc đầu, rùng mình, thở dài.
Hoàng hậu nói sẽ vào tai Long Xưởng :
- Lưu tướng quân hay Thủ Huy, hay Tăng Khoa thì cũng giống nhau. Họ ghét bọn Tô, Đỗ. Mẹ sợ Lưu tướng quân sẽ tìm cách đi chậm chậm, đợi khi đám văn quan bị giết xong rồi mới tới ban lệnh.
Long Xưởng tỉnh ngộ, vương truyền chỉ cho Bùi Kinh An (bố vợ của Long Xưởng):
- Xin quốc trượng khẩn ra chợ Tây nhai cứu bọn Tô, Đỗ một phen.
Các quan đã làm xong tờ biểu tôn Long Xưởng lên làm vua, rồi cùng nhau ký vào. Đoan Nghi chuyển cho các bà phi ký, cuối cùng thỉnh Hoàng hậu thự danh.
Long Xưởng tâu với Hoàng hậu :
- Tâu mẫu hậu, thần nhi đợi các đại thần phạm tội trở về, để họ ký vào tờ biểu tôn thần nhi lên ngôi. Ngày mai thần nhi sẽ cho họ chứng kiến việc thần nhi kế tiếp ngôi trời là chính thống. Đạo lý có, chính thống có hỏi ai còn dám nảy lòng hươu dạ vượn nữa ? Vì vậy thần nhi ân xá cho họ, để họ thấy cái đức của thần nhi rộng như biển, cao như trời.
Long Xưởng quay lại, nhìn trước, nhìn sau, xem hai người bịt mặt đã giải cứu mình là ai, thì không thấy đâu nữa. Vương hỏi Đoan Nghi :
- Nghi muội có thấy cứu tinh bịt mặt đâu không ?
- Muội cũng đang định hỏi anh câu đó ?
Công chúa nói một mình :
- Coi lưng, ngực người này thì không phải là Côi sơn song ưng rồi ! Không biết ông ta là ai, mà công lực lại thâm hậu đến như vậy ?
Công chúa hỏi Kim Ngân :
- Em có biết ông là ai không ? Võ công ông dùng là võ công môn phái nào ?
- Khó quá !
Kim Ngân trả lời : Ông ta dùng võ công Tẩn viên. Oạng ta đánh những chiêu rất tầm thường, giống như người mới tập võ, đánh bừa. Nhưng nội công thì thâm hậu không biết đâu mà lường. Tiếc thay, người như thế mà ta không được làm quen.
Bùi Kinh An đã dẫn các quan phạm tội trở về phục chỉ. Tăng Khoa lệnh cho họ cùng quỳ trước tử cung vua Anh tông. Kinh An tâu :
- Khải Thái tử, thần ra tới pháp trường, thì đao thủ đã hành hình mất 18 người, gồm năm Tuyên vũ sứ, sáu thị lang, bẩy tổng thái giám. Thần tuyên chỉ của Thái tử, rồi giải giao họ về đây.
Long Xưởng đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Thủ Huy, trong lòng nghĩ thầm :
- Thế này là ta có cớ giết tên Thủ Huy, để tránh miệng thế ngoa truyền rằng ta chưa lên ngôi vua đã giết các di thần của tiên đế. Giữa tình huynh đệ với ngai vàng, ta phải chọn một. Đợi lên ngôi rồi, ta mượn cái đầu y để rửa tiếng với sĩ dân trong nước.
Đám phản quan đã bước một chân vào Quỷ môn quan, bây giờ được thoát chết, chúng mới biết sợ. Tất cả cùng quỳ gối trước tử cung Anh tông hoàng đế, đầu cúi gầm xuống. Duy Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, vẫn quật cường, cười nhạt nhìn Long Xưởng.
Biết Lý Kính Tu là nho sĩ có khí phách, Long Xưởng hỏi :
- Thái phó cho biết tôn ý.

Kính Tu nói với Long Xưởng :
- Bảo Quốc đại vương ! Bọn thần tuy trói gà không chặt, bị dọa giết, bị làm nhục, nhưng sĩ khí không mất. Bọn thần còn sống ngày nào thì nhất định thi hành di chiếu của tiên đế phò tá ấu quân ngày ấy. Ví dù vương gia giết bọn thần, thì bọn thần tự hào chết vì trung với tiên đế, chỉ tiếc cho vương gia, nghìn vạn năm sau sử xanh còn ghi là đứa gian thần tặc tử, là kẻ tham dâm, là tôi bất trung mà thôi.
Thần phi Bùi Chiêu Dương chỉ vào thi hài ba vương Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh nói với các phản thần :
- Từ việc tam vương hoăng cho đến những biến động từ khi Hoàng thượng băng hà, đều do các người mà ra. Các người có điều gì cần biện minh cho hành động của mình không ? Nếu không, thì đừng mở miệng ra bàn việc quốc gia đại sự.
Kính Tu vẫn khẳng khái chỉ vào xác lễ quan, vào xác ba đại thần bị Nùng sơn tam anh, Tô lịch nhị tiên giết:
- Mấy vị này chết vì bọn phản loạn triều đình gà mái gáy ! Ba vương hoăng do Thái hậu ban chỉ xử tử. Tất cả không liên quan gì tới việc bọn thần phò tá ấu quân cả.
Kính Tu nói mặc Kính Tu nói. Bọn phản quan bị chết hụt cùng nhau rạp người trước Long Xưởng :
- Chúng thần xin kính cẩn thỉnh Thái tử lên ngôi Cửu ngũ, kế tiếp sự nghiệp của tiên đế.
Ngự sử đại phu Trần Trung Tá vốn thông minh. Oạng biết rằng muôn ngàn lần không thể giữ ngôi vua cho Long Trát được nữa. Oạng bò như chó bò đến trước Long Xưởng quỳ gối, rập đầu binh binh rồi chỉ tay vào mặt Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu:
- Muôn tâu thánh hoàng. Trăm điều đều do ba lão già này mà ra. Từ hơn chục năm nay, ba lão kết đảng để chống lại thánh hoàng. Mục đích của chúng là muốn có một ấu quân, để chúng có thể chuyên quyền. Thần cả gan xin thánh hoàng tru di tam tộc nhà chúng.
Quan phòng thủ Hoàng thành Đàm Dĩ Mông nói với Trung Tá :
- Ngự sử đại phu nói sai rồi. Kể từ khi vua Hùng lập quốc, chưa bao giờ chúng ta lại có một minh quân, văn võ toàn tài, nhân từ, ái chúng thế này. Ta không thể tôn người là thánh hoàng được. Ta phải dâng hiệu cho người là Chí tôn, vô thượng đại thánh hoàng đế mới xứng.
Nói rồi y rập đầu bồm bộp trước Long Xưởng :
- Tâu Chí tôn vô thượng đại thánh hoàng đế, thần xin Đại thánh hoàng đế cho thần được xẻo từng miếng thịt ba tên đầu xỏ Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu rồi đem ra đồng cho quạ ăn thịt.
Thế rồi bọn Ngô Lý Tín, Phí Công Tín, Ngô Nghĩa Hòa thay nhau nói những lời tâng bốc Long Xưởng, mạ lỵ Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu. Mỗi người thêm một mỹ tự vào tôn hiệu của Long Xưởng. Cuối cùng thành :
Ứng càn, Ngự cực, Tề thiên, Vô thượng, Chí tôn, Thần văn, Thánh võ, Đại hiếu, Ái dân, Minh đức, Quảng từ, Đại thánh hoàng đế.
Từ hơn mười năm nay, Long Xưởng chỉ có những cận thần thân tín như Lưu Khánh Bình, Bùi Kinh An, Trần Thủ Huy, Tăng Khoa. Họ chưa từng đưa ra một lời tâng bốc, nịnh hót. Hơn thế nữa, họ còn phiền trách vương khi vương làm những điều xa chính đạo. Bây giờ được đám phản thần tâng bốc, vương cười tít mắt lại, cực kỳ cao hứng.
Đám phản thần thấy tôn hiệu của Long Xưởng vẫn chưa dài bằng của Long Trát, chúng định tìm những mỹ tự nữa...thì Tăng Khoa buồn nôn, hầu nạt :
- Các người là phản thần, lát nữa đây sẽ bị đem ra xẻo thịt, thế mà các người còn dẻo mồm nịnh hót ư ? Có câm miệng đi không ?
Các nịnh quan vội im bặt, ngơ ngác nhìn nhau. Long Xưởng đang cao hứng, thì bị Tăng Khoa làm mất, vương cau mặt mắng :
- Tất cả chư đại thần đây đều là quan cao cực phẩm, so với chức Vũ kị thượng tướng quân của người, thì không khác gì trái núi với hạt vừng hạt đậu. Tội trạng của họ lại chưa rõ. Người không được vô phép.
Thấy Long Xưởng mắng Tăng Khoa, một nghĩa đệ, hơn nữa tướng đang cầm quân bảo vệ ngôi vua cho mình, thì đám nịnh thần nắm ngay được yếu điểm : Người này thích được nịnh. Chúng lại xúm vào ca tụng Long Xưởng bằng những lời lẽ cực kỳ đẹp đẽ, và mắng Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu bằng những lời đê tiện nhất.
Tăng Khoa lắc đầu nói với Long Xưởng:
- Đại ca ơi ! Đại ca hãy nghĩ đến sự nghiệp của năm vị tiên đế, mà chém bọn này ngay.
Long Xưởng nghĩ thầm :
- Chống đối ta từ trước đến giờ là bọn quan văn này đây. Tuy chúng là những người chân yếu tay mềm, thích nịnh bợ, nhưng chúng là những người có tài cai trị. Bây giờ đã dẹp loạn đã xong, quốc kế đòi đất tổ không hy vọng gì thi hành. Ta...Ta đâu cần bọn Thủ Huy, Tăng Khoa ? Chỉ với mấy hiệu binh địa phương, ít tên thị vệ, cấm quân ta cũng thừa sức cai trị dân. Ta phải loại dần bọn này ra. Bây giờ ta cần bọn văn quan ký vào biểu tôn ta lên ngôi, ta phải lấy lòng chúng. Hơn nữa, ta là đấng chí tôn trời Nam, thì phải trên ra trên, dưới ra dưới, chứ có đâu ca ca, đệ đệ với bọn Thủ Huy, Tăng Khoa mãi.
Vương nhăn mặt nạt lớn :
- Im cái mồm. Đây là điện Càn nguyên, trẫm là một Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế. Người không được ca ca, đệ đệ với trẫm. Hiện nay Thăng long vô sự, không còn phản tặc ! Người hãy đem quân rời khỏi đây ngay, khi nào có chỉ mới được về. Việc canh phòng Hoàng thành sẽ do quan phòng thủ Đàm Dĩ Mông với thị vệ, cấm quân. Người với toàn thể kị binh rút khỏi Thăng long tức khắc. Lui!
Tăng Khoa kinh ngạc sự thay đổi mau :Dng trong người anh kết nghĩa, mà hầu theo phò bấy lâu nay. Hầu cúi đầu, bái lậy, rồi trao quyền chỉ huy thị vệ, cấm quân cho Đàm Dĩ Mông, lẳng lặng cùng Như Như rời khỏi Hoàng thành.
Thấy vợ Đào Duy là Như Yên mở to mắt nhìn mình, dường như muốn khiếu nại điều gì, Long Xưởng quát :
- Người chỉ là một mụ trông coi việc làm vườn, nấu bếp ở Đông cung, tại sao người lại đem đội thị vệ Đông cung vào đây làm gì ? Có rời khỏi Hoàng thành ngay không ?
Từ lâu rồi, Đào Duy vẫn cai quản đội nhạc của triều đình, vì vậy ông luôn luôn có mặt trong tất cả các buổi thiết triều. Còn vợ là Như Yên thì giữ chức tổng quản Đông cung, đúng ra bà không có mặt tại điện Càn nguyên. Nhưng lúc Long Xưởng về Thăng Long, thì cổng thành bị Mạc Hiển Tích sai thị vệ, cấm quân phong tỏa, mà quân của Thủ Huy, Tăng Khoa chưa kịp về. Vì vậy bà phải đem đội thị vệ Đông cung, hơn trăm người do chính ông bà huấn luyện, làm lực lượng hộ vệ Long Xưởng. Ban nãy, đội nghi trượng ủng Long Xưởng vào thành, do chính bà điều động. Bây giờ Long Xưởng trở mặt xua đuổi bà. Bà cười nhạt, dẫn đội võ sĩ Đông cung rời điện Càn nguyên.
Các phản thần lại xúm nhau tâng bốc Long Xưởng, trong khi Bùi Kinh An cầm tờ biểu tôn Long Xưởng lên làm vua đến trước mặt các quan để họ ký vào.
Hoàng hậu nói nhỏ vào tai Long Xưởng :
- Bây giờ con là Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế! Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu tuy có chống con, nhưng họ chỉ là con chó của tiên đế. Tiên đế truyền sao, họ làm vậy. Con hãy tha cho họ, họ sẽ biến thành con chó trung thành của con. Cái họa của họ với xã tắc chỉ như bệnh ngoài da. Còn cái họa trong tâm, trong can chính là bọn võ lâm. Mẹ thấy bọn võ lâm, bọn võ quan cầm quân mới đáng sợ. Như con thấy: Đám Đông a là đầu sỏ võ lâm, người nắm trọng binh trong tay là Trần Thủ Huy. Từ trước đến giờ, chúng vô lễ, dồn ép con đã nhiều. Chính miệng Thủ Huy nói : Vua Thuấn nhờ làm phò mã của vua Nghiêu mà được truyền ngôi. Đức Thái tổ nhà ta nhờ làm phò mã của vua Lê Đại Hành rồi cầm quân mà lấy được ngôi vua. Ngụ ý của y muốn nói : Nay y cũng là phò mã, cũng nắm binh quyền trong tay, thế còn mạnh hơn đức Thái tổ. Y cũng có ý nhòm ngó ngôi bảo tộ.
Long Xưởng nghĩ thầm : Hà, thì ra mẫu hậu cũng nghĩ như ta vậy. Tuy thế vương giả bộ lắc đầu :
- Mẫu hậu hơi quá lời ! Làm gì có chuyện đó ! Thủ Huy trước sau vẫn trung thành với con.
- Con có nhớ lời Tuyên phi Thụy Hương nói lúc sắp băng không ? Phi nhắc lại lời Thủ Huy đã bàn với phi rằng : Khi binh quyền vào tay, y sẽ lên ngôi vua, phong cho phi làm hoàng hậu đó sao ? Con có nhớ lời anh của Thủ Huy là Trần Lý trên hồ Tây không ? Trần Lý đã nói rằng sẽ phế bỏ bản triều, rồi giòng họ nhà y lên ngôi vua. Không phải vô tình mà anh em Huy cùng nói giống nhau.
Hôm ấy, ở trên con thuyền, Long Xưởng nghe Trần Lý nói lời gay gắt, thì trong lòng đã nghi Thủ Huy. Rồi khi nghe Thụy Hương nói Thủ Huy mưu cướp ngôi phong cho nàng làm Hoàng hậu, Long Xưởng tuy không tin, nhưng bắt đầu dè dặt, nghĩ rằng Thủ Huy có thể cướp ngôi vua. Bây giờ nghe mẹ nói, vương mới giật mình :
- Ừ nhỉ. Bây giờ con phải làm gì ?
- Nhân việc y lạm quyền giết đại thần. Con là Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh, con truyền cách chức y, rồi đuổi về dân dã thì không ai nói gì được nữa. Đợi mọi việc xong xuôi, đem tội trạng của y ra đình nghị, nhân đó giết cả nhà y cho tuyệt hậu hoạn.
Long Xưởng nhìn ra góc điện, thấy Phùng Tá Chu, Kim Ngân, đang đứng cạnh Thủ Huy, Đoan Nghi. Tất cả cùng nhăn mặt, lắc đầu tỏ vẻ khinh rẻ bọn nịnh quan. Vương chợt nhớ lại hôm họp ở dưới con thuyền, Kim Ngân cùng Trần Lý ép mình phải giết bọn gian tế Tống, thái độ cực kỳ vô lễ. Rồi từ sau vụ ấy, mối giao hảo của phái Đông a với Đông cung gián đoạn. Bây giờ Long Xưởng là Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế, uy quyền bao trùm trời Nam, trong khoảnh khắc Long Xưởng quên mất tất cả những gì phái Đông a, Thủ Huy phò tá mình.
Hoàng hậu biết lời nói của mình đã có kết quả, bà tiếp :
- Con lo nghĩ về thế lực phái Đông a ư ? Mai con lên ngôi vua rồi, chỉ cần ban tờ chỉ cho một viên đô thống đem quân về làm cỏ trang Thiên trường, bắt hết mấy tên võ phu vai u thịt bắp phái Đông a giết sạch là xong.
Nghe lời tâu lọt tai, Long Xưởng hướng về phía Tá Chu, Kim Ngân, rồi cau mặt hỏi lớn :
- Cặp trai gái quê kia là ai ? Đây là điện Càn nguyên, chốn cực kỳ uy nghiêm, các người đột nhập vào đây định làm gì ? Thị vệ đâu, hãy bắt chúng đem giam vào ngục ngay !
Kim Ngân cười nhạt nói với Thủ Huy, Đoan Nghi :
- Anh chị đã sáng mắt ra chưa ? Ngay cái hôm ở trên thuyền, anh Lý đã nhìn rõ cái mặt thực của Long Xưởng rồi. Hôm nay anh chị mới thấy !
Kim Ngân hừ một tiếng, rồi vận nọi lực nói lớn :
- Ăn cháo đá bát ! Gã Long Xưởng kia ! Suốt mười mấy năm nay, không có nhà ta, thì liệu người có còn sống đến ngày nay không ? Ngôi vua có còn của họ Lý không ? Hỡi ơi ! Nhà dột từ nóc dột xuống ! Bà thì mê tên Đỗ Anh Vũ giết tôn thất. Anh Vũ chết, thị lại mê tên chệt Lưu Kỳ, muốn bưng ngai vàng dâng cho y ! Bà nội như thế, tất có ông bố cướp gái của con, rồi ông bố mê gái đẹp, muốn giết các con để cho thị vui lòng, mà... hỡi ơi, thị có tốt gì cho cam ! Thị là con đàn bà lang chạ, mang con hoang vào Hoàng thành. Bà như thế, bố như thế, thì dĩ nhiên nảy ra đứa con tham dâm, cưỡng dâm sủng phi của cha cũng là sự thường thôi ! Chúng ta vừa ra tay cứu người, mà người lại trở mặt ư ?
Kim Ngân, Tá Chu cùng hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt, khiến mọi ngưới ù tai, :Dng mặt. Rồi binh binh, hai người phóng chưởng đánh vỡ hai cánh cửa. Thấp thoáng một cái, hai người đã rời khỏi điện.
Trần Trung Tá là Ngự sử đại phu, từ nãy đến giờ y đứng quan sát hành động của Long Xưởng, y bắt ngay lấy thời cơ. Y tâu :
- Tâu Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế ! Người con gái tên là Trần Kim Ngân, em ruột của phò mã Thái úy Trần Thủ Huy ! Còn tên thôn phu thì là chồng thị tên Phùng Tá Chu. Cả hai người ỷ thế anh, nên ra vào Hoàng thành không còn coi phép nước ra gì. Những lời đại bất kính của y thị hoàn toàn lỗi ở Trần phò mã. Thần xin Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế bệ hạ trước hãy cách chức Thái úy của Trần Thủ Huy, rồi trao cho đình thần nghị tội, xét xử chính pháp.
Bọn Phí Công Tín, Ngô Nghĩa Hòa, Ngô Lý Tín, Đàm Dĩ Mông, mỗi người thêm một câu. Kẻ thì đòi xử lăng trì, người thì đòi tru di tam tộc Thủ Huy. Chúng tìm ta Thủ Huy phạm đến 180 khoản trong bộ Hình thư.

