Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 05-20-2004, 05:10 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ

Lời nói đầu



Trên tháp Eiffel (Paris) ba năm nay luôn ghi bằng ánh điện rực sáng con số ngày đêm còn lại để loài người chúng ta từ biệt thế kỷ 20 và hội ngộ với thế kỷ 21. Con số đó đến tháng 9-1998 này là hơn 400.

Một thế kỷ náo động, đầy ắp sự kiện vui, buồn sắp qua. Với Việt nam thế kỷ đang chấm dứt là thế kỷ của chiến tranh, tang tóc và tàn phá. Cuốn sách lớn Sách Đen Của Chủ Nghĩa cộng sản đưa ra con số gần 100 triệu nhân mạng bị chết do các chế độ cộng sản ở Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu, Bắc Triều Tiên, Cuba, Việt nam...

Chủ nghĩa Mác quả thật là một bóng đen khổng lồ bao trùm một phần thế giới trong thế kỷ 20 này. Biết bao người, kể cả những bộ óc trí thức kiệt xuất nhất: nhà vật lý, nhà toán học, nhà triết học... từng lầm lẫn, ngỡ rằng nó là chân lý, là mặt trời của thời đại. Trách nhiệm chính là ở những kẻ đưa chủ nghĩa Mác vào cuộc sống, với những "sáng tạo chết người" - căn nguyên là do một học thuyết tự nhận là nhân ái nhất (người không bóc lột người; năm châu bốn biển là anh em), con người bình đẳng (của cải dồi dào, phân phối theo nhu cầu), đề cao phương tiện duy vật biện chứng là khoa học nhất... lại do những người hiểu biết nông cạn, đặc sệt bệnh duy tâm, duy ý chí, nội tâm độc ác, cổ vũ thú tính hận thù... đem ra áp đặt cho hai tỷ con người. - Oan cho Mác, vì nếu còn sống, ắt ông không nhận ra các chế độ ấy là con đẻ của mình.

Việt nam bất hạnh nằm trong số nạn nhân trên đây. Bóng đen khổng lồ của lầm than, độc đoán, bất công đã tan trên bầu trời Liên Xô, Đông Âu, để lại những di sản nặng nề đang được khắc phục. ở bầu trời châu á (Trung Quốc, Việt nam, Bắc Triều Tiên) và trên hòn đảo Cuba, mây mù thế kỷ còn đè nặng, do quá khứ chưa chịu ra đi, chế độ một đảng độc quyền ngự trị vẫn hoành hành, sự hôn phối cưỡng ép giữa chủ nghĩa tư bản không có xương sống (không trên nền tảng luật pháp) với chủ nghĩa xã hội mất linh hồn (không có công bằng xã hội) đang đẻ ra vô vàn tai ương và ngang trái, kìm hãm tốc độ của cỗ xe đổi mới đang ì ạch leo dốc.

Nói chuyện về chiến tranh ở Việt nam và Đông Dương không thể bỏ qua bối cảnh của bóng đen khổng lồ mang nhãn hiệu mác-xít, đặc sản của thế kỷ 20, và những di sản của nó.

Nó sinh ra chiến tranh lạnh, với biểu hiện rất biện chứng của vô vàn cuộc Chiến tranh nóng, cùng với tù chính trị, tù quân sự, đông đảo ở các bên, vô vàn xác chết trên chiến trường, ở cả hậu phương, những nghĩa trang rải ra rộng khắp. Di sản nặng nề nhất ở Việt nam là lòng người chưa sáng tỏ, nhận thức chưa rõ ràng, đúng sai còn lẫn lộn, phải trái chưa phân minh đối những vấn đề hệ trọng: chiến tranh và đổi mới.

Cuốn sách này, qua một số cuộc đối thoại bổ ích, có ước vọng giải tỏa đôi chút những mây mù còn tồn tại trong nhận thức của xã hội Việt nam ta. Ước mong của tác giả là đất nước Việt nam thân yêu trong thời gian cuối cùng của thế kỷ 20 này rũ bớt được những điều mơ hồ để nhìn nhận quá khứ, thấy rõ con đường tương lai, thanh thoát đi vào thế kỷ 21 đầy hứa hẹn.

Từ khi khởi đầu đến khi kết thúc cuốn sách, hằng ngày tôi nghĩ đến các bạn trẻ -- những người sinh ra trong một phần ba cuối cùng của thế kỷ 20, những công dân của đầu thế kỷ 21 - những người chủ hiện tại và tương lai của đất nước; sẽ là hạnh phúc cho tác giả, nếu cuốn sách tâm sự này vào được trong nước, đến tay các bạn trẻ, các sinh viên đại học Hà Nội, Sài Gòn... gây nên những bàn luận sôi nổi tôi đặt niềm tin vững chắc ở tuổi trẻ trong và ngoài nước; chắc chắn các bạn sẽ sáng suốt hơn, tài giỏi hơn thế hệ chúng tôi, một thế hệ thành tích ít mà lỗi lầm thì nhiều, thật đáng hổ thẹn đối với cả tiền nhân và hậu duệ.

Paris 10-9-1998

Bùi Tín



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 05-20-2004, 05:12 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ

Phần 1



"Nguyên nhân sâu xa và tính chất bao trùm cửa chiến tranh Mỹ-Việt là sự đối đầu của hai hệ thống thế giới: phe xã hội chủ nghĩa hiện thục và phe tư bản chủ nghĩa."

'Chế độ độc đoán mà chiến tranh làm tăng thêm tính chất bịt kín, khép chặt, không có tự do báo chí, không có tranh luận trong quốc hội. Hỏi: Quan hệ Mỹ-Việt từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã diễn biến như thế nào?

Trả lời: Tôi gặp mấy người Mỹ đầu tiên ở Hà Nội cuối tháng 8.1945, từ chiến khu Việt Bắc xuống. Đó là Pét-ti (A. Patti), Thô-mátx (Thomas)... trong nhóm sĩ quan tình báo quân sự. Họ chung vui với chúng tôi những ngày Cách mạng tháng Tám trong chi đoàn Việt-Mỹ do ông Quang Trung chỉ huy. Sau này ông Quang Trung, người Tày, lên tới cấp thượng tướng trong Quân đội Nhân dân Việt nam. Ông mất năm 1994.

Chính một số sĩ quan Mỹ ấy đã huấn luyện cho chi đoàn của tôi về bắn súng, ném lựu đạn... Chúng tôi tự coi là trong phe đồng minh, chống phát xít Đức ý-Nhật.

Cuối 1946, chiến tranh Việt-Pháp nổ ra. Chính phủ Pháp muốn khôi phục hệ thống thuộc địa cũ. Chính phủ Mỹ đã ủng hộ người Pháp.

Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đưa đến Hiệp định Giơ-ne-vơ (Geneve). Đất nước chia làm hai miền. Tổng tuyển cử dự định vào tháng 7.1956 không diễn ra. Chính quyền ở miền Nam do người Pháp dựng lên và yểm trợ, được Hoa Kỳ công nhận và tiếp sức theo chiến lược ngăn chặn cộng sản của chiến tranh lạnh...

Từ năm 1964, Hoa Kỳ đưa quân chiến đấu vào miền Nam và dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt nam. Chiến tranh mở rộng ra cả nước Việt nam.

Từ đầu năm 1968, Mỹ chủ trương phi Mỹ hoá, "Việt nam hoá chiến tranh", rút chân dần ra khỏi cuộc chiến ở miền Nam Việt nam. Tháng 1.1978, Hiệp định Paris về lập lại hòa bình ở Việt nam được ký kết. Mỹ rút hết quân. Tù binh hai bên được trao trả.

Nhưng chiến tranh vẫn tiếp diễn. Ngày 30.4.1975, cuộc tổng tiến công của Quân đội nhân dân Việt nam kết thúc, cả nước Việt nam thống nhất dưới chính quyền của đảng cộng sản.

Cuối năm 1978, Việt nam tiến công quân Khơ-me đỏ ở Căm-pu-chia. Quân đội nhân dân Việt nam chiếm Căm-pu-chia gần mười năm, bị phương Tây và các nước Đông - Nam á... cấm vận.

Tháng 7.1995, quan hệ hai nước Việt nam và Hoa Kỳ được bình thường hóa, rồi từ đó được mở rộng, phát triển dần trên nhiều mặt: thương mại, đầu tư tài chính, văn hóa, giáo dục, du lịch, ngoại giao, quân sự...

Theo tôi, các mối quan hệ Việt-Mỹ được cải thiện chậm, chưa đáp ứng được mong muốn của nhân dân hai nước. Nguyên nhân có lẽ là cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt đã để lại những vết thương sâu, chưa hoàn toàn thành sẹo cho cả hai bên. Nhưng nguyên nhân chính, theo tôi là vì những người lãnh đạo đảng cộng sản ở Hà Nội chưa có quan điểm đổi mới toàn diện, sâu sắc và nhất quán. Họ còn bị ý thức hệ cũ ràng buộc quá nặng. Họ nói: giở sang trang mới trong quan hệ với Hoa Kỳ, cho vào quá khứ những năm tháng chiến tranh, coi Hoa Kỳ là bạn v v.. Thế nhưng, trên thực tế, trong nội bộ đảng họ, họ vẫn cho "Mỹ vừa là bạn, vừa là thù", "vẫn còn phải cảnh giác với chính quyền Clin-tơn", nguy cơ "diễn biến hòa bình", nhằm lật đổ chế đổ hiện nay là đến từ phía Mỹ; chính quyền Mỹ đòi hỏi tôn trọng nhân quyền ở Việt nam, tự do cho tù chính trị ở Việt nam "can thiệp thô bạo vào tình hình nội bộ và chủ quyền của Việt nam"? Chính quyền cộng sản còn "tịch thu", chưa trả lại cho xã hội Việt nam quyền tự do và dân chủ là trở ngại chính cho quan hệ Việt-Mỹ.

Ngoại trường Mỹ Oa-ren Crít-xtốp-phơ (Warren Christopher), trong buổi nói chuyện với sinh viên Việt nam tại Hà Nội ngày 6.8.1995 ở câu lạc bộ Quốc tế, đã cho biết vài nét lý thú trong quan hệ Việt Mỹ:

Từ năm 1787, Thô-mátx Gie-phe-sơn (Thomas Jefferson), một nhà chính trị đấu tranh cho tự do và cũng là nhà khoa học kiệt xuất Mỹ, đã mang mẫu giống lúa Việt nam về trồng ở trang trại của ông ở bang Vớc-gi-ni-a (Virginia). Mười năm năm sau, khi Gie-phe-sơn trở thành tổng thống Hoa Kỳ, chiếc tàu buôn của Mỹ đầu tiên đã cập bến Việt nam...

Gần một trăm năm mươi năm sau, năm 1945, lời nói của Thô-mátx Gie-phe-sơn rằng "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng..." lại được vang bên trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt nam (tháng 9.1945).

Chiến tranh Mỹ-Việt bắt nguồn từ đâu?

Đây là vấn đề tôi đã suy nghĩ kỹ đến từ mươi năm nay, về quan hệ Việt-Mỹ.

Mới đầu, tôi cho là vấn đề rất giản đơn, như cuộc chiến tranh Pháp-Việt trước đó. Đây là cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc của chúng tôi. Trong lịch sử nước Mỹ, các bạn cũng có cuộc chiến tranh giành độc lập. Càng về sau, nhất là gần đây, được nghe và đọc nhiều, tôi thấy quả thật đây là vấn đề phức tạp, rất phức tạp.

Các cuộc chiến tranh, tùy nơi, tùy lúc, tùy động cơ, điều kiện lịch sử cụ thể, mang tính chất khác nhau: chiến tranh đúng/sai, chính nghĩa/phi nghĩa, bảo vệ tổ quốc/xâm lược, nóng/1ạnh, xâm chiếm đất đai, ý thức hệ, dân tộc, tôn giáo, giai cấp, thiêng liêng thần thánh/sai lầm bẩn thỉu...

Khi còn trẻ, là binh sĩ và là sĩ quan sơ cấp, tôi cho chiến tranh mà chúng tôi thực hiện là đúng, là chính nghĩa, vì nó nhằm giành và bảo vệ nền độc lập, chống xâm lược, chống sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài trên đất nước tôi. Đơn giản, rõ ràng!

Về sau, là người cộng sản, được giáo dục tuyên truyền của đảng cộng sản, tôi thấy đấy còn là cuộc chiến tranh để bảo vệ cả phe xã hội chủ nghĩa, chống lại "sự xâm lược của phe đế quốc" do Mỹ cầm đầu. Chúng tôi được giáo dục để coi phe xã hội chủ nghĩa, gồm Liên Xô, Trung Quốc, các nước Đông Âu, cộng với Bắc Triều Tiên, Cu-ba và về sau cả Ê-ti-ô-pi (Ethiopia), Ni-ca-ra-goa (Nicaragoa), Ăng-gô-la (Angola)... là Tổ quốc lớn của những người vô sản chúng tôi. Cao hơn nữa, chúng tôi coi đây là sứ mệnh của giai cấp vô sản quốc tế nhằm giải phóng tất cả các dân tộc và các giai cấp trên thế giới khỏi ách áp bức, bất công, xâm lược. Vì thế, chúng tôi tự hào, hăng say chiến đấu... Tôi đang cầm súng, đứng trên tiền đồn của phe xã hội chủ nghĩa, của nhân loại tiến bộ, vừa làm nhiệm vụ quốc gia, vừa làm nghĩa vụ quốc tế.

Nhưng đến nay, tôi đã nghĩ khác trước!

Từ bao giờ, quan niệm của ông về chiến tranh Việt-Mỹ thay đổi?

Tôi nghĩ là từ năm 1975! Sau ngày 30.4.1975, tôi ở miền Nam, tại Sài Gòn, nay gọi là thành phố Hồ Chí Minh, liền trong bốn năm. Một điều quan trọng diễn ra trong nhận thức của tôi và của nhiều người từ miền Bắc vào miền Nam. Chúng tôi đã trực tiếp "khám phá ra miền Nam, đúng như nó vốn có, không như trước đó được đảng tuyên truyền. Chúng tôi dần dần thấy rằng, chế độ chính trị ở miền Nam có những cái dở, cái kém, nhưng dù sao nó cũng có điểm trội hơn miền Bắc, như có tự do kinh doanh, đặc biệt là có tự do báo chí, ngôn luận, có báo tư nhân, có tự do xuống đường, biểu tình, tuần hành, tán phát truyền đơn, có tự do tín ngưỡng... là những điều ở miền Bắc chưa từng có.

Thêm vào đó, sau ngày 30.4.1975, các chính sách sai lầm của đảng cộng sản, như xóa bỏ vội vã tư bản tư nhân, hợp tác hóa nông nghiệp cấp tốc, đưa cả sĩ quan viên chức cũ vào trại cải tạo (thực tế là nhà tù), gây nên thảm cảnh hơn nửa triệu "thuyền nhân" năm 1978 do chính sách phân biệt đối xử, chiếm đóng quân sự lâu dài ở Căm-pu-chia... làm tôi nản lòng, phẫn uất..., đồng thời cũng làm cho nhận thức về chiến tranh Việt-Mỹ của tôi thay đổi. Tiếp đó, sự kiện làm nhận thức của tôi chuyển biến mạnh nhất về chiến tranh là sự sụp đổ bức tường Béc-lin (Berlin), sự tan rã của Liên bang Xô viết sự tiêu hủy đột nhiên của phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (từ mùa hè năm 1989 đến năm 1991). Gần đây, nhiều tài liệu tuyệt mật của thời Sta-lin về đảng Cộng sản Liên XÔ cũ được công bố từ Mát-xcơ-va (Moscow) nói lên sự thật lịch sử, cũng làm đảo lộn một số nhận thức của tôi về chiến tranh, về chính trị.

Theo ông, tính chất của cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là gì?

Theo những lý luận của Mác (K. Marx), Ăng-ghen (F. Engels), hay của Tôn Tử (nhà chiến lược nổi tiếng thời cổ đại Trung Quốc), của Na-pô-lê-ông (Napoléon), Bít-xmác (Bismark), hoặc của học giả Héc-man Kan (Herman Kaln), Sten-lây Ka-nốp (Stanley Karnow) (Mỹ), tính chất của một cuộc chiến tranh gắn liền với chế dộ chính trị - xã hội. Về chế độ chính trị ở Liên xô, tôi được giáo dục và tuyên truyền là "tiến bộ nhất", "tuyệt vời", "mẫu mực". Chế độ chính trị một đảng, chuyên chính vô sản được áp dụng ở Việt nam với khẩu hiệu "Liên xô Việt nam trong tương lai!" Nó sẽ là thiên đường dưới trần thế: giàu có, không có áp bức, bóc lột... Tôi đã có dịp qua Liên xô hơn mười lần, từ năm 1965 đến năm 1990, qua hầu hết các nước Cộng hòa xô viết. Dần dần tôi nhận ra rằng, Liên xô có hai mặt: mặt tốt và mặt xấu, mặt phô ra và mặt giấu kín. Mặt thực tế và mặt trên lý thuyết.

Sta-lin đã tận dụng lòng yêu nước của nhân dân Liên xô để giành thắng lợi trong chiến tranh chống phát-xít, bảo vệ Tổ quốc. Nhưng đồng thời, ông ta đã chủ tâm xây dựng một kiểu "đế quốc xã hội chủ nghĩa" từ Âu sang á, coi các nước "dân chủ mới" ấy là "thuộc quốc,, "thuộc địa kiểu mới" với các đảng cộng sản không còn quyền độc lập, bình đẳng, coi Mát-xcơ-va là thủ đô lớn của toàn phe xã hội chủ nghĩa.

ở trong nước, Liên xô thực hiện học thuyết "đấu tranh giai cấp" một cách thô bạo, đàn áp thẳng tay mọi người chống đối, bất đồng chính kiến, tàn sát những đồng chí, đồng bào không chịu tuân theo hoàn toàn đường lối, chính sách của đảng cộng sản. Việt nam làm theo gương ấy, mô hình ấy - tuy ở quy mô thấp hơn - đàn áp mọi lực lượng yêu nước theo đường lối khác mình (như Việt nam Quốc dân đảng, đảng Duy Dân, đảng Đại Việt, nhóm Trốt-skít, Cách mạng Đồng minh hội...) Ngay cả những người đòi dân chủ cũng bị lên án là chống đảng, chống chế độ, phản bội. Tất cả những hành động đàn áp đều được che đậy dưới bức màn "yêu nước", "vì dân", "do dân", "cách mạng...

Do đó, tôi cho rằng chế độ chính trị - xã hội ở Việt nam từ năm 1945 đến nay vẫn còn lạc hậu, độc đoán, không dân chủ, là một kiểu phong kiến gia trưởng, phụ thuộc về cả lý luận lẫn vật chất, kinh tế tài chính, quân sự... vào nước ngoài.

Theo ông, chế độ chính trị xã hội như thế quyết định tính chất của cuộc chiến tranh như thế nào? Nóng, lạnh, hay chiến tranh ý thức hệ?

Do nhận thức về chế độ chính trị - xã hội không còn như trước, nên nhận thức về chiến tranh của tôi cũng thay đổi. Trong khi nhận thức chung của xã hội thay đổi chậm. Đối với nhân dân, nhất là đối với nông dân chiếm tỷ lệ 80% số dân ở cả miền Bắc và miền Nam Việt nam, nhận thức còn đơn giản, lại bị bộ máy tuyên truyền một chiều tác động, thì phần lớn vẫn cho đây là chiến tranh nhân dân, chiến tranh yêu nước, bảo vệ Tổ quốc, chống sự xâm lược của nước ngoài. Trước kia quân đội nước ngoài họ thấy được là lính Nhật, lính Pháp, lính Tàu, lính ấn, lính Anh (vào giải giáp quân đội Nhật sau Thế chiến thứ 2) và sau này là lính Mỹ. Họ chỉ giản đơn nghĩ: quân đội nước ngoài đến Việt nam là xâm lược!

Đối với trí thức, sinh viên, người thành thị có học thức và ít nhiều tiếp xúc với bên ngoài thời mở cửa, sau khi "khám phá" ra miền Nam đúng như thực tế như ở trên đã nói, họ cho rằng: nguyên nhân sâu xa và tính chất bao trùm của cuộc chiến tranh Mỹ-Việt là sự đối đầu của hai hệ thống thế giới: phe chủ nghĩa xã hội hiện thực và phe tư bản chủ nghĩa. Đây là cuộc chiến tranh nóng quyết liệt, dai dẳng, con đẻ của chiến tranh lạnh được khởi đầu từ sau Đại chiến thế giới thứ hai đến nay và kéo dài nửa thế kỷ.

Do đó, cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt nam, giữa chế độ chính trị miền Bắc và chế độ chính trị miền Nam, về hình thức là cuộc nội chiến giữa hai miền, về thực chất là cuộc chiến tranh ủy nhiệm (proxy), cuộc chiến tranh tiêu biểu giữa hai hệ thống thế giới đối chọi nhau, sống chết với nhau, đối lập nhau. Nó mang ý thức hệ quốc tế, có người còn gọi là cuộc chiến tranh thần thánh, guerre sainte: chống tư bản, đế quốc quốc tế, mà thực ra là chủ nghĩa tư bản tự do dân chủ đang chống lại sự bành trướng trên thế giới của phong trào cộng sản mang bản chất độc đoán.

Quan điểm của đảng Cộng sản Việt nam đối với nguồn gốc và tính chất của cuộc chiến tranh Việt-Mỹ như thế nào

Những người lãnh đạo đảng cộng sản luôn cố tình che giấu tính chất ý thức hệ của cuộc chiến tranh, tính chất giai cấp, thuyết chuyên chính vô sản, tính chất độc đoán của chế độ.

Từ cuối năm 1945, họ đã đưa ra việc giải tán đảng Cộng sản Đông Dương (thực tế là đảng rút vào bí mật và bành trướng rất mạnh. Tôi vào đảng vào thời điểm này, tháng 9.1946). Họ lấy tên là đảng Lao động Việt nam từ năm 1951 đến 1976. Đến năm 1976, sau khi toàn thắng, họ mới công khai lấy lại tên đảng Cộng sản Việt nam. Họ luôn dùng bức bình phong Mặt trận: Mặt trận Việt Minh hồi năm 1944-1945, Mặt trận Liên Việt hồi năm 1946, Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc và Mặt trận Giải phóng miền Nam sau đó... để che giấu kỹ độc quyền lãnh đạo kiểu độc đoán của đảng cộng sản.

Cũng cần nói thêm: những người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt nam luôn coi Đông Dương là một thể thống nhất, là một chiến trường, coi hai đảng Cộng sản Miên và Lào là hai đảng đàn em, cùng chung một lãnh tụ là ông Hồ Chí Minh, luôn tự nhận trách nhiệm quốc tế là cộng sản hóa cả bán đảo Đông Dương và cả Đông Nam á?

Sau ngày 30.4.1975, tôi từng nghe một người lãnh đạo trong Ban bí thư đảng Cộng sản Việt nam nói trước cuộc họp cán bộ cấp cao, tỏ ý tiếc là lúc ấy đảng Cộng sản Thái Lan quá yếu, nếu không thì đã có cơ hội "giải phóng", cộng sản hóa cả nước Thái Lan rồi!

Từ phía ông, ông nhộn thấy người Mỹ nhận thức về cuộc chiến tranh như thế nào?

Tôi đọc khá nhiều sách Mỹ, dự một số cuộc hội thảo quân sự ở Chicago, Texas, California, Boston, Virgnia... tôi thấy người Mỹ có nhiều quan điểm, nhận thức rất khác nhau, nhiều khi đối chọi nhau. Do tính chất của cuộc chiến tranh có nhiều, xen kẽ nhau, lồng vào nhau, tùy theo chỗ đứng, góc nhìn, tùy theo là "diều hâu hay là "bồ câu trong chiến tranh mà nhận thức khác nhau. Do đó, không bên nào có chân lý, lẽ phải tuyệt đối cả.

Theo tôi, bên nào cũng có phần đúng của mình. Đây không phải là "ba phải", nhập nhằng, phi lý, mà do các tính chất khác nhau cùng tồn tại trong một hiện tượng.

Chế độ miền Bắc có mặt đúng, lại có mặt sai, có mặt tốt, lại có mặt xấu. Họ tập hợp được dân, họ động viên được quân đội dưới khẩu hiệu yêu nước, cứu nước, bảo vệ độc lập, đánh đuổi ngoại xâm. Nhưng chế độ họ lại độc đoán, thủ tiêu quyền tự do của công dân, lại thi hành chủ trương mở rộng chủ nghĩa cộng sản, theo một học thuyết xa lạ từ bên ngoài! Do đó, ông Mắc Na-ma-ra (Mc Namara) nhận định: đảng Cộng sản Việt nam tiêu biểu cho chủ nghĩa quốc gia chân chính là chỉ nói được "một cái chân voi, ông quên đi cái mặt độc đoán, phi dân chủ, thi hành học thuyết cộng sản kiểu Sta-lin... và như thế là thiếu sáng suốt, thiếu công bằng. Bộ não điện tử sống ở Lầu Năm Góc - như có người đề cao ông Mc Namara - chẳng lẽ không biết rằng những người lãnh đạo Cộng sản Việt nam theo học thuyết quốc tế vô sản, rắp tâm thi hành Tuyên ngôn Cộng sản và các chỉ thị của quốc tế Cộng sản; họ còn coi Nghị quyết của đảng Cộng sản Liên xô và đảng Cộng sản Trung Quốc là mẫu mực để tham khảo và thực hiện. Quốc gia chân chính mà như vậy?

Mc Namara từng gắn bó với chiến tranh Việt nam, với chính quyền Sài Gòn trên tinh thần đồng minh thân thiết, nay quay ngoắt lại nhận định những người đứng đầu chế độ Miền Nam Việt nam hồi chiến tranh là "cặn bã của cặn bã xã hội" thì thật là quá quắt trong ý đồ phỉ báng rất tùy tiện.

Ông cũng không công bằng khi lên án những người Mỹ chủ trương chiến tranh là sai lầm khủng khiếp", bởi vì trong số ấy nhiều người chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản quốc tế là có lý, có lẽ của họ; hơn nữa, theo nhận định của nhiều sử gia quốc tế, sự can thiệp của Mỹ đã có hiệu quả là trì hoãn việc cộng sản hóa Miền Nam Việt nam chừng một chục năm, ngăn chặn làn sóng đỏ lan sang Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương... Theo tôi, dù người Mỹ có lập trường "diều hâu hay "bồ câu, họ đều có cái lý của họ, có cái phần chân lý của họ mà ta cần tôn trọng. Cũng không nên lấy kết quả là sự chiến thắng hay sự thất bại trong chiến tranh để nhận định ai đúng, ai sai. Đó là cách nhìn cơ hội.

Chiến tranh chính nghĩa có nhiều điều kiện để chiến thắng, nhưng thực tế không phải bao giờ cũng như vậy. Người Mỹ, dù thời chiến có quan điểm đối nghịch nhau, nay chiến tranh đã kết thúc hơn hai mươi năm, nên bình tĩnh nhìn lại với quan điểm bao dung, khoa học, hòa giải với nhau. Bởi vì "cái đúng, "cái sai" của cuộc chiến tranh Việt-Mỹ lồng vào nhau, xoắn xuýt với nhau, chỉ có tính chất tương đối theo từng mặt xem xét. Không một ai có thể tự cho mình là đúng tuyệt đối, là có độc quyền lẽ phải. Tính chất đa diện, phức tạp, tương đối... cần chi phối việc nghiên cứu và nhận định về một cuộc chiến tranh lâu dài, phức tạp đã qua này. Phải đặt cuộc chiến tranh ấy trong bối cảnh quốc tế, theo cách nhìn toàn cầu và khu vực, theo quan điểm lịch sử và phát triển.

Chính vì vậy, theo tôi, ở cả hai phía "bồ câu và "diều hâu trước đây, đều tự cho mình là thành tâm mong muốn Việt nam có tự do, đến nay cần ủng hộ sự nghiệp dân chủ hóa ở Việt nam, góp phần sớm chấm dứt một chế độ độc đoán, chà đạp tự do, nhân quyền ở Việt nam, đấu tranh để những người dân chủ, bất bạo động, đang bị giam giữ sớm được tự do.

Khi nhìn lại, ông đánh giá ra sao về quân đội Hoa Kỳ ở Việt nam?

Vào những năm 1963, 1964, 1965... khi Hoa Kỳ bắt đầu chuẩn bị và đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt nam, chúng tôi rất lo. Từ lãnh đạo đến chỉ huy, cán bộ, binh sĩ ở miền Bắc và ở miền Nam đều rất lo. Vì ai cũng biết Mỹ là siêu cường số một của phương Tây. Địch thủ chính của Mỹ là Liên xô. Mỹ có lực lượng quân sự hùng hậu, hải-lục-không quân lớn bậc nhất thế giới. Khoa học kĩ thuật quân sự của Mỹ cực lớn. Mỹ là người khổng lồ! Chúng tôi thường so sánh: người lính Mỹ to lớn, cao khỏe vượt hơn hẳn người lính Việt nam một cái đầu, nặng hơn vài chục kí, ăn uống đủ chất, được nuôi dưỡng, huấn luyện tốt. Sức lực của người lính Mỹ áp đảo sức lực của người lính Việt nam. Xem sách báo, phim ảnh, chúng tôi thấy lính Mỹ vạm vỡ nhất là lính da đen, xốc vác, như những võ sĩ. Chúng tôi lo khó trụ nổi, khó đọ sức nổi với Mỹ khi giáp trận.

Tôi còn nhớ hồi năm 1965, khi cho ý kiến về bình luận quân sự, tướng Võ Nguyên Giáp có nói riêng với mấy phóng viên quân sự báo Quân đội nhân dân rằng: "Mỹ vào chừng mười bốn, mười lăm vạn đã thành vấn đề gay go ở chiến trường. Nếu số quân Mỹ lên đến hai mươi vạn hoặc hơn nữa thì sẽ rất gay go cho phía ta!" Bởi vì, trong thời gian 1965-1966, số quân của miền Bắc ở miền Nam cũng chưa đến mười hai vạn (120.000), đến năm 1968 cũng chỉ vào khoảng hai mươi hai vạn (220.000), trong khi số quân Mỹ ở miền Nam đã lên đến hơn nửa triệu.

Trong hàng ngũ quân đội nhân dân, từ Bộ tổng tư lệnh đến các sư đoàn, quân khu, từ các trường quân sự đến sĩ quan của các binh chủng đều nghĩ rằng, việc quân Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam là sự kiện lớn trong chiến tranh Việt-Mỹ, là một thay đổi về chất của cuộc chiến tranh, rất nghiêm trọng đối với chúng tôi. Chúng tôi hiểu: quân đội Mỹ rất mạnh, rất đông đảo, trang bị cực kỳ hiện đại chưa từng thua ai, chưa biết thất bại là gì.



Khi hai bên đã giáp trận, các ông nhận xét ra sao về quân đội Mỹ?

Có lẽ trận Vạn Tường (tháng 8.1965) và trận Plây-me (tháng 10.1965) là những trận giáp chiến đầu tiên giữa Quân đội nhân dân Việt nam và quân đội Mỹ. Ngay sau đó ở Quân khu Năm, ở Bộ chỉ huy quân sự miền (đóng ở Tây Ninh), ở Bộ tổng tham mưu ở Hà Nội đã dựa vào báo cáo về hai trận ấy làm ngay tổng kết, rút kinh nghiệm rất tỉ mỉ.

Tôi còn nhớ, những điểm chính của tổng kết được phổ biến cho toàn quân, cho mọi cấp chỉ huy là: Quân Mỹ có hỏa lực rất mạnh, nhưng không đáng ngại bằng quân viễn chinh Pháp hồi trước. So với quân Pháp, quân Nhật, quân Anh-ấn, các đơn vị lê dương Pháp, quân Bắc Phi (gồm lính được tuyển từ các nước Ma-rốc, An-giê-ri, Sê-nê-gan...) thì quân Mỹ không có gì đáng sợ. (Chúng tôi hay so sánh với kẻ thù cũ, chỉ mới cách đó hơn mười năm. Quân Mỹ có nhiều chỗ mạnh (dễ thấy), nhưng lại có nhiều chỗ yếu. Đó là quân đội làm quân dịch, vào quân đội theo nghĩa vụ công dân chứ không phải lính chuyên nghiệp, nhà nghề. Lính Mỹ hầu hết còn rất trẻ, từ nước Mỹ xa xôi sang, động cơ chiến đấu mơ hồ, thiếu kinh nghiệm tác chiến ở chiến trường Việt nam, lạ địa hình, không hợp thủy thổ, lối sống, rất bỡ ngỡ với hoàn cảnh chiến đấu mới? Mặt khác, chế độ quân nhân Mỹ phục vụ ở Việt nam chỉ kéo dài có một năm, (đối với người lái máy bay chỉ cần bay đủ một trăm phi vụ) rồi sẽ "đến hẹn" trở về Mỹ bộc lộ một nhược điểm lớn, là chỗ rất yếu của quân Mỹ. Khi lính Mỹ đã phần nào quen với chiến trường, có ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu cũng là lúc họ lên đường trở về Mỹ? Ngược hẳn lại, quân đội nhân dân Việt nam được giáo dục, động viên thường xuyên, có lý tưởng, xác định rõ ràng mục tiêu chiến đấu, có ý chí chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng - dù rằng trong giáo dục có cả phần áp đặt, bó buộc - lại quen thuộc địa hình, địa vật, sức chịu đựng gian khổ dẻo dai, kỷ luật nghiêm, hợp thủy thổ... Tức là họ có cả ba yếu tố nhà binh pháp nổi tiếng của Trung Hoa cổ đại Tôn Tử đã đúc kết là thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Tôi còn nhớ, vào dịp Tết âm lịch đầu năm 1966, có một cuộc họp lớn ở bộ Quốc phòng Hà Nội, tập trung các tư lệnh (của các quân khu, sư đoàn, quân chủng, binh chủng thiết giáp, pháo binh, phòng không, công binh, thông tin...) để phổ biến tỉ mỉ về chiến dịch Plây-me ở vùng Ya-drang (Tây Nguyên) diễn ra từ ngày 14 đến ngày 22.11.1965 do các trung đoàn 320, 66 và 24 của quân đội nhân dân Việt nam thuộc chiến trường Tây Nguyên thực hiện. Tại đó, hai tiểu đoàn của lữ không vận 173 Mỹ bị thiệt hại rất nặng, đặc biệt là trong trận bị phục kích ở cao điểm 875 gần Đắc Tô, một tiểu đoàn Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu đến 75% quân số.

