Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 11-22-2012, 11:06 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - trọn bộ 87 hồi

Võ Lâm Ngũ Bá

Hồi 1


Huyện Trần Lưu
Thanh Hư Chân Nhân Thu Đồ Đệ


Về cuối đời nhà Tống, tại tỉnh Hồ Nam, huyện Trần Lưu có một viên ngoại họ Vương tên là Ỷ Khuyên, thê thiếp đến tám người, nhưng rất hiếm hoi, chỉ người thiếp thứ năm tên là Thảo Hồng sinh được một trai đặt tên là Vương Tiêu Thu, năm đó được tám tuổị Từ lúc mới sinh ra, Vương Tiêu Thu vẫn ốm o vàng vọt. Bao nhiêu thuốc hay thầy giỏi, Vương viên ngoại đều rước về chạy chữa cho Vương công tử, nhưng đâu vẫn hoàn đấỵ
Một bữa kia, Vương Tiêu Thu ra hoa viên vừa leo lên cái đu chưa kịp nhún nhẩy bỗng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. A hoàn theo hầu cả sợ kêu réo om sòm, Tiêu Thu không cựa quậy chỉ nằm thở thoi thóp, a hoàn vội bồng công tử chạy vào nhà báo tin cho Vương viên ngoạị Tin đến như sét đánh, Vương viên ngoại thất kinh một mặt cho người đi mời thầy thuốc, một mặt tìm cách cứu tỉnh. Thảo Hồng ôm công tử lăn khóc thảm thiết. Trong nhà nhốn nháo cả lên. Một lát gia nhân mời thầy thuốc đến xem bệnh tiếp Tiêu Thụ Thầy lắc đầu, cho biết công tử đã quy tiên. Thế là tiếng khóc nổi lên ầm ỹ, vì hiếm hỏi chỉ được một mình công tử, Vương viên ngoại yêu quý mười phần.
Trước tình cảnh đó, viên ngoại cũng bứt râu bứt tóc than thở chẳng cùng cho là mình vô phúc. Viên ngoại sai người đi mua quan quách để mai táng cho Vương công tử và đi mời thầy chùa tới làm chay cầu cúng luôn ba ngày, tới ngày thứ ba sửa soạn chôn cất thì có một vị đạo nhân mặc áo màu xanh xin vào ra mắt viên ngoạị Trong lúc đang buồn rầu, viên ngoại đã toan từ chối không tiếp vì thấy vị đạo nhân kia xăm xăm đi vào, cực chẳng đã viên ngoại vội ra vái chào, rồi cất tiếng hỏi :
- Được biết đạo trưởng giáng lâm nhưng vì trong nhà đang lúc bối rối, nên không kịp nghênh tiếp, chẳng hay đạo trưởng có điều chi dạy bảỏ
Đạo nhân chắp tay đáp lễ và nói :
- Mô Phật, bần tăng nhân vân du tới đây, nghe thấy quý trang có chuyện chẳng lành, nên muốn coi qua lệnh lang may ra có thể cứu được chăng?
Vừa lúc đó, gia nhân đang khiêng quan tài đi chôn, đạo nhân khoát tay bảo mang vàọ Viên ngoại líu ríu theo saụ Đạo nhân sai lật nắp quan tài ra xem. Vừa thấy mặt Vương công tử.
Đạo nhân thốt lên hai tiếng :
- Lạ thật, lạ thật.
Vương viên ngoại và Thảo Hồng đều xúm lại coị Lạ thay! Khác hẳn với lúc Vương công tử còn sống, lúc nào mặt cũng tái mét như không có một giọt máu nào, lúc này da mặt công tử hồng hào hai mắt nhắm nghiền như người say ngủ. Thảo Hồng thấy thế lăn vào ôm lấy con mà than khóc.
Đạo nhân vuốt râu nói :
- Còn cứu được! Còn cứu được!
Viện ngoại nghe nói thế vội chắp tay vái Đạo nhân, xin ra tay cứu mạng Công tử. Đạo nhân bế Công tử ra khỏi quan tài và nói với mọi người không được ồn ào huyên náọ Đặt Vương công tử nằm ngửa trên giường, dùng bàn tay xoa trên ngực, lại sai người đun một bát dấm đen mang tớị
Đạo nhân lấy trong mình ra một cái lọ con, dốc ra tay ba viên thuốc nhỏ, trên viên thuốc nhỏ có ba chữ vàng “Thiếu Dương đơn” thật tinh xảo, hòa tan trong bát dấm, đoạn mang ra xoa bóp khắp ngườị Tất cả mọi người đều hồi hộp theo dõị Một lát sau, Vương công tử bỗng thở dài một cái, mở mắt bừng ra như người ngủ mê mới dậy, ngơ ngác nhìn mọi người rồi nói :
- Ô hay! Sao tôi lại ở đâỷ
Mọi người đều vui mừng reo to lên. Viên ngoại chạy tới bế Công tử lên tai, nghẹn ngào nói không ra tiếng. Thảo Hồng cũng ôm lấy Công tử, nước mắt hãy còn chảy trên má, lại vừa cười vừa nói Vương nhi ra đây với mẹ. Đạo nhân giơ tay ra hiệu cho mọi người hãy im lặng rồi hỏi Công tử :
- Chẳng hay trước lúc ra hoa viên, Công tử có ăn phải vật chi lạ không? Hãy nói thật cho ta nghe!
Vương công tử chớp chớp đôi mắt ngập ngừng nói :
- Có! Lúc tiểu điệt ra hoa viên thấy ở dưới cái thông nước có một cây nấm trắng toát, cháu nhổ chơi thấy ở trong thân cây chảy ra một chất nhựa trắng như sữa mùi thơm ngào ngạt. Tiểu điệt nếm thử một chút thấy ngon ngọt vô cùng nên cầm cả thân cây cho vào miệng mút mạnh một cái, chẳng dè cả thân cây nấm chui tuột vào cổ họng. Khi tiểu điệt ra tới cái đu mới leo lên thì mắt hoa mày choáng, nhà cửa quay tít, tiểu điệt ngã lăn xuống đất không còn biết gì nữạ
Đạo nhân nói :
- Lạ thật! Sao tại đây lại có loại nấm nầỷ Đó là một thứ tinh hoa của nhân sâm tận ngoài Quan ngoại trong Trường Bạch sơn mà cũng rất hiếm. Nó tên gọi là Trùng Sâm, nó chỉ ra có 12 khắc, nếu không có duyên bao giờ được hưởng. Thứ sâm này có thể chữa được các bệnh lại thành trường sinh bất lão, giữ được nguyên khí và có thế luyện đến tột đỉnh công phu môn “Nhất Chỉ Dương Công tuyệt kỹ”.
- Công tử dẫn ta ra xem coi tại sao nơi đây lại có quý vật nàỵ
Tiêu Thu buông tay mẹ chạy trước ra hoa viên, Viên ngoại và Đạo nhân vội vàng đi theọ
- Thưa Đạo trưởng! Con đã nhổ cây nấm chỗ nàỵ Tiêu Thu nói và chỉ xuống dưới thống nước ở góc hoa viên.
Viên ngoại kinh ngạc thốt lên :
- Chỗ này tôi vẫn đổ bã sâm mấy chục năm rồi!
Đạo nhân ngồi thụp xuống bóc một nắm đất dưới thống nước và lẩm bẩm :
- Lạ thật! Lạ thật! Không ngờ những bã sâm đổ ra đây đã lâu ngày biến thành một chất đặc biệt và nảy sinh ra thứ Sâm quí không khác gì Sâm tại Trường Bạch sơn.
- Nguyên lai sâm này là loại Vi Khuẩn Sâm do những loại vi trùng cực kỳ vi tế tạo rạ Âu cũng là phước đức của Trang chủ nên mới xui cho cháu bé tình cờ gặp được.
Vương viên ngoại mừng rỡ ôm con vào lòng và mời Đạo nhân cùng trở vô nhà vừa đi vừa kể :
- Thưa Đạo trưởng! Thật ra nhờ trời mà nhà chúng tôi đã mấy đời vì biết giá trị của Sâm là quí nên không ngại hàng năm hễ có dịp là cho người đi Quan ngoại mua những thứ Nhân Sâm Cát Lâm thật tốt để dùng.
Vào tới trong nhà, Vương viên ngoại nói tiếp :
- Kính thưa Đạo trưởng! Chẳng hay pháp danh Đạo trưởng là gì xin cho chúng tôi được biết?
Đạo nhân vuốt râu cười đáp :
- Tên thật của bần đạo là gì lâu ngày bần đạo cũng đã quên đi mất, có nhiều người thấy bần đạo nhàn du đây đó nên đặt cho đạo hiệu là Nhàn Tản Đạo nhân, nhưng có người thấy bần đạo hay mặc áo xanh nên gọi là Thanh Hư Tản Nhân cũng được. Nay bần đạo có một việc muốn yêu cầu với Viên ngoại!
Vương viên ngoại vội nói :
- Đạo trưởng cần việc chi cứ dạy bảo! Ơn Đạo trưởng cứu tử cho tiểu nhi thật lớn bằng trời bể.
Thanh Hư đạo nhân mỉm cười nói :
- Bần đạo là kẻ xuất gia đầu Phật, không cần tới kim ngân châu báụ
Vương viên ngoại lại nói :
- Hay Đạo trưởng cần tu bổ lại ngôi chùa nào chăng?
Thanh Hư đạo nhân cũng lắc đầu cả cười :
- Bần đạo là kẻ phiêu du nay đây mai đó, không ở đâu nhất định nên không xây dựng đền chùa làm gì. Duy lệnh lang cùng bần đạo chắc có duyên từ trước nên khiến bần đạo đến đây, gặp đúng lúc lệnh lang mắc nạn. Bần đạo chỉ yêu cầu viên ngoại cho bần đạo thu lệnh lang làm đồ đệ. Sau này sẽ xuất gia theo đạọ
Viên ngoại nghe xong thì bối rối vô cùng, tự nghĩ mình hiếm hoi chỉ có Tiêu Thu là trai để nối dõi tông đường, nếu theo Đạo trưởng đi tu thì lấy ai là người phụng thừa nhan khói nên băn khoăn không biết phải trả lời làm saọ Thanh Hư chân nhân hình như biết ý lại vuốt râu mỉm cười nói :
- Viên ngoại không cần lo ngại, bần đạo sẽ ở lại đây dạy dỗ lệnh lang tới tuổi trưởng thành. Mà có phải xuất gia là tới lúc trung niên kia, mà hiện nay Viên ngoại hãy còn cường tráng. Từ nay tới lúc đó lo chi không có người thừa kế.
Viên ngoại nghe xong xiết đổi vui mừng không còn thắc mắc gì nữa, bèn chấp tay lạy đạo trưởng có lòng thương như thế thì phúc lớn cho họ Vương nhiều lắm. Nói xong, gọi Tiêu Thu ra bái sư phụ, lại sai gia nhân đem quan tài ra vườn sau thiêu hóa, một mặt sai người quét tướt dọn dẹp căn phòng ở ngoài hoa viên để Thanh Hư chân nhân tĩnh dưỡng.
Chọn ngày cát nhật, Vương Tiêu Thu quần áo chỉnh tề theo Vương viên ngoại đến ra mắt Thanh Hư chân nhân để làm lễ nhập đạọ Trong trai trang phòng đã thấy đèn nến sáng choang khói hương nghi ngút, trên bàn thờ có treo một bức chân dung vẻ một đạo nhân tóc bạc phơ, hàng râu năm chòm dài xuống gần tới rốn, mày thưa mắt sáng, thiên đình cao rộng, phảng phất như một vị thần tiên có đề mấy chữ “Toàn Chân tổ sư Hư chân nhân”.
Thanh Hư chân nhân ra đón Vương viên ngoại và dẫn Vương công tử vào làm lễ nhập môn. Sau vài câu đàm đạo, Vương viên ngoại cáo biệt Chân nhân để Vương công tử ở lại trai phòng bước ra ngoàị Chân nhân gọi Tiêu Thu tới tĩnh tọa trước trai đàn rồi nói :
- Đồ đệ! Từ nay trở đi con là môn đồ của giáo phái Toàn Chân, dần dần thầy sẽ cho con biết nguồn gốc của giáo tông, để thầy đặt cho con pháp danh. Con vì chết sống lại ta đặt cho con là Trùng Dương. Ngoài ra, con còn có duyên ăn được trùng sâm nên đỡ được hàng hai ba chục năm tu luyện nên thầy cũng mừng cho con. Con may mắn ăn được trùng sâm đủ sức để luyện môn Nhất Dương chỉ công. Bây giờ ta chỉ hóa cho con cách vận khí Đan điền, thu hút âm dương nhị khí để biến thành Thiên Nhân hợp nhất.
Vương Trùng Dương chỉ biết vâng vâng dạ dạ tuân theọ
Thanh Hư chân nhân bắt Vương Trùng Dương ngồi tham thiền nhập định.
Ngồi được một lát, Trùng Dương nghe tiếng chim kêu hót ở ngoài hoa viên thì tự nghĩ :
- Chà! Giờ này mà ở ngoài đó, ta sẽ bắt mấy tên gia nhân leo lên lấy tổ chim và nhốt mấy con chim này vào lòng thì hay biết baọ
Vừa nghĩ tới đó bỗng thấy Thanh Hư chân nhân quày tay sang dùng ngón tay điểm vào huyệt sau gáỵ Vương Trùng Dương thấy người tê buốt như điện giật toàn thân, bủn rủn thì kêu lên một tiếng :
- Chao ôi!
Thanh Hư chân nhân nghiêm nghị nhìn Trùng Dương rồi nói :
- Con đã là người tu đạo sao lại còn nghĩ đến điều quấy, chim muông cầm thú cũng là do trời đất sinh ra, không được giam cầm hay sát hạị
Trùng Dương giật mình kinh ngạc, không dè mình mới chỉ nghĩ như vậy mà sư phụ đã biết rồi, vội vàng chắp tay nói :
- Xin sư phụ tha tội, đệ tử không dám nghĩ quấy nữạ
Thanh Hư chân nhân gật đầu đưa tay giải huyệt. Trùng Dương lại ngồi nghiêm chỉnh nhập định. Được gần một khắc, Trùng Dương ngửi thấy được mùi thơm ngào ngạt của thứ hoa Trương Quế bay tới thì trong lòng vui thích tự nghĩ :
- Chắc là hoa mới nở, nay ta ra hoa viên hái ít bông đem về cắm vào bình thì còn gì thích hơn.
Vừa nghĩ tới đó bỗng thấy người tê buốt như kim châm, Trùng Dương hoảng sợ mở mắt ra nhìn. Chân nhân lại nghiêm khắc nhìn Trùng Dương nói :
- Đồ đệ ngươi lại muốn đi hái hoa cắm vào bình phải không?
Trùng Dương càng kinh sợ trả lời :
- Tại sao sư phụ lại biết được?
Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Từ nay những ý nghĩ thầm kín của ngươi ta có thể biết được. Những bông hoa đều là hưởng thụ khí thiêng của trời đất, tuy có nở rồi cũng có tàn, nhưng nếu ngươi hái đi thì hoa kia càng sớm tàn úa, trái với lẽ thiên nhiên của tạo hóa, mắc vào vòng nghiệp chướng sao thoát khỏi sa vào địa ngục. Kẻ tu hành không nên nghĩ điều quấy, con nên tĩnh tâm bỏ hết tà niệm thì mới có thể thành chánh quả.
Tuổi còn thơ ấu, Trùng Dương đâu có hiểu hết những lời lẽ cao siêu đó, nhưng những lúc vừa nghĩ tới điều quấy đều bị Thanh Hư chân nhân điểm vào yếu huyệt đau đớn quá chừng thì sợ hãi, cố gắng không dám nghĩ đến điều gì nữạ
Tâm hồn phiêu phiêu, mơ mơ màng màng, phút chốc hoàng hôn đã ngã bóng.
Trùng Dương thấy trong người mệt mõi, toan mở miệng nói thì Thanh Hư chân nhân như đã biết rồi, quay sang vỗ nhẹ vào vai Trùng Dương. Trùng Dương thiếp đi không biết gì nữạ
Sáng sớm hôm sau, Trùng Dương vừa giật mình thức tĩnh, nhìn sang bên cạnh, thấy Chân nhân hai mắt nhắm nghiền ngồi tĩnh tọa, nửa mặt dường như có đám mây đen bao bọc lại có tiếng vo vo như bầy ong vỡ tổ. Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, định thần nhìn kỹ thì ra đó là một đám muỗi đen kịt bay chung quanh Thanh Hư đạo nhân, lại thấy ở mũi đạo nhân thở ra hai luồng khí trắng bay lượn chung quanh. Đàn muỗi hình như bị hai làn khói trắng bao bọc không bay được ra ngoàị
Trùng Dương thảng thốt kêu to :
- Sư phụ! Sư phụ! Sao lạ quá vậỷ
Thanh Hư đạo nhân bỗng thở dài, hai luồng khí trắng tắt ngấm. Tất cả đám muỗi đều sa xuống chân cạnh đạo nhân dày đến hai tấc. Thanh Hư đạo nhân mở choàng mắt ra chẳng nói chẳng rằng, đứng lên lấy một đãy vải dùng phất trần quét hết đống muỗi vào trong đãy rồi mới quay lại nói với Trùng Dương :
- Đây là một tuyệt kỹ công phu của Toàn Chân pháị Không chỉ để sát hại giống muỗi này mà còn có thể hạ sát địch thủ được.
Trùng Dương lè lưỡi nói :
- Như vậy thì đệ tử có lẽ phải học tới trăm năm mới có thể thi thố được.
Thanh Hư đạo nhân nói :
- Trên đời người ít ai sống được trăm tuổi thì đâu phải học tới trăm năm. Muốn có bản lĩnh như ta đâu có phải khó, ngươi cứ bình tâm tập luyện theo lời ta chỉ bảo thì sau này sẽ rõ.
Trùng Dương nghe theo lời thầy dạy an định tâm thần, tĩnh tâm luyện tập.
Thấm thoát đã được nửa năm, công phu vận khí Đan điền của Trùng Dương tiến bộ trông thấỵ Thanh Hư đạo nhân mừng rỡ vô cùng, vì với một người căn bản tầm thường luyện tới mười năm chưa chắc đã theo kịp. Được một năm, Trùng Dương đang vận khí Đan điền, bỗng thấy như chân hỏa bốc lên khỏi cung nê hoàn chạy vòng ra sau lưng, chạy tới đâu biết đến đó thì cả kinh vội thưa lại cho sư phụ rõ.
Thanh Hư chân nhân kinh ngạc mừng rỡ vô cùng, không dè nhờ ăn được trùng sâm nên Vương Trùng Dương luyện tập quá ư tấn tới vượt bực, thật là thế gian hi hữụ Lại càng hết sức điểm hóa cho Trùng Dương.
Quang âm thấm thoát như vó ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã mười năm. Vương Trùng Dương nay đã thành một thanh niên cường tráng, tướng mạo đẹp đẽ khác hẳn thời thơ ấụ Một ngày kia, đạo nhân nói với Trùng Dương :
- Đến nay về nội lực của con đã khá cao siêu, nhưng về võ công của Toàn Chân giáo từ hai đời trước tổ sư ta có ghi chép lại để trên núi Trùng Sơn thuộc tỉnh Triết Giang huyện Phong Viên. Để ta đi chép lại mang về đây cho con tập luyện.
Cũng đã mười năm rồi, ta cũng muốn đi vân du một chuyến nhân thể thăm bạn bè.
Ba năm nữa ta sẽ trở lại, con cứ theo phương pháp của ta mà tập luyện không được xao lảng.
Vương Trùng Dương lưu luyến chẳng muốn rời nên muốn xin theo sư phụ để vân du các nơị Thanh Hư đạo nhân gạt đi và nói :
- Công phu của con hãy chưa đến nơi tuyệt kỹ, con không thể bỏ lỡ một chút thì giờ. Con cứ yên tâm tập luyện, khi nào đến đúng thời giờ thì ta sẽ cho con đị
Vương viên ngoại nghe tin đạo nhân muốn rời trang trại đi vân du nơi khác, biết giữ không được nên thu xếp hành trang cùng lương khô đem dâng cho Thanh Hư đạo nhân. Lúc chia tay, Vương Trùng Dương xiết bao quyến luyến, ngập ngừng chẳng muốn rời tay, Thanh Hư đạo nhân mỉm cười khoát tay từ biệt hẹn ngày tái ngộ. Lúc đó Vương viên ngoại lại sinh thêm được hai trai tên là Vương Tiêu Minh và Vương Tiêu Lương, lại lấy thêm một người thiếp thứ chín họ Từ tên là Vân Thôi, dung nhan đẹp đẽ, viên ngoại yêu quí hết lòng đã được hai năm.
Một ngày kia có một người thanh niên tới nới tự xưng là họ Từ tên Anh, bào đệ của Từ Vân Thôi từ quê nhà tới thăm ra mắt viên ngoạị
Vương viên ngoại thấy Từ Anh là người nói năng lanh lẹ, lại biết chữ nghĩa, nhân dịp trong trại thiếu một người trông nom sổ sách, mà Từ Anh lại chưa lập gia đình nên lưu giữ Từ Anh để trông nom nhà cửạ
Từ Anh vui vẻ nhận lờị Mới làm được một tháng trời, khắp huyện Trần Lưu ai ai cũng biết và quen gọi là Từ nhị giạ
Vương Trùng Dương thấy Từ Anh có vẻ giảo quyệt nên không lấy làm ưa lắm, nhưng vì không để ý đến việc đời nên cũng chẳng nói ra làm chi, hàng ngày ở trong trai phòng tĩnh tâm tu luyện.
Từ Anh tới Vương gia trại được sáu tháng thì Từ Vân Thôi báo tin cho Vương viên ngoại biết là nàng mang thaị
Viên ngoại xiết bao vui mừng bèn cho gia nhân soạn một căn nhà ở ngoài hoa viên để cho Từ Vân Thôi tới an dưỡng, tránh sự huyên náo ồn àọ
Căn phòng của Từ Vân Thôi chỉ cách trai phòng của Vương Trùng Dương chừng một lần tên bắn, ngăn cách bởi một bức tường cao và một vườn hoa nhỏ.
Một buổi tối kia Vương Trùng Dương đang tham thiền nhập định, bỗng nghe những tiếng thì thào như ở bên taị Vương Trùng Dương lắng tai nghe, từ ngày tập luyện môn tĩnh tọa của Toàn Chân giáo, tai mắt của Vương Trùng Dương thật là tinh tường, nếu chú ý thì có thể nghe được tiếng muỗi bay ở cách xa mười trượng, nên tiếng nói thì thào ở bên kia hoa viên đã lọt vào tai của Vương Trùng Dương.
Vương Trùng Dương không dằn được tính tò mò vùng đứng lên đi ra ngoài hoa viên, đi đến bên bức tường ngăn cách căn phòng của Từ Vân Thôi thì Vương Trùng Dương nghe rõ thấy tiếng đàn ông nói nhỏ :
- Thôi muội thử nghĩ xem mưu kế của ta có hay không, nhiều lắm là ba tháng nữa lão quỷ họ Vương sẽ không còn ở trên thế gian nàỵ
Vương Trùng Dương giật mình kinh ngạc vì rõ đó là tiếng của Từ Anh. Muốn biết rõ sự thật Trùng Dương quyết qua phòng của Từ Vân Thôi xem cho tường hư thực.
Ngăn cách hoa viên bởi bức tường cao hơn năm thước, Vương Trùng Dương giơ tay nhảy lên bám vào tường để leo sang bên kiạ Không dè vừa nhún mình nhảy lên, thân hình của Trùng Dương bỗng bay lên như một con chim hết sức nhẹ nhàng.
Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, bèn buông mình rơi xuống đất, tuyệt nhiên không nghe một tiếng động. Lúc đó Trùng Dương mới biết khinh công mình đã thập phần tinh diệụ
Trùng Dương rón rét đi đến bên phòng của Từ Vân Thôi nhìn qua khe cửa sổ, thốt nhiên Vương Trùng Dương đỏ mặt.
Ở trong phòng, trên chiếc giường nệm ấm, tấm màn che nửa buông, nửa vắt.
Từ Vân Thôi đầu tóc bù rối, áo chẳng cài khuy để nửa thân mình lồ lộ, dưới ánh bạch lạp, nửa tỏ nửa mờ, nước da trắng muốt như trứng gà bóc, đôi nhủ hoa no tròn căng đầy nhựa sống theo hơi thở phập phồng nhô lên nhô xuống như hai hòn bồng đảo, với khuôn mặt trái xoan, đôi mày lá liễu, dung mạo của Từ Vân Thôi đẹp như một bức tranh tố nữ. Còn người đàn ông kia chẳng ai xa lạ chính là Từ Anh đang ôm ấp nâng niụ Lại nghe Từ Anh nói :
- Nếu ta không hạ độc thủ giết chết lão quỷ già đó đi, chỉ đi lại lén lút với nhau như thế này thế nào cũng có ngày bị bại lộ. Gần nửa năm nay đã giữ sổ sách cũng đã bớt được một số tiền gần ba ngàn lạng, ta thừa dịp này mang nhau đi nơi khác kết làm vợ chồng còn hơn là Thôi muội cứ phải ôm ấp cái lão già khụ đó saọ
Từ Vân Thôi véo mạnh vào người Từ Anh rồi nói :
- Thôi thôi thiếp chẳng muốn nghe gì cả, chàng không thấy lão già đó chiều chuộng thiếp hết sức hay saọ Những nữ trang lão ta sắm cho thiếp còn hơn số bạc của chàng rất nhiềụ Để thủng thẳng rồi sao hãy tính!
Từ Anh lại nói khẽ :
- Này! Ta nói thật cho muội biết: ta có một số anh em kết nghĩa tụ hợp ở Lão Qua Sơn trạị Đàm trại chủ ngoại hiệu là Ngọc Diện Na Tra chuyên giết người cướp của, ta đã hẹn với chúng vào nửa đêm ngày rằm tới đây ta sẽ làm nội ứng cho chúng đến đây cướp phá trang trại, thế nào cũng chia được vài chục vạn lạng vàng. Lúc đó chúng ta sẽ cao chạy xa bay xây dựng hạnh phúc lâu dài chẳng thú hơn saọ
Từ Vân Thôi nghe qua cả kinh, nét mặt biến sắc nói :
- Chàng lại có thể nhẫn tâm đến thế hay saỏ
Từ Anh lại nói :
- Thôi thôi việc đâu còn có đó để ta lo liệu, xuân tiêu một khắc ngàn vàng.
Lúc này ta cứ hưởng thụ đã.
Vừa nói Từ Anh vừa kéo chiếc màn xuống, thổi tắt ngọn bạch lạp, chỉ có tiếng cười rúc rít của hai tên giang phu dâm phụ.
Vương Trùng Dương thấy tình hình như vậy vừa xấu hổ vừa tức giận ra khỏi hoa viên nhảy qua tường vào phòng ngồi suy nghĩ. Không biết là mình phải báo quan biết hay là thuật lại cho viên ngoại nghe, lòng phân vân không quyết, càng nghĩ càng giận giơ tay đập xuống bàn một cái, bỗng nghe đánh bốp một tiếng, cái bàn làm bằng gỗ Đào hoa đã in hẳn năm vết ngón tay của Vương Trùng Dương sâu xuống như một đóa hoa maị
Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc, không ngờ nội công của mình cao siêu đến thế. Mười năm trời tập luyện, chẳng bao giờ chàng nghe sư phụ nói đến và cũng chẳng cho Vương Trùng Dương thử sức nên chàng cũng chẳng hiểu ra sao như người mơ ngủ. Muốn biết rõ hơn, Vương Trùng Dương bèn ra hoa viên để thử sức.
Thấy ngọn giả sơn cao bằng đầu người đặt ở giữa hoa viên, Vương Trùng Dương vận động nội công đá nhẹ một cái, chỉ nghe “bùng” một tiếng, hòn giả sơn tan ra làm nhiều mảnh, bụi bay mù mịt.
Trùng Dương mắt thấy những sự lạ ngoài sức tưởng tượng, còn đang ngẩn người ra mà suy nghĩ, lại nghe thấy tiếng nói của đôi gian phu dâm phụ khiến cho Trùng Dương đột nhiên nổi giận, tự nghĩ sau cuộc mây mưa tên Từ Anh thế nào cũng trở về an nghĩ, chi bằng ta ở đây thưởng cho nó một quyền để diệt trừ quân tàn ác bất lương đó đị
Mới nghĩ đến đây Vương Trùng Dương đã thấy trong lòng hồi hộp lo sợ, vì bẩm chất chỉ là một kẻ thư sinh. Ngay từ hồi nhỏ đã được sư phụ dạy bảo không hề nghĩ đến sự giới sát, chỉ mới nghỉ như thế mà trong lòng đã ăn năn hối hận.
Nhưng Vương Trùng Dương lại tự nghĩ: “Nếu ta không giết quân súc sanh đó thì nó cũng nghĩ kế để hãm hại phụ thân ta, những tên lòng lang dạ sói đó không thể kể là người được”.
Nghĩ như thế Trùng Dương tăng thêm mười phần hăng hái bèn quyết định ra tay, nhún mình nhảy qua tường sang bên hoa viên đứng đợị
Quả nhiên một lúc sau, một bóng đen từ trong phòng Từ Vân Thôi đi rạ
Trùng Dương định thần nhìn kỹ thì đúng là Từ Anh đang bước vội vã ra cửa hoa viên, không chậm trễ, Trùng Dương vội phóng mình đuổi theọ Qúa sức ngạc nhiên, Trùng Dương thấy thân thể nhẹ nhàng hình như chân không chấm đất.
Chỉ chớp mắt một cái đã tới sau lưng Từ Anh không một tiếng động. Trùng Dương giơ tay định đánh vào đầu Từ Anh, tay vừa đánh xuống chưa tới người Từ Anh thì đã thấy họ Từ ngã sấp xuống nằm im không động đậỵ
Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc không hiểu vì sao, cúi xuống nhìn, dưới ánh trăng mờ, Từ Anh thất khiếu đều chảy máu đã trở thành cái xác không hồn. Vương Trùng Dương lấy làm kỳ quái tự nghĩ có lẽ đây là thần nhân trợ giúp giết kẻ bất lương.
Vương Trùng Dương không chút chậm trễ quay trở về trai phòng ngồi tĩnh tọa, nhưng tâm thần không được ổn định, phảng phất mơ màng đến những chuyện vừa qua càng thêm quái lạ.
Sáng hôm sau, người quét hoa viên tới gần chỗ giả sơn bỗng thấy thi thể của Từ Anh thì hoảng sợ kêu la ầm ĩ, mọi người đổ xô cả lại chẳng hiểu tại saọ
Vương viên ngoại nghe tin như sét đánh ngang tai vội vã tới xem và cho người đi báo quan cho người đến khám nghiệm. Trong nhà cửa ngõ vẫn đóng kín, không hề mất mát vật gì, toàn thân của Từ Anh lại không có một vết thương tích thì mọi người đều cho là Từ Anh nửa đêm ra hoa viên bị trúng gió độc mà chết.
Sau khi khám nghiệm, lệnh quan cho lệnh chôn cất. Thường ngày Từ Anh khéo léo che đậy, kính trên nhường dưới khiến cho ai ai cũng thương tiếc một người hiền lành mà trời đoản mệnh.
Vương viên ngoại cho gia nhân mua quan quách mai táng rất trọng thể. Như thế mọi người ai ai cũng đinh ninh là Từ Anh bị gió độc mà chết, chỉ có Trùng Dương là biết rõ chuyện ám muội nhưng cũng không dè là Toàn Chân công phu lợi hại, giết người không vết tích và chỉ có Từ Vân Thôi là đau đớn âm thầm và nghi ngờ cái chết của Từ Anh là do một tay bí mật nào ám hạị
Qua ngày sau đúng vào đêm rằm, đã quá nửa đêm, Vương Trùng Dương đang ngồi tĩnh tọa tại trai phòng, bỗng nghe một tiếng kêu thảm thiết từ đàng sau hoa viên đưa lạị Rõ ràng là tiếng của người canh gác trang trại họ Vương đã giúp việc cho Vương viên ngoại hơn hai mươi năm rồị
Vương Trùng Dương cả kinh, khoác vội chiếc áo lên người ra khỏi trai phòng, bỗng lại nghe thấy tiếng kêu :
- Cướp! Cướp!
Tiếp theo tiếng cười ha hả, một đám người hơn hai mươi người bịt mặt, tay cầm gươm đao sáng ngời xuất hiện trên mặt tường nhảy xuống như một đàn chim, chạy thẳng tới phòng của Vương viên ngoại nghỉ.
Bọn chúng có vẻ đã thành thạo đường đi nước bước ở trong trại nên khi tới nơi, chúng chia ra: bốn tên trấn giữ cửa trước, bốn tên giữ cửa sau, còn lại sáu bảy tên chạy tới phòng ngủ của lũ gia nhân quát lớn :
- Chúng bây không được náo động, nếu tên nào kêu la một tiếng ta sẽ cho một đao đứt làm hai đoạn. Lão gia đến đây chỉ cướp tiền bạc.
Những tên gia nhân khiếp sợ không ai dám cục cựạ Bỗng ở cửa trước một cái rầm, cửa đã mở toang, liên tiếp chín tên chạy ùa vàọ Người đi đầu cao lớn mặt mũi trắng trẻo tức là Lão Qua sơn trại chủ Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân, trên tay cầm một đôi phủ sáng quắc. Theo sau là hai tên phó trại chủ, một tên mặt đen, vừa mập vừa lùn tay cầm đôi búa lớn tên là Soái Lý Đạt Âu Hải, còn người thứ hai là Thiết Diện Kim Cương Trịnh Hùng cũng sử dụng cây thiết côn, mặt đỏ như quả táo chín đi theo sau, còn lại tất cả đều bịt mặt.
Giang hồ hắc đạo đã có qui luật, những người trại chủ đều vào cửa trước không đột nhập cửa sau và không bao giờ bịt mặt. Ba người đi thẳng vào trang trại, Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân lớn tiếng quát to :
- Vương Ỷ Khuyên ở đâu mau mau ra đây cho ta gặp mặt.
Vương Trùng Dương vừa ở trai phòng bước ra, thấy xa xa gươm đao sáng quắc bèn rảo bước tới nơị Mới đi được bỗng một tên cướp nhảy ra vung đao lên chận lại quát to :
- Tiểu tử! Định đi đâủ Hãy quay lại kẻo mất mạng.
Vừa nói chưa dứt lời bỗng thấy Vương Trùng Dương hiện ra trước mặt không một tiếng động. Vương Trùng Dương chỉ tay vào mặt Ngọc Diện Na Tra nói :
- Bọn cường khấu biết điều hãy ra khỏi nơi đây!
Vương Trùng Dương chẳng nói chẳng rằng, giơ tay định đánh ra một quyền, tay quyền chưa tới nơi, tên cướp đã buông đao té ngửa chết không kịp lạ Vương Trùng Dương nhắm thẳng bọn cướp chạy tớị Đứng ở xa, Ngọc Diện Na Tra thấy một bóng đen thoăn thoắt chạy lại thì quát lũ bộ hạ :
- Tên nào canh gác ở dưới đó sao lại cho người chạy rả
Ngọc Diện Na Tra thấy Trùng Dương là một thiếu niên thư sinh, tay không chạy tới nói như vậy vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, vung đôi phủ lên quay lại hỏi những tên bộ hạ :
- Tên thư sinh này đối với gia đình họ Vương như thế nàỏ
Một tên lâu la thưa :
- Tiểu tử này chính là con của Vương viên ngoại đó.
Ngọc Diện Na Tra cả mừng nói :
- Nếu thế thì càng hay! Bọn bây bắt trói lại cho tạ
Nguyên bọn cướp ở Lão Qua sơn trại cũng biết huyện Trần Lưu là một huyện lớn quân sĩ rất đông, nếu công khai đến cướp thì sẽ gặp sự cản trở của quân binh, được Từ Anh ước nguyện làm nội ứng nên bọn cướp âm thầm xâm nhập vào trong huyện.
Khi tới nơi nghe tin Từ Anh trúng gió chết rồi, đã xuất quân không lẽ quay về, cực chẳng đã bọn cướp phải công khai cướp trang trại, ý chỉ muốn cướp ít tài vật rồi sẽ rút luị
Nay thấy Vương Trùng Dương là con viên ngoại là một gã thư sinh thiếu niên, định bắt lấy đem về sơn trại cho chuộc lấy mười vạn lạng bạc cũng đủ lắm, nên hô quân bất tróị
Hai tên thủ hạ nghe lệnh hăm hở vác dao chạy rạ Vương Trùng Dương giơ tay ra ngăn lại, chỉ nghe hai tiếng “binh, binh”, hai tên lâu la không kịp kêu lên một tiếng, hai thân hình như hai trái cầu tung bắn ra xa mấy thước, hộc máu chết tươị Ngọc Diện Na Tra giật mình kinh ngạc, không ngờ một tên thư sinh mà võ nghệ lại cao cường như thế liền quát lên :
- Súc sinh không được làm dữ!
Nói xong vung đôi phủ nhằm Vương Trùng Dương chém tớị Vương Trùng Dương mười năm chỉ ngồi tĩnh tọa luyện tập nội, ngoại công phu của Toàn Chân phái, chưa hề luyện đến võ công cũng như chưa từng giao đấu cùng ai bao giờ, nay thấy đôi phủ của Ngọc Diện Na Tra loang loáng chém tới thì giật mình cả sợ, quay lưng định bỏ chạỵ
Nhưng không kịp, đôi phủ đánh trúng vào lưng chỉ thấy “soạt” một tiếng, cả một mảnh áo sau lưng rách toan. Đôi phủ trúng vào lưng Trùng Dương bật ngược trở lạị
Kinh ngạc hết sức, Ngọc Diện Na Tra lại vung đôi phủ lên thành thế “Lực Bích Hoa Sơn” nhằm mặt Vương Trùng Dương bổ tớị
Vương Trùng Dương lúng túng không biết chống đỡ cách nào thì đôi phủ đã trúng mặt. Mọi người đều rùng mình kinh hải, vì đôi phủ đó trúng vào đá cũng phải tan, sức mạnh kể cũng có ngàn cân lượng.
Nhưng lạ thay, đôi phủ lại cũng bị bật văng trở lại như bị một sức mạnh vô hình cản trở, chính Vương Trùng Dương cũng không biết vì cớ gì. Ngọc Diện Na Tra tức giận quát to lên một tiếng, vung búa chém luôn bảy tám nhát vào người Vương Trùng Dương, nhát nào cũng trúng người, nhưng chỉ thấy quần áo Vương Trùng Dương tan nát như bươm bướm mà người vẫn chẳng hề hấn gì. Hai tay của Ngọc Diện Na Tra tê buốt.
Đàm Thiên Chân cả sợ tự nghĩ :
- Lạ thật! Tên thư sinh này mới giơ tay đã làm chết người, nội ngoại công phu quá ư lợi hạị Ta chém trúng nó mười mấy búa, người thường đã bị nát như tương vậy mà nó vẫn không hề hấn gì, cũng không thấy nó chống đỡ. Thật là kỳ lạ.
Trên bước giang hồ, Đàm Thiên Chân chưa hề thấy một sự việc lạ lùng như thế, vừa tức vừa sợ, quay lại gọi hai tên phó trại chủ :
- Âu nhị đệ, Trình tam đệ! Hãy tới cả đây, thử xem ta thử tấn công một lượt xem saọ
Soái Lý Đạt Âu Hải, Thiết Diện Kim Cương Trình Hùng, một người múa đôi búa, một người vung thiết côn cùng nhắm Vương Trùng Dương đánh tớị
Vương Trùng Dương thấy cả ba người cùng xông tới liền quay mình bỏ chạỵ
Đàm Thiên Chân quát lớn :
- Tiểu tử! Mi định chạy đi đâủ
Vừa quát, Đàm Thiên Chân vừa vung búa đuổi theọ Chỉ thoáng một cái, Vương Trùng Dương đã chạy cách xa tới ba bốn chục bộ, bỗng có hai tên cướp trong bóng tối vung búa ra chận đường.
Không kịp suy nghĩ, Vương Trùng Dương giơ tay lên đánh một cái, chỉ nghe thấy tiếng “bốp” một cái, hai tên lâu la bắn tung ra xa đến bảy tám thước, đầu óc vỡ tan, trông thật ghê sợ.
Vương công tử mắt thấy hai tên lâu la bị mình đánh có một quyền mà chết một cách thảm khốc như thế thì như người chợt tỉnh nghĩ :
- Chắc đây là công phu của Toàn Chân phái, hay ta thử đối đầu bọn chúng xem saỏ
Nghĩ đến đây, Vương Trùng Dương không chạy nữa dừng chân đứng đợi bọn cướp.
Ngọc Diện Na Tra vừa đuổi tới nơi quát to lên một tiếng dùng thế “Thiên Vương Thác Tháp” nhằm đầu Vương Trùng Dương bổ xuống.
Vương Trùng Dương không đỡ, nhắm Ngọc Diện Na Tra đánh ra một quyền, một luồng gió mạnh bay ra, Ngọc Diện Na Tra thất kinh vội ngã người ra sau lăn sát xuống đất tránh, nhưng vẫn bị luồng gió nóng như lửa tạt vào hai vai và lưng rát như bị phỏng.
Không còn hồn vía, Ngọc Diện Na Tra dùng phép “Cá Chép Vượt Đăng” quật chân xuống đất tung mình đứng dậỵ
Soái Lý Đạt Âu Hải không biết lợi hại vung đôi búa nhắm thẳng Vương Trùng Dương đánh tớị
Vương Trùng Dương lập tức vung tay nhằm vai Âu Hải tống ra một quyền, Âu Hải vội nghiêng mình định tránh nhưng không kịp, chỉ nghe thấy “bốp” một tiếng, cả một miếng thịt lớn ở bả vai bay rớt ra ngoài cổng trang, xương trơ ra gãy vụn.
Âu Hải chỉ kêu lên một tiếng, ngã xuống đất giãy đành đạch như con cá lóc bị đập đầu nằm im không cựa quậỵ
Thiết Diện Kim Cương cả sợ, nhảy vội sang bên trái Vương Trùng Dương dùng thanh côn sắt thành thế “Ô Long Chiêm Địa” tận lực bình sanh quất mạnh côn sắt vào hai chân Vương Trùng Dương.
Trình Hùng đinh ninh với thế võ này, Trùng Dương không thể nào tránh khỏị
Không ngờ, Trùng Dương hơi cúi xuống, một tay đỡ ngọn thiết côn, cây con sắt đánh trúng tay Vương Trùng Dương bật trở lại, cong veo như chiếc cung, tay kia Trùng Dương nhắm thẳng mặt của Thiết Diện Kim Cương đánh ra một chưởng, chỉ nghe bốp một tiếng, mặt Thiết Diện Kim Cương vỡ làm mấy mảnh, óc phọt ra tung tóe ngã ngửa ra saụ Vương Trùng Dương đá bồi thêm một cái nữa, xác Trình Hùng bật văng ra xa như một quả cầụ
Khi ấy, Ngọc Diện Na Tra móc trong bọc ra ba cái Trúc Diệp Phiêu nhắm thẳng Vương Trùng Dương phóng tớị
Tài nghệ phóng phi tiêu của Đàm trại chủ thật là kỳ tuyệt, một ngọn nhắm vào mặt, một ngọn nhằm vào ngực, một ngọn vào bụng phóng tới như ba lằn điện xẹt, ba ngọn phiêu ném trúng Trùng Dương nhưng đều rơi xuống đất.
Bọn lâu la bên ngoài nhất tề reo lên một tiếng, kẻ gươm người giáo ào vô một lượt nhắm Vương Trùng Dương chém tới tấp.
Vương công tử chẳng chút sợ hải, tay trái đánh ra một quyền, tay phải phóng ra một chưởng, đứa thì vỡ đầu, đứa thì gãy tay nằm dồn thành đống la liệt khắp nơị
Ngọc Diện Na Tra lại rút luôn sáu ngọn Trúc Diệp Phiêu nhắm người Vương Trùng Dương phóng tớị Những ngọn phiêu phóng tới người Vương Trùng Dương đều lả tả rơi xuống đất như những chiếc lá rụng.
Lúc đó quân tuần canh đi ngang qua, biết trong nhà Vương viên ngoại có cướp, đốt đuốc sáng chưng kéo vào tiếp ứng.
Ngọc Diện Na Tra Đàm Thiên Chân thấy tình hình như vậy biết việc không xong bèn hô bọn lâu la tìm đường tháo chạỵ Ngọc Diện Na Tra cúi xuống ôm xốc Soái Lý Đạt lên vai chạy ra khỏi trang trạị
Bọn lâu la những kẻ còn sống hay bị thương nhẹ lũ lượt chạy theọ Quân tuần phòng vào đến trang trại thì bọn cướp đã tháo chạy tất cả, để lại trên mặt đất một số tử thi nằm la liệt.
Vương Trùng Dương không ngờ mình tay không đánh đuổi được bọn cướp thì lấy làm vui thích cười lên một tiếng.
Mọi người kinh ngạc vô cùng; không ngờ một người văn nhân nhược chất, tướng mạo thư sinh như Vương công tử tay không một lúc đánh chết hơn mười tên cướp.
Những tử thi còn nằm la liệt trên mặt đất mà mọi người vẫn còn bán tín bán nghị
Nhưng những tên gia nhân trông thấy rõ ràng kể lại cho mọi người nghẹ Lúc đó ai cũng khiếp sợ lắc đầu le lưỡi và thán phục Vương Trùng Dương vô cùng.
Vương viên ngoại nghe thấy bọn cướp đã đi khỏi và quân lính tuần phòng đã tới mới dám mở cửa bước rạ
Mọi người cười nói ồn ào thuật lại chiến công của Vương công tử cho viên ngoại nghẹ Bọn gia nhân và quân lính thu dọn những tử thi và khí giới của bọn cướp vất ngổn ngang trên mặt đất.
Người thiếp thứ chín của Vương viên ngoại lúc đó mới nghi quyết là Vương Trùng Dương biết rõ việc mình và Từ Anh tư thông và cái chết của Từ Anh là do Vương công tử hạ sát.
Càng nghĩ càng xấu hổ và sợ hãi nên dùng giải lụa đào treo cổ lên sà nhà tự tử.
Uổng thay cho một kiếp hồng nhan và cũng đáng đời cho một con dâm phụ!
Ngày hôm sau, huyện quan cho mời Vương công tử lên để lấy khẩu cung và còn làm tờ bẩm lên Thượng Ty đầu đuôi tự sự.
Huyện quan còn hết lời khen ngợi bản lĩnh cao cường của Vương công tử.
Vương Trùng Dương từ ngày tay không đánh chết bọn cướp tiếng tăm vang dội khắp huyện Trần Lưu và các nơi phụ cận.
Các giới võ lâm và các thanh niên yêu chuộng võ nghệ tới tấp đến nơi xin vào yết kiến. Vương Trùng Dương tính thích yên tịnh, không quen giao thiệp nên dặn gia nhân từ chối, nói rằng Vương công tử về quê ngoại vắng mặt không tiếp một aị
Đến lúc đó Vương Trùng Dương mới biết sự lợi hại của môn phái Toàn Chân.
Hơn mười năm tĩnh tọa, luyện tập nội ngoại công phu khiến cho da thịt vừa mềm vừa cứng, có thể chống lại với gươm đao sắc bén, chỉ dùng sức gió mà đánh chết được người, đá tan được hòn giả sơn.
Thật ra, Trùng Dương cũng không biết rằng vì tình cờ ăn được Trùng Sâm, chết đi ba ngày rồi lại sống lại, làm cho trọc khí trong người đã bài tiết ra ngoài, hỗn hợp được Thiên Nhân lưỡng khí hợp nhất. Bởi vậy chỉ luyện tập chút ít công phu mà kết quả gia tăng gấp bộị
Một tháng sau, vào một buổi trăng thanh gió mát, Vương Trùng Dương ra hoa viên dạo xem phong cảnh.
Ánh trăng vằng vặc xuyên qua kẻ lá in xuống đất như những đám sao sạ
Một cơn gió thoảng qua đưa mùi thơm ngào ngạt của muôn hoa mới nở khiến cho trong người nhẹ nhàng thơi thới, bỗng Vương Trùng Dương giật mình vì thoáng thấy một bóng đen xuất hiện cách chừng năm thước không một tiếng động nàọ
Trùng Dương cả sợ, định thần nhìn kỹ thì ra là Thanh Hư chân nhân không biết từ đâu mới đến.
Vương Trùng Dương cả mừng, tiến đến trước mặt vòng hai tay làm lễ rồi nói :
- Không biết sư phụ giáng lâm nên đệ tử không ra nghênh tiếp.
Thanh Hư chân nhân cười nhạt một cái lạnh lùng rồi nói :
- Ngươi hãy theo ta vào trai phòng, ta có chuyện cần nóị
Thấy nét mặt sư phụ không vui, Vương Trùng Dương trong lòng lo sợ không biết có chuyện gì, ríu ríu theo sau theo Thanh Hư chân nhân trở lại trai phòng.
Vào đến nơi, Thanh Hư chân nhân ngồi trên cái đôn, nghiêm sắc mặt hỏi Vương Trùng Dương :
- Ta nghe đồn cách đây một tháng con đã đánh chết mười bốn tên cướp, việc đó có hay không?
Vương Trùng Dương liền đáp :
- Thưa sư phụ đúng thế! Con không hiểu sao hôm đó con lại hùng dũng đến như thế. Con đã đả thương ba tên trại chủ và mười bốn tên cướp.
Thanh Hư chân nhân biến sắc quát lớn :
- Tiểu tử! Thật là uổng công ta dạy bảọ Có phải ta truyền dạy công phu Toàn Chân cho ngươi tàn hại sinh linh đâụ Bởi thế cho nên ta không bao giờ nói cho mi biết là mi có bản lãnh là muốn tránh những cuộc đấu tranh sát phạt xưa nay của những phái trong võ lâm tiêu diệt lẫn nhau là để tranh giành ngôi vị, tự ái hảo huyền.
- Như mi mới có một chút công phu luyện tập mà một lúc đánh chết mười bốn người, nếu ngươi có thêm một chút công phu nữa thì khi tức giận mi có thể hạ sát tới một trăm bốn mươi người có phải chăng?
Từ ngày theo thầy học đạo, Vương Trùng Dương chưa bao giờ thấy sư phụ tức giận như vậy nên cả sợ vội vàng quỳ xuống đất tạ tội và thưa rằng :
- Kính thưa sư phụ! Vì sự việc xảy ra bất ngờ, đệ tử chỉ muốn tự vệ không dè lỡ tay đánh chết người xin sư phụ tha cho, từ nay đệ tử không dám tái phạm!
Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Công phu của ngươi hiện nay so với các phái võ lâm còn kém xa, nếu hôm trước đây gặp một tay cao thủ, thì ngươi không chết cũng trở thành tàn phế. Theo ngươi hãy lập tức đi theo tạ
Vương Trùng Dương cả sợ hỏi :
- Sư phụ đưa đệ tử đi đâủ Phụ thân đệ tử tuổi nay cũng đã cao như ngọn đèn treo trước gió, đệ tử ra đi không được phụng dưỡng e trái đạo làm con.
Thanh Hư chân nhân mắng rằng :
- Xưa kia Đức Phật Tổ còn bỏ vợ, lìa con xa mùi tục lụy mới tu hành đắc đạọ Cỏi hồng trần này đây bất quá cũng chỉ mấy chục năm trời, ngươi hãy theo ta tĩnh tâm tu luyện để có thể trở thành trường sinh bất lãọ Mười năm trời đăng đẳng ta khổ công điểm hóa cho ngươi là muốn ngươi trở thành giáo chủ của Toàn Chân pháị Sau này ngươi sẽ thành thiên hạ đệ nhất võ lâm, giúp đỡ nhân dân thoát khỏi sự bất công áp bức mới không hổ thẹn là một đấng trượng phu đầu đội trời chân đạp đất.
Vương Trùng Dương thốt nhiên tỉnh ngộ, cúi đầu bái tạ xin đị Để tránh những phút biệt ly sầu thảm, Vương Trùng Dương viết lại mấy lời từ giã song thân, đại ý nói là :
- Theo thầy học đạo, khi nào thành tài sẽ trở về. Xin đừng quá thương tiếc mà hao tổn mình vàng.
Giữa lúc đêm khuya, hai thầy trò rời bỏ trang trại như hai chiếc bóng, tung mình qua bức tường cao dùng thuật khinh công lao mình vun vút đi như bay như biến, chân như không chấm đất nhắm thẳng Triết Giang đi tớị
Hai thầy trò Vương Trùng Dương ngày đêm dong ruổi không biết đã đi được bao nhiêu đường bộ.
Một đêm kia, lợi dụng đêm khuya thanh vắng, khí trời mát mẻ, hai thầy trò Vương Trùng Dương trổ tuyệt kỹ công phu dùng thuật “Ngự phong” lao mình đi như tên bắn. Trời sắp bình minh, ở phía Đông mặt trời sắp mọc, chiếu lên không trung một màu đỏ lợt như quét tan màn đêm đang bao phủ khắp mọi nơị Đàn chim ríu rít gọi đàn hòa lẫn với tiếng lá cây xào xạc thành một bản đàn tuyệt diệụ
Hai thầy trò Vương Trùng Dương vừa đi tới một chân núi cao ngất thì trời sáng rõ. Vương Trùng Dương cất tiếng hỏi :
- Thưa sư phụ! Đây là quả núi nào vậỷ
Thanh Hư chân nhân trả lời :
- Đây là Trung Ngọc Tung Sơn!
Vương Trùng Dương lại hỏi :
- Thưa sư phụ! Có phải ngày xưa Đức Đạt Ma Tổ Sư đã kiến thiết ngôi chùa Thiếu Lâm tự Ở trên ngọn núi Tung Sơn này để đào tạo môn đồ phái Toàn Chân hiện nay phải không?
Thanh Hư chân nhân mỉm cười nói :
- Đồ đệ đọc ở sách nào vậỷ Đạt Ma Tổ Sư là người ở Nam Triều Lưỡng Võ đến Trung Quốc vào đời Ngụy Thái Hòa niên giám, tới đây kiến thiết xây dụng Thiếu Lâm tự và tổ chức thành phái Thiếu Lâm, đối với phái Toàn Chân không có liên quan gì cả. Nguồn gốc của phái Toàn Chân là do Côn Luân phân ra, đến đời nhà Đường Trình Quan niên giám, vị Tổ sư Lý Đạo Tử thành lập Toàn Chân pháị Để tới ngọn núi Tung Sơn, đệ tử sẽ rõ.
Vương Trùng Dương không dám hỏi nữa, theo sư phụ dùng thuật đề khí tung mình như con chim lao thẳng lên ngọn núị Vì đã được huấn luyện môn “Tọa công” của phái Toàn Chân nên toàn thân nhẹ nhàng, hai chân Vương Trùng Dương chỉ lướt trên mặt cỏ, tuyệt nhiên không phát ra một tiếng động.
Lên được tới ngọn núi và tới Thái Thất Sơn Hạ là nơi thâm sâu của ngọn Tung Sơn. Khí núi tỏa mù mịt, mây trắng bay lơ lửng trên ngọn núi như sát với chân trờị Cây cối rậm rạp um tùm, trùng trùng điệp điệp.
Từ thưở ấu thơ, Vương Trùng Dương vẫn ở nơi đô thị, đến nay mới thấy được cảnh hùng vĩ của núi rừng thì trong lòng rất vui thích, định nhỡn nhìn khắp tứ phía không thấy có một căn nhà nàọ
Vương Trùng Dương tự nghĩ :
- Không biết hai thầy trò sẽ ở vào đâủ
Thanh Hư chân nhân vẫn cứ thoăn thoắt bước đi sâu mãi vào trong rừng.
Khi tới một khu rừng toàn cây Tùng Bách lâu đời, thân cây to lớn hai người ôm không xuể, cao ngất đến hơn trăm thước, cành lá rậm rạp um tùm che kín không lọt qua một chút ánh sáng nàọ
Hàng trăm con chim đang đậu trên cây thấy người sợ hãi vỗ cánh bay rào rào, tiếng chim kêu ríu rít. Xa xa tiếng vượn hú từng hồi vẳng lại như phá tan cảnh tịch mịch của núi rừng.
Thanh Hư chân nhân chỉ tay và nói :
- Chúng ta ở đây để tu luyện!
Vương Trùng Dương nhìn thấy có một cây cổ thụ như có ai đẵn gãy lìa ở trên, chỉ còn một khúc dưới từ đất lên cao hai thước, trên mặt bằng phẳng nhẵn nhụi như có nhiều ngồi ở đó luôn luôn. Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Ta ở đây tập luyện “Tọa công”, đồ đệ thử nhìn xem coi có gì lạ không?
Vương Trùng Dương chú mục nhìn kỹ chung quanh, thấy ở trên mặt thân cây nhẵn bóng nhưng có một chỗ thấp sâu hơn ba tấc thì thốt nhiên hiểu rõ và tự nghĩ :
- Không dè đạo lực của sư phụ ta cao thâm đến như thế!
Nghĩ tới đó Vương Trùng Dương cất tiếng trả lời :
- Thưa sư phụ! Có phải chỗ lún sâu thế kia là do công phu của môn phái Toàn Chân tạo ra không?
Thanh Hư chân nhân gật đầu có vẻ hài lòng :
- Con thật là thông minh, cái cây này ta đã ngồi tĩnh tọa trong ba năm liền đó. Trước kia thân cây cao hơn bốn thước, ta vận nội công ngồi như thế cho đến khi thân cây sát xuống đất mới thành công mỹ mãn. Trong rừng sâu ta còn năm chỗ ngồi nữa, chỗ nào ta cũng ngồi ba năm.
Vương Trùng Dương giật mình tự nghĩ :
- Thầy ta chỉ luyện nội công trong sơn cốc này cũng đã hết mười tám năm, như vậy thì võ công của thầy ta làm sao không cao siêu được.
Nghĩ tới đây, Vương Trùng Dương lại cất tiếng hỏi Chân nhân rằng :
- Kính thưa sư phụ! Tại sao sư phụ lại phải ngồi đây tập luyện? Con thấy ở đây chim muôn nhiều quá, lúc nào cũng kêu hót vang lừng làm sao mà tĩnh tâm được?
Thanh Hư chân nhân trả lời :
- Cũng nhờ có tiếng chim hót véo von nên sự luyện tập môn Toàn Chân mới có nhiều hiệu quả. Sau này con sẽ rõ. Bây giờ con hãy thử thi thố nội công toàn lực đánh vào cây làm chỗ ngồi cho ta xem.
Vương Trùng Dương giật mình tự nghĩ :
- Trước kia ta tay không đánh bọn cướp có một phần nhờ nội công, nhưng thân người đâu phải như cây, ta đâu có thể làm được.
Ngặt vì lời thầy truyền dạy đâu dám không tuân, cực chẳng đã Vương Trùng Dương phải vận động chân khí, vận hết sức nhằm thân cây thông đánh thẳng ra một quyền, chỉ nghe một tiếng “bùng”, thân cây bị lõm vào một miếng to bằng cái chậu, vỏ cây tước ra một mảng khá lớn trơ thân trắng toát, lá rụng rào rào làm cho muôn chim ở trên thân cây hoảng sợ vỗ cánh tung bay tán loạn, tiếng kêu ríu rít gây ra một cảnh huyên náo vô cùng.
Thanh Hư chân nhân cất tiếng cười ha hả :
- Ta bảo mi đánh gãy để làm thành một chỗ ngồi, chứ đâu có biểu mi làm một cái lỗ cho chim ở đâụ
Vương Trùng Dương xấu hổ đỏ mặt, chắp tay tạ tội :
- Đồ đệ công phu còn non nớt, xin sư phụ rộng thứ chọ
Thanh Hư chân nhân biến sắc quát lớn :
- Nói láo! Công ta dạy dỗ mười năm, có lẽ nào môn phái Toàn Chân hèn kém thế saỏ Nếu mi biết dùng “Phách Không chưởng” hòa lẫn với “Thiên Cân chưởng” sao chẳng thành công? Phái Thiếu Lâm có môn “Bát Bộ Thần Bổng” uy lực cũng chỉ đến thế là cùng. Tuyệt gia nội công của mi đã khá lắm rồi, mi thử làm lại cho ta coị
Vương Trùng Dương tự nghĩ :
- Ta bỏ quyền dùng chưởng, may ra có được chăng?
Nghĩ đoạn đứng lui ra xa thân cây 5 bộ, vận khí đơn điền, tập trung “Thiên Nhân Lưỡng Khí” hòa hợp, dùng tay trái đánh ra một chưởng.
Khiếp thay cho nội lực phi thường! Chỉ thấy một luồng nóng bỏng từ tay đánh ra, nghe “soạt” một tiếng, thân cây như có một lưỡi rìu sắt bén chém ngang, sâu vào hơn bốn tấc.
Vương Trùng Dương rút tay trái vào, tay phải đánh ra một chưởng nữa, lại một tiếng “soẹt” khô khan nổi lên, bên phải thân cây cũng bị như dao chém sâu vào một nhát.
Vương Trùng Dương thối lui thêm năm bộ, dùng luôn hai tay đánh tiếp luôn “song chưởng”, một tiếng rầm dữ dội như long trời lở đất.
Cây cổ thụ lâu đời như bị sét đánh gãy ngang đổ xuống, những cành cây kêu răng rắt, lá rụng ào àọ
Vương Trùng Dương không dè chưởng lực mình ghê gớm như vậy thì ngẩn người ra mà nhìn không nói được tiếng nàọ Thanh Hư chân nhân cất tiếng cười ha hả nói :
- Hay lắm! Hay lắm! Ngươi đã biết sử dụng hòa hợp Cương, Nhụ Cương thì không được lâu, mà Nhu thì không được giữ mình, lại còn có thể là gặp Cương thì tất phải gãy mà gặp Nhu thì chỉ lướt đị Vừa rồi ngươi chỉ dùng Cương không đánh vào thân sức vì chạm mạnh mà chỉ có bễ thành từng lỗ như tổ ong, nhưng thân cây vẫn đứng vững. Nay ngươi đã biết dùng Nhu kéo khẽ, dùng Cương chém mạnh tức nhiên thân cây phải đổ. Như vậy là ngươi biết sử dụng Cương, Nhu đúng lúc, ắt phải thành công.
Được sư phụ giảng giải một hồi và tiếp theo lời khen ngợi, Vương Trùng Dương phấn khởi và sung sướng trong lòng, kính cẩn nghe lời thầy dạy bảọ Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Tuy vậy! Về công phu tập luyện của con mới qua được bước đầu, còn phải khổ công nhiều nữa mới đến chỗ toàn mỹ.
Nói xong, Thanh Hư chân nhân chỉ cách ngồi tĩnh tọa trên cây gãy theo cách tập luyện của Toàn Chân phái, hô hấp điều hòa để nhập định, tụ họp nguyên khí ở huyệt “Tam Thai”, vận khí lực lượng thân thể đưa ra, hít vào thở ra đều có phép tắc, giờ phút nhất định.
Bắt đầu từ ngày ấy, Vương Trùng Dương tĩnh tọa trên thân cây cùng sư phụ luyện tập và được sư phụ cho biết hang núi này là hang “Bách Cầm”.
Ở phía Nam chân núi Thái Thất có một nơi hẻo lánh không người qua lại, cảnh vật thật là quạnh hiụ
Chỉ có tiếng gió thổi lá reo vi vút như bản nhạc bất tận, có lúc dồn dập mãnh liệt, có khi chậm rãi đều đều, hòa lẫn với hàng trăm tiếng chim kêu ríu rít, thỉnh thoảng chen vào tiếng hót cao vút của loài chim sơn ca nên cũng bớt phần tịch mịch.
Nhưng khi mặt trời đã lặn, màn đêm buông xuống, cảnh núi rừng lúc đó mới thật là âm u ghê gợn, chỉ thấy một màu đen kịt, bốn bề im lặng như tờ, lâu lâu chỉ thấy vài con vạc đi ăn đêm cất tiếng kêu rời rạc buồn tênh.
Ở trên chỗ ngồi của hai thầy trò Vương Trùng Dương, chỉ toàn là lá cây rậm rạp, chen kín vào nhau không sợ gió mưa lọt tớị
Thầy trò an tâm ngồi tập luyện võ công. Cứ cách vài ngày, Thanh Hư chân nhân lại xuống núi đến thị trấn, mua lương thực đem về.
Thanh Hư chân nhân công phu đã đến mức cao siêu có thể tịch cốc, chỉ ăn một ít trái cây trong rừng và uống chút nước lạnh. Còn Vương Trùng Dương công phu luyện tập hãy còn non kém nên phải dùng đến thức ăn như người thường.
Dần dần về sau chàng cũng bớt đi, do đó có khi hàng tháng Thanh Hư chân nhân mới đi xuống núị
Lúc đầu Vương Trùng Dương lấy làm khó chịu với tiếng chim kêu nhưng lâu dần quen đi, nhận ra tiếng hót của giống chim cũng có lúc Cương lúc Nhụ
Những điệu bộ bay lượn và những lúc nhào mình bắt mồi cũng như khi hai con chim chọi nhau lúc ngang lúc dọc.
Có con bỗng nhiên bay vút lên cao rồi lao mình thẳng xuống như lằn tên bay nhằm con chim ưng bổ xuống đã khiến cho Vương Trùng Dương suy nhận ra nhiều môn võ công lợi hạị
- Bắt lấy nó, bắt lấy nó! Lần này quyết không cho nó chạy thoát.
Tiếng quát, tiếng chạy cách xa hàng một dặm đường mà chàng nghe rõ mồn một. Đó là kết quả của mười tám năm luyện tập. Chàng không dằn được tính tò mò, Vương Trùng Dương tra kiếm vào võ, ra khỏi cửa hang nhắm nơi phát sinh tiếng nói, dùng thuật khinh công lao mình như tên bắn.
Gần đến nơi, Vương Trùng Dương tung vút người nhảy lên ngọn cây định thần nhìn kỹ. Chưa đầy một phút, chàng nhìn thấy một thiếu niên trạc độ mười ba, mười bốn tuổi, thân hình gầy ốm xanh xao, khắp mình đầy thương tích, quần áo rách tả tơi, phóng mình chạy như baỵ Đằng sau có một đám đông ước độ hơn bốn chục người miền sơn cước, cả thợ săn lẫn thợ cấy, kẻ cầm đinh ba người cầm gậy mộc, reo hò ầm ĩ, ra vẻ có ý định quyết đánh chết chàng thiếu niên đó mới thôị
Lại có một số người vừa đuổi vừa ném gạch đá theo như mưạ
Nhưng chàng thiếu niên cũng không có vẻ gì sợ hãi, vừa tránh né những viên đá chết người đó, vừa nhặt đá ném lạị Những viên đá ném ra không viên nào trượt, thế nào cũng có một người trúng hòn đá ấỵ
Bị trúng đá tuy không gây thành thương tích nhưng bọn người đuổi theo ấy càng thêm tức bực, nhảy cỡn lên tưởng chừng như sụp đất.
Chàng thiếu niên chạy tới chỗ Vương Trùng Dương còn cách xa chừng ba, vừa cúi xuống nhặt thêm đá, không dè một sợi dây thòng lọng của một người thợ săn ném vút rạ Nghệ thuật ném dây của người thợ săn thật là tinh diệu nên chàng thiếu niên ấy đã bị sợi dây quấn chặt lấy thân ngườị
Hoảng kinh, chàng thiếu niên chưa kịp đứng dậy thì người thợ săn đã kéo mạnh một cái, thân hình chàng lăn lông lốc như một quả cầụ
Cố hết sức giãy giụa, nhưng càng giãy bao nhiêu thì nút dây thòng lọng lại càng thêm thắt chặt bấy nhiêụ Cả bọn theo sau đều reo to lên sung sướng :
- Tiểu tử! Mi chạy đâu cho thoát.
Bỗng có hai người thợ săn cầm đinh ba chạy lại quát lớn :
- Mấy bác hãy tránh ra để tôi đâm gẫy hai chân nó cho nó hết chạy, sau đó hẳn đêm về trị tộị
Nói dứt lời hai người thợ săn nhắm thẳng ngay đùi chàng thiếu niên phóng hai mũi đinh ba tớị Hết đường chống đỡ, chàng thiếu niên thét lên một tiếng nhắm mắt chờ chết.
Vương Trùng Dương đứng ở trên cao nhìn thấy rõ ràng, nếu thiếu niên kia bị hai mũi đinh ba này đâm xuống thì không chết cũng tàn tật suốt đờị Động lòng trắc ẩn, không kịp suy tính Vương Trùng Dương quát lớn :
- Xin các ngày hãy dừng tay!
Vừa quát dứt lời, Vương Trùng Dương chao mình từ trên cao xuống nhanh như chim cắt, thành “Kình Điểu Xuyên Vân”. Chân chưa chấm đất, chàng đưa tay gạt khẽ một cái, hai cây đinh ba chỉ còn cách chàng thiếu niên trong gang tấc bỗng gãy thành hai đoạn, hai người thợ săn hai tay tê chồn ngã lộn ra phía saụ
Vương Trùng Dương vội chắp tay xin lỗi :
- Xin nhị vị lượng thứ, trong lúc bất cập nên trót xúc phạm đến hai ngàỵ
Chẳng hay chàng thiếu niên này mắc tội chi mà đáng chịu hình phạt thảm khốc như vậỷ
Bọn người đi săn không cần phân biệt phải trái quát lớn :
- Súc sinh! Mi ở nơi đâu lại mà dám che chở cho thằng chó chết nàỷ
Nói đoạn họ không cho Vương Trùng Dương kịp nói năng câu nào, bọn chúng đã dùng đinh ba gậy gộc nhắm người chàng đánh xuống tới tấp như mưạ
Cách đây hơn chục năm trời, Vương Trùng Dương tay không đã đánh chết mười bốn tên cướp đã bị sư phụ rất nhiều ngày nên hôm nay không dám khinh suất, chỉ vận dụng nội công gồng mình lên hứng chịụ
Mấy tiếng lốp bốp nổi lên, những binh khí gậy gộc đánh vào đều bị bật văng trở lạị Kẻ nào dùng sức quá mạnh thì đinh ba bồ cào đều gẫy ra làm mấy khúc bật văng lên cao và người thì ngã lên trên mặt đất.
Mọi người hết sức kinh ngạc, nhưng bọn người dân Sơn cước này bản tính hung hăng đâu đã chịu thuạ Bọn chúng ra hiệu cho nhau nhất tề xông lại quyết dùng đông người để hạ cho kỳ được Vương Trùng Dương.
Họ xông vào ào ào như nước vỡ bờ. Vương Trùng Dương giơ tay phẩy nhẹ một cái, một luồng gió mạnh thổi lên như một sức mạnh vô hình đẩy bắn bọn người Sơn cước ngã dồn thành một đống.
Bây giờ họ mới thất kinh, nhiều người sợ quá mặt mày tái mét, run rẩy, trợn tròn cả con mắt la lớn lên rằng :
- Nguy to rồi, chắc nó có yêu thuật.
Trong khi đó, thừa cơ lúc mọi người không ai để ý, cậu bé tự tháo được dây trói, nhặt lấy một cây đinh ba định nhảy xổ vào đám đông đang bị té, hành hung.
Vương Trùng Dương nhìn thấy, lấy tay vẫy lại và nói :
- Này cậu nhỏ kia, không được gây sự nữạ
Chàng thiếu niên như con hổ điên lồng lộn định chồm tới, lạ thay sau tiếng quát của Vương Trùng Dương, cậu thấy như có một sức mạnh vô hình lôi kéo cậu trở lạị
Lúc bấy giờ, Vương Trùng Dương mới chắp tay thi lễ với bọn người Sơn cước và chàng đổi nét mặt với bọn họ tươi cười nói :
- Thưa quí vị! Chẳng hay cậu bé này đã làm điều chi xúc phạm đến nỗi các ông định giết chết nó, một đứa trẻ thơ miệng còn hôi sữả
- Tôi nhân qua đây, quả thật không có họ hàng thân thiết gì với nó nhưng sợ các ông trong lúc nóng giận ra tay đánh chết nó thì cũng tội nghiệp nên tới định khuyên giảị Không dè các ông đánh cả tôi nên tôi phải đành chống đỡ, trót làm gãy những cây đinh ba và bồ cào của các ông, tôi xin bồi hoàn lại đầy đủ.
Bọn người sơn cước chưa kịp nói gì thì cậu bé đã kêu lên :
- Thưa thiếu gia, bọn này đều là những quân gian ác. Từ khi tôi mở mắt chào đời đã bị chúng ức hiếp, đối xử rất tàn nhẫn. Xin thiếu gia giúp tôi cho chúng nó vài gậy cho bỏ ghét.
Mặc dầu cậu thiếu niên nọ mình đầy những thương tích mà nó vẫn không có vẻ gì sợ hãi, đôi mắt long lanh sáng quắc, nhìn mọi người bằng cặp mắt căm hờn không có một giọt nước mắt nào cả.
Vương Trùng Dương gạt đi và nói :
- Thôi, không được nói bậỵ
Bọn người sơn cước thấy chàng ăn nói lễ độ, y phục và cốt cách có vẻ một thư sinh nên họ cũng bớt hung hăng và quay ra bàn tán với nhau một hồi rồi họ cử một người lớn tuổi thay mặt ra nói với Vương Trùng Dương :
- Thưa tiên sinh, vì ngày ở xa nên không biết chuyện. Thằng Cẩu nhi này nó phá phách xóm làng, làm hại mùa màng của chúng tôi quá lắm. Nó còn sống ngày nào là chúng tôi khổ sở ngày ấy, không thể nào an cư lập nghiệp được.
Ông ta vừa nói đến đây thì thiếu niên kia có vẻ thích chí cười lên sằng sặc, vênh váo bộ mặt, chẩu mỏ nói :
- Đâu phải ta vô cớ phá phách các ngườị Ta nói thật, không những ta phá phách các người như vậy đâu, thế nào cũng có ngày ta sẽ đốt hết nhà của chúng mày đi thì ta mới hả giận.
Nói xong, cậu bé vung tay cái đinh ba đang cầm sẵn trên tay sấn sổ toan tiến lên đánh nhau với bọn người sơn cước. Vương Trùng Dương đưa tay ngăn lại, hỏi rõ đầu đuôi như sau :
Nguyên do thiếu niên này họ Châu, mẹ của cậu là con của một nhà nông dân nghèo ở dưới chân núi Tùng Sơn.
Tuổi còn trẻ mà đã góa chồng. Chồng chết được một năm thì nàng bỗng có thai, dân xóm sống tại đây cho bà là người hư thân mất nết, làm hại đến thuần phong mỹ tục, xấu hổ lây đến xóm làng nên nhiều người bàn nhau đánh chết bà đị
Nhưng, có mấy vị phụ lão trong làng không cho chỉ hạ lệnh trục xuất nàng ra khỏi xóm.
Gia đình của mẹ cậu bé Châu rất thương con nhưng cho mẹ cậu là một người dâm đãng làm bại hoại gia phong nên cũng không thèm nhìn nhận.
Mẹ của cậu bé họ Châu thấy dân làng xua đuổi không cho nàng phân trần thì vừa tủi thân vừa xấu hổ, đi ra khỏi làng đến một khu rừng vắng vẻ treo cổ toan tự tử.
May có một bà tiều phu đi đốn củi ngang cứu thoát, hết sức an ủi lại đem về nhà cho ở, hết lòng cưu mang che chở. Đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh ra một đứa con trai lấy họ Châu của người chồng cũ đặt cho nó.
Phần thì thiếu thốn cực nhọc, phần vì quá buồn rầu khổ sở nên chỉ mấy tháng sau mẹ cậu lâm bịnh nặng từ trần.
Trước khi nhắm mắt mới kể cho lão bà tiều phu biết rõ là bị một người họ Dạ hiếp dâm mà có thai và yêu cầu bà lão nuôi đứa bé làm phước.
Bà lão tiều phu cũng góa chồng không có con, thấy cậu bé họ Châu cũng kháu khỉnh thì vui vẻ nhận nuôi coi như con ruột. Trong xóm họ gọi cậu bé là Cẩu nhi sau dần thành quen đị
Khi Cẩu nhi được chín tuổi, bà lão cũng từ trần. Tứ cố vô thân, Cẩu nhi ngày ngày theo người lớn vào rừng đốn củi đổi lấy cơm ăn. Những ngày mưa rét thì cậu đến những nhà ở trong xóm làm giúp hay là quét tước để kiếm cơm ăn qua ngàỵ
Những người trong xóm đều là những người cổ hủ, ghét mẹ cậu là ngươi lẳng lơ dâm đãng, không chịu thủ tiết thờ chồng nên ghét lây đến Cẩu nhị Mọi người đều nhiếc mắng, chửi rủa, đối xử thật là tàn nhẫn.
Tuy còn ít tuổi, nhưng dân làng hiếp đáp, chửi bới thì Châu Cẩu Nhi đã căm tức trong lòng mà không dám nói rạ Nó tìm cách phá hoại ngầm. Nó rất lỳ không biết sợ hãi là gì cả.
Ở trong xóm không bao lâu người ta phát giác ra là lúa ruộng không biết bị con vật gì tới phá hư hỏng rất nhiềụ Chia phiên canh gác thì không bắt được.
Tiếp sau đó, heo bị què, gà, vịt bị chết. Mới đầu thì họ cho là súc vật bị bệnh, nhưng sau họ thấy gà, vịt hình như bị đánh mà chết càng ngày càng nhiềụ
Để ý dò la, biết chắc chắn là do tay Châu Cẩu Nhi gây chuyện thì mọi người đều tức giận, bắt trói Cẩu Nhi đánh cho một trận thật đau và đuổi ra khỏi xóm không cho ở nữạ
Châu Cẩu Nhi lại càng căm tức, đêm đêm trở về xóm phá hoạị Có lúc cậu vặt trụi cả một vườn rau cải vất la liệt trên mặt đất, có khi cắt cả một đám lúa non.
Lần này thì dân trong xóm giận lắm, quyết rình bắt cho được Châu Cẩu Nhi và quyết tâm đánh chết.
Nhưng cậu bé quái ác khi nào chịu để cho bặt được dễ dàng như vậỵ Lúc nào trong xóm có đề phòng thì nó không đến, cứ nhè những ngày mưa gió rét mướt, không ai dám ra đường thì nó lại lần về phá xóm làng.
Những cái bẩy săn thú gài ở trong rừng, nó gỡ ra bẻ gãy tất cả vất la liệt trên mặt đất. Dân trong xóm tụ lại thành một đoàn kéo nhau vào trong rừng tìm kiếm Cẩu Nhi quyết cậu đi cho bỏ ghét, nhưng dễ gì bắt được cậu bé tinh quái đó.
Hàng năm trời như vậy, cậu bé Châu Cẩu Nhi làm cho cả xóm phải mất ăn mất ngủ. Bẵng đi một dạo không thấy nó đâu nữa, người ta bàn tán cho rằng vì thiếu ăn thiếu mặc cho nên nó đã chết trong rừng sâu, có người cho rằng nó bị ác thú ăn thịt, nhưng dầu sao họ cũng thấy dễ chịu, ăn ngon ngủ kỹ, không phải chia nhau canh gác như xưa nữạ
Thấm thoát đã được ba năm, mọi người đã lãng quên không còn ai nhắc đến Châu Cẩu Nhi nữa thì bỗng nhiên lại thấy lúa mạ ngoài đồng lại bị phá phách ghê gớm hớn trước. Không phải thú vật làm mà rõ là do con người tạo ra, vì mạ non, rau cải bị nhổ bật cả rễ vất ngổn ngang trên mặt đất.
Người trong xóm nhốn nháo cả lên và nghi quyết Châu Cẩu Nhi chứ không còn ai vào đấy nữạ Họ bèn họp nhau lại bàn mưu kế quyết bắt cho kỳ được Châu Cẩu Nhi mới thôị Họ chia nhau ra mai phục xung quanh ruộng suốt đêm ngàỵ
Vào một đêm trời tối đen, lại thêm có một trận mưa lớn, mọi người kiên nhẩn núp đợị Trời gần sáng mà cũng chẳng thấy gì, nhiều người chán nản định trở về thì đột nhiên thấy Châu Cẩu Nhi tay cầm cái cuốc ở trên núi đi xuống. Nhìn trước nhìn sau không thấy gì lạ, cậu bé lầm lũi đi vào trong ruộng giơ cao cái cuốc lên đàọ Lúc ấy mọi người mới hò reo ầm ỉ đổ xô nhau ra vây bắt. Châu Cẩu Nhi biết mắc vào bẩy của xóm làng liền vất bỏ cái cuốc cắm đầu bỏ chạỵ Dân làng đâu chịu bỏ.
Họ hô nhau đuổi theo, Châu Cẩu Nhi thoăn thoắt cắm đầu chạy trốn. Khi đến gần hang Bách Cầm thì bị dây thòng lọng của bọn người săn bắt thú rừng tung dây bắt được, nếu không có Vương Trùng Dương cứu thoát ắt đã bị dân làng giết chết rồị
Vương Trùng Dương nghe hết đầu đuôi câu chuyện bèn quay lại nhìn Châu Cẩu Nhi nói rằng :
- Nếu người ta đã không ưa mày thì mày đi nơi khác, sao lại phá phách mùa màng giết hại gia súc như thế này có khác chi phường đạo tặc.
Rồi chàng quay lại ôn tồn nói với dân làng rằng :
- Thưa liệt vị! Thằng nhỏ này vì không có người dạy bảo nên vì tức giận làm liều, nếu bây giờ liệt vị có giết nó đi thì sự cũng đã lỡ rồị Nay tôi xin đề nghị với các ông, tôi thay mặt nó mà thường sự thiệt hại cho các ông và xin các ông tha tội cho nó. Tôi xin bảo lãnh và khuyên bảo, quyết không để cho nó đến phá hoại các ông nữạ
Nói xong Vương Trùng Dương lấy trong bọc ra một nén vàng đưa cho dân làng. Mọi người bàn tán xôn xao, sau đó người đại diện cho dân làng mới nói :
- Thiếu hiệp đã có lời bảo chúng tôi xin tuân theọ Chỉ mong sao thiếu hiệp mang thằng nhỏ này đi nơi khác để cho chúng tôi yên ổn làm ăn là đủ rồị Chúng tôi đâu dám lãnh tiền bồi thường của thiếu hiệp.
Vương Trùng Dương tươi cười nói :
- Không sao! Xin liệt vị hãy nhận số tiền này để tu bổ lại những nơi bị phá phách. Sự thiệt hại của liệt vị do thằng bé này gây ra cũng không ít. Tôi xin góp một ít để đền bù thay cho thằng Cẩu Nhi này mà thôị
Nói xong, chàng cứ ấn nén vàng vào trong tay người đại diện của dân làng.
Thấy từ chối không được, người đó bèn nhận nén vàng và vòng tay tạ Ơn Vương Trùng Dương và nói :
- Cung kính bất như tuân mạng. Chúng tôi cứ từ chối hóa ra phụ lòng tốt của thiếu hiệp. Vậy, tôi xin nhận về để giúp đỡ những gia đình bị thiệt hạị Lúc nào thiếu hiệp có qua tệ thôn xin ghé vào chơi cho chúng tôi được thừa tiếp thì thật là hân hạnh cho chúng tôi biết mấỵ
Nói xong, người đó lại chỉ tay vào mặt Châu Cẩu Nhi mắng rằng :
- Tiểu tử! Mày còn nhỏ tuổi mà đã rắn mắt phá phách gây thiệt hại cho mọi ngườị Phúc nhà mày lớn lắm nên mới gặp thiếu gia đây ra tay nghĩa hiệp, nếu không chắc mày sẽ không còn tính mạng.
Cẩu Nhi chẳng những đã không tỏ vẻ gì sợ hãi lại còn châu mỏ “sì” lên một cáị
Sợ lại gây ra sự phẫn nộ của mọi người, Vương Trùng Dương bèn gạt cậu bé ra đàng sau rồi quay ra vái chào mọi người nói :
- Thôi xin liệt vị đừng chấp. Vì nó còn nhỏ chưa biết gì, hãy nể mặt tôi mà tha cho nó.
Mọi người thấy Vương Trùng Dương nói năng lễ độ, lại thấy chàng đã bỏ ra một nén vàng để bồi thường thiệt hạị Dân làng nghèo khổ chưa được thấy số vàng nhiều như thế bao giờ, nên họ bảo nhau không thèm gây sự nữa và từ giã Vương Trùng Dương kéo nhau trở về làng.
Đợi cho bọn họ đi khuất, lúc đó cậu bé mới tới trước mặt Vương Trùng Dương quì xuống, cúi đầu lạy tạ và nói :
- May nhờ có thiếu hiệp ra tay giải cứu, nếu không ắt tính mạng của tôi không còn. Ân nhân thật là người tốt quá, từ nhỏ đến giờ tôi mới được gặp.
Hồi nãy tuy bị trận đòn rất đau nhưng nó không khóc, bây giờ hai hàng lệ chảy dài trên gò má nó.
Vương Trùng Dương cúi xuống kéo nó đứng lên và nói :
- Thôi! Thôi! Khỏi cần lạy lục làm gì. Mày bị người ta đánh có bị thương không?
Châu Cẩu Nhi bỗng lau ngay nước mắt nhoẻn miệng cười có vẻ thích chí lắm, nó lắc lắc cái đầu và nói :
- Họ đã đánh trúng cái nào đâu, những vết sướt và quần áo bị rách nát chẳng qua là vì lúc chạy vội vàng vướng phải gai gốc và bị vấp té ở trong rừng đấy chứ. Chẳng những thế, tôi còn chọi đá trúng mấy người hươu cả trán, nếu tôi không mãi cúi xuống nhặt đá thì khi nào họ bắt được tôị Bọn họ đều là những người tàn ác, để đêm nay tôi lẻn về phóng hỏa đốt nhà chúng đi cho bỏ ghét.
Vương Trùng Dương lắc đầu khuyên nhủ :
- Trong làng cũng có kẻ tốt người xấu, kẻ hiền người ác, chứ đâu phải ai ai cũng đều là người xấụ Mấy năm nay mày phá hoại mùa màng như vậy là quá đáng lắm, bảo sao người ta không thù ghét. Từ nay trở đi mày hãy theo ta, nghe lời ta dặn bảo không được làm những điều độc ác như thế nữạ
Châu Cẩu Nhi gật đầu tuân theọ Vương Trùng Dương liền dẫn Cẩu Nhi về hang Bách Cầm. Vừa lên đến nơi đã thấy Thanh Hư chân nhân nét mặt giận dữ, quát hỏi :
- Sao mi không chuyên cần tập luyện lại bỏ đi chơỉ
Vương Trùng Dương sợ hãi, lập tức đem đầu đuôi câu chuyện kể lại cho sư phụ nghẹ
Vừa lúc đó thì Châu Cẩu Nhi cũng vừa trèo lên đến nơi, nó trông thấy Thanh Hư chân nhân thì vội vàng chắp tay cúi chào ra mắt. Thanh Hư chân nhân chăm chú nhìn nó một lúc, bỗng lấy tay để lên bả vai Cẩu Nhi đẩy khẽ một cái, thằng bé ngã lăn lóc ra xa đến hơn một trượng, nhưng nó đã đứng ngay dậy, tỏ ra hết sức ngạc nhiên không biết vì lẽ gì. Vương Trùng Dương cũng giật mình kinh sợ kêu lên một tiếng.
Thanh Hư chân nhân thốt nhiên cười ha hả lên, có vẻ vui thích lắm. Cười xong mới vuốt râu và nói :
- Tốt lắm! Tốt lắm! Có thể dùng được.
Nói xong, Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nhìn Cẩu Nhi hỏi :
- Này! Mi phải nói thật cho ta biết, có phải mấy năm vừa qua mi đã ở trên núi Tùng Sơn, trong chùa “Thiếu Lâm” chuyên việc gánh nước có phải không?
Châu Cẩu Nhi trợn tròn hai con mắt, hết sức ngạc nhiên tự nghĩ :
- Có lẽ vị đạo nhân này có phép thuật hay sao mà biết rõ việc gánh nước của ta trong chùạ
Nghĩ như vậy rồi, Châu Cẩu Nhi gật đầu đáp :
- Thưa đạo nhân đúng như thế! Chẳng hay vì sao đạo nhân lại biết rõ ràng như vậỷ
Thanh Hư chân nhân mỉm cười đáp :
- Ta thấy mi vừa té đã đứng dậy được ngay, thân hình và tư thế của mi đúng là môn đồ của phái “Thiếu Lâm”. Chắc mấy năm trước đây mi bị dân làng lùng bắt quá không có chỗ trốn nên mới chạy đến Thiên Thất sơn nương nhờ ở “Thiếu Lâm tự”. Ở đó họ bắt mi hàng ngày phải ra công gánh nước, có đúng không?
Châu Cẩu Nhi lại thêm kinh ngạc, cúi xuống lạy và đáp :
- Đạo nhân phải là một người thần tiên mới biết rõ như thế. Thật là đúng quá. Ba năm về trước, con bị dân làng lùng bắt ráo riết, nên mới chạy vào núị Tới chùa Thiếu Lâm, phần vì đói, phần vì mệt nên con ngồi nghỉ ở trước của chùạ Lúc ấy có một vị hòa thượng đi ra bắt gặp, hỏi rõ căn nguyên rồi cho con vào ở trong bếp. Bắt đầu từ đấy con ở đó gánh nước. Hai thùng nước rất nặng, con cũng ráng hết sức chịu đựng được ba năm, đến nay vì không chịu nỗi nữa nên con mới trốn đị
Vương Trùng Dương lúc đó mới biết rõ nguyên nhân sự vắng mặt ba năm của Châu Cẩu Nhị Thanh Hư chân nhân lắc đầu vừa cười vừa nói :
- Đó là vì mày không biết rõ. Đôi thùng nước ở trong có để sắt nặng dần lên. Ấy là luyện tập võ công đấỵ
- Như thế thì mày nay đã có căn bản rồị Nay ta muốn thu mày làm đồ đệ, mày có bằng lòng không?
Châu Cẩu Nhi mừng rỡ vô cùng, cúi xuống vập đầu lạy tạ Thanh Hư chân nhân. Xong rồi quay sang lạy tạ Vương Trùng Dương gọi là sư huynh.
Thanh Hư chân nhân hỏi :
- Đồ đệ! Chẳng hay tên con là gì?
Châu Cẩu Nhi đáp :
- Mọi người ai ai cũng gọi con là Châu Cẩu Nhị Xin sư phụ cứ gọi con là Cẩu Nhi là được rồị
Thanh Hư chân nhân phì cười nói :
- Không được! Cẩu Nhi là tên một con thú vật, để ta đặt lại pháp danh cho đồ đệ.
Thanh Hư chân nhân suy nghĩ một chút rồi đáp :
- Đồ đệ không có anh em lại có duyên gặp ta, vậy từ nay ta đổi tên con lại gọi là Châu Bá Thông.
Châu Cẩu Nhi hết sức vui mừng cúi đầu lạy tạ Ơn và từ đó không dùng tên Cẩu Nhi nữạ
Lúc bấy giờ họ Vương hơn ba mươi tuổi, lớn hơn Bá Thông mười sáu tuổị
Thanh Hư chân nhân dẫn hai người về hang Bách Cầm và Vương Trùng Dương bắt đầu truyền dạy môn phái Toàn Chân.
Thời gian thấm thoát đã được ba năm. Thanh Hư chân nhân gọi Vương Trùng Dương lại và nói :
- Đồ đệ từ khi rời khỏi huyện Trần Lưu đến nay đã được mười lăm năm trời, ta cũng đã mang hết công phu của phái Toàn Chân truyền dạy cho con, lòng ta chỉ ước nguyện sau này con sẽ trở thành một cao đồ của phái Toàn Chân. Con là đồ đệ thứ nhất của ta, sau này con có bổn phận và trách nhiệm làm Giáo Chủ của phái Toàn Chân. Đến nay con xa nhà đã quá lâụ Vậy mai ta cho con trở về thăm gia đình.
Vương Trùng Dương xa nhà cũng đã khá lâu tránh sao cho khỏi tưởng nhớ tới song thân. Nhưng đã lâu ngày sống gần sư phụ và sư đệ, nay phải chia tay thì không sao tránh khỏi sự ngậm ngùi luyến tiếc.
Chu Bá Thông nghe thấy vậy thì òa lên khóc như muốn giữ Vương Trùng Dương ở lạị
Thanh Hư chân nhân nghiêm sắc mặt nói :
- Không được! Sư huynh con xa nhà đã quá lâu rồi, phải để anh con về kẻo lỗi đạo làm con. Sau khi về thăm nhà sư huynh con sẽ trở lại đây chứ có bỏ đi mất đâu mà con khóc lóc.
Đạo nhân quay lại nhìn Vương Trùng Dương :
- Con về thăm nhà, ba năm nữa con phải đến Tùng Sơn này một lần để cho ta rõ tình hình mọi việc.
Vương Trùng Dương nhất nhất vâng theo lời thầy dạỵ
Sáng hôm sau, mặt trời chưa mọc, màn đêm còn bao phủ khắp nơi nơi, Trùng Dương đã thu xếp xong hành trang chuẩn bị sẵn sàng để lên đường. Thanh Hư chân nhân căn dặn đồ đệ mọi điều cần thiết.
Trùng Dương nhất nhất tuân theo, rồi lạy sụp sư phụ giã từ xuống núi nhắm thẳng huyện Trần Lưu dong ruổi, không cho Chu Bá Thông hay biết.
Vương Trùng Dương xuống tới núi liền theo con đường đi Đằng Phong để trở về huyện Trần Lưu, chàng tự nghĩ :
- Thế nào ta cũng đi ngang qua Thiếu Thất Phong, nhân thể nay ta cũng nên qua xem cho biết Thiếu Lâm tự.
Đã mấy năm qua, Trùng Dương vẫn canh cánh bên lòng là vì thấy sư phụ chàng có vẻ thờ ơ với phái Thiếu Lâm. Không những thế, trong lúc luyện tập võ nghệ cho hai sư huynh, đệ chàng vẫn thường hay chỉ trích cách đào tạo môn đồ của phái Thiếu Lâm không được thận trọng và tiến bộ rất chậm, khiến cho chàng càng náo nức muốn đến tận nơi cho tường hư thực.
Bởi thế, chàng nhất quyết phải ghé vào Thiếu Lâm tự cho thỏa tính tò mò.
Từ núi Thái Thất đến núi Thiếu Thất chỉ cách có một ngọn núị Đi chẳng bao lâu đã thấy xa xa có mấy ngọn Thanh Thạch Tháp nhô lên, chung quanh có mấy ngôi chùa cổ, rêu xanh bao phủ ở dưới những cành cây cổ thụ, cành lá xum xuê.
Trùng Dương đoán thầm :
- Chắc đây là Thiên Hạ đệ nhất danh môn Thiếu Lâm tự, những cây Tháp Thanh Thạch là nơi chôn cất các hài cốt của các vị cao tăng trong phái Thiếu Lâm sau khi đã viên tịch.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 11-22-2012, 11:07 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 2, 3