Đoan Nghi, Thủ Huy đứng ở cửa điện. Hai người tự tin vào thâm tình ruột thịt, tự tin vào lòng dạ trong sáng, hết tâm hết trí phò tá anh mình, tự tin vào binh quyền trong tay ; nên mỉm cười nghĩ thầm : Sau khi đại ca lên ngôi vua, thì với tội trạng trong quá khứ, mình muốn vo tròn, bóp méo bọn chúng thế nào mà chẳng được ? Mình cứ để cho chúng nịnh, để Long Xưởng thấy rõ bản mặt chúng.
Tuy nghe bọn văn quan nịnh, Long Xưởng cũng nhận thấy mình còn sống tới nay, ngôi vua sở dĩ có do một tay Thủ Huy phò tá. Nhưng nay mình đã thành Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế rồi, thì cũng nên tước bớt uy quyền Thủ Huy đi, để phòng hậu hoạn. Hơn nữa, hiện tước của Thủ Huy tới quốc công, sau vụ dẹp loạn này, thì công của y quá lớn, ắt phải phong vương, mà trong khi tuổi y còn quá trẻ, tương lai khó tránh được cái vạ cướp ngôi. Nghĩ vậy Long Xưởng làm như người nhân nghĩa, lên tiếng :
- Tuy Trần phò mã phạm nhiều tội, nhưng trước đây đã lập biết bao công lao. Vậy trước hãy thu binh quyền, cách chức Thái úy, cách chức Càn nguyên điện đại học sĩ, thu ấn Trung nghĩa thượng tướng quân. Tước Côi sơn quốc công vẫn giữ nguyên.
Thủ Huy, Đoan Nghi nghe Long Xưởng tuyên chỉ, mà tưởng rằng tai mình ù ! Sự kiện đang diễn ra trong giấc mơ.
Đoan Nghi thấy anh trở mặt mau quá thì kinh hãi nói :
- Anh ! Anh nghe lời cái bọn từng chống đối anh, mà chặt chân tay mình ư ? Được, để em nói chuyện với bọn ăn hại này.
- Hoàng muội không nên nhiều lời ở đây. Nếu hoàng muội nghiêng theo gia đình nhà chồng thì trẫm sẽ xóa tên hoàng muội trong sổ Ngọc diệp, rồi đuổi về dân dã. Hoàng muội có nghe con nhà quê Kim Ngân nhục mạ Thái hậu, nhục mạ Phụ Hoàng với nhục mạ trẫm không ? Kể từ lúc này Thủ Huy không còn là Thái úy nữa. Thái sư Tô Hiến Thành hãy chiếu di chỉ của phụ hoàng, lập tức lĩnh chức Thái úy thay Thủ Huy.
Thủ Huy cười nhạt, hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt. Tất cả mọi người đều bịt tai ôm đầu, choáng váng. Công chỉ tay vào mặt Long Xưởng than :
- Trời xanh thấu cho, tôi là Trần Thủ Huy, từ thủa niên thiếu, gặp người này. Người này bị Cảm Thành thái hậu sai Nghi tàm song ma, đô đốc Lý Thần đuổi bắt, toan sát hại. Không quản nguy hiểm, tôi ra tay cứu người, rồi kết huynh đệ. Tôi nào biết người là Thái tử ? Tiếp đến người bị bọn mật sứ Lưu Kỳ, Ngô Giới bắt giam trên thuyền. Một lần nữa, tôi nhờ ông nội, bố mẹ, cùng các vị sư thúc, sư tỷ trong môn phái bắt bọn Tống cứu người.
Long Xưởng cũng như các quan, vốn tỵ hiềm võ công Thủ Huy. Không ai dám lên tiếng ngắt lời công. Họ biết rằng công đang uất ức cùng tột, vì giữa lúc công dùng hết tâm trí đem ngôi vua về cho Long Xưởng, mà Long Xưởng sớm trở mặt, các quan trung thành với Long Xưởng bao năm qua đều chán ngán. Họ im lặng nghe Thủ Huy nói ra những uất ức.
- Bấy giờ Cảm Thánh hoàng thái hậu mưu dâng ngôi vua cho tình nhân là Lưu Kỳ. Ông nội tôi thấy xã tắc nguy như trứng chồng, người đứng ra triệu tập các đại môn phái, giải tán triều đình gà mái gáy, dẹp gian đảng, thu quyền về cho vương triều. Cũng từ đấy tôi cùng Thái tử tái lập Thiên tử binh, Kỵ binh, Ngưu binh, cải cách cai trị ; trong làm cho nước mạnh, dân giầu ; ngoài khiến Tống nể sợ, phải công nhận quốc danh, niên hiệu. Cũng gia đình tôi, giúp Thái tử dẹp được âm mưu chiếm nước của tế tác Tống trong hậu cung. Vừa mới hai hôm nay, bọn nịnh thần phò một đứa trẻ lên ngôi. Tôi nắm binh quyền trong tay, nên phải cùng chư vương, công chúa đem quân về dẹp loạn, đoạt lại ngôi vua cho người. Bây giờ, việc vừa xong, người kiếm cớ xua đuổi tôi. Xin trời xanh xét xử cho.
Nói rồi công cầm thanh kiếm lệnh cắm giữa điện Càn nguyên, tay dắt Đoan Nghi thủng thỉnh tới trước tử quan vua Anh tông lạy đủ tám lạy, rồi rời khỏi điện Càn nguyên, không nhìn bất cứ một ai.
Thủ Huy, Đoan Nghi lên ngựa rời Hoàng thành. Đội võ sĩ Long biên, Côi sơn cũng đi theo hộ tống. Hai người vừa ra khỏi cổng thành thì đoàn võ sĩ ùn lại, rồi có tiếng cãi nhau léo nhéo. Đoan Nghi bảo Vương Thú Thúy :
- Tỷ tỷ lên xem có gì lạ không ?
Thúy Thúy vọt ngựa lên, lát sau, nàng trở lại :
- Khải điện hạ, có người ăn mày ngồi giữa đường. Đội võ sĩ Long biên đuổi y đi ; y không đi, còn cãi lý.
Biết đây là một kỳ nhân dị sĩ, Thủ Huy ra lệnh :
- Không được đụng đến người ta.
Rồi công với Đoan Nghi vọt ngựa lên. Người ăn mày đang phân vua :
- Mạnh tử nói : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Nghĩa là : Dân quý nhất, thứ đến xã tắc, vua đếch có giá gì. Ta là dân, tức là thành phần quý nhất, phải được ưu tiên đi giữa đường. Các chú là quân lính của nhà vua, thấp hơn cái ông vua , tức người không có thớ gì, mà các chú bắt tôi tránh đường cho các chú đi, thì đạo lý ở chỗ nào ?
Hai võ sĩ xúm vào ôm người ăn mày, định bế bổng lên. Nhưng y nặng quá. Hai người hò lên một tiếng, đẩy y đi, nhưng y vẫn ngồi như tảng đá.
Đoan Nghi cất tiếng :
- Lui lại !
Hai võ sĩ đứng tránh ra hai bên đường. Đoan Nghi chắp tay hướng người ăn mày :
- Chúng tôi có việc khẩn. Xin người tránh ra cho chúng tôi đi.
Người ăn mày dường như điếc, ông ta vẫn ngồi bất động miệng hát :
Thương lang chi thủy thanh hề,
Khả dĩ trạc ngã anh.
Thương lang chi thủy trọc hề,
Khả dĩ trạc ngã túc.
Rồi ông ta lại tự dịch nghĩa, hát bằng tiếng Việt :
Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước chả phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Ông ta nắm lấy cương ngựa Thủ Huy :
- Thái úy có biết rằng mình sắp bị cái họa sát thân không ?
- ? ? ?
- Từ hơn mười năm nay, Thái tử với Thái úy như tay phải với tay trái, ăn cùng mâm, ngủ cùng giường. Lại cũng có phen cùng hưởng cái đó của người đẹp Thụy Hương. Biết bao phen Thái tử tưởng như mất ngôi, mất mạng; đều do Thái úy cứu. Có thể nói, Thái úy là ngôi sao thủ mệnh của Thái tử. Thế mà nay Thái tử phải vội vã cách chức Thái úy là tại sao, Thái úy có biết không ?
- Người muốn lấy lòng bọn cố mệnh đại thần, để được lên ngôi vua.
- Không phải đâu ! Ngôi vua sở dĩ có là do Thái úy đem quân về !
- Thế thì ?
- Vì Thái tử nghi ngờ Thái úy.
- Tôi một lòng phò tá người, lại là em rể người, không lẽ người không hiểu lòng dạ tôi ?
- Trời ơi ! Thái úy quên mất chuyện xưa rồi ư ? Kìa Phạm Lãi, Văn Chủng với Việt vương Câu Tiễn bao năm cùng nhau nằm gai nếm mật. Thế mà khi phục được quốc, trả được thù nhà, thì Văn Chủng bị giết, Phạm Lãi phải ẩn thân, cùng Tây Thi tiêu dao ngũ hồ. Vì sao ? Vì công lao họ quá lớn, dân chúng chỉ biết đến họ, nhắc đến họ, mà không biết đến Câu Tiễn, nhắc đến Câu Tiễn !
- ! ! !
- Cao tổ nhà Hán chỉ là một gã đình trưởng. So tài, so đức đều thua Hạng vương xa. Nhờ Tam kiệt là Trương Lương, Hàn Tín, Tiêu Hà, mà Cao tổ thắng Hạng vương, lập triều Hán. Dân chúng đều nhắc nhở đến Tam kiệt, khâm phục Tam kiệt, mà coi Cao tổ như gã thất phu gặp thời. Vì vậy Cao tổ phải ra tay. Bộ Sử ký của Tư mã Thiên viết ị Phi Tam kiệt tất vô Hán thất. Cao đế thành nghiệp, nhi Trương Lương dĩ khứ, Tiêu Hà dĩ ngục, Hàn Tín dĩ trảm. Hán đắc thiên hạ, đại để giai Tín vi công. Nghĩa là: Không có Tam kiệt trợ giúp thì không có triều Hán. Khi Cao tổ thành nghiệp, thì Trương Lương phải bỏ đi tu, Tiêu Hà bị hạ ngục. Hàn Tín bị giết. Hán được thiên hạ, đều do công của Tín.
- ? ! ? ! ?
- Nay tài của Thái tử thua xa Cao đế, đức lại càng không bằng Câu Tiễn. Trong khi tài của Thái úy bao gồm cả Trương Lương, Tiêu Hà, Hàn Tín. Công lao thì từ khi lập triều Lý đến giờ, chưa một văn quan, võ tướng nào sánh bằng. Uy thì tướng sĩ chỉ huy mười hai hiệu Thiên tử binh, hiệu kị binh Phù Đổng, hiệu ngưu binh Hoa lư, bốn Đô đốc thủy quân đều do Thái úy huấn luyện. Họ tuyệt đối trung thành với Thái úy. Rồi, khi Tuyên phi Thụy Hương hoăng có nói rằng Thái úy mưu chiếm ngôi vua, phong phi làm Hoàng hậu. Từ ngày ấy đến giờ Thái tử đã nghi ngờ Thái úy, song người để bụng không nói ra.
Người ăn mày ngửa mặt nhìn trời, rồi tiếp :
- Từ xưa đến giờ, khi uy tín quyền hành bầy tôi áp chúa thì chỉ có hai con đường. Một là bầy tôi cướp ngôi của chúa. Hai là chúa phải giết bầy tôi.
- Tôi không bao giờ nghĩ đến làm vua, thì sao có thể có việc cướp ngôi ?
- Dĩ nhiên lòng dạ Thái úy là như vậy. Nhưng Thái tử vẫn nghi ngờ Thái úy. Khi vua nghi, thì bầy tôi phải chết. Bây giờ Thái úy chỉ có hai con đường đi.
- Xin tiên sinh cứ dạy.
- Hiện các hiệu binh Ngự long, Quảng thánh, Quảng vũ vẫn chưa rời khỏi các cửa thành. Hiệu binh Phù Đổng còn đóng tại Bắc ngạn. Hạm đội Âu Cơ vẫn phong tỏa sông ngòi quanh kinh thành. Thái úy ban lệnh cho họ ào ạt chiếm Kinh thành, Hoàng thành giết sạch bọn nịnh quan, tôn Long Xưởng lên làm vua hư vị. Còn Thái úy thì nắm thực quyền như Ngụy võ đế Tào Tháo đã làm với Hán Hiến Đế. Thế thì tuy không ngồi trên ngai vàng, mà Thái úy làm vua.
- Ông tôi, bố tôi, mẹ tôi cho tôi ra làm quan là để giúp cái chí của Long Xưởng, sao dựng lại quốc uy, đòi lại cố thổ. Nay quốc uy đã có, cố thổ thì chưa ; mà Long Xưởng nghi ngờ, xua đuổi tôi, thì tôi còn ngồi lại làm gì ? Tôi không muốn lấn quyền nghĩa huynh. Con đường này tiên sinh cho tôi đi, e nhiều gai quá. Xin tiên sinh chỉ cho con đường khác.
- Thái úy cùng công chúa về phủ, chờ ngày mai Thái tử lên ngôi, rồi sai võ sĩ đến bắt đem ra chợ chém đầu với 180 tội trạng khác nhau.
Thủ Huy chắp tay vái người ăn mày :
- Đa tạ tiên sinh ! Thủ Huy này đành chịu chết, chứ không thể chọn con đường thứ nhất.
Người ăn mày than :
- Thái úy đã chọn con đường đó, thì hỡi ôi ! Tôi e cái thân của Thái úy khó bảo toàn đã đành, mà còn gia thuộc, môn phái e cũng bị tai kiếp.
Thấp thoáng một cái, người ăn mày đã tung mình biến vào khu nhà dân cư bên đường.
Đoan Nghi kinh hãi :
- Không ngờ khinh công ông ta lại cao như vậy. Anh có biết ông là ai không ?
- Ông ta chính là người mặc áo đen đã cứu anh Long Xưởng, và giết Vương Nhất, Cao Nhị ban nãy. Ừ ! Không biết ông ta là ai ? Anh chưa từng nghe trong phái Tản viên có người võ công cao đến như vậy.
Thủ Huy, Đoan Nghi về phủ phò mã, thì đã thấy Kim Ngân, Tá Chu, Trung Từ, Bảo Bảo, đang ngồi chờ. Kim Ngân nhìn anh bằng con mắt đầy thương cảm :
- Trước khi anh khởi binh, chị Phương Lan đã dặn anh rằng khi về tới Thăng long, phải xua quân áo ạt chiếm Kinh thành, Hoàng thành, trong lúc hỗn loạn, giết sạch bọn nịnh quan. Nhưng anh không nghe, nên mới ra nông nỗi này.
Đoan Nghi cầm lấy tay Kim Ngân :
- Đầu mối là anh Long Xưởng nghi ngờ chúng ta, chứ không phải là do bọn nịnh quan. Ví dù khi quân tràn vào thành, giết sạch bọn nịnh quan, thì anh Long Xưởng càng phải xuống tay mau hơn, mạnh hơn. Bây giờ chúng ta chỉ còn có cách theo lời khuyên của anh Lý, là về Thiên trường vui với cỏ cây mà thôi.