Kinh nghiệm chiến dịch Plây-me được viết thành văn kiện: tường thuật, bình luận, bản đồ, in trên báo Quân đội nhân dân, tạp chí Quân đội nhân dân, đọc trên Đài truyền thanh Hà Nội, Đài Giải phóng, đọc chậm cho các đơn vị ở xa ghi lại và phổ biến rộng rãi. Nhưng kinh nghiệm lớn rút ra là:

- Quân đội nhân dân Việt nam có thể đương đầu với quân Mỹ và có khả năng chiến thắng.

- Phía quân Mỹ có kĩ thuật, hỏa lực lớn (pháo bầy, máy bay B.52 ném bom rải thảm, hàng trăm trực thăng bắn được ba ngàn quả rốc-két yểm trợ rất gần quân Mỹ...) nhưng không thắng được khi bị đánh gần, bị bất ngờ. Quân Mỹ đến đâu là bắn phá phát quang cả vùng ấy bằng hỏa lực (từ chuẩn bị tiến, tiến công, xung phong... đều dùng hỏa lực) nên phô trương lực lượng, không giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ như quân đội nhân dân Việt nam.

Trong khi tác chiến, quân đội nhân dân Việt nam không dùng nhiều quân. ở Ya-drang, họ chỉ có năm đại đội chiến đấu, nhưng đã tiêu diệt gần hết cả một tiểu đoàn Mỹ (tiểu đoàn 2/7 của lữ 173). Trên cả địa bàn chiến dịch, họ chỉ có ba trung đoàn mà vẫn đủ sức đương đầu với mười hai tiểu đoàn Mỹ cộng với bốn tiểu đoàn Nam Việt nam và Tân Tây Lan.

- Bí quyết để chiến thắng là chuẩn bị chiến đấu kỹ, hiểu rõ địa hình, phán đoán chính xác hành động của đối phương để dụ đối phương đến đúng "bẫy" phục kích đã được nghi binh, bất ngờ đánh nhanh, rút nhanh. Luôn luôn tác chiến theo cách tiến công đối phương khi đối phương ở ngoài công sự áp dụng chiến thuật "đánh điểm, diệt viện", "vây điểm, diệt viện", biết khơi ngòi chiến dịch và biết kết thúc chiến dịch.

Có thể nói, chiến dịch Plây-me ở Tây Nguyên cuối năm 1965 là trận then chốt để phía chúng tôi viết nên cẩm nang chống Mỹ, một kiểu binh thư mới trong chiến tranh chống lại người Mỹ.

Vị tướng nào của Quân đội nhân dân Việt nam có trình độ cao về tổng kết kinh nghiệm chiến tranh?

Tôi có thể nói ngay là đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Hồi năm 1965, quân đội nhân dân Việt nam chỉ có hai đại tướng bốn sao là Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh) và Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị). Cả hai đều là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương đảng.

Ông Thanh vào miền Nam từ tháng 10. 1964, ngay sau khi đoàn nghiên cứu đặc biệt của bộ Quốc phòng và Quân ủy Trung ương (mà tôi là một thành viên trong đoàn) vào miền Nam gần một năm, rồi trở ra báo cáo cho ông. Ông Thanh là đại diện của Bộ Chính trị ở miền Nam, là người chỉ huy cao nhất ở chiến trường miền Nam, cầm đầu Quân ủy miền đóng ở Tây Ninh sát biên giới Căm-pu-chia. Ông là người đọc nhiều, nói chuyện hay, rất quan tâm tổng kết kinh nghiệm. Khi viết những bài luận văn dài, ông thường ký tên Trường Sơn. Người bí thư của ông chuyên thảo ra luận văn để ông sửa lại là đại tá Mai Quang Ca, bạn tôi. Ngay từ cuối năm 1965 ông Thanh đã viết mấy bài luận văn lớn, như "Mỹ giàu nhưng không mạnh", "Mùa khô cay đắng của quân Mỹ", "Nắm thắt lưng địch mà đánh!" đăng ở báo Quân đội nhân dân và đọc trên Đài truyền thanh Hà Nội, Đài phát thanh Giải phóng nhiều lần. Ông đặc biệt chú ý rút kinh nghiệm cụ thể từ các trận đánh với quân Mỹ ở Đất Cuốc (8.11.1965), Bầu Bàng (12.11.1965) và Dầu Tiếng (20.11.1965). Đến đầu năm 1967, sau các trận càn lớn át-lê-bô-rố (Atleboro) trong tháng 10 và tháng 11 năm 1966 ở chiến khu Dương Minh Châu, các chiến dịch Xê-đa Phô (Cedar Fall) (2.1967) vào vùng Bến Cát, Củ chi; Và Gian-xơn Xi-ti (Junction City) (3.1967) vào chiến khu C, Bắc Tây Ninh... tướng Thanh lại tổng kết trong bài luận văn "Năm bài học trong mùa khô thắng lợi. Các bài học đó là: luôn giữ quyền chủ động ở chiến trường, buộc đối phương chiến đấu theo ý muốn của mình; cố gắng ở thế tiến công, thuận lợi cho ta thì chiến đấu, không thuận lợi cho ta thì né, tránh, lẩn đi, tự chọn thời gian, địa thế, thời cơ để nghênh chiến; luôn tìm cách đánh gần, đánh mãnh liệt, đánh nhanh kết thúc nhanh, không dây dưa kéo dài (một chiến dịch có thể chỉ từ hai, ba ngày đến năm, sáu ngày, một trận đánh có khi chỉ kéo dài mười lăm đến hai mươi phút). Cần chuẩn bị kỹ, hiểu đối phương, hiểu địa thế, hiểu quy luật hành động, phán đoán đúng phản ứng của đối phương, biết cơ động linh hoạt, tập trung vừa đủ quân, tập trung và phân tán nhanh, di chuyển nhanh; giữ thế bí mật và bất ngờ, chú trọng nghi binh, làm cho phán đoán của đối phương bị sai lệch...

Các tư lệnh và sĩ quan chỉ huy, sĩ quan tham mưu ở mọi đơn vị đều thuộc lòng các bài học kinh nghiệm ấy để vận dụng.

Ngoài ra còn có ai nữa?

Có tướng Lê Trọng Tấn, sau này được phong đại tướng. Ông vào bộ chỉ huy miền Nam hồi 1966 với mật danh Ba Long. Ông xuất thân từ một ông "đội tàu bay" của Pháp ở một đơn vị mặt đất tại sân bay Bạch Mai, Hà Nội hồi năm 1943. Ông gia nhập Việt Minh từ hồi ấy và sau là tư lệnh sư đoàn công-pháo (công binh và pháo binh) năm 1953. Năm 1967, ông là Tổng tham mưu trưởng toàn miền Nam, Tổng tham mưu trưởng toàn quân năm 1977. Năm 1986, ông chết đột ngột khi được cử làm Bộ trưởng quốc phòng. Ông là người rất ít nói và ít thấy viết bài trên báo. Là người nhiều mưu mẹo, nhiều kinh nghiệm chỉ huy, tham mưu, ông luôn có mặt ở các chiến dịch quan trọng. Luôn có ý kiến ngắn, gọn. Rất mưu lược sâu sắc, thâm trầm, được cấp dưới nể trọng.

Tướng Trần Văn Trà, sau năm 1975 lên thượng tướng. Ông là người gắn bó với chiến trường miền Nam từ thời chống Pháp, là tướng có mặt ở chiến trường lâu nhất. Ông thông minh, lanh lẹn, tài hoa (thích văn nghệ, thích chơi ảnh, thích nghe nhạc, đọc sách...) và có bí danh là Tư Chi. Ông có nhiều kinh nghiệm về cơ động, nghi binh, hiểu tâm lý chỉ huy các tư lệnh Mỹ...

Tướng Hoàng Minh Thảo (hiện là thượng tướng, Viện trưởng Học viện quân sự cao cấp ở Hà Nội). Có thể nói, ông là tướng có học thức, rất trí thức, uyên bác về lịch sử quân sự của dân tộc Việt nam, lịch sử chiến tranh đông tây kim cổ... Ông chỉ vào miền Nam một thời gian ngắn, làm Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên từ năm 1969 đến năm 1973. Không thể không kể đến tướng Nguyễn Hữu An, sau lên thượng tướng. Ông từng là một trung đoàn trường nổi tiếng, đánh trận giỏi thời chống Pháp. Năm 1975, ông là Tư lệnh Quân đoàn 2 (đơn vị chiếm dinh Độc Lập Sài Gòn), sau đó là Tổng thanh tra Quân đội và Hiệu trưởng Trường quân sự Đà Lạt (nơi bổ túc cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn và trung đoàn). Năm 1965-1966, ông là Phó tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, chỉ huy chiến dịch Plây-me. Ông có ý chí cao, thông minh, hoạt bát, mưu mẹo, rất tỉ mỉ khi vạch kế hoạch tác chiến, đến tận nơi từng chiến sĩ phục kích để kiểm tra...

Tôi được biết năm 1991, ông An đã gặp tướng Mỹ Ha-rôn Mo (Harold Moore) ở Hà Nội. Ông Mo từng là trung tá, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/7 (thuộc lữ đoàn 3) tham chiến ở trận Ya-drang, Plây-me năm 1965. Sau đó ông An đã chết vì ung thư.

Còn tướng Giáp?

Theo tôi, tài ba của tướng Giáp trong cuộc chiến với Hoa Kỳ không bằng thời chống Pháp. Đỉnh cao "thiên tài" của ông, công bằng mà nói, là chiến dịch Điện Biên Phủ tháng 1.1954, khi tự ông thay đổi phương châm tác chiến, từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh" sang "đánh chắc, tiến chắc" rồi từ đó giành thắng lợi. Điều này ông đã kể rành rõi cho riêng tôi nghe, đúng vào dịp 85 năm kỷ niệm trận Điện Biên Phủ, tháng 5.1989. Những điều ông kể đã được ghi lại trong bài "Quyết định khó khăn nhất" và được dành riêng cho báo Nhân dân Chủ nhật đăng, mà lúc ấy tôi là Trưởng ban biên tập.

Trong chiến tranh với Mỹ, từ khi chiến tranh bùng nổ năm 1946 đến khi kết thúc tháng 4.1975, ông Giáp chưa hề vào chiến trường miền Nam. Ông chỉ sống ở Việt Bắc và Hà Nội. Ông chỉ huy từ chiếc hầm chỉ huy của bộ Quốc phòng, nằm trong sân cung vua Lê cũ, ở gần cột cờ cổ của Hà Nội. (Ông chỉ đi cùng Phi-đen Cát-xtrô vào Quảng Trị trên quãng đường Hồ Chí Minh một đoạn ngắn sau hiệp định Paris được ký).

Do vậy, nên khi gặp các nhà báo quốc tế hay các đoàn đại biểu quân sự Liên xô, Trung Quốc, CHDC Đức, Cu Ba... khi nói về chiến tranh chống Pháp, về Điện Biên Phủ, tướng Giáp bao giờ cũng sôi nổi, sinh động hơn khi nói về cuộc chiến với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, năm 1966, 1967, khi ông nhận định về chủ trương "tìm và diệt" của tướng Oétx-mo-len (Westmoreland), lúc đó đang ở Sài Gòn, tướng Giáp đã có ý kiến hay. Ông nói với cán bộ Học viện quân sự cấp cao đầu năm 1967 rằng: "Tìm và diệt nói lên điều gì? Một là quân ta cơ động cao, ẩn hiện bất ngờ, nghi binh tốt, không cố định ở một chỗ, biết tận dụng địa hình rừng núi và dựa vào dân để giữ bí mật nơi trú quân và hành quân, buộc kẻ địch phải đi tìm, đi mò, điều này nói lên thế bị động của đối phương. Diệt nói lên điều gì? Nó nói lên cái chủ quan, mù quáng, kiêu ngạo của đối phương, ỷ vào hỏa mạnh (pháo, tăng, trực thăng, B52...) để khi mò thấy quân ta là dễ dàng hùng hổ lao vào như con thú đói luôn sẵn sàng thấy mồi là vồ. Do đó ta có điều kiện để nhử địch vồ mồi và làm cho nó vồ hụt! Từ đó, đối phương dễ mắc bẫy của ta..."

Sau khi chiến tranh kết thúc, nhất là vào năm 1986, khi bất đầu bước vào "đổi mới", uy tín tướng Giáp lên khá cao. Khi bầu đại biểu đi dự Đại hội đảng cộng sản VI, trong Đại hội đảng toàn quân, ông được tín nhiệm rất cao. Nhiều người nghĩ ông có thể thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, hòa nhập với phương Tây, từ bỏ giáo điều... Nhưng ông quá dè dặt, e ngại, an phận, cờ đã đến tay mà không phất. Giới trí thức, sĩ quan thất vọng về ông. Đây là trường hợp điển hình cho thấy, một chế độ giáo điều có thể tiêu hủy một tài năng như thế nào.

Hồi còn ở trong nước, tôi rất quý mến tướng Giáp. Đến đại hội 6, cuối năm 1986, uy tín ông lên khá cao, ông được đại hội đảng toàn quân và một số ngành, địa phương nhắc đến như một nhân vật của tình thế, nhưng ông do dự, không quyết đoán. Để trôi qua một cơ hội cực hiếm? Tôi giảm ghê gớm niềm tin ở ông từ đó. Một số sĩ quan và cán bộ chê ông là hèn, là nhát, không dám bênh vực lẽ phải, công lý, không dám dấn thân cho dân chủ. Nay ông đã già. Tư duy lại không đổi mới kịp. Vì sao ông ngại? Vì: kinh cung chi điểu. Đã bị đe, bị dọa, bị giám sát nhiều lần, ông đâm ra sợ! ông còn sợ bị hiểu lầm là tham quyền, cố vị, là tranh giành quyền lực do động cơ cá nhân. Vẫn là suy nghĩ lẩn thẩn, từ cá nhân mình, không vì động lực cứu dân cứu nước vô tư, trong sáng. Ông cũng có thể nghĩ sự nghiệp cá nhân đến thế là lớn, là quý lắm rồi, cố giữ cho khỏi lọ lem thôi! Dù sao cũng chỉ có thể trông mong ở ông đến thế thôi. Mỗi con người đều có phần lớn và phần bé, phần sáng và phần tối!

Ông có nhận xét gì về cách điều hành chiến tranh của phía Mỹ ở Việt nam./

Về phía Mỹ, tôi cảm thấy các ông tướng không có toàn quyền đề ra và thực hiện các kế hoạch chiến đấu. Họ bị tổng thống, quốc hội, chính giới Mỹ kiểm soát chặt chẽ. Từ xưa, Tôn Tử đã chỉ ra rằng, hành động quân sự muốn có hiệu quả thì phải táo bạo, quyết đoán, dồn dập, bất ngờ. Các ông cũng hiểu điều đó. Nhưng do những ràng buộc chính trị, nên các ông phải leo thang từ từ, từng nấc một, vừa đánh vừa đàm phán, vừa đánh vừa thăm dò, vừa đe dọa, và luôn trông chờ rằng mỗi nấc leo thang sẽ là nấc cuối, đối phương sắp bỏ cuộc! Mỹ và Việt nam là hai nước rất xa nhau, nền văn hóa rất khác nhau, chế độ chính trị trái ngược nhau, cho nên cách điều hành chiến tranh của hai bên cũng khác nhau hoàn toàn. Mỹ có nếp sống dân chủ, cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt nam được bàn cãi công khai, hàng ngày trên báo chí, truyền hình Mỹ, trong quốc hội Mỹ. ở Việt nam, với một chế độ độc đoán, chiến tranh lại làm tăng thêm tính chất bịt kín, khép chặt, không có tự do báo chí, không có tranh luận trong quốc hội, khách nước ngoài đến Việt nam được sàng lọc kỹ, tin tức chiến tranh chỉ được đưa ở các thông báo của Bộ Quốc phòng, hầu như thư từ của tư nhân giữa trong và ngoài nước là con số không, báo chí của nhà nước bị cơ quan tuyên huấn của đảng và Bộ Công an kiểm duyệt chặt chẽ.

Trong điều hành chiến tranh, do khác biệt về chế độ chính trị, về bản chất của chính quyền, tôi có cảm giác như Mỹ và Việt nam đang chơi bài với nhau, bên Mỹ chơi bài ngửa (mọi sự đều công khai), còn phía Việt nam chơi bài úp (giấu kỹ). Thành ra, phía Việt nam am hiểu rõ mọi hành động chiến tranh của Mỹ: tăng quân bao nhiêu, đưa thêm vũ khí gì vào Việt nam, thay cấp chỉ huy thế nào, đánh ra sao, nấc thang sắp tới là gì, sự chia rẽ, ngập ngừng, tranh cãi trong giới quân sự, trong chính giới trong dư luận Mỹ ra sao... Trong khi đó, phía Mỹ phán đoán về đối phương rất khó khăn. Tất cả ch
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 05-20-2004, 05:13 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

1 sao 2 sao 3 sao 4 sao 5 sao Vote!
Số lần đọc: 115
:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ

Phần 1



Cách đánh của tên lửa ra sao?

Mắc Na-ma-ra, nguyên bộ trưởng bộ Quốc phòng Mỹ trong thời kì chiến tranh Việt nam, tác giả của "hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra" nổi tiếng.

Có thể nói tỉ lệ máy bay Mỹ bị tên lửa ở miền Bắc hạ là cao nhất, chừng 60%. Đó là tên lửa SAM-2 và nhất là SAM-3 do Liên xô chế tạo. Chúng tôi đã sơn phủ màu xanh và nâu loang lổ trên màu bạc vốn có để ngụy trang. Tên lửa thường được đặt trong ụ công sự, bố trí trên trận địa theo hình tam giác, cách nhau hai, ba kilômét, mỗi trận địa có một xe chỉ huy nối liền với ra-đa. Cái khó nhất của đơn vị tên lửa là máy bay Mỹ thả rất nhiều bó kim loại trải dài và rộng trên trời, làm thành những mục tiêu giả lấp lánh trên màn ra-đa. Rất khó phân biệt chấm nào là của máy bay, chấm nào là của các giải nhiễu. Các chiến sĩ ra-đa, đặc biệt là chiến sĩ tìm mục tiêu trên màn huỳnh quang phải rất nhạy cảm, tích lũy kinh nghiệm lâu ngày, tinh nhạy để "tóm" được mục tiêu thật giữa những chấm hỗn loạn ấy. Họ luyện tập rất kỳ công đôi mắt phân biệt thật-giả mà mắt thường khó làm được. Lại phải hiểu quy luật của đường bay của đối phương, đội hình bay của những F-105, F-4, B-52... độ giãn cách, tốc độ... để sớm nhận ra và bám chặt mục tiêu. Cũng phải hiểu đường bay của máy bay Mỹ là thường phóng đến các điểm chuẩn để đi vào hoặc đi ra vùng châu thổ sông Hồng, vào cửa ngõ thủ đô Hà Nội, chẳng hạn như bay đến điểm chuẩn là :Dnh núi Tam đảo, Ba Vì, hoặc ngã ba sông Lô và sông Thao, cửa sông Hồng... theo lời khai của phi công Mỹ bị bắt. Các chiến sĩ ra-đa trẻ quen nhận ra mục tiêu, có nhiều kinh nghiệm là rất hiếm, rất quý, được coi là "mì chính" của đơn vị, được cho ăn gan lợn, dầu cá (để làm cho mắt tinh), được uống hạt "khải tử" (thuốc Bắc) cũng để sáng mắt.

Khi mục tiêu đã nhận ra rồi thì thời cơ bấm nút phóng tên lửa là quan trọng nhất. Thường hai tên lửa được phóng liên tiếp, nối đuôi nhau bay về hướng mục tiêu. Góc độ tiếp cận máy bay hẹp thì tên lửa sẽ lao theo luồng nhiệt của máy bay phun ra phía sau để tới gần mục tiêu và nổ.

Tên lửa cũng tác chiến theo cách đánh "du kích", tránh trận địa cố định, luôn di động, kết hợp tên lửa thật và trận địa tên lửa giả, tên lửa nghi binh, mang tên lửa đi phục kích, đón lõng máy bay Mỹ ở nơi nào đó theo phán đoán của chỉ huy.

Ông còn nhớ vụ Mỹ định giải thoát tù binh Mỹ ở Sơn Tây như thế nào không?

Tôi nhớ vụ đó xảy ra vào quãng tháng 11 năm 1972. Lúc bấy giờ có một trại giam phi công Mỹ ở miền Bắc đặt tại Sơn Tây. Để thu thập tài liệu cho cuốn sách đang viết là cuốn "Người hùng Mỹ :Dng mặt", tôi đã phỏng vấn gần hai trăm tù binh Mỹ, hầu hết là những phi công lái máy bay.

Trước đó hai tháng, vào tháng 9.1972, tôi lên trại giam ở Sơn Tây và đã ở trại đó hai ngày. Trong trại có khoảng hơn sáu chục phi công Mỹ và tôi còn nhớ có hai người da màu, trong đó còn có một người Mỹ gốc Nhật Bản. Trận giải cứu tù binh Mỹ không thành, khi trong ba máy bay trực thăng của toán giải cứu đổ bộ xuống, có một chiếc hạ xuống sân trại giam bị vướng vào một cây bàng, nên không cất cánh lên được, đành phải bỏ lại. Ngày hôm sau tôi đã lên trại, tận mắt chứng kiến nơi bị biệt kích Mỹ tập kích. Lý do thất bại của phía Mỹ rất đơn giản là số tù binh ở trại đã được chuyển đi trước đó hơn hai tuần. Sự di chuyển này hoàn toàn nằm trong kế hoạch đã định sẵn, không phải do ý định giải cứu của Mỹ bị lộ. Qua tìm hiểu từ các tài liệu của Mỹ, tôi được biết tình báo trên mặt đất của họ rất yếu. Phía Mỹ chỉ dựa vào ảnh chụp được qua máy bay do thám của họ để phân tích, phán đoán ở vùng đó có một trại giam và có người Mỹ ở đó và họ đã quyết định giải cứu. Kế hoạch giải cứu được tổ chức, chuẩn bị rất công phu. Họ đắp sa bàn qua bản đồ khu vực Sơn Tây có trại giam, lập mô hình giống hệt với thực địa, nơi đổ quân giải cứu, gồm có lô cốt, nhà cửa, trại giam. Các đơn vị biệt kích của Mỹ đã được huấn luyện đặc biệt trên một hòn đảo bí mật. Vào lúc nửa đêm, máy bay lên thẳng của Mỹ chở quân biệt kích đi giải cứu xuất phát từ Thái Lan và bay khá cao rồi hạ xuống khu vực đổ bộ. Toán giải cứu hoạt động trong khu vực trại giam khoảng 40 phút. Do không có tình báo mặt đất nắm sát tình hình, nên trong thời gian chuẩn bị tập kích số tù binh đã được chuyển đi mà phía Mỹ vẫn không hay biết. Cuộc giải cứu không thành công, phải bỏ lại một máy bay lên thẳng và bắt mang theo ba, bốn bộ đội địa phương để khai thác tài liệu.

Qua sự kiện nói trên, chứng tỏ người Mỹ không tổ chức được mạng lưới tình báo mặt đất có hiệu quả trong thời kì chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, để cung cấp những tin tức xác thực, giúp cho những hành động quân sự của Mỹ đạt kết quả như họ mong muốn. Kế hoạch tổ chức tập kích giải cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây là một bài học thấm thía đối với Mỹ.

Cuộc chiến của Mỹ ớ Việt nam là bật khả thắng (unwinnable). Một số người nhận định như thế. Ngay cả ông Mắc Na-ma-ra[6] và học giả Sten-/ây Kanốp cũng vậy. Còn ông?

Có điểm tôi đồng ý và cũng có điểm tôi không đồng ý!

Cuộc chiến tranh ở Việt nam đối với Mỹ không thể giành được chiến thắng, vì trước hết là về mặt chính trị. Chính quyền ở miền Nam do Pháp dựng lên trong một cuộc chiến tranh chiếm lại thuộc địa: nhân dân cả hai miền Bắc và Nam lúc đầu đều tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bảo Đại rồi Ngô Đình Diệm đều là vua, quan thời thuộc địa. Mỹ đã thế chân Pháp sau khi nhận gánh phần chính chi phí của cuộc chiến tranh của Pháp. Do đó chính quyền Ngô Đình Diệm rất khó có danh nghĩa "yêu nước", "cách mạng , "dân tộc" đối với cả nhân dân ở hai miền Nam, Bắc. Chỗ yếu rất cơ bản và không thể khắc phục được này của chính quyền Diệm và của cả Mỹ đã được chính quyền cộng sản ở miền Bắc ra sức khai thác và đã khai thác có hiệu quả, trong khi chính họ cố che giấu bản chất độc đoán và phụ thuộc vào quốc tế cộng sản của họ. Họ giương cao được ngọn cờ "yêu nước", "cách mạng", "dân tộc", chính nghĩa.

Tính chất gia đình trị, quan liêu, phong kiến của chính quyền Ngô Đình Diệm và các cuộc đảo chính của các tướng của quân đội miền Nam (đều do thực dân Pháp đào tạo và đưa lên) chỉ làm cho chỗ yếu ấy càng yếu hơn mà thôi. Cũng cần hiểu rõ một điều trong điều kiện lịch sử hồi đó ở miền Nam Việt nam, không có một tổ chức chính trị, đảng phái nào có đủ thế lực và uy tín để Mỹ có thể dựa vào. Việt nam quốc dân đảng, Đại Việt, Duy Dân... vốn đã yếu lại đã bị đảng cộng sản thanh trừng, các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo cũng chỉ có thế lực ở một số địa phương...

Như vậy, ông không đồng ý với nhận định Mỹ không thể thắng ớ điểm nào?

Tôi cho rằng, Mỹ không thể giành chiến thắng.

Nhưng như thế không có nghĩa rằng Mỹ đã thua sạch trơn như vừa qua là điều tất yếu? Mỹ có thể tránh được thất bại hoàn toàn, nặng nề như đã thua hồi 1973 và 1975.

Việc Mỹ thất bại trắng tay, không còn gì tại chỗ và chế độ miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện không phải là định mệnh? Theo tôi, Mỹ không thể thắng, nhưng cũng có thể không thất bại như đã thấy. Các ông đã để lỡ mất nhiều thời cơ có thể thắng điểm trong một số keo vật - như các đô vật thường nói - và có thể duy trì một thế cò cưa, dây dưa, bất phân thắng bại, từ đó dẫn đến một cuộc thương lượng để đạt được một thỏa hiệp, nhân nhượng nhau (compromis). Bây giờ chiến tranh đã đi hẳn vào dĩ vãng hơn hai mươi năm, một trang sử mới đã lật qua, hai nước đã bình thường hóa và có thể kết bạn. Với tình bạn, tôi có thể nói điều mà khi còn chiến tranh không thể nói ra giữa hai đối thủ

Theo ông, bằng cách nào Mỹ có thể tránh được những thất bại như của họ ở Việt nam cách đây 20 năm.

Trước hết, với tình bạn, tôi có thể nói thật về cảm tưởng của tôi và một số người chỉ huy cấp cao Quân đội Nhân dân Việt nam về cung cách chỉ huy của phía Mỹ. Các bạn đánh trận theo kiểu nhà giàu. Do đó, các bạn quen phác ra kế hoạch quân sự với hàng chục đến hàng trăm ngàn quân lính, hàng vạn, chục vạn tấn bom, hàng chục vạn quả đại bác, tốn kém hàng trăm triệu, hàng tỷ đô-la, và từ đó tin rằng nắm chắc phần thắng.

Chúng tôi là con nhà nghèo, phải dè xẻn lực lượng, tính toán chi li từng khẩu súng, từng viên đạn, từng cân lương thực... Do đó, chúng tôi luôn nghĩ cách làm sao để có thể đạt hiệu quả cao nhất với ít tổn thất nhất, dùng ít lực lượng nhất, sử dụng ít súng đạn nhất. Chúng tôi phải nghĩ ra cách đánh đặc công, công kích bằng những cách đánh đặc biệt, đánh hiểm. Đánh trúng huyệt, trúng điểm trọng yếu hoặc yếu nhất của đối phương là cách đánh hiểm, không cần nhiều sức mạnh, vũ khí ghê gớm. Chỉ cần điểm đúng huyệt là đối thủ có thể bị tê, liệt, cứng đờ, không còn khả năng phản ứng và lăn kềnh, bất tỉnh. Nói theo cách nói có hình ảnh, chúng tôi buộc đối phương cùng đánh chén, nhưng giấu kỹ dao, nĩa, muỗng, chỉ dùng toàn đũa để tận dụng thế mạnh riêng của mình.

Liệu người Mỹ chúng tôi có thể đánh hiểm không?

Có chứ! Tôi đã đi qua đường mòn Hồ Chí Minh một số lần, từ khi nó mới chỉ là đường mòn, với các đoàn vận tải vác vai, mang gùi sau lưng. Đi qua đường số 9 phải trải bao tải để bước lên, không để lại một dấu vết nào. Về sau thành con đường có thể dùng xe đạp thồ và đẩy bằng tay. Mỗi đơn vị thồ có từ 50 đến 200 xe đạp, cứ sáng thồ đi, chiều đạp xe trở về trạm. Sau năm 1965, con đường đó trở thành đường vận tải cơ giới với nhiều nhánh chằng chịt ngang dọc, với một lực lượng quân đội có quân số bằng hai quân đoàn, có đủ loại binh chủng: vận tải ô tô, xưởng sửa chữa xe, trạm cấp xăng dầu, kho gạo, kho thuốc, kho vũ khí, công binh sửa chữa cầu đường, cả những đơn vị thanh niên xung phong nam nữ đông đảo, rồi pháo binh, cao xạ, quân y với các trạm xá, bệnh viện dã chiến; các đơn vị thông tin, ra-đa, các đơn vị phá mìn, bảo vệ đường vận chuyển...

Tôi nhiều lần gặp tướng Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh đơn vị 559 (thành lập từ tháng 5.1959) là đơn vị chuyên lo việc vận chuyển và bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Năm 1972 ông là đại tá, tư lệnh 559. Hai năm sau, ngày 22.12.1974 (nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân) ông được thăng vượt cấp lên trung tướng. Sau này ông vào Bộ Chính trị, giữ chức phó thủ tướng từ năm 1964 đến 1968. Ông Nguyên rất lo quân Mỹ có thể đánh vào đường Hồ Chí Minh. Ông nói với tôi: "Nó đánh bằng bom, không ngại gì, bằng B-52 cũng không đáng lo! Lo nhất là nó dùng bộ binh hoặc quân đổ bộ đường không bằng dù, bằng trực thăng chiếm hẳn một đoạn. Cả mạng lưới tổ chức rất phức tạp sẽ bị đảo lộn. Vận chuyển chắc chắn sẽ bị đình trệ, vì đây là đường độc đạo!

Các bạn tôi, các đại tá và thiếu tướng ở Bộ tổng tham mưu cũng lo lắng nói với tôi hồi năm 1965, 1966: "Nó mà dùng hai hoặc ba sư đoàn Mỹ và Sài Gòn đánh chiếm một đoạn đường Hồ Chí Minh thì gay, gay lắm! Các cụ (nghĩa là những người lãnh đạo cao nhất) lo nhất ở điểm này!"

Đường Hồ Chí Minh đi qua phần lớn vùng rừng núi không có dân hoặc rất thưa dân, có đoạn nằm trên lãnh thổ Việt nam, có đoạn ở đất Lào, đất Căm-pu-chia, nhưng không có cột mốc đánh dấu. Đến tận năm 1970, có cuộc hành quân Lam Sơn 719 vùng Sê-pôn (Tchépone), sát miền Bắc, thì tình thế quân sự đã khác hắn. Mỹ đã rút nhiều quân ra khỏi miền Nam, quân đội miền Bắc đã lớn mạnh hẳn lên.

Vậy mà trong suốt một thời gian dài, từ năm 1964 đến năm 1969, bộ binh Mỹ và quân đội Sài Gòn vẫn không hề dùng bộ binh đánh vào đường vận chuyển chiến lược. Họ chỉ ném bom, thả chất hóa học, tung thám báo tới khu vực đó để thăm dò. Theo tôi, đánh hiểm là đánh vào đường vận chuyển chiến lược, cái cuống nhau (ombilical) nuôi dưỡng cuộc chiến đấu của toàn dân miền Nam. Hồi năm 1965, mỗi ngày cứ đưa được 50 tấn vũ khí đạn dược qua đường mòn Hồ Chí Minh vào miền Nam là đạt yêu cầu. Nếu đưa được 100 tấn hay nhiều hơn là vượt mức, dưới 50 tấn là đáng lo. Đánh vào đường mòn đó là đánh vào dạ dày và là đánh đường độc đạo duy nhất từ Bắc vào Nam. Chỉ chiếm một đoạn thôi, một quãng từ 50 đến 80 cây số, không cần phải chiếm cả đoạn đường dài 800 cây số, cũng đủ làm đảo lộn việc vận chuyển hằng mấy tháng? Không cần dùng quân đông như trong chiến dịch Gian-xơn Xi-ti hay trong chiến dịch Xê-đa Phô tới ba, bốn chục ngàn quân Mỹ. Chỉ cần một phần mười số quân ấy là đủ. Đánh vào đường mòn là đánh hiểm, vì quân của đối phương tập trung xung quanh khu vực đường mòn khá đông, nhưng phần lớn lại là các đơn vị quân hậu cần, giữ kho, sửa đường, vận tải, không phải là những đơn vị quen chiến đấu.