Võ lâm ngũ bá


Hồi 2, 3

Thạch Phi Xà, Hạ Nhục Thiếu Lâm Tự


Trùng Dương đã quyết chí vào thăm Thiếu Lâm tự nên thay vì đi xuống núi, chàng lại nhắm thẳng ngọn núi leo lên. Gần tới Thiếu Lâm tự, bỗng chàng nghe thấy hình như có người đốn củi ở gần đây, chàng ngạc nhiên tự nghĩ :
- Lạ thật, đây là chốn thâm nghiêm, sao lại có kẻ cả gan tới đây mà đốn củi, ta phải tới nơi xem cho biết.
Nghĩ đoạn, chàng dùng thuật khinh công tung mình nhảy lên cây, thoắt chuyển qua cây này sang cây khác nhẹ nhàng như con vượn tuyệt nhiên không nghe qua một tiếng động.
Khi tới nơi, ở trên cao nhìn xuống, Trùng Dương bỗng mỉm nụ cười, thì ra không phải là họ đốn củi mà là đang luyện công.
Chàng thấy hai thanh niên trạc tuổi 24, 25 mặc áo võ sinh, chân mang giày buộc rất chắc chắn, mặt mày xanh lét, hình dáng ốm o, đứng dưới gốc một cây cổ thụ, một tả một hữu đang dùng cạnh bàn tay đánh mạnh vào thân cây như người đốn củị Chàng tự nghĩ :
- Chắc là họ đang luyện môn Thiết Thủ.
Hai chàng thanh niên chẳng nói chẳng rằng cứ dùng bàn tay chém mạnh vào thân cây liên tiếp, những tiếng lốp bốp đều đều nổi lên, da cây vỡ ra, trơ thân cây trắng toát.
Thì ra tiếng đốn cây là như thế, coi tuổi của hai ngươi mà bản lĩnh như vậy thì công phụ luyện tập của họ không phải là ít.
Hai thanh niên liên tiếp chém vào thân cây mấy chục nhát, mặt đã đỏ bừng, hơi thở chẳng điều hòạ Thanh niên đứng bên phía trái mặt vàng như nghệ ngừng tay lau mồ hôi chảy trên trán vừa lau vừa nói :
- Chết rồi! Lần trước chúng ta bao tay bằng một lớp vải một lớp sắt tập luôn chín tháng mới chém nổi câỵ Đến bây giờ tay không ta đã luyện luôn ba tháng trời mà thân cây vẫn chẳng hề hấn gì. Còn có năm ngày nữa Đạt Ma Trưởng Lão đến xét võ công chắc thế nào chúng ta cũng bị quở phạt.
Chàng mặt đen có vẻ buồn rầu thở dài một tiếng chẳng nói năng gì, bỗng ở trong rừng có tiếng cười ha hả, tiếng cười có vẻ ngạo nghễ vang lên.
Hai chàng thanh niên giật mình quay lại chỉ thấy một vị hòa thượng mặc áo cà sa màu đen, tai to, mặt lớn, đôi mắt sáng quắc dáng người hùng dũng, ngang lưng thắt một cái giây lưng màu xanh mang theo một đôi Uyên Ương Thiết Đảm, từ trong rừng bước rạ
Hai thanh niên kia thấy vị hòa thượng này thì có vẻ sợ hãi, chẳng khác gì con chuột thấy con mèo, cả hai người thối lui lại mấy bước cùng cung kính cúi đầu chàọ
Vị hòa thượng nọ tỏ ra rất kiêu ngạo hừ lên một tiếng, nghiêm nghị nhìn hai người nói :
- Chư Đại, Chư Nhị, hai đứa chúng mày đến đây thụ võ sư tổ đã được ba năm mà sao tài nghệ vẫn kém cỏi như thế?
Hai gã họ Chư cuống quýt cúi đầu nói :
- Thật là chúng tôi ngu quá, nên cũng hết sức tập luyện mà không sao thành công được, kính mong đại sư chỉ giáo thêm chọ
Hòa thượng nọ cười to lẹn một tiếng có vẻ thích thú lắm, dương dương tự đắc nói :
- Hai ngươi hãy lui xa ra, để bản sư thi thố một chút tài mọn cho mà xem.
Hai người họ Chư tránh xa gốc cây mấy thước. Vị hòa thượng kia bèn xăn tay áo, vận nội công bắp thịt nổi lên cuồn cuộn, nhắm thân cây phóng ra một quyền, chỉ nghe một tiếng “Bình” thân cây vỡ ra một mảnh khá lớn bằng cái chậu sâu vào tới hai ba tấc, hai anh em họ Chư lắc đầu le lưỡi quá ư khiếp sợ cho thần lực của hòa thượng.
Vị hòa thượng vừa dùng “Thần công Đại Lực Thiên Cang” của Thiếu Lâm đó, họ Ấn tên Quang cai quản La Hán đường trong Thiếu Lâm tự, sau khi biểu diễn võ công được hai anh em họ Chư hết sức khen ngợi lấy làm vừa ý lắm nói to :
- Đó là ta chi mới ra oai một phần nào thôi, chứ Thiếu Lâm tự mà có những tên đồ đệ ngu ngốc như các ngươi thì thật là uổng cả danh tiếng.
Vừa nói tới đó đã nghe thấy tiếng cười khanh khách tiếp theo đó một giọng nói vang lên :
- Không phải những người này ngu, là chỉ là có người dạy tầm thường thôi!
Tiếng nói chẳng phải của ai xa lạ, chính là Trùng Dương, nguyên chàng vẫn ở trên cao trông xuống nhất cử nhất động của mọi người chàng đều thấy rõ. Khi trông thấy Ấn Quang hòa thượng dùng thần công Đại Lực Thiên Cang thi thố, tài nghệ chỉ bằng lúc mới tới Tùng Sơn, vậy mà đã dương dương tự đắc, coi trời bằng vung, không chịu chỉ bảo đồ đệ tới nơi tới chốn, chỉ dùng những lời mắng chiếc nhục mạ, thì dằn lòng không nổi buột miệng nói to lên như thế.
Đang cơn hứng chí không dè bị người chế nhạo, Ấn Quang hòa thượng cả giận quát to :
- Súc sinh nào to gan lớn mật dám tới đây buông lời hỗn láo, để bản sư dạy cho một bài học.
Quát xong ngước mắt nhìn lên chỗ phát ra tiếng nói đó, thì đã thấy một chàng bạch diện thư sinh xuất hiện ngay trước mặt. Thấy vẻ người nho nhã, không ai ngờ dám buông lời xúc phạm đến thế, Ấn Quang chỉ vào mặt chàng thét lớn :
- Mi ở môn phái nào mà ta chưa biết, chẳng hay thầy mi tên là gì, nếu là người quen biết thì may ra ta còn nể mặt tha cho lời nói lếu láo vừa rồi, nếu không ta quyết không cho ngươi toàn tính mạng.
Trùng Dương thấy Ấn Quang buông toàn những lời vô lễ, trong lòng đã sớm nổi giận nhưng chàng cố nén cười lên một tiếng trả lời :
- Đại sư hỏi tên họ của sư phụ tiểu sinh à? Tiếc thay, tại hạ không thể nào nói cho đại sư biết được.
Ấn Quang hòa thượng nghe nói cả giận không thèm nói câu nào nữa rút ngay đôi “Uyên Ương Thiết Đởm” nhắm ngay giữa mặt Trùng Dương công tớị
Thứ Uyên Ương Thiết Đởm này là một võ khí rất lợi hại của phái Thiếu Lâm không phải là võ khí mà cũng không phải là ám khí, nó làm bằng sắt, ở giữa rỗng, phóng ra nhanh như tên bắn, có thể xa được mười trượng người nội công cao cường có thể sử dụng một cách hư hư thực thực khiến đối phương không biết đường nào mà tránh.
Nhưng Vương Trùng Dương tập luyện nội công phái “Toàn Chân” đã đến thời kỳ siêu việt, tai mắt đều hơn người, thấy Ấn Quang hòa thượng dùng Uyên Ương Thiết Đởm đánh ra, chàng đã biết rồị
Chiếc thứ nhất bay ra trước lại hóa đến sau, còn chiếc đánh sau lại tới trước, khi đôi Uyên Ương Thiết Đởm còn cách xa chàng bảy, tám thước cái thứ nhất bỗng chìm xuống, cái thứ hai lao vút tới ngay như một luồng gió mãnh liệt bay tới, nhắm sang hai Thái Dương huyệt của chàng mà đâm thẳng vàọ
Trùng Dương đã phòng bị sẵn, đợi chiếc Thiết Đởm Uyên Ương thứ hai bay tới tận nơi mới cùng thế “Cắt Mai chỉ” giơ tay bắt gọn vào lòng bàn tay, còn chiếc thứ nhất đang chìm ở dưới bỗng nhiên quay ngang ra lộn phắt lên như có một bàn tay vô hình điều khiển nhắm ngay Quan Nguyên huyệt của Vương Trùng Dương, chàng lại đưa tay mặt ra bắt lấy rồi ném trả lại cho Ấn Quang hòa thượng và nói :
- Đây ta trả lại cho ngươị
Vừa nói dứt lời đôi Thiết Đởm Uyên Ương đã bay vụt ra sức mạnh kinh hồn chỉ nghe đanh vút một cái đã lao thẳng vào người Ấn Quang lẹ như chớp nhoáng.
Không còn hồn vía, Ấn Quang vội lẫn ngay vào gốc cây tránh thoát.
Đôi Thiết Đởm Uyên Ương trúng vào thân cây vỡ một mảnh khá lớn.
Đó là Trùng Dương đã biến ở thế kiếm “Thần Long Bái Vĩ” mà ra, hai anh em họ Chư vỗ tay cổ võ.
Ấn Quang cả giận thét lớn một tiếng, nhảy vọt tới sát Trùng Dương vung tay dùng quyền bổng cực kỳ lợi hại của Thiếu Lâm là La Hán quyền, quyết hạ họ Vương cho kỳ được mới nghẹ
Chỉ thấy một trận cuồng phong phát ra nhắm thẳng mặt Trùng Dương bay tới, sức mạnh có thể xô thành, bạt núị
Nhận thấy chưa chi mà Ấn Quang đã hạ độc thủ, Trùng Dương cả giận, định ra tay đối phó nhưng chợt nghĩ lại :
- Nếu ta ở trước cửa Thiếu Lâm tự mà đánh với Ấn Quang theo luật lệ của giới giang hồ mình có một lỗi rất lớn, chẳng khác chi mình đi miệt thị một phái võ hữu danh trong giới võ lâm, hai nữa mình mới ra khỏi Tung Sơn đã gây thù kết oán với Thiếu Lâm thì tránh sao khỏi sự quở mắng của sư phụ.
Nghĩ vậy nên chàng cố nhẫn nhịn vội dùng thế Đảo Kỳ Long, một chiêu thức đặc dị trong Võ Đang Trường Quyền, chỉ khẽ lắc mình đã tránh thoát.
Quyền phong của Ấn Quang thật quá ư lợi hại, đánh trượt Trùng Dương trúng vào một thân cây chỉ nghe đánh rầm một tiếng, thân cây vỡ một mảnh to, lá rụng rào ràọ Ấn Quang định thần nhìn kỹ thấy Trùng Dương bỏ chạy đã khá xạ
Ấn Quang đâu biết chàng vì không muốn gây sự nên mới bỏ đi, lại tưởng chàng sợ võ công của mình mà bỏ chạy nên không chịu bỏ, phóng mình đuổi theo quát lớn :
- Bần tăng đã biết người là cao thủ phái Võ Đang nên mới dùng lời miệt thị bản môn, ngươi hãy dừng lại cùng ta giao đấu vài trăm hiệp cho rõ tài cao thấp.
Trùng Dương vì không muốn đấu với y nên quay lại đáp :
- Tại hạ chịu thua, đại sư đã là người tu hành sao hãy còn hiếu sát lắm vậỵ
Nói xong, chàng quay đầu bỏ đi thì Ấn Quang đã dùng ngay thế Kim Cương Đảng Táng nhằm bả vai chàng công tớị
Chàng đứng nguyên không tránh, ngón tay của Ấn Quang trúng vào bả vai chàng, y cảm thấy tay mình như đánh vào đống bông gòn mềm nhũn thì kinh ngạc vô cùng, vội kéo tay về, thì Trùng Dương đã bỏ chạy xa đến ngoài hai trượng.
Khi nào Ấn Quang chịu bỏ, y dùng khinh công phóng mình nhanh như gió đuổi theọ
Gần tới Trùng Dương, Ấn Quang dùng luôn thế “Ngũ Đinh Dục Thạch” nhắm ngay đỉnh đầu chàng bổ tớị
Thoáng nghe hơi gió, Trùng Dương biết lão ác tăng đánh trộm, nên chàng chỉ hơi nhoài mình lên một chút, đã tránh khỏi độc thế của ỵ
Đánh trượt đối thủ, Ấn Quang lảo đảo suýt ngã, rất may cho y vì cũng là tay võ thuật cao cường, khinh công cũng vào hạng khá, nên lấy lại ngay được thăng bằng, chẳng những thế lại còn tung người lên cao sử dụng thế Bạch Hạc Đạp Tuyết dùng cả hai gót chân đánh xuống lưng Trùng Dương sức mạnh có hàng ngàn cân lực, hai gót chân của Ấn Quang có thể đập tan được đá, đánh gãy được câỵ
Không dè Trùng Dương đã luyện tập võ công tới bực thượng thừa, muốn cương thì cương, muốn nhu thì nhu, chàng muốn làm cho Ấn Quang khiếp sợ một phen nân chẳng những không cần né tránh lại còn giơ lưng ra hứng đỡ hai gót chân của ỵ
Đinh ninh phen này thế nào Trùng Dương không dập mật thì cũng gãy lưng, không dè hai gót chân đánh xuống như trúng phải một tấm sắt, dội ngược trở lại tê buốt hai bàn chân ngã lộn xuống đất không còn hồn vía, Ấn Quang vội quật chân xuống thành thế “Cá Chép Vượt Đăng” vùng đứng lên trợn trò nhia mắt nhìn Trùng Dương bằng nét mặt vừa căm hờn vừa sợ hãị
Trên chốn giang hồ đã đụng độ rất nhiều cao thủ, nhưng chưa bao giờ Ấn Quang gặp phải một tay ghê gớm như vậy, chưa kịp có phản ứng gì thì đã thấy Trùng Dương cất tiếng cười ha hả :
- Lão sư đùa giỡn cũng đã nhiều rồi, tại hạ xin đáp lễ.
Vừa nói dứt lời, chàng dùng tay áo phẩy nhẹ một cái, tức thì phát ra một trận cuồng phong dữ dộị
Ấn Quang cả kinh vội vận nội công toàn thân cứng như thép nguội xuống tấn để chống đỡ luồng gió ác liệt này, thế mà vẫn bị gió đánh vào người rát như phải bỏng, văng đi xa hơn một trượng, cây cối chung quanh rào rào răng rắc như bị một trận bão lớn.
Nhờ Trùng Dương không muốn quyết liệt nên chỉ dùng có ba thành công lực, nếu không thì Ấn Quang còn gì là tính mạng.
Khi lão tăng đứng dậy được thì chỉ còn nghe tiếng cười ha hả vang lên, cùng tiếng giã từ hẹn ngày tái ngộ từ đằng xa đưa lại và thấy tháp thoáng tà áo thư sinh.
Chỉ chớp mắt đã không thấy đâu nữa, vừa sợ vừa tức lại thêm xấu hổ, Ấn Quang lủi thủi trở về chùa thuật lại cho mọi người cùng nghe và tả kỹ hình dung của Trùng Dương cho mọi người ghi nhớ, sau này còn gây ra biết bao nhiêu chuyện rắc rối khác.
Còn Trùng Dương ra khỏi Tùng Sơn tự nghĩ :
- Thiếu Lâm tự tuy danh tiếng đã lâu mà võ công không người truyền lối, đã bị thoái hóa quá nhiềụ
Nên chàng không muốn đến Thiếu Lâm nữạ Trước hết chàng đến huyện Đăng Phong, rồi đến Khai Phong, từ Đông vào Tề, Lỗ, dạo chơi khắp các tỉnh Bắc phương suốt ba năm trường, rồi mới trở lại Tùng Sơn theo đúng lời căn dặn của Thanh Hư chân nhân.
Sau khi làm lễ vấn an, Trùng Dương đem những điều mắt thấy tai nghe thuật lại cho sư phụ biết, Thanh Hư chân nhân rất lấy làm vui lòng.
Còn Chu Bá Thông gặp lại sư huynh vui mừng hớn hở, hỏi hết chuyện này sang chuyện kia, không lúc nào rời Trùng Dương ra một bước.
Thấm thoát đã hơn ba tháng Vương Trùng Dương ở lại núi Bách Cầm, chàng lại thu xếp hành trang để sửa soạn đến các tỉnh phía Nam du lịch. Trước ngày chia tay, đêm hôm đó anh em trò chuyện to nhỏ, lưu luyến chẳng cùng, bỗng Chu Bá Thông như sực nhớ ra điều gì, vội cất tiếng hỏi :
- Sư huynh, ba năm về trước, lúc sư huynh mới hạ sơn, sư huynh có giao đấu với một hòa thượng của phái Thiếu Lâm, đúng không?
Vương Trùng Dương kinh ngạc hỏi :
- Tại sao sư đệ lại biết?
Chu Bá Thông lại nói :
- Sư phụ còn chưa nói cho anh nghe hay saỏ Lúc anh mới hạ sơn được mười ngày thì có hai vị hòa thượng tới đây, tự giới thiệu là người cai trị kinh đường của Thiếu Lâm tự, muốn gặp mặt sư phụ, tiểu đệ dẫn hai vị hòa thượng đó gặp thầy, tiểu đệ nghe thấy một người hỏi sư phụ:
“Mấy năm nay có người nào của phái Võ Đang, hình dung thư sinh mà võ thuật rất cao cường không?” Và họ cho biết vì có một vị thủ tọa La Hán đường cũng bị chàng thư sinh đó đánh. Tuy thầy biết chắc là sư huynh rồi nhưng thầy không nói, chẳng hay lúc đó sư huynh dùng thế võ gì mà hạ được lão hòa thượng thủ tọa La Hán đường là người rất có danh trong Thiếu Lâm tự vậỷ
Lúc đó Chu Bá Thông đã 17 tuổi, nhưng tính vẫn ham chơi và hiếu động.
Vương Trùng Dương nghiêm nghị nói :
- Sư đệ, mình học võ không phải để ỷ tài tranh đấu hơn thua, mục đích là để cứu người hèn yếu bị hà hiếp, giúp nước phò nguy, định an xã tắc, bữa đó phải giao đấu với người của Thiếu Lâm tự là sự vạn bất đắc dĩ mà thôi, sao lại có thể lấy đó làm vinh hạnh được?
Chu Bá Thông nghe lời sư huynh giảng dạy thì hết sức kính trọng, nên không dám hỏi thêm gì nữạ
Sáng sớm hôm sau Vương Trùng Dương lạy từ sư phụ, giã biệt sư đệ, vai mang khăn gói sửa soạn lên đường. Thanh Hư chân nhân bảo chàng rằng :
- Con nên từ phía nam Thái Thất sơn mà xuống, không nên đi về lối Thiếu Thất sơn.
Hiểu rõ ý thầy, Trùng Dương tuân theo, cúi đầu bái tạ thầỵ
Chu Bá Thông đi theo tiễn đưa đã được một quãng đường khá xa, hai ba lần Trùng Dương nhắc nhủ bảo về, cực chẳng đã Chu Bá Thông đành gạt nước mắt chia taỵ
Vương Trùng Dương trong lòng cũng biết bao nhiêu cảm động ngậm ngùi hẹn câu tái ngộ. Chu Bá Thông đứng lại nom theo sư huynh cho đến khi khuất dạng trong đám cấy mới quay trở lại về núị
Vương Trùng Dương tuân theo lời dặn của sư phụ nhắm thẳng phía nam Thái Thất sơn đi mãị
Khi tới một cái cầu đá dài hơn trăm trượng đi thẳng xuống núi, Trùng Dương bèn dùng thật phi hành chân không chạm đất người nhẹ như tên lao mình đi vùn vụt, mới tới cửa cầu bỗng thấy một người nhảy vụt tới trước mặt ngăn lạị
Trùng Dương giật mình đình bộ định nhỡn nhìn kỹ thì nhận ra là một vị hòa thượng hao hao giống Ấn Quang mà ba năm về trước đã có lần chàng gặp gỡ.
Chàng chưa hiểu ra sao thì đã thấy vị hòa thượng đó cất tiếng rổn rảng nói lớn :
- A di đà Phật, bần tăng là Ấn Trần, xin hỏi thí chủ có phải là người cao đồ của phái Võ Đang đấy không?
Lúc bấy giờ Trùng Dương đã hiểu đến tám chín phần, và chàng đề quyết đây là người của Thiếu Lâm tự đến để trả hận.
Bây giờ Trùng Dương mới để ý nhìn vị hòa thượng nàỵ Khác hẳn với Ấn Quang, Ấn Trần hòa thượng mình mặc cà sa màu xám, tay cầm cây phất trần, mày thưa mắt sáng, dáng người hùng vĩ mới thoáng trông qua chàng cũng nhận ngay thấy đây là một người có bản lãnh cao cường.
Biết thế nào cũng có chuyện chẳng hay xảy ra, nhưng Trùng Dương không hề một chút gì sợ hãi, chàng bình tĩnh chắp tay thi lễ :
- Thưa lão sư, tại hạ họ Vương tên Nhàn, chỉ học được một chút thuật phi hành để đi đây đi đó chư không phải đồ đệ của phái Võ Đang. Hôm nay nhân đến Tùng Sơn thăm bạn, lúc ra về sợ bị trời tối, nên phải dùng thuật phi hành xin lão sư chớ cườị
Ấn Trần và Ấn Quang đều là người trông coi La Hán đường, La Hán đường của Thiếu Lâm tự gồm có mười tám vị La Hán bằng gỗ, ở trong đặt máy móc rất là tinh xảo, nguyên là của Đạt Ma sư tổ chế tạo cốt ý để thử môn đồ, nếu người nào muốn hạ sơn phải đi qua La Hán đường thoát khỏi mười tám vị La Hán thì mới được xuống núị
Những đại sư cai quản La Hán đường gồm có bốn người, đều là những tay bản lĩnh cao cường, đã dày công tập luyện.
Khi ấy Ấn Trần hòa thượng cất tiếng cười ha hả :
- Thí chủ chớ nên khiêm nhượng, xin mời thí chủ hãy quá bộ tới tệ am để cho chúng tôi được thừa tiếp.
Nói dứt lời, Ấn Trần dùng cây phất trần nhẹ một cái nhằm tay mặt Trùng Dương điểm tớị
Tuy chỉ một đòn giáo đầu, Ấn Trần không dùng hết sức nhưng uy lực cũng ghê gớm, người tầm thường bị đánh trúng cũng phải văng ra xa hàng mấy trượng.
Trùng Dương nhún mình xuống. Nửa thân trên hơi di chuyển và dùng thế “Di Bổ Hoàn Ảnh” giống hệt thế “Thoát Y Hoàn Ảnh” của Võ Đang né mình sang một bên, tránh thoát.
Ấn Trần đại sư thấy quất không trúng thì cả giận, vung cây phấn trần dùng luôn thế Thanh Long Cuốn Vĩ đánh tới, cây phất trần chẳng khác chi con rồng quẫy đuôi, uốn khúc vùn vụt bao phủ khắp mình Trùng Dương.
Trùng Dương vẫn đứng im, người không lay động, hai mắt sáng như sao theo rõi cây phất trần của đại sư.
Cây phất trần đảo lộn, hư hư thực thực, chỉ chờ đôi phương sơ hở là đánh xuống. Bỗng nghe thấy đại sư quát lên một tiếng cực to đinh tai nhức óc, cây phất trần đang quay tít bỗng nhiên ngừng lại, nhằm yếu huyệt “Nê Hoàn” của Vương Trùng Dương điểm tới, lẹ hơn tên bắn, sức mạnh kể có mấy trăm cân lực, nếu trúng thế này dù người cao cường đến đâu cũng không khỏi mang hạị
Vương Trùng Dương cười khà một tiếng, chàng đã quày tay lẹ như chim cắt bắt mồi nắm được cây phất trần trong taỵ Cây phất trần này làm bằng đuôi ngựa, lẫn mấy sợi tơ vàng, bền bỉ vô cùng.
Ấn Trần hòa thượng sử dụng cây phất trần này đã mấy chục năm trời, đã hạ không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán trong thiên hạ. Không ngờ họ Vương bắt được trong tay, khẽ ấn một cái, cây phất trần đã gãy làm đôi đoạn.
Vừa trong lúc đó Ấn Trần cũng muốn dùng sức mạnh kéo về, nên mất đà lảo đảo suýt ngã, cũng may là nhờ có bản lĩnh cao cường, nên đại sư dùng nửa cây phất trần còn lại ở tay điểm vào hòn đá mà đứng vững.
Vừa tức vừa sợ, mồ hôi toát ra lăn tăn trên trán, Ấn Trần hòa thượng gượng cười nói :
- Quả nhiên Vương thí chủ bản lãnh thật cao siêu, bản sư xin bái phục.
Nói dứt lời, hòa thượng chắp tay nhằm Trùng Dương xá một cáị Một luồng gió lốc từ trong tay áo Ấn Trần đại sư bay ra, Trùng Dương thoáng thấy thế hiểu ngay là vị tăng này dùng “Phản Phong chưởng pháp” bèn xòe bàn tay phóng ra một chưởng ngăn lại nghe “bùng” một tiếng. Hai luồng chưởng pháp chạm vào nhau gây nên một sức mạnh kinh người, cây cối hai bên gẫy rụng ào ào, bụi bay mù mịt.
Ấn Trần đại sư bị sức mạnh của Bích Không chưởng dội lại bật văng ra sau đến hơn 10 bộ ngã ngời xuống đất.
Trùng Dương dùng luôn thế “Thần Điêu Qúa Hải” nhún mình nhảy vọt qua người Ấn Trần, vút mình lao đi như tên bắn, đại sư không kịp phản ứng, đành ngước mắt căm hờn trông theo, nghe xa xa có tiếng vẳng lại :
- Xin thất lễ hẹn ngày sau tái ngộ.
Trùng Dương đã chạy một hơi gần hết cây cầu xuống đến chân núi, bỗng thấy bốn vị hòa thượng từ phía sau hòn đá nhảy ra chắn ngang cây cầu, đều là tăng nhân trong Thiếu Lâm tự. Bốn vị đều chắp tay trước ngực đồng nói :
- Mô Phật, thí chủ xin ngừng chân, bản tự Phương trượng xin có lời mời thí chủ quá bộ tới bản tự cho chúng tôi được nghinh tiếp.
Vương Trùng Dương thấy bốn vị hòa thượng đều mặc áo cà sa màu xám, râu mày trắng như tuyết, sau vai đều mang võ khí thì tự nhủ :
- Đây là những tay cao thủ trong Thiếu Lâm tự.
Nên chẳng dám coi thường, vội vàng chắp tay cúi đầu thi lễ rồi nói :
- Kính chào các vị đại sư, chẳng hay tiểu sinh có điều gì thất thố, mà đại sư đón đường triệt lối, muốn bắt tiểu sinh đi đâủ
Một vị hòa thượng đáp lời :
- A di đà Phật, Phật môn đệ tử không dám nói dối, ba năm trước đây thí chủ đã qua cửa thiền môn chỉ giáo cho một môn đồ, nên nay bản tự Phương trượng thỉnh cầu thí chủ tới La Hán đường để tỏ lòng ngưỡng mộ của bản môn.
Trùng Dương thốt nhiên tỉnh ngộ nghĩ thầm :
- “Chắc lúc về Tùng Sơn bái kiến sư phụ, đã bị Thiếu Lâm tự phát giác hành động, họ cũng rất kiên tâm cho người theo dõi mấy tháng trời đợi mình hạ sơn mới ra cản trở, nếu không đi là mang tiếng hèn nhát, bất nhược, thử tới xem sao rồi sẽ liệu bề đối phó.” Nghĩ đoạn chàng bèn cúi đầu nói :
- Mô Phật, tiểu sinh là một kẻ vô danh tiểu tốt, không ngờ lại được đại môn có lòng chiếu cố, chư vị đại sư đã cho đòi, lẽ nào dám chẳng nghe theọ Vậy xin chư vị đại sư dẫn đường, tiểu sinh xin theo gót.
Bốn vị hòa thượng đồng thanh đáp :
- A di đà Phật.
Rồi cùng quay trở lại đi trước dẫn đường, bỗng thấy Ấn Trần hòa thượng áo cà sa xốc xếch, mặt giận hầm hầm, tay cầm nửa cây phất trần gãy, đằng xa đuổi theo tới nơi, gườm gườm nhìn Trùng Dương như muốn ăn tươi nuốt sống, rồi phóng mình dùng thuật phi hành lao đi như tên bắn.
Vương Trùng Dương liếc mắt trông thấy không lộ một chút sợ hãi, điềm nhiên đi theọ
Lúc đó bốn vị tăng nhân mới dùng thuật phi hành để đi cho nhanh, không rời nửa bước, Trùng Dương dùng thuật Thảo thượng Phi lướt mình đi theo, thân hình như chỉ lướt trên mặt cỏ.
Chưa đến giờ Thìn đã đến núi Thiếu Thất, tới trước cửa Thiếu Lâm tự, bỗng thấy cửa giữa màu đỏ mở rộng, trong chùa chạy ra tám hòa thượng còn trẻ tuổi tay cầm khí giới giàn sang hai bên chào nói :
- Vương đại hiệp giáng lâm, bổn tự vinh hạnh vô cùng xin mời vàọ
Vương Trùng Dương điềm nhiên như không, quay sang hai bên vái chào đáp lễ rồi theo bốn vị tăng nhân cùng vào bái kiến Phương trượng.
Đi qua một khoảng sân rộng, tới một đại điện nguy nga cao ngất, trên cửa có một tấm bảng đề bốn đại tự “Đại Hùng bửu điện” sơn son thếp vàng chữ kiểu đại thể rất đẹp. Trước điện có những bậc, xây toàn bằng đá trắng, có tám vị hòa thượng tuổi trẻ, áo cà sa mới sạch, tay cầm lò hương và mõ, hai bên bửu điện trồng những cây Trắc diệp nhỏ.
Tới trước cửa điện, bỗng thấy bốn vị lão hòa thượng dừng bước, một vị nói :
- Vương thí chủ, La Hán đường ở phía trái, xin mời thí chủ cứ tự tiện đi vào một mình.
Trùng Dương thản nhiên cúi chào bốn vị hòa thượng rồi rã sang tay trái, đi thẳng theo lời dặn của lão tăng nhân, được một quãng thì đến đến một con đường hẻm, tuy ban ngày mà vẫn tối om.
Trước đường hẻm có treo một tấm màn bằng vải màu, vải dài có mấy trượng. Chàng biết ngay chỗ này là La Hán đường, đã từng nghe sư đệ Chu Bá Thông nói, những môn đồ nào muốn hạ sơn phải thoát qua La Hán Trận, gồm mười tám vị La Hán mộc nhân thay nhau tấn công mà người không bị dấu vết, tới tham bái Tam Bửu Phật Ấn, Đại Hùng bửu điện rồi mới ra khỏi Thiếu Lâm tự hạ sơn hành hiệp được.
Tới đây Trùng Dương nghĩ thầm “Đây là họ muốn thử thách, nhiều môn đồ của phái Thiếu Lâm đã đi thoát khỏi La Hán trận, lí nào ta lại không đủ bản lĩnh như họ hay saọ” Nghĩ đoạn, chàng đi thẳng vào La Hán đường, định thần chú ý tai mắt rất tinh tường, một tiếng động dù nhỏ đến đâu cũng đều lọt vào tai chàng cả. Chàng vừa bước tới La Hán đường, chân mới bước lên một viên gạch, tấm màn hồng bỗng từ từ kéo sang hai bên.
Ở trong là một La Hán bằng gồ gần giống hệt người thật, mặt sơn đen tối, to lớn hơn người, tay trái đưa ra chân mặt giơ lên như thế “Hoành Thân Đả Hổ” và tiếp theo là “Đăng Sơn Đoạt Hổ”, hai thế võ này đều là lấy ở trong bài La Hán phục hổ quyền, một bài võ danh tiếng của phái Thiếu Lâm, rất mãnh liệt nhằm mặt va bụng của Trùng Dương đánh tớị
Không chút hoang mang Trùng Dương dùng luôn thề “Thủy Tụ Vân Lưu” của Toàn Chân phái đã tránh được cả hai thế của mộc nhân La Hán, thuận tay chàng dùng luôn thế “Chim Điêu Bắt Mồi” nắm chặt lấy chân và tay của mộc nhân La Hán, thế là hết cựa quậỵ
Ở trong La Hán đường lại thấy xông ra hai mộc nhân La Hán nữa, chúng dùng thế “Chân Đàm” của Thiếu Lâm nhằm hạ bộ Trùng Dương công tớị
Không để cho hai mộc nhân tới gần, Trùng Dương đã vận động nội lực nâng bỗng mộc nhân đang nắm giữ trong tay lên.
Mộc nhân này to lớn hết sức, bên trong lại đặt máy móc cơ quan nặng đến mấy trăm cân, nhưng thần lực của Trùng Dương quả là đáng nể.
Chàng nâng bỗng mộc nhân lên coi nhẹ hết sức, nhắm thẳng hai mộc nhân đang lao thẳng tới quăng ra, chỉ nghe đánh rầm một tiếng, cả ba mộc nhân đã chồng lên nhau, vì là người bằng máy, tự di động, ba mộc nhân chân đá tay đấm vào nhau nghe bôm bốp, múa may quay cuồng trong thật là ngộ nghĩnh, buồn cườị
Trùng Dương đánh ngã ba mộc nhân La Hán rồi tự nghĩ những người bằng gỗ này có gì là đáng sợ, lại thấy sau màn nhung liên tiếp bốn mộc nhân nữa xông rạ
Chàng muốn biểu dương thần lực cho phái Thiếu Lâm biết qua sự lợi hai, nên không chờ cho những mộc nhân kia xông ra tới nơi đã giơ tay cùng “Đại Lực thần công” phóng ra một cái, ghê thay cho sức chưởng, chỉ thấy một luồng gió thổi ra ào ào, cả bốn La Hán mộc nhân đều đổ dồn thành một đống tay chân múa máy lung tung, gạch lát trong La Hán đường bị sức mạnh của những mộc nhân La Hán đánh xuống vỡ tan, bụi bay mù mịt, tiếng rầm rầm huyên náo nổi lên.
Chỉ trong chớp mắt, Trùng Dương đã hạ một lúc bảy mộc nhân La Hán của Thiếu Lâm tự, rồi liên tiếp hai vị mộc nhân nưa xông ra, có người tay không, có người mang võ khí, lại có cả mộc nhân phun ra những ám khí ở trong mồm thật là lợi hại, nhưng với ai kia chứ đối với Vương Trùng Dương, một tay đệ nhất cao thủ của phái Toàn Chân thì có ra gì.
Chỉ một loáng mắt, chàng dùng một môn tuyệt kỹ của phái Toàn Chân là “Thủy Tụ Vân Lưu” mang ra đối phó đã làm cho hai mộc nhân trở thành vô dụng, nằm la liệt dưới đất.
Vương Trùng Dương thấy tình hình như vậy thì tức cười, cất tiếng ha hả cười vang.
Bỗng nhiên thấy La Hán đường sáng lên rực rỡ, chàng im tiếng cười quay lại thấy ở ngoài cửa La Hán đường đèn đuốc sáng choang, một số tăng nhân đông đảo đi sau một vị lão hòa thượng.
Vị hòa thượng này râu trắng như cước, hai chòm lông mày dài rũ xuống như che đôi nhỡn quang sáng như điện, nét mặt trang nghiêm tay cầm cây Cửu hoàn trượng, vị này chính là Trưởng giáo chủ tên gọi Tôn Trụ thiền sư.
Đứng sau thiền sư có năm vị cao tăng mặc áo sà ca vàng. Năm vị hòa thượng này đều giữ một địa vị rất cao trong Thiếu Lâm tự.
Vị thứ nhất là giám tự Pháp Thắng thiền sư, thứ hai là tri khách Bản Duyên hòa thượng, thứ ba là hòa thượng hộ pháp kiêm cai trị Hình đường Ngộ Thiện đại sư, thứ tư là tàng kinh lâu Pháp Hoàng đại sư, thứ năm là đạt ma viện tổng giáo tập Huệ Không đại sư.
Năm vị này trong Thiếu Lâm tự thường gọi là Ngũ lãọ
Vương Trùng Dương thấy các vị cao tăng lần lượt tiến vào La Hán đường, theo sau lại còn hơn hai chục vị hòa thượng khác nữa, toàn là những tay bản lĩnh ở Thiếu Lâm.
Các vị cao tăng vào tới La Hán đường thấy 18 mộc nhân La Hán bị đánh đổ lỏng chỏng, la liệt khắp mặt đất thì mọi người đều có vẻ tức giận.
Trùng Dương mặt không biến sắc, điềm nhiên chắp tay vái chào Tôn Trụ thiền sư và kính cẩn thưa rằng :
- Tiểu sinh nhân đi qua cầu đá, vinh hạnh được quí tự mời tớị Nào ngờ vào tới La Hán đường bị 18 vị mộc nhân đả kích, bất đắc dĩ phải tự vệ, không ngờ võ công của tiểu sinh còn quá ư kém cỏi, nên làm hư hết những mộc nhân La Hán, xin Phương trượng rộng lòng tha thứ chọ
Mấy câu nói của chàng thật khiêm tốn và tế nhị, trước hết tự nói vì võ công quá dở nên đã làm hư La Hán mộc nhân, thứ nữa là do môn đồ Thiếu Lâm tự mời tới chứ không phải tự tiện xông vàọ
Tuy vậy chàng vừa dứt lời thì mọi người đều có vẻ giận dữ mở mồm toan nói, Tôn Trụ thiền sư đã lạnh lùng nói :
- Vương thí chủ thuộc môn phái nào, tôn sư tên đạo pháp là chi mà bản lĩnh cao cường như thế? Thí chủ làm hư hết 18 vị mộc nhân của bản tự, xin thí chủ cho bần tăng được biết quý tính cao danh?
Trùng Dương vội cúi đầu thối lui hai bước rồi nói :
- Tiểu sinh họ Vương tên Nhàn người tỉnh Hà Nam, học lóm được vài ba miếng võ công, không thể nói là môn phái nào, vì tiểu sinh đi ngao du thiên hạ nên cũng học nhiều thầy, mỗi thầy một thế. Do đó, không dám quyết ai là sư phụ, kính xin đại sư tha lỗi chọ Hôm nay tiểu sinh được diện kiến các vị cao tăng của Thiếu Lâm tự thật là một điều vinh hạnh, giờ đây, tiểu sinh xin phép cáo từ vì còn nhiều việc gấp phải làm, xin chư vị thứ lỗi...
Chàng nói tới đó cúi đầu bái tạ, quay ngoắt mình toan bỏ đi ra khỏi La Hán đường, bỗng thấy viên đạt ma tổng giáo tập Huệ Không đại sư nhún mình như bay chặn ngay trước mặt và nói :
- Vương thí chủ hãy dừng chân.
Trùng Dương bèn dừng bước ôn tồn lễ phép :
- Việc này chẳng phải do tiểu sinh cố tình gây ra, nay trót lỡ tay làm hư hại mộc nhân của quí tự, nếu đại sư muốn bắt thường tiểu sinh thì cũng phải cho tiểu sinh rời khỏi chốn thiền môn, tiểu sinh mới có thể lấy tiền đền được.
Huệ Không quắc mắt quát to :
- Vương thí chủ, người tự thị võ công cao cường, làm hư hết mộc nhân La Hán của bản tự, như thế là có ý coi rẻ Thiếu Lâm tự không người đối thủ, bần tăng tuy bất tài nhưng cũng mong lãnh giáo vài đường quyền pháp.
Vừa nói dứt lời, Huệ Không không để cho Trùng Dương kịp phân trần, vung hai tay dụng thế “Bách Bộ thần quyền” nhằm chàng đánh tớị
Trùng Dương mỉm cười không cần tránh né, đưa mình ra chịụ Hai tay quyền của Huệ Không đánh ra sức mạnh vô cùng đám vào núi, núi lở, vào đá, đá tan, vậy mà trúng vào người Trùng Dương, hòa thượng cảm thấy như mình đánh vào một khối bông gòn mềm nhũn, hoàn toàn không có một phản ứng gì.
Cả giận, Huệ Không đánh liên tiếp hai quyền cực kỳ mạnh mẽ đều trúng vào người Trùng Dương mà chàng vẫn đứng im không hề lay động, Huệ Không vừa tức vừa quát hỏi :
- Ngươi dùng võ thuật hay yêu thuật thế?
Lúc đó Trùng Dương mới cười ha hả đáp lời :
- Ấy là tiểu sinh dùng Âm Dương chi đạo, Âm mềm, Dương cứng nó chỉ là một môn nội công tầm thường, sao đại sư lại gọi là yêu thuật?
Huệ Không càng giận dữ nói :
- Thí chủ đã tự cho là mình có bản lĩnh, tại sao ta tấn công liên tiếp mấy đường quyền, mà không dám công khai đối địch?
Trùng Dương lại mỉm cười nói :
- Trước mặt cao tăng, tiểu sinh nào dám vô lễ.
Tôn Trụ thiền sư thầm khen ngợi trong lòng, chàng tuổi nhỏ tài cao mà lại không hiểu môn đồ của phái nàọ Do đó thiền sư rất cần biết võ công của chàng nên vuốt râu cười nói :
- Vương thí chủ không nên khiêm nhượng mà từ chối, hãy thử giao đấu với tổng giáo tập của bản tự coi thế nàọ
Trùng Dương đáp :
- Có lời chỉ dạy của đại sư, tiểu sinh đâu dám chối từ, kính mong đại sư chỉ giáo thêm chọ
Nói tới đây chàng quay lại Huệ Không nói tiếp :
- Hồi nãy đại sư dùng thế “Bách Bộ thần quyền” chẳng hay cách xa trăm bước, qua một lớp da bò, đại sư có thể làm tắt cây đèn cầy được không?
Huệ Không nghe chàng hỏi vậy thì thất kinh vội nói :
- Bách Bộ thần quyền của bản môn chỉ có thể đánh xa năm chục bước, qua ba lần giấy làm tắt đèn cầy mà thôị
Trùng Dương nói :
- Nếu vậy Bách Bộ thần quyền của đại sư mới đạt được đến hai thành công lực mà thôị
Huệ Không cả giận nói :
- Bất luận là mấy phần, Vương thí chủ cứ thử xem.
Vừa nói dứt lời, Huệ Không đã nhắm thẳng ngực Trùng Dương phóng ra một chiêu Bách Bộ thần quyền.
Trùng Dương vội nói :
- Xin thất lễ, thất lễ.
Vừa nói chàng vừa đánh ra một chưởng, hai chưởng giao nhau phát ra một tiếng “đùng”, Trùng Dương vẫn điềm nhiên đứng yên mặt không biến sắc, còn Huệ Không thối lui tới 10 bước, mặt đỏ phừng phừng vì xấu hổ.
Tôn Trụ thiền sư thấy Trùng Dương chưa đầy 30 tuổi mà nội lực lại quá cao siêu như thế thật là đáng ngạc nhiên. Theo thiền sư biết thì phái Võ Đang không có một môn đồ nào võ công lợi hại đến như vậỵ
Tuy nhiên, mắt thấy rõ ràng Trùng Dương dùng võ công của Võ Đang mà lại không thể xác định được chàng có phải môn hạ Võ Đang hay không.
Tôn Trụ thiền sư đang ngẫm nghĩ, thì Huệ Không bị Trùng Dương hạ nhục như vậy chịu không nổi, quát to lên một tiếng nhảy vọt tới sát Trùng Dương, nhắm đầu chàng đánh xuống.
Tôn Trụ thiền sư cả sợ quát to :
- Huệ Không, dừng lạị
Nhưng không kịp, tay quyền của Huệ Không vừa đánh xuống, Trùng Dương đã tránh thoát được và bắt lấy người y giơ cao lên qua khỏi đỉnh đầu vận sức ném ra, thân hình Huệ Không bay lên cao rồi lao thẳng ra ngoài cửa La Hán đường trông thật vô cùng khủng khiếp.
Dù cho bản lĩnh thế nào cũng có thể bị nội thương, may thay Pháp Thắng thiền sư trông thấy nhún mình nhảy vọt theo, ôm gọn Huệ Không vào lòng như con chim cắt bắt mồi, cứu y khỏi bị rơi xuống đất.
Mọi người hết sức ngạc nhiên, không dè Huệ Không bản lĩnh cao cường như vậy mà mới giáp đấu với thanh niên tuổi chưa quá 30 này, chưa được một hiệp đã bị hạ ngaỵ
Đó cũng là vì Huệ Không dùng thế “Thiết Sơn Đỗ hải”, một thế võ cực kỳ lợi hại của Thiếu Lâm, đinh ninh thế nào cũng hạ được Trùng Dương để rửa nhục, không dè thân pháp của chàng thật là kỳ diệu, chỉ trong nháy mắt đã lẫn ngay lại sau lưng hòa thượng, vì ỷ y tự đắc nên bị chàng đánh bị dễ dàng.
Càng nghĩ càng hận, Huệ Không định xông vào quyết cùng Trùng Dương giao đấu một còn một mất, nhưng Tôn Trụ thiền sư đã nói :
- Huệ Không mau lên thoái hạ trước Đại Hùng bửu điện và nhận lấy sự trừng phạt.
Luật lệ của Thiếu Lâm tự rất nghiêm khắc, Huệ Không bị bại, ít nhất phải cách chức đạt ma tổng giáo tập, nên Huệ Không nghe lời Phương trượng phán quyết thì không dám chậm trễ cúi đầu tuân theo lời dạy ra khỏi La Hán đường.
Tôn Trụ thiền sư quay lại nói với cai trị Hình đường Ngộ Thiện đại sư :
- Ngộ Thiện, Vương thí chủ bản lĩnh rất cao cường, ngươi có giao đấu thì phải dè dặt, chớ có coi thưởng mà làm giảm danh môn pháị
Ngộ Thiện cúi đầu kính cẩn :
- Xin tuân lời chỉ dạỵ
Nói xong ông bước ra chắp tay vào ngực nhìn Trùng Dương nói :
- Mô phật, bần tăng tuân lời Phương trượng ra đây xin lĩnh giáo Vương thí chủ một ít võ công, bần tăng xin dùng thứ khí giới “Long đầu nguyệt nha sản” này để tỷ thí cùng Vương thí chủ.
Nói dứt lời, Ngộ Thiện hòa thượng rút cây binh khí đó ra cầm ở taỵ
Cây “Long đầu nguyệt nha sản” là một thứ võ khí khá đặc biệt của phái Thiếu Lâm chế tạo ra, dài chưa đầy một trượng, đầu sản hình bán nguyệt, trên nặng dưới nhẹ rất khó sử dụng, phải là một người có bản lĩnh rất cao mới có thể sử dụng nổị
Trùng Dương thấy Ngộ Thiện hòa thượng cầm binh khí ra thách đấu thì chàng cất tiếng cười vang :
- Đại sư muốn tôi dùng đến võ khí chăng, tiếc rằng tôi tới đây để bái kiến thiền môn, không có ý gây sự nên chẳng mang theo võ khí.
Ngộ Thiện hòa thượng cũng tươi cười đáp lại :
- Việc đó không có gì là đáng ngại, bản tự là nơi huấn luyện võ thuật nên sẵn có đủ mười tám môn binh khí, Vương thí chủ muốn sử dụng thứ võ khí nàỏ Bần tăng xin cho người mang rạ
Trùng Dương lại cười đáp :
- Đại sư cao quí quá chú ý tới võ khí như vậỵ Người có võ công đâu cần tới các thứ đó, phàm đã gọi là có bản lãnh cao cường, có thể ném hoa giết giặc, hái lá đánh người, cần gì phải có khí giớị Tiểu sinh tuy bất tài, nhưng chưa hề phải sử dụng võ khí bao giờ, xin đại sư cứ tự nhiên, tiểu sinh xin lãnh giáọ
Lời nói vừa nhún nhường vừa kiêu ngạo, khiến cho Ngộ Thiện hòa thượng nén giận không được quát lớn :
- Bần tăng chưa có bản lĩnh cao siêu, còn võ công của thí chủ chắc đã tới kỳ tuyệt diệu rồị Xin hãy coi đâỵ
Vừa nói dứt lời, liền vung cây Long đầu nguyệt nha sản dùng thế “Độc Long Giác Hải” nhắm giữa ngực Trùng Dương đâm tới, Ngộ Thiện hòa thượng yên trí Trùng Dương kiêu ngạo, tay không, dám chống với binh khí của mình, thì thế nào cũng bị hạ, dầu cho họ Vương bản lĩnh có cao siêu đến bực nào Không dè chỉ thấy Vương Trùng Dương nhảy lùi xuống mấy bước tránh cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng và nghe đánh “Soạt” một tiếng, họ Vương đã rút chiết đai lưng bằng vải vung tít lên, mềm mại như con rắn trắng, uốn éo bay lượn bao bọc khắp chung quanh người, phát ra tiếng kêu như lụa xé Ngộ Thiện hòa thượng cất tiếng cười khanh khách :
- Hay lắm! Hay lắm! Bản lĩnh cao siêu của thí chủ thuộc phái Võ Đang khiến cho bần tăng càng muốn lĩnh giáo Nói dứt lờị Ngộ Thiện hòa thượng vũ lộng thần oai, dùng luôn hai thế võ tối độc là “Kim Kê Trác Túc” và “Vi Đà Phụng Chữ” nhắm cổ họng và cạnh sườn của Vương Trùng Dương đánh tới, sức nhanh như gió. Thấy các vị hòa thượng ở phái Thiếu Lâm cứ luôn mồm bảo mình ở trong phái Võ Đang, Trùng Dương bất giác cười thầm, không cần gì cải chính Lại thấy Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng hai thế võ ác độc giết người đó, thì chàng chẳng dám coi thường, điều động chiếc đai vải gạt luôn cây Long đầu nguyệt nha sản bật văng trở lại, đồng thời lại nhắm toàn yếu huyệt của Ngộ Thiện hòa thượng tấn công liên tiếp Cái đai vải của chàng lúc đó không khác gì một chiếc roi mềm nhưng sức mạnh cũng vô cùng ghê gớm, quật vào đá, thì đá cũng tan, đập vào núi, núi cũng lỡ, phát ra một luồng gió mạnh, kêu rít lên trong không khí Quyết tâm hạ đối phương, để giữ thanh danh cho môn phái, Ngộ Thiện hòa thượng liền sử dụng sáu mươi bốn thế võ Đang Ma Sản, tấn công tới tắp vào người Trùng Dương Tả một ngọn, hữu một ngọn, thượng hạ bốn bề công kích, sầm sập như trời đổ mưa, vi vút như cuồng phong, mãnh liệt như Độc Long xuất động, uốn lượn như mãng xà uốn khúc, lúc trước, lúc sau, khi tả, khi hữu không xê xích khỏi Trùng Dương trong gang tấc Cây “Long đầu nguyệt nha sản” ở trong tay Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng, lúc đó đã biến thành một đạo hào quang lại nhấp nhoáng nhanh như chớp, bao kín khắp người họ Vương khí thế thật là khủng khiếp Vương Trùng Dương từ lúc tuân lời thầy hạ sơn, chưa kề phải sử dụng công phu đối địch với một đối thủ nào tài nghệ đến bực thượng thừa như vậy, nên lúc đó chàng cũng lấy làm thích chí, hiển lộng võ công vào chiếc đai lưng cũng phát ra một đạo bạch quang trắng toát uốn éo, bay lượn chẳng khác chi Tiên nữ sắc hoa, luồn qua, luồn lại hòa hợp với cây Nguyệt Nha Sản, lúc thì đỡ, lúc thì gạt phát ra những tiếng phần phật, lại nhắm những yếu huyệt ở tai và mắt của Ngộ Thiện hòa thượng mà quất tới Phút chốc hai bên đã giao chiến được đến bốn chục hiệp vẫn bất phân thắng bạị Ngộ Thiện hòa thượng đã bắt đầu nóng ruột bồn chồn tức giận, vì tự nghĩ dầu sao mình cũng là đệ nhị cao thủ của Thiếu Lâm ngũ lão, danh tiếng vang lộng khắp giới võ lâm Cây Nguyệt nha sản đã rèn luyện mấy chục năm trời, chưa có mấy ai xứng danh đối thủ, có ngờ đâu ngày hôm nay gặp một tên thư sinh vô danh tiểu tốt, trong giới giang hồ chưa ai biết mặt biết tên, dám ngang nhiên dùng chiếc đai lưng đối địch lại, không hề lùi sút một ly thì coi danh Thiếu Lâm ngũ lão còn gì nữa Câu chuyện hôm nay nếu để lọt ra ngoài sao cho khỏi bị thiên hạ đàm tiếu chê cười Càng nghĩ, càng tức, Ngộ Thiện hòa thượng vận dụng hết công phu tuyệt kỹ, sử dụng triệt để bài Đảng Ma Sản, như gió cuốn mây bay, lại hỗn hợp thêm bài côn “Hàng Long Phục Hổ” vào cây Nguyệt nha sản.
Dưới ánh sáng lửa bập bùng, lúc tỏ, lúc mờ, tiếng gió rít lên trong không khí nghe rùng rợn ghê người tỏa ra ánh sáng lấp lánh như những làn chớp giật Trận đánh trở nên kinh hồn bạt vía đối thủ chỉ sơ sẩy trong gang tấc cũng không còn tính mạng Mọi người nín thở chăm chú theo dõi trận đấụ Khi ấy hình như Vương Trùng Dương không chịu nổi sức khuynh đảo ngọn Sản của Ngộ Thiện hòa thượng nên lùi dần vào chân tường La Hán đường Tất cả các vị hòa thượng trong chùa Thiếu Lâm, tuy trong bụng hết sức vui mừng, nhưng cũng không dám reo hò cổ vũ, sợ phạm vào quy tắc của môn phái Ngay cả hòa thượng chủ trì cũng cho là Trùng Dương không chịu nổi với công phu trác tuyệt của Đệ nhị Cao Thủ trong Ngũ Lão của phái Thiếu Lâm Nhưng thấy chàng là một thanh niên tuổi trẻ mà nghiễm nhiên chiến đấu được từng ấy hiệp cũng đã chứng tỏ là có một võ công tuyệt diệu trên đời hiếm có, nếu không có sự rèn luyện chu đáo và công phu luyện tập chân truyền thì không thể chịu được tới ba hiệp chớ đừng nói là tới hơn ba mươi hiệp Thiền sư là người có độ lượng, lại thương tài Trùng Dương nên không muốn chàng bị sát hại, toan cất tiếng khuyên Ngộ Thiện hòa thượng nới tay một chút thì không ngờ...
Ngộ Thiện hòa thượng quát lên một tiếng cực lớn, rung cây Long đầu nguyệt nha sản thành thế “Đạt Ma Triều Hải” phát vào ngang lưng Trùng Dương lẹ hơn chớp nháng Mọi người chung quanh thấy cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng sử dụng quá sức mau lẹ và dũng mãnh kinh hồn thì đinh ninh phen này dầu cho chàng thanh niên họ Vương kia có tài giỏi tới đâu đi nửa, cũng không sao thoát khỏi tử thần, nên đã có một vài người đã không giữ nổi bình tĩnh thốt lên một tiếng “Trời” nhưng ai nấy hết sức ngạc nhiên vì không ai có thể ngờ nổi Lúc đó cây Sản của Ngộ Thiện hòa thượng chỉ còn cách người Vương Trùng Dương một đường tơ kẽ tóc thì chàng đã đưa tay ra nắm lấy đầu cây Sản một cách hết sức nhẹ nhàng Sức mạnh của cây Sản có tới hàng mấy trăm căn lực không đè vào tay chàng coi như không, Trùng Dương ấn đầu cây Sản xuống đất, tay kia quất luôn cái đai lưng nhằm giữa ngực Ngộ Thiện hòa thượng chỉ thấy đánh vào một cái Ngộ Thiện hòa thượng tay còn đang rút cây Sản ra, thấy chiếc đai lưng bay vụt tới biết tránh không kịp nên Hòa thượng chuyển hết thần lực gồng mình ra hứng chịu không dè sức mạnh chiếc đai quá ư dũng mãnh, Ngộ Thiện hòa thượng bị đánh trúng ngực thấy rát như phải bỏng, đau nhói tới tâm can Nhờ họ Vương chỉ dùng một phần nội lực vì bản tâm của chàng không muốn gây thù kết oán nếu không chắc Ngộ Thiện hòa thượng không còn tính mạng Ngộ Thiện hòa thượng không bao giờ có thể ngờ chàng thanh niên họ Vương này bản lĩnh lại quá cao siêu như thế, bất giác giật nẩy mình, buông lỏng bàn tay Cây Nguyệt nha sản đã bị Trùng Dương giật mất, nhưng chàng là người tử tế, thấy Ngộ Thiện hòa thượng là một cao thủ trong phái Thiếu Lâm có địa vị rất lớn trong võ giới, không thể để mất thể diện nhiều quá, nên chiếc đai lưng của chàng chỉ đánh phớt vào người Ngộ Thiện hòa thượng nhanh hơn chớp nhoáng, và chàng đã thu ngay chiếc đai lưng về, và khi mới giựt được cây Sản trong tay hòa thượng chàng đã trao trả lại lập tức Việc đó xảy ra nhanh không thể tưởng được, tất cả các vị hòa thượng trong chùa không đủ bản lĩnh cao siêu nên không trông thấy Chỉ riêng có vị Trưởng giáo là Tôn Trụ thiền sư và mấy vị trong Ngũ lão nhìn thấy mà thôi Vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, Ngộ Thiện hòa thượng không phân biệt trái phải, dùng một thế tối độc là Vân Huy Tam Vũ nhằm thẳng Vương Trùng Dương đánh tới ba miếng liên tiếp biến ảo không lường, chỉ thấy phát ra một luồng gió mạnh như cuồng phong tất cả những ngọn bạch lạp và đuốc ở trong La Hán đường bị sức gió của cây Sản phát ra chập chờn như muốn tắt đủ hiểu sức mạnh ghê gớm đến thế nào Vương Trùng Dương không dè Ngộ Thiện hòa thượng không chịu phục thiện, đã được mình nương tay không quyết tâm nhục hạ, lại lấy đó làm căm mà dùng thế võ tối độc định hạ sát mình Bất giác, họ Vương cười lên một tiếng lớn, dùng khinh công tuyệt kỹ tung mình nhảy lên trên không, lẹ như con chim cắt tránh thoát, lúc trao xuống chàng đã vung rít cái đai lưng dùng thế “Kim Xà Hí Lãn” nhằm thẳng đầu Ngộ Thiện hòa thượng đánh tới Thế võ này là do cách sử dụng roi mềm biến chế ra, kho nào đã sự dụng thế võ từ trên cao lao mình xuống thấp là một sự rất nguy hiểm ngay trong kiếm thuật cũng chỉ có một thế “Kỷ Kích Bách Viên” trong bài “Việt Nữ Kiếm” mà thôi, nhưng cũng ít có người dám sử dụng.
Bởi thế cho nên Ngộ Thiện hòa thượng thấy Trùng Dương từ trên cao lao vụt xuống như con rắn thì hòa thượng cả mừng không một chút chậm trễ vùng ngay cây Sản lên dùng thế “Kiên Đảng Nhật Nguyệt” đánh thốc trở lên.
Ngờ đâu cây Nguyệt nha sản vừa chạm vào chiếc đai lưng của họ Vương, Ngộ Thiện hòa thượng cảm thấy như tay mình đánh vào một khối sắt năng hàng mấy nghìn cân, bai hỗ khẩu tê buốt, cây Sản không đủ sức chống chọi đã chúc đầu xuống đất Vừa lúc ấy bàn chân của Trùng Dương ở trên cao lao tới dậm ngay vào đầu cây Nguyệt Nha Sản, chỉ nghe thấy đánh xoảng một tiếng cây Nguyệt Nha Sản đã xuyên qua hai phiến đá lát sân ở La Hán đường cắm sâu xuống đất Trùng Dương thối lui lại mấy bước cung kính chắp tay cúi đầu thưa :
- Được đại sư rộng lượng nương tay, tiểu sinh xin bái phục Ngộ Thiện hòa thượng thẹn đỏ mặt, vận động nội công rút cây Nha nguyệt sản về, chỉ nghe thấy hai tiếng “lốp bốp” vang lên.
Hai miếng đá xanh bị Nguyệt Nha Sản cắm ngập đã tan ra làm mấy mảnh bụi bay mù mịt Tất cả các vị hòa thượng đứng coi hết thảy đều lắc đầu lè lưỡi khiếp phục thay cho bản lĩnh của chàng thanh niên họ Vương và cũng không ai đoán được chàng là một nhân vật ở phái nào mà võ công lại cao cường đến như thế Ngộ Thiện hòa thượng liệng cây Nguyệt nha sản xuống sàn La Hán đường đánh xoảng một cái, thở dài nói to :
- Hết rồi, hết rồi, thật là uổng công cho bần tăng mấy chục năm trời vang danh trên giới võ lâm, không dè ngày nay bị thất bại bởi một tay kẻ hậu sinh, đâu còn xứng đáng nhận lãnh chức Hình đường Giám Sự nữạ
Nói xong Ngộ Thiện hòa thượng cúi đầu tạ tội với Tôn Trụ thiền sư và lủi thủi đi đến Đại Hùng bửu điện Tôn Trụ thiền sư không dè chàng thanh niên họ Vương có tài võ cong tuyệt kỹ đến như vậy, một lúc hạ luôn hai vị cao đồ trong Ngũ Lão của Thiếu Lâm tự thì trong lòng cũng lấy làm lạ lùng Tuy là một vị chủ trì ở trong chùa đã từ lâu không can thiệp đến việc hồng trần nhưng thấy môn phái của mình bị hạ như thế, dẫu sao cũng chạm vào lòng tự ái lão thiền sư đã đinh tự mình ra tay giải quyết để cứu vãn lại thanh danh của môn phái, thì Giám Tự Pháp Thắng đại sư đứng ở sau lưng thiền sư bước ra chắp tay cúi đầu nói :
- Xin Phương trượng cho tôi ra lĩnh giáo Vương thí chủ, để được biết bản lĩnh của họ Vương cao siêu tới bực nào Tôn Trụ thiền sư thấy Pháp Thắng chịu ra giao đấu thì trong lòng cũng hơi yên vì bản lãnh của Pháp Thắng còn cao hơn Ngộ Thiện hòa thượng một bực, và lại tự nghĩ rằng :
- Dù cho bản lĩnh của họ Vương có cao cường tới đâu chăng nữa nhưng với số tuổi tác còn trẻ thì dù cho họ Vương có tập luyện võ công từ nhỏ cũng còn kém Pháp Thắng đại sư mấy chục năm rèn luyện Nên lấy làm bằng lòng gật đầu nói :
- Được lắm, sự đệ hãy thử giao đấu xem sao Pháp Thắng đại sư chấp tay vào ngực nói với Trùng Dương :
- Mô Phật, không dè Vương thí chủ tuổi trẻ mà tài cao, khiến cho bần tăng nầy lấy làm hâm mộ, tuy tự lượng bất tài nhưng cũng xin ra lĩnh giáo thí chủ vài miếng chưởng pháp Trùng Dương thấy Pháp Thắng đại sư râu mày trắng như tuyết, dáng điệu nghiêm trang, mắt sáng như điện, da đỏ hồng hào, thì biết là một vị sư đắc đạo cao tăng tự nghĩ :
- Bản tâm ta chẳng phải đến đây gây sự, nhưng vì bắt buộc phải tự vệ không dè một lúc chàng đã hạ hai vị cao đồ trong Thiếu Lâm tự, như thế thật là cũng quá lắm rồi Nên chàng cũng vội vàng vòng tay cúi đầu cung kính thưa :
- Dám bẩm Đại sư, tiểu sinh tài lực có là bao nhiêu, nhờ được sự nương tay của liệt vị đại đức nên không bị uổng mạng là may lắm, đâu còn dám cùng đại sư công khai giao đấu Pháp Thắng đại sư nghiêm nét mặt nói :
- Mô Phật, xin thí chủ chớ quá khiêm nhượng hãy cho bần tăng lãnh giáo vài ngón quyền cước Bất đắc dĩ, Trùng Dương đành phải thủ thế và nói :
- Tiểu sinh đã hết lòng từ chối mà đại sư quyết chẳng nghe theo, buộc lòng tiểu sinh phải tự bảo vệ, xin đại sư thứ cho tội phạm thượng Pháp Thắng đại sư ngắm nhìn tư thế của Trùng Dương đứng thì lấy làm ngờ vực vô cùng, phái Thiếu Lâm hay Võ Đang phái cũng vậy đều dùng Võ Đang trường quyền, vả lại xưa nay phái võ nào cũng dùng thế “Cao Tứ Bình” hay là “Đảo Kỳ Long” Nhưng thanh niên họ Vương không thủ như vậy, mà lại đứng bất đinh bất bát, hai tay thu lại đưa lên ngang ức chẳng giống phái Võ Đang cũng không ra Thái Cực, Pháp Thắng đại sư ngắm nghía một phút bỗng cất tiếng hỏi :
- Vương thí chủ, chẳng hay thí chủ thuộc môn phái nào, theo con mắt nhận xét của lão tăng thì quyết thí chủ chẳng phải môn đồ của phái Võ Đang. Chẳng hay kỳ tôn là ai, xin cho bần tăng được rõ.
Trùng Dương trong lòng rất thầm phục Pháp Thắng đại sư nhận xét rất tinh tế. Nhưng không muốn nói rõ môn phái của mình ra theo như lời căn dặn của sự phụ, nên chàng mỉm cười thưa :
- Quả thật tiểu sinh chẳng học riêng một môn phái nào nên chẳng dám để quyết vị nào là sự phụ, xin đại sư miễn chấp. Vả chăng từ đầu tới cuối tiểu sinh vẫn nói là không phải phái Võ Đang nhưng liệt vị cứ để quyết cho tiểu sinh là môn đồ của phái võ đó, thật tình tiểu sinh chẳng phải là môn đồ của danh sự nào cả.
Thấy Trùng Dương khăng khăng, nhất quyết không nói rõ mình ở môn phái nào thì Pháp Thắng đại sư đỏ bừng mặt cả giận nói :
- Được nếu thí chủ không chịu nói, thì chỉ giao đấu chừng ba hiệp bần tăng cũng có thể đoán được thì chủ ở môn phái nào Nói dứt lời Pháp Thắng đại sư dùng thế “Thần Long Bố Thủ” một miếng võ trong bài “Thiếu Lâm thần quyền” nhắm ngay giữa ngực Trùng Dương phóng ra một chưởng, một trận cuồng phong theo chưởng pháp bay ra, sức mạnh như vũ bão Trùng Dương vội nhảy lùi lại sau mấy bước, cong mình vái chao, người cúi rạp xuống gần mặt đấy đồng thời phất hai tay áo nhắm trung lộ Pháp Thắng đại sư phóng tới, chỉ nghe thấy hai tiếng vù vù cản bật chưởng phong của đại sư trở lại Pháp Thắng đại sư thấy chàng xuất lộ lạ lùng như vậy, lập tức làm cong năm ngón tay lại như móng chim ó xuất luôn thế “Thiếu Lâm Ó Trảo Công” giơ tay muốn chộp luôn lấy tay áo của họ Vương Không dè họ Vương thân pháp lanh lẹ khôn cùng, chỉ thấy chàng quay ngắt mình một cái, tay trái quay một vòng tròn ở trên đầu, đồng thời tay áo mặt bỗng vút nhanh như tên bắn nhằm mặt đại sư phất tới Trông tuy nhẹ nhàng nhưng chưởng phong thật là ghê gớm, phát ra một luồng gió nóng bỏng. Pháp Thắng đại sư giật mình cả sợ vội dùng thế “Thiết Bản Kiều” hạ bán thân không cử động, thượng bán thân ngã rạp về đằng sau, nhường cho chưởng pháp của họ Vương bay qua, bỗng thấy Vương Trùng Dương đã quay tít người đi, lưng hướng về Pháp Thắng đại sư Pháp Thắng đại sư càng hết sức kinh ngạc đã mấy chục năm trời huấn luyện võ công, đã từng giao đấu rất nhiều mà đại sư chưa hề thấy ai xuất thỉ lạ lùng như thế, bèn vội dùng một thế “Kim Pháp Thám Trảo” đánh thẳng ra, bỗng thấy đánh ào một cái, một trận cuồng phong tự trong tay áo của Trùng Dương từ trên bay tới, lại từ dưới bay lên như hai con rắn độc cuốn vào hai bên ức Thế võ lạ lùng này, Pháp Thắng đại sư chẳng bao giờ nghĩ tới, tự nghĩ mình đã tập luyện nội công luôn mấy chục năm trời, có thể nói là đã tới trình độ cao thâm dù cho có trúng tay áo phất này cũng chẳng nhằm gì bèn đưa luôn hai tay chụp lấy Nào ngờ, chỉ nghe thấy hai tiếng “phật, phật” hai tay đại sư đã bị tay áo đánh trúng, Pháp Thắng đại sư thấy nơi bị đánh tê buốt, thì hoảng nhiên giật mình tỉnh ngộ, chỉ một ly nữa, họ Vương đánh trúng huyệt đạo đại sư thì thật là nguy hiểm. Tuy vậy Pháp Thắng đại sư cũng thấy người choáng váng lao đao suýt ngã Trùng Dương đã dùng luôn thế “Kim Lý Xuyên Ba” lao mình vọt ra ngoài và nói :
- Đã ngoài ba hiệp lão thiền sư có thể nhận ra tiểu sinh ở phái nào chăng?
Pháp Thắng đại sư thấy hồ nãy mình có nói lớn lối là sẽ đoán được chàng thanh niên họ Vương này ở trong phái võ nào trong ba hiệp, không ngờ đã chẳng rõ ở môn phái chi, lại ỷ y mình võ công thượng thặng không thèm né tránh tự đưa người đỡ hai tay áo phất của chàng suýt nữa thì còn chi là danh dự (Thực ra Trùng Dương dùng thế võ đó chính là thế “Thủy Tụ Lưu Vân” của Toàn Chân Phái nhưng chàng giấu hai tay ở trong tay áo, đồng thời lại hơi chế biến khác đi một chút nên Pháp Thắng đại sư có học cao biết rộng tới đâu cũng không làm sao đoán nỗi).
Đại sư nén giận không nổi quát lớn :
- Tiểu tử vô lễ dám trêu ghẹo cả bần tăng Vừa nói dứt lời Pháp Thắng đại sư vận dụng công phu dùng “Thiếu Lâm trường quyền” đánh ra một chưởng chỉ nghe thấy tiếng gió nổi lên một hơi nóng ngùn ngụt. Chưởng phong đánh ra có một sức nóng và phát ra như một trận cuồng phong thì biết rằng bản lĩnh của đại sư đã tới kỳ thâm hậu tuyệt kỹ Nên chẳng dám coi thường nữa, vội tọa rạp người xuống tránh, đồng thời cũng vũ lộng thần lực sử dụng bài “Thái Ất quyền pháp” của phái Toàn Chân ra đối địch, trông nào khác cho con rắn nước hơi dưới biển, lã lướt như nhánh liễu nghiêng mình trước gió biến ảo khôn lường Tôn Trụ thiền sư ở ngoài quan sát, trông thấy rõ ràng bèn nói to :
- Vương thí chủ, té ra ngươi là môn đồ của phái Toàn Chân Tôn Trụ thiền sư thật không hổ danh là Trưởng giáo Phương trượng của Thiếu Lâm tự chỉ mới thấy Vương Trùng Dương sử dụng một phần bí pháp của phái Toàn Chân đã hiểu rõ ngay Thiền sư nói chưa dứt lời, bỗng nhiên thấy ở cửa chùa vang lên mấy tiếng chuông, Tôn Trụ thiền sư ngạc nhiên chẳng biết co chuyện gì, đã thấy có bốn vị hòa thượng chạy vào thưa lớn :
- Thưa Phương trượng ở ngoài thiền môn có một vị tự xưng là Thanh Hư chân nhân xin vào yết kiến, xin Phương trượng định đoạt Thanh Hư chân nhân ẩn cư tại Thái Thất Sơn trong hang “Bách Cầm” cách Thiếu Lâm tự chỉ có một ngọn núi, dĩ nhiên Tôn Trụ thiền sư đều biết rõ, nhưng Thanh Hư chân nhân ngày ngày thường đi du lịch khắp mọi nơi tuyệt nhiên không hề đến Thiếu Thất Sơn và cũng không hề giao du với hòa thượng trong Thiếu Lâm tự, nên mọi người ai cũng tưởng ông ta là một tu sĩ tầm thường chứ có dè đây ông ta chính là Chưởng môn phái Toàn Chân Tôn Trụ thiền sư nghe báo như vậy còn đang lấy làm ngạc nhiên phân vân chưa biết quyết định thì Trùng Dương nghe tiếng vội nhảy vọt ra ngoài và nói lớn :
- Xin đại sư hãy ngừng tay, sự phụ tôi đã tới đó Chàng vừa thốt xong câu nói thì toàn thể môn đồ của Thiếu Lâm tự đều giật mình kinh ngạc không ngờ người đạo sĩ của Thái Thất Sơn là Thanh Hư chân nhân ngày thường chẳng ai thấy ông luyện tập võ nghệ bao giờ nay thốt nhiên thấy ông có một đồ đệ còn tuổi trẻ mà công phu đã quá cao siêu Lúc đó Pháp Thắng đại sư đã mang hết tài lực bình sinh quyết áp đảo kỳ được Trùng Dương nào ngờ liên tiếp đến mấy chục hiệp vẫn bất phân thắng bạị
Tuy thấy Trùng Dương đã nhảy ra khỏi vòng chiến và kêu xin ngừng tay, nhưng trong lúc tức giận Pháp Thắng đại sư không nghe tung mình đuổi theo quát to :
- Dù cho sư phụ mi tới đây cũng không sao, ta phải quyết cho mi một vài quyền để trị tội mi đã cả gan phạm thượng Vừa nói dứt lời, Pháp Thắng đại sư quay tít tay quyền phóng một lúc luôn bốn chưởng, đinh ninh phen này dẫu cho họ Vương bản lĩnh có cao siêu đến đâu, cũng không sao thoát khỏi, chỉ thấy một luồng gió lốc bay ra, bụi bay mù mịt, nhằm khắp bốn phía Trùng Dương công kích mãnh liệt Không dè bản lĩnh của Trùng Dương đã tới kỳ tuyệt diệu, thân pháp chàng nhanh nhẹn biến ảo vô lường chỉ thấy chàng thoăn thoắt tránh đông né tâỵ Chẳng những đã tránh khỏi sự tấn công dữ dội của Pháp Thắng đại sư mà chàng còn sử dụng một thế võ tuyệt kỹ là “Cắt Mai chỉ”, đã điểm vào mạch môn hai tay của Pháp Thắng đại sư, vì không có dã tâm gây thù oán cho nên Trùng Dương không vận dụng hết toàn lực chỉ điểm nhẹ mà thôi Tuy nhiên hai mạch môn ở cách tay của đại sư của in hằn lên ngón tay đỏ như huyết và sưng vù lên, Pháp Thắng đại sư cả giận vung tay toan xông vào đánh nữạ Tôn Trụ thiền sư dơ tay ra hiệu ngăn lại và nói :
- Thôi hãy ngừng ta, nay đích thân sự phụ của Vương thí chủ tới đây thì ta dễ giải quyết Nói đoạn, thiền sư lại quay ra nói với mấy vị hòa thượng gác cửa rằng :
- Các ngươi hãy ra mời vị đạo trưởng đó vào Đại Hùng Điện, chúng ta sẽ ra đó nghênh tiếp Nói xong, Tôn Trụ thiền sư đưa tay ra hiện cho tất cả các môn đồ theo thiền sư ra Đại Hùng Điện, Vương Trùng Dương cũng nối gót theo saụ
Ra tới nơi đã thấy Thanh Hư chân nhân ở đó đợi rồi, hai bên đều chắp tay thi lễ, Trùng Dương vội cúi đầu làm lễ sư phụ đoạn đi ra đằng sau Thanh Hư chân nhân khoanh tay đứng hầụ Thanh Hư chân nhân khoan thai nghiêm chỉnh hỏi rằng :
- Kính thưa lão Phương trượng, tiểu đồ ba năm mới về Tùng Sơn một lần, chẳng hay đã có điều cho xúc phạm tới quí tự, mà bị người của quí tự chặn đường đón lối bắt ép tới đây để trừng phạt đó là vì cớ gì, xin lão Phương trượng chỉ bảo cho bần tăng đặng rõ Tôn Trụ thiền sư thấy Thanh Hư chân nhân đôi mắt sáng quắc, tiếng nói sang sảng, hai huyệt thái dương nổi cao thì biết không phải tu sĩ tầm thường, mà người đồ đệ của ông ta một lúc đã hạ cả ba môn đồ cao thủ của mình, nếu nay mình nhất đán cố chấp chưa chắc đã mang được phầm thắng lợi mà còn mang tiếng với võ lâm các giới, nên Thiền sư ôn tồn trả lời :
- Môn đồ của bần tăng thật là lỗ mãng không dè Vương thí chủ là cao đồ của Đạo trưởng nên trót xúc phạm nhưng cũng chưa có điều chi đáng tiếc xảy ra Thanh Hư chân nhân thấy Tôn Trụ thiền sư râu tóc bạc phơ, mà thân hình còn quắc thước, tiếng rổn rảng tỏ ra là một người có nội lực, công phu rất cao thâm, lại thấy Thiền sư nói năng lễ độ thì đem lòng ngưỡng mộ vội chấp tay vái dài rồi nói :
- Thật ra lỗi tại tiểu đồ, hậu sinh chưa biết oai danh của quí tự, nên đã mạo muội xúc phạm, cũng mong lão Phương trượng nể mặt bần đạo mà lượng thứ cho tiểu đồ Nói xong, Thanh Hư chân nhân quay lại trách quở Trùng Dương :
- Cũng may, các vị Thiền sư nương tay, nếu không thì thật uổng công ta dạy bảo Qưở mắng xong, Thanh Hư chân nhân bắt Trùng Dương tạ tội với Tôn Trụ thiền sư. Tuân theo lời dạy của sự phụ Trùng Dương bước ra cuối đầu tạ tội với lão Phương trượng Tôn Trụ thiền sư nghe Thanh Hư chân nhân quở phạt đồ đệ và dùng lời lẽ khiêm nhường, thì cũng thấy hơi thẹn trong lòng gượng cười nói :
- Đây một phần lớn cũng do sự lỗ mãng của lũ tiểu tăng bản sự gây rạ Qúy cao đồ có một bản lĩnh phi thường, thật là hậu sinh khả úỵ Hôm nay bần tăng cũng có chút việc cần, không tiện lưu giữ Đạo trưởng, xin hẹn bữa khác. Đạo trưởng có đi qua xin ghé bản tự đàm đạo nhau nhiều hơn Thanh Hư chân nhân nghe nói biết ý Tôn Trụ thiền sư không muốn tiếp mình nên chắp tay cáo từ lão Phương trượng đáp lễ và sai tri khách tiễn hai thầy trò ra khỏi chùa Thanh Hư chân nhân và Trùng Dương đi khỏi chùa được hơn mười dặm, đến lúc không trông thấy bóng Thiếu Lâm tự đâu nữa, lúc đó Thanh Hư chân nhân mới hỏi Trùng Dương đầu đuôi câu chuyện, chàng vội kể lại cho Thanh Hư chân nhân nghe, nào là khi mới xuống núi gặp Âu Trần hòa thượng đón đường và một số hòa thượng ép buộc phải tới Thiếu Lâm tự, rồi chàng đánh ngã mười tám vị La Hán Mộc Nhân ra sao đồng thời hạ ba vị trong Ngũ lão của Thiếu Lâm tự thế nào, như dùng thần công bại Huệ Không, đại lưng phá Ngộ Thiện, chưởng pháp ghẹo Pháp Thắng thiền sư, nhất nhất kể hết cho Thanh Hư chân nhân nghe Thanh Hư chân nhân tươi nét mặt nói :
- Ta không ngờ võ công của con chóng tiến bộ như vậy, thực thầy cũng không ngờ Con hãy đi đến các tỉnh phía Nam xem xét, ba năm nữa con trở về thầy sẽ truyền thụ cho con môn “Nhất Dương chỉ” là môn tuyệt kỹ của phái Toàn Chân. Lúc đó, con có thể trở thành thiên hạ đệ nhất danh Trùng Dương ý muốn hòi thầy xem tại sao gọi là Nhất Dương chỉ, nhưng tự nghĩ ba năm nữa sư phụ sẽ truyền dạy cho mình. Lúc đó cũng chưa muộn, nên chàng bèn lạy tạ, từ biệt thầy, nhắm phía Nam thẳng tiến. Thanh Hư chân nhân cũng quay về hang Bách Cầm Lần này, Trùng Dương đi từ Bắc sang Nam. Thoạt tiên, chàng đi từ tỉnh Hà Nam tới Hồ Quang, du lãm những thắng cảnh danh tiếng như “Nam Nhạc Hành Sơn” rồi lại từ Hồ Nam vào Bách Nguyệt dào khắp các tỉnh:
Xuyên, Điền, Quế... xem xét nhân tình, ngao du thắng cảnh Thấm thoát đã được ba năm, chàng lập tức quay về Tùng Sơn theo lời căn dặn của sư phụ, thẳng đường vào hang Bách Cầm để bái kiến Thanh Hư chân nhân, chàng bỗng thấy Chu Bá Thông từ trong hang bước ra, nước mắt đầm đìa, vừa đi vừa khóc...
Trùng Dương giật mình kinh hãi, vội chậm lại hỏi cho biết vì sao khóc lóc như vậy...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 11-22-2012, 11:10 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 4, 5, 6

Võ Lâm Ngũ Bá


Hồi 4

Bế Thạch Động Khổ Luyện Nhất Dương Chỉ


Vương Trùng Dương thấy Chu Bá Thông vừa đi vừa khóc thì trong lòng xiết bao kinh sợ. Chàng lo lắng hồi hộp, e có chuyện chẳng lành cho sư phụ, nên vội gọi Bá Thông giật giọng hỏi dồn :
- Sao vậy sư đệ! Có chuyện chẳng lành xảy ra mà em khóc lóc như thế?
Chu Bá Thông thấy Trùng Dương đón hỏi thì lại òa lên khóc rấm rứt, tức tửi rồi nói :
- Sư huynh ơi sư phụ đã đuổi tiểu đệ đi rồi!
Trùng Dương nghe xong thở dài một tiếng cực to như trút bỏ gánh nặng.
Chàng cả cười :
- Tại sao em lại bị sư phụ đuổi đi, chắc có làm điều gì phạm đến quy luật, nên thầy mới nóng giận. Thôi để ngu huynh vào xin thầy cho, hiền đệ hãy ở đây, đợi một lát xem saọ
Nói dứt lời Trùng Dương vào thẳng hang Bách Cầm vấn an sư phụ. Chàng thấy Thanh Hư chân nhân ngồi dưới gốc cây mặt đầy sắc giận, vội vàng sụp lạỵ
Gặp mặt chàng Thanh Hư chân nhân đổi giận làm vui cho phép đứng dậy và hỏi :
- Trùng Dương con đã trở về đấy ư, may lắm...
Trùng Dương kính cẩn đứng dậy chắp tay thưa qua tự sự về ba năm trời du ngoạn các tỉnh phía nam, sau hết, mới tới gặp Chu Bá Thông vừa đi vừa khóc ở cửa hang...
Thanh Hư chân nhân nghe xong liền nói :
- Thằng súc sinh đó tính nết ngang ngược không thể dung dưỡng cho nó được. Nó sẽ làm hư danh môn phái của Toàn Chân mà thôị
Trùng Dương cả sợ vội thưa :
- Chẳng hay Chu đệ của con làm điều chi mà để đến nỗi sư phụ tức giận đến như thế?
Thanh Hư chân nhân nghe hỏi nổi nóng :
- Thực là quá lắm! Thực là quá lắm! Càng nói ra càng thêm tức giận!...
Nguyên do... Chu Bá Thông nay đã hơn hai mươi tuổi mà tính nết vẫn nghịch ngợm.
Từ ngày theo Thanh Hư chân nhân ở trong hang động Bách Cầm rèn luyện võ công, và được nghe chuyện Trùng Dương hạ ba cao thủ Thiếu Lâm tự thì thích chí lắm. Bá Thông có ý muốn sang tỷ thí võ nghệ cho biết tài cao thấp với môn đồ Thiếu Lâm. Thanh Hư chân nhân biết ý hết lời khuyên dạy, Chu Bá Thông sợ thầy chẳng dám làm điều gì. Gần ba năm trôi qua không dè Chu Bá Thông đã gây sự chẳng lành cho hai môn pháị
Căm giận các môn đồ của phái Thiếu Lâm từ lâu, là những ngày gánh nước tại chùa, Bá Thông vẫn hậm hực trong lòng, gặp dịp may là Thanh Hư chân nhân xuống núi mua lương thực, dặn Bá Thông ở trong hang dọn dẹp. Chu Bá Thông đợi thầy đi khỏi mới tự nghĩ, nhân dịp này ta sang Thiếu Lâm tự quấy phá một phen và không xưng danh tánh thì ai biết đó vào đâụ
Nghĩ đoạn, Bá Thông lấy phân và nước tiểu tìm lá to gói vào một gói, đi thẳng tới trước cửa Thiếu Lâm tự. Đến chỗ thạch bia có đề mấy chữ “Từ Quan Phổ Chiếu”, họ Chu mới tung mình nhảy lên một cành cây, cột gói nước tiểu và phân ở trên cao rồi vòng sợi dây xuống gốc cây, ngồi ở đó đợị
Một lúc sau, có hai vị hòa thượng trong Thiếu Lâm tự gánh hai thùng rau cải qua, Bá Thông cầm hai hòn đá nhỏ nhắm đầu hai vị hòa thượng ném tới, những môn đồ của phái Thiếu Lâm người nào võ nghệ cũng cao cường, nên vừa thoáng nghe tiếng gió thổi biết là có ám khí cúi đầu xuống tránh. Lúc ngửng đầu lên thấy Bá Thông ngồi dưới gốc cây cười sằng sặc thì cả giận rút đòn gánh quát lớn :
- Súc sinh, thật là to gan, lớn mật, dám tới đây mà vuốt râu hùm.
Nói xong, hai hòa thượng đều múa đòn gánh chạy lại toan đánh.
Bá Thông lại ném tiếp luôn hai hòn đá nữa, hai người vội vàng cúi đầu xuống tránh, vừa đứng đúng ở gốc cây ngay dưới nước tiểu và phân.
Chỉ chờ có thế, chàng thiếu niên họ Chu giật mạnh cái dây, gói phân và nước tiểu vỡ tung tóe vào đầu và mình hai hòa thượng, không bao giờ có thể ngờ được, hai hòa thượng thét to lên một tiếng, vung đòn gánh nhằm Bá Thông đánh tới tấp.
Nghe đến đây, Trùng Dương không ngờ sư đệ của mình lại tinh nghịch đến thế, nhịn không được thốt nhiên bật tiếng cười, Thanh Hư chân nhân cả giận nói :
- Con lại còn cười à, thằng súc sinh làm ác như thế, nhục mạ hai vị hòa thượng. Họ đâu có chịu để yên.
Nói rồi, Thanh Hư chân nhân lại kể tiếp :
- Hai hòa thượng khi không bị một thằng tiểu tử nghịch quái ác, khắp người toàn phân và nước tiểu thối chịu không được, lồng lộn như con thú dữ, la hét om sòm nhằm người Bá Thông vụt ngang vụt dọc như mưa, không một chút nương taỵ
Bá Thông bản tâm không định giao đấu với họ nên hết sức né tránh, vừa tránh vừa chạy miệng lại còn cười khúc khích. Khi nào chịu bỏ, hai hòa thượng quyết đuổi bắt cho kỳ được và trị một trận nên thân mới nghẹ Bá Thông dùng thuật phi hành chạy từ núi này qua núi nọ, từ Thiếu Thất sơn.
Lúc này ở dưới chân núi có bốn hòa thượng, cũng ở trong Thiếu Lâm tự đang đốn củi, thấy tình hình như vậy, bất cần phải trái đồng ùa nhau chận đánh.
Bá Thông vẫn nhởn nhơ như không, liệng mình nhanh nhẹn như con én, thoăn thoắt khắp cành cây này sang cây khác, đu mình như con vượn, vun vút chạy đi, mồm cười ha hả. Sáu vị hòa thượng càng rượt càng tức, vừa đuổi vừa la vang rầm cả một khu rừng.
Vừa lúc đó Thanh Hư chân nhân về tới nơi, trông thấy tình hình như vậy thì biết ngay là do Bá Thông gây sự nên quát to lên.
Bá Thông tự nhiên thấy thầy mình xuất hiện, thì không còn hồn vía lính quýnh lăn mình từ trên cao xuống dưới đèo...
Trùng Dương nghe nói tới đó, thì vội lên tiếng :
- Thưa sư phụ, chẳng hay Chu đệ lăn xuống có bị thương không?
- Ta chẳng cần biết rằng nó bị thương hay không nhưng sáu vị hòa thượng thấy ta đều ngừng lại, mang đầu đuôi câu chuyện kể lại cho ta nghe và hỏi xem có phải Bá Thông là đồ đệ của chúng ta hay không? Ta đành phải nói: “Nó không phải là đồ đệ mà chỉ là một tên gia nô mà thôi”, đồng thời ta cũng phải xin lỗi họ và hứa sẽ trừng trị tên súc sinh ấy một cách xứng đáng, họ mới bớt giận trở về nhưng dầu sao cũng không thể nào tránh được sự xích mích sau nàỵ
Sau đó, Thanh Hư chân nhân trở về tới hang Bách Cầm cát tiếng gọi Bá Thông. Nhưng không thấy họ Chu đâu cả vì nó cũng biết rằng lúc đó đương lúc Thanh Hư chân nhân nóng giận thể nào cũng bị quở phạt.
Bá Thông ẩn trốn một chỗ. Sáng sớm hôm sau, Bá Thông hai tay cầm những trái khế chỉ rón rén đi vào dâng lên sư phụ để tạ tộị Thanh Hư tức giận đánh luôn hai cái tát. Bá Thông không dám tránh né, hai bên má sưng vù lên, đoạn Thanh Hư chân nhân đuổi Bá Thông ra khỏi hang Bách Cầm không cho ở lại nữạ
Trùng Dương cúi đầu nhìn xuống đất quả nhiên có mấy trái khế bị vỡ nát tung tóe dưới đất, còn mấy trái nữa cắm sâu vào thân cây, thì chàng biết sư phụ tức giận đến thế nàọ
Chàng vội quỳ xuống thưa :
- Xin sư phụ bớt nóng giận, Bá Thông vì tính nết hãy còn trẻ con ưa tinh nghịch, chứ không có tâm địa xấụ xin tha cho một lần, bắt ở trong hang một năm không cho rời khỏi ra ngoài, coi tính nết co thay đổi không rồi sẽ quyết định.
Thanh Hư chân nhân lúc đó cũng bớt giận nên gật đầụ
Trùng Dương đứng lên ra ngoài cửa hang thấy Bá Thông hãy còn khóc thút thít, chàng bước gần tới nơi vỗ vai nói :
- Thôi thôi! Nín đi, sư phụ đã tha tội cho sư đệ, mau mau vào tạ tội thầy, nhớ lần sau không tinh nghịch như thế nữạ
Bá Thông nghe thấy sư huynh nói: Sư phụ đã tha tội cho mình, thì vui mừng hết sức lau khô hai hàng nước mắt nhoẻn ngay một nụ cười hấp tấp, toan chạy vào thì Vương Trùng Dương giữ lại nói :
- Tuy vậy, sư phụ mới chỉ biết tha tội cho sư đệ thôị Còn sự trục xuất ra khỏi môn phái, sư phụ chưa thu hồi mệnh lệnh, và phạt giam em một năm trong hang Bách Cầm để xét tính nết và hành vi sư đệ có chịu biến cải hay không, rồi sau mới quyết định. Sư đệ phải liệu, nếu không sư phụ nổi nóng lên, thì ngu huynh cũng đành chịụ
Nghe xong Bá Thông cả sợ lại òa lên khóc, nước mắt như mưạ Trùng Dương thấy tình hình như vậy cũng thương hại nói :
- Thôi hãy nín đi vào xem sư phụ dạy bảo ra sao đã.
Bá Thông đành lau nước mắt riu ríu theo Trùng Dương vào hang cúi lạy sư phụ xin tha tộị Thanh Hư chân nhân trách móc mấy câu, rồi quay lại nói với Trùng Dương :
- Lần này, thầy sẽ truyền cho con môn “Nhất Dương chỉ công”. Một môn tuyệt kỹ của Toàn Chân phái, mà con có biết Nhất Dương chỉ công là gì không?
Trùng Dương vội thưa rằng :
- Đệ tử ngu dốt, nhưng không biết môn võ công này có giống như môn Nhất Chỉ thiền công hay là “Kim Cương chỉ công” của các môn phái khác không?
Thanh Hư chân nhân lắc đầu nói :
- Không phải, không phải, môn “Nhất Dương chỉ công” của Toàn Chân phái chúng ta khác hẳn với môn “Nhất Chỉ thiền công” và “Kim Cương chỉ công” nhiều lắm. Hai môn võ công kể trên, chỉ chú trọng về ngoại công thôi, môn Nhất Chỉ thiền công huấn luyện tới cao siêu đặt bảy quả trứng gà dưới đất, xếp liên tiếp nhau, chỉ dùng một ngón tay điểm vào quả thứ nhất thì sáu quả trứng kia cũng bể nát.
Trên võ lâm mọi người đều cho là tuyệt kỹ, nhưng thật ra giống như “Thiết Sa chưởng công” đáng vào đá vỡ tan như bột. Còn “Kim Cương chỉ công” thì có thể phá được “Kim Chung Chảo” và “Thiết Bố Sam”. Chỉ lực có thể xuyên qua sắt, thủng qua đá, nhưng gặp một người nội công cao siêu làm cho bắp thịt biến cương thành nhu, tùy theo ý muốn thì “Kim Cương chỉ công” cũng thành vô dụng, duy chỉ có “Nhất Dương chỉ” của phái Toàn Chân thực là đoạt thiên địa, tạo hóa chi miên, uy lực rất lớn, hai thứ chỉ công ở trên so sánh thế nào được. Nhưng muốn luyện được “Nhất Dương chỉ” phải là một người có nội lực siêu phàm mới có thể thành tài được.
Thanh Hư chân nhân lại nói tiếp :
- “Nhất Dương chỉ công” hoàn toàn phải dùng khí của dương cương. Tức là dùng khí “Nguyên Nhân” và khí “Đan Điền” của con người tập trung vào đầu ngón tay, để cấu tạo thành. Nếu đã xuất thủ bất cứ địch nhân nội công có cao siêu đến đâu chăng nữa mà bị “Nhất Dương chỉ công” điểm phải thì mấy chục năm rèn luyện võ công đành bị phế bỏ hết cả.
Trùng Dương nghe qua thốt nhiên tỉnh ngộ bèn thưa với sư phụ :
- Như vậy môn Nhất Dương chỉ công này chỉ có hiệu quả khi điểm vào thân thể con người ta mà thôi có phải không? Dám thưa sư phụ...
Câu hỏi của Trùng Dương thật là đã thấu đáo rất nhiều vì đối với những người bản lãnh đã cao siêu nhất thủ, nhất động của đối phương đều biết trước, một quyền đưa ra, một thế cước đánh tớị Họ đều biết hư hay thực. Như vậy đối với một người bản lĩnh đã tới trình độ đó thì dễ gì tới gần họ để mà điểm ngón tay vào ngườị
Thanh Hư chân nhân nghe Trùng Dương nói như vậy thì có vẻ hài lòng tươi cười nói :
- Như thế là con đã thấu đáo được một phần nào môn “Nhất Dương chỉ công” là một môn võ công tuyệt diệu, nếu luyện tập được tới mức cao siêu ở trong vòng bảy thước có thể điểm trúng địch nhân, khiến cho kẻ địch vô phương chống đỡ, nhưng mỗi lần phải sử dụng tới môn “Nhất Dương chỉ công” này người sử dụng phải tiêu hao rất nhiều sinh lực, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày mới có thể phục hồi nguyên khí.
- Bởi thế nếu không sự gì hết sức nguy hiểm, không thể sơ khoáng mà dụng tới, sau này nếu con có luyện thành công phải lưu ý.
Vương Trùng Dương lẳng lặng nghe lời thầy dạy một cách chú ý.
Kể từ ngày đó Thanh Hư chân nhân bắt đầu mang cách luyện tập môn Nhất Dương chỉ công truyền dạy cho Trùng Dương cách rèn luyện. Thứ võ công này là toàn sử dụng thứ Dương Cương Chí Kinh. Bất cứ lúc nào cũng phải vận dụng từ ngón tay phát rạ
Trước tiên, Thanh Hư chân nhân bắt đầu dạy cho chàng biết cách Vận Khí Thổ Nạp, cách “Vận Khí Thổ Nạp” của Toàn Chân phái, Vương Trùng Dương cũng đã khổ công rèn luyện nhiều năm rồi, nhưng lần này còn khó khăn hơn nhiều, phải làm sao cho Thiên, Địa, Nhân tam khí điều hành thành một uy lực thì “Nhất Dương chỉ” mới có thể hoàn toàn. Thanh Hư chân nhân bắt Trùng Dương vào sâu trong thạch động.
Động ở một chỗ thật kín đáo, chỉ còn dư lại một chỗ ngồi thật hẹp, lại dùng một tảng đá lớn che cửa hang lạị Lúc Chu Bá Thông mang đá che cửa hang thì cậu tự nghĩ :
- “Đây đâu có phải là luyện nội công, nói là tĩnh tọa thì đúng hơn”.
Trùng Dương ngồi ở tận cùng hang đá kín đáo, mới đầu cảm thấy rất khó chịu, vì chẳng những hang đá đã hẹp lại ở sâu vào trong, thiếu hẳn khí trời và ánh sáng, nay lại còn lấy đá che đi nữa thì làm gì còn đủ dưỡng khí. Nếu người thường, ngồi độ nửa ngày bị ngộp thở mà chết.
Trùng Dương hết sức tuân theo lời chỉ dẫn của thầy, thở hít hô hấp, điều hòa có hạn định. Tuy vậy, nếu cứ đóng kín cửa hang như thế thì nhất định không sao chịu nổị
Cũng may mỗi ngàỵ Chu Bá Thông lại mở cửa hang hai lần mang thức ăn vào cho Trùng Dương, lúc đó mới có những trận gió thổi tới mang theo không khí trong sạch ở ngoài vào và thổi bớt những uế trọc ở trong rạ Nhờ vậy sự hô hấp của Trùng Dương mới được khoan khoái một phần.
Liên tiếp như thế được bảy ngày, sang đến ngày thứ tám thì sự ăn uống của Trùng Dương bớt đi chỉ còn có một và sự di chuyển cửa hang cũng bớt đi một phần.
Đến lúc đó, Trùng Dương đã quen cái không khí và không cảm thấy khó chịu như lúc mớị Tuy rằng sự ăn uống giảm bớt nhưng Trùng Dương cảm thấy tinh thần rất sung túc.
Quang âm thấm thoắt ngày tháng như thoi đưa, chẳng mấy chốc đã được ba tháng trời, Trùng Dương chịu khổ cực tập luyện trong hang đá. Chàng bỗng nhiên thấy có một cảm giác rất kỳ dị, tuy ở trong hang đen tối như mực, nhưng Trùng Dương nhìn cảnh vật xung quanh thấy rõ ràng như ban ngày, có thể trông thấy hột cát dưới đất, đồng thời Phương Thôn Linh Đài, mười phần minh định, hai tai rất thính, mỗi một nhịp thở đều nghe rõ mồn một. Trùng Dương tự biết “Nội đơn” của mình đã luyện thành.
Chàng ở trong hang đá liền sáu tháng. Sáu tháng trời khổ luyện trong hang chẳng khác chi một vị hòa thượng khổ hạnh tĩnh tọạ
Từ lúc một ngày ăn một bữa, rồi dần tới hai ngày ăn một bữa, cho đến ba ngày ăn một bữa, đôi mắt và hai tai thật là linh thính. Có thể trông rõ những sự xê dịch của loài côn trùng, nghe muỗi bay ở tận đằng xạ
Lúc đó Trùng Dương tự biết môn “Nhất Dương chỉ công” của mình đã qua đợt thứ nhất.
Chàng liền ngồi xếp bằng tĩnh tọa, giơ ngón giữa và ngón tay trỏ nhằm giữa tảng đá phóng thẳng ra nghe một tiếng đánh “Toẹt” tấm đá đó đã di chuyển đi hai tấc.
Trùng Dương hết sức kinh ngạc tự nghĩ không dè mình mới dùng lần thứ nhất mà đã ghê gớm như vậy, bèn định thử lại một lần nữa xem sao, ngờ đâu những khí dương cương không tập trung được nữạ Chàng vội vận dụng nội công, vận khí thổ nạp liên tiếp thử mấy lần đều không có hiệu quả.
Chàng giật mình kinh hãi nhưng kịp tỉnh ngộ vì dùng “Nhất Dương chỉ công” trước tiên, trong lòng không được lo lắng gì và mỗi lần sử dụng phải rèn luyện lại ít ngày mới thu hồi được nguyên khí. Trùng Dương nghĩ tới đó thì xếp bằng tĩnh tọa hô hấp điều hòa thu hồi nguyên lực.
Hai ngày sau, Linh đài đã dần dần minh tinh, Trùng Dương mới vận dụng “Nhất Dương chỉ” đâm thẳng vào tảng đá, lần này uy lực vô cùng ghê gớm tảng đá đã bắn bắn xa tới bốn tấc.
Trùng Dương mừng quá muốn la lên, bỗng thấy hoa mày chóng mặt, muốn té ra ngất xỉụ Chàng cả kinh vội tụ lại nguyên khí, nhắm mắt định thần, hồi lâu mới hôi tỉnh, sực nhớ lại sư phụ đã căn dặn mỗi lần vận dụng “Nhất Dương chỉ công” là rất tốn kém nguyên thần phải nghỉ ngơi mấy ngày mới hoàn chân khí.
Trùng Dương vội tĩnh tọa, vận dụng lại nguyên khí trong toàn thân để cho lưu thông khắp cơ thể. Được một ngày một đêm, chàng đang ngồi tọa bỗng thoáng nghe thấy chân người nhè nhẹ bước tới, chàng chú ý lắng tai nghe thì nhận ngay ra tiếng bước chân của sư phụ. Chàng nghe rõ chân nhân nói :
- Trùng Dương thật là thiên địa kỳ tài trên đời hiếm có. Ta tưởng ít nhất nó phải khổ luyện hàng năm trời thì mới có thể thi được môn “Nhất Dương chỉ công”, không dè mới có sáu tháng mà đã luyện được tới đợt thứ haị Như thế chỉ ba tháng nữa nó có thể ra khỏi hang đá.
Trùng Dương nghe đến đây bỗng thấy tảng đá lại di chuyển che lấp cửa hang như trước, lại nghe thấy Chu Bá Thông hỏi :
- Thưa sư phụ, Vương sư huynh con đã bao ngày vất vả luyện tập môn Nhất Dương chỉ công, nay mới làm di chuyển được có sáu tấc mà sư phụ lại lấp đi, khiến cho sư huynh con phải mất bao nhiêu công lực nữạ
Nghe tiếng cười ha hả của chân nhân cắt ngang :
- Con biết gì? Không đến ba tháng nữa, sư huynh của con có thể làm cho tảng đá này đổ xuống đất. Tới lúc đó là “Đại công” đã thành rồị
Trùng Dương nghe thấy tiếng chân hai sư đồ trở ra ngoàị
Nhớ lại lời sư phụ đã nói chỉ ba tháng sau mình đã thành công môn “Nhất Dương chỉ công” thì trong lòng biết bao vui mừng, phấn khởị
Qua sai ngày sau, Trùng Dương lại ra tay thử một lần nữa, sau khi vận dụng “Nhất Dương chỉ công” chàng đâm thẳng váo phiến đá, nghe đánh soẹt một tiếng, phiến đá to lớn đã di chuyển sáu, bảy tấc mà hai lần trước chàng phải sử dụng đến hai lần mới được như thế, thì biết rằng công lực của mình đã tiến gấp đôị
Như thế, cứ cách hai ngày Vương Trùng Dương lại sử dụng “Nhất Dương chỉ” một lần.
Một tháng sau, chàng đã có thể di chuyển tảng đá đi được chừng một thước, nhưng mỗi lần chàng di chuyển tảng đá thì Thanh Hư chân nhân lại mang tảng đá đặt về chỗ cũ.
Đến tháng thứ ba, Trùng Dương vận dụng “Nhất Dương chỉ” nhằm thẳng tảng đá đâm tới một tiếng đánh “Rầm” như trời long đất lở (ở trong hang thành ra tiếng vọng rất xa, cứ thấy rầm rầm như tiếng sấm vang rền, lên đến mấy phút) tảng đá đã đổ bắn sang bên. Thanh Hư chân nhân vui vẻ cất tiếng cười ha hả :
- Hay lắm! Hay lắm! Nhất Dương chỉ công con đã luyện thành.