- Không thể có chuyện đó được.
Trung Từ khẳng định : Long Xưởng vì sợ, vì nghi anh Thủ Huy mà cách chức, chỉ nội ngày mai, khi lên ngôi vua rồi, thì Long Xưởng sẽ ban chỉ giết anh Thủ Huy chứ có đâu để cho ngao du mây nước !
Thủ Huy hỏi :
- Chú có cách nào không ?
- Dễ quá. Đêm nay anh nhập Đông cung, nhả vào người Long Xưởng ít nọc độc Huyền âm, bấy giờ anh bảo y ăn cứt y cũng phải ăn !
- Anh không muốn làm cái việc đó.
- Vậy thì ngay bây giờ anh họp tất cả thân binh, bộc phụ, mã phu, gia nhân, giảng giải cho họ biết những gì đã xẩy ra, chu cấp tiền bạc cho họ về quê làm ăn. Một số khác thì đem về Thiên trường. Còn anh với chị thì ngồi chờ Long Xưởng sai võ sĩ tới bắt đem đi chặt đầu. Theo ước tính của em, dù sao Long Xưởng cũng như bọn nịnh thần đều biết cái tính bất chấp luật lệ của anh. Nếu anh cứ ngồi đây, thì họ phải khử anh. Còn như anh bỏ đi, họ sẽ nhắm mắt, bịt tai. Vậy em nghĩ, anh chị, hai người hai ngựa ngao du thắng cảnh. Long Xưởng có ban chỉ truy nã anh, e không một thị vệ, võ tướng nào dám tuân chỉ.
Thủ Huy nắm tay Đoan Nghi :
- Chúng mình thành vợ chồng đã mấy năm, nhưng ngày đêm cần lao chính sự, chưa bao giờ được sống thực sự cho nhau. Bây giờ chúng mình còn quá trẻ, chúng mình phải sống cho chúng mình. Đời dùng ta thì ta giúp đời. Đời không dùng ta, thì ta đội cỏ bồng phơi phới mà đi. Từ nay em không còn là công chúa, anh cũng chẳng còn là Thái úy, là phò mã nữa. Chúng ta hãy theo gương Kim Ngân, Tá Chu ; Trung Từ, Bảo Bảo. Ngay bây giờ chúng ta về Thiên trường.
Đoan Nghi bảo Vương Thúy Thúy :
- Vương tỷ tỷ, phiền Vương tỷ tỷ cho họp hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn, cùng gia tướng, gia nhân lại, để chúng tôi nói chuyện với họ.
Thủ Huy thấy từ trước đến giờ, lúc nào Đoan Nghi cũng gọi Thúy Thúy, Bảo Bảo là phu nhân, tức tước hiệu triều đình ban cho. Đây là lần đầu tiên nàng gọi Thúy Thúy bằng danh tự tỷ tỷ, thì có nghĩa nàng không còn coi mình là công chúa nữa.
Hai khắc sau, Thúy Thúy trở lại cung tay :
- Chủ nhân ! Tất cả đang chờ đợi chủ nhân.
Thủ Huy, Đoan Nghi đứng dậy nói với Kim Ngân, Tá Chu ; Trung Từ, Bảo Bảo :
- Các cô các chú cùng đi với chúng tôi cho vui.
Tất cả mọi người đều tụ họp tại đại sảnh đường. Họ cùng đứng dậy chào. Thủ Huy ra lệnh cho họ an tọa.
Đoan Nghi đưa mắt nhìn cử tọa một lượt rồi cất tiếng trầm trầm :
- Tôi họp tất cả các vị tại đây để báo cho các vị một tin vừa buồn vừa vui. Buồn vì kể từ hôm nay, phò mã bị cách hết chức, tuy nhiên tước thì vẫn giữ nguyên. Người không còn là Thái úy phụ quốc, cũng không còn là Càn nguyên điện đại học sĩ, Trung nghĩa thượng tướng quân nữa. Vui vì, vợ chồng chúng tôi quyết định cáo quan về sống với điền dã, thảnh thơi ngoài vòng cương tỏa.
Cả sảnh đường ồn lên, rồi lại im bặt. Thủ Huy tiếp lời vợ :
- Các vị đây chia làm ba thành phần. Thành phần phục vụ phủ Phụ quốc Thái úy, Càn nguyên điện, Trung nghĩa thượng tướng quân thì đều là quan chức của triều đình. Các vị sẽ được trả về triều đình. Thành phần thứ nhì là con em đệ tử phái Đông a hầu hết ở trong hai đoàn Long biên, Côi sơn, gốc người Thiên trường thì lại trở về Thiên trường. Thành phần thứ ba là những người mà mẹ tôi mua về phục thị cho chúng tôi thì chúng tôi cấp giấy hoàn hương, cấp tiền bạc, trả lại gia đình. Tuy nhiên ai không có gia đình, nếu muốn thì cũng được về Thiên trường sống.
Lập tức sảnh đường ồn lên những tiếng bàn tán. Thủ Huy thuật lại chi ti
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #29  
Old 06-19-2004, 04:27 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C25:BIÊN THÙY MỘT CÕI.

Tới cửa Bắc, viên tá lĩnh chỉ huy thị vệ thấy Thủ Huy, Đoan Nghi, vội hô lớn :
- Thuộc hạ kính thỉnh công chúa điện hạ, và phò mã nhập thành.
Thủ Huy đáp lễ rồi nói:
- Chúng ta về chịu tang phụ hoàng. Người vào báo cho triều đình biết.
Viên tá lĩnh rạp người xuống, rồi lên ngựa phi về hướng điện Càn nguyên. Lát sau, Tô Hiến Thành đi trước, rồi tới Ngô Nghĩa Hòa, Phí Công Tín, Lý Kính Tu, Ngô Lý Tín, Đỗ An Di, Vũ Tán Đường, Trần Trung Tá, Bùi Kinh An, Lưu Khánh Bình... mũ cao, áo rộng cùng kéo ra đón. Tô Hiến Thành hô lớn :
- Bọn thần tuân chỉ Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu (tức Hoàng hậu), Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu ( tức Thục phi Đỗ Thụy Châu) và Trinh Phù hoàng đế ra thỉnh công chúa điện hạ cùng phò mã.
Thủ Huy chỉ vào xe :
- Có cả Linh khang Chiêu đức thái hoàng thái phi cũng cùng về.
Tô Hiến Thành lại cùng đám đại thần hành lễ với Linh Khang thái hoàng thái phi.
Thấy các đại thần đều thủ lễ, Thủ Huy nghĩ thầm :
- Họ dùng lễ tiếp ta, thì ta cũng phải dùng lễ đáp lại cho đúng đạo lý.
Công tháo thanh kiếm đeo ngang hông của mình cùng thanh kiếm của Đoan Nghi, rồi gọi viên trưởng toán thị vệ gác điện Càn Nguyên :
- Ta gửi người.
Viên trưởng toán thị vệ cung cung, kính kính tiếp kiếm.
Trên mặt các văn quan đều tỏ ra vẻ kính phục Thủ Huy. Nguyên từ hồi thành lập triều Lý, chỉ có hai đại thần được đeo kiếm vào chầu, khi tâu không phải quỳ gối xưng tên. Một là Khai Quốc vương, con thứ nhì vua Lý Thái tổ nhưng không bao giờ vương xử dụng đặc ân này cả. Người thứ nhì là Thủ Huy, chưa bao giờ công mang kiếm vào chầu. Hôm nay cùng vợ về chịu tang, trong khi tân quân còn bế ngửa, các võ tướng thị vệ đều là thủ hạ cũ của công. Võ công của công lại cao nhất triều đình. Nếu bây giờ công đeo kiếm vào chầu, ắt các văn quan đều lo sợ. Vì vậy công tháo kiếm trao cho trưởng toán thị vệ, để yên lòng họ.
Linh Khang thái hoàng thái phi đi trước, Thủ Huy, Đoan Nghi theo sau. Ba người vào trong điện Càn nguyên, thì trên cao nhất là Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu, Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu cho đến các phi tần đều rạp người xuống thềm điện :
- Bọn hạ thần kính cẩn ra mắt Thái hoàng thái phi.
- Miễn lễ.

******
Ghi chú của thuật giả.
Linh Khang nguyên là Đức phi của vua Thần tông, nên vua Anh tông phong là Thái phi. Bây giờ Long Trát lên ngôi thì bà trở thành Thái hoàng thái phi. Còn hoàng hậu, Thục phi đã được phong làm thái hậu, thì các bà phi trở thành thái phi.

******
Linh Khang tuyên chỉ : Già này về đây để chịu tang chung với trăm họ.
Linh Khang thái hoàng thái phi là vai trên của vua Anh tông, nên bà chỉ thắp hương trước bài vị nhà vua, mà không phải lễ. Lễ quan đem ghế mời bà ngồi.
Âm nhạc tấu lên. Thủ Huy, Đoan Nghi phục xuống trước tử quan phụ hoàng lễ, rồi lại hành lễ trước hai Thái hậu, các bà Thái phi của Anh tông.
Tô Hiến Thành cung tay trước Linh Khang :
- Thần Thái úy phụ chính, bình chương quân quốc trọng sự, Long biên quốc công kính bái Thái hoàng thái phi giá lâm. Bệ hạ giá lâm đúng lúc có việc nan giải. Vì triều đình đang gặp một sự khó, có thể đưa đến nội chiến, khiến đại cuộc tan nát hết. May có Thái hoàng thái phi về đây, xin bệ hạ phát lạc cho vụ này !
- Thái sư cứ tâu.
Hiến Thành chữa :
- Tâu Thái hoàng thái phi, thần không còn là Thái sư từ lâu rồi. Năm trước đây, khi Đại hành hoàng đế ban chỉ lập Trinh phù hoàng đế làm Thái tử đã phong thần làm Thái úy phụ chính, Bình chương quân quốc trọng sự. Còn Đỗ An Di làm Thái sư Đồng bình chương sự.
- À thì ra thế. Tô Thái úy thân cầm trọng binh, lại phụ chính, thì mọi việc an nguy xã tắc đều do Thái úy. Cớ sao Thái úy lại tâu rằng xã tắc nguy nan ?
- Tâu nguyên do như thế này :
Hiến Thành trình bầy: Mặc dù có chỉ dụ, nhưng từ hồi ấy đến giờ, Bảo Quốc vương lấn quyền, không để phò mã Trần Thủ Huy bàn giao chức vụ Thái úy cho thần. Rồi hôm qua Bảo Quốc vương tuyên chỉ cách chức Thái úy, Trung nghĩa thượng tướng quân của Trần phò mã. Trần phò mã cắm kiếm rời khỏi điện Càn nguyên. Hành động đó trái với quân luật, nên mới khiến cho xã tắc nguy như trứng trồng.
Đoan Nghi bực mình :
- Thái úy bảo phò mã hành sự sái quân luật. Thế cái sái luật ấy ra sao ?
- Khải công chúa. Theo quân luật, thì chỉ Hoàng đế mới có quyền ban chỉ cách chức Thái úy, võ quan tới cấp tướng quân. Hoàng tử Long Xưởng chỉ là Bảo Quốc vương, thì không có quyền ấy. Thế mà người vi luật tuyên chỉ cách chức Thái úy, Trung nghĩa thượng tướng quân của Trần phò mã. Phò mã tuân theo, bỏ đi. Đoan Nghi biết rằng cái ông họ Tô này, cũng như đám nho thần già, họ rất lẩm cẩm trong những lễ nghi phiền tạp, nguyên tắc rắc rối, chứ họ không phải là người xấu. Khi phụ hoàng bị Vương Cương Trung uy hiếp, bất đắc dĩ phải ban chỉ truất phế Long Xưởng, lập Long Trát, dù sau đó đã long trọng tuyên chỉ thu hồi quyết định ấy. Nhưng không ban hành bằng văn kiện , nên họ cứ khăng khăng giữ nguyên. Nàng hỏi :
- Được rồi, cứ tạm coi như việc anh Long Xưởng cách chức phò mã là sái luật. Thế sao anh Long Xưởng phong cho Đàm Dĩ Mông giữ chức Tổng lĩnh thị vệ, ngự lâm quân, thì Thái úy không nói gì ?
- Khải điện hạ, Tổng lĩnh thị vệ, ngự lâm quân vẫn là tướng quân Mạc Hiển Tích.
Thấy nếu cứ để cho Tô Hiến Thành bảo thủ chiếu chỉ tôn Long Trát, còn Đoan Nghi giữ cứng chỉ dụ miệng tôn Long Xưởng, thì không giải quyết được vấn đề. Linh Khang hỏi Tô :
- Thái úy nói rằng Thái úy được phong chức do chỉ dụ của Đại hành hoàng đế, mà Trần phò mã không bàn giao, thì nay Trần phò mã bỏ đi, là dịp tốt cho Thái úy nắm lấy quân lữ. Sao Thái úy bảo xã tắc nguy như trứng trồng ?
- Tâu, luật đặt ra từ đời đức Thái tổ, là khi bàn giao chức vụ Thái úy, phải có sự hiện diện của chư tướng: Về thủy quân thì Đại đô đốc, phó Đại đô đốc, bốn đô đốc chỉ huy bốn hạm đội. Về bộ binh thì tổng lĩnh Thiên tử binh cùng mười hai tướng chỉ huy mười hai hiệu. Tướng chỉ huy kị binh, ngưu binh. Nay Trần phò mã bỏ đi, mà trong triều thì có binh biến, ba vương cùng nhiều đại thần bị hại. Thủy quân nghe tin đại đô đốc là Kiến Ninh vương bị hại, phó Đại đô đốc Phùng Tá Chu biến mất. Quân sĩ căm hờn, cho nên bốn đô đốc thủy quân cho bốn hạm đội phong tỏa hết các cửa biển, các sông lớn, nhổ neo ra khơi. Bộ binh được tin Kiến Ninh vương, thống lĩnh Thiên tử binh bị giết. Các tướng chỉ huy Thiên tử binh, Kị binh, Ngưu binh cho quân chặn tất cả các đường giao thông, đóng cửa tất cả các thành. Họ lại ra lệnh cho hoàng nam các thôn xã trực thuộc làm tương tự.
Thần nhân danh Thái úy phụ chính ban lệnh cho họ. Họ không chịu nhận. Toàn quốc bị tê liệt tất cả mọi hoạt động. Không chừng Đại Việt ta lại rối loạn như hồi Thập nhị sứ quân. Bây giờ chỉ có Trần phò mã giải quyết được cái vạ to lớn này mà thôi.
Linh Khang đưa mắt nhìn Thủ Huy, Đoan Nghi :
- Hai con tính sao ? Giữa hai bên căng như vậy thì nội chiến khó tránh.
Thủ Huy xua tay :
- Thần nhi đã giải tán phủ Thái úy, Trung nghĩa thượng tướng quân, từ nay buông tay, không lý gì đến chính sự nữa.
Thái phi Bùi Chiêu Dương (mẹ Đoan Nghi), nắm lấy tay Đoan Nghi nói bằng giọng tha thiết, đầy nước mắt :
- Con ạ! Việc anh Long Xưởng trở mặt với phái Đông a trên con thuyền ở Hồ Tây, đã mở đầu cho việc anh ấy bị truất phế. Việc anh ấy mượn tay Thái hoàng thái hậu giết ba anh Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh ; xua đuổi Thủ Huy, Tăng Khoa, ông bà Đào Duy với con là hành động tự cắt chân tay mình. Nên mới đưa đến việc bại vong. Ví dù anh Long Xưởng có chiếm được ngôi vua, thì với hai chiếu chỉ của phụ hoàng con, thống mạ anh ấy bằng những lời nhục nhã nhất, hiện dân chúng người người đều tin như vậy ; hỏi anh ấy có thể cai trị dân không ? Các đô đốc, các tướng đều do Thủ Huy đào tạo. Ai ai cũng biết rằng Thủ Huy là ngôi sao thủ mệnh của anh Long Xưởng. Thế mà chưa lên ngôi vua, anh ấy đã xua đuổi Thủ Huy, Tăng Khoa, Đào Duy thì hỏi rằng còn ai trung thành với anh ấy nữa ? Hôm qua đây, sau khi con rời điện này, anh ấy bị áp chế, đã ký vào biểu tôn Long Trát làm vua, thì không thể nào lên ngôi vua nữa. Bây giờ, mẹ đặt sự nghiệp Tiêu sơn lên trên hết tình cảm riêng tư, mẹ khuyên con nên đứng ra trấn an các tướng để tránh nội chiến. Cũng để cứu Long Xưởng.
Đoan Nghi nhăn mặt :
- Mẫu thân dạy vậy, nhưng con e sự không giản dị. Bởi đất không hai mặt trời, nước không hai vua. Xưa nay, hai hoàng tử tranh ngôi vua, thì kẻ thắng lên làm vua, người bại phải chết. Vua Lê Đại Hành được nhường ngôi, thì phải giết phế đế Đinh Toàn. Lê Long Đĩnh tranh được ngôi vua, thì phải giết hết các anh, em. Nay Long Trát lên ngôi vua, mà trong triều, ngoài nội không ai tuân phục, chắc chắn những người phò Long Trát phải giết anh Long Xưởng. Anh Long Xưởng giết ba em, phụ ơn bọn con nhưng bọn con không nỡ nhìn anh ấy với vợ con chết thảm.
Hình bộ thượng thư Trần Trung Tá tiếp lời Đoan Nghi :
- Công chúa luận đúng. Cái lý xưa nay là như vậy.
Thái phi Bùi Chiêu Dương lại nắm lấy tay Thủ Huy :
- Khi còn tại thế, trong các hoàng tử, công chúa, phò mã, thì con được sủng ái nhất. Nay con có ghét các đại thần Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, có hận Long Xưởng thì cũng nên nghĩ đến phụ hoàng, nghĩ đến ta, nghĩ đến Đoan Nghi... Vậy thì thế này, hai con hãy nghĩ đến phụ hoàng, nghĩ đến ta mà tiếp tục cầm quân, cho đến khi Long Trát trưởng thành. Con định sao ?