Có điều thật khó hiểu là, tại sao quân Mỹ đã đánh vào Căm-pu-chia bằng bộ binh Mỹ tháng 5.1970, mà họ lại không đánh vào một đoạn nào đó của đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam nói trên!

Đánh vào đường mòn Hồ Chí Minh còn gọi là đánh hiểm, vì ở đó hầu như không có dân chắc chắn dư luận thế giới và dư luận Mỹ sẽ không phản ứng gay gắt như đánh sang Căm-pu-chia hay đánh vào vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội, Hải Phòng... mà hiệu quả quân sự sẽ lớn, sâu rộng về cả thời gian lẫn không gian.

Ngoài ra, phía Mỹ còn có thể đánh hiểm như thế nào nữa?

Có chứ!

Hồi năm 1962 và đầu năm 1963, khi tôi đang ở Vinh, Quân khu 4 giao cho chúng tôi tuyển lựa, huấn luyện quân sự và chính trị những cán bộ quân sự chuẩn bị được đưa vào miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi chỉ tuyển chọn từng người một, chủ yếu là từ các đơn vị người miền Nam tập kết ra miền Bắc sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và đưa họ trở lại miền Nam với số lượng thấp, mỗi đợt độ vài chục người. Chúng tôi đưa họ vào ít vì lo rằng nếu đưa đơn vị lớn vào, Sài Gòn sẽ trả đũa và dùng đơn vị lớn đánh ra miền Bắc. Sau khi các đơn vị lớn của Mỹ đổ vào miền Nam, Quân khu 4 được lệnh chuẩn bị, đề phòng quân Mỹ đổ bộ lên miền Bắc, mà trước tiên là khu vực thuộc Quân khu ở phía nam sông Gianh. Tất cả các huyện trong khu vực ấy đều được chuẩn bị. Tự vệ, dân quân đều diễn tập chống quân đổ bộ bằng đường biển và đường không. Các bãi trống đều được cắm chông tre và chông sắt để chống quân nhảy dù, các bờ biển cũng được cắm chông. Hàng năm, Quân khu 4 thường tổ chức diễn tập vào mùa thu. Cứ năm này diễn tập thực binh (có quân của ba sư đoàn và lữ đoàn đóng ở vùng giới tuyến, các trung đoàn bộ đội địa phương của các tỉnh, các tiểu đoàn của các huyện và dân quân các xã tham gia), thì năm sau lại tổ chức diễn tập sở chỉ huy (không có thực binh), dành riêng cho các cơ quan chỉ huy. Bao giờ đề tài diễn tập cũng là chống quân đổ bộ và quân nhảy dù từ miền Nam, từ năm 1963 có thêm đề tài chống quân Mỹ cùng với quân đội Sài Gòn đổ bộ ở phía nam sông Gianh và nhảy dù chiếm các vùng sát giới tuyến như Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình...

Các viên tướng ở Bộ tổng tham mưu từ Hà Nội vào kiểm tra cuộc diễn tập lớn đều cho rằng tình huống đề ra rất sát với thực tế, vì khi miền Bắc đã đưa từng trung đoàn và từ năm 1964 từng sư đoàn vào miền Nam, thì quân Sài Gòn và sau đó quân Mỹ có thể "đáp lại" cũng ở cỡ tương đương. Họ sẽ cho từng sư đoàn đổ bộ hay nhảy dù xuống Quân khu 4, đặc biệt là vùng cán xoong[7] hẹp, bị kẹp giữa một bên là biển, một bên là núi. Hạm đội 7 của Mỹ đang chực sẵn ngoài khơi biển Đông sẽ tham chiến.

Sau này, vào năm 1977, khi tôi đi trong đoàn quân sự do đại tướng Võ Nguyên Giáp[8] dẫn đầu sang Liên xô, Ba Lan, Đông Đức, Hungari, Trung Quốc... tôi có dịp hỏi tướng Giáp về thời kỳ chiến tranh Việt-Mỹ. Trong đoàn còn có thượng tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng. Tướng Giáp nhắc lại: hồi năm 1964, 1965, ông rất lo là quân Mỹ và quân miền Nam đổ bộ và nhảy dù chiếm một vùng nhỏ ở Quân khu 4. Rất lo vì lúc ấy Liên xô chưa chắc đã có hành động gì, vì ở quá xa. Còn Trung Quốc thì đã nói rõ là họ bất động! Họ bị cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1951-1953 làm nản chí, e ngại. "Chống Mỹ viện Triều" đã quá tốn kém, nay lại "chống Mỹ viện Việt" thì không còn sức nữa? Ông Giáp lo vì Mỹ rất dễ hành động như vậy, không cần nhiều quân, chỉ một, hai sư đoàn với một phần hạm đội 7 và không quân ở miền Nam, ở Thái Lan là thừa sức làm việc ấy. Họ sẽ làm cho miền Bắc khó duy trì được sự chi viện miền Nam, mà phải lo dành lực lượng để bảo vệ miền Bắc, căn cứ hậu phương lớn của cả nước. May quá, điều ấy đã không xảy ra? "Nếu không thì chiều hướng chiến tranh sẽ không thuận lợi như đã xảy ra!", ông mỉm cười kết luận như vậy.

Cũng vào dịp ấy, tôi phỏng vấn đùa tướng Lê Trọng Tấn: "Nếu anh là tướng Mỹ hồi chiến tranh, anh sẽ chỉ huy ra sao, với hành động quân sự gì?

Tướng Tấn vốn ít nói, thâm trầm, nổi tiếng là nhiều kinh nghiệm, có năng khiếu chi huy, đã trả lời tôi:

"Họ có phương tiện cơ động lớn, nhưng họ không có cách đánh hiểm. Tôi mà là chỉ huy quân đội Mỹ, thì hồi năm 1964, 1965, tôi sẽ tiến công chiếm một đoạn đường Hồ Chí Minh, đồng thời đổ bộ lên một vùng nhỏ ở Đồng Hới, Quảng Bình. Có thể làm hai cuộc tiến công đó trước sau một thời gian, cũng có thể đồng thời, thế mới là đánh hiểm. Tất nhiên họ không thể thắng, nhưng họ có thể tránh khôi thua đậm như vừa qua!"

Tôi nhớ lại hồi ấy, nghị quyết của Quân ủy Trung ương có một điểm nói rõ: Phải cố gắng kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, ngăn chặn chiến tranh lan rộng, buộc địch phải thua trên chiến trường miền Nam, không để cho chiến tranh trên bộ lan ra miền Bắc, hạn chế cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và kéo địch phải xuống thang ớ cả hai miền.

Đọc những tài liệu, hồi ký của Mỹ, gặp các nhà chính trị, quân sự Mỹ, tôi thấy họ hiểu đối phương còn thiếu sâu sắc, có thể nói là hời hợt?

Có học giả Mỹ cho rằng, Hoa Kỳ thua ở Việt nam vì đã không dám động đến Lào đang bị ràng buộc bởi Hiệp định năm 1962 về Lào. Do đó Hoa Kỳ đã không dám tiến công thẳng vào đường mòn Hồ Chí Minh, mà phần quan trọng nhất của nó nằm trên đất Lào?

Theo tôi biết, đây là chính kiến của ông Noóc-man Han-na (Norman B. Hannah), năm 1962 là phó vụ trưởng Vụ Đông Nam á, Bộ Ngoại giao Mỹ, sau đó là cố vấn chính trị cho Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình dương (Political advisor to the Commander in Chief pacific, CINCPAC). Ông Noóc-man Han-na từng viết cuốn sách có nhan đề: "Chìa khóa của thất bại: Lào và cuộc chiến tranh Việt nam" (The key of failure: Lao and the Vietnam war -Madison Books, 1987). Hen-ry Kít-xinh-giơ[9] trong cuốn hồi ký "Nền ngoại giao" (Diplomacy), xuất bản năm 1996, đã kể lại rằng Ken-nơ-đi (J. Kennedy)[10] khi nhậm chức tổng thống đã theo ý kiến người tiền nhiệm của mình là Ai-xen-hao (Eisenhower) rất quan tâm đến nước Lào. Ken-nơ-đi cho rằng nền độc lập và trung lập của Lào là cần thiết cho sự ổn định của Đông Nam á. Sau thất bại ở vịnh Con lợn (thuộc Cuba), Ken-nơ-đi có ý định dùng thương lượng để bảo vệ nền trung lập của Lào. Cuộc thương lượng về Lào kéo dài hơn một năm và kết thúc với một hiệp định quốc tế vào tháng 7.1962. Tất cả cố vấn và nhân viên quân sự nước ngoài Mỹ, Thái Lan, Việt nam đều phải rút khỏi Lào dưới sự kiểm soát quốc tế. Mỹ và Việt nam đều cam kết tôn trọng quy chế trung lập của Lào.

Tôi đã nhiều lần đi qua các vùng Thượng Lào và Hạ Lào, ở cả phía tây Trường Sơn lẫn đông Trường Sơn. Dân Lào ở vùng này rất thưa thớt và lạc hậu. Họ không dùng tiền, mà trao đổi vật phẩm lấy những hàng hóa mà họ cần, như mang gà đổi lấy kim chỉ, mật ong đổi lấy khăn mặt, ngô, thịt rừng đổi lấy thuốc men v.v... Nhân dân ở đây không hiểu gì về tình hình trong khu vực và trên thế giới. Họ không có giao lưu với bên ngoài nơi họ ở. Khái niệm nước Lào ở họ cũng rất mơ hồ.

Lính Bắc Việt nam chúng tôi có thể sống trong rừng Lào rộng bạt ngàn mà ít ai biết. Nhưng khi quân Mỹ đến Lào thì cả thế giới biết ngay qua các hệ thống truyền tin, săn tin của phương Tây.

Sau Hiệp định về Lào, chúng tôi tuyên bố phía Việt nam đã thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, rút hết quân về nước. Thực ra, lúc đó quân chiến đấu Việt nam chỉ rút một ít để tượng trưng. Núi rừng bạt ngàn, không có doanh trại, chỉ đóng quân trong rừng rậm, làm sao mà biết được! Có lúc quân đội Việt nam ở Lào vẫn còn đến ba, bốn chục nghìn, hàng chục tiểu đoàn và nhiều trung đoàn. Các đơn vị ấy hoạt động ở Sầm Nưa, Phong Xa Lỳ, Xiêng Khoảng, quanh Viên Chăn, Luang Pha Bang, Khăm Muộn, Bô-lô-ven... Bằng chứng sự về có mặt của bộ đội Việt nam? Tuy có, nhưng Hà Nội phủ nhận hết. Hà Nội luôn lập luận: lừa được đối phương, giấu được dư luận quốc tế là thành tích, vì tuy lừa dối, nhưng đã là vì cách mạng, vì chính nghĩa thì không cần phải phân vân, băn khoăn.

Theo ông, Hoa Kỳ có thể có một cách tác chiến khác với những cách đã làm không?

Tôi nghĩ, chiến tranh đã kết thúc, không thể làm lại những gì đã qua. Không thể như đánh bài, thua ván này, xóa đi chơi ván khác. Chiến tranh là một thử thách ghê gớm cho toàn xã hội về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và truyền thông trong khu vực và trên lĩnh vực quốc tế.

Do điều kiện lịch sử, tôi đã ở một phía của chiến tranh và phía ấy đã thắng. Dù sau khi chiến thắng, tôi trở thành người đối lập với chế độ chính trị độc đoán của đảng cộng sản, nhưng không vì thế tôi lại đặt ra vấn đề mong muốn chiến tranh kết thúc một cách khác như nó đã kết thúc. Đây là việc đã rồi. Tuy nhiên, có ý kiến của tướng Bruce Palmer trong cuốn "Chiến tranh 25 năm -- vai trò quân sự của nước Mỹ ở Việt nam" do nhà xuất bản Báo chí thuộc trường đại học Kentucky (The University Press of Kentucky) phát hành năm 1984, tôi cho là xác đáng. ở phần cuối cuốn sách, trong các trang 183, 184, 185, tướng Pan-mơ đã có những suy nghĩ độc đáo sâu sắc, hợp lý. Đại thể là:

Quân Mỹ tập trung đại bộ phận ở phía bắc vùng chiến thuật I, sát giới tuyến quân sự tạm thời (khu phi quân sự - demilitarized zone DMZ). Lực lượng đồng minh của Việt nam Cộng Hòa gồm hai sư đoàn Đại Hàn (Nam Triều Tiên) cũng đóng tại đây và mang tên là lực lượng quân sự quốc tế với việc tổ chức phòng thủ vững chắc bằng công sự, hỏa lực pháo binh trải dài từ ven biển lên đến biên giới Lào hoặc khi cần có thể kéo dài sang đất Lào.

- Hải quân Mỹ thường xuyên duy trì sự đe doạ vùng ven biển miền Bắc Việt nam, các đơn vị hải quân và thủy quân lục chiến có thể đổ bộ bất cứ lúc nào vào một số địa phương quan trọng ở miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ có thể phong tỏa các hải cảng của miền Bắc.

- Quân đội Việt nam Cộng hòa, được phía Mỹ trang bị và huấn luyện, đảm nhận bảo vệ an ninh lãnh thổ miền Nam Việt nam, một khi có thêm lực lượng quốc tế (gồm Mỹ và đồng minh) hỗ trợ, thì sẽ là cái lá chắn che chở hữu hiệu cho miền Nam ở phía cực Bắc.

- Do vậy, không cần có quân Mỹ tác chiến trên lãnh thổ khác của miền Nam. Quân Mỹ không gây mâu thuẫn với dân sở tại, quân đội Việt nam Cộng hòa cũng không ỷ vào quân Mỹ và có thể tự lực, trưởng thành. Không quân Mỹ không cần ném bom các vùng dân cư ở miền Bắc, gây chấn động dư luận quốc tế và ở hậu phương Mỹ.

- Lực lượng Mỹ ở phía cực Bắc của miền Nam Việt nam ước tính tương đương với bảy sư đoàn vào cuối năm 1966, nỗ lực hậu cần, làm đường quân sự của Mỹ cũng tập trung ở vùng cực Bắc này, không cần xây căn cứ hậu cần quá lớn ở Cam Ranh và ở Long Bình như đã làm, sự có mặt về quân sự của Mỹ ở phía Nam (Nam của vùng chiến thuật I, vùng chiến thuật II, vùng chiến thuật III, vùng chiến thuật IV) sẽ hết sức hạn chế.

Chủ trương này luôn buộc Bắc Việt nam phải dành một đội quân lớn ở miền Bắc để phòng thủ, vì thế sẽ ngăn được quân đội từ Bắc Việt nam thâm nhập với qui mô lớn qua đường mòn Hồ Chí Minh. Nếu Bắc Việt muốn đưa nhiều quân vào miền Nam, họ phải vượt qua được hệ thống phòng thủ đã được thiết lập. Như vậy chi phí chiến tranh đối với Mỹ sẽ thấp hơn nhiều. Số quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt nam sẽ thấp hơn nhiều con số nửa triệu.

- Tác giả cho rằng, với chiến lược lá chắn và can thiệp có lựa chọn và hạn chế như thế, thì thế cân bằng Bắc-Nam có thể được duy trì lâu dài như ở hai miền Bắc-Nam của Triều Tiên và sẽ đưa đến một giải pháp hòa bình thông qua thương lượng trong tương lai.

Sáng kiến "chậm trễ", "vuốt đuôi" của tướng Pan-mơ cho thấy từ đầu nhà cầm quyền Mỹ, giới quân sự cấp cao Mỹ không có lề lối dân chủ, không thảo luận rộng rãi dể tìm ra một quyết định hợp lý nhất. Tôi nghĩ đây là bài học sâu sắc nhất, thích đáng nhất trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Mỹ chưa huy động được trí tuệ của nhiều người để có một quyết định tối ưu, chọn ra một phương án hợp lý, khôn ngoan nhất trong nhiều phương án đã được kiến nghị.

Ông có thể cho biết một vài kỷ niệm sâu sắc của ông về con đường vận chuyển chiến lược đó?

Về đường mòn Hồ Chí Minh, tôi đã đi qua vài lần. Kể từ khi nó bắt đầu được xây dựng vào quãng cuối năm 1961, đầu năm 1962 ở tỉnh Bình Trị-Thiên. Lúc đó, người ta chỉ có thể đi bộ vận chuyển bằng gùi thô sơ trên vai. Đặc biệt thanh niên dân tộc người Ka-ho quen gùi từ bé nên họ gùi qua suối, qua cầu hẹp rất nhanh. Sau này con đường được mở rộng, đến năm 1963 người ta có thể đi được bằng xe đạp và tôi cũng có dịp đi qua đó. Năm 1972, tôi lại đi qua đường mòn. Lúc ấy nó đã trở thành con đường vận chuyển bằng xe cơ giới. Tôi có nhiều kỷ niệm về con đường này. Trước hết, việc vượt qua con đường này là hết sức gian khổ, chưa kể đến nguy hiểm do bom đạn của đối phương gây ra bất cứ lúc nào. Khi đi qua đấy, theo chúng tôi biết, binh sĩ có đến mười kiểu chết khác nhau. Chết vì đau ốm bất ngờ giữa đường mà không kịp đưa đi viện, như đau ruột thừa cấp tính. Chết do cây đổ. Chết do bị rắn độc cắn. Chết do bị hổ vồ. Chết do lạc đường. Chết do bị nước lũ cuốn di hoặc do bị đói. Chết do sốt rét ác tính. Chết do bị kiết lỵ mãn tính rồi kiệt sức. Chết do trượt chân khi mưa gió, rơi xuống vực thẳm. Chết do bão, lụt, nước dâng bất ngờ. Chết do qua cầu, cầu gãy, bị nước lũ cuốn. Chết do đất lở, đá đè. Đấy là chưa kể chết do bom, mìn muỗi, mìn dây. Rồi đi bộ. Mỗi ngày đi độ mười ba, mười bốn giờ đồng hồ. Khi đó không muốn mang theo bất cứ cái gì trên người, mà chỉ muốn bỏ lại cho nhẹ, càng nhẹ càng tốt, tính từng gram một. Thậm chí, đồ ăn không để trong hộp, mà dồn vào túi ni-lon cho nhẹ, gồm lương thực, ít đường, ít sữa, ít muối, thịt cá rang thật mặn để ăn dè và để được lâu. Quần áo mặc thật gọn, đủ mức tối thiểu, mỗi người chỉ mang hai bộ để thay đổi, một chiếc võng và một túi thuốc men cần thiết v.v... Cho nên, thường mỗi người có thể mang ba chục cân, có người mang bốn chục cân và bao giờ cũng phải có dự trữ mười cân gạo. Đường mòn không bằng phẳng, thường phải lội suối, leo dốc trong rừng rậm, trên lưng lại đeo nặng nên mỗi người dùng một chiếc gậy chống để đi. Tôi đi có khi ròng rã sáu, bảy tháng trời, có những lúc thịt ăn không hết, do bắn được một hai chú voi. ăn không hết thì cho vào túi ngâm xuống suối cho lạnh để giữ thêm một vài tuần cho những toán đi sau có thể ăn tiếp. Có khi đánh bắt được cá to nặng tới chục cân ở những con suối lớn, có khi bắn được đàn khỉ nhưng lại thiếu gia vị hành tỏi.. để chế biến cho ngon. Đấy là một vài kỷ niệm trên đường mòn Hồ Chí Minh. Tuy gian khổ, nguy hiểm luôn đe dọa, nhưng cũng rất vui. Anh em lính trẻ hát hò, kể chuyện, ghi nhật ký, nghe đài để biết tin tức thời sự. Từng đoàn xe vào ra nhộn nhịp, sống động thôi thúc:

"Xe không kính không phải vì xe không có kính, Bom giật, bom rung, kính vỡ mát rồi..."[11]



Ông có thể cho biết chút " về đường ống dẫn dầu của quân đội Bắc Việt?

Vào cuối năm 1963, ở Bộ Tổng Tham Mưu có cuộc thảo luận về phương án mở rộng, hiện đại hóa đường mòn Hồ Chí Minh - đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam. Có hai quan điểm đối chọi nhau:

- Duy trì đường mòn; chủ yếu là thồ bằng xe đạp và gùi bằng sức người. Trung bình sức người gùi được 60 đến 80 kg, xe đạp thồ được 180 đến 220 kg mỗi chuyến. Theo phương châm kiến tha lâu đầy tổ. Đường hẹp, ẩn trong rừng rậm, tránh được máy bay địch đánh phá. Mở rộng sẽ dễ bị phơi trần, bị đánh phá, cắt đứt.

- Mở rộng, cơ giới hóa, lập thành binh đoàn lớn, tổng hợp, có cao xạ, pháo binh, công binh, vận tải hệ thống kho hàng, trạm sửa chữa và đường ống dẫn dầu. ý kiến này thắng thế, phê phán ý kiến trên là du kích, cò con, bảo thủ, lạc hậu. Được thực hiện từ cuối năm 1968.

Lúc đầu xăng chở bằng thùng phuy lớn, chở bằng xe tải, có nơi thả cho trôi, chảy theo các dòng sông.

Đến 1968, được chở từ Liên xô sang một bộ đường ống dã chiến dài 200 km với hơn 20 máy bơm PNU 35/7 0.

Vùng đầu tiên được đặt là Vinh - Nam Đàn - Linh Cảm (Nghệ Tĩnh). Ngày 22-6-1968, bắt đầu đặt qua sông Lam 500 mét đường ống đầu tiên.

Đoạn đầu tiên dài 42 km từ xã Nam Thanh, vào đến xã Nga Lộc đặt xong và bơm thử có kết quả ngày 10-8-1968. Cuối năm 1968, đường ống được đặt qua đèo Mụ Giạ (qua biên giới Việt-Lào) trên đường số 12.

Đầu năm 1969, đường ống vượt Trường Sơn đến kho Na Tông trên đất Lào cung cấp xăng dầu cho trạm 31 của đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam. Tháng 3-1969 đường ống vươn đến điểm Ka-vat (Mụ Gia - Ka-vat dài 350 km). Từ đó đường ống được kéo dài theo trục đường 18, vượt qua đường số 9 đến Hạ Lào rồi hướng về phía Nam.

Đầu năm 1971 xăng dầu đã có thể chảy từ Vinh vào đến phía nam đường số 6. Đến cuối năm 1972, 65.000 tấn xăng dầu đã được bơm vào Nam; từ tháng 2-1973 (sau hiệp định Paris) đường ống vươn nhanh hơn dọc đường 14, cả phía Đông và phía Tây Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba biên giới.

Tháng 1-1975, đường ống vào đến Búp Răng, rồi đến Lộc Ninh. Thế là đường ống xăng dầu đi từ biên giới Việt Trung vào đến tận Bù Gia Mập ở miền Đông Nam Bộ, chiều dài là 4.900 km (do nhiều đoạn phải đặt quanh co theo địa hình), với 316 trạm vừa bơm vừa đẩy, với 101 kho bể hàn cố định và bể hàn dã chiến, có sức chứa cộng lại là 880.000 mét khối xăng dầu.

Đội ngũ cán bộ, công nhân của binh chủng đường ống dẫn xăng dầu từ 30 người buổi đầu đến đầu năm 1975 lên đến 14 ngàn người, bao gồm 2 trung đoàn công binh, 9 trung đoàn đường ống, phục vụ cho vận tải quân sự thông suốt trong chiến tranh.

Trong thời gian đó, có phương án hành động nào khả dĩ có hiệu quả của phía Mỹ mà ông được biết không?

Tôi đã dự hai cuộc họp có chủ đề "Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt nam" tổ chức vào đầu năm 1996 và đầu năm 1997 ở Si-ca-gô (vùng Ken-tích-ny, Cantiglly), do Học viện hải quân Mỹ cùng ủy ban Rô-bớc Mắc Co-mích (The Robert Mc Cormick Tribune Foundation) tổ chức. Tôi có dịp trao đổi ý kiến rất bổ ích với nhiều sĩ quan và chính trị gia của Mỹ, như cựu tổng thống Giê-rôn Pho, đại tướng Oét-mo-len[12], trung tướng Giôn Cát-sman và Ha-rôn Mo, đô đốc Dum-oan (E. Zumwalt), thiếu tướng Xim-mơns (E. Simmons)..., các nhà viết sách, viết báo Đa-vít Hát-man (David Hartman), Pi-tơ Brét-xtrắp (Peter Brestrup), ê-li-da-bét Bếch-cơ (Elizabeth Becker), Ro-bớt Thim-béc (Robert Timberg), Brai-ơn van Đê-mác (Brian van Demark)...

Năm 1997 tôi cũng được mời ghé thăm Trung tâm nghiên cứu xung đột ở Việt nam tại Lúp-bốc (Lubbock), thuộc tiểu bang Tếch-dớt (Texas) và Học viện hải quân Mỹ (US Naval Academy) ở An-na-pâu-lítx (Annapolis), thuộc tiểu bang Me-ry-lan (Maryland).

Trung tướng Giôn Cát-xman, vào tháng 3.1965, sau một thời gian làm cố vấn cho chương trình "bình định,, của Sài Gòn ở đồng bằng sông Cửu Long và trở về Mỹ, ông đã viết một tập tài liệu nhan đề: "Sự yểm trợ từ bên ngoài của Việt Cộng: Phân tích và đề nghị" (External Support of the Viet Cong: an analysis and a proposal) và gửi cho Học viện quốc gia về chiến tranh (National War College). Đó là tập tài liệu nghiên cứu khá sâu sắc về mười bốn cuộc nổi dậy của nhân dân ở nhiều nước, một nửa thất bại và một nửa có kết quả, từ đó rút ra những kinh nghiệm để đề nghị hành động chiến lược ở Việt nam nhằm chiến thắng gồm hai điểm ("A Winning strategy: Block the Ho Chi Minh trai and excute a massive Pacification Proglam"). Một chi tiết đáng chú ý của Cát-xman là không dùng quân chiến đấu Mỹ ở nông thôn miền Nam Việt nam, mà cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh và thực hiện chương trình bình định miền Nam với qui mô lớn. Đến nay ông vẫn còn tiếc rằng chiến lược ấy đã không được thực thi. Tôi cho rằng, kiến nghị của tướng Cát-xman là có cơ sở thực tế. Nó không được chấp nhận hồi ấy có lẽ vẫn do căn bệnh chủ quan, cứ như thế mà làm thêm (incrementalism), do tệ sùng bái vũ khí, hỏa lực của phía Mỹ.

Tôi có nói với tướng Cát-xman rằng, ý kiến của ông là rất đáng chú ý. Chiến tranh là hành động và là phản ứng của hành động, một chuỗi dài các hành động và phản hành động. Nếu phía Mỹ áp dụng kế hoạch Cát-xman thì diễn biến chiến tranh đã có thể khác đi, cũng có thể khác hẳn với năm 1975. Tuy Mỹ khó chiến thắng, nhưng có thể sẽ ở vào thế giằng co, để đi đến một giải pháp chính trị tương xứng.

Trong chiến tranh, những cuộc tiếp xúc cấp cao giữa chính quyền miền Bắc và miền Nam đã diễn ra như thế nào? Đã có khả năng hòa giải và bình thường hóa nào đó giữa hai miền không?

Theo tôi thì không. Vì từ năm 1959, với nghị quyết 9, lãnh đạo đảng cộng sản ở miền Bắc đã theo đuổi con đường bạo lực. Từ năm 1967, con đường chung sống hòa bình giữa các chế độ chính trị khác nhau, do đảng Cộng sản Liên xô đề ra, đều bị lãnh đạo đảng Cộng sản Việt nam coi là hữu khuynh, xét lại, sai lầm đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác-Lênin. Đã có một số thăm dò gián tiếp giữa Ngô Đình Nhu, cố vấn của Ngô Đình Diệm với ông Phạm Hùng, lãnh đạo đảng cộng sản ở miền nam hồi năm 1963, hay giữa tướng Nguyễn Khánh, thủ tướng Việt nam Cộng hòa với kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam vào năm 1965... Tôi được biết đó không phải là những ý định rõ ràng, nghiêm chỉnh để hòa giải, để chấm dứt chiến sự.

Hồi ấy ý định của Hà Nội là vận động, lôi kéo thật nhiều trí thức ở Sài Gòn nhằm lập ra lực lượng thứ ba. Họ tiếp cận, tranh thủ được các nhân vật như: luật sư Trịnh Đình Thảo, tiến sĩ Lê Văn Hảo, nhà báo Ngô Công Đức, thượng tọa Thích Đôn Hậu, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, linh mục Lê Khắc Từ... và khá nhiều nhân vật khác.

Đối với các ông Diệm, Nhu, Thiệu, Kỳ, Khánh, Dương Văn Minh..., theo tôi, chính quyền cộng sản không có ý định nghiêm chỉnh để tiếp xúc và hòa giải. Lãnh đạo đảng cộng sản coi những người ấy là "không thể cải tạo được", là tối nguy hiểm, chỉ có diệt bỏ, lật đổ chứ không thể bắt tay. Họ cũng rất kỵ với những người lãnh đạo các đảng phái chính trị khác như Đại Việt, Việt nam q
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 05-20-2004, 05:14 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Tôi biết rõ, sau khi sáu tiểu đoàn quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên vào ngày 20 tháng 11. 1953 để lập căn cứ, tướng Giáp đã đề ra ngay việc chuẩn bị tiến công cả Lai Châu và Điện Biên. Phương châm tác chiến là "tiến nhanh, giải quyết nhanh", vì quân Pháp chưa kịp củng cố hệ thống phòng thủ. Cố vấn Trung Quốc đồng ý phương châm này, nói theo kiểu Trung Quốc là "khoái tả, khoái diệt". Ngày 20.1.1954, cuộc tiến công đã được dự định thì đột nhiên phải đình lại. Phương châm tác chiến thay đổi thành "đánh chắc, tiến chắc". Sự thay đổi phương châm là do tướng Giáp đề xuất, vì tình hình đã thay đổi quân Pháp đã có hơn 16 tiểu đoàn, công sự hầm ngầm đã được củng cố vững chắc, dây thép gai, ụ pháo, ụ súng máy được bố trí dày đặc, lại có không quân yểm trợ ngày đêm. Các cố vấn Trung Quốc cũng đồng ý thay đổi phương châm tác chiến. Cuộc tiến công phải chuẩn bị thêm đến gần 50 ngày đêm nữa, để khởi đầu vào ngày 13.3.1954. Một trong những yếu tố quyết định thắng lợi là hệ thống hầm hào được xây dựng theo lối đào dũi, bao vây, chia cắt trận địa của đối phương, thắt chặt, lấn dần bằng xẻng cán ngắn, sắc, kết hợp với các hầm pháo được giấu kín, bắn cầu vồng và bắn thẳng, cùng với nhiều trận địa pháo giả, tạo khói nghi binh để đánh lừa pháo đối phương..

Trong cuộc chiến đấu chống không quân Mỹ ở miền Bắc, từ cuối năm 1967 có một số đơn vị cao xạ Trung Quốc tham gia bắn máy bay Mỹ, nhưng không nhiều. Họ chỉ bố trí trận địa ở phía bắc sông Hồng hoặc gần Hà Nội, như ở các tỉnh Hà Bắc, Bắc Thái, Quảng Ninh... xa các thành phố và thị trấn, nơi máy bay Mỹ ít đánh phá. Họ đóng quân trong rừng, ở xa vùng dân cư. Số máy bay do pháo cao xạ Trung Quốc bắn rơi rất ít thấy. Mục đích chính của họ có vẻ chủ yếu là thu thập kinh nghiệm chiến đấu.

Binh lính Liên xô không có mặt ở Việt nam, nhưng chuyên gia kỹ thuật quân sự và cố vấn quân sự thì khá đông, có lúc tới hơn 2000 người. Họ làm cố vấn ở Bộ Quốc phòng, Bộ tổng tham mưu, ở các tổng cục và cục chuyên môn, ở các quân đoàn, sư đoàn, học viện, viện kỹ thuật quân sự... Chuyên gia không quân, tên lửa, hải quân, ra-đa của Liên xô cũng luôn có mặt. Đó là chưa nói đến hải quân Liên xô thuộc Hạm đội phía Đông đóng ở căn cứ Cam Ranh sau ngày 30.4.1975.

Những trang bị quân sự của Liên xô và Trung Quốc, những kinh nghiệm phong phú về chiến tranh du kích, về "công kiên" và "vận động chiến" của Trung Quốc, những kinh nghiệm về "hợp đồng binh chủng" của Liên xô... đã có tác dụng to lớn đối với việc nâng cao trình độ chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt nam từ khi đội quân này được thành lập cho đến nay. Nhưng cách đánh trận thì phải hoàn toàn Việt nam.

Những lúc nào ông cảm thấy chiến tranh gặp khó khăn và làm phía Việt nam lo ngại, bối rối?

Khó khăn trong chiến tranh nhiều vô kể, vì nền kinh tế của Việt nam lạc hậu, trong khi đó quân đội Pháp và quân đội Mỹ đều được trang bị tối tân. Thời điểm khó khăn, đáng lo ngại nhất có lẽ là khi quân Mỹ bắt đầu được đưa ồ ạt vào miền Nam Việt nam. Chúng tôi lo rằng quân đội chúng tôi khó đương đầu nổi với quân đội Mỹ có hỏa lực mạnh, với sự yểm trợ rất lớn của không quân, trực thăng, pháo binh, xe bọc thép, xe tăng. Nhưng sau các trận Plây-me, Ya-drang, sau các chiến dịch Gian-xơn Xi-ti Xê-đa Phô, át-lê-bô-rô... chúng tôi bớt lo. Quân Mỹ không có gì thật ghê gớm. Chúng tôi đã tìm ra cách đánh thích hợp. Chúng tôi hiểu, đánh nhau với quân đội Mỹ, không cần thắng lợi trọn vẹn, chỉ cần không chịu thua, bền bỉ đương đầu là thắng. Mà phía quân đội Mỹ không thắng được chúng tôi có nghĩa là thua.