Hồi 5

Đến Tây Sơn Gặp Đại Hội Ăn Mày


Trùng Dương dùng “Nhất Dương chỉ công” đánh đổ tảng đá xong, từ trong hang nhảy vọt ra, nhìn vào phiến đá thấy lỗ sâu, lỗ sâu, lỗ chỗ, nông sâu không nhất định.
Ba tháng đầu chỉ sâu vào độ vài phân, bắt đầu tháng thứ tư sâu vào độ chừng một tấc, đến mấy tháng gần đây đã vào tới năm tấc.
Chu Bá Thông hết sức kinh ngạc, trợn tròn đôi mắt, lắc đầu lè lưỡi :
- Trời ơi! Thứ võ công này chắc đệ tử có khổ công luyện tập cả một đời người chắc cũng không thể nào thành công được!
Chu Bá Thông nói rất đúng vì Trùng Dương may nhờ ăn được Trùng Sâm nên nội công rất cao mới có thể tập luyện nổị Sau này tất cả các đồ đệ của Trùng Dương là “Toàn Chân thất tử” không một ai luyện thành, về thế mà về sau môn “Nhất Dương chỉ công” bị thất truyền (hồi sau sẽ nói tới).
Vương Trùng Dương sau khi luyện thành môn Nhất Dương chỉ công, Thanh Hư chân nhân hết sức vui mừng, mười phần khen ngợi, lại truyền thụ thêm cho khẩu quyết về cách vận dụng. Ước chừng nửa năm nữa, lúc đó Thanh Hư chân nhân lại cho Trùng Dương hạ san. Trước khi lên đường, Thanh Hư chân nhân căn dặn :
- Đồ nhi, lần này ta cho con hạ sơn lần thứ bạ Từ nay con có môn võ công “Nhất Dương chỉ công” thì con đã trở thành võ lâm đệ nhất, không còn ai là địch thủ của con. Bao nhiêu võ công của “Toàn Chân phái” ta đã truyền hết cho con, nhưng con phải nghe ta, không được sử dụng võ công làm điều tàn bạo hay áp bức thế cô! Con phải làm điều nghĩa, vì đời trừ bạo, giúp kẻ khốn cùng, cải hóa người gian ác, vạn bất đắc dĩ mới dùng võ công, không nên trái lời ta dặn.
Vương Trùng Dương kính cẩn, lắng tai nghe lời vàng ngọc của thầy dạy bảọ
Thanh Hư chân nhân nói :
- Lần này xuống núi, con phải đi thẳng tới Bắc phương!
Bốn năm về trước Trùng Dương đã từng đi về phương Bắc nhưng mới đi tới tỉnh Tề, Lỗ (tức vùng Sơn Đông bây giờ). Lần này Thanh Hư chân nhân lại căn dặn :
- Con phải đến tỉnh U Yên nhất là khi “Trường Thành” một vùng Yên - Triệu từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt cần phải kết giaọ
Trùng Dương tuân lời thầy dạy, bái biệt sư phụ ra đị Chu Bá Thông theo tiễn sư huynh tới ngoài mười dặm.
Một tháng sau, Trùng Dương đi đến tỉnh Yên Kinh (tức Bắc Kinh bây giờ), bắt đầu từ đời Tống khai quốc, Yên Kinh không có trong bản đồ Trung Quốc. Đời Ngũ Đạo tàn, hậu Đường tàn, đại tướng Thạch Kính Đường muốn lên làm vua, xin nước Khiết Đan giúp đỡ diệt được hậu Đường, cắt Yên Vân mười sáu thành cho nước Khiết Đan tức là nước Liêu sau này, thủ đô nước ở tại Yên Kinh. Nhà Tống mới khai quốc có mang quân chinh phạt mấy lần nhưng đều thất bạị
Đến đời Tống Chân Tông, nước Liêu lại đem binh đến xâm phạm, bắt buộc vua Tống phải thuần phục, mãi đến đời Bắc Tống mới khuất phục được nước Liêụ
Lúc Trùng Dương đến Yên Kinh, nước Liêu vừa bị nước Kim tiêu diệt, vua nước Kinh đổi tên thành Thượng Kinh.
Trùng Dương từ Thừa Thiên môn định vào thành, bỗng trông thấy một đám người quần áo lam lũ, mặt mày dơ bẩn, đằng sau lưng người nào, người nấy đều mang một cái bị. Từ cách ăn mặc và đồ dùng của họ, ai cũng có thể biết đó là một đám khất thực, nhưng trong tay mỗi người đều cầm một chiếc gậy ngắn sơn màu đỏ chóị
Vương Trùng Dương đã thấy kỳ lạ, đi được một quãng nữa gặp một đám đông khác tay cũng cầm cái gậy màu đỏ như trên. Không dằn được tính tò mò, chàng lại gần hỏi một ông lão bán bánh ở cạnh đường :
- Lão bá! Những người hành khất này, có chuyện chi vui mừng, nên họ mới cầm những cây gậy màu đỏ, có phải thế không?
Người bán bánh gật đầu cười nói :
- Đúng lắm, ngày hôm nay là ngày đại hội của các khất bang. Tất cả các người ăn mày ở Yên Kinh đều họp tại Tây Sơn, ngoại châu thành, cử đại hội để bầu người Bang chủ, là ngày vui mừng của họ, nên ai ai cũng cầm cây gậy màu đỏ.
Trùng Dương lấy làm lạ bèn nói :
- Ồ! Thật là kỳ lạ, đến đi khất thực mà cũng có Bang chủ hay saỏ
Lão trượng bán bánh cười :
- Khất thực tuy là nghề hèn hạ nhưng cũng có Bang chủ cầm đầu chứ, cũng như chúng ta có Hoàng đế. Công tử hãy đến Tây Sơn mà coị Họ chọn Bang chủ thật là náo nhiệt. Cái bang chọn người Bang chủ là phải tỷ thí tài nghệ. Người nào võ công cao nhất mới được chọn làm Bang chủ!
Trùng Dương nghe nói có cuộc tỷ thí võ nghệ thì xiết bao vui mừng, tự nghĩ :
- Thật may cho ta gặp dịp Cái bang cử hành đại hội để chọn Bang chủ, ta phải tới đó xem võ công của họ cho biết!
Nghĩ đoạn, chàng cảm tạ Ông lão bán bánh, và không vào thành nữa, đi thẳng ra Tây Sơn xem đại hội ăn màỵ
Tây Sơn là một vùng ngoại ô Yên Kinh, là một nơi có nhiều danh lam thắng cảnh. Tới nơi, Trùng Dương đã thấy có mấy ngàn người ngồi vòng quanh tại đấy, già có, trẻ có, ăn mặc rách rưới, mặt mày lam lũ, toàn là những người khất thực.
Người nào người nấy đều ngồi trên chiếc bị, tay cầm gậy ngắn sơn màu đỏ, đông vô số kể tới sáu bảy ngàn ngườị Tất cả ngồi im lặng, không ai nói chuyện to nhỏ gì cả. Trùng Dương liếc mắt quan sát.
Chàng bỗng giật mình kinh ngạc, tuy họ ngồi như vậy, mới thoạt trông cứ tưởng như thường, nhưng nhìn kỹ mới thấy là họ đã ngồi theo thế trận “Thái Cực Ất Tự Đồ”. Chính giữa có một cái vòng tròn nhỏ, trong đó mười sáu người ngồi nghiêm chỉnh, chàng đoán chắc đó là các vị lãnh tụ của Cái bang Nam, Bắc. Có mấy người nét mặt thanh tú, tuổi còn trẻ, mấy người thì tuổi đã quá lục tuần, đầu tóc bạc phơ râu mày trắng xóạ
Tất cả mười sáu người đều ngồi chễm chệ Oai nghiêm, chính giữa họ đặt một cây “Lục Trúc trượng”, mọi người đều chăm chú nhìn vào cây trượng đó.
Bỗng thấy mười sáu vị lãnh tụ đều nhất thời đứng dậy, hướng mặt về Tây Sơn, cung kính sụp lạy mấy lạy, rồi mới quay mình trở lại, một vị lão trượng có vẻ nhiều tuổi nhất trong đám đó, râu tóc bạc phơ, cất tiếng sang sảng nói lớn :
- Thưa quý hữu, hôm nay là ngày chúng ta bầu Bang chủ, tất cả quý hữu đã ở trong mười sáu tỉnh Nam Bắc họp tại đây, lúc Khưu bang chủ còn sinh tiền, chưa kịp chỉ định cho ai thừa kế, thì đột nhiên từ trần, bởi thế nên chúng ta phải bầu lại một vị Bang chủ tuyệt đối công bằng, nghĩa là bất cứ ai trong chúng ta đều có quyền tham gia ứng cử, miễn là phải mang cái tuyệt kỹ công phu của mình ra thi thố! Người nào bản lãnh cao siêu hơn hết thì sẽ được tất cả mọi người ủng hộ, được nhận cây Lục Trúc trượng này và trở thành Bang chủ.
Vị Lão trượng đó nói xong, mọi người đều vỗ tay hoan hô, cổ vũ, vang lên như sấm, huyên náo vô cùng. Mười sáu người ngồi giữa đều là những tay cao thủ đại diện cho mười sáu tỉnh, toàn là những người bản lĩnh cao cường, võ công trác tuyệt. Vị Lão trượng vừa cất tiếng nói là người cầm đầu Cái bang của tỉnh Hồ Nam, tên Tề Kim Chung, biệt hiệu “Thiết Hành Cước”, mấy người lãnh tụ của Cái bang các tỉnh ngồi chung quanh đấy thấy Tề Kim Chung dứt lời thì đồng thanh nói :
- Tam Công Công, lão huynh là người đức hạnh, rất xứng đáng là Bang chủ của chúng ta rồi!
Tề Kim Chung vội vàng gạt đi :
- Xin đừng nói thế, tuy liệt vị có lòng yêu mến nhưng đã có câu “trùng dương sóng sau xô sóng trước, hào kiệt anh hùng xuất thiếu niên”, tuổi lão phu đã quá già rồi, đã trở thành vô dụng, đâu còn dám đảm trách chức vụ Bang chủ. Hôm nay đông đủ các anh hùng hào kiệt, xin các vị hãy biểu diễn công phu của mình để toàn thể chúng ta bầu chọn người làm Bang chủ.
Vừa nói dứt, ở trong đám hành khất bước ra một người trạc độ tứ tuần, đầu cạo trọc lóc, người gầy ốm xanh xao nhưng hai đôi mắt sáng như điện.
Hắn ta bước tới trước mặt mười sáu vị lãnh tụ Cái bang, chấp tay vái dài rồi nói :
- Tại hạ họ Chu, tuy bản lãnh chẳng có bao nhiêu, nhưng cũng xung phong ra thi thố một vài tài mọn, xin liệt vị chớ cười!
Mọi người để ý nhìn, và nhận ra đó là Chu A Tú, đã từng có tiếng trên giang hồ, thuộc Cái bang tỉnh Hồ Bắc, A Tú còn có biệt hiệu là “Lại Đầu Quỷ”, mọi người lại vỗ tay hoan nghênh, cổ vũ vang lên như sấm.
Tề Kim Chung giơ cao tay ra hiệu cho mọi người giữ trật tự rồi nói :
- Không nên khách khí, Chu huynh hãy biểu diễn võ công để mọi người thưởng lãm, nếu võ công cao siêu thì chúng tôi sẽ tôn Chu huynh lên làm Bang chủ.
Chu A Tú đáp :
- Không dám, không dám, tiểu đệ ra đây cốt để mua vui mở đầu cho cuộc biểu diễn mà thôi, chứ tài nghệ của tiểu đệ có ra gì mà làm trò cười cho liệt vị, xin miễn thứ!
Dứt lời, Chu A Tú mang ba phiến đá lớn, mỗi phiến ước nặng năm, sáu chục cân, đoạn họ Chu hai tay bê một phiến đá tung lên cao ước hơn ba trượng đến lúc phiến đá rồi xuống, họ Chu đưa đầu ra hứng chịụ
Một tiếng “ầm” khô khan phát ra, viên đá trúng đầu họ Chu bật vỗ ra thành nhiều mảnh, bụi bay mù mịt. Tất cả mọi người đều vỗ tay tán thưởng. Trùng Dương thấy vậy cũng thầm kính phục và biết họ Chu đã dùng thế võ công “Đầu Chùy Quán Đỉnh”. Nội công hắn ta đã luyện tới mức đó cũng quả là mất nhiều công phụ Lại thấy Chu A Tú bưng phiến đá thứ hai tung lên trời, lần này họ Chu dùng nhiều sức mạnh nên phiến đá to lớn bay vút lên không trung, cao ước chừng năm sáu trượng.
Khi tảng đá rơi gần xuống đất, mọi người đinh ninh họ Chu lại dùng chiếc đầu rắn như sắt để đối phó, nhưng không ngờ họ Chu đã lộn đầu xuống đất dùng hai chân đá ngược trở lại, một tiếng “bốp” khô khan vang lên, phiến đá bị hai ngón chân của họ Chu đạp mạnh đã vỡ tan ra làm nhiều mảnh.
Họ Chu lộn phắt người trở lại nhanh như cắt tung nốt phiến đá thứ ba lên và khi phiến đá rơi xuống, Chu A Tú đưa ngực ra đỡ và nghe đến “bùng” một tiếng, đá cũng vỡ tan tành.
Lúc đó mọi người đều vỗ tay rầm rầm và có nhiều tiếng hô to :
- Hảo thần lực! Hảo thần lực!
Nhất là Cái bang ở Hồ Bắc, có người quát lớn :
- Chu ca ca đáng làm Bang chủ lắm!
Trong Cái bang tỉnh Giang Tô có tiếng cười ha hả :
- Khoan đã, tại hạ tuy tài hèn nhưng cũng xin biểu diễn vài môn võ công để quý vị coi chơi!
Vừa dứt lời, một người tuổi ngoại tứ tuần, nét mặt choắt cheo xanh lét như dưa leo, đầu tóc rối bù, người gầy như cây tre từ trong bước ra, Chu A Tú nhận ngay ra người đó là Kim Tam Nguyên có biệt hiệu là Lãnh Vô Thường có tiếng trong võ lâm, nhưng ít cùng ai giao địch, Chu A Tú cũng không dám coi thường, vội chấp tay vái chào rồi nói :
- Kim đại ca, chắc có điều chi chỉ giáỏ
Kim Tam Nguyên cũng vội chắp tay đáp lễ và nói :
- Vừa rồi Chu huynh dùng nội công phá tan phiến thạch, quả là nội lực phi thường, khiến ai không kính phục. Tiểu đệ cũng xin hiến một thuật mọn là tiểu đệ đứng nguyên bất động, nếu Chu huynh dùng đầu húc ba lần đẩy lui được một bước thì tiểu đệ mới bái phục!
Mọi người thấy Kim Tam Nguyên đưa ra điều kiện kỳ lạ như vậy thì vỗ tay ầm ầm cổ vũ. Kim Tam Nguyên lại quay ra nói với anh em Cái bang Giang Tô :
- Các anh em, anh nào có chén, xin lấy cho tôi hai bát nước đầy lại đây!
Không hiểu Kim Tam Nguyên định làm trò gì, nhưng lập tức có thanh niên ở trong Cái bang Giang Tô đã đi mượn hai cái chén chứa đầy nước mang tớị Kim Tam Nguyên hai tay cầm hai chén nước đầy đứng bình thân nghiêm chỉnh nói :
- Không cứ Chu huynh dùng sức mạnh đẩy lùi tôi lại mà Chu huynh làm người tôi hơi nhúc nhích hai chén nước này sánh ra ngoài một giọt cũng kể như là tôi chịu thua!
Mọi người lại vỗ tay ầm ầm khen ngợi Kim Tam Nguyên. Chu A Tú thấy Kim Tam Nguyên cầm hai chén nước trên tay và thách đố mình như thế, tỏ ra đối phương có vẻ khinh thường thì không sao nén được lòng tức giận, tuy cũng tự biết rằng Kim Tam Nguyên đã luyện được một môn võ công nổi tiếng trên giang hồ là môn “Âm Nhu”, nhưng với điều kiện mà họ Kim đưa ra chẳng có gì là nguy hiểm cả, thì cười nhạt mà rằng :
- Kim huynh đệ, đã từng nghe danh tiếng của huynh từ lâu, nhân dịp này tôi cũng xin thử sức một phen!
Nói xong, Chu A Tú cong người nhắm ngay ngực Kim Tam Nguyên tận lực húc thẳng đầu vàọ Mọi người đã vừa thấy cái đầu thật là lợi hại, tuy không nói ra nhưng hết thảy đều nghĩ thầm, dù cho nội công của Kim Tam Nguyên có giỏi đến đâu thì không bị thương là may lắm rồi, chứ với tấm thân gầy gò ốm yếu như thế làm sao đứng cho vững trước sức húc ngàn cân.
Nhưng không ai ngờ, đầu của Chu A Tú húc vào ngực của họ Kim như húc vào một đống bông gòn mềm nhũn chẳng phát ra một tiếng động nào cả.
Kim Tam Nguyên vẫn đứng nguyên tại chỗ, không hề nhúc nhích, hai bát nước đầy trên tay cũng chẳng sánh ra một giọt nàọ Cái bang trong Giang Tô vỗ tay hoan hô nhiều nhất.
Vừa ngạc nhiên vừa tức giận, Chu A Tú hít hơi, tập trung nguyên khí vận dụng lên đầu, nhằm thẳng bụng Kim Tam Nguyên lao tới, sức mạnh như vũ bão, có thể vào núi cũng tan. Chu A Tú đinh ninh phen này có thể hạ được họ Kim để gỡ danh dự, nào ngờ Kim Tam Nguyên phình bụng lên như cái trống đỡ lấy đầu của họ Chu rồi thót bụng vào...
Chu A Tú như cảm thấy một sức mạnh vô hình giữ chặt đầu mình, muốn rút ra cũng không được, hai bên thái dương đau buốt. Họ Kim phình bụng ra một cái thật mạnh, Chu A Tú bật vang ra xa, có tới một trượng ngã ngồi xuống đất. Toàn thể Cái bang đều vỗ tay hoan hô Kim Tam Nguyên ầm ầm như sấm dậỵ
Thẹn quá hóa giận, không nghĩ đến sự cam kết là chỉ được ba lần dùng đầu công, không được dùng quyền cước, Chu A Tú quật mình đứng lên chẳng nói chẳng rằng tung ngay một ngọc cước nhằm tay phải của Kim Tam Nguyên phóng tớị Mọi người đều ồ lên phản đốị
Ngọn cước chỉ cách tay Kim Tam Nguyên trong vài tấc, Lãnh Vô Thường đã nhích tay áo, trong tay áo lao vụt ra một con rắn hoa màu lục nhắm ngay mu bàn chân Chu A Tú mổ tới nhanh như chớp. Không rụt chân về kịp, Chu A Tú hét lên một tiếng ngã lăn ngay xuống đất.
Kim Tam Nguyên đương nhiên dùng rắn độc hại người, Cái bang Hồ Bắc nhao nhao lên phản đối hết sức căm phẫn, đồng thời có mấy tay hảo thủ sắn tay áo xông ra, ý quyết cùng Kim Tam Nguyên một phen sinh tử. Cái bang Giang Tô cũng nhao nhao bênh vực Kim Tam Nguyên.
Hai bên đều hùng hổ tưởng hai bên sẽ gây ra một trận tranh đấu giữa hai phe Cái bang, Thiết Hành Cước Tề Kim Chung thấy tình hình như vậy lập tức tay cầm cây Lục Trúc trượng đập mạnh xuống đất ra lệnh :
- Tất cả anh em hãy ngồi xuống, chúng ta còn gia pháp không nên làm mất trật tự!
Tất cả người trong hai phe đều đứng nghiêm và đồng thời cúi đầu về Lục Trúc trượng, vái một cái lui về chỗ cũ.
Mọi người im lặng nghe Tề Kim Chung phân xử. Thoạt tiên Tề Kim Chung ngó Kim Tam Nguyên hỏi :
- Tại sao người lại phạm vào luật tỷ võ, dùng độc xà hại ngườỉ
Kim Tam Nguyên hướng về Thiết Hành Cước kính cẩn thưa :
- Kính thưa tiền bối, vì họ Chu phạm kỷ luật. Trước tỷ thí, tiểu bối đã giao kết hứa chịu cho Chu A Tú “Tam Hạ Dương Đầu” và không được dùng quyền cước, họ Chu ưng chịu, hai lần tấn công thất bại, hắn lại tự tiện dùng quyền cước, nên bất đắc dĩ tiểu bối phải tung con rắn để tự vệ, tức là “Dĩ Nha Hoàn Nha”, thưa các vị tiền bối như vậy có phải không?
Trùng Dương nghe lão họ Kim nói vậy thì tự nghĩ :
- Tên họ Kim này khẩu khí thật cuồng ngạo, lão có vẻ coi mấy vị trưởng lão của Cái bang không vào đâu cả.
Lúc này mười sáu vị lãnh tụ Cái bang trưởng lão tuy biết rằng lời nói của Kim Tam Nguyên quá cưỡng nhưng Chu A Tú vi phạm luật giao đấu trước nên không biết nói thế nào, thật là tả hữu vi nan.
Tề Kim Chung hừ một tiếng rồi nói :
- Thôi được, không cần phải kể phải trái, Kim Tam Nguyên hãy lấy thuốc giải cứu nguy cho họ Chu đã!
Kim Tam Nguyên ung dung lấy trong bình đựng thuốc đeo ở bên người ra hai viên thuốc gọi hai người tiểu khải đến vực họ Chu dùng cách trong uống ngoài xoa để cứu chữạ
Lúc đó, đùi của Chu A Tú đã sưng húp lên bằng cái vại nước, đau nhức vô cùng, Chu A Tú trong lòng hết sức căm phẫn họ Kim nhưng không làm gì được.
Sau khi hai tiểu khải cho Chu A Tú uống thuốc và xoa bóp thì đùi họ Chu xẹp đi, từ từ hoàn hảọ Hai người đỡ Chu A Tú vào trong, ngồi chung một chỗ với Cái bang Hồ Nam nghỉ ngơi dưỡng sức. Lúc đó, Kim Tam Nguyên có vẻ mãn ý, dương dương tự đắc, đứng ở giữa vòng nói to :
- Còn vị nào tài nghệ cao siêu, xin mời ra cho tại hạ được lĩnh giáo!
Kim Tam Nguyên vừa dứt lời thì trong Cái bang phía Nam bước ra một người cũng gầy ốm xanh xao, trạc độ ba mươi tuổi, cất tiếng cười ha hả :
- Kim lão tam, tiểu đệ muốn yêu cầu lão huynh hãy đem hai con rắn ra cho liệt vị đây cùng xem có được không?
Người nói đó ở trong Cái bang thuộc tỉnh An Huy tên Lộ Ngũ, trên giang hồ nổi tiếng về thuật khinh công nên có thêm biệt hiệu “Truy Phong Lộ Ngũ”.
Tuy vậy, trong Cái bang An Huy, chàng chỉ thuộc về hàng tiểu bối, thế mà cũng ngang nhiên ra tỷ thí với Kim Tam Nguyên.
Họ Kim thấy Lộ Ngũ bước ra và bắt mình phải bỏ rắn cho hắn coi, thì cười nhạt một tiếng mà rằng :
- Ngũ ca, có phải chính huynh cũng nuôi rắn độc nên muốn xem và đọ với rắn của đệ chăng?
Thường thường những người Cái bang ở thời Bắc Tống đều có bản lĩnh điều khiển rắn, họ dùng mồm hoặc ống tiêu bắt rắn làm trò chơi cho mọi người xem để tiện việc xin tiền.
Lộ Ngũ cười và đáp :
- Kim tam gia, tiểu đệ đây chỉ thuộc hàng tiểu bối, bản lĩnh kém cỏi nhưng rất ghét các loại Trường trùng, một người có bản lãnh như Kim ca hà tất phải dùng rắn độc để hại người, tiểu đệ tuy bất tài cũng xin đánh chết hai con độc xà đi để diệt trừ hậu họạ
Kim Tam Nguyên trong lòng hết sức tức giận nhưng cũng gượng cười lớn lên một tiếng có vẻ kiêu ngạo và nói :
- Lộ Ngũ, người định đánh chết con rắn của tạ Hay lắm, đây ta cho ngươi xem hai con rắn và ta thử coi mi đánh chết nó như thế nàỏ
Nói xong, Kim Tam Nguyên cuốn tay áo lên, đã thấy hai con rắn lục màu xanh biếc cuốn ở hai cánh tay, giống rắn này gọi là Thanh Trúc xà, một thứ rắn tối độc, thân thể nhỏ bé như cây trúc, ít người trông thấy con nào dài đến một thước, nhưng đến nay họ trông thấy đôi Thanh Trúc xà dài tới ba thước thì bảo sao mà chẳng ngạc nhiên. Đôi Thanh Trúc xà này Kim Tam Nguyên đã nuôi hơn mười năm naỵ Lúc đó hai con rắn thấy người lạ thì đều cất cao cổ lên thở phì phì. Truy Phong Lộ Ngũ chẳng tỏ vẻ gì sợ hãi điềm nhiên nói với Kim Tam Nguyên :
- Kim lão gia hãy giữ gìn chúng cho cẩn thận, tôi chỉ đếm từ một đến mười là đánh chết con rắn ở bên tay trái lão huynh, và tôi đếm thêm mười tiếng nữa thì con rắn bên tay mặt của huynh cũng chết nốt, cách đánh rắn của tôi cũng đơn giản, tôi chỉ dùng một cây roi bằng mây thôi!
Truy Phong Lộ Ngũ vừa nói dứt câu, chư Bang đều hoan nghênh như tràng pháo nổ, và lại có tiếng người cổ vũ :
- Như vậy thì bản lãnh quả thật cao cường!
Nghe thấy Lộ Ngũ nói chỉ đếm đến hai mươi lần đã đánh chết cặp rắn của mình đã nuôi trên mười năm thì Kim Tam Nguyên vừa giận vừa tức nói :
- Hay lắm! Hay lắm! Quả thật là hậu sanh khả úy! Họ Kim tôi lặn lội trong chốn giang hồ trên mười năm nay, chưa ai hại nổi cặp rắn này, nhưng cũng xin nói dứt khoát, nhà ngươi chỉ được dùng roi mây đánh nó chứ tuyệt đối nhà ngươi không được dùng ám khí hãm hại, nếu mi sai lời hứa thì ta quyết không thể tha thứ được!
Lộ Ngũ mỉm cười gật đầu :
- Được, tiểu đệ xin nhận lời, và xin chú ý, đệ bắt đầu!
Nói dứt lời, Lộ Ngũ rút một cái roi mây nhỏ bằng ngón tay bề dài chừng ba thước vút lên không phát ra hai tiếng “chíu chíu”. Kim Tam Nguyên vừa giang hai tay ra Lộ Ngũ quát lên một tiếng, vung tít cây roi mây, đồng thời tay trái của Lộ Ngũ phẩy mạnh một cái đã bắn luôn ra hai cái kim vào tay trái của Kim Tam Nguyên đúng ngay “Khúc trì huyệt”, họ Kim thật không sao ngờ tới, cánh tay bị tê dại đi, chỉ thấy Lộ Ngũ đếm một hai, cây roi mây của họ Ngũ đã đánh vút xuống ngay vào con rắn ở cánh tay trái của Kim Tam Nguyên. Các loại rắn độc rất kỵ với cây mây, con rắn bị đánh đau quá, quẫy mạnh một cái đã buông tuột xuống đất, Lộ Ngũ đếm tiếng thứ ba, con rắn vừa mới cất đầu lên thì cái roi mây của họ Lộ đã đánh trúng ngay vào cái đầu con rắn nghe cái “Bốp” một tiếng, đầu con rắn đã nát bét. Con rắn giãy giụa vài cái thì nằm ngay đơ, chết liền tại chỗ.
Như thế, trước sau Lộ Ngũ mới đếm đến tiếng thứ ba đã đánh chết một Thanh Trúc xà của Kim Tam Nguyên, mọi người đều vỗ tay hoan hô ầm ĩ.
Kim Tam Nguyên cánh tay trái bị kim châm của Lộ Ngũ bắn nhằm hãy còn tê buốt, lại thấy con rắn quý của mình bị đánh chết thì quát to :
- Tiểu tử họ Lỗ kia, chưa chi mi đã sai lời hứa...
Nói chưa hết câu, bỗng thấy cánh tay mặt của mình lại đột nhiên bị tê buốt không còn cựa quậy gì được, thì ra trong lúc bất ngờ tay mặt của họ Kim đã bị Lộ Ngũ phóng kim châm vào đúng huyệt.
Ngay lúc ấy, Truy Phong Lộ Ngũ đếm lên một tiếng, cái roi mây đã vút đánh vèo một cái trúng ngay con rắn thứ hai ở bên cánh tay phải của Kim Tam Nguyên. Con rắn này rơi xuống đất, Lộ Ngũ đã đếm tiếng thứ hai thì ngọn roi lại quất trúng giữa lưng con rắn, và đếm tiếng thứ ba thì đầu roi đã trúng giữa đầụ
Con rắn đã bẹp dí cái đầu, chết cong queo trên mặt đất. Tất cả Cái bang đều vỗ tay hoan hô, tiếng vang lên như sấm.


Hồi 6

Tây Sơn Quần Cái Hiển Tuyệt Nghệ


Kim Tam Nguyên lúc ấy đã nhổ được bốn cây kim châm, quát lớn :
- Tiểu tử, mi đã sai lời cam kết, dám cả gan dùng ám khí, hãy coi đây...
Nói dứt lời, họ Kim đã nhắm tả Thái Dương huyệt của Lộ Ngũ đánh một chưởng. Lẹ như chớp, Truy Phong Lộ Ngũ nhún mình nhảy vọt ra đàng sau tránh thoát, cười lớn :
- Kim lão tam, tôi đâu có dùng ám khi đánh chết Thanh Trúc xà của lão huynh, tôi chỉ bắn vào cánh tay của huynh đấy chứ!
Tất cả mọi người đều cười ồ cả lên, càng thêm tức giận, mặt của Kim Tam Nguyên lúc đó đổi ra sắc đỏ, lồng lộn như mãnh hổ, trổ hết tài nghệ hoa quyền dùng bài “Long Hổ Hoa Thượng Quyền” nhanh như gió bão nhắm ngay Lộ Ngũ đánh liên tiếp luôn mấy thế cực kỳ hiểm ác.
Lộ Ngũ tả nhảy, hữu tránh, dùng tuyệt kỹ khinh công nhanh lẹ như con vượn, thoát trước thoắt sau, dùng thế “Tiểu Khảo Miên Nhuyễn” để tránh né lối tấn công vũ bão của họ Kim.
Kim Tam Nguyên càng nổi giận đùng đùng gầm thét như hổ rống, voi gầm, hoa tít quyền lăn xả vào tấn công Lộ Ngũ không rời một bước. Chưởng phong bay ra vù vù như gió lốc, nhắm ngay vào những tử huyệt của họ Lộ công kích. Luận về công lực thì Kim Tam Nguyên còn cao hơn họ Lộ một bậc, nhưng Lộ Ngũ thập phần tinh tế, trước hết để tiêu diệt được hai con rắn độc của họ Kim, lại dùng lời lẽ khiêu khích khiến cho Kim Tam Nguyên nóng nảy mất hết bình tĩnh.
Ngoài ra nhờ Lộ Ngũ đối phó bằng cách “Du đấu” có thủ không có công, cốt làm tiêu hao công lực của đối phương. Lúc đó, Lộ Ngũ lại dùng bài “Bát Bộ Cản Thiên” múa lên trông thật là ngoạn mục. Kim Tam Nguyên tấn công ở Đông thì họ Lộ nhảy sang phía Tây, họ Kim tấn công ở phía Tây thì Lộ Ngũ nhảy sang phía Đông, cứ thế nhảy nhót, trận đấu đã được ngoài ba mươi hiệp.
Kim Tam Nguyên tấn côn tới tấp mà không hề trúng người Lộ Ngũ một quyền nào, mồ hôi đã toát ra như tắm, hơi thở chẳng điều hòa, bỗng nhiên thấy Lộ Ngũ quát lên một tiếng dùng thế “Kim Diêu Châu Dĩ” nhắm cằm họ Kim đánh ra một quyền nhanh như chớp.
Kim Tam Nguyên xòe tay, năm ngón tay hơi cúp vào như móng tay chim ưng dùng “Cầm Nã Thủ” chụp vào huyệt mạch của Lộ Ngũ, nhưng không ngờ Lộ Ngũ đánh thế ấy chỉ là thế hư, bàn tay của Kim Tam Nguyên vừa xòe ra định bắt lấy tay họ Lộ thì Lộ Ngũ đã thu tay quyền về và tung ngay hay ngọn “Uyên Ương cước” lẹ hơn chớp nhoáng.
Người ta nghe hai tiếng “binh, binh”, Kim Tam Nguyên lãnh đủ hai cái đá bằng trời giáng. Nội công của họ Kim đã tới bậc cao thâm, nên bị hai ngọn cước của Lộ Ngũ phóng tới mạnh có thể tới mấy trăm cân mà chỉ thối lui lại có mấy bước. Lộ Ngũ thấy bản lãnh của họ Kim như thế chẳng dám coi thường, vội dùng luôn thế “Kim Lý Xuyên Ba” nhảy vọt ra ngoàị
Kim Tam Nguyên lúc đó nộ khí xung thiên, rút ngay ở lưng ra cái “Thiết Liên Hoàn” vung tít lên phát ra những tiếng “xoang xoảng” đinh tai nhức óc, một đạo hào quang trắng toát bay ra như chớp sáng lòẹ
Nguyên cái Thiết Kim Hoàn của họ Kim làm bằng một thứ thép cực kỳ tốt, tất cả là mười tám cái vòng, mỗi cái bằng chén uống nước chè móc nối với nhau, khi múa lên cái nọ đụng vào cái kia làm cho đối phương mất hết tinh thần, lại thêm những cái vòng đó sáng quá, phản chiếu ánh sáng như gương soi nhấp nhoáng như điện càng làm cho địch thủ bị hoa mắt, thật là một thứ khí giới vô cùng lợi hạị Vừa rút Thiết Liên Hoàn lên họ Kim đã dùng ngay thế “Loạn Đả Kim Kê” và tiếp theo thế “Thâu Chiết Liên Hoàn” nghe soạt soạt hai tiếng đầu ngọn Thiết Liên Hoàn như con rắn bạc quất vào lưng và quét luôn xuống hai chân của Lộ Ngũ.
Truy Phong Lộ Ngũ chẳng dám coi thường vội rút luôn cây Đằng Côn dùng ngay thế “Mai Hoa Lạc Địa” cúi người xuống tránh thế công ở trên đồng thời vung tròn cây côn đỡ thế đánh ở dướị
Một tiếng chát đinh tai nhức óc, hai thứ binh khí đánh vào nhau quá mạnh, Truy Phong Lộ Ngũ thấy hay tay tê buốt thì biết rằng nội lực của họ Kim thật là ghê gớm, nên hết sức đề phòng, cố tránh sự va chạm với binh khí họ Kim.
Thấy Lộ Ngũ đỡ được hai thế hiểm độc của mình, Kim Tam Nguyên trong bụng cũng khen thầm. Không để cho Lộ Ngũ thu côn về, Kim Tam Nguyên đã quát lên một tiếng thật lớn dùng luôn thế “Bạch Hạc Xung Thiên” đưa thẳng ngọn Thiết Hoa Hoàn vào “Bách Đường huyệt” của họ Lộ.
Truy Phong Lộ Ngũ thất kinh vội dùng thế “Mãng Xà Phiên Thân” nhảy vọt về phía sau Kim Tam Nguyên.
Thân pháp của Lộ Ngũ quả thật là nhanh nhẹn, thừa cơ họ Kim chưa kịp hồi bộ, Lộ Ngũ đưa ngay đầu côn nhằm trúng vào “Thẩm Âm huyệt” ở bên tai trái họ Kim chọc tới, nhanh như chớp.
Họ Kim bị đâm trúng huyệt thấy mắt hoa đầu choáng, toàn thân tê buốt, cây Thiết Hoa Hoàn rời khỏi tay nghe “Xoảng” một tiếng, đồng thời họ Kim cũng ngã lăn ra đất, không sao gượng được.
Tất cả mọi người trong Cái bang đều cười ổ cả lên.
Ngoại trừ Cái bang Giang Tô hơi phẫn nộ, còn tất cả mọi người đều lấy làm bằng lòng, vỗ tay hoan hô ầm ĩ, vị Cái bang Trưởng lão tuy không nói ra nhưng cũng một lòng nghĩ rằng :
- Lãnh Vô Thường Kim Tam Nguyên cũng đáng để Lộ Ngũ giáo huấn một phen cho bớt tính kiêu ngạo!
Tánh kiêu kỳ, hống hách của Kim Tam Nguyên làm cho ai nấy cũng đều ghét. Họ Kim tự cho mình là tột chúng siêu quần nên mục hạ vô nhân; vì thế lúc đầu người ta đều vỗ tay cổ vũ nhưng sau khi nhìn thấy những lời nói khinh thị của họ Kim thì tất cả cảm tình của những người xung quanh đều nghiêng về phía Lộ Ngũ.
Cái bang Giang Tô thấy Lãnh Vô Thường Kim Tam Nguyên bị hạ một cách dễ dàng như thế, thì lòng tự ái của họ bị va chạm. Họ coi như là một điều sỉ nhục của Cái bang Giang Tô.
Tiếng cười nói, tiếng la ó, tạo thành âm thanh hỗn loạn nhức óc đinh taị
Trong cảnh ồn ào náo nhiệt, những đầu người lố nhố nhốn nháo muốn nhào vô vòng để thi thố tài năng, hay đúng hơn là muốn hạ Lộ Ngũ cho hả lòng căm tức.
Vừa lúc ấy thì có một người từ ngoài nhảy vào xin tỷ thí với Lộ Ngũ. Anh chàng tự đắc hiu hiụ Câu nói tuy khiêm nhượng mà ẩn một vẻ kiêu kỳ, nếu không để ý thì không thấy ở lời nói đó có một ý gì trịch thượng cả :
- Đệ tên Mai Lục Tử, dù tài nghệ không có bao nhiêu, nhưng cũng muốn cùng Lộ Ngũ huynh tỷ thí để lãnh giáo một vài miếng quyền cước. Chẳng hay Lộ huynh có bằng lòng với kẻ hèn này giao đấu một phen không?
Lộ Ngũ tuy tính tình hòa nhã, song nghe Mai Lục Tử nói thế như khiêu khích thì nổi xung thiên nói :
- Khá khen cho họ Mai, người muốn cùng ta giao đấu thì chớ có trách rằng ta hung ác. Tuy ta mệt mỏi song cũng rán cùng ngươi một phen sống mái!
Nói rồi, Lộ Ngũ hồi bộ chờ Mai Lục Tử ra quyền.
Hai người đánh nhau hơn năm chục hiệp mà vẫn bất phân thắng bạị
Mọi người nhìn vào trận đấu không tiếc lời tán dương cổ vũ.
Mai Lục Tử là người ở Cái bang Hà Nam nên được những người trong Cái bang ấy có cảm tình khen ngợi :
- Mai Lục Tử hãy rán lên!
Trong vòng chiến họ Mai nghe thế thì hăng hái vô cùng.
Thêm hai mươi hiệp nữa thì Lộ Ngũ xuống sức thấy rõ ràng.
Lộ Ngũ đã một mình kịch chiến với hai tay bản lĩnh nên làm gì còn sức lực.
Dù sao thì sức người cũng có hạn.
Bỗng dưng họ Lộ đình bộ lại và không đánh nữa, Lộ Ngũ cất tiếng :
- Khá khen Mai huynh là bậc cao thủ, đệ xin nhường chức Bang chủ lại cho Mai huynh!
Nói xong, Lộ Ngũ thoắt một cái đã ra ngoài trận đấụ
Họ Mai được dịp kiêu hãnh, mắt hướng về phía mười sáu vị Trưởng lão Cái bang như thách thức, như chờ đợi lời tuyên bố của Tề Kim Chung.
Trong một khắc, sự im lặng trở nên ồn ào lạ! Mọi người bàn tán thì thầm. Ai nấy cũng đều thấy tức cho Lộ Ngũ là không biết vì sao anh chàng này tự chịu thua như thế!
Trong võ lâm, ai mà chịu thua trước kẻ địch thì coi như bị hạ phục. Song Lộ Ngũ không coi điều đó là quan trọng và mọi người cũng không rẻ rúng anh ta như thế.
Sự Ồn ào càng lúc càng tăng. Bỗng có một anh chàng từ phía Cái bang Hồ Nam nhảy ra :
- Tại hạ Hồng Thông xin tỷ thí với Mai Lục Tử cho rõ cao thấp, chớ không phải ta tranh chức Bang chủ.
Nghe câu nói nửa như hống hách nửa như khiêm nhượng thì Mai Lục Tử nộ khí xung thiên, nhanh như chớp dùng hai tay nhắm thẳng Hồng Thông đánh thẳng ra một chưởng.
Hồng Thông vẫn đứng yên không hề né tránh, chưởng phong đánh trúng người chàng, Hồng Thông kêu to :
- Ồ, đã lâu ngày không rũ bụi, cám ơn Mai huynh phủi hộ!
Không nén nổi tức giận, Mai Lục Tử quát lên một tiếng thật lớn, tận dụng hết sức bình sinh nhằm mặt Hồng Thông đánh tới, bàn tay thép của Thiết Chưởng Tiên Viên lại đánh ngay vào mặt Hồng Thông đánh bốp một cái, Mai Lục Tử hết sức ngạc nhiên vì thấy Hồng Thông vẫn đứng như thường. Không biết chàng ta vận dụng công lực gì mà mặt chàng ta trơn như bôi mỡ, bàn tay của Thiết Chưởng Tiên Viên đánh trúng vào thì hình như bị trơn trượt ra ngoàị
Mai Lục Tử cả kinh vội vàng thu quyền về. Hồng Thông lại đưa tay xoa xoa chỗ vừa bị đánh mà cười khanh khách :
- Ngoại danh của Mai lão nhị là Thiết Chưởng như cứ như ý của ngu đệ có lẽ đánh miếng đậu hũ cũng không vỡ được.
Mai Lục Tử lúc đó biết ngay là Hồng Thông đã dùng một môn tuyệt kỹ công phu là “di gân thoát cốt” thì chẳng còn dám khinh thường nữa, vội nói :
- Hồng huynh, thật đệ cũng không ngờ huynh lại có cái bản lãnh phi thường như thế, hay lắm. Bây giờ hai ta thử đấu với nhau xem ai đáng được làm Bang chủ.
Lại thấy Hồng Thông phá lên cười ha hả :
- Mai lão nhị, huynh thích chức Bang chủ lắm sao, làm Bang chủ có gì mà phải quan tâm đến thế? Cứ như đệ đây, gặp đâu ăn nấy, ăn xong lại ngủ, không ai phiền nhiễu, chẳng thú saỏ
Mai Lục Tử gắt ầm lên :
- Ô hay! Đây đâu có phải là chỗ cho mi bỡn cợt, nếu mi không muốn đấu thì nên ngồi vào chỗ cũ, chớ ra đây làm gì?
Hồng Thông lại cười nói :
- Có thật huynh muốn tỷ thí với tôi không? Hồi nãy tôi đã nhường cho Mai huynh hai chưởng, mà nào có ăn thua gì. Như vậy mà huynh vẫn còn muốn đấu nữa hay saỏ
Mai Lục Tử nghĩ thầm :
- Tên Hồng Thông này tuy trong giới giang hồ chưa ai biết tiếng mà ngay ở trong các Cái bang cũng chẳng có danh vọng gì, nhưng võ công của hắn thật là bất khả đoán xét, vừa rồi ta biểu diễn khinh công, tiêu hao sinh lực khá nhiều, nếu bây giờ giao đấu với y chưa chắc mình đã nắm được phần thắng, không khéo bị hạ về tay hắn, thì còn mặt mũi nào dám ngó đến mọi người nữa!
Nghĩ như thế nên Mai Lục Tử ôn tồn nói :
- Bây giờ nếu ta giao đấu bằng quyền cước thì khác chi “lưỡng hổ tranh đấu, nhất hổ tang thương”, dù thắng hay bại tránh sao khỏi sự thiệt hại, chi bằng hai ta giao đấu bằng cách “phản công đổi chưởng”, Hồng huynh nghĩ thế nàỏ
Hồng Thông gật đầu đáp :
- Muốn tỷ thí thế nào đệ cũng chịu hết.
Mai Lục Tử quay về trong Cái bang lấy ra năm cây đèn cầy, châm lửa cho cháy lên, rồi lấy năm cái giỏ đựng cơm, cắm mỗi ngọn đèn vào trong một cái giỏ, lấy hai cây sào dài ước độ khoảng một trượng, hai đầu sào buộc một cái giây treo năm cái giỏ cách nhau từng quãng một lủng lẳng ở trên, thỉnh thoảng một luồng gió lớn lại chao cái giỏ lắc đi lắc lại, ngọn lửa ở trong bập bùng nhưng không tắt.
Treo xong cái giỏ, Mai Lục Tử nói với Hồng Thông :
- Ta đứng cách xa cái giỏ mười thước và có thể đánh tắt đèn cầy ở trong!
Nói xong, Thiết Chưởng Tiên Viên vén hai tay áo vận nội công lên hai cánh tay, khắp các đốt xương trong người kêu lên răng rắc.
Tất cả mọi người trong Cái bang đều thấy thần thủ của họ Mai quả thật phi phàm.
Khi ấy, Thiết Chưởng Tiên Viên nhún mình nhảy vọt ra nhanh như chớp, chạy quanh hai cây sào đó mấy vòng rồi nhắm cái giỏ thứ nhất đánh một chưởng, “phụt” một cái, cây đèn cầy bên trong cái giỏ đã tắt ngấm mà vẫn cắm nguyên trong giỏ không hề nghiêng ngả.
Các Cái bang thấy thế đều vỗ tay khen ngợi, Mai Lục Tử lại dùng lối “di cung hồi bộ”, người quay tít đi, tay phải đánh ra một chưởng, lúc đó họ Mai chỉ đứng xa cái giỏ độ chừng năm thước, cái giỏ lộn đi một vòng, đồng thời cây đèn trong giỏ cũng tắt ngay lập tức. Thiết Chưởng Tiên Viên lại dùng luôn thế “nhị long tranh châu” tả hữu bất phân, phụt phụt hai tiếng, cây đèn thứ ba và thứ tư tắt liền, thật là tuyệt diệu, cùng một lúc đánh tắt luôn hai ngọn đèn cầy, chàng lại nhẩy lùi một bước, song chưởng cùng đẩy ra một lúc, ở trong hai ống tay áo phát ra một luồng gió nghe “ào” một tiếng, cái giỏ đựng cây đèn cầy thứ năm lộn đi một vòng tắt ngấm nhưng vẫn không hề rơi ra ngoàị
Quần Cái lúc đó đều vỗ tay vang dậy, hoan hô ầm ĩ.
Vương Trùng Dương thấy thế thì cười thầm trong bụng và thầm nghĩ :
- “Nội công của họ Mai cũng khá cao nhưng chưa tới chỗ tuyệt kỹ, vì phải mượn ở chỗ hàng quyền, phải phi bộ liên hồi và dùng sức gió ở trong tay áo, làm cho cái giỏ phải lộn đi mấy vòng mới làm tắt được ngọn đèn cầỵ Như thế chứng tỏ nội lực của họ Mai không phải liên tiếp đánh tắt năm ngọn đèn cầy mà phải dùng đến bốn lần, bất đồng phương thức mới hoàn thành, như thế chưa đạt được “Phá không chưởng”.
Trùng Dương vừa nghĩ tới đó, nghe Hồng Thông cười ha hả và nói lớn :
- Trời ơi! Như thế mà Mai lão huynh gọi được là “Thần không đổi chưởng”? Mai huynh ơi, huynh hãy về luyện thêm độ mười năm nữa hãy ra biểu diễn, kẻo làm trò cười cho thiên hạ!
Mai Lục Tử nổi giận đùng đùng quát lớn :
- Mi chỉ được cái khéo khoe môi, múa mép, ta sử dụng “cách không đả hỏa” như thế mà mi lại cho là không phải “Phá không chưởng”. Nói như vậy thì lấy gì làm bằng, nếu mi có bản lãnh, hãy làm thử cho ta coị
Hồng Thông vẫn cười khanh khách :
- Cái trò trẻ con này có gì mà làm không được.
Nói xong, Hồng Thông gọi một người ở trong Cái bang mang lửa tới, thắp cả năm ngọn đèn cầy ở trong năm cái giỏ rồi chàng đứng cách xa hơn mười thước, đưa cánh tay trái ra dùng “chưởng lâm hướng ngoại” kéo giật trở về, tức thì một trận gió nổi lên, ngọn đèn cầy ở giữa tắt ngay lập tức mà cái giỏ không hề rung động.
Mai Lục Tử trông thấy giật mình kinh sợ, lại thấy Hồng Thông hai tay nhắm ngọn đèn cầy thứ hai và thứ ba đẩy nhẹ một cái, tức thời hai cây đèn cầy này cũng tắt ngaỵ Mai Lục Tử đánh tắt ba ngọn đèn cầy phải đổi đến ba lần thí pháp còn Hồng Thông chỉ có hai lần, như thế sự thắng bại đã rõ ràng.
Hồng Thông lại bước xa độ một trượng dùng thế “quái mãng trở mình” hai chân xoay tròn đi một vòng, quay lưng lại đàng sau, đánh vụt lại hai chưởng. Hai ngọn đèn cầy lại cùng tắt ngay một lúc mà hai cái giỏ hơi rung nhẹ, còn cây cột và dây không hề rung động thì mọi người đều thấy rõ chưởng phong của Hồng Thông cao hơn Mai Lục Tử một trời một vực rồi vậỵ
Mai Lục Tử thây toàn thể quần Cái vỗ tay hoan nghênh Hồng Thông gấp mười lần lúc trước, trong lòng lấy làm bực tức, bèn nói lớn :
- Họ Hồng kia, đừng vội tự đắc, dùng “cách không chưởng” hay là “chưởng lâm hướng ngoại” chẳng qua chỉ là trò tiểu xảo, nếu muốn ta khiếp phục, hãy cùng ta giao đấu bằng binh khí mới biết rõ tài cao thấp.
Vừa nói dứt lời, Mai Lục Tử rút ở lưng ra một cái roi gọi là “Cô Lâu bổng”.
Cái roi này, hình thức thật là đặc biệt, chiều dài độ bảy thước, dùng một loại thép cực tốt đánh thành từng cái vòng tròn như hình đầu lâu, lúc thường quấn vào người như cái thắt lưng. Mai Lục Tử đã có biệt danh là Thiết Chưởng Tiên Viên lại rất giỏi về Bạch Vượn quyền pháp.
Ngoài ra, nhờ cái roi “cô lâu” này mà Mai Lục Tử nổi danh trên khắp chốn giang hồ. Nay bị Hồng Thông, một gã vô danh hạ nhục nên họ Mai mới quyết đem hết tuyệt học của mình ra để cùng họ Hồng một phen tử đấụ
Hồng Thông thấy Mai Lục Tử rút roi cô lâu ra thách đấu thì cất tiếng cười ha hả.
Mai Lục Tử thấy tiếng cười của Hồng Thông đầy vẻ ngạo mạn, tức thì nổi giận đùng đùng quát to :
- Tiểu tử chớ khá vô lễ, hãy đi lấy binh khí ra đây cùng ta giao đấu thử vài trăm hiệp xem sao!
Hồng Thông lắc đầu cười :
- Trước mặt các vị Cái bang, nếu cầm đao hay trượng giao đấu thì chẳng phải thất lễ lắm sao, một người đã có bản lãnh cao cường đâu cần phải dùng đến khí giới!
Nói xong, Hồng Thông ung dung bước tới rút một cây tre đeo các giỏ đựng đèn cầy hồi nãy bẻ ra làm đôi rồi lấy khúc tre ngắn, dài độ bốn thước cầm trên tay và nói :
- Đệ chỉ cần dùng đoạn tre này là có thể giao đấu với ngọn roi của Mai huynh rồi!
Mai Lục Tử thấy Hồng Thông đương nhiên cầm một đoạn tre cụt để giao đấu với mình, thật tỏ ra có vẻ coi thường mình quá sức thì càng thêm phẫn nộ. Hơn nữa, Mai Lục Tử ỷ y mình với tuyệt nghệ, khinh công cùng với quyền pháp quán thế, đinh ninh phen này sẽ chiếm chức Bang chủ của Cái bang, vì mười sáu vị Trưởng lão không vị nào có lòng ham muốn chức vụ đó cả. Họ chỉ lấy tư cách là các vị nguyên lão của Cái bang đến dự và chứng kiến cuộc thi tài này thôị
Còn về tất cả các tay hảo thủ trong Cái bang, họ Mai đều hiểu rõ tài nghệ từng người một, không người nào có thể đương cự với y chớ đừng nói là ngang tàị
Chức vụ Bang chủ Mai Lục Tử đã nắm chắc trong tay, không ngờ ở đâu Hồng Thông lại xuất hiện.
Riêng về mặt chưởng phong đã làm cho họ Mai hổ thẹn biết baọ Nhưng nay thấy họ Hồng hoặc vì chưa rõ tài nghệ quán chúng và cái roi cô lâu quỷ khiếp thần sầu đã khiến cho biết bao tay anh hùng hảo hán trên võ lâm phải kiêng oai khiếp mặt, cả gan coi thường dùng khúc tre để giao đấu với mình thì trong bụng cả mừng liền nói lớn :
- Hồng Thông có phải ngươi ỷ mình võ nghệ cao cường, dám dùng đoạn tre đó mà giao đấu với ta chăng?
Hồng Thông cười lớn :
- Chẳng những đệ dùng đoạn tre này để giao đấu cùng đại huynh, cho dẫu tay không cũng có thể thừa tiếp đại huynh vài trăm chiêụ
Mai Lục Tử thấy Hồng Thông trả lời mình đầy vẻ khinh khi, coi mình bằng nửa con mắt thì tức giận tràn hông, hét lên một tiếng cực lớn, vung tít cây roi lên, những khúc đầu lâu va vào nhau kêu xoang xoảng nghe kinh người, nhắm thẳng đầu Hồng Thông đánh tớị
Hồng Thông mắt sáng như sao, đợi cho ngọn roi của Mai Lục Tử cách đầu chàng chừng nửa thước lúc đó mới nghiêng mình sang một bên né tránh, đồng thời thúc ngay đầu ngọn tre vào mặt Mai Lục Tử lẹ như chớp.
Họ Mai vội dùng thế “Tây Ngưu Vọng Nguyệt” thụp người xuống tránh, và dùng luôn thế “Thái Sơn Áp Đỉnh” đánh bổ xuống như hòn núi rời non, sức gió rít lên khủng khiếp.
Hồng Thông tức thì quay ngắt người lại, thân pháp chàng lẹ như bay dùng thế “Mãng Xà Phiên Thân” trốn thoát.
Mới qua hai hiệp, Mai Lục Tử đã biết Hồng Thông không phải là kẻ tầm thường, vội đem bài “Bát Quái Như Ý bổng” ra sử dụng, chỉ thấy một làn chớp sáng lòe, ngọn roi sáng quắc, phản chiếu ánh sáng mặt trời, phát ra một làn bạch quang che kín khắp châu thân, lấp loáng như những luồng chớp, nhằm Hồng Thông công kích, thật là dữ dộị
Những khúc đầu lâu va vào nhau thành tiếng xoang xoảng đinh tai nhức óc, phút chốc biến ra trăm nghìn ngọn roi tới tấp như mưa sa bão táp.
Hồng Thông nhãn thần không bấn loạn, ung dung múa đoạn tre lên nghinh địch. Cây tre đó lúc tựa như một con Độc Mãng, Linh Xà uốn khúc len lỏi vào những đường roi của họ Mai, vừa đánh vừa đỡ, lanh lẹ như Lưu Thủy Hành Vân, biến hóa chẳng khác cho Long Sa Du Tẩụ
Thân pháp của họ Hồng quả thật là biến ảo dị thường, như bóng ma khi ẩn khi hiện, lẫn lộn lên xuống với ngọn roi của Mai Lục Tử như hình với bóng. Đoạn roi tre như quyện chặt lấy người, biến thành một luồng thanh quang quay tít như chong chóng.
Thiết Chưởng Viên Tiên tức giận khôn cùng, hét lên một tiếng cực lớn dùng “Bát Bạt Thập Lục Tứ Lộ Như Ý bổng” quay tít ngọn roi đông, tây, nam, bắc, thượng hạ bốn phương, tám hướng xoắn chặt lấy Hồng Thông quyết tâm đánh bật cây tre ra khỏi tay chàng, và thưởng cho họ Hồng một vài cây roi sắt cho bõ ghét, nhưng qua đến mấy chục hiệp cũng chưa đụng được tới quần áo của họ Hồng.
Còn cây tre trong tay của Hồng Thông cũng biến ảo lường, luôn luôn theo đà ngọn roi mà gạt theo chứ không hề đỡ lại thành ra không hề sứt mẻ mảy maỵ
Mai Lục Tử nghiến răng quyết một mất một còn với Hồng Thông, bao nhiêu tài nghệ bình sanh thi thố ra hết. Họ Mai dùng lối hoa thương đánh liên tiếp không hở một giây, một phút nào, đồng thời lại nhằm tất cả các tử huyệt của Hồng Thông mà điểm tớị
Ở ngoài các Cái bang chỉ thấy hai cái bóng, soắn tít với nhau không thể phân biệt được người nào, thì hết thẩy đều thán phục, vỗ tay cổ vũ vang lừng.
Bỗng thấy Hồng Thông cười ha hả nói lớn :
- Ủa! Kìa Mai huynh, người cũng biết sử dụng lối điểm huyệt nữa à. Thật là hôm nay kẻ cắp bà già gặp nhau, chúng ta cùng một nghề mà!
Mai Lục Tử lúc đó trong người hơi hoảng sợ vì đã mang hết tất cả các công phu tuyệt kỹ ra sử dụng ngót năm mươi hiệp mà vẫn chưa chạm vào người Hồng Thông để điểm huyệt, nay nghe họ Hồng nói vậy thì cả kinh, vội ngả người sát đất vung ngọn roi dùng thế “Đoạt Mệnh Mê Hồn” lăn sát vào người Hồng Thông đảo tít ngọn roi, nhấp nhoáng như điện xoẹt, thượng hạ tiền hậu bốn phía tấn công rất mãnh liệt, bỗng có tiếng nói của Hồng Thông oang oang :
- Mai Lục Tử! Bản lãnh của ngươi như thế làm Bang chủ sao được, từ nãy tới giờ tại hạ đã nhân nhượng nhiều rồi, cho đến môn điểm huyệt của nhà ngươi quá dở, nay tại hạ cho ngươi biết trước, chỉ trong thập chiêu tại hạ sẽ điểm huyệt đạo nhà ngươị
Mai Lục Tử thấy Hồng Thông nói thế thì lửa giận bừng cháy, lồng lộn như con hổ dữ, hét lên một tiếng chuyển hết thần lực dùng thế “Đồng Tử Hiến Đào” nhằm bắp đùi Hồng Thông quất một roi cực kỳ mãnh liệt.
Nhanh như một con vượn, Hồng Thông nhún mình nhảy vọt lên cao ước hơn hai trượng tránh khỏi ngọn roi dễ dàng. Mai Lục Tử định quất thêm một ngọn roi nữa thì bỗng thấy một luồng thanh quang bay tới trước mặt họ, họ Mai cả kinh vội lộn phắt người về phía sau tránh thoát, ngọn tre đâm sát vào vành ta nghe một tiếng vù.
Bây giờ, Hồng Thông sử dụng đoạn tre xanh vùn vụt như con rồng uốn khúc nhằm vào những yếu huyệt của Mai Lục Tử tấn công liên tiếp. Thiết Chưởng Viên Tiên lúc đó chỉ còn lo tránh đỡ, chân tay luýnh quýnh, mồ hôi đã đọng thành giọt trên trán, hơi thở mất điều hòa, khi ấy Hồng Thông lại dùng “Thanh Long quyện vỹ” thúc đầu roi vào bụng dưới nhằm vào “Quan Nguyên huyệt” đâm tớị Mai Lục Tử cả kinh vội nhún mình nhảy vọt lên để né tránh.
Chẳng dè đó chỉ là một đòn hư, Hồng Thông quát to lên một tiếng “trúng”, đoạn tre đã trở thành thế “Thần Long Thám Châu”, đánh “bịch” một cái đầu tre đã đâm trúng đùi của Mai Lục Tử vào “Cự Cốt huyệt”.
Thiết Chưởng Viên Tiên chỉ kêu lên một tiếng “ối chao” rồi ngã lăn quay xuống đất.
Mai Lục Tử vừa ngã xuống thì tiếng vỗ tay hoan hô của Cái bang vang lên như sấm.
Vương Trùng Dương cũng tự khen thầm trong bụng :
- Thật là Thấp Thấp chi ấp, tự hữu Trung Tín. Không dè trong Cái bang khất thực mà cũng có nhiều kỳ tài như vậy! Bản lãnh của họ Hồng trong giới võ lâm danh thủ ít người sánh kịp!
Hồng Thông lúc này đã uốn cong người nhằm chỗ mười sáu vị Cái bang trưởng lão vái tạ; đoạn hướng ra tứ hướng nhằm các Cái bang rồi rút lui vào chỗ Cái bang Hồ Nam, còn Mai Lục Tử cũng đã tự giải được huyệt đạo, bẽn lẽn khập khiễng lẩn vào trong Cái bang Hà Nam.
Mười sáu vị Trưởng lão Cái bang châu đầu vào nhau thì thầm bàn tán một lúc, rồi Thiết Hành Cước Tề Kim Chung đứng lên dõng dạc tuyên cáo :
- Cuộc tỷ thí đã có kết quả, thay mặt các vị Trưởng lão Cái bang, tại hạ xin tuyên bố: Kể về võ công và bản lãnh của Hồng Thông thuộc bang Hồ Nam đều tuyệt diệu đáng thừa kế chức Bang chủ của chúng ta hiện tại, nếu còn vị nào chưa phục xin mời ra tỷ thí, bằng không Hồng Thông sẽ lãnh nhận “Lục Trúc bảo trượng”!
Tề Kim Chung nói thế to ba lần. Trong tất cả Cái bang đều im lặng như tờ, con ruồi bay qua cũng nghe thấy tiếng, tất cả Cái bang hết thảy đều biết Mai Lục Tử ở hàng cao thủ, bản lãnh ít người sánh kịp vậy mà còn thua Hồng Thông một cách dễ dàng.
Vả lại, nhờ ở ngoài nhận định mới thấy rõ tài nghệ của Hồng Thông sánh với Mai Lục Tử thật là cách xa một trời một vực, vì vậy không ai dám ra tỷ thí nữạ
Mười sáu Lão trượng của Cái bang thấy Tề Kim Chung đã rao đủ ba lần thấy không ai xuất đầu lộ diện, hết thảy đều đứng lên, mỗi người trải ra trước mặt một cái bao vải, rồi đồng thời quỳ một lượt nhằm vào cây “Lục Trúc bảo trượng” ba cái mới đứng lên. Lúc đó, Tề Kim Chung lớn tiếng tuyên bố :
- Thay mặt Cái bang, kính mời Hồng Thông lên nhận chức Bang chủ!
Hồng Thông ở trong Cái bang Hồ Nam bước ra nhắm vào mười sáu vị trưởng lão vái dài một cái rồi cung kính nói :
- Tiểu tử tài sơ trí thiển đâu dám lãnh chức Bang chủ.
Thẩm Bạch Tuyền nói :
- Lúc này không phải là lúc khiêm nhường nữa! Các Cái bang đã có quy luật, vậy kính mời Hồng bang chủ làm lễ nhận “Lục Trúc trượng”.
Hồng Thông vội vàng tới đưa hai tay đỡ lấy cây trượng, ngoảnh mặt về hướng Đông vái lạy ba cái rồi hướng về các vị Lão trượng vái dài rất cung kính, mười sáu vị lão trượng cũng vội vàng đáp lễ.
Tề Kim Chung nói qua nhiệm vụ và bổn phận của Bang chủ cùng quy luật của Cái bang cho Hồng Thông biết rõ. Hồng Thông nhất nhất ghi nhận.
Tất cả Cái bang đều có vẻ phục tòng cất tiếng hoan hô nhiệt liệt. Như thế là Cái bang đã lập xong Bang chủ. Vương Trùng Dương thấy không còn gì đáng coi nữa liền rồi khỏi Yên Sơn trở lại thành Yên Kinh.
Sau khi trở về thành, Trùng Dương nghe theo lời đồn của thiên hạ đến yết kiến tất cả những nhân vật có tên tuổi trong giới võ lâm, nhưng khi đến nơi họ Vương rất lấy làm buồn rầu vì phần đông chỉ là bọn hữu danh vô thực, văn danh bất như kiến diện, và chàng chỉ có thể cho rằng :
- Tất cả các nhân vật võ lâm ở Yên Kinh, đều không bằng những vị trong Cái bang hôm rồi!
Trùng Dương thất vọng vì uổng phí biết bao nhiêu công trình và ngày giờ để đến Yên Kinh mà chẳng gặp một người nào đáng để kết giaọ
Chàng ngao ngán quá chừng nên quyết định hôm sau sẽ rời khỏi Yên Kinh ra ngoài trường thành ngoạn cảnh.
Chiều hôm đó lại xảy ra một việc: Nguyên do, từ ngày Vương Trùng Dương đến Yên Kinh, chàng vẫn ăn vận như một văn nhân, mặc khách và trú ngụ tại “Chính Dương môn Thi Gia lão điếm”. Thi Gia lão điếm này là một khách điếm lừng danh ở Yên Kinh, trang trí đẹp đẽ, nhà cao cửa rộng, các phòng nghỉ hết sức rộng rãi sang trọng, tổng cộng có đến gần một trăm phòng nghỉ và hơn mươi cái khoáng viện.
Vương Trùng Dương vì muốn có chỗ mát mẻ và yên tĩnh để trau dồi thêm võ công thổ nạp của Toàn Chân phái nên chàng thuê một cái phòng đặc biệt ở ngay trong trang viện, trang viện này chỉ có bốn phòng rất lớn, ba cái kia còn bỏ trống.
Buổi chiều hôm ấy, Vương Trùng Dương đã thu xếp sẵn hành lý để sáng hôm sau sẽ khởi hành, đột nhiên có một số người quan y lộng lẫy, vừa nam vừa nữ, trẻ có già có, ước độ gần hai chục người tới thuê cả ba căn phòng bỏ trống.
Trong trang viện lúc đó có vẻ huyên náo hơn lên, những tên điếm nhị chạy ra chạy vào, người mang nước, người mang khăn tới tấp. Trong bọn, có một thiếu niên tuấn tú, thấy Trùng Dương một mình ở một phòng rộng rãi thì chàng hơi cau mày có vẻ nghĩ ngợi và dùng tiếng lóng nói với đồng bọn, đoạn sang bên phòng Trùng Dương chào hỏi, làm quen :
- Kính chào tiên sinh, chẳng hay quý tánh cao danh là gì? Xin cho ngu hạ được biết?
Vương Trùng Dương cũng vội vàng đáp lễ và nói :
- Vãn sinh họ Vương. Chẳng hay tên họ Ông là gì? Và có điều chi chỉ giáỏ
Thanh niên đó lễ phép đáp :
- Tiểu đệ họ Văn, có một điều muốn thỉnh cầu với Vương tiên sinh, kính mong tiên sinh lượng thứ.
- Không dám, không dám, tứ hải giai huynh đệ. Tôn ông có điều chi cần đến, tiểu sinh xin hết lòng.
- Nguyên bọn tiểu đệ sắp đến đây có gần bốn chục người, nếu được ở bốn căn phòng này thì tiện quá, vì Vương tiên sinh đã ở đây từ trước, nên anh em mới cử tiểu đệ điều đình với tiên sinh cảm phiền nhường cho chúng đệ căn phòng này, không hiểu tiên sinh có vui lòng không?
Vương Trùng Dương mỉm cười trả lời không cần nghĩ ngợi :
- Được! Được! Nếu tôn ông cần thì tại hạ xin nhường ngay, chẳng có điều chi trở ngại, nơi đây chỉ là khách điếm, thay đổi phòng là lẽ bình thường.
Thanh niên họ Văn nét mặt vui tươi hẳn lên, hai ba lần cám ơn rồi giã từ Vương Trùng Dương quay về phòng mình.
Trùng Dương lập tức gọi điếm nhị đổi phòng để nhường cho những người khách mới; tên điếm nhị sửa soạn ngay một cái phòng khác rộng rãi không kém gì phòng Trùng Dương đang nghỉ và chỉ cách trang viên một cái vườn hoa nhỏ và một cái sân thôị
Vương Trùng Dương đôi mắt rất tinh tế, chỉ nhìn sơ là có thể biết chắc là những người mới đến đều có võ công, người nào người nấy đều uy phong lẫm liệt, tướng tá hào hùng.
Trùng Dương đã tập luyện môn nội công thổ nạp của Toàn Chân phái, lại thêm mười năm tại Cao Sơn Thạch Diệu và khổ luyện “Nhất Dương chỉ công” nên tai chàng tinh thính vô cùng, tuy cách nhau một cái sân và một cái vườn hoa mà bốn phòng kia người nào nói câu gì Trùng Dương đều nghe rõ mồn một.
Những người này phần nhiều đều nói tiếng lóng của giới giang hồ và có lộn cả tiếng “Hắc Thoại”, nhưng nghe rõ nhất là tiếng nói của người ở phòng chính giữạ Tiếng nói của người đó oang oang :
- Hôm nay tiểu đệ được tất cả các liệt vị không quản xa xôi ngàn dặm đến đây họp mặt, tương trợ giúp đỡ cho, khiến cho tiểu đệ rất lấy làm cảm kích. Còn ba ngày nữa là ngày tiểu đệ hội ngộ với kẻ thù, đến lúc đó nhờ uy danh của liệt vị, chém được đầu kẻ địch, báo thù tuyệt hận, đệ xin mở đại tiệc liền mười ngày, để chúng ta cùng nhau đàm đạo và tấm thân của tiểu đệ sẽ xin tùy ý liệt vị sai khiến, quyết chẳng dám đơn sai, nếu có sai lời bội ước, nguyện hữu như thú vật.
Nói đến đây, bỗng nghe thấy đánh “Xoảng” một cái, rõ ràng là tiếng chén trà ném xuống đất vỡ tan thành nhiều mảnh.
Lại nghe có tiếng người nói :
- Lỗ đại ca đừng nên nói những lời khách sáo cho nhạt tình bằng hữu, chúng ta cùng nhau giao kết, phú quý đồng hưởng, hoạn nạn cùng chung, việc của đại ca cũng như việc của chúng đệ, lẽ nào không hết sức.
Một người khác nói :
- Lỗ huynh, ngày mai Đồng Kiệt Đình Lão Sư ở phái Võ Đang, Huỳnh Thục chân nhân ở Điểm Sương phái và Vạn Vân Hùng sư phụ của phái Côn Lôn sẽ tới đây trợ giúp, vì đệ nghe nói họ Mã kia tuy trẻ nhưng nhờ có đại danh của thân phụ hắn để lạị Vả lại, mấy năm nay lại có người chuộng nghĩa khinh tài, kết giao cùng anh hùng bốn bể, nên được thiên hạ tặng danh hiệu Tiểu Mạnh Thường. Ở trong trang trại chắc không có thiếu gì những người tài giỏi, chúng ta cũng chớ coi thường.
Chàng họ Lỗ lên tiếng :
- Thưa chủ liệt huynh, tiểu đệ là Lỗ Đại Cang không thể nào quên được mối thù bất cộng đái thiên này, thấm thoát đã mười hai năm qua, gia nghiêm chẳng may bị chết thảm bởi Mã Thanh Hùng, tiểu đệ vì mối phụ thù đã khổ công tập luyện tại Thiếu Lâm tự. Nay được sư phụ cho phép hạ sơn, nhưng thật chẳng may cho tiểu đệ, tên Mã Thanh Hùng đã chết cách đây ba năm, nhưng thù kia cũng phải báo, cha làm con chịu, họ Mã có tài giỏi đến đâu cũng không thoát khỏi tay chúng tạ
Lỗ Đại Cang nói đến đây cất tiếng cười ha hả, rồi lại nói tiếp :
- Tiểu đệ tuy mới tới nhưng đã điều tra biết được rõ ràng, Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc ở phía Đông Đan Bài Lâu, con lộ Tứ điều Tử Hồ Đồng Khấụ Hắn ta cũng chưa lập gia thất, mang tiền bạc để thu phục môn khách quá nhiều, nhưng đều là những kẻ thường tài không có gì đáng lo ngại cả. Nay được liệt vị tới đây giúp sức thì quyết rằng thù kia nhất định đệ phải báo được.
Vương Trùng Dương nghe tới đây liền nghĩ thầm :
- “Ta đã nghe được chỗ ở của Mã Ngọc, đêm nay ta thử tới xem con người của Tiểu Mạnh Thường thế nàỏ”.
Buổi chiều hôm đó, Trùng Dương thấy bên phòng Lỗ Đại Cang thêm một số người lục tục kéo đến, già có trẻ có, hữu đạo, hữu tục, thật là đông đúc, tới ngót bốn chục ngườị
Vương Trùng Dương lắng tai nghe họ nói đều là những chuyện hành đạo, hoặc những chuyện riêng tư không có gì quan trọng. Trùng Dương thấy cũng không cần để ý nữa, bèn ngồi tĩnh tọa ở giữa giường, tham thiền nhập định.
Chẳng bao lâu, mặt trời ngả bóng, phút chốc đã tối đen như mực, Trùng Dương bước ra ngoài thấy cảnh vật đã im lặng như tờ, chàng chẳng cần phải thay đổi quần áo dạ hành, nhún mình nhảy vọt lên nóc điếm, chỉ thoáng một cái như một bóng ma vùn vụt hướng về phía Đông Đan Bài Lâu đi thẳng tớị
Trùng Dương ở Yên Kinh đã được hơn nửa tháng, đường phố cũng nhận được ít nhiều, chỉ trong giây phút chàng đã đi tới con lộ Tứ Điểu Tử Hồ Đồng Khấu, thấy một trang viện rộng rãi, trước cổng trang có treo hai chiếc đèn lồng trên có đề bốn chữ “Quảng Minh Mã Thủ”.
Trùng Dương nghĩ thầm :
- “Chắc đây là trang phủ của Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc, ta thử vào xem saỏ”.
Nghĩ đoạn, họ Vương chuyển mình dùng thế “Đại Bàng Qúa Hải” tung người như con chim, bay vút lên tường rồi chuyển mình theo nóc đại sảnh như một cái bóng, không hề phát ra một tiếng động nhỏ.
Chàng thấy bên dưới nến sáng choang và tiếng người xôn xaọ Trùng Dương phủ phục nhìn qua lớp kính, thấy ở trong phòng ước có đến bốn năm chục người, trước mặt mỗi người đều có một cái bao phục. Chính giữa, một trang thiếu niên công tử mặt có vẻ thê lương buồn thảm, nghe chàng ta thở dài rồi nói :
- Ít lâu nay tiểu đệ được chư liệt vị có lòng yêu mến, không chê đạm bạc, ở lại tệ xa, nhưng đến nay vạn bất đắc dĩ, tiểu đệ phải có một chút lễ mọn gọi là tiễn đưa và kính chúc quý vị thượng lộ bình an.
Nói tới đây, thiếu niên có vẻ xúc động nghẹn ngàọ
Trong đám môn khách, có một đại hán tướng mạo hùng dũng, cất tiếng sang sảng :
- Kính thưa Mã huynh, bấy lâu nay vì hâm mộ đại danh nên tiểu đệ tới đây để bái kiến, và được Mã huynh không kẻ sang hèn kết tình bè bạn. Nay chẳng hay chúng đệ có điều chi thất thố khiến cho Mã huynh phải từ khách và tiễn đưa lộ phí, nếu Mã huynh không phân rõ đầu đuôi gốc ngọn, đệ đây chẳng những không dám nhận tặng vật mà đệ quyết đi ngay đêm nay để khỏi bận lòng trang chủ.
Thiếu niên vội vàng xua tay và nói :
- Không! Không! Liệt vị chẳng có điều chi sơ xuất, chỉ e ngu đệ đãi khách chẳng được vừa lòng, đệ xin nói rõ câu chuyện chẳng may sắp xảy ra cho riêng gia đình của tiểu đệ để liệt vị rõ kẻo lại các vị lại có điều hồ nghị
- Ba ngày nữa đây sẽ là ngày đại họa của tiểu đệ, có thể là diệt gia chi họa, cho nên đêm nay tiểu đệ thu thập tài vật chia cùng chư vị để tỏ lòng chi ngộ, và cũng mong liệt vị nên rời bỏ trang trại để tránh vạ lâỵ
Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc vừa nói dứt lời, ở trong đám môn khách có một vị đứng lên nói lớn :
- Mã công tử, chẳng hay có điều chi tai biến sảy ra ở trang trại này mà công tử phải thốt ra những lời bi thảm như thế? Công tử nên phân giải rõ ràng may ra tiểu đệ có thể tham gia ý kiến được chăng?
Tất cả môn khách đều nhao nhao ép Mã Ngọc phải nói cho họ biết đầu đuôi câu chuyện.
Cực chẳng đã, Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc buồn rầu kể lại rằng :
- Câu chuyện này xảy ra đã được mười hai năm nay...
Trước kia thân phụ của Mã Ngọc là Mã Thanh Hùng quê tại Liêu Đông huyện Quảng Minh, môn đồ của Trường Bạch phái, đệ tử của Vương Phụng Minh, được sư phụ truyền dạy cho môn “Hồi Long Quảng Đường đao” và “Ngũ Long thần quyền” rất lợi hại, danh trấn giang hồ.
Mã Thanh Hùng lập một hãng bảo tiêu tại Liêu Đông. Với song quyền, nhất đao họ Mã đã diệt một lúc hơn hai trăn tên thảo khấu ở Cát Lâm Nga Hổ Khẩu nên uy danh càng lừng lẫỵ
Trên giới giang hồ đã tặng cho chàng một ngoại danh là “Thần Quyền Vô Địch Mã Thanh Hùng”. Các xe bảo tiêu có cắm cờ chữ “Mã” của chàng là bọn thảo khấu và đạo tặc hết thảy đều khiếp vía kinh oai, không dám giở trò cướp bóc.
Trải qua ngót hai mươi năm trời ngang dọc, sống với nghề bảo tiêu, họ Mã đã thu hoạch được một số tiền khá lớn.
Mã Thanh Hùng liền bỏ nghề bảo tiêu đưa gia đình về Yên Kinh lập nghiệp để vui thú điền viên. Họ Mã còn một sư đệ cùng học một thầy là Lỗ Kim Thụ cũng ở Liêu Đông, nhưng thuộc huyện Hải Thành đã lâu không hề gặp gỡ. Tuy là tình sư huynh, sư đệ nhưng hai người tính tình không hợp, Mã Thanh Hùng thì “trầm mặc cô ngôn” còn Lỗ Kim Thụ thì tính tình háo động nên cũng ít có sự giao du thân mật.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 11-22-2012, 11:11 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 7