******
Ghi chú của thuật giả.
Sự kiện này, ĐVSKTT chép giản lược như sau :
Ất Mùi (DL.1 1178). Thiên cảm Chí bảo đệ nhị niên, Tống Thuần hy đệ nhị niên. Mùa Xuân tháng Giêng, sách lập Long Trát làm hoàng thái tử ở Đông cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó, bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ Đông cung.
Mùa Hạ, tháng tư, vua không khỏe, cố gượng sai Tô Hiến Thành ẵm Thái tử mà quyền nhiếp chính sự.
Mùa Thu tháng bẩy, ngày Ất Tỵ, vua băng ở điện Thụy quang. Trước đó khi vua bệnh nặng, Hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng. Vua nói : Làm con bất hiếu còn trị dân sao đượcŮ Di chiếu cho Tô Hiến Thành phò tá Thái tử, công việc xã tắc nhất nhất tuân theo phép cũ.
Bấy giờ Thái hậu muốn làm chuyện phế lập, sợ Hiến Thành không nghe, mới đem vàng bạc đút lót cho vợ lẽ Hiến Thành là Nữ thị. Hiến Thành nói : Ta là cố mệnh đại thần, phò tá ấu quân, nay nhận hối lộ mà làm việc phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở dưới suối vàng Ể. Thái hậu lại gọi Hiến Thành đến đỗ trăm cách. Hiến Thành trả lời : ị Làm việc bất nghĩa mà được giầu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có làm. Huống chi lời của Tiên đế còn bên tai. Bệ hạ lại không nghe việc Y Doãn, Hoắc Quang hay sao ? Thần không dám vâng chiếu Ể.
Thái tử Long Trát lên ngôi trước linh cữu, bấy giờ mới lên ba tuổi, tôn mẹ là Đỗ thị làm Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu. Cho Đỗ An Di (anh trai hoàng thái hậu) làm Thái sư đồng bình chương sự. Hiến Thành làm Thái úy.

Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới biết sự thực vụ này ra sao mà thôi.

Thủ Huy nhìn thấy thanh kiếm lệnh của mình để trên bàn thờ phụ hoàng, công cầm lấy, rồi hướng vào các đại thần nói lớn :
- Theo như quan phụ chính Tô Hiến Thành, thì cho đến lúc này tôi vẫn còn là Phụ quốc Thái úy phải không ? Bây giờ quan phụ chính muốn tôi ban lệnh gọi các tướng về để ủy lạo, rồi bàn giao phải không ?
- Đúng vậy.
- Quan phụ chính không sợ tôi ra lệnh cho các tướng làm loạn ư ?
Tô Hiến Thành, Đỗ An Di tái mặt, im lặng, chân tay run lẩy bẩy, hai hàm răng đánh vào nhau thành những tiếng lộp cộp. Duy Lý Kính Tu thản nhiên :
- Phò mã thử cái khả năng biết người của lão phu hẳn ? Thưa phò mã, phò mã không phải là người ham cái bả công danh. Sở dĩ phò mã hiện diện tại triều, vì giữa đường gặp hoàng tử Long Xưởng bị nạn, ra tay nghĩa hiệp. Rồi việc nọ tiếp việc kia như giòng nước, mà không ngừng lại được. Hồi trên hồ Tây, Bảo Quốc vương đã trở mặt với phái Đông a, hôm qua lại giết ba vương, xua đuổi phò mã. Bây giờ phò mã có ra tay cứu vương, thì vương cũng trở mặt giết phò mã. Vì vậy, phò mã có gọi chư tướng về để bàn giao, bọn lão phu không sợ phò mã làm loạn. Vì làm loạn để giúp ai ? Cho ai ? Vì ai ? Được gì ? Vừa rồi Bùi thái phi đã ban chỉ, xin Thái úy hãy vì xã tắc mà tiếp tục cầm quân cho đến khi Hoàng thượng trưởng thành, đích thân nhiếp chính.
- Đa tạ Thái phó phân giải.
Công hỏi Đỗ An Di :
- Hiện các người giam Bảo Quốc vương ở đâu ? Giam vì tội gì ?
Trần Trung Tá lấm lét nhìn thanh kiếm của Thủ Huy rồi run run đáp :
- Thưa vì nhiều tội. Nhưng tội nặng nhất là mưu phản, soán ngôi, phải giết cả nhà. Tội này không được hưởng Bát nghị.
- Thế ai ra lệnh bắt giam Bảo Quốc vương ?
- Ba vị phụ chính đại thần cùng tâu lên Chiêu thiên Chí lý thái hậu. Thái hậu đồng ý.
Thủ Huy cười nhạt :
- Hôm qua, Trần ngự sử bò xuống đất như chó bò, tôn anh Long Xưởng, những gì là Vô thượng, Chí tôn, Đại thánh hoàng đế, rồi kết tội tôi đến 180 điều. Sau hôm nay lại kết tội anh Long Xưởng đủ mọi tội dễ dàng như vậy ?
Trung Tá đáp không suy nghĩ :
- Khi người nào làm chủ được gươm đao, thì bao nhiêu cái tốt, cái đẹp thuộc về người đó. Khi người nào bị gươm đao quản thúc thì bao nhiêu cái xấu, cái bẩn người đó phải lĩnh.
Thủ Huy gật đầu :
- Được ! À thì ra thế.
Công sẽ vỗ vào vai Trung Tá hai cái :
- Thế bây giờ, tôi có còn bị phạm 180 tội nữa không ?
Trung Tá ngập ngừng không trả lời. Thình lình y run lên bần bật :
- Ái ! Lạnh quá ! Ái ! Ái !
- Bây giờ ai làm chủ gươm đao ?
- Thưa, trường hợp này thì phò mã là anh hùng, là trung thần. Phò mã không có tội gì cả.
Đỗ An Di quát lên :
- Thị vệ đâu, ra tay đi thôi.
Y vừa dứt lời, thì thấp thoáng một cái, Thủ Huy đã phóng hai chỉ vào huyệt Độc tỷ của y. Y ngã xuống trước mặt công giống như quỳ vậy. Công lại phóng một chỉ nữa vào huyệt Hạ quan, lập tức miệng y mở ra không được nữa.
Mạc Hiển Tích hô lên một tiếng, đội thị vệ dàn ra trước cửa điện Càn nguyên. Y ra lệnh cho họ xuông vào bắt Thủ Huy.
Trưởng toán thị vệ lưỡng lự giây lát, rồi y tới trước mặt Thủ Huy, khoanh tay :
- Thuộc hạ chờ lệnh phò mã Thái úy.
- Người hãy trấn các cửa cung này, không cho bất cứ ai ra, vào.
- Tuân lệnh Thái úy.
Đám văn quan tuyệt không ngờ uy tín của Thủ Huy lại mãnh liệt đến như vậy. Mạc Hiển Tích ra ngoài điện gọi gia tướng của phủ Tô, Đỗ mang thân binh vây kín điện Càn nguyên. Nhưng khi y định tràn vào, thì bị thị vệ cản lại.
Thủ Huy nghĩ thầm :
- Long Xưởng phụ ta, chứ ta không phụ Long Xưởng. Bây giờ tuy không thể đem ngôi vua về cho Long Xưởng nữa, thì ít ra, ta cũng cứu mạng cho Long Xưởng, Trang Hòa với con cái của y. Trong tình thế này, ta không dùng võ e không xong.
Công xuyên bên Đông, lách bên Tây mấy cái, tất cả các quan thuộc phe đảng của Tô Hiến Thành, Đỗ An Di đã bị điểm huyệt hết. Trừ Lý Kính Tu là nhà nho trung chính, công không đụng đến. Công đưa mắt cho vợ :
- Em kiềm chế tên Mạc Hiển Tích cho anh.
Thấp thoáng bóng trắng, Đoan Nghi đã xẹt ra cửa điện, nàng tung mình đến trước Mạc Hiển Tích, tay rút kiếm đưa vào cổ y. Kinh hãi y lộn liền hai vòng để tránh kiếm, nhưng khi y vừa ngừng lại, đã bị Đoan Nghi điểm huyệt. Bọn gia tướng Tô, Đỗ hò hét, định buông tên tấn công Đoan Nghi, nhưng sợ trúng Mạc. Đoan Nghi tung Mạc vào trong điện. Y rơi xuống trước mặt Thủ Huy, rồi bóng trắng thấp thoáng, nàng đã vỗ tay vào vai bọn gia tướng Tô, Đỗ. Lập tức chúng rùng mình hét lên tỏ vẻ đau đớn cùng cực.
Đoan Nghi ra lệnh :
- Các người muốn sống thì dàn thủ hạ quanh điện này, tuyệt đối theo lệnh ta.
Bọn gia tướng Tô, Đỗ run run, tuân lệnh răm rắp.
Thủ Huy hỏi Lý Kính Tu :
- Quan Thái phó là nhà nho chính nhân quân tử. Xin quan Thái phó dạy cho một lời.
Sắc mặt không đổi, Lý Kính Tu bước ra cung tay :
- Thưa phò mã, xét theo nghĩa kinh Xuân thu, thì việc Tô đại nhân, Đỗ đại nhân căn cứ vào việc đức Anh tông ban chỉ truất phế Thái tử Long Xưởng, lập hoàng tử Long Trát lên thay, mà phò Thái tử lên ngôi vua, là hợp với luật lệ. Nhưng có điều hà tì, vì sau đó đức Anh tông lại tuyên chỉ bỏ hai sắc chỉ kia, duy trì tình trạng cũ. Còn ba vương Kiến Tĩnh, Kiến An, Kiến Ninh, với phò mã khuông phò Thái tử Long Xưởng vì căn cứ vào việc đức Anh tông tuyên chỉ tái duy trì thái tử Long Xưởng ở ngôi Đông cung thì hợp đạo lý. Nhưng có điểm hà tì, vì khẩu thiệt vô bằng. Xét về lý thì nhị vị Tô, Đỗ đúng hơn phò mã. Xét về tình thì phò mã đúng hơn. Nhưng thưa phò mã, việc quốc gia đại sự, thì phải dùng lý, chứ không thể dùng tình.
Thủ Huy gật đầu :
- Thái phó luận đúng.
- Bây giờ bàn chung, thì Thái tử Long Xưởng không thể lên ngôi bảo tộ được nữa, vì ba lý. Lý thứ nhất, khi cha mắng con, thì con không thể cãi. Đức Anh tông ban chỉ thống mạ Thái tử Long Xưởng, chỉ đó đã truyền đến khắp các thôn, xóm... thì Thái tử không còn đủ đức lên ngôi nữa. Lý thứ nhì, là hôm qua, chính Thái tử đã ký vào chỉ tôn Thái tử Long Trát lên làm Trinh phù hoàng đế rồi, thì người không thể hạ Trinh phù hoàng đế xuống. Tôi hạ vua xuống thì là gian thần tặc tử. Lý thứ ba, là Thái tử Long Xưởng có Tam vương, phò mã, công chúa khuông phò, thì lên ngôi, mới vững mạnh. Hôm qua Thái tử xua đuổi phò mã, công chúa, cùng chư tướng, mà sau đó bị hạ bệ. Nếu nay người trở lại ngôi vua, thì ai là người khuông phò ? Ấy là không kể người sẽ giết hết các đại thần, kể cả phò mã, công chúa để trả hận.
Ông nhìn Đỗ An Di :
- Còn như quan Thái sư dùng gia tướng, gia binh hai phủ Tô, Đỗ rồi câu lưu Bảo Quốc đại vương, cùng gia nhân vương phủ rồi hạ ngục là lấn quyền, là vi luật. Bởi xét về tình, về lý đều đáng kết tội. Hành động này là đi vào con đường của ác nhân Đỗ Anh Vũ. Vì sao ? Xét về tình, thì người là Thái sư đồng bình chương sự, vì muốn bảo vệ em gái là Chiêu thiên Chí lý thái hậu, với cháu là Trinh phù hoàng đế không ổn. Bởi khi phò mã Thái úy rút quân đi, quan Phụ chính Tô Hiến Thành vào ngục cứu Thái hậu, Hoàng thượng ra, Bảo Quốc vương đâu còn binh lực trong tay ? Còn như về lý, khi muốn câu lưu Bảo Quốc vương, thì Tô đại nhân tâu với nhị vị thái hậu, rồi lại họp tất cả phụ chính đại thần, ban chỉ giáng tước Bảo Quốc đại vương xuống thành thứ dân, sau đó mới xử theo luật. Hành động đó của Thái sư, coi như làm loạn. Trong khi Trần phò mã vẫn còn là
Thái úy. Phò mã điểm huyệt Thái sư , là dẹp loạn, lại đúng luật.
Thủ Huy xá Kính Tu :
- Đa tạ Thái phó đã nêu rõ đạo lý.
Công quay lại hỏi Linh Khang thái hoàng thái phi :
- Thần nhi xin lắng tai nghe chỉ dụ của bệ hạ.
Linh Khang ban chỉ :
- Cứ như già này nghĩ, hiện ấu quân chưa quyết được việc nước. Hiện nay chư sự lớn nhỏ cần có bốn vị đại thần. Thiếu một vị, e không xong. Vị thứ nhất, thì Đại hành hoàng đế đã ban chỉ phong cho Tô lão thần làm Thái úy phụ chính, Bình chương quân quốc trọng sự, Đỗ quốc trượng làm Thái sư đồng bình chương sự, Lý thượng thư làm Thái phó. Thế nhưng nay, nếu không có Trần phò mã thì nước loạn. Vậy Trần phò mã phải dự vào hàng phụ chính để nước được yên. Ngặt vì trong quá khứ, giữa Trần phò mã với Tô, Đỗ có chỗ không thuận với nhau, thì làm sao bây giờ ? Già này nghĩ, ta trở lại như thời vua Thái tổ, Thái tông, Thánh tông trao việc trấn ngự biên cương cho phò mã công chúa, mà cử Đoan Nghi với Thủ Huy vào chức đó. Khác đôi chút là trước kia chức Tổng lĩnh Thiên tử binh, Thủy quân, Kị binh, Ngưu binh vẫn trực thuộc Thái úy. Nay Tô Thái úy bận việc phụ chính, thì các lực lượng này đặt trực thuộc Trần phò mã, để trấn ngự biên thùy. Vậy thì Tô Thái úy hãy rời chức Thái úy, để chức này cho Trần phò mã đảm trách. Tô Thái úy là Phụ chính đại thần cũng đủ rồi. Mỗi khi phải quyết một việc lớn thì cả Tứ trụ triều đình phải hội ý với nhau, cho tới khi ấu quân tới tuổi mười ba là tuổi trưởng thành.
Bà ngừng lại một lát rồi tiếp :
- Ngay bây giờ, để có thể giải cái nguy chư tướng làm loạn, Tứ trụ đại thần thay Trinh Phù ban chỉ ân xá cho tất cả tội phạm trong nước, tuyệt đối không bao giờ truy cứu nữa. Như vậy Long Xưởng cũng như những người phò tá Long Xưởng mới yên tâm, mà phò mã cũng không cảm thấy hối hận rằng không cứu chúa cũ, không an bài cho thuộc hạ. Đỗ thái sư cũng được ân xá cái tội lạm quyền.
Chiêu linh, Thánh cảm hoàng thái hậu đặt vấn đề :
- Tâu Thái hoàng thái phi, nếu như bây giờ Thủ Huy buông tha cho mấy lão thần này, rồi sau họ trở mặt, kiếm cớ sát hại Long Xưởng thì sao ?
Linh Khang cười :
- Thái hậu đừng lo. Trước kia Cảm Thánh, Anh Vũ làm lộng, Minh Đạo vương có thể giết được chúng mà không muốn. Tình thế bây giờ khác. Nếu như sau này, các vị Tô, Đỗ, Lý có kiếm cớ hại Long Xưởng, Thủ Huy, hay chư tướng, thì binh quyền nằm trong tay Thủ Huy, liệu có ai dám làm lộng chăng ? Vả võ công Bảo Quốc vương, vương phi đâu có hèn, mà để các văn thần hãm hại ? Hoặc giả khi Trinh phù lớn lên, mà còn có người nói ra, nói vào để hại Long Xưởng, thì liệu có thoát khỏi lưỡi kiếm của Đoan Nghi với Thủ Huy không ?
Lý Kính Tu tiếp : - Hôm qua, Tô, Đỗ đại nhân có bàn với thần rằng, phò mã, công chúa bỏ về Thiên trường, mà vẫn duy trì hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn thì triều đình không an tâm. Vậy thì thế này : Phò mã dẫn hai đội võ sĩ theo, một là trấn ngự biên cương ; hai là để đền ơn tri ngộ của Anh tông đã sủng ái công chúa Đoan Nghi, tin dùng phò mã. Như vậy thì triều đình được mới an tâm.
- Thủ Huy ! Con nghĩ sao ?

Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu hỏi : Nếu con không ở lại, trấn ngư biên cương, giả như người ta kiếm cớ cách chức chư tướng, rồi hại họ thì sao ?
- Tâu Thái hoàng thái phi ! Thần nhi xin cáo quan về điền dã. Thần nhi không muốn lăn mình vào chốn quan trường nữa.
- Không được !
Linh Khang giảng giải : Nếu con rời quan trường, thì chư tướng không yên tâm. Mỗi người anh hùng một cõi e cái vạ sứ quân khó tránh. Con hãy nán lại, cho đến khi ấu quân trưởng thành.
Bà hỏi Tô, Đỗ, Lý :
- Các vị có nghe lời già này không ?
Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu cùng cúi đầu :
- Xin tuân chỉ thái hoàng thái phi.
Niên hiệu Trinh phù thứ sáu đời vua Cao tông triều Lý nước Đại Việt, bên Trung nguyên là niên hiệu Thuần hy thứ 8 đời Tống Hiếu tông (Tân Sửu, DL. 1181).
Hôm ấy là ngày mùng ba Tết. Tất cả các hạm đội đều kéo về căn cứ Đồn sơn, để tế công chúa Gia Hưng Trần Quốc, Đại đô đốc thời Lĩnh Nam. Việc này, thể theo theo thông lệ từ đời vua Trưng còn truyền lại. Phò mã Tổng trấn Bắc cương cùng công chúa Đoan Nghi từ Lạng châu cũng dẫn chư tướng về tham dự.
Đại đô đốc Phùng Tá Chu, dẫn bốn đô đốc lên bờ, dàn ra đón rước phò mã, công chúa.
Sau buổi lễ, tất cả các tướng chỉ huy Thiên tử binh, Ngưu binh, Kỵ binh, đô đốc Thủy quân cùng tụ lại trên một chiến hạm, để dự tiệc. Tiệc tàn, phò mã Thái úy đứng lên trình bầy tất cả tình hình trong triều :
Sau khi Linh Khang thái hoàng thái phi hòa giải gữa Thủ Huy với ba phụ chính đại thần Tô Hiến Thành, Đỗ An Di, Lý Kính Tu, thì Tứ trụ triều đình được thành lập. Tứ trụ nhân danh phụ chính, ban chỉ ân xá trên toàn quốc, bất kể phạm tội gì, thành án hay chưa thành án. Việc phân quyền định rõ :
- Đỗ Thái hậu buông rèm thính chính.
- Tô Hiến Thành, cùng Vũ Tán Đường làm đệ nhất phụ chính, phụ trách ngoại sự, tức coi các bộ Hình, Hộ, Lại, Công. Dưới quyền có Trần Trung Tá lĩnh bộ Hình ; Ngô Lý Tín lĩnh bộ Hộ ; Ngô Nghĩa Hòa lĩnh bộ Công; Bùi Kinh An lĩnh bộ Lại.
Ba đệ nhị phụ chính là Đỗ An Di, Lý Kính Tu, Trần Thủ Huy, phân quyền như sau :
- Đỗ An Di lĩnh hàm Thái sư, đồng Bình chương sự phụ trách nội sự (nội cung), dưới quyền có Mạc Hiển Tích lĩnh tổng trấn Thăng long; Đàm Dĩ Mông coi cấm quân, thị vệ ; Đào Như Yên tổng lĩnh cung nga, thái giám.
- Lý Kính Tu lĩnh hàm Thái phó, coi việc dạy dỗ ấu quân, kiêm luôn bộ Lễ, giữ quyền Ngự sử.
- Trần Thủ Huy lĩnh hàm Thái úy, giữ quyền quân sự. Tổng trấn biên cương cả Bắc, Tây, Nam. Dưới quyền có Phí Công Tín lĩnh bộ Binh ; Lưu Khánh Bình quản Khu mật viện ; Phùng Tá Chu lĩnh quyền Đại đô đốc ; Tăng Khoa lĩnh Kị binh, Ngưu binh.
Trong buổi thiết đại triều đầu tiên, có sự bất đồng ý kiến giữa các vị phụ chính. Phía Tô Hiến Thành, Đỗ An Di thì muốn gửi sứ sang Tống cáo tang, cầu phong cho tân quân. Phía Vũ Tán Đường, Trần Thủ Huy thì lại muốn gửi sứ cáo tang với tất cả các nước Tống, Kim, Chiêm, Lào, Xiêm, Chân lạp, Mông cổ, Đại lý, Tây hạ, Thổ phồn, chứ không chỉ một mình Tống. Còn việc cầu phong thì không cần. Đại Việt với Tống ngang với nhau, việc gì phải khuất thân làm tôi đòi. Lệ tiến cống cũng bỏ luôn. Phía Lý Kính Tu thì trung dung, chỉ bỏ tiến cống, mà vẫn gửi sứ sang cầu phong.
Hai bên tranh luận hơn hai ngày mà không kết quả. Cuối cùng, thì Lý Kính Tu nghiêng về phía Thủ Huy. Vị Thái phó này hiểu rõ Thủ Huy hơn ai hết : Ví dù triều đình muốn gửi sứ sang cầu phong, tiến cống, rồi sứ Tống sang phong cho ấu quân cũng không thực hiện được. Bởi Thủ Huy trị quân rất nghiêm, đương thời người ta nói : Một con chồn, con cáo băng qua biên giới, vị phò mã trẻ này cũng biết. Nay người đã không đồng ý, thì khi sứ Việt, sứ Tống qua biên giới, e khó mà toàn tính mạng.

******
Ghi chú của thuật giả.
Tôi đã khảo hết công trình của các nhà soạn cổ sử Việt, như Lê Văn Hưu, Hồ Tông Thốc, Trần Chu Phổ, Ngô Sĩ Liên, Phan Thanh Giản trong các bộ Đại Việt sử ký, Việt sử cương mục, Việt chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Trung hoa như Thoát Thoát, Âu Dương Tu, Lý Đào trong các bộ Tống sử, Tư trị thông giám cương mục, Tục Tư trị thông giám trường biên.Tôi thấy một điều bất thường trong bang giao Hoa Việt : Thông thường khi vua Việt băng hà, thì triều đình gửi sứ sang cáo tang, cầu phong cho tân quân. Sau đó sứ Trung quốc sang điếu tang, phong cho tân quân. Thế mà từ khi vua Anh tông băng, vua Cao tông lên thay vào năm Ất Mùi đến năm Bính Ngọ (1175 1186), mười năm dài, không thấy sách nào chép việc hai bên trao đổi sứ thần. Mãi tới năm 1186 ĐVSKTT chép :
Niên hiệu Trinh phù thứ 11 (DL.1186 Bính Ngọ), Tống Thuần hy năm thứ 13.
Mùa Xuân tháng Giêng triều Tống phong cho vua làm An Nam quốc vương, chế thư đại lược nói ị Ngay bắt đầu đã phong cho tước ấp ở một nước yên vui, được theo lệ cha truyền, con nối. Lại ban sắc thực thụ tước vương, cần gì phải đợi thăng dần.
Duy Tống sử quyển 488 đá thêm một câu: Tước ấy đã được phong ngay năm Thuần hy thứ tư (1177) Ể. Tôi nghĩ các sử thần triều Nguyên khi chép Tống sử, suy đoán, rồi ghi lấy lệ, chứ sư thực không có. Nếu đã phong năm 1177 tại sao năm 1186 lại phong nữa ! ! !
Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới biết sự thực về việc này mà thôi.

******
Trong nước dưới tài cai trị của Tô Hiến Thành, dân chúng sống yên vui, no đủ. Ngoài biên thùy với tài quân sự của Thủ Huy, Đoan Nghi, Tống phải nể, Chiêm phải sợ. Tống triều ban chỉ cho các đại thần Nam thùy phải hết sức tránh đụng chạm với An Nam. Với đức của Lý Kính Tu, học phong trong nước bừng lên một thời.
Nhưng chỉ được bốn năm. Niên hiệu trinh Phù thứ tư tháng 6 mùa Hạ, thì Trung nghĩa vương Tô Hiến Thành hoăng. Khi Tô nằm trên dường bệnh Đỗ thái hậu hỏi các vị đại thần rằng nên cử ai thay thế ? Lý Kính Tu, Trần Thủ Huy cùng hầu hết các quan tâu xin trao cho Vũ Tán Đường. Vì Vũ là người trung chính, hiền hậu, lại có tài cai trị. Thái hậu tới thăm Tô, hỏi rằng ai có thể thay thế. Tô tâu nên cho Trần Trung Tá. Nhưng khi Tô hoăng rồi, Đỗ thái hậu cử anh là Đỗ An Di làm Thái sư phụ chính, cho Trần Trung Tá về hưu. Lại cử Mạc Hiển Tích thay Di coi nội sự.
Từ khi Bảo Quốc đại vương Long Xưởng với gia thuộc được ân xá. Vương phải rời Đông cung, dọn ra phủ đệ riêng ở huyện Gia lâm. Lúc đầu mỗi tháng, trong các lần thiết đại triều thì Đỗ An Di còn cho người thỉnh vương vào chầu. Dần dần, triều đình không liên lạc với vương nữa. Vương sống trong trang ấp như một phú gia. Trước kia, gia khách của vương có hàng nghìn, hàng vạn ; toàn những danh sĩ, cao tăng hoặc võ lâm cao thủ. Từ sau ngày vương trở mặt với phái Đông a trên con thuyền ở hồ Tây, xua đuổi Thủ Huy, Đoan Nghi, Tăng Khoa, Đào Duy, Đào Như Như rồi đưa đến bị hạ bệ... thì không còn ai muốn ra vào cửa nhà vương nữa. Thảng hoặc, có người nhớ tình cố cựu tới thăm vương, thì khi trở về bị Đỗ An Di sai thị vệ bắt giam, điều tra. Riết rồi vương sống cô độc trong phủ đệ.
Tuy vậy vương cũng bỏ tiền ra chiêu tập bọn vong mạng, bọn đầu trộm đuôi cướp làm gia tướng, thân binh. Vương luôn theo dõi tin tức của triều đình.
Tin từ nội cung đưa ra : Suốt bốn năm qua, lợi dụng chức vụ tổng lĩnh cấm quân, thị vệ, Mạc Hiển Tích vẫn âm thầm tư thông với Đỗ thái hậu. Hồi đầu y còn lẻn vào Hoàng cung trong đêm. Nay Đỗ An Di nắm quyền phụ chính, y được coi nội sự, thì y không còn kiêng nể ai nữa. Y công khai ngủ tại cung Chiêu thiên, hống hách với cung nga, thái giám. Các quan trong triều sợ y, không ai dám nói gì cả. Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích nắm hết quyền hành. Trong triều thì các quan bất mãn, chán nản, bên ngoài dân chúng thì thầm, nguyền rủa Đỗ, Mạc là hai ác nhân như Đỗ Anh Vũ xưa. Do vậy nhiều võ lâm, sĩ dân bất mãn, theo về với Bảo Quốc vương. Mỗi khi một tin báo về việc Đỗ An Di chuyên quyền, Mạc Hiển Tích hống hách, thì vương nghiến răng nguyền rủa thề phải giết sạch bọn họ Đỗ, Mạc đoạt lại ngôi vua.
Niên hiệu Trinh phù thứ 6 (DL.1181, Tân Sửu), vào ngày tết Nguyên đán, vương dẫn vương phi cùng các thế tử, quận chúa nhập Hoàng thành chúc tết mẫu thân là Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu. Nhân dịp này, vương khóc lóc, than thở tình trạng Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích lạm quyền, hành xử như hoàng đế. Hai người này cô lập vương. Vì vậy vương xin thái hậu giúp vương lên ngôi vua để tái lập uy quyền chính thống. Lúc đầu thái hậu còn từ chối, sau vương năn nỉ mãi, hậu mới thuận.
Kế hoạch dự trù như sau : Nhân ngày lễ Thượng nguyên (15 tháng Giêng), Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích, phò Trinh phù hoàng đế với Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu về Cổ pháp tế tiên đế. Vương hành động bằng bốn mặt trận. Mặt thứ nhất. Sai gia tướng, thân binh âm thầm đột nhập ẩn trong cung Chiêu Linh. Thái hậu ban chỉ gọi các đại thần vào Hoàng thành ăn yến, rồi nhân đó tuyên chỉ phế Trinh phù hoàng đế lúc này mới 6 tuổi xuống, lập Bảo Quốc vương lên. Ai nghe theo thì được thăng chức tước. Ai chống thì đem giết ngay. Mặt thứ nhì, vương sai sứ lên Bắc cương tuyên chỉ gọi Thủ Huy, Đoan Nghi mang ba hiệu Thiên tử binh Ngự long, Quảng vũ, Quảng thánh đóng gần Thăng long, tiến về chiếm các cửa thành, lục bộ, các điện. Mặt thứ ba, gọi Tăng Khoa, đem thiết kỵ về Cổ pháp giết mẹ con Trinh phù hoàng đế cùng Đỗ An Di. Mặt thứ tư, vương ban chỉ cho Phùng Tá Chu đem thủy quân về phong tỏa các sông ngòi quanh Thăng long. Bốn mặt cùng khởi sự vào đúng ngày rằm.
Khi sứ của vương tới bản doanh Tăng Khoa, Tá Chu. Hai người kinh hoảng, vội dẫn sứ lên Lạng châu thỉnh lệnh Thủ Huy. Thủ Huy họp Đoan Nghi, Tá Chu, Tăng Khoa lại, để cùng lấy quyết định.
Nghe Thủ Huy trình bầy, các võ tướng cùng trầm tư suy nghĩ.
Đào Như Như bàn :
- Trinh phù lên ngôi vua đã sáu năm. Trước Tô Hiến Thành phụ chính, chúng ta cầm quân, mà khiến cho Chiêm sợ, Tống nể, trong nước không giặc cướp, dân chúng sống ấm no. Bây giờ chúng ta vì chút tình cũ mà làm chuyện phế lập khiến cho nước đang an thành loạn thì tội chúng ta phải chịu. Ta chẳng nên nghe theo Bảo Quốc vương.
Tăng Khoa tiếp lời vợ :
- Trước kia, chúng ta kết huynh đệ với vương mong duy trì cái chí của tiền nhân. Thế mà sự mới sắp thành, vương đã trở mặt với chúng ta. Giá như hồi ấy, bọn Đỗ An Di không hạ vương xuống , thì khi lên ngôi vương cũng đã giết chúng ta, để chạy tội. Giả như bây giờ, ta giúp vương thành công, thì chắc vương cũng giết chúng ta để nói với quốc dân rằng bọn ta thí chúa, chứ vương không có ý đó.
Đoan Nghi đề nghị :
- Chúng ta truyền sứ giả trở về phục mệnh anh ấy rằng : Sự bất quá tam. Lần thứ nhất ta đem quân về khi bọn Vương Cương Trung uy hiếp phụ hoàng, cầm tù anh ấy, kết quả anh ấy tha cho chúng. Lần thứ nhì, ta đem quân về khuông phò, đưa anh ấy lên ngôi. Khi sự vừa thành, thì anh ấy xua đuổi chúng ta, trọng đãi kẻ thù bao năm của anh ấy. Vì vậy võ lâm, kẻ sĩ trong nước đều bỏ anh ấy. Chúng ta ngu mà theo phò anh ấy bao năm, đem quân về giúp anh ấy hai lần. Bây giờ chúng ta không ngu lần thứ ba nữa. Xin anh ấy hãy sống yên phận.
- Thưa điện hạ !
Tá Chu bàn : Việc không giản dị như vậy. Bảo Quốc vương chuẩn bị việc này, trước sau gì cũng lộ ra. Việc lộ ra thì không những vương bị chặt đầu, mà tất cả gia nhân vương phủ cũng bị giết. Còn chúng ta, chúng ta biết âm mưu tạo phản mà không tố giác, thì cũng bị tội như chính phạm. Thần nghĩ, ta phải hành động cho quang minh lỗi lạc, mới cứu được vương, mới tự cứu được chúng ta.
- Ý Đại đô đốc muốn nói ?
- Ta phải sai người khẩn báo cho phụ chính đại thần Đỗ An Di, Lý Kính Tu, Vũ Tán Đường ; mà báo bằng thư, chứ không phải bằng lời ; về việc làm của Bảo Quốc vương. Lại trói ba sứ giả lại, rồi giải thẳng về Cổ pháp, chém đầu trong ngày tế tiên đế. Một mặt sai Tăng Khoa dàn Kị binh bảo vệ lăng tẩm. Thần sẽ đem Thủy quân dàn trên sông Hồng, bảo vệ Thăng long. Dĩ nhiên sau đó nhị vị Thái hậu với Tứ trụ triều đình họp lại nghị tội vương. Vì ta hành sự quang minh, chính đạo, ta có thế mạnh, ta xin ân xá cho vương.
Thủ Huy sai ba sứ giả lên đường liền. Một người đi Cổ pháp tâu lên nhà vua. Một người về Thăng long cáo với Vũ Tán Đường, Phí Công Tín, Ngô Lý Tín biết, mà đề phòng. Một người báo cho Long Xưởng biết để ngừng lại, bằng không e toàn gia sẽ bị tru lục.

Ghi chú của thuật giả.
Thế nhưng.
Hỡi ơi...nhưng.
Huyền sử kể rằng : Viên sứ giả có bổn phận báo cho Long Xưởng biết rằng Thủ Huy cũng như chư tướng không theo vương ; khi trên đường về Gia lâm, ngựa của y vấp ngã, quật y xuống đất, đầu va vào tảng đá mà chết. Thành ra , thư của Đoan Nghi gửi không tới tay vương. Trong khi quân do thám của Long Xưởng thấy Thủy quân, Kị binh, Thiên tử binh tiến về Thăng long; báo cho vương. Tưởng Thủ Huy theo mình, vương mừng run lên, truyền lệnh gia tướng, thân binh, âm thầm mang vũ khí vào Hoàng thành sáng sớm ngày rằm tháng giêng, và khởi sự chiếm các cung điện vào giờ Thìn.
Đúng là thời đã đi qua, anh hùng ôm hận.

******
Giờ Dần, sáng rằm tháng giêng, Đỗ An Di, Lý Kính Tu, Mạc Hiển Tích cùng đoàn cấm quân hơn năm trăm người, hai trăm thị vệ, hộ giá Đỗ thái hậu, Trinh phù hoàng đế về Cổ pháp để tế các vị tiên đế. Trong chuyến đi này còn có cả Kiến Khang vương Long Ích, Kiến Bình vương Long Tường. Sang giờ Thìn, đoàn xa giá đi vào địa phận Cổ pháp. Xa xa đã thấy lăng tẩm hiện ra.
Thình lình, một kị mã phi như bay đuổi theo. Y xưng là gia tướng của Thái sư Đỗ An Di, xin gặp Thái sư để báo một tin hỏa tốc.
Vừa thấy y, Đỗ An Di đã nhận ra : Y có tên Đỗ Du, nguyên là một tên cướp, bị bắt, đáng lẽ y bị xử tử. Di thấy y cùng họ, tha cho y, rồi sai tiềm ẩn làm gia tướng cho Bảo Quốc vương. Đỗ Du thở dốc, tỏ ra vừa trải qua một cuộc phi ngựa khẩn cấp :
- Thưa Thái sư, Bảo Quốc vương làm loạn. Gia tướng, gia binh của vương chiếm các điện trong Hoàng thành. Ba hiệu binh Ngự long, Quảng vũ, Quảng thánh đang tiến vào Kinh thành. Thủy quân dàn ra phong tỏa hết các sông. Còn Kị binh chia làm hai cánh. Một cánh bao vây lăng tẩm Cổ pháp. Một cánh đang đuổi theo xa giá. Chúng được lệnh giết Thái hậu, Hoàng thượng và Thái sư tại lăng tẩm.
Du vừa dứt lời thì viên đô thống chỉ huy cấm quân báo :
- Thưa Thái sư, phía trước Kị binh dàn ra hai bên đường và trấn quanh lăng tẩm. Không rõ ý định.
Đỗ An Di ra lệnh cho Mạc Hiển Tích :
- Người thử lên xem xét tình hình, rồi đối phó.
Đến đó có tiếng ngựa hí, quân reo. An Di nhìn về phía sau, y phát rùng mình : Kị binh cờ xí nghiêm chỉnh, đang rầm rập đuổi theo, tiếng vó ngựa gõ lốp cốp trên đường. Trống thúc vang dậy. Y thất kinh hồn vía, vì cho rằng Thủ Huy, Tăng Khoa theo Long Xưởng làm loạn. Y bàn với Đỗ Thái hậu, Lý Kính Tu rằng :
- Chúng ta chỉ có hai trăm thị vệ, năm trăm cấm quân, thì chống sao nổi với hiệu Kị binh Phù Đổng hơn vạn người ? Chi bằng chúng ta đầu hàng Long Xưởng, rồi xin đư
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #30  
Old 06-19-2004, 04:28 PM
egeo's Avatar
egeo egeo is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: lo` ruou.
Bài gởi: 2,098
Send a message via ICQ to egeo Send a message via Yahoo to egeo
Default



C26:NGUYÊN TỔ HỌ LÝ HÀN QUỐC.