Có những lúc đứng trước sự chênh lệch quá lớn, người ta dễ bị ngợp. Trên đường mòn Hồ Chí Minh, nhìn lên trời, nhiều máy bay vận tải C.130 của Mỹ bay qua, chở hàng chục tấn hàng quân sự và cả một đại đội chiến đấu trong bụng nó, mỗi giờ bay được gần một ngàn kilômét. Trong khi chúng tôi vai vác ba, bốn chục ki lô, suốt một ngày chỉ đi được ba chục kilômét. Mệt bã người, có lúc thấy nản, nhưng rồi lại tự động viên bằng ý chí vượt khó, lại còn cảm thấy tự hào về sức bền bỉ, dẻo dai của mình. Phần đông chúng tôi vẫn giữ một niềm tin lạc quan. Động viên nhau giữ vững tinh thần, nên có lo ngại, nhưng không bối rối. Số bối rối, tuyệt vọng, nản chí, bỏ cuộc, bị chiêu hồi không đáng kể. Lúc đầu gặp cuộc ném bom rải thảm của máy bay B-52, tôi cũng sợ. Lúc ấy là ở Quảng Trị tháng 5.1972. Sau thì quen, vì bom tỏa rộng, chỉ khi nào bom trúng như ném vào lỗ đáo thì mới nguy, cứ có hầm, hố có mái che bằng gỗ cây là yên chí. Các cuộc ném bom của không quân Mỹ trên miền Bắc cũng vậy. Một, hai lần đầu thì giật mình, lo sợ. Sau cứ ung dung xuống hầm, báo động xong lại làm việc, đọc sách, đi chơi bình thường như không có gì xảy ra. Khả năng thích ứng của con người với hoàn cảnh thật vô cùng!

Hiệp định Paris về Việt nam được ký vào tháng 1.1973 đã có tác dụng gì?

Lợi thế của chúng tôi đã quá rõ. Quân Mỹ phải rút hết. Tôi tham gia tổ kiểm soát cuộc rút quân Mỹ cuối cùng ở sân bay Tân Sơn Nhất. Anh thượng sĩ không quân Mc Bielke là quân nhân Mỹ cuối cùng. Không có điều kiện nào buộc chúng tôi phải rút quân khỏi miền Nam Việt nam. Lập luận chúng tôi đơn giản là, cả quân đội Việt nam Cộng hòa và nửa triệu quân Mỹ không thắng nổi chúng tôi, nay quân Mỹ rút đi, chỉ còn quân đội Việt nam Cộng hòa, thì chúng tôi chắc chắn thắng. Chúng tôi hiểu rằng, cần đưa thêm nhiều quân miền Bắc vào miền Nam. ý định thành lập các đơn vị cỡ quân đoàn được đặt ra (mỗi quân đoàn có ba sư đoàn bộ binh và một sư đoàn thiết giáp) một cách khẩn trương. Quân đoàn 1 được hình thành ngay cuối năm 1973.

Một lợi thế nữa là chúng tôi có đoàn đại biểu quân sự của "quân Giải phóng miền Nam" ở ngay Tân Sơn Nhất, trong Ban liên hợp quân sự hai bên. Đoàn thường xuyên có công việc đi Lộc Ninh và nhiều nơi khác như Mỹ Tho, Phan Thiết, Đà Nẵng, Huế... Đây là "trạm quan sát" lợi hại, có thể nắm bắt nhanh nhạy tình hình chính trị, quân sự, tâm lý của người Mỹ và Sài Gòn, thu lượm tin tức tình báo để báo cáo cho lãnh đạo ở Hà Nội. Các đoàn quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Paris gồm các sĩ quan Ba-lan và Hung-ga-ri cũng rất có ích cho việc thu lượm tin tức thăm dò đối phương.

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 05-20-2004, 05:15 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Công cuộc "đổi mới" ở Việt nam diễn ra như thế nào?

Khác với Liên xô cũ và Trung Quốc, ở Việt nam không có ai là "kiến trúc sư của "đổi mới" cả. Đảng Cộng sản Việt nam chưa có ai như Goóc-ba-chốp (M. Gorbachew)[17] cũng chưa có ai như Đặng Tiểu Bình[18]. Đảng Cộng sản Việt nam, vì bó buộc, phải thoát ra khỏi cảnh "đói nghèo tập thể" mà bất đắc dĩ đi vào "đổi mới". Do "đổi mới" một cách bị động, nên "đổi mới" nửa vời, cầm chừng với đầy mâu thuẫn chồng chéo nhau. "Đổi mới" khá rõ về kinh tế, nhưng "đổi mới" chậm chạp, đầy lo sợ về chính trị. Thực hiện kinh tế thị trường, tự do kinh doanh, nhưng không công nhận quyền sở hữu cá nhân về đất đai (theo Hiến pháp, mọi đất đai thuộc về toàn dân). Thực hiện kinh tế nhiều thành phần, nhưng sở hữu quốc doanh vẫn là chủ đạo, chiếm 60% tổng sản phẩm công nghiệp hàng năm. Đảng cộng sản vẫn độc quyền lãnh đạo. Bầu cử vẫn là "đảng chọn dân bầu v.v... Những người bất đồng chính kiến vẫn bị bịt miệng, quản thúc, giám sát và giam giữ. Tự do báo chí bị từ chối.

Do "đổi mới không mạnh dạn, không chủ động, không hài hòa và toàn diện, nên tuy có một số kết quả rõ về mặt kinh tế, công nghiệp phát triển ít nhiều, sản xuất dầu thô, gạo, cao su, cà phê... tăng khá, nhưng các mâu thuẫn xã hội, chênh lệch giàu nghèo, bất công giữa các vùng càng tăng. Đặc biệt hai năm nay tốc độ tăng trưởng chậm lại, đầu tư từ nước ngoài đình đốn, khách du lịch giảm, nông dân bất mãn dẫn đến những cuộc đấu tranh lan rộng ở 128 xã thuộc riêng tỉnh Thái Bình và cả vùng đồng bằng sông Hồng (các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Sơn Tây, Thanh Hóa...) trong tháng 5 và 6.1997.

Đảng Cộng sản Việt nam vẫn bị quá khứ đè nặng. Họ vẫn tụng niệm chủ nghĩa Mác-Lênin, rêu rao trung thành với chủ nghĩa xã hội, tổ chức kỷ niệm trọng thể Cách mạng tháng Mười Nga lần thứ 80 ở Hà Nội...

Quan hệ Mỹ-Việt hiện nay ra sao và có triển vọng như thế nào?

Đã có một số tiến triển. Lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt nam đã bãi bỏ từ năm 1994, quan hệ giữa hai nước được bình thường hóa vào giữa năm 1995. Đại sứ của hai nước đã nhận nhiệm vụ. Các cuộc thương lượng về việc Mỹ chấp nhận Việt nam được hưởng tối huệ quốc trong quan hệ buôn bán Mỹ-Việt đang được tiến hành. Việc giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề tồn tại có liên quan đến tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích ở Việt nam (POW-MIA) đang tiến triển có khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn lắm trắc trở. Trắc trở lớn nhất là Hà Nội nhìn sang Oa-sinh-tơn với đôi mắt đầy nghi kỵ. Họ chưa dứt khoát giở sang trang mới trong quan hệ giữa hai nước. Họ lập luận: "Mỹ đang có thái độ hai mặt". Mỹ vừa muốn mở rộng quan hệ buôn bán, giao dịch kinh tế để phục vụ quyền lợi của Mỹ, lại vừa muốn đảng Cộng sản Việt nam phải thực hiện dân chủ, đa nguyên, đổi mới mạnh hơn cả về kinh tế lẫn chính trị. Hà Nội cho rằng, việc các nước, trong đó có Mỹ, ép Việt nam thả tù chính trị, lên án Việt nam vi phạm nhân quyền là can thiệp vào chủ quyền của Việt nam. Việt nam rất muốn Hoa Kỳ dành cho qui chế tối huệ quốc (MFC) trong giao thương, nhưng lại sợ nguy cơ "diễn biến hòa bình", chủ yếu là đến từ phía Mỹ, có thể lật đổ chế độ của họ. Hà Nội nhìn Oa-sinh-tơn với con mắt vừa muốn là bạn, vừa có mặc cảm cho là kẻ thù nguy hiểm.

Về chiến lược ngoại giao, trong đảng Cộng sản Việt nam đang có phân hóa. Giới lãnh đạo :Dp bu muốn xu hướng gắn bó toàn diện với Trung Quốc phải là chính, do chung một chế độ chính trị độc đảng, cùng tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng nói là theo chủ nghĩa Mác-Lênin, cùng "đổi mới" theo một kiểu. Vấn đề xâm lược, xung đột chiến tranh như năm 1979 là chuyện eũ, chuyện lịch sử, tạm thời cho vào quá khứ. Ngược lại, có một số cán bộ ngoại giao, cán bộ kinh tế, cán bộ trẻ cùng đông đảo nhân dân lại muốn quan hệ tốt với cả Trung Quốc và Mỹ cũng như với các nước phương Tây, trong đó nên nặng hơn về Mỹ và phương Tây, vì tiềm lực kinh tế, tài chính của các nước đó lớn, kỹ thuật hiện đại, khả năng đầu tư dồi dào; họ chỉ rõ rằng chính Trung Quốc cũng phải cầu cạnh để có quan hệ tốt với Hoa Kỳ. Xu thế này có chiều hướng tăng thêm với thời gian, gắn liền với xu hướng đòi đổi mới cả về chính trị một cách rõ ràng. Triển vọng lâu dài trong quan hệ Việt-Mỹ là thuận lợi.

Tôi lạc quan ngay cả đối với tương lai không xa. Vì trong thời "mở cửa" hiện nay, giao lưu trong và ngoài nước đã mở rộng, thông tin từ thế giới dân chủ tràn vào không có cách nào ngăn chặn hay sàng lọc nổi. Nếp sống, nếp nghĩ mới thấm dần vào xã hội theo nhiều tốc độ khác nhau. Văn nghệ sĩ, trí thức, nhà kinh doanh, tuổi trẻ... tiếp thu nhanh nhất.

Trong đảng cộng sản tiếp thu chậm, chậm nhất là bộ phận lãnh đạo bảo thủ. Ngày càng có nhiều cán bộ trẻ, có tài năng đi học ở Mỹ, Ca-na-đa, ở các nước châu Âu, úc, có học bổng hoặc tự túc. Họ tiếp thu sâu sắc nếp sống dân chủ ở các nước đó... Lợi thế nói trên không nhỏ; bà con người Việt ở nước ngoài về thăm nhà, khách du lịch từ Mỹ và phương Tây vào Việt nam cũng góp phần đáng kể cho xu thế dân chủ hóa ở trong nước.

Về POW-MIA ý kiến của ông ra sao?

Cuối năm 1991, theo lời mời của ủy ban đặc biệt về tù binh chiến tranh và người mất tích của quốc hội Hoa Kỳ, tôi có trình bày ý kiến riêng của tôi tại quốc hội. Tôi nói rõ thái độ của tôi là nói lên sự thật mà tôi biết, không thêm bớt. Không phải giới lãnh đạo trong nước lúc ấy có thái độ vu cáo, chụp mũ tôi là "phản bội", "phản động mà tôi nói sai về họ.

Tôi cho rằng, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, thái độ của Hà Nội trong vấn đề trao trả tù binh là rõ ràng: trả gọn, trả hết tù binh Mỹ để nhận đủ, nhận hết người của mình. Tôi là ủy viên chính thức đoàn miền Bắc, còn là người phát ngôn chính thức của đoàn, tôi được đọc các bức điện hàng ngày dịch điện mật mã được đánh đi từ Hà Nội cho đoàn ở trong sân bay Tân Sơn Nhất (trại Đa-vít), chỉ đạo cụ thể việc thi hành Hiệp định. Đó là những bức điện của ông Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng sản Việt nam, ông Phạm Văn Đồng chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, đại tướng Võ Nguyên Giáp... Trước đó, tôi đã có dịp đến tất cả trại tù binh Mỹ (ở Hà Nội, Hà Tây), gặp gần hai trăm tù binh Mỹ, viết một cuốn sách phóng sự về tù binh Mỹ và nhiều bài báo về đề tài này. Bạn thân tôi, đại tá Nguyễn Thúc Đại cùng học một lớp với tôi khi còn trẻ ở Huế, là cục trưởng Cục địch vận, trong đó có phòng quản lý trại tù binh, nên tôi hiểu khá rõ. Tôi gần như được tự do đọc hồ sơ mật về tù binh Mỹ ở các trại giam, do các trại trưởng, thường là cấp trung tá và thiếu tá mà tôi là đại tá, họ nể tôi, họ đưa cho tôi đọc.

Tôi có nói rõ số tù binh Mỹ mất tích nhiều vì máy bay của họ bị bắn rơi nhiều vẻ. Có chiếc đâm xuống biển, nhiều chiếc rơi vào rừng rậm ở Tây Bắc, miền Trung và bên Lào, nơi rất ít dân cư, đường xá ít. Rừng nhiệt đới rậm đến nỗi cách xa chừng hai trăm mét đã không thấy xác máy bay và xác người. Mưa, nắng, lũ, lụt... làm mất vết tích. Chính chúng tôi có một trực thăng chở sĩ quan Việt nam và Liên xô gần mười người bị rơi vì tai nạn ở vùng tây Nghệ An, Hà Tĩnh năm 1984 mà huy động cả trực thăng, bộ binh, dân quân địa phương đông đảo đi tìm hàng tháng mà không thấy một dấu vết nào. Tôi đã đề xuất là nên yêu cầu phía Việt nam đưa ra các sổ sách gốc nhập trại, cấp phát đồ dùng, các báo cáo hàng tháng của các trại, các tài liệu của các ban biên tập lịch sử tỉnh, đảng bộ địa phương, các ban sưu tầm hiện vật bảo tàng tỉnh, huyện, vì việc bắn rơi máy bay Mỹ, bắt tù binh Mỹ được coi là chiến công nổi bật của các tỉnh, huyện..., thì có thể căn cứ vào đó mà biết thêm một số trường hợp. việc này sau đó đã được thực hiện.

Liệu có việc đưa tù binh Mỹ sang Liên xô không?

Theo tôi biết là không! Vì tôi có qua Mát-xcơ-va một số lần, có lần ở trong đoàn quân sự cấp cao mà không hề nghe nói đến chuyện này. Hơn nữa, Liên xô sẵn có tùy viên quân sự ở Hà Nội, trong đó có sĩ quan quân báo tại chỗ. Họ rất quan tâm thu lượm tin tức về vũ khí mới, chiến thuật của không quân Mỹ và những tin tức quân sự khác qua sĩ quan không quân Mỹ bị bắt. Theo lệnh trên, Bộ tổng tham mưu và Cục địch vận sẵn sàng giúp đỡ họ, cho họ gặp tù binh, thông báo cho họ biết những tin tức phía Việt nam khai thác được, không cần phải đưa tù binh sang Liên xô.

Khi ông Bô-rít En-xin (Boris Eltsin)[19] sang Mỹ năm 1995 có nói rằng, Liên xô có giữ tù binh Mỹ, Lầu năm góc hỏi ý kiến tôi qua điện thoại vào ban đêm, tôi trả lời ngay rằng: tôi tôn trọng tổng thống En-xin, nhưng trong vấn đề này tôi nghĩ ông ta đã nói một điều không có thật. Sau đó, Lầu năm góc cám ơn tôi và cho biết sứ quán Mỹ ở Mát-xcơ-va cũng cùng một ý kiến như vậy.



Vậy về những ý kiến của nhà nghiên cứu Stê-phan Mo-rítx (Stephan Morris) liên quan đến các tài liệu mật được tiết lộ từ kho lưu trữ ở Mát-xcơ-va, ông đánh giá thế nào?

Ông Mo-rítx nhiều lần gặp tôi ở Mỹ và ở Pháp, cũng nhiều lần gọi điện thoại và viết thư cho tôi về vấn đề này. Lầu năm góc cũng gửi tôi các tài liệu lưu trữ ở Mát-xcơ-va và cử sĩ quan chuyên về vấn đề POW-MIA nhiều lần gặp tôi. Hai tài liệu: Báo cáo của tướng Trần Văn Quang trước Bộ Chính trị ngày 26.6.1972 và báo cáo của ông Hoàng Anh, bí thư Trung ương đảng Cộng sản Việt nam tại Hội nghị Trung ương lần thứ 20 (khóa 3) tháng 12.1970 và tháng Giêng năm 1971 Cục quân báo Bộ Quốc phòng Liên xô đều có dưới dạng bản dịch tiếng Nga (không có nguyên bản tiếng Việt) và được xếp vào loại tuyệt mật.

Báo cáo của tướng Trần Văn Quang không nói đến tù binh Mỹ, mà chỉ cho biết từ ngày 30.3.1972 đến tháng 6 năm ấy đã có gần 200 máy bay Mỹ bị hạ ở miền Bắc. Còn máy bay "ta" bị mất 27 chiếc. Báo cáo của ông Hoàng Anh cho biết con số 785 phi công Mỹ bị bắt trên miền Bắc, nhưng chỉ có 368 người (50%) là đưa tin công khai. Một báo cáo khác của tướng Trần Văn Quang mới cực kỳ quan trọng, làm Stê-phan Mo-rítx giật mình. Đó là trích đoạn 6 trang bản báo cáo của Phó tổng tham mưu trưởng, trung tướng Trần Văn Quang tại cuộc họp bộ Chính trị ngày 15 tháng 9 năm 1972" (bản dịch tiếng Nga của Cục quân báo bộ Quốc phòng Liên xô), cho biết tổng số tù binh Mỹ ở Việt nam, Lào, Căm-pu-chia là 1.205 người. Theo báo cáo, số phi công Mỹ bị bắt ở Việt nam là 767 người, gồm số bị bắt ở miền Bắc là 624 và bị bắt ở miền Nam là 143. Số quân nhân Mỹ khác bị bắt ở miền Bắc là 47 người, đưa số tù binh Mỹ ở miền Bắc lên 671 người. ở miền Nam, tổng số tù binh Mỹ là 143 phi công cộng với 283 quân nhân các loại khác là 426 người. Do đó, tổng số tù binh Mỹ bị bắt ở cả hai miền Nam và Bắc Việt nam là 671, cộng với 426 người là 1.097 người.

Số tù binh Mỹ bị bắt ở Căm-pu-chia là 65, ở Lào là 43, tổng cộng số bị bắt ở cả ba nước là 1.205 người.

Trên miền Bắc Việt nam, số tù binh cấp tá của Mỹ bị bắt là 275, gồm 7 đại tá, 85 trung tá và 183 thiếu tá.

Bản báo cáo còn phân tù binh Mỹ bị bắt làm ba loại về chính trị và tinh thần. 372 người có quan điểm phải chăng, không "tiến bộ" cũng không "phản động". 368 có quan điểm "tiến bộ", có thể được thả trước hết. Còn lại 465 người có quan điểm "phản động". Tất cả tù binh sĩ quan cấp cao (sénior officers) giữ quan điểm "phản động.

Điều đáng chú ý là, gắn liền với bản báo cáo này là 8 trang tóm tắt (đánh máy bằng tiếng Nga) của trung tướng Liên xô I-van-su-tin (Ivanshutin), Cục trưởng Cục quân báo thuộc Bộ Tham mưu quân đội Xô viết, nhắc lại những con số quan trọng về số lượng tù binh Mỹ ở Việt nam, Lào, Căm-pu-chia, về "những tài liệu quan trọng mà Việt nam đã thu được về quân đội Mỹ, trang bị chiến đấu các loại vũ khí Mỹ, kể cả vũ khí hóa học". Cho đến nay, ba tài liệu trên đây thật, giả ra sao vẫn chưa có kết luận dứt khoát.

Tướng Giôn Véc-xây (John Vessey), nguyên tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ (former Chairman of the U.S. Joint Chiefs of Staff) đã sang Hà Nội gặp tướng Trần Văn Quang. Phía Việt nam dứt khoát phủ nhận bản báo cáo trên, nói rằng lúc ấy (năm 1972) tướng Quang ở miền Nam, không hề có mặt ở Hà Nội và cũng không mang chức vụ Phó tổng tham mưu trưởng. Thêm nữa, năm 1972 cấp quân hàm của tướng Quang là thiếu tướng, chứ không phải là "trung tướng.

Tôi đọc rất kỹ cả ba tập tài liệu trên và rất phân vân để tìm ra sự thật. Không thể nói một cách chủ quan rằng chính quyền Việt nam hay nói dối, nói dối "thành thần", hoặc nói dối "không hề biết ngượng" (vì cho rằng đánh lừa được địch là ưu điểm, là tài ba vì mục đích chính nghĩa...) để kết luận, họ cũng nói dối trong vụ này. Cũng không thể cho rằng đảng Cộng sản Việt nam vốn phụ thuộc vào đảng Cộng sản Liên Xô, luôn coi Liên xô là ông anh cả, để kết luận rằng đấy là "tài liệu thật", Việt nam đã "thủ tiêu" nhiều tù binh Mỹ (vài trăm người??) và chắc chắn Việt nam có gửi tù binh Mỹ sang Liên xô.

Không thể suy luận khiên cưỡng, dễ dãi như vậy được. Chỉ có thể đặt ra những giả thuyết (supposition). Có người còn đưa ra vụ Sta-lin thủ tiêu hàng chục nghìn sĩ quan Ba Lan ở rừng Ka-tin (Katyn), mà mấy chục năm sau dư luận mới biết để nói rằng Việt nam cũng đã làm việc tương tự như vậy?

Tôi rất phân vân trong việc nhận xét tài liệu trên, vì:

- Tôi biết rất rõ tướng Trần Văn Quang hồi ấy ở chiến trường miền Nam, khi ông làm Tư lệnh mặt trận Thừa Thiên-Huế một thời gian dài và không còn trách nhiệm gì ở Bộ tổng tham mưu. Vấn đề tù binh Mỹ thuộc trách nhiệm của Tổng cục Chính trị, chứ không thuộc Bộ tổng tham mưu. Nếu cần báo cáo vấn đề này với Bộ Chính trị thì tướng Song Hào hoặc tướng Lê Quang Đạo, lúc ấy là chủ nhiệm và phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, mới là những người thích hợp. Các con số ghi trên báo cáo chênh lệch quá lớn với con số tù binh Mỹ được trao trả sau Hiệp định Paris tới 591 người. Làm sao có thể chênh lệch đến con số gần 600 người được Về báo cáo của ông Hoàng Anh, hồi ấy, ông đặc trách về nông nghiệp. Làm sao ông lại có thể báo cáo vấn đề quân sự, trong đó có vấn đề tù binh, tại cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương đảng". Trong báo cáo của ông, khi đề cập đến vụ "Xét lại-chống đảng, có ghi rằng: "đã có mười sáu ủy viên Trung ương đảng ở trong nhóm cơ hội chủ nghĩa này", và có kể tên: "Lê Liêm, Nguyễn Khánh Toàn, Hà Huy Giáp, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Vịnh, Song Hào"... Theo tôi được biết và được nghe phổ biến chính thức, ba ông Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Vịnh là đúng, còn ba ông Nguyễn Khánh Toàn, Hà Huy Giáp và nhất là Song Hào thì là sai, mà trong văn kiện của đảng thì không thể sai đến vậy. Số ủy viên Trung ương "chống đảng" chưa bao giờ lên quá con số 5 người, theo phổ biến chính thức. Một văn kiện đảng không thể sai đến như vậy được. Trong báo cáo của tướng Quang, có nêu một vài viên tướng của Sài Gòn nhưng tướng Ngô Du lại viết sai là "Ngô Đình Du, có lẽ lầm với một nhân vật dân sự là Trương Đình Du chăng!? Nếu là báo cáo thật của tướng Quang, thì ông không thể nhầm lẫn tên của hai nhân vật ấy được.

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 05-20-2004, 05:16 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Vân đề ba tài liệu nói trên đã có thể khép lại chưa?

Lầu năm góc vẫn còn "nhức đầu về sự thật, giả của ba tài liệu trên đây. Nếu là giả, thì ai đã sáng tạo, bịa ra nó? Bịa ra để làm gì? Phía Việt nam bịa, hay phía Liên xô bịa ra? Nếu là từ phía Việt nam, thì do ai bịa ra, do đảng, chính phủ, hay do một nhân vật nào đó bịa ra để "bán" cho phía Liên xô? Gần đây, Lầu năm góc lại mong tôi giúp vài ý kiến để tiếp cận sự thật. Tôi chỉ ra hai hướng (pistes): một là khả năng ở Hà Nội, hai là khả năng ở Mát-xcơ-va.

Tôi cho rằng, nếu có việc che giấu, lừa dối, thủ tiêu tù binh Mỹ thì chắc chắn liên quan đến hàng vài chục người thực hiện. Một vài sĩ quan thân tín không thể làm được việc tày trời ấy mà không để lại dấu vết. Chuyện mới xảy ra hơn hai mươi năm, nên số người biết trực tiếp hoặc gián tiếp chuyện này, nếu có, ắt có nhiều người còn sống.

Những sĩ quan có tránh nhiệm ở Tổng cục Chính trị ở Cục địch vận, ở các trại giam tù binh Mỹ (từ trưởng, phó trại, phiên dịch, quản giáo, canh gác, quản lý, tiếp phẩm, nấu cơm...), ở Văn phòng bộ Quốc phòng, ở Cục đối ngoại, ở Cục quân báo Bộ tổng Tham mưu... hiện đã di chuyển đi nơi khác, hoặc đã về hưu đều có thể cung cấp tin tức thật. Cuộc đấu tranh chống độc đoán, chống lừa dối, phơi bày sự thật, cải thiện quan hệ tốt đẹp Việt-Mỹ, đòi dân chủ... có thể là động cơ tìm ra sự thật.

Hướng ở Mát-xcơ-va, trong các kho lưu trữ của Bộ Chính trị, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Cục quân báo, Cục đối ngoại thuộc Bộ Quốc phòng Liên xô.. chắc chắn còn nhiều tài liệu quý. Cần bỏ công sức tiếp cận, khai thác chúng. Hiện nay kho lưu trữ tuyệt mật của nước Nga đang trải qua củng cố. Tướng Vôn-cô-gô-nốp (Volkogonov), tổng giám đốc kho lưu trữ mật đã qua đời. Cán bộ lưu trữ lâu năm Vla-đi-mia Che-nútx (Vladimir Chernous) bị sa thải vì tham nhũng. Sau vụ "Stê-phan Mo-rítx", kho lưu trữ tạm thời đình lại việc cho người nước ngoài vào kho khai thác tài liệu, để củng cố. Bạn tôi ở Mát-xcơ-va cho biết, sau khi bà Quin-giớt (Quinn Judge) tiết lộ tài liệu lưu trữ về quan hệ vợ chồng giữa ông Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Minh Khai, đã có một số nhà nghiên cứu (hoặc an ninh mật đội lốt nhà nghiên cứu?) từ Việt nam sang đến đến kho lưu trữ để tìm cách lấy đi (lén bỏ vào túi?) hoặc mua (với giá cao bằng đô-la) một số tài liệu "nhạy cảm" nhất. Ký ức, tài liệu của cá nhân (các cán bộ lãnh đạo của đảng, của bộ Ngoại giao, bộ Quốc phòng Liên xô cũ) cũng có thể có giá trị nếu tiếp cận, phỏng vấn, tìm hiểu.

Tôi tin rằng, người Mỹ đang cố gắng theo hai hướng này để tìm ra sự thật rõ ràng.

Một sĩ quan chuyên về POW-MIA ở Lầu năm góc cho tôi biết, cán bộ kho lưu trữ ở Mát-xcơ-va cho biết, có thể họ còn giữ băng ghi âm buổi báo cáo của tướng Trần Văn Quang tháng 2.1972 về tù binh Mỹ, khi Hiệp định Paris sắp được ký. Nếu quả vậy, tôi sẵn sàng giúp để nghe băng ghi âm ấy và xác định giọng trong băng có đúng là của tướng Quang hay không, vì tôi rất quen ông Quang, tôi từng ghé thăm gia đình và quê ông ở huyện Nghi Lộc (Nghệ An), nơi giọng nói có âm sắc rất đặc biệt và tướng Quang đi nhiều nơi vẫn giữ nguyên giọng nói của vùng Nghi Lộc.

Ông nhận xét ra sao về cuộc Hội thảo Việt-Mỹ về chiến tranh Việt nam tháng 6.1997 ở Hà Nội.

Có lẽ ông Mc Namara và các nhà nghiên cứu trường đại học Brown dự hội thảo đó mới đưa ra được những nhận xét chính xác nhất. Ông Mc Namara nguyên là bộ trưởng Quốc phòng Mỹ trong thời kì chiến tranh với Việt nam. Ông là người đề xướng cuộc Hội thảo ở Hà Nội từ ngày 21 đến 23.6.1997, sau chuyến ông sang thăm Việt nam vào năm 1996. Trường đại học Brown được giao liên lạc và phối hợp tổ chức Hội thảo. Tham dự Hội thảo, phía Mỹ có hơn 40 học giả, gồm những tướng lĩnh, các nhà nghiên cứu, nhà sử học, các nhà lý luận quân sự, tình báo... như tướng William Smith, cựu trợ lý đặc biệt của Tổng tham mưu trưởng trước đây, ông (C. Cooper, người của cơ quan CIA; ông F. Peter, phó trợ lý bộ Quốc phòng và ông Mc Namara. Phía Mỹ mong rằng đây là một hội nghị mang tính khoa học và biểu thị sự tổng kết cuối cùng sau hơn 20 năm chấm dứt chiến tranh để bước sang một trang sử mới trong quan hệ Việt-Mỹ, khởi đầu một sự thân thiện. Nhưng đáng tiếc, phía Việt nam đã không đáp ứng được yêu cầu này. Việt nam đối với Mỹ vẫn đầy nghi kị, lo người Mỹ lật đổ, làm "diễn biến hòa bình"; họ không để ông Võ Nguyên Giáp tham dự hội nghị đó mà không nói rõ lý do. Ông Võ Nguyên Giáp chỉ tiếp phái đoàn Mỹ trong một buổi, hoàn toàn trái với mong đợi của phía Mỹ. Tôi biết nhiều người Việt nam ở Hà Nội cũng thất vọng. Những người cầm quyền ở đất nước vẫn chỉ quen độc thoại

Ngay trong quân đội Việt nam vẫn chưa có tổng kết chiến tranh. Có chăng là ba cuốn hồi ký dài, do ba ông tướng viết, mục đích để "tranh công", như dư luận Việt nam nhận xét. Nhiều cán bộ lão thành phàn nàn rằng: chiến tranh kéo dài, hy sinh bạo nhiêu, thắng to như vậy, mà đến nay, hơn 20 năm rồi vẫn không có một bản tổng kết lịch sử ra trò? Trong quân đội và trong đảng, mọi việc đều phải tỏ ra nhất trí. Tranh luận hầu như bị gạt bỏ. Cho nên, cứ phải "nói theo nghị quyết". Mà nghị quyết thì gọn, khô. Các diễn văn, tổng kết đều theo một kiểu công thức lưỡi gỗ khô không khốc, nghe cứ như là xã luận báo Nhân Dân vậy...

Các "học giả" Việt nam dự Hội thảo như các ông Nguyễn Cơ Thạch (nguyên Ngoại trưởng từ đầu thập kỷ 90), Đinh Nho Liêm (nguyên thứ trưởng Ngoại giao), Trần Quang Cơ (thứ trưởng Ngoại giao), Đào Huy Ngọc (viện trưởng Viện quan hệ quốc tế), tướng Đặng Vũ Hiệp (Tổng cục Chính trị) hầu hết đều là viên chức mà phía Mỹ gọi là "lưỡi gỗ", quen viết các văn kiện sáo rỗng của chế độ cung đình. Họ đâu có nói lên được những suy nghĩ cá nhân, những tìm tòi cá nhân, những ý kiến riêng độc đáo, sắc sảo? Tất cả đã được xét duyệt, uốn nắn, sửa kỹ từ trước. Hơn nữa, lãnh đạo ở Hà Nội coi đây là dịp tốt để "lên án mạnh mẽ tội ác đế quốc Mỹ" và bắt đền, ăn vạ, buộc chính phủ Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Tư duy lãnh đạo của họ lạ lùng, thật không giống ai cả!

Trước khi Hội thảo ba ngày, cũng là trước một tuần lễ bà Ngoại trưởng Mỹ Me-đơ-lai On-brai (Madeleine Albright) đến Hà Nội, Thông tấn xã Việt nam (VNA) phóng ra những con số về tổn thất trong chiến tranh là 3 triệu người chết; 4,4 triệu người bị thương, trên 2 triệu người bị ảnh hưởng của chất độc hóa học, trong đó có chất độc màu da cam (orange agent), 50 ngàn quái thai sinh ra trong mười năm hậu chiến; 50% gia đình nạn nhân chiến tranh hiện sống trong tình trạng cơ cực, cần trợ giúp... Hà Nội không làm điều gì một cách ngẫu nhiên. Rõ ràng bản tin này để nhắn với Hội thảo về "tội ác chồng chất" của Mỹ, "nghĩa vụ bồi thường chiến tranh" của Mỹ - những kẻ phạm tội - cần phải thức tỉnh lương tâm.

Tên của Hội thảo là: "Những cơ hội bị bỏ lỡ". Ông Mắc Na-ma-ra thất vọng nói: "Tôi không ngờ phía Việt nam lại tính toán sai lầm đến như vậy. Đây là một cơ hội mới mà chính phía Việt nam bỏ lỡ lần nữa". Do căn bệnh giáo điều, bảo thủ, căn bệnh "đấu tranh giai cấp không khoan nhượng với kẻ thù đế quốc", Hà Nội đã lại bỏ qua một cơ hội để hòa giải với Hoa Kỳ, để hòa nhập với thế giới hiện đại, để giở sang trang mới trong quan hệ Việt-Mỹ.

Tôi nghĩ, đó cũng là ý kiến của tướng William Smith, của cả ông Chester Cooper, Francis M.Bator và của cả ông Mc Namara nữa, khi họ rời Hà Nội ngày 24.6.1997 vừa qua.