Võ Lâm Ngũ Bá


Hồi 7

Trổ Thần Oai Trợ Giúp Mã Gia Trang


Ngay khi họ Mã lập nhiều phiêu cục tại Liêu Đông, Lỗ Kim Thụ cũng không hề lai vãng.
Mã Thanh Hùng dẹp bỏ tiêu cục đưa gia quyến về Yên Kinh được hai năm.
Một ngày kia có người anh vợ tên là Điền Nguyên Xung ở phủ Khai Phong đến Yên Kinh mua một số hàng hóa quí giá, định tải tới Nam Phương. Nhưng lúc ở phía Nam Hoàng Hà đạo lộ bất an, trộm cướp rất nhiều nên Điền Nguyên Xung khẩn khoảng Mã Thanh Hùng bảo vệ cho số hàng hóa đó.
Họ Mã đã bỏ nghề bảo tiêu tới hai năm, những tay thủ hạ thân tín mỗi người một nơi, lại không hiểu rõ được tình hình và thông thạo đường đi nước bước như trước nên một mực chối từ và khuyên Điền Nguyên Xung nên thuê mướn những bảo tiêu cục hữu danh lúc đó bảo vệ thì hơn. Nhưng họ Điền cứ một mực năn nỉ cầu khẩn, lại thêm Mã phu nhân nói vàọ
Cực chẳng đã Mã Thanh Hùng đành phải nhận lờị
Tháng ba năm ấy khí trời mát mẻ, khô ráọ Mã Thanh Hùng và Điền Nguyên Xung khởi hành từ Yên Kinh đi về phía Nam. Trải qua nhiều ngày vượt núi băng rừng, trèo đèo lội suối được nhất lộ bình an, phong bình, sóng tĩnh. Mã Thanh Hùng vui vẻ trong lòng tự nghĩ :
- Đến Hà Nam phủ Khai Phong thì không còn có gì lo ngại nữa, ta có thể trở về Yên Kinh được rồị
Nhưng khi đi đến một khu rừng gần huyện Thương Khưu, đột nhiên nghe một tiếng pháo lệnh nổ vang. Một toán lâu la gươm đao sáng ngời, xông ra chận đường.
Điền Nguyên Xung thấy tình hình như vậy thì thất kinh không còn hồn vía, run lên cầm cập. Mã Thanh Hùng đi sau nghe người phi báo, vội vác đao giục ngựa chạy lên. Chàng hết sức kinh ngạc vì người lãnh đạo bọn cướp không ai xa lạ chính là Lỗ Kim Thụ. Mã Thanh Hùng cả giận quát lớn :
- Ủa kìa Lỗ đệ! Lâu ngày không gặp, sư đệ lại làm nghề thảo khấu không sợ mai một danh tiếng của sư phụ hay saỏ Thôi hãy mau mau trở về với ngu huynh tìm nghề khác sinh nhai kẻo để lại tiếng cười trong thiên hạ.
Quả người đó chính là Lỗ Kim Thụ. Chàng tuy không chính thức là phường đạo tặc nhưng thường giao du thân mật với những phường lục lâm thảo khấụ Ít lâu nay ở vùng này có bọn cường khấu, tên cầm đầu là Tiêu Công Báo, biệt hiệu là “Hoa Ban Ngưu”, lập trại tại núi Phục Ngưu, thường xuyên dẫn lâu la xuống núi đánh cướp khách thương qua lạị
Lỗ Kim Thụ kết giao với họ Tiêu, thường hay đến sơn trại uống rượu chuyện trò thật là tâm đầu ý hợp. Hôm ấy nhằm lúc Lỗ Kim Thụ đến chơi đang cùng Tiêu Công Báo uống rượu thì đột nhiên có lâu la đến phi báo :
- Dưới núi có một đám người đang tải hàng hóa đi quạ
Tiêu Công Báo bèn nói với Lỗ Kim Thu đem lâu la đi chận cướp, được tài vật sẽ chia nhau sử dụng. Rượu đã ngà ngà lại nghe bọn thám sát nói rõ trong xe có nhiều tài vật quí giá thì lòng tham nỗi lên. Lỗ Kim Thụ lập tức nhận lời, hướng dẫn một số lâu la xuống chận đường, nào có ngờ đâu lại gặp sư huynh Mã Thanh Hùng. Lỗ Kim Thụ thấy sư huynh nói như vậy thì mười phần xấu hổ nhưng lại tự nghĩ :
- Nay ta đã trót hứa với Tiêu Công Báo nếu ta không ra tay thì họ Tiêu sẽ nghi ngờ là phản phúc và sẽ trở thành thù địch. Hơn nữa Mã Thanh Hùng đã biết mình kết giao với cường khấu, thế nào cũng tới tai sư phụ, chắc chắn người sẽ bắt ta về hỏi tội, chi cho bằng “Tiên hạ thủ vi cường”, mình phải tính trước đi mới được.
Nghĩ như vậy Lỗ Kim Thụ bèn quát lớn :
- Ai là sư đệ của mi mà mi khéo nhận lầm. Biết điều thì hãy để tất cả tài vật và hàng hóa lại thì lão gia cũng rộng lượng ra đức hiếu sinh mà tha chết chọ
Mã Thanh Hùng nghe Lỗ Kim Thụ nói như vậy thì nghi chắc là Lỗ Kim Thụ đã phản bội sư môn, nhập bọn với bọn cướp để làm điều phi pháp, lại không biết ăn năn hối hận trở mặt không thèm nhận sư huynh, sư đệ nữa thì cả giận quát to :
- Hay cho tên cẩu trệ đã quên lời thầy dạy, đem tài võ nghệ để cướp của giết người, làm điều tồi bạị Ta vì sư môn mà loại trừ những tên khốn kiếp như mi mới được.
Nói dứt lời, Mã Thanh Hùng vung đao chém luôn một nhát, Lỗ Kim Thụ cũng rút đao ra cự địch. Chàng dùng thế “Ngũ Hổ Đoạt Môn đao pháp” chém luôn liên tiếp năm ngọn đao cực kỳ lợi hạị
Mã Thanh Hùng giật mình kinh sợ, vội vàng đem tuyệt học ra né tránh, tuy vậy dây thắt lưng của chàng đã bị Lỗ Kim Thụ chém đứt. Thanh Hùng cả giận, tập trung uy lực sử dụng thế “Liên Hoàn Đoạt Mệnh bát đao”. Đây là bài đao pháp trấn sơn tuyệt kỹ của Vương Phùng Minh sư phụ, chỉ truyền cho chưởng môn đệ tử là họ Mã, ngoài ra không còn truyền dạy cho đệ tử nào khác nữạ Bộ đao pháp này toàn bộ liên tiếp có tám chiêu đánh ra hư hư, thực thực, biến hóa vô cùng, Lỗ Kim Thụ làm sao biết được. Thoạt tiên Mã Thanh Hùng dùng thế “Triều Hiện Trú Hướng” chém ngay vào mặt họ Lỗ.
Kim Thụ vội dùng thế “Phong Hầu Neo Ấn” hất ngược ngọn đao lên đỡ. Mã Thanh Hùng quát lên một tiếng cực lớn, biến luôn thế “Ác Hổ Đụng Môn” và “Chim Lôi Tiết Địa”, liên tiếp hai đao chém vào thượng bộ và hạ bộ của họ Lỗ. Lỗ Kim Thụ thấy ánh đao quá nhanh cùng một lúc tấn công thượng hạ lưỡng bộ thì không còn hồn vía vội dùng thế “Phượng Hoàng chuyển cánh” nhảy vụt về phía sau tránh. Mã Thanh Hùng đao pháp như thần dùng luôn hai thế “Cơ Ưng Chấn Vũ” và “Huyền Điểu Thoát Sa” chém liên tiếp.
Ngọn đao như một luồng bạch quang, rít lên trong không khí, đánh “Soẹt” một cái, thân thể của Lỗ Kim Thụ đã đứt ra làm hai đoạn. Một nữa thân trên hãy còn dãy tê tê, mắt mở trợn trừng, máu vẫn còn phun ra như suốị
Họ Mã mới sử dụng đến thế thứ năm của “Liên Hoàn Đoạt Mệnh bát đao” mà đã đưa Lỗ Kim Thụ hồn về địa phủ. Vì trong lúc giao đấu, đao thương vô tình một phút nóng giận, Mã Thanh Hùng đã chém chết sư đệ thì hối hận vô cùng, nhưng sự việc lỡ rồi hối sao cho kịp.
Mã Thanh Hùng đang bùi ngùi tự trách thầm thì Tiêu Công Báo cùng một số lâu la kéo đến vây bọc xung quanh, định lấy số đông uy hiếp. Thanh Hùng thấy thế nổi trận lôi đình, múa tít thanh đao dùng thế “Quần Đường Hội Long Đao” tấn công như vũ bảo vào bọn cướp. Lưỡi đao như con giao long uốn khúc, lấp loáng đi tới đâu cũng có kẻ đứt đầu gãy chân, chẳng khác chi một con hổ dữ đi vào đàn dê.
Lâu la lớp chết lớp bị thương không biết bao nhiêu mà kể. Tiêu Công Báo chẳng phân lợi hại múa bổng xông vào nhắm đỉnh đầu họ Mã quật xuống một côn thật là mãnh liệt. Mã Thanh Hùng quát to hất ngược ngọn đao lên đỡ. Một tiếng “Chát” kinh hồn, ngọn bổng của Tiêu Công Báo vượt khỏi tay bay tít lên không, hai cánh tay đau buốt.
Tiêu Công Báo chưa kịp định thần bỗng thấy một đạo bạch quang sáng lòe bay tớị Họ Tiêu thất kinh chẳng còn hồn vía vội lách mình sang một bên tránh đỡ nhưng không còn kịp nữa, đã bị ngọn bảo đao cắt lìa ngón tay tráị
Họ Tiêu đau đớn hét lên một tiếng bỏ mặc lũ lâu la dùng thuật phi hành tung mình chạy trốn. Lũ lâu la như rắn không đầu, tên nào còn sống sót thì vất cả binh khí bỏ chạy bán mạng. Trong chốc lát không còn một tên nào nữạ
Mã Thanh Hùng lúc đó mới chịu dừng taỵ Nhìn những xác chết nằm ngổn ngang, bỗng chốc thở dài...
Trong đám người ấy có một kẻ bị thương nặng chưa chết hẳn. Mã Thanh Hùng mới bắt ra tra hỏị
Tên lâu la mới nói rõ cho họ Mã biết đầu đuôi câu chuyện là: Lỗ Kim Thụ không phải là đầu đảng của bọn cướp. Đối với Tiêu Công Báo chỉ là tình bè bạn ngẫu nhiên, hôm nay mới tớị Mã Thanh Hùng lúc đó lại càng ăn năn hối hận, sai người chôn cất cho Lỗ Kim Thụ rất chu đáọ
Sau khi bảo hộ hàng hóa cho Điền Nguyên Xung tới phủ Khai Phong, Thanh Hùng từ giã họ Điền trở về Yên Kinh. Trước hết chàng sai người đến huyện Hải Thanh là nơi cố quán của sư đệ họ Lỗ mục đích để tìm vợ con Lỗ Kim Thụ trợ cấp vài vạn lượng bạc để bồi thường tội lỗ mảng của mình.
Không dè gia nhân đó đi đến nữa năm mới về và cho biết gia đình Lỗ Kim Thụ không còn ai nữa, vì họ Lỗ chỉ có một lão mẫu và một đứa con traị Nhưng khi mẹ già nghe tin con bị chết thảm ở núi Phục Ngưu thì tự vẫn mà chết.
Còn đứa con trai là Lỗ Đại Cương năm đó được hai mươi tuổị Khi chôn cất xong cho bà nội đã bán nhà cửa tìm đến Tung Sơn, nhập môn Thiếu Lâm tự. Lúc bước chân ra đi Lỗ Đại Cương có thề rằng nếu không giết được kẻ thù quyết không về quê quán.
Mã Thanh Hùng nghe người gia nhân nói lại tin ấy lấy làm buồn rầu, càng ăn năn hối hận, đem bao nhiêu tuyệt kỹ công phu đều truyền lại cho người con là Mã Ngọc và cũng dặn nhiều lần là “oán kia nên cởi chớ không nên kết, nếu Lỗ Đại Cương sau này có thành tài trở về báo thù cho cha thì liệu mà tìm cách mà khuyên giải, cố mà lấy cảm tình của họ Lỗ”.
Cách đây ba năm, Mã Thanh Hùng chẳng may bịnh nặng rồi mất. Mã Ngọc kể tới đó rồi hướng về các môn khách và nói :
- Hôm qua đây, tiểu đệ có nhận được một bức thư của Lỗ Đại Cương gởi tới, đại ý nói rằng: “Mười hai năm trời trải trăm cay ngàn đắng cố luyện võ công để báo lại mối phụ thù. Đến nay dù Mã Thanh Hùng đã chết nhưng oán trả nợ đền, cha làm con chịụ Nợ máu phải trả bằng nợ máu, lai khứ phân minh. Hẹn đúng ba ngày sẽ thân hành đến Mã gia trang báo oán”.
Dưới bức thư có đề: Lỗ Đại Cương kính bái!
Mã Ngọc lại nói tiếp :
- Tiểu đệ đã cho người đến dò la khách điếm nơi họ Lỗ tới trọ thì được biết Lỗ Đại Cương không phải một mình đến trả thù, mà có mời rất nhiều tay cao thủ võ lâm. Do đó tiểu đệ không muốn liên lụy đến chư liệt vị, nên đây có chút quà mọn xin nhận lấy và mong liệt vị sáng mai hãy rời khỏi đây để tránh khỏi vạ lâỵ
Mã Ngọc vừa nói xong thì trong đám môn khách có một người nói lớn :
- Mã công tử không nên đề cao uy danh của người mà tự hạ uy phong của mình đị Lỗ Đại Cương chẳng qua cũng chỉ là một môn đồ của Thiếu Lâm chớ đâu phải là cao nhân tuyệt học, mà cũng chẳng phải là ba đầu sáu tay gì mà khiến cho ta khiếp sợ như vậỵ Huống chi việc đã xảy ra mười hai năm về trước, họ Lỗ tự mình gây chuyện, đâu có phải Mã tiền bối tự dưng tru lục.
- Chúng tôi đợi họ Lỗ tới đây, cùng đem lời phải trái ra thuyết phục “dĩ hòa di quí”, bằng ngược lại không nghe muốn dụng võ chúng tôi lại nhát sợ hay saỏ “Dưỡng binh thiên nhật, dụng tại nhất thời”, tại hạ tuy tài sơ sức yếu nhưng cũng quyết một phen sinh tử để đền ơn tri ngộ.
Mã Ngọc hướng về người môn khách đó vái dài một cái và nói :
- Hảo ý của Phùng huynh khiến tiểu đệ muôn phần cảm kích, nhưng đệ đã cho người dò thám kỹ lưỡng. Nếu Lỗ Đại Cương cùng tiểu đệ đương đầu đối địch để giải quyết mối ân oán này thì chưa chắc sự hơn thuạ Nhưng họ Lỗ có mời nhiều cao thủ như Huỳnh Thục chân nhân Vạn Vân Hùng trưởng lão đến trợ giúp. Với các bậc tiền bối lão sư đó, nếu chúng ta đương đầu nào khác gì đem trứng chọi với đá.
- Vả lại thánh hiền đã có câu: “Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.” Nay ta đã biết rõ địch nhân quá lợi hại mà còn liều mạng chẳng hóa ra uổng lắm saọ Nếu chư liệt vị có lòng thương xót cho họ Mã chúng tôi, kính mong liệt vị hãy đưa gia mẫu và bào đệ về Liêu Đông, Quảng Minh Phủ để lánh họa diệt vong nàỵ Như thế tiểu đệ có chết cũng ngậm cười nơi chín suốị
Khi ấy có một trang hảo hán trong đám môn khách đứng lên rút kiếm chém vỡ đôi viên gạch nói lớn :
- Ân oán phải phân minh. Các vị tiền bối võ lâm không chịu tìm hiểu rõ nguyên nhân mà ỷ thế hiếp cô, ngu hạ cũng quyết liều mình cùng Mã huynh đồng sinh, đồng tử.
Tất cả các môn khách đều quyết đồng tâm ở lại, thề quyết một lòng cùng sống chết bảo vệ Mã gia trang.
Mã Ngọc xiết bao cảm động, đứng lên hướng về các môn khách xá dài một cái rồi cung kính nói :
- Họ Mã chúng tôi nhờ phúc ấm tổ tông cho nên được liệt vị có lòng quá yêu như thế, tiểu đệ không biết có lời gì để nói hết sự biết ơn của tiểu đệ, chỉ xin khắc cốt ghi tâm, kiếp này không trả được thì nguyện kiếp sau kết cỏ ngậm vành để báo đáp ơn sâụ
Vương Trùng Dương nằm phục trên nóc sảnh nghe rõ đầu đuôi câu chuyện, chẳng xót câu nào thì nghĩ thầm :
- Kể ra tình cảnh của Mã Ngọc cũng đáng thương, y cũng là một người quang minh chính đại, có khí tiết anh hùng và các môn khách cũng là những trang hảo hán một lòng chuộng nghĩa, không phải những phường vá áo túi cơm, khi vui thì vỗ tay vàọ Ta không biết thì thôi, nay đã biết lẽ nào ta lại để cho những tay hào kiệt chết uổng vì một mối thù không đáng nàỵ
Vừa nghĩ tới đây bỗng họ Vương nghe một tiếng động thật nhẹ, Trùng Dương liền chú ý nơi phát ra tiếng động đó. Chàng thấy hai bóng đen vận y phục dạ hành đang nằm phục ở một bên góc sảnh nhìn xuống dưới như có vẻ đang dò thám. Vương Trùng Dương tức thì vùng dậy, dùng thuật khinh công nhảy vụt tới nơi nhẹ nhàng như lá rụng.
Hai bóng đen vẫn nằm sát trên nóc sảnh, không hề biết họ Vương đã tới sau lưng.
Chàng thấy hai bảo đao của hai tên đang dắt sau lưng liền nghĩ ra ý định thử xem tài năng của hai người đó tới đâu liền dùng thế “Chim Ưng Cướp Mồi”, nhanh như chớp bay vụt qua hai tên đại đạo nọ chộp lấy hai thanh đao mang đị Hai bóng đen thấy động đậy ở sau lưng vội đưa tay ra sau, cả hai cùng giật mình đánh thót, vì cả hai cây đao đã không cánh mà bay đi đâu mất. Một bóng đen khẽ nói nhỏ :
- Hoắc lão nhị! Huynh có thấy lưỡi đao của đệ không?
Người họ Hoắc đáp :
- Đào lão tứ! Cây đao của đệ cũng mất luôn rồi! Vừa rồi đệ thấy có một bóng đen thoáng quạ Có lẽ có tay cao thủ nào trêu ghẹo đâỵ
Hai người này đều là đệ tử của Điểm San phái, đồ đệ của Huỳnh Thục chân nhân. Một người tên là Hoắc Thành biệt hiệu là Địa Ngục Quỷ, còn một người tên là Đào Lượng hỗn danh là Địa Đầu Quỷ, trên chốn giang hồ thường gọi là Điền Nam song quỷ. Hai người đều hoạt động tại vùng Di Sơn Miêu Động, gây ra rất nhiều tội ác. Bọn chúng lén lút làm việc và hết sức kín nhẹm không cho sư phụ biết.
Khi được Lỗ Đại Cương mời đến trợ giúp, Điền Nam song quỷ tức tốc tới ngay Yên Kinh trước cả sư phụ nữa ngàỵ Tới nơi, Hoắc Thành và Đào Lượng nói với Lỗ Đại Cương đi tới Mã gia trang dò xét nhưng trong thâm tâm của chúng là sẽ thừa cơ hội đến lấy trộm ít tài vật nữạ
Nhưng chưa kịp ra tay đã bị Vương Trùng Dương dùng tuyệt kỹ công phu lấy mất cả hai cây bảo đaọ Họ Đào nổi giận không kịp suy nghĩ, nói lớn :
- Tên tiểu tử nào khốn kiếp, làm việc lén lút đê hèn. Có giỏi thì hãy ra mặt cùng ta tỉ thí cho rõ tài cao thấp.
Đào Lượng thét vừa dứt lời, có tiếng cười ha hả ở tít đằng xa đầu sảnh vang lạị Hoác Thành và Đào Lượng còn đang ngơ ngác, định thần nhìn kỹ, bỗng thấy một bóng bay vụt qua nhanh như chớp. Nghe đánh “bốp” một cái, họ Đào đã bị một cái tát vào miệng ù tai, hoa mắt. Họ Đào càng thêm tức giận quát to :
- Quân hèn nhát...
Chưa nói dứt lời, cả hai người bỗng thấy toàn thân tê buốt, không còn cựa quậy gì được nữạ Cả hai người đã bị một người mặc áo vàng nhấc bổng cả lên. Ở dưới khách sảnh, Mã Ngọc và các môn khách thấy có tiếng nói ồn ào thì chạy ùa cả ra sân ngước nhìn lên nóc sảnh. Thấy một người mặt áo vàng, hai tay xách bổng hai người ở trên nóc nhà ném xuống :
- Đây là hai tên của họ Lỗ tới dọ thám.
Hai người rơi xuống nằm thẳng, không cựa quậy gì được. Mã Ngọc thấy tình hình như vậy biết ngay hai người đã bị điểm huyệt, lúc nhìn lên nóc sảnh không thấy người áo vàng đâu nữạ
Chàng hướng lên trên không nói lớn :
- Vị cao thủ nào có lòng giúp tiểu sinh, kính xin xuất diện để chúng tôi được chiêm ngưỡng oai danh.
Ở đằng xa có tiếng vang lại :
- Việc của Mã công tử, tại hạ đã biết được phần nào, xin hẹn ba ngày sau sẽ tái ngộ.
Tiếng nói vừa dứt thì thấy có một bóng vàng vút đi nhanh như chớp ra khỏi Mã gia trang.
Mã Ngọc liền sai gia nhân khiêng Hoắc Thành và Đào Lượng vào trong sảnh rồi quát hỏi :
- Hai ngươi tên họ là gì? Đêm hôm khuya khoắt dùng lối trèo tường khoét vách, phải chăng là bọn đạo tặc, trộm cướp? Nói mau! Nếu không ta sẽ giải tới cửa quan ắt không còn danh dự.
Hoắc Thành cười gằn nói :
- Mã Ngọc! Ta tên là Hoắc Thành biệt hiệu là Địa Ngục Quỷ, còn đây là Đào Lượng hỗn danh là Địa Đầu Quỷ, được lệnh của Lỗ đại ca đến đây cho ngươi biết ba ngày nữa chúng ta sẽ tới đây báo oán.
Mã Ngọc cười khanh khách nói :
- Té ra hai người là “Điền Nam song quỷ”, đồ đệ của Huỳnh Thục chân nhân, với họ Mã không thù không oán. Nếu muốn nói gì thì cứ đường đường chính chính tới đây, tại hạ sẵn sàng rộng cửa đón nghênh. Hà tất phải trèo tường khoét vách để đến nỗi phải mang nhục vào thân.
- Chúng tôi thật là tài xơ không biết cách giải huyệt, xin trả lại cho họ Lỗ định liệụ
Hoắc, Đào cả thẹn nhưng chẳng biết nói sao, vì đã bị Vương Trùng Dương điểm huyệt chỉ nói được chứ không hề cục cựa gì được. Biết rằng họ Mã chỉ cố tâm làm nhục đành giương mắt căm hờn nhìn họ Mã mà thôị Mã Ngọc gọi một gia nhân đến dặn :
- Tiểu Thắng! Ngươi lập tức đi thuê một cái xe ngựa đưa hai vị hảo hán này về Chính Dương môn, Thí Gia lão điếm.
Tên gia nhân đó chấp tay lễ phép nói :
- Thưa công tử! Đêm đã khuya rồi giờ này làm gì có xe ngựa nữạ
Khứu Phùng Xuân, một vị môn khách nói lớn :
- Mã huynh! Tiểu đệ xin có ý kiến. Ta hãy tìm hai cái bao gai cho họ vào đấy và khiêng họ đi trả là xong chuyện.
Mọi người đều vỗ tay khen Khứu Phùng Xuân là cao kiến. Mã Ngọc đành phải nghe theo, bảo gia nhân tìm hai cái bao bố lớn. Bọn gia nhân vào lấy mấy cái bao đựng than mang rạ Khứu Phùng Xuân lại cười ha hả :
- Hai vị đến đây thật không đúng giờ tốt, vì trời quá khuya không có xa mã đưa hai vị về, xin hai vị cảm phiền ráng chui vào bao gai cho tiện chúng tôi khiêng vác.
Nói xong, họ Khứu nhấc bổng hai người cho vào bao gai, mặt người nào người nấy đen sì. Lúc đó Điền Nam song quỷ mang thêm hai chử dạ xoa làm cho tất cả mọi người bưng miệng cười sằng sặc.
Hết sức tức giận nhưng vì bị điểm huyệt nên không thể cựa quậy được, Hoắc Thành và Đào Lượng đành nghiến răng cam chịu, tự mình gây họa chẳng còn oán trách chi aị
Còn Vương Trùng Dương sau khi điểm huyệt bắt sống hai tên Hoắc, Đào giao cho họ Mã, chàng dùng thuật phi hành quay về Thi Gia lão điếm, lẽn về phòng ngũ luôn một mạch tới sáng.
Sáng hôm sau vừa thức dậy, chàng nghe bên phòng bọn họ Lỗ có tiếng nói ồn ào huyên náọ Trùng Dương chú ý lắng tai, nghe tiếng nói oang oang của Lỗ Đại Cương :
- Tức chết đi được! Chúng ta chưa trả được thù mà mà đã bị nhục nhã. Đêm qua Hoắc, Đào lưỡng đệ đến Mã gia trang thám sát bị họ điểm huyệt, nhét vào bao bố đựng than đem trả. Theo như lời Hoắc đệ nói thì phải là một tay cao thủ, võ công trác tuyệt mới có bản lĩnh cao siêu như vậỵ Nếu quả bọn chúng có cao nhân yểm trợ, bọn ta cũng khó lòng báo thù xưạ
Trong bọn họ Lỗ có người lên tiếng :
- Lỗ đại ca nói phải lắm. Nói về võ công của Hoắc, Đào song hiệp cũng đâu phải tầm thường mà bị hạ một cách thần diệu như thế, kẻ ấy phải bản lĩnh ghê gớm lắm. Nếu đối phương có được vài ba người bản lĩnh như thế, chắc ta phải gặp nhiều sự khó khăn.
Lúc đó mỗi người bàn một câu làm cho huyên náo cả lên. Đột nhiên có người nói lớn :
- May quá Huỳnh Thục đạo trưởng và Vạn Vân Hùng đại sư đã đến kia rồị
Bây giờ tiếng ồn ào mới tạm chấm dứt. Nhiều người vội vàng ra đón hai vị lão sư.
Vương Trùng Dương nghe bọn Lỗ Đại Cương nói đến Huỳnh Thục đạo trưởng thì sực nhớ tới Thanh Hư chân nhân truyền thụ võ nghệ cho chàng đã từng nói qua các môn võ thuật của từng môn phái trong thiên hạ như: Thiếu Lâm tự lấy quyền làm chủ, Trường Bạch phái chuyên về đao pháp, còn kiếm thuật thì chia làm bốn phái lớn: Võ Đang, Côn Luân, Điểm Sơn và Thiên Sơn.
Một trăm năm gần đây đã có nhiều nhân tài xuất sắc, Huỳnh Thục chân nhân là Chưởng môn của phái Điểm Sơn, lại là một kiếm sư có tài, vang danh trong thiên hạ chấn động Nam Cương một cõị Còn Vạn Vân Hùng đại sư là môn đồ của phái Côn Luân, một danh tài kiếm thuật.
Trùng Dương vừa có ý muốn sang làm quen để dò thử, bỗng sực nhớ tối qua đã có giáp mặt với Điền Nam song quỷ, nếu họ nhận được thì rất phiền nên chàng không sang nữạ
Chàng quay trở về phòng và ngồi lắng tai nghe họ nói chuyện nữạ Một lát sau hình như họ đã mời Huỳnh Thục chân nhân và Vạn Vân Hùng đại sư vào phòng riêng và họ Lỗ đang mang câu chuyện của Hoắc, Đào hai người sang dọ thám Mã gia trang bị nhục thuật lại cho hai vị lão sư nghẹ
Câu nói vừa dứt bỗng nghe “Bốp bốp” liền mấy tiếng. Vương Trùng Dương thầm nghĩ: “Chắc là Điền Nam song quỷ bị Huỳnh Thục chân nhân xử phạt nên hai người luôn miệng xin tha tội”. Sau đó tiếng Huỳnh Thục chân nhân quát lớn :
- Thật là uổng công ta dạy bảọ Thường ngày các ngươi không chịu chuyên cần luyện tập để đến nỗi phải mang nhục, phi danh cả môn pháị Nếu giang hồ nghe được câu chuyện hôm nay thì còn mặt mũi nhìn ai nữạ
Tiếng Huỳnh Thục chân nhân vừa dứt lời lại nghe có tiếng ồn ào nổi lên, lại nghe có nhiều tiếng khuyên giải Chân nhân bớt giận.
Huỳnh Thục chân nhân quát lớn :
- Hai tên súc sanh hãy ra khỏi phòng, đừng đứng đây làm bẩn mắt tạ
Trùng Dương tuy không trông thấy nhưng hai tai chàng nghe thật rõ, không sót một câu nào thì trong bụng nghĩ thầm: “Huỳnh Thục chân nhân tính hãy còn nóng nảy tức là chưa tu dưỡng được tâm tính, kiếm thuật ắt chưa tới bậc cao siêu”.
Chàng nghĩ tới đó trong bụng không lấy làm lo lắng lắm, nên yên tâm tĩnh tọa không cần nghe nữạ
Quang âm thấm thoát, chẳng mấy chốc đã qua ba ngàỵ Đến sáng ngày thứ tư, bọn Lỗ Đại Cương tất cả sang Mã gia trang để báo thù.
Mã Ngọc chuẩn bị sẵn sàng, gia quyến chàng đã cho dời về Liêu Đông, Mã gia trang chỉ còn lại một số môn khách và một ít gia nhân cường tráng. Khi bọn Lỗ Đại Cương tới nơi thì Mã Ngọc và Khứu Phùng Xuân ra tận cửa trang đón tiếp rất trọng thể. Mã Ngọc vái chào tất cả mọi người và nói :
- Được biết liệt vị giáng lâm nên chúng tôi ra nghênh tiếp. Xin kính thỉnh chư liệt vị nhập trang.
Lỗ Đại Cương và cả bọn trong lòng tuy hết sức căm giận, nhưng thấy Mã Ngọc dùng lễ tiếp đón thì cũng vội vàng chắp tay thi lễ.
Lỗ Đại Cương lạnh lùng nói :
- Mã công tử! Việc hận thù mười hai năm về trước, hôm nay đệ tới đây để thanh toán món nợ máu đó.
Mã Ngọc vui vẻ trả lời :
- Việc đâu còn có đó. Chẳng mấy khi liệt vị tới đây, xin quá bộ vào trong tệ trang dùng chén rượu nhạt.
Họ Lỗ cười nhạt một tiếng và nói :
- Chúng ta đến đây đâu phải để ăn uống. Trong Mã gia trang có tất cả bao nhiêu người hãy gọi hết ra đây cùng chúng ta một trận thư hùng, để giải cho xong mối phụ thù.
Đứng kế bên Lỗ Đại Cương là Đại Đầu Quỷ. Đào Lượng hận vì mấy hôm trước bị họ Mã làm nhục nên bất ngờ phóng ra một cây “Táng Môn đinh” dài chừng năm tấc, nhằm thẳng mặt Mã Ngọc phóng tớị
Họ Mã mắt sáng như sao, vừa thấy một đạo bạch quang sáng lòa thì biết ngay là có ám khí. Chàng không hề bối rối, dùng hai ngón tay trỏ và giữa giơ lên kẹp chặt ngay lấy cây “Táng Môn đinh” của Đào Lượng và cất tiếng cười khanh khách :
- Làm chi cái trò khỉ nàỵ Nếu muốn tỉ thí với nhau phải quang minh chính đại, sao lại ám muội như thế!
Đào Lượng cả thẹn đỏ rần cả mặt, chẳng biết nói thế nàọ Vạn Vân Hùng đại sư bèn tiến lên nói lớn :
- Mã trang chủ đã có lòng hiếu khách như vậy, ta hãy vào bên trong rồi hẳn haỵ
Mọi người đều răm rắp nghe theọ Mã Ngọc đi trước hướng dẫn tất cả mọi người vào trong khách sảnh.
Một tiệc rượu bày ra sẵn sàng. Tất cả các môn khách của họ Mã đều đứng lên cúi chào, bên Lỗ Đại Cương cũng vội vàng đáp lễ. Hai bên phân chủ khách.
Ngồi trên là Huỳnh Thục chân nhân Chưởng môn phái Điểm Sơn, Côn Luân phái là Vạn Vân Hùng đại sư, Võ Đang phái là Võ Kiệt Uyên. Ở bàn dưới là thanh niên hôm trước nói với Vương Trùng Dương nhường phòng, tên là Từ Diện Hỗ Mẫn Sĩ Phối, còn Điền Nam song quỷ và một số người nữa ngồi bàn dài ở một bên.
Bên này thì Mã Ngọc, Khứu Phùng Xuân cùng tất cả môn khách cũng ngồi dài thù tiếp. Lỗ Đại Cương lại cất tiếng nói lớn :
- Này Mã Ngọc! Rượu của mi không có thuốc độc đấy chứ?
Mã Ngọc cất tiếng cười ha hả đáp :
- Lỗ huynh chớ có nghi ngạị Họ Mã tôi đường đường là một đấng nam nhi đầu đội trời, chân đạp đất, đầu có vì một mối thù vô cớ, Lỗ huynh quyết câu nệ phải trả thù cho lão bá thì đệ sẽ đàng hoàng thừa tiếp, chớ lý đâu lại đi làm trò hèn nhát, để lại tiếng xấu cho ngàn saụ
Nói xong chàng bảo gia nhân hãy đem rượu tới rồi rót mỗi bên một chén bằng nhaụ Đoạn Mã Ngọc tự nâng chén lên và nói :
- Không mấy khi được các vị lão sư và chư liệt vị anh hùng có lòng chiếu cố tệ trang, xin hãy dùng chén rượu nhạt để chứng nhận lòng trung thành của chúng tôị
Nói xong, Mã Ngọc nâng chén uống liên tiếp luôn ba chén rượu đầỵ
Tất cả các môn khách của Mã Ngọc cũng nâng chén lên uống cạn. Bọn Lỗ Đại Cương thấy tình hình như thế cũng không câu nệ và nghi ngờ gì nữa, cũng đều nâng chén luôn, riêng chỉ có Điền Nam song quỷ vì đã bị Mã gia trang làm nhục hôm trước nên mặt còn hầm hầm chỉ muốn gây sự. Khứu Phùng Xuân thấy thế không nhịn được bèn cất tiếng cười sằng sặc nói lớn :
- Hai vị anh hùng! Mấy hôm trước giá lâm, vì trời quá tối nên không có gì chiêu đãi lại vô tình không hỏi rõ tên họ, hôm nay lại được thừa tiếp hai vị, thật là vạn hạnh. Vạn hạnh!
Đào Lượng thấy Khứu Phùng Xuân nói như thế liền chăm chú nhìn xem, bỗng nhớ ngay ra người hôm trước đã đề nghị với Mã Ngọc cho mình vào bao bố đem về Thí Gia lão điếm, thì thốt nhiên nổi giận liền đứng phắt ngay dậy dùng luôn thế “Kim Báo Thám Trảo” nhảy vụt tới múa quyền nhắm ngay ngực họ Khứu tung ra một đấm rất mãnh liệt.
Khứu Phùng Xuân vẫn cười ha hả chẳng chút bối rối, dùng tay mặt chém ngay vào mạch môn của Đào Lượng nhanh như chớp. Đại Đầu Quỷ thấy tê buốt như muốn gẫy rời, từ từ buông tay xuống. Huỳnh Thục chân nhân thấy Khứu Phùng Xuân sử dụng chiêu “Cẩm Na Sơ Cốt” của phái Võ Đang thật là tài tình thì giật mình.
Trong khi ấy, Địa Ngục Quỷ thấy sư đệ mình bị đối phương hạ nhục liền quát lên một tiếng lớn, dợm người muốn nhảy tới tiếp ứng, bỗng thấy cổ áo bị người nắm lấy kéo lại khiến suýt nữa bị té nhào xuống thì thất kinh, ngoảnh lại thấy thầy mình là Huỳnh Thục chân nhân quát lớn :
- Ngồi im! Ngươi còn muốn ta bị mất mặt nữa saọ
Bị sư phụ quở mắng, Hoắc Thành không còn dám cục cựa nữa đành ngồi phệt xuống ghế, mắt nhìn Khứu Phùng Xuân với tất cả mọi sự căm hờn.
Huỳnh Thục chân nhân vẫy tay gọi Đào Lượng lại dùng tay xoa bóp lại mạch gân cho họ Đào rồi nhìn Khứu Phùng Xuân, hỏi :
- Thí chủ bản lĩnh thật cao cường. Chẳng hay thí chủ tên họ là gì? Môn đồ của môn phái nàỏ
Phùng Xuân vội vàng lễ phép nói :
- Tại hạ họ Khứu tên là Phùng Xuân, người xứ Sơn Tây, huyện Long Môn. Đạo trưởng...
Chàng chưa nói dứt lời, thốt nhiên thấy Huỳnh Thục chân nhân đưa tay trái nhắm vào bả vai mình phóng ra một chưởng. Giật mình, Phùng Xuân tung mình định nhảy vọt ra sau tránh thoát nhưng chiếc ghế chàng ngồi đã bị chưởng phong đánh tan làm nhiều mảnh. Đó là Huỳnh Thục chân nhân đã dùng “Hỗn Nguyên chưởng” rất ư là lợi hại, nếu Phùng Xuân không lanh lẹ tránh kịp thì còn gì là tánh mạng.
Huỳnh Thục chân nhân thấy đánh hụt thì vô cùng tức giận, muốn dùng luôn tay kia đánh ra luôn một chưởng nữa, bỗng nghe trên mái nhà có tiếng quát :
- Hãy khoan!
Tiếng quát rất lớn khiến mọi người váng tai choáng óc thì cũng đủ hiểu công lực của người này rất cao siêụ Từ trên nóc sảnh có một bóng vàng nhảy xuống nhằm ngay giữa bàn tiệc, người đó chính là Vương Trùng Dương.
Chàng đã tới Mã gia trang từ sáng sớm nhưng không muốn ra mặt nên phi thân lên nóc sảnh ẩn mình, chờ đến lúc cần mới ra taỵ Khi thấy Mã Ngọc tay không tiếp ám khí và Khứu Phùng Xuân chớp nhoáng hạ Đào Lượng, đã tỏ ra những tay có võ công căn bản tuy rằng tuổi còn thiếu niên, nên Vương Trùng Dương cũng có lòng mến tàị
Nay lại thấy Huỳnh Thục chân nhân dùng Hỗn Nguyên chưởng thì sợ họ Khứu không phải là đối thủ của Huỳnh Thục chân nhân nên vội vàng quát lớn để cho Huỳnh Thục chân nhân dừng tay lạị
Mọi người nhìn thấy Vương Trùng Dương từ trên cao nhảy xuống lại nhằm ngay giữa bàn tiệc thì chắc chắn sẽ làm đổ hết tất cả thức ăn trên bàn. Nhưng lạ lùng thay, thân hình chàng vừa rơi xuống mép bàn thì lại bật ngay xuống nhẹ nhàng còn hơn chiếc lá rụng, không hề phát ra một tiếng động nhỏ. Thuật khinh công của Vương Trùng Dương thật là oai chấn toàn trường, làm cho tất cả mọi người đều kinh ngạc.
Trùng Dương chắp tay thi lễ với Huỳnh Thục chân nhân rồi nói :
- Bấy lâu nay vẫn thường ngưỡng mộ Oai danh của Điểm Sơn Huỳnh Thục đạo trưởng, nay mới được diện kiến thì thật là vạn hạnh. Chủ nhân có lòng khoảng đãi mà thức ăn vẫn chưa khuyết mà đã làm gẫy bàn ghế thì thật là không nên.
Huỳnh Thục chân nhân thấy lời của chàng vừa lễ độ vừa ngạo mạn thì cả giận quát lớn :
- Tiểu tử tên họ là gì? Sao dám tới đây khua môi múa mép.
Mã Ngọc và Khứu Phùng Xuân nhận ngay ra được tiếng nói của Vương Trùng Dương, nghĩ thầm trong bụng: “Chính vị này hôm trước đã hạ Điền Nam song quỷ trong nháy mắt, võ công trác tuyệt, nay tới đây trợ giúp là phước lớn cho bọn mình.” Vương Trùng Dương thấy Huỳnh Thục chân nhân có vẻ nạt nộ như vậy thì cười thầm trong bụng, ung dung trả lời :
- Đạo trưởng muốn biết tên của tại hạ lắm saỏ Vãn bối họ Mao tự là Minh Sĩ.
Huỳnh Thục chân nhân quát lớn :
- Sao lại là Mao Minh Sĩ?
Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc, Khứu Phùng Xuân và các môn khách đều bưng miệng cười ồ lên.
Huỳnh Thục chân nhân lại càng căm giận Vương Trùng Dương vì cố ý trêu ghẹọ Thật ra chữ Mao Minh Sĩ chỉ là đồng âm với Vô Danh Thị mà thôi, nên Chân nhân quát lớn :
- Tiểu tử thật là hỗn xược, dám chọc ghẹo bần đạọ Hãy ra khỏi đây cùng ta giao đấu ba trăm hiệp rồi hãy ngồi xuống uống rượụ
Vương Trùng Dương lại cười khanh khách nói :
- Đánh xong ba trăm hiệp thì rượu đã hết hơi, thức ăn sẽ nguội lạnh hết. Tại hạ đã đến đây lẽ nào lại trốn chạy hay saọ Thôi kính mời các vị lão sư, hãy vui vẻ một bữa no say rồi sẽ liệụ
Nói xong Trùng Dương bước tới bàn tiệc. Tiểu Mạnh Thường thấy phúc tinh của mình đã tới thì lập tức đứng dậy nhường chỗ ngồị
Vương Trùng Dương chẳng chút khách khí, ung dung ngồi xuống cầm đũa chén ăn ngaỵ Huỳnh Thục chân nhân đành phải nén cơn tức giận ngồi về chỗ của mình.
Lỗ Đại Cương thấy thế cũng nói :
- Mã trang chủ đã có lòng thết khách, chúng ta cũng nên ăn uống no say rồi sẽ tính chuyện saụ
Tất cả mọi người cùng nâng ly và cầm chén đũa lên ăn uống. Chỉ một loáng bàn tiệc đã nhẳn nhụị Lúc đó, Lỗ Đại Cương mới đứng lên nói :
- Cám ơn Mã huynh đã có lòng thết đãị Bây giờ xin cho đệ nói tới mối thù mười hai năm về trước.
Mã Ngọc cũng đứng lên hướng về phía Huỳnh Thục chân nhân và Vạn Vân Hùng đại sư, nói :
- Nhân dịp hôm nay có mặt các vị tiền bối lão sư và chư liệt vị, ngu hạ cũng có mấy lời minh biện, kính xin ý kiến cao minh của các tiền bối và liệt vị thông cảm và chỉ giáo chọ Nguyên trước đây thân phụ và lệnh tôn của Lỗ đại ca đây là đồng môn, chuyện chẳng may xảy ra chỉ vì một phút hiểu lầm mà sinh ra cớ sự.
Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc liền đem hết đầu đuôi câu chuyện thuật lại cho mọi người nghẹ
Thuật xong nói tiếp :
- Việc này đã dĩ lỡ rồi, thân phụ của ngu hạ nay đã cưỡi hạt qui tiên. Người chết không sao sống lại được nữạ Ngu hạ xin đề nghị với Lỗ đại ca là dâng lên một số tiền để xây đắp phần mộ của Lỗ bá phụ và lập một nơi thờ phụng, hàng năm tứ tuần bát tiết, tế lễ phụng thờ để xóa bỏ mối thù xưạ Kính mong được sự chấp thuận của Lỗ đại ca để oán thù cởi bỏ và hai họ Lỗ, Mã được kết giao lại như xưạ
Lỗ Đại Cương sầm nét mặt ngay lại :
- Thù cha không báo sao được gọi là anh hùng, huống chi ta đã có lời nguyền máu phải trả bằng máụ Thôi ngươi chớ khá nhiều lời, đời cha làm thì đời con phải chịụ Ngươi hãy sửa soạn mà nhận lấy cái chết cũng giống như trước kia cha ta đã chết thảm vì tay của cha ngươị
Mã Ngọc vẫn điềm nhiên nói :
- Đệ đã nói hết lời rồi mà Lỗ đại ca vẫn còn cố chấp. Nếu Lỗ đại ca cậy vào có bản lĩnh cao cường mà cố đưa tiểu đệ vào tuyệt lộ thì dù cho đệ bản lĩnh có kém cõi tới đâu cũng xin thừa tiếp vài hiệp, dù có bỏ mạng cũng không ân hận.
Nhưng chẳng hay ý Lỗ đại ca muốn thanh toán bằng cách nàỏ
Lỗ Đại Cương quát lớn :
- Mối thù này chỉ có hai ta, vậy ta và ngươi giao đấu, cấm không cho ai được giúp đỡ. Ai giỏi thì sống, người nào dỡ thì chết không còn ai oán hận ai nữạ
Vương Trùng Dương cất tiếng cười ha hả :
- Chàng họ Mã đưa ra ý kiến thật là chí lý, oán thù nên giải không nên kết. Huống chi Lỗ bá phụ đã có một tội lớn là đã a dua với giặc, chết là đáng lắm, cũng chẳng oan uổng cái nỗi gì.
- Nay Mã bá phụ cũng chẳng còn, Lỗ huynh cứ giữ khăng khăng mối thù vô lý ấy lại đòi quyết đấu mà chẳng liệu sức mình. Ngươi có mang theo quan tài để chôn cất chưả Thật là chết uổng! Tiếc lắm thay!
Lỗ Đại Cương cả giận, quắc mắt nhìn họ Vương như muốn ăn tươi, nuốt sống. Nhưng khi thấy chàng vừa biểu diễn tuyệt kỹ công phu thì cũng không dám coi thường, chỉ nhìn Mã Ngọc rồi nói :
- Mi đã sửa soạn xong chưả
Mã Ngọc ý vẫn không muốn xảy ra cuộc giao đấu nên vẫn cố phân giải :
- Lỗ đại ca xin nghĩ kỹ lại, chấp nhận lời yêu cầu của đệ đi; chúng ta xóa bỏ mối thù đó đi...
- Không lẻ họ Mã lại hèn nhát, tham sống sợ chết đến thế saỏ
Thấy giọng nói quá ư là khinh miệt của Lỗ Đại Cương, Tiểu Mạnh Thường cũng nổi giận đáp :
- Nếu Lỗ huynh nhất định thì đệ cũng xin nghinh tiếp. Chẳng hay ta dùng quyền thuật hay binh khí?
Lỗ Đại Cương đã là môn đồ của Thiếu Lâm, quyền cước đã nổi danh trong thiên hạ, nên vội trả lời :
- Trước hết ta hãy dùng quyền cước đã!
Nói xong, Lỗ Đại Cương cởi phắt áo ngoài vắt lên thành ghế. Mã Ngọc cũng vội cởi áo ngoài ra và nói :
- Ở đây chật hẹp không tiện làm chỗ giao đấụ Xin mời ra ngoài huê viên rộng rãi hơn.
Nói xong Mã Ngọc rảo bước đi trước dẫn đường. Tất cả các môn khách cũng kéo hết ra ngoài huê viên.
Ra tới nơi, họ Mã thủ thế rồi nói :
- Xin mời!
Lỗ Đại Cương chẳng nói chẳng rằng nhảy xổ tới, vung hai tay phát ra tiếng gió “vù vù”, một lúc xuất luôn hai chiêu “Mãnh Hổ Xuất Lâm” và “Ngọa Hổ Mãn Nguyệt” đánh luôn hai ngọn quyền, đồng thời chân đá vút vào trung hạ tam lộ của Mã Ngọc.
Tiểu Mạnh Thường thấy Lỗ Đại Cương mới ra tay mà đã dùng toàn những chiêu ác độc, liền sử dụng thế “Hổ Chiến Quyền”, một trong những bài quyền tuyệt kỹ của Thiếu Lâm Thần Quyền thì biết đối phương ở Thiếu Lâm hơn mười năm, luyện tập về ngoại công. Quyền pháp của họ Lỗ mười phần lợi hại nên chẳng dám coi thường, vội nhún mình nhảy vọt lên tránh hai thế quyền đó.
Chân vừa rơi xuống đất, Mã Ngọc tọa thấp người xuống hú lên một tiếng sử dụng luôn bài “Mãn Thiên Hoa Vũ quyền pháp”. Nói về Mãn Thiên Hoa Vũ là tên của một thế sử dụng ám khí thí dụ như bắn Mai Hoa trâm hay Kim Tiền tiêu, một lúc có thể bắn ra sáu, bảy cây Mai Hoa trâm hoặc bảy, tám Kim Tiền tiêu liên tiếp như mưa bay, gió thổi nên mới gọi là Mãn Thiên Hoa Vũ.
Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc luyện tập quyền pháp của Trường Bạch Phái, bộ quyền này là một môn tuyệt kỹ. Người của họ Mã quay như chong chóng, hai tay nhanh như thoi đưa liên tiếp đánh ra bảy, tám quyền.
Người ta chỉ có hai tay nhưng quyền pháp của họ Mã đánh ra vùn vụt nhanh như chớp hình như có tám taỵ Lỗ Đại Cương chưa từng được thấy quyền pháp nào lạ như thế, họ Lỗ vội vung tay lên hoa quyền chống đỡ, nhưng người ta nghe hai tiếng “Bịch bịch”, họ Lỗ đã bị đánh trúng hai quyền nơi lưng.
Song quyền của họ Mã vừa đánh trúng xong thì chàng nhảy vụt ra ngoài nói :
- Lỗ đại ca! Tiểu đệ xin chịu thua rồị
Lỗ Đại Cương thốt nhiên hỗ thẹn, tự nghĩ quyền pháp của họ Mã cao hơn mình một bật, nhưng lẽ nào lại chịu thuạ Lỗ Đại Cương mặt hầm hầm chạy về phía các bạn hữu lấy một thanh đao ra và quát lớn :
- Mã Ngọc! Trận đấu này chỉ có thể có một người sống mà thôị Ngươi hãy lấy binh khí ra đị
Mã Ngọc tức thì thối lui một bộ, gia nhân đã mang tới một cây đaọ Lỗ Đại Cương chẳng nói chẳng rằng vung tít cây đao thành một đạo bạch quang sáng lòe, dùng luôn thế “Thần Long Phơi Giáp” nhằm ngay đĩnh đầu Mã Ngọc chém xuống một nhát thật mạnh.
Mã Ngọc nghiêng mình né tránh, vội múa tít ngọn đao dùng thế “Đảo Sa Kim Tiền” chém phạt ngang Lỗ Đại Cương một nhát, đà đao đi quá nhanh chỉ thấy đánh vút một cáị
Họ Lỗ thất kinh nhảy lùi tới ba bộ để tránh, lưỡi đao chém hụt vào không khí nghe một tiếng “Vèo” kinh tâm sởn gáỵ Họ Lỗ càng thêm căm giận vội đem bài “Thiếu Lâm Tam Nghĩa đao” ra sử dụng.
Mười hai năm khổ công luyện tập võ nghệ tại Thiếu Lâm với mục đích báo thù, họ Lỗ mang hết tài học bình sinh ra đối phó với kẻ địch. Đường đao của họ Lỗ thật là dũng mãnh, mỗi một mũi đao, đường đao chém đều hết sức nguy hiểm.
Lưỡi đao lúc đó như một con rắn bạc quấn chặt chung quanh Mã Ngọc đâm chém liên tiếp, sức mạnh phát ra mãnh liệt như một luồng gió lốc.
Tiểu Mạnh Thường Mã Ngọc cũng vội giở “Mã gia thần đao” của thân phụ truyền thụ. Thân hình chàng như một cái bánh xe quay tít, lưỡi báu đao tỏa ra một luồng bạch quang như một con rồng uốn khúc, vùn vụt khi cao, khi thấp như một con nhạn triển cánh vờn mồị Lưỡi đao công phải, té ra đâm bên tráị Thực thực, hư hư biến ảo khôn lường, đã áp đảo được “Tam Nghĩa đao” của Lỗ Đại Cương.
Lúc này khi đấu quyền với Mã Ngọc không được bao lâu thì đã sút kém, nên tức giận vô cùng chỉ muốn một đao chém chết ngay Mã Ngọc cho hả giận. Mỗi một nhát đao đâm hay chém, họ Lỗ đều dùng tận lực, chỉ muốn mau kết liễu trận đấu nên đã phạm vào qui luật của võ giới là tâm khí phù, tháo khí lực rất mau suy giảm.
Còn đao pháp của Mã Ngọc thuộc Trường Bạch phái đã nổi danh nơi chốn giang hồ, lại được Mã Thanh Hùng truyền dạy kỹ lưỡng. Bởi thế đao pháp của Mã Ngọc hết sức tinh thông, chàng lại chẳng bao giờ khinh địch, thận trọng từ đường đao thế đỡ.
Một đằng là Lỗ Đại Cương hầm hừ gầm thét như thú dữ vờn mồị Còn một đằng cứ nhởn nhơ như con bướm lượn. Phút chốc hai người đã giao đấu hơn năm hiệp vẫn bất phân thắng bạị
Lỗ Đại Cương thấy mãi mà không hạ được đối phương mà cũng hề chém trúng được mũi đao nào thì càng thêm uất hận. Họ Lỗ hét lên một tiếng thật lớn, vung đao dùng thế “Giáp Sơn Siêu Hải” nhằm giữa đỉnh đầu Mã Ngọc chém xuống một đaọ
Thân pháp Mã Ngọc nhanh nhẹn dị thường, chàng chỉ hơi nghiêng mình sang bên tay phải, đồng thời quay ngoắt mình lại chém ngược một đaọ Nhưng bản tâm họ Mã không muốn hạ độc thủ nên không dùng lưỡi đao mà chỉ dùng sống đao đánh vào “Khúc Trì huyệt” của họ Lỗ.
Lỗ Đại Cương thấy tay mình tê buốt không giữ nỗi thanh đao, chỉ nghe đánh “Xoảng” một tiếng, thanh đao của họ Lỗ đã rơi xuống đất. Khứu Phùng Xuân thấy thế la lớn :
- Mã công tử đại thắng!
Lỗ Đại Cương thấy mình đấu quyền đã sút kém, nay dùng đến binh khí lại bị bại rõ ràng. Nhờ họ Mã nương tay không hạ sát thì tự nghĩ không báo được phụ thù, còn mặt mũi nào đứng trên vũ trụ nữa nên nhặt lấy thanh đaọ Mã Ngọc điềm nhiên thủ thế.
Lỗ Đại Cương thình lình nói lớn :
- Phụ thân ơi! Con cam bất hiếu! Không thể báo thù cho phụ thân được.
Vừa nói dứt lời, Lỗ Đại Cương quay ngược lưỡi đao đâm vào cổ tự vẫn. Từ Diện Hỗ Mẫn Sĩ Phối ở ngoài nhanh mắt trông thấy vội tung mình nhẹ như chim én giật phắt lưỡi đao, nhưng lưỡi đao đã chém sớt vào cổ, máu chảy chan hòạ
Mã Ngọc cũng không ngờ họ Lỗ tự vẫn nên phóng mình toan giật lấy đaọ
Vạn Vân Hùng đại sư đã tung mình tới sau lưng Mã Ngọc quát lớn :
- Tiểu tử! Ngươi đừng giả nhân, giả nghĩa, có khác chi mèo khóc chuột. Hãy mau đỡ lấy chưởng pháp của tạ
Vạn Vân Hùng đại sư còn có ngoại hiệu là “Truy Phong Thiết Chưởng”, thân hình nhanh như tên bắn, vừa nói dứt lời đã đánh ra một chưởng “Ngộ Cương Phạt Quế” nhắm bả vai Mã Ngọc đánh tớị
Vạn Vân Hùng là một tay cao thủ của phái Côn Luân, ngoại công hết sức cao siêu, so với Lỗ Đại Cương thật là một trời một vực. Chưởng phong đánh ra mạnh mẽ vô cùng.
Mã Ngọc thất kinh vội nhảy sang bên trái tránh thoát, nhưng Vạn Vân Hùng đã tiếp theo luôn hai chưởng “Liên hoàn chưởng pháp”. Một là thế “Chân Sử Trảm Giao”, còn một thế là “Phùng Phụ Đấu Hổ”. Một chưởng đánh từ dưới lên trên, một chưởng đánh từ phải sang trái, uy dũng vô cùng.
Mã Ngọc muốn tránh nhưng không thể nào kịp được. Chàng liều mạng vận hết khí lực công phu vào hai tay muốn dùng chiêu “Suy Song Vọng Nguyệt” để đỡ hai chưởng của đại sư.
Chàng bỗng thấy một bóng vàng bay tới nhanh như chớp thì Vạn Vân Hùng đã hét lên một tiếng cực lớn, thân hình lảo đảo thối lui về phía bên trái ba bộ.
Mã Ngọc thất kinh, định thần nhìn kỹ thì thấy Vương Trùng Dương đứng chắn trước mặt mình tay còn cầm đôi đũa bạc.
Nguyên lúc Vạn Vân Hùng dùng chưởng tấn công, họ Mã biết tránh không kịp nên ráng dùng để đỡ như vậy nào có khác chi đem trứng chọi với đá. Nếu không chết thì hai tay sẽ gẫy lìạ Trùng Dương thấy tình hình như thế liền phóng mình tới dùng đôi đũa bạc, kẹp lấy tay trái của Vạn Vân Hùng kéo lạị
Vạn Vân Hùng vì quyết hạ Mã Ngọc cho nên chưởng phong đánh ra dũng mãnh vô cùng, uy lực ghê gớm, bỗng bị họ Vương dùng đũa bạc kẹp chặt lấy tay lôi lại cứu thoát Mã Ngọc khiên cho người của đại sư phải thối lui tới ba bước thì cả kinh vội vung tay trái lên để gở đôi đũa và toan dùng hữu quyền đánh tiếp.
Nhưng đôi đũa bạc đã rơi xuống đất còn Vương Trùng Dương đã kéo được Mã Ngọc đứng về phía sau lưng mình. Họ Vương mỉm cười và nói với Vạn Vân Hùng :
- Oan có đầu, nợ có chủ. Việc trả thù ngày hôm nay đều do họ Lỗ, Mã cùng nhau thanh toán, chớ họ Mã có oán thù gì với đại sư mà đại sư ra tay hạ độc thủ?
Vạn Vân Hùng quát lớn :
- Hôm nay chúng ta tới đây cũng vì họ Lỗ, ta quyết giúp y mà trả thù. Ngươi là kẻ vô cang không nên dính dáng đến làm chi cho uổng mạng. Biết điều hãy đứng sang một bên, để ta giết chết tên tiểu tử họ Mã.
Trùng Dương cất tiếng cười ha hả nói :
- Đây là mối thù giữa hai họ Lỗ và Mã, không can chi đến bất cứ một aị Tại hạ xin hỏi: Vậy chứ Lỗ Đại Cương hơn mười năm tập luyện võ nghệ tại Thiếu Lâm tự đã có bản lãnh đánh ngã được mười tám vị La Hán, mộc nhân tại La Hán đường. Võ công đã cao siêu mà nay không hạ được Mã Ngọc âu cũng do số trờị Như vậy ta khuyên nên chấp nhận sự xin hòa của Mã Ngọc để giải kết oán thù, Lỗ Đại Cương, ngươi nghĩ saỏ
Lỗ Đại Cương hầm hầm quát lớn :
- Tuy ta không báo được thù nhưng đã có các vị sư bá, sư thúc cùng các vị sư huynh của ta quyết giúp đỡ ta lấy mạng của Mã Ngọc để trả thù cho thân phụ tạ
Khứu Phùng Xuân cả giận cũng nhảy ra sân để quyết đấu nhưng Trùng Dương ngăn lại, lên tiếng :
- Ngươi nói thế tức là ngươi nhận chịu thua họ Mã nhưng còn muốn nhờ tất cả mọi người ỷ thế hiếp cô, như thế đâu thể gọi được là công bằng? Hơn nữa việc năm xưa Lỗ tiền bối cũng có một phần lỗi, chẳng những nhập đảng cường khấu làm điều phi nghĩa mà lại ỷ mình võ nghệ cao cường chống lại sư huynh, không nghĩ gì đến tình nghĩa nên mới chết thảm dưới tay của Mã anh hùng.
- Nay Mã anh hùng đã ra người thiên cổ, quả Mã Ngọc là kẻ vô can. Nếu cứ lấy câu cha làm thì con chịu thì đời đời, kiếp kiếp trả làm sao cho hết oán thù nàỵ Chi cho bằng theo lời của họ Mã dẹp bỏ oán thù cùng nhau kết lại mối tình giao hảo, chẳng hay lắm sao!
Vương Trùng Dương nói một hồi họ Lỗ cứng họng chẳng biết nói làm saọ
Tất cả các môn khách của hai bên đều sầm sì bàn tán.
Huỳnh Thục chân nhân cười gằn, bước lại can thiệp nói :
- Đây là ngươi chỉ nghe theo lời nói của Mã Ngọc kết tội cho Lỗ Kim Thụ. Người đã chết, dù cho họ Mã có bịa ra họ Lỗ cướp của, gian dâm, giết người hay là thêm mười đại tội nữa thì linh hồn của Lỗ Kim Thụ cũng không hiển hiện cãi lại cho được. Bọn ngươi cố tình mang toàn những chuyện xấu xa đổ cho Lỗ Kim Thụ cốt ý làm sai lạc dư luận. Ta cũng có thể nói trước kia Mã Thanh Hùng vì tham tiền mà hạ sát sư đệ, ngươi nghĩ saỏ
Câu nói của Huỳnh Thục chân nhân có vẻ muốn gây hấn. Người bên phe Lỗ Đại Cương nghe Vương Trùng Dương nói một hồi, đã thấy phe mình “Đạo Lý Thiết Thiên”, nay lại thấy Huỳnh Thục chân nhân nói như thế lại cho là đúng.
Vương Trùng Dương cất tiếng cười khanh khách và nói :
- Huỳnh Thục chân nhân lão sư nói rất đúng, người chết không có thể đối chứng. Nhưng mà Huỳnh đạo trưởng còn sống đây, chắc có thể đối chứng được rồị
- Hơn nữa cứ coi qua trận đấu lúc nãy, nếu Mã Ngọc không có lòng quân tử dùng sống đao thì họ Lỗ đâu còn gì tánh mạng.
Tất cả các môn khách của họ Mã nghe nói thế đều cười ầm lên.
Huỳnh Thục chân nhân là người học thức chẳng bao nhiêu, lúc đầu không hiểu nguyên nhân làm sao mà bọn môn khách của họ Mã cười ầm lên như vậy, đến lúc nghĩ kỹ lại thì nổi giận đùng đùng rút ngay cây Tùng Vân kiếm sau lưng nhắm Vương Trùng Dương đâm luôn một nhát.
Nguyên về các tỉnh Tây nam, có một số đạo sư có một xảo thuật gọi là “lên đồng”, có thể gọi hồn của người chết về nói lại những chuyện lúc còn sống, lừa gạt những người tin dị đoan. Cho nên ngụ ý của Vương Trùng Dương nói rằng hồi Lỗ Kim Thụ còn sống tuy không quen biết với Huỳnh Thục chân nhân, nhưng nay đã chết đi họ Lỗ có thể quen biết Huỳnh Thục chân nhân thì có khác nào bảo Huỳnh Thục chân nhân là kẻ bàng môn tả đạọ Bởi thế nên khi Huỳnh Thục chân nhân nghĩ ra là Vương Trùng Dương đã bán nhạo mình thì nổi giận, cầm lòng không đặng rút kiếm đâm ngaỵ
Họ Vương thân pháp nhanh nhẹn phi thường, vừa thấy Chân nhân động thủ đã nghiêng mình tránh được ngay, mỉm cười nói :
- Huỳnh đạo trưởng lại muốn dùng kiếm đấu với hạ bối nữa saỏ
Huỳnh Thục chân nhân thu kiếm về quát lớn :
- Tiểu tử! Ngươi dám mạo phạm với bản sư, dùng những lời vô lễ, ta không thể tha chết được. Mi mau lấy binh khí ra chống cự, kẻo ta mang tiếng đánh kẻ tay không.
Vương Trùng Dương lại cả cười nói :
- Hay lắm! Hay lắm! Bấy lâu nay tại hạ vẫn thường được sư phụ cho biết Điểm San phái nổi danh về kiếm thuật, hôm nay được thù tiếp vài đường còn gì vui bằng.
Vừa nói họ Vương vừa cúi xuống lượm đôi đũa bạc rớt xuống đất hồi nãy và nói :
- Đây là binh khí của tại hạ, xin đạo trưởng cứ việc ra taỵ Hạ bối xin nghênh tiếp.
Huỳnh Thục chân nhân đã nổi danh trên chốn giang hồ về kiếm thuật, đã có biệt danh là: Nam Cương Đệ Nhất Kiếm Sư, nay thấy họ Vương cầm đôi đũa bạc để giao đấu với mình thì nổi giận đùng đùng quát lớn :
- Tiểu tử! Ngày hôm nay chắc là mi đã tới số nên mới đến đây toan vuốt râu hùm.
Vương Trùng Dương lại cười ha hả nói :
- Tại hạ không quen dùng binh khí, nhưng xin đạo trưởng cứ ra taỵ
Huỳnh Thục chân nhân múa tít thanh báu kiếm dùng thế “Tam Phụng Lai Nghi”, một thế kiếm hiểm độc trong bài “Phụng Nghi kiếm” của Điểm San phái, đâm liên tiếp ba nhát nhanh như chớp.
Trùng Dương né đông, tránh tây, người mềm mại như con rắn nước đang lội dưới hồ. Mũi kiếm đâm sát vào người chỉ cách gang tấc, họ Vương vừa tránh lại còn cười nói :
- Chà! Thế “Tam Phụng Lai Nghi” này thật là lợi hạị
Huỳnh Thục chân nhân giật mình, không ngờ một người tuổi còn trẻ, giang hồ chưa biết mặt nghe tên sao lại có bản lãnh cao cường như thế? Thấy đối phương có vẻ diễu cợt, Chân nhân càng thêm tức giận quát lớn :
- Tiểu tử! Ngươi biết thế kiếm đó của ta, vậy ngươi hãy ráng đỡ thế này nữa nghe chưạ
Vừa nói dứt lời, Huỳnh Thục chân nhân lại đảo lộn thanh kiếm hóa ra một đạo bạch quang từ phía tay trái chém vụt tới rất mạnh, nhưng thanh kiếm vừa tới gần thân người của họ Vương lại bị bật văng trở lại mà quay lên từ bên phải đâm vào “Thái Dương huyệt” của Trùng Dương. Thế kiếm này gọi là “Song Phượng Triều Dương” rất nên lợi hại, hư thực khôn lường, biến ảo vô song, đối thủ không thể ngờ trước mà đón đỡ.
Chẳng dè họ Vương mắt sáng như sao, tâm thần minh mẫn không chút bối rối, dùng đôi đũa gạt phắt thanh kiếm sang một bên đoạn cất tiếng cười vang :
- Thế kiếm này gọi là “Song Phụng Triều Dương”, bại ngã bất đắc.
Mọi người đều cười ồ cả lên.
Huỳnh Thục chân nhân càng thêm tức giận dùng luôn hai thế “Phụng Hoàng Tùy Nha” và “Đơn Phụng Tước Đồng” tấn công liên tiếp. Chân nhân đã luyện bài “Phụng Nghi kiếm” trên ba mươi năm trời, vang danh trên chốn võ lâm, đã khiến cho biết bao nhiêu anh hùng hảo hán, bản lãnh cao cường phải cúi đầu khiếp phục.
Nhờ bài kiếm này mà Huỳnh Thục chân nhân nổi danh Nam Cương Đệ Nhất Kiếm Sư. Lưỡi kiếm trong tay Chân nhân sử dụng chẳng khác chi con rồng bạch uốn khúc, khi đông khi tây, lúc tả lúc hữu, vùn vụt chớp nhoáng nhằm những yếu huyệt của họ Vương đâm chém tới tấp như mưạ
Vương Trùng Dương ung dung sử dụng đôi đũa bạc thành bài “Thái Ất Kiếm Ảnh” của Toàn Chân pháị Chàng vận nội lực vào đôi đũa bạc gạt đỡ lưỡi kiếm của Chân nhân phát ra những tiếng leng keng dữ dội mà đôi đũa bạc không hề hấn gì, khiến cho tất cả mọi người phải khiếp phục trước bản lãnh cao siêu của chàng.
Huỳnh Thục chân nhân chưa bao giờ gặp được một đối thủ nào lợi hại cao siêu đến như thế. Chân nhân vừa tức vừa sợ, dùng toàn những chiêu thức hết sức ác độc, chỉ mong một kiếm có thể hạ sát ngay đối thủ để giữ danh tiếng với tất cả mọi ngườị
Nhưng đâu có dễ dàng như vậy, Trùng Dương tuy chưa giao đấu nhiều nhưng bản lãnh của chàng thế gian hi hữụ Chàng múa đôi đũa ngắn mà chống đỡ với thanh kiếm của Huỳnh Thục chân nhân đã ngoài bốn mươi hiệp mà vẫn bất phân thắng bạị
Họ Vương đã thấu triệt hết tất cả các đường kiếm huyền bí của Điểm San phái, chàng không muốn làm mất mặt một vị tiền bối trên chốn võ lâm nên nhảy vọt ra ngoài nói lớn :
- Đã ngoài bốn mươi hiệp, quả nhiên danh bất hư truyền. Đường kiếm Phụng Nghi của Điểm San phái thật là lợi hại, xin đạo trưởng hãy ngừng taỵ
Huỳnh Thục chân nhân trong lúc tức giận đâu hiểu Vương Trùng Dương đã hết lòng nhường nhịn, lại cho là họ Vương sợ hãi lại càng làm già, quát lớn :
- Súc sinh! Thế nào cũng phải tỏ rõ sự hơn thua, nếu mi có sợ chết thì hãy tìm binh khí để đối địch với tạ
Vương Trùng Dương lại cất tiếng cười ha hả nói :
- Tại hạ đã nói trước là không hề sử dụng binh khí. Nếu đạo trưởng vẫn cứ cố chấp để phân cao thấp thì xin đạo trưởng cứ tấn công, tiểu bối dù bất tài cũng có thể tiếp đạo trưởng vài ba trăm hiệp.
Lửa cháy lại đổ dầu thêm, Huỳnh Thục chân nhân thấy Vương Trùng Dương mười phần kiêu ngạo lại càng thêm tức giận, bèn quát lên một tiếng thật to, múa tít thanh kiếm nhằm họ Vương chém luôn một nhát, đồng thời tay trái nhằm huyệt đạo của chàng điểm tớị
Vương Trùng Dương thấy thế cả giận nghĩ thầm :
- Tạp Ma lão đạo! Biết bao nhiêu năm trời mới tạo nên danh tiếng, ta với mi không thù không oán, chẳng qua vì thấy việc bất bình ra tay gánh vác nên ta đã nhường nhịn quá nhiều mà vẫn không biết. Ta phải hạ ngươi cho rồi để bớt đi tính kiêu ngạọ
Lại thấy Chân nhân sử dụng thế “Tiểu Sử Khoa Phụng” dùng kiếm chém tạt vào người chàng, lại ỷ y Vương Trùng Dương tay không khí giới nên tay trái lại vung thế “Độc Long Xuất Động” điểm hai ngón tay vào “huyệt Tướng Đài” của họ Vương, khiến cho Trùng Dương phải dùng ngay thân pháp “Di Bộ Phân Bình” tránh lưỡi kiếm, đồng thời múa đôi đũa bạc thành thế “Lưỡng Long Tranh Châu” định kẹp lấy hai ngón tay của Huỳnh Thục chân nhân.
Huỳnh Thục chân nhân thấy tình hình như vậy thì cười thầm và nghĩ trong bụng :
- Tiểu tử thật là ngu xuẩn, ta đâu có phải là Vạn Vân Hùng mà ngươi dùng đôi đũa bạc có thể kẹp được tay tạ Dù cho đôi đũa bạc này bằng sắt ta cũng bẻ gẫy như không.
Huỳnh Thục chân nhân không thèm thu tay về mà cứ nhắm thẳng đôi đũa bạc của họ Vương đâm thẳng tớị Gần tới nơi, Chân nhân hoa chỉ thành chưởng dùng ngay “Cầm Nã thủ pháp” lật ngược bàn tay lại nhanh như chớp, chộp lấy đôi đũa bạc định tâm bẻ gẫỵ Chẳng ngờ bàn tay vừa đụng vào đôi đũa, Chân nhân thấy bàn tay tê buốt như bị kim châm thì giật mình kinh sợ, tay phải vung luôn thanh kiếm thành thế “Lộng Ngọc Súy Địch” chém vút ngay vào cổ Vương Trùng Dương để bắt buộc đối phương phải lùi bước.
Ngờ đâu Trùng Dương sử dụng đôi đũa nhanh như chớp, đã điểm vào huyệt mạch môn của Huỳnh Thục chân nhân. Thế này rút trong bài “Thái Ất Kiếm Ảnh” của Toàn Chân phái tên là “Hoa Long Điểm Tinh”. Người ta nghe một tiếng “ôi chao”, đồng thời tiếp theo một tiếng “Xoảng”, cây “Cổ Đinh Tùy Giao trường kiếm” của Huỳnh Thục chân nhân đã rời khỏi tay, rơi ngay xuống đất.
Phàm những tay cao thủ khi đấu kiếm, khi thanh kiếm bị rơi xuống đất thì kể như thuạ Nhưng Huỳnh Thục chân nhân cười lên ha hả như điên cuồng và nói :
- Hôm nay bần đạo mới thấy rõ thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân. Anh hùng hào kiệt xuất thiếu niên. Túc hạ tên họ là gì? Sư phụ là aỉ Xin cho bần đạo biết, dù có thua bần đạo cũng vui lòng.
Thấy Huỳnh Thục chân nhân đổi cách xưng hô, Vương Trùng Dương cũng vội vàng nói :
- Kính thưa đạo trưởng, tiểu bối họ Vương. Gia sư cũng là một đạo nhân, tục danh là Thượng Thanh Hạ Hư, ở tại Sùng Sơn trong hang Bách Cầm.
Huỳnh Thục chân nhân lại nói :
- Té ra gia sư là Thanh Hư chân nhân. Hôm nay bần đạo bị thua, xin trở về Nam Cương bế độ thanh tu, quyết suốt đời không dùng kiếm nữạ
Nói dứt lời, Huỳnh Thục chân nhân chắp tay vào ngực vái chào, rồi đi thẳng ra ngoài cửa chính của Mã gia trang. Vương Trùng Dương lật đật vòng tay đáp lễ.
Huỳnh Thục chân nhân vừa ra tới cửa bỗng đâu có một tiếng cười rất lớn, rồi ngoài đi vào một người đầu tóc bờm sờm, mặt xanh lét như tàu lá chuối, cản Huỳnh Thục chân nhân lại và nói :
- Huỳnh Thục đạo hữu! Thắng bại là thường, có chi đạo huynh lại tức bực buồn rầu như thế. Hãy vào đây xem tiểu đệ thay mặt đạo huynh mà sửa trị bọn chúng một phen.
Tiếng nói của người này tuy không lớn nhưng the thé điếc tai nhức óc. Mọi người có mặt tại Mã gia trang đều rùng mình sởn gáy, khi nhìn kỹ người đó lại càng hết hồn. Thật là hình dáng chẳng khác gì một cái thây mạ Đầu tóc rối bù như cái ổ gà, da mặt xanh lét như trái dưa hấu, đôi mắt lõm sâu như hai cái hố, gò má cao, mũi tẹt, miệng lớn, hàm răng nhọn hoắc trông như ma quỷ, mặc chiếc áo màu xanh, cánh tay áo phủ lấp cả hai bàn tay, đi chân đất thủng thẳng bước vàọ
Huỳnh Thục chân nhân trông thấy cũng giật mình hỏi :
- Ủa kìa! Ô Vưu đạo trưởng! Tới đây có việc gì?
Quái nhân này là người thuộc tỉnh Vân Nam, xuất thân trong rừng núi ở Miêu Sơn, thuộc giống Dã Nhân. Thưở nhỏ được một dị nhân truyền thụ võ công rất cao siêụ Nhân dân vùng Vân Nam vẫn thường gọi là Ô Vưu đạo nhân, cùng Huỳnh Thục chân nhân đều là những nhân vật hữu danh ở vùng Miêu Cương, nhưng hai người tính nết khác nhaụ
Huỳnh Thục chân nhân tuy tính tình nóng nảy và hay bênh vực môn đồ nhưng cũng là một nhân vật chính phái, không làm những điều tàn bạọ Chẳng hạn như hôm nay Huỳnh Thục chân nhân bị Vương Trùng Dương đánh bại thì tự nhân ngay là kẻ bại trận chịu thua và tuyên bố sẽ trở về Nam Cương bế môn, phong kiếm không hoạt động trong giới giang hồ nữạ
Trái lại Ô Vưu đạo nhân khác hẳn. Vì là giống Dã Nhân nên Ô Vưu đạo nhân tham dâm, háo sắc, tánh nết hiểm độc tàn nhẫn. Mỗi tháng đều phải ăn vài bộ Óc người và lòng người thật là ghê gớm.
Võ công của Ô Vưu đạo nhân được dị nhân truyền dạy gọi là “Hành Thây công”. Khi vận dụng Thây công thì thân thể cứng như thép nguội, đao chém không đứt, giáo đâm chẳng thủng, quá ư lợi hạị Khi giao đấu trong miệng thổi ra một thứ khí lạnh kinh ngườị Lãnh khí đó người nào trúng phải thì chân tay rời rã, cả người tê buốt không cựa quậy được nữạ
Hai tay của Ô Vưu có thể đâm thủng đá, xuyên qua sắt. Một tay của Ô Vưu đã giết hại không biết bao nhiêu người Miêu Di ở sát vùng biên giới Điềm Miêụ
Ô Vưu đạo nhân tuy tàn nhẫn nhưng rất kính mến Huỳnh Thục chân nhân.
Nhiều lần tới Điểm San phái muốn giao kết với Chân nhân nhưng Huỳnh Thục chân nhân đã biết tiếng Ô Vưu đạo nhân là người ác độc nên cũng không đậm đà lắm, chỉ tiếp đãi lấy lệ vì không muốn tạo nên oán thù.
Nào ngờ đâu hôm ngay lại gặp Ô Vưu ở Yên Kinh thì cũng lấy làm lạ nên hỏi như thế.
Ô Vưu đạo nhân cười lên hô hố cản Huỳnh Thục chân nhân lại nói :
- Huỳnh Thục đạo huynh hãy quay trở lại, đệ sẽ vì đạo huynh mà ăn gan bọn chúng.
Nói dứt lời, Ô Vưu đạo nhân trợn đôi mắt xanh lè nhìn tất cả mọi người trong Mã gia trang. Nhãn quang của Ô Vưu đạo nhân thật là khủng khiếp. Ai mà gặp luồng nhãn quang đó đều phải rùng mình nhìn đi nơi khác, không dám ngó thẳng. Nhưng khi luồng nhãn quan của đạo nhân bắt gặp luồng nhãn quang của Vương Trùng Dương, thấy họ Vương không hề xao xuyến, vẫn bình tĩnh như không.
Ô Vưu đạo nhân liền tiến lên hai bộ, đứng trước mặt Vương Trùng Dương quát to :
- Mi có phải là môn đồ của Thanh Hư chân nhân không?
Tiếng quát của Ô Vưu đạo nhân vang lên như tiếng sấm, mọi người thấy ù tai choáng váng cả đầu óc, dư biết rằng nội lực của Ô Vưu đạo nhân đã tới mức cao thâm rồi vậỵ
Trùng Dương điềm nhiên trả lời :
- Phải! Tại hạ chính là đồ đệ của Thanh Hư chân nhân, chẳng hay đạo trưởng có điều chi chỉ bảỏ
Ô Vưu đạo nhân cười lên sằng sặc nói :
- Hay lắm! Hay lắm! Oan gia ngờ đâu lại gặp nhaụ Hôm nay ta phải vì sư phụ mà thanh toán mối thù ngót ba mươi năm về trước.
Nguyên do cách đây đã gần ba mươi năm, sư phụ của Ô Vưu đạo nhân là Cô Cốt Tôn Giả, một tay cao thủ Di Giáo Nam Cương hoành hành ngang dọc, giang sơn một cõi, chuyên hút óc người để luyện tập tà giáọ Lúc đó Thanh Hư chân nhân hãy còn niên thiếu, tính nóng như lửạ Một hôm đi ngang qua đèo Bạch Mao ở tỉnh Qúi Châu, trông thấy Tôn giả đang hút óc của một người chết trông thật là ghê tởm nên gây sự. Hai bên đánh nhau tới ngoài bốn trăm hiệp bất phân thắng bạị Thật là một trận đấu kinh thiên động địa, quỷ khóc thần sầụ
Hai bên đều dùng tuyệt kỹ công phu, khiến cho cây cối ven rừng đều đỗ gẫy như có một trận cuồng phong bão táp. Về sau Thanh Hư chân nhân phải dùng đến tuyệt kỹ là “Nhất Dương chỉ công” mới phá được “Hành Thây công” của Cô Cốt Tôn Giả và lại còn đánh trúng một chưởng vào sau lưng của Tôn giả nữạ
Tuy Cô Cốt Tôn Giả nhờ thuật khinh công cao siêu nên chạy thoát, nhưng về tới hang đá biết mình bị thương nặng không thể thoát chết, trước khi chết Cô Cốt Tôn Giả nói lại cho đồ đệ là Ô Vưu đạo nhân biết rõ tên họ, môn phái cùng hình dáng kẻ thù cho Ô Vưu nghe và truyền dạy cho Ô Vưu hai môn “Âm Thây công” và “Lãnh Thây công”, dặn dò là sau khi thành tài, không cần phải gặp Thanh Hư chân nhân mà hể gặp bất cứ ai là môn đồ của Thanh Hư chân nhân đều phải giết cả.
Sau đó Cô Cốt Tôn Giả lại nói cho Ô Vưu đạo nhân biết rằng mình bị “Nhất Dương chỉ” và chưởng phong của Thanh Hư chân nhân đánh trúng nên thế nào cũng chết. Tôn Giả muốn cho khỏi đau đớn nên đã tự dùng tay đánh vào đỉnh đầu vỡ sọ ra mà chết, máu huyết phun ra như suối, để lại cho Ô Vưu một hình ảnh thật là khủng khiếp.
Đến nay, nghe Vương Trùng Dương nhận mình là môn đồ của Thanh Hư chân nhân thì hết sức căm hận. Ô Vưu đạo nhân quắc cặp mắt xanh lè nhìn Vương Trùng Dương và cất giọng hết sức lạnh lùng dường như từ âm cung đưa tới :
- Năm xưa sư phụ ta bị sư phụ ngươi đánh trọng thương. Vì không muốn chịu sự đau đớn nên đã tự mình dùng tay đập vào đầu mà chết. Đến nay ta cũng phải dùng tay đập vỡ sọ của mi, ăn hết não tủy mới hả được lòng căm thù của tạ
Ô Vưu đạo nhân nói xong mấy lời này, chẳng cứ gì Mã Ngọc và các môn khách của Mã Ngọc đều giật mình khiếp hãi mà cả bọn Lỗ Đại Cương cũng rùng mình kinh sợ.
Vương Trùng Dương vẫn thường nghe sư phụ nói Ô Vưu đạo nhân thuộc Miêu Cương Ngũ Âm pháị
Môn đồ của phái này toàn là kẻ hung dữ, chuyên bắt người bổ óc luyện công rất tàn nhẫn và được sư phụ giảng cho biết võ công của Âm Thây công và Lãnh Thây công rất ghê gớm thì nghĩ thầm trong bụng :
- Nếu dùng võ công không hạ được tên Ô Vưu thì dầu cho tốn bao nhiêu nguyên thần chân khí ta cũng phải dùng đến môn “Nhứt Dương chỉ công” để đối phó và hạ sát tên tà đạo này đi để trừ hại cho sinh linh mới được.
Vừa nghĩ tới đây đã thấy Ô Vưu đạo nhân thân hình hơi cong xuống, những sợi tóc bỗng dựng đứng lên, mười ngón tay cúp lại, nét mặt lạnh như xác chết, quắc mắt nhìn Vương Trùng Dương.
Tất cả mọi người có mặt tại Mã gia trang đều hồi hộp, nín thở theo dõi Vương Trùng Dương sẽ đối phó như thế nàọ Nhất là Mã Ngọc lại càng lo sợ nghĩ thầm :
- Nếu Vương Trùng Dương bị hạ, ắt tính mạng chẳng còn.
Trùng Dương thấy Ô Vưu đã vận khí Âm Thây công lên sắp sửa ra tay thì chàng cũng ngầm vận nội công để chuẩn bị đối phó. Bỗng nghe thấy một tiếng quát to vang rền như tiếng chuông đồng :
- Yêu nghiệt của Ngũ Âm giáo, sao dám tới kinh thành này làm điều tàn ác?
Tiếng nói vừa dứt, từ ngoài cửa trang một bóng người nhanh như chớp nhảy vào, tay cầm cây trượng móc vào hai chân của Ô Vưu kéo mạnh. Hai tiếng “Bùng, bùng” nỗi lên, thân hình của Ô Vưu bay vọt lên caọ
Lại thấy người đó đưa đầu trượng móc vào giây lưng của Ô Vưu tung mạnh một cái, thân hình của Ô Vưu lại bay xa đến hơn hai trượng.
Mọi người đều giật mình hoảng kinh, riêng Trùng Dương nhận ra ngay, đó là vị Bang chủ của Cái bang tên là Hồng Thông (sau này đổi là Hồng Thất Công), chỉ có mười ngày dùng thần kỹ phục quần hùng, được tất cả Cái bang Nam, Bắc lên làm lãnh tụ, tiếp nhận cây Lục Trúc trượng.
Hôm nay vừa vào tới nơi, Hồng Thông đã dùng ngay cây bảo trượng với thế “Đả Cẩu trượng pháp”, bất ngờ móc vào chân Ô Vưu giật mạnh làm cho đạo nhân bị tung bổng và văng ra xa đến hai trượng.
Ô Vưu là một tay cao thủ, công phu điêu luyện tuyệt vời, tuy bất ngờ bị giật ngã, nhưng khi chân vừa rơi xuống đất đã lộn ngay người như một trái cầụ Lão ta quắc mắt nhìn Hồng Thông rồi đột nhiên hú lên một tiếng đinh tay nhức óc, mấy ngón tay đưa thẳng ra và nhảy vút tới, nhằm mắt của Hồng Thông đâm tớị
Hồng Thông lật đật đưa cây “Lục Trúc trượng” lên đỡ, Ô Vưu cả mừng ngoắc tay định chụp lấy đầu cây trượng giựt lấỵ
Ngờ đâu Trượng pháp của họ Hồng là môn chân truyền của các đời Bang Chủ, biến hóa thật là vô cùng huyền ảọ Khi Ô Vưu vươn tay định nắm lấy đầu trượng thì Hồng Thông dùng ngay thế “Cản Cẩu Xuất Môn”, quay tít ngọn trượng theo tay của Ô Vưu, khiến cho đạo nhân bắt gió.
Cây trượng lại nhanh như chớp đảo thành thế “Cản Lộ Đả Cẩu” đánh trúng ngay vào lưng của Ô Vưu một cái “bịch”. Ô Vưu kêu “oái” một tiếng té lăn ngay xuống đất.
Vương Trùng Dương thấy Hồng Thông sử dụng cây Lục Trúc trượng một cách tài tình thì tấm tắc khen thầm, vì những thế biến kỳ ảo từ trước tới nay chàng chưa hề thấy ai sử dụng.
Hơn nữa chàng thấy cây “Lục Trúc trượng” nhỏ bé như thế cứ tưởng rằng đánh trúng kẻ địch thì có thấm tháp gì, nhưng thật ra trong ruột cây Trúc Trượng có nồng thép khá nặng. Không những thế, Hồng Thông lại dùng nội công đánh ra thì dù cái roi mây cũng có sức mạnh ghê hồn.
Thường ngày Ô Vưu luyện tập “Hành Thây công”, thân hình cứng rắn như sắt nên dù bị đánh trúng liên tiếp cũng chưa đến nổi bị thương, tuy nhiên thấy ê ẩm cả mình và hơi gờm địch thủ.
Mới giao đấu mà đã bị ngã hai lần làm cho Ô Vưu rất đổi ngạc nhiên: không ngờ một người hành khất mà có võ công cao đến như vậỵ Ô Vưu tự nghĩ :
- Bao nhiêu năm trời tìm kiếm phái Toàn Chân để báo thù cho sư phụ. Hôm nay gặp tại Yên Kinh, nếu không hạ được đối phương thì còn gì danh tiếng nữạ
Nghĩ đoạn Ô Vưu đạo nhân đổi phương thế tấn công, không xốc tới nữa mà quặp mười đầu ngón tay lại như móng chim ưng, đứng yên thủ thế, vận hết khí lực trong người lên. Mặt của Ô Vưu đạo nhân lúc thường đã xanh bây giờ lại càng xanh ngắt trong rất dễ sợ. Hai con mắt lồi ra như mắt ếch, đăm đăm nhìn Hồng Thông không chớp.
Hồng Thông thấy vậy chắc độ Ô Vưu đạo nhân sẽ dùng “Hành Hộ công” nên cũng thu tay trượng về ngầm vận nội công chuẩn bị đối phó.
Bang chủ Cái bang cũng quắc đôi mắt nhìn đối phương chờ xem động tĩnh ra saọ Hai người đứng yên bất động cách xa nhau đến hai trượng.
Trong hoa viên mọi người đều nín thở theo dõi trận đấụ
Lúc đó Hồng Thông cảm thấy nhãn quang của Ô Vưu như một luồng ánh sáng làm chói mắt mình, làm cho người xôn xao khó chịu thì không dám chậm trể, vung cây “Lục Trúc trượng” hét lớn :
- Hãy mau đỡ lấy cây trượng của tạ
Hét xong, Hồng Thông nhảy vọt tới trước mặt Ô Vưu đạo nhân vung cây Trúc trượng nhằm đỉnh đầu đạo nhân bổ xuống.
Ô Vưu đạo nhân vẫn điềm nhiên như không, đợi cho cây trượng đánh gần tới nơi mới chuyển mình nhảy thối lui tới hơn một trượng để tránh. Hai con mắt sáng quắc vẫn nhìn thẳng vào Hồng Thông không hề chớp.
Hồng Thông đánh hụt một trượng vừa muốn đánh tiếp luôn một trượng nữa, bỗng cảm thấy trong người bủn rủn đành phải dừng chân lại thủ thế.
Họ Hồng nhìn vào mắt của Ô Vưu bỗng thấy tâm thần ngây ngất xao xuyến khác thường.
Ô Vưu đạo nhân vẫn đứng yên, hai con mắt càng ngày càng sáng lên một cách rất lạ lùng. Đó là đạo nhân đang sử dụng thuật “Chiêu Hồn Mắt Ma”, một thuật vô cùng lợi hại mà một người võ công cao cường, Ô Vưu có thể chỉ cần dùng nhãn quang có thể sai khiến cho địch nhân mất hết tinh thần, phải tuân theo ý muốn của đạo nhân. Còn nếu người tầm thường, Ô Vưu đạo nhân chỉ cần ngó ngay vào mắt chừng một phút là bị hồn mê bất tỉnh.
Nhưng Hồng Thông nhờ có võ công cao siêu, nội lực phi thường, nên tuy mắt của Ô Vưu nhìn tới năm phút mà vẫn chưa hề hấn gì.
Lúc ấy mọi người bỗng thấy Ô Vưu há miệng thổi mạnh một hơi, một luồng khí lạnh màu trắng nhằm mặt Hồng Thông bay tớị
Vương Trùng Dương ở ngoài vẫn theo dõi trận đấụ Tuy chàng chưa hề giao đấu với người của Ngũ Âm giáo, nhưng Thanh Hư đạo nhân là người lão luyện trên chốn giang hồ các phái võ lâm đều biết rõ, trong lúc truyền thụ võ công cho chàng thường đem lai lịch cũng như những sự lợi hại của các phái giảng giải cho biết rõ.
Bởi thế họ Vương đã biết võ thuật và ma thuật của Ngũ Âm giáo như thế nàọ
Nay thấy Ô Vưu không chịu giao đấu mà chỉ dùng nhãn quang mà nhìn Hồng Thông, lại thấy họ Hồng không sử dụng Trượng pháp liên tiếp được, lại cũng đứng yên để nhận xét đối phương thì Vương Trùng Dương biết rằng Hồng Thông đã mắc kế của Ô Vưu đạo nhân, vì Hồng Thông đinh ninh đạo nhân sẽ dùng “Cang Công trảo” nên mới chuẩn bị vận nội công để đối phó.
Do đó chàng bị đạo nhân dùng thuật “Chiêu Hồn”, đồng thời lại phun lãnh khí.
Trùng Dương nghĩ nếu để cho Hồng Thông trúng lãnh khí đó, tuy không thể nguy hiểm đến tánh mạng nhưng thế nào cũng bị ngã.
Chàng nhận rằng dầu sao thì Hồng Thông cũng là Bang chủ Cái bang, lần thứ nhất ra đối phó với kẻ địch, nếu bị thua thì còn chi là oai danh của một vị lãnh tụ nữạ
Nghĩ đoạn Vương Trùng Dương phi thân tới sát bên Hồng Thông vỗ nhẹ một cái vào vai chàng và nói :
- Bang chủ hãy bình tĩnh! Tà ma ngoại đạo không có chi đáng sợ.
Hồng Thông vừa bị vỗ vai thì lạ thay trong người như có một luồng khí nóng chạy khắp châu thân đến đơn điền, đồng thời trên đầu dường như có chậu nước lạnh tạt xuống. Chàng giật mình như người ngũ mê mới tỉnh, thốt nhiên tỉnh ngộ quát lớn :
- Yêu đạo! Ngươi không dám cùng ta đường đường chính chính giao đấu, lại dùng tà ma yêu thuật để hại ta saỏ
Vừa nói dứt lời, Hồng Thông vung tít cây “Lục Trúc trượng” dùng bài “Đả Cẩu trượng pháp” tấn công tới tấp vào Ô Vưu đạo nhân như một cơn gió lốc, khí thế rất là mãnh liệt.
Ô Vưu đạo nhân đang dùng thuật “Chiêu Hồn Mắt Ma” để trấn phục tâm trí của Hồng Thông, đồng thời dùng luồng “Âm Thi Khí” để giết kẻ địch, ngờ đâu bị Vương Trùng Dương dùng “Tiên Thiên Càn Khôn chưởng” giải thoát cho Hồng Thông và Hồng Thông còn dùng Lục Trúc trượng tấn công như mưa sa bão táp thì cả giận, lập tức đem “Cương Thi Bát Nguyên quyền” của Ngũ Âm phái ra sử dụng, một quyền kỳ lạ không có trong giang hồ.
Người ta thấy đạo nhân vừa nhảy tránh thoăn thoắt như con vượn, miệng vừa hú lên những tiếng hú như ma kêu quỷ khóc, rùng rợn vô cùng.
Với môn quyền này, Ô Vưu làm cho đối phượng bị tâm thần rối loạn, không tập trung được ý chí.
Khi ấy hai tay đạo nhân mười ngón xòe ra, quắp vào như móng chim ưng, đưa lên đưa xuống nhanh nhẹn dị thường, dường như muốn bắt lấy trượng hoặc chụp lấy tay của Hồng Thông.
Bang Chủ Cái bang nhờ được Vương Trùng Dương dùng “Tiên Thiên Càng Nguyên chưởng” giải thoát được yêu thuật của Ô Vưu nên tinh thần sảng khoái, bình tĩnh lạ thường.
Khi thấy Ô Vưu sử dụng bài ma quyền như vậy thì cười ha hả quát lớn :
- Tên tà ma ngoại đạo, ta phải tận diệt mi để trừ hậu hoạn.
Nói dứt lời, Hồng Thông vung cây Lục Trúc trượng dùng thế “Qúa Hải Tróc Long”, một thế võ cực kỳ lợi hại nhanh như chớp đánh vào bã vai của Ô Vưụ Tiếp theo, cây trượng quay ngoắc lại đánh trúng vào bàn tọa của Ô Vưụ
Đạo nhân bị trúng liền hai trượng thì cả giận hét to lên một tiếng, thò tay vào ngực lấy ra một nắm cát đen tung ra, một khối hắc phong tỏa rộng như một cái niạ Trùng Dương trông thấy cả sợ quát to :
- Mau mau tránh cho xa, kẻo mang họạ
Nguyên trong núi Vân Qui, thuộc Vân Nam, là một vùng rừng núi âm u, đầy lam sơn chướng khí và thường có luồng gió rất độc, người nào trúng phải sẽ chết ngaỵ
Ở sâu trong rừng có một hồ nước, vì gồm toàn những rễ và lá cây độc trong rừng rụng xuống rữa ra, bị nước mưa chảy cả ra ngoài hồ đọng lại đó lâu ngày, những cát ở dưới đáy hồ biến thành một màu đen kịch độc vô cùng. Lấy một chút pha với nước, người hay súc vật uống nhằm sẽ chết ngay lập tức, không có thuốc gì chữa khỏị Vì thế thổ dân ở đây gọi là Chưởng Sạ
Ô Vưu lấy thứ Chưởng Sa bỏ vào một cái túi đeo ở trước ngực, chuẩn bị khi cần tới là ném ra, đối phương không biết cứ tưởng là ám khí, không nhảy tránh cho xa hít phải thứ cát này lập tức chóng mặt hôn mê và chỉ trong chốc lát thất khiếu đến chảy máu ra mà chết.
Vương Trùng Dương đã được Thanh Hư chân nhân cho biết sự ác độc của thứ Chưởng Sa này, nên khi Ô Vưu móc ở trong ngực ném ra thì vội kêu mọi người tránh cho maụ
Hồng Thông tức thì phát động thần oai tay trái và đánh lại ngay một chưởng.
Một luồng gió mãnh liệt phát ra trúng vào hai luồng Chưởng Sa của Ô Vưu đánh “ầm” một tiếng như sét nổ đinh tai choáng óc, những hạt cát đen đều lã tả rơi xuống mặt đất.
Ô Vưu đạo nhân cũng bị chưởng phong xô ngã lăn. Trùng Dương thấy thế khen thầm nghĩ bụng :
- “Đây là Hàng Long chưởng pháp, tuy chưa tới mức thượng thừa nhưng cũng rất ghê gớm”.
Sau này Hồng Thông luyện chưởng pháp này trở nên tuyệt kỹ và mệnh danh là Hàng Long thập bát chưởng. Hồng Thông dùng Hàng Long chưởng pháp chẳng những đã đánh tan được Chưởng Sa của Ô Vưu lại còn làm cho đạo nhân bị té xuống đất thì không để cho Ô Vưu kịp đứng lên, Hồng Thông dùng Trúc Trượng đánh mạnh vào sau lưng của Ô Vưu, đồng thời Hồng Thông tận lực vung chân nhắm vào huyệt Bạch Thị của Ô Vưu đá một cái rất mạnh.
Chẳng dè Hồng Thông vừa đá trúng bỗng thấy chân bị hất văng trở lại như đá vào cục sắt, ê ẩm đau thấu tâm gan thì cả kinh, vì họ Hồng không ngờ Ô Vưu đã sử dụng “Hành Thây công”, toàn thân cứng như sắt.
Hồng Thông vội vàng thối lui một bước, Ô Vưu đã nhanh như chớp lăn mình tới ngay bắt được hai chân của Hồng Thông. Hai tay của Ô Vưu như hai cái kềm sắt nắm chặt lấy cổ chân của họ Hồng không sao cựa quậy được nữạ
Ô Vưu cười khà lên một tiếng hết sức rùng rợn, chuyển lực lên hai cánh tay định bẻ gãy hai chân của Hồng Thông. Đột nhiên Ô Vưu cảm thấy như có một mũi dùi xuyên qua thái dương và chỉ kịp kêu lên một tiếng thảm thiết. Hai mắt lồi hẳn ra ngoài toàn thân run rẩy, hai tay buông xuôi ra và giãy mạnh một cái, chết ngay lập tức. Không ai có thể ngờ Ô Vưu chết một cách nhanh chóng như thế.
Họ chỉ thấy Trùng Dương đứng đàng xa phóng hờ hai ngón tay thẳng tới người Ô Vưu mà thôi, và các vị võ lâm tại đó cũng không biết được là Trùng Dương dùng môn võ gì mà tuyệt thế như vậỵ Vì mọi người không ai thấy trong tay Trùng Dương phát ra một luồng gió nào hoặc một thứ ám khí gì.
Thật ra trong lúc Trùng Dương theo dõi trận đấu, khi thấy Hồng Thông dùng chưởng pháp phá được Chưởng Sa và đánh ngã Ô Vưu xuống đất. Nhưng không ngờ Ô Vưu quá lợi hại đã dùng Hành Thây công đối phó, lại dùng tay bắt được hai chân họ Hồng định bẻ gãy, biết rằng có can thiệp cũng không kịp, bất đắc dĩ Trùng Dương phải dùng đến tuyệt kỹ công phu là “Nhất Dương chỉ” phóng rạ
Chàng không dùng hết sức, mới dùng ba phần công lực đã đánh chết Ô Vưu đạo nhân, thật cũng đáng đời cho tên ác đạo, một tay lão đã giết chết không biết bao nhiêu người dân vô tội và sát hại biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt trong thiên hạ.
Trận đấu vừa chấm dứt thì Huỳnh Thục chân nhân thừa cơ mọi người đang chăm chú vào xác chết của Ô Vưu, lẻn ra khỏi Mã gia trang đi thẳng.
Những người bên phe Lỗ Đại Cương như: Vạn Vân Hùng đại sư, Tống Kiệt Uyên v.v... đều cảm thấy võ công của Trùng Dương và Hồng Thông quá cao siêu, tự xét mình không phải là tay đối thủ, có khác chi lấy trứng chọi với đá, một ly nước đem so với biển cả. Ngay cả tài nghệ của Mã Ngọc và Khứu Phùng Xuân cũng chẳng hơn kém là bao nhiêu, nên không ai bảo ai mọi người đều tính rời khỏi Mã gia trang.
Vương Trùng Dương thấy thế đưa tay ra hiệu bảo đứng lại và nói :
- Liệt vị hãy ở lại, tôi có đôi lời muốn nóị
Mọi người đều giật mình lo sợ vì nếu có sự gì xảy ra thì mười phần nắm chắc thất bại hết mười phần.
Tất cả đều ngơ ngác không hiểu họ Vương muốn giữ lại để làm gì. Lỗ Đại Cương nóng nảy quát to :
- Vương tiên sinh định gây sự với bọn ta nữa hay saỏ
Vương Trùng Dương cười ha hả nói :
- Người anh hùng lai khứ phân minh. Trước khi rời khỏi Mã gia trang, tại hạ thiết tưởng quí vị thảo luận lại vấn đề oán thù để phân rõ hắc bạch.
Mã Ngọc bước lên hai bước muốn nói, Vương Trùng Dương đã đưa tay lên, nói tiếp :
- Lỗ Đại Cương! Túc hạ chớ có nghĩ lầm là Lỗ bá phụ chết oan mà oán thù chồng chất mãi ở tâm can, rồi dựa vào uy danh của Thiếu Lâm tự mà làm việc vô nghĩạ Túc hạ Ở Thiếu Lâm tự hơn mười năm chắc còn nhớ sáu năm trước có ba vị cao thủ Thiếu Lâm bị hạ cũng vì quá kiêu căng, mười tám vị mộc nhân La Hán bị phá hoại cũng vì lẽ đó. Vì thế, tại hạ nghĩ túc hạ không nên quá tin vào tài nghệ tuyệt luân mà gây thêm cảnh tương tàn.
Lỗ Đại Cương nghe họ Vương nói một hồi đột nhiên biến sắc hỏi :
- Nói như vậy hóa ra đại danh của tiên sinh là Vương Trùng Dương?
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Phải! Phải! Tiện danh chính là Vương Trùng Dương.
Sáu năm trước, Vương Trùng Dương vào La Hán đường, độc chưởng phá mười tám vị La Hán mộc nhân và đánh bại cả ba vị cao thủ của Thiếu Lâm.
Lúc đó Lỗ Đại Cương hãy còn là tục gia đệ tử. Qui luật Thiếu Lâm hạn chế chàng không cho vào Sơ Tổ tự, Đạt Ma viện luyện công, tuy nhiên cũng được các vị sư huynh kể lại tên họ của người vào khuấy động Thiếu Lâm tự khiến cho Lỗ Đại Cương vừa khiếp phục vừa ngưỡng mộ vô cùng.
Đến nay thình lình gặp Trùng Dương tại đây thì Lỗ Đại Cương vội vòng tay vái dài một cái và nói :
- Bấy lâu nay tiểu sinh vẫn hâm mộ Oai danh của Vương tiền bối, hôm nay được gặp thật vạn hạnh vô cùng.
Vương Trùng Dương cũng nghiêng mình đáp lễ nói :
- Anh hùng bốn bể là nhà, nếu Lỗ huynh không cho lời của ngu hạ là trái thì hãy bình tĩnh để ngu hạ phân tỏ lại câu chuyện này để tránh sự Oán thù của hai họ Mã, Lỗ.
- Tại hạ là người vô can, đối với họ Mã không có chút quan hệ, nhưng vì ngẫu nhiên đi ngang qua đây nên được nghe hết đầu đuôi câu chuyện của hai vị tiền bối khi xưạ Dù rằng câu chuyện xảy ra chỉ có hai vị biết rõ, không có chứng nhân để đối chất, nhưng chắc Lỗ huynh cũng phải công nhận là tư cách và cách đối xử của Mã công tử là người chính nhân quân tử. Lúc giao đấu quyền cước cũng như khi dùng võ khí, nếu Mã công tử là kẻ tiểu tâm ắt sự thế đã biến đổi khác xạ
- Tuy ở đây có các vị anh hùng tiền bối như Huỳnh Thục chân nhân, Vạn Vân Hùng đại sư và Tống Kiệt Uyên lão bá cùng với liệt vị hảo hán không có lý do nào ỷ thế hiếp cô, hơn nữa theo ngu ý của tại hạ, hiện nay bên Mã công tử không có các vị tiền bối trợ lực, nhưng không thể một lúc các vị hạ được tất cả hay saỏ Tất nhiên còn những người sống sót, phải nuôi chí căm thù và với sự báo thù không được quang minh chính đại của liệt vị như thế, trong giang hồ đâu có thể làm ngơ. Rồi sẽ có những người vì trượng nghĩa sẽ tìm tới Lỗ gia trang vì bạn mà báo thù. Cứ như thế oán thù gỡ mãi sao rạ
- Tại hạ chỉ mong Lỗ huynh hãy nhìn xa nghĩ kỹ, lúc đắc thời có ưu thế không nên tuyệt tình cạn nghĩa, vì người xưa vẫn có câu: “Nhân nào thì quả ấy”, huống chi việc xảy ra không do Mã công tử gây nên. Lỗ huynh đã quyết tâm khổ luyện võ công ở Thiếu Lâm tự liên tiếp mười hai năm trời để báo phụ thù, mọi người đều biết rõ, không ai có thể chê trách Lỗ huynh là người con bất hiếụ Lỗ bá phụ ắt hẳn cũng được ngậm cười nơi chín suốị
- Tại hạ thấy nhị vị đều là những trang thiếu niên đáng mặt anh hùng, nên không muốn cho hai người bị hạị Sách có câu: “Lưỡng hổ tranh đấu, Nhất hổ tang thương”. Còn nếu trong hai người có một người ác độc, hãm hại nhân dân thì tại hạ dù tài hèn cũng quyết đưa vai gánh vác. Đấy là những lời thô thiển mong Lỗ huynh tự lý.
Lỗ Đại Cương nghe nói một hồi, đột nhiên tỉnh ngộ. Vội chắp tay vái dài, kính cẩn nói :
- Ngu hạ nghe được mấy lời vàng ngọc của tiên sinh chỉ giáo, khác nào vừa thoát khỏi bến mơ. Tiểu sinh cảm kích vô cùng và xin tuân theo lời chỉ bảo, quên hết oán thù.
Đoạn quay sang Mã Ngọc nói :
- Những cử chỉ lỗ mãng của tiểu đệ vừa qua, chẳng qua vì nóng lòng báo hiếu cho phụ thân, kính mong Mã huynh lượng thứ.
Mã Ngọc quá cảm động không ngăn được hai hàng lệ, chàng ngập ngừng hồi lâu mới thốt nên lời :
- Mong ơn Vương tiền bối trợ giúp, họ Mã chúng tôi toàn gia chu vẹn, lại còn đứng ra hòa giải cho hai họ Lỗ, Mã tan hết oán thù, ơn này tiểu sinh xin ghi lòng tạc dạ. Còn Lỗ huynh cũng vì nghĩa lớn quên hết oán thù, xin nhận một lạy này để thấu tấm lòng thành của tiểu đệ.
Nói dứt lời, Mã Ngọc thụp ngay xuống đất vái lạy Lỗ Đại Cương. Họ Lỗ thấy vậy cũng hết sức cảm động vội nói :
- Không nên làm thế, không nên làm thế.
Nhưng không kịp, Mã Ngọc đã sụp xuống đất. Lỗ Đại Cương cũng vội quì xuống lạy trả.
Hồng Thông cất tiếng cười ha hả nói lớn :
- Hay lắm! Hay lắm! Như thế mới gọi là đại trượng phụ
Vương Trùng Dương cũng vui vẻ vừa cười vừa nói :
- Đánh nhau vỡ đầu mới nhận anh em. Trước kia Lỗ bá phụ và Mã tiền bối đều là đồng môn sư, huynh đệ, nay nếu hai nhị vị kết thành minh huynh, nghĩa đệ chẳng hay lắm saọ
Tất cả các vị có mặt đều vỗ tay hoan nghênh ý kiến của Vương Trùng Dương. Mã, Lỗ hai người đều tuân theọ Mã Ngọc tức thì sai gia nhân bày bàn hương án, cùng nhau bái lạy thề nguyền, nguyện không cùng sinh nhưng cùng xin đồng tử.
Mã Ngọc lớn hơn Lỗ Đại Cương nên làm huynh, còn họ Lỗ nhận làm đệ.
Khứu Phùng Xuân bèn bảo gia nhân bày tiệc rượu khác để thết đãi chư vị anh hùng và cũng là chén rượu mừng cho hai họ Mã, Lỗ kết tình huynh đệ.
Vương Trùng Dương nói :
- Còn xác chết của tên yêu nghiệt này chúng ta xử trí ra sao đâỷ
Hồng Thông cất tiếng cười ha hả nói :
- Việc này dễ lắm, để ngu hạ tính chọ
Nói xong Hồng Thông để cây Lục Trúc trượng xuống, sử dụng chiêu “Kiến Long Tại Điền” trong “Hàng Long chưởng” nhằm vào xác của Ô Vưu đánh tới, tức thì xương cốt của đạo nhân tan nát. Hồng Thông lại nói :
- Hãy lấy một đỉnh rượu bỏ cốt vào, đem ra biển bỏ xuống là xong.
Mã Ngọc sai người quét rửa sạch sẽ và đem xác Ô Vưu quăng xuống biển.
Gia nhân đã bày xong tiệc rượu, Mã công tử mời tất cả mọi người vào trong gia trang ăn uống, tiếng cười nói vang lên vui vẻ.
Hồng Thông uống say túy túy, cáo từ đi trước. Vương Trùng Dương cũng muốn đi luôn. Mã Ngọc và Khứu Phùng Xuân bàn nhau một hồi rồi đến trước mặt Vương Trùng Dương sụp lạy, xin Trùng Dương thâu nạp làm đệ tử.
Vương Trùng Dương thấy hai người có khí phách anh hùng nên vui vẻ nhận lờị Mã, Khứu hai người cả mừng vội làm lễ bái sư.
Lỗ Đại Cương thấy thế cũng đến xin Trùng Dương cho được làm đồ đệ Toàn Chân pháị Vương Trùng Dương nói :
- Lỗ ca là môn đồ của Thiếu Lâm tự, nếu bái người khác làm sư phụ, tức là phạm vào qui giới của võ lâm, sẽ có nhiều điều bất tiện.
Lỗ Đại Cương nghĩ lại thấy họ Vương nói cũng có lý, nhưng dù sao cũng vẫn cảm thấy buồn bã.
Vương Trùng Dương thấy thế, quay lại nói Mã Ngọc :
- Đồ đệ hãy truyền võ công của Trường Bạch phái lại cho nghĩa đệ, như vậy có lý hơn.
Mã Ngọc cúi đầu tuân lệnh. Lúc đó Lỗ Đại Cương mới đổi buồn làm vuị
Vạn Vân Hùng đại sư, Tống Kiệt Uyên cùng những vị hảo hán do Lỗ Đại Cương mới tới trợ giúp, thấy mọi việc êm đẹp bèn cáo từ ra về.
Mã, Lỗ hai người giữ lại không được cũng tiễn các vị ra khỏi Mã gia trang mới quay trở lạị
Vương Trùng Dương ở lại Mã gia trang để truyền thụ bí quyết tập luyện nội công của Toàn Chân phái cho hai người Mã, Lỗ.
Hai người sau này trở thành: Mã Ngọc là Đơn Dương Tử đạo nhân, còn Khứu Phùng Xuân là Trường Xuân Tử Khưu Xử Cơ. Cả hai đã hấp thụ được cách tĩnh tọa luyện công thì Trùng Dương ra đi và dặn ba năm sau đến hang Bách Cầm trong núi Sùng Sơn sẽ gặp lạị
Mã Ngọc cố lưu giữ nhưng Trùng Dương nhất quyết không nghẹ
Sáng hôm sau Mã Ngọc dọn một tiệc rượu để tiễn Trùng Dương lên đường.
Lúc chia tay tình thầy trò xiết bao quyến luyến. Hai người tiễn chân Trùng Dương cách khỏi Mã gia trang có hơn mười dặm mới gạt nước mắt chia tay hẹn ngày tái ngộ.
Vương Trùng Dương ra khỏi Yên Kinh, muốn kiếm Hồng Thông nhưng họ Hồng đã đi Giang Nam. Vương Trùng Dương xiết bao thất vọng tự nghĩ :
- Mình đã đi du ngoạn Bắc phương thấm thoát đã hơn một năm trời, nếu không mau mau đi đến quan ngoại trường thành ngao du thì rất mau đến ngày phải trở về Sùng Sơn đế viếng sư phụ.
Nghĩ tới đây Vương Trùng Dương nhằm phía Bắc đi thẳng.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 11-22-2012, 11:14 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 8 - 10

Võ lâm ngũ bá


Hồi 8

Kỳ Trận Trên Hoang Đảo


Vương Trùng Dương đi một vòng ở phía Bắc từ Cự Dung Quan ra Trường Thành xuyên vào nội địa Mông Cổ, đến Liêu Đông, lại dạo chơi ở vùng Sơn Đông nửa năm rồi mới trở về bờ biển Liêu Đông. Từ Đinh Khẩu ngồi ghe qua Bột Hải đến Đăng Châu, vừa đi vừa ngắm phong cảnh, vừa dò xét dân tình, đồng thời cũng để kết giao với anh hùng trong thiên hạ. Nếu cứ theo đường lối ấy thì Vương Trùng Dương phải từ Đăng Châu đi sâu vào Liêu Đông, tới Lỗ Nam rồi trở về Hà Nam, Trung Châụ
Nhưng chàng muốn thêm kiến thức nên không đi đường bộ, mà từ Giang Châu dùng thuyền đến Giang Tô, rồi lại từ Trường Giang trở về nội địạ Đi đường này rất xa, phải ngang qua Hồng Hảị Nếu thuận gió thì đi mất mười ngày, còn nghịch gió thì có khi hàng tháng trời mới đến.
Vương Trùng Dương muốn được yên tỉnh nên đã thuê bao cả một chiếc thuyền lớn nói rõ là đến Giang Tô, rồi lại đi Nam Thông.
Trùng Dương giao cho ông lái đò một số tiền trước để mua sẵn lương thực, tích trữ nước uống, rồi chọn ngày tốt để khởi hành.
Từ Đăng Châu thuyền đi vòng qua Lao Thiết Sơn Đầu ở phía Bắc, Sơn Đông bán đảo là Hồng Hảị Vương Trùng Dương sinh trưởng ở Trung Châu, đã mười năm trời nay, đã đi khắp từ Miêu Cương đến Mông Cổ, nhưng chưa từng đi đường thủy, nay thấy trời cao, bể rộng, sơn thủy hữu tình thì trong lòng rất thỏa thích thì nghĩ rằng :
“Ngày xưa đức Khổng Tử đăng Thái Sơn mà thấy thiên hạ, còn hôm nay ta đi biển cả mới biết vũ trụ bao la, thật là “Đọc vạn thư bất như hành thiên lý lộ”.
Mặt trời vừa lặn. Màn đêm rơi xuống, mây nước một màu đen kịt, sóng nước vỗ mạn thuyền rì rào đều đềụ
Đằng sau lái một giọng ca ngâm sang sảng tả cảnh giang hồ vang lên, Trùng Dương thấy muôn phần sảng khoái, bèn mang rượu ra mũi thuyền rồi mời thuyền chủ cùng nhấp nhám.
Cá tươi lấy ở dưới bể đem lên luộc làm thức nhấm, còn gì thú hơn? Xa mút phía chân trời, vầng trăng mới ló ra khỏi mặt nước, chiếu hắt lên không trung một màu trắng xanh trong vắt.
Trên mặt biển lăng tăng sóng gợn, phản chiếu ánh trăng như trăm nghìn con rắn bạc lội nhởn nhơ. Rượu đã ngà ngà, thuyền chủ mới đem chuyện nhà kể lại cho Trùng Dương nghẹ
Ông ta họ Đinh tên Nhị Mao, chuyên sống trên mặt bể từ thưở nhỏ. Đinh Nhị Mao có hai người con trai, người con thứ nhất đặt tên là Đinh Cương, người thứ hai tên là Đinh Nghĩạ
Cả hai tuổi đã trưởng thành mà chưa lập gia đình, cùng theo ông nối nghề đi biển.
Trong lúc tửu hứng, họ Đinh mang những kinh nghiệm trong nghề ra nói như lúc khí trời thay đổi, nhìn mây biết trước được những cơn giông tố hoặc những trận cuồng phong; nhìn chim bay đoán biết được thời tiết sắp đổi thay và kể những loại cá kỳ dị mà trên đất bằng không ai được biết.
Tửu nhập ngôn xuất, liên tu bất tận cho đến lúc cả hai say khướt mới vào trong khoang nghỉ ngơị Con thuyền đi trong biển cả mênh mông chỉ có trời với nước, không trông thấy đâu là bờ.
Họ Đinh cứ theo hướng mặt trời mà đi, đêm thì nhìn sao Bắc Đẩu làm phương hướng. Nước ngọt chứa theo thuyền đã gần cạn.
Người đi biển sợ nhất là nước uống. Hết lương thực còn có thể nhịn được năm, bảy ngàỵ Nhưng hết nước uống thì sẽ chết khát ngaỵ
Họ Đinh nóng lòng lo sợ, cho thuyền ghé vào những hòn đảo nhỏ kiếm nước ngọt. Nhưng đã ghé vào mấy hòn đảo mà không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
Lúc bấy giờ nước ngọt mang theo chỉ còn uống độ một ngày nữa là hết.
Mọi người đều hết sức kinh tâm, nhưng không biết làm cách nào, đành phó cho sự may rủị Con thuyền căng gió cứ vùn vụt lướt đi trên mặt nước.
Sự lo âu đều hiên lên trên nét mặt mọi người, họ Đinh, thỉnh thoảng lại chạy ra đầu mũi thuyền nhìn ngó khắp mọi nơi, nhưng lần nào cũng lắc đầu thất vọng.
Qua một đêm dài buồn bã, sáng hôm sau bỗng thấy Đinh Cương reo to :
- Phụ thân ơi! Đằng trước mặt có một hòn đảo lớn lắm.
Đinh Nhị Mao cả mừng lật đật chạy ra ngoài mũi thuyền nhìn theo tay chỉ của Đinh Cương thì quả nhiên về phía Bắc có một hòn đảo lớn hiện rạ
Trên đảo có liên tiếp ba ngọn núi màu xanh xẩm. Đinh Nhị Mao là tay lão luyện trong nghề hàng hải, thoáng trông biết ngay là hòn đảo có nhiều cây cối mọc, cho nên mới có màu xanh thì cả mừng, vội gọi bạn chèo hạ bớt buồm xuống dùng chèo bơi nhằm hướng Bắc tiến tớị
Độ một canh giờ thì quả nhiên đã đến phía đông hòn đảo ấỵ Đinh Nhị Mao sai người con lớn là Đinh Cương lên đảo tìm nước rồi về thuyền báo cho mọi người biết để mang thùng đi lấỵ
Đinh Cương tuân lời, nhưng đi tới hơn một canh giờ mà không trở về. Đinh Nhị Mao nóng ruột vô cùng, lẩm bẩm :
- Thật là đồ vô dụng. Kiếm có một chút nước mà đi tới nữa ngày cũng không xong. Đinh Nghĩa! Con thử lên đảo tìm xem, coi anh con đang ở đâủ
Đinh Nghĩa nghe cha bảo liền đem theo một cái đinh ba, để đề phòng sự bất trắc. Chẳng ngờ, Đinh Nghĩa đi có tới hơn canh giờ nữa mà cả hai cũng chẳng ai trở về.
Đinh Nhị Mao thấy tình hình như thế thì không giấu nỗi cơn lo lắng, tức giận nói lớn :
- Kỳ thật! Sao đứa nào cũng mất hút. Chúng bây hãy ở đây giữ thuyền để ta thân hành đi thử xem saọ
Lúc đó trời đã hoàng hôn, Vương Trùng Dương thấy vậy bèn nói với Đinh Nhị Mao :
- Lão trượng đợi tiểu sinh cùng đi vớị
Đinh Nhị Mao thấy Trùng Dương dáng người nho nhã như một thư sinh, thì nói :
- Đường trên hoang đảo gập ghềnh khó đị Công tử là người văn nhược sợ đi không được.
Vương Trùng Dương mỉm cười :
- Không sao! Tiểu sinh đủ sức. Xin Lão trượng cứ yên lòng.
Nói xong họ Vương nhún mình nhảy vọt lên bờ, nhanh như chim bay không hề phát ra tiếng động. Đinh Nhị Mao giật mình ngạc nhiên nhìn Vương Trùng Dương nói :
- Té ra công tử cũng biết võ nghệ nữa saỏ
Trùng Dương cười :
- Tiểu sinh cũng có học chút đỉnh.
Đinh Nhị Mao lúc đó mới cất tiếng cười ha hả và nói :
- Trông mặt đoán người đôi lúc cũng sai quá. Trông công tử nho nhã thư sinh, trói gà không chặt, chẳng ngờ tài nghệ lại cao cường như thế. Xem cách công tử phi thân vừa rồi cũng đủ biết rõ.
Nói dứt lời họ Đinh bước xuống nước và lội vào bờ. Đi qua một bãi cát, nghe tiếng nước chảy ào ào, Đinh Nhị Mao bèn nói :
- Ở bên đây có thác nước tại sao chúng không tới mà còn tìm ở tận đâu thật là hai thằng vô dụng.
Vương Trùng Dương cùng Đinh Nhị Mao đi tới tận cùng bãi cát, bỗng thấy phía trước có con đường hẹp ở giữa hai cửa núị Ở ngay đường đi có mấy đống đá như có tay người sắp đặt. Mới thoạt trông thật là vô trật tự.
Vương Trùng Dương để ý nhìn một lát, bỗng giật mình kêu lên :
- Lạ thật! Không biết ai đã xếp những hòn đá này theo “Kỳ Môn Bát trận đồ” của “Gia Cát Võ Hầu” đã bày ở Tứ Xuyên?
Họ Vương thấy loạn thạch trận đồ này thì đoán ra ngay sự mất tích của hai anh em họ Đinh.
Đinh Nhị Mao chạy lại trước đống đá thì thấy có một vật sáng loáng nằm dưới đất, vội chạy tới nhặt lên xem thì nhận ngay ra đầu mũi đinh ba của Đinh Nghĩa thì hoảng hốt kêu to :
- Sao lại có mũi đinh ba này ở đâỷ
Nói đoạn ông lấy tay làm loa gọi lớn :
- Bớ Đinh Cương, Đinh Nghĩa!
Tiếng gọi của Đinh Nhị Mao vang vào vách núi đi rất xa rồi dội lạị Họ Đinh gọi luôn một hồi có tới mười câu mà chẳng thấy có tiếng trả lời, thì càng hoảng hốt. Vương Trùng Dương nói :
- Thôi Lão trượng đừng kêu nữa cho uổng công. Tiểu sinh chắc chắn là hai vị anh hùng đã bị vây khốn ở đống đá này rồị
Đinh Nhị Mao lấy làm lạ hỏi Vương Trùng Dương :
- Công tử nói saỏ Đống đá này mà bao vây được người à? Nếu thế thì chắc đảo này có yêu quái rồị
Vương Trùng Dương cả cười :
- Thiên hạ đâu có nhiều yêu quáị Lão trượng cứ đứng yên đây đừng đi đâu, để tôi vào trong kiếm lệnh lang chọ
Nói xong, Trùng Dương tung người dùng thuật khinh công nhảy vào trận đồ.
Đinh Nhị Mao chỉ thấy tà áo vàng thấp thoáng lẫn vào trong đống đá, nháy mắt đã không còn thấy tăm dạng chi nữạ
Vương Trùng Dương lúc ở hang Bách Cầm theo Thanh Hư chân nhân học đạo đã được sư phụ dạy bảo cho biết những Kỳ Môn Thuật Pháp, Ngũ Hành biến hóa nên khi nhìn Bát Trận đồ, họ Vương xem qua đã biết ngay thế phá. Thấy phía Nam là Sinh môn, chàng liền theo cửa đó bước vàọ
Đinh Nhị Mao theo lời dặn của Trùng Dương đứng yên tại đó chờ gần hơn nữa canh giờ mà chẳng thấy họ Vương trở ra thì bắt đầu nóng ruột.
Mặt trời sắp lặn, chỉ còn lấp ló trên mặt nước. Xa xa tiếng vượn hú trong hoang đảo từng hồi nghe não ruột. Đàn chim ríu rít gọi nhau về tổ, cảnh vật thật là vắng vẻ, đượm biết bao nhiêu sự huyền bí hãi hùng. Họ Đinh càng thêm lo sợ chưa biết tính sao, thật là tiến thoái lưỡng nan.
Đang cơn lo lắng ấy, thốt nhiên họ Đinh thấy Trùng Dương từ phía bắc đống đá chạy ra, hai bên nách cắp hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Đinh Nhị Mao cả mừng reo lên một tiếng cực lớn. Thoáng một cái Vương Trùng Dương đã chạy tới trước mặt Đinh Nhị Mao, đặt hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa xuống đất.
Hai người dường như còn say ngũ chẳng biết gì cả. Đinh Nhị Mao lấy làm tức giận quát to :
- Hai tên súc sanh thật là vô dụng. Biết bao người chờ đợi lo lắng cho các ngươi mà lại chui vô đống đá ngủ say như chết thế kia thì lạ thật.
Nói xong, họ Đinh lộ vẻ tức giận xốc tới lấy chân toan đá hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Vương Trùng Dương thấy thế cản lại và nói :
- Không phải lệnh lang ngủ đâụ Đây là vì lạc vào Bát Trận đồ nên bị hôn mê, để tiểu sinh cứu tỉnh chọ
Nói xong, Trùng Dương ngồi xuống lấy tay chà sát người anh em họ Đinh.
Một hồi lâu anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa mới ú ớ vài câu rồi mở choàng hai mắt ngồi phắt dậy nhìn quanh và nói :
- Trời! Sao tôi lại ở đâỷ
Đinh Nhị Mao dậm chân gắt lớn :
- Súc sanh! Thật là đồ ăn hạị Ta sai ngươi đi tìm mạch nước từ đầu giờ Mùi đến nay đã bắt đầu giờ Dậu mà cũng chưa chịu về, chúng bây lại chung vào đống đá ngủ say như chết. Nếu không có công tử đây vào bắt chúng bây ra thì có lẽ hai chúng bây ngủ luôn trong đó.
Đinh Cương ngơ ngác hồi lâu, nhìn đống đá và nhìn Đinh Nghĩa không biết trả lời thế nàọ
Vương Trùng Dương thấy tình hình như thế thì cất tiếng cười ha hả nói :
- Đinh nhị huynh vào trong đống đá rồi không biết đường ra có phải không?
Đinh Cương gật đầu và kể lại :
Chàng tuân lời thân phụ lên bờ, đi sâu vào trong hoảng đảọ Vừa qua bãi cát nghe rõ ràng tiếng nước suối chảy róc rách ở trong đống đá, trong lòng hết sức vui mừng, xăm xăm đi tới theo hướng tiếng nước chảỵ
Ở ngoài trong đống đá chồng chất dài ước độ vài chục trượng. Chẳng dè khi Đinh Cương bước vào trong, bỗng nhiên thấy quang cảnh biến đổi một cách kỳ dị.
Chàng cảm thấy hình như mình đang đi vào một cái hang sâu thăm thẳm, chung quanh như có cả trăm ngàn ngọn núi đá vây bọc bầu trời tự nhiên tối sầm lại, âm u mờ mịt.
Đinh Cương hoảng sợ vội quay mình trở lại, theo phương hướng cũ đi rạ
Chẳng ngờ đâu đâu cũng thấy núi đá, trùng trùng, điệp điệp. Quanh quẫn một lúc lại trở về chỗ cũ.
Đinh Cương lại nghe tiếng gió vi vu, dội vào vách đá phát ra những tiếng hú quái dị, ghê gợn thì chẳng còn hồn vía, cắm đầu chạy cho đến lúc quá mệt mõi ngã lăn xuống đất, mê man bất tỉnh.
Còn Đinh Nghĩa thì nói rằng :
- Sau khi nghe lời cha bảo, Đinh Nghĩa cầm chiếc đinh ba rời khỏi thuyền, lội lên bờ. Cũng đi qua đống cát theo vết chân của Đinh Cương tới đống đá, nghe tiếng nước chảy ào ào thì độ Đinh Cương đang ở trong đó.
Đinh Nghĩa gọi to lên nhưng chỉ nghe tiếng chàng vọng lại mà không thấy Đinh Cương trả lờị Đinh Nghĩa trong lòng hết sức lo ngại, sợ rằng có sự gì không tốt xảy ra cho Đinh Cương.
Chàng vội vàng đi vào trong đống đá theo hướng tiếng nước chảy mà thẳng tớị Chẳng dè khi vào trong, Đinh Nghĩa thấy một màu trắng xóa như mây mù nổi lên che kín những đống đá, chập chờn nữa tỏ, nữa mờ ẩn ẩn, hiện hiện như trong đám sương mù.
Đinh Nghĩa lấy làm lạ tưởng mình hoa mắt, lấy tay dụi mắt định thần nhìn kỹ thì dường như đang đứng giữa bãi sa mạc, sương mù bao la như mặt biển mênh mông bát ngát thì thốt nhiên không còn hồn vía, kêu gọi Đinh Cương luôn miệng để mong có người đến cứu mình chăng. Chàng bổng thấy trước mặt có một bóng người mặc áo màu xanh, thấp thoáng đi lạị Đinh Cương gọi đến ba, bốn câu mà bóng ấy vẫn không trả lời mà chập chờn như một bóng mạ
Họ Đinh cầm đinh ba nhắm thẳng bóng xanh đâm tớị Bỗng cảm thấy như có người giật mạnh chiếc đinh ba, chàng gượng không nổi té nhào xuống đất, mê man chẳng biết gì nữạ
Nghe hai anh em họ Đinh kể xong, Đinh Nhị Mao rùng mình sởn gáy, vì những người đi biển phần đông đều mê tín dị đoan nên vội vàng xua tay nói :
- Thôi! Chúng ta mau mau rời khỏi nơi nàỵ Đúng là chúng bây gặp “ma hớp hồn” rồi đấỵ
Đinh Cương, Đinh Nghĩa nghe cha nói thì nhận rằng quả nhiên mình thấy rõ những hiện tượng lạ như thế nên chẳng còn hồn víạ Vâng theo lời cha mà nói họ Vương mau mau trở về thuyền.
Trùng Dương biết họ là những người dân còn chất phác rất mê tín dị đoan.
Dầu có giải thích họ cũng chẳng chịu nghe, nên nói với ba cha con họ Đinh :
- Lão trượng và nhị vị cứ yên trí về trước đi, tiểu sinh vào đó một chút sẽ về.
Đinh Nhị Mao nói :
- Công tử hãy coi chừng, coi chừng bị ma hớp hồn.
- Lão trượng đừng ngại, “chính phải thắng tà”. Tiểu sinh đi tìm nước uống rồi sẽ trở về lập tức.
Cực chẳng đã ba cha con họ Đinh phải quay trở về thuyền. Trước khi giã từ, Đinh Nhị Mao còn dặn Trùng Dương một lần nữa :
- Tiên sinh có vào trong đó thì phải mau mau trở về thuyền, kẻo lão phu lo lắm.
Vương Trùng Dương gật đầu rồi nhắm cửa sinh của Bát Trận đồ mà vàọ
Khi vào tới giữa đống đá, Vương Trùng Dương cất tiếng gọi lớn :
- Vị nào lập Thạch trận xin xuất đầu lộ diện, để kẻ hèn này được diện kiến thì thật lấy làm vinh hạnh.
Vương Trùng Dương nói liên tiếp ba lần, bỗng nghe thấy từ trong trận đồ văng vẳng tiếng ngâm thơ đưa rạ Lời thơ bi thảm, giọng ngâm buồn rầu như khóc như thảm.
Vương Trùng Dương lắng tai nghe thì thấy đây là bài thơ của Lý Hậu Chủ trước tác.
Nguyên trước kia vua Đường họ Lý tên Nhứt đóng đô tại Giang Nam bị đại tướng của Tống Thái Tổ là Tào Bân bắt được biến làm nô lệ.
Nhà vua là một thi nhân nên lúc bị giam cầm đã làm bài thơ vong quốc này để diễn tả nỗi lòng đau khổ của mình và sự điêu linh đồ thán của chúng dân.
Lời thơ thật là ai oán khiến cho người nghe phải bùi ngùi tất dạ. Sau vua Lý Nhất bị nhà Tống bắt uống thuốc độc mà chết.
Tiếng ngâm vừa dứt, Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Tại hạ là kẻ phiêu lưu muốn kết giao cùng các vị anh hùng trong bốn bể.
Ngẫu nhiên tới đây, được thấy Bát Trận đồ của bật cao nhân sắp đặt. Tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, kính mong được gặp mặt, trình bày một đôi câụ
Tiếng nói của họ Vương vang lên như tiếng chuông đồng, và chàng lại dùng mấy câu thơ của Bạch Cư Dị để đáp lại bài hờn vong quốc của đối phương. Những tưởng thế nào người đó cũng ra mặt, chẳng dè không thấy ai trả lời mà cũng chẳng ai xuất hiện.
Bốn bề lặng ngắt. Vầng kim ô đã lặn, ngọc thố mới nhố lên, ánh sáng trăng tỏa ra lung linh huyền ảọ Những tảng đá đen sì nổi bật lên giữa những đám cát trắng phaụ
Cảnh vật càng thêm huyền bí. Bỗng đâu từ xa đưa lại tiếng tiêu bổng trầm thanh thót. Mới đầu âm thanh dịu dàng véo von, réo rắt như ru hồn người vào cõi mộng rồi đột nhiên tiếng tiêu đổi điệu dồn dập như thiên quân vạn mã, hùng tráng như vó ngựa chiến chinh, ào ào như phong ba bão táp.
Vương Trùng Dương nghe tới đây nghe như có một luồng khí nóng từ Đan điền dâng lên hừng hực như muốn nổ tung buồng ngực.
Chàng cả kinh biết ngay đối phương muốn thử công lực của mình. Nếu công lực kém sẽ bị “Tẩu Hỏa Nhập Ma”, có thể chết ngay lập tức.
Trùng Dương vội vàng tĩnh tọa ngay dưới đất. Vận hành nội khí theo cách thức luyện công của Toàn Chân pháị Phút chốc chàng thấy khí huyết điều hòa không còn cảm thấy hồi hộp như trước nữạ
Tiêu thanh không làm cho tâm trí chàng đê mê được, tức thì nhạc điệu khác lại vang lên.
Tiếng tiêu lúc này nỉ non giống như giọng nói của giai nhân êm ái dịu dàng, mơn trớn như nàng mỹ nữ bên đức lang quân trong chốn phòng thẹ
Tiếng tiêu điêu luyện, vô cùng quyến rũ như khêu gợi lửa lòng của người trần tục để đưa vào vòng sắc dục.
Vương Trùng Dương là người tu hành từ thưở nhỏ đã giới sắc cho nên dầu tiếng tiêu như khêu, như gợi vẫn định thần tĩnh trí, tâm hồn thanh tỉnh át được tiếng tiêu đị Vương Trùng Dương bèn nói to :
- Hỡi vị nào dùng tiếng tiêu để làm bấn loạn lòng ngườị Tại hạ là người đã lánh xa trần thế, vinh hoa phú quí, sắc đẹp rượu nồng chẳng hề vương mang, vậy không nên dùng tiếng tiêu làm chi nữạ
Tiếng tiêu tức thì chấm dứt. Một tiếng cười ha hả vang lên :
- Tại hạ đã xa lánh cỏi đời ô trọc, một mình tới nơi hoang đảo hẻo lánh để tĩnh tâm tu luyện, lập “Võ Hầu Bát Trận” để ngăn cản kẻ phàm phu tục tử tới quấy rầỵ Tiên sinh với ngu hạ bất đồng đạo, bất đồng mưu hà tất phải cùng nhau gặp gỡ làm chị Xin mời tiên sinh hãy ra khỏi nơi nàỵ
Vương Trùng Dương ngẫm nghĩ :
- Người này đã bày được “Võ Hầu Bát Trận” ắt cũng không phải kẻ tầm thường, hơn nữa tiếng tiêu của hắn ta vừa thổi biến ảo khôn lường và tỏ ra một bản lĩnh cao siêu, kình lực hơn ngườị Mình không được cùng hắn kết giao cũng thật là đáng tiếc, nhưng cũng thử hỏi tên họ là gì may ra có thể biết ra manh mối tung tích chăng.
Nghĩ đoạn Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Vị cao nhân nào nói không cho tiểu sinh được diện kiến thì kính xin cho biết quí tánh cao danh.
Ở trong Bát Trận đồ có tiếng cười ha hả, đồng thời một tiếng nói vang lên như tiếng chuông đồng :
- Dĩ la chôn thần kiếm, tiếng tiêu vạn cổ sầụ
Tiếng nói vừa dứt Trùng Dương thấy một bóng xanh thấp thoáng trong đống đá, chỉ chớp mắt không thấy đâu nữạ
Vương Trùng Dương thấy đối phương không chịu xuất đầu lộ diện lại chẳng chịu nói rõ danh tánh, chỉ để lại hai câu thơ thì chẳng hiểu có ẩn ý gì nên chàng thất vọng vô cùng bèn quay trở về thuyền.
Từ xa thấy từ trong thuyền một luồng khói đen bốc lên nghi ngút, rồi ngọn lửa chập chờn bốc lên caọ
Giật mình, Trùng Dương tưởng có chuyện gì chẳng lành xảy ra, vội vàng tung mình dùng thuật khinh công chạy bay xuống.
Đến nơi nhìn kỹ, họ Vương bất giác phì cườị Té ra cha con Đinh Nhị Mao đang đốt vàng mã cúng bái vì cho rằng hồi nãy hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa bị ma hớp hồn. Đinh Nhị Mao nhìn thấy Trùng Dương về tới nơi thì cả mừng reo to :
- May quá Vương công tử đã về đây rồị
Vương Trùng Dương nhún mình nhảy vọt lên mạn thuyền. Đinh Nhị Mao vừa muốn ra lệnh cho bạn chèo nhổ neo chèo đi nơi khác, Vương Trùng Dương vội nói :
- Lão trượng không cho lấy nước uống hay saỏ Không biết bao nhiêu ngày nữa mới tới lục địa, không tích trữ nước uống thì làm thế nào được.
- Trên hòn đảo này có ma, không nên lấy nước uống nữạ Nước uống trên thuyền nếu hà tiện cũng còn được hai ngày nữa, ta nên đi tìm đảo khác là hơn.
Vương Trùng Dương cố ý muốn gặp người bày Bát Môn Đồ trận nên gạt đi và nói :
- Không được! Dù cho nước còn được hai ngày nhưng chắc đâu tìm ra hòn đảo khác. Chi cho bằng hãy ở lại đây lấy đầy nước rồi hãy đị Lão trượng hãy yên tâm để việc tìm nước tiểu sinh sẽ lo liệụ
Đinh Nhị Mao thấy trời cũng gần tối, dầu muốn khởi hành cũng không được nữa đành phải cắm thuyền nghĩ lạị
Đêm hôm đó, cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều chui xuống dưới khoang vì sợ con ma trên hoang đảo, chỉ có một mình Trùng Dương ngồi tĩnh tọa trên khoang thuyền.
Chàng thấy mọi người đều có vẻ sợ sệt thì cười thầm. Chàng bèn vận khí luyện tập nội công của Toàn Chân pháị
Trăng đã lên cao, tỏa ra khắp bầu trời một ánh sáng dịu dàng. Biển yên sóng lặng, thỉnh thoảng mới có một luồng gió nhẹ nhàng thổi qua làm cho mặt nước lăn tăn gợn sóng.
Trên mặt bãi cát, ánh trăng chiếu xuống trông trắng toát một màu như một vùng tuyết trắng. Đối cảnh sinh tình, Vương Trùng Dương tức cảnh muốn làm vài bài thơ ca ngợi cảnh đẹp đêm trăng thì bỗng nghe có tiếng động rất nhẹ trên thuyền.
Là một người rất linh mẫn, Trùng Dương biết ngay là có người dùng thuật khinh công nhảy lên thuyền. Người này thuộc vào hàng bản lãnh cao siêu, thân thể nhẹ nhàng, không phát ra tiếng động mạnh.
Chàng lập tức nhún mình phi thân nhảy vọt ra ngoài mạn thuyền nhanh như tên bắn, cất tiếng cười ha hả :
- Qúy khách! Xin mời xuống đây đàm đạọ
Tiếng nói của chàng vang lên như tiếng sấm khiến cho cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều thức giấc. Họ run sợ vì cho rằng Trùng Dương đang trò chuyện với ma, không ai dám chạy lên thuyền, nằm im không dám cựa quậỵ
Trùng Dương vừa dứt lời, ngước nhìn lên ngọn cột buồm quả nhiên thấy có một người mặc áo màu xanh đang ngồi vắt vẻo trên cái cột ngang trên tít ngọn cột buồm. Người đó cũng cất tiếng cười khanh khách và nói :
- Khá khen cho túc hạ tai rất thính, cũng đáng mặt hào kiệt trong võ lâm. Xin mời lên đây đàm thoạị
Vương Trùng Dương nói to :
- Xin tuân lờị
Nói vừa dứt lời, Trùng Dương tung vút người lên như con chim bay lên ngọn cột buồm. Vừa đưa tay định nắm lấy cây cột ngang trên đó, bỗng Thanh Y nhân quát lên một tiếng :
- Xuống mau!
Thanh Y nhân vừa nói, tả chưởng ở trước ngực hướng xuống dưới đánh ra một thế, đó là “Ép Vân chưởng”. Vương Trùng Dương ở phía dưới nhảy vụt lên chẳng ngờ bị sức chưởng ở trên đánh xuống có hơn vạn cân lực, không còn thể chống chọi vào đâu được, vội vận dụng hết tuyệt kỹ công phu gồng người lên chịụ
Tuy không bị thương tích nhưng cũng bị chưởng phong xô bật ra ngoài biển.
Nhưng không hổ danh là đệ nhất danh gia của Toàn Chân phái, và là Trung Thần Thông của Võ Lâm Ngũ Bá sau này, họ Vương thấy Thanh Y nhân dùng “Ép Vân chưởng” định hạ mình thì đã nhanh tay chụp lấy mảnh cây dằn trên cột buồm dày chừng năm phân, lớn bằng bàn taỵ
Lúc thân chàng rơi xuống, Vương Trùng Dương dùng miếng cây đó đánh mạnh xuống nước, đoạn lấy đà nhảy vút vào mạn thuyền nhanh như làn chớp nhoáng, toàn thân không hề bị một giọt nước nào làm ướt.
Trùng Dương cả giận vì bản thân chỉ muốn kết giao với Thanh Y nhân nên bản thân không chút đề phòng, nếu không nhờ vào bản lĩnh cao siêu thì còn gì là tánh mạng nữạ Chàng quát to :
- Đây là tại vì quí hữu ra tay trước thì đừng trách tại hạ ra tay thất lễ.
Nói xong Vương Trùng Dương đánh ra một chưởng, một luồng gió lớn phát ra uy lực ghê hồn. Chàng đã từng tập luyện “Nhất Dương chỉ” nên tuy cách xa cột buồm có tới một trượng mà chưởng phong vẫn mãnh liệt vô cùng.
Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm vẫn tỏ ý kiêu ngạo không đề phòng, ngờ đâu cột buồm bị chưởng phong của Vương Trùng Dương đánh tới, gẫy ngang làm hai khúc văng xuống biển. Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm bị ngã xuống như chiếc lá rụng.
Khi thân hình vừa chấm mặt nước, Thanh Y nhân dùng chân dẫm lên mặt nước nhảy phắt lên bãi cát rồi cắm đầu chạy thẳng.
Vương Trùng Dương cũng vội tung mình nhảy vọt lên bờ, dùng khinh công đuổi theo miệng la lớn :
- Xin hãy dừng chân! Xin hãy dừng chân.
Nhưng Thanh Y nhân vẫn vùn vụt chạy nhanh như bay, biến qua bãi cát và lẩn ngay vào Bát Trận đồ.
Vương Trùng Dương chạy theo tới nơi đứng ngoài cửa nói to :
- Qúi hữu đã có nhã ý đến thăm ngu hạ, xin đừng tránh nữạ
Vương Trùng Dương vừa nói đến đây bỗng thấy bên trong thạch trận vụt bay ra ba hòn đá nhằm thượng, trung, hạ toàn thân của Vương Trùng Dương bay tớị
Nhanh như cắt, Vương Trùng Dương đưa tay lên đã bắt được ba hòn đá đó trong taỵ Vương Trùng Dương cười lên một tiếng to rồi nói :
- Người tưởng Bát Trận đồ của Gia Cát Võ Hầu không ai phá nổi hay saỏ
Nói xong, họ Vương dùng tay bóp vụn ba viên đá trong tay ra làm nhiều hòn đá nhỏ, đoạn vung tay dùng Miêu chưởng ném vút những viên đá nhỏ đó vào trong thạch trận đồ, nếu là thường nhân ném ra thì chẳng khác chi trẻ con nghịch cát.
Nhưng Vương Trùng Dương đã luyện Nhất Dương chỉ nên uy lực thật là ghê gớm. Những viên đá nhỏ mạnh như tên bắn bay vụt vào trong. Không ngờ ở trong thạch trận cũng có nhiều viên đá nhỏ bay ra, nhằm vào những viên đá nhỏ của họ Vương mà ném, hai bên chạm nhau tạo nên những âm thanh chát chúa rồi cùng nhau rơi lả tả xuống đất như trận mưa sa, kỳ ảọ Những bột đá bay tung ra thành những đám bụi mù mịt.