Tháng Giêng, niên hiệu Trinh phù thứ 11 (DL. 1186, Bính Ngo. Từ tháng 7 về sau, cải nguyên là Thiên tư Gia thụy) triều đình thiết đại triều giữa mùng một tết. Đây là lần đầu tiên trong suốt mười năm qua, mới có một buổi thiết triều, với sự hiện diện đầy đủ các thân vương, phò mã, công chúa, văn võ đại thần tại triều cũng như tại các trấn, phủ, huyện.
Buổi thiết đại triều do Thái phó Lý Kính Tu, thầy của vua triệu tập. Từ trong triều đến ngòa trấn, dĩ chí đến dân chúng, ai cũng biết : Năm nay nhà vua 13 tuổi, bắt đầu chấp chính. Đây là buổi thiết triều đầu tiên, mà nhà vua cầm quyền thực sự. Theo lời tâu của Lý Thái phó thì :
Luật triều Lý, định rằng đến tuổi 13, nếu là hoàng tử thì cho mở phủ đệ riêng. Là công chúa thì cho hạ giá (gả chồng). Còn nhà vua thì không theo luật ấy mà theo điển lệ áp dụng vào thời vua Nhân tông, Anh tông. Hai vua Nhân tông, Anh tông lên ngôi vua từ thuở còn thơ. Thái hậu buông rèm thính chính, cạnh vua có các đại thần phụ chính. Đến năm 13 tuổi, thì thái hậu lui vào hậu cung, các chức phụ chính đều bãi bỏ.
Vì vậy sau buổi thiết triều này, Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu họ Đỗ không thính chính nữa. Bốn phụ chính Đỗ An Di, Lý Kính Tu, Vũ Tán Đường, Trần Thủ Huy sẽ lui về nhiệm vụ của mình.
Một điều cực kỳ quan trọng : Trước đây phò mã Trần Thủ Huy, công chúa Đoan Nghi đã khẳng định rằng, để tránh nội loạn, hai vị nhận làm phụ chính đại thần cho tới khi nhà vua trưởng thành chấp chính. Hôm nay là ngày quy ẩn của phò mã với công chúa. Vì ân đức của công chúa quá rộng, quá lớn, trải từ trong triều tới thôn ấp, nên khi nghe tin công chúa lui về điền dã, thì trăm quan, dân chúng đều cảm thấy buồn bã.
Thái sư Đỗ An Di được phong chức Phụ quốc Thái úy, Bình chương quân quốc trọng sự, nghĩa là vẫn nắm quyền phụ chính của một văn quan kiêm chức vụ quân sự của Thủ Huy. Thái phó Lý Kính Tu cải phong kiêm đồng bình chương sự. Mạc Hiển Tích cải phong Thiếu sư, Thượng thư tả bộc xạ.
Ba hồi chiêng trống, nhạc tấu bản Nguyên thọ. Nhà vua từ trong đi ra. Trừ hai vương Kiến Khang, Kiến Bình, các công chúa, phò mã, Tứ trụ triều đình ; còn lại các quan văn võ hai hàng quỳ gối tung hô vạn tuế. Ngoài sân điện Càn nguyên, Lôi tiễn bắn ba mũi. Lập tức ba vệt xanh đỏ vọt lên bầu trời, nổ ba tiếng lớn, tỏa ra ánh sáng ngũ sắc. Đó là hiệu báo cho trăm họ biết, vua bắt đầu chấp chính. Thế là trong Hoàng thành, Kinh thành, dân chúng đốt pháo mừng Xuân, mừng tân quân trị vì.
Quan Thái phó Lý Kính Tu thay mặt các quan chúc mừng thái hậu, nhà vua nhân dịp năm mới. Nhà vua tuyên chỉ :
- Phụ hoàng băng hà, trao ngôi trời cho trẫm, khi trẫm còn thơ. Mười năm qua, nhờ liệt tổ phù hộ, nhờ chư khanh phò tá, mà dân giầu, nước mạnh. Hôm nay là ngày đầu tiên trẫm thân chấp chính. Tuy vậy trẫm cũng phải nhờ sức chư khanh.
Tiếp theo, nhà vua ban chỉ thăng chức tước cho toàn thể các quan trên toàn quốc. Lại ban chỉ ân xá cho các phạm nhân khinh tội, giảm án cho phạm nhân trọng tội, rồi tuyên chỉ giữ nguyên các phép cũ.
Lý Kính Tu tâu :
- Phò mã Thái úy, Tả kim ngô đại tướng quân, Côi sơn quốc công, cùng trưởng công chúa được bệ hạ chuẩn cho hồi hưu. Phò mã đã bàn giao chức vụ cho Thái sư Đỗ An Di. Hôm nay triều đình tiễn phò mã về điền dã. Không biết bệ hạ có chỉ dụ gì không ?
Nhà vua bước xuống ngai vàng, cầm tay công chúa Đoan Nghi, nói bằng ngôn từ bình dân :
- Chị ! Em nghe nói hồi phụ hoàng còn tại thế, người cực kỳ sủng ái chị với anh Thủ Huy. Khi em ra đời, người ta ác miệng vu cho em là con hoang của Tuyên phi với Mạc Hiển Tích để mưu soán ngôi. Chỉ duy anh Thủ Huy là cãi rằng em giống phụ hoàng như hai giọt nước, rồi bỏ tình riêng với anh Long Xưởng mà cứu em bao phen. Mấy năm trước anh Long Xưởng mưu giết em chiếm ngôi. Nếu không có anh chị thì em đã chết rồi. Mười năm qua, anh chị trấn ngự biên cương, khiến nước lớn sợ, nước nhỏ kính. Công lao đó em không bao giờ quên.
Hai giọt nước mắt chảy trên gò má, nhà vua nói tiếp :
- Tuy em còn thơ, thế nhưng anh chị vẫn hành xử với em ra phận chúa tôi. Còn em, bề ngoài em gọi chị là chị, chứ thực ra, trong tâm em đối với chị như một bà mẹ. Em vẫn ước ao được học võ công của anh chị. Tiếc rằng anh chị trấn ngự biên cương, thành ra chỉ Long Ích, Long Tường được anh chị dạy dỗ. Bây giờ anh chị về điền dã, em cảm thấy cô đơn quá.
Đoan Nghi nắm chặt tay nhà vua :
- Xưa, tài trí nghiêng trời lệch đất như Linh Nhân hoàng thái hậu, uy dũng cổ kim khó ai hơn như Thái úy Lý Thường Kiệt ; mà cũng khoanh tay đứng ngoài, khi đức Nhân tông nhà ta chấp chính vào tuổi mười ba. Nay em cũng đã vào tuổi đó rồi, thì phải tự quyết, để chăn dắt trăm họ. Liệt tổ Đại Việt sẽ phù hộ cho em. Chư vị tiên đế sẽ giúp em.
Nghe Đoan Nghi nói câu này, thì toàn thể các quan đều đưa mắt nhìn Đỗ thái hậu với Đỗ An Di. Họ hiểu vị công chúa này muốn nói :
- Nhà vua chấp chính, thì Đỗ thái hậu, Đỗ An Di hãy tự biết mình, tài trí thua xa Linh Nhân hoàng thái hậu với Thái úy Lý Thường Kiệt thì không còn lý do gì xen vào việc triều chính nữa.
Mặt Đỗ thái hậu, An Di cau lại, thực khó coi.
Nhà vua hỏi Thủ Huy :
- Anh Thủ Huy ơi ! Quan Lý Thái phó, thầy em thường nói : Khi xưa, tổ của anh là Kinh Nam vương, có tặng cho đức Nhân tông ba bảo bối giữ nước. Vậy, bây giờ anh có gì cho em không ?
Thủ Huy đưa mắt nhìn Đỗ An Di, rồi nói :
- Bảo bối mà Kinh Nam vương tặng đức Nhân tông gồm có ba món. Một là, tuân theo những phép tắc của đức Thánh tông để lại. Hai là giữ hòa khí trong hoàng tộc, đừng để người ngoài chia rẽ tình ruột thịt. Ba là, vĩnh viễn không tăng thuế. Bây giờ thần cũng dâng bệ hạ ba khoản. Một là, bệ hạ có một nho gia chính khí dọc ngang trời đất lĩnh chức Thái phó. Vậy việc nội trị nhất nhất nghe theo người.
Nghe Thủ Huy nói, quần thần đều đưa mắt nhìn Lý Kính Tu.
- Hai là, việc giao thiệp với các nước, thần đã đặt thành nền móng, xin giữ nguyên. Ba là, phàm làm vua phải tránh ba điều : Điều một là mê sắc đẹp, ham săn bắn, rượu chè, yến tiệc âm nhạc ; điều hai là xây dinh thự, cung điện cao đẹp ; điều ba là tăng thuế. Phạm vào một trong ba điều đó thì mất nước.

******
Ghi chú của thuật giả.
Sau này, khi Thái phó Lý Kính Tu qua đời rồi, vua Cao tông quên lời dặn của Thủ Huy. Nhà vua mê sắc đẹp, ham săn bắn, lại rượu chè, yến tiệc, bắt trăm họ phục dịch xây cất cung điện. Do đó dân chúng nổi loạn khắp nơi, rồi đưa đến triều Lý mất nghiệp. Xin đọc các hồi sau.

******
Lý Kính Tu nghe Thủ Huy dặn nhà vua, ông gật đầu tỏ vẻ kính phục. Oạng truyền lễ quan ghi chép ngay tại chỗ, để sau này nhắc lại.
Nhà vua chỉ Kiến Khang vương, Kiến Bình vương hỏi Đoan Nghi :
- Từ hồi ba, bốn tuổi, Long Ích, Long Tường được chị dạy văn, anh Thủ Huy dạy võ. Liệu bây giờ, có thể phò tá em được chưa ?
- Các vị phụ chính danh tiếng cổ kim, đều không phải là người có võ công cao. Thần xin nêu tỷ dụ, như bên Trung nguyên, nhà Chu có Chu công, Thái công ; Hán có Trương Lương, Tiêu Hà. Đại Việt ta, thời vua An Dương có Phương chính hầu Trần Tự Minh, thời Lĩnh Nam có công chúa Nguyệt đức Phùng Vĩnh Hoa. Sáu vị đó võ công đâu có cao ? Thế nhưng tài trí phò tá thiên tử lừng danh thiên cổ. Năm nay Long Ích đã hai mươi tuổi, về võ công thì hiếm thiếu niên ngang tuổi có thể sánh. Song cầm quân, thì Ích dư tài đại tướng. Em nên trao dần binh quyền cho Ích. Còn Long Tường mới mười hai, mà anh tài sớm phát ; Tường tỏ ra có đại tài về thủy quân. Chị sẽ mang Tường về Thiên trường để dạy dỗ tiếp. Sang năm Tường đủ mười ba tuổi, em có thể trao trọng quyền cho Tường.
Nhà vua quay lại hỏi Lý Kính Tu :
- Thưa thầy, theo điển lệ của các vị tiên đế thì khi hoàng tử tới tuổi mười ba sẽ cho mở phủ đệ riêng, rồi trao quyền. Thế sao năm nay Long Ích đã hai mươi tuổi, tuy đã phong vương, cho mở phủ đệ, mà chưa được trao quyền bính !
Kính Tu ngửa mặt nhìn thẳng rồi tâu :
- Khi hoàng tử Long Ích đủ mười ba tuổi, Tứ trụ triều đình có đem vụ này ra nghị sự, rồi làm biểu phong vương. Phò mã Thái úy với thần bàn nên trao cho thống lĩnh Thiên tử binh. Song Đỗ Thái sư , Mạc Thiếu sư không đồng ý. Vụ đưa lên Chiêu Thiên thái hậu, người thuận phong vương cho hoàng tử, được mở phủ đệ riêng, mà bác bỏ việc trao binh quyền, lấy lý do vương còn nhỏ tuổi. Hai năm sau, thần nhắc lại việc trao binh quyền, thái hậu lại bác, vì bấy giờ mới xẩy ra vụ Bảo Quốc vương làm loạn. Bây giờ bệ hạ chấp chính, việc trao quyền là do bệ hạ.
Nghe Kính Tu tâu, mặt thái hậu với An Di, Hiển Tích tái đi, trông thực khó coi. Nhà vua hỏi :
- Thưa thầy, bây giờ, có thể ủy cho Kiến Khang nhiệm vụ gì?
Lý Kính Tu mở sổ Ngọc điệp ra rồi tâu :
- Cứ như điển lệ các tiên đế để lại, xin bệ hạ duyệt qua rồi ban chỉ.
Nhà vua đọc một lượt, rồi tuyên chỉ cho Đỗ An Di:
- Thái sư soạn chỉ, kể từ ngày hôm nay, phong cho Kiến Khang vương chức tước như sau :
Dao thụ Thiếu phó, Thượng trụ quốc, Long thành tiết độ sứ, tổng lĩnh Thiên tử binh, Khu mật viện sứ, Kiến Khang vương Ể.
Kiến Khang vương lạy tạ.
Nhà vua hỏi Lý Kính Tu :
- Thưa thầy, mấy năm trước, Tứ trụ triều đình xin phong cho Long Tường tước Kiến Bình vương. Vì Kiến Bình chưa đủ tuổi trưởng thành, lại ở trên Bắc cương, nên chưa cho mở phủ đệ riêng. Năm tới đây, Kiến Bình đủ tuổi, sẽ cho mở phủ đệ. Vậy nên cho ở phủ nào ?
- Hiện phủ Khai Quốc, không có ai ở. Phủ này lớn, rộng nhất trong các phủ. Phủ cất vào thời đức Thái tổ, cấp cho Khai Quốc vương. Bây giờ có thể cấp cho Kiến Bình vương. Trong khi Kiến Bình với nhũ mẫu là Đoan hòa phu nhân đi Thiên trường, thì tạm giao cho chồng của phu nhân trông coi. Còn các quan của phủ đệ, cũng như cung nga, thái giám thì sẽ do Lê thái phi, sinh mẫu của vương tuyển chọn.
Nhà vua rút thanh Thượng phương bảo kiếm trao cho Đoan Nghi :
- Xưa đức Thái tông trao kiếm cho tổ cô Kim Thành, với chỉ dụ : Thượng trảm hôn quân, hạ trảm gian thần. (Trên được xử tội vua tối ám, dưới được xử gian thần). Nay em cũng trao kiếm này cho anh chị. Trong khi ngao du sơn thủy, nếu anh chị thấy tham quan, cường hào, thì thay em xử tội chúng.
Đoan Nghi rơm rớm nước mắt tiếp kiếm, rồi cùng Thủ Huy rời điện Càn nguyên, tay dắt Kiến Bình vương Long Tường theo. Nhà vua, với các quan đứng nhìn đến khi hai người khuất bóng mới trở vào điện.
Thủ Huy, Đoan Nghi ra khỏi Hoàng thành. Kị binh, Ngưu binh, Thiên tử binh dàn thành hai hàng, hành lễ quân cách tiễn đưa. Tới bến Tiềm long, thì Đại đô đốc Phùng Tá Chu, Vũ kị tướng quân Tăng Khoa, cùng các đô đốc, chư tướng đứng chờ sẵn. Hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn đã dàn trên bến.
Lễ nghi tất.
Lôi tiễn bắn chín phát.
Thủ Huy, Đoan Nghi đi trước, kế tiếp Vương Thúy Thúy dắt Long Tường, rồi tới hai đội võ sĩ Côi sơn, Long biên xuống thuyền của phái Đông a. Thuyền nhổ neo, dương buồm, từ từ rời bến. Hai bên bờ sông, chiến thuyền dàn ra. Trên nóc chiến thuyền, thủy thủ gươm dáo sáng ngời đứng nhìn chúa tướng ra đi. Thủ Huy, Đoan Nghi đứng trên đài chỉ huy vẫy tay từ biệt chư tướng, cho đến khi thuyền xuôi vào cuối giòng sông.
Đường Thăng long, Thiên trường, đi bằng thuyền phải mất nửa ngày. Đã gần mười năm, bây giờ Thủ Huy mới có dịp trở về thăm cố hương đúng vào ngày mùng một tết. Những kỷ niệm về tết thời thơ ấu, hiện ra trong tâm công.