Tôi hy vọng rằng một thời gian nữa, khi Việt nam chấp nhận dân chủ và đa nguyên, đổi mới về chính trị đi cùng với đổi mới kinh tế, các cuộc hội thảo Việt-Mỹ sẽ rất sôi nổi và lý thú. Quân đội Việt nam không thiếu những sĩ quan tài giỏi, có trình độ khoa học. Hiện nay họ trao đổi ý kiến sôi nổi với nhau, nhưng còn bị như "dán băng keo ở miệng khi tiếp xúc với nước ngoài, nhất là khi tiếp xúc với những "kẻ thù cữ. Khi có dân chủ, đa nguyên, mỗi người Việt nam sẽ có thể là một ngôi sao lóng lánh với những vẻ đẹp khác nhau, mà nay họ vẫn chỉ là những hạt cát thụ động trong một chế độ độc đoán đậm mùi phong kiến, gia trưởng. Mấy năm qua, tôi đã dự những hội nghị khoa học về cuộc chiến tranh Việt nam tại các trường đại học và viện quân sự Hoa Kỳ. Thật là bổ ích và đúng là hội thảo khoa học. Những người tham dự hội thảo đều có trình độ, kinh nghiệm thực tế và lý luận, có ý kiến cá nhân sâu sắc, tranh luận sôi nổi, thẳng thắn. Không có tình trạng nhất trí xuôi chiều với nhau. Nhưng mỗi cuộc họp lại mở rộng hiểu biết, một số ý kiến đối lập nhích lại gần nhau, các kết luận đều phong phú, kích động những suy nghĩ mới.

ở Lúp-bốc, bang Tếch-dớt, khi thăm Trung tâm nghiên cứu những cuộc xung đột ở Việt nam, tôi thấy tài liệu lưu trữ ở đó thật đồ sộ. Cuộc gặp gỡ với ông giám đốc Giam Rếch-xnơ (J. Rechner) và giáo sư Đu-glátx Pai-cơ (Douglas Pi ke) từ trung tâm lưu trữ Đông Dương (Indochine Archives) ở Xan Phran-xít-xcô (San Francisco) rời sang, thật lý thú vô cùng?

Ông đánh giá ra sao về chiến sự năm 1975?

Đầu năm 1975, không một ai trong chúng tôi, kể cả người lạc quan nhất, nghĩ rằng chiến sự sẽ kết thúc trong năm 1975 với toàn thắng của chúng tôi.

Đầu tháng 12.1974, trước trận tiến công vào tỉnh lỵ Bình Long, chúng tôi chưa chiếm được một tỉnh ly nào ở miền Nam. Trước đó tỉnh lỵ Quảng Trị bị chiếm nhưng sau đó đã bị lấy lại. Chỉ có vài quận lỵ bị đánh chiếm là Lộc Ninh, Cam Lộ, Đắc Tô...

Chúng tôi nghĩ cuộc chiến đấu còn lâu dài. Trong cuộc họp cán bộ cấp cao cuối năm 1974 về tình hình và nhiệm vụ quân sự, về ý định của Bộ Chính trị giành thắng lợi cao nhất trong hai năm 1975 và 1976, năm 1976 là năm bầu tổng thống Hoa Kỳ, cũng chẳng ai nghĩ rằng cuối năm 1976 sẽ có thể chiếm được toàn miền Nam.

Trong chúng tôi, nhiều người lo rằng Liên xô và Trung Quốc đều mong muốn hòa dịu với Mỹ trong chuyến đi của tổng thống Ních-xơn (R. Nixon) sang Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, do đó sự ủng hộ, chi viện cho chúng tôi sẽ gặp khó khăn với thời gian. Hướng suy nghĩ của phần lớn cán bộ cấp cao ở Hà Nội là còn phải đấu tranh lâu dài, kết hợp quân sự và ngoại giao, tiến công và đàm phán, tạo sức ép dư luận để miền Nam phải thay người lãnh đạo là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tạo nên một kiểu chính phủ liên hiệp ở miền Nam Việt nam... Sau đó, sẽ có nhiều bước đấu tranh nữa.

Trước đó, tháng 8.1974, chúng tôi được cổ vũ bởi một tin bất ngờ từ Mỹ: tổng thống Ních-xơn bị kẹt cứng trong vụ Oa-tơ-ghết (Watergate), đã thoái vị. Phó tổng thống ác-niu (Agnew) lên thay cũng bị bê bối. Và tổng thống Pho lên làm tổng thống, không có một lá phiếu bầu. Ông Pho sẽ là một tổng thống yếu. Dịp may hiếm có, bất ngờ đã đến.

Chúng tôi thấm thía câu châm ngôn của Pháp "tự giúp trời sẽ giúp". Cứ cố gắng, sẽ tận dụng được nhiều cơ hội bất ngờ, quả vậy! Tháng 3.1975, chúng tôi lại tận dụng được thời cơ bằng vàng: sự hỗn loạn của các đơn vị quân đội Sài Gòn ở Tây Nguyên sau cuộc tiến công của Quân đội nhân dân Việt nam vào Buôn Ma Thuộc, do quyết định rút bỏ Tây Nguyên của ông Thiệu tạo nên.

Một sĩ quan cấp cao của Mỹ nói với tôi trong một hội thảo ở Chi-ca-gô (năm 1996) rằng: tháng 4.1975, sau khi làm chiến tranh nhân dân mấy chục năm, các ông đã thực hiện "chiến tranh của người lính" thay vì chiến tranh nhân dân ( Replace Peoples war by Soldiers war). Còn chúng tôi, trước kia chúng tôi chỉ mong các ông tác chiến như thế, binh đoàn cơ giới ngang nhiên kéo đi trên đường quốc lộ để phía chúng tôi tha hồ có mục tiêu mà tiêu diệt, khỏi ao ước tìm kiếm. Nhưng thật trớ trêu, khi có thừa mứa mục tiêu thì chúng tôi đành ngồi nhìn. Chính chúng tôi lại bỏ chạy, tan biến vào thiên nhiên, ra đại dương!

Ngày 30-4-/975 ông có mặt ở Sài Gòn, nay nhìn lại ông có những suy nghĩ riêng ra sao?

Nhìn lại một cách ngay thật thì cảm giác của tôi hôm ấy, hơn 23 năm trước, là: mệt, đói, khát, vui. Lo viết cho tốt bài tường thuật, tìm cách gửi ra Hà Nội được sớm.

Tôi không tự đề cao mình, không hề tự nhận là người nhận đầu hàng? Tôi chỉ là một nhà báo, có may mắn đi cùng một đơn vị đầu tiên đến trung tâm Sài Gòn để kịp chứng kiến một sự kiện lịch sử chiến tranh chấm dứt.

Tôi chỉ nhớ một câu nói với các ông Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Hữu Có... hôm ấy: "Chỉ có người Mỹ thua, còn người Việt nam chúng ta đều thắng!" làm cho các ông ấy đang ưu tư, lo lắng bằng vui vẻ và bắt đầu cười (tôi còn giữ bức ảnh có hình ông Mẫu với nụ cười hôm ấy).
Từ khi ở trong nước, tôi rất buồn thấy ba hồi ký của ba ông tướng: Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng và Trần Văn Trà, đều cố nhấn mạnh vai trò của cá nhân mình, một sự tranh công lộ liễu sau khi hằng triệu người đã bỏ mình. Cụ Ngô Thức, một nhân sĩ Thăng Long có lý khi trách rằng từ sau chiến tranh đến nay vẫn chưa có một văn kiện tổng kết chiến tranh, sâu sắc, hóa giải các thù hận, mở ra một kỷ nguyên hòa bình, phát triển trên cơ sở đồng thuận quốc gia và dân tộc...

Sau ngày 30.4.1975, tình hình Việt nam diễn biên ra sao?

Sau 30.4.1975, tôi ở Sài Gòn liền hơn bốn năm, thỉnh thoảng mới ra Hà Nội. Tôi làm nhiệm vụ tổ chức in báo Quân đội nhân dân ở Sài Gòn và thu lượm tin tức về mọi mặt ở miền Nam cho báo này. Người dân miền Nam yên lòng vì không có tắm máu, không có tòa án nhân dân ở góc đường. Nhưng một loạt chủ trương làm họ lo sợ đến hốt hoảng. Các sĩ quan cũ, viên chức cũ, người thuộc các đảng phái cũ phải trình diện, học tập cải tạo, thực tế là ở tù mút mùa. Việc đổi tiền giáng vào cuộc sống của dân nghèo và tiểu thương (vì nhà giàu giữ vàng, chứ không giữ tiền). Các nhà buôn lớn, sản xuất lớn bị kiểm kê trong cái gọi là "cải tạo công thương nghiệp". Các khu "kinh tế mới" ở các vùng heo hút được mọc lên để tư bản, tiểu thương, dân nghèo "trở nên người lao động lương thiện", thực tế là đày đọa họ theo kiểu "đem con bỏ chợ".

Các chủ trương trên làm tôi sững sờ, nản chí, hoài nghi. Việc thải loại các nhân vật trong chính phủ Cách mạng lâm thời, trong Mặt trận dân tộc giải phóng, giao cho họ những chức vụ hình thức (mặc dù họ là những trí thức tương đối trong sạch và có kiến thức hơn những người lãnh đạo đảng cộng sản) làm tôi nản lòng thêm. Làn sóng di tản lan rộng, hàng ngàn người, hàng chục ngàn người mỗi tháng lao ra biển cả, đi tìm một nơi xa xôi, bất định, để thoát cảnh nghèo khổ, tủi nhục, bị khinh thị, con cái không có tương lai ở trong nước. Tôi gặp và hỏi chuyện một số người di tản bị công an chặn giữ cốt để moi thêm vàng. Đây là những "giọt nước làm tràn cốc" trong lương tâm tôi. Đảng mà tôi tin cậy, tự hào... đã trở nên xa lạ với những chủ trương kỳ quặc, ngu dốt, dại dột của những người say chiến thắng.

Tôi đã suy ngẫm và cho rằng đó là do tệ kiêu ngạo sau khi giành được toàn thắng quá lớn, ngoài mong đợi, những người lãnh đạo say mê với chiến thắng bất ngờ, tự cho phép mình làm mọi điều phi lý Tôi từng nghe họ nói: trên đời không gì khó bằng đánh thắng đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, siêu cường số một của thế giới. Thắng Mỹ rồi thì làm gì cũng được cả! Từ đó là những chủ trương làm mất lòng dân, làm mất uy tín với thế giới, đẩy cả một bộ phận dân tộc ở miền Nam vào thế thù hận, đối kháng dai dắng.

Cách đây hơn 20 năm, sau khi kết thúc chiến tranh, tình hình lúc ấy ra sao và gây cho ông ấn tượng gì? ông nhận định như thế nào về diễn biến xã hội Việt nam sau ngày 30.4.1975?

Tôi eòn nhớ vào thời điểm sau ngày 30.4.1975, đại đa số nhân dân hết sức phấn khởi. Phấn khởi nhất là vì đất nước sau một thời gian dài chiến tranh, với biết bao hy sinh, đổ nát, bây giờ đã bước vào thời kì hòa bình. Đất nước bị chia cắt từ năm 1954, sau hơn 20 năm, nay đã thống nhất. Tôi nghĩ, vào thời điểm ấy nếu có sự lãnh đạo sáng suốt, chu đáo, có thảo luận một cách đầy đủ để có chủ trương đúng, làm thế nào để xây dựng đất nước Việt nam phát triển nhanh nhất, tận dụng ưu thế đất nước đã thống nhất và hòa bình, Việt nam sẽ tiến nhanh hơn nhiều. Nhưng ngay sau đó, tình hình diễn ra không như nhiều người mong đợi. Nay có dịp nhìn lại thì thấy rằng, ngay sau khi giành thắng lợi trọn vẹn, tình hình không diễn ra theo chiều hướng sáng sủa, mà càng ngày càng đi xuống một cách rõ rệt. Người ta nối cũng có lý rằng, sau chiến thắng thường bước vào kì thất bại, sau một thắng lợi lớn có khi lại rơi vào một thời kì hết sức đen tối. Những người lãnh đạo cộng sản bảo thủ ở Việt nam đã bắt đầu thua ngay sau thắng lợi huy hoàng, vì tầm nhìn nông cạn, vì hiếu thắng, chủ quan, vì sự kiêu ngạo, tự phụ của họ. Khi thắng lợi, nếu không tỉnh táo, sẽ dễ bị chất men tự phụ làm ngây ngất. Khi đã mất tỉnh táo tất sẽ mù quáng, cho mình là nhất thiên hạ, làm gì cũng thành công mà không có gì khó khăn trở ngại. Cho nên, họ không cân nhắc thận trọng và đầy đủ, không tính toán chu đáo và khoa học để có những chủ trương đúng. Sau đó, tôi thấy họ đề ra những chủ trương rất nguy hiểm và tệ hại.

Đó là:

- Cải tạo vội vã nền kinh tế miền Nam do tham vọng đi lên chủ nghĩa xã hội, hợp tác hóa vội vàng, dự định trong vòng hơn một năm là hoàn thành hợp tác hóa toàn miền Nam. Cải tạo công thương nghiệp ở miến Nam nhằm xóa bỏ công thương nghiệp tư nhân ngay tức thời, dưới danh nghĩa "đánh gian thương" Chính do cải tạo công thương nghiệp, xóa bỏ tầng lớp tư sản dân tộc đã làm cho tình hình kinh tế miền Nam nói riêng và cả nước nói chung bị ảnh hưởng trầm trọng và ngày càng xuống dốc.

- Chiến lợi phẩm thu được sau chiến tranh, như 27 tấn vàng trong ngân khố do phía Việt nam Cộng Hòa giao lại, và nhất là thiết bị, dụng cụ, máy móc, vật liệu. phục vụ chiến tranh do quân đội Mỹ để lại trong tổng kho Long Bình và ở nhiều nơi khác, có thể dùng trong hai, ba chục năm vẫn chưa hết. Chỉ tính riêng số bản kẽm dùng để in báo, tôi đã đến xem, thấy có thể dùng mấy chục năm không hết. Nếu số chiến lợi phẩm đó được bảo quản chặt chẽ, thống kê đầy đủ và sử dụng hợp lý, tiết kiệm, thì đây là một nguồn vốn lớn để phát triển đất nước. Nhưng thực tế, tất cả số chiến lợi phẩm đó không được quản lý tốt và đã bị phung phí, thất thoát, "rơi vãi" hết, thậm chí chui vào túi cá nhân, không phát huy tác dụng có lợi cho đất nước.

Sau khi giành thắng lợi, đáng lẽ quân đội có thể giảm quân số hoặc chuyển một số lực lượng quân đội, lúc bấy giờ khoảng 1 triệu 700 ngàn quân, vào những công việc cần thiết về kinh tế hoặc xây dựng hạ tầng cơ sở như đường sá, cầu cống... Nhưng lực lượng đó vẫn được giữ nguyên dưới cờ. Sau dó mấy năm tôi được theo một phái đoàn cao cấp của tổng bí thư đảng sang thăm ấn Độ và In-đô-nê-xi-a. Trong lúc dự hội đàm, tôi giật mình và hết sức băn khoăn, vì như In-đô-nê-xi-a chẳng hạn, dân số gần 200 triệu người, gấp ba lần dân số của Việt nam lúc đó mà quân đội của họ chưa bao giờ lên trên 1 triệu quân. Những người lãnh đạo In-đô-nê-xi-a nói, nếu chúng tôi tăng quân đội lên trên 1 triệu người, thì nền kinh tế sẽ nguy ngập. Còn ấn Độ có số dân đông gấp gần mười lần Việt nam, nhưng quân chính quy của họ chưa bao giờ vượt quá 1 triệu 200 người, bằng khoảng hai phần ba quân số của quân đội Việt nam. Số quân lớn như vậy là gánh rất nặng đối với nền kinh tế Việt nam vốn đã nghèo nàn lại càng thêm gay go. Điều đó làm tôi nản chí, muốn viết những bài báo để báo động vấn đề này, nhưng những người lãnh đạo không muốn nghe. Lập luận của họ là sau khi thắng lợi, nền kinh tế nhất định bay bổng và Việt nam sắp trở thành "con rồng mới" trong một thời gian ngắn.

- Tôi đã đề cập nhiều lần về chủ trương chính quyền trong nước đưa hơn 200 ngàn viên chức và sĩ quan trong chính quyền miền Nam đi cải tạo trong các trại kiểu nhà tù để đày đọa, hạ nhục họ. Lúc đầu nói "đi học tập ba tháng nhưng sau đó cứ kéo dài, ba năm, mười năm, có người tới mười ba năm. Tôi thấy chủ trương này rất sai lầm, độc ác, mang tính trả thù hèn hạ, đáng ra không nên có ở người chiến thắng và tự cho là "chính nghĩa

Xin ông cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân diễn ra như thế nào? Nguyên nhân do đâu? Sự kiện thuyền nhân đã ảnh hưởng gì đến tình hình chung của Việt nam?

Sự kiện "thuyền nhân" ("boat people") có thể nói là một sự kiện bất hạnh cho Việt nam, nhiều người đã phải bỏ đất nước ra đi. Việc một số người Việt nam di tản vào tháng 4.1975 trước khi quân đội miền Bắc vào Sài Gòn là một vấn đề thực tế xảy ra khi cuộc chiến chuyển sang giai đoạn cuối. Người ta lo sợ cái gọi là "cuộc tắm máu" được bộ máy tuyên truyền của Mỹ và chính quyền miền Nam tung ra lúc đó Tuy nhiên, cái gọi là "cuộc tắm máu" đã không xảy ra. Nhưng điều tôi cho là cay nghiệt không kém là chính sách phân biệt đối xử như tôi đã nói ở trên. Sau ngày 30.4.1975, vẫn có nhiều người ra đi kéo dài qua các năm 1975, 1976, 1977, :Dnh cao là năm 1978, trong chiến dịch bài Hoa, xua đuổi người Hoa đang sinh sống ở Việt nam, nhằm kích động mâu thuẫn giữa hai dân tộc Việt và Hoa, để tiếp tục đợt cải tạo tư sản. Sự kiện "thuyền nhân" là một sự kiện chính trị đè nặng lên xã hội Việt nam, vì không phải chỉ có người từ miền Nam, mà có không ít người từ miền Bắc ra đi. Hà Nội giải thích sự kiện này như thế nào? Tôi đã từng nghe trực tiếp nhiều cán bộ lãnh đạo giải thích là, "không việc gì phải lo ngại cả, số đó là những phần tử xấu, họ đã phản bội Tổ quốc, bỏ đất nước ra đi, họ là những phần tử ngụy quân, ngụy quyền, làm tay sai cho đế quốc, bây giờ bám gót chủ chạy sang châu Âu châu Mỹ, Trung Quốc, Ca-na-đa... thì không có gì đáng tiếc, không cần ngăn cản, thậm chí, họ đi là một cơ hội tốt cho chúng ta". Có người lãnh đạo họp ở chỗ đông người nói là "bọn đó (ám chỉ thuyền nhân) như Việt gian bán nước, mất gốc dân tộc". Có người còn ví "thuyền nhân" như là "cục thịt thừa, đoạn ruột thừa của đất nước, nó đã bị viêm, bị ung thư thì phải cắt bỏ, cơ thể đất nước càng lành mạnh"... Sau này, tôi được biết một bí mật còn thậm tệ hơn nữa. Hồi ấy ở miền Nam, chính cơ quan an ninh được phép bán bãi, bán tàu, thu vàng của mỗi người vượt biên từ một đến ba lượng, rồi tổ chức cho họ đi, để lấy tiền thu vào "ngân sách". Ngân sách nào và bao nhiêu thì không ai biết, ngay Quốc hội cũng không biết. Tôi biết trong Trung ương đảng cũng không thảo luận về vấn đề này. Thế thì số tiền này rơi vãi đi đâu? Chắc chắn vào những túi tham nhũng. Lúc bấy giờ có vụ giám đốc Công an Biên Hòa Mười Vân bị tử hình vì nhiều tội khác nữa, thì người ta mới được biết có những chuyện tham nhũng hàng mấy ngàn lượng vàng xung quanh sự kiện vượt biên, "thuyền nhân" này.

Quan sát sự kiện "thuyền nhân" lúc bấy giờ, tôi thấy trong số những người ra đi có nhiều trí thức, công chức trong chính quyền cũ. Nguyên nhân là do chính sách của những người lãnh đạo đảng cộng sản đã bắt hàng trăm ngàn người vào tù, đương nhiên, gia đình và người thân của họ phải ra đi, vì tất cả đều bị coi là kẻ thù. Nguyên nhân nữa là chính sách phân biệt đối xử, phân loại ngụy quân, ngụy quyền. Báo chí, đài phát thanh tiếp tục miệt thị họ là tay sai của đế quốc. Chính sách tuyển dụng làm việc, học tập, đào tạo đối với con cái của họ cũng khắt khe, bất công. Cho nên người ta nghĩ, ở lại trong chế độ cộng sản, con cái của họ sẽ không có tương lai, không được học tập, đào tạo, phát huy và đối xử một cách bình đẳng, luôn cảm thấy mình là công dân loại hai trong xã hội. Nhân dân Việt nam, nói chung, trọng danh dự có tính tự trọng cao. Cho nên, khi đã bị khinh miệt, chà đạp danh dự, bị coi là ở ngoài lề xã hội, không có tương lai, khi có cơ hội, tất nhiên người dân sẽ tìm đường ra đi, mặc dù thuyền bè vượt biển ọp ẹp, đại dương sóng gió nguy hiểm vô cùng. Họ phải liều mình, buộc lòng gạt nước mắt từ biệt người thân, nhắm mắt lao vào màn đêm hãi hùng của biển cả để ra đi, đánh đổi tính mạng lấy cuộc sống tự do, tương lai sáng sủa hơn. Đây là cái tội lớn của những người lãnh đạo tàn nhẫn, giáo điều và bảo thủ.

Theo tài liệu công bố ở Liên hiệp quốc, con số thống kê "thuyền nhân" bị chết ngoài biển có thể đến một phần năm, phần sáu tổng số người ra đi. Nghĩa là, cứ một triệu người ra đi, thì có khoảng 200 ngàn người chết. Sau này chúng ta phải thống kê qua khai báo của các gia đình xem số người mất tích là bao nhiêu, phân loại nguyên nhân tử nạn, do thuyền bè hỏng, do hải tặc, hay do bão tố, do mất phương hướng... Vì những người tổ chức vượt biên tham lam, muốn lấy được nhiều vàng, nên chở quá tải gấp hai, ba lần tải trọng cho phép, dẫn đến lật thuyền cũng cho là nguyên nhân rủi ro ngoài biển. Những người lãnh đạo cộng sản không bao giờ muốn nhắc tới chuyện này, cho nên chúng ta càng cần phải nói rõ và thảo luận công khai, làm rõ những nguyên nhân, chỉ rõ sự kiện "thuyền nhân" bắt nguồn từ đâu.

Theo ông, Quân đội Nhân dân Việt nam và Quân lực Việt nam Cộng hòa, quân đội nào có chính nghĩa?

Câu hỏi này khó có thể trả lời một cách rõ ràng, thỏa đáng, bởi vì tùy chỗ đứng của mỗi người và cũng tùy thời điểm lịch sử mà có những cách lý giải khác nhau. Bên phía Quân đội Nhân dân Việt nam, tôi thấy anh em nhập ngũ, vào đảng trong quân đội, vào Nam chiến đấu, họ được giáo dục, tuyên truyền để nghĩ rằng, "đánh Mỹ", "giải phóng miền Nam" là một sứ mệnh lịch sử. Bởi vì Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 đã chia đôi đất nước do sự áp đặt của các cường quốc. Nghĩa vụ của toàn dân là phải thống nhất đất nước Việt nam. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, dự kiến sau hai năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử và thống nhất đất nước. Nhưng hai năm đồ phía Mỹ, Pháp, phía chính quyền miền Nam không muốn thực hiện tổng tuyển cử. Chính vì vậy, sau này phía cộng sản đặt ra chuyện vùng dậy của nhân dân, tất nhiên cũng do sự lãnh đạo của những người cộng sản còn nằm ở phía Nam, thúc đẩy phong trào đồng khởi, tạo ra phong trào nổi dậy tại chỗ ở miền Nam. Họ đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân ở phía Nam để xây dựng lực lượng Quân giải phóng nhỏ bé ban đầu, sau này được tăng cường bằng lực lượng vũ trang tập kết ra Bắc trở về miền Nam và sau nữa là các đơn vị hùng hậu của miền Bắc được đưa vào. Họ lập luận: đây là sự nghiệp thống nhất đất nước, đánh đuổi ngoại xâm, trước kia là Pháp và hiện nay là Mỹ. Còn Quân lực Việt nam Cộng hòa ở miền Nam, như tôi đã nói ở trên, là do nước ngoài dựng lên từ quân đội cũ do thực dân Pháp thành lập.

ở miền Nam, người ta lại lập luận rằng, miền Bắc đã cưỡng chiếm miền Nam, đã đưa quân ồ ạt vào miền Nam, do đó họ phải có lực lượng tự vệ một cách chính đáng. Cũng như ngày 30.4.1975, một bên gọi là ngày "giải phóng", ngày "thống nhất đất nước", còn phía bên kia gọi là ngày "quốc hận", ngày "mất nước". Tôi nghĩ, đây là hai suy nghĩ đối lập nhau, một lúc nào đó chúng ta phải thảo luận cho ra lẽ, hoặc có một quan điểm nhất trí tương đối gần nhau. Tất nhiên, trong điều kiện như thế chúng ta phải lưu tâm đến dư luận của tuyệt đại đa số nhân dân. Bất cứ bên nào cũng không nên độc đoán, áp đặt mọi người phải nghe theo quan điểm của mình, hoặc trong khi thảo luận chưa ngã ngũ, không nên tự cho quan điểm của mình là chân lý. Mỗi người nên tự tìm hiểu và có chính kiến của mình, làm thế nào để con cháu mình có nhận thức đúng đắn về những gì đã xảy ra. Do đó, tôi nghĩ dần dần người ta sẽ đi đến chấp nhận ý kiến của nhau và nhận ra rằng chân lý không phải là điều dễ đi tới. Bản chất cuộc chiến tranh Việt-Mỹ diễn ra trên đất nước Việt nam có nội dung chồng chéo lên nhau. Nó không phải là đơn thuần, mà vừa là cuộc nội chiến, vừa là cuộc đọ sức giữa hai phe, xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, vừa mang tính quốc tế, mang vai trò tiền đồn giữa phe này đối với phe kia, vừa có tính dân tộc và có tính chất đảng phái nữa, tùy theo lập trường, chỗ đứng và góc độ xem xét. Những điều đó phải có ý kiến phân tích của các nhà sử học, các nhà khoa học, các nhà chính trị, trao đổi một cách bình tĩnh thì mới có thể ngã ngũ được. Tốt nhất, trong lúc này hãy hết sức lắng nghe nhau, không nên có một ý định cố chấp, càng không nên có sự áp đặt.

Lập trường của tôi là chúng ta phải thấy được các bản chất ấy xen kẽ lẫn nhau. Cuộc chiến Việt-Mỹ không hoàn toàn là cuộc nội chiến, không hoàn toàn là cuộc chiến tranh ý thức hệ, cũng không hoàn toàn là cuộc chiến tranh vì độc lập đơn thuần, mà cũng không phải chỉ là cuộc chiến tranh giành lấy sự thống nhất và quyền sống của một dân tộc. Cần nhận định bản chất cuộc chiến tranh ấy đúng như nó có. Thấy được về phía này có mặt đúng, mặt sai, phía kia cũng có điều cần làm, có điều đáng tiếc Cuộc chiến này không phải là định mệnh, nhất thiết phải có. Nói chung, cả dân tộc Việt nam là nạn nhân của thời thế, của những thế lực lãnh đạo độc đoán, nạn nhân của những ý thức hệ, của những học thuyết ngoại lai. Ngoài ra, ý muốn chân chính của dân tộc Việt nam được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc và thời cuộc xoắn chặt với nhau, lại bị những người lãnh đạo tuân theo một học thuyết ngoại lai, nuôi dưỡng những ý đồ xa lạ của các thế lực quốc tế mà họ phụ thuộc, tạo lên một cuộc chiến tranh bị thảm, đáng tiếc, đáng lý ra có thể tránh được Do vậy, cuộc tranh luận về bản chất chiến tranh Việt-Mỹ, hay Nam-Bắc, tranh luận về chính nghĩa thuộc về phía nào, tôi nghĩ không dễ đi đến chỗ rõ ràng. Nói thế không phải là ba phải, mà là thực tế nó như thế. phải tách những người lãnh đạo cao nhất ra khỏi quần chúng chiến sĩ và nhân dân, thậm chí tách những người lãnh đạo đảng cộng sản với số đông đảng viên ở cơ sở mới phân tích rành mạch vấn đề này được. Bởi vì tuy ở cùng một bên, nhưng suy nghĩ, mục đích của họ lại có điểm trùng nhau, cũng lại có điểm khác nhau. Chúng ta phải có thời gian để làm nguôi đi các hận thù thì mới có thể lắng nghe nhau và có thể tiếp cận được chân lý vốn khá phức tạp. Cũng từ đó mới nảy sinh ra vấn đề là, có những việc đã xảy ra đều do cả hai bên cùng làm, nhưng bên này gọi đó là "tội ác", còn bên kia lại cho là "chính đáng" và không gọi là "tội ác". Tôi lấy ví dụ: nạn nhân chiến tranh ở phía Quân đội Nhân dân Việt nam là rất lớn, bố mẹ bị bom Mỹ giết hại, anh chị em bị chết ở chiến trường miền Bắc có, miền Nam có, con số lên đến mấy triệu người. Những cái chết này đều được tố cáo là "tội ác của đế quốc và tay sai". Đây là một tổn thất rất lớn khó có thể nguôi ngoai, do phía Mỹ cùng một bộ phận đồng bào ở miền Nam gây nên. Và ở miền Nam cũng thế. Rất nhiều gia đình bị gọi là "cộng sản", nhưng thật ra là gia đình của những anh em đi tập kết ra miền Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ bị chính quyền địa phương của Sài Gòn phát động những phong trào "tố Cộng", "diệt Cộng", chiến dịch Phượng Hoàng nhằm phát hiện "tay chân của Việt Cộng... Chúng tôi nghĩ, lúc bấy giờ những người do lòng yêu nước, giúp đỡ Quân giải phóng miền Nam đã bị bắt bớ bị tù đày, bị tra tấn, bị thủ tiêu, con số cũng không phải là ít, có người nói đến hai, ba chục vạn...

Còn Quân lực Việt nam cộng hòa cũng bị tổn thất bởi các cuộc tấn công trong các cuộc giao tranh, bị pháo kích, trong đó có cả đồng bào bị chết lây, có nơi chợ búa, trường học cũng bị pháo kích, rồi có người hoặc bà con thân thích bị thủ tiêu qua các đợt "diệt tề, trừ gian"... tức là thủ tiêu những người gọi là "tay sai của địch".

Bây giờ nhìn lại, chúng ta không nên coi người nào là của riêng một phía bên mình. Tinh thần chung của chúng ta là "gà cùng một mẹ... chớ hoài đá nhau".

Chúng ta phải đau với cái đau khi lấy tay phải đánh vào tay trái, dùng tay trái đâm vào tay phải, anh em với nhau mà tàn sát lẫn nhau, điều mà chúng ta không hề muốn và do hoàn cảnh của lịch sử đưa đẩy dẫn đến bị đát như vậy. Có tinh thần hòa hợp, chúng ta mới thấy cái đau ấy là nỗi đau chung của dân tộc. Không nên lấy cái gọi là "ta" đã diệt bên này nhiều hơn bên kia, hay cái tổn thất của bên này nặng nề hơn bên kia, vui mừng hả hê vì đã diệt được đồng bào của mình... mà phải tỉnh táo nhìn lại. Đúng như ý kiến của một vị ủy viên Trung ương đảng Cộng sản Việt nam là anh Hoàng "lửa", đã về hưu, có tinh thần dân chủ, đang bị chính quyền trong nước phân biệt đối xử: "Đã đến lúc chúng ta phải nhìn lại cuộc chiến bằng con mắt anh em với nhau để hòa giải hòa hợp, nên tổ chức một buổi cầu siêu chung của tất cả bà con anh em dân tộc Việt nam ta đã bị chết, bị hy sinh trong cuộc chiến này ở cả hai bên".

Xét cho cùng, thù địch giữa hai bên chỉ là giả tạo do bị lừa dối, lầm lẫn và thúc ép. Về thực chất, bên ta đã đánh nhau với bên mình.

Có một số ý kiến của những người từng trong đảng Cộng sản Việt nam nhưng có quan điểm dân tộc sâu sắc đề xuất là sau này nên tổ chức một buổi lễ an táng cho ông Hồ Chí Minh đàng hoàng theo nghi thức dân tộc, để ông ta có thể được chôn cất tử tế, hoặc được thiêu xác theo như nguyện vọng của ông, nắm tro còn lại được chôn ở một nơi nào đấy làm thành một di tích cho gia đình, người thân và những ai còn quí mến ông ta có nơi đến để tưởng niệm. Có người mê tín cho rằng vì ông Hồ không được hỏa thiêu, thi hài không được nhập thổ như ông muốn, hồn ông còn vất vưởng làm đất nước không yên ổn. Còn lăng của ông ở giữa thủ đô Hà Nội hiện nay nên chuyển thành Đài tưởng niệm tất cả những người đã hy sinh trong cuộc chiến của tất cả các bên trong suốt 40 năm ròng rã. Đấy là đài kỷ niệm những oan hồn của đất nước đã chết trong chiến tranh. Qua lễ cầu siêu được tổ chức trong cả nước, chúng ta cầu nguyện cho hương hồn những người đã chết, bất kể họ thuộc dân tộc nào, địa phương nào, đơn vị nào, thời điểm nào, để thể hiện chúng ta quí trọng tất cả những người đã chết oan trong các cuộc chiến tranh vừa qua. Tôi nghĩ, đó cũng là một cách hòa giải. Việc tranh luận bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa, cái chết bên nào là chính đáng... nên cho qua và coi đây là một nỗi đau, một sự kiện bị thương của lịch sử, nhưng điều cuối cùng chúng ta đã đạt được là độc lập, thống nhất. Và bây giờ chung sức để xây dựng đất nước, để bù lại những thời gian chiến tranh đã mất, nhìn nhau bằng con mắt không còn phân biệt "ta-địch", bên này-bên kia như trước nữa. Tôi mong rằng đã đến lúc chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện bằng được điều đó

Có nhận xét rất có tình có lý rằng trong cuộc chiến vừa qua, bên "ta" đã đánh với bên "mình cho nên nói đến ai thắng ai thua là điều vô nghĩa. Thật thâm trầm vậy.