Hồi 9

Khắc Thơ Trên Đá
Thần Long Nhật Hiện Thanh Y Khách


Vương Trùng Dương thầm kính phục bản lĩnh siêu quần của đối phương. Chàng cúi xuống lượm mấy viên đá bóp vụn ra trong tay rồi quát lớn :
- Tại hạ thử dùng cách Mãn Thiên Hoa Vũ thi thố, quí hữu hãy lưu tâm. Nói dứt lời, Vương Trùng Dương vung tay dùng chưởng phong ném vụt những viên đá nhỏ trong tay bay vụt như mưa vào trong thạch trận. Ngờ đâu bên trong cũng có một loạt đá nhỏ bay ra cản lạị Hai luồng chưởng phong gặp nhau đẩy tung những viên đá bật văng trở lại rồi rơi xuống đất. Vương Trùng Dương thấy đối phương chiếm được vị trí trung tâm Tuất thổ, chận giữ mình không cho vào trận thì cả giận nói :
- Đã là một kẻ trượng phu, phải đường đường tỷ thí cho rõ tài cao thấp, chứ cứ lén lúc nấp trong trận đồ, đâu có phải là tay hảo hán. Vương Trùng Dương cố ý dùng lời nói khích, quả nhiên Thanh Y nhân mắc kế từ trong thạch trận nhảy vút ra quát lớn :
- Hay cho họ Vương dám buông lời khinh miệt, coi thiên hạ chẳng ra gì thật là mục hạ vô nhân. Nếu có gan cùng ta tỷ thí vài ba trăm hiệp không? Trùng Dương lưu ý nhìn kỹ, chỉ thấy người này mặc áo toàn xanh, trên mặt đeo một vuông khăn kín chỉ hở đôi mắt sáng quắc như sao nhìn chăm chăm vào Vương Trùng Dương. Họ Vương lấy làm kinh ngạc vì Thanh Y nhân đã biết rõ tên họ của mình thì vội vàng chấp tay nói :
- Túc hạ đã biết tiện danh, vậy cũng xin túc hạ cho tiểu sinh đây biết túc hạ tên họ là gì để tiện bề xưng hô. Thanh Y khách quát lớn :
- Hà tất phải biết tên tuổi của ta làm gì. Hãy coi quyền pháp của tạ Nói dứt lời Thanh Y nhân đã dùng chiêu “Đã Mã Phân Sung” đấm thẳng vào ngực Vương Trùng Dương một quyền hết sức mãnh liệt. Vương Trùng Dương nghĩ thầm trong bụng :
- Chắc người này luyện võ công của Thái Cực phái nên mới sử dụng Thái Cực quyền. Vương Trùng Dương dùng thế “Xuất Vân Thu” ra đối phó. Thanh Y khách lại dùng thế “Nhị Long Tranh Sơn” nhằm đỉnh đầu Vương Trùng Dương đánh xuống, uy lực thật là ghê gớm, sức mạnh như cả trái núi đổ xô đến. Họ Vương bất giác kinh ngạc nghĩ thầm:
- “Sao người này lại sử dụng Ngũ Hành quyền”. Thái Cực quyền là dùng nhu thắng cương, trái lại Ngũ Hành quyền là dùng sức mạnh, càng đánh càng mau, hai thứ sử dụng thật là hoàn toàn trái ngược. Nghĩ như vậy nhưng Vương Trùng Dương cũng vội dùng thế “Sáu Lượng Đổi Cột” của Toàn Chân phái ra đối phó. Thanh Y nhân bỗng biến đổi chiêu thức, chàng ta dùng chiêu “Hồi Quang Phản Chiếu” của “Nhạc Gia Trưởng”. Lúc thì dùng Thiếu Lâm Hổ Quyền, lúc lại quay sang dùng các chiêu thế tối độc của Võ Đương trường quyền. Vương Trùng Dương ngạc nhiên vì thấy Thanh Y nhân luôn luôn biến đổi quyền pháp thì không sao đoán được là người của môn phái nàọ Chàng vẫn sử dụng bài “Thái Ất quyền pháp” của Toàn Chân phái ra đối địch. Thanh Y nhân liên tiếp dùng hết chiêu thức này đến chiêu thức khác tấn công mãnh liệt, khiến Vương Trùng Dương lưu tâm đón đỡ nên chỉ có thủ mà chưa có công. Bỗng thấy Thanh Y nhân cười dài một tiếng và nói :
- Tài nghệ của tại hạ như thế nào chắc túc hạ đã biết rồi, khỏi giao đấu làm gì nữa cho hao phí sức khỏẹ Tại hạ xin kiếu từ, nếu có dịp nào sẽ xin gặp mặt saụ Vừa nói dứt lời, Thanh Y nhân nhảy vụt ra khỏi vòng chiến, tung người lên cao đến ba, bốn trượng như một con chim đại bàng lao vút vào trong Bát Trận đồ. Chỉ thoáng thấy một cái bóng xanh lẩn vào Trung Ương trận, vị trí Tuất Thổ. Hành động của Thanh Y nhân thật là kỳ lạ, võ công hết sức cao siêu, còn hơn lúc Trùng Dương đại náo Thiếu Lâm tự khiến cho họ Vương càng thắc mắc, không hiểu vì cớ gì mà người này ẩn mình trên hòn đảo hoang vu nàỵ Lòng hiếu kỳ càng tăng thêm lên, Trùng Dương nhất định không chịu bỏ qua quyết hỏi ra manh mối, nên quát lớn :
- Chưa phân thắng bại sao túc hạ lại bỏ đị Họ Vương dùng tuyệt kỹ công phu tung mình nhanh như tên bắn nhảy vọt tới đống đá, cung tay định dùng “Sô Ma chưởng” đánh ta đống đá không cho người ấy trốn trong đấy nữạ Thanh Y quái khách đột nhiên nhảy vọt ra ngăn cản chàng lại, vung tay như muốn dùng “Song Chiếu chưởng” đánh ra, họ Vương chuẩn bị đối phó. Nào ngờ trong tay Thanh Y quái khách vụt ra một nắm kim vàng nhanh như tên bắn, tua tủa như mưa nhằm thẳng mặt Trùng Dương bay tớị Chàng giật mình biết không sao tránh khỏi vội vận nội công toàn thân cứng như thép, giơ tay trái lên che lấy mắt và mặt, còn tay phải phất mạnh một cái, một luồng chưởng phong từ trong tay áo bay ra cản những mũi kim vàng rơi xuống đất. Nhưng khiếp thay cho bản lĩnh của Thanh Y quái khách thật vô cùng dũng mãnh, chưởng phong của Vương Trùng Dương chỉ cản được phân nữạ Còn một số kim vàng tới mười ba, mười bốn mũi cứ lao thẳng vào mặt và mình của Trùng Dương. Tuy họ Vương đã vận khí chống cự, những mũi kim vàng không thủng vào da thịt nhưng những chỗ trúng kim cũng thấy hơi đau rát. Khi Vương Trùng Dương buông tay áo xuống đã không thấy Thanh Y quái khách đâu nữạ Trùng Dương phóng mình dùng thuật phi hành chạy quanh Bát Trận đồ mấy vòng mà vẫn không thấy bóng dáng của Thanh Y quái khách thì biết rằng Thanh Y quái khách đã cố tình lánh mặt nên đã lẩn vào trong trận đồ. Họ Vương lượm những cây kim vàng còn dính ở áo bỏ vào tới, hướng vào trong trận đồ nói lớn :
- Hôm nay tại hạ được lãnh giáo võ công của quí hữu rất lấy làm ngưỡng mộ. Xin hẹn hôm khác sẽ tái kiến. Nói xong, Trùng Dương thoát ra khỏi kỳ môn thạch trận trở về thuyền. Ba cha con Đinh Nhị Mao sợ ma nằm dưới khoang thuyền, thấy Vương Trùng Dương nói chuyện với yêu quái và đánh đuổi nhau trên mũi thuyền. Lúc họ Vương bị đánh rớt xuống biển và chàng dùng chưởng lực đánh gẫy cột buồm khiến cho con ma té xuống, rồi họ Vương đuổi theo yêu quáị Ba cha con Đinh Nhị Mao và một số bạn chèo đều biết nhưng không ai dám bước ra khỏi khoang thuyền để xem cho rõ ràng. Mãi không thấy Trùng Dương trở về ai nấy đều lo sợ cho rằng chàng đã bị yêu quái sát hại rồị Ba cha con đều lo lắng không hề ngũ được, đến khi thấy có người nhảy xuống thuyền lên tiếng hỏi và nghe tiếng Trùng Dương trả lời, Đinh Nhị Mao mới dám mở cửa bước ra khoang thuyền nói :
- Vương công tử phúc tinh lớn lắm nên bọn ma quỷ dữ tợn như thế mà không hớp hồn được thật là may mắn lắm. Vương Trùng Dương thấy Đinh Nhị Mao hãy còn mê muội cho rằng Thanh Y nhân là ma quỷ thì không sao nhịn được cười, nên cất tiếng cười khanh khách nói :
- Không phải là ma quái đâụ Chính là vị ẩn sĩ bày ra Bát Trận đồ để ngăn cản không cho ai tới hòn đảo nàỵ Vương Trùng Dương kể lại đầu đuôi câu chuyện giao đấu với Thanh Y quái khách cho cha con họ Đinh nghe và chàng lấy ra mấy cây kim vàng cho Đinh Nhị Mao xem. Cầm chiếc kim vàng trên tay, Đinh Nhị Mao ngẫm nghĩ một hồi rồi nói :
- Những chiếc kim vàng này làm bằng nguyên chất, ít nhất cũng nặng đến mấy tiền, người này chắc phải giàu sang lắm. Hai anh em họ Đinh và mấy người bạn chèo nghe Đinh Nhị Mao và Vương Trùng Dương nói chuyện, lúc đó mới kéo nhau lên mũi thuyền xúm vào xem mấy cây kim vàng. Trùng Dương lại nói :
- Hẳn Lão trượng và liệt vị đây đã biết rõ trên đảo có một cao nhân ẩn cư tại đây để luyện võ công đã lập ra trận đồ làm rối loạn tinh thần những người không biết. Ý chỉ không muốn cho ai quấy rầy chứ làm gì có ma quáị Vậy các người cứ yên tâm mà ngũ cho kỹ. Sáng mai hãy cùng nhau lên đảo lấy nước uống. Đinh Nhị Mao và tất cả mọi người lúc đó mới hiểu rõ nên vui vẻ vào khoang thuyền ngũ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, trời vừa hừng sáng, ba cha con họ Đinh và các bạn chèo đã sửa soạn sẵn đồ đựng nước, theo Vương Trùng Dương lên hoang đảo lấy nước. Vương Trùng Dương đi trước hướng dẫn một số người theo saụ Qua bãi cát, tới những đống đá, Vương Trùng Dương ngạc nhiên nhìn thấy trận đồ đã bị phá vỡ. Những đống đá nằm ngổn ngang không còn hàng lối như hôm qua nữạ Đứng nhìn hồi lâu, Trùng Dương bỗng nói :
- Lạ thật! Lạ thật! Đây đúng là Thanh Y ẩn sĩ đã tự phá vỡ Kỳ Môn Bát Trận và nhất định cao nhân này đã ra khỏi đảọ Chàng bước đi thẳng vào trận. Trông đống đá hôm qua dựng lên làm Trung Ương Tuất Thổ, hôm nay cũng rời rã, rối loạn không còn trật tự nữạ Chàng chợt thấy có mấy hàng chữ lõm sâu vào một tảng đá, mọi người đều tới gần xem thấy nét chữ đẹp vô cùng, như được một người thợ điêu khắc lành nghề tạo nên. Chỉ có Trùng Dương biết ngay Thanh Y nhân đã dùng thuật “Thiết Chỉ công”, vận dụng nội công vào đầu ngón tay mà viết nên nét chữ lõm sâu vào đá chừng năm phân, nét rất sắc xảo, đủ biết rằng Thanh Y nhân là người có học thức uyên thâm, thật là văn võ toàn tàị Ba cha con họ Đinh và bọn thủy thủ là những người ít học nên chẳng hiểu gì cả. Vương Trùng Dương lưu ý đọc suốt từ đầu đến cuối, đó là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý nói rằng :
- “Thanh Y nhân đã giang hồ lưu lạc hơn ba mươi năm, coi cuộc đời như phù vân nên đến ẩn cư tại hoang đảo, chẳng muốn liên lạc gì với giang hồ nữạ Nào ngờ đâu gặp tay cao thủ phá vỡ thạch đồ trận, nên không ở lại hoang đảo nữa mà dùng thuyền đi nơi khác.” Toàn thể hai bài thơ đều do Thanh Y nhân dùng “Thiết Chỉ công” khắc vào, công phu thật là điêu luyện. Họ Vương nhìn những dòng chữ và những tảng đá của thạch đồ trận ngổn ngang trên mặt đất thầm nghĩ :
- Không dè ở trên hoang đảo mà có một kỳ nhân võ công trác tuyệt, tài ba quán thế mà mình không được cùng kết giao thật là đáng tiếc. Chàng cứ đứng ngẩn ngơ, lẩm bẩm một mình, than thở tiếc rẻ mãi không thôị Đinh Nhị Mao thấy thế liền hỏi :
- Vương công tử. Quái nhân ấy đã đi khỏi nơi đây rồi saỏ Vương Trùng Dương lúc đó mới giật mình, chép miệng thở dài :
- Vị ẩn sĩ đó đã đi rồi thật là đáng tiếc. Trước khi đi ông ta đã phá hết Bát Trận đồ, không có gì trở ngại nữa và không còn sợ lạc đường như ngày hôm qua nữạ Liệt vị hãy mau mau vào trong lấy nước. Tất cả mọi người đều đi thẳng vào thạch động. Quả nhiên đi độ năm, sáu mươi thước thì thấy có một dòng nước suối từ trên núi chảy xuống. Mọi người đều đổ xô cả lại hứng nước mang về thuyền. Họ chuyền nhau lấy đầy đủ nước uống, rồi mới rời hoang đảọ Thanh Y quái khách ở trên hoang đảo này chính là Hoàng Cố. Sau này cũng là một trong Võ Lâm Ngũ Bá, gọi là Đông Tà Hoàng Dược Sư. Hoàng Cố người tỉnh Triết Giang, tỉnh Hải Ninh, gia cư giàu có. Tổ tiên của Hoàng Cố là một người nổi danh cùng thời với Tô Đông Pha thời Bắc Tống, tên là Hoàng Lỗ Trực. Đời đời truyền nối đều là những người nho phong nề nếp, thân sinh của Hoàng Cố là Hoàng Uẩn Thạch. Hoàng Cố là con trai duy nhất nên được nâng niu, chiều chuộng coi như ngọc báụ Hoàng Cố bản chất thông minh, nổi danh là thần đồng. Vì mới năm tuổi đã biết làm thơ, bảy tuổi đã sáng tác được nhiều bài ca, khiến cho mọi người đều thán phục. Hoàng viên ngoại thấy Hoàng Cố tuổi còn nhỏ mà trí tuệ đã xuất chúng, siêu phàm như thế thì không khỏi lo âu, vì từ xưa đến nay các bậc thần đồng đều chết non như trường hợp Cam La mới mười hai tuổi đã làm nên thừa tướng, nhưng chẳng được hưởng thọ tuổi trờị Nhan Uyên thông minh tuyệt thế, cũng bị yểu tử, sống không được quá ba mươị Hoàng viên ngoại e con mình quá thông minh, lại bị chết sớm nên thường thường dẫn Hoàng công tử đến các nơi chùa chiền, lễ bái đầu khấn phật trời ban phước cho họ Hoàng. Ở quận Hải Ninh có một ngôi Thiên Đồng tự, là một trong những danh xá trong tỉnh Triết Giang. Vị chủ trì ngôi chùa này Hiểu Vân thiền sư, tuổi đã cao nhưng tinh thần còn quắc thước, biết đoán quẻ âm dương và tính toán quá khứ vị laị Một hôm Hoàng viên ngoại và Hoàng Cố đến chiêm bái Thiên Đồng tự. Sau khi lễ phật, Hoàng viên ngoại dẫn Hoàng Cố vào ra mắt Hiểu Vân thiền sư. Vừa trông thấy mặt của Hoàng Cố, Thiền sư lộ vẻ vui mừng nói :
- Hoàng thí chủ thật là phước lớn, Công tử có nhiều quí tướng. Sau này chắc chắn là một người tài ba quán thế, danh tiếng để lại cho ngàn thụ Hoàng viên ngoại đã nghe danh Thiền sư là một cao tăng đắc đạo, không bao giờ nói dối, nên nghe Thiền sư nói như thế bỗng cau mày thở dài nói :
- Bạch thượng tọạ Lão phu chỉ sinh hạ được một tiểu nhi này mà thôị Thiên tính rất thông minh, năm tuổi đã làu thông kinh xử, biết cả làm thơ nên thiên hạ tặng khen là thần đồng. Vì người ta vẫn có câu tài cao mệnh yểụ Thượng tọa cao minh xin xem kỹ lại cho lão phu được nhờ. Hiểu Vân thiền sư bảo Hoàng Cố lại gần xem kỹ nét mặt, thốt nhiên Thiền sư kêu lên :
- Ồ lạ thật! Sao lại có thể thế được. Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như thế thì giật mình biến sắc, chắp tay thưa :
- Bạch thượng tọạ Người mới phát giác ra được điều gì? Hung hay kiết? Cúi xin chỉ giáo cho lão phu biết để lão phu đề phòng. Hiểu Vân thiền sư cười nói :
- Bần tăng tuy bất tài nhưng nếu thí chủ có lòng tin cậy thì bần tăng thấy sao nói vậỵ Nếu có điều gì thất thố cũng mong thí chủ bỏ qua chọ
- Bần tăng nhìn kỹ tướng mạo Công tử ắt Công tử không được thọ lắm, tới mười lăm tuổi phải cần tránh lửa, không sẽ bị nạn hỏa đốt chết. Hoàng viên ngoại nghe thấy Thiền sư nói như vậy càng thêm sợ hãi vô cùng vì Hoàng Cố tính ra năm đó đã được mười hai tuổi, chẳng hóa ra chỉ còn ba năm nữa là đã đến số phải lìa bỏ cỏi đờị Viên ngoại không cầm được hai hàng lệ dâng lên khóe mắt. Hiểu Vân thiền sư nói thêm :
- Nhưng bần tăng thấy ở nhân trung của tiểu chủ một luồng tử sát mang vân có thể thoát được đại nạn. Nếu qua khỏi được năm đại nạn thì Công tử đây sẽ trở thành một bậc kỳ tài danh lừng bốn bể. Bần tăng mấy chục năm trời nghiên cứu tướng số chưa hề thấy qua một người như thế, chẳng lạ lắm saọ Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như vậy cũng an tâm được đôi chút vẫn còn thắc mắc bèn hỏi :
- Bạch thượng tọạ Tiểu nhi của lão phu có thể nào thoát khỏi được nạn lửa không?
- Mô Phật. Việc tướng số rất huyền bí nên có câu phúc năng thắng số. Cũng như đời nhà Hán có một viên ngoại họ Đặng tên Thông, gia sản hàng muôn triệu thế mà có một người coi tướng lại dám cả quyết rằng sau không bát ăn phải nhịn đói chết. Đặng viên ngoại và tất cả mọi người không ai tin cả và cho người coi tướng đó là kẻ điên khùng, ăn nói quàng xiên. Đến sau vua Cảnh Đế nghe lời gian thần sàm tấu vu cho viên ngoại tư thông với giặc liền bắt viên ngoại hạ ngục, bao nhiêu gia cư điền sản đều bị tịch thu xung công hết. Bọn gian thần lại hạ lệnh cho bọn cai ngục bỏ ông nhịn đói chết ở trong tù. Lúc ấy người ta mới thấy lới tiên đoán của người thầy coi tướng quả là linh nghiệm.
- Còn một người nữa tên là Bùi Tịch, ở đời nhà Đường. Lúc nhỏ thật là nghèo khổ, tướng mạo xấu xa, một thầy tướng coi ông và quả quyết rằng:
- “Số ông ta suốt đời nghèo khổ, không có lúc nào sung túc”. Bùi Tịch nghe nói như thế chẳng những không lấy thế làm buồn mà thường nói với mọi người:
- “Nếu số trời đã định thì tránh sao cho khỏị Kiếp trước ắt có làm điều gì gian ác lắm cho nên kiếp này mình phải chịu nghèo hèn. Thôi kiếp này đã lở, phải tu sửa để dành kiếp sau”. Từ đó Bùi Tịch ăn chay niệm phật, hết sức giữ lòng ngay thẳng, không ăn gian nói dối, hết sức giữ lòng trong sạch, cam chịu cảnh bần hàn. Một hôm Bùi Tịch lượm được một gói bạc không biết của ai đánh rớt. Bùi Tịch ngồi ở lề đường giữ gói bạc quyết đợi thất chủ để hoàn lạị Bùi Tịch ngồi đợi từ sáng sớm đến quá ngọ mà vẫn không thấy ai có vẻ tìm kiếm của rơi cả, bụng chàng đói như cào đã định bỏ đi tìm hàng ăn cho đỡ đóị Nhưng nghĩ lại nếu bỏ đi lỡ người bị mất của qua đây không tìm thấy thì mình biết ai mà trả lại, nghĩ vậy nên chàng ráng ngồi chờ đợị Cho đến gần đầu giờ mùi, họ Bùi vừa đói vừa mệt, hai mắt lim dim muốn ngồi ngũ gục. Bỗng nghe tiếng khóc thảm thiết của một người đàn bà vừa khóc vừa kể lễ:
- Chồng chết không có tiền chôn, đến thị trấn vay được một số đem về làm tang, chẳng may lúc bối rối làm mất dọc đường. Bùi Tịch choàng tỉnh dậy hỏi đầu đuôi gốc ngọn và trao trả bạc lại cho bà ta không thiếu một đồng nàọ Thấy Bùi Tịch ăn mặc rách rưới, người đàn bà định đưa cho một số bạc để tạ Ơn, nhưng Bùi Tịch nhất định không lấy, cam chịu đói một buổị Sau này ngờ đâu Bùi Tịch làm tới chức Thừa tướng. Thế nên người ta mới có câu “Đức Năng Thắng Số”. Vậy bần tăng khuyên thí chủ hãy về nhà chuyên làm việc thiện và cho Công tử tránh nơi có lửa, may ra có thể tránh được tai nạn.


Hồi 10

Coi Thủy Triều Gặp Tai Nạn


Hoàng viên ngoại từ khi nghe Hiểu Vân thiền sư giảng giải về nhà hết lòng làm điều thiện. Những nơi tô tượng, đúc chuông, xây chùa, đắp đường, làm trường học việc gì viên ngoại cũng tham gia đóng góp.
Đối với Hoàng Cố, viên ngoại càng hết sức thương yêu, những nơi nào có lửa tuyệt đối không cho lại gần, nhất là những chốn bếp nước, hay những chỗ đốt vàng mã, đều bắt Hoàng Cố tránh cho xạ
Cả đến lúc nhúm lửa đốt đèn cũng không cho Công tử lại gần. Thật là Hoàng viên ngoại đã làm hết sức của mình để tránh tai nạn theo như lời Hiểu Vân thiền sư đã nóị
Hoàng viên ngoại là người rất tin ở số mệnh, nên hết lòng gìn giữ và dặn bảo lũ gia nhân phải theo lời của viên ngoại mà ngăn giữ Hoàng Cố.
Vì sự giữ gìn săn sóc chu đáo như vậy nên Hoàng Cố cũng rất sợ lửa, trông thấy lập tức Công tử lánh xạ
Quang âm thấm thoát, ngày tháng như thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua ba năm, Hoàng Cố đã được mười lăm tuổi, tức là năm mà Hiểu Thiện thiền sư xem tướng và nói trước Hoàng Cố sẽ gặp nạn lửa mà chết yểụ
Hoàng viên ngoại càng hết sức đề phòng, không rời Công tử một phút nàọ
Từ bữa ăn, đến giấc ngủ, viên ngoại tự mình coi sóc từng tý một.
Ngay cả chiếc đèn thắp trong phòng của Công tử, viên ngoại cũng không cho thắp lên nữa, qua hạ sang thu chỉ còn mấy tháng nữa là Hoàng Cố sẽ thoát nạn. Hoàng viên ngoại hết sức vui mừng.
Hàng năm cứ đến ngày Trung Thu là tất cả những người vùng Chiết Đông đều kéo đến bò sông Tiền Đường xem nước thủy triều lên xuống.
Sông Tiền Đường ở gần huyện Hải Ninh lại còn có tên là Chỉ Giang nữạ Từ phía đông chảy ra biển, hình như cái loa kèn ngoài rộng trong hẹp.
Ngoài cửa Tiền Đường lại có mấy hòn đảo nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, những lúc nước triều lên sóng đánh vào những hòn đá đó thành những con nước cao lên đến mấy chục trượng trông rất là ngoạn mục.
Người dân ở tỉnh Triết Đông lại có những lời tương truyền rằng đến xem thủy triều có thể bớt được sự tai nạn.
Dĩ nhiên Hoàng viên ngoại cũng mang Hoàng Cố đến xem thủy triều sông Tiền Đường.
Bằng hữu Vào ngày mười sáu tháng tám, hai cha con viên ngoại và người nhà đến bờ Tiền Đường giang, trên đường đi gặp biết bao nhiêu du khách các nơi đổ đến.
Người đi, kẻ lại dập dìu như đám hộị Nhiều căn liều mới dựng làm chỗ bán các thức ăn và giải khát.
Hoàng viên ngoại tìm một tiệm ăn trong sạch, dẫn Hoàng Cố và gia nhân vào chọn chỗ ngồi khoáng khoát.
Bọn tửu bảo lăng xăng chạy đến mang nước trà và các món điểm tâm lại, hai cha con viên ngoại vừa ăn vừa chuyện trò rất vui vẻ.
Hoàng Cố bẩm chất rất thông minh, tài văn thơ đã nổi tiếng, thấy cảnh sinh tình, chỉ phút chốc đã làm liền mấy bài thơ, ý tứ thanh cao, lời thơ lưu loát. Hoàng viên ngoại nghe Công tử bình thơ thì trong lòng tự nghĩ :
- Xưa kia Lý Hà cỡi lừa du ngoạn, lúc trở về đã sáng tác được nhiều bài thơ bất hủ, tiếc thay mệnh bạc, chỉ sống đến năm 23 tuổị Hoàng Cố mới thấy cảnh đã xuất khẩu thành chương thực là thiên tài, e không thoát khỏi yểu mệnh.
Hoàng viên ngoại nghĩ như thế, thốt nhiên buồn rầu, thở dài một tiếng.
Hoàng Cố thấy viên ngoại đang vui vẻ, bỗng nhiên thay đổi như thế không hiểu vì lẽ gì, chàng muốn cho viên ngoại khuây lãng nên reo to :
- Phụ thân, nước thủy triều đã lên kìa, thật là thập vạn quân thanh bán dạ triềụ
Hoàng viên ngoại và tất cả mọi người đều nhìn ra ngoài sông lúc bấy giờ mặt trời đã xế về Tâỵ
Mặt trăng mới mọc phía đông, từ đàng xa bỗng tuôn lên một luồng sóng bạc trắng xóa, cuồn cuộn chảy vào, nhọn gió đưa theo mát lạnh.
Ngọn sóng càng đến gần, càng nghe thấy tiếng ầm ầm, vang dậy như thiên binh vạn mã. Ngọn sóng cao lên bảy tám trượng như trái núi đổ xô tới reo vào bờ, bọt tung lên trắng xóa, cảnh vật bỗng huyên náo cả lên, Hoàng viên ngoại cầm tay Hoàng Cố dắt ra khán đài cho mãn nhãn.
Hai cha con đang mải mê ngắm cảnh những hòn đảo nhỏ ở ngoài xa bị những luồng sóng lớn bao phủ như chìm hẳn xuống đáy biển.
Mặt trăng đã lên cao, chiếu xuống mặt nước lấp lánh, nhô lên nhô xuống trông như trăm ngàn con rắn bạch.
Ngờ đâu tai nạn lại mang đến thình lình, đằng sau hai cha con có một lão trượng ăn mặc tỏ ra một bực giàu có, hút ống điếu dài ngoằng.
Ông ta nhét đầy thuốc vào ống, mang đá lửa ra đánh để hút thuốc, gió thổi thật mạnh, phải đánh đến bốn năm lấn mới mồi được điếu thuốc.
Lão trượng hít một hơi thật dài, bất ngờ có một luồng gió mạnh thổi đến, tàn thuốc trong ống bay ra, rớt ngay vào cỗ áo của Hoàng Cố, chỉ một loáng, tàn lửa đã cháy loang một mảng áo khá lớn, mùi vải khét nghẹt.
Một tên gia nhân đứng đằng sau Hoàng Cố kêu to :
- Nguy to! Nguy to! áo của thiếu chủ nhân cháy rồị
Vừa kêu vừa chạy lại đập đập vào vai áo để dập tắt lửa đi, Hoàng Cố đang say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, thốt nhiên thấy tiếng kêu của tên gia nhân, thấy nóng ở sau cổ, ngoảnh lại, thấy khói bay và thấp thoáng có ánh lửa, thì hoảng kinh chẳng còn hồn vía, đáng lẽ Hoàng Cố cởi áo ra và để gia nhân dập một chút thì hết ngaỵ
Nhưng đã ba năm nay Hoàng Cố bị ám ảnh bởi câu nói của vị thiền sư chủ trí tại Thiền Đông tự là sau đây mình sẽ chết vì nghiệp lửa, cho nên khi thấy lửa cháy ngay ở cổ áo mình thì hốt hoảng không còn bình tỉnh, lập tức nhảy xuống khán đài, nhắm thẳng bờ biển chạy tớị
Từ khán đài đến biển chỉ cách độ mười trượng, Hoàng Cố tâm thần bất định, cắm cổ chạy tới như bay, nhào ngay xuống nước, với mục đích dập tắt lửa mà thôị
Hoàng viên ngoại cùng mấy tên gia nhân trong lúc bất ngờ thấy Hoàng Cố phóng mình xuống khán đài, không kịp ngăn trở.
Đến khi Hoàng công tử chạy xuống bờ biển, thì Hoàng viên ngoại cũng vội vã, tất tả đuổi theo, nhưng Hoàng Cố đã lao vụt xuống mặt nước đánh “Ùm” một tiếng, đồng thời lúc đó nước thủy triều lại dâng lên, ngọn nước trắng xóa cao bằng nóc nhà đổ tới ầm ầm, kéo luôn Hoàng công tử ra ngoài biển khơi, Hoàng viên ngoại cả kinh kêu to :
- Hoàng Cố! Hoàng Cố!
Nhưng than ôi! Ngọn nước vô tình đã mang đứa con độc nhất của họ Hoàng ra biển cả không còn tung tích nữạ
Hoàng viên ngoại gào thét như điên cuồng nhắm mắt định gieo mình tự tử, kẻ gia nhân chạy tới ôm chặt lấy viên ngoại kéo vào, can gián chẳng dứt. Hoàng viên ngoại vừa la vừa khóc, khi thấy ông già hút thuốc làm cháy áo của Hoàng Cố thì không nén được cơn giận dữ nắm ngay lấy ngực áo ông quát to :
- Lão già khốn kiếp, mau thường mạng cho con tạ
Nói dứt lời, Hoàng viên ngoại tay đấm, chân đá, xé rách cả quần áo của ông già nọ. Lão trượng họ Kim không thể ngờ có sự xảy ra như vậy, cố gỡ mà không được, bị Hoàng viên ngoại nắm được chòm râu cứ thế mà rứt, lão già họ Kim đau kêu trời như bọng!
Mọi người chung quanh thấy thế vừa thương hại, vừa buồn cười, xúm lại gỡ mãi Hoàng viên ngoại mới chịu rời tay rạ
Quần áo lão trượng họ Kim đã rách nát tả tơi, bộ râu đẹp đẽ đã bị vặt trụi quá nửạ
Vừa đau, vừa tức, lại vừa sợ, họ Kim chưa kịp nói năng gì thì Hoàng viên ngoại đã chỉ tay vào mặt quát mắng :
- Lão già gần kề miệng lỗ kia, mi thật là vô dụng, hút làm gì mà để cho lửa tạt cháy áo con ta, khiến nó sợ hãi chạy nhào xuống biển, mới bị nước cuốn đi, mi phải thường mạng cho con ta nếu không ta cũng quyết liều cái mạng già này với mị
Nói rồi Hoàng viên ngoại lăn sả vào toan đánh họ Kim một trận nữạ Mọi người đều xúm vào can ngăn, mỗi người một lời khuyên giảị
Còn Hoàng Cố trong lúc thảng thốt, không kịp suy nghĩ cho là nhảy xuống nước sẽ dập tắt được ngọn lửa, chẳng dè bị luồng sóng lớn cuốn ra biển, nhồi lên nhồi xuống, như có sức ép ngàn cân dồn vào ngực không kịp kêu lên một tiếng nào, ngất xỉu đị
Tâm hồn phiêu phiêu, chẳng biết ỏ dưới biển cả bao lâu, bỗng giật mình choàng tỉnh, thấy nằm trong một cái khoang thuyền, sực nhớ lại chuyện vừa qua không hiểu mình còn sống hay đã chết, ngước mắt nhìn quanh, thấy bên cạnh một lão trượng đang ngồi uống rượu, trước mặt còn có một cuốn sách viết một hàng chữ lớn: “Châu Dịch Kinh Thi”. Hoàng Cố chống tay ngồi dậy thì đầu hoa mắt choáng, kêu sẽ lên hai tiếng :
- Ối chao!
Lão trượng giật mình quay lại, hai mắt sáng quắc như hai ngôi sao lóng lánh nhìn Hoàng Cố mỉm cười, cất tiếng sang sảng như tiếng chuông đồng dịu dàng nói :
- Con đã tỉnh dậy đấy ư, hãy nằm im một chút cho khỏe hẳn đã. Cớ sao con lại bị rơi xuống bể?
Hoàng Cố hãy còn ngơ ngẩn giây lát tâm thần ổn định thì thuật lại hết đầu đuôi gốc ngọn. Lão nhân nghe xong vuốt râu cười khanh khách :
- Số con chưa chết, nên con gặp được ta giải cứu, thôi con còn yếu sức hãy nằm yên nghỉ.
Hoàng Cố vâng lời nằm yên, chàng liếc mắt quan sát thấy con thuyền, chẳng được lớn lắm, không phải thuyền câu, ngoài ông lão ra còn có một người trai tráng đang chèọ
Lão nhân cầm bình rượu tu một hơi, đoạn cất tiếng sang sảng ngâm bản “Hái Dâu” của Âu Dương Tu, giọng lão trượng rất tốt vang lên tiếng trong, tiếng đục, trầm bổng du dương.
Trong lúc tửu hứng, nguồn thơ lai láng, bỗng nhiên lão trượng nói to :
- Rượu suông không có đồ nhắm còn gì buồn hơn, đề ta bắt mấy con cá lên làm đồ nhắm và nấu bát cháo ăn chơị
Nói dứt lời, lão trượng bước khỏi khoang ra mũi thuyền nhìn xuống mặt biển.
Ông ta giơ tay phóng hờ xuống mặt nước, một tiếng “ùm” vang lên, chiếc thuyền tròng trành muốn đắm.
Hoàng Cố thất kinh, vội vàng nhỏm dậy giữ chặt lấy mạn thuyền nhìn ra, thấy khi ba đào sóng lặng mặt biển trỏ lại bình thường thì ở dưới nước bỗng nổi lên một đôi cá dài chừng hai thước, ngửa bụng lên trời, thoi thóp cựa quậỵ
Người chèo thuyền tức thì ngưng tay, vớt cặp cá đó lên. Hoàng Cố là một đứa trẻ thông minh, chuyên cần đọc sách, làu thông kinh sử, tuy không biết một chút gì về võ nghệ, nhưng đã được xem nhiều trong sách vở, biết rằng loại cá này thường ở dưới nước tới hơn mười thước.
Lão nhân chẳng những đã nhìn thấy, lại còn dùng chưởng phong đánh xuống chết luôn hai con một lúc thì biết rằng võ công của ông ta rất cao siêu nên reo to :
- Chà! Lão trượng sử dụng miếng “Phách Không chưởng” thật là quá ư lợi hại!
Lão trượng ngoảnh lại cất tiếng cười ha hả :
- Tiểu tử, mi cũng biết sử dụng “Phách Không chưởng” saỏ
Hoàng Cố lật đật trả lời :
- Bẩm lão trượng, tiểu nhi chẳng biết võ nghệ, nhưng thường xem sách thấy nói rằng “Phách Không chưởng” nếu luyện tới đợt nhất, có thể cách một bức tường mà làm tắt cây đèn cầy, đánh vỡ bụng một con bò cách xa một trượng, còn lão trượng đánh xuống mặt nước mà chết cá không phải là “Phách Không chưởng” hay saỏ Chẳng hay lão trượng cao danh quí tính là chi xin cho tiểu nhi được biết.
Lão trượng vuốt râu cả cười :
- Ta họ Châu, khá khen cho con cũng thông minh đấỵ Nhưng sai mất rồi, “Phách Không chưởng” là dương cương, chỉ có thể phá hoại được vật cứng, nhưng đối với nước biển là chất lỏng thì vô dụng, nên không thể giết chết con cá trong nước, miếng võ của ta gọi là “Hỗn Nguyên Nhất Khí chưởng” so với “Phách Không chưởng” còn cao siêu hơn nhiều, con có muốn học không?
Lão trượng họ Châu là một vị danh tướng ở cuối đời Bắc Tống, tên gọi là Châu Đồng là sư phụ của Nhạc Phi, văn học và võ công của họ Nhạc là do Châu Đồng truyền dạỵ Sau này đại phá quân Kim, trở thành một anh hùng của dân tộc Trung Hoạ Mọi người đều sùng bái, đã có nhiều người nhầm tưởng Châu Đồng chỉ có một đồ đệ là Nhạc Phị
Thật ra, trước khi Châu Đồng thu Nhạc Phi làm đồ đệ, thì Châu lão anh hùng đã có mấy đệ tử trước rồị Trong đó, Hoàng Cố là một trong những đồ đệ đó.
Lúc Hoàng Cố xem nước thủy triều vì sợ bị lửa cháy nên nhảy liều xuống nước để dập tắt đi chẳng dè bị giòng nước cuốn ra ngoài biển, nhưng số mệnh không chết nên gặp Châu Đồng ngồi thuyền đi thăm bạn ỏ Định Hải trở về cứu thoát.
Lúc đó, Hoàng Cố đã bị uống nhiều nước, nên đã bất tỉnh nhân sự, hơi thở thoi thóp.
Châu Đồng dùng phương pháp cấp cứu riêng cứu tỉnh và ngắm dung mạo của Hoàng Cố thấy tướng mạo khôi ngô, dung nhan khác tục, thì ý muốn thu làm đồ đệ truyền dạy võ công cho chàng.
Khi Hoàng công tử nghe Châu Đồng nói thế thì cũng có vẽ mừng rỡ phục xuống lạy Châu Đồng và nói :
- Ơn Châu lão bá đã cứu tử hoàng sanh, nay lại thu làm đồ đệ, tiểu bối tuy học văn nhưng vẫn ưa nghề võ, nếu được lão bá truyền dạy thì tiểu bối xin hết sức theo học cho thành tàị
Châu Đồng lại cười nói :
- Con tên họ là gì, quê quán ở đâu, song thân còn hay mất?
Hoàng Cố lại đem gia thế kể lại cho Châu lão trượng nghẹ
Châu Đồng vui mừng lộ ra nét mặt cười nói :
- Té ra con là cháu nội của Lỗ Trực Công, một gia đình nho phong nề nếp, để ta đưa con về Hải Ninh, cho phụ thân con được an lòng và xem người có chịu cho ta thâu nhận con làm đệ tử hay không, rồi sau sẽ quyết định.
Nói xong Châu Đồng ra lệnh cho người chèo thuyền quay trở lại, hướng về phía Hải Ninh rong ruổị Nửa ngày sau thuyền đã cặp bến, Hoàng Cố lên bờ dẩn Châu Đồng về gia trang.
Gia nhân thấy Hoàng Cố về thì trợn tròn đôi mắt, mồm há hốc không người nào nói được một câu nào, Hoàng Cố thấy vậy thì hiểu rõ một phần nào liền nói lớn :
- Sao chúng bây đứng ngây người ra như phỗng vậy, mau mau vào báo với lão gia, ta được Châu bá phụ cứu thoát khỏi nạn thủy tai rồi...
Lúc đó, gia nhân mới reo to lên :
- Té ra thiếu chủ, chúng con cứ ngỡ là...
Tên đó nói chưa dứt câu đã cắm đầu chạy vào trong nhà. Hoàng viên ngoại đang than khóc, nghe tên gia nhân vào báo tin lành thì quá ư mừng rỡ đầu chẳng kịp đội khăn chân không kịp xỏ giầy, cứ thế chạy tới ra ngoàị
Mới tới phòng tiếp khách đã thấy Hoàng Cố và Châu Đồng vào tới nơị Lão viên ngoại đưa cả hai tay ra ôm chặt Công tử vào lòng nghẹn ngào không ra tiếng, nước mắt chảy dài trên má, nửa khóc nửa cười, bấy lâu chỉ thốt được mấy tiếng :
- Trời! Con con...
Hoàng Cố thấy viên ngoại quá tiều tụy không sao cầm lòng cho được cũng òa lên khóc. Thế là hai cha con cứ ôm chặt lấy nhau mà khóc om sòm.
Châu Đồng trông thấy tình của hai cha con viên ngoại như thế cũng phải cảm động, đứng im lặng chẳng nói câu nàọ
Một lúc, Hoàng viên ngoại mới chợt nhớ ra, vội buông Công tử hướng vào Châu Đồng chắp tay xá dài một cài thật sâu :
- Lão phu cam thất lễ, xin quí khách lượng thứ đi cho, ơn tiên sanh cứu tử cho tiểu nhi chẳng khác nào cải tử hoàn sinh cho cả thân già này nữạ Kính mời quí khách ngồi chơị
Châu Đồng vội đáp lễ và nói :
- Xin viên ngoại chớ bận lòng, đó là nhờ hồng phúc của viên ngoại cao dày, nên khiến xui cho tôi gặp gỡ lệnh lang chớ có chi gọi là ơn nghĩạ
Hoàng viên ngoại kéo ghế mời Châu Đồng ngồi và sai gia nhân pha trà giải laọ Những đồ tang chế mang ra vườn sau đốt hết. Mở tiệc ăn mừng, giết bò, mổ heo thết đãi họ hàng và lân bang hàng xóm.
Hoàng Cố mang câu chuyện mình bị giòng nước kéo ra bể, mười phần chết chín, đã mê man hồn quế. May nhờ Châu Đồng vớt lên và đã tốn bao nhiêu sinh lực mới cứu được thoát khỏi tay tử thần.
Hoàng viên ngoại lại toan sụp lạy Châu Đồng để tạ Ơn, họ Châu vội vàng do tay ngăn lại và nói :
- Xin viên ngoại chớ nên làm thế, khiến cho tiểu đệ giảm thọ mất thôị Đây cũng là do số trời định trước, tai ương của Công tử chỉ có thế. Tiện đây, tiểu đệ cũng muốn yêu cầu viên ngoại một việc.
Hoàng viên ngoại sốt sắng trả lời :
- Vâng! Vâng! Ân nhân muốn điều chi, xin cứ dạy bảo, lão phu hết sức tuân theọ Ân nhân muốn bao nhiêu tài vật cứ chỉ giáo, lão phu không dám tiếc chút nàọ
Châu Đồng cả cười nói :
- Không, không, viên ngoại chớ có tưởng nhầm ý của đệ, không bao giờ đệ nghĩ đến tiền tài đâụ
Nói đến đây họ Châu bỗng nghiêm nét mặt nói tiếp :
- Đây cũng là duyên trời rủi khiến cho đệ cứu được điệt nhị Đệ ngắm tướng mạo của lệnh lang, thật là phi phàm xuất chúng, tướng mạo hơn người, ắt sao trở thành người hữu dụng, nên ý ngu hạ muốn thâu nhận lệnh lang làm đồ đệ. Chẳng hay viên ngoại nghĩ saỏ
Hoàng viên ngoại đã nghe danh Châu Đồng là giáo sư của kinh thành cấm quân võ nghệ cao siêu, danh tiếng vang lừng trong thiên hạ.
Nay thấy Châu Đồng tự ý yêu cầu thâu nhận Hoàng Cố làm môn đồ thì còn gì mừng hơn nữa, vội vàng chấp tay vái tạ và nói :
- Ơn đại huynh cải tử hoàn sinh, gia đình tiểu đệ chưa biết lấy gì báo đáp cho xứng đáng, nay mong ơn đại huynh lại quá thương tiểu nhi cho được thụ giáo thì phúc đức họ Hoàng thật là to tát.
Châu Đồng cũng dùng lời khiêm nhượng đáp lạị Hoàng viên ngoại chọn ngày lành tháng tốt mổ heo làm lễ cho Hoàng Cố bái lạy Châu Đồng nhận làm sư phụ.
Châu Đồng từ đó lưu lại Hoàng gia trang, mang tài nghệ ra truyền bảo cho Hoàng Cố cả văn lẫn võ.
Cách dạy của họ Châu cũng khác thường, ngày lẻ học văn, ngày chẵn học võ, về văn không chú trọng đến văn thơ ca nhạc, mà chỉ quan tâm đến luận văn Cổ, Kim và làm những bài phê bình cuộc thế trong thiên hạ.
Châu Đồng dạy cho Hoàng Cố biết Thái Công, am phù Tôn, Ngô binh pháp, về võ không trọng luyện về quyền, chưởng, đao, kiếm mà chỉ chuyên chú về nội công.
Quang âm thấm thoát, ngày tháng tựa thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua một năm, tài văn, võ của Hoàng Cố đã có căn cơ.
Châu Đồng lại dạy thêm cho Hoàng Cố các cách tế thế an bang, còn võ công thì tập luyện thêm gân cốt.
Thời gian thấm thoát lại trải qua ba năm nữạ Hoàng Cố lúc đó được mười chín tuổị Hoàng viên ngoại giục chàng thu xếp hành trang để đi thi huyện, hy vọng có thể đậu cử nhân, làm vinh quang cho tổ tông. Ngờ đâu, Hoàng Cố nhất định chối từ không đi thị
Hoàng viên ngoại thấy chàng từ chối, thì hết sức ngạc nhiên hỏi rằng :
- Sao con lại không chịu đi thi, như thế chẳng uổng công bao nhiêu ngày nấu sử sôi kinh, lại phụ lòng sư phụ con truyền dạỵ
Hoàng Cố cung kính đáp :
- Dám thưa phụ thân, có phải đâu học hành là để được làm quan. Hiện nay trong triều gian thần đang lộng hành, không bà con thân thích ắt không được thu dụng, nếu không dùng tiền tài đút lót ắt không bao giờ thi đậụ Trong triều bại hoại, phần đông là tụi giá áo túi cơm, chỉ muốn vơ vét cho đầy túi tham để tha hồ xa hoa phung phí, hầu non, gái đẹp mặc cho lê dân đồ thán. Con ứng thi nào có ích gì? Nếu may mà đỗ đạt thì cũng ra lòn vào cúi nào có vinh chị Con học để biết cách xử thế, phải đâu ra làm quan mới làm nên công việc vĩ đạị Xưa kia Tín Lăng Quân cướp Phù cứu Triệu, Trương Tử Phòng giúp Lưu Bang đại phá Hạng Võ dựng lên Hán triều cả bốn trăm năm, đâu có phải ra làm quan mới lưu danh muôn thưở.
Hoàng viên ngoại biết tính Hoàng Cố cương cường ý đã quyết thì dù có mắng chửi hay bắt ép cũng không được.
Nghĩ mình sinh con có một mống mà bảo không được, quá suy nghĩ, uất ức thành bệnh, được mấy tháng thì mất.
Hoàng Cố thương cha khóc chảy ra máu mắt. Tống tang cho Hoàng viên ngoại xong xuôi, theo thể chế của người xưa họ Hoàng cự tang ba năm.
Trong ba năm ấy Châu Đồng lại dạy chàng thêm nhiều kiến thức. Nhưng tánh của Hoàng Cố càng lớn càng quái dị chỉ mãi mê theo môn học của Hoàng lão lấy thuyết vô vi mà trị quốc, lại theo cách sống của Trúc Lâm thất hiền đời nhà Tấn, chơi bời trong thế gian, lấy sự phong lưu làm thú, tư tưởng rất là siêu thoát.
Ý Châu Đồng thì muốn truyền thụ tất cả sở học cho Hoàng Cố, khiến cho Hoàng Cố trở nên một người văn võ kiêm toàn, mai sau giúp nước.
Ngờ đâu, chàng chán cả người đời, chán cả vũ trụ, chỉ thích sống riêng biệt thì đâu phù hợp với ý nguyện của tôn sư.
Bởi vậy cho nên sau khi đã dạy cho chàng suốt mười năm trời, Châu Đồng đành âm thầm rời khỏi nhà họ Hoàng.
Từ đó Hoàng Cố vẫn chứng nào tật ấy, trước hết giải tán gia đinh, bán sạch cửa nhà, đồng ruộng lấy tiền đi chu du năm hồ bốn biển cho thỏa chí bình sinh, thỉnh thoảng cũng có đôi ba lần hành hiệp tác nghĩạ
Chưa đầy một năm phung phí hết tiền, Hoàng Cố phải nghĩ đến giúp việc cho các tiêu cục để kiếm tiền độ nhựt. Nhưng chàng thường đòi hỏi thái quá mỗi lần lấy tám trăm, một ngàn lạng vàng.
Có lần chàng đi đến tỉnh Sơn Đông huyện Lịch Thành (tức là Tế Nam phủ ngày nay) ghé thăm tổng tiêu đầu Hà Chấn Viễn là một người tiếng tăm lừng lẫy ở Sơn Đông, Hà Chấn Viễn tước hiệu Kim Đao vô địch, thường được xưng tụng là: Thần Quyền Trấn Sơn Đông.
Hoàng Cố đưa danh thiếp xin yết kiến, gặp mặt Hà Chấn Viễn Hoàng Cố vừa mở miệng là ngỏ ý muốn lấy hai ngàn lạng vàng.
Hà Chấn Viễn tức giận, nhưng cố nén mỉm cười mà rằng :
- Các hạ với tôi chưa từng quen biết, nay muốn lấy hai ngàn lạng vàng tôi khó lòng vâng chịụ Nếu muốn lấy tiền xin các hạ vui lòng biểu diễn võ công cho tôi được thưởng thức tài năng quán thế của các hạ.
Hoàng Cố lạnh lùng đáp :
- Ngài muốn xem võ công của tôi saỏ Được, xin thứ lỗi cho!
Vừa nói dứ lời, Hoàng Cố đưa tay đập mạnh trên bàn, ngón tay như móc sắt móc ra một mảnh gỗ, rồi ném vào giá để làm binh khí làm gãy ba cây đinh ba thành hai đoạn.
Ngón tuyệt kỹ ấy của chàng làm Hà Chấn Viễn giật mình khâm phục.
Thường thường chỉ có sắt chém đứt gỗ chứ có bao giờ lại xảy ra sự ngược đời gỗ làm đứt sắt?
Vậy mà Hoàng Cố đã có thể dùng mảnh gỗ nhỏ ném gẫy ba cây đinh ba một lúc đủ hiểu võ công của chàng cao siêu đến bực nàọ
Hoàng Cố bỗng quát to lên rằng :
- Một mảnh gỗ này liệu nhà ngươi tính xem có đáng hai ngàn lạng vàng hay không?
Hà Chấn Viễn thấy tuyệt kỹ của họ Hoàng bụng sợ hãi nhưng trước thái độ xấc xược của Hoàng Cố, cũng nổi giận lớn tiếng mắng :
- Sao lại ngang ngược như thế được? Ngươi phá hoại binh khí của ta, rõ ràng là cố ý gây sự hãy tiếp một quyền này!
Chưa dứt lời, đã sử dụng thần quyền tuyệt kỹ với thế “Mãnh Hổ Hạ Sơn” Hà Chấn Viễn vung tay quyền đánh thẳng vào ngực Hoàng Cố.
Hoàng Cố cười ha hả tường chừng như không cử động mà thân mình đã rời khỏi chiếc ghế từ lúc nàọ Ngọn quyền Hà Chấn Viễn đánh ra đụng vào chiếc ghế làm nát vụn ra như cám.
Hoàng Cố cười gằn mà rằng :
- Tài nghệ có như thế mà đã gọi là Thần Quyền Vô Địch ư? Thật là nghe tiếng chẳng bằng gặp mặt! Hãy coi ta đây!
Vừa nói vừa đưa chân đá nhẹ vào những mảnh gỗ vụn dưới đất, tung lên như đạn bắn vào mặt Hà tổng tiêu đầụ
Hà Chấn Viễn không ngờ võ công của đối phương ảo diệu đến bực ấy, vội chuyển mình tránh cho làn đạn gỗ vụn khỏi trúng mặt, nhưng cũng không tránh khỏi mấy mảnh.
Nên nhớ rằng không thể coi thường cú đá của Hoàng Cố. Chỉ có một mảnh gỗ vụn nhỏ bắn vào người cũng đau nhức vô cùng.
Hà Chấn Viễn thét to lên một tiếng, rút thanh Kim đao quý ra dùng thế “Đại Bàng Triển Dực” chém vào đỉnh đầu Hoàng Cố.
Ngờ đâu đao vừa chém xuống đã nghe vang “bốp bốp” hai tiếng, mặt đã bị Hoàng Cố đánh trúng một bốp tay, đao trong tay cũng bị chàng giựt được bẻ gãy làm đôi, liệng xuống đất.
Kim Đao Hà Chấn Viễn, Thần Quyền Trấn Sơn Đông, chỉ trong một hiệp, đã liên tiếp bị thiệt hại ba lần.
Hoàng Cố võ công cao siêu đến bực ấy thật là thần xuất, quỷ mạt, thế gian chưa từng mắt thấy tai nghẹ
Hà Chấn Viễn tức giận thét lớn :
- Tiểu tử này phải chăng dùng tà thuật! Bạn hữu ta đâu! Hãy giúp ta bắt lấy nó!
Hơn mười người giúp việc tiêu cục, thảy đều là những nhân vật võ nghệ siêu quần nổi tiếng võ lâm, lập tức đổ xô lại bao vây Hoàng Cố.
Hoàng Cố quát lớn lên một tiếng, hai tay vung lên, xông vào đám đông ngườị Bốp, bốp mấy tiếng liên tiếp, bảy người bị Hoàng Cố bốp tai, giựt mất binh khí, bẻ liệng đi, đồng thời dùng chân đá ngã những người khác.
Chỉ trong khoảnh khắc hơn mười vị tiêu sư oai dũng đều mặt mày sưng vù, la lối om sòm, chen nhau cạy ra ngoài cửạ
Hoàng Cố cười ha hả nói :
- Võ công như thế mà cũng xưng là giang hồ hảo hán! Thôi tôi cũng không nhận số tiền hai ngàn lượng nữa đâụ Hẹn lần khác sẽ gặp lạị
Dứt lời, liền bước ra cử đi thẳng.
Sau vụ đại náo Tổng tiêu cục của Kim Đao Hà Chấn Viễn, Hoàng Cố đã nổi tiếng trong giới giang hồ. Mỗi khi chàng ghé lại tiêu cục nào nhờ giúp đỡ thì các tiêu cục đầu ai nấy đều nén lòng cam giận, giả bộ tươi cười, hai tay đưa tiền dâng nạp không dám bớt một đồng.
Hoàng Cố lấy được tiền không tốn mồ hôi nước mắt như vậy, lại tha hồ tiêu xài phung phí.
Cứ như vậy ba năm liền, các tiêu cục phía Bắc Đại Hà, đều coi Hoàng Cố như thần, một lòng sợ phục, tuy thù ghét chàng nhưng không một ai dám hé răng, đừng nói chi đến tỉ thí võ nghệ với chàng.
Sau đó, có lẽ Hoàng Cố cảm thấy chán nản vì suốt mấy tỉnh miền Bắc, võ lâm hào kiệt không một ai dám chống trả chàng nữa, nên bỗng đi biệt tăm biệt tích. Từ đó các tiêu cục mới được yên vì không bị người đến quấy nhiễu tống tiền.
Hoàng Cố vắng bóng giang hồ như vậy là đi về phương nàỏ Thì ra chàng trở về quê cũ ẩn cư ở núi Nhạn Đãng phía Tây Triết Giang, chuyên tâm luyện tập về dịch lý, theo mấy cuốn sách của sư phụ là Châu Đồng để lại cho, nhất là về tiên thiên dịch ý, thái công âm phù và ngũ hành kỳ môn.
Những phép tắc vừa kể, trong cổ thư của Trung Hoa, gọi là “Kỳ Môn thuẫn pháp”, tuyệt nhiên không phải là dùng để gạt người, cổ nhân hành quân dàn trận đều có sử dụng.
Danh tiếng nhất trong lịch sử là vào đời Xuân Thu Chiến Quốc, Tôn Tẫn đại phá Bàng Quyên đã có lần sử dụng “Lục Giáp trận pháp”.
Tiếc thay từ ngày Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, làm tan hết nền văn hóa nước Tàu, phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” này cũng đã thất lạc, cùng với bao nhiêu sách khác, có chăng chỉ còn một vài người nhớ được ít nhiều bí truyền cho con cáị
Mãi đến đời Ngụy, Thục, Ngô, Tam Quốc.
Gia Cát Lượng được cha vợ truyền thụ phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” tuy không đầy đủ như trước, song cũng đã dàn được “Bát Quái Trận Đồ” bao vây đại tướng của Đông Ngô là Lục Tốn. Nhưng sau đời Tam Quốc không còn thấy một ai thông hiểu phép bày bố “Kỳ Môn Bát Trận” nữạ
Hoàng Cố tự phụ là thông minh tuyệt thế, quyết tâm luyện cho được “Kỳ Môn thuẫn pháp” nên lui về một vùng thâm u là núi Nhạn Đãng, xếp đá bày trận, chuyên tâm luyện tập nửa năm, liền tìm ra phương hướng của Kỳ môn bát trận, lại nghiên cứu thêm sáu tháng nữa mới nghĩ ra cách bày bốn trọng môn đảo đi nghịch lại, không thấy sai lầm.
Bấy giờ chàng mới bắt mấy con thú nhỏ, thả vào Kỳ môn thạch trận ấy, thấy chúng xông xáo chạy quanh tìm đường ra mà không thoát.
Thấy vậy tự biết là đã học thành công, Hoàng Cố sung sướng quá đỗi, vùng cười lên như phát cuồng dạị
Sau đó chàng bèn nảy ra một ý nghĩ kỳ dị là nếu dùng võ công trác tuyệt của mình, tìm ra biển cả, chiếm một hải đảo làm bá chủ một vùng hải ngoại, thu nạp môn đồ dựng lên một môn phái riêng biệt, dẫu không lưu danh vạn đại cũng có thể nổi tiếng võ lâm.
Quyết định rồi, Hoàng Cố liền rời ngay Nhạn Đãng sơn, tiến về phía bể, mong tìm được hòn đảo hợp ý nguyện.
Chàng lần theo ven biển Sơn Đông, từ bán đảo này, đi ngược lên phía trên, trước tiên Trường Sơn bát đảo, Triều đảo quần, đến vịnh Giao Châu, qua các đảo Lao Sơn, Thất Tinh, kiếm tìm, lựa chọn hơn ba chục hòn đảo, không tìm được đảo nào vừa ý.
Về sau, đi tới một hòn đảo ở tận ngoài Hoàng Hải, thấy hợp ý mình nên xếp đá thành “Kỳ môn bát trận” nào ngờ lại gặp Vương Trùng Dương đi ngang qua, vì dùng thuyền lấy nước ngọt mà phá rối thạch trận của chàng.
Hoàng Cố vốn tính tình kỳ quái, tức giận phá nát Kỳ môn thạch trận, khắc thơ trên đá, ngồi thuyền đi thẳng.
Đó là nguyên nhân tại sao Hoàng Cố lại dấn thân ra hoang đảo, nhưng chuyện đó hãy tạm gác lại một bên.
Nói về Vương Trùng Dương, đáp thuyền của Đinh Nhị Mao, vượt qua Hoàng Hải, đến tận cùng cửa biển nầy, tức là phía Bắc Đông Hải, Đinh Nhị Mao bỗng lấy ra từ đáy thuyền một lá cờ đen hình tam giác buộc giây kéo lên ngọn cột buồm.
Vương Trùng Dương nhìn thấy lá cờ này không khỏi giật mình kinh ngạc vì ngay giữa cờ có thêu một chiếc đầu lâu màu trắng, phía dưới có hai cái xương giao nhau, rõ ràng là lá cờ hiệu của bọn hải tặc.
Vương Trùng Dương bèn hỏi Đinh Nhị Mao :
- Vì cớ gì bọn ngươi lại dương lá cờ kỳ quái này lên như vậỷ
- Kỳ quái ư?
Hai người con Đinh Nhị Mao vội vàng đáp :
- Lá cờ này đối với bọn thương thuyền chúng tôi đắt giá lắm, xin quý khách biết cho rằng mỗi năm chúng tôi phải nộp năm lạng vàng mới được cấp phát lá cờ này đấy!
Vương Trùng Dương không khỏi kinh ngạc mà rằng :
- Năm lạng vàng mua một lá cờ? ích lợi của nó ra sao mà phải trả đắt giá như vậỷ
Đinh Nhị Mao thở dài đáp :
- Qúy khách không rõ, vì mới đi đường bể lần đầu nên không hiểu luật lệ trên mặt bể!
Vương Trùng Dương bỗng tỉnh ngộ :
- À! Thì ra đây là cờ hiệu của bọn giặc bể, cấp phát cho các ngườị
Đinh Nhị Đao run sợ nói :
- Xin quý khách giữ lời, chớ gọi là giặc bể, mà phải gọi là... hảo hán.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Vâng thì gọi là hảo hán. Vậy những hảo hán có lá cờ này dữ dằn lắm phải không?
Người con lớn của Đinh Nhị Mao nhanh miệng đáp :
- Đúng lắm. Qúy khách nói không saị Bao nhiêu thuyền qua lại miền Đông Hải này đều phải nộp tiền cho Nữ Đại Vương, nhận lấy cờ hiện nàỵ
Vương Trùng Dương nghe thấy ba tiếng “Nữ Đại Vương” không khỏi lấy làm kỳ thú, mỉm cười nỏi :
- À, té ra người cầm đầu các hảo hán là một vị Nữ Đại Vương? Nữ Đại Vương chắc là xinh đẹp lắm phải không?
Đinh Cương thuận miệng, liền thuật cho Vương Trùng Dương nghe mọi chuyện.
Thì ra từ ba năm nay, tại Đông Hải đã xuất hiện một “Nữ Đại Vương”, họ Tôn tên Phượng Cô nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, tuổi mới đôi mươi nhưng ác độc không ai bằng, giết người không sờn tay, nhắm mắt.
Bọn hải tặc thần phục, tôn Phượng Cô lên làm nữ chúa cầm đầu cả một bọn cướp bể gọi là Hắc Phượng bang.
Thế lực Hắc Phượng bang rất hùng mạnh, thuyền bè có hàng trăm chiếc, lâu la kể đến hai ngàn.
Khu vực hoạt động của bọn hải tặc này bao trùm cả một vùng biển phía Bắc từ Hoàng Hải Tề Lỗ, phía Nam sát Châu Sơn quần đảo ở Triết Giang. Sào huyệt của chúng, cứ như thiên hạ nói, hình như ở gần Trường Giang Khẩu, Giang Tô.
Cả một vùng bể này bất luận là thuyền buôn hay thuyền đánh cá, gặp thuyền của Hắc Phượng bang đều chắc chắn là hàng hóa bị cướp, người bị sát hạị
Tôn Phượng Cô lại thường dẫn “Hắc Phượng bang” lên đất liền đánh cướp, xung đột với quan binh ở ven biển.
Trong các trận giao tranh, Phượng Cô đầu thắt khăn đỏ hai tay đao, xông pha lãnh đạo bộ hạ.
Chớ tưởng lầm cô là phận nữ nhi, sự hung dữ của cô đã khét tiếng cả một vùng.
Có lần đụng độ với quan binh, một mình cô đã giết ba Thống chế, một viên Đề hạt, uy danh lừng lẫy, khiến quan binh trông thấy cô là đã chạy tán loạn không dám cự địch.
Sau này Phượng Cô đặt ra quy lệ Ở trên mặt biển, thuyền bè nào đi qua Đông Hải, mỗi chiếc phải dâng nạp cho “Hắc Phượng bang” năm lạng vàng, nộp tiền rồi sẽ được cấp phát một lá cờ tam giác màu đen thêu sọ và xương người màu trắng, đi qua Đông Hải phải treo lá cờ lên ngọn cột buồm.
Hải tặc thấy cờ hiệu, biết là đã nộp tiền sẽ không đánh cướp nữạ Cha con Đinh Nhị Mao mới tới Ngao Đẩu dương đã vội lấy cờ treo lên, nguyên do là như vậỵ
Vương Trùng Dương nghe rõ đầu đuôi, nhìn kỹ lá cờ ghê gớm ấy rồi vụt nói :
- Lá cờ này quả thật giúp người ta đi lại yên ổn ở Đông Hải ư? Nếu muốn giả mạo thì làm bao nhiêu lá cờ như thế mà không được?
Đinh Nhị Mao cười nói :
- Mang cờ giả mạo đâu phải là chuyện dễ? Nếu Nữ Đại Vương biết được chắc chắn sẽ toi mạng. Đừng tưởng lá cờ ấy cũng giống như muôn ngàn lá cờ khác, đầu mỗi cái xương có in một dấu nhỏ hình chim phượng hoàng chắp cánh không ai giả mạo được. Năm vừa qua Sùng Minh đảo thuộc tỉnh Giang Tô có một người đánh cá làm giả một lá cờ ra biển đánh cá đến lần thứ ba bị bọn hải khấu hay biết lập tức báo cáo với Nữ Đại Vương. Thế là bao nhiêu người trên thuyền đều bị quăng xuống bể làm mồi cho cá. Từ đó không còn một ai bạo gan nghĩ đến chuyện giả mạo lá cờ nữạ
Đinh Cương nói tiếp :
- Chúng tôi nộp tiền ngày nào tháng nào họ cũng đều ghi rõ không hề lầm lẫn.
Trùng Dương nghe xong câu chuyện của cha con Đinh Nhị Mao bỗng sinh lòng mến phục Tôn Phượng Cô, tuy là hải tặc nhưng bản lãnh phi thường, tài năng xuất chúng, nếu điểm hóa cho nàng, khuyên nàng cải tà quy chánh chắc có thể trở nên người hữu dụng.
Chàng đương nghĩ ngợi bỗng nghe Đinh Nhị Mao la lớn :
- Hảo hán tới kia rồi!
Mọi người hoang mang xao xuyến. Vương Trùng Dương đưa mắt nhìn về phía trước thấy xa xa xuất hiện một chiếc thuyền lón phăng phăng rẽ sóng tiến đến, trên ngọn, một trong ba cột buồm phất phới một lá cờ tam giác màu đen thêu đầu lâu và xương trắng. Đinh Nhị Mao cuống quýt nói với Trùng Dương :
- Hảo hán đến xét thuyền đấỵ Kính xin tôn ông vui lòng tạm lánh xuống đáy thuyền một lát.
Vương Trùng Dương biết rằng đấy là luật lệ trên mặt biển nên mỉm cười vào trong ghe lánh mặt.
Một lát sau, chiếc thuyền ba buồm kia càng ngày càng xáp lại gần. Cách thuyền của Đinh Nhị Mao chừng mấy trượng bọn thủy thủ quăng móc sắt móc vào mạn thuyền của Đinh Nhị Mao rồi mấy tên hải khấu nhảy ào sang hung năng quát lớn :
- Mau hạ cờ xuống cho ta xét.
Đinh Nhị Mao vâng lệnh kéo cò xuống. Bọn hải khấu tất cả bốn tên chuyền tay nhau xét soi tìm dấu đỏ hình chim phượng hoàng in trên lá cờ. Chúng lại lật sổ kiếm tìm rồi quát hỏi :
- Mi là Đinh Nhị Mao phải không? Năm ngoái có nộp năm lạng vàng tính đến tháng sau là hết hạn, lần sau đi ngang qua đây phải nạp tiền lệ nghe không?
Đinh Nhị Mao vâng dạ luôn mồm, tiễn đưa bọn hải khấu lui về thuyền của chúng.
Ngờ đâu lúc thuyền hải tặc sắp khởi hành bỗng một cột buồm gãy làm hai đoạn. Cờ và buồm đều rơi xuống bể, thuyền tròng trành muốn chìm làm cho mấy tên hải khấu té ngang té ngửạ
Đinh Nhị Mao biết là Vương Trùng Dương đánh gãy và chính bọn hải khấu cũng nhận biết, lớn tiếng quát :
- Bọn này táo gan thật, dám ẩn giấu gian tế dưới thuyền.
Chúng chưa dứt lời, Trùng Dương đã từ từ bước ra cười ha hả :
- Bọn giặc cỏ này muốn thu tiền lệ phí chăng? Được ta cũng muống bọn mi hàng năm phải dâng nạp cho ta một số tiền biết chưả
Nghe Vương Trùng Dương nói vậy, bọn hải tặc đều căm gan tím ruột hè nhau rút binh khí ra, vù vù hai tiếng, hai ngọn phi tiêu bay thẳng vào mặt Trùng Dương, chàng cười to hơn nữa :
- Thứ đồ rỉ sét này thì làm gì được ai mà dám hung hăng làm bậỵ
Vừa nói, Trùng Dương vừa vung tay bắt hai ngọn phi tiêu rồi trở tay phát ra hai mũi phi tiêu liền bay ngược lại phía bọn hải khấu găm vào giữa ngực hai tên giặc.
Chúng la lớn lăn xuống mạn thuyền không cựa quậỵ Ngờ đâu chúng không chết, Vương Trùng Dương chỉ dùng cán phi tiêu ném trúng huyệt đạo, chúng chỉ cảm thấy tê buốt ngã xuống không vùng vẫy được mà thôị
Trên thuyền giặc, tất cả có hơn hai chục tên hải khấu thấy đồng bọn bị đã thương vừa sợ vừa giận. Ai nấy đều muốn nhảy sang vây đánh Vương Trùng Dương.
Chàng bỗng quát lớn lên một tiếng, cấm chiếc neo ở trên boong giơ cao lên, tính cả giây xích dài chừng mấy trượng, chiếc neo phải nặng tới một trăm năm mươi cân.
Bọn hải tặc thấy chàng là một thư sinh nhỏ thó, mà có sức cầm nổi cái neo giơ lên ngang mặt coi nhẹ như không thì cũng không khỏi giật mình kinh sợ.
Vương Trùng Dương lớn tiếng nói :
- Bọn mi thật là phường túi cơm giá áo mà đòi chống cự với ta sao nổỉ
Nói rồi liền cầm chiếc neo ném sang phía thuyền giặc làm bọn chúng hoảng hồn né tránh về phía saụ
Chiếc neo như theo lệnh Trùng Dương rơi đúng vào mạn thuyền của bọn hải khấu làm thủng một lỗ vuông hàng thước. Bọn chúng la hoảng, sợ thuyền chìm.
Vương Trùng Dương lại giơ tay trái cầm dây xích quay ba vòng quát lên một tiếng “trúng” đánh ngang vào chiếc thuyền khiến cột buồm và mui thuyền đều bay vọt lên không trung, rơi xuống biển. Thân thuyền rung động. Bọn cướp la lớn :
- Xin đại hiệp tha tội chọ
Trùng Dương thấy chúng biết sợ, liền kéo chiếc neo lại nói :
- Bọn mi hãy mau xa chạy cao bay cho khuất mắt tạ
Chiếc thuyền đã bị hư hại không tài nào bơi đi được nữạ
Trùng Dương lại nói :
- Ta đã bảo bọn mi phải đi cho mau, sao còn chùng chình chưa ra khỏi thuyền. Trên thuyền phải chăng có hai chiếc tam bản, hãy mau thả xuống bơi đi cho mau, nếu không ta đánh chìm thuyền đừng oán trách.
Bọn hải khấu nghe chàng nói như vậy hoảng kinh, vội vã chen nhan hai mươi mấy con người chia làm hai tốp xuống ghe chạy trốn.
Vương Trùng Dương cười nói với Đinh Nhị Mao :
- Này ông chủ thuyền họ Đinh, lần này tôi đã kiếm cho ông được một chiếc tàu lớn, chỉ đem tháo ra bán gỗ cũng có thể được năm chục lạng vàng đủ nộp lệ phí trong mười năm.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 11-22-2012, 11:17 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 11 - 13

Võ lâm ngũ bá


Hồi 11

Thoa Vàng Hơn Kiếm Báu


Vương Trùng Dương quả nhiên tinh mắt hơn người xa trông đã nhận biết đúng là thuyền của Hắc Phượng bang được tin báo cáo của bọn thảo khấu thua chạy hôm trước, nên tìm đến vây bắt báo thù.
Chàng liền bảo cha con Đinh Nhị Mao nấp vào trong khoang thuyền để mình chàng đối phó. Thấy cha con cuống cuồng sợ hãi, chàng nói :
- Mấy cha con cứ vào trong khoang, cố ngủ đi một giấc ngủ dậy là việc đâu đó xong xuôi rồi có gì đâu mà ngại!
Cha con Đinh Nhị Mao dở khóc dở cười, nhưng sự thể đã như vậy không còn cách gì hơn là phó mặc cho số mệnh.
Vương Trùng Dương đứng trên mũi thuyền xa trông ngày càng thấy rõ hơn mười chiếc thuyền hải tặc bày thành hàng chữ nhất như một con rắn dài từ từ hướng về phía thuyền của chàng mà tiến đến, phút chốc đã tới gần, thuyền nào cũng đông nghịt những hải khấu, gươm đao giáo mác trông thật dữ dằn.
Chiếc thuyền lớn nhất đi giữa có treo một lá cờ phất phới trên cột buồm chính, cờ thêu chim phượng hoàng màu đen Bên trái là một đội nữ binh mặc áo chiến màu hồng, vây chung quanh một thiếu nữ mặc áo vàng xinh đẹp tuyệt vời, đầu đội mũ thêu kim tuyến, tay cầm trường kiếm sáng ngờị
Vương Trùng Dương thầm nghĩ nàng chính là nữ đại vương mà cha con Đinh Nhị Mao đã từng nói tới, tên gọi Tôn Phượng Cô - thủ lãnh Hắc Phượng bang.
Vừa lúc hai thuyền sáp lại gần nhau, Vương Trùng Dương liền cất tiếng gọi :
- Cô nương phải chăng là Bang chủ của Hắc Phượng bang? Tôi đây là Vương Trùng Dương định tâm đến Đông Hải để tìm cô nương đây Thiếu nữ áo vàng chính là Tôn Phượng Cô, đến gần mới nhìn kĩ nàng bận áo màu ngân bạch viền kim tuyến, thêu ngũ phụng cũng bằng kim tuyến xa trông lấp lánh tưởng như toàn màu vàng.
Thiếu nữ giơ cao thanh trường kiếm cười nhạt mà rằng :
- À ra ngươi có ý tới đây gây sự, tốt lắm tốt lắm. Lâu nay ta không ăn món tim người, bữa tối nay chắc được uống rượu nhắm với trái tim nhà ngươi...
Cha con Đinh Nhị Mao ở trong khoang thuyền nghe nói sợ toát mồ hôi, hai hàm răng đánh vào nhau nghe cầm cập.
Vương Trùng Dương trái lại thản nhiên mà rằng :
- Cô nương thèm ăn tim người ư? Vâng, tôi xin đem trái tim này tặng cô...
Tôn Phượng Cô tức giận thét lớn :
- Nói bậy!
Đồng thời vung tay lên thì thấy “Vút vút” hai tiếng, hai ngọn phi đao nối đuôi bay ra như hai đạo bạch quang nhắm thẳng Vương Trùng Dương bay tớị
Phóng phi đao là tuyệt kĩ của Phượng Cô, mỗi ngọn phi đao nặng chừng một cân bốn lượng Khi phóng ra sức mạnh khác thường, có thể bay xa mười trượng mà trăm phát trúng cả trăm.
Năm trước trên biển Tượng Sơn thuộc Chiết Giang nàng đã dùng tuyệt nghệ này để sát hại thủ lãnh Thanh Ngư bang là Sa Lượng Quảng một chúa cướp biển từng xưng hùng xưng bá một phương, ngoài ra còn bảy đầu mục khác của Thanh Ngư bang cũng bỏ mạng vì ngọn phi đao thần xuất quỷ mạt của nàng, khiến cho thủ hạ của Thanh Ngư bang thảy hết đều qui phục nàng.
Trùng Dương đứng yên không nhúc nhích chờ phi đao tới còn cách một gang tay mới dùng bốn ngón tay kẹp chặt lấy khiến bọn hải tặc giật mình kinh khiếp.
Vương Trùng Dương cất tiếng cười vang :
- Hai thanh sắt vô dụng này mà đòi lấy một trái tim sao được?
Vừa nói vừa bóp vụn ngọn phi đao ném tung lên.
Tôn Phượng Cô nhận biết chàng là một bậc võ công cao siêu bậc nhất, song bản tính cang cường của nàng không chịu khuất phục đối phương, quát to lên rằng :
- Kẻ kia quả nhiên võ công không phải tầm thương nhưng ta sẽ tặng luôn một lúc hai mươi ngọn phi đao còn lại đây, nếu tránh đỡ được cả ta xin quỳ lạy tôn làm sư phụ... Đỡ này!
Thì ra Tôn Phượng Cô có tất cả hai mươi bốn ngọn phi đao truy hồn đoạt mệnh, nhưng phi đao của nàng nặng quá sức phải giao cho bốn nữ binh khỏe mạnh chia nhau mỗi người giữ sáu ngọn.
Tôn Phượng Cô nói dứt lời, quay mình một vòng, vun vút mấy tiếng, liên tiếp phóng ra bốn ngọn phi đao cùng một lượt bay về phía Vương Trùng Dương. Phương pháp phóng phi đao này gọi là “Tứ lý xuất long môn”, hai ngọn nhằm vào đầu vào mặt, hai ngọn khác nhằm vào ngực và bụng, nhưng lạ lùng thay, Vương Trùng Dương vẫn tưởng như an nhiên bất động chỉ thấy hai tay thoáng giơ lên cả bốn ngọn phi đao đã nằm gọn trong tay chàng, còn dễ dàng hơn con nít bắt bươm bướm.
Tôn Phượng Cô vừa giận vừa thẹn tung chân đá ngã nữ binh thứ nhất (vì trong tay y đã hết phi đao), ba nữ binh khác vội tiến đến dâng luôn mười tám ngọn phi đao còn lạị
Tôn Phượng Cô vừa chụp lấy vừa phóng ra, theo liên châu thủ pháp, đầu tiên là thủ pháp “Liên Hoa Tụ Đỉnh” sáu ngọn phi đao bay vụt đến người Vương Trùng Dương Chàng không hề lộ vẻ bối rối lập tức ném bốn ngọn phi đao trong tay xuống, hai tay giơ cao khỏi đầu, múa lên một vòng như chong chóng.
Hai lần trước chàng đã dùng ngón tay mà đỡ nhưng lần này sáu ngọn tới một lượt, Vương Trùng Dương biết không thể dùng ngón tay như trước nữa bèn dùng cả bàn taỵ
Hai tay chàng vừa chuyển hết vòng thì sáu ngọn phi đao của Tôn Phượng Cô đã phân ra bên trái ba ngọn lọt vào hai tay chàng. Vừa lúc ấy Phượng Cô đã ném ra một lượt mười hai ngọn phi đao khác bay tới người chàng như pháo thiên thanh.
Thủ pháp của nàng lần này gọi là “Mãn Thiên Hoa Vũ” mười hai ngọn phi đao phân làm ba tổ, mỗi tổ bốn ngọn chia thượng, trung, hạ cùng tớị Vương Trùng Dương lần này thấy bốn phía đều có ánh phi đao lấp lánh xung quanh mình Tôn Phượng Cô nghĩ thầm rằng nàng đã phóng ra mười hai ngọn phi đao một lần như thế thì thần tiên cũng khó lòng tránh thoát, kẻ kia dù võ công có cao cường đến đâu cũng khó lòng thoát khỏi mạng vong. Ngờ đâu Vương Trùng Dương hét lên một tiếng, hai chiếc tay áo rộng lớn hướng từ trái sang phải phất mạnh một cái, mười hai mũi đao bỗng đảo ngược trở lại chui hết vào tay áọ
Những tên hải tặc trông thấy đều vỗ tay to lên rằng :
- Chà! Thật là hay quá!
Tôn Phượng Cô không ngờ hai mươi bốn phi đao đều bị làm rơi tất cả thì lấy làm ngượng đỏ cả mặt Vương Trùng Dương trước tiên buông bốn phi đao trong tay bỏ xuống, rồi lại từ trong tay áo đổ ra mười hai cái phi đao vừa tiếp được, tổng cộng tất cả là hai mươi cáị
Vương Trùng Dương cất tiếng cười ròn rã :
- Cô nương có nói với tại hạ nếu kiếm kẹp được hai mươi hai cái phi đao của cô không thiếu sót cái nào thì cô nương phải lạy tôi và tôn làm sư phụ, vậy thì cô hãy làm lễ bái sư đị
Tiếng của Trùng Dương vang rền khiến Phượng Cô cảm thấy bẽ bàng, nàng không dằn lòng được giận dữ quát lên :
- Mi mới bắt được phi đao, đó chỉ là trò tầm thường, đã được gọi là võ công đến mức cao siêu, nếu có giỏi hãy cùng bản cô nương đấu vài trăm hiệp phân tài cao thấp.
Vương Trùng Dương lại cười sằng sặc :
- Chẳng cần phải đánh cô nương cũng đã thua rồi
Tôn Phượng Cô quắc đôi mắt sáng như sao hét lớn :
- Chớ có khoác lác, mi có tài nghệ gì hãy trổ cho ta coị
Trùng Dương hỏi :
- Tại hạ xin hỏi cô nương, ngoài môn phi đao ra, cô nương còn có bản lãnh gì nữa không? Cứ mang ra thi thố, tại hạ sẵn sằng thừa tiếp
- Bản lãnh của ta là cây gươm này nếu mi phải là trang anh hùng, hãy sang đây, đấu với ta vài ba trăm hiệp.
Vương Trùng Dương cười ngất :
- Cô nương đào tơ liễu yếu đâu có đủ sức giao đấu đến vài trăm hiệp, tại hạ chỉ lo cô nương không đủ sức đâu tới ba mươi hiệp mà thôị
Tôn Phượng Cô căm gan, tím ruột, mắt phượng tròn xoe, lông mày dựng ngược quát to :
- Mi dám cả gan phạm đến ta, ắt phen này sẽ không có đất mà chôn.
Vương Trùng Dương lấy tay chỉ vào chiếc tàu bị neo sắt đánh hư và nói :
- Cô nương là chủ, tại hạ là khách, tuyệt đối tại hạ không sang chiếc tàu của cô nương. Chúng ta cùng sang chiếc tàu kia giao đấu có lẽ công bằng hơn.
Tôn Phượng Cô không chờ cho Vương Trùng Dương dứt lời đã dùng thế “Cò Nhạn Xung Thiên” nhảy vọt lên mấy trượng rồi trao mình như con én lượn, lao sang chiếc tàu đó và quát lớn :
- Tặc tử! Hãy sang đâỵ
Vương Trùng Dương cười to lên một tiếng, chàng cởi áo dài nhún nhẹ một cái đã bay vụt sang chiếc tàu như sao đổi ngôi, buông mình xuống khoang thuyền nhẹ như chiếc lá rụng, không hề phát ra một tiếng động nhỏ nàọ
Tôn Phượng Cô giật mình và tự biết khinh công của đối phương quá cao siêu, nên cũng không khỏi lo lắng trong lòng.
Từ ngày nàng bước chân hoạt động trong giang hồ, một mình vùng vẫy trên biển cả chưa thất bại bao giờ, Phượng Cô rất tin ở tài mình nên nàng giơ kiếm lên và nói :
- Bản cô nương sẽ dùng thanh gươm này để giao đấu, nếu túc hạ không có gươm, ta sẽ cho người một thanh, cho khỏi mang tiếng đánh một kẻ tay không.
Vương Trùng Dương cười rằng :
- Tại hạ xưa nay không ưa đồ binh khí, nhưng xin cô nương ráng giữ mình.
Vừa dứt lời Vương Trùng Dương đã giơ tay hướng vào Tôn Phượng Cô đánh ra một chưởng nhanh như chớp, Tôn Phượng Cô thật là không ngờ, nên không biết tránh đỡ cách nào đành phải quay gươm lại dùng thế “Hận Dơi Đến Muộn” chém ngang một nhát, bỗng thấy ở trên đầu hơi nhức, và Vương Trùng Dương đã nhảy về phía sau đến hai trượng, chàng ta vừa cười vừa nói :
- Xin thất lễ! Xin thất lễ! Tại hạ chỉ muốn dùng một vật của cô nương làm binh khí.
Tôn Phượng Cô chú ý thấy trong tay Vương Trùng Dương có một vật sáng lung linh, nhìn kỹ bỗng giật mình, thì ra đó là cây Phượng Thoa bằng vàng dài năm tấc, nàng để cài đầụ
Phượng Cô vừa xấu hổ vừa tức, từ trước tới nay ngang dọc trên chốn giang hồ, nàng không gặp người đối thủ, nên vẫn coi đời bằng nửa con mắt Nào có ngờ đâu, vừa giao đấu với Trùng Dương nàng đã thấy rõ đối phương của nàng là một tay bản lãnh cao cường, tài nghệ quán chúng. Chiếc Phượng Thoa cài ở trên tóc nàng mà chàng ta chỉ chớp mắt đã lấy được như không, đủ thấy võ công của nàng sút kém rất xa, nhưng Tôn Phượng Cô là người tuổi trẻ, nhiều tự ái, đâu có chịu thua ngay nên Phượng Cô quát to lên một tiếng :
- Hãy coi kiếm của ta đây!
Nói xong nàng hoa tít thanh kiếm lên, một ánh bạch quang sáng lòe vụt ra Trong một lúc Phượng Cô dùng luôn ba thế trong “Ngọc Nữ kiếm pháp” thế thứ nhất là “Tố Nữ Châm Hoa” thế thứ hai là “Ngọc Nữ Trang Điểm” thế thứ ba là “Tiên Nữ Từ Điện” liên bay ra, đà kiếm đi nhanh như chớp nhằm thái dương, cổ, hai ức của Vương Trùng Dương liên tiếp vung ra, vừa đâm vừa chém, uy lực ghê gớm.
Vương Trùng Dương vẫn điềm nhiên chẳng hề bối rối, chàng chỉ hơi chuyển mình thân pháp lanh lẹ dị thường đã tránh luôn được hai thế, còn thế thứ ba Phượng Cô đâm luôn vào mặt chàng. Trùng Dương dùng luôn chiếc Phượng Thoa điểm ngay vào thanh kiếm Tôn Phượng Cô giật mình sợ hãi vì chiếc Kim Thoa họ Vương vừa điểm vào Phượng Cô tưởng như búa lớn ngàn cân đánh tới, hổ khẩu tê buốt, toàn thân rúng động, không sao giữ nổi thanh gươm nữa đành buông rơi xuống khoang thuyền đánh “Choang” một tiếng.
Vương Trùng Dương cười ha hả :
- Cô bé ơi! Cô bảo đấu với tôi đến ba trăm hiệp mà mới đến ba hiệp đã rớt gươm thôi hãy quỳ nhận ta làm thầy đi thôị
Phượng Cô giận đỏ mặt, tức giận tràn hông, nét ngài dựng ngược, mắt phụng tròn xoe, chẳng nói chẳng rằng, cúi xuống nhặt gươm, rồi bất thình lình dùng thế “Độc Long Xuất Động” lao vút thanh gươm vào giữa ngực họ Vương và hét lớn :
- Tiểu tử, mi dùng bàng môn tả đạo chứ không phải là võ công chân chính, nếu bản cô nương này bị thua một cách đường hoàng sẽ quỳ xuống gọi ngươi là sư phụ.
Vương Trùng Dương thối lui lại một bộ tránh thoát lưỡi kiếm, đoạn cười nói :
- Cô nương cho thế nào là bàng môn tả đạỏ Thế nào là thủ đoạn chân chính? Mà thế nào cô bị thua mới chịu phục nhận ta làm sư phụ, phải nói rõ ràng mới được.
Tôn Phượng Cô bị Vương Trùng Dương hỏi dồn một hơi chẳng biết trả lời thế nào lúng túng nói :
- Mi dùng thủ đoạn không đàng hoàng là vì... là vì mi đã giật chiếc thoa cài đầu và... làm rớt gươm của ta, nói cho rõ là mi không đàng hoàng, không dùng gươm mà đấu với tạ
Tôn Phượng Cô nói như thế Vương Trùng Dương bật cười khanh khách một hồi dài, Tôn Phượng Cô càng thêm tức giận quát to :
- Chẳng hay vì sao mi lại cười như vậỷ Mi không dám đấu kiếm với ta chăng?
Vương Trùng Dương cười dứt tiếng mới trả lời :
- Tại hạ tự nghĩ cô nương là một Bang chủ, điều khiển mấy ngàn hải đảo, làm bá chủ trên mặt biển, võ công ắt phải siêu quần bạt chúng, nào ngờ đâu bản lãnh chẳng khác chi con nít, chiếc Kim Thoa cài trên tóc ta lấy mất cũng không giữ nổi, dùng kiếm đấu với Kim Thoa cũng còn chưa được, huống hồ lại đấu gươm với ta thực là không có kiến thức, chẳng tự xét mình biết người, chẳng đáng tức cười lấm saỏ
Tôn Phượng Cô cả giận hét lớn :
- Nói bậy, ta từ khi ngang dọc trên biển cả chưa một ai buông lời miệt thị, nay mi dám coi ta như con nít, thật là mi đã tới số, thôi mau mau tìm lấy thanh gươm cùng ta đàng hoàng giao đấu để phân tài cao thấp chớ có nhiều lờị
Vương Trùng Dương lại nói :
- Một người võ nghệ cao cường đâu có phải dùng gươm mới được, tay không binh khí cũng có thể vào chỗ trăm quân lấy binh khí của địch nhân. Nay đấu với người tài nghệ cỡ cô nương tại hạ không phách chớ với hai bàn tay không, chỉ trong ba hiệp tại hạ có thể cướp lấy thanh gươm của cô nương như lấy đồ chơi trong túị
Phượng Cô lại như lửa cháy lại đổ dầu vào thêm, tức giận xung thiên cười nhạt một tiếng và nói :
- Năng thuyết bất năng hành, nhà ngươi chỉ được cái ngoa ngôn, có giỏi hãy đấu với ta đị
Vương Trùng Dương cả cười giơ tay nói :
- Khoan đã cô nương, đánh lúc nào đánh chẳng xong, để cho tại hạ nói hết đã, nóng giận làm gì? Cô nương là một lãnh tụ, nếu tại hạ dùng tay không mà đối địch với cô chẳng hóa ra làm cho cô mất mặt với tất cả mọi người trên chốn giang hồ, bởi thế tại hạ mượn cây Kim Thoa để chống lại thanh gươm báu của cô là không muốn để cô mang tiếng với thiên hạ mà cô lại gọi là bàng môn tả đạo như thế có phải cô nương không biết phục thiện, không bằng đứa con nít hay saỏ
Phượng Cô vừa xấu hổ vừa tức giận, nhưng cũng thầm khâm phục Vương Trùng Dương nên đấu dịu :
- Thôi cũng được, ngươi dùng Kim Thoa cũng kể như lưỡi dao găm. Hồi nãy ngươi đánh rớt kiếm của ta cầm tay đó chỉ là thế “Đại Hư Thiên Cân chưởng” và “Hỗn Nguyên nhất khí công” chỉ là chưởng pháp không gọi là kiếm pháp, nên ta yêu cầu ngươi hãy dùng kiếm pháp sử dụng vào Kim Thoa mà đánh bại ta thì ta mới chịu phục.
Vương Trùng Dương bèn nói :
- Tại hạ tưởng cô yêu cầu điều gì chứ như thế có gì đâu mà gọi là khó, cô nương cứ việc xuất thủ tại hạ xin nghênh tiếp Tôn Phượng Cô vung kiếm nói :
- Được lắm, tiện thiếp sử dụng “Ngọc Nữ kiếm pháp” xin túc hạ lưu tâm.
Vương Trùng Dương cũng nói :
- Tại hạ cũng dùng “Ngọc Nữ kiếm pháp” xin cô nương cẩn thận.
Phượng Cô tức thì bước lên một bước, đảo tít thanh gươm dùng thế “Thừa Long Dẫn Phượng” bất ngờ đâm vút vào ngực họ Vương, ngờ đâu Vương Trùng Dương cũng sử thế “Thừa Long Dẫn Phượng” đối phó lạị
Tôn Phượng Cô nghĩ thầm trong bụng, chiếc thoa vàng sao chống nổi thanh kiếm báu, nhưng chẳng ngờ kiếm của nàng chém mạnh vào chiếc Kim Thoa bỗng tự nhiên thấy cây Kim Thoa có một sức hút ghê hồn, chẳng khác chi đá nam châm hút sắt, giữ chặt thanh kiếm nàng lạị
Tôn Phượng Cô thất kinh hồn vía, cố hết sức lấy tay kéo ra nhưng kéo sao nổị Nàng đã vận dụng hết công phu, đỏ mặt tía tai mà thanh kiếm cứ giữ chặt lấy Kim Thoa không hề nhúc nhích.
Vương Trùng Dương tay cầm Kim Thoa quay một vòng trên không khí, Tôn Phượng Cô thấy hổ khẩu tê nhức, chịu không nổi đành buông tay kiếm ra, nhảy vụt lại phía saụ Vương Trùng Dương đưa tay trái ra đỡ lấy kiếm của Phượng Cô rồi cất tiếng cười ha hả :
- Lần này chắc cô nương không còn chê vào đâu được nữa, thôi cứ cúi đầu làm lễ bái sư, từ nay hãy gọi ta là sư phụ.
Tất cả hải tặc đều vỗ tay ầm ầm khen ngợi lấn át cả tiếng sóng biển. Tôn cô nương thẹn quá hóa giận vẫn ngang ngạnh hét lớn :
- Không phải! Thiếp vẫn chưa chịu phục, lần này túc hạ cũng dùng nội công thắng thiếp chứ không phải là kiếm pháp.
Vương Trùng Dương thấy Phượng Cô vẫn gân cổ cố cãi, tính tình thật bướng bỉnh, không biết phục thiện không nín cười được, lại bật tiếng cười to hơn trước :
- Cô nương vẫn chưa chịu phục thiện, hay làm làm bộ ngây thơ để che đi cái kém cỏi của mình, cô nói chỉ dùng nội công mà không dùng tới kiếm pháp chăng? Cô nương nhầm to rồi, tại hạ thử hỏi, có môn kiếm pháp nào lại không dùng đến nội công hay không? Mà hồi nãy tại hạ cũng sử chữ “Quyết” trong “Ngọc Nữ kiếm pháp”, hồi xưa khi sư phụ cô dạy bộ kiếm này chưa dạy đến môn đó chăng?
Phượng Cô ráng gân cổ, cố cãi :
- Cái gì mà Hút với Trơn, thôi hãy trả kiếm cho ta, giao đấu lại một lần nữa, nếu túc hạ thắng thiếp lần này thì thiếp xin chịu thuạ
Họ Vương mỉm cười trả lời :
- Được lắm, cô nương hãy ráng giữ lời hứa, gươm đâỵ
Vừa nói Trùng Dương liệng thanh gươm nhằm ngay Phượng Cô bay tới, chỉ thấy một luồng bạch quang bay tới sức mạnh thần tốc Phượng Cô giật mình sợ hãi chẳng dám giơ tay ra bắt, vội tránh sang một bên, cây gươm bay thẳng vào cột buồm, cây cột buồm đường kính tròn bằng miệng bát, làm bằng một thứ gỗ chai rất rắn mà bị xuyên qua ngập gần phân nửa, cán gươm rung rinh một lúc mới đứng yên.
Mọi người đều lắc đầu lè lưỡi vỗ tay khen ngợi vang rền. Tôn Phương Cô cũng nghĩ thầm trong bụng :
- Thật là ghê gớm, tài ném phi đao của ta cũng không cắm sâu được vào như thế.
Đoạn Phượng Cô nhảy lui lại cột buồm, rút thanh gươm ra và dùng thế “Kim Kê Tước Cốc” đâm dứ vào mắt họ Vương rồi bất ngờ đảo lộn gươm dùng thế “Kim Giao Quyền Trụ” chém vụt xuống ống quyển chàng Vương Trùng Dương mắt sáng như sao toàn thân bất động, chàng thừa biết thế đầu chỉ là thế hư thế sau mới là thật nên họ Vương đợi cho nàng chém vút vào đôi chân mới cất mình nhảy vọt qua khiến Phượng Cô chém hụt, đồng thời chàng dùng chiếc Kim Thoa nhằm mạch môn Phượng Cô điểm tới, đó cũng là họ Vương sử thế “Kim Giao Quyền Trụ” của Phượng Cô nhưng vì chiếc Kim Thoa quá ngắn nên chỉ nhằm vào huyệt đạo đối phương mà điểm.
Tôn Phượng Cô nhảy lui về phía sau một bước để tránh, thì đã thấy Vương Trùng Dương nhảy vọt tới trước mặt cũng dùng thế “Kim Kê Tước Cốc” nhanh như chớp đâm ngay vào mắt của nàng, so với thế võ Phượng Cô vừa dùng cao siêu gấp bộị
Tôn Phượng Cô muốn thoái lui về sau nhưng không kịp, nàng thất kinh chẳng còn hồn vía gì cả, đinh minh trong bụng phen này chắc đui đôi mắt, bản tâm Vương Trùng Dương không muốn hại nàng mà chỉ muốn dọa cho mà sợ, nên chỉ đâm nhẹ vào mí mắt.
Phượng Cô yên trí phen này chắc bị móc mắt, nhờ đâu chỉ thấy địch nhân điểm nhẹ, mí mắt hơi ngứa, nước mắt chảy xuống như mưa, tiếp theo đó cây gươm trong tay lại bị Vương Trùng Dương đoạt lấy, chàng liệng xuống khoang thuyền, vừa cười vừa nói :
- Lần này là lần thứ ba rồi, chẳng hay cô nương có cần đấu lần thứ tư nữa hay thôi Lúc này Phượng Cô mới thật lòng kính phục, nàng tự biết võ công của mình so với họ Vương một trời một vực, nếu đối phương không có lòng nhân đạo thì mình không chết cũng mù rồi, đâu còn được nguyên vẹn như thế này nữạ
Tôn Phượng Cô tuy tánh nết kiên cường, trong bao nhiêu năm ngang dọc trên mặt biển, chỉ trừ sư phụ nàng chưa bao giờ khiếp phục một ai nhưng nay thấy họ Vương không những bản lãnh cao cường, mà lại có lòng nhân đạo, thốt nhiên có lòng kính phục bèn sụp ngay xuống khoang thuyền, hướng về phía Vương Trùng Dương lạy luôn mấy lạy và nói :
- Thưa lão tiền bối, tiện thiếp hết lòng kính phục võ công của lão tiền bối, mong tiền bối chấp nhận tiện thiếp làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương thấy Phượng Cô thật tâm khuất phục thì cười ha hả, trả lại cây Kim Thoa cầm trong tay cho Phượng Cô rồi nghiêm nét mặt nói :
- Về võ thuật man mác như rừng không biết đâu là bờ bến, thiên ngoại hữu thiên, nhân thượng hữu nhân, võ thuật của tại hạ đối với giới võ lâm hãy còn thua xa lắm, nào đã có gì, còn biết bao người bản lãnh hơn tôi, so sánh, thật như là hạt cát trên sa mạc, nếu cô nương thật lòng muốn tôi thu làm đồ đệ thì cô nương nên cải tà quy chánh, làm những việc lương thiện, vì dân trừ bạo để lại danh thơm muôn thưở chứ cô vẫn theo làm cường đạo trên mặt biển thì tại hạ chẳng dám thâu nhận.
Vương Trùng Dương còn muốn nói nữa thì Tôn Phượng Cô đã đỡ lời :
- Thưa lão tiền bối, việc này không thể nhất đán bỏ được ngay, xin tiền bối hãy tới tiểu trại để tiện nữ bàn lại việc.
Vừa nói dứt lời, Phượng Cô đã quỳ sụp xuống lạy ba lạy mà kêu làm sư phụ rồi nàng lại quay ra nói với tất cả những tên hải đạo rằng :
- Ta đã kính phục lão anh hùng và đồng thời nhận làm sư phụ, vậy ta hạ lệnh cho tất cả phải quay ngược trở về hướng dẫn lão sư phụ tới nơi sào huyệt.
Tất cả mọi người đều hoan hô, hò reo ầm ĩ vang dội cả lên, đồng thời gọi mau dương cột buồm hướng về phía Đông- Nam rong ruổi Tôn Phượng Cô nhảy sang chiếc thuyền của Đinh Nhị Mao, lúc đầu ba cha con Đinh Nhị Mao núp cả xuống dưới đáy thuyền, chẳng người nào dám ngó lên, sau nghe những tiếng khen ngợi của bọn hải đạo vang rền, nóng ruột rủ nhau chui lên khoang thuyền ngó mắt ra coi, sau thấy Vương Trùng Dương ba lần trêu ghẹo Phượng Cô đối với nữ đại vương như con nít.
Lúc bấy giờ cha con họ Đinh mới biết Vương Trùng Dương là một dị nhân, võ công trác tuyệt, một mình có thể đối phó với hàng ngàn kẻ địch, cho đến lúc Tôn Phượng Cô sụp lạy và nhận làm sư phụ, lúc đấy Đinh Nhị Mao mới hết sức khâm phục và yên tâm vô cùng không còn do dự, cũng nhổ neo căng buồm theo đoàn thuyền hải đạo nhắm sào huyệt bọn chúng mà đi tớị
Vương Trùng Dương lúc đó biết rằng sào huyệt của “Hắc Phượng bang” ở trong một đảo nhỏ trong quần đảo Thừa San, tên là Kim Ngao đảo, ở đây có nhiều đá ngầm và luồng nước chảy mạnh thật là hiểm yếu thiên nhiên tạo hóa dành chọ
Những chiếc thuyền đi lại trên biển tuyệt nhiên không dám bén mảng tới gần, Tôn Phượng Cô chọn chỗ này làm sào huyệt thật là vô cùng kín đáo Thuận buồm xuôi gió, thuyền chạy như bay, chưa đầy nửa ngày ở trên mặt biển đã thấy xuất hiện rất nhiều đảo nhỏ như ngôi sao trên mặt biển. Đoàn thuyền đi đến đây lập tức bắn lên trời một cái hỏa tiễn Yên Hoa, Vương Trùng Dương đôi mắt tinh nhuệ, trông thấy mấy ngọn núi nổi lên trong đảo liên lạc với nhau thì chàng thầm nghĩ :
- Chắc đây là quần đảo Thừa San?
Quả nhiên từ lúc đó đoàn thuyền đi vào giữa đảo, quay tay mặt quẹo tay trái như đi vào Bát trận đồ. Trải qua chừng hai tiếng đồng hồ, trước mặt hiện ra một hòn cô đảo Hòn cô đảo này đầu rộng đuôi dài, như con cá ngao khổng lồ. Vương Trùng Dương đứng ở trên boong biết rằng đây là đảo Kim Ngao, ở trong giữa đảo lại thấy những hàng rào dây liên tiếp, cờ bay phấp phới, ven đảo lại có rất nhiều nhà xây cất có ngăn nắp trật tự, chung quanh được bao bọc bởi những hào lũy rất kiên cố.
Vương Trùng Dương thấy sự bố trí cẩn mật ở trên đảo thì biết rằng bao nhiêu công phu tâm huyết của Phượng Cô đã bỏ vào đây bèn nghĩ rằng :
- Cô thiếu nữ này còn trẻ mà đã dựng lên sự nghiệp lớn lao quy mô như vậy, tuy là phường đạo tặc nhưng quả là người có tàị
Trong khi đó Tôn Phượng Cô đã trở về thuyền chỉ huy của mình, hạ lệnh cho mười chiếc thuyền bày theo hàng từ từ đi vào đảo Kim Ngaọ
Từ trong chiếc tàu chỉ huy bỗng thấy bay vụt lên mấy con chim bồ câu bay thẳng về trong đảo, khi chiếc thuyền vừa ghé tới bến đã thấy rất nhiều người ra đón rước, tiếng hoan hô vang rền, Phượng Cô dẫn Vương Trùng Dương vào Đại trại và tới Trung Nghĩa Đường, ở nơi đây đã thấy mười tám người quần áo chỉnh tề, gươm đao sáng ngời đứng thành hàng lối, còn mười tám người nữa đứng hộ vệ xung quanh, một chàng đại hán ước chừng ba mươi tuổi, heo mi trổ mục, lưng hùm vai gấu, nét mặt hung dữ, dưới cằm nhẫn thín chẳng có một sợi râu nào, mặc áo chẽn màu hường.
Đại hán trông thấy Vương Trùng Dương có vẻ một thư sinh, cử chỉ nho nhã lấy làm ngạc nhiên, lúc đó Phượng Cô đã đi trước và tiến lên hai bước giới thiệu :
- Tiên sinh đây là Vương Trùng Dương, còn vị này là phó lãnh tụ của Hắc Phượng bang họ Đàm tên là Thiên Thoại, ngoại hiệu “Phiêu Hải Long”.
Tôn Phượng Cô lại nói với vị phó lãnh tụ họ Đàm rằng :
- Đàm nhị ca, Vương tôn ông đây võ nghệ rất cao cường, hồi nãy tiểu muội đã bái làm sư phụ và cũng đã được Vương sư phụ thu làm đồ đệ rồị
Đàm Thiên Thoại hơi cau đôi lông mày lại, có vẻ không hài lòng, nhưng vẫn gượng cười nói :
- Tôi cũng đã được anh em thông báo đầu đuôi tự sự và hết thảy đều ca ngợi võ công của Vương tôn ông đây rất cao cường, tại hạ hết lòng khâm phục, nay được gặp mặt thật là vạn hạnh.
Nói xong, Đàm Thiên Thoại đưa tay ra nắm lấy tay Vương Trùng Dương để tỏ lòng thân thiện. Khi họ Đàm nắm được bàn tay phải của Vương Trùng Dương rồi, thì chàng ta ngầm vận hết khí lực ra bàn tay rồi bóp thật mạnh, chàng đã cố tình sử dụng Thiết Sa chưởng công, trong khi đó thì trong lòng của họ Đàm lại tự nghĩ bậy rằng :
- Người này có vẻ nho nhã thư sinh, nếu có võ công thì cũng chẳng lấy gì làm cao lắm, chắc Tôn Phượng Cô thấy chàng ta khôi ngô tuấn tú muốn mang về để vầy duyên cầm sắt.
Mấy năm trời nay gần Phượng Cô, Đàm Thiên Thoại tuy là phó Hắc Phượng bang nhưng đã đem lòng thầm yêu trộm nhớ Phượng Cô, chỉ ước ao cùng nàng nên duyên Tần Tấn. Chàng đã xây đắp biết bao mộng đẹp với nàng, nhưng chàng thấy Tôn Phượng Cô tính tình kiêu ngạo, hình như chẳng coi chàng ra gì cả và có thể đối với chàng chẳng có chút gì tính luyến áị
Đến nay thấy nàng dẫn Vương Trùng Dương về và giới thiệu như thế tự dưng đem lòng ghen ghét, muốn dùng Thiết Sa Chưởng khiếp nhục chàng và làm mất mặt Phượng Cô cho bõ ghét nên Đàm Thiên Thoại dùng tận lực bình sinh hết sức bóp mạnh.
Ngờ đâu chàng ta vừa bóp vào tay họ Vương bỗng thấy bàn tay đau nhức, thoạt tiên họ Đàm bắt tay Vương Trùng Dương, thấy bàn tay Vương Trùng Dương mềm nhũn như bông gòn và hình như dính chặt vào nhau, rồi chàng thấy bàn tay đau như dần thì không còn hồn vía vội vàng muốn rút tay về, nhưng lạ thay dù chàng đã dùng hết sức cũng không sao rút bàn tay ra khỏi bàn tay của Vương Trùng Dương.
Lúc đó mới thấy họ Vương cất tiếng cười ha hả nói :
- Cám ơn Phó bang chủ đã nhọc lòng đón tiếp, chúng ta vào trong sảnh đàm đạo với nhau cho vuị
Vừa nói chàng vừa nắm tay Phiêu Hải Long dắt vào trong sảnh, mỗi bước đi của Vương Trùng Dương lại khiến họ Đàm vô cùng khổ sở.
Bàn tay của Vương Trùng Dương lạ lắm, hình như có một sức nóng ghê gớm từ trong lòng bàn tay phát ra khiến cho bàn tay của Đàm Thiên Thoại như nắm phải hòn than nóng giãy, muốn rút tay nhưng không tài nào rút được, mồ hôi trong người toát ra như tắm, ngón tay chàng ta nhức buốt vô cùng, nhưng họ Đàm vẫn cố nghiến chặt hai hàm răng để không phát ra tiếng kêụ
Bỗng đâu bàn tay của Vương Trùng Dương lại đổi sang lạnh giá như băng, bàn tay họ Đàm đang nóng như nắm phải hòn than, nay lại như cầm vào nắm tuyết, khí lạnh ấy truyền đi khắp cả châu thân, bàn tay rét buốt như mạch máu ngừng lại không lưu thông nữạ
Đàm Thiên Thoại rùng mình, biết đã trúng kế của đối thủ và gặp một đối phương võ công trác tuyệt tới độ hết sức cao siêu nhưng đành nghiến răng chịu đựng mà không dám thốt ra tiếng nào Mặt chàng ta lúc thì đỏ rực, lúc thì tái mét, bọn hải đạo trông thấy rất lấy làm ngạc nhiên, trông mặt mũi Đàm Thiên Thoại luôn luôn biến đổi chẳng khỏi cười thầm trong bụng. Tôn Phượng Cô là người thông minh tinh tế nên đã hiểu rõ chỉ cười thầm trong bụng May thay Vương Trùng Dương chỉ kéo Phiêu Hải Long đi có hơn mười thước đến Trung Nghĩa đường, không làm khó chàng ta nữa, mà buông tay họ Đàm ra Lúc đấy, họ Đàm mới thấy bớt đau nhức, cúi xuống nhìn bàn tay chỉ thấy hơi sưng lên một chút chứ không bị thương gì cả mới thấy hơi yên tâm, nhưng trong lòng hết sức căm giận, ngồi tìm kế báo thù.
Tôn Phượng Cô mời Vương Trùng Dương ngồi ghế giữa trong khách sảnh đàm luận thân mật, bọn hải đạo đã bày một bữa tiệc để cho Phượng Cô khoản đãi thượng khách Đàm Thiên Thoại nghĩ được cách báo thù, cũng gượng cười ha hả nói chuyện cho vuị Đến món ăn thứ ba là món thịt heo quay, Đàm Thiên Thoại bõng rút ra từ trong người một con dao găm cắt một miếng thịt mang đến mời Vương Trùng Dương, họ Đàm đưa miếng thịt đó tới trước mặt Vương Trùng Dương và nói :
- Không mấy khi Vương tôn ông giá lâm khiến cho hải đảo chúng tôi lấy làm hân hạnh vinh quang vô cùng, tại hạ xin thay mặt tất cả anh em dâng miếng thịt này để tỏ lòng hâm mộ của chúng tôi, lối đãi khách này thuộc vào đời nhà Tống.
Qui củ của bọn lục lâm là mới quen lần thứ nhất thì Trại chủ nhất định phải dâng món ăn, mà lối dâng món ăn này cũng rất đặc biệt không phải là dùng đũa mà gắp, mà phải dùng thanh gươm ngắn hay dao găm đâm vào miếng thịt rồi dâng lên cho khách gọi là kính món ăn, mà kính món ăn cũng chia ra làm hai loại, một là thiện kính, cầm ngang sống cây dao, lưỡi dao hướng ra ngoài người khách có thể lấy răng cắn miếng thịt một cách dễ dàng, hai là ác kính lưỡi dao hay gươm sẽ xiên qua miếng thịt mũi gươm đó có thể đâm vào lỗ mũi hay đâm vào xuống họng của khách. Biết thế nào mà lường trước cho được, đây là cách thử bản lãnh của người khách xem võ công có cao hay không để đối phó. Tôn Phượng Cô là Trại chủ lẽ ra kính món ăn phải chính do nàng chấp hành nhưng Đàm Thiên Thoại lại tự thay thế nàng mà dùng lối “Ác kính”, Phượng Cô thấy thế vội quát :
- Đàm lão nhị không thể làm như thế được, Vương tôn ông không phải là khách bình thường, không nên làm mất sự lễ độ Vương Trùng Dương cười ha hả nói :
- Không sao, Phó trại chủ đã có lòng đãi khách tại hạ từ chối sao được?
Vừa nói dứt lời, chàng há miệng ra để đợi ăn miếng thịt heo găm ở mũi dao đó, Đàm Thiên Thoại lập tức đưa hẳn miếng thịt vào miệng Vương Trùng Dương còn mũi dao lại cắm xuống cuống họng của chàng mà đâm tới một nhát rất mạnh.
Ngờ đâu Vương Trùng Dương còn ra tay nhanh hơn, chiếc đũa của chàng nhanh như chớp, từ dưới lên trên điểm ngay vào Bát Lý huyệt của họ Đàm, Phiêu Hải Long bỗng thấy tay bị tê buốt không thể dùng sức được, Vương Trùng Dương đã cắn được miếng thịt, nhai một cách ngon lành rồi mỉa cười :
- Cám ơn Phó trại chủ đã có lòng đãi khách.
Đồng thời tay trái phất nhẹ một cái vào vai Đàm Thiên Thoại giải huyệt cho chàng ta, Phiêu Hải Long thấy tay mình tê dại lại có thể hoạt động được như thường, chàng thấy bị hạ nhục trước mặt mọi người thì không gằn được cơn giận, đâm mạnh con dao xuống bàn rượu, ngập sâu chừng một tấc rồi quát to :
- Tại hạ thiện ý muốn kính món ăn cho vui, ngờ đâu mi lại dùng thủ đoạn không đàng hoàng điểm vào huyệt đạo của Nhị Thái Gia, nếu có phải là tay hảo hán mi hãy thử cùng ta vài trăm hiệp để phân tài cao thấp.
Nói dứt lời lập tức Đàm Thiên Thoại cởi áo ngoài ra để chuẩn bị giao đấu Tôn Phượng Cô thấy tình hình như vậy thì mắt phượng tròn xoe quát lớn :
- Đàm lão nhị, ta đã nói trước Vương tôn ông đây, ta nhận làm sư phụ vậy mà mi vẫn vô lễ không nể mặt ta saỏ
Đàm Thiên Thoại lửa ghen phần phật nổi lên như đốt xé cả can trường, chàng cười lên khanh khách, gay gắt nói :
- Tôn Trại chủ, đến nay Trại chủ đã có người sư phụ trẻ tuổi khôi ngô, thật là xứng đôi, đâu cần đến ta và các anh nữa... Có lẽ giờ đây chúng ta sẽ chia tay nhau để Trại chủ khỏi bận lòng.
Tôn Phượng Cô sượng sùng đỏ mặt, chẳng nói chẳng rằng, rút ngay kiếm nhằm Đàm Thiên Thoại đâm luôn một nhát, Vương Trùng Dương bỗng đưa hai ngón tay ra chụp lấy thanh kiếm của Phượng Cô và nói :
- Khoan! Không nên động thủ!
Tất cả bọn hải đạo giật mình kinh ngạc vì biết rằng thanh kiếm của Tôn Phượng Cô tuy không phải “Mạc Gia, Can Tượng” nhưng cũng là một thanh kiếm hết sức sắc bén, mà Vương Trùng Dương chỉ dùng hai ngón tay kẹp được thì quả là một tay bản lãnh rất cao cường nếu không đã bị lưỡi kiếm của Phượng Cô tiện đứt làm đôi rồị Vương Trùng Dương kiềm chế được thanh kiếm của Phượng Cô rồi chàng nghiêm sắc mặt nói :
- Cô không nên nóng nảy làm mất hòa khí trong trạị
Họ Vương lại quay ra nói với Đàm Thiên Thoại :
- Chắc túc hạ muốn thử tại hạ nên khi mới gặp ngoài Trung Nghĩa đường túc hạ dùng “Thiết Sa chưởng” mong khiếp phục và bóp nát tay ta, đồng thời mượn cách kính món ăn đãi khách định thử võ công của tại hạ hay saỏ
Đàm Thiên Thoại cất tiếng cười ha hả :
- Ta từ ngày giang hồ ngang dọc chưa hề khuất phục một ai, vừa rồi sơ ý bị tiên sinh dùng thủ đoạn lén lút không đàng hoàng thừa cơ điểm vào huyệt đạo ta không phục nên muốn cùng tiên sinh giao đấu vài ba trăm hiệp để phân rõ hơn thuạ
Vương Trùng Dương cũng cười nói :
- Cao nhân tất hữu cao nhân trị, từ xưa tới nay chỉ vì túc hạ chưa gặp địch thủ nên cố ý coi thường hạ mục nhân, nay Phó trại chủ muốn thử quyền cước hay binh khí.
Đàm Thiên Thoại nói :
- Hay lắm! Trước hết ta thử đấu binh khí xem saọ
Dứt lời họ Đàm quay lại bảo bọn lâu la :
- Hãy lấy binh khí của ta rạ
Bọn lâu la dạ vang, chỉ loáng một cái đã mang đôi Hổ đầu song câu làm bằng sắt ra, Song câu là một trong mười tám ban binh khí, đứng vào hàng thứ bảy rất khó luyện tập, người nào bản lãnh tầm thường không dám sử dụng. Vương Trùng Dương thấy họ Đàm sử môn khí giới này nhận thấy bản lãnh của Phó trại chủ cũng không phải là kẻ tầm thường Lúc đó Đàm Thiên Thoại lại nói :
- Nơi đây mười tám môn binh khí, môn nào cũng có, tiên sinh muốn sử dụng môn nào xin cho biết.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Hồi nãy, trên mặt biển tại hạ sử dụng cây Kim Thoa để giao đấu với chánh Trại chủ, chắc Phó trại chủ tài nghệ chưa thể so sánh với chánh Trại chủ được nên tại hạ khỏi dùng binh khí.
Nói xong Vương Trùng Dương đứng dậy, tay vẫn cầm ly rượu, kéo một cái ghế ra giữa khách sảnh ngồi ung dung trên ghế rồi nói :
- Tại hạ xin đưa ra một điều kiện, tại hạ vẫn ngồi trên ghế uống rượu, Phó trại chủ cứ tận lực mà giao đấu, và dùng Song câu như đối với địch nhân, nếu tôi bị thương coi như là thua, nếu túc hạ làm cho tôi rời khỏi chiếc ghế này cũng coi như tôi thua, mà nếu túc hạ đánh đổ được ly rượu hoặc làm cho tại hạ không uống được thì tại hạ cũng kể như thua, để như thế chắc thiên hạ chưa ai làm, túc hạ thử tài xem sao!
Thấy nói ngồi trên ghế đấu với kẻ khác đã là sự lạ trong thiên hạ, còn không rời khỏi ghế vừa đấu vừa uống rượu thì thật là thiên hạ vô song, toàn thể hải đạo trong trại thấy thế đều reo to :
- Nếu Vương tôn ông đấu cách đó thì thật là thần tiên hạ giới, đệ nhất danh giạ
Đàm Thiên Thoại thấy Vương Trùng Dương đưa ra điều kiện như vậy thật là cố khinh thường, coi chàng quá thấp liền nộ khí xung thiên quát lên một tiếng :
- Hãy ráng giữ mình!
Dứt lời họ Đàm múa tít đôi Hổ Đầu song câu nhảy vọt tới dùng thế Tiên nhân chỉ lộ đâm luôn vào trước ngực Vương Trùng Dương, tiếp theo hai móc chìm xuống dùng luôn thế Phúc Hải Phiên Giang chém luôn vào hạ và trung bộ của đối phương. Hai ngón này có thực lại có hư, nhanh như chớp bay vụt tới ngực của Vương Trùng Dương chẳng chút bối rối, chàng vẫn điềm nhiên ngồi yên trên ghế, tay trái ung dung đưa rượu lên miệng, khi đôi song câu của Đàm Thiên Thoại đâm sát tới ngực, chàng cũng chẳng buồn nhìn.
Lúc hai chiếc móc câu chìm xuống trung bộ, tay mặt họ Vương mới giơ lên trước ngực phất mạnh một cái, một luồng gió mãnh liệt thổi vào Đàm Thiên Thoại, Phiêu Hải Long giật mình vội vàng thu song câu nhảy về phía sau đến bảy tám bộ.
Họ Đàm nhầm tưởng Vương Trùng Dương dùng Bích Không chưởng hoặc Hỗn Nguyên Nhất Khí chưởng để đối phó với mình, miếng này có thể đứng cách xa đánh người nên vội nhảy vụt về sau tránh.
Ngờ đâu, chưởng phong của Vương Trùng Dương tuy phát ra ghê gớm nhưng có giới hạn, chỉ gần chạm tới người đã tản ngay đị Tuy như thế cũng khiến cho lảo đảo muốn ngã, Đàm Phó trại chủ nổi giận đùng đùng, vung tít song câu dùng thế “Phong Súy Ly Hoa” ở trên đâm vào cổ, ở dưới chém vào bụng nhanh như chớp.
Họ Vương vẫn cầm ly rượu uống từng ngụm nhỏ, người hơi né sang một bên, tay mặt đưa ra một chưởng. Chưởng phong lần này phát ra mạnh mẽ vô cùng, nó như một luồng gió lốc đưa rạ Đàm Thiên Thoại hoảng sợ vội lăn ngay xuống đất để tránh luồng chưởng phong, thế đó gọi là “Ngọa Địa Long”.
Tất cả mọi người cười ầm cả lên Đàm Thiên Thoại càng thêm tức giận quát to lên một tiếng đập chân xuống đất dùng thế “Cá Chép Vượt Đăng” đứng phắt ngay dậy vung đôi song câu dùng luôn hai thế, tiền một ngọn “Tả Sô Hữu Lận”, hậu một thế “Đả Mã Phân Sung” đâm vào hai ức và Thái Dương huyệt của Vương Trùng Dương.
Họ Vương vẫn ung dung không thèm tránh đỡ, tay trái vẫn đưa lên miệng uống, tay phải chỉ phất nhẹ một cái đôi song câu của Phó trại chủ hất văng ra ngoàị Trước sau Đàm Thiên Thoại đã tấn công năm lần mà không khiến cho Vương Trùng Dương nhúc nhích khỏi ghế chứ đừng nói đả thương được chàng Vương Trùng Dương cầm ly rượu cười ha hả nói :
- Lần này tại hạ muốn uống rượu lại vừa muốn ngâm thơ, nhưng tiếc thay tại hạ ngu dốt không sao sáng tác được nên tại hạ xin ngâm bài Tướng Công Tống Tửu của Lý Thái Bạch để liệt vị nghe chơị
Chàng nhấp một hớp rượu rồi giọng sang sảng ngâm rằng :
- Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi Đàm Thiên Thoại càng lúc càng thêm tức giận, lồng lộn như con thú dữ sử dụng bài “Trà gia câu pháp” vung tít đôi song câu, uy lực ghê gớm, song câu mang theo một luồng gió mạnh, dùng luôn ba thế, thế thứ nhất là “Kim Châu Thám Hải”, thế thứ hai là “Hạ Thủy Trảm Giao”, thế thứ ba là “Song Long Quyền Trụ” nhằm họ Vương đâm chém tới tấp như mưa, tiếng gió phát ra véo véo kinh ngườị
Vương Trùng Dương không hề bối rối, uống liền ba hớp rượu, dùng ba thế trong Thái Ất quyền chống lại, ngón sau cùng Trùng Dương dùng là tay mặt phát ra một chưởng khiến cho kẻ địch phải thối lui bảy tám bước.
Chàng lại ngâm tiếp câu thơ thứ hai Tiếng ngâm thơ vang lên và chàng lại hứng thú cất ly rượu uống một ngụm khà lên một tiếng, lấy tay áo quết qua mồm rồi cười khanh khách. Đàm Thiên quay mình lại dùng luôn thế “Đảo Đả Kim Chưởng” bước đến sau chiếc ghế, giơ đôi song câu đánh vào sau lưng Vương Trùng Dương, chàng đinh ninh họ Vương không thể nào tránh đỡ kịp, vì nếu không bị thương cũng phải nhảy ra khỏi ghế mới có thể tránh, nào ngờ Vương Trùng Dương không nhìn lại, lấy tay phất một cái, một luồng gió mãnh liệt nổi lên đã hất đôi song câu của họ Đàm vụt bay ra ngoàị Đàm Phó trại chủ cũng thối lui tới hơn một trượng Vương Trùng Dương uống một hớp rượu rồi cất tiếng tiếp :
- Nhân sinh đắc ý tụ tân hoan, Mạc sư kim bôi không đối nguyệt, thiên sinh ngã tai tất hữu dụng...
Họ Vương vừa ngâm thơ vừa sử Thái Ất quyền pháp và Hỗn Nguyên chưởng pháp để chống lại những ngón đón nguy hiểm của Đàm Thiên Thoại tấn công liên tiếp Thỉnh thoảng Trùng Dương mới tấn công lại khiến cho Phó trại chủ bị bật văng rạ
Đó chẳng qua là Vương Trùng Dương không có ý sát hại họ Đàm, mà chỉ đùa giỡn chơi, cho nên chàng vẫn ung dung uống rượu ngâm thơ, chỉ chống đõ những thế công của Đàm Thiên Thoạị Họ Đàm đã không tự biết sự yếu kém của mình và độ lượng khoan hồng của họ Vương lại còn tức giận lồng lộn hết sức sử dụng Trà Gia câu pháp để áp đảo Vương Trùng Dương, không ngờ, chàng cứ bị đánh bật văng ra như trái cầu, mồ hôi toát ra như tắm, hơi thở hồng hộc.
Trên ba mươi hiệp qua, Trùng Dương đã uống hết ly rượu và ngâm hết bài thơ Lúc đó chàng mới nhìn Đàm Thiên Thoại và quát to :
- Phó trại chủ! Từ nãy tới giờ chắc túc hạ biết tài nghệ ra sao rồi, sự hơn thua đã rõ, tại hạ mong Phó trại chủ cất song câu đi để giữ niềm hòa khí.
Đàm Thiên Thoại lúc đó phàn thì tức, phần thì xấu hổ với tất cả mọi người nên nộ khí xung thiên, khí tức mờ sao Bắc đẩu, nghe lời nói của họ Vương cho rằng chàng cố tình nhạo báng để hạ nhục y trước mặt Phượng Cô cho nên y chẳng xem xét lợi hại vung tít song câu nhằm đầu Vương Trùng Dương bổ xuống, thế mạnh như vũ bãọ
Họ Vương quát to lên một tiếng, vung hai tay dùng song chưởng đánh ra, đôi song câu của họ Đàm bật ra khỏi tay, bay lên nóc sảnh, hổ khẩu của Phó trại chủ rách toạc ra máu chảy ròng ròng, đồng thời Đàm Thiên Thoại thấy trên trán mình dường như có vật gì đánh trúng, mặt mày choáng váng ngã lăn ra đất.
Tôn Phượng Cô và quần đạo vỗ tay vang dậy, hoan nghinh Trùng Dương và hô to :
- Thế là Vương tôn ông đã thắng rồị
Đàm Thiên Thoại vùng phắt dậy, chạy lại trước mặt Vương Trùng Dương, mọi người đinh ninh họ Đàm tức giận và xấu hổ sẽ liều mạng với Trùng Dương, chẳng ngờ Phó trại chủ tới trước mặt Trùng Dương thì sụp ngay xuống lạy và nói rằng :
- Hồi trước tiểu sinh con ếch nằm trong đáy giếng, coi trời bằng vung nên không biết tài của sư phụ, đến nay tiểu sinh hết sức khâm phục tài nghệ của sư phụ, xin người hãy thâu nhận cho làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương cất tiếng cười ha hả :
- Được được nhà ngươi cứ đứng lên ta có vài điều muốn nóị
Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại vốn là người tính nết cường ngạnh, từ xưa tới nay vẫn tự phụ là không có đối thủ. Nay trong một ngày mà cả hai đều nhận Vương Trùng Dương sư phụ đủ biết tài nghệ họ Vương đến đâụ Hai người sau này trở thành hai đồ đệ đắc ý của Vương Trùng Dương trong Toàn Chân thất tử, một người sau đổi tên thành Thanh Tĩnh chân nhân Tôn Bất Nhị còn một người đổi tên thành Trường Chân tử Đàm Xử Đoan.
Vương Trùng Dương chờ họ Đàm đứng dậy rồi nói :
- Tại hạ chỉ là một kẻ tầm thường, lần này đến quí đảo được hai vị Trại chủ có lòng quí trọng muốn nhận làm sư phụ. Quả tình tuổi của tại hạ còn trẻ, đâu đã xứng đáng, huống chi hiện nay tại hạ còn sư phụ. chưa thỉnh thị đâu dám sao dám tự chuyện?
Tôn Đàm nhị vị Trại chủ giật mình nghĩ thầm :
- Võ công của họ Vương này, riêng ta chưa thấy có ai tài giỏi hơn, thật là thiên hạ vô song, mà chàng ta còn có sư phụ nữa thì võ công của ông ta không biết thế nào mà đoán được.
Vương Trùng Dương lại nói tiếp :
- Hơn nữa môn đồ của bản môn không được giết người cướp của làm điều thất đức. Hai vị lại là cầm đầu một toán hải đạo, lấy việc giết người cướp của làm thú, lấy việc đốt nhà phá xóm làm vui thì tại hạ không thể nào thâu nhận hai vị làm đồ đệ được.
Tôn Phượng Cô đỏ mặt khẽ nói :
- Bẩm Vương tôn ông, bản tâm của tiện thiếp không phải là phường đạo tặc, đâu phải mới sinh ra đã làm nghề trộm cướp đó, chẳng qua cũng chỉ vì bất đắc dĩ mà thôị
Vương Trùng Dương mỉm cười khoan khoái nói :
- Việc đã qua tại hạ chẳng nói làm chi, chỉ muốn hỏi cô nương một câu, từ xưa đến nay, những người làm nghề trộm cướp có được kết quả tốt đẹp hay không?
Tôn Phượng Cô tuy không học nhiều nhưng cũng hiểu sơ về việc ngày xưa, những đại đạo giang hồ nổi tiếng như Đạo Thạch, Trường Vạn đều nổi danh một thời, tới sau không ai có tương lai tốt đẹp.
Ngay chính bản thân nàng đã ngót mười năm một số hải đạo tung hoành trên mặt biển, ai nghe thấy cũng đều khiếp vía kinh oaị Tuy vậy vẫn thường bị quan binh tiễu trừ, còn nhiều nhóm thì nội bộ tranh chấp nồi da xáo thịt, rồi tự nhiên tan rã, và đâu có nhóm nào có thể trường cửu, nay Tôn Phượng Cô nghe Vương Trùng Dương nói như vậy không biết thế nào mà trả lờị
Họ Vương trờ vào bàn tiệc, xé một mảnh vải trên bàn vẽ lên trên đó ba cái đầu lâu người chồng gần nhau rồi ném thẳng cho Phượng Cô, bức tranh như một tấm giấy bị thổi bay tới trước mặt, Phượng Cô giơ tay ra đỡ lấy, mở ra xem nhìn kĩ ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
- Tiểu nữ hiểu ra rồi, ngụ ý của tiền bối nói rằng ba tháng nữa nếu tiện thiếp và Đàm nhị đệ thu xếp xong thủ hạ, giải tán nghề trộm cướp thì Vương tôn ông sẽ nhận chúng tôi làm đồ đệ.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Bức tranh này không phải ta nói riêng việc giải tán đảng cướp như thế đâu, các ngươi nên biết rằng đời người như giấc mộng, chớp mắt đã già nua, nào có khác chi bóng câu qua cửa sổ, cuộc phù thế đảo điên, chỉ có tu tâm học đạo mới có thể thoát khỏi cảnh trần thế đua chen. Tôn cô nương đã sớm tỉnh ngộ định ba tháng giải tán trộm đạo mà trở lại đường ngay, như thế cũng là khá lắm, nếu các ngươi đã nhất quyết thì ta cũng chẳng hẹp hòi gì, ta sẽ ở lại trên đảo mười ngày truyền thị nội công khẩu quyết chọ Ba năm nữa đến tỉnh Hà Nam núi Sùng Sơn vào hang Bách Cầm kiếm ta sẽ gặp.
Tôn Đàm hai người không sao cầm được sự vui mừng, đều sụp xuống lạy, tôn họ Vương lên làm sư phụ.
Sáng ngày hôm sau Tôn Phượng Cô lấy ra năm chục lạng đưa cho ba cha con Đinh Nhị Mao và truyền cho họ khởi hành sớm mà trở về Sơn Động. Ba cha con Đinh Nhị Mao vui mừng tuân lệnh, lạy từ Vương Trùng Dương và Tôn Đàm hai vị Trại chủ rồi cùng nhau xuống thuyền nhổ neo kéo buồm khởi hành đi ra biển.