Hồi ấy, cứ đến ngày 23 tháng chạp, bà Tự Hấp sai Thủ Lý điều động các em làm những việc đặc biệt như : Hái một chùm táo chín, cài vào trong Oạng mũ cóc, rồi đem ra treo ở trước ngõ. Đẵn cây tre thực cao, trồng cây nêu ở giữa sân. Từ sân dọc ra ngõ lấy vôi vẽ những mũi dáo, cung tên, mục đích trấn tà ma. Có một năm, anh em vừa vẽ xong, thì ông Tự Hấp đùa :
- Bà sai các con vẽ dáo, cung tên trừ tà ! Tôi nghĩ đến quỷ sống, ma sống nghe tên mình còn phải chạy trốn, thì ma chết, quỷ chết đâu dám bén mảng ?
Từ đó về sau, tết đến, bà Tự Hấp không sai các con vẽ dáo, cung tên trừ tà nữa.
Rồi ngày mùng một tết, tất cả con, cháu, gia nhân tập trung lại, theo thứ tự hành lễ, chúc tết ông nội. Cứ sau khi một người con, cháu chúc tết, ông lại cho một cái túi bằng nhiễu đỏ, trong đựng tiền mừng tuổi.
Khi con thuyền sắp sửa rẽ vào con sông nhỏ, Thủ Huy chợt nhớ một chuyện, công chỉ vào cửa sông, nói với Đoan Nghi :
- Chỗ kia là nơi, mà mười mấy năm trước, Vỵ xuyên ngũ tiên dàn thuyền đánh cá bắt sống bốn trong Ngũ nhạc đại lĩnh của phái Hoa sơn cứu Long Xưởng với anh. Chỗ khúc cong con sông nhỏ là nơi anh Thủ Lý lừa cho thuyền của bọn Hoa sơn mắc cạn, rồi bắt Hoa nhạc tam phong, Tam nương.
- Thế còn chỗ...
Đoan Nghi nhìn Vương Thúy Thúy mỉm cười hỏi : Chỗ nào anh nhìn thấy hết Vân Đài Thúy Thúy ?
Thủ Huy bị vợ trêu, công cười nói lảng :
- Kìa, bến kia rồi, chúng ta chuẩn bị lên bờ chúc tết ông nội với bố mẹ. Trên bến, Thủ Lý Phương Lan ; Trung Từ Bảo Bảo ; Vỵ uyên ngũ tiên cùng chồng đang chờ đợi. Anh em gặp lại nhau trong ngày tết, chuyện trò ríu rít, vui vẻ. Từ ngày ra đời, bây giờ Đoan Nghi mới được hưởng cái tình nhân luân anh em, chị em nồng nàn, đằm thắm của bình dân.
Thấy Phương Lan dắt hai đứa bé trai khôi ngô đứng cạnh, Đoan Nghi hỏi :
- Anh ! Chị ! Hai cháu đây là Tự Thừa với Tự Khánh phải không ?
- Chúng nó nghe chú thím về, xin theo anh chị ra đón chú thím đấy.
Thủ Huy bế bổng Tự Thừa, Đoan Nghi bế Tự Khánh lên, hôn vào má chúng.
- Bọn em thực có lỗi với anh chị.
Thủ Huy than thở: Bốn năm trước ở Bắc cương, chúng em tiếp được tin anh chị sinh cháu Thừa, rồi một năm sau sinh cháu Khánh, mà chúng em không về mừng anh chị được.
Phương Lan xua tay :
- Chị biết chú thím muốn về, mà vì việc quân, nên chú thím gửi quà về cho các cháu, như vậy cũng đủ rồi.
Bà Tự Hấp ra cổng nắm tay Đoan Nghi, nói bằng tất cả tình cảm chân thực:
- Bây giờ mẹ mới tự hào là có cô con dâu ôn nhu, văn nhã, chứ không phải là cô công chúa nữa.
Nhìn thấy Long Tường, bà hỏi :
- Thế, ai đây ?
- Thưa mẹ, em út của con tên Long Tường.
Một tay dắt Đoan Nghi, một tay dắt Long Tường, bà Tự Hấp đi trước, rồi Thủ Lý, Thủ Huy theo sau.
Cả một đại gia đình đang chờ vợ chồng Thủ Huy về ăn tết. Cái tết đoàn tụ mà ông bà Tự Hấp ước mong từ hơn mười năm.
Theo tục lệ thời đó, thì khi con cả lấy vợ, thì được ở chung với bố mẹ. Còn con thứ lấy vợ, nếu nhà rộng thì cũng vẫn ở chung. Còn như nhà hẹp, thì bố mẹ sẽ mua, hoặc cất cho một căn nhà gần nhà mình, để vợ chồng, con cái ở. Tuy nhiên khi ăn, uống thì vẫn ăn chung. Hồi Thủ Huy cưới Đoan Nghi, bà Tự Hấp cất cho vợ chồng Huy một ngôi nhà tranh, vách gỗ ngay cạnh bến sông. Vì Đoan Nghi thích hoa trắng, ông bà trồng cho nàng một vườn mơ, một vườn mận. Thế nhưng hơn mười năm qua, Đoan Nghi chưa bao giờ được nhìn hoa mơ, hoa mận nở cả. Bây giờ nàng theo chồng về đúng vào dịp tết. Vườn mơ, mận của nàng nở trắng xóa một bầu trời. Vợ chồng nhìn vườn hoa, lòng dâng lên một niềm kính yêu bà mẹ, đã chiều theo ý mình.
Văn chương bình dân Việt đã ca tụng cái thanh nhàn của nông dân như sau :
Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Từ hồi lớn lên, bây giờ Thủ Huy Đoan Nghi mới được hưởng cái thú thanh nhàn của ngày Xuân ở thôn quê. Hai vợ chồng tham dự những cuộc đấu gà, chọi trâu, đánh cờ người, đánh đu, bơi thi, leo cầu Ngô, leo cột mỡ, bắt lươn trong chum, cho đến cuộc thi thổi cơm trên mặt nước. Tội nghiệp Long Tường, khi ra đời được mấy tháng thì phụ hoàng băng hà. Trong nội cung, hai bà thái hậu Chiêu Linh, Chiêu Thiên tranh quyền. Bên ngoài thì các anh chém giết nhau. Sợ bị tai bay, vạ gió, nó bị mẹ là Hiền phi Lê Mỹ Nga quản thúc trong cung. Mãi năm năm tuổi, mới được sổ lồng, được gửi lên Bắc biên cho anh rể, chị gái nuôi, trong cái không khí quân lữ, thành ra không có bạn cùng lứa để nô đùa. Bây giờ, nó được tập võ cùng với hàng mấy trăm đệ tử. Được chạy, nhảy nô đùa trong cái không gian tươi sạch, đầy hoa cỏ của đồng quê. Nó cảm thấy hạnh phúc cùng cực. Trong các bạn, có ba người lớn hơn nó bốn năm tuổi, rất hợp tính nó. Một là Vũ Kim, võ công cao hơn nó gấp bội, thường chỉ dẫn cho nó. Hai là Phạm Khải, mưu trí tuyệt vời. Ba là Hoàng Ý rất giỏi thủy tính.
Cuộc sống của Thủ Huy, Đoan Nghi tại thôn trang thực là êm đềm. Hôm nay theo đoàn thuyền đánh cá, ngày mai lại xem tát nước, đánh kỳ, làm cỏ. Lại cũng có ngày theo nông dân đi phá rừng làm ruộng. Đôi khi cỡi trâu, ngao du khắp núi Côi, cũng có lúc theo thuyền đánh cá ra khơi. Trong suốt một năm, vợ chồng mới cảm thấy rằng mình đã để phí mười năm của cuộc sống hoa niên.
Giữa năm đó thì Đoan Nghi sinh ra một trai. Nàng đặt tên là An Quốc. Cũng như tất cả các cháu nội ngoại khác, ông bà Tự Hấp đem về nuôi, dạy chung trong nhà, cho chúng có tình với nhau.
Được một năm êm đềm trôi qua. Hôm ấy, một ngày đầu tháng Chạp, có sứ giả của Thái phi Lê Mỹ Nga xin cầu kiến. Bà là sinh mẫu Long Tường. Sứ giả chuyển chỉ dụ của bà, xin Thủ Huy, Đoan Nghi cho Long Tường về kinh, để ngày mùng một tết nhận chiếu chỉ cầm binh quyền. Sứ giả nói : Trước đây hoàng tử Long Tường đã được phong Kiến Bình vương, nay tới tuổi trưởng thành, mới trao quyền. Đúng ra thì Thái phi sẽ tuyển quan lại, bộc phụ, mã phu, cung nga, thân binh, thị vệ cho Long Tường. Nhưng vì bị Đỗ thái hậu kiềm chế, nghi ngờ, nên phi không biết ai mà tuyển. Phi nhờ công chúa tuyển dùm.
Thủ Huy hỏi :
- Phủ đệ của Kiến Bình vương có thay đổi không ? Hiện ở đâu ?
- Thưa phò mã vẫn không thay đổi, chính là phủ Khai Quốc.
Thủ Huy chỉ Long Tường nói với Đoan Nghi:
- Phủ đệ Khai Quốc rộng lớn nhất trong các phủ đệ của các thân vương. Tường đệ hiện chưa có gia sư, thân binh, cung nga, bộc phu, mã phu. Vậy ta có thể nhờ Trung Từ Bảo Bảo tuyển dùm. Về võ công thì hiện Long Tường không thua bất cứ võ quan nào trong triều. Phủ Khai Quốc quá rộng, nay cho Tường về, ta cũng nên gửi theo y một số cao thủ để làm chân tay thân tín. Em định sao ? Em định tâu xin cho Tường nhiệm vụ gì ?
- Về binh quyền, có bốn chức vụ quan trọng nhất, sau Thái úy. Một là Tổng lĩnh Thiên tử binh. Hai là Đại đô đốc. Ba là Tổng lĩnh Kị binh, Ngưu binh. Bốn là Tổng lĩnh cấm quân, thi vệ. Em muốn tâu xin trao cho Tường giữ chức Long thành tiết độ sứ, Tổng lĩnh thị vệ, cấm quân, kiêm Tổng trấn Thăng long. Như vậy, ta loại tên Mạc Hiển Tích ra ngoài. Đỗ An Di muốn khuynh đảo xã tắc thì y không sai được Thiên tử binh của Long Ích, Kị ngưu binh của Tăng Khoa, Thủy quân của Tá Chu, và cấm quân thị vệ của Long Tường.
Trần Lý mỉm cười thương hại :
- Cô em dâu ngoan như con thỏ của anh ơi !Vụ này anh thấy có hai cái nhiêu khê. Khó mà thành được !
Từ khi về Thiên trường, bề ngoài thì Trần Lý với Đoan Nghi là anh chồng, em dâu ; chứ thực sự ra Trần Lý đối với nàng như một ông bố đối với con gái. Trần Lý hết sức nhỏ nhẹ, chàng lại dạy Đoan Nghi tất cả những gì của đời sống dân dã, mà nàng không có. Đoan Nghi kính yêu người anh chồng mình không kém gì phụ hoàng Anh tông. Nghe Trần Lý nói tới hai cái nhiêu khê, nàng hỏi :
- Thưa anh ! Hai cái nhiêu khê đó là gì ? Em nhìn không ra ! Xin anh dạy cho.
- Cái nhiêu khê thứ nhất là bao nhiêu cấm quân, thị vệ, hiện đều do Hiển Tích với Đỗ hậu tuyển cả. Long Tường liệu có chỉ huy được chúng không ?
- Em cũng biết thế, nên em lợi dụng luật có từ đời đức Thái tổ : Khi một hoàng tử mở phủ đệ, chấp chính thì có toàn quyền tuyển người trong vương phủ. Một vương phủ, quan trọng nhất có bốn chức là trưởng sử, gia sư, mật thư và phủ khố. Trong thời gian Long Tường ở đây, nó rất thân với ba người là Vũ Kim, Phạm Khải, Hoàng Ý. Vì vậy nó đã xin với bố mẹ cho ba người về trợ giúp. Nó dự tính trao cho Vũ Kim lĩnh chức gia sư, Phạm Khải lĩnh chức trưởng sử, Hoàng Ý lĩnh chức mật thư. Còn chức phủ khố, thì là nhũ mẫu của Tường là vú Châu.
Thủ Huy hỏi anh :
- Vậy thì em xin bố cho hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn theo Long Tường về, để làm thân binh ! Liệu bố có cho không ?
- Bố vốn chiều các con. Em mà xin thì dĩ nhiên bố cho liền.
- Thưa anh, còn cái nhiêu khê thứ nhì ?
- Liệu triều đình có thể loại Mạc Hiển Tích ra ngoài như em muốn không ?
- Em nghĩ Thiên tư Gia thụy đã lớn, nay thân chính rồi thì phải củng cố, nắm lấy quyền. Cái việc Hiển Tích tư thông với Đỗ thái hậu làm ô uế cung thất, Gia Thụy biết hết. Từ xưa đến giờ cái chức Tổng trấn Thăng long, kiêm Tổng lĩnh thị vệ, cấm quân, luôn luôn trao cho các thân vương. Thì bây giờ là dịp Gia thụy cũng như đại thần chiếu luật, mà loại Hiển Tích ra, trao cho Long Tường.
- Anh nghĩ không giản dị như vậy ! Đỗ thái hậu đang say tình với Mạc Hiển Tích còn gấp bội Cảm Thánh thái hậu say Đỗ Anh Vũ, Lưu Kỳ. Nếu Mạc còn giữ chức vụ Tổng lĩnh cấm quân, thì mới hy vọng ra vào Hoàng thành. Bây giờ y bị loại ra, thì Đỗ thái hậu sẽ lồng lộn lên như con lợn cái động đực. Bà sẽ không chấp thuận. Xưa Cảm Thánh thái hậu mê Đỗ Anh Vũ, Lưu Kỳ, mà còn muốn hại vua Anh tông để nhường ngôi cho tình nhân. Huống hồ Đỗ thái hậu. Anh nghĩ việc em cho Long Tường thay y không thành đâu.
Long Tường hỏi :
- Chị Đoan Nghi ! Em không hiểu ! Chị nói chi tiết cá vụ này hơn một chút.
Đoan Nghi ôm lấy đầu Long Tường :
- Được ! Chị vì em mà giảng.
Đoan Nghi nói thực chậm : Lối phân quyền của triều đình do Quốc phụ Khai Quốc vương thiết lập, sao tránh cái nạn tướng cầm quân khuynh đảo triều đình. Người duy nhất muốn làm loạn, tiếm vị được là Thái úy. Nhưng Thái úy phải nắm được Khu mật viện, Thiên tử binh, thị vệ cấm quân, Thủy quân, Kị binh, Ngưu binh. Bởi muốn ban lệnh, điều động quân thì phải qua Khu mật viện...
Thấy Long Tường gật đầu, trầm tư. Thủ Huy hỏi :
- Em thử nói tiếp anh nghe xem có đúng không nào ?
- Ví thử Thái úy không nắm được Khu mật viện, thì không làm được lệnh điều quân.
- Được ! Em tiếp đi.
- Nếu ông ta nắm được Khu mật viện, nhưng khi lệnh điều quân làm phản ban ra cho Thiên tử binh. Thiên tử binh không tuân thì cũng vô ích. Giả như ông ta nắm được tướng chỉ huy Thiên tử binh, y đem quân về làm phản, mà không được Thủy quân chở sang sông cũng hỏng. Bằng như ông ta nắm được Thủy quân nữa, thì thị vệ, cấm quân, Kị binh, Ngưu binh chống lại, thì cũng vô phương.
- Giỏi !