Ông đã ở trong quân đội miền Bắc trong một khoảng thời gian rất dài, gần 40 năm. Ông có luyến tiếc thời gian đó không?

Tôi ở trong Quân đội nhân dân Việt nam 37 năm rưỡi. Bây giờ nghĩ lại, tôi thừa nhận mỗi người đều là một sản phẩm của những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể nhất định. Nếu như tôi sống ở miền Nam, có khi tôi đã không ở trong Quân
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 05-20-2004, 05:16 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Hiện tại Việt nam vẫn phải đối mặt với di sản của thế kỷ 20- thế kỷ của chiến tranh tang tóc và tàn phá. Mây mù trong nhận thức xã hội cần giải tỏa. Độc lập chưa trọn vẹn, đất nước vẫn bị cầm tù bởi một học thuyết ngoại lai. Dân chủ - giá trị thời đại vẫn còn ở phía trước.



Ông nhận xét như thế nào về cộng đồng người Việt ở hải ngoại nói chung và những người quốc gia ớ hải ngoại nói riêng?

Cộng đồng người Việt chúng ta hiện nay ở hải ngoại rất đông đảo, có chừng hai triệu người và ở rải rác trên gần 60 quốc gia khác nhau. Hiếm có nước nào có một cộng đồng ở hải ngoại đông, mạnh, có tiềm lực đến thế. Tôi thường nói, đây là nỗi bất hạnh của dân tộc, khi có biết bao người con có tấm lòng đối với đất nước buộc phải bỏ đất nước ra đi. Nhưng đồng thời, điều bất hạnh ấy lại trở thành thế mạnh. Nhiều người ra đi đã lập nên cơ đồ, đời sống khá hơn nhiều khi còn ở trong nước. Cộng đồng người Việt ở hải ngoại có lớp con em trẻ, học hành rất xuất sắc, tiếp thu được kiến thức khoa học, kỹ thuật và văn hóa của thế giới hiện đại. Tất cả vốn liếng, vốn về kinh doanh, về kĩ thuật công nghiệp hiện đại, về tổ chức v.v... sắp tới trong điều kiện thuận lợi nếu đưa được về để đóng góp xây dựng đất nước thì rất đáng quý. Nỗi bất hạnh ấy có thể trở thành niềm hạnh phúc, lợi thế. Nhưng hiện nay, do chính quyền trong nước bảo thủ, độc đoán nên những lợi thế đó chưa phát huy được hết, bà con ta ở ngoài nước nhìn chung chưa có thể đưa tài năng về để xây dựng đất nước. Đây là một thiệt thòi rất lớn cho đất nước.

Nhưng tôi thấy người Việt sống ở hải ngoại cũng còn có những nhược điểm: chưa thực sự đồng tâm nhất trí, còn chia rẽ nhiều. Tình trạng chia rẽ nhau cũng là điều dễ hiểu, bởi vì mỗi người ra đi có hoàn cảnh khác nhau. Trong những người gọi là "quốc gia" ở hải ngoại, có những nhược điểm cần khắc phục. Đó là thái độ hận thù còn quá sâu. Hận thù ấy không những đối với hàng ngũ lãnh đạo bảo thủ ở trong nước, mà còn đổ xuống tất cả các đảng viên cộng sản với con mắt "vơ đũa cả nắm", cứ ai dính tới cộng sản, từng ở trong đảng cộng sản đều bị định kiến, không thể bắt tay, không thể tin cậy. Tâm lý hoài nghi như thế cũng dễ hiểu, vì những người tự nhận là "quốc gia" có mối thù rất sâu đối với sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Nhưng cũng nên thấy rằng, cần có cách nhìn có văn hóa và tỉnh táo, có nghĩa là, chỉ nên hận thù đường lối lãnh đạo sai lầm của một số người cộng sản bảo thủ; và cũng nên nhớ rằng đảng cộng sản không phải thuần nhất, không phải tất cả các đảng viên cộng sản đều nghĩ như những người lãnh đạo, mà chỉ có một số người lãnh đạo ở bên trên nghĩ thay, đặt ra đường lối, rồi buộc toàn đảng phải tuân theo. Cũng như đảng Cộng sản Liên xô trước kia có một thời kì có vẻ vững mạnh, nhưng đến khi bùng nổ dân chủ, nó tan rã rất nhanh, vì nó không cố kết được, không đồng tâm nhất trí. Do đó, chúng ta cần nhìn vào đảng Cộng sản Việt nam với con mắt tỉnh táo. Phân biệt được giữa những người bảo thủ trong cơ quan lãnh đáo với những người cộng sản khác mà chúng ta có thể bắt tay. Lại cần phân biệt những người đảng viên bình thường, họ chỉ có lòng yêu nước và trình độ chính trị trung bình, không có đường lối sâu sắc Ngay những người hiện nay đang làm việc ở trong bộ máy cầm quyền, chúng ta cũng nên có sự phân biệt; cũng có những người tham nhũng nặng nề, lạc hậu, bảo thủ, nhưng đồng thời cũng có những người trong sạch, có lý tường dân tộc, muốn có công bằng, bác ái. Cả những đảng viên về hưu tôi quen biết và đến nay vẫn còn liên hệ, có nhiều người tài sản chằng có gì, sống hết sức trong sạch, thực tâm muốn đất nước mình hòa hợp, để tiến nhanh, hòa nhập với thế giới.

Trong số những anh em "quốc gia" còn có người nhìn nhận với con mắt định kiến. Vì thế, họ có những chủ trương không thích hợp. Ví dụ, như họ có chủ trương không quan hệ giữa người trong nước với người ngoài nước, không tham gia xây dựng, giúp đỡ người ở trong nước. Có thời kì họ còn lập cả những ủy ban để ngăn cản bà con về thăm quê nhà v.v... Tôi nghĩ, đó là những cách nhìn cứng nhắc, tai hại. Cách nhìn tỉnh táo là cách nhìn đồng tình với nguyện vọng về thăm quê hương của bà con ở nước ngoài, gửi tiền về giúp gia đình họ ở trong nước. Đấy là một lợi thế để chứng minh rõ rằng chế độ hiện nay ở trong nước không có điều kiện nâng cao mức sống của nhân dân mà phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Vả lại, thông qua những chuyến du lịch về thăm quê hương, người Việt ở nước ngoài có thể mang theo những câu chuyện sinh động dân chủ, dân chủ có lợi như thế nào, về chống độc đoán, chống tham nhũng... Khi gặp những người của chính quyền trong nước, cũng nên ngay thẳng, đàng hoàng phê phán, phê bình những mặt trái, chủ trương sai lầm của họ một cách bình tĩnh, cởi mở, không cần chửi bới, thóa mạ. Cách tốt nhất là thuyết phục, "nói phải củ cải cũng nghe. Ngay cả đối với những nhóm nghệ sĩ trong nước sang Pháp hay Đức biểu diễn, hát những bài hát dân tộc, tại sao lại tẩy chay họ, gọi đó là "văn nô, văn hóa một chiều? Đáng lý ra phải tranh thủ họ bằng những tư tưởng dân chủ, hòa hợp và đoàn kết dân tộc thì lại đẩy họ đi, đem lại cho họ những ác cảm đối với người Việt hải ngoại. Mọi chủ trương cần cân nhắc, đừng để xảy ra những điều đáng tiếc.

Rất mừng là hiện nay trong cộng đồng chúng ta đã có những tiếng nói tỉnh táo, phù hợp với thực tế hơn. Việc giúp đỡ ở trong nước là một việc rất nên làm, như quỹ quyên góp đỡ đầu những học sinh học giỏi, đỡ đầu những mầm non văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, giúp anh em thương binh ở cả hai bên, (nhất là ở phía Việt nam Cộng hòa không được nhà nước quan tâm giúp đỡ), trại trẻ em mồ côi duy trì, bảo tồn những di tích lịch sử, văn hóa ở các địa phương, mà ngân sách ở trong nước chưa có đủ. Việc làm này rất có lợi, cho dù có thể bị cắt xén, lấy mất chút ít vì tham nhũng, nhưng ai đã cho tiền thì phải được quyền kiểm soát xem những đồng tiền đó phát huy tác dụng đến đâu. Những liên lạc ấy rất có ích để đất nước đỡ khỏi điêu tàn, lại chứng minh rằng chính quyền hiện nay không quan tâm đầy đủ và bất lực, vừa cho thấy rằng tấm lòng của bà con Việt nam ở nước ngoài luôn hướng về quê hương. Như bác sĩ Phạm Minh Hiển ở Pháp đã vận động chở về nước mấy trăm chiếc xe lăn cho những anh em thương binh không có điều kiện mua sắm... Những việc làm đó đã nâng ảnh hưởng của cộng đồng của người Việt hải ngoại lên, trên cơ sở đó giúp đỡ bà con trong nước, nâng nhận thức về chính trị, về dân chủ lên.

Khi đã xác định rằng không nên và không thể dùng bạo lực để lật đổ chính quyền - đồng bào trong nước cũng không tán thành việc làm đó, ba mươi năm chiến tranh làm họ ngao ngán, không muốn có hỗn loạn nữa - thì phải dùng những mối quan hệ để tác động một cách hòa bình, chính biện pháp đấu tranh hòa bình mới làm các chế độ độc đoán sợ và khó lòng ngăn cản.

Sau khi ông đã từ bỏ hàng ngũ đảng cộng sản và ông có lập trường chống lại sự lãnh đạo độc đoán của giới lãnh đạo đảng cộng sản hiện nay, liệu ông có chấp nhận lập trường của người quốc gia không? Ông có ý định gia nhập một tổ chức quốc gia nào không?

Tôi nghĩ, danh từ "cộng sản" và "quốc gia" đã bị xói mòn quá nhiều, gần như bị lạm dụng đến mức nó không còn ý nghĩa chuẩn xác của nó nữa. Việc chia thành "cộng sản" và "quốc gia" được hình thành trong lịch sử và ở một mức độ nào đó có phần giả tạo, không có ý nghĩa thực chất. Trong hàng ngũ những người cộng sản, có nhiều người vào đảng chỉ vì yêu nước và ý thức quốc gia, có tinh thần đấu tranh cho độc lập. Rất nhiều người trên danh nghĩa là "cộng sản", nhưng có ý thức quốc gia sâu sắc. Họ vào đảng, ra mặt trận, chịu đựng những hy sinh, hiểm nghèo và tận tụy phục vụ nhân dân. ý thức đó xuất phát từ tinh thần yêu nước và bao trùm tất cả tinh thần của họ vẫn là đấu tranh giành độc lập cho đất nước khỏi sự chiếm đóng của nước ngoài.

Tôi cho rằng, sự đối lập giữa cộng sản và quốc gia là một đối lập giả tạo, không thực chất. Như tôi đã nói, rất đông đảo người cộng sản, khi gia nhập đảng không phải là để xây dựng chủ nghĩa cộng sản, mà trước hết là để giành độc lập cho đất nước. Tuổi trẻ của chúng tôi ra trận chính vì một lý tường như thế. Nếu coi mọi người cộng sản đều không có tinh thần dân tộc là không thực tế, không phù hợp với sự thật, và đối lập những người cộng sản với những người đấu tranh cho độc lập của đất nước thì đối lập này lại càng không thực tế, càng không phù hợp với sự thật. Do đó, trong số những người cộng sản cũng nên chia ra làm nhiều loại. Có những người lãnh đạo ở trên cao, mang nặng ý thức "đấu tranh giai cấp" và "chuyên chính vô sản", và những đảng viên thường vào đảng chỉ để có công ăn, việc làm, hoặc để có một chức vụ nào đấy nhằm phát huy khả năng bản thân, vì không có một tổ chức chính trị nào khác được phép hoạt động trên đất nước Việt nam cả. Tôi nghĩ rằng, không nên đối lập những người cộng sản với những người quốc gia trên tinh thần ấy.

Ngược lại, tôi cũng nghĩ, đối với những anh em binh sĩ, sĩ quan, viên chức của chế độ ở miền Nam trước đây tự nhận là những người "quốc gia", chúng ta cũng cần có sự phân biệt. Bởi vì, trong số họ cũng có người yêu nước thật sự, có không ít người có tinh thần đấu tranh cho độc lập của đất nước. Trước đây chúng tôi nhận định về những người ấy không đúng, coi họ là "ngụy", là "tay sai của đế quốc là "cõng rắn cắn gà nhà" và "gây nên cuộc chiết tranh tàn khốc". Đánh giá như thế là sai, là chụp mũ.

Bây giờ tôi mong rằng giữa cộng sản và quốc gia cần có sự nhìn nhận mới. Trong cuộc đấu tranh hiện nay để xây dựng một chế độ dân chủ, cái thiết nhất của đất nước, tuy đã có độc lập, là chưa có dân chủ. Giành lại chế độ dân chủ, xây dựng xã hội công dân là việc quan trọng nhất hiện nay. Lúc này là lúc cần tập hợp tất cả mọi người, không phân biệt quá khứ đã từng ở trong đảng nào, trong quân đội nào, miễn là bây giờ có tinh thần bắt tay nhau xây dựng một chế độ dân chủ. Những người dấn thân cho thể chế dân chủ là những chiến sĩ dân chủ. Đối lập với những lực lượng dân chủ là thế lực độc đoán và bảo thủ. Thế lực đó hiện nay nằm trong cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản và chính quyền ở trong nước. Nhưng không thể nói tất cả những người đảng viên cộng sản, tất cả những người tham gia chính quyền ở trong nước đều là những người chống lại trào lưu dân chủ. Cần thấy rằng, cơ quan lãnh đạo rất bảo thủ, nhưng trong đảng không hiếm người có ý thức dân chủ và có thể tranh thủ được họ để chống lại chế độ độc đoán, giáo điều hiện nay, đưa đất nước hòa nhập với thế giới và tiến lên. Đã đến lúc nên có sự bắt tay giữa những người quốc gia có tinh thần dân chủ với những người trước đây hoặc hiện nay vẫn còn ở trong đảng cộng sản cũng có tinh thần dân chủ. Khi có biến chuyển, số chiến sĩ dân chủ ở trong nước - trong nhân dân, trong đảng cộng sản - có thể tăng lên gấp bội.

Thái độ của ông đối với những người chống cộng hiện nay như thế nào?
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 05-20-2004, 05:17 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Nếu gọi "chống cộng" là chống chủ nghĩa cộng sản tùm lum, cả gói, không phân biệt, thì tôi không có lập trường ấy. Tôi vẫn quan niệm Mác là một nhà tư tưởng lớn. Nước Cộng hòa Liên bang Đức hiện nay vẫn có những đại lộ mang tên Các Mác, nhiều tượng Mác và cả bảo tàng về Mác. Nhân loại có đến hằng trăm nhà tư tưởng lớn, đẻ ra vô vàn học thuyết... Mỗi học thuyết là một viên gạch, hoặc một nấc thang trong quá trình nhận thức vô tận của loại người. Chủ nghĩa cộng sản bản thân nó trong lý thuyết chứa đựng nguyện vọng và xu hướng của nhân loại. Cái sai hình thành cơ bản từ những người vận dụng rất tùy tiện học thuyết ấy, được rút ra từ thí nghiệm ở Liên xô và một số nước khác chưa hội đủ những điều kiện làm tiền đề cho chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản hiện nay còn xa vời, là ước mong chủ quan, không thực tế. Có người từ bỏ chủ nghĩa cộng sản không phải vì căm thù nó, mà vì nhân loại chưa hội đủ điều kiện để đạt được mục tiêu của nó. Tôi là người theo chủ trương đa nguyên, nên tôi tôn trọng bất kỳ lý tưởng của ai, dù họ có xu hướng chính trị nào đi nữa; tôn trọng không đồng nghĩa với chấp thuận. Hiện nay tôi không theo con đường của chủ nghĩa cộng sản nữa vì nó là ảo tưởng, xa lạ với dân tộc chúng ta. Đồng thời, tôi cũng thông cảm với những người thù hận với chủ nghĩa cộng sản. Theo tôi cảm nhận: có thể họ thù hận chủ nghĩa cộng sản là do đảng cộng sản gây nên bao điều tệ hại, do những người lãnh đạo cộng sản mà họ đã phải từ miền Bắc chạy vào miền Nam và từ miền Nam chạy ra nước ngoài. Nếu vậy, lập trường chống cộng của họ cũng không phải là chống chủ nghĩa cộng sản, - vì chưa ở đâu có chủ nghĩa cộng sản cả -mà là chống những người lãnh đạo cộng sản.

Bà con người Việt ở hải ngoại căm thù cộng sản là cũng dễ hiểu và tôi thông cảm, tôn trọng thái độ của họ đối với những người lãnh đạo gia trưởng, bảo thủ và giáo điều có những chủ trương sai lầm kìm hãm đất nước, đẩy một bộ phận đông đảo người Việt vào tình thế bị đát và bất hạnh.

Riêng tôi, tôi cũng căm giận những người lãnh đạo cộng sản vì những tội lỗi họ gây ra cho xã hội, cho đồng bào ta. Nhân đây tôi xin kể một câu chuyện. Vào năm 1991, tôi ghé qua Canada, trong một cuộc gặp với một số anh chị em trẻ, trí thức và bà con Việt nam sống ở đó. Có người bảo tôi: "Bây giờ ông phải sám hối trước chúng tôi, nhận tất cả những tội ác của đảng cộng sản!". Tôi nói: "Ông đặt yêu cầu này không đúng chỗ, bời vì tôi không phải là người đề ra chủ trương chính sách. Do đó tôi không có gì phải sám hối. Và nếu tôi có tội phải sám hối thì tôi sẽ sám hối trước nhân dân, chứ không phải sám hối trước bất cứ một cá nhân ai. Tại sao tôi lại buộc phải sám hối trước những người mà tôi không hề đụng chạm, liên quan tới họ. Tôi lại càng không thể sám hối trước những người mà tôi cho là cũng tham nhũng, có những chủ trương sai lầm với nhân dân!" Cũng tại cuộc họp ấy, có một chị đến chỉ vào mặt tôi và trút tất cả hận thù vào tôi, vì chị ta có mẹ và một người con bị chết trên biển trong khi vượt biên ra nước ngoài. Tôi đề nghị tất cả mọi người bình tĩnh để nghe. Chị ta nói gần như tố khổ và sau khi xong câu chuyện, tôi có nói rằng tôi rất thông cảm với một người như chị đã mất con, mất mẹ. Nhưng cá nhân tôi không chịu trách nhiệm, không liên quan trực tiếp đến hậu quả bị thảm ấy. Chính những người lãnh đạo đất nước mù quáng gây nên không khí căm thù, phân biệt đối xử để dẫn đến làn sóng di tản của thuyền nhân. Tôi ngỏ ý: chị gặp tôi và có những lời không đúng với tôi nếu việc đó có thể làm nguôi chút nào nỗi khổ đau của chị, thì tôi cũng sẵn sàng nghe. Tôi cảm thấy nỗi đau của chị như chính nỗi đau của tôi chính nỗi đau của chị nhân lên hàng ngàn, hàng vạn lần của người khác đã thúc đẩy tôi tìm kiếm một giải pháp cho đất nước. Chị đã đến bắt tay tôi xin lỗi và nói: "Đến nay tôi mới hiểu rằng, chính cái điều ông đang đấu tranh là để có một xã hội lành mạnh, công bằng, bớt đau khổ cho người dân"

Ông có ý kiến như thế nào đối với cộng đồng người Việt ở hải ngoại?

Tôi đã nhiều lần nói rõ rằng: cộng đồng người Việt ở nước ngoài là một tập thể đông đảo (gần hai triệu người), có nhiều thành đạt. Có những thành đạt ở hàng đầu của cộng đồng người nước ngoài trên thế giới, không kém gì người Nhật, người Hoa và cũng không kém gì người Do Thái,... Những thành tựu đó là về: làm việc, kinh doanh, buôn bán, học hành, tiếp thu khoa học kĩ thuật. Nhất là các em trẻ tuổi, nam cũng như nữ, hòa nhập rất nhanh, có trình độ học vấn khá cao và thành đạt khá nổi tiếng trong trường đại học ở tất cả các nước, đó là vốn quý của dân tộc. Tôi thường nói: dễ gì mà cử được số người đông đảo như thế, gần như ở khu vực nào cũng có để hòa nhập, học tập lối sống, văn hóa, văn minh, kinh nghiệm của các dân tộc khác. Tôi ví họ như một đàn ong cần mẫn hút nhụy hoa làm mật, chất tinh túy ấy chính là vốn kiến thức, vốn tiền nong, kinh doanh, khoa học kĩ thuật và công nghệ. Hiếm có dân tộc nào đã biến bất hạnh của hoàn cảnh trở thành điều may mắn, hạnh phúc.

Bất hạnh bà con ta phải trả là phải bỏ nước ra đi, từ đó tạo nên những cái đáng mừng. Cái còn tồn tại trong cộng đồng người Việt hải ngoại, theo tôi, là chưa đoàn kết; có quá nhiều tổ chức, lại kình chống nhau. Người Việt hải ngoại thiếu những tổ chức thống nhất, lành mạnh, có thể tập hợp đông đảo người Việt có cùng một chí hướng, có sinh hoạt dân chủ. Tôi có cảm giác ở nơi này, nơi kia những tổ chức của người Việt hải ngoại còn mang nặng tính hình thức. Những hội đoàn, ái hữu chú trọng nhiều đến cờ quạt, úy lạo, diễn văn, chụp ảnh chủ tịch đoàn v.v... một cách phô trương, mà ít có những hoạt động thực chất. Thảo luận dân chủ chưa rộng rãi, vẫn còn không khí gia trưởng, áp đặt Có những người chủ trương "cấm vận" với trong nước, không được có quan hệ làm ăn buôn bán, đi lại, thăm hỏi, du lịch, vì cho rằng như vậy mới có thể làm cho chế độ cộng sản ở trong nước mau sụp đổ (!?) Chủ trương như thế không được thảo luận đầy đủ, và những ai có dự định trái với xu hướng "cấm vận" ấy phải tránh đi, không dám cưỡng lại không muốn phát biểu công khai. Nhưng điều mỉa mai là chính những người đề ra chủ trương như vậy rốt cuộc, cũng lao vào làm ăn buôn bán ở trong nước, về thăm quê, gửi tiền về cho người nhà ở trong nước v.v... Như thế là không lành mạnh, nói một đàng, làm một nẻo, khống chế người khác và không tôn trọng lẫn nhau. Tôi nghĩ, trong cộng đồng làm sao xây dựng được một tinh thần dân chủ, thẳng thắn tranh luận, đối thoại, cởi mở, mỗi người đều có chính kiến riêng, đều có thể phát biểu công khai, không e ngại lo sợ bị đe dọa, khủng bố. Đối với nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, có người có thái độ khiêu khích, gây sự, đe dọa hành hung ông, hoặc o bế, gò ép ông, cho gặp người này, ngăn cản gặp người khác... Đấy là thái độ thiếu lành mạnh, thiếu văn hóa ở ngay trên đất nước dân chủ.

Sự chia rẽ của tổ chức Văn bút ở hải ngoại là đáng tiếc, làm giảm uy tín của cộng đồng người Việt. Việc phê phán một ông tướng từng là Chủ tịch ủy ban Hành pháp ở Miền Nam có ý hòa hợp và hòa giải giữa người Việt với nhau, hoặc việc lên án một bà ủy viên hội đồng địa phương ở úc đề xuất ý kiến kết nghĩa với một quận ở thành phố Hồ Chí Minh... mang tính chất thóa mạ, chụp mũ, không khác mấy với kiểu chỉnh huấn, kiểm thảo, tố khổ của đảng Cộng sản? Hai vị ấy bị lên án là tay sai Hà Nội, đi đêm với kẻ thù, đâm dao sau lưng chiến sĩ và bà con ta; hay bị cộng sản mua mất linh hồn, tiếp tay cho ma quỷ, phản bội cộng đồng, sẽ bị hỏi tội và trừng phạt...

Trước đây, có một vài tờ báo và cá nhân phát biểu rằng, ông đã từ bỏ hàng ngũ cộng sản để về với quốc gia, rời bỏ chủ nghĩa đen tối của cộng sản để đến với "chính nghĩa quốc gia", rằng ông đã bị chiêu hồi, đã bỏ cờ đỏ sao vàng để theo cờ vàng ba sọc đỏ. Nhân dịp này xin ông cho biết ý kiên của ông về những điều đó?

Nhiều lần tôi đã nói, có những người nhận định không đúng về tôi, ví dụ như cho tôi là bị chiêu hồi, bỏ hàng ngũ cộng sản để về với "chính nghĩa quốc gia" như ông đã hỏi. Nhân đây, tôi cần nói rõ thế này. Hiện nay tôi không còn là người cộng sản nữa. Người ta đã khai trừ tôi khỏi đảng cộng sản. Tôi yên lòng và còn tự hào đứng ngoài đảng cộng sản. Nhưng không phải vì vậy mà tôi bôi đen hoặc nói xấu đảng cộng sản. Trước hết, đối với đảng cộng sản, tôi luôn cho là không ít người vào đảng cộng sản do động cơ yêu nước. Và hiện nay tôi vẫn cho là trong đảng cộng sản có hơn hai triệu đảng viên nhưng phần lớn họ vào đảng không phải vì lý tưởng cộng sản, học thuyết cộng sản, mà chính tình thế bắt buộc do không có đảng nào khác ở trong nước để họ lựa chọn. Trừ một số trường hợp riêng biệt, ai muốn làm việc, tiến thân đều phải vào đảng cộng sản. Trong số hơn hai triệu đảng viên cộng sản hiện nay, không hiếm người có tinh thần dân tộc sâu sắc nghe theo lẽ phải. Nhưng vì chưa có điều kiện, thời cơ hoặc còn e ngại vì ách độc đoán, nên họ chưa biểu hiện thái độ của mình. Đã và đang có nhiều người thảo luận ngầm với nhau về hướng dân chủ hóa cho đất nước trong tương lai.

Còn việc có người cho rằng tôi đã "trở về với chính nghĩa quốc gia", tôi nghĩ, không phải tất cả những người Việt ở hải ngoại đều là "quốc gia". Bởi vì "quốc gia" không có nghĩa là cứ người bỏ miền Nam ra đi đều có tinh thần "quốc gia". Trong cộng đồng đó có đến ba, bốn trăm tổ chức khác nhau, có những tổ chức chống đối nhau quyết liệt. Tôi không gia nhập tổ chức nào và cũng không để ai lôi kéo mình. Cho nên, không thể nói tôi trở về với "chính nghĩa quốc gia" và "bị chiêu hồi" được. Những người yêu nước thật sự là người theo chủ nghĩa yêu nước chân chính, dù họ có là cộng sản, hay quốc gia và đều là những con người chân chính. Còn những người mang danh "quốc gia", nhưng không dấn thân cho sự nghiệp độc lập, tự do, phát triển của quốc gia, thì chắc gì đã là người quốc gia chân chính? Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài Gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng: "Nếu chúng tôi chiến thắng, tức miền Nam thắng miền Bắc, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn". Ngay một số trí thức từng ở trong chính quyền miền Nam cũng tỏ ra phủ nhận bộ máy lãnh đạo của chế độ Việt nam Cộng hòa trước đây và phủ nhận cả lá cờ vàng ba sọc đỏ. Nhiều người trước kia đã là viên chức cao cấp trong chính quyền miền Nam đã nói với tôi: "Chúng tôi muốn quên lá cờ vàng ba sọc đỏ đi vì nó tiêu biểu cho một chế độ quan liêu, quân phiệt, tham nhũng và thối nát, chúng tôi không muốn thừa nhận lá cờ ấy. Chế độ đó đã thất trận, thất trận do thối nát, thiếu sáng suốt, phải bô nước chạy ra nước ngoài". ở trong nước, đồng bào ta, kể cả những người từng sống trong chế độ Sài Gòn cũ, cũng không nuối tiếc và hy vọng gì về những người "quốc gia" ở nước ngoài, vì họ không tác động có hiệu quả đối với đất nước, trong khi phần đông họ chỉ cổ vũ hận thù và một thời gian còn có không ít người chủ trương dùng bạo lực. Tôi thấy còn hai nhược điểm lớn tồn tại trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Thứ nhất là hiện tượng kích động hận thù, duy trì và phát triển sự phục thù sâu sắc, nặng nề. Thứ hai là chủ trương bạo lực lật đổ chế độ cộng sản, giành chính quyền, xu hướng này đã giảm rõ, nhưng chưa bị triệt tiêu. Tôi tự cho mình không có "sứ mệnh" thay đổi trận tuyến để đi theo kiểu ấy. Bởi vì hơn 40 năm là đảng viên cộng sản và 37 năm trong Quân đội Nhân dân Việt nam, suốt quãng thời gian ấy tôi không làm điều gì xấu xa, không có điều gì phái hổ thẹn cả. Hồi ấy, tôi đã chiến đấu với tấm lòng trong sáng, tin tường ở chính nghĩa để giành lại độc lập cho dân tộc. Đến khi ra ngoài này, tôi trình bày kiến nghị của tôi về xây dựng và phát triển đất nước. Những người lãnh đạo đảng cộng sản khai trừ tôi.

Tôi thanh thản giã từ đảng cộng sản. Trước sau tôi vẫn giữ tấm lòng yêu nước, nguyện đấu tranh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân, ngoài ra không có cái gì khác. Cho đến nay tôi vẫn gắn bó với đồng bào ở trong nước, gắn bó với lực lượng còn ở trong đảng cộng sản mà tôi có khả năng thức tỉnh họ theo xu thế thời đại, lôi cuốn họ vào cuộc đấu tranh cho dân chủ. Đó sẽ là lực lượng quyết định ở trong nước để xây dựng một nền dân chủ thực sự cho đất nước. Tôi không đặt cho mình phải cắt đứt mọi liên lạc với những người cộng sản, mà đặt cho mình nhiệm vụ phê phán những người lãnh đạo bảo thủ, tham nhũng, thối nát trong đảng cộng sản. Những người lãnh đạo bảo thủ, giáo điều, vì quyền lợi cá nhân mà duy trì ghế lãnh đạo, duy trì đặc quyền, đặc lợi hòng vơ vét của cải của nhân dân và của đất nước. Đây là những đối tượng chúng ta phải đấu tranh gạt bỏ khỏi chính quyền hiện nay. Còn những người trí thức, những anh em trẻ tuổi có trình độ học vấn cao, có đạo đức tư cách tốt hoặc những người ngoài đảng cộng sản như ông Phan Đình Diệu, ông Hà Sĩ Phu... và một bộ phận khá lớn tuy còn ở trong đảng, nhưng vẫn giữ tấm lòng đối với đất nước, giữ được tư cách đạo đức trong sáng... tôi nghĩ đó là tiềm năng của cách mạng dân chủ, là lực lượng mà tôi cần liên hệ, bắt tay đoàn kết, tin cậy để đưa đất nước vào con đường dân chủ. Về lá cờ, đã có người ra điều kiện cho tôi là: "Ông bỏ đảng thì ông phải dẫm chân lên lá cờ đỏ sao vàng, bước qua lá cờ đó!" Tôi trả lời: "Không ai có quyền yêu cầu người người khác làm điều đó và tôi cũng không bao giờ làm như vậy. Lá cờ đô sao vàng tôi đã tôn trọng, đã chiến đấu dưới lá cờ ấy với lòng yêu nước của tôi, nó từng là biểu tượng trong cuộc đấu tranh giành độc lập trong trái tim tôi!" Nhưng quả thật, lá cờ đó không còn hoàn toàn đáng ngưỡng mộ đối với tôi như trước nữa. Lá cờ đó đã bị tập đoàn lãnh đạo bảo thủ làm cho hoen ố bởi những sai lầm tội lỗi trong Cải cách ruộng đất. Dưới lá cờ ấy, những tòa án mệnh danh là "tòa án nhân dân" đã xét xử và bắn chết hàng vạn đồng bào nông dân vô tội, trong đó có cả những người quen biết, họ hàng của gia đình tôi và gia đình vợ tôi. Lá cờ đó đã bị hoen ố trong vụ "Nhân văn - Giai phẩm" như đối với các ông Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần... và trong vụ "Xét lại, chống đảng". Gần đây lá cờ ấy càng bị hoen ố thêm trong vụ xử tù ông Hoàng Minh Chính, ông Lê Hồng Hà cũng như các ông Đoàn Viết Hoạt, Nguyễn Đan Quế, các nhà lãnh đạo tôn giáo trước đó, v.v...

Lá cờ đỏ sao vàng đã bị lạm dụng, bị bôi nhọ khi chính quyền trong nước tăng cường độc đoán, gây nên bất công, đau khổ cho những người yêu nước vô tội. Chính lá cờ ấy đã cắm trên những nhà tù giam cầm hàng trăm chiến sĩ dân chủ yêu nước như trước đây đã từng giam hàng chục vạn sĩ quan, công chức của chính quyền Sài Gòn cũ.