Hồi 12

Cửa Hang Bách Cầm Giết Lũ Hung Tăng


Vương Trùng Dương ở lại hải đảo mười ngày truyền lại cách luyện công, vận khí của phái Toàn Chân cho hai ngườị
Tôn, Đàm cả hai đã có sẵn bản lĩnh công phu, nên sớm hiểu biết. Sau đó, Trùng Dương từ dã hai người để đi một vài nơi nữa, Tôn Phượng Cô nài nỉ Vương Trùng Dương ở lại thêm ít ngày, nhưng Vương Trùng Dương nhất quyết không nghe, nên làm tiệc tiễn hành rồi sai một bọn chèo chiếc thuyền lớn đua Vương Trùng Dương ra khơị
Tôn, Đàm nhị vị Trại chủ đưa tiễn họ Vương một quãng khá xạ Ba thầy trò gạt nước mắt từ giã nhaụ Tôn Phượng Cô và Đàm Hải Thoại trở lại hải trại còn Vương Trùng Dương thì nhắm Nam Đảo Thiên Sinh tiến phát.
Thuận buồm xuôi gió, chẳng bao lâu đã tới nơi, Trùng Dương bước lên bờ, thưởng cho bọn lâu la một số bạc, bọn thủy thủ cảm ơn rối rít, rồi trở thuyền về đảo Thừa San.
Vương Trùng Dương ở Nam Thông lên bờ, trước tiên đến Dương Châu, lại đi thuyền qua biển đến Giang Nam, dạo chơi khắp vùng Tô Thường, rồi mới đi chở về phía Bắc, nhằm nẻo núi Sùng Sơn đi tớị
Lần này chàng ra ngoài du lịch tới ba năm trời mới trở về núi Sùng Sơn, vào hang Bách Cầm để bái kiến sư phụ là Thanh Hư chân nhân, gặp được sư đệ là Chu Bá Thông.
Chàng vừa gặp mặt sư phụ, bỗng giật mình hoảng sợ, từ trước Thanh Hư chân nhân tuy đã già nhưng khí sắc vẫn hồng hào khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn hơn những người trai tráng, nhưng mới cách ba năm nay, chàng thấy khí sắc của sư phụ đã biến đổi hẳn, da dẻ hồng hào đã trở thành khô héo, cặp mắt tinh anh dường như mất thần, trở nên lờ đờ mệt mỏi, nét mặt dường như có một luồng hắc khí bao bọc chung quanh, đúng là một người có bệnh nặng. Trùng Dương cả sợ hỏi Chu Bá Thông :
- Chu đệ, mấy hôm nay sự phụ có được bình an không?
Chu Bá Thông trợn tròn đôi mắt trả lời :
- Sư phụ vẫn như thường, mấy ngày hôm nay sự phụ nhịn cơm để luyện công.
Thanh Hư chân nhân nói :
- Trùng Dương con đã về đấy ư, thật là tổ sư linh thiêng khiến cho con về kịp giờ, ta chẳng bao lâu nữa Vũ Hóa (Những người Cao tăng và Đạo sĩ khi đắc đạo qua đời thường gọi là Vũ Hóa), sư đệ con tuy đã gần ba mươi tuổi, nhưng tính tình hãy còn như con nít không thể làm nên việc chi vĩ đại cả, nên ta cố đợi con về để dặn dò vài việc hệ trọng.
Vương Trùng Dương thấy sư phụ nói sắp sửa từ trần, thì cả sợ vội hỏi :
- Thưa sự phụ, đồ đệ thấy thần sắc của sư phụ có sút kém nhưng chưa đến nỗi nào, có sao sư phụ lại nói như vậỷ
Thanh Hư chân nhân thở dài nói :
- Con không hiểu đó mà thôi, một người đã hiểu được huyền môn thượng nặng nội điển, có thể biết rõ mình sẽ chết vào hồi nàọ Ta biết mình ta, không sao sống nổi được một tháng, nhưng không kịp gặp mặt con, nên ta phải hao tổn không biết bao nhiêu nguyên thần, để kéo dài thêm mạng sống tới hai tháng trời để đợi chu kỳ con về đúng hẹn. Đến nay con đã về rồi, ta không còn phải cố kéo dài thêm làm gì nữa, ta có ba điều cần dặn lại, con cố thực hành cho kỳ được.
Vương Trùng Dương khấn đầu nói :
- Đệ tử hôm nay được nên người, cũng là do sự phụ dạy dỗ, đến nay dù cho sư phụ có bảo con nhảy vào lửa hay là xuống biển, con cũng không từ chốị
Thanh Hư chân nhân thấy Trùng Dương nói một cách thành khẩn như vậy thì gượng cười, nói :
- Hay lắm, ta nói cho con nghe điều thứ nhất. Sáng mai con hãy xuống tóc tức thì, đội mão Hoàng Quán làm đệ tử của đạo gia, phát huy võ học của phái Toàn Chân, dạy dỗ sư đệ của con là Chu Bá Thông, để nó được thành tài, đó là điều thứ nhất.
Vương Trùng Dương kính cẩn thưa :
- Đệ tử xin tuân theo lệnh của sư phụ.
Thanh Hư chân nhân lại nói :
- Điều thứ hai, sau khi ta chết rồi, đồ đệ có thể thu nhận môn đồ, nhưng chỉ có thể thu đến bảy người, thà ít còn hơn nhiều, nếu không phải người có căn bản có thể truyền thụ tuyệt kỹ công phu, nhất quyết con không được thâu nhận, nhưng dù thế nào đi chăng nữa cũng không quá bảy ngườị
Vương Trùng Dương nghĩ thầm trong bụng :
- Ta ở Yên Kinh đã thu Mã Ngọc và Khưu Phùng Xuân làm đồ đệ, ở Đông Hải đảo Kim Ngao lại thu Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại làm môn đồ, như thế trước nay ta đã thu nhận bốn người, nay chỉ có thể thâu thêm ba người nữạ
Ngẫm nghĩ như thế, họ Vương bèn cất tiếng hỏi :
- Thưa sụ phụ, tại sao sự phụ hạn định cho đồ đệ chỉ được thâu bảy người làm môn đồ là có ý nghĩa gì?
Thanh Hư ngoảnh lại nói với Bá Thông :
- Bá Thông, con hãy đến phòng ngủ của ta, mang cái rương màu đỏ ở dưới gầm giường cho tạ
Chu Bá Thông vâng lời đi ngay vào phòng ngủ của Thanh Hư chân nhân, không bao lâu chàng ta đã vác ra cái rương màu đỏ, vừa đi vừa phủi bụi đóng đầy trên mặt rương.
Thanh Hư chân nhân trông thấy cái rương thì có vẻ xúc động, lấy tay áo phủi một lần nữa, rồi mới mở rương rạ
Vương Trùng Dương chú ý nhìn vào trong thấy có một số sách vở đã lâu ngàỵ Thanh Hư chân nhân lấy một cuốn giấy tròn mở ra, họ Vương và Châu Bá Thông thấy sư phụ mở bức tranh ra không khỏi lấy làm ngạc nhiên, vì bức tranh ấy không phải là vẽ sơn thủy, thú vật hay phi cầm, mà vẽ một bầu trời giữa đêm thu, phía Bắc có bảy ngôi sao lớn, giữa ngôi sao lại có một đạo nhận đứng ở đấy, chỉ cao chừng năm tấc, nhưng nét vẽ rất thần tình, trông như người thật, Chu Bá Thông bỗng nhiên reo to :
- Thưa sư phụ, bức tranh này thật là đẹp đẽ, sao sư phụ không treo lên chơi, lại khóa để trong rương thật là phí quá.
Vương Trùng Dương thấy bảy ngôi sao này bày đặt rất khéo thì nghĩ ra vội hỏi :
- Thưa sư phụ, đây có phải là Bắc Đẩu Thất Tinh chăng?
Thanh Hư chân nhân cười nói :
- Con thật là thong minh, mới nhìn sơ mà đã hiểu liền, đúng đấy là Bắc Đẩu Thất Tinh, trên mỗi ngôi sao có một ngườị Đó cũng chính là nguyên nhân ta căn dặn con chỉ được thu nhận bảy người đồ đệ mà thôị
Tuy Thanh Hư chân nhân nói những câu này có vẻ hoang đường ly kỳ, nhưng thật ra Vương Trùng Dương không hổ là một người thông minh, nên chàng có vẻ hiểu ngay, nên lập tức đoán :
- Thưa sư phụ, bảy ngôi sao này có phải là một trận thế của bản phái võ học chăng?
Thanh Hư chân nhân cười nói :
- Phải đây, trận này tên là “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” con hãy nhìn cho kỹ, sẽ biết.
Vương Trùng Dương lưu tâm nhìn kỹ chỉ thấy bức tranh màu xanh thẫm, kẻ nhiều nét chữ màu đen, liên kết với những ngôi sao, như long sa du tẩu, tiến thối có trật tự, nhìn kỹ lại càng thấy phức tạp hơn.
Họ Vương cứ ngây người ra mà không thể nào hiểu được nữạ
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nói :
- Đồ đệ, con nên hiểu rõ, đây là một vị trí chiến pháp “Lục Hòa trận” của Tôn Tẩn vào thời chiến quốc, và là cả “Bát Trận Đồ” của Chư Cát Vũ Hầu đời Thục, Hán. Nói tóm lại cũng là một trận đồ nhưng chỉ khác nhau là họ dung thiên binh vạn mã, mà trái lại “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” của ta chỉ cần có bảy người theo vị trí Bắc Đẩu Thất Tinh ngồi xuống giao đấu với kẻ địch, tuy chỉ có bảy người nhưng uy lực vô cùng ghê gớm, để ta sẽ truyền thụ khẩu quyết “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” cho con trong vòng một tháng, nếu con tập luyện được thành thục có thể quảng đại bản pháị Bởi thế, cho nên ta hy vọng con thu bảy đồ đệ thông minh, trí tuệ để tập luyện “Thiên Cương Bắc Đẩu trận” đó là điều thứ hai con có chịu hoàn thành nó hay không?
Vương Trùng Dương trả lời không hề nghĩ ngợi :
- Đây là một việc trọng đại của Toàn Trân phái đâu dám chẳng tuân, xin sư phụ yên tâm, con xin hết sức ghi nhớ lời sư phụ dặn.
Thanh Hư chân nhân vui vẻ :
- Hay lắm, như thế thật không uổng công truyền dạy võ công của ta, còn điều thứ ba nữa thật là khó khăn và nguy hiểm, nếu con không cẩn thận, có thể xảy ra tai nạn chết người được.
Vương Trùng Dương giật mình hỏi lại :
- Thưa sự phụ chẳng hay việc chi mà ghê gớm đến như thế?
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt gọi Chu Bá Thông lại dặn rằng :
- Đồ đệ ra ngoài canh phòng cẩn thận, phải lưu ý đề phòng, cách xa trăm bộ không cho một kẻ lạ mặt nào được bén mảng tới đây nghe không.
Chu Bá Thông tuân theo lời sư phụ dặn, lập tức bước ra ngoài cửa hang canh gác.
Thanh Hư chân nhân lúc đó mới cầm một bức họa khác, nhưng không mở ra lại hỏi Vương Trùng Dương :
- Đồ đệ con đã lịch lãm trong giới giang hồ trên mười năm trời nay, con có nghe thấy ai nói tới một môn võ học kỳ bí tên là Cửu Âm chân kinh mất tích trên trăm năm nay, các phái Võ Lâm ở Trung Thổ hết sức tìm kiếm, nhưng chưa ai tìm gặp được nó, câu chuyện này con có biết không?
Vương Trùng Dương kính cẩn thưa :
- Thưa sự phụ, đệ tử đã từng nghe trong giới Võ Lâm thường nói tới “Cửu Âm chân kinh” là do Đông Tấn Cao, Văn Pháp Hiếm trước tác thu thập tinh nhuệ của thiên hạ võ học, hơn một ngàn năm đúc kết thành. Các vị cao thủ danh gia trong giới võ lâm vì tranh dành “Cửu Âm chân kinh” mà chém giết nhau, chết không biết bao nhiêu ngườị
Sau đó cuốn “Cửu Âm chân kinh” bị phái Không Động cướp được giữ hơn mười mấy năm trời, nhưng lại bị Côn Lôn Ngũ Lão đến cưỡng bách đòi cho mượn “Không Động tam tử” phải dùng hoãn binh chi kế lấy cuốn “Cửu Âm chân kinh”
giả ra trao cho ngũ lão, còn cuốn nguyên bản thì mang đến Trung Thổ ẩn tang, và từ đó thì cuốn “Cửu Âm chân kinh” bị thất lạc, đệ tử nghe nói như thế, không biết có phải chăng?
Thanh Hư chân nhân gật đầu nói :
- Con đã hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện về Cửu Âm chân kinh như thế thì hay lắm, vậy con hãy xem bức tranh này đâỵ
Nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân mở bức họa đồ ra, Vương Trùng Dương nhìn vào bức tranh, thấy một bức họa đồ vẽ một trái núi nguy nga hung vĩ, mây trắng bay lơ lửng trân sườn núi, những cây cổ thụ cành lá sum suê.
Họ Vương ngắm ngọn núi và những cây vẽ trong bức họa rất quen thuộc, hình như chàng đã qua nơi này một vài lần rồi, chàng cau mày suy nghĩ một lát thốt nhiên tươi hẳn nét mặt nói với Thanh Hư chân nhân :
- Thưa sự phụ, ngọn núi trong họa đồ này đồ đệ trông như trái núi Tây Nhạc Hoa Sơn ở Thiểm Tây co phải chăng?
Thanh Hư chân nhân cười :
- Đúng lắm, con thử xem trên ngọn núi có gì lạ không?
Vương Trùng Dương cầm bản họa đồ nhìn kỹ lại thấy phía dưới Hoa Sơn có một con suối chảy, nước trong veo, bên bờ có một lão trượng tay cầm cần câu, ngồi dưới gốc thông già, ở lưng chừng núi có một thiếu nữ đang múa kiếm, quần áo phất phới trông như người thật.
Ngoài hai người này ra không còn nhận vật nào khác nữa, lại nhìn phong cảnh trên bức tranh vẽ sơn vẫn không tĩnh, phong quang như thuận.
Vương Trùng Dương cứ ngẩn người ra mà thưởng thức, chàng chú ý nhìn kỹ từng ly một, thốt nhiên nói :
- Thưa sự phụ bức họa này có phải là nơi tàng ẩn bộ Cửu Âm chân kinh.
Thanh Hư chân nhân khen ngợi :
- Con thật thong minh, tương lai có thể phát huy Toàn Chân phái được lắm.
Ta nói cho con nghe bức họa này do chính tay danh họa Hải Vân Tử trong phái Không Động vẽ rạ Hải Vân Tử chính là người tìm ra cuốn Cửu Âm chân kinh là một nhân vật trọng yếu trong việc sao chép giả kinh để gạt Côn Lôn Ngũ Lãọ
Ông ta đã vãn niên quy ẩn ở Hoa Sơn, theo như truyền thuyết chính ông ta đã tàng ẩn cuốn Cửu Âm chân kinh. Đây con hãy lưu tâm nhìn cho kỹ trong cái trục của bức họa này còn có sự bí mật nữạ
Nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân xô cái trục bức họa về phía tay tráị
Thật là tinh xảo, mới trông cái trục bức tranh, người ta chỉ cho là một thứ gỗ quý, trông chẳng có gì khác lạ, nhưng khi Chân nhân xô cái trục một cái đã thấy có hai mảnh giấy văng ra, trên mảnh giấy chữ viết nhỏ li ti, nhưng nét bút thật thần kỳ, theo lối chữ của Nhan Lỗ Công.
Vương Trùng Dương cúi xuống đọc :
“Hạo hạo sầu, vong vong kiếp. Nhân cừu sinh tư, nguyệt hữu viên khuyết. Dư ư dức hữu tam niên hảo, kinh ẩn Hoa sơn chỉ dương ngũ, dương duy tật tự trị bất khỏi, nãi di chưởng tước sơn thạch, tha thành ngư hành. Thật chân kinh tại ngư phác đầu chi nội, tịnh thực Tùng thất lâm ư khê biên dĩ vi ký, lưu tăng hữu duyên tịnh lực tật như Hoa sơn họa đồ, khải thị hậu học, sử kỳ tha nhật đắc kinh, đương tri tiền nhân dụng tâm chi khổ, thủ kinh chi nan sở giới trường, thứ miễn dịch chân kinh vi ác giả”.


Hồi 13

Hải Vân Tử Để Bạt Tịnh Đồ


Vương Trùng Dương đọc xong mặt hơi biến sắc nói :
- Thưa sư phụ, té ra Cửu Âm chân kinh ẩn giấu trong bụng con cá trong sơn khê tại Hoa Sơn...
Chưa nói dứt câu, Thanh Hư chân nhân bỗng quát lớn :
- Tên nào cả gan, dám tới đây rình mò.
Vừa nói dứt lời, Thanh Hư chân nhân giơ tay nhắm hướng cửa sổ đánh ra một chưởng, tay vừa đưa ra, thốt nhiên ở ngoài cửa sổ năm trái tròn vừa xanh vừa trắng nhằm thẳng vào chân nhân phóng tới, sức mạnh vô cùng.
Sự việc xảy ra rất bất ngờ, Thanh Hư chân nhân cười gằn một tiếng rồi gồng khí công để chống đỡ.
Vương Trùng Dương tay trái cầm vững họa đồ, tay áo bên phải phất lên kịp thời dùng ngón Phi Tụ Lưu Vân phất rơi ngay mấy cái ám khí đó xuống đất, đến khi nhìn kỹ lại đó là năm trái “Thiết Tật Lê” lớn bằng quả đào, màu xanh chung quanh đầy gai mọc ngược.
Những trái Thiết Tật Lê ấy mỗi trái ít nhất nặng hai lạng. Trong giới giang hồ người xủ dụng được thứ ám khí nặng nề như vậy thật là hiếm có.
Vương Trùng Dương vừa phất rơi Thiết Lê vừa để tấm bản đồ xuống trước mặt sư phụ, rồi nhún mình dung thuật kinh công nhảy vọt xuyên qua cửa sổ ra ngoài nhanh như chớp.
Chàng vừa ra khỏi cửa thì thấy sư đệ là Chu Bá Thông nằm thẳng dưới đất cách căn phòng của sư phụ chừng ba trượng, còn cách xa mười mấy trượng lại có một tăng nhân đầu đội “Giương Giáo Mão” chạy nhanh như bay nhắm thẳng về hướng cửa hang Bách Cầm Vương Trùng Dương thoáng nhìn hình dáng Chu Bá Thông biết ngay bị người ta điểm huyệt. Chàng tự thấy mình cần phải bắt tên hung đồ vì bí mật của “Cửu Âm chân kinh” bị y nghe lóm được thật là nguy hiểm.
Vương Trùng Dương vận hết chân khí, triển khai thượng thặng kinh công quăng mình vọt đi nhanh như điện xẹt, chỉ thoáng một cái đã đuổi theo đến gần sau lưng của tăng nhân ấỵ
Vương Trùng Dương lúc đầu tưởng tăng nhân đó là người của Thiếu Lâm tự, nhưng khi đến gần nhìn kỹ thấy vị hòa thượng này da màu đồng cổ, trên mặt lại để râu quai nón, mặc bộ cà sa hình thức rất kỳ lạ, khác hẳn với các vị hòa thượng của Trung Thổ, Vương Trùng Dương vận khí đơn điền quát lớn :
- Tăng nhân hà phương đáo lai, cả gan lén vào hang Bách Cầm đả thương người, mau ngừng lại, nếu không chớ trách tại hạ vô lễ.
Quái hòa thượng ấy thấy Trùng Dương đuổi gần đến nơi, thốt nhiên ngừng lại, nhưng không hề ngoảnh lạị Trùng Dương phi than chồm tới, chàng thấy Quái hòa thượng đứng yên không nhúc nhích, cũng chẳng có vẻ gì chống cự, thì rất lấy làm lạ.
Họ Vương có vẻ cẩn thận không dung độc thủ, chỉ dung Kim Cương chỉ công, tả chưởng đưa ra dung ngón đòn “Dạ Sai Thám Hải” lấy hai ngón tay hướng ngay vào Phong Phủ huyệt ở sau vai của hòa thượng điểm tớị
Kim Cương chỉ công là một môn tuyệt kỹ của Toàn Chân phái, tuy không lợi hại bằng Nhất Dương chỉ, nhưng uy lực cũng rất ghê gớm, ngón tay đâm vào gỗ đá cũng phải thủng, dù kẻ địch có luyện tập “Thiết Bố Sam” hay “Kim Chung Chạo” nếu bị Kim Cương chỉ chạm một cái lập tức ngoại công bị phá tan.
Vương Trùng Dương dùng Nhất chỉ hướng bả vai nhằm huyệt đạo của hòa thượng điểm tới, nếu trúng, nhất định tay phải của hòa thượng bị trặc xuống.
Nào ngờ ngón tay của họ Vương vừa chạm vào vai đối phương thốt nhiên thấy thân thể hòa thượng như một trái khí cầu bơm đầy hơi huyệt đạo theo thớ thịt lẩn vào ngón tay của Vương Trùng Dương tuột xuống, thế là hoàn toàn giải được môn “Nhất Dương chỉ công” của Vương Trùng Dương thành ra vô hiệu quả.
Hòa thượng đột nhiên quay đầu lại, quắc mắt nhìn họ Vương, đôi nhỡn quang của hòa thượng long lanh sáng quắc, hòa thượng há miệng thổi một luồng lãnh khí trúng ngực của Trùng Dương.
Họ Vương thốt nhiên thấy người như bị điện giựt, chàng từ khi hạ sơn đến nay, đại phá Thiếu Lâm tự, dương uy ở Đại Lý Công, Yên Kinh kỹ phục quần hung, Đông Hải chấn phục khấu đạo, đến đâu thắng đó, toàn vô địch thủ, ngoài ra đánh nhau với Hoang Cổ ba chưởng ở trên hoang đảo tại Hoàng Hải, bất phân thắng phụ, có thể nói là chưa có địch thủ.
Ngờ đâu hôm nay trở về Sùng Sơn bái kiến sư phụ, giữa lúc diện thụ cơ mật, gặp một địch nhân quái dị như thế nàỵ
Y phun ra một luồng lãnh khí. Vương Trùng Dương thấy trong người choáng váng, thần trí bất thanh, muốn ngất xỉu đi, may sao nội công của họ Vương rất thâm hậu, nguyên khí kiên định, lập tức chàng nhảy vọt về phía sau đến bảy tám bộ, vận khí cho lưu chuyển khắp than châụ
Thần trí hồi tỉnh lại Trùng Dương nổi giận muốn nhảy tới lần thứ hai vẫn thấy Quái hòa thượng thân hình bất động, thân thể cứng ngắt hai tay bỏ thõng xuống, nét mặt lạnh lùng không khác gì một xác chết, đôi mắt lõm sâu phát ra một luồng thanh quang như lân hỏa, họ Vương trông thấy nét mặt ghê gớm của y bỗng giật mình quát to :
- Tên Quái tăng ba phần người bảy phần quỷ kia, mi dám tới đây nghe trộm câu chuyện Cửu Âm chân kinh mà mi tưởng lầm ta không biết lai lịch của mi hay sao, mi có phải là môn đồ của Vân Nam Trúc Sơn Ngũ Âm giáo chăng?
Nguyên khi, Vương Trùng Dương khi tới nước Nam Chiêu đã từng ở lại Điền Nam Miêu Cương mấy tháng, biết được một môn phái là “Ngũ Âm giáo” nên chàng cũng nói đại rạ
Chẳng ngờ, vị Quái tăng nọ giật mình kinh ngạc, họ Vương nhân dịp lúc Quái tăng phân thần, tức thì quát lên một tiếng phi thân tới múa quyền nhằm đỉnh đầu y đánh tới, ngón đòn này là một thế tuyệt kỹ trong bài Kim Cương quyền pháp, uy lực rất ghê gớm, chỉ nghe thấy đánh “bùng” một tiếng, tay quyền đã đánh trúng đỉnh đầu của Quái tăng, nhưng thật lạ lùng cái đầu của hòa thượng bỗng rụt xuống.
Vương Trùng Dương hết sức kinh ngạc chàng định thần nhìn kỹ, và vội rút tay quyền về, cái đầu của hòa thượng lại ở dưới cổ nhô lên cao, quái nhân hòa thượng cười to lên một tiếng, há miệng thổi ra một luồng lãnh khí nhắm người Vương Trùng Dương bay tớị
Lần này họ Vương đã cố ý đề phòng, nên nhảy vụt về phía tay trái, vung tay đánh ra một chưởng vào sau lưng của Quái tăng.
Vương Trùng Dương đã dùng “Hỗn Nguyên Kình Lực chưởng” uy lực thực là khủng khiếp, mạnh như sét đánh, khí lực ước có ngàn cân, Quái tăng bị đánh trúng chưởng này chẳng khác chi con diều đứt dây, văng xa đến ngoài hai trượng.
Quái tăng ngã lăn xuống đất mặt mày xanh lét, lực quang trong đôi mắt mất hẳn, nên hắn vội vã lăn đi một vòng, đập chân xuống đất dùng thế “Kim Lý Xuyên Ba” nhảy vọt lên cắm đầu phóng thẳng ra ngoài cửa hang, chạy trốn nhanh như bay, Vương Trùng Dương quát to :
- Ác tăng chạy đâu cho thoát.
Dứt lời họ Vương triển khai phi hành, dùng tuyệt kỹ kinh công, lẹ như chớp tùng mình đuổi theo, Quái tăng về thuật phi hành còn kém họ Vương rất nhiều nên chỉ thoáng một cái Trùng Dương đã đuổi tới nơị
Quái tăng biết mình không thể nào trốn thoát, thét lên một tiếng ma kêu quỷ hú nghe ghê rợn, quay phắt mình lại, giơ hai tay phóng luôn mấy cái ám khí nhanh như điện xẹt.
Vương Trùng Dương biết ám khí của địch phóng ra là Độc Tật Lê thứ ám khí hình tròn, có nhiều gai sắc bén ở đầu có tẩm những thứ độc dược, mình tuy nội công cao siêu, cũng không thể chống cự lại được, chàng lập tức phất tay áo dùng chưởng phong đánh ra và quát to :
- Nguyên bích phục hồi, ác tăng hãy tiếp lấỵ
Năm cái ám khí “Thiết Tật Lê” bị chưởng phong đụng mạnh bay ngược trở lại, đánh trúng vào thân thể của Quái tăng, hình như Quái tăng không có cảm xúc gì vẫn y như thường và đưa cái bàn tay to lớn nhằm Trùng Dương chộp tới, họ Vương vội vàng vung tay nhằm huyệt Minh Mạng ở sau lưng hòa thượng đánh tới, chỉ nghe thấy “Bịch” một tiếng, hòa thượng vẫn như thường.
Đánh trúng luôn mấy quyền mà Quái tăng cũng không hề hấn gì thì biết ngay là Quái hòa thượng đã luyện tập một thứ nhu công rất quái dị, thân thể mềm như bông, lại như cái khí cầu bơm đầy hơị
Tất cả các loại như “Điểm huyệt”, “Bắt Mạch Cầm Nã”, “Kim Cương chỉ”, “Ưng Trảo công”... nếu gặp loại nhu công này cũng trở nên vô dụng, chỉ có thể dùng “Lãng Công Mãnh Đả Trọng Thủ Pháp” mới có thể đả thương y được, một quyền vừa rồi của Vương Trùng Dương đánh đúng vào huyệt “Minh Mạng” của Quái tăng, lập tức hòa thượng thổ ra một búng máu, té ngửa xuống đất nằm yên không cựa quậy gì được nữạ
Họ Vương không ngờ quyền sau này lại có thể đả tử hòa thượng ấy, chàng cũng e dè hòa thượng giả tạo nên dùng chân đá tiếp luôn một ngọn vào thân hình của Quái tăng, khiến cho cái thây bắn ra xa ngoài hơn hai trượng.
Lúc ấy, thân thể của hòa thượng chẳng khác chi một đống thịt, nằm dí xuống đất bất động, Trùng Dương vội chạy tới sờ vào xác Quái tăng thấy lạnh ngắt.
Lúc đó, Vương Trùng Dương mới yên tâm là Quái tăng ấy đã chết, bèn kéo thây qua một bên rồi mới trở vào hang Bách Cầm.
Chàng trông thấy sự phụ là Thanh Hư chân nhân sắc diện biến đổi, ngồi bên cạnh Chu Bá Thông dùng “Nguyên Dương chân khí” của mình, vận động trên hai bàn tay đang giải cứu cho họ Chụ
Hồi lâu, Chu Bá Thông mới mở mắt rạ Thanh Hư chân nhân thấy Trùng Dương trở về thì cất tiếng hỏi :
- Đồ đệ con có đánh chết lão Quái tăng đó không, những yêu nghiệt của Ngũ Âm giáo chuyên môn hại người, nếu con gặp bọn chúng phải diệt trừ đi để trừ hại cho dân chúng không nên nương nhẹ với bọn chúng.
Vương Trùng Dương vội đáp :
- Thưa sư phụ, đệ tử đã đánh chết tên ma giáo đó rồị
- Con có bổ óc nó ra không?
Vương Trùng Dương ngạc nhiên hỏi :
- Thưa sự phụ tên yêu nghiệt đó đã chết còn phá óc nó ra làm gì?
Thanh Hư chân nhân thở dài một cái rồi than rằng :
- Thôi rồi, con đã nhầm rồi, tên yêu nghiệt đó chưa chết hẳn đâụ Nó chỉ giả chết mà thôị
Vương Trùng Dương lấy làm lạ hỏi rằng :
- Thưa sự phụ, chính con đã xem lại cẩn thận rõ ràng nó chết hẳn rồi, sao lại co sự kỳ lạ như thế.
Thanh Hư chân nhân nói :
- Con chưa biết rõ để ta kể lại cho mà nghẹ
Nói xong, Thanh Hư chân nhân bèn kể lại tất cả mọi việc kỳ lạ của Ngũ Âm giáo cho Vương Trùng Dương nghẹ
Về phía Tây tỉnh Vân Nam có một ngọn núi tên là Đại Trúc sơn, nó chỉ là nhánh của Cao Lệ Cống Sơn (tức Dã Nhân sơn) ngang qua một vùng Điền Việt núi sâu rừng rậm, ít người qua lạị
Đại Trúc sơn có một giống dân gọi là Đồng nhân. Trước kia, Đồng tộc ngụ tại Quảng Tây, đời nhà Tống vua Tống Nhân Tôn cử đại tướng Địch Thanh mang quân đi dẹp nước Man, giết được vua Nam Man là Nùng Chí Caọ
Những người Đồng Nhân đó trốn sang Vân Nam và cư trú tại đó, một phần thì lên núi Đại Trúc.
Họ có một thứ tà thuật gọi là Nhiếp Thanh Thuật, thứ tà thuật này rất là kỳ dị quái gở. Họ nằm trong mồ mả, hay quan tài người chết để luyện tập, nhờ có dị thuật này mà Đồng tộc có thể chống lại sự sự xâm lăng của các giống dân khác, nhờ đó dân tộc này mới không bị tiêu diệt.
Ngũ Âm giáo cũng phát sinh ở Đồng tộc mà rạ Thứ võ công của họ gọi là Âm Nhu công, người muốn luyên Nhu Công này phải nằm trong Cổ Mộ hay là cái hòm không của xác chết đã lâu, hút thâu thiên địa và âm chi khí luyện thành võ công, nếu công phu luyện tới đợt thứ nhất, có thể tự do rút cả đầu hoặc tứ chi vào trong thân thể, tránh được sự đả kích của đối phương, lại có thể khiến cho tất cả bộ phận của mình khi vận khí lên mềm nhũn như bông gòn.
Ngoài ra, còn có bài âm độc thủ pháp tấn công kẻ địch khiến cho kẻ địch bị hôn mê cũng như lúc nãy luồng lãnh khí của tên yêu đạo đó đã phun vào người Vương Trùng Dương tên là “Phụ thây khí”.
Người tầm thường bị y phun trúng, lập tức thấy thân thể giá lạnh, người hít phải lãnh khí đó ngất xỉu ngay lập tức, và bị khí lạnh làm cho tứ chi cứng lạị
Bởi thế cho nên Chu Bá Thông bị thứ “Phụ thây khí” phun nhằm ngất xỉụ
Còn họ Vương lẽ ra cũng không sao tránh thoát nhưng nhờ xưa kia Vương Trùng Dương ăn được Trùng Sâm. Thứ sâm này nó bổ phẩm Trùng Dương, bởi thế cho nên dương khí của Trùng Dương rất mạnh, nên không bị ám hạị
Quái hòa thượng đó thuộc loại Đồng tộc, không phải Hán tộc.
Y lén vào trong hang Bách Cầm, phun đảo Chu Bá Thông, và nghe được bí mật của Cửu Âm chân kinh, nhưng bị Thanh Hư chân nhân phát giác kịp thời và bị một chưởng cách ngang cửa sổ té lăn xuống đất.
Tiếp theo đó bị Trùng Dương đuổi theo, y biết không thể nào trốn được vì thuật kinh công của Vương Trùng Dương cao hơn y quá nhiềụ Bởi thế nên y mới giả chết để lừa gạt Trùng Dương.
Cách giả chết của Ngũ Âm giáo hết sức là khéo léo, chỉ cần vận Âm khí lên là toàn thân giá lạnh, không cần hô hấp nên không có hơi thở nữa, mà thân thể cũng cứng đơ như xác chết.
Thường thường các võ gia nội công tinh thục có ngưng thử cũng chỉ được độ mười hay hai mươi phút, nhưng riêng về phái Ngũ Âm giáo là họ có thể ngưng thở liên tiếp hàng mấy khắc đồng hồ.
Dù cho có chôn họ xuống đất họ cũng có thể bới đất mà chui lên được.
Những người biết rõ tà thuật của chúng chỉ có cách bổ đầu lấy óc của chúng nó ra thì nó không thể hồi dương được nữạ
Sau khi nghe Thanh Hư chân nhân nói rõ nguồn gốc của phái Ngũ Âm giáo, Vương Trùng Dương tỉnh ngộ, chàng vội vàng chuyển mình dùng thuật phi hành phóng nhanh như bay ra của hang Bách Cầm, quả nhiên xác chết của Quái tăng đã mất hẳn, dấu máu dưới đất vẫn còng và biến thành màu tím đen. Vương Trùng Dương dậm chân xuống đất mà than rằng :
- Lần này thật là Bát Thập Lão Nương bị thằng trẻ gạt, thật là mắc lỡm của thằng trọc ấy rồị
Sau này, Vương Trùng Dương vì bị Quái tăng giả chết đánh lừa cũng bắt đầu luyện tập ngừng thở, học bản lãnh giả tử ở Yên Hà Động.
Nhờ đó, mới giả chết dụ Tây Độc Âu Dương Phong đến trộm Cửu Âm chân kinh chàng dùng thuật Nhất Dương chỉ phá được thuật Hấp Ma Công của Âu Dương Phong.
Đó là chuyện saụ
Đây nhắc lại Vương Trùng Dương bị mắc kế của Quái hòa thượng, buồn bã trở về Cổ Thụ Lâm kể lại tất cả sự việc cho Thanh Hư chân nhân nghẹ
Thanh Hư chân nhân đã biết trước nên không làm lạ chỉ thở dài, người lại hỏi hình dáng của Quái tăng đó ra sao, và sự giao đấu của hai người thế nàọ
Vương Trùng Dương nhất nhất kể lại từ đầu đến cuối rõ ràng. Thanh Hư chân nhân than thở :
- Quả thật Quái hòa thượng ấy là đồ đệ của Trúc Sơn Lão Quái Đạt Ni Mạ
Ngay khi, Trùng Dương ở Điền Nam đã từng nghe được tên tuổi của Trúc Sơn lão quái, nên hỏi lại sư phụ :
- Thưa sư phụ, có phải mười năm về trước Đạt Ni Ma đã bị “Tẩu hỏa nhập ma” nửa mình bị tê liệt nằm trong Cốc Long Lãnh. Đồ đệ nghe nói ông ấy bị ác đồ bức lấy bí quyết không được, đã giết ông ta bằng cách giải phân thân thể. Như thế tên ác tăng vừa rồi là đồ đệ của Đạt Ni Ma, hắn tên là gì?
Thanh Hư chân nhân lại thở dài nói rằng :
- Trúc Sơn Lão Quái có tất cả ba nghiệt đồ. Sư phụ chúng nó chết rồi thì ba tên ấy tha hồ tung hoành ngang dọc. Ta nghe nói sau đó gặp một số người hiệp sĩ chính phái ở tỉnh Côn Minh giết chết hai tên. Có một đứa thoát khỏi có lẽ là Quái tưng hôm nay đến hang Bách Cầm dò lạ
Tên yêu nghiệt đó mấy hôm nay ta thường thấy xuất hiện ở gần Sùng Sơn lẩn lút trong rừng núi, ta chỉ tưởng đấy là phường trộm cướp quyển kinh bí cấp mà thôi, nào ngờ y lại hướng vào ta mà hạ thủ.
Nhưng đồ đệ đánh trúng nó hai cái Kim Cương chưởng đó thì thương tích của nó cũng đã tràm trọng lắm rồị
Trong một trăm ngày nó phải tìm được thuốc cải tử hồi sinh là Hà Thủ Ô thì nó mới bảo toàn tính mạng được.
Nói tóm lại, ta chỉ hy vọng nó không tìm được thứ thuốc, và sẽ chết trong vòng một trăm ngày thì ta mới khỏi lo về sau mà thôị
Hai thầy trò nói chuyện về Quái tăng và Ngũ Âm giáo xong rồi, thì Thanh Hư chân nhân lại nói qua Cửu Âm chân kinh.
Trước kia, Thanh Hư chân nhân thường nhàn du đây đó, một ngày kia ông đến Hoa Sơn ở tỉnh Thiểm Tây kiếm một người bạn.
Người đi đến gặp người bằng hữu đó, thì người đó lại đúng lúc đi xa nên không gặp, vì muốn gặp người bạn cố tri ấy, nên Thanh Hư chân nhân ở lại Hoa Sơn dạo khắp nơi danh lam thắng cảnh như Hoàng Long Động, Thượng Thiên Thê, Bách Chuyển Phong..v..v...
Một hôm Thanh Hư đang dạo chơi tại núi Thái Hoa, thấy cuồng phong thổi mạnh, mây đen kéo đầy trời, như sắp có trận mưa lớn, Thanh Hư chân nhân sợ ướt hết quần áo thì phiền lắm, nên tìm nơi trú ẩn.
Sau khi rảo bước xuống Huyền Võ Nham thấy tại nơi đây có một cái kệ thiên nhiên, dốc chừng mấy thước sâu, vào chừng một trượng.
Đỉnh kệ có mọc những loại thảo mộc nhỏ, Thanh Hư chân nhân lập tức đi vào trong cái kệ đó, gió càng thổi mạnh, sấm chớp liên hồi chỉ một lát trời mưa như trút nước. Thanh Hư chân nhân tự nghĩ :
- May mà mình trú được ở đây nếu không thì ướt hết.
Mưa ngày càng mau gió ngày càng lớn. Thanh Hư chân nhân ngồi trên một hòn đá, thốt nhiên từ trong hang văng vẳng đưa ra tiếng đàn tranh.
Tiếng đàn điêu luyện, tiết tấu thật là kỳ ảọ Thanh Hư chân nhân giật mình kinh ngạc, thầm nghĩ :
- Sao ở nơi cùng cốc thâm sơn này lại có người gảy đàn tranh.
Nghĩ đoạn, Thanh Hư cất tiếng nói to :
- Bạn nào ở trong thạch động đàn tranh, xin cho tại hạ được diện kiến.
Liên tiếp nói luôn mấy lần, không thấy ai trả lời, mà tiếng đàn vẫn liên tiếp chẳng ngừng, Thanh Hư chân nhân lấy làm kỳ lạ rõ ràng tiếng đàn phát ra từ trong vách đá.
Tự nhiên Thanh Hư chân nhân nghĩ ra một đạo lý, bèn thối lui lại mấy bộ vận nạp khí đơn điền, đưa hai tay để vào vách đá, nơi sinh ra tiếng đàn tranh đều đều kỳ lạ đó vận dụng thế Kim Cương Cự Linh Chưởng hết sức xô mạnh một cái, thật quả là ghê gớm sức xô của Thanh Hư chân nhân nghe đánh “ầm” một cái, một tảng đá ở sát vách tức thì di chuyển có đến hơn ba thước.
Một cảnh lạ lùng hiện ra trước mắt, té ra ở sau tảng đá là một căn phòng, hình như cái đấu, rộng chừng sáu thước vuông, chính giữa có bộ xương người, hai tay hạ thùy coi tựa tăng đạo tĩnh tọạ
Trước bộ xương người đó có để một cái đàn tranh, hình dáng kỳ cổ, cái đàn này chắc làm bằng thép, đen sì lóng lánh, không có bị sét gỉ, dây huyền còn mới, đỉnh phong có một cái lỗ nhỏ, nước mưa từ cái lỗ đó rơi xuống sa trên giây huyền, phát ra tiếng “tình tính tang tang” thay đổi âm điệu một cách kỳ ảo, chẳng khác chi có người gảy đàn.
Đã vén được màn bí mật tiếng đàn trong vách đá phát ra Thanh Hư chân nhân không nhịn được tức cườị
Đột nhiên Thanh Hư chân nhân có một ý nghĩ khác, tại sao xương người này lại ở trong thạch thất?
Vị trí của tảng đá là do nhân lực tạo thành, đóng lại cửa vào thạch thất. Nói tóm lại không phải tự người này di chuyển tảng đá để tự giam mình, ắt đã bị người khác di chuyển tấm đá để ngăn cửa, khiến cho ngạt thở mà chết.
Nghĩ như thế, Thanh Hư chân nhân không còn do dự gì nữa, bèn lấy trong người ra “Thiên lý dạ minh hỏa hồng” đốt lên.
Trong phòng sáng rực, trông rõ ràng không sót một vật gì, lúc đó Thanh Hư lại phát hiện một sự kiện mới lạ nữa, ở đằng sau bức xương người có treo một bức họa đồ.
Đó là một bức thủy mạc vẽ phong cảnh núi Hoa Sơn, giấy họa tuy đã vàng, nhưng không nổi mùi mốc, hoặc hư hỏng, nét vẽ vẫn nguyên vẹn, không hề bị phai bạc. Cái trục họa đồ bằng thứ gỗ quí bóng láng vẫn tốt đẹp.
Ngay ở trên tường có khắc mấy hàng chữ, Thanh Hư chân nhân không giám tự ý xông tới, nhờ phản quang của những nước mưa ở ngoài động, chú ý nhìn vào thì thấy hàng chữ viết như sau :
“Tại hạ là thượng môn của phái Không Động biệt danh kêu Hải Vân Tử, dùng hết sức đời để bảo tồn Cửu Âm chân kinh miên sao để khỏi nguy cho các giới võ lâm. Đã ba mươi năm qua không đổi chí, đến khi mình sắp chết, muốn hủy kinh mà không dám dìm nó xuống khe, chỗ giấu chân kinh để trong họa đồ, tặng kẻ có duyên”.
Khắc trước khi chết “Đức Hữu Ngũ Niên”
Lúc đó Thanh Hư chân nhân mới biết rằng bộ xương người đó chính là Hải Vân Tử đã mang Cửu Âm chân kinh qui ẩn một trăm năm về trước.
Ông ta bảo toàn Chân kinh, đến khi mình sắp chết mới dấu một nơi bí mật lại e dè võ học quí báu nên không dám hủy đị
Nhưng e có những kẻ xấu lấy được làm hại đến võ lâm, giữa hai sự nan giải ấy, không tìm được kế vẹn toàn, nên trước tiên mang ẩn dấu Chân kinh vào chỗ dấu họa đồ, khiến kẻ có duyên sau này tóm được, dụng tâm chịu khổ, Thanh Hư chân nhân nghĩ đến đấy bất giác thấy lòng cảm phục, lập tức hướng về hài cốt của vị võ lâm tiền bối đó vái lạy mấy cáị
Thanh Hư chân nhân lạy hài cốt đó rồi mới đứng dậy, mở bức họa đồ trên tường xuống, cuốn lại để trong túị
Lại còn e có di vật gì khác để lại chăng, Thanh Hư chân nhân cẩn thận đào bới khắp cả mặt đất cả nửa ngày chỉ thấy có mấy cái ám khí ở trong phòng đã rỉ sét cả, trông không ra hình dạng gì cả.
Thanh Hư chân nhân lúc đó mới ra khỏi Huyền Võ Nhan đi xuống Hoa Sơn, mang theo họa đồ hình ra nghiên cứụ
Không bao lâu Thanh Hư chân nhân tìm ra sự bí mật ở trục họa đồ. Lúc đó, mới biết rõ Hải Vân Tử đã dìm họa đồ đó xuống khe núi Hoa Sơn.
Thanh Hư chân nhân có ý định đến Hoa Sơn tìm kiếm, nhưng Thanh Hư chân nhân lại tự nghĩ :
- Là một chưởng môn của Toàn Chân phái võ công đã tới độ cao siêu, tìm ra được Cửu Âm chân kinh chưa chắc có ích lợi gì, mà trong họa đồ vẽ rất kỳ ảo cao thâm, tìm kiếm cũng chưa thể thấy nơi tàng ẩn chốn nàọ
Do đó Thanh Hư chân nhân thấy thọ nguyên đã tận, mới đem họa đồ giao lại cho đồ đệ là Vương Trùng Dương và thuật lại hết đầu đuôị Vương Trùng Dương nghe sư phụ rứt lời thấy trong lòng rất xúc động.
Thanh Hư chân nhân nghiêm nét mặt nói :
- Vương Trùng Dương, điều thứ ba con đã hiểu rồị Sau này con đến núi Hoa Sơn tìm kiếm Cửu Âm chân kinh, điều cần nhất con phải làm ngay là sau khi con tìm kiếm thấy Cửu Âm chân kinh tập luyện độ mười hay hai chục năm, con phải khởi hành đến Tây Nhạc mà tìm cuốn Võ lâm Bí cấp, con gắng ghi nhớ.
Vương Trùng Dương kính cẩn vâng lời, Thanh Hư chân nhân lại trao cái rương gỗ cho chàng và thở dài một cái như trút hết mối ưu tư.
Hai hôm sau Vương Trùng Dương túm tóc làm đạo sĩ trước mặt sư phụ, Thanh Hư chân nhân biết rằng số mạng ông đã tận, nên mang hết khẩu quyết bí truyền và cách giàn bày trận Thiên Cương Bắc trận pháp giảng giải thật cặn kẽ cho Trùng Dương.
Lúc đó, Châu Bá Thông cũng không còn nhỏ dại gì nữa, nên cũng quanh quẩn suốt ngày bên sư phụ và chịu lắng tai nghe sư phụ giảng giải nên chàng ta cũng thu lượm được nhiều bí quyết võ công.
Thời gian thấm thoát, thoáng một cái đã hai mươi năm ngày qua, Thanh Hư chân nhân gọi hai môn đồ đến bảo rằng :
- Nếu ta có thác đi rồi, chúng con hãy cố luyện tập lại võ công, và hết sức giữ mình cho đạo đức, đừng để cho ba chữ Toàn Chân phái bị mất đi trong giới võ lâm. Có như thế ta mới yên lòng nhắm mắt nơi suối vàng.
Thanh Hư chân nhân nói xong, đôi mắt nhắm lại hai tay để trên đầu gối, ngồi xếp bằng tĩnh tọa trên cái nệm tròn, chưa đầy mười phút thì hồn qui tỉnh thổ.
Vương Trùng Dương thấy sư phụ không thở nữa mới giật mình hoảng hốt lại coi và mó vào tay chân của Thanh Hư chân nhân thấy chân tay lạnh như băng, biết rằng sư phụ đã vũ hồn đi rồi, bất giác thương cảm buông rơi hai hàng nước mắt. Chu Bá Thông lại gần hỏi thăm :
- Sư phụ đã tịch rồỉ
Trùng Dương sụt sùi gật đầu, Châu Bá Thông nghe dứt lại oa lên khóc, tiếng của Bá Thông cứ rống lên từng hồi nghe thật là thảm thiết.
Trùng Dương cũng không cản ngăn được sự thương tiếc. Nhớ lại những ngày Thanh Hư chân nhân khổ công luyện tập và khuyên răn dạy bảo, tuy không có công sinh nhưng có công dưỡng, sinh dưỡng đạo đồng, lại càng làm cho Trùng Dương đau xót như ai cắt ruột, bào gan. Chàng ôm lấy người sư đệ mà than khóc.
Khóc mỏi mòn hai người mệt quá cùng thiếp đi lúc nào không biết, đến nửa ngày mới tỉnh, di thể của Thanh Hư chân nhân vẫn ngồi đấy, trông thần sắc như lúc còn sống, Trùng Dương thở dài, lắc đầu nói :
- Thôi thôi, duyên tận kim sinh, chúng ta hãy chôn cất sư phụ cho rồị
Trong rừng sâu không có quan tài, đạo gia thường dùng cách hỏa táng.
Hai huynh đệ Vương Trùng Dương và Chân Bá Thông bèn vào rừng đốn củi khô chất đầy chung quanh thi thể Thanh Hư chân nhân, phóng hỏa, ngọn lửa cao ngất, không đầy một tiếng đồng hồ, thi thể của Thanh Hư chân nhân đã thành đống tro tàn. Hai huynh đệ lấy cái chĩnh đựng cốt đã dự bị sẵn từ trước kia, đựng di khô vào trong và trôn tại một nơi hẻo lánh trong hang Bách Cầm.
Vương Trùng Dương chôn cất sư phụ xong, chàng và Châu Bá Thông theo thể chế của người xưa giữ mộ ba năm.
Trùng Dương tuân theo lời dặn của sư phụ trước kia còn sinh thời, coi Châu Bá Thông như là em ruột của mình, hết sức truyền thụ võ công của Toàn Chân phái cho họ Châụ
Châu Bá Thông chăm chỉ rèn luyện nhưng thật ra chịu khó khổ luyện chỉ có bốn chục phần, còn sáu chục phần là nhờ vào sự thiên phú thông minh của mình, bởi thế cho nên dầu sao về võ thuật của họ Châu vẫn kém xa Vương Trùng Dương.
Quang âm thấm thoát đã qua ba năm trời, kỳ hạn giữ mộ của Trùng Dương đã hết.
Hang Bách Cầm bây giờ đã có thêm ba nam một nữ, đó là Mã Ngọc, Khấu Phùng Xuân từ Yên Kinh đến, Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại từ Đông Hải tớị
Trùng Dương hỏi lại chuyện của Mã Ngọc, thì chàng cho biết, sau khi bái sư rồi đem gia tài phân phát cho tất cả những kẻ bần cùng, chỉ để lại một số tiền làm phí dụng rồi đến ẩn tại Ngọc Tuyền Sơn ở ngoại ô Yên Kinh, cách xa với nơi phồn hoa đô hội, chuyên luyện nội công như Vương Trùng Dương đã truyền bảo liên tiếp trong ba năm trời, đúng kỳ hạn mới khởi hành về phía Nam.
Còn Tôn Phượng Cô và Đàm Thiên Thoại hai người dần dần giải tán bớt thảo khấu của Hắc Phượng bang, lại thảo phá tất cả doanh trại trên Thừa Tứ Quần Đảọ
Lúc đó, hai người mới dời khỏi đảo Kim Ngao, đến tại đảo Sùng Minh tại tỉnh Giang Tô, luyện tập hai năm, rồi mới khởi hành đi Sùng Sơn.
Vương Trùng Dương thấy Mã, Khấu, Tôn, Đàm bất phụ sở khắc, thì mừng rỡ vô cùng, khen ngợi và khích lệ họ rồi cử hành lễ bái sư túm tóc.
Mỗi người được Vương Trùng Dương ban cho một đạo hiệụ Mã Ngọc lớn hơn hết, Vương Trùng Dương cho hiệu là Đơn Dương Tử, Khứu Phùng Xuân hiệu Trường Xuân Tử, đạo danh là Sử Cơ, Đàm Thiên Thoại hiệu là Trường Chân Tử, đạo danh là Sử Điển.
Chỉ có Tôn Phượng Cô là nhi nữ khó đổi tên tuổi, Vương Trùng Dương đang nghĩ ngợi cho nàng một cái một cái đạo hiệu, Tôn Phượng Cô bỗng lấy ra một miếng vải trong túi, trên vải có thêu một cái sọ người bằng chỉ tơ đen, cười nói :
- Thưa sư phụ, ba năm về trước sư phụ cho con một bức tranh này mà cải tà qui chánh, đệ tử thêu bức tranh này đeo ở ngực để nhớ sự khuyên dạy của sư phụ.
Vương Trùng Dương bỗng vỗ tay nói :
- Hay lắm, ta đặt đạo hiệu cho con là Tôn Bất Nhị.
Vương Trùng Dương đặt xong đạo hiệu cho bốn đệ tử, rồi bắt đầu từ ngày hôm ấy, họ Vương truyền cho bốn đệ tử căn bản võ công theo lối thiên phú của từng người và sự ưa thích riêng biệt của họ mà truyền dạỵ
Lúc đó, Vương Trùng Dương cảm thấy hang Bách Cầm quá chật hẹp, không đủ cho cả bốn người tập luyện võ công, bèn dọn đến Yên Hà Động ở đằng sau Thiếu Thất Sơn.
Yên Hà Động là một trong những thắng cảnh của Sùng Sơn. Hai mùa Xuân, Hạ, mây ở Sùng Sơn đa số là do một vùng ở đấy phát ra, suốt ngày trông như khói xương mù, bởi thế cho nên người ta mới đặt cho là Yên Hà Động.
Trùng Dương dọn đến nơi đây là thích Yên Hà Động, nơi hẻo lánh tĩnh mịch, không giống như hang Bách Cầm kế cận với Thiếu Lâm tự, thỉnh thoảng vẫn có người đi lại, mà còn nhờ những khối mấy mịt mù đó để luyện nhãn lực cho mấy môn đồ.
Ngày, tháng thoi đưa thấm thoát đã ba năm trời, tài nghệ của Mã Ngọc và bốn người so với trước đã tăng gấp bộị
Trong ba năm này, Vương Trùng Dương không hề rời khỏi Yên Hà Động nửa bước.
Những lúc rảnh rang, Vương Trùng Dương lại mang hai bản họa đồ một bức Hoa Sơn Tàng Kinh và một bức Thiên Cương Bắc Đẩu trận, khổ tâm nghiên cứụ
Lúc ấy, Vương Trùng Dương mới từ từ hiểu rõ, chàng nghĩ thầm :
“Thiên Cương Bắc Đẩu trận còn thiếu ba người, không thể bày luyện được, nay ta hãy tới Hoa Sơn tìm Cửu Âm chân kinh trước đã”
Sang năm thứ tư, Vương Trùng Dương quyết định tới núi Hoa Sơn, chàng bèn bảo sư đệ là Châu Bá Thông thây thế mình dạy bốn môn đồ, rồi chàng chọn ngày tốt khởi hành ra khỏi Sùng Sơn hướng về Hoa Sơn đi tớị
Sùng Sơn ở tỉnh Hà Nam, Hoa Sơn ở tỉnh Thiểm Tây, vừa là chỗ giáp ranh Trùng Tây Nhị Nhạc, đối diện với núi Hoa Sơn.
Trùng Dương trước đã từng đi qua hai lần, lần này là lần thứ bạ
Đi chưa được mười ngày, Trùng Dương đã tới chân núi Thiếu Hoạ Hôm ấy, gặp lúc đã chiều tà, Vương Trùng Dương bèn tìm tới nhà một người chuyên nghề săn bắn xin tá túc.
Đời nhà Tống bỏ võ, tu văn, phụng thờ đạo giáo làm quốc giáo, Trùng Dương là một đạo sĩ dĩ nhiên được mọi người tôn sùng.
Người đi săn tên Vương Phúc, ân cần chiêu đãị Vợ chồng chia nhau ra một người xuống bếp nấu cơm còn một người thì đứng hầu Trùng Dương.
Lúc đang chuyện trò, bỗng nhiên ngoài của có một thanh niên chưa đến hai mươi tuổi bước vào, dáng người hùng vĩ tuấn tú, lúc đó vợ của Vương Phúc nói vọng lên :
- Bân nhi, con đã về đó à, Đạo trưởng không ăn mặn, con hãy ra chợ mua ít thức ăn chay về đị
Vương Trùng Dương chưa kịp nói gì thì nghe thiếu niên đó nói lớn :
- Thưa phụ thân, thật là đáng tức, hôm nay, con tới núi Hoa Sơn săn bắn, lại xung đột với ba anh em họ Hoắc đấy!
Vương Phúc hừ một tiếng, rồi quay lại nói với Trùng Dương :
- Thưa Đạo trưởng, thằng này là con của lão phu tên là Vương Nguyên Bân, vì mẹ nó nuông chiều, nên hay gây lộn với ngườị
Vương Nguyên Bân vội nói :
- Thưa phụ thân, ba anh em họ Hoắc ấy thường tự khoe mình quyền bảng tinh thông, coi người bằng nửa con mắt, tự xưng là vô địch trong thiên hạ, nên con phát ghét mới cùng chúng gây chuyện đánh lộn, nếu một chọi một con đâu có sợ.
Nhưng đằng này, bọn chúng cả ba đứa áp lại đánh một mình con. Chúng cậy có bài quyền Tam Tinh Liên Tọa quyền mà cả ba đứa cũng hợp nhất lại cùng đánh, nên con đành chịu thuạ Bọn chúng đáng ghét lạ, cứ thấy con từ đằng xa đã sửa soạn đánh nhau với con rồi, như thế phụ thân bảo con có tức không?
Vương Phúc thấy con mình ở trước một vị đạo sĩ mà ăn nói lỗ mãng chỉ kể chuyện đánh nhau, muốn cất tiếng mắng, thì Vương Trùng Dương bỗng cất tiếng cười ha hả nói :
- Con ưa đánh lộn lắm sao, ta thử ngồi tại đây, cho con đánh thử một quyền xem saỏ
Vương Phúc vội nói :
- Thưa Đạo trưởng, thằng con bất hiếu của lão phu vô phép lắm, xin Đạo trưởng đừng giỡn với nó.
Vương Nguyên Bân đã ngắt lời cha, hỏi họ Vương :
- Thưa Đạo trưởng, người kêu tôi đánh thử một quyền chẳng hay có dụng ý gì?
Trùng Dương lại cười ha hả nói :
- Diệt nhi, con cứ đánh ta một quyền, ta sẽ dạy con cách đánh bại ba anh em họ Hoắc.
Vương Nguyên Bân tuổi còn trẻ, tính háo động, nghe thấy Đạo trưởng nói như vậy thì cả mừng, chẳng nói chẳng rằng đưa ngay quyền nhằm ngực nhằm ngực Vương Trùng Dương tống tới một trái rất mạnh, thế võ đó là trích trong bài Hắc Hổ quyền pháp, Vương Phúc trông thấy vội quát to :
- Súc sanh sao vô lễ như thế!
Vừa nói Vương Phúc vừa toan đứng lên cản Vương Nguyên Bân lại, nhưng mới đứng dậy đã nghe tiếng Đạo trưởng họ Vương quát lên một tiếng “té” và tiếp theo đó hai tiếng “bịch bịch” vang lên, thân hình của chàng Vương Nguyên Bân đã bị Trùng Dương dùng tay áo phất một cái ngã ngửa ra đằng sau đến bảy tám bộ.
Hóa ra, lúc Vương Nguyên Bân đấm vào ngực Trùng Dương, họ Vương liền dùng thế Thủy Tụ Lưu Vân, tay áo phất ra, cuốn chặt lấy người mượn sức của cậu đánh lại cậu tạ
Năm xưa, Trùng Dương cũng đã dùng tuyệt kỹ công phu này đại náo La Hán Đường làm ngã một lúc mười tám mộc nhân La Hán của Thiếu Lâm tự, hôm nay Trùng Dương lại mang bài đó ra để đối phó với Nguyên Bân, võ nghệ của Nguyên Bân hãy còn thô thiển chống sao được, nên mới té ra ngoài đất.
Vương Nguyên Bân thấy Trùng Dương chỉ dùng có tay áo đánh ngã mình và lại thấy toàn thân đau nhức thì vội vàng đứng dậy và thưa :
- Đạo trưởng, bản lĩnh người rất cao cường, so với anh em họ Hoắc gấp mấy chục lần, tiểu diệt kính phục Đạo trưởng rồi, xin Đạo trưởng dạy cho diệt nhi vớị
Vương Trùng Dương cất tiếng cười vang hỏi :
- Mày muốn ta dạy mày để đi đánh lôn với ba anh em nhà họ Hoắc thì mày phải kể rõ cho ta nghe ba anh em họ Hoắc là người như thế nào, vì sao mà lại gây sự đánh lộn với màỵ Hãy nói hết cho ta nghe thì ta mới dạy mày được chứ?
Vương Nguyên Bân vội vàng mang hết đầu đuôi câu chuyện nói lại Vương Trùng Dương nghẹ
Nguyên ở dưới chân núi Thiếu Hoa, có nhiều thợ săn ở đấy, họ toàn là những người bản xứ có căn bản võ công, là một nhà săn bắn là phải biết võ rồi vì như thế mới có thể chống lại với thú dữ trong khi săn bắn.
Vương Phúc trước kia cũng thuộc về hạng khá võ thuật, con trai là Vương Nguyên Bân cũng được cha truyền thụ nên cũng khá giỏị
Trong bọn thợ săn thì gia đình họ Vương săn được nhiều thú vật nhất, nhiều người mang con tới xin Vương Phúc dạy bảo võ nghệ chọ
Nhưng cách đây vào khoảng nửa năm, có ba anh em họ Hoắc về ở dưới chân núi Thiếu Hoạ Ba người hãy còn ít tuổi, người thứ nhất tên là Hoắc Văn Quí, người thứ hai tên là Hoắc Văn Phú, người thứ ba tên là Hoắc Văn Định.
Ít lâu sau, ba anh em họ Hoắc nói với bọn thợ săn là võ nghệ của họ Vương còn thô thiển vô dụng, học tới già cũng chẳng có ích lợi gì, trái lại, nếu theo học ba anh em chúng có thể nói mau tiến phát, danh tiếng sẽ nổi như cồn.
Vương Phúc tuổi đã già nên tính tình điềm đạm, tuy nghe thấy cũng chẳng nói gì, trái lại, Nguyên Bân còn thanh niên khí thịnh không chịu khuất phục, lập tức kiếm ngay ba anh em họ Hoắc đánh lộn, thoạt tiên chàng và Hoắc Văn Định giao đấu có đến mười hiệp, chàng đã tặng cho Văn Định một quyền bể lỗ mũi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 11-22-2012, 11:19 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 14 - 16