- Cho nên thời đức Thánh tông, bấy giờ Thái úy Thường Kiệt tuy được tin dùng, nhưng quản Khu mật viện lại là Trung Thành vương, tổng lĩnh Thiên tử binh là Tín Nghĩa vương thuộc thân vương. Đại đô đốc là Lý Kế Nguyên, người thân tín của Linh Nhân hoàng thái hậu. Tổng lĩnh cấm quân, thị vệ là Hùng Nhân, đệ tử của Mộc tồn hòa thượng. Tướng chỉ huy Kị binh là Hà Mai Việt, là anh em phía ngoại của đức Thánh tông.
- Giỏi !
Từ hôm vợ chồng Thủ Huy về Thiên trường sống đến giờ, thì tuy ông bà Tự Hấp, Đại Việt ngũ tuyệt, Vỵ xuyên ngũ tiên... Bề ngoài có vẻ niềm nở, thương yêu hai người. Nhưng trên nét mặt mọi người dường như ẩn tàng một điều gì lo lắng, mà không ai nói ra. Bây giờ nghe Đoan Nghi, Thủ Huy định đưa Long Tường về lĩnh Long thành tiết độ sứ, rồi giảng cho Long Tường về đại kế phòng ngự giữ ngôi vua từ thời Thái tổ để lại. Hai người thấy Trần Lý xịu mặt xuống, thoáng một nét buồn.
Đoan Nghi hỏi :
- Anh có điều gì lo lắng thì phải ?
Trần Lý gật đầu, rồi chỉ Thủ Huy :
- Khai Quốc vương quả là thần nhân ! Còn chú, chú cứ tự tin vào công lao, vào lòng trung của mình, mà không xét thấy mối lo lắng của Long Xưởng. Bây giờ lại không nghĩ đến mối lo của Đỗ thái hậu.
- ? ! ! ? !
- Chính vì chú không biết Long Xưởng, nên Long Xưởng mới phải mượn tay Cảm Thánh thái hậu giết ba vương, rồi xua đuổi chú với Đào Duy, Tăng Khoa.
Thủ Huy cau mày :
- Đó là ý của Long Xưởng. Như anh thấy Đại đô đốc là Kiến Ninh vương ! Quản Khu mật viện là Tăng Quốc, chồng của nhũ mẫu Long Xưởng. Tổng lĩnh Kị, Ngưu binh là Tăng Khoa, em sữa của anh ấy. Tổng lĩnh Thiên tử binh là Kiến An vương. Tổng lĩnh cấm quân thị vệ là Mạc Hiển Tích. Như vậy, em muốn đem quân làm phản, thì dễ gì bằng ấy người nghe theo ?
- Trời ơi ! Chú ngây thơ quá đi. Trong hai lần chú đem quân về Thăng long cứu Long Xưởng, chú có cần Khu mật viện làm lệnh đâu, mà các tướng cũng răm rắp tuân lệnh chú ?
- ! ! !
- Tỷ như chú làm phản, thì không cần Kiến Ninh vương theo chú, chú vẫn trực tiếp ban lệnh cho các đô đốc thủy quân có đúng không ?
- Vâng ! Vì họ là đệ tử của em.
Trần Lý cốc vào đầu Thủ Huy :
- Ngốc ơi là ngốc ! Còn như chú muốn điều động Thiên tử binh, chú có thể ra lệnh cho các đô thống chỉ huy các hiệu binh, mà không cần qua Kiến An vương. Có đúng không ?
- Vâng. Vì các đô thống đều là người em đào tạo ra.
- Hứ ! Thế khi chú muốn cướp ngôi vua của Long Xưởng, thì chú chỉ cần sai mật sứ gọi Thủy quân, Thiên tử binh kéo về Thăng long, đánh úp kinh thành bất cứ lúc nào, bấy giờ Xưởng chỉ có đường ngửa cổ ra cho chú chặt đầu.
Thủ Huy à lên một tiếng :
- Em chủ quan, tự tin vào lòng trung, công lao, mà không nghĩ tới mối lo lắng của Long Xưởng. Còn ba vương, người nào cũng có tài cầm quân, cũng uy tín hơn Long Xưởng. Nên anh ấy phải trừ đi. Ừ nhỉ ! Giá anh ấy đợi lên ngôi vua ít lâu rồi hãy trở mặt thì đâu đến nỗi !
Trần Lý bẹo tai em :
- Cái chú này lú lẫn rồi ! Vua Anh tông băng hà, không để di chiếu lại nhường ngôi cho Long Xưởng. Vì vậy Long Xưởng cần phải được tất cả đại thần ký vào biểu tôn lên ngôi. Trước mặt Long Xưởng, y có hai khối đại thần. Một khối gồm có chú với ba vương, và một số đại thần phò tá Xưởng. Một khối khác gồm các gian thần, các đại thần già nua, ù lỳ. Từ mười năm qua, bao nhiêu công lao của ba vương với chú, với đám trung thần phò tá Xưởng để chống bọn nịnh quan. Bây giờ Xưởng muốn lên ngôi vua thì phải giết hết chúng đi, lấy lý do chúng làm loạn. Rồi bọn chú ký biểu tôn y lên ngôi vua. Có đúng thế không ?
- Vâng !
- Còn như để chúng sống, tức chúng không có tội. Nhưng Long Xưởng ăn làm sao nói làm sao với các chú ? Để chúng sống tức coi tụi nó như chân tay, ban chức tước cho chúng, chúng mới ký vào biểu tôn Xưởng lên ngôi. Nhưng Xưởng làm việc đó thì chú, rồi Tăng Khoa, ba vương phản đối. Giữa hai khối người, một khối ù lỳ, nhưng chúng chỉ là con :D trước kia chúng tuân chỉ vua Anh tông, bây giờ chúng lại nghe lệnh Long Xưởng mà xủa ; không những chúng không nguy hiểm, mà lại được việc. Còn một khối, toàn những người tài trí, uy quyền áp đảo Long Xưởng, nắm quân lữ trong tay ; trước kia thì rất cần thiết, khi mà cái mộng đánh chiếm Lưỡng Quảng không còn nữa, thì trở thành vô ích, nguy hiểm. Vì vậy Long Xưởng phải giết ba vương, xua đuổi, rồi sẽ giết chú với Tăng Khoa sau.
Thủ Huy vò đầu :
- Em ngu quá ! Em ngu quá !
Trần Lý bẹo hai má Thủ Huy :
- Ngu một lần, suýt tan nát đất nước. Bây giờ chú lại sắp ngu hơn lần trước nhiều !
- Em về đây đi cầy, có dính dáng gì tới triều chính nữa đâu !
- Hư...ư...ư ! Đỗ thái hậu, Đỗ An Di muốn khuynh đảo triều đình từ lâu. Nhưng trong thì họ bị Lý Kính Tu, Vũ Tán Đường cản trở. Ngoài thì bị chú đầy uy quyền ức chế. Có đúng thế không ?
- Vâng !
- Chú chán chường cái ô uế, kinh tởm ở hậu cung, chú muốn đem quân làm cỏ bọn gian thần. Nhưng vì bố không cho. Nên chú lui về điền dã. Về điền dã thì phải buông hết. Thế nhưng Thượng phương bảo kiếm nằm trong tay cô vợ xinh đẹp, kiếm thuật thần thông của chú. Hỏi rằng bọn An Di, Hiển Tích làm sao mà ăn ngon, ngủ yên được ?
- ! ! !
- Đỗ thái hậu nơm nớp sợ chú hơn Long Xưởng sợ chú nữa. Khác một điều là bà không sợ chú cướp ngôi, mà sợ chú giết bà ấy với Gia Thụy, rồi đưa Long Ích, Long Tường thay thế.
- ! ! !
- Về binh lực, tuy An Di giữ chức Thái úy, mà y không nắm được những lực lượng chính. Này nhé, em rể chú là Tá Chu còn cầm quyền Đại đô đốc. Đệ tử, kiêm nghĩa đệ Tăng Khoa còn cầm Kị, Ngưu binh. Mới đây, chú lại tâu xin trao Thiên tử binh cho Long Ích. Rồi bây giờ định gạt tình nhân của Đỗ thái hậu là Mạc Hiển Tích ra, để đưa Long Tường về thay thế. Có khác gì chú kề gươm vào cổ anh em họ Đỗ không ? Chú về điền dã mà uy quyền ngang với một Thái thượng hoàng, vượt hẳn chức Thái úy của Đỗ An Di. Anh nghĩ, Đỗ hậu, với An Di sẽ không ngồi yên để bị chú kiềm chế đâu. Thế nào họ cũng ra tay hại chú. Trang Thiên trường này khó mà yên được. Có khi y vu cho chú thím một vài tội gì đó, rồi mang quân về bắt. Dĩ nhiên chúng ta chống lại. Bấy giờ y chỉ việc sai một hiệu binh về tàn phá trang này. Chúng ta chỉ có mấy trăm đệ tử thì chống sao lại ?
Thủ Huy, Đoan Nghi như người trong mộng chợt tỉnh. Đoan Nghi nói cứng :
- Nhưng nay Đỗ không còn là phụ chính, Đỗ hậu không còn thính chính nữa. Quyền trong tay Gia thụy mà !
- Anh cũng hy vọng Long Trát nắm được quyền.
Thế rồi ông bà Tự Hấp sai Phương Lan, Bảo Bảo chuẩn bị hành trang cho Long Tường theo sứ giả về Thăng long.
Trung Từ Bảo Bảo đã tuyển đủ thị nữ, bộc phụ, mã phu cho phủ Kiến Bình. Trước khi thuyền rời bến, ông bà Tự Hấp cầm tay Long Tường :
- Vợ chồng ta tuy dạy văn, luyện võ cho con, nhưng chúng ta không thu con làm đệ tử. Con có biết tại sao không ?
- Thưa, con biết !
- ? ? ?
- Vì thế lực phái Đông a quá lớn, mà trong triều thì Đỗ thái hậu, Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích khuynh đảo triều đình, hoàng huynh lại quá nhu nhược. Nếu con là đệ tử phái Đông a, họ sợ con tiếm ngôi vua...Vì vậy sư phụ, sư mẫu mới không cho con làm lễ nhập môn.
- Đúng vậy !

******
Ghi chú của thuật giả.
Vì những liên hệ gữa Lý Long Tường với Nguyên tổ Trần Triều là Trần Lý, nên sau này tuy nhà Trần lên ngôi, nhưng vẫn tu bổ, tế lễ lăng tẩm các vua triều Lý. Chứ không có việc đào hố làm bẫy rồi giật sập tiêu diệt như ảo sử đã thuật.
Nguyên do, có ảo sử là từ xưa đến giờ các sử gia đều tin theo ĐVSKTT, cho rằng : Khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh vào tháng 10 niên hiệu Thiên chương Hữu đạo thứ nhì (1225), thì Trần Thủ Độ loại tất cả các thân vương, đại thần thuộc hoàng tộc nhà Lý ra khỏi quan trường. Năm sau, niên hiệu Kiến trung nguyên niên, đời vua Thái tông nhà Trần, ngày 10 tháng 8 (1226) Thủ Độ bức tử vua Lý Huệ Tông, rồi giết hết tông tộc triều Lý.
Trong khi ấy, gia phả cả bốn giòng của con cháu Hưng Đạo vương, lại chép rằng tông tộc Lý triều không hề bị giết, mà chỉ phải đổi thành họ Nguyễn, vì kiêng tên Nguyên tổ Trần Lý.
Nhưng người ta tin theo ĐVSKTT, chứ không chịu suy xét thêm.
Mãi tới năm 1941, tạp chí Sử học số 2 của Nhật bản đã sưu tầm, tìm ra một sự kiện đặc biệt thì vấn đề này được soi sáng :
Tháng tám năm Bính Tuất (1226), đại đô đốc Trần triều là Lý Long Tường, con thứ 6 vua Anh tông, đã đem toàn bộ chu sư, tướng sĩ, tông tộc rời Đại Việt, tỵ nạn tại Cao ly.
Rồi thời đệ nhất Cộng hòa (1955 1963), tổng thống Lý Thừa Vãn của Đại hàn trong khi viếng thăm Việt Nam, ông cũng tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Bấy giờ tôi còn là một học sinh trung học, nhưng cũng ghi tâm sự kiện này, tự hẹn sau sẽ đi tìm cho ra sự thực : Nếu như quả có việc Lý Long Tường đem mấy nghìn người họ Lý sang Cao ly, thì không có việc Thủ Độ tuyệt diệt con cháu họ Lý.
Tháng 8 năm 1980, đi dự đại hội y khoa Trung quốc ở Hàng châu, tôi có dịp làm quen với phái đoàn Bắc Cao. Trong phái đoàn có bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng xuyên (Hunchon) và nữ bác sĩ Lý Diệp Oanh ở Thuận xuyên (Sunchon). Nghe tôi họ Trần, lại là người Việt Nam, bác sĩ Lý Diệp Oanh chỏ tay vào trán tôi : - Vì tổ tiên anh xua đuổi, nên tổ tiên tôi mới thành thuyền nhân, và Đại Hàn mới có họ Lý.
Xin đọc phụ bản : Nguồn gốc họ Lý ở Hàn quốc, cuối quyển 3, bộ AHĐA, Dựng cờ bình Mông.

******
Long Tường lên đường được nửa tháng sau thì người nhà của Vũ Kim, Phạm Khải, Hoàng Ý trở về. Họ trình bầy :
- Kiến Bình vương về Thăng long, vào triều kiến nhà vua, giữa lúc đang thiết tiểu triều. Đỗ thái hậu vẫn ngồi thính chính cùng Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích. Ba người nắm hết quyền. Cả ba áp chế nhà vua còn hơn hồi trước Cảm Thánh thái hậu, Đỗ Anh Vũ áp chế vua Anh tông nữa.
Thủ Huy nghiến răng :
- Bọn này đáng chết thực.
- Khi Long Tường dâng biểu của công chúa Đoan Nghi thì Hiển Tích tiếp lấy đọc, mà không trao cho nhà vua. Y bỏ biểu vào túi rồi tâu : Năm nay Kiến Bình vương đã đến tuổi trưởng thành. Lý ra thì trao cho quyền hành, cùng tham chính tại triều. Hiện Nam phương đang thiếu người tín cẩn. Vậy xin trao cho lĩnh chức tổng trấn Nam thùy. Thái hậu tuyên chỉ chấp thuận, truyền cho vương phải dẫn thủ hạ lên đường ngay trong ngày. Vương xin vào bái kiến Lê thái phi, hậu cũng không cho. Vương được mang theo đội võ sĩ Long biên. Còn đoàn võ sĩ Côi sơn thì trao cho Vân ma thượng tướng quân Đàm Thì Phụng quản lĩnh, đóng tại Bắc ngạn.
Thủ Huy kinh ngạc :
- Đàm Thì Phụng đang là đô thống chỉ huy hiệu Ngưu binh, trấn ở biên giới sao lại về triều ? Về từ bao giờ ?

- Thưa phò mã, năm trước con gái của Đàm tướng quân là Đàm Ngọc Anh, được phong là nguyên phi. Vì vậy trong triều lại nảy ra một thế lực mới là thế lực họ Đàm. Bác ruột của nguyên phi là Đàm Dĩ Mông được cử làm quản Khu mật viện, lĩnh Lại bộ thượng thư, Đồng bình chương sự (Phó tể tướng), hàm Thái bảo.
- Á chà !
Thủ Huy than : Thế giữa phe Đỗ An Di với phe Đàm Dĩ Mông có chống đối nhau không ?
- Không ! Tuy vậy Đỗ thái hậu cho rằng Thì Phụng là người của phò mã, vì thế Đàm Ngọc Anh tuy được hoàng thượng sủng ái, mà chỉ được phong làm Nguyên phi, mà không được phong làm Hoàng hậu. Ngôi Hoàng hậu vẫn bỏ trống. Tuy vậy, con quý, thì phụ vinh. Thái phó Lý Kính Tu chiếu luật tâu xin triều đình gia quan tiến chức cho Dĩ Mông, Thì Phụng.
Nguyên trước đây Đàm Dĩ Mông theo phe Cảm Thánh hoàng thái hậu, đã phản lại vua Anh tông và Chiêu Linh hoàng hậu nhiều lần. Khi triều đình gà mái gáy bị dẹp, y được Đỗ An Di che chở, nên thoát khỏi chết. Từ ngày ấy đến giờ, y bị thất sủng, bị trù dập, chỉ được giữ những chức vụ canh phòng quanh Thăng long. Tuy nhiên em y là Đàm Thì Phụng tương đối có tài, được Thủ Huy nâng đỡ, trao cho thống lĩnh đạo Ngưu binh, đặt dưới quyền Tăng Khoa.
Bây giờ Thủ Huy, Đoan Nghi mới phục Trần Lý nhìn xa, biết trước những gì sắp xẩy ra. Công hỏi anh :
- Anh bảo chúng em phải làm gì ?
- Chú có hai con đường đi.
- ! ! !
- Ngay bây giờ, sai mật sứ liên lạc với Gia thụy, tâu trình tất cả những nguy cơ, những lạm quyền của họ Đỗ, của Mạc Hiển Tích. Rồi xin nhà vua ban mật chỉ cho chú mang quân về tru diệt chúng. Khi có mật chỉ, chú điều động vài hạm đội, vài hiệu Thiên tử binh về Thăng long, làm cỏ hết bọn nghịch thần, bọn họ Đỗ.
Đoan Nghi lắc đầu :
- Bọn em không muốn làm việc này. Trước đây, bọn em đã làm hai lần cho anh Long Xưởng, một lần cho Gia thụy rồi. Bây giờ bọn em muốn xa lánh hết. Vả bọn em không thể giết Đỗ thái hậu, khi giết Đỗ thái hậu thì phải phế Gia thụy rồi giết đi. Bọn em không có can đảm giết Gia thụy.
- Vậy thì chỉ có cách theo gương Phạm Lãi, cáo quan, du ngoạn ngũ hồ thì mới yên thân.
- Nghĩa là ?
-Chú thím dâng biểu về triều xin được sang Trung nguyên du ngoạn ít năm. Khi chú ra hải ngoại rồi, thì anh em họ Đỗ như tù được tha tội. Họ sẽ hết lo sợ. Hết lo sợ, thì hết nghi ngờ. Còn anh em họ khuynh đảo triều đình thì kệ họ. Ta mũ ni che tai.
Nghe Trần Lý luận, Đoan Nghi run run hỏi :
- Liệu khi chúng em xa quê hương, bọn họ Đỗ có dám cướp ngôi không ?
- Đại phàm, xưa nay bọn gian thần muốn làm chuyện ấy, thì phải có tài cả văn lẫn võ, lại có nhiều uy thế, nắm được quân lữ. Nay anh em họ Đỗ không nắm được gì cả. Chẳng qua, Đỗ hậu chỉ muốn bảo vệ ngôi vua của Long Trát, An Di muốn nắm quyền, ban phúc, giáng họa mà thôi. Còn cướp ngôi thì bất quá chúng sẽ dâng biểu cầu phong với Tống triều. Tống triều gồm toàn các đại nho, không bao giờ họ chấp thuận giúp bầy tôi cướp ngôi vua.
Thế rồi Đoan Nghi gửi biểu về triều xin triều đình cùng Thủ Huy sang du ngoạn Trung nguyên. Trong biểu kể rõ, nào viếng chiến trường cũ thời Anh vũ Chiêu thắng. Nào thăm núi Thiên đài, nơi vua Minh tế cáo trời đất rồi chia thiên hạ làm hai, thành Trung nguyên, Lĩnh Nam. Nào viếng hồ Động đình, nơi phát tích ra hai vị quốc mẫu. Nào thăm Vạn lý trường thành.
Trong khi chờ đợi chỉ dụ cho phép, thì Trần Lý Phương Lan, Trung Từ Bảo Bảo chuẩn bị một con thuyền thực lớn, thuyền phu thực gi
__________________

Hãy cười để liều lĩnh chấp nhận mình như một... người ngớ ngẩn. Hãy khóc để liều lĩnh chấp nhận mình như một người đa cảm. Hãy đến với người khác để liều lĩnh đón nhận sự mắc míu. Hãy phơi bày những cảm xúc để chấp nhận con người thật của chính mình. Hãy định đặt những ước mơ trước vầng mây để liều lĩnh đón nhận lời giễu cợt. Hãy yêu - bởi biết đâu không có tình yêu như thế trở lại lần thứ hai... Hãy dũng cảm đối mặt với những khó khăn và rồi liều lĩnh chấp nhận rủi ro.Nhưng những sự liều lĩnh ấy phải cần có bởi vì mối nguy hiểm nhất trong cuộc đời chính là không có sự liều lĩnh. Nếu ai không liều lĩnh, sẽ không có gì, không làm được gì và không là gì cả!
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:43 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.