Về lá cờ vàng ba sọc đỏ, nó được dựng lên dưới thời thực dân Pháp. Dưới lá cờ ấy biết bao nhiêu người chết oan uổng, mẹ tôi đã bị quân đội viễn chinh Pháp bắn chết. Hàng chục vạn người bị chết trong những cuộc càn quét của quân Pháp và lực lượng do Pháp xây dựng. Rồi sau này là những đợt "tố Cộng", "diệt Cộng", thực chất là giết những người yêu nước ở miền Nam. Theo số liệu của Lầu Năm Góc (Hoa Kỳ), hơn 20 ngàn người bị tử hình, ám sát trong thời kì "tố Cộng thực hiện kế hoạch "Phượng Hoàng". Phía bộ đội miền Bắc và "giải phóng" cũng có 28 ngàn chiến sĩ bị bắt ngoài mặt trận, bị giam trong các nhà tù mà lá cờ đó đại diện. Lá cờ ba sọc đỏ chưa hề chinh phục được tôi.

Tất nhiên mỗi người có quyền tín nhiệm, yêu thích, tôn trọng lá cờ mà mình tự lựa chọn và tôn trọng sự lựa chọn của người khác. Nhưng cũng không nên áp đặt buộc mọi người theo một lá cờ nhất định. Cũng không nên vì chuyện lá cờ mà những người cùng chung chí hướng, cùng nguyện vọng không thể đối thoại với nhau, không thể đứng cạnh nhau để cùng nhau làm một công việc ích nước, lợi nhà như hiện nay.

Công bằng mà nói, đối với tôi, lá cờ vàng ba sọc đỏ đã có một lúc nào đó kiêu hùng phất phới khi một số anh em hải quân Việt nam cộng hòa chống trả quân bành trướng Bắc Kinh trên vùng đảo Hoàng Sa cuối năm 1974, để giữ một vùng lãnh thổ và hải phận của Tổ quốc, trong khi thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố cam chịu sự bành trướng nước lớn của Trung Quốc ở vùng đảo này!

Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 05-20-2004, 05:18 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ

Phần 2



Hiện nay có người chủ trương giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ có người nói nên giữ cờ đỏ sao vàng và cũng có người cho rằng nên bỏ cả hai lá cờ đó đi. Thế còn ý kiến của ông?

Đây cũng là vấn đề tôi đã suy nghĩ. ở mỗi nơi có những ý kiến khác nhau. ở Mỹ, ở úc tôi nghe thấy có một số ý kiến, ở châu Âu cũng có những ý kiến này, ý kiến khác về lá cờ. Trong số những anh em gọi là "người Việt Đông Âu[24] cũng có người có ý kiến về hai lá cờ nói trên. Trong người Việt "quốc gia", có người cho rằng, hiện nay việc chống cộng là quan trọng nhất, có chống cộng thì mới có thể cứu vãn được tình thế của đất nước. Lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của cộng sản, vậy thì phải bỏ lá cờ mang tính chất cộng sản đó đi và dùng lá cờ của quốc gia là lá cờ vàng ba sọc đỏ để tập họp lực lượng, làm phương tiện tiêu biểu. Chúng ta biết nguồn gốc lá cờ này từ xa xưa của các thời hoàng triều gọi là lá cờ vàng "long tinh". Sau thời kì Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), xuất hiện lá cờ "quẻ ly". Có người giải thích là sau khi thực dân Pháp "trao trả nền độc lập" cho vua Bảo Đại năm 1948, người ta lấy lại cờ "quẻ ly" nhưng nối liền sọc đỏ ở giữa thành ba sọc đỏ trên nền màu vàng, làm quốc kỳ của Việt nam Cộng hòa. Còn cờ đỏ sao vàng, có người nói đó là "lá cờ do bà Nguyễn Thị Minh Khai đưa ra theo mẫu lá cờ của Nga-sô" từ cuộc khởi nghĩa ở Nam bộ vào năm 1940, sau đó mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đó làm lá cờ của mình, rồi nó đã được chấp nhận trong Cách mạng tháng Tám và trở thành quốc kỳ của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa (sau khi thống nhất đất nước đổi thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam). Tôi thấy lá cờ đỏ sao vàng đã có một thời kì oanh liệt. Đó là thời kì khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kì kháng chiến chống Pháp và trước đó còn tiêu biểu cho cả cuộc khởi nghĩa Nam bộ năm 1940... Nó có cả một quá trình lịch sử hào hùng và đi cùng với nó là bài quốc ca có tựa đề Tiến quân ca.[25] Nhiều người cho rằng, cần phải giữ lá cờ đỏ sao vàng vì nó tiêu biểu cho một thời kì lịch sử, được Quốc hội của nước Việt nam chấp nhận và được công nhận ở Liên hiệp quốc, là lá cờ chính thức làm lễ chào cờ khi đón các nguyên thủ quốc gia và thay mặt đất nước Việt nam trên trường quốc tế.

Cho đến nay, ngay một số người Việt "quốc gia" đã nghĩ đến một lá cờ khác. Họ không công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là "quốc kỳ" nữa, với lý do nó tiêu biểu cho một thời kì, một chế độ tham nhũng do thực dân, đế quốc dựng lên. Một số người quốc gia còn nói với tôi là không thể chấp nhận cờ vàng ba sọc đỏ, vì nó đại diện cho sự thối nát, cho sự thất trận, bất lực trong cuộc chiến đấu giữ miền Nam khỏi lọt vào tay cộng sản, đến nỗi họ phải bỏ đất nước ra đi.

Một số bạn từ trong nước cho biết đã thử thăm dò thì đồng bào trong nước rất ít ai còn nghĩ gì đến lá cờ vàng ba sọc đỏ, vì nhiều nguyên nhân. Số người ở miền Bắc không còn ai nghĩ gì đến lá cờ ấy; số người ở miền Nam một số còn nghĩ đến, nhưng với ít nhiều chua xót, bực bội. Nhưng ở ngoài nước có người lại nói, bao giờ cũng phải có sự tập hợp dưới một lá cờ nào đấy, nếu không thì mất hết ý nghĩa của việc tập hợp ấy. Cũng có người khác cho rằng, hiện nay hãy cứ để tạm thế đã không thể công nhận cả cờ vàng ba sọc đỏ lẫn cờ đỏ sao vàng. Và nên gác các bất đồng sang một bên, khi cuộc thảo luận về lá cờ chưa ngã ngũ, đến khi nào có điều kiện sẽ tiến hành trưng cầu dân ý, duy trì lá cờ này hay lá cờ kia, hoặc nghĩ đến một lá cờ mới. Cũng có người đề nghị nên sớm có một lá cờ mới gồm có các màu: màu xanh nước biển tượng trưng cho biển cả, màu xanh lá cây tượng trưng cho núi rừng và màu vàng - màu truyền thống của dân tộc Việt nam - tượng trưng cho đất đai, lãnh thổ. Có người đề nghị nên dùng màu xanh lá cây, màu vàng và màu đỏ. Tôi nghĩ, đấy là những ý kiến tự do, không ai có quyền cấm đoán, được nêu ra để tham khảo. Theo tôi, hiện nay không nên áp đặt một lá cờ nào. Chúng ta không nên sa lầy vào vấn đề này, không nên chia rẽ vì một lá cờ vốn mang tính hình thức nhiều hơn. Theo tôi, trong lúc này không nhất thiết phải treo, phải chào một lá cờ nào trong các cuộc họp của cộng đồng. Làm như thế vô hình chung là áp đặt đối với những người có suy nghĩ khác. Không nên vì lá cờ mà bài bác lẫn nhau, chụp mũ cho nhau, khó chịu với nhau, chia rẻ, xa lánh nhau... Tôi biết rằng ý kiến này rất khó chấp nhận với nhiều người, vì đã thành thói quen, tập quán việc treo cờ, chào cờ... Không có thì như thiếu một điều gì hệ trọng... Tôi mạnh dạn nói lên điều mà rất đông đảo người trong nước, kể cả các chiến sĩ dân chủ, cũng có ý kiến như thế. Tôi cũng hiểu rằng một ý kiến hợp lý có khi mất nhiều thời gian mới thuyết phục được số đông.

Ông có biết ông đụng đến một vốn đề hết sức nóng bỏng và phức tạp không?

Có chứ. Đây là vấn đề rất gai góc. Vì liên quan đến danh dự, sỹ diện con người, đoàn thể... Vì người ta từng chết và có thể dấn thân vào chỗ chết vì một lá cờ, do tính tiêu biểu và thiêng liêng của lá cờ ấy.

Là quân nhân, chúng ta đều thấu hiểu điều ấy. Là quân nhân chúng ta từng tuyên thệ dưới lá cờ mà ai cũng cho là chứa đựng hồn thiêng của Tổ quốc cô đọng lịch sử đấu tranh của dân tộc, đánh dấu chủ quyền của đất nước. Với đơn vị chiến đấu, lá cờ đánh dấu lãnh thổ quốc gia; cờ cắm ở đâu, đánh dấu cuộc chiến đấu đạt kết quả bảo vệ hoặc giành lại đất đai, quyền làm chủ đến đó, sau biết bao hy sinh, mồ hôi, xương máu của đồng đội. Tôi không ngại đề cập vấn đề này vì hiểu rõ chiều sâu ý nghĩa của nó. Nhất là vì vấn đề này có liên quan đến cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện nay của nhân dân ta, ở trong và ở ngoài nước. Không nên vì nó là vấn đề gai góc mà tránh né cấm ky. Chúng ta nên trao đổi, đối thoại vấn đề này một cách ngay thắng, cởi mở, tỉnh táo và bình tĩnh. Không nên nóng nảy, tự ái, mất bình tĩnh, đi đến cãi nhau một cách giận dữ, làm sống dậy những thù hận cũ, chỉ làm cho xa cách nhau thêm.

Cần có thái độ có văn hóa, nghĩa là lắng nghe nhau, ngẫm nghĩ cân nhắc cho chín mặt này, mặt khác, tự đặt mình vào chỗ đứng của người đối thoại để hiểu hết ý họ, rồi tự mình tìm ra lẽ phải. Trong khi đối thoại, tranh luận, cần tự tin, tự trọng, lại cần tôn trọng người khác và phục thiện, cái gì đúng thì chấp nhận; lại cần biết kiên nhẫn, biết đợi chờ nhau để suy nghĩ thêm với thời gian.

Thái độ xử sự có văn hóa như thế là biểu hiện của một con người trưởng thành, có nếp sống có văn hóa, xứng đáng với dân tộc Việt nam nghìn năm văn hiến.

Tôi không chấp nhận lá cờ đỏ sao vàng. Thế mà ở một số nơi công cộng bên này, trong sách báo, phản ảnh, trên ti-vi nhìn thấy lá cờ ấy là tôi dị ứng, khó chịu, nên làm thế nào? Tôi rất hiểu tình hình như thế. Vì ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, ở quảng trường quốc tế giữa thành phố New York, tôi cũng nhiều lần thấy những lá cờ đỏ sao vàng rất lớn. Trên từ điển, bách khoa toàn thư, sách địa lý, lịch sử cũng vậy. Vì đối với quốc tế, lá cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ chính thức của nước Việt nam thống nhất hiện nay. Những người không thích lá cờ ấy, không chấp nhận lá cờ ấy cũng nên có cách nhìn thực tế, không nên bực bội đến mức có những việc làm như hạ cờ, hủy bỏ... là những việc làm không cần thiết, có thể bị coi là vi phạm trật tự xã hội của đời sống công cộng. Tôi có dự một số cuộc họp, cuộc biểu tình, trong đó, những anh chị em người Việt Đông Âu (từ miền Bắc sang) cùng chung tiến hành với anh chị em "quốc gia" (phần lớn ở miền Nam sang), tại đó người ta chào cờ vàng ba sọc đỏ và đi diễn hành với lá cờ ấy, vậy nên có thái độ thế nào? Tôi không còn ưa gì lá cờ đỏ sao vàng, nhưng lá cờ vàng ba sọc chưa chinh phục được tôi.

ở Berlin, Hanover và Francfurt (Đức) cũng như ở Praha (Tiệp) tôi đã nghe một số anh chị em sinh viên và lao động hỏi như thế. Anh em không còn ưa gì lá cờ đỏ sao vàng, nhưng cũng không cảm thấy ưa thích lá cờ ba sọc đỏ. Theo tôi, mỗi người cần có lập trường, thái độ của mình, theo suy nghĩ, lập luận, tình cảm của riêng mình, theo cái quyền tự do của mỗi người, đồng thời tôn trọng tự do lựa chọn của người khác. Đó là thái độ có văn hóa. Trong khi cần phối hợp, đoàn kết để đấu tranh giành quyền tự do dân chủ trong cả nước thì không nên chỉ vì sự lựa chọn lá cờ mà chia rẽ, đố kỵ, xa cách nhau. Có nên đứng dậy chào cờ hay không thì cũng tùy nếu không thông suốt, có thể lẳng lặng nhẹ nhàng đi ra ngoài; hoặc có thể đứng dậy. Không ai có thể coi việc đứng dậy là một cam kết, một thái độ công nhận lá cờ nào đó; vì đấy còn có thể hiểu là một thái độ ngoại giao đơn thuần, để tỏ lòng tôn trọng đối với người xung quanh theo kiểu lịch sự xã giao mà thôi.

Kẻ thù cũ nay ta có thể bắt tay. Đất nước thù địch cũ nay ta có thể kết bạn. Huống chi đó là lá cờ của một bộ phận của dân tộc ta, dưới lá cờ ấy từng có những con người có lý tưởng, có tư cách hy sinh cho những giá trị mà nó từng tiêu biểu, thì việc làm như thế không có gì có thể làm cho ta ân hận hay e ngại cả.

Tháng 4-1998 này, một số bài báo ở hải ngoại lại nói đến "tháng 4 đen", đến "ngày quốc hận, đến hận "mất nước"... Ông có đồng ý với những danh từ ấy không?

Tôi có cách nhìn khác. Tôi vẫn cho ngày 30-5-1975 là một ngày vui, với cái ý nghĩa là chấm dứt chiến tranh, không còn quân đội nước ngoài nào trên đất Việt nam và đất nước ta được thống nhất liền một giải. Sau 30 năm chiến tranh với biết bao hy sinh, tổn thất, tàn phá, hòa bình trở lại chẳng lẽ không phải là niềm vui lớn sao?

Sự lãnh đạo sai lầm ngay sau đó đã triệt tiêu dần niềm vui trong tôi, với những sự kiện bị thảm liền trong 10 năm sau đó. Các trại giam chật cứng, tới tấp mọc lên; xóa bỏ giai cấp tư sản; cưỡng bức hợp tác hóa gấp; cả nước đói khổ; chiếm đóng lâu dài Cam Bốt; đất nước bị cấm vận... Làm sao vui được nữa.

Khá nhiều bạn tôi, là người phía "quốc gia" cũng nói rằng: nếu như sau 30-4-1975 họ thực hiện hòa giải hòa hợp như họ từng hứa, không có trả thù, mọi người là anh em với nhau, tận dụng sức lực nhân dân mọi nơi, mọi gia đình để xây dựng đất nước thì chúng tôi có thể chấp nhận họ, sẵn sàng bỏ qua quá khứ để sắn tay xây dựng hiện tại, hướng tới tương lai đẹp cho mọi người, mọi nhà.

Những bất hạnh liên miên xảy ra từ sau 30-4-1975 càng làm cho những ai coi đó là "tháng tư đen", là "ngày quốc hận", là bị "mất nước" thấm thía thêm. Tôi tôn trọng những nỗi đau ấy, cảm thấy đó là nỗi đau của chính mình, nhưng riêng tôi tôi không coi đó là "hận mất nước" vì nước ta còn đó, không ai có thể lấy mất đi được. Đất nước Việt nam, quốc gia Việt nam, dân tộc Việt nam là trường tồn với hồn thiêng của sông núi, lãnh thổ. Tôi tin rằng những bất hạnh do sự lãnh đạo độc đoán, giáo điều, bảo thủ dù kéo dài thêm cũng chỉ là tạm thời, không thể trường tồn được. Chính quyền độc đoán bảo thủ đang trên quá trình rã đám không ai cưỡng lại nổi.

Một số người lên án miền Bắc đã cưỡng chiếm miền Nam, ông có đồng tình với chính kiến ấy không?

Đây là một vấn đề quan trọng trong nhận định về cuộc chiến tranh trên đất nước ta. Nó không đơn giản. Hai năm qua tôi có dự một số cuộc hội thảo khoa họe về chiến tranh do Lầu Năm Góc tổ chức. Vấn đề này cũng được bàn đến, như là một vấn đề của khoa học lịch sử.

Trước hết tôi nói nhận thức của tôi khi còn ở trong nước.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lẽ ra cả nước đã có tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước. Miền Nam và Pháp, Mỹ đều không muốn thi hành điều khoản ấy vì vào lúc ấy uy tín của chính phủ Kháng chiến ở Hà Nội còn mạnh trong phạm vi cả nước. Ai cũng đoán nếu có bầu cử với kiểm soát quốc tế thì ông Hồ Chí Minh sẽ thắng. Ngay sau đó, chính phủ Ngô Đình Diệm thực hiện các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với sắc lệnh 10-59, đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị lực lượng cộng sản đang ẩn dấu trong dân. Hà Nội gọi đó là cuộc chiến tranh một bên trong các tài liệu tổng kết.

Các chiến dịch tố cộng ở đồng bằng sông Cửu Long, ở khu 5, bắt vợ con những người "cộng sản" (thật ra phần lớn chưa, hoặc không phải cộng sản, chỉ là người kháng chiến chống thực dân Pháp) tù bỏ những người chồng đi tập kết ra Bắc; những người kháng chiến cũ, gia đình họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao, gây nên một không khí rất căng thẳng. Họ bắt buộc phải tự vệ... Có nơi họ tự động đào súng lên lập tổ chức canh gác, chiến đấu để tự bảo vệ. Thế là nổ ra các cuộc chiến đấu do những người kháng chiến cũ nằm vùng chỉ huy, được gọi là các cuộc đồng khởi ở Bắc ái (Nam Tây Nguyên 20-1-1959), ở Trà Bồng (Bình Định tháng 8-1959) và Bến Tre (tháng l-1960).

ở Hà Nội hồi ấy Đảng cộng sản tập trung sức lãnh đạo vào công cuộc sửa sai trong cải cách ruộng đất chống đói, hồi phục kinh tế, chống nạn vỡ đê lớn ở Mai Lâm (bắc Hà Nội), chống phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nên chưa tập trung sức vào tình hình ở miền Nam. Sau khi được tin đồng khởi, ban chấp hành trung ương họp và ra nghị quyết gọi là Nghị Quyết Trung ương 15, nhận định rằng đối phương đã chủ trương dùng bạo lực nên đấu tranh chính trị là không còn phù hợp, phải chuyển sang dùng bạo lực, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ, bảo vệ và phát triển lực lượng mọi mặt ở miền Nam.

Các cuộc tố cộng, diệt cộng ở miền Nam được tiến hành mạnh mẽ, rộng khắp và quyết liệt hơn. Cuộc chiến đấu vũ trang của cả hai bên đều mở rộng dần, và mỗi bên đều lần lượt có những bước leo thang tương ứng. Tôi nói một vài cột mốc để các bạn trẻ có thể hình dung. Miền Nam đề cao chống Cộng thành quốc sách, phù hợp với chiến lược chung của phương Tây là ngăn chặn phong trào cộng sản bành trướng thêm. Việc khai báo lý lịch, khai báo hộ khẩu, kiểm tra người ở từng gia đình là hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt.

Đại hội 3 đảng cộng sản Việt nam họp vào tháng 9-1960 thành lập Trung ương Cục Miền Nam để lãnh đạo toàn miền Nam. Ngày 20-12-1960 thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt nam. Ngày 15-2-1961 thành lập Quân Giải Phóng Miền Nam, lúc đầu gồm toàn bộ những chiến sĩ, thanh niên thực sự ở miền Nam. Cuối 1961 bắt đầu đưa lực lượng vũ trang tập kết, thuộc các sư đoàn 305, 825, 324... trở về theo từng tốp nhỏ và một số người chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn...

Tháng 8-1961 ở miền Nam, lập trung đoàn chủ lực đầu tiên tại miền Đông Nam Bộ, trong khi phía Sài Gòn đã có hàng mấy chục trung đoàn chính quy. Sang năm 1962 mới lập chủ lực miền Nam gồm có 2 trung đoàn bộ binh, ngay sau đó ở khu 5 cùng với Tây Nguyện có 3 trung đoàn.

Sau trận ấp Bắc (2-l-1963) ở tỉnh Mỹ Tho lực lượng Quân Giải Phóng phát triển nhanh. Theo thống kê của Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội thì vào năm 1959 và 1960 khi Hoa Kỳ đưa vào miền Nam Việt nam 1.800 cố vấn, cán bộ kỹ thuật quân sự thì trong thời gian ấy, miền Bắc đưa vào miền Nam cũng chỉ gần 1.800 người, gần bằng con số ấy. Không thể đưa thêm vì miền Nam chưa đủ sức tiếp thu, vùng giải phóng còn nhỏ, kiểu xôi đỗ, co sở dân chưa rộng. Đến năm 1968, Mỹ đưa vào 4.200 cố vấn và nhân viên kỹ thuật, miền Bắc đưa vào hơn gấp đôi: 8700 người.

Từ cuối 1963, sau khi ông Diệm chết, Tổng Thống Kennedy bị ám sát, miền Bắc mới cho là thời cơ đã thuận để đưa các đơn vị cỡ sư đoàn gồm cả người miền Nam và người miền Bắc vào miền Nam. Đến khi Mỹ đưa vào miền Nam 543 ngàn quân (hơn nửa triệu) vào cuối năm 1967, thì số quân miền Bắc có mặt ở miền Nam (chưa kể đường vận chuyển chiến lược mang tên Hồ Chí Minh) là 21 vạn. Đó là phản ứng của các bên trong từng thời gian một. Vậy là trách nhiệm của cả hai bên, với cách nhìn của mỗi bên gắn bó với một phe trong chiến tranh lạnh, trong cuộc đọ đầu lịch sử giữa hai hệ thống thế giới đối lập. Cả hai bên đều không còn lập trường độc lập tự chủ, đổ lỗi cho nhau... Phía Mỹ và Việt nam Cộng Hòa tố cáo Bắc Việt xâm lược, gây sự trước. Hai phía đều leo thang chống đối nhau. Phía Bắc Việt nam tố cáo do Việt nam Cộng Hòa và Mỹ khởi sự, khủng bố, leo thang trước.

Cho đến mùa xuân 1975 khi chiến tranh sắp kết thúc, số quân các loại (chủ lực, địa phương quân, cảnh sát võ trang, biệt động, hải quân, không quân, bảo an vũ trang:..) của miền Nam có tất cả là 1 triệu 10 vạn quân sĩ. Còn quân Bắc Việt nam chính cống nghĩa là từ Bắc Việt nam đưa vào là 26 vạn cùng với một số quân vốn ở miền Nam (cả du kích vũ trang) là 15 vạn (do tổn thất khá lớn trong những năm 1968, 1969 và 1970 qua ác chiến dịch Phượng Hoàng, Bình Định cấp tốc). Lúc ấy, quân Việt nam Cộng Hòa tuy đông, nhưng phải rải khắp các tỉnh thành, làng xã để phòng thủ, còn quân đội Nhân Dân Việt nam thì có thể tập trung cơ động bằng cơ giới, với tổ chức quân đội cao nhất lên đến cấp quân đoàn (gồm 8 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn thiết giáp) trong khi tổ chức cao nhất của quân đội Việt nam Cộng Hòa là cấp sư đoàn; còn huy động lớn nhất của quân đội Việt nam Cộng Hòa cho một chiến dịch là 1 chiến đoàn (gồm 2 đến 4 sư đoàn) còn của quân đội Nhân Dân là 1 tập đoàn quân (gồm đến 5 quân đoàn, tức là chừng 20 sư đoàn như trong chiến dịch cuối cùng).

Sỹ quan và binh sỹ Việt nam Cộng Hòa chúng tôi vẫn giữ chính kiến là miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng vũ lực, chúng tôi chỉ chiến đấu để tự vệ.

Tôi rất hiểu chính kiến ấy.

Bộ máy chính trị và tuyên truyền của miền Bắc cực lực bác bỏ quan điểm ấy, với lý lẽ rằng: không thể có hai nước Việt nam, chỉ có một nước và tạm thời hai miền. Không thể có chuyện người nước Việt nam xâm lược nước mình. Phía Sài gòn đã vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ chống lại tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, còn mở chiến dịch tố cộng, diệt cộng, tiêu diệt người kháng chiến cũ, lê máy chém khắp miền Nam theo luật 10-59, hò hét lấp sông Bến Hải, rồi còn mời hơn nửa triệu quân Mỹ với hàng chục triệu tấn bom đạn tàn phá đất nước, giết hại dân hai miền.


Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 05-20-2004, 05:18 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

Mặt khác, trong các buổi sinh hoạt chính trị, ở trường quân sự cao cấp, ở trường đảng Nguyễn ái Quốc và khi tổng kết chiến tranh, các nhà lãnh đạo cộng sản lại nói khác. Đại thể là: chúng ta đã luôn giữ thế chủ động trong chiến tranh. Chúng ta đã biết nhìn xa, chôn dấu khá nhiều vũ khí ở khắp các địa phương miền Nam, đã để lại một số nòng cốt cán bộ quần chúng và cán bộ quân sự, cán bộ lãnh đạo; từ 1959 đã sớm phát động các cuộc đồng khởi ở Nam Bộ, Tây Nguyên; đã sớm xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh làm đường vận chuyển chiến lược; đã luôn coi Lào Miên là thuộc chiến trường thống thất ba nước Đông Dương của quân đội nhân dân; chúng ta không bao giờ để cho các hiệp định quốc tế trói chân trói tay và khi thời cơ đến đã không ngần ngại dốc hầu hết lực lượng vào miền Nam để giành toàn thắng.

Đến nay, qua các lập luận trên, tôi thấy lộ ra sự thật là những người lãnh đạo cộng sản đã chủ động trong các bước tiến công để chiếm lĩnh miền Nam bằng vũ lực bằng mọi giá, bất kể phải hy sinh đến mấy triệu sinh mạng đồng bào mình. Họ có ý đồ rõ rệt là đưa cả nước gia nhập vào phe xã hội chủ nghĩa - trên thực tế là một nước đàn em của Liên bang xô viết. Đó là thực chất, được che dấu khá kỹ.

Ông có đồng ý với cách giải thích trên đây của những người lãnh đạo cộng sản không?

Hồi còn chiến tranh, tôi rất đồng tình, còn thích thú về cách giải thích của họ. Từ ngày chiến tranh kết thúc, với diễn biến bị đát của tình hình, tôi xem xét lại toàn bộ nhận thức, suy nghĩ của mình, và dần dần rời xa cách giải thích theo lối tuyên truyền lấy được trên đây. Những mây mù trong nhận thức được giải tỏa.

Có 3 điểm quan trọng dưới đây:

Nếu giành thắng lợi trong chiến tranh để xây dựng một chế độ tiến bộ hơn, mang lại cho nhân dân cả hai miền đã thống nhất trong một nước độc lập thật sự, tự do, ấm no và hạnh phúc thì có thể chấp nhận. Thế nhưng tôi nhận ra rằng nền độc lập vẫn không trọn vẹn. Đất nước đã có độc lập theo nghĩa không còn bị nước ngoài xâm chiếm làm thuộc địa, nhưng đất nước vẫn chưa có độc lập, tự chủ vì còn bị một học thuyết ngoại lai cầm tù. Đây là một nét văn hóa gốc gác bị vi phạm. Bóng ma của chủ nghĩa Mác, nhất là của chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Staline, chủ nghĩa Mao... còn đậm nét trong suy nghĩ của các nhà lãnh đạo. Họ còn bị lệ thuộc. Quyền độc lập tự chủ của nước Việt nam nghìn năm văn hiến đã bị những người lãnh đạo cộng sản dâng cho một học thuyết lạ hoắc từ phương trời xa xăm ập đến! Hơn nữa chế độ xây dựng trong cả nước từ hơn 20 năm nay còn thua kém chế độ ở miền Nam trước khi gọi là "giải phóng!" Vậy thì giải phóng để làm gì? ở miền Nam hồi đó, dù chưa thật đầy đủ, đã có nền chính trị dân chủ, đa nguyên, đã có nền tư pháp tương đối độc lập, nói chung có tự do tín ngưỡng và tôn giáo, có tự do báo chí, ngôn luận. Tất cả đều còn khiếm khuyết nhưng đã khác xa, tiến bộ hơn cái chế độ độc quyền một đảng lộng hành, người dân không có quyền dân chủ, tự do báo chí là con số không, tù chính trị còn rên xiết...

Hai là tiêu chí của chế độ là độc lập, tự do, hạnh phúc. Vậy mà độc lập thì chưa đầy đủ; tự do là con số không, hạnh phúc thì mờ mịt; mà bất hạnh thì tràn đầy, không bút nào tả xiết. Vậy cái chế độ này là một chế độ dị dạng, không xứng đáng để mang tính mạng ra mà giành lấy! Các oan hồn của triệu triệu anh hùng, chiến sĩ, liệt sĩ, nhân dân ở các bên bỏ mình trong chiến tranh đang đứng dậy chất vấn, hỏi tội những người lãnh đạo cộng sản mù quáng, tham lam, vị kỷ.

Ba là: trong chiến tranh, một số trí thức quan tâm đến thời cuộc nghĩ rằng những hạn chế tự do là điều cần thiết trong thời chiến, nhằm giành chiến thắng trước hết. Sau chiến tranh, cuộc sống sẽ trở lại bình thường, với quyền tự do đầy đủ của công dân. Và nhiều lúc một số người lãnh đạo cộng sản cũng trấn an dư luận như vậy. Thế nhưng sau chiến tranh vẫn là chế độ hà khắc, mang tính chất cảnh sát với chế độ hộ khẩu, lý lịch phi lý, những hành động đàn áp tôn giáo và kiểm duyệt báo chí, đôi khi còn quá quắt hơn thời chiến. Người ta nhận ra ngày càng rõ chế độ độc đoán độc quyền đảng trị là hoàn toàn ngược với bản chất của dân, do dân và vì dân mà chế độ từng rêu rao. Đây là một quả lừa nữa của một chế độ lạc lõng với thời đại. Thật đáng xấu hổ, chế độ mang tên cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam, về mặt tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền, được dư luận và các tổ chức quốc tế xếp cùng một loại với các chế độ tàn bạo, độc tài ở Miến Điện, Ly-bi, Uganđa, Irak!

Theo ông Việt nam Cộng Hòa có thể thắng được trong cuộc chiến tranh này không?

Các bạn Mỹ đã hỏi tôi câu hỏi gần như vậy: phía Hoa Kỳ có thể thắng không? Tôi đã trả lời trong phần trên. Các bạn Mỹ tỏ ra hài lòng. Với các bạn Việt nam, thật là khó cho tôi để trả lời cho rõ. Khó vì tôi không muốn làm phật lòng các bạn. Nhưng tôi nghĩ lại thấy rằng đối với nhau ngay thật là hơn cả. Chiến tranh huynh đệ tương tàn đã chấm dứt hơn 20 năm. Nay chúng ta là anh em, ôn tồn nói chuyện với nhau. Chiến tranh đã chấm dứt và sẽ không bao giờ có thể tái diễn. Cái khó của các bạn trước hết là về chính trị, là thuyết phục được nhân dân rằng chính nghĩa là thuộc về phía mình.

Tôi đã nghĩ thật nhiều. Nếu như sau 1954 ở miền Nam, xuất hiện một tổ chức lãnh đạo có uy tín hơn, từ đó cũng xuất hiện một người lãnh đạo tài giỏi, một tập thể lãnh đạo tài giỏi hơn là chính quyền ông Ngô Đình Diệm, thì tình hình có thể khác. Nhìn lại tình hình miền Nam thời chiến tranh, về nhân sự lãnh đạo, một số chuyên viên trẻ có nhiệt tình, tâm huyết và kiến thức chưa kịp trưởng thành và tạo lập uy tín. Các ông Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh cũ quá. Cụ Hương quá già nua. Có lẽ lề lối gia trưởng, tuần tự mà tiến còn nặng nên việc đưa nhân tài lên một cách vượt bậc bị vướng víu. Ngay từ đầu, cái thế của ông Diệm đã không hấp dẫn với nhân dân. Ông là một cụ lớn cũ của triều Bảo Đại thời thuộc Pháp, do người Mỹ đưa về lại cai trị theo lối gia đình với ông Nhu là cố vấn bên cạnh, cộng thêm bà vợ kiêu căng, ngạo mạn, lắm tham vọng; với ông Cẩn là lãnh chúa miền Trung, ông Thục đầy quyền thế cả về chính quyền và thần quyền ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, và bà Cả Lễ rất cổ xưa, sành buôn bán...

Sau ông Diệm là các ông tướng, tất cả đều là hạ sĩ quan, cai, đội hoặc sĩ quan sơ cấp thiếu úy, trung úy thời quân đội thực dân Pháp, nên uy tín chính trị không thể lớn được?

Nam Việt nam không thể xây dựng một chính thể tương đương như ở Đại Hàn hay Xinh-ga-po. Tại đó, được Hoa Kỳ, Nhật Bản và phương Tây giúp đỡ chế độ bảo vệ được mình, còn phát triển phồn vinh và trên quá trình dân chủ hóa. Vì sao vậy? Tôi tự hỏi và thật khó tìm ra trả lời.

Hồi ấy, Nam Việt nam có ít nhiều dân chủ, ít nhiều quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình, điều hành... thế nhưng nạn tham nhũng quá nặng, quá rộng tàn phá nặng nề công bằng xã hội, và viện trợ Mỹ vào càng nhiều càng làm xã hội bê bối thêm. Đó là những chỗ yếu chí mạng mà không có người đủ tài năng, đủ uy tín khắc phục nổi. Lòng dân không yên thì mọi việc đều khó. Cũng như tình hình hiện nay trong cả nước.