Võ lâm ngũ bá


Hồi 14

Hoa Sơn Tầm Kinh


Nào ngờ Hoắc Văn Quí, Hoắc Văn Phú hai người, thẹn quá hóa giận lập tức hét lên một tiếng, đồng thời tiến tới, ba người liên thủ, sử dụng “Tam Tinh Linh Tỏa trận pháp”, đánh Vương Nguyên Bân trọng thương, nằm trên đất không nhúc nhích được.
Vương Nguyên Bân còn thổ mấy khẩu huyết, điều trị hơn tháng trời mới được khang phục.
Vương Phúc xem ra ba anh em họ Hoắc tuy danh là nhà săn bắn, thực ra không có đi săn gì cả, lai lịch bất minh, xét ra không phải là người hiền lành, vì mình không muốn gây chuyện, vả lại đã nuốt giận lặng tiếng không đi báo phục, còn khuyên con không nên đi gây chuyện với đối phương nữạ
Nào ngờ, Vương Nguyên Bân không chịu nhục, nhân khi phụ thân vắng mặt, đã lẻn đi hai lần đánh nhau với anh em họ Hoắc, không đem một chút thành tích, trái lại còn bị thương.
Vương Phúc giận dữ tức mình không truyền thụ bản lãnh cho con nữạ
Nhưng, Vương Nguyên Bân vẫn không cam lòng, ngày ngày ở nhà khổ luyện công phu độ chừng một tháng, lại đi kiếm ba anh em họ Hoắc đánh nhau nữạ
Lần nào cũng bị thất bại, trước sau đánh có cả ngàn trận, mà không lần nào được hơn. Lần này may mắn không bị thương, hắn ngập ngà ngập ngừng kể hết câu chuyện đã quạ
Nghe hết câu chuyện Vương Phúc nói với Trùng Dương :
- Thằng bé này “Hão dũng đầu lang”, bại rồi còn không phục người, nhiều khi tôi nghĩ mặc ba anh em họ Hoắc thõng đả một trận, làm cho nó gãy chân, gãy tay, biến thành phế nhân, để sau này nó không còn đánh nhau với người ta được nữạ
Trùng Dương cả cười :
- Vương lão bá, con của ông rất có chí khí, sao để nó thành phế nhân. Hảo hài nhi, mày qua đây lão dạy mày cách phá “Tam Tinh quyền”.
Trùng Dương cầm ba ly nước, bày lên mặt bàn, hai trước một sau, xếp thành hình chữ phẩm đảo ngược rồi dùng ngón lay di động mấy lần ly nước, hỏi rằng :
- “Tam Tinh Liên Tọa quyền pháp” của ba anh em họ Hoắc như thế này phải không? Khi công hai trước một sau và sau một trước phải vậy chăng?
Vương Nguyên Bân mừng rỡ nói :
- À! Té ra ông biết sử dụng “Tam Tinh Liên Tọa quyền”!
Vương Trùng Dương nói :
- Muốn phá Tam tinh liền tọa này cũng không khó lắm. Trước hết mày phải phá cách tiên tọa của họ, nhằm người chính giữa hình chữ phẩm, trùng ngón “Lưu Vân thủ” háp một cái, thiếp một cái, như cách mà ta vừa làm hồi nãy, rồi một tiến một thối, làm té ngã người chính giữa, thế là Tam Tinh Liên Tọa đã được giải thì mày có thể đánh tan họ.
Vương Trùng Dương nói xong, bèn diễn lại hai lần bộ Lưu Vân thủ, mỗi lộ chiêu thức giảng giải kỹ càng.
Vương Nguyên Bàn tâm lãnh thần hội, thốt nhiên cả cười, vỗ tay kêu rằng :
- Được rồi! Đạo trưởng, tôi đi mua món ăn chay về cho ông!
Nói rồi phóng mình chạy như bay ra ngoàị
Vương Phúc than thở nói :
- Thằng bé này thật “ngoan liệt”, mà Đạo trưởng lại dạy nó đánh nhau, như rót dầu trên ngọn lửạ
Vương Trùng Dương nghe nói mỉm cười không trả lờị
Giây lát sau, Vương Nguyên Bân mua mấy gói món ăn chay về. Vương mẫu dọn cơm ra cho Trùng Dương ăn.
Tối đến Vương Nguyên Bân đi ngủ sớm để tĩnh dưỡng tinh thần.
Sáng hôm sau, vợ chồng Vương Phúc còn ngủ chưa thức dậy, Vương Nguyên Bân đã chạy ra ngoài rồi, chưa đến giờ Tỵ đã chấy nó như một lần khói bay ở ngoài chạy về la lớn :
- Đạo trưởng, quyền pháp của ông thật linh. Hôm nay tôi mới ra tay thử đã đánh ba anh em họ Hoắc rã rời tơi tả, lão nhị và lão tam còn bị thương nữa, từ nay trở đi chúng nó không dám coi thường tôi nữa đâu!
Vương Trùng Dương mỉm cười hỏi Vương Nguyên Bân sử dụng thế nào ngón Lưu Vân thủ pháp của mình dạỷ
Vương Nguyên Bân mặt mày hớn hở, liền miệng thuật lại lúc phá Tam Tinh Liên Tọa quyền như thế nào, mới ra tay sử dụng ngay “Bức Thoán Chi Pháp”, về hướng Hoắc Văn Phú ở trung tâm Tam tinh liên tọa, lôi một cái, kéo một cái làm nó té ngã ngay, chút nữa đụng rớt cả cằm, nhưng ba anh em họ Hoắc không chịu thua, vẫn còn đánh nữạ
Vương Nguyên Bân liền dùng hai lần Lưu Vân thủ, khiến Hoắc Văn Phú, Hoắc Văn Định liên tiếp nhào hai cái, một té bị thương sau lưng, một té trật bả vai, không còn bò dậy nổi nữạ Nó mới cười ha hả! Ra về.
Vương Phúc nghe con đánh người ta bị thương, hoảng sợ nói :
- Mày là thằng chó chết, đởm to hơn trời, đánh anh em họ Hoắc lộn nhào hai cái thì thôi, tự nhiên còn đánh người ta bị thương. Tụi nó rất nhiều đồng đảng, thử hỏi từ nay về sau, làm thế nào vào rừng săn bắn được?
Vương Phúc vừa nói dứt lời, thi có tiếng la hét từ đàng xa truyền lại!
Vương Nguyên Bân mặt tái biến, Vương Phúc biết Hoắc Văn Qúi tụ họp đồng lõa đến trả thù, thì cơn giận nổi lên, dậm chân liên hồi chửi mắng Nguyên Bân liền miệng.
Trùng Dương thung dung đứng dậy cười nói :
- Đừng nên sợ hãi, họa này do bần đạo gây ra, phải do bần đạo giải quyết!
Nói rồi chạy ra ngay cổng nhà, thấy có mặt chàng tuổi độ ba mươi, “tía diện tráng hán” tay cầm một cây “Tam cổ thác thiên sai”, thanh thế hung hăng.
Theo sau, hai ba mươi người trang phục “lạp hộ” tay cầm lạp sai, trường thương sáng lóng lánh và đòn bảy dây móc, khí thế dữ tợn hướng vào Vương gia xốc tớị
Vương Trùng Dương đứng ngang trước cổng, cúi đầu chắp tay, niệm một tiếng “Vô lượng thọ Phật”. Bọn chúng thấy trong nhà Vương phúc có thêm một vị đạo nhân mặt mũi hiền từ, y quan sáng rỡ, ăn mặc rất tề chỉnh thì lấy làm ngạc nhiên.
Đại hán cầm “Thách thiên xoa” rung một cái, những vòng sắt trên chiếc thiên soa kêu lên long cong. Gã Lớn tiếng quát :
- Tên đạo sĩ vô danh kia từ đâu đến đâỷ Cút ngaỵ Gọi tiểu tử Vương Nguyên Bân để ta cho nó một soa vào đầụ
Vương Trùng Dương ôn tồn hỏi :
- Tôn giá là đại sư phụ Hoắc Đại Qúi phải không?
Đại hán mặt tím nói :
- Phải! Lão gia là Hoắc Đại Quí, tìm tiểu tử họ Vương để trả thù, không liên can đến ngươi, đừng ngu dại ở đây gánh họa vào thân.
Vương Trùng Dương cười ha hà :
- Sao lại không liên can đến bần đạỏ Vương Nguyên Bân từ bao lâu nay chịu nhục dưới tay anh em của túc hạ. Nhưng nhờ bần dạo dạy nó mấy thế thủ pháp nên phá được Tam tinh liên tỏa quyền của anh em túc hạ. Ha ha ha!
Hoắc Đại Qúi giận dữ gầm lên một tiếng, hươ chiếc soa nhắm ngay ngực Trùng Dương thích mạnh. Vương Trùng Dương không chút bối rối, đứng im chờ mũi soa đến sát bên ngực mới hươ động tay áo phất mạnh lên cán thách thiên soạ
Nghe “bốp” một tiếng, ngọn soa văng bổng lên cao hai trượng rớt vào bãi cỏ hoang, hai hổ khẩu của Hoắc Đại Qúi bị tét ra máu chảy ròng ròng.
Hoắc Đại Qúi cả kinh hồn vía chưa kịp phản ửng. Hai ba mươi tráng đinh thấy chủ tướng bị đại bại vội hươ động binh khí đồng lượt xông tớị
Vương Trùng Dương cả cười, tay áo phất tròn bốn phía, phất tới đâu bọn tráng đinh té lăn cù tới đó, lẫn cả binh khí đều rơi lộp bộp xuống đất tựa như lá vàng rơi rụng trước ngọn cuồng phong.
Bọn chúng lồm cồm bò dậy thất thanh kêu lên :
- Không xong, tên đạo sĩ này biết yêu thuật!...
Trong lúc những tên thợ săn sợ sệt, không dám tiến lên, chợt từ xa có một người chạy vụt đến, trang phục khác thường, đầu chít khăn xanh như người Hồi, râu quai nón tua tủa bó hàm, màu da đen bóng như màu đồng cổ, hai mắt to tròn sáng long lanh tia ra những làn tinh quang hung tợn, bước chân nhẹ nhàng vững chắc, Hoắc Đại Qúi vừa thấy vội quay lại kêu :
- Sơn chủ đến rất phải lúc. Gã đạo sĩ này quá ư lợi hại!
Gã đại hán ấy trầm giọng nói :
- Lợi hại ư? Hừ! Thấm gì, chúng bây chỉ toàn là đồ vô dụng.
Giọng nói nghe thật kỳ dị, oang oang như tiếng sắt chạm nhau, làm nhức tại mọi ngườị
Hoắc đại Qúi hỏ thẹn, lặng im lui ra saụ Cha con Vương phúc lúc này bước ra khỏi cửa, sửa soạn chĩa săn, đòn bẩy chuẩn bị đối phó. Gã râu quai nón chẳng thèm để ý, cười nhạt nói với Vương Trùng Dương :
- Đạo trưởng này, vừa rồi ông sử dụng công phu “Thủy Tụ Lưu Vân”, có lẽ là đệ tử của Toàn Chân pháị
Vương Trùng Dương nghe xong giật mình thầm phục, vì môn công phu của mình, nhờ biết cách vận dung cương khí vào người mới có thể phất tay áo trở nên cứng như sắt, không vật cứng nào so sánh bằng. Nếu là người nội công chưa đến bậc thượng thặng tuyệt thế, không thể sử dụng, không ngờ gã mặt mũi thô kệch, bộ tịch ngờ nghệch như một tên ngu đần lại nhận biết được!
Hồi nãy thoáng qua đã biết là “Thủy Thủ Lưu Vân” công phu đủ thấy gã không phải là một nhân vật tầm thường.
Vương Trùng Dương không dám xem thường, chắp tay thi lễ và nói :
- Các hạ quá khen, xin cho bần đạo biết đại danh quí hiệụ
Gã râu quai nón lãnh đạm đáp :
- Tại ha chỉ là một thôn phu miền Tây Vực, tên tuổi chưa người biết, bỉ tánh là Âu Dương, đơn danh một chữ Phong có người gọi tại hạ là Bạch Đà sơn chủ nhưng tên ấy tại hạ tự thẹn không dám nhận.
Vương Trùng Dương chu du khắp thiên hạ, bình sanh chưa bước chân đến Tây Vực, cũng chưa hề nghe giang hồ nhắc đến tên Bạch Đà sơn chủ lần nào, chàng trầm ngâm giây lâu rồi nói :
- Phàm mọi sự nên dĩ hòa vi quý, các hạ là người có uy quyền với phường săn này, nên bảo họ thu hồi binh khí, bỏ việc oán thù, mọi người giữ phận làm ăn chẳng hơn ru! Hà tất phải gây thù chuốc oán với nhau làm gì cho thêm khổ thân?
Âu Dương Phong không bận trả lời Vương Trùng Dương chỉ quay đầu lại nạt tụi Hoắc Đại Qúi và bọn phường săn :
- Còn đợi gì mà chưa chịu cút trở về? Lui mau!
Phường săn dường như rất nể sợ vị quái khách, nên vừa nghe tiếng quát của y ba chân bốn cẳng lượm lấy binh khí hấp tấp kéo nhau đi hết.
Cha con Vương Phúc thấy thế hết sức ngạc nhiên thầm nghĩ :
- Bọn phường săn này từ trước vẫn ngang ngạnh hết mực, tại sao phục tùng người này như thế, xem chừng y không phải là người sinh trưởng ở vùng này, lạ thật!
Chờ bọn phường săn lui xong, Âu Dương Phong nghiêm mặt nhìn Trùng Dương nói :
- Bọn phàm phu tục tử ấy đã đi khỏi, chúng ta có thể thử tài với nhau được rồị
Vương Trùng Dương vừa thốt ra tiếng “Các hạ” thì Âu Dương Phong đã quát to :
- Hãy đề phòng!
Tiếp theo câu nói, tả chưởng đã vung ra hướng ngay trung bộ của chàng, một ngọn kình phong theo chưởng lực bay áp tới sức mạnh có thể dời non lấp bể.
Vương Trùng Dương không ngờ Âu Dương Phong đột nhiên ra tay, cũng không ngờ chưởng lực của y cương mạnh như thế, lập tức vận khí đơn điền, phất mạnh tay áo đón lạị
“Bùng” một tiếng nổ chát taị
Vương Trùng Dương thân hình vững vàng như trụ đá giữa trời không chút di động. Trong lúc chàng vận khí để chống đỡ chưởng lực chàng đã ngầm thử sức của đối phương, nhận thấy bản lĩnh của Âu Dương Phong tương đương với Bang chủ Hồng Thông mà chàng đã gặp mấy năm về trước, mà cũng không kém quái nhân trong Kỳ môn Thạch Trận trên Kim Ngao đảo, nếu đem so sánh với tài năng chàng lúc đấu với Thiếu Lâm tam lão thì có phần hơn nhiềụ
Âu Dương Phong thấy chưởng lực của mình không đánh ngã được Vương Trùng Dương. Trong lòng vô cùng kinh sợ, vì chưởng lực lúc nãy đã dồn tất cả bình sanh công lực đánh ra mà không hạ nổi kẻ địch.
Bây giờ đã lâm vào thế cưỡi trên lưng cọp, muốn hòa cũng khó mở miệng hòạ Nghĩ thế, y bèn song chưởng lật lại thành chiêu “Phân Bộ Điệu Tiện” nhắm ngay “Huyền Cơ song huyệt” trên ngực Vương Trùng Dương phạt mạnh.
Chờ cho quyền phong vừa chạm đến áo địch thủ, y đột nhiên biến chưởng thành chỉ dùng “Thiết Giáp Thùy” nhắm ngay “Tinh Trúc huyệt” sau lưng Vương Trùng Dương điểm tớị
Âu Dương Phong dùng thủ pháp này rất độc hiểm, bề ngoài y dùng chưởng lực thủ pháp điểm kích yếu huyệt của đối phương, để dẫn dụ đối phương phải vận dụng cương khí ở đơn điền lên ngăn đón.
Lúc ấy y mới bất thần sử dụng độc thủ nhằm ngay yếu huyệt sau lưng của đối phương điểm mạnh, lối đánh hư hư thiệt thiệt ấy, nếu tinh thần đối phương sơ hở một chút là bị nguy liền.
Vì món “Thiết Giáp Thùy” sử dụng ba ngón tay cái, trỏ, và giữa chấp dính lại, thành hình một mũi chùy bằng thép, mỗi móng tay đều để dài lú ra hơn nửa tấc, nhọn sắc như móng chim ưng, chiêu pháp phối hợp với “Ưng Trảo thủ pháp” dù địch thủ nội công thâm hậu đến đâu, trúng nhằm thì ruột, gan, phổi đều bị nát nghiến.
Vương Trùng Dương không ngờ địch thủ ra tay ác độc như thế, chàng thấy mình với đối phương không thù không oán, tự nhiễn y nỡ dùng thủ pháp ác độ hại mình.
Bất giác nư giận trào sôi, chàng lập tức thối lui nửa bướt, sử dụng ngay “Bài Vân thủ” công phu, phất áo bên tả đánh trúng vào ngực địch thủ.
Âu Dương Phong hét lên một tiếng thất thanh lả đảo thối luị
Đúng ra, thủ pháp “Thiết Giáp Thùy” của Âu Dương Phong đã điểm trúng huyệt sau lưng Vương Trùng Dương, nhưng Trùng Dương nhờ luyện nội công của Toàn Chân phái đã đến lúc “Lư hỏa thuần thanh” bắp thịt tự nhiên có phản ứng co giãn theo ý muốn, nên móng nhọn của Âu Dương Phong vừa chạm hờ vào chàng, bắp thịt sau lưng Vương Trùng Dương liền lõm vào sâu, thành ra chi lực của Âu Dương Phong bị hóa giải tiêu tan.
Nếu Trùng Dương muốn giết Âu Dương Phong chỉ cần bồi tiếp một chiêu tuyệt kỷ nữa thì tánh mạng Âu Dương Phong không còn.
Nhưng Trùng Dương tính không háo sát, nên sau khi đả thương đối phương xong, liền lập tức thối hậu, ôn tồn nói :
- Võ công của các hạ quả rất cao cường, bần đạo hết sức khâm phục. Như vậy đủ thấy tài sức ngang nhau, bần đạo xin được thủ huề.
Âu Dương Phong không đáp lời chi “hừ” to một tiếng, thân hình nhẹ như làn khói, tung mình vào sâu trong lòng núi Hoa Sơn, thoắt chốc đã mất dạng. Cha con Vương Phúc bèn tiến lên vái tạ Trùng Dương và nói :
Thằng nghịch tử này đã gây ra bao chuyện tai hại, may nhờ dũng lực của Đạo trưởng giải nguy cho cha con kẻ hèn nàỵ Thật là ân đức như trời bể.
Vương Trùng Dương cười đáp :
- Hai người từ nay đến mười, hay mười lăm ngày, đừng lên núi săn bắn mới mong bảo toàn tánh mạng.
Cha con Vương Phúc ngạc nhiên không hiểu vì sao Đạo trưởng lại dặn mình như thế, nhưng không tiện hỏi, chỉ dạ vâng lờị
Vương Trùng Dương trở về nhà Vương Phúc nghiền ngẫm võ công của Âu Dương Phong, cảm thấy võ công của y rất kỳ lạ.
Chàng lần này đến Hoa Sơn để tìm Cửu Âm chân kinh bất ngờ đụng phải một địch thủ cao cường.
Hơn nữa y lại tổ chức một phường săn đông đảo, xem chừng như y có ý định khác, hay y cũng đến đây để tìm Cửu Âm chân kinh?
Vương Trùng Dương im lặng trầm tư mãi cho đến tối không haỵ Còn cha con Vương Phúc vì hơn một ngày xông xáo mệt mỏi nên đã ngủ say từ chập tốị
Trùng Dương một mình ngồi tĩnh tọa trong phòng vắng, vận khí đơn điền, bồi thần dưỡng sức, chợt nghe ngoài nhà có tiếng động khẽ, Vương Trùng Dương mục chỉ rất tinh, đoán biết đây là tiếng động của loài rắn trùng bò sát đang di chuyển dưới đất và phát ra tiếng động kiạ
Chàng như sực hiểu có chuyện lạ bèn mở hé đôi mắt sáng như sao, nhìn quan sát bốn phíạ Quả nhiên từ ngoài song cửa phát ra tiếng động, dường như có vật gì bò lên.
Trùng Dương bình tĩnh sờ tay lên bàn, lấy năm chung trà sắp thành một hàng ngang trước chỗ ngồị
Thời gian không đây một tuần trà, một con rắn ló đầu vào, hai mang bạnh ra, đầu bằng cái bát lớn, thở khè khè định chui vào nhà.
Vương Trùng Dương nhận ra là loài rắn rất độc tên là “Phúc xà”, da rắn lẫn lộn bốn màu vàng, đỏ, đen, xanh, màu sắc rất ngoạn mục.
Lúc nổi giận hai mang nó bành lớn gấp ba bốn bình thường, nọc độc ghê gớm, bất kỳ người hay vật bị cắn phải, đi chưa được ba bước là ngã xuống chết liền.
Vương Trùng Dương biết rõ loài rắn này không hề có ở miền Tây Bắc hoang sơ lạnh lẽo, và như vậy loài rắn này tất nhiên có người nuôi dưỡng.
Chàng không còn trù trừ, cầm lấy chung trà để lên lòng bàn tay, dùng hai ngón tay kia búng thật mạnh, chung trà như chiếc tên lìa ná bay vút thật nhanh úp lên đầu rắn.
Sức mạnh của chung trà bật ngược thân rắn ra ngoài song cửa, soi lủng vách ván, đầu rắn nát ngướụ Cổ bị đứt ngang như dao tiện.
Chốc sau lại có tiếng bò loạt soạt khác, từ ngoài song cửa thêm một đàn rắn nữa bò vào, Vương Trùng Dương búng thêm chung trà thứ hai như trước.
Cứ như thế Trùng Dương búng hết năm chung trà trước mặt liên tiếp giết chết năm con rắn độc hình dạng như nhaụ
Đột nhiên có tiếng người hút gió thật khẽ, mường tượng như tiếng côn trùng kêu thụ Vương Trùng Dương cười thầm trong bụng :
- Mi đừng hút gió vô ích, bầy rắn của mi chết hết còn đâu mà trở về!
Kẻ bí mật hút gió một hồi, thấy không động tĩnh gì thôi ngưng hẳn tiếng hút gió. Trong nháy mắt sau dó, tiếng sột soạt vang động khắp nơi, rào rào như tiếng tằm ăn dâụ
Trùng Dương biết kẻ lạ đang huy động đoàn rắn vây công mình. Chàng lập tức lay cha con Vương Phúc thức dậy và cho hay :
- Đoàn rắn độc sắp đến, mau dậy đối phó!
Cha con Vương Phúc mắt nhắm mắt mở lật đật trỗi dậy hỏi :
- Rắn đâủ
Nguyên Bân định đốt đèn lên cho sáng, Trùng Dương vội ngăn lại bảo :
- Đừng đốt đèn, rắn thấy mà bò ùa vào thì chết cả lũ!
Tuy trong thà tối đen như mực, nhưng bên ngoài nhà có ánh trăng nên trông thấy rõ như ban ngàỵ Cha con Vương Phúc ló đầu ra nhìn, hai người đều hồn phi phách tán, cơ hồ muốn xỉu!
Vì trên mặt đất trống bên ngoài, lúc nhúc hàng hà sa số đủ loại rắn cực độc, rằn ri, ngũ sắc, lớn nhỏ đủ cỡ ào ào quăng mình như bay, bao vây khắp bốn phía nhà tựa như một đại hội quần xà!
Vương Phúc sợ đến mồ hôi toát ra như tắm, hai cha con Nguyên Bân run lẩy bẩy tìm binh khí cầm tay chờ ứng phó. Vương Trùng Dương thấy thế an ủi :
- Vương lão và điệt nhi yên tâm ngồi vào góc nhà kiạ Có bần đạo ở đây dù có bao nhiêu độc xà cũng không chạm vào hai người một sợi lông chân.
Hai cha con Vương Phúc nghe Trùng Dương nói thế, trong bụng bớt lo, rui ríu vào ngồi thủ thế ở góc nhà.
Trùng Dương lúc ấy chợt nhớ đến bức họa đồ “Thiên Sát Bắc Đẩu trận pháp”.
Trận pháp “Thiên Sát Bắc Đẩu” này án theo phương vị của bảy vì sao Bắc Đẩu hoặc đứng, hoặc ngồi cách xa nhau, rồi án theo sự biến hóa của thất tinh nương tựa công lực bảy người liên đới tương trợ nhau có thể chống đối địch thủ từ bốn phương tám hướng áp tới hoặc giả dùng công lực của bảy người hợp lại để phản công một cao thủ tài ba hơn mình.
Vương Trùng Dương sau khi sư phụ tạ thế trong thời gian cự tang ba năm, chàng đã nghiên cứu tường tận trận pháp Thiên Sát Bắc Đẩu, cảm thấy trận pháp vô cùng huyền diệu, dù chi có một người nhưng với võ công đã đến mức Lư hỏa thuần thanh cũng có thể sức một thành bảy người án theo trận pháp đối phó với cường địch đông.
Đêm nay, với hàng ngàn con rắn độc này chính là cơ hội tốt để chàng đem Thân Sát Bắc Đẩu trận pháp ra thử thách.
Suy nghĩ xong, Trùng Dương quay lại bảo cha con Vương Phúc hãy ngồi vào phía sau lưng mình.
Đoạn Vương Trùng Dương án đúng theo “Thiên Cơ” phương vị trong Bắc Đẩu trận, ngồi tĩnh tọa chờ đợi...
Xảy nghe trên nóc nhà có tiếng động rào rào, rồi bên song cửa cũng có tiếng bò soàn soạt, bốn con rắn to lớn màu đỏ chót chia ra hai ngả bò vào phòng.
Trùng Dương quát lên một tiếng, vung ra một chưởng phạt ngang vào không khí, tựa như một lưỡi đao vô hình sắc bén, thân hình của bốn con đại xà bị làn chưởng phong quét mạnh, đầu mình lìa đôi thành tám khúc văng bật ra ngoàị
Vương Nguyên Bân chợt hét to lên :
- Đạo trưởng coi chừng trên đầu!
Trùng Dương vội thu tả chưởng về. Quét mạnh từ tả sang hữu! ba chiếc đầu rắn to như miệng bát từ trên cao rơi văng mạnh vào góc tường đánh độp một tiếng.
Chàng chưa kịp quay mình để xem loại rắn gì thì từ cửa hai con “Xích luyện xà” phóng vào nhanh như chớp.
Trùng Dương thấy không còn kịp thời giờ để vung chưởng ra ứng phó. Chàng nhanh tay chộp lấy một xác rắn, dùng làm binh khí vụt mạnh vào đôi “Xích luyện xà”, tay Trùng Dương tuy cầm xác rắn nhưng chưởng lực của chàng vẫn còn truyền vào xác rắn phát ra ngoài nên hai con xích luyện xà bi chưởng phong chém đứt thành bốn khúc oằn oại trên mặt đất.
Nhưng lúc ấy đoàn rắn đã ùa tràn vào khắp nơi, trên nóc dưới tường, ngoài cửa, bên song chỗ nào cũng đầy dãy lúc nhúc là rắn độc. Cha con Vương Phúc sợ đến run lên cầm cập gần như ngất đị
Trùng Dương không chút bối rối, án theo phương vị của Thiên Sát Bắc Đẩu trận pháp, trên dưới tả hữu từng chưởng một vung ra, chưởng phong ào ào ra thắp phòng, chỉ trong khoảnh khắc bao nhiêu rắn độc đều đầu mình lìa đôi văng bật ra khỏi nhà, máu rắn vung vẩy khắp tường nhà.
Số rắn bi Trùng Dương giết chết có hơn bốn năm trăm con.
Bao nhiêu rắn độc còn lại ngửi thấy mùi máu nồng nặc của đồng loại dường như kinh sợ lủi đầu bò trở ra như muốn trốn chạỵ
Tiếng hút gió khe khe lúc nãy lại bắt đầu kêu lên 3 lượt, mỗi lượt 3 tiếng, bầy rắn nghe hiệu lệnh hấp tấp rút lui ra ngoài, Trùng Dương thở phào một hơi, rồi mới nói lớn :
- Tôn giá dục rắn thành trận để giết bần đạo nhưng vô ích, chỉ hy sinh mạng chúng vô lối mà thôi, xin tôn giá hãy giải tán bọn chúng để khỏi chết oan loài vô trị
Tiếng nói của Trùng Dương tuy có vẻ bình thường vừa đủ nghe, nhưng thật ra chàng vận dụng nội công “Truyền thanh nhập mật” từng tiếng một truyền ra xa tít như sóng khơi từng đợt, từng đợt như lan tận ngàn trùng, dù người ở xa một dặm ngoài cũng nghe rõ ràng.
Chỉ nghe bên ngoài vang lên một tiếng “hừ” dáng như kẻ địch phẫn uất đến cực độ. Do tiếng “hừ” vừa rồi, Trùng Dương chợt hiểu kẻ địch chỉ huy bầy rắn tấn công vừa rồi chính là gã râu ria Âu Dương Phong chứ không ai khác.
Âu Dương Phong từ dạo trên Mâu Phương Sơn thu thập trứng rắn và khẩn cầu Ngọc Đảnh Chân nhân dạy nội công cho mình không được nên uất ức dùng thiết tranh đánh không lại chân nhân, hoảng sợ trốn đến Tây Vực.
Hầu đem trứng rắn thu thập được chất vào hang nóng phía sau núi Bạch Đà dùng tro than để ấp trứng.
Phong thổ Tây Vực toàn là đất hoang khí lạnh. Không hợp với sự sinh tồn của loài rắn nhưng nhờ Bạch Đà sơn biệt lập trong dãy núi Côn Lôn, bốn mùa thời tiết như xuân, thêm được sự chăm sóc của tay người chẳng mấy chốc trứng rắn nở rạ
Âu Dương Phong ra công săn sóc, gây giống lẫn lộn nhau, không đầy một năm, hắn đã có thêm mấy mươi loại độc xà.
Tuy nhiên bản tánh Âu Dương Phong hoang dâm, độc ác nhưng lại cương quyết dị thường. Bao năm nay hắn nhứt tâm luyện tập võ công để mong đoạt cho được danh: Đệ nhất võ lâm cao thủ.
Hắn còn nghiên cứu quyển Độc Kinh của Ngọc Động chân nhân truyền lại khi xưa, luyện tập bầy rắn đang nuôi bày thành xà trận, cùng phối hợp với võ công cao diệu của mình dự bị ngày làm bá chủ võ lâm.
Không đầy ba năm sau, Âu Dương Phong đã tập luyện thuần thục bầy rắn.
Một hôm hắn giở bộ Độc Kinh ra xem đến trang cuối, hắn chợt đọc một đoạn chú thích cách luyện Cáp Mô công.
Môn Cáp Mô công này là một phương pháp vận dụng khí công, nếu một khi đã luyện thành chỉ cần ho lên một tiếng lớn cũng đả thương được địch thủ trong vòng một trăm bước.
Nhưng muốn luyện được môn Cáp Mô công không phải sự dễ, cần bắt cho được một ngàn con cóc đực thật già hút tất cả chất độc trong thân cóc rồi vận dụng phương pháp thổ nạp (mửa ra nuốt vào) đặc biệt, hòa hợp chất độc ấy với chân khí thành một, lúc này mới có thể vận dụng Cáp Mô công tùy nghi bay ra theo kình khí của mình.
Âu Dương Phong sau khi xem xong, trong lòng thầm nghi nếu luyện được môn Cáp Mô công ấy thêm, thì võ công hiện tại của mình cùng với xà trận vừa tập luyện thuần thục dù không thể dọc ngang thiên hạ, nhưng ít nhất cũng là bá chủ được một miền Tây Vực.
Nhưng loài cóc là sinh vật ở Trung Nguyên, miền Tây Vực không hề có được, Âu Dương Phong bèn quyết định đến Trung thổ sưu tầm loài cóc để chuẩn bị luyện Cáp Mô công.
Cho nên mùa đông năm nay, y đem mười sáu tay xà nô (người giữ rắn) cùng với bầy rắn độc rời khỏi Bạch Đà sơn, đến đất Thiểm Tâỵ Vừa đến Thiểm Tây, Âu Dương Phong đã gặp ngay một ngườị
Người ấy là Quái hòa thượng đã bị Vương Trùng Dương đánh trọng thương tại hang Bách Cầm, may nhờ có Âm Nhu công nên giả chết thoát khỏi tay Trùng Dương.
Quái hòa thượng ấy tên là Mộc Diêm La, là đồ đệ duy nhất của Ngũ Âm phái, Giáo chủ Độc Tôn Giả.
Vì nội bộ Ngũ Âm phái thanh trừng lẫn nhau, Độc Tôn Giả bị giết chết, Mộc Diêm La hoảng sợ trốn lên miền Bắc, ý định đến Tung Sơn Thiếu Lâm tự trộm bí kíp Đạt Ma kinh trong chùa Thiếu Lâm để luyện thêm vô công báo thù cho Dốc Tôn Giả.
Nhưng đường xá không thuộc, lạc đến hang Bách Cầm, vô tình nghe trộm được Thanh Hư chân nhân lúc lâm chung dặn dò Trùng Dương nơi chôn giữ Cửu Âm chân kinh.
Mộc Diêm La quá mừng quên cả nguy hiểm, đề lộ hình tung bị Vương Trùng Dương đuổi đánh thiếu chút nữa vong mạng, phải dùng âm Nhu công giả chết, trốn khỏi hang Bách Cầm.
Nhưng đến khi đến Thiểm Tây, huyện Hoa Âm thì nội thương bộc phát, Mộc Diêm La biết mình khó sống qua khỏi tám mươi ngàỵ
Hắn bôn ba khắp nơi để tìm thuốc chạy chữa vết nội thương kiạ Đến khi gặp Âu Dương Phong, tụy chưa biết y là một danh thủ đất Tây Vực, nhưng thấy diện mạo y kỳ lạ. Sau lưng lại dẫn theo bầy rắn nê lầm tưởng là người đồng đạo nên lập tức cầu khẩn y cứu mạng. còn thố lộ nguyên nhân bị đả thương. Nào ngờ Âu Dương Phong là một ma đầu tham tài háo sát nên chờ nghe Mộc Diêm La thuật rõ nơi chôn giấu Cửu Âm chân kinh xong liền cười lạnh lùng hỏi :
- Thì ra tác hạ vì nghe được sư bí mật của Cửu Âm chân kinh mà bị hạỉ Tại hạ Âu Dương Phong xin giúp các hạ trị lành vết thương!
Nói chưa dứt lời, đã lanh lẹ dùng chưởng vỗ mạnh vào Mạch Môn huyệt của Mộc Diêm Lạ
Mộc Diêm thất kinh vừa định mở miệng kêu lên thì đã cảm thấy khí huyết đảo lộn ngã xuống chết liền tại trận.
Âu Dương Phong sau khi giết chết Mộc Diêm La và biết rõ Cửu Âm chân kinh, quyển bí kíp mà các nhân vật võ lâm không ngớt tìm kiếm tù hai trăm năm nay, hiện giấu tại miền Hoa Sơn, nên bỏ ngay ý định đi Trung Nguyên, lập tức dắt đoàn tùy tùng đến Hoa Sơn.
Y là người cẩn thận rất mực nên biết rằng Cửu Âm chân kinh đã thất lạc mất hai trăm năm nay không thể một sớm một chiều có thể tìm ra được.
Nên đến gần khu vực Hoa Sơn thì dừng bước tạm trú một nơi, khuất phục tất cả thợ săn tiều phu vùng ấy, ép bức dọa dẫm họ phải dò la khắp nơi để tìm ra chỗ chôn giấu Cửu Âm chân kinh, một mặt sai họ lùng tìm khắp thâm sơn cùng cốc bắt cho đủ số một ngàn con cóc về để luyện Cáp Mô công.
Âu Dương Phong y theo trong Ngũ Độc chân kinh, hút tất cả chất độc trong thân cóc rồi theo phương pháp luyện tập Cáp Mô công.
Không đầy một năm đã thấy có căn cơ. Nhưng chưa được đắc thành lắm thì bỗng nhiên gặp Vương Trùng Dương cũng đến núi Hoa Sơn tìm Cửu Âm chân kinh.
Sau mấy trận giao đấu Âu Dương Phong hiểu mình không phải là kẻ đối thủ của Trùng Dương nên nhịn nhục thối lui chờ đêm đến sẽ sử dụng xà trận của mình giết hại Trùng Dương trừ hậu hoạn.
Nào ngờ Trùng Dương bản lĩnh quá cao cường, đánh chết của y hơn mấy trăm con rắn độc.
Sau khi chờ bầy rắn thối lui xong, y chầm chậm vận khí vào miệng, những bắp thịt trên gò má không ngớt rung động lên xuống rồi đột nhiên y ho lên một tiếng lớn, khí chưởng đẩy mạnh vào nhà của cha con Vương Phúc.
Cáp Mô công quả thật lợi hại, “ầm” một tiếng rung chuyển cả mặt đất.
Vách nhà bằng đất nung chín cứng như gạch đã bị kình phong của Cáp Mô công xô ngã hơn phân nửa, cát đất bay văng khắp nơị
Cha con Vương Phúc hoảng hốt kêu to :
- Chết! Chết Trời sập rồỉ
Âu Dương Phong phát thêm một chưởng Cáp Mô công thứ hai nữa liên tiếp “ầm! ầm!” vang dậy như trời long đất lở, vách phòng theo chưởng phong đổ sầm xuống.
Căn nhà tranh rung động ngả nghiêng cơ hồ như muốn sập. Vương Trùng Dương thấy đối phương vô cớ dùng chưởng lực hùng mạnh phá hủy căn nhà của Vương Phúc, bất giác tức giận quát to :
- Hung đồ thật to gan!
Quát xong phi thân theo lô hổng bức tường bị phá vọt mình ra ngoài nhanh như tia điện, Âu Dương Phong thấy Trùng Dương nhảy ra cười ha hả.
Lúc ấy xà trận của Âu Dương Phong bố trí khi nãy vẫn chưa thối lui hết.
Trùng Dương nhìn thấy bầy rắn đang lúc nhúc vô số dưới sân, liền nghĩ thầm :
- “Mi nỡ phá sập nhà của người ta, thì bần đạo giết hết bầy rắn của mi để bồi trừ!”
Nghĩ xong, thân hình chàng đảo thấp, dùng hai tay áo quét mạnh trên mặt đất, sử dụng Thái Ất huyền công của Toàn Chân phái, nghe “bùng” một tiếng thật lớn, bao nhiêu cát đất cùng mảnh vụn của vách tường ngã đổ khi nãy bay ra theo ngọn kình phong mãnh liệt từ tay áo Trùng Dương phất rào rào như một đám mưa bụi dày mù mịt, đập mạnh vào bầy rắn của Âu Dương Phong. Đám mưa bụi cát ấy bề ngoài trông rất tầm thường nhẹ nhàng, nhưng Thái Ất huyền công đã làm cho mỗi hột cát có một kình lực nặng như đá sắt, nóng tựa như than hồng trong lửa đỏ, thử hỏi bầy rắn làm cao chịu đựng nổỉ
Cho nên xà trận lập tức tan biến, bày rắn đổ xô nhau lủi đông lủi tây loạn xị cả lên.
Những tên xà nô, cố gân cổ lên hút gió kêu gọi, lăng xăng dồn đuổi hết sức khổ nhọc mời thu phục bầy rắn trở về hàng ngũ, nhưng số rắn bị thương tích rất nhiềụ
Âu Dương Phong thấy bầy rắn của mình bị phá tan, giận đến râu tóc dựng ngược, “ho” lên một tiếng sử dụng ngay Cáp Mô công đánh bổ vào mình Trùng Dương.
Trùng Dương thấy Cáp Mô công của y lúc nãy phá nát tường nhà, công lực uy mãnh như thế nên chẳng dám chậm trễ, vội hít mạnh chân khí đưa vào đan điền, phất hai tay áo đón lại, đem tuyệt kỹ của Thái Ất huyền công ra đôi phó với Cáp Mô công.
Hai luồng kình khí chạm mạnh nhau “bùng” một tiếng như sét đánh, Âu Dương Phong “hự” to một tiếng, thân hình bị hất bổng lên cao văng tuốt ra xa hơn ba trượng...
Thì ra Cáp Mô công của Âu Dương Phong tuy lợi hại, nhưng vì chưa đến mức tinh thuần nên còn thiếu “chân hỏa”.
Lần thứ nhất và lần thứ nhì Cáp Mô công làm sập được nửa gian nhà của Vương Phúc, chân lực đã tiêu hao phân nửa, cho nên lần thứ ba lúc phát chưởng thổi kình lực Cáp Mô công ra, Âu Dương Phong đã cảm thấy đầu óc nóng ran, nhưng vẫn cưỡng sức cố đen toàn lực vận chuyển khí lực từ đơn điền lên.
Nào ngờ kình lực vừa thổi ra khỏi miệng, thấy khí mạch đảo lộn, cơ hồ muốn ngã nhào, lại bị thêm kình lực của Thái Ất huyền công ập đến. Y cảm thấy toàn thân bị chấn động mãnh liệt, thân hình như chiếc chong chóng quay tròn, rơi “bộp” thật mạnh trên mặt đất.
Tây Độc Âu Dương Phong từ lúc thành danh tới nay, đây là lần thứ nhất bị thảm bại một cách nhục nhã.
Âu Dương Phong vừa rơi xuống đất, tuy biết mình bị nội thương rất nặng, nhưng sợ địch thủ bồi công, tánh mạng khó toàn, vội gượng sức lăn tròn thân hình, nạp khí vào đơn điền và ngồi dậy lẹ làng, cố đè ép khí huyết đang đảo lộn, trầm giọng nói :
- Các hạ bản lãnh thật phi thường! Âu Dương Phong này may mắn được lãnh giáọ Xin hẹn nhau khi khác.
Nói xong, vẫy tay cho bầy xà nô thối lui, rồi tung mình đứng dậy gọn gàng, chậm bước theo sau bầy rắn bị thương.
Vương Trùng Dương thấy y trúng phải Thái Ất huyền công của mình mà vẫn thản nhiên đứng dậy như người vô sự, vừa ngạc nhiên vừa khâm phục công lực phi phàm của Âu Dương Phong. Hơn nữa tính chàng không phải là người háo sát, bèn tươi cười đáp :
- Bần đạo đâu muốn gây thù chuốc oán với các hạ làm gì. Chỉ tại các hạ bức bách quá, bần đạo mới buộc lòng ra tay, xin các hạ lượng tình.
Nói đoạn, quay mình trở vào nhà, thấy cha con Vương Phúc đang tần ngần đứng nhìn căn nhà bị phá vỡ hết phân nửa, Vương Trùng Dương bèn an ủi :
- Chỉ tại bần đạo chỉ điểm cho lịnh lang đi đánh lộn mới ra nông nỗi này!
Cha con Vương Phúc vội cúi đầu, cung kính nói :
- Ân của Đạo trưởng như trời, sá gì căn nhà tồi tàn nàỵ Nơi đây vật liệu sẵn sàng, chỉ trong vài ngày là cha con tôi sửa chữa xong hết. Xin Đạo trưởng yên tâm!
Rạng ngày, cha con Vương Phúc thức giấc thật sớm để thu dọn xác rắn.
Vương Nguyên Bân chợt thấy dưới khung cửa sổ có năm chung trà nằm song nhau, và lạ hơn nữa là dưới mỗi chung trà có một đầu rắn bị ghim sâu xuống đất.
Chàng sau khi rõ biết chuyện giết rắn của Vương Trùng Dương đêm qua, bèn quỳ ngay trước mặt Trùng Dương định mở miệng nóị
Trùng Dương đã hiểu ý định của chàng, vội đỡ chàng dậy, cười bảo :
- Ngươi không nói ra ta cũng hiểu rồi, định bái tạ làm sư phụ phải không!?
Nguyên Bân đáp :
- Đạo trưởng đã soi thấu ruột gan con, đệ tử có ý định như vậy!
Trùng Dương Cười ha hả :
- Tốt lắm! Kêu cha con vào đâỵ
Vương Nguyên Bân tưởng Trùng Dương đã bằng lòng, chàng hết sức mừng rỡ, hấp tấp cho cha haỵ
Vương Phúc nghe xong hân hoan đi vàọ Nào ngờ Trùng Dương nghiêm sắc mặt nói :
- Lịnh lang định bái bần đạo làm sư phụ, đáng lẽ bần đạo không nên từ chối, vì lịnh lang có căn cốt rất tốt về võ học, chỉ cần trau dồi thêm ắt sẽ thành bậc kỳ tàị Giờ đây bần đạo có một điều nhờ cậy không hay hai người có bằng lòng không?
Vương Phúc đáp :
- Tiện nhân đã hiểu, chắc dạo trưởng định nhờ mua thuốc trị rắn chứ gì?
Tiện nhân se lập tức đi mua lưu hoàng về.
Trùng Dương lắc đầu cười :
- Bần đạo không hề sợ! Bần đạo có một bức họa đồ, hai người xem sẽ biết!
Nói đoạn Trùng Dương bèn trương bức Hoa Sơn Tàng Kinh Đồ ra cho cha con Vương Phúc xem.
Vương Phúc dụi mắt nhìn vào, la lên :
- Ủa! Bức tranh vẽ phong cảnh núi Hoa Sơn đây mà! họa thật là khéo!
Trùng Dương hỏi :
- Ông có nghe đến tên Cửu Âm chân kinh bao giờ chưả
Dương Phúc ngạc nhiên đáp :
- Chưa! Cửu Âm chân kinh là cái gì kìả Thật tôi không hiểu!
Vương Nguyên Bân bỗng xen vào :
- Phải rồi! Có một lần đi đánh lộn với anh em họ Hoắc, tôi rình nghe họ bàn soạn nho nhỏ với nhau rằng: “Sơn chủ muốn tìm Cửu Âm chân kinh...”. Lúc ấy tôi không để ý đến, bây giờ nghe Đạo trưởng nhắc, tôi mới nhớ lại! Có lẽ là một vật rất quí trọng!
Trùng Dương gật đầu :
- Đúng thế! Cửu Âm chân kinh là một quyển sách vô giá của võ lâm! Tất cả tinh hoa của võ thuật trong thiên hạ đều tập trung vào quyển sách ấỵ Bởi thế, Sơn chủ Âu Dương Phong mới gia công tìm kiếm, nhưng quyển sách đã lạc mất từ mấy trăm năm nay cho đến lúc gần đây mới có người cho biết là giấu ở núi Hoa Sơn, bức họa đồ này nơi chỉ rõ chỗ giấu Chân kinh!
Vừa nói, Trùng Dương vừa dùng ngón tay chỉ vào họa đồ chỗ thiếu nữ đang múa kiếm giữa sườn núi, và chỗ ngư ông đang câu cá bên khe suối dưới chân núi, rồi tiếp :
- Hai cha con ông sinh trưởng tại Hoa Sơn từ nhỏ đến lớn, có bao giờ thấy một thiếu nữ và một ngư ông giống như trong bức họa đồ này chăng?
Vương Phúc nhìn kỹ bức tranh một hồi rốt ha hả cười to một lúc mới đáp :
- Thưa Đạo trưởng, hại hình ấy không phải là người sống, và dù nếu có phải là người sống từ mấy trăm năm trước, nhưng bây giờ thì đã biến hình đá rồi còn gì!
Trùng Dương hết sức ngạc nhiên hỏi :
- Saỏ Hai hình này là tượng đá ư?
Vương Phúc cười và thuật rõ tự sự. Thì ra hai hình trong bức họa đồ, là hai nơi thắng tích của Hoa Sơn.
Hình thiếu nữ múa kiếm nơi triền núi gọi thắng tích Vũ Kiếm Thạch.
Tương truyền vào đời nhà Đường có một thiếu nữ cha mẹ bị kẻ thù giết chết.
Chỉ có một mình nàng thoát khỏi trốn lên núi Hoa Sơn.
Thời may nàng gặp được kiếm khách chỉ điểm kiếm thuật. Từ đó ngày đêm nàng khổ công luyện tập chờ ngày thuần thục sẽ hạ sơn rửa hận.
Nào ngờ kẻ thù dò biết được, dùng kim ngân mua chuộc dũng sĩ tìm được lên núi để giết nàng trừ hậu hoạn.
Vừa gặp lúc nàng đang luyện kiếm bên sườn núi, tên dung sĩ thừa cơ nàng bất ý phóng ám khí ra sát hại nàng. Nhưng thiếu nữ lúc gần chết đã phóng mũi kiếm trên tay, cắm phập vào ngực thích khách. Và sau khi nàng chết thi thể nàng vì oán khí không tan cứ đứng mãi không ngã, lâu năm chầy tháng biến thành tượng đá.
Do sự tích trên hậu thế mới gọi tượng đá ấy là Vũ Kiếm Thạch.
Còn hình ông câu bên suối nước gọi là thắng tích Hiếu Tử Thạch.
Nguyên do vì ở chân núi Hoa Sơn có một khe nước rất sâu và rộng, nơi dưới khe có một loại cá thịt rất ngon gọi là ngân ngư, bán rất được giá.
Bởi thế sơn dân ở Hoa Sơn rầm rộ kéo đến câu, chài nên chẳng mấy chốc loài ngân ngư gần như tuyệt giống.
Tượng đá Hiếu Tử họ Triệu tên Tử Cáng, vốn là một sĩ tử, văn hay chữ tốt vì chạy loạn Hoàng Sào nên cùng mẹ già ẩn cư tại núi Hoa Sơn.
Người mẹ của chàng ta quê ở Triết Giang, mắc phải chứng đau bụng kinh niên, chi có Ngư thang mới diệu trị được bịnh tình.
Một hôm bịnh tình của mẹ Triệu Tử Cang bộc phát, rên la suối ngày, bà biết nơi sinh cảnh này không làm gì tìm được cá tươi, nên bảo Triệu Tử Cang tìm cách cho bà chết để tránh sự đau đớn hành hạ. Nhưng Tử Cang là một người con hiếu thảo, đâu nỡ đành lòng.
Ông lập tức lấy cần câu chạy bay đến khe Bích Tùng noi theo gương “Nhị thập tứ hiếu” khóc than cho tuyết tan để tìm Lý Ngư về dâng cho mẹ.
Có lẽ vi lòng hiếu của Tử Cang cảm động đến trời, không đầy nửa tháng, ông đã câu được ba con ngân ngư, mừng rỡ ông định xách cá trở về, nào ngờ người lối xóm đến cho hay, mẹ Ông quá đau đớn không chịu được đã treo cổ tự ảị
Triệu Cang nghe xong người chết điếng, đôi mắt từ từ nhắm lại, ngồi im bất động như hình cây tượng gỗ.
Người láng giềng thấy ông ngồi im mãi, định lay ông dậy, nào ngờ lúc rờ đến người ông thì thân mình ông đã lạnh như băng giá cứng từ lúc nàọ
Và kỳ lạ thay, sau khi Tử Cang lìa trần, thi hài như mọc rễ xuống đá, mọi người muốn khiêng về chôn cất, không làm sao khiêng nổi, đành để yên đấy năm tháng dần trôi xương thịt đã biến thành phiến đá.
Hai hình người hóa đá ấy: một ở sườn non, một bên khe suối đối diện nhau.
Nghe bô lão trong vùng thuật lại thì cứ mỗi lần giông to gió lớn thường nghe tiếng múa kiếm vi vu của người thiếu nữ cùng tiếng thở dài não ruột của ngư ông. Sơn dân trong vùng vì thế ít ai dám lai vãng đến chỗ ấỵ
Độ trăm năm về trước nhằm ngày vía của Tây Nhạc Sơn Thần, đột nhiên thiên lôi địa ám, mưa tuôn như xối, sấm sét nổ rung chuyển cả rừng núi, tượng đá Vũ Kiếm Thạch bị sét đánh bay mất một mảng vai tóc và sau lưng tượng Hiếu Tử Thạch thì sét soi thủng một lỗ thật lớn. Sau trận sét ấy những hiện tượng ma quái mới chấm dứt tới nay.


Hồi 15

Bí Mất Trong Hộp Sắt


Trùng Dương nghe Vương Phúc thuật xong, thì tự nghĩ thầm trong bụng rằng, Hát Vân Tử vẽ bức tranh Hoa Sơn này đã toán sẵn huyền cơ, nơi giấu chân kinh, nếu chẳng ở trong tượng Vũ Kiếm Thạch thì nhất định là ở trong lòng tượng đá Hiếu Tử Thạch hoặc giả là đem chân kinh phân ra làm hai bản giấu vào hai nơi ấỵ
Chuyện này xét ra cũng dễ thấy, nhưng tại sao sư phụ mình là Thanh Hư chân nhân tới Hoa Sơn mấy lần vẫn không tìm ra được nơi giấu Cửu Âm chân kinh, Trùng Dương nghĩ ngợi mãi không sao giải đáp được.
Vương Trùng Dương lưu lại nhà Vương Phúc thêm mấy ngày giúp hai cha con dọn dẹp và sửa chữa lại nhà cửa xong xuôi, mới nhờ cha con Vương Phúc dẫn mình đến hai thắng tích nói trên.
Ba người đi một mạch đến chân Hoa Sơn, Vương Phúc đang lúc định tìm đường trèo lên núi bỗng nghe trên đầu núi có tiếng la hét.
Rồi trên hai ba mươi tên sơn dân săn bắn, dưới quyền thống lãnh của ba anh em họ Hoắc xuất hiện trước mặt ngăn chặn không cho đi tớị
Hoắc Văn Qúi hét lớn :
- Vương Phúc, cha con mi đưa lão đạo sĩ mũi trâu lên núi để phá hoại phong cảnh của Hoa Sơn này phải không? Mau dắt nhau trở về.
Vương Nguyên Bân nhìn thấy anh em họ Hoắc định làm khó mình, định lên tiếng trả lời thì Trùng Dương đã nhanh nhẹn vượt bước lên trước chấp tay thi lễ, nói :
- Vô lượng thọ Phật! Núi Hoa Sơn là danh sơn trong thiên hạ, không phải của riêng một ngườị Bất kỳ ai cũng có quyền đến đây ngoạn cảnh, tại sao các vị không cho bần đạo lên núỉ
Hoắc Văn Qúi đáp :
- Yêu đạo, nhà ngươi cậy có chút yêu thuật hộ thân, định phá hoại phong thủy của Hoa Sơn cho nên cầm thú Hoa Sơn hoảng sợ chạy hết làm chúng ta không còn phương sinh sống. Vì vậy mà mỗi người của bọn ta nhất định liều mạng giữ nơi đâỵ Mi có giỏi cứ giết hết bọn ta rồi hãy lên núị
Nói đến dây hắn quay lại hỏi bọn phường săn :
- Các anh em, từ mấy hôm nay cầm thú đều biệt tăm hết phải không? Chính do lão đạo sĩ mũi trâu ấy gây ra! Chúng ta tiến lên giết chết lão để rửa hận.
Bọn sơn dân đồng rập dạ lớn cử binh khí chờ đợi hiệu lịnh tấn công.
Trùng Dương dù hiểu cầm thú trên núi Hoa Sơn trốn chạy mất là vì kinh sợ bầy rắn của Âu Dương Phong, ba anh em nhà họ Hoắc nay nghe lời xúi biểu của Âu Dương Phong định trút tội lỗi lên đầu mình. Nên cười nhạt rồi đáp :
Mi bảo là ta phá phách Hoa Sơn, đuổi chạy điểu thú nhưng căn cứ vào đâủ
Ta muốn lên núi ta cứ lên. Bọn mi có bao nhiêu người như thế đấy mà ngăn chặn nổi ta saỏ
Hoắc Vãn Qúi không trả lời, tay tả bất thần vung mạnh một ngọn lạp soa nhắm ngay Trùng Dương phóng tớị
Trùng Dương không buồn né tránh mặc cho ngọn lạp soa chạm mạnh vào da, nhưng kỳ lạ thay da thịt của chàng lại tự động hõm sâu vào, làm cho kình lực của ngọn soa vô hình trung bị hóa giải tiêu tan.
Chàng mới nhẹ nhàng giơ hai ngón tay kẹp lấy mũi soa, cười nói :
- Mi bảo bần đạo dùng yêu pháp che mắt người, nếu không thi thố chút công phu, nhà ngươi đâu chịu phục. Xem đây!
Nói đoạn, cổ tày chàng không hề nhích động, chi búng mạnh hai ngón tay, ngọn lạp soa bay trở lại mau như chiếc tên lìa cung bay ghim vào thân cây cổ thụ cách xa hơn bốn trượng.
Nghe “phập” một tiếng, ngọn lạp soa dài hơn ba thước cả mũi lẫn cán cắm lút sâu vào chân cây chỉ còn dư lại đầu cán không đầy ba tấc.
Trùng Dương búng ngọn lạp soa ghim qua thân cây cổ thụ nhẹ nhàng như que tăm đâm thủng miếng đậu hũ.
Bọn phường săn trông thấy như thế đều lắc đầu le lưỡi khiếp sợ vô cùng.
Ba anh em Hoắc Văn Qúi tuy biết bản lĩnh của Trùng Dương phi phàm xuất chúng, nhưng vì chịu mạng lịnh của Âu Dương Phong sai khiến nên nhứt quyết cản trở Trùng Dương đến cùng.
Hắn bèn quát to :
- Yêu đạo, đấy cũng là pháp thuật ám nhãn chúng ta, không phải là chân vũ thuật, nhà ngươi hãy thi triển công phu khác, chúng ta mới bái phục.
Tiếng nói hắn chưa dứt, Trùng Dương đã tung mình nhảy vút lên cao hơn bốn trượng, rồi nhanh như tia điện áp xuống giữa đám người phường săn.
Chân vừa châm đất hai tay đã chộp hai anh em Hoắc Văn Qúi và Hoắc Văn Phúc giơ bổng lên khỏi đầu trông nhẹ như ai chiếc đèn giấỵ Trùng Dương hét lớn :
- Như vậy là chân vũ thuật chưả
Bọn phường săn xôn xao kêu lèn, cử động binh khí định tiến tới trước, Trùng Dương quay tít hai anh em họ Hoắc trên không trung, cười bảo :
- Nếu các người tiến lên, ta sẽ giết chết hai tên này!
Bọn phường thợ săn sợ đánh nhầm hai anh em họ Hoắc, đành thối lui ra saụ
Trùng Dương cười ha hả, nói :
- Nếu bần đạo dùng hai tên này để uy hiếp bọn ngươị Các người sẽ cho ta sợ mà làm thế, không đáng mặt là anh hùng. Để ta mượn hai tên này đấu lại bọn ngươi cho các người thấy mà chịu phục tạ
Hoắc Văn Qúi - Văn Phúc hai người bị cái vỗ ấy cảm thấy toàn thân tê dại, không cử động gì được.
Trùng Dương lúc này mới quát tiếp :
- Đánh mau!
Hai anh em họ Hoắc như hai gã say rượu mất trí. Thượng chân hạ tay nhằm bọn phường săn đánh nhầụ
Trùng Dương không những dùng hai người làm món binh khí mà còn truyền chưởng lực của mình vào chân tay của họ. Hai anh em họ Hoắc theo sự sai khiến của Trùng Dương, tả công một quyền, hữu phát một cước sức đánh của hai người lúc ấy mạnh bạo dị thường, xuất thủ lại vô cùng kỳ ảo, nên chỉ trong chốc lát lai ba mươi tên phường săn kẻ bưu đầu, người sứt trán.
Bọn chúng quá tức giận, quên cả câu “ném chuột vỡ đồ”, đồng hươ động binh khí đâm nhầu hai anh em họ Hoắc.
Thủ pháp của Trùng Dương quả tuyệt xảo, chàng nắm hai người xoay tả, quay hữu, bao nhiêu đao thương của bọn phường săn, không hề đụng chạm mình hai anh em họ Hoắc mà trái lại, bọn họ còn bị quyền cước của hai người đánh thôi thuật điên bát đảo, kêu la ôi ối, thi nhau ôm đầu, lủi chạy như bầy chuột.
Duy có một mình Hoắc Văn Định, từ nãy giờ đứng yên một chỗ quan sát tình thế, y đội nhiên chạy vút ra phía sau lưng của Trùng Dương, rút vội một ống tròn bằng sắt mở nắp ra chỉ nghe “vi vu” một tiếng hút gió thật khẽ, từ trong ống sắt bò vọt ra một con tiểu thanh xà, cất cao chiếc đầu mổ mạnh vào lưng Trùng Dương.
Hắn dùng thủ đoạn này thật hết sức độc hiểm vì con tiểu thanh xà bị nhốt kín trong cái ống sắt, đuôi rắn bị một cơ quan đặc biệt giữ chặt chỉ chừa một phần khúc đầu độ năm sáu tấc có thể ló ra khỏi ống sắt để cắn kẻ địch!
Bởi thế người sử dụng ống sắt không hề bị rắn cắn phải mà có thể tùy nghi sử dụng, thanh xà như một món vũ khí giết hại địch thủ trong nháy mắt.
Hoắc Văn Định biết mình không phải là đối thủ của Trùng Dương nên mới dùng đến thủ đoạn ám muội nàỵ Nọc độc của con thanh xà rất ghê gớm, bị mổ trúng là chết liền tại chỗ.
Vương Trùng Dương tai mắt rất thính, vừa nghe sau lưng có hơi gió lạ, chàng không buồn quay đầu hại, giơ chân lên đá ngoéo ra sau một cước như đá cầu, gót chân không chút sai lệch đó trúng ngay cổ tay đang cầm chiếc ống sắt của Hoắc Văn Định, nghe “bộp” một tiếng, chiếc ống sắt văng bổng lên không trung hơn bốn trượng caọ
Ống sắt rớt xuống lại trúng ngay đầu của Văn Định. Con thanh xà ngửi thấy hơi người là cắn liền.
Văn Định bị thanh xà mổ trúng gò má, kêu lên một tiếng bi thiết rỗi ngã vật xuống đất.
Trùng Dương nghe tiếng rên, vội xoay người lại nhìn, chàng hốt hoảng buông hai anh em họ Hoắc ra nhẩy lẹ đến bên Hoắc Văn Định để giải cứụ
Trước tiên, chàng dùng chân đá ống sắt bắn ra xa, rồi dùng chưởng phong đánh chết con thanh xà, sau đấy mới đỡ Hoắc Văn Định ngồi dậy, thấy thân hình y đã bầm đen, chết cứng từ lâụ
Bọn phường săn thấy thế đồng thanh la lên :
- Không xong! Yêu đạo đã giết người!
Trùng Dương không nói năng gì, lừ lừ đến bên hai anh em họ Hoắc. Giải huyệt cho hai người, rồi sẵn tay mò vào ngực của họ móc ra hai chiếc ống sắt in như chiếc ống sắt vừa rồi của Văn Định.
Trùng Dương rút mạnh chiếc nắp ra, trong ống lú ra một đầu tiểu thanh xà, lo le chiếc lưỡi đỏ như máu, trông thật phát khiếp.
Bọn phường săn vừa thấy đều cả sợ thối luị Trùng Dương ném mạnh hai ống sắt vào chân núi đá, cả ống lẫn rắn đều nát vụn như cám.
Trùng Dương nư giận vẫn còn, túm lấy hai anh em họ Hoắc quát lớn :
- Bọn bay nghe theo lời xúi giục của Âu Dương Phong nuôi độc xà để hại người, lại dám cả gan di họa cho bần đạọ Thầy trò chúng bay theo khuấy rối ta chưa đủ, còn định lợi dụng bọn phường săn chất phác để làm vật hy sinh. Nhưng trời cao có mắt, hại người thành ra hại mình. Lần này bần đạo tha cho, nếu gặp lại lần thứ hai đừng mong sống sót. Cút mau!
Nói xong, giơ chân đạp cho mỗi người một đạp té lăn cù. Bọn phường săn lật đật đỡ hai người đứng lên. Khiêng thây Hoắc Văn Định dắt díu nhau trở về.
Trùng Dương sau khi đuổi tan bọn phường thợ săn, quay sang bảo cha con Vương Phúc :
- Bọn chúng đã đi hết, chúng ta có thể tiến lên Hoa Sơn được rồi!
Ba người đi hơn hai giờ đổng hồ thi đến Vũ Kiếm Thạch. Vương Trung Dương thấy tượng đá Vũ Kiếm Thạch cao độ sáu thước, xa xa đứng nhìn thật giống một thiếu nữ đang vũ lộng thanh kiếm, tà áo phơ phất theo kiếm phong.
Trùng Dương không ngớt ca ngợi cảnh hùng vĩ thiên nhiên của tạo hóạ
Vương Phúc giơ tay chỉ ra phía trước và nói :
- Đạo trưởng xem kìa, trên phiến đá kia còn lưu lại một lỗ thủng, tương truyền đấy là nơi vị nữ hiệp phóng kiếm giết kẻ thù...
Trùng Dương vội đến bên động nhìn xuống phía dưới, quả nhiên bên bờ khe thăm thẳm ấy, khỏi mặt nước độ ba trượng sâu bỗng nhô ra một phiến đá kỳ lạ, hình trạng như một chiếc đe khổng lồ, trên phiến đá sâu lõm một lỗ thủng to bằng miệng bát, trơn láng như do tay người đục khoét, xung quanh mọc đầy những dây leo chằng chịt.
Trùng Dương như có chủ định, nói :
- Hai người đứng phía trên canh chừng, để bần đạo nhảy xuống phiến đá quan sát một chút.
Vương Phúc cả sợ đáp :
- Úy, đâu được! Dưới ấy khe sâu vạn trượng, nếu Đạo trưởng trật chân rơi xuống, xương thịt sẽ không còn một miếng.
Trùng Dương cười đáp :
- Ông yên tâm! Tôi có thể xuống được không sao!
Nói xong khẽ nhún đôi chân, thân hình như chiếc lá rụng nhẹ nhàng rơi xuống khẹ
Vương Phúc kêu lên một tiếng kinh hoảng, hai tay bụm mặt không dám nhìn.
Nguyên Bân can đảm hơn chạy đến bờ khe ngó xuống thấy Trùng Dương đứng vững trên phiến đá lạ.
Nguyên Bân vỗ tay khen ngợi :
- Ba ơi! Đạo trưởng bản lĩnh thật cao kỳ, nhảy một cái đã tới bờ đá.
Vương Phúc quẹt mô hôi lạnh trên trán, chạy đến bờ khe thấy Trùng Dương đứng trên phiến đá chăm chú nhìn vào lỗ thủng.
Vương Phúc thầm nghĩ :
- Cái lỗ thủng nhỏ như vậy có gì đáng ngắm! Vị Đạo trưởng này thật là một lão cuồng sĩ, không lẽ ông là nhà khảo cổ.
Trong lúc lão đang cười thầm trong bụng, thì phía dưới Vương Trùng Dương đang cúi mình xuống bứt sạch đám dây gai xung quanh miệng hang, thò tay vào hàng mò lên một chiếc hộp sắt đã rỉ khắp cùng.
Thì ra Trùng Dương tâm ý rất tinh tế, chàng nhìn thấy phiến đá màu đỏ thẫm, biết đây là loại phún thạch. Và giống thực vật không thể sinh sản trên loại phún thạch này được, trừ phi có tay người gia công trồng trọt.
Trùng Dương suy ra điểm ấy quyết chắc trong lỗ hổng nhỏ thế nào cũng có dấu sự bí mật, bèn xô vẹt gai góc, thò tay vào trong, đụng nhằm một vật, được chôn cứng giữa lòng đá, chàng chuyển sức lôi chiếc hộp ra ngoàị
Trùng Dương thấy trên mặt hộp khắc rõ bốn chữ Chân Kinh Chi Kiện, Trong lòng vô cùng hoan hỉ, tung mình nhảy vụt trở lên núi một cách nhẹ nhàng.
Cha con Vương Phúc không nén được lòng khâm phục. đồng hét lên :
- Đạo trưởng thật tài năng xuất chúng!
Trùng Dương mặc cho cha con Vương Phúc khen ngợi, vội vận lực mở banh nắp hộp rạ Chiếc hộp sắt tuy được phong khóa hết sức kiên cố, nhưng cũng không làm sao chịu nổi nội gia thần lực của Trùng Dương.
“Rắc” một tiếng khô khan, chiếc hộp sắt bị xé toang làm hai mảnh rớt ra một thẻ ngọc phù trong suốt như gương, trên thẻ ngọc có khắc mấy hàng chữ nhỏ, Trùng Dương nhường mắt đọc nhỏ: “Nơi chôn Cửu Âm chân kinh, tận dưới khe sâu Bích Tòng, trong chiếc ngọc hộp, giấu giữa lòng Ngư Thạch, chỗ Hiếu Tử buông câụ Nơi ấy nước sâu một tầm, vách đá tròn như mặt ghế, chính là chỗ giấu chân kinh. Người hữu duyên gặp được, khá giữ cẩn thận, chớ để lọt vào tay kẻ gian ác thêm họa cho muôn người!”.
Nơi dưới có chú danh “Hải Vân Tử di bút” nét chữ so với bút tự trên bức Hoa Sơn đồ không sai một mảỵ
Trùng Dương thầm kinh sợ Hải Vân Tử quả là người trí cơ huyền diệu, ông đã giấu Cửu âm Chân linh theo lối liên tỏa, nếu là người tánh tình nóng nảy thô bạo không thể tìm rạ
Đầu tiên phải phát giác hài cốt trong mật động, rồi mới lượm được bức mật đồ và từ trong bức mật đồ ấy suy nghiệm nơi thắng tích Vũ Kiếm Thạch, Hiếu Tử Thạch là chỗ giấu chiếc hộp sắt Tàng Kinh Chi Kiện, rồi từ chiếc hộp sắt ấy mới biết rõ được nơi giấu mật kinh dưới đáy khe Bích Tòng.
Trùng Dương khi khám phá được sự bí mật trong lòng hết sức mừng rỡ, hai tay nâng cao Chiếc hộp sắt quỳ xuống vái vào khoảng không, miệng lắp bắp :
- Xin tổ sư phù trợ cho đệ tử!
Bất thần trong lúc đó hai con phục xà lớn bằng miệng chén, nhẹ nhàng từ khe sâu trườn lên phía sau lưng Trùng Dương không một tiếng động.
Loại phục xà này rất lợi hại, dù võ công thâm hậu đến bực nào, nếu bị cắn nhằm, độc tố phát ra là chết không phương cứu chữạ
Đôi rắn bò đến chỉ còn cách Trùng Dương năm sáu thước, chàng vẫn chưa haỵ Đến lúc Vương Nguyên Bân phát giác được thì cặp rắn đã bò tới bên chân của Trùng Dương, y hoảng hốt la to lên :
- Úy rắn! Sư phụ, rắn độc sau lưng kìa!
Trùng Dương nghe la giật nẩy mình chưa kịp phản ứng. và trong khi Nguyên Bân vừa cất tiếng, thì đôi rắn đã cất cao chiếc đầu mổ vào người Trùng Dương nhanh như một tia điện xẹt.
Trùng Dương không còn thì giờ chống đỡ vội nhún khẽ đôi chân, bật mình lên khỏi mặt đất cao hơn trượng tránh khỏị
Cặp rắn tuy không cắn trúng Trùng Dương, nhưng trớn nhanh của một cái mổ xuống vẫn còn mạnh, chúng bèn lao mình về phía cha con Vương Phúc, há họng phùng mang táp tớị
Hai cha con Vương Phúc định tràn mình sang bên để tránh. Nhưng làm sao kịp! Trùng Dương thấy nguy cơ vội cắn thẻ ngọc phù nơi miệng.
Hai tay hai mảnh hộp sắt ném nhanh vào cổ rắn “Xoảng, xoảng” hai tiếng kêu vang, hai mảnh hộp sắt như hai ngọn phi đao sắc bén, tiện đứt lìa hai con rắn thành bốn khúc.
Trùng Dương định tiến lên để nhìn xem là loại rắn gì, thì dưới khe sâu, liên tiếp phát ra những tiếng xào xạc như có người dẫm lên đám lá khô.
Chỉ trong chốc lát từ miệng khe bò lên hơn mấy trăm con rắn lớn nhỏ đủ cỡ.
Cha con Vương Phúc sợ đến hồn phách tiêu tan, quýnh quáng kêu :
- Chết mất! Bầy rắn đến nữa rồi!
Trùng Dương biết rõ bầy rắn này do Âu Dương Phong chỉ huy, mai phục sẵn gần bên chân tượng Vũ Kiếm Thạch định ám toán chàng.
Trùng Dương nộ khí xung thiên cười khẩy một tiếng và nói :
- Thứ tiểu trùng vô dụng này mà làm được trò gì? Các hạ núp mãi trong bóng tối để giở thủ đoạn ám muội ra hại người, thật không đáng danh là Bạch Đà sơn chủ!
Nói đoạn chàng quay đi dặn dò cha con Vương Phúc không được rời khỏi chàng quá ba thước để một mình chàng rảnh tay phá tan xà trận.
Và trong khoắng khắc ấy, bầy rắn đã từ bốn phía bò nhanh đến vây chặt ba người vào giữạ
Trùng Dương quát lên một tiếng cực lớn. Rút phăng thanh Tùng Vân bửu kiếm ra đối phó.
Chính vừa lúc trên mấy chục con rắn đầu đàn to lớn, đang nhe nanh, há họng quăng mình mổ tớị Trùng Dương đảo mạnh thanh kiếm tung ra một chiêu “Gió Sét Chạm Nhau”, vận dụng nội lực từ đơn điền phát mạnh theo kiếm phong, chỉ thấy một làn sáng bạc lấp loáng như tia chớp, hai mươi con rắn đầu đàn bị kiêm quang tiện dứt làm đôi, máu tanh văng tung tóe khắp mặt đất. Loài rắn tuy là giống xuẩn động vô tri nhưng cũng biết tham sống sợ chết, ngửi thấy máu tanh của đồng loại đều sợ hãi thụt đầu, rút đuôi lủi trốn ra saụ
Trùng Dương quát thêm một tiếng thứ hai, vũ lộng kiếm quang sử dựng thêm một chiêu “Sấm Bủa Mặt Đất”, mũi kiếm tựa như làn sét đảo tròn trên mặt đất giết thêm trên ba chục con thanh trúc xà còn bò chậm phía saụ
Hai thế kiếm của chàng giết hơn năm mươi con rắn mà thân hình vẫn đứng y nguyên chỗ cũ, hai chân không hề di động nửa bước, bản lĩnh của chàng, thật thế gian hãn hữụ
Bầy rắn còn lại càng khiếp sợ uy lực của Trùng Dương, bất kể hiệu lệnh chỉ huy của chủ nhân, thi nhau lủi trốn, từ phía dưới chân núi phía sau tượng Vũ Kiếm Thạch, liên tiếp có mấy tiếng huýt gió, nhưng bầy rắn vẫn một mực lủi đầu như baỵ Trong chớp mắt đã bỏ trốn sạch không còn một mống.
Trùng Dương nghe tiếng huýt gió, bèn cười lên ha hả nói vọng xuống :
- Bằng hữu, bầy trùng của bạn hết linh rồi, nếu còn chưa phục mời bạn lên đây thử tài cao thấp.
Lời nói ấy Trùng Dương đã vận dụng nội công “Kim Quan Ngọc Sảo” quyết thứ hai mượt bốn của Toàn Chân phái, môn khi công này có thể truyền tiếng nói ra thật xa so với môn công phu “Truyền âm mật thủ” không hơn không kém.
Tiếng nói vừa dứt, thì tiếng huýt sào dưới chân núi cũng bặt luôn. Có lẽ kẻ bí mật tự lượng sức mình nên im lặng rút luị
Trùng Dương thản nhiên sửa lại nếp đạo bào lượm hộp sắt cầm tay, cùng cha con Vương Phúc xuống núi trở về.
Trùng Dương về đến nhà suy nghiệm lời di ngôn trong chiếc hộp sắt, chàng như hội ý được điều gì, nên rạng ngày hội thăm Vương Phúc :
- Ông thường săn bắn ở Hoa Sơn, có biết được người nào rành về thủy tánh chăng?
Vương Phúc suy nghĩ giây lâu đáp :
- Thưa Đạo trưởng, chắc là không, vì nhân dân vùng này đều là thợ săn sinh sống ở núi cao, làm gì biết được lội lặn!
Vương Nguyên Bân lanh miệng xen vào :
- Có có! Có một người rành về thủy tánh. Người ấy ở dựa bên bờ Hiếu Tử Thạch, gia chủ là một lão già họ Khúc. Ông có người con độ mười bốn buổi lội rất giỏi, có bữa con thấy nó nhảy xuống khe lặn xuống dưới đáy để bắt cá.
Trùng hương cả mừng nói :
- Tốt lắm! Nguyên Bân hãy đưa ta đến tìm cha con họ Khúc.
Nguyên Bân lập tức sửa soạn binh khí tùy thân, dẫn Trùng Dương đến nhà họ Khúc. Qua khỏi Hiếu Tử Thạch vào một rừng tùng xanh im mát, cuối rừng tùng có một gian nhà tranh lụp xụp.
Còn cách căn nhà độ ba mươi thước hai người nhìn thấy rõ trong nhà một đứa tẻ xô cửa bước rạ
Đứa trẻ ấy mắt to như lục lạc, da ngăm đen, chỉ mặc một chiếc quần đùi, mình cởi trần trùng trục, tay cắm một mảnh lưới nhỏ :
Nguyên Bân kêu lớn :
- Khúc ca ca, đi đâu thế? Đi đến suối bắt cá phải chăng?
- Phải đấy! Vương ca đi đâu đó?
Trùng Dương bước đến trước mỉm cườị nói với cậu bé :
- Cậu nhỏ, khoan đi đã! Mau trở vào cho gia gia ngươi hay bần đạo có chuyện cần bàn.
Cậu bé họ Khúc gật đầu dẫn hai người vào nhà.
Vào trong thấy một lão già ốm nhỏ, tóc râu rậm rạp, đang ngồi trên bộ ván.
Trùng Dương bước tới chấp tay thi lễ, nói :
- Lão trượng cho biết quí tánh đại danh, cậu nhỏ đây có phải là lệnh lang của lão trượng không?
Lão già khẽ gật đầu và đáp :
- Ngu lão họ Khúc tên Thiên Hùng, thằng nhỏ là con ngu lão, tên là Khúc Thắng, Đạo trưởng giá lâm đến đây có điều chi dạy bảỏ
- Vô sự không dám đến quấy rầy lão trượng, bần đạo có một việc định nhờ lệnh lang giúp chọ Sau khi thành tựu sẽ báo đáp trọng hậụ
Nói đoạn, móc trong túi ra một đĩnh bạc để trên mặt bàn trước mặt Khúc lão và nói tiếp :
- Đây là chút lễ mọn để ra mắt lão trượng.
Khúc lão lạnh lùng nhìn đĩnh bạc rồi nói :
- Đạo trưởng có điều chi cứ nói, Khúc mỗ tuy nghèo thật, nhưng không phải là người ham của, nếu là chuyện phải cha con lão xin tận lực chẳng chút từ nan, còn trái lại là chuyện phi luân vô đạo thì đừng nói là một đĩnh bạc cho đến gấp trăm lần lão cũng từ chối, nhất quyết không chịu nhúng tay vào, xin Đạo trưởng hãy cất đị
Vương Trùng Dương lấy làm khâm phục tiết tháo của Khúc lão trượng, vội vàng đáp :
- Bần đạo rất kính trọng tiết tháo của lão trượng! Bần đạo là kẻ tu hành có bao giờ lại làm chuyện vô đạo, nếu lão trượng có lòng nghi ngờ thì để bần đạo nói rõ, rồi tùy lão trượng định liệụ
Nó tới đây, Vương Trùng Dương quay lại hỏi Khúc Thắng :
- Khúc nhi, bần đạo muốn nhờ điệt nhi xuống khe suối trước mặt mò giùm một vật điệt nhi có bằng lòng chăng?
Khúc Thắng thấy Vương Trùng Dương định nhờ mình lặn xuống suối vớt đồ vật thì lấy làm thích lắm, nhảy dựng lên nói :
- Được lắm, thưa Đạo trưởng, hằng ngày tiểu điệt thường lặn xuống bắt cá, chắc lúc nãy Đạo trưởng đi ngang qua có đánh rớt vật chi xuống suối chứ gì, để tiểu điệt đi lặn xuống vớt lên chọ
Trùng Dương mỉm cười lắc đầu nói :
- Không phải ta làm rớt vật chi, ta chỉ cần hỏi điệt nhi cho ta biết suối ấy sâu chừng độ bao nhiêủ Ở dưới đáy có vật chi lạ không?
Khúc Thắng suy nghĩ một chút rồi nói :
- Thưa Đạo trưởng, cũng khó lòng mà nói chắc được chỗ cạn chỉ độ năm hay sáu thước nhưng cũng có chỗ sâu tới ngoài hai vượng, hàng ngày tiểu điệt lặn xuống tận đáỵ bắt cá nén ở dưới đáy tiểu diệt có thể nhớ rõ từng hòn đá một, vì ở dưới đáy trong vắt, có thể trông thấy rõ ràng.
Vương Trùng Dương nghe xong cả mừng nói :
- Tốt lắm. Bần đạo chỉ nhờ Khúc nhi vớt một cục đá ở dưới đáy lên, sau khi vớt được bần đạo sẽ thưởng thêm mấy đĩnh bạc nữạ
Khúc Thắng có vẻ ngạc nhiên hỏi :
- Một hòn đá có quí báu gì mà phải vớt lên cho kỳ được như vậỷ
Khúc Thiên Hùng cũng có vẻ ngạc nhiên, ông lão nhìn thấy Vương Trùng Dương tướng mạo đoan trang, lời nói ôn hòa, không phải là một người loạn trí có lẽ nào lại phí mấy đĩnh bạc để mò một cục đá vô giá trị để làm gì? Trong lòng Khúc Thiên Hùng có vẻ nghi hoặc nên nói :
- Xin Đạo trưởng chớ nghe lời nói huyền hoặc đồn đại của mọi người, dưới suối đó không hề có báu vật gì đâu!
Vương Trùng Dương đắc đấu mỉm cười nói :
- Bần đạo không phải tìm kiếm châu báu mà tìm một vật quí giá hơn nhiềụ
Khúc nhi, bần đạo hỏi điệt nhi một chuyện, ở dưới phiến Hiếu Tử Thạch có một hòn đá nào giống như con Lý Ngư hay không?
Khúc Thắng la lên một tiếng có vẻ kinh ngạc :
- Sao Đạo trưởng lại biết rõ như thế?
Trùng Dương đáp :
- Ta chỉ cần biết có phiến đá như thế hay không và có thể mang lên khỏi mặt nước được chăng?
Khúc Thắng nghĩ ngợi một lúc rốt nói :
- Quả thật là có phiến đá ở dưới đáy suối, nhưng mang lên quả là khó lắm.
- Sao lại khó? Ở đó có xoáy nước ngầm hay saỏ
- Không có xoáy nước ngầm, nhưng ở dưới chân Hiếu Tử Thạch là đầm sâu có tới hơn một trượng, dưới đáy toàn là cát nhuyễn, có một hòn đá hình dáng giống hệt con Lý Ngư như Đạo trưởng vừa hỏi, dài có tới hơn ba thước, nặng ít ra cũng dư trăm cân, tiểu điệt làm sao nâng nó lên được.
Trùng Dương soa đầu Khúc Thắng, cười nói :
- Miễn là có phiến đá ấy là được rồi, tiểu diệt cứ yên tâm, ở dưới nước có sức nâng, ở trên mặt đất nặng một trăm cân ở dưới nước chỉ còn có năm chục cân, ta sẽ có cách mang phiến đá đó lên khỏi mặt nước.
Khúc Thắng cả mừng, vừa đi vừa nhảy dẫn Vương Trùng Dương và Nguyên Bân tới bờ suối, đến bên Hiếu Tử Thạch, cậu ta bỏ lưới câu xuống đất và tụt vội cả quần ra rồi nhảy ùm ngay xuống nước làm nước bắn lên tung tóe ướt hết cả người Nguyên Bân và Vương Trùng Dương, thời gian ước độ uống xong hai chung nước chè thì thấy Khúc Thắng ở dưới lòng suối chồi lên rồi bò lên lắc đầu nói :
- Khống được, không được, thôi Đạo trưởng trở về nhà tiểu điệt lấy lại bạc đi thôi, tiểu diệt không tài nào mang hòn đá ấy lên được.
Thì ra sau khi nhảy xuống nước, Khúc Thắng lặn một mạch xuống ngay dưới đáy, ở nơi đáy nước trong vắt có thể nhìn mọi vật như ở bên bờ.
Khúc Thắng lượn đi một vòng gạt tất cả nhưng rêu rong bám vào tảng đá hình giống Lý Ngư, đoạn cậu ta ôm lấy tảng đá dùng hết sức mạnh toan bê hòn đá đó lên khỏi mặt nước, nào ngờ khúc đuôi của hòn Lý Ngư cắn sâu dưới nước cứng ngắc như chôn hẳn xuống đó. Khúc Thắng cố hết sức lay chuyển nhưng không hề động đậy, thật là vô phương, phiến đá không hề nhúc nhích, chỉ làm cho bùn cát ở dưới đáy nổi lên đục ngầu chui vào mũi mắt thật là khó chịu, Khúc Thắng vội vàng trồi lên mặt nước thuật lại cho Vương Trùng Dương nghe, Trùng Dương nghe xong trầm ngâm nghĩ ngợi một hồi rồi nói :
- Thôi chúng ta hãy trở xề, để ta sẽ nghĩ cách khác.
Khúc Thắng vội mặc quần áo rồi lại dẫn Vương Trùng Dương và Nguyên Bân trở lại nhà kể lại đầu đuôi cho Khúc lão nghẹ Vương Nguyên Bân chợt nghĩ được một cách bèn nói với Trùng Dương :
- Thưa sư phụ, đệ tử nghĩ rằng với bản lĩnh của sư phụ đủ sức kéo được thạch ngư lên, đã từ lâu cha con đệ tử săn bắn trong rừng lấy và để dành được nhiều loại giây leo phơi khô rất bền bỉ, chúng ta hay trở về lấy giây sắt kết lại cho chắc rồi nhờ Khúc ca ca lặn xuống lấy giây buộc chặt vào phiến đá rồi sư phụ sẽ dùng thần lực lôi lên chắc là phải được.
Vương Trùng Dương gật đầu khen phải, Vương Nguyên Bân vội chạy bay ngay về nhà, không đầy nửa buổi ôm tới một đống dây rừng và một chiếc lưới thú bằng giây sắt, mọi người đều bắt tay vào việc nối dây rừng thành một sợi dây dài đồng thời lùng dây sắt cột lại thật chắc làm gần một đêm mới xong, thành một sợi dây dài có tới ba trượng dẻo dai vô cùng.
Sáng hôm sau, Vương Trùng Dương và tất cả mọi người đã có mặt ở bên bờ suốị Khúc Thắng cầm một đầu dây nhảy ùm xuống nước, chỉ một lát sau cậu ta đã nổi lên và nói to :
- Đạo trưởng kéo đi, dây đã thuộc kỹ rồị
Vương Trùng Dương cả mừng vội vận khí đơn điền vào hai cánh tay từ từ kéo mạnh đầu dâỵ
Nhưng lạ thay, phiến ngư thạch dưới đáy suối không hề nhúc nhích, Trùng Dương kéo luôn ba lần, quái thạch vẫn trơ trơ. Chàng hết sức kỳ lạ, bèn bảo Khúc Thắng lặn xuống nước lẫn nữa quan sát ra sao!
Khúc Thắng lặn xuống một lúc, trồi đầu lên nói :
- Đạo trưởng đừng kéo nữa mất công, dù kéo cách mấy cũng không chuyển được phiến đá ấy đâu!
Thì ra phiến ngư thạch ấy bị vùi dưới đáy suối quá lâu nên đã bị nhiều lớp đá quyện chặt vào thành như một khối làm sao kéo lên được? Hơn nữa sợi giây Khúc Thắng buộc vào ở một phần trên phiến ngư thạch tựa như một que tăm xeo vào núi sắt, kéo nữa chi phí công mệt sức?
Trùng Dương kéo mãi không lay chuyển nổi phiến đá, trong lòng phát giận.
Chàng bèn giật đầu dây một cái thật mạnh. Cái giật ấy chàng đã vận dụng toàn lực của khí kình, đem mười lăm thành phách lực ra sử dụng, “Bựt” một tiếng, sợi giây rắn chắc không chịu nổi sứt mạnh của hai đầu trì kéo, đứt làm hai đoạn.
Trùng Dương hết sứt buồn rầu, thầm nghĩ đã biết rõ nơi giấu Cửu Âm chân kinh, nhưng chỉ có thể cùng mắt để nhìn mà không thể lấỵ Một lần đã thất bại không nói làm gì. Bây giờ lại thất bại thêm lần thứ hai nữạ
Ba người cùng trở về nhà của Khúc Thắng, Trùng Dương vì tâm sự đa đoan không thể ngủ được, đêm ấy chàng ra khỏi nhà, ngẩng đầu ngắm trăng sao trên trời để tiêu sầu, chàng nhìn thấy bảy vì sao bắc đẩu bên phương Bắc, chợt liên tưởng đến bức họa đồ Thiên Oai Bắc Đẩu trận của sư phụ để lại bèn tự nhủ lấy mình :
- “Con người muốn luyện bản lĩnh, hà tất phải căn cứ mãi vào sách vở? Có Cửu Âm chân kinh cũng tốt, không có nó rồi không luyện được tuyệt kỹ hay sao!
Như Thiên Sát Đẩu Trận, và tuyệt kỷ Nhất Dường Chỉ, đâu có nhờ Cửu Âm chân kinh mà cũng vẫn luyện thành được thì saỏ”.
Vương Trùng Dương suy nghĩ đến Nhất Dương chỉ, trong lòng bỗng nảy sinh ra một chủ định. Nguyên trong thời gian bế môn khổ luyện Nhất Dương chỉ ở thạch động Tung Sơn, đã có lần thử qua kình lực của một ngón tay xô mở được cửa đá của thạch động. Chàng đã được sư phụ chỉ dạy qua, Nhất Dương chỉ không những xoi thủng tất cả những vật cứng rắn mà còn bao nhiêu công hiệu khác không lường được, có thể chỉ lửa, vẹt nước phân haị Nhưng chàng chưa có cơ hội ứng dụng thử lần nàọ Đêm nay thừa cơ hội này cũng nên đến bờ suối ứng dụng thử xem saỏ
Nghĩ xong, chàng vội dùng thuật phi thân đề khí đi vùn vụt tới chỗ Hiếu Tử Thạch.
Đến nơi, chàng lựa một phiến đá bằng phẳng ngồi xếp bằng tĩnh tọa, chầm chậm vận khi huyền không, chờ đến lúc thần trí hư không, tâm ý phiêu phiêu vô niệm. Trùng Dương đột nhiên vung cao tay trái dùng ngón giữa chỉ thẳng vào lòng suốị
Lạ thay, mặt nước bỗng cuộn thành một xoáy nước vĩ đại, sóng bủa dập vào bờ dữ dội, rồi nước dưới suối vẹt sang bốn phía, dể lộ ra một trung tâm điểm hõm sâu xuống.
Trùng Dương thấy uy lực của Nhất Dương chỉ hùng mạnh như thế, trong bụng hết sức mừng rỡ nào ngờ thần trí chỉ một chút lơ là, chân khí lập tức bị hóa giải, kình lực của Nhất Dương chỉ bi tiêu tan, mặt nước bị Nhất Dương chỉ đánh vẹt ra bốn phía lúc nãy, cuồn cuộn chảy đổ trở về, ầm ầm như tiếng thác reọ Xoáy nước liền tức thì biến mất!
Trùng Dương duy trì được xoáy nước trên mặt suối không đầy thời gian uống nửa chung trà, tự nghĩ thầm: rất tiếc, công phu ta còn kém! Nếu ta luyện được đến mức có thể duy trì được xoáy nước trong thời gian uống xong hai chung trà, thì chuyện mò đá dưới suối sâu này sẽ dễ dàng như trở bàn taỵ
Suy tính xong, Trùng Dương bèn chậm chậm nạp khí vào đơn điền, gạt bỏ tất cả tạp niệm, song chưởng một nắm, một mở, ngón giữa của tay trái chỉ thẳng vào lòng suốị
Ghê gớm thay sức mạnh kinh khủng của Nhất Dương chỉ, kình lực vừa chạm đến mặt suối lập tức cuốn thành một xoáy nước. Lúc đầu xoáy nước chỉ lớn bằng cài mâm, sâu hơn một thước, qua khoảng khắc sau, xoáy nước càng ngày càng lan to, bằng cái mặt bàn tròn, trung tâm điểm càng ngày càng hạ thấp xuống lòng suối sâu hơn bảy tám thước, kình lực cửa Nhất Dương chỉ xô vẹt sức nước ra bốn phía tạo một bức tường nước kỳ lạ.
Vương Trùng Dương trong lòng nghĩ thầm, chàng sử dụng Nhất Dương chỉ để vẹt nước đã hoàn thành được phân nửa, chỉ cần nới rộng thêm xoáy nước cho lớn hơn một chút trung tâm điểm hạ dần đến đáy suối, là hy vọng vớt được phiến ngư thạch kiạ
Trùng Dương nghĩ đến đây, trong lòng mười phần hân hoan, bất ngờ từ sau lưng vang lên một tiếng “Hừ” khô khan rồi tiếp theo đỏ một giọng cười lanh lảnh cách đó không xạ
Trùng Dương kinh hãi giật mình, tâm thần phân tán, kình lực Nhất Dương chỉ không còn phát ra, nước suối cuồn cuộn chảy lui trở về, ầm ầm như tiếng reo của muôn binh vạn mã, xoáy nước liền biến mất trong nháy mắt.
Trùng Dương đoán chắc tiếng cười phát ra vừa rồi không ai khác hơn là Bạch Đà sơn chủ Âu Dương Phong, chàng vội tung mình đứng dậy nói vọng về phía ấy rằng :
- Ông bạn quí nuôi rắn độc! Mời ra nơi đây, núp sau lưng để cười lén ngươi, đâu phải là hảo hán?
Trùng Dương nói vừa dứt tiếng, thì kỳ dị thay từ phía trên đầu vọng xuống có tiếng người lạnh lùng trả lời :
- Đã là kẻ xuất gia, tinh thần phải giữ cho vô vi thanh tịnh, tu tâm dưỡng tính mới là phảị Canh ba nửa đêm không làm công quả, lại lén đi luyện tập thứ công phu quái lạ để dọa nạt thế nhân, còn dám xưng là hảo lán ư?
Trùng Dương nhĩ mục rất linh thính, chàng nghe tiếng nói người này không phải là Âu Dương Phong, mà là quái nhân đã bày Kỳ Môn Bát trận trên hoang đảo ở Huỳnh Hải lúc trước, lòng thù địch của Trùng Dương bất giác tiêu tan, bèn lớn tiếng hỏi :
- Các hạ là vị bằng hữu tương hội trên hoang đảo khi trước đấy à! Thật là hạnh ngộ! Xin mời ra để bần đạo bái kiến.
Nhưng bốn bề lặng im, không nghe tiếng trả lời, Trùng Dương bèn lập lại lời nói lần thứ hai, vẫn không nghe đối phương trả lời, chàng đành trở về bên bờ suối, thốt nhiên trên đỉnh đầu có tiếng nói vọng xuống rất rõ ràng :
- Ta không muốn giáp mặt nói, chỉ vì ngươi không phải là hạng người cao nhã, lời nói nhà ngươi còn nặng nhiều tục khí! Nhưng ta có một điệu dặn trước với ngươi, đứa nhỏ họ Khúc kia, căn cốt rất tốt ta nhứt định thâu nó làm đệ tử, cấm nhà ngươi thâu nhận nó. Nếu nhà ngươi nói nửa tiếng rằng “Không!”, giữa ta và ngươi từ lúc này sẽ coi nhau như thù địch. Ngươi nhớ chọ
Trùng Dương nghe đối phương nói xong, trong lòng rất kinh sợ, lẩm bẩm nói một mình :
- Thì ra y cũng biết được phương pháp “Truyền âm nhập mật”! Mấy ngày trước đây nơi Vũ Kiếm Thạch. Trùng Dương đã sử dụng quyết chữ “Tống” trong hai mươi bốn quyết của Kim Quang Ngọc Sà để tống đạt tiếng nói của mình đưa ra khỏi đầu nút xa ngoài ba dặm đuổi chạy Âu Dương Phong. Nào ngờ hôm nay chàng gặp quái nhân này cũng dùng công phu “Truyền âm nhập mật” truyền tiếng nói của y từ ba dặm ngoài đến đây thật quả đúng với câu “Trời cao vẫn còn trời cao khác”. Trùng Dương lần này đến Hoa Sơn, thâu thêm Vương Nguyên Bân làm đồ đệ, với Mã, Khâu, Tôn, Đàm bốn đồ đệ cũ. cũng đã được năm ngườị Vừa rồi Khúc Thắng tuy chưa có học đến võ công, nhưng căn cốt đã tỏ ra khác thường, đã định tìm cách thu nhận cậu tạ
Như vậy chàng đã được sáu người đệ tử, có thể thành trận đồ Thiên Sát Bắc Đẩu rồi!
Nào ngờ vị quái nhân này lại đến cảnh cáo chàng, giành cậu bé họ Khúc làm đồ đệ của ỵ
Nhưng bản thân y không chịu ra mặt diện kiến với mình, hành động kỳ bí, tánh khí khác thường của y thật ra ít át sánh bằng.
Nghĩ đến đây Trùng Dương không khỏi lắc đầu mà cười thầm...
Chàng vì liên tiếp hai lần phát ra Nhất Dương chỉ, nguyên khí bị tồn hao rất nhiều, lại thêm vị quái nhân khuấy phá, trong người dã thấy mỏi mệt, bèn lần bước trở về Khúc gia trang.
Nhưng về đến trước nhà, đôi mắt Trùng Dương vừa nhìn thấy một vật, chàng giật mình kinh sợ đến mồ hôi thấm áo!
Thì ra nơi dưới cửa sổ của nhà họ Khúc có hai con phúc xà to lớn kinh khủng, đang nằm oằn oại, song song bên nhau, dài hơn sáu bảy thước, to bằng bắp tay người, nhưng đầu rắn đã bị chặt lìa khỏi thân, máu tanh vẫn còn rơi lộp độp trên mặt đất, chứng tỏ đôi rắn vừa bị giết cách đây không lâụ
Càng lạ lùng hơn nữa là trên mỗi lưng rắn, nằm sắp hàng một số vật gì bằng kim khí.
Trung Dương vội bước đến trước quan sát, hai hàng kim khí ghim sâu trên lưng rắn chỉ là một loại ám khí bằng kim vàng mà chàng chưa hề thấỵ
Loại lim vàng này thật là nhỏ, mường tượng như loại kim may quần áo, chỉ có điều hơi khác đuôi kim có làm thêm bốn chiếc ngạnh thật sắc. Chứng tỏ người sử dụng kim độc này đã chờ lúc đôi phúc xà vừa bò lên cửa sổ, mới phóng ra hai hàng kim vàng, ghim thân rắn từ dầu đến đuôi dính chặt lên vách nhà, sau đấy mới dùng gươm chém rắn thành hai đoạn.


Hồi 16

Bí Mất Trong Hộp Sắt (tiếp theo)


Kẻ thả rắn giết người, trừ Âu Dương Phong ra, thì không còn kẻ thứ hai nào khác. Trùng Dương rời khỏi Khúc gia trang, trong một chút sơ hở ấy, thiếu chút nữa địch thủ thừa cơ hãm hại cha con họ Khúc, chàng thấy lòng hối hận vô cùng.
Trùng Dương đoán chắc kẻ giải nguy kia, nhất định là người đã sử dụng công phu “Truyền âm nhập mật” đối thoại với mình vừa rồi.
Trùng Dương lúc đầu đối với quái nhân ấy không mấy thiện cảm. Nhưng bây giờ đối phương dường như có điều tâm sự gì, nên chẳng khi nào chịu ra mặt nói chuyện với chàng thành ra Trùng Dương dầu muốn kết giao với y, cũng khó mà gặp được. Trùng Dương nghĩ ngợi một chập khá lâu, mới lên giường yên giấc.
Chàng ngủ mê mệt không biết đến lúc nào, chợt nghe tiếng ồn ào bên tai lại cảm thấy như có người lắc mạnh vai mình gọi dậỵ
Trùng Dương đang lúc thần trí phiêu diêu trong giấc mộng, vội mở mắt trở dậy nhìn xem, thấy Nguyên Bân và Khúc Thắng đang đứng bên giường.
Nguyên Bân cười lớn lên nói :
- Sư phụ, bình nhật sư phụ thường dậy rất sớm, sao hôm nay mặt trời đã lên khỏi ba sào, mà sư phụ vẫn còn ngủ ngon quá vậỷ Hay là sư phụ có bệnh?
Khúc Thắng vội rầy Nguyên Bân :
- Đừng nói gở! Thưa Đạo trưởng, ngoài song cửa có hai xác rắn thật lớn!
Trùng Dương là một vị tu sĩ tham thiền luyện khí, mấy ngày qua ngụ tại nhà Nguyện Bân, dù đêm nào ngủ ngon cách mấy, tảng sáng sớm gà gáy là thức giấc.
Nhưng vì đêm qua hai lần sử dụng Nhất Dương chỉ, thần trì mệt mỏi, nên vừa đặt lưng nằm xuống là ngủ mê man một giấc đến mặt trời lên khỏi ba sào vẫn chưa thức, trái với thói quen thường lệ của chàng, bởi thế Nguyên Bân mới lấy làm lạ và lầm tưởng Trùng Dương bị bệnh.
Trùng Dương vươn vai, ngồi dậy và nói :
- Không có gì! Hai con khúc xà ấy đêm qua định chun vào cắn người, bị bần đạo dùng ám khí giết chết đấy!
Vương Nguyên Bân vì đã thấy qua thuật giết rắn của Trùng Dương tại nhà y và đã đem chuyện ấy thuật lại cho Khúc Thắng rõ, nên hai cậu nghe Trùng Dương nói như thế đều rất tin lời chàng mà không chút nghi ngờ.
Khúc Thắng nét mặt tỏ vẻ quan trọng nói với Trùng Dương :
- Đạo trưởng, cha con tôi vừa bàn tính song, nếu muốn đem tảng quái thạch ấy lên khỏi suối, ít nhất phải mướn trên một trăm công nhân, đồng thời phải kiếm cho được mười chiếc xe quạt nước quạt cạn lòng suối, rồi mới cho người xuống đào móc tảng ngư thạch lên. Nhưng gia gia tôi phân vân mãi không rõ phiến đá hình lý ngư ấy có quý báu gì đâủ Mà Đạo trưởng phí trăm mưu ngàn kế để đào lên cho được!
Trùng Dương lắc đầu bảo :
- Chuyện ấy điệt nhi không nên biết! Bần đạo chỉ hỏi một điều, nếu bần đạo có cách làm cho nước suối rút cạn thì điệt nhi có đủ sức vác tảng đá lên không?
Khúc Thắng cười đáp :
- Bản lĩnh thì tôi không có thật, nhưng về sức mạnh thì không thiếu, với vật nặng một hai trăm cân tôi có thể khuân lên như chơị Nhưng tảng quái thạch này một phần lớn bị rút sâu trong bùn đất, sợ phải dùng đến cuốc xẻng mới có thể bốc lên được.
Trùng Dương nói :
- Đến lúc đó Bần đạo sẽ có cách, nhưng đợi ba hôm sau mới haỵ
Nguyên vi đêm qua Trùng Dương đã sử dụng Nhất Dương chỉ hai lần, khí lực bị tiêu hao rất nhiều, cần phải nghỉ ngơi ba ngày, để khôi phục nguyên khí cho đầy đủ mới có thể tái dùng Nhất Dương chỉ. Cho nên suốt ba ngày ấy, Trùng Dương cứ ngồi xếp bằng tĩnh tọa, nhắm mắt dưỡng thần, không nói năng cũng không ăn uống gì hết.
Cha con Khúc lão kinh hoàng tưởng Trùng Dương sang bệnh, nhưng thấy chàng thần sắc bình thường không giống như người bệnh, trong lòng cũng không thấy lo lắng.
Đến sáng ngày thứ tư, sắc mặt Trùng Dương đột nhiên hồng hào tươi nhuận, chàng liền nhảy xuống giường gọi lớn :
- Xong rồi! Khúc Nhi, Nguyên Bân, mau theo bần đạo đến suối vớt tảng ngư thạch lên!
Khúc Thắng thấy Trùng Dương đến nay mới chịu khai khẩu thành lời, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ bèn hỏi :
- Đạo trưởng! Ông có sao không? Ba hôm nay ông cứ ngồi yên bất động, làm cha con tôi lo lắng hết sức?
Nguyên Bân từ ba ngày nay cứ ngồi bên Trùng Dương hầu hạ không dời nửa bước, thấy sư phụ đã tỉnh, cười nói :
- Sư phụ, khúc tiểu ca tưởng sư phụ bịnh, con đã nói rõ sư phụ không phải bệnh mà đang luyện khí dưỡng thần nhưng Khúc ca vẫn không tin. Sư phụ thấy có đáng buồn cười không?
Trùng Dương mỉm cười vò đầu hai cậu bé và nói :
- Thôi, đừng chuyện nhảm mất thì giờ. Hai con mau theo ta ra suối cho mau!
Ba người sửa soạn dây chạc xong xuôi đồng đưa nhau ra bờ suối, từ Khúc gia trang đến suối phải qua một cụm rừng tòng. Vừa đến bìa rừng, bỗng nhiên nghe trên ngọn tòng có tiếng hú quái lạ, rền như tiếng đồng la bể, rồi tiếp theo “Soạt, soạt” hai tiếng, từ trên cao nhảy bụp xuống một bóng người!
Người này không ai khác lạ, chính là Âu Dương Phong, kẻ đã mấy lần lập xà trận để hại Trùng Dương. Nguyên Bân đang lon ton đi trước, thấy thế nguy vội chạy núp phía sau lưng sư phụ. Trùng Dương biết gã Âu Dương này lòng dạ lang độc, thủ pháp hiểm ác, đón mình tại đây, chắc không phải là ý tốt nhưng vẫn giữ phái độ Ôn tồn nói :
- Bần đạo và tôn giá vốn chẳng oán nhau, hà cớ đối xử như kẻ thâm thù?
Tôn giá nên nhìn xa một chút, đừng bức bách bần đạo quá vậy!
Âu Dương Phong dùng giọng mũi “hừ” một tiếng lạnh lùng và nói :
- Lão mũi trâu kia, hãy tách bạch nói chuyện với nhau có lẽ khoái hơn!
Ngươi đến Hoa Sơn để tìm Cửu Âm chân kinh, ta cũng đến đây để tìm Chân kinh như ngươị Cửu Âm chân kinh vật quý báu của võ lâm thất lạc từ mấy trăm năm nay đã thành ra vật vô chủ, ai cũng có quyền tìm nó. Chúng ta không nên ngu dại mà tranh giành mãi với nhau không có ích lợi gì! Bây giờ ta bằng lòng hợp tác với ngươị Tìm xong, chúng ta đồng nghiên cứu chung, có phải là thượng sách không?
Hà tất phải có người độc chiếm?
Lời nói của Âu Dương Phong tuy cung có đôi phần hợp lý. Nhưng Trùng Dương đã mấy lần tranh đấu với y, biết rõ y là một kẻ độc ác khôn lường, không phải là hạng chính nhân quân tử, mà đích thị là nhân vật bàng tà đạọ
Nếu Cửu Âm chân kinh lọt vào tay y khác nào trợ gian vị ác như hùm dữ thêm vây!
Hơn nữa, chàng đã khám phá được nơi bí mật tàng kinh, mười phần nắm chắc trong tay chân kinh là sở hữu của mình, đâu cần ai giúp sức. Bởi thế Vương Trùng Dương lắc đầu nói :
- Lời nói của tôn giá sai rồi! Bần đạo đến Hoa Sơn này, tốt ý đâu phải tìm Cửu Âm chân kinh? Mà dù có tìm đi nữa, bần đạo vơi tôn giá hai ngươi tôn chỉ bất đồng, đâu có thể hợp tác với nhau được? Xin rôn giá cứ tự nhiên theo ý muốn!
Âu Dương Phong đảo tròn dôi mắt trắng dã cười khè khè, nói :
- Không ngờ một kẻ xuất gia như ngươi mà cũng biết nói láo hay saỏ
Vừa nói vừa bất thần tung ra một chưởng đánh mạnh vào ngực Trùng Dương.
Trùng Dương thấy y mới ra tay đã sử dụng ngay một chiêu độc nhứt trong chưởng pháp “Thần Đà Tuyết Sơn chưởng” gọi là “Ngàn Dặm Đà Khôn” thì nổi giận quát lên mốt tiếng cực lớn “Khá lắm!” rồi áp dụng ngay Tự Nhiên Hấp Kinh quyền của Toàn Chân phái ra chống đối, phất tay áo bên tả đón ngón quyền của đối phương lại, đồng thời kéo mạnh tay áo trở về, cái kéo ấy tuy bề ngoài xem ra tầm thường nhưng thật ra đã dồn nội lực vào đấy nên sức hút rất ghê gớm.
Âu Dương Phong bị chưởng này, nhân hình mất tự chủ loạng choạng ngã nhào ra trước sức hút của Tự Nhiên quyền thiếu chút nữa ngã gọn vào lòng của Trùng Dương.
Nhưng Âu Dương Phong không hổ danh la Tây Vực Bạch Đà sơn một cõi tông chủ, quyền cước ứng biến nhanh chóng diệu kỳ.
Vừa thấy thế nguy, y không dám chậm trễ, vội vận đầy khi kình vào đơn điền, dùng ngay thế “Rồng Thiêng Về Ổ” nhấn mạnh gót chân chuyển lẹ thân hình đã hóa giải được ngay sứt hút lạ kỳ của đối phương, đồng thời tả chưởng rút lẹ về, quét mạnh ra ngoài một vòng thành chiêu gió vàng mưa sắt, bề ngoài xem ra như chưởng thế, nhưng bên trong dấu kín chưởng lực của Cáp Mô công xói vào huyệt Thái Dương bên hữu của Trùng Dương.
Trùng Dương chẳng chút bối rối, sử dụng “Chưởng Lục thủ” trong Tự Nhiên quyền vừa phất tay áo đón lại vừa nhấn mạnh một cáị
“Bùng!” “Chát!” hai tiếng, chưởng lực của đối phương bị đẩy bật trở về. Âu Dương Phong không gượng nổi lảo đảo thối lui lia lịa ra sau ba bước, cảm thấy một cánh tay nóng ran như bị lửa đốt phải, nhức nhối vô cùng.
Trung Thần Thông Vương Trùng Dương lần đầu cùng Tây Độc Âu Dương Phong giáo đấu chỉ trong nháy mắt phá một lượt ba chiêu của Âu Dương Phong còn làm cho đối phương hai lần hoảng vía, kinh tâm thật không hổ danh Võ Lâm Đệ Nhất Bá.
Âu Dương Phong vội điều hòa mạch khí múa tít song quyền xử dựng “Thần Đả Tuyết Sơn chưởng pháp” án theo phương vị bát quái ngũ hành, liến tiệp tấn công khắp người Trùng Dương, trong khoảnh khắc thân hình của Trùng Dương như bị vây kín trong chưởng ảnh trùng điệp của Âu Dương Phong, kình lực nhanh mạnh tựa gió cuốn mưa tuôn.
Trùng Dương bình sinh sử dụng Tự Nhiên Quyền để đối phó, tuy thủ nhiều hơn công, nhưng trầm ổn kín đáo dị thường, tựa như trường giang nước chảy, cuồn cuộn không ngừng. Âu Dương Phong đem tất cả tuyệt kỹ của mười tám đường “Thần Đà chưởng pháp” ra thi thố vẫn không làm gì được đối phương, trong lòng hết sức nóng nảy, bực tức.
Trùng Dương vừa đấu vừa nói :
- Tôn giá nên tự lượng sức mình mà thâu chưởng về. Nếu không, đừng trách bần đạo không nể tình.
Âu Dương Phong là người cương ngạnh cực đoan, y thấy mình đấu với Trùng Dương ngoài trăm hiệp, mà không động được chéo áo của đối thủ, càng tức hơn nữa là y đã đem cạn lực bình sinh ra thi triển các chiến pháp tối độc hiểm hỗn hợp với kình lực của Cáp Mô công mà Trùng Dương vẫn ung dung đón đỡ, hóa giải tất cả quyền pháp của y tựa như trò chơi trẻ nít, không xem y ra trò trống gì. Âu Dương Phong càng tức giận thêm. Nghe Trùng Dương nói thế y bèn gầm to lên :
- Cóc cần nhà ngươi nể tình! Có bao nhiêu tài nghệ cứ việc đem ta sử dựng xem dã làm gì được lão gia chưả
Trong lúc y quát lớn, quyền pháp cũng chợt biến đổi sang Bá Vương quyền, hai tay cung tròn thành hình vòng cầu rồi đẩy mạnh ra ngoài “Vù! Vù!” phát ra hai luồng chưởng lực mạnh như hai thác nước.
Thê ấy gọi là “Hạng Vương Cử Đảnh” đống thời chân trái tung lên một cước, vòng tay vừa giao nhau, thân hình của y tựa như một mũi tên xẹt ngắm ngay Trùng Dương lao tới, lần này y xuất chiêu quyền thật lợi hại tột cùng. Đây là một thức tối độc trong “Bá Vương chưởng pháp” có tên gọi là: “Hận trời không cột, hận đất không vòng”. Ban đầu y đánh ra hai chưởng đều là hư thế để dẫn dụ kẻ địch phát chưởng đón đỡ, hoặc giả tràn mình né tránh, rồi thừa lúc địch thủ bất ý, y sẽ lao mình nhảy tới, phía dưới dùng tả cước vừa quét vừa ngoéo phía trên hai tay một xỉa một đâm.
Thế đánh ấy sẽ rất lợi hại, nhưng vô cùng nguy hiểm cho kẻ sử dụng. Vì như vậy toàn bộ ngực phải chịu để trống, thậm chí nửa thân hình phía trước, cũng là lợi điểm cho đối phương phản kích.
Âu Dương Phong cậy mình nội ngoại công phu lợi hại nên vận công cho da thịt cứng như sắt nguội, chịu cho Trùng Dương đánh trúng một chưởng rồi dùng thế nhập nội nhào ra phía trước, lăn xả vào người Trùng Dương.
Nguyên Bân, Khúc Thắng hai người thấy thế, đều rú lên kinh hãị Nào ngờ Trùng Dương vẫn bình tĩnh đứng yên chờ. Âu Dương Phong vừa nhảy ào đến, chàng xoạc hai chân đứng vững vàng như trái núị Âu Dương Phong thấy song quyền cước sắp chạm đến thân hình Trùng Dường thì bỗng thấy trước mắt như hoa lên, thân hình của đối phương đột nhiên biến mất, thành ra Tây Độc chụp vào khoảng không, y thầm nhủ trong bụng một tiếng “Nguy to!”, vừa định hoành thân hồi chiêu đánh trái ra phía hậu, đã thấy một luồng chưởng phong bén nhọn từ phía sau lưng áp đến, đồng thời bàn tay của đối phương nhanh như chớp chộp trúng “Đại Thủy huyệt” sau cần cổ của y, tiếp theo đó một sức mạnh bạt núi dời non, ném bổng thân hình của y lên trên caọ
Cái ném ấy cũng rất lạ, không phải ném thẳng ra phía trước mà tựa như có một bàn tay vô hình cực lớn, dồn mạnh thân hình y lên tận năm sáu trượng cao, quay lộn mấy vòng, rơi đánh “bộp” xuống đất tựa như trời giáng. Âu Dương Phong cảm thấy tứ chi rêm nhức như gãy lìa từng đoạn, đau gần muốn đứt hơị
Chiêu thức của Trùng Dương vừa sử dụng mường tượng như oai lực của Nhất Dương chỉ. Nhưng thật ra Trùng Dương vẫn dùng kình lực của Tự Nhiên quyền đánh bại Âu Dương Phong.
Trong khi mà Âu Dương Phong vung quyền nhẩy bổ đến. Trùng Dương bèn dùng ngay thân pháp “Giảo Thố Nhập huyệt”, thân mình chàng mềm nhũn như chiếc gối gòn người chàng thun lại là tránh ra phía sau địch thủ, toàn thân hình chàng tựa như con thỏ trườn mình tránh khỏi vuốt chim ưng, rồi trong lúc địch thủ quyền cước chưa kịp thâu về, chân mặt chàng bước xéo tới nửa bước giở ngay thủ pháp “Ngư Phu Khiên Chảo” nắm chặt bâu áo của Âu Dương Phong ném bổng y lên cao, sau đấy mới dùng thế “Đẩy Cửa Đuổi Bóng” một tuyệt kỹ trong thần công “Bài Vân thủ” nhắm hai mông của địch thủ vỗ mạnh một cái, thân hình to lớn của Âu Dương Phong tựa như một quả khí cầu bị đẩy bật lên từng không cao năm sáu trượng ngoài rồi rơi nhanh xuống đất như trái mít rụng.
Suốt đời Âu Dương Phong từ lúc xưng hùng ở Tây Vực đến nay, đây là lần thảm bại đau đớn nhứt của ỵ
Nguyên Bân và Khúc Thắng đứng xem nãy giờ thấy Trùng Dương chỉ nhảy nhót nhẹ nhàng, mà đánh Âu Dương Phong xiểng liểng té lên té xuống, hai cậu khoái trá vỗ tay cười tí tắc với nhaụ Âu Dương Phong bị sức rơi quá mạnh, nên “Trí Đường huyệt” nơi sau lưng, “Phong Trì” “Phong Thủ” hai huyệt nơi vai, cùng với “Vĩ Long Cốt” nơi mông, bị va chạm vào đá cứng, khắp người y rêm nhức như kim châm, thân thình bị tê dại hết nửa bên, nằm sóng sượt trên mặt đất một lúc khá lâu mới kêu lên một tiếng “Ôi cha!” nho nhỏ.
Độ một thời gian uống cạn tuần trà, y từ từ bật mình ngồi dậy rồi lấy tay xoa bóp vào “Huyết Bàn” huyệt và “Huyết Trợ” huyệt nơi ngực mới lóp ngóp đứng lên dược.
Âu Dương Phong lúc ấy mặt mày nhăn nhó, trông thật khó coi, chỉ tay ngay mặt Trùng Dương gằn giọng hỏi :
- Lão mũi trâu, Đạo hiệu ngươi là gì? Môn phái, bản lĩnh do ai truyền thụ?
Trùng Dương ôn tồn đáp :
- Rất tiếc bần đạo hơi nặng tai một chút! Bổn ý bần đạo không muốn đa sự, chỉ tại các hạ cứ theo bức bách bần đạo lắm phen buộc lòng bần đạo phải ra tay như vậỵ Bần đạo họ Vương, hiệu là Trùng Dương ngụ tại Tung Sơn Yên Hà động. Nếu các hạ không chê, mong đổi thù thành bạn và mời các hạ tiện dịp đến Tung Sơn một chuyến.
Trùng Dương tuy thắng được đối phương, thái độ vẫn ôn hòa khiêm tốn, không nỡ làm nhục kẻ dưới taỵ
Nhưng Âu Dương Phong ngoại hiệu là “Tây Độc”, đủ biết y là con người tiểu nhân, lòng dạ ác độc khó lường. Mấy lần bị Trùng Dương cho nếm mùi thất bại, xà trận của y cũng chính tay Trùng Dương sát hại hầu sạch nên y đã hận Trùng Dương thâm xương khắc cốt đâu thể nào chịu bỏ qua để kết giao với đối phương.
Y “Hừm” to một tiếng và nói :
- Thì ra mi là Vương Trùng Dương chân nhân, Chưởng môn của Toàn Chân phái! Hừ! Được lắm, ba năm sau, Âu Dương Phong này nhất định sẽ đến Tung Sơn để tìm mi rửa nhục!
Tiếng nói vừa dứt, thì từ giữa không trung vang xuống một chuỗi cười dòn dã, tiếp theo đố một giọng nói trong ấm như tiếng ngọc va nhau, phảng phất như có người núp trên từng mây nói vọng xuồng :
- Gã Âu Dương Phong kia, ngươi đừng nói lếu láo nghe thêm nhột con rái!
Người ta chỉ dụng có một pho Tự Nhiên quyền đánh người, thế mà ngươi giở đủ bảy mươi hai môn bản lĩnh gác cửa của ngươi ra, vẫn đánh không lại người ta mà dám mở miệng hẹn ba năm tái đấủ Hà! Hà! Theo ta thấy thời gian ba năm ngắn lắm nếu ngươi đến Tung Sơn chỉ tổ làm thêm trò cười cho thiên hạ, nên hẹn lại hai mươi năm sau hãy đến!
Âu Dương Phong vốn sẵn tính kiêu ngạo tự phụ, lần này y đột kích Trùng Dương, chẳng dám đem theo một xà nô nào vì sợ chân tướng của mình bại lộ ra ngoài, thắng chẳng nói chi, nhưng nếu thất bại để người ngoài biết được còn gì danh tiếng của ỷ
Nào ngờ sự nhục nhã của mình hôm nay còn có kẻ thứ ba nhìn thấy, lại còn bị kẻ ấy trêu chọc lắm lờị
Âu Dương Phong giận tím mặt mày hét to :
- Kẻ hôi thúi nào gan dám trêu đến bổn sơn chủ, khôn hồn cút khỏi nơi đây!
Trùng Dương cũng hết sức ngạc nhiên. Nghe tiếng nói hơi quen, rõ ràng là tiếng của quái khách trên hoang đảo, võ công của vị quái khách tương đương với gã Âu Dương Phong và tiếng nói phát ra vừa rồi chính quái khách đứng xa đây ngoại mấy dặm, dùng khí công “Truyền thanh nhập mật” đưa tiếng nói đến đâỵ
Và lúc nãy chàng cùng Âu Dương Phong tranh đấu, chắc chắn y đã lén xem từ đầu đến cuối!
Âu Dương Phong đâu có biết được thuật “Truyền thanh nhập mật” là cái chỉ Y tưởng kẻ phát ra tiếng nói vừa rồi đang ẩn mình trên ngọn tùng cao, nên trong lúc nư giận tràn hông y lồng lên như con thú dữ cùng đường gầm to lên :
- Quân cuồng ngông, cho mi biết lợi hại của Bạch Đà sơn chủ!
Vừa nói, vừa vung song chưởng, sử dụng Cáp Mô công đánh mạnh vào không trung. Tuy thân mình y vừa bị thương nhiều chỗ, nhưng vì sức giận trào dâng, nên kình lực của Cáp Mô công nhờ đấy gia đăng gấp bộị Một tiếng nổ “Bùng” chát chúa, bao cành lá trên những ngọn tùng cao ngất trời trong khoảng rộng một trượng đều bị quét sạch, cành lá đổ xuống rào rào như trận mưa giông.
Vương Trùng Dương thấy Cáp Mô công của y vẫn còn hiệu lực như thế thì kinh hãi không ít, vội bước tới can ngăn :
- Huynh đài tội gì hủy hoại rừng tòng cho mệt công, làm mất đi vẻ đẹp của thiên nhiên. Người phát ra tiếng nói ấy đã sử dụng Truyền Âm Nhập Mật công phu nên tiếng nghe như trên đầu, nhưng người cách xa đây mấy dặm ngoàị
Tây Độc Âu Dương Phong là kẻ mãn phu, chưa hề biết hổ thẹn ra sao, nhưng lúc này mặt tím hóa bầm, nư giận vì thế nguôi đi phần nào, quay đầu lại nói với Trùng Dương :
- Vậy ư? Vậy là Âu Dương Phong này hôm nay đành chịu kém! Nhưng trước sau cũng có một ngày đến lãnh giáo với ngươi một lần nữa, không nhất định là mười năm hay tám năm, ngày đó ta sẽ đến tìm ngươi tai Tung Sơn! Nhớ cho!
Nói xong cắm đầu chạy vụt vào rừng mất dạng. Đến sau tại núi Hoa Sơn quần hào đại hội Hoa Sơn Luận Kiếm mới thấy Âu Dương Phong xuất hiện.
Trùng Dương đưa mắt nhìn theo bóng y đến lúc mất dạng, mới lắc đầu lẩm bẩm :
- Gã này thiên chất rất tốt, nếu y theo đường chính, có thể thành nhân vật xuất chúng. Nhưng tiếc thay y đã lầm theo nào tà, tâm tánh lại eo hẹp hiểm độc, nên không thể thành danh! Uổng thật!
Nguyên Bân và Khúc Tháng đồng thanh nói :
- Tên đó vô cớ gây sự, phách lối đáng ghét nên cho y một trận như vậy, thật là đáng đớị
Trùng Dương mỉm cười không nói, hối thúc hai cậu mau lên đường.
Đến bờ suối, Trùng Dương bước tới chỗ Hiếu Tử Thạch, đột nhiên phất nhẹ tay áo, thân hình bay vút lên cao như con chuồn chuồn đuổi mồi nhẹ nhàng đáp trên đầu thạch tượng Hiếu Tử rồi nói vọng xuống :
- Khúc nhi, chờ khi bần đạo vạch nước ra làm đôi, nếu con thấy phiến ngư thạch dưới đáy suối hiện ra, thì lập tức phải nhảy lẹ xuống, lôi tảng đá ra khỏi đáy bùn nghe không?
Khúc Thắng tuy gật đầu vâng dạ mà trong lòng bán tín bán nghị Cậu ta dù rất khâm phục võ công của Trùng Dương, nhưng không thể nào tin nổi vị đạo sĩ này lại có thể rẽ đôi mặt nước, vì sự này quá ư huyền diệu ngoài sức tưởng tượng, nghe như là pháp thuật chứ không phải là võ công!
Trùng Dương nói xong, bèn ngồi xếp bằng trên đầu hòn Hiếu Tử Thạch, tay tả chấp trước ngực, tay hữu chỉ thẳng xuống mặt suối, một cảnh kỳ dị liền xuất hiện trước đôi mắt ngơ ngác tột độ của hạt cậụ Hãy thử nghĩ lúc Trùng Dương tại thạch động sau khi luyện xong Nhất Dương chỉ, chỉ một ngón tay điểm vào mà phiến đá nặng ngàn cân đóng kín cửa động còn bị kình lực của cái chỉ ấy văng xa hơn trượng ngoàị Huống hồ hôm nay đem ứng dụng với giòng thủy lưu là vật mềm, thêm vào kinh nghiệm của hai lần thử thách vừa qua mà Trùng Dương đem tất cả công phu khổ luyện Nhất Dương chỉ truyền vào đầu năm ngón tay, đưa thẳng vào lòng suối, đủ biết uy lực của Nhất Dương chỉ lúc ấy hùng mạnh đến bực nào!
Năm luồng kình lực của Nhất Dường Chỉ vừa chạm mặt nước thì lòng suối dao động dữ dộị Lúc đầu thấy nước cuộn tròn thành một vòng xoáy lớn độ chiếc mâm thau, xoáy nước xoay vòng càng lớn dần ra, phút chốc đã lớn bằng một bàn tròn, lỗ hổng của trung tâm điểm càng ngày càng được nới rộng và sâu lõm xuống dòng suốị
Trùng Dương còn dùng kình lực của Nhất Dương chỉ tạo thành một bức tường vô hình ngăn chặn thế nước không cho lọt vào trung tâm điểm ấỵ Xoáy nước cứ càng xoáy mạnh bao nhiêu, thì trung tâm điểm càng được nới rộng thấp dần xuống đáy suốị
Lúc ấy Trùng Dương đã bắt đầu kiệt lực, mặt mày đỏ rần, khí huyết như muốn trào ra miệng, trên trán gân xanh vồng lên, khí nóng trên đỉnh đầu thỉnh thoảng bốc lên thành từng đợt khói trắng mỏng. Chứng rỏ chàng đã dồn tất cả chân nguyên khí vào kình lực Nhất Dương chỉ để hạ thấp dần trung tâm điểm của xoáy nước, tựa như một kẻ đào giếng, từng tấc đất, đào xuống đáy sâụ
Đợi một thời gian ăn xong buổi cơm, Trùng Dương đôi mát nhắm khít lại, mồ hôi trong người đã tháo ra như tắm, trung điểm của xoáy đã tụt xuống thật sâu gần đáy suối, những phiến đá nằm sát tận đáy sâu đã bắt đầu hiện ra trước mắt mọi ngườị
Khúc Thắng mừng rỡ reo lên :
- Chu choa! Đó cục đó, cục đá lý ngư nằm phía bên kia!
Trùng tương cố nhướng đôi mắt hết thần nhìn xem. Quả nhiên không ngoài ý niệm, nơi trung tâm điểm của xoáy nước lờ mờ hiện lên một tảng đá đen thui hình dài, nhưng vì bóng nước nhấp nhô, ảo loạn nhãn quan nên nhìn không rõ có giống hình lý ngư chăng.
Khúc Thắng đã y theo lời dặn của Trùng Dương cởi tuột quần áo ra chờ đợị
Nghe “sầm” một tiếng, xoáy nước đã chạm mạnh tới đáy suối, tảng quái thạch hình lý ngư ấy đã nằm chênh vênh giữa lòng suối cạn.
Khúc Thắng không chút chần chờ nhảy tọt vào trung tâm điểm, vì nơi trung tâm điểm không có nước nên Khúc Thắng nhảy xuống như ngay vào chỗ đất hoang, hại tay chàng ôm chặt phía trên tảng quái thạch, lắc mạnh mấy cái, đã nhẹ nhàng kéo tảng đá lên mặt đất phù sạ
Lần trước, Khúc Thắng không đem khối quái thạch lên được là vì bị sức nước cản trở. Vì con người ở trong nước cứ bị sức nước nâng lên mất đi tự chủ, nên không thể đem toàn sức lực ra ứng dụng như trên đất bằng được. Bây giờ không bị sức nước ngăn cản Khúc Thắng có thể hai chân bám chặt vào lòng suối làm điểm tựa để phát ra sức lực, nên đem phiến đá lên khỏi mặt phù sa cứng một cách dễ dàng.
Vương Nguyên Bân lập tức quăng dây xuống đất để Khúc Thắng cột chặt vào tảng ngư thạch, Vương Nguyên Bận cố sức kéo đầu dây trên, để kéo bổng tảng đá lên khỏi đáy suối hơn thước rồi mới nghịt chặt đầu dây vào chân tượng Hiếu Tử. Trùng Dương thấy giây chạc đã được cột xong xuôi lên tiếng gọi :
- Khúc nhi, mau leo lên! Ta sắp trả thế nước trở về nguyên vị!
Khúc Thắng vội nắm chặt vào sợi dây, tay chân quấn chặt vào sợi dây làm thang để leo lên. Vì lòng suối không mấy sâu chỉ độ trượng ngoài, nên chỉ mấy cái trườn mình Khúc Thắng đã lên khỏi miệng suối cũng vừa lúc ấy Trùng Dương đã đến hồi kiệt sức không gượng được, đầu chàng ngẩng cao, hú lên một tiếng lảnh lót như rồng ngâm, thâu hồi ngay Nhất Dương chỉ. ầm ầm vang lên mấy tiếng như sét nổ lưng trời, suối nước cuốn cuộn đổ trở về, tông mạnh vào nhau, tạo thành một cây nước khổng lồ, cao trên mấy trượng, hoa nước bắn tung tóe khắp cây cối xung quanh suốị
Thật là một sự nguy hiểm tột cùng, nếu Khúc Thắng trèo lên hơi chậm một chút, hoặc giả Trùng Dương sớm thâu Nhất Dương chỉ một chút thì Khúc Thắng còn mắc kẹt trong đáy nước, hứng chịu tất cả sức nước dồn ép mạnh bạo thế kìa, nếu thân hình của cậu bé kia không nát nhũn ra thì nội tạng lục phủ cũng bị dập nát, tánh mạng khó bảo toàn.
Trùng Dương thấy đại sự đã hoàn tất, bèn nhún mình nhảy xuống đất, tinh thần uể oải hết sức.
Lúc nãy chàng dùng Nhất Dương chỉ để cản ngăn sức nước. Thời gian kéo dài hơn một buổi cơm, sức lực có thể nói là tiêu pha gần hết, cho nên chàng vừa nhảy xuống thạch tượng liền ngồi xếp bằng tĩnh tọa để điều dưỡng nguyên khí.
Nguyên Bân và Khúc Thắng nắm đầu dây dùng tượng Hiếu Tử Thạch làm chiếc trụ tựạ kéo phang tảng đá lên. Tuy tảng đá nặng đến trăm cân ngoài, nhưng nhờ đã rời khỏi đáy suối, thêm sức nâng của nước cho nên sức nặng trăm cân chi còn lại nặng năm mươi cân, không mấy chốc. hai cậu đã kéo phiến ngư thạch lên thỏi mặt nước.
Trùng Dương tuy tinh lực bị tiêu hao mỏi mệt, nhưng vừa trông thấy ngư thạch nước nhỏ ròng ròng đang tòn ten trên bờ suối, tinh thần phấn khởi phần nào!
Chàng chầm rãi đứng dậy, bước đến quan sát ti mỉ, thấy tảng đá lý ngư là một nham thạch được bàn tay người đẽo thành hình lý ngư. Theo di ngôn trong chiếc hộp sắt bí mật của Hải Vân Tử để lại thì Cửu Âm chân kinh được giấu kín trong thạch ngư nàỵ Trùng Dương chép miệng lẩm bẩm :
- Thật không ngờ Hải Vân Tử trí cơ huyền diệu tuyệt vời, ông đem chân kinh bí mật giấu vào đây, thật kít đáo không chê vào đu được.
Chàng hợp sức với nguyên Bân và Khúc Thắng đem tảng quái thạch lên hẳn trên bờ suốị Sau đấy mới lật nghiêng tảng đá lên xem, thấy dưới bụng ngư thạch gần phía đuôi có một đường kháp thật nhỏ, đường kháp ấy được trét bằng một loạt đất đặc biệt, rắn như chất đá. Trùng Dương biết chỗ ấy là nơi giấu chân kinh.
Nhưng vì sức cùng lực tận nên không thể dùng chưởng lực đánh bể phiến ngư thạch ra làm đôi để được thấu đáo sự bí mật bên trong.
Trùng Dương giúp Nguyên Bân và Khúc Thắng buộc chặt tảng ngư thạch vào cán lạp soa khiêng trở về Khúc gia trang. Nào ngờ ba người vừa đến trước cửa nhà thì gặp phải một chuyện rắc rối xảy ra: Cha của Khúc Thắng là Khúc Thiên Hùng tự nhiên đi đâu mất! Khúc Thiên Hùng là một ông già bệnh hoạn.
Một năm về trước, ông vào rừng đốn củi bất cẩn bị rắn độc cắn trọng thương, tuy đã giặt thuốc trừ độc không đến nỗi bị chết nhưng nọc độc của rắn đã thấm sâu vào gân cốt, nên từ đó, sức lực suy giảm. Không thể làm gì nặng cũng không thể đi xa, thân hình gần như con người tàn phế, vì vậy bình nhật Khúc Thiên Hùng không bao giờ ra khỏi nhà nửa bước. Nhưng hôm nay Trùng Dương và Khúc Thắng về đến nhà thấy ông đâu mất mà quần áo đồ đạc trong nhà ngã đổ ngổn ngang khắp nơị
Khúc Thắng bồn chồn lo âu, réo lên :
- Cha ơi! Cha đi đâu rồỉ...
Cậu réo liên tiếp mấy lượt cũng không nghe tăm hơi gì cả. Khúc Thắng phát hoảng chạy giông ra bìa rừng khóc thét lên :
- Nguy rối! Nguy rồi! Cha tôi bị thằng chó Âu Dương Phong sát hại rồi! Hu hu...
Trùng Dương nhíu mày suy nghĩ. Chàng không tin là Âu Dương Phong, dù sao cũng là Tông Chúa một phái, không đến đỗi hèn hạ ra tay sát hại một người tàn phế như Khúc lãọ
Trùng Dương định gọi Khúc Thắng trở về, bất thần từ bìa rừng tiếng kêu sợ hãi: “Ôi cha!” tiếp theo tiếng Khúc Thắng kêu thét lên :
- Đạo chưởng! Cứu tôi! Cửu tôi!
Trùng Dương giật nẩy mình, không chút chậm trễ, hất tay áo, từ trong nhà tung mình nhảy vọt ra phía bìa rừng mau như một cơn gió thoảng, chàng đưa mắt nhìn quanh bốn phía, thấy vắng lặng như tờ, Khúc Thắng đã biến mất dạng.
Trùng Dương vô cùng hoảng hốt, chính mắt chàng thấy rõ ràng Khúc Thắng đứng tại chỗ này kêu khóc om sòm, tại sao chỉ trong nháy mắt biến đâu mất!
Chàng bực tức đưa mắt lục lọi khắp chỗ! chợt nghe trong nhà có tiếng Nguyên Bân thét lên :
- Ôi cha!
Trùng Dương giựt mình tỉnh ngộ, chàng nhớ đến trong nhà có phiến ngư thạch, trong bụng ngư thạch lại có dấu Cửu Âm chân kinh! Như vậy chàng đã bị trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của địch. Nếu để chân kinh lọt vào tay kẻ địch, thì công của chàng hóa ra công dã tràng mà còn mang thêm tiếng chê cười của võ lâm giang hồ, chịu sao cho nổỉ
Chàng vội dùng ngay thân pháp “Huỳnh Hạc Xung Thiên” thân hình tựa như làn điện. Rất may phiến ngư thạch vẫn còn kia nhưng Nguyên Bân mặt mày tái mét núp vào xó nhà đang run lên cầm cập.
Trùng Dương ngạc nhiên quát hỏi :
- Nguyên Bân, chuyện gì xảy ra mà sợ hãi quá thế?
Nguyên Bân thấy sư phụ trở về, mới hoàn hồn đáp :
- Sư phụ, chuyện ghê quá! Lúc nãy con ngồi trong nhà để canh chừng tảng đá, bỗng nhiên ngoài cửa ra có hơi gió lạnh bay vào, tiếp theo đó có tiếng kêu “Ngáo ộp” kỳ lạ như tiếng con ễnh ương, con vội quay dầu nhìn ra thì eo ơi, một khuôn mặt kỳ quái hiện ra, ba phần giống người, bảy phần như quỷ sứ nước da vàng ệch không có một chút máu, mắt tai, miệng, mũi rộng tềnh hệch như năm cái hang cuạ Đệ tử quá sợ vừa mở miệng kêu lên, cái mặt quỷ sứ ấy bỗng nhăn nanh há miệng thổi ra một cái bóng trắng vả mạnh vào gò má đệ tử một vả đau thấu trời xanh đất đỏ. Đệ tử không biết đây là người hay là quỷ! Thật là ghê...
Trùng Dương chợt thấy dưới chân Nguyên Bân có miếng giấy nhỏ bay phấp phới, chàng vội nhặt lên xem. Thì ra dấy là một tờ hoa tiên bằng lụa trắng! Trong ấy nguệch ngoạc mấy dòng chữ theo nét bút sắc vô cùng.
“Trùng Dương chân nhân nhã giám :
Cha con họ Khúc ta đã bắt đị Khúc Thắng ngày sau sẽ là đệ tử của tạ Ngươi khỏi phí công truy tìm mất công. Nếu có lúc rảnh mời đến Đông Hải, Đào Hoa đảo sẽ gặp thầy trò ta”.
Cuối thư không đề tên, chỉ thấy viết một chữ “Dược” rất thảọ
Trùng Dương bàng hoàng suy nghĩ thì ra kẻ bắt cha con Khúc Thắng là kẻ dùng Truyền âm nhập mật cười ngạo Âu Dương Phong vừa rồi chính là Hoàng Cố, người mà Trùng Dương đã gặp qua trên hoang đảo ở Hoàng Hải lúc trước. Sau này chính y là Hoàng Dược Sư đảo chúa Đào Hoa đảo biệt hiệu là Đông Tà. Và Khúc Thắng Cảnh là Khúc Linh Phong đệ tử thứ hai của Đông Tà vậy.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 11-22-2012, 11:25 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 17 - 20

Võ Lâm Ngũ Bá


Hồi 17

Thiết Chưởng Hành Tung


Trùng Dương cầm tờ hoa tiên bằng lụa trắng xem xong, chàng xé nhỏ từng mảnh vụn, ném rơi lả tả dưới đất. Nguyên Bân từ nãy giờ tay chân còn run cầm cập, mắt vẫn láo liên. Trùng Dương đưa tay vuốt tóc cậu, nói nhỏ :
- Con cứ yên tâm, cha con Khúc Thắng đã được cao nhân tiếp dẫn đi về Đào Hoa đảo để truyền thụ võ công và có ngày sẽ trở về. Bây giờ hai thầy trò mình đem tảng ngư thạch này vào trong, chờ thầy tịnh dưỡng lấy lại chân khí, rồi sẽ lấy chân kinh rạ
Hai thầy trò bàn bạc xong, chàng liền ngồi xuống đối diện với Nguyên Bân, hai chân xếp lại, đôi miệng khép kín rồi vận dụng “Thổ nạp” tiếp dẫn khí hỏa quy nguyên để bồi dưỡng lại chân khí mà chàng đã sử dụng vào Nhất Dương chỉ vừa rồị
Suốt ngày đêm, chàng ngồi tĩnh tọa, mãi đến sáng hôm sau chàng mới đứng dậy đưa tay ngoắt Nguyên Bân, nói :
- Nguyên Bân con, bây giờ thầy đã khôi phục phần nào, vậy con hãy dang ra cho thầy dùng chưởng lực mới bửa tảng ngư thạch này được. Nói xong, chàng phất tay áo một cái tức thì một tiếng “Chát” nhắm vào bụng ngư thạch, đá vụn tua tủa rơi đồm độp xuống nền gạch, bụng đá chẻ làm đôi theo đường gân, tức thì chiếc hộp trong ruột tảng đá văng ra, đen thui thủị Nguyên Bân thấy chiếc hộp sắt lòi ra, miệng bô bô la lớn :
- Sư phụ, chiếc hộp kia rồị
Trùng Dương bước lại gần, xem xét, thấy chiếc hộp, dài hơn một thước, cao hai tấc hình trạng như cái tráp hình chữ nhật đựng sách, chàng nhấc chiếc hộp lên xem một lúc lâu, thấy toàn diện không có nắp để mở. Chiếc hộp láng lẫy không có một vết hàn nàọ Chỉ thấy dưới đáy chạm mấy chữ theo lỗi triện son đỏ “Cửu Âm Chân Bổn”.
Trùng Dương liền dang tay tính đánh một chưởng để mở chiếc hộp sắt, nhưng chàng lại hạ tay xuống không nỡ hủy hoại chiếc hộp. Chàng nhủ thầm :
- Nếu mình không phá vỡ chiếc hộp thì làm sao lấy được “Cửu Âm chân kinh”.
Ông lăn qua lăn lại chiếc hộp sắt một hồi lâu, miệng nói lẩm bẩm :
- Chà! Chiếc hộp đẹp quá, rõ ràng là một báu vật đáng giá.
Chàng cầm chiếc hộp sắt đặt nằm trên chỗ đất bằng phẳng, hai chân đứng dang ra, vung tay áo một cái, vận nội công bửa mạnh một chưởng vào chiếc hộp.
Chưởng lực phát nổ hai tiếng “Chát, chát...” hộp sắt xoay tròn. Chàng bước đến thấy hộp sắt không chỗ nào móp méo, chàng hết sức ngạc nhiên nói :
- Năm xưa tại chùa Thiếu Lâm ta dùng một chưởng đánh ngã mười tám tượng mộc La Hán. Thế mà chiếc hộp sắt nhỏ bé như thế này mà không hề hấn gì saỏ Lạ thật! Dù chiếc hộp làm bằng thép đi nữa cũng phải vỡ làm đôị
Ông ta nhíu đôi mày lại rồi đi qua đi lại suy nghĩ...
Nguyên Bân cũng ngạc nhiên vô cùng, cậu thầm nghĩ :
- “Chưởng lực của sư phụ hùng mạnh lắm kia mà! Tại sao chiếc hộp nhỏ thế này mà lại đánh không bể?”
Chàng bèn bưng chiếc hộp lên nhìn và nói :
- Sư phụ con xem chiếc hộp này không phải bằng sắt hay bằng đá, dường như là một chất bằng sừng hay xương, chắc có lẽ là sừng hươu hay xương trâu gì đẽo thành.
Trùng Dương cười bảo :
- Không đúng! Nếu bằng sừng hay xương, tuy cứng nhưng rất dòn, không thề nào chịu nổi chưởng phong của ta! Hay là ta đem bửu kiếm chặt thử xem đứt hay không!
Trùng Dương nói đoạn rút thanh “Tùng Vân cổ định kiếm” cầm nới tay, để chiếc hộp thật ngay ngắn trên phiến đá ngư thạch, giơ kiếm thật cao, bổ mạnh xuống một nhát theo chiều dài chiếc hộp, nghe “cong” một tiếng thật thanh, tựa như tiếng đại đồng chung ngân mãi không dứt, trên nắp hộp tua tủa những ánh lửa bắn ra như hoa saọ Thầy trò Trùng Dương ngạc nhiên nhìn kỹ, chiếc hộp không hề có một vết sứt mẻ cỏn con.
Nguyên Bân vội nói :
- Sư phụ, có lẽ sư phụ chém nhẹ tay quá! Chém thêm lần nữa thử xem!
Trùng Dương chán nản đáp :
- Khỏi cần chém thêm. Kiếm ấy ta đã vận dụng tất cả chân lực rồi, dù cho là “Cửu luyện thuần can” ta chém cũng đứt ra làm haị Nhưng hộp này chém không suy suyển chút nào có lẽ một vật chí báu khó tìm trong thiên hạ. Công phu ta không đủ sức chém vỡ nổi đâu!
Nguyên Bân cứ lẩm bẩm cho là lạ lắm, chàng cầm chiếc hộp ngắm nghía bốn bên rồi nói :
Sư phụ, con xem chất chiếc hộp này không ngoài hai chất sừng và xương, dường như nó là sừng tê giác thì phảị
Trùng Dương nghe đến hài tiếng “tê giác” như người sực tỉnh buộc miệng kêu :
- Tê giác?
Chàng giằng chiếc hộp trên tay Nguyên Bân, áp vào má xem thử, thấy hơi lạnh của chiếc hộp thấm vào da, rồi lại dùng lưỡi nếm thử, cảm thấy chót lưỡi có vị cay và đắng. Trùng Dương còn phân vân ôm chiếc hộp xuống bếp thảy ngay vào lu nước một cảnh tượng kỳ lạ liền hiện rạ
Thì ra trong lu còn hơn nửa lu nước, Trùng Dương ném chiếc hộp vào, nước trong lu bỗng dâng lên khỏi miệng lu, bọt tăm sôi lên sùng sục như bị đun sôi, trong chốc lát nước trong lu cạn không còn một giọt.
Vương Nguyên Bân cứ chắc lưỡi kều lia lịa :
- Lạ quá! Lạ quá!...
Cậu ta nhìn thân đáy lu chỉ còn trơ chiếc hộp, nhưng mặt hộp vẫn khô khan không dính lấy một giọt nước. Trùng Dương thất thanh kêu lên :
- Vật chí bửu, chí bửu! Đại sư Hải Vân Tử năm xưa dùng sừng con Chiếu Dạ Bích Thủy Tê Giác để chạm thành chiếc hộp này...
Nguyên Bân nghe Trùng Dương nói thế, trong lòng hết sức ngạc nhiên bèn hỏi :
- Sư phụ! Chiếu Dạ Bích Thủy Tê Giác là giống vật gì?
Trùng Dương bèn giải nghĩa cho cậu rõ. Tê Giác là một loại sinh vật chỉ có trong núi Tây Thủy, sừng của Tê Giác quí hơn cả châu báu ngọc ngà, Tê Giác sống trên một trăm năm màu da từ đen sẽ trở thành trắng, gọi là Bạch Tê. Sừng của con Bạch Tê còn quí hơn nữa vì nó có thể trị được bệnh, công hiệu có thể cải tử hoàn sanh, nếu Bạch Tê sống được thêm một trăm nữa màu trắng sẽ đổi xanh gọi là Thương Tê, sừng của Thương Tê kêu là Bích Thủy Tê Giác, theo lời đồn thì loại Thương Tê này mỗi khi nhảy xuống nước, mặt nước liền rẽ hai, loại Thương Tê rất hiếm nên sừng của nó là một vật kỳ bửu trên đời!
Ngoài công dụng trị lành bá bệnh, cải tử hoàn sanh ra nó còn có thể rọi sáng ban đêm, như ngọc Dạ minh châụ Không hiểu Hải Vân Tử làm sao có được vật quí như vậy để làm vật giấu Chân kinh. Và có lẽ thời gian quá lâu, sừng tê giác tự thay đổi thể chất liền lại trở thành một khối làm mất dấu vết khắp xung quanh hộp.
Dù kiếm dao sắc bén, dù lửa nóng nung nấu cách nào, cũng không làm sao suy suyển được nó.
Nguyên Bân nghe sư phụ giải nghĩa xong chàng hơi thắc mắc hỏi tiếp :
- Nếu thể chất của Bích Thủy tê giác cứng rắn như thế cho đến sư phụ dùng kiếm lẫn chưởng cũng không làm vỡ được thì ông Hải Vân Tử dùng chất gì mà đẽo nó thành hình chiếc hộp được? Con thật không hiểu nổi!
Trùng Dương nhíu mày suy nghĩ rồi đáp :
- Ta cũng không hiểu nốt, hay Hải Vân Tử có một loại thuốc đặc biệt có thể làm cho sừng tê giác mềm lại không chừng! Ngày mai ta trở về Hà nam. Con có bằng lòng theo ta về Tung Sơn không?
Nguyên Bân cả mừng, cúi đầu làm lễ và thưa :
- Nếu sư phụ vui lòng thâu nhận, con nguyện cầm roi theo hầu dù thiên sơn vạn hải, con cũng không từ.
(Vương Nguyên Bân sau khi theo Trùng Dương lên núi Tung Sơn, luyện thành tuyệt kỹ trở nên nhân vật kỳ tài trong Toàn Chần Thất Tử, biệt hiệu là Ngọc Dương Tử Vương Xử Nhứt).
Rạng ngày sau, Trùng Dương trở về nhà Vương Phúc xin cáo từ và đem chuyện thu nhận Nguyên Bân lên núi Tung Sơn để truyền thụ võ công ra thảo luận với Vương Phúc. Vương Phúc hết sức mừng rỡ, vái tạ Trùng Dương gởi gắm Nguyên Bân cho chàng.
Hai thầy trò rời khỏi Hoa Sơn, ngày đi đêm nghỉ, tới địa phận Thiểm Tây vào “Lâm Đồng Quan” Trùng Dương đưa Nguyên Bân leo lên một ngọn núi gần Lâm Đồng Quan, chàng thấy địa thế Lâm Đồng hiểm trở liền buột miệng than :
- Đồng Quan bốn phía núi cao, hình thể như chiếc miệng bình, có thể ngăn được thiên binh vạn mã, thật là một lợi điểm tranh bá đồ vương. Thật không hổ là nơi phân tranh của binh gia kim cổ.
Vương Nguyên Bân cũng thường nghe các lão bô săn bắn khi nhàn hạ đem “Tam Quốc Chí” ra bàn. Cậu nhớ đến chuyện Mã Siêu đại chiến vời Tào Tháo tại Lâm Đồng Quan. Tào Tháo phải cởi áo cắt râu chạy trối chết. Chàng định hỏi sư phụ nơi Ma Siêu đuổi Tào Tháo nằm ở chỗ nàọ
Bỗng nghe tiếng nhạc ca reo vang, rồi từ quan lộ hướng Đông, một thớt ngựa phi đến như baỵ Trên lưng ngựa chở một chàng thiếu niên ăn mặc theo lối tráng đinh, bên vai tả bị một vết thương lớn, máu chảy thấm Ta ngoái áo đỏ lòm. Chàng thiếu niên mệt lả nằm móp trên lưng ngựa, hái tay ôm chặt vào cổ ngựa, dường như vết thương rất nặng, nên đầu cứ gục xuống không thể cất lên nổị
Phía sau, xa xa đuổi theọ Một người trong bọn lớn tiếng gọi :
- Thằng họ Lưu kia định chạy đi đâủ Chúng ta thề quyết bắt mi để phanh da xẻ thịt!
Nguyện Bân kéo tay Trùng Dương, nói :
- Sư phụ, con xem bọn người đuổi theo mặt mày đều rất hung ác chắc không phải là người hiền. Chúng ta mau đến giúp gã thiếu niên kia kẻo nguy!
Trùng Dương gật đầu nói :
Cứu người nguy khốn là bổn phận hành hiệp của con nhà võ. Con đứng đây đợi, đừng đi đâu, để ta xuống giúp người ấỵ
Nói đoạn phẩy nhẹ tay áo, thân hình như chim xòe cánh, nhẹ nhàng bay vút xuống núi, đứng chận ngay giữa đường. Thời gian không đầy nháy mắt, sáu thớt ngựa một trước, năm người sau phóng nhanh tới như cơn giông.
Con ngựa chở thiếu niên bị thương chạy trước rất hung hãn, thấy Trùng Dương đứng chặn đường liền hí một tiếng thật lớn cất cao hai vó trước búng mạnh vào ngực Trùng Dương.
Trùng Dương không chút bối rối, khẽ tràn mình đã lướt đến bên hông ngựa, nhanh nhẹn đưa tay tả lên chộp lấy thân hình gã thiếu niên bị thương rồi kẹp nhẹ y vào nách.
Bọn người đuổi theo sau thấy thế đồng quát tháo vang rền, giục cương tiến nhanh lên.
Trùng Dương sau khi kéo được thiếu niên khỏi yên ngựa, khẽ nhún gót chân, thân hình nhẹ như chiếc tên lìa ná, vút một cái đã cao hơn ba trượng, nhảy đến một ngọn đồi đặt thiếu niên nằm êm ái xuống đất. Năm người đuổi theo sau vội nhảy xuống ngựa vây quanh ngọn đồị
Trong bọn, một gã đại hán mày rô, mắt lộ, mặt đen như chảo sắt chỉ Trùng Dương và quát lớn :
- Lão đạo sĩ hôi hám kia từ đâu đến, dám cả gan cứu giúp kẻ thù của bổn bang? Muốn sống, khôn hồn trả kẻ ấy lại cho chúng tạ Ta sẽ tha cái mạng chó của mi!
Trùng Dương mỉm cười đáp :
- Xin lỗi liệt vị, chàng thanh niên này còn nhỏ tuổi sao lại có chuyện thù hằn với quí vị? Bức bách người thế cô sức yếu, đâu phải là hảo hán? Theo thiện ý của bần đạo, liệt vị nên buông tha chàng ta rồi quay trở về là phải hơn.
Bốn gã kia tức giận, đồng cười lên một tiếng “mốc xì!” rồi vung tay ném ra bốn mũi phi tiêu bay thẳng vào mặt Trùng Dương.
Trùng Dương xem trò trẻ con ấy ra gì, chàng đứng im chờ bốn mũi phi tiêu gần đến mặt, giơ tay quay nhanh một vòng nắm gọn bốn mũi phi tiêu trong lòng bàn tay, năm ngón tay khẽ bóp một cái, bốn mũi phi tiêu sắc bén chỉ còn là nắm bột vụn rơi lả tả xuống đất.
Năm gã đại hán lộ vẻ kinh hoàng, há hốc miệng đứng nhìn, bao nhiêu khí thế hung hăng lúc nãy đều biến đâu mất.
Gã đại hán mặt đen nói lớn :
- Mi là một tên yêu đạo phải không? Tên là gì, định dùng pháp thuật để lòe chúng ta saỏ
Trùng Dương cười to bảo :
- Giữa thanh thiên bạch nhật, ta là người rõ ràng chứ đâu phải ma quỷ gì mà dùng pháp thuật để lòe ngườỉ Trí óc các ngươi kém quá thế? Các người thuộc bang nào, Bang chủ là aỉ Mau nói rõ để khỏi mất hòa khí đôi bên.
Đại hán mặt đen lớn tiếng đáp :
- Lão gia của mi là hảo hán ngồi vào hàng thứ tư của Thiết Chưởng bang, ngoại hiệu là Thiết Diện Hổ, chính danh là Đỗ Hồng. Yêu đạo, mi đừng cậy chút bản lĩnh ấy mà gánh vác việc ngườị Mi hãy xem vật này thì biết.
Nói đoạn y lôi từ trong túi ra một vật bằng thép, hình bàn tay người, tự cao tự đại giơ cao bàn tay thép ấy lên khỏi đầu vất nghinh mặt khinh khỉnh trông thiệt đáng ghét!
Trùng Dương suốt đời bôn ba giang hồ, đối với các Bang hội chàng đều hiểu rõ. Chàng chợt nhớ đến chiếc bàn tay thép này là tín vật của Thiết Chưởng bang...
Bang hội này hoạt động trong khu vực hai hồ ở miền trung lưu sông Trường Giang. Bang chủ và thủ hạ đều là lục lâm cường đạọ
Không ngờ hôm nay vô tình đụng chạm tới chúng, Trùng Dương cho là dịp thuận tiện để trừ họa cho dân lành. Chàng bèn cười to và nói :
- Sá gì miếng thép bể ấy, đáng bao nhiêu tiền mà cũng xưng là Bang. Thiếu niên ấy ta dã nhất định cứu giúp, mặc xác tín vật nhà ngươi là thiết chưởng hay mộc chưởng! Cút ngay để ta còn thì giờ chữa chạy người lâm nạn.
Đổ Hồng giận đến mắt nổ đom đóm, gầm lên :
- Yêu đạo! Thấy tín phù của Bang chủ mà còn dám ngông nghênh vô lễ? Mi chết cũng là đáng số!
Năm người hò hét phân làm năm ngả leo lên ngọn đồi để tấn công Trùng Dương.
Trùng Dương thấy thế cười ha hả bảo :
- Thật là đồ ngu, ta giữ thể diện cho bọn ngươi, bọn ngươi lại không muốn, lên đây đề rước nhục vào thân à! Hãy về đi! Tìm thầy học thêm rồi hãy đến cũng không muộn!
Đổ Hồng từ xưa nay là kẻ tự phụ ngông cuồng, chưa hề có người dám trước mặt y buông lời khi rẻ như vậỵ Y giận đến mặt đen hóa tím hét to như sấm, thôi thúc mọi người đồng loạt vũ lộng binh khí tấn công Trùng Dương tới tấp, Đổ Hồng hăng hái tiến bước tới trước, giơ đao lên khỏi đầu dùng thế “Hoa Sơn Một Cửa”
chém mạnh vào vai của địch thủ. Trùng Dương không thèm né tránh, đưa vai ra hứng lấy mũi đao uy mãnh của ỵ Đổ Hồng cảm thấy lưỡi đao hình như chém vào đám bông gòn mềm nhũn.
Y kinh hãi định thâu nhanh ngọn đao trỏ về, Trùng Dương mỉm cười phẩy nhẹ nửa chiết tay áo đánh vào mặt Đổ Hồng, thân hình Trùng Dương tuy mềm như bông gòn nhưng tay áo của chàng lại cứng thư sắt thép. Đỗ Hồng chỉ “Hự” được một tiếng đã văng hắt ra sau nằm chết giấc.
Bốn người còn lại thấy thế đều giật mình kinh hãi, định xông tới tấn công.
Trùng Dương cười nhạt bảo :
- Đừng dại dột tiến lên mà toi mạng! Xem bản lãnh của bần đạo!
Nói đoạn, chàng phẩy mạnh tay áo vào miếng đất trống trước mặt, cái phất ấy chàng đã thầm vận “Thái Ất huyền công” nghe “Ầm” một tiếng, cát đá theo ngọn kình phong từ tay áo phát ra, bay lên đập mạnh vào thân hình bốn tên cường đạo, trở nên lợi hại hơn cả những loại ám khí “Bồ đề tử” hay “Thiết liên tử” rất nhiềụ
Bốn tên cường đạo cảm thấy khắp thân hình vừa đau rát vừa nóng bỏng, kêu la ôi ối té bò lê dưới đất. Chúng đồng thất thanh kêu lên :
- Không xong! Không xong! Tên yêu đạo này có phép thuật, chạy mau kẻo chết!
Nói đoạn, bốn người vội lốm cồm bò dậy, ôm đầu lủi mất.
Nguyên Bân thấy khoái trá vỗ tay cười ngất. Trùng Dương chờ bọn chúng chạy khỏi mới tiến tới bên gã thiếu niên bị thương. Thấy sức mặt y dã trắng bệch như tờ giấy, hôn mê bất tỉnh, hơi thở thoi thóp như sắp chết, Nguyên Bân hết sức lo âu, Trùng Dương liền nói :
- Không sao! Vì máu ra nhiều quá, nén y bất tỉnh đấy thôị Ta cho y uống thuốc y sẽ tỉnh lại ngaỵ
Chàng vạch vết thương nơi vai của thiếu niên, thấy bị chém bằng ngọn sử đao nên da thịt chỗ ấy loét loét lòi cả xương rạ Nếu là người thường, bị đao chém sâu như thế, thì đã ngã xuống chết rồi, nhưng thiếu niên này vẫn còn đủ sức giục ngựa chạy trốn được, kể ra cũng là một nhân vật khác thường.
Trùng Dương vội móc ra một gói thuốc “Thái Ất Thánh Linh Tán” và một viện “Kim Thương Đại Hoàn”, tự tay cho thiếu niên uống và thoa vào vết thương, đoạn băng lại kỹ lưỡng.
Hai thứ thánh dược trị nội ngoại thương của Toàn Chân phái thực là linh nghiệm. Trong giây phút, thiếu niên đã từ từ mở mắt và lẩm bẩm một mình :
- Cẩu tặc! Bọn bay đông bao nhiêu thiếu gia cũng không sợ! Tiến lên đây, đánh thêm vài trăm hiệp nữa, nếu ta sợ bọn bây ta không phải là hảo hán!


Hồi 18

Khảo Trường Giết Tham Quan


Trùng Dương vỗ nhẹ vai, gọi :
- Thiếu gia mau tỉnh dậy, cường tặc đã bị ta đuổi chạy rồi!
Thiếu niên trở mình tỉnh dậy, bàng hoàng hỏi :
- Ủa! Dạo trưởng đánh lui được cường đạo rồi saỏ Qúi đạo hiệu là chỉ
Nguyên Bân lanh miệng thuật tỉ mỉ lại vụ nhau lúc nãỵ
Thiếu niên nghe xong “Ồ” một tiếng rồi lồm cồm ngồi dậy, phục xuống lạy tạ Trùng Dương đã cứu mạng.
Trùng Dương đỡ y dậy và nói :
- Cậu họ Liễu phải không? Tên gọi là gì? Tại sao bị bọn người kia rượt đánh như thế?
Thiếu niên bèn thuật cho Trùng Dương rõ đầu đuôi câu chuyện như sau :
Chàng họ Liễu tên Quân Bảo, người Hà Nam, gần với quê quán của Trùng Dương ở Trần Lưu huyện không xạ Gia đình họ Liễu là một danh gia thế tộc. Cha của Quân Bảo Liễu Quan Phổ làm chức Tiết độ sứ thành Đàn Châu, đời Dực Tông Tuyên Hòa nguyên niên, cùng theo Trùng Quang đánh rợ Liễu bị tử trận. Lúc ấy, Quân Bảo mới mười sáu tuổị Nghe tin tức Cha bị giặc giết chết chàng đau xót xuýt chết, thề quyết lớn lên sẽ rèn tập kiếm cung để sang tận biên giới càn quét giặc Hồ Lư để báo thù cho chạ
Cho nên năm vừa thọ tang cha, chàng đã ném bỏ sách vở, nhất tâm rèn luyện võ nghiệp. Ngày đêm gắng sức trau dồị Đến năm hai mươi tuổi, Quân Bảo thấy bản lãnh của mình đã khá, tự lượng có thể xuất đầu lộ diện tìm chữ công danh. Mùa thu vừa qua, chàng đến kinh đô vào khảo trường để tranh chức Võ Cử.
Thưở ấy nhà Tống trọng văn khinh võ, nên 10 năm mới có một khoa thi Võ Cử một lần.
Chủ khảo năm ấy là Binh bộ Thượng thư Vương Bổn Luyện, vốn là một tham quan, rất được lòng của quyền thần trong triều là quan Thái sư Trà Kinh.
Trước ngày mở khoa thi, Binh bộ Thượng thư, Vương Bổn Luyện đã được Bành tổng binh đút lót một số vàng trọng hậu để gửi gắm con y là Bành Chiêm Ngaọ
Thượng Thư Vương Bổn Luyện híp mắt nhận lễ trọng của Bành tổng binh và hứa chắc là sẽ chấm cho Bành Chiêm Ngao đậu Võ trạng.
Tới ngày khảo thí, Vương binh bộ sáng sớm thức giấc, sau khi tắm gội xong xuôi, tiền hô hậu ủng, bệ vệ tiến đến khảo trường. Vương binh bộ cảm thấy cử tử đến dự khảo năm nay có trên hai ngàn người, hắn cau mày suy nghĩ, trong bụng đã tìm ra được diệu kế để đánh rớt cử tử bốn phương.
Ngày thi thứ nhất là thi viết.
Tổng trào gọi là “Thiệp Thí” mỗi cử tử phải luận một bài văn, đề mục không ngoài kế hoạch hành quân hay mưu lược an bang tế thế. Ngày thứ hai mới khảo thí cung mã. Ngày thứ ba mới chánh thức tỉ thí võ nghệ để chủ khảo theo đấy mà chấm võ trạng nguyên.
Vương binh bộ cố ý đánh rớt tất cả cử tử, cho nên giữa nắng dưới ánh mặt trời như thiêu như đốt, lại ra lịch cử tử bắt đầu “Thiệp Thí” đã thế lại còn bắt buộc mọi cử tử không được phép che lều để tránh nắng.
Bao nhiêu cử tử đều phải phơi mình dưới cái nắng cháy da phỏng trán trên hai giờ đồng hồ, mọi người đều đầu nhức mắt hoa, mồ hôi thấm ướt trong ngoài, mệt đến lè lưỡi, há họng còn tinh thần đâu mà nhả ngọc phun châu, chỉ còn cách viết vội vàng cho hết quyển đem nạp để sớm tránh cái nắng như thiêu như đốt ấỵ
Tất cả cử tử đều không ngớt nguyền rủa vị giám khảo quá nhẫn tâm.
Vương binh bộ đem tất cả hai ngàn quyển văn vứt bỏ vào sọt giấy, chỉ chừa lại quyển văn của Bành Chiêm Ngao, rồi mạo theo bút tự của y, viết thành một quyển khác đem lên nạp cho Tống Vương. Đến ngày thứ hai khảo thí cung đaọ
Vương thượng thư cho bày trước hiệu đài một hàng dài năm cát thiết đỉnh thật tọ
Cái nhỏ nhất nặng hai trăm cân, rồi luân lưu nặng dần lên bốn trăm cân, sáu trăm cân, tám trăm cân cho đến cái lớn nhất là một nghìn cân.
Sau tiếng pháo lệnh, các cừ tử đều đổ xô vào khảo trường, mọi người thấy trước hiệu đài bày thành một dàn năm cái đỉnh to lớn như thế đều giật mình lo ngạị
Vương binh bộ ngồi trên hiệu đài lên tiếng gọi lớn :
- “Các cử tử bốn phương nghe đây: Bổn quan vì quốc gia, cầu hiền tài để giúp nước nhà nên bổn quan đã tâu xin Hoàng thượng chuẩn tấu cách thức khảo võ năm nay là cử đảnh để chọn chức võ trạng. Cử tử nào muốn chiếm được thủ khoa, ít nhất phải giơ bổng nổi chiếc đảnh một ngàn cân kia xong rồi mới được thi võ để tranh tài cao thấp. Các cử tử đã nghe rõ chưa!”
Tất cả cử tử nghe nói xong, đều ngẩn người nhìn nhau phẫn uất đến cực điểm, bàn tán xôn xao khắp võ trường. Vì từ xưa nay mỗi khoa thi võ cử thường là cỡi ngựa bắn cung. Tuy có khảo thí sức lực, nhưng thường chỉ là khuân đá ném lao, nào ngờ quan chủ khảo năm nay lại bày cách phải cử đỉnh ngàn cân thật là một điều lệ gắt gao xưa nay chưa hề có.
Vương binh bộ thấy tình hình như vậy liền lên tiếng quát tháo :
- Các cử tử không được lắm lời, đấy là ý muốn của Hoàng Thượng, sao các người dám buông lời chê bai nghị luận. Cổ nhân lấy sức lực luận anh hùng, như Mạnh Khoa, Nguyên Bá một tay giơ nổi ngàn cân, danh dũng sĩ của họ vẫn muôn thưở lưu truyền trong sử sách. Hạng Sở Bá Vương anh hùng cái thế sức dịch muôn người, dẹp tan bạo Tàn, cứu nguy cho thiên hạ. Phải chăng nhờ ở sức mạnh cử đảnh bạt sơn? Còn các ngươi mười năm khổ công luyện tập chỉ biết đánh gươm múa quyền, cỡi ngựa bắn cung những môn tầm thường vô dụng ấy có thể cự địch vạn nhân hay không? Kẻ nào bất phục cứ tự tiện lui ra khỏi võ trường, không được châu đầu chụm lại buông lời oán trách mà phạm tội với triều đình.
Hơn hai ngàn cử tử nghe lời đe dọa ấy đều phải nén lòng im hơi lặng tiếng, tự biết mình bé cổ tiếng kêu khó thấu đến cửa rồng, chỉ dám giận mà không dám thốt thành lờị Hơn phân nửa cử tử vì quá phẫn uất ùn ùn kéo nhau ra về.
Vương Bổn Luyện mỉm cười đắc ý, ra hiệu lệnh bắt đầu cuộc khảo khí trong đám cử tử chỉ rải rác đi ra vài mươi người, kẻ mạnh nhất chỉ đến cái đảnh thứ ba sáu trăm cân là cùng. Đến cái đảnh thứ tư tám trăm cân là họ đã lắc đầu lè lưỡi ríu rít rút lui không một ai dám giơ tới, huống hồ là cái đỉnh nặng nhất một nghìn cân kia thì ai dám sờ mó đến bao giờ.
Vương Bổn Luyện thấy mưu gian đá thành công, trong lòng cả mừng, bên ngoài vờ chán nản lắc đầu nói :
- “Bao nhiêu cử tử năm nay, toàn là thứ vô dụng, cái đảnh một ngàn cân như thế kia mà không một ai cử nốt, tìm cho được một dõng sĩ anh hùng thật khó, tiếc thay!”.
Vừa dứt lời, thì từ trong đám đông cử tử bỗng nhảy ra một võ sinh lớn tiếng nói :
- Các người thật là đồ ăn hại, cái đảnh nhẹ hếu sáu trăm cân mà giơ cũng chẳng muốn nốt, để ta giơ bổng chiếc đảnh ngàn cân cho các ngươi rõ tài!
Gã võ sinh nọ chính là Bành Chiêm Ngao con trai của quan Bành tổng binh.
Gã nghênh ngang tiến tới chỗ chiếc đảnh lớn nhất giơ hai tay nắm chặt lấy chân đảnh giơ lên, chiếc đảnh cao cỡ hình người, lớn kềnh càng như cái lu nước, nặng đến ngàn cân kia mà gã họ Bành giơ cao khỏi đầu, trông nhẹ nhàng như trò chơi, mọi người ngồi trên hiệu đài đều nức nở ngợi khen.
Vương binh bộ sáng rỡ đôi mắt quay sang nói với tả hữu :
- Thật quả hạt minh châu lẫn trong sỏi cát, bổn quan vì quốc gia tìm được kẻ chân tài rồị
Bành Chiêm Ngao giơ bổng chiếc đảnh nghìn cân liên tiếp ba lần, mới từ từ để xuống rối vênh váo bước lên hiệu đài chờ lệnh. Vương Bổn Luyện bước xuống nắm tay y hỏi :
- Tráng sĩ tên họ gì?
Bành Chiêm Ngao cung kính đáp :
- Bẩm đại nhân, vãn sanh tên Bành Chiêm Ngao, người ở Hà Nam, huyện Chương Võ.
Vương Bổn Luyện liền nói :
Táng sĩ đã cử chiếc đảnh ngàn cân, thần lực quán chúng, bổn quan chấm tráng sĩ đậu Võ Trạng kỳ này rất xứng đáng vậỵ
Nói đoạn quay sang tả hữu :
- Các ngươi mau đem áo mão đến đây dâng cho Tân khoa võ trạng.
Hai gã tùng nhân liền chạy đến, bưng hai cái “Đại hồng kim huê” định dội lên đầu cho tân Võ trạng Bành Chiêm Ngao...
Lúc ấy từ trong đám đông, bỗng nhảy ra một người hét lớn lên :
- Hãy khoan!
Người ấy chính là Liêu Quân Bảọ
Chàng thây Bành Chiêm Ngao không một chút vận sức mà có thể giơ nổi chiếc đảnh ngàn cân, trong lòng phát hồ nghi, vì nhìn thấy cử tử họ Bành, thân hình ốm nhỏ không phải là một trượng phu dõng lực, thì làm sao cử nổi chiếc đảnh ngàn cân dễ dàng như thế. Cho nên Quân Bảo liền rảo bước đến chiếc đảnh đưa tay sờ thử xem coi thì biết rõ là giả tạo, nên lên tiếng ngăn cản.
Vương binh bộ biến sắc một vội quát lớn :
- Tên tiểu tử quê mùa kia từ đâu đến, võ trạng nguyên khoa này đã chấm xong rồị Mi còn đến đây làm gì!?
Quân Bảo thấy cử chỉ khác thường của quan chủ khảo, chàng đã hiểu rõ ít nhiều ẩn tình bên trong liền nói lớn :
- Vãn sanh không có ý tranh đoạt chức Võ trạng, mà cốt ý đến đây để thử xem sức mình có thể cử nổi chiếc thiết đỉnh ngàn cân kia không!
Nói xong chàng không chờ Vương Bổn Luyện cho phép hay không, vội giơ tay nắm lấy chân đỉnh giơ lên cao một cách nhẹ nhàng, mọi người thấy thế đều lớn tiếng cổ võ vang dậy khắp khảo trường.
Liêu Quân Bảo vừa giở bổng chiếc đảnh lên, chàng đã hiệu rõ tất cả sự thực! Thì ra chiếc thiết đỉnh ấy tuy điền số mục trọng lượng là một ngàn cân, hình dạng chiếc đỉnh xem ra rất to lớn, nhưng lại nhẹ phều không tới bảy mươi cân, hiển nhiên là chiếc đảnh rỗng ruột được trạm trổ một cách khéo léo, nếu không giơ chiếc đảnh lên thì khó mà biết được là chiếc đảnh rỗng ruột.
Liễu Quân Bảo cười ngất một hơi dài rỗi mới nói :
- Bẩm Đại Nhân! Chiếc đảnh này nặng đến một ngàn cân ư? Nó chỉ nặng độ một trăm cân là cùng!
Đám cử tử đều ngạc nhiên nhôn nhao cả lên. Vương binh bộ mặt xanh như chàm đứng chết trân trên hiệu đàị
Bành Chiêm Ngao thấy tình hình như thế, nhảy lẹ xuống giáo trường hét lớn một tiếng :
- Tiểu tử!
Vừa hét vừa phi nhanh ra một chưởng thoi vào mặt đối phương. Quân Bảo cười khẩy một tiếng, sử dụng ngay cầm nã thủ bắt cứng tay y rồi lôi mạnh một cái và quát :
- Té xuống!
Tân khoa Võ trạng Bành Chiêm Ngao dũng lực cử đỉnh ngàn cân như thế mà lại không chống được cái lôi tầm thường của Quân Bảo, té nhủi xuống đất, nằm sấp như một con ếch chết khô.
Chính cái té quá ư dễ dàng ấy, đã giúp mọi người càng hiểu rõ ngay chân tướng của Bành Chiêm Ngao, cho nên từ trong đám cử từ có trên mấy chục người chạy đến bên chiếc đỉnh tranh nhau giở lên xem thử quả nhiên chỉ nặng có mấy mươi cân. Mọi người đều phẫn uất đồng thanh la lớn :
- Không thể như vậy được! Chúng ta mười năm khổ công luyện tập, lăn lộn vạn lý quan san đến đây để khảo thí, không lẽ để cho tên chủ khảo này ăn của đút lót, làm chuyện bất công hay saỏ
Có nhóm lại hét lớn :
- Bắt tên chủ khảo dơ dáy ấy, chặt đầu lột da đi!
Vương binh bộ lúc đầu còn ra oai quát tháo bọn quân sĩ tùy tùng bắt những cử tử làm loạn khảo trường trục xuất ra khỏi trường thị Nhưng cử tử bốn phương có trên mấy ngàn người, mà đám quân sĩ tùy tùng không tới hai trăm, nếu giở thói bạo động ra, với một nhóm quân sĩ ít ỏi ấy không đủ cho đám sĩ tử đang phẫn uất kia làm cỏ trong nháy mắt: Nên tuy miệng chúng dạ rân nhưng tên nào tên nấy im thin thít chẳng dám rục rịch gì cả.
Liễu Quân Bảo không còn vị nể gì nữa, phi thân nhảy lên hiệu đài túm áo Chủ khảo Vương binh bộ quát mắng :
- Cẩu quan hôi thúi này, triều đình mở khoa thi để chọn hiền lọc sĩ, mi lại ăn của đút lót rồi nhắm mắt há miệng để chọn một Võ Trạng Nguyên thiu nhớt như vậy phải không?
Bọn võ sĩ hầu cận hai bên rút khí giới định tiến lên tiếp cận, Quân Bảo hai tay giơ bổng Vương binh bộ lên khỏi đầu, lớn tiếng quát :
- Đứa nào tiến lên một bước, Liễu mỗ sẽ quật chết tên cẩu quan này ngaỵ
Bọn võ sĩ thấy thế đều sợ hãi đứng yên. Vương chủ khảo hồn vía không còn vội khoát tay lia lịa cho bọn thủ hạ lui xuống, mồm lắp bắp van xin :
- Chuyện... chuyện này không phải do hạ quan chủ mưu, mà chính tại Bành tổng binh đem lễ cho tôi năm ngàn lượng vàng và bảo tôi làm như vậy để giúp cho con trai y được cái chức Võ Trạng Nguyên!
Liêu Quân Bảo cả giận, quay lại nói lớn với đám sĩ tử :
- Các bạn đã nghe rõ chưả Tên cẩu quan này đã nhận của Bành tổng binh năm ngàn lượng vàng để chấm cho con trai của Tổng Binh đậu võ trạng, chúng ta mười năm khổ luyện mong có ngày ra sức cho Triều Đình. Nhưng bị tên cẩu quan tham tài đã cố ý rào đường lấp ngõ làm mất một bước tiến của chúng tạ Tội của y đáng chết hay đáng sống?
Chúng cử tử đều phận uất đồng rập lên một tiếng :
- Đáng chết, đáng chết! Lột da nó ra!
Liêu Quân Bảo được đám cử tử vỗ tay cổ võ, đang lúc hăng say quên cả lợi hại, vận sức nắm hai chân của Vương chủ khảo dộng đầu y xuống đất nghe “bộp” một tiếng, xương sọ của Vương chủ khảo bể nát, óc phọt ra cả hai bên, nầm dẫy tê tê trên mặt đất.
Mọi người thấy Quân Bảo đã quật chết Vương chủ khảo, đồng cổ võ ồn ào như sấm động. Trong đám đông lại có người la lớn :
- Đã giết tham quan thì bề nào cũng đắc tội với triều đình, chúng ta phá luôn cái khảo trường rồi tẩu thoát!
Đám cử tử đang hăng máu nghe đâu là làm đó không còn kể đến nguy hiểm gì cả, mạnh ai nấy đập phá cho đã taỵ Bao nhiễu bàn ghế lều trại rào dậu của khảo trường chỉ trong chốc lát đã bi đám cử tử đập phá tan tành, ngã đổ lăn lóc khắp mặt đất.
Chỉ tội cho đám binh si vô tội bị đám cử tử quá khích xông đến chém giết tơi bời không còn một tên sống sót.
Đến lúc trong triều hay được tin tức, cử tử náo loạn trường thi giết chết chủ khảo, phái đại dội binh mã tới vây bắt, thì khảo trường chỉ còn là một đất hoang, với trên mấy trăm thi thể đứt đầu lủng ruột của đám quân sĩ nằm la liệt dưới mặt đất, còn đám cử tử đã nhanh chân trốn chạy mất dạng từ lúc nàọ
Liêu quân Bảo là thủ phạm giết chết chủ khảo, nên sau khi trốn về được tới nhà, bèn thu thập tất cả đồ tế nhuyễn, đuổi tất cả gia nhân, rồi một người một ngựa bươn bả ngày đêm định trốn đến nương tựa với người chú làm nghề lái cây ở tận Hồ Nam nơi Nhạc Châu Thành.
Đi được bảy tám ngày đường đến gần địa phận Hồ Bắc, chàng noi theo đường nhỏ băng qua Tòng Bá Sơn để đến bờ sông Nam Giang. Lúc ấy triều đình đã họa đồ hình của Liêu Quân Bảo phân phát khắp nơi lại còn treo giải thưởng trọng hậu cho ai lùng bắt hay chỉ điểm quan quân bắt được tên trọng phạm Quân Bảọ
Quân Bảo cả sợ liến lấy mực đen bôi lên khắp mặt mày còn mua thêm thuốc cao dán cùng mình mẩy, mặt tai để không ai nhìn mặt được. Đến bờ sông Nam Giang chàng biết nơi bến sông có tai mắt của quan quân rất nhiều nên không dám qua sông ban ngàỵ Chàng tìm nơi vắng vẻ gần đấy ẩn nấp.
Quân Bao nhìn kỹ biết rõ là thuyền bè đang lo chuyên chở loại đá Hoa Cang từ miền Thái Hồ về nạp cho Triều Đình.
Thấy tình hình như vậy, Quân Bảo tự biết là không hy vọng gì qua sông được. Chàng vừa định dời bước men theo bờ sông để tìm cách khác thì bỗng lúc ấy tiếng kêu la vang dậy, nhìn lại chàng thấy trên mấy chục tên lính hung dữ, có một gã Đô đầu đi trước dẫn đường, toán lính bắt theo hơn mười mấy người phường thuyền ăn mặc lam lũ, giải lên bờ sông.
Những người phường thuyền này đủ cả nam nữ, bé lớn. Gã Đô Đầu vừa giải bọn phường thuyền lên hết trên bờ, thì từ dưới đại thuyền bước ra một vị võ quan, quát mắng :
Trương Đô Đầu có bắt được tất cả những bọn lái thuyền cứng đầu, không chịu đem thuyền đến nạp ấy chưả
Trương Đô đầu chắp tay cung kính thưa :
- Bẩm Thống Chế Lão Gia, tiểu nhân đã bắt giữ tất cả bọn họ đến đây chờ Lão Gia phát lạc.
Vị Thống Chế ấy tên gọi là Vạn Thế Kiệt được Thái sư Trà Kinh phái đến đây để coi sóc việc chuyên vận đá hoa cương, với chức vụ Tổng Chỉ Huy y liền lớn tiếng mắng :
- Bọn mi thật đáng tội chết, nơi đâu cũng là đất đai của triều đình, các ngươi đều là con dân của Hoàng đế. Bọn mi đã thọ ân mưa móc của Triều ca, chỉ giúp cho quan gia vài ngày vận chuyển đá Hoa Cương về nạp cho Hoàng Thượng, mà bọn mi lại cưỡng mệnh không chịu! Bọn mi có biết rằng tội không tuân Thánh chỉ nặng ngang hàng với tội mưu phản không?
Trong bọn phường thuyền có hai người đứng dậy lên tiếng :
- Bẩm thượng quan, trên tháng nay phường chúng tôi vì phải chuyên chở đá Hoa Cang cho Triều Đình mà không chài lưới gì được cả, đến đỗi nhà không còn gạo để nấu, Thượng Quan có thấu biết cho không?
- Bây đâu! Bắt hai thằng mọi ấy cho ta!
Nào ngờ hai tên phường chài ấy phẩy tay một cái “Vút, vút” ném ra hai mui phi tiêu bằng gang cắm phập vào yết hầu và ngực của Vạn Thế Kiệt. Y kêu lên hai tiếng “Ối chà!” rồi ngã “Bộp” xuống đất chết tốt.
Bọn quan binh hò hét vang lên, hai gã thuyền chài bèn móc trong người ra hai chiếc bàn tay người bàng sắt giơ cao lên khỏi đầu làm hiệu lệnh. Vừa thấy tín hiệu bàn tay sắt thì lạ lùng thay đám thuyền chài muôn người như một đồng loạt rút khí giới giấu sẵn hoặc nhanh tay đoạt lấy khí giới của bọn quan lính rồi nhảy bổ đến chém giết đám quan quân tới tấp.
Đoàn quan binh phụ trách việc đốc công dân phu không tới bảy mươi người, mà đám dân phu có trên bốn năm trăm nên chẳng mấy chốc bọn quan binh lớp chết lớp té xuống sông, kỳ dư bao nhiêu lủi đầu chạy trốn thục mạng.
Trương Đô Đầu thấy tình thế nguy hiểm định quay đầu tẩu thoát, gã phường chài phong ám khí lúc nãy vội rút thanh giới đao ra, tung mình nhảy ra trước chận lại, quát lên :
- Cẩu quan hại dân hại nước, định chạy đi đâủ
Trương Đô Đầu run lẩy bẩy chưa kíp trả lời thì từ phía sau ba bốn tên dân phu kẻ đao người kiếm đã xông tới vật Trương Đô Đầu xuống rồi thi nhau đâm nát thân thể y thành một đống thịt bầy nhầy trên mặt đất.
Quân Bảo núp trong bụi cây mục kích tất cả sự việc, trong lòng hết sức khoái trá bèn rời chỗ núp bướt rạ Gã chận đầu Trương Đô Đầu lúc nãy là một đại hán lùn thấp thấy Quân Bảo là người lạ mặt liền múa dao tiến tới hét lên :
- Mi là đồng bọn của cẩu quan phải không? Cho mi theo bọn chúng về chẫu hà bá luôn thể!
Quân Bảo vội chấp tay đáp: “Kính chào chư vị hảo hán, tại hạ là Liễu Quân Bảo, không phải là người của quan quân...”
Gã đại hán lùn thấp liền reo lên :
- Ủa! Các hạ là thủ phạm giết chết chủ khảo tại kinh đô đấy phải không?
Liễu Quân Bảo mỉm cười gật đầu và đáp :
- Phải! Chính là tại hạ!
Gã đại hán lùn thấp vội giắt đao vào lưng, tươi cười bảo :
- Các hạ dám ở kinh đô giết chủ khảo, thật là một trang hảo hán. Tiểu đệ là Thiết Bối Hùng Truy Bá, thay mặt Thiết Chưởng bang chủ cung nghinh các hạ gia nhập vào Bang! Anh em ta đâu mau lại đây!
Nói xong, y bước tới nắm tay Quân Bảo tỏ vẻ rất thân mật, những bang chúng võ trang dân phu lúc nãy cũng tranh nhau bước đến kẻ vỗ vai, người kéo tay, mỗi người một câu, làm Quân Bảo trả lời không kịp thở. Bọn họ bèn đem những thành tích vẻ vang của Thiết Chưởng bang ra kể lại cho chàng nghe để Quân Bảo bùi tai mà ra nhập vào Bang.
Thì ra Thiết Chưởng bang thế lực bành trướng tai trung du của sông Trường Giang và cả một miền Hồ Quảng.
Bang hội này đượm màu thần thánh mê tín, bang chúng tuy không đông lắm nhưng cũng có trên bảy ngàn người, tổ chức hết sức bí mật. Bang hội được sáng lập vào thời Tống Thần Tông. Lúc đầu chỉ là một tổ chức ô hợp của đám người buôn muối lậu và cướp bóc, nhưng sau khi tống Dực Tông tước vị triều chính thối nát, gian thần Trà Kinh lộng quyền, tham quan ô lại đầy dẫy, dân gian lầm than đói rách, nên phẫn uất kéo đến ra nhập vào Thiết Chưởng bang càng ngày càng đông.
Bang chủ thời ấy là Thiết Hưng, thấy bang chúng đã đông, qui mô đã rộng lớn, bèn mở Hương Đường, định lại qui chế Bang hội, thâu nạp tất cả anh hùng cùng bọn lục lâm thảo khấu để củng cố thế lực, lập Tổng Đà tại Tương Tây trên Thiết Chưởng sơn.
Thiết Chưởng bang chủ mưu mô rất lợi hại, luôn luôn tìm dịp chống đối với triều đình để thu hút lòng dân. Nghe được tin Phủ Quan xung công thuyền bè, áp bức dân gian phải làm xâu để chuyện vận đá chuyển đá hoa cương, lòng dân đang than oán, Thiết Hưng cho là một cơ hội tốt để gây thanh thế cho Thiết Chưởng bang, nên phái hai vị đầu mục là Thiết Bội Hùng Truy Sát và Sơn Thạch Hổ Tra Thành đem mấy mươi bang chúng tới bờ sông Nam Giang trà trộn với đám dân phu để tìm cách giết chết quan binh và ngẫu nhiên gặp được Liễu Quân Bảọ
Liễu Quân Bảo thầm nghĩ hiện giờ chàng đang bi triều đình tập nã gạt gao, họa đồ hình dạng chàng nơi đâu cũng có, khó mà còn chỗ trốn tránh cho an toàn.
Thiết Chưởng bang là một Bang hội đối lập với triều đình thật là hợp với ý chí và tình cảnh của chàng hiện tạị Nên chàng chẳng cần suy hơn tính thiệt, vội gật đầu ưng thuận gia nhập Thiết Chưởng bang và nhờ Truy Bá tiến dẫn mình vào hộị
Liễu Quân Bảo được Truy Sát và Tra Thành đưa tới Thiết Chưởng sơn ở Tương Tây để yết kiến Bang chủ thiết Hưng. Sau khi chích huyết thề nguyền và làm đủ tất cả mọi nghi thức của một bang chúng gia nhập vào Bang hội, Liễu Quân Bảo được Thiết Hưng phong cho chức Đầu mục và cắt đặt chàng làm Phân đà chủ ở Dương Huyện tại tỉnh Hồ Bắc.
Mục đích của Liễu Quân Bảo gia nhập vào Bang hội Thiết Chưởng là vì chàng ngưỡng mộ tài nghệ cao siêu của Bang chủ Thiết Hưng chỉ muốn được học hỏi tài nghệ của Bang chủ chứ không ham muốn đến chức vị phân đà Chủ của Thiết Chưởng bang chút nàọ Chàng mấy lần cậy nhờ Truy Sát và Tra Thành nói với Bang chủ Thiết Hưng, nhưng Thiết Hưng cứ một mực tìm cách thối thoái, Quân Bảo hết sức thất vọng.
Quân Bảo gia nhập Thiết Chưởng bang thấm thoắt thời gian đã trên bốn năm. Chàng càng ngày càng bất mãn ra mặt với hoạt động không được minh chánh của Thiết Chưởng bang. Có một lẫn chàng đến Thiết Chưởng sơn yết kiến Thiết Hưng tường trình hoạt động trong khu vực Dương Huyện của mình, bỗng gặp nơi khách thính có mấy vị khách lạ, ăn mặc rất quái dị, ngôn ngữ lại khác thường, dáng như không phải người Trung Nguyên. Quân Bảo hết sức ngạc nhiên, liền dò hỏi những bang chúng trên núị Bọn họ liền kề tai chàng bảo khẽ :
- Đà chủ không biết saỏ Những người này là sứ giả của nước Kim được đặc phái đến yết kiến Bang chủ đấy!
Quân Bảo càng hồ nghi hơn nữạ Vì một Bang hội thế lực tầm thường như thế này, tại sao Kim Chúa cần phải sai sứ giả đến yết kiến Bang chủ để làm gì, chàng cố hết sức dò hỏi những người tâm phúc của Bang chủ Thiết Chưởng bang.
Thì ra Kim Chúa phái sứ giả tới đây để liền lạc bí mật với các Bang hội ở phương Nam này, ước hẹn sau khi diệt Liêu Xong, quân Kim sẽ tấn công xuống miền Nam để diệt cả nhà Tống và nhờ các Bang hội hãy thừa cơ nổi dậy, chiến đoạt Châu phủ, giết chóc quan quân, khuấy rối hậu phương của quân Tống, để đội quân của Kim Chúa dễ dàng thành công khi cử đồ đại sự.
Liêu Quân Bảo tuy rất oán ghét tham quan vô lại của nhà Tống, nhưng nghe đến bang Hội của mình tư thông với giặc ngoại bang, chàng hết sức bất bình, thầm nghi rằng :
- “Triều đình dù thối nát đến mức nào, chúng ta cũng không nên cấu kết với ngoại bang làm giặc! Không được, ta phải hết sức can ngăn Bang chủ, nhưng nếu người không chiu nghe lời phải, ta sẽ xin ra khỏi Bang hội!”
Rạng ngày Liễu Quân Bảo tìm cách yết kiến Bang chủ Thiết Hưng và nói :
- Thưa Bang chủ! Tiểu nhân thấy trong sảnh đường có hai ba vị khách lạ dường như là sứ giả của nhà Kim ở phương Bắc.
Thiết Hưng liền ngắt ngang lời nói của Quân Bảo :
- Hiền đệ không cần nói ta đã hiểu! Hiền đệ hãy ngồi xuống ta sẽ nói cho biết mọi sự.
Chờ Quân Bảo ngồi xuống xong Thiết Hưng nghiêm sắc mặt lại và nói tiếp :
- Tháng trước đây, chúa nước Kim là Hoàn Nhan A Cốt đã phái sứ giả đến miền Nam, liên lạc với tất cả Bang hội trên giang hồ, cùng nhau trong ứng ngoài hiệp lật đổ Triều Tống để cộng hưởng vinh hoạ Bang chủ hứa không chiếm đất đai của Trung Nguyên mà chỉ cần gái đẹp cùng ngọc ngà và hứa sau khi dại sự đã thành sẽ cắt đất phong Vương cho chúng ta một cõị Thật là cơ hội tốt để chúng ta lập chữ công danh. Nếu sự thành thì xênh xang áo mão, vương hầu một cõi xưng hùng, có phải vinh dự hơn là suốt đời phải núp trong nùi sâu rừng thẳm để mang danh thảo khấu không?
Quân Bảo nghe đến đây, phẫn uất không nhịn được thét lớn :
- Bang chủ!
Thiết Hưng vụt sầm nét mặt nói :
- Hiền đệ đừng nóng, ta còn vài điều muốn nóị
Vừa nói hắn vừa móc trong túi ra tín vật của Thiết Chưởng bang là chiếc hàn tay sắt, giơ cao lên và gằn giọng tiếp :
- Thiết Chưởng bang của chúng ta từ ngày thành lập đến nay Bang chủ luôn có một uy quyền tối cao, mỗi câu mỗi lời đều là mệnh lệnh, kẻ dưới tuyệt đối tuân theo, chớ không được quyền dị nghị chê bai! Phàm là người của Bang hội, kẻ nào không tôn kính Bang chủ thì phải y theo quy luật của bang mà trừng trị. Nếu là tội cực nặng thì lột trần thân thể giam vào động Ngũ Thánh cho ngàn rắn phân thây!! Mi còn có lời gì muốn nóỉ
Thiết Hưng trong lúc nói mấy lời ấy, sắc mặt của y thật lạnh lùng đáng sợ.
Những bang chúng hầu hạ hai bên tả hữu hầm hè chờ lệnh là xông lên. Liễu Quân Bảo nhìn thấy tình hình nghiêm trọng như vậy trong bụng hơi hoảng, nín lặng không nói gì cả.
Thiết Hưng thấy chàng muốn nói lại thôi, liền cất tiếng sang sảng nói :
- Liễu Đà Chủ, bây giờ chắc không có điều gì nói thêm nữa phải không?
Liễu Quân Bảo tự hiểu, nếu bây giờ chàng lên tiếng phản đối là nguy đến tính mạng ngaỵ Vả lại, Thiết Chưởng bang tư thông vớt nước Kim đã thành sự thật, lời phải trái của chàng cũng thành vô dụng mà thôi, nên nói một cách xuôi xị :
- Thưa Bang chủ, tôi không có ý kiến gì cả!
Thiết Hưng cười giả lả và nói :
- Tốt lắm, Liễu Đà Chủ lui ra ngoài nghỉ ngơi, ba ngày sau hãy trở về Cái Dương huyện.
Liễu Quân Bảo buồn bã trở về Nghinh Khách quán, nằm nghỉ hơn hai ngày trời càng nghĩ càng không phục, bèn quyết định ly khai với Thiết Chưởng bang để khỏi “Trợ Trụ vi ác” mà bại hoại thanh danh.
Sáng ngày thứ ba Liễu Quân Bảo lên đường trở về Cái Dương huyện. Nhưng vừa về đến Dương huyện, Tổng Đà Chủ đã phái thêm một phó phân đà chủ, tên Thiết Diện Hổ Đổ Hồng, gã là người tâm phúc của Bang chủ Thiết Hưng, bề ngoài đến đây để tiếp tay cho Quân Bảo những kỳ thật là để canh chừng mọi cử động của Quân Bảọ
Quân Bảo thấy vậy trong lòng càng thêm phẫn uất, ý định thoát ly chốn khỏi Bang hội càng cương quyết hơn.
Độ nửa tháng sau, chàng mượn cớ đến Kinh Đô để do thám tin tức trong triều, và để cho Thiết Diện Hổ Đổ Hồng khỏi nghi nan. Quân Bảo đem theo ba tên bang chúng đồng đi theo với mình.
Chàng đã tính sẵn mưu lược thoát thân, nên đêm đến một thị trấn phía Bắc thành Cái Dương liền tìm khách điếm nghỉ ngơi, lén bỏ “Mông hãn dược” vào rượu phục cho ba tên bang chúng uống say mê man. Chàng mới đổi thay y phục len lén dắt ngựa ra khỏi khách điếm ra roi suốt đêm rời khỏi địa phận tỉnh Hồ Bắc.
Liễu Quân Bảo tưởng mưu kế của minh như vậy là kín đáo, khó ai phát giác được. Nào ngờ Đỗ Hồng đã được mật lệnh của Bang chủ Thiết Hưng nên nhất cử nhất động của Quân Bảo đều không thoát khỏi tai mắt của Đổ Hồng.
Chàng trốn khỏi khách điếm chẳng đầy ba giờ đồng hồ sau là Đổ Hồng đã tiếp được tin cấp báọ Y lập tức dắt theo bảy tên tâm phúc đuổi theo bén gót. Ngựa của Quân Bảo tuy chạy rất khỏe nhưng suốt mấy ngày đêm không hề dừng vó, đến Lâm Đồng Quan là người ngựa đã thấm mệt. Nhờ vậy Thiết Diện Hổ cùng bảy tên bang chúng đuổi theo bắt kịp. Liễu Quân Bảo vì sự sống còn của tính mạng, tận lực giao đấu giết được ba tên bang chúng, nhưng chàng cũng bị trúng một đao gần đứt lìa bả vaị
Chàng phục mình trên ngựa chạy thục mạng. May nhờ số mệnh còn dài, ngẫu nhiên gặp lúc Trùng Dương lấy được Cửu Âm chân kinh từ Hoa Sơn trở về ra tay cứu cho khỏi chết.
Liễu Quân Bảo thuật rõ thân thế mình xong và đã biết ngươi cứu mạng chàng chính là Vương Trùng Dương chân nhân danh tiếng đồn đại như sóng dậy trong giới Võ Lâm, chàng hết sức mừng rỡ ngồi phục xuống lạy Trùng Dương xin thâu nhận chàng làm đồ đệ.
Trùng Dương tính thầm trong bụng, hiện giờ đã có bốn người đệ tử, lần đến Hoa Sơn thâu nhận Vương Nguyên Bân, trên đường trở về lại bắt gặp Liễu Quân Bảo nếu nhận thêm hắn làm đồ đệ thì trước sau được sáu tên đệ tử chỉ còn thiếu một người nữa là có thể luyện được “Thiên Sát Bắc Đẩu trận”. Chàng bèn gật đầu đáp :
- Tốt lắm! Ngươi muốn bần đạo thâu nhận làm đồ đệ phải không? Bần đạo rất sẵn lòng vì đã làm ơn thì làm ơn cho trót! Nhưng bần đạo là kẻ huyền môn đạo sĩ, không thể thâu nhận đồ đệ tục gia! Nếu nhà ngươi muốn bái ta làm sư phụ thì phải dóc tóc làm đạo sĩ tuyệt điều hệ lụy, ngươi có bằng lòng không?
Liễu Quân Bảo vội đáp :
- Đệ tử sinh nhằm giờ xấu, nên số mệnh chịu lắm gian truân, lòng đệ tử chán ngán hồng trần thế sự. Nếu được ân sớ chỉ điểm sông mê độ khỏi bờ tục lụy để được ngồi dưới chân Tam Thánh hưởng thú tiêu dao thanh tịch. Thật là ngoài ước muốn của đệ tử. Xin ân sư ban đạo hiệu cho đệ tử.
Vương Trùng Dương cả mừng cho phép Liêu Quân Bảo khấu đầu làm lễ và thâu nhận chàng làm đệ tử. Liễu Quân Bảo sau này là Liễu Xử Huyền, một nhân vật khét tiếng trong Toàn Chân thất tử.


Hồi 19

Núi Cao Ra Oai


Trùng Dương cùng hai đệ tử đi hơn mười ngày mới về đến Tung Sơn, Châu Bá Thông cùng Mã, Khưu, Tôn, Đàm xuống tận Thất Sơn nghênh đón.
Mọi người bèn kéo nhau vào Yên Hà Động làm lễ ra mắt nhaụ Trùng Dương liền giới thiệu hai đệ tử Vương, Liễu cùng mọi ngườị
Nội nhật hôm ấy Trùng Dương liến bắt Vương, Liễu phải dóc tóc làm lễ bái sư và ban đạo hiệu cho hai người, Liễu Quân Bảo tuổi lớn nên Trùng Dương đặt cho hiệu là Xử Huyền và Nguyên Bân là Xử Nhất. Trùng Dương kêu tất cả mọi người đến rồi đem chuyện tìm Chân kinh ở Hoa Sơn nhất nhất thuật lại, mọi người nghe xong, Trùng Dương nói tiếp :
- Lúc xưa thầy Huyền Trang đến Thiên Trúc thỉnh kinh phải bảy mươi hai nạn lâm thân, lặn lội trên ba ngàn dặm lộ trình. Đủ thấy, muốn được thành đạo, không thể gấp trong một sớm một chiều, lần này ta vì vâng theo lời trối của sư phụ đến Hoa Sơn tìm Cửu Âm chân kinh. tuy không đến đỗi gian truân như Hòa thượng Tam Tạng, nhưng cũng trải qua bao nguy hiểm mới tìm được bộ Cửu Âm chân kinh bị thất lạc từ mấy trăm năm naỵ
Khâu Xử Cơ cúi đầu làm lễ và nói :
- Lần này sư phụ đến Hoa Sơn được Chân kinh thật là một việc làm hy hữu xưa nay chưa ai làm được. Bổn phái nhờ đấy sẽ xuất sắc, vượt qua các môn phái khác. Đệ tử chúng con nguyện ghi nhớ công khó sáng lập của các bậc sư tôn, cố gắng trau dồi tài nghệ công phu, sửa rèn tâm tính để khỏi phụ lòng ân sư chỉ dạỵ
Châu Bá Thông bỗng lên tiếng :
- Thưa sư huynh, sư huynh đem được Cửu Âm chân kinh về đây, nhưng còn một chuyện là sư huynh không thể mở hộp ấy rạ Như vậy, cầm được Chân kinh mà không đọc được kinh kể ra cũng như không!
Trùng Dương nghe Châu Bá Thông nói như vậy liền đem chiếc hộp làm bằng sừng Chiếu Dạ Tê Giác ra để trên thạch bàn, đoạn nói với các đệ tử :
- Đây là chiếc hộp đựng Chân kinh làm bằng sừng con lão Tê Giác, đao thương hay nước lửa cũng không làm sứt mẻ được, các đồ đệ có cách nào mở nó ra chăng?
Sáu đệ tử của Trùng Dương thay phiên cầm chiếc hộp lên xem thấy chiếc hộp một màu đen bóng loáng. Phát ra nhưng tia hào quang màu đen xanh xanh như màu dầu trơn láng mịn màng, tựa chất ngọc quý, xem ra thì hình như mong manh lắm nhưng tại sao sư phụ bảo là cứng rắn dị thường người dùng tất cả mọi phương cách vẫn mở không rạ
Châu Bá Thông liền nói :
- Sư huynh, chiếc hộp này làm bằng xương hay sừng nên cứng chắc lắm. Cứ lấy một cục đá thật lởn, đập mạnh vào chiếc hộp là bể nát ra chứ gì?
Trùng Dương mỉm cười bảo :
- Nếu được như vậy, sư đệ hãy làm thử coi được không?
Châu Bá Thông tánh con nít vẫn không chừa, mau mắn để chiếc hộp xuống đất rồi băng mình ra ngoài động, ôm vào một cục đá lớn như chiếc cối xay bột, giơ cao lên khỏi đầu ném mạnh vào chiếc hộp.
“Sầm” một tiếng lớn, cục đá chạm dữ dội vào sân đá rung động, tia lửa tua tủa như sao, mặt đất đá bị sức ném kinh người của Châu Bá Thông lõm xuống một lõ sâu hoắm. Mọi người trố mắt nhìn kỹ chiếc hộp vẫn nguyên vẹn. Không có một chút trầy trụa nàọ
Châu Bá Thông đổ quạu nói lớn :
- Cái hộp gì kỳ lạ quá vậỷ Bây giờ như thế này: Ta đem chiếc hộp từ trên đỉnh quăng thật mạnh xuống sườn núi, để chiếc hộp tông chạm vào đá núi thì chắc là phải vỡ ra!
Trùng Dương lắc đầu cười :
- Đừng nói bậy! Chiếc hộp nhỏ như thê này mà để sư đệ ném từ đỉnh nút xuống nó sẽ văng mất còn gì?
Sáu đệ tử nghe nói thế đều cười ha hả.
Mã Ngọc liền nói :
- Thưa sư phụ, phàm những vật gì thuộc thủy, thường hay kỵ hỏạ Chúng ta đem lửa đốt thử xem?
Khâu Xử Cơ vội lên tiếng :
- Không được! Trong hộp có đựng Chân kinh, mà Chân kinh thì làm bằng giấy, nếu đem lửa đến đốt chỉ sợ chiếc hộp chưa mở ra được mà Chân kinh đã biến thành tro mất!
Dùng đá đập không bể, kiêm chém không đứt, đem lửa đốt cũng không xong, tám người ngồi trong động suy nghĩ hơn buổi trời mà chưa ra phương cách nào cho ổn.
Liễu Xử Huyền sực nghĩ ra một ý kiến, liền đứng dậy nói :
- Liệt vị sư huynh sư đệ từng nghe sự tích của Lý Thái Bạch chưả
Khâu Xử Cơ thắc mắc hỏi :
- Lý Thái Bạch là vị thi hào đời Đường có hiệu là Trích Tiên, thơ văn của ông Lý Thái Bạch tính khoáng đạt, nhưng có liên quan vì đèn việc Cửu Âm chân kinh đâủ
Liễu Xử Huyền chậm rãi đáp :
- Lý Thái Bạch thưở nhỏ rất thông minh, nhưng không chịu học hành gì!
Một hôm, đi ngoài đường, ông gặp một bà lão ngồi giữa đường đang cầm một thỏi sắt mài vào đá. Lý Thái Bạch thấy làm lạ liền hỏi, bà lão bảo là cần một cây kim để may áo, nên định mài thỏi sắt kia cho nhỏ thành kim để dùng.
Lý Thái Bạch cười ngất, cho bà lão là người lẩm cẩm, thỏi sắt to như thế, mài đến thưở nào mới nhỏ thành kim để may áo được? Bà lão liền nghiêm sắc mặt đáp :
- Chỉ cần bền chí gắng công, dù cột sắt vẫn mài thành kim được! Ngu Ông xưa kia còn có thể dời được núi thì mài sắt nên kim vẫn dễ hơn.
Lý Thái Bạch nghe xong những lời nói ấy liền bàng hoàng tỉnh ngộ. Từ đó ông gắng công ra sức học hành, kết quả trở thành một thi nhân xuất chúng.
Mọi người nghe chàng kể xong, ngẩn người chưa hiểu ra saọ
Trùng Dương gục gặc đầu hỏi :
- Xử Huyền, theo ý kiến của con định đem chiếc hộp này mài trên đá cho mỏng dần, đến lúc lấy được Chân kinh mới thôi, phải không?
Liễu Xử Huyền đáp :
- Thưa sư phụ, ý đệ tử cũng định thế!
Trùng Dương cầm chiếc hộp lên, ước lượng bề dày chiếc hộp không tới năm phân, nếu ra công mài mỏng, thì một thời gian một năm không được cứ tiếp tục mài mãi hoặc hai hay ba năm, thế nào rối cũng có ngày mài thủng được chiếc hộp, nên chàng liền bảo các đệ tử :
- Lời của Xử Huyền nói rất phải! Vậy bắt đầu từ hôm nay, các đồ đệ luân phiên nhau đem chiếc hộp này mài trên đá mỗi đồ đệ mài một ngày mài độ vài tháng xem saỏ
Bắt đầu hòm ấy, Mã, Khâu, Tôn, Đàm, Liễu, Vương sáu người tuần tự thay phiên nhau đem chiếc hộp kia ra sức mài cho mỏng. Còn Vương Trùng Dương khởi sự tập võ công đề khí theo phương pháp Toàn Chân phái dạy các đệ tử bày thành trận pháp “Thiên Sát Bắc Đẩu trận”.
“Thiên Sát Bắc Đẩu trận” phải có đủ bảy người mới luyện tập được mà Trùng Dương chỉ thâu được mới có sáu đệ tử, còn chàng thì bận phụ trách chỉ điểm cho mọi người, không thể đứng vào phương vị trong trận được. Thiếu đi một người thì trận không thể luyện thành. Trùng Dương chỉ còn cách nhờ Châu Bá Thông bổ túc vào cho đủ số bảy ngườị Nào ngờ, Châu Bá Thông ngoe nguẩy lắc đầu đáp :
- Không được! Các chò chơi cút bắt trẻ con ấy tôi nhất định không học!
Trùng Dương hơi bất mãn bèn trách :
- Sư đệ đấy là một môn võ học làm rạng rỡ cho phái Toàn Chân của chúng ta tại sao sư đệ không chịu học chứ?
Chấu Bá Thông đáp :
- Sau khi sư huynh đi Hoa Sơn tôi ở nhà buồn nên kêu bọn Khưu Xử Cơ cùng chơi với tôi, nhưng đứa nào đứa nấy cứ làm bộ làm tịch cho tôi là sư thúc không đứa nào chịu chơi với tôị Bây giờ sư huynh bắt tôi phải chơi trò cút bắt với chúng, tôi đâu chịu!
Tánh của y bướng bỉnh đã quen, nói không học là không học, Trùng Dương biệt rõ sư đệ mình thế đành chịu chứ không thúc ép được.
Còn sáu đệ tử của Trùng Dương thay phiên nhau mài chiếc hộp mất một thời gian hơn tháng trời, nhưng càng mài càng bóng loáng thêm chớ không thấy mỏng bớt chút nàọ Trùng Dương vẫn không nản chí khuyên các đệ tử cứ tiếp tục ra công thêm.
Một hôm, Châu Bá Thông ra khỏi động đi đốn củi, bỗng chàng hấp tấp chạy trở về động như bị ma rượt, tru tréo gọi lớn :
- Sư huynh ơi! Không xong rồi! Có một đám người tụ họp dưới núi, đông cả mấy trăm.
Trùng Dương giật mình hỏi :
- Đến mấy trăm người lận saỏ Là quan binh hay bọn ăn cướp?
Châu Bá Thông liền đáp :
- Đám người đó rất khác lạ, không giống quan binh mà cũng không giống bọn sơn trại cường đạo, mường tượng như các bang hội bí mật trong giới giang hồ.
Liễu Xử Huyền đứng bên nghe chuyện buột miệng nói :
- Thưa sư phụ, chắc có lẽ là người của Thiết Chưởng bang đến tìm sư phụ để trả thù chuyện ngày tước.
Trùng Dương ngẫm nghĩ có phần đúng vì hái tháng trước ở địa phận Đông Quan vì cứu Liễu Quân Bảo chàng đã đánh bại mấy lên bang hữu của Thiết Chưởng bang nên Thiết Chưởng bang cử người đến Tung Sơn để tìm chàng vấn tộị
Chàng triệu tập sáu đệ tử đến trước mặt, nghiêm sắc mặt bảo :
- Hiện nay, dưới núi có một đoàn người rất đông chưa biết rõ là thù hay là bạn. Các đệ tử hãy theo thầy xuống núi, để ứng phó mọi chuyện xảy rạ
Mọi người cúi đầu vâng dạ. Châu Bá Thông đi trước dẫn đường. Trùng Dương và sáu đệ tử theo sau, đi đến nửa chừng núi đột nhiên có một mùi tanh theo hơi gió thoảng đến, Châu Bá Thông khịt mũi kêu :
- Tanh quá sư huynh ơi!
Trùng Dương vừa ngửi thấy mùi tanh, đã biết rõ dưới núi có một đoàn rắn độc sắp bò lên. Chàng giật mình kinh ngạc thấm nghĩ :
- Ủa! Sao lại có rắn độc nữa kìả Chẳng lẽ Âu Dương Phong chưa chiu phục, còn kéo xà trận đến đây để trả thù?
Trong lúc ngẫm nghĩ, tiếng la hét từ bên dưới vang dội vào taị Liễu Xử Huyền thất thanh nói :
- Đúng là tiếng “Thiết Chưởng bang”, cả Bang chủ cũng đến nơi đây!
Trùng Dương vội dừng bước nhìn xuống dưới núi, thấy đen nghịt một đám người, mặc toàn đồ đen, ước lượng độ hơn bốn năm trăm mạng, phía trước đám người ấy độ một lằn tên những bãi cỏ mọc theo triền núi lay động không ngừng, một đoàn rắn lúc nhúc có hàng mấy trăm con đang quăng mình lên ngọn núi Thái Thất Sơn.
Châu Bá Thông liền nói :
- Bọn người này đúng là bọn bàng ngôn tả đạo, nên có bầy rắn độc mở đường, tục ngữ có câu, rắn sợ lưu hoàng. Anh hùng sợ sắc, rất tiếc là trên núi không có lưu hoàng, thế này thì chết cả lũ!
Vương Trùng Dương nạt :
- Sư đệ đừng nói nhảm! Mọi người rút khí giới cầm tay sắp thành hàng một, rắn lên bao nhiêu là cứ chém giết thẳng tay bấy nhiêu!
Khưu Xử Cơ cùng mấy đệ tử lần đầu tiên được xuất trận với sư phụ, nên khí thế hung hãn như hổ đóị Trùng Dương chờ bọn người phía dưới kéo tới chân Thái Thất Sơn mới vận khí đơn điền gọi lớn :
- Vị nào Thiết Chưởng bang chủ? Bần đạo là Vương Trùng Dương xin được diện kiến!
Bày rắn độc nghe tiếng la của Trùng Dương, quăng mình phăng phăng bò lên, Châu Bá Thông kinh hãi kêu lên :
- Chết mất! Chết mất! Bầy rắn đã lên tới rồi kìa, chúng ta chết mất!
Trùng Dương nhìn xuống thấy dưới nửa sườn núi có một phiến đá to cao cỡ ba thước, đường kính độ bốn thước, tròn như một chiếc cối đá khổng lồ, tảng đá ấy nằm ngay vị trí của bầy rắn đang tiến lên. Trùng Dương liền nảy sanh một kế, chàng thầm vận cương khí ở đơn điền sử dụng vào Nhất Dương chỉ giơ tay trái lên chỉ vào tảng đá, quát lớn :
- Lăn xuống!
Kỳ lạ thay oai lực của Nhất Dương chỉ tảng đá nặng năm sáu trăm cân như thế, bị một ngón tay nhỏ bé kia chỉ vào lắc lư chuyển động, đất dưới chân tảng đá trào lên như nước đang sôi nghe “Ầm” một tiếng. Tảng đá không chịu nổi kình lực đẩy mạnh của Nhất Dương chỉ, lăn long lóc xuống núi cán đè lên bầy rắn dư mấy mươi con, thịt da đều nát nhũn ra, bầy rắn còn lại hoảng hốt bò loạn xị cả lên.
Tuyệt kỹ của Trùng Dương vừa sử dụng mường tượng như pháp thuật, chỉ đá hóa dê, di sơn đảo hải trong các chuyện thần thoại, làm bọn người áo đen dưới chân núi thấy đều thất sắc kinh hồn.
Châu Bá Thông đắc ý cười hắc hắc nói :
- Bọn chó chết ở dưới chân núi sáng mắt ra chưả Sư huynh của ta có tài thông thiên quán địa, có sức bạt núi rời non, bọn bay đứa nào hết muốn sống định tới uổng tử thành cứ việc dẫn xác lên đây!
Lời nói phét của y đã làm cho bọn Thiết Chưởng bang kinh hoảng ngẩn người nhìn nhau mà không dám tiến lên. Bọn người áo đen dưới chân núi xôn xao với nhau một lúc khá tâu thì từ trong đám đông có một gã trung niên cao ốm, mặc áo thư sinh tay cầm cây gậy sắt, đầu gậy chạm hình hai chiếc đầu rắn đang há họng le lưỡi, hình dáng cây gậy kỳ dị vô cùng. Đám người áo đen vừa thấy gã đến đều cung kính vẹt hai bên chừa lối cho gã tiến lên.
Liễu Xử Huyền kéo tay Trùng Dương và nói :
- Xin sư phụ lưu ý! Gã ấy là Thiết bang chủ đấy!
Trùng Dương liền gọi to :
- Vị vừa đến phải là Thiết Chưởng bang chủ không? Qúy Bang và Toàn Chân phái cách nhau như nước giếng với nước sông. Hôm nay, giá lâm đến đây có điều chi chỉ giáo chăng?
Thiết Chưởng bang chủ Thiết Hưng lớn tiếng đáp :
- Người là Trùng Dương chân nhân đấy à? Tốt lắm, mi là chưởng môn của một phái, ta cũng Bang chủ của một bang, mi biết rõ quy luật trong giang hồ lắm chớ? Tại sao mi che chở kẻ phản loạn của Thiết Chưởng bang chúng ta, lại còn thâu nhận nó làm đệ tử?
Trùng Dương vòng tay vái dài và nói :
- Vô Lượng thọ phật! Liễu Quân Bảo đã nhìn thấu hồng trần nên gửi thân vào cửa Tam Thánh, đấy là lòng tự nguyện của y, bần đạo đâu thể chối từ kẻ có đạo tâm? Hiện nay y đã dóc tóc quy y nhảy ra khỏi vòng tam giới, thân không thuộc ngũ hành. Xin Thiết Chưởng bang chủ nể mặt bần đạo mà tha thứ cho y nhờ, đừng nhọc lòng truy tầm chi nữa!
Thiết Hưng cười lạnh lùng đáp :
- Lúc tôn giá đả thương mấy bang hữu của chúng tôi tại Lâm Đồng Quan, tôn giá có nể mặt Thiết mỗ này không? Khỏi nói dài dòng! Khôn hồn mau đem gã họ Liễu ra giao cho ta, bang trái lời đừng trách Thiết Chưởng bang chúng ta đại khai sát giớị
Châu Bá Thông thấy Thiết Hưng thái độ kiêu căng phách lối tức ấm ách định lên tiếng cãi vã, nhưng Trùng Dương đã lên tiếng trước :
- Vô Lượng thọ Phật! Bổn ý bần đạo không muốn sanh sự nhưng quý Bang chủ ỷ thế đông người đến đây vô cớ náo loạn sơn môn, bần đạo bất đắc dĩ phải cố sức châu toàn nơi tu luyện chứ biết làm sao hơn!
Thiết Hưng càng thêm tức giận, vung mạnh cây gậy lưỡng đầu xà, định phi nhân tới trước tấn công Trùng Dương, vừa nhích chân tiến lên thì từ phía sau lưng y nhảy vút ra một người ốm cao, gương mặt xanh men mét như người bị bệnh rét lâu đời, gã ấy chính là một trong hai tên Phó bang chủ của Thiết Hưng, họ Chúc tên Luyện, biệt hiệu là Độc Sa Thừ, y luyện được môn “Độc Thừ trảo”, công phu lợi hại vô cùng.
Y cất tiếng can ngăn Thiết Hưng?
- Đại ca Bang chủ của một Bang, không nên một mình ra tay giao thủ, để tiểu đệ cho nhân vật Toàn Chân phái nếm mùi lợi hại của ngươi Thiết Chưởng bang của chúng tạ
Thiết Hưng gật đầu đáp :
- Hay lắm! Hiền đệ khá tiểu tâm cẩn thận!
Chúc Luyện tiến ra trước, gọi lớn :
- Gã họ Vương kia, nghe đồn Toàn Chân phái của mi kiếm, quyền hay đệ nhất cõi Trung Nguyên, lão gia đến đây để thỉnh giáo vài đường tuyệt kỹ!
Lơi nói chưa dứt, cảm thấy trước mắt hoa lên, nhãn quang ảo loạn, định thần nhìn kỹ thi Châu Bá Thông đã đứng sững bên người y từ lúc nào!
Châu Bá Thông chân vừa chấm đất, đã lên tiếng quát mắng :
- Mi dám kêu sư huynh của ta họ Vương, họ Dê này nọ? Hừ thằng bệnh rét hỗn láo kia, cho mi xới một chưởng!
Tiếng nói chưa dứt bàn tay của chàng đã bay theo tiếng nói tát mạnh vào má đối phương.
Cái tát tay ấy quá bất ngờ nhanh chóng. Chúc Luyện vội nghiêng đầu tránh, nhưng đã không kịp, “Bốp” một tiếng, bên má trái của y đã bị Châu Bá Thông tát một cái nên thân.
Chúc Luyện giận đến đôi mắt đổ hào quang, gầm lên như thú dữ bị thương.
Giương mười ngón tay ra, chộp mạnh vào lưng Bá Thông.
Thì ra Chúc Luyện có môn Độc Sa chưởng công rất ư lợi hại, mười ngón tay của y hằng bữa ngâm trong chất nước miếng của rắn độc hòa hợp với nhưng vị thuốc rất đặc biệt, môi khi chộp trúng da thịt kẻ địch nguy hiểm như bị rắn độc cắn phải vậỵ
Châu Bá Thông khẽ lắc mình một cái tránh khỏi, đoạn kêu to :
- Chu choa! Chộp chệch, xí hụt!
Miệng nói, chân lẹ làng thoắt bước theo thế “Bàng Long Nhiễu Bị” (rồng đoành quẫy bước) luồn mình dưới bên tay của đối phương, chui tọt ra ngoàị
Chúc Luyện thấy Châu Bá Thông cố ý trêu chọc mình, tức giận vô cùng, bèn đem môn Phục Hổ chưởng pháp, sở học bình sanh của mình ra tấn công liên tiếp hai thế “Kim Cang Phục Hổ”, rồi “La Hán Khóa Hổ hai thế lại kẹp theo Độc Sa chưởng lực, nhanh mạnh dị thường.
Châu Bá Thông không chút nao núng, ung dung áp dụng ngay Thái Ất quyền pháp, dùng chiêu “Ô Long Bàng Thục” (rỗng đen quấn cây) và “Thần Long Nhập Hải” (rồng thần vào biển). Lấy rồng khắc chế cọp.
Chúc Luyện hai chiêu tấn công ra đều liên tiếp rơi vào khoảng không, chưa kịp thâu tay về thì Châu Bá Thông thân hình thoắt một cái, lại vang lên hai tiếng “Bốp!” “Chát!”, Chúc Luyện lại lãnh trọn thêm hai cái tát tay vào sau ót nên thân.
Hai chưởng này khá nặng tay khiến Chúc Luyện hai mắt như nổ đom đóm. Suýt tý nữa té chúi mũi xuống mặt đất!
Sáu đệ tử của Toàn Chân phái thấy vậy không khỏi buông tiếng cười to lên.
Chúc Luyện bị luôn hai lần tát tay, biết rõ tài nghệ của Châu Bá Thông rất kỳ diệu, chẳng còn dám ồ ạt tấn công nữạ Y lập tức biến đổi lối đánh, lấy thủ làm công, người y loạn xạ quay tròn xung quanh Châu Bá Thông như bánh xe gió.
Châu Bá Thông cười lên khanh khách và mắng :
- Thằng giặc thúi, ăn được hai tát tai rồi sợ sao mà chạy lồng lên như mắc phong điên vậỷ Mi tưởng là chỉ thủ không công là tránh được đòn ư? Ha ha! Xem đây!
Nói đoạn chàng chùng ngay “Bát Diện Triều Phong chưởng pháp”, thoáng bên Đông, thoáng bên Tây, nhảy sang trái, vụt qua phải, quay tít theo thân hình của Chúc Luyện.
Chúc Luyện cảm thấy mắt mình như hoa lên, trước sau, phải, trái gì cũng có hình bóng Châu Bá Thông cả, chân tay liền cuống cuống không biết phải đỡ đâu tránh đâu, tức thì “Binh!”, “Chát!” hai tiếng, sau lưng bị Chảu Bá Thông nện cho một quyền như trời giáng, má trái lại thêm một tát tai tá hỏa tam tinh.
Chúc Luyện gầm lên một tiếng như điên, phạt ngược hai tay áo trở lên. Lòng bàn tay ló ra ngoài, rồi từ lòng bàn tay vèo vèo bay ra hai vừng cát bụi đen sì như khói đèn, lao vụt vào người Châu Bá Thông.
Hai vừng cát đen ấy gọi là Độc Thiềm Sa, độc hại khó lường, phải dùng một trăm cái mật độc của con thiềm thừ hòa trộn với lớp cát sạch lấy dưới ba mươi thước sâu cách mặt đất, phơi đủ trăm lần, cho nhuyễn thành bụi cát, những hạt cát ấy đen tuyền một màu óng ánh nhỏ hơn hột cát thường gấp mấy lần, nhưng có một chất độc cực mạnh, chỉ cần bám lên thân hình kẻ địch, lập tức nơi chỗ da ấy nổi lên một mụn đỏ như nhưng mụn trên da cóc ngứa ngáy khó chịu vô cùng.
Không đầy nửa ngày, da thịt nơi chỗ ấy thối rữa biến thành chất nước, chảy đến đâu lở lói đến đó, da khịt châu thân bị chất độc lan tràn thối rữa ra mà chết, do đó Chúc Luyện mới được giới giang hồ kinh sợ đặt cho ngoại hiệu là “Độc Sa Thừ”..


Hồi 20

Toàn Chân Tam Tử Trổ Tài


Nào ngờ Châu Bá Thông tuy tánh tình khỉ liếng, nhưng võ công vượt bực hơn người, vùng cát độc của đối phương vừa tấn công ra, chàng lập tức tung mình nhảy vút lên cao như một cơn gió lốc, bay vượt quá đỉnh đầu của đối phương, rồi thừa lúc thân hình còn lơ lửng trên cao, chàng vội uốn lưng xoay người, hai chân một đạp, một đá, hai gót chân như điện chớp, đá mạnh vào “Mạch Môn” nơi sau lưng của đối phương.
Chúc Luyện rú lên một tiếng đau đớn, há miệng phun ra mấy ngụm máu, thân hình ngã chúi ra trước đánh “Bốp” một tiếng, rồi rơi lông lốc theo triền núi, lăn luôn mấy mươi vòng, may nhờ đụng nhằm một tảng đá lớn cản lại, y rên lên “Ư, ử!” hai tiếng, tay chân duỗi thẳng nằm bất động như chết.
Châu Bá Thông vỗ tay cười hăng hắc và nói :
- Tuyệt công phu! Tuyệt công phu, thế ấy nên gọi là “Rùa đen lăn quay”, sử dụng thật khéo léo vậy!
Gương mặt của Thiết Chưởng bang chủ sầm lại như chiếc bánh bao, chẳng nói chẳng rằng, tung mình nhảy vụt ra trước, vung mạnh chiếc gậy hai đầu rắn, linh