Về quân đội, nếu Mỹ có chủ trương chiến lược đúng, hợp thời (như tôi đã nói với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và cựu chiến binh Mỹ ở trên) thì Mỹ tuy rất khó có thể thắng, nhưng có thể tránh thất bại quân sự nặng nề đến như đã xảy ra. Và đó là do lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ không ngang tầm, các tướng lãnh chỉ đạo chiến tranh thiếu năng động, sáng kiến... Tôi nghĩ các ông tướng Việt nam Cộng Hòa cũng cần nhìn nhận phần khuyết điểm, thiếu sót, phần trách nhiệm khá lớn của mình, vì ít có chế độ nào được sự chi viện về quân sự từ bên ngoài to lớn đến vậy.

Anh em binh sĩ Việt nam Cộng Hòa không kém, các sĩ quan sơ cấp, trung cấp không kém so với quân đội Nhân Dân. Tuy có đơn vị ít nhiều thiện chiến, có đơn vị yếu kém, nhưng nhìn chung là hai quân đội ngang nhau. Chịu đựng gian khổ, bền bỉ, lanh lẹn tháo vát, thông minh sáng tạo, họ không khác nhau, không hơn kém nhau gì nhiều. Cùng một gốc dân tộc, cùng từ nông dân, hoặc tầng lớp trung lưu mà ra.

Do đó tôi nghĩ các tướng lãnh Việt nam nên nhìn lại mình để thấy phần trách nhiệm của mỗi người trong cục diện bị thảm chung. Điều đó sẽ làm cho uy tín được phục hồi, lòng quý mến của thuộc cấp được lưu giữ lâu bền.

Theo ông việc loại bỏ ông Ngô Đình Diệm có phải là một điều tai hại cho Việt nam Cộng Hòa không?

Theo tôi, điều ấy tùy thuộc vào việc đưa ai lên thay ông Diệm. Nếu đưa lên một nhà lãnh đạo chính trị thông minh, trong sạch, có uy tín, trẻ trung hấp dẫn nhân dân về nhiều mặt, được quân đội trọng nể thì đó là điều tốt. Tôi nghĩ ở đâu cũng có thể kiếm ra nhân tài. Nhưng vấn đề là tìm ra, phát hiện ra, bồi dưỡng lên, gây vốn chính trị rồi vun vén vào. Ông Clinton trước đây chưa hề ở thủ đô, chỉ là một chánh án của một tiểu bang, thua mấy keo bầu cử ở bang Arkansas, thế mà được phát hiện, bồi dưỡng, vun đắp lên làm thống đốc, rồi tổng thống...

Ông Leonel Jospin thủ tướng Pháp, mấy năm trước là giáo sư, còn ở hàng thứ 8 của đảng Xã Hội Pháp, chỉ ở hàng 20 trong giới chính trị Pháp, thế mà được tuyển lựa, bồi dưỡng, để thành thủ tướng có uy tín cao bậc nhất từ trước đến nay trước nhân dân Pháp.

Sau khi ông Diệm chết, các ông tướng cầm quyền chỉ lo lật nhau, đảo chánh liên miên, tình hình sa sút nhanh, vì vậy mới có nhiều người cho rằng biết vậy thì để ông Diệm lại, chỉ đưa ông Nhu về nghỉ thôi, thì tình hình sẽ không đến nỗi nào... Nhận định ấy có vẻ có lý.

Hội Cựu chiến binh Việt nam hiện nay ra sao? Hội Cựu chiến binh Việt nam hiện nay chỉ là một tổ chức quần chúng phục vụ cho sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch danh dự của Hội, thượng tướng Trần Văn Quang làm chủ tịch, ba phó chủ tịch là người miền Bắc, miền Trung và miền Nam.

Năm 1984, ở miền Nam có Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ, có báo riêng, có tinh thần đấu tranh chống độc đoán và tham nhũng. Nhưng những người lãnh đạo cao nhất coi tổ chức ấy là nguy hiểm và đã giải tán nó. Những người cầm đầu bị đàn áp, như ông Nguyễn Hộ, ông Tạ Bá Tòng và một số người khác hoặc bị khai trừ khỏi đảng, hoặc bị quản thúc. Tôi mong muốn sau này khi tình hình trong nước đã biến chuyển sâu sắc, chế độ độc đoán được thay thế bằng một chế độ dân chủ, các Hội cựu chiến binh của Việt nam và của Hoa Kỳ cùng với các Hội cựu chiến binh của quân đội Việt nam Cộng hòa cũ trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ liên lạc với nhau trên tinh thần hòa hợp, hòa giải, hóa giải các oán thù cũ trong chiến tranh, xây dựng tình hữu nghị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau theo khẩu hiệu "chúng ta là anh em". Trong chiến tranh, mỗi bên đều có những việc làm đáng tiếc. Nay, hãy quên đi những gì cần quên, làm những điều tốt đẹp, bấc cầu hữu nghị, đi đầu trong xây dựng tình bạn giữa hai dân tộc. Biết bao nhiêu việc cần hợp tác với nhau. Chấm dứt mọi toan tính có tính chất bạo động, dùng vũ lực. Mở rộng du lịch giữa các cựu chiến binh, đi thăm các danh lam thắng cảnh giữa Việt nam và Hoa Kỳ, đi thăm các chiến trường cũ ở Việt nam. Giúp đỡ nhau, tương trợ chăm sóc các thương binh nặng bất kể thuộc về phía nào trước kia, chăm sóc các gia đình liệt sĩ các trẻ em mồ côi... Cung cấp chân tay giả, xe đẩy cho thương binh. Trao đổi các đoàn thăm viếng, sách báo, tranh ảnh, phim, thư từ. Kết bạn với nhau giữa những người trước kia từng dự một trận đánh, một chiến dịch.

Có thể mở rộng quan hệ giữa các Hội cựu chiến binh Việt nam và Hoa Kỳ với các Hội cựu chiến binh từng tham gia chiến đấu ở Việt nam tại các nước Ca-na-đa, úc, Tân Tây Lan và các nước Đông Nam á.

Không những giữa các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cựu chiến binh quân đội Nhân dân Việt nam cần hòa giải với nhau, mà giữa các cựu chiến binh Hoa Kỳ với các cựu chiến binh quân đội Việt nam Cộng hòa cũ cũng cần hiểu biết nhau hơn. Đã có quan chức Mỹ dùng lời lẽ quá đáng, nặng nề, tỏ ý khinh thị khi nói về chế độ Sài Gòn và quân đội Nam Việt nam Cộng hòa. Cũng có một số sĩ quan Sài Gòn cũ mang hận thù nặng với Mỹ, như có định kiến rằng, Hoa Kỳ ích kỷ, vô trách nhiệm, chỉ có mục đích dùng chiến trường Việt nam để thử vũ khí mới, để bán vũ khí kiếm lời, có chủ định đánh không cần chiến thắng... Họ vô tình bỏ qua cố gắng, nỗ lực, hy sinh của phía Mỹ, quên sự đón tiếp hơn một triệu người Việt nam vào đất Mỹ sinh sống. Cần tỉnh táo, công bằng và bình tĩnh hơn. Tôi mong có những cuộc họp trên tình bạn giữa các Hội cựu chiến binh trong chiến tranh Việt nam (Veteran Vietnam War, VVW) của các nước. Khi đó người ta sẽ bàn về nhiều việc thiết thực, cần thiết, bổ ích, như: hoạt động thông tin, phối hợp để viết sử, tham quan, du lịch và kết bạn, học nghề cho con em, cấp học bổng cho gia đình cựu chiến binh, giúp nhau sửa sang nghĩa trang quân sự (hiện nay ở Việt nam, các nghĩa trang cũ của Việt nam Cộng hòa bị phân biệt đối xử rất tệ hại, bị di chuyển, phá bỏ, để cho bê bối...) Giúp đỡ các cựu chiến binh nghèo khổ, tàn tật.

Ông có thể nói thêm về khả năng hợp tác giữa các Hội cựu chiến binh ở trong nước với ngoài nước.

Hiện nay ở Việt nam có Hội cựu chiến binh là tổ chức duy nhất tập trung đông đảo các cựu chiến binh của quân đội nhân dân Việt nam. Tôi nghĩ, sau này đất nước có thay đổi theo hướng dân chủ hóa, Hội cựu chiến binh Việt nam nên có mối quan hệ bình thường với các hội Cựu chiến binh Việt nam Cộng hòa ở Mỹ, úc, Pháp... Hiện nay Hội cựu chiến binh Việt nam đã có những mối quan hệ với một số Hội cựu chiến binh Hoa Kỳ, tất nhiên, chỉ là trên một vài lĩnh vực như phát triển du lịch và trên chừng mực nào đó đem lại một số lợi ích cho Hội cựu chiến binh Việt nam. Khi đã có tinh thần hòa giải hòa hợp, coi nhau là anh em, thì có thể có quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa Hội cựu chiến binh ở trong nước với Hội cựu chiến binh Việt nam Cộng hòa. Tôi nghĩ, sự giúp đỡ lẫn nhau dó không phải như hiện nay ở trong nước, kiểu kiêu ngạo, tự phụ, tự coi mình là người chiến thắng để coi khinh các cựu chiến binh ở ngoài nước. Ví dụ, như việc chăm sóc và tu bổ lại các nghĩa trang liệt sĩ của các bên. Hiện nay ở trong nước có chiều hướng phán biệt đối xử rất tệ hại, chỉ chằm lo sửa chữa, xây dựng nghĩa trang liệt sĩ của Quân đội Nhân dân Việt nam, các liệt sĩ của cách mạng mà họ quan niệm là "chính thống". Còn các nghĩa trang cũ của Việt nam Cộng Hòa thì bỏ bê, bệ rạc, thậm chí phá hủy, rời đi nơi khác như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi nằm giữa Sài Gòn. Sau này, với tinh thần tôn trọng những người đã khuất, dù thuộc bên nào, các nghĩa trang sẽ được trùng tu lại trên tinh thần dân tộc, cũng như việc chăm sóc thương binh của các bên. Cựu chiến binh của hai bên có thể giúp đỡ cho nhau để chăm sóc những người thương binh nặng, có thể Hội này giúp những hội viên của Hội bên kia. Các Hội cựu chiến binh nên có trách nhiệm giúp đỡ cho các anh em thương binh cụt chân, cụt tay hiện giờ đang sống lay lắt ngoài vỉa hè. Trong tương lai, những người tàn tật, ốm đau do chiến đấu gian khổ lâu năm, do bị những di hại của chiến tranh, như chất độc hóa học màu da cam... nên được Hội của các bên cùng nhau chăm sóc, giúp đỡ. Tôi hình dung đến thời kì hòa hợp, hòa giải của các cựu chiến binh, họ giúp đỡ nhau trên tinh thần thượng võ, bình đẳng của những người đã buông cây súng và bây giờ tất cả là anh em. Đây cũng là xua tan những mây mù, di sản của một thời mù quáng trong thế kỷ 20.

Xung quanh vấn đề tù nhân của các bên, ông thấy có gì khác nữa không?

Tôi nghĩ, sau này phải hóa giải lại, vì trong chiến tranh có những người bị phía bên kia bắt, khi trở về cũng đều rất bi đát. Nhiều anh em trong diện H.O. đã bị tù lâu năm, bây giờ không muốn sống trong nước, đã được ra nước ngoài. Nhưng cũng có nhiều anh em vì tù đày chưa đủ năm dể cứu xét hiện vẫn còn sống trong nước, cũng cần được Hội cựu chiến binh của quân đội Việt nam Cộng hòa ở ngoài nước liên lạc và chính quyền trong nước cần tạo điều kiện để họ liên lạc bình thường, phát huy sự giúp đỡ. Tôi cũng muốn đề cập tới một đối tượng khác ít được chú ý, rất thương tâm. Đó là hàng chục ngàn anh em từng ở trong Quân đội nhân dân Việt nam bị bắt và bị giam ở nhà tù Phú Quốc ở miền Nam. Đặc biệt số anh em vào Nam chiến đấu bị chiêu hồi vì những nguyên nhân nào đó như đau ốm, bệnh tật, bị rơi vào những tình huống đặc biệt phải bỏ cuộc, hoặc vì thất vọng, không thấy rõ ý nghĩa hành động chiến đấu của mình, nên dã bị chiêu hồi, bỏ ngũ sang phía bên kia. Sau ngày 30.4.1975 họ phải trình diện trở lại, một số bị đưa đi "cải tạo một lần nữa. Tình trạng những anh em này rất bị đát. Tôi có quen biết ở đường Khâm Thiên, quận Đống đa-Hà Nội một số anh em như vậy. Họ đang ở trong tình trạng rất khó khăn về kinh tế, chính trị, tâm lý và gia đình, không có ai đoái hoài đến. Vì những người lãnh đạo Hà Nội rất định kiến với bất cứ ai đã từng nằm trong tay địch, dù bỏ cuộc với bất cứ lý do gì. Những người này coi như bị quăng ra ngoài lề xã hội. Sau khi bị đi học tập cải tạo, đặc biệt là những anh em trước đây bị chính quyến miền Nam chiêu hồi rồi thả về theo Hiệp Định Paris, họ bị phân biệt đối xử, bị cắt mọi đường sinh sống và định kỳ phải đến trình diện cơ quan công an, bị hoạnh họe đủ thứ. Qua đây tôi muốn lưu ý dư luận trong và ngoài nước đến thảm trạng đó. Xã hội ít biết đến họ, cũng giống như những người trên tàu Thương Tín khi họ trở về sau ngày đất nước thống nhất, hy vọng sẽ được đất nước đón tiếp trở lại, mở rộng cánh tay chào đón, trở về là may, là tốt. Nhưng ngược lại, khi họ về đến nơi, tất cả đều bị tống giam một thời gian khá dài, không được dùng vào bất cứ một cương vị nào. Chính quyền cho là trong số họ có kẻ trá hàng, được địch huấn luyện... Chế độ ở Việt nam nói rất nhiều đến bác ái đùm bọc lẫn nhau, "lá lành đùm lá rách". Nhưng trong thời kì mở cửa, chạy theo đồng đô-la, có thể nói người ta ít quan tâm đến số phận của đồng bào của mình. Khi sống và có thời gian quan sát ở Pháp, Canada, tôi thấy chính ở những nước tư bản, tinh thần xã hội của nhà nước và xã hội cao hơn nhiều lần ở những xã hội gọi là "xã hội chủ nghĩa". Ví dụ như ở Pháp, chính sách xã hội do cánh tả giành được trong mấy chục năm tranh đấu lâu dài, dã cho tất cả những người không có việc làm, bị thất nghiệp, về hưu cũng được trợ cấp một khoản không phải là nhỏ. Tôi có một số người quen được hưởng trợ cấp xã hội đủ cho cuộc sống bình thường, giá trị tương đương hai lạng vàng mỗi tháng. Vậy tiền mà xã hội và nhà nước bỏ ra là ở đâu? Đó là tiền trích ở thu nhập của những người làm việc, sản xuất, kinh doanh v.v... trong thời gian còn tuổi lao động. Tất cả phải có trách nhiệm trích khoản tiền đó bỏ vào quỹ xã hội và nhà nước có trách nhiệm dùng số tiền đó để chăm lo cho toàn thể xã hội: Tất cả mọi người đều được quan tâm, không người nào bị bỏ rơi ngoài lề xã hội. Hơn nữa, ở các nước này có rất nhiều tổ chức từ thiện quan tâm đến mọi người, nảy nở hàng trăm, hàng vạn tấm lòng vàng, như bà mẹ Theresa, bà hoàng Diana[26] v.v... Mặc dù họ có nhiều của cải, nhưng họ không lấy đó để hường thụ riêng mà nghĩ đến việc bênh vực số phận của những người bất hạnh, yếu đuối hơn mình, chia sẻ tình cảm, vật chất để xoa dịu đau khổ của con người. Cái nhức nhối ở Việt nam hiện nay là nhà nước, xã hội hầu như bỏ mặc số phận con người. Có người nói, hiện tượng đó là "hiệu ứng con lắc" đồng hồ, tức là từ thời gian quả lắc ở bên cực tả thì tất nó phải chuyển sang phía cực hữu. Sau thời kì xã hội coi trọng đạo đức, cổ súy con người xả thân vì nghĩa lớn, đến nay đang chuyển sang thái cực đồng tiền là trên hết, bỏ rơi tất cả mọi giá trị đạo đức. Tôi nghĩ, bây giờ nên điều chỉnh lại quả lắc đồng hồ để nó trở lại trạng thái cân bằng, làm sao con người quan tâm đến nhau, thông cảm và chia sẻ nỗi đau của nhau. Đó chính là cái nghĩa thực của chủ nghĩa xã hội.

Có người đặt vấn đề, vì sao ông lại đề xuất và nhiều lần nhắc lại vụ án "Nhân văn-giai phẩm " và vụ án "Xét lại chống đảng" là những vụ án nội bộ của cộng sản đã xảy ra quá lâu rồi, mà không nói đến những vụ khác lớn hơn và liên quan đến nhiều người hơn?

Đúng là vụ án "Nhân văn-giai phẩm" xảy ra cách đây hơn 40 năm, vụ án "Xét lại chống đảng xảy ra đã hơn 30 năm. Những vụ án này quả thật động chạm không đến vài trăm người. Có những bạn bên Hoa Kỳ góp ý với chúng tôi, cộng đồng chúng ta ở ngoài nước không cần quan tâm đến những việc nội bộ của đảng cộng sản, mà có những vụ việc lớn hơn nhiều. Đây cũng là một ý kiến. Nhưng tôi phải nói rõ, vụ "Nhân văn-giai phẩm" và vụ xét lại chống đảng", tuy mỗi vụ chỉ đụng chưa đến vài trăm người, nhưng đã bị đảng cộng sản che giấu, bưng bít rất lâu và gần đây mới đưa được ra ánh sáng. Ngay những người miền Bắc sống ở trong nước trước đây cũng không biết. Bây giờ mới có những người đưa ra, như cuốn sách "Đêm giữa ban ngày" của ông Vũ Thư Hiên đang được dư luận độc giả hết sức quan tâm. ở châu Âu, đã có những cuộc hội thảo lớn trong cộng đồng thanh niên, sinh viên, những người Việt Đông Âu làm báo để nhắc đến vụ án này. Tôi thấy cần như vậy. Cho rằng đây là chuyện nội bộ của đảng cộng sản, đụng đến vài trăm người, không thấm vào đâu so với vụ cường bức cải tạo hàng trăm ngàn người sau ngày 30.4.1975 hoặc so với vụ "thuyền nhân", là không thỏm đáng. Bởi vì, chúng ta đấu tranh chống sự lãnh đạo dốc đoán của đảng cộng sản, trước đây họ khoe là họ chỉ có đúng và không có gì sai, đúng từ đầu đến cuối, ngay cả trong các vụ "Xét lại chống đảng", "Nhân văn-giai phẩm" họ cũng đúng, thì chúng ta phải làm cho ra sự thật. Đưa các vụ đó ra ánh sáng, trình bày vấn đề, tạo nên dư luận và ép buộc họ phải công khai thừa nhận rằng đấy là sai lầm của họ, họ phải công khai xin lỗi những nạn nhân và phục hồi danh dự cho những người đó. Đấy là đòi hỏi hết sức chính đáng. Khi đảng cộng sản buộc phải nhận những sai lầm lớn ấy họ phải làm tiếp những đòi hỏi chính đáng khác. Như trong những cuốn sách của tôi, tôi đã viết, đã đề cập đến việc họ kiêu ngạo và dại dột tống hàng trăm ngàn người vào cái gọi là "trại cải tạo", nhưng thực chất là các nhà tù tệ hại. Biết bao người công chức già của các đảng phái, của chính quyền cũ đã chết ở trong tù như các ông Trần Văn Tuyên, Phan Huy Quát và nhiều viên chức khác. Buộc họ phải thú nhận vụ án "Xét lại chống đảng", mà trong vụ này có rất nhiều nạn nhân thuộc những gia đình có công với cách mạng, đã từng ở trong Trung ương đảng cộng sản, sẽ dễ tạo nên sức ép từ trong đảng cộng sản, từ ở trong nước buộc họ phải nhận sai lầm. Đến lúc đó họ phải nhận tiếp những sai lầm khác, trong đó tôi đặc biệt nhấn mạnh chủ trương đày đọa những người thất trận đã đầu hàng, bắt họ đi cải tạo trong những nhà tù khổ sai. Rồi tiếp đó đi đến buộc phải nhận chính họ đã gây ra thảm kịch "thuyền nhân". Chúng ta phải đi từ cái dễ buộc tội họ đến cái khó buộc tội họ hơn để họ không thể không nhận tội. Những người nào đòi bỏ qua những vụ án trên vì chúng xảy ra đã quá lâu, là việc nội bộ đảng cộng sản là không hiểu bản chất sự việc không biết tận dụng thời cơ để đấu tranh và không biết lợi dụng những cơ hội ấy để dồn đối thủ chính trị vào chân tường, buộc họ phải lùi bước. Khi họ đã phải lùi một bước trước dư luận và công luận trên thế giới, họ sẽ phải lùi những bước tiếp theo. Và trong đó có những việc thiết thân, liên quan đến hàng triệu người thuộc cả hai phía. Chúng ta không nên phân biệt đâu là chuyện cũ, đâu là chuyện mới, việc của phía này, việc của phía kia, mà cần nhận thức là tất cả sự bất công, nỗi bất hạnh của bất cứ ai, xảy ra bất cứ lúc nào đều là nỗi bất hạnh chung. Chúng ta phải có phương pháp đấu tranh khôn khéo, nhưng kiên quyết để buộc những người phạm sai lầm phải thừa nhận tội lỗi của họ và giải quyết từng trường hợp từ nhỏ đến lớn, cả cũ lẫn mới.

Theo ông, vấn đề hòa hợp và hòa giải dân tộc được đặt ra như thế nào? Vân đề này gây tranh cãi rất nhiều trong cộng đồng chúng ta, có người phản đối, có người tán thành, còn ông?

Hòa giải và hòa hợp dân tộc là chủ trương hết sức cần thiết. Không những thế, nó còn là một vấn đề được hình thành trong thực tế diễn ra từ lâu rồi. Theo tôi, chúng ta nên đặt vấn đề tại sao lại phải hòa giải và hoà hợp dân tộc? Bởi vì có những đố kị lẫn nhau, không thông hiểu nhau, định kiến với nhau, hiểu sai về nhau giữa những người bị ảnh hưởng của chế độ miền Bắc với những người bị ảnh hường của chế độ miền Nam, nên cần đặt ra vấn đề hòa giải và hòa hợp. Nhưng ai thực hiện và thực hiện hòa giải hòa hợp như thế nào? Đây là vấn đề có một thời kì tôi thấy bàn cãi rất sôi nổi trong cộng đồng.

Có người cho là không thể đặt vấn đề hòa giải hòa hợp với những người cộng sản, thậm chí với cả những người liên quan với chế độ cộng sản. Những người cộng sản phải ra đi, phải trao quyền, phải nhận tội, phải bị xét xử, chế độ cộng sản phải bị đập tan, hòa giải hòa hợp dân tộc không kiên định lập trường chống cộng (!)

Theo tôi, chúng ta cần đặt câu hỏi hòa giải hòa hợp như thế nào? Ai là người hòa hợp hòa giải và hòa giải hòa hợp với ai?

Đây là vấn đề rộng, tôi có thể phát biểu vắn tắt mấy quan điểm như sau. Thứ nhất, hòa giải hòa hợp là cần thiết. Bởi vì rõ ràng tồn tại những nhóm người sống ở hai chế độ khác nhau trong thời gian hàng chục năm, bị ảnh hưởng tuyên truyền giáo dục của mỗi chế độ. Do đó, giữa họ đã có mối hiềm khích, nhìn nhận sai lệch về nhau, hiểu lầm nhau. Bây giờ sau khi chiến tranh chấm dứt, họ cần hòa hợp, hòa giải với nhau. Đáng lý ra vấn đề hòa hợp hòa giải phải được đặt ra ngay sau ngày 30.4.1975, bây giờ đã muộn. Thứ hai, tất cả những người trước đây hiểu sai về nhau, từ đó dối địch với nhau, giờ nên giải quyết vấn đề tồn tại đó để đi đến chỗ hòa hợp hòa giải.

Về phía những người cầm quyền ở miền Bắc, cũng có quan điểm cho rằng không hòa hợp hòa giải với những kẻ "bán nước, "tay sai đế quốc". Những người chiến thắng luôn luôn là chính nghĩa. Những người bại trận là phi nghĩa, phải phục tùng. Chúng ta (chính quyền cộng sản) là chân lý, không thể có vấn đề nào khác? Trong hàng ngũ những người lãnh đạo cộng sản còn có những người cố chấp, kiêu ngạo, đố kị, tự cho đảng cộng sản là giỏi nhất vì đã chiến thắng, hơn hẳn những người thất trận. Đấy cũng là một cách nhìn cực đoan. Chính những người cầm quyền đã từ chối hòa hợp hòa giải hồi năm 1973-1974, điều đã được ghi trong Hiệp định Paris mà họ là một bên ký kết. Họ đã cố tình bỏ qua cam kết và đã cho mình toàn thắng, trịch thượng, tự phụ trong vấn đề này. Đáng lẽ phải hòa giải hòa hợp dân tộc thì họ lại thực hiện chính sách trả thù những người thua trận. Đây là một thái độ mù quáng, trái với truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.

Về phía những người chống cộng cực đoan hiện nay cũng vậy, thái độ của họ giống hệt như những người cộng sản cực đoan. Những người này tự nhận là quốc gia và coi những tổ chức của họ là duy nhất đúng đắn, là chính nghĩa. Họ coi thường những người trước từng là cộng sản hoặc hiện còn ở trong hàng ngũ cộng sản. Họ nhìn tất cả những người cộng sản bằng con mắt hận thù. Họ cho rằng những người quốc gia "giỏi giang hơn hắn những người cộng sản, coi những người cộng sản là bỏ đi, là tay sai cho nước ngoài. Họ lập luận rằng không cần hòa giải với cộng sản, vì cộng sản phạm nhiều tội lắm rồi. Bây giờ cộng sản phải trao quyền bính cho những người quốc gia và không còn lý do gì để tiếp tục cầm quyền vì đã phá nát đất nước, làm cho đất nước ngày một lạc hậu.

Đấy là hai biểu hiện cực đoan đối lập với nhau, tìm mọi cách triệt tiêu nhau. Tôi nghĩ, cần nhìn tỉnh táo, bình tĩnh và nhân ái về vấn đề này. Trong đại bộ phận nhân dân đã có sẵn quan điểm hòa hợp truyền thống giữa người ở miền Bắc và miền Nam khi họ đoàn tụ, họ đã có cơ hội thực hiện hòa giải dễ dàng và tự nhiên. Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, họ đã nói chuyện ngay thẳng với nhau, có khi tranh luận quyết liệt chế độ bên nào tốt hơn bên kia, bên nào là chính nghĩa v.v... Nhưng cuối cùng, họ lại hòa nhã với nhau, nhân nhượng nhau, không phải vì những chuyện đó mà mất tình họ hàng, anh em, tình bạn bè xưa. Chính trong nhân dân đã thực hiện dược phần nào hòa hợp một cách tự phát và tự nhiên ngay từ sau ngày 30.4.1975.

Họ nói rất ít, hoặc không nói gì về hòa giải, hòa hợp, nhưng họ làm rất nhiều. Do đó, những người bị tuyên truyền một chiều về xã hội thối nát ở miền Nam dần hiểu miền Nam đúng với thực tế hơn và ngược lại, những người bị truyền bá về chủ nghĩa chống cộng cực đoan, khi tiếp xúc với người miền Bắc cũng thông hiểu hơn và có thái độ đúng mực hơn. Bây giờ phải đi sâu hơn trong vấn đề hòa hợp hòa giải giữa bà con ở miền Bắc và miền Nam, giữa những người có hoàn cảnh khác nhau, giữa những người ở trong quân đội ở miền Bắc và ở miền Nam, trước kia từng đối chọi nhau, nay nên nhìn lại tìm hiểu nhau để giải quyết tận gốc sự thù hận, coi nó bắt nguồn từ điều kiện lịch sử. Tôi đã từng lựa chọn và kết bạn với nhiều anh em từng ở trong quân đội Việt nam Cộng hòa nay có cùng chưng chí hướng, có tinh thần dán chủ, yêu nước thương dân thật sự, không hẹp hòi đố kỵ.

Không thể chấp nhận thái độ chống cộng cực đoan, quá tả đến mức coi ông Đoàn Viết Hoạt là "đại tá tay sai của Việt Cộng", coi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện[27] là "con bài tay sai của cộng sản cử ra vận động ở nước ngoài", cho nữ văn sĩ Dương Thu Hương[28] là "con bài của cộng sản" và cả bản thân tôi cũng là "cò mồi", "do những người lãnh đạo trong nước cử ra để vận động"... Không nên vơ đũa cả nắm. Trên thế giới ngày nay có rất nhiều loại cộng sản khác nhau. Có đảng cộng sản nằm trong trào lưu phái tả, tiến bộ như đảng cộng sản Pháp hiện nay. (Đảng cộng sản Pháp hiện có 36 đại biểu trong Hạ viện, có 8 bộ trưởng trong chính phủ, đã công khai từ bỏ chủ nghĩa Sta-lin, học thuyết chuyên chính vô sản; ở ngoại Ô Paris còn có một số thị trưởng cộng sản, tại đó nhân dân được hưởng nhiều phúc lợi xã hội). Nhưng cũng có những đảng cộng sản rất cực đoan, vẫn sùng bái học thuyết Sta-lin, học thuyết đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Không nên coi tất cả những người cộng sản là kẻ thù không đội trời chung, phải phân biệt đó là người cộng sản nào, có quan điểm ra sao, có hành động gì để có thái độ tương xứng với họ.

Theo tôi, trừ trường hợp cá biệt, như tên trùm phát-xít Hít-le, tên độc tài tàn ác Staline, tên khát máu Pon Pốt, còn nhìn chung, không có người quốc gia hoặc cộng sản tuyệt đối tốt và ngược lại, cũng không có người cộng sản hay quốc gia tuyệt đối xấu. Ví dụ, thời chiến tranh những người lãnh đạo miền Bắc gọi tất cả những nhân vật lãnh đạo của chính quyền miền Nam là "thằng", là "phản động", là "bán nước" (như thế mới là có quan điểm lập trường vững), tạo ra mầm mống chia rẽ hận thù, là trở ngại cho chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc. Cũng cần nhận ra rằng, có người quốc gia khi cầm quyền họ cũng tham nhũng, quan liêu, cũng bất lực và kém tài năng đức độ. Đồng thời cũng có những người cộng sản có đức độ, tài năng và có tấm lòng đối với nhân dân. Vì thế, chúng ta không nên chống quốc gia một cách thiếu phê phán và chống cộng một cách cực đoan. Hòa giải và hòa hợp dân tộc chính là hóa giải những quan điểm cực đoan, nhìn mỗi con người là một thực thể sinh động, phân biệt mỗi con người là tốt hay xấu, tốt, xấu đến đâu, có thể kết bạn được không, nói chuyện được không, bắt tay hợp tác được không, chứ không nên có định kiến từ trước. Qua kinh nghiệm bản thân, để có nhận định về ai nên có quan điểm trực tiếp, nên có cơ hội gặp gỡ trực diện và đánh giá trực tiếp con người đó về nhận thức tư tường. Không nên chưa gặp người ta, chưa đọc sách, đọc báo của người ta đã vội kết luận kẻ này là cực xấu, hoặc người kia là cực tốt. Chỉ khi gặp gỡ, trao đổi với nhau, nhìn thấy nhau qua cuộc sống, mới có điều kiện để hiểu đúng thực tế những người mà mình muốn đánh giá. Cũng có người trước khi gặp, tôi tưởng con người này phải hết sức cực đoan, không thể kết bạn được. Nhưng đến khi gặp gỡ trao đổi thì lại không phải như vậy, đấy là một người biết điều, có thể trao đổi được, thậm chí dần dần hiểu ra thì lại có thể kết bạn được. Ta không nên định kiến, phải tìm gặp trực tiếp, trao đổi mới thấy được quan điểm, nhận thức của người ta có phù hợp với tình hình hoặc có thể có điều kiện để kết bạn như thế nào. Có người khi tôi đọc báo của họ thấy không thể chấp nhận được. Đến khi gặp thì lại thuyết phục được họ và họ đã có những thay đổi nhận thức đúng với thực tế hơn so với trước. Có những người không tìm gặp tôi đã đánh giá rất sai, chụp mũ cho tôi đủ mọi thứ. Nhưng đến khi họ gặp tôi, họ xin lỗi tôi vì đã có những nhận thức không đúng về tôi. Còn những người khó hòa hợp hòa giải, gây trở ngại cho hòa hợp hòa giải là những người có cách nhìn cứng nhắc, hoặc là quá kiêu ngạo, tự phụ, tự cho mình là trung tâm của thế giới, là kho hiểu biết chân lý nhất. Nhưng thực tế không phải như thế, những người ấy sợ tiếp xúc ngại tranh luận một cách bình đắng, ngay thật, cảm thấy đuối lý. Còn những người nào có quan điểm khoa học, hiểu biết rộng, khiêm tốn, tôn trọng lẽ phải và sự thật, tôi nghĩ những người ấy rất phù hợp với chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Hòa hợp và hòa giải dân tộc không có nghĩa là hòa giải hòa hợp với giới cầm quyền, vì giới cầm quyền hiện có chủ trương đường lối giáo điều mù quáng, cứng nhắc, chống lại dân chủ, ta không thể nào hòa hợp với những người lãnh đạo như thế. Hòa hợp hòa giải là tùy theo dối tượng, tùy theo điều kiện. Đây là hòa giải trong xã hội, giữa nhân dân với nhau, giữa cá nhân với nhau, giữa các nhóm tập thể với nhau, giữa những người từng ở miền Bắc và ở miền Nam... để đi đến một chủ trương chung là dân chủ hóa đất nước, để đất nước phát triển thực sự, phồn vinh, bình đẳng và hạnh phúc. Nhân dân bình thường có nhiều sáng kiến hòa hợp và hòa giải. Như ở tỉnh M
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 08:28 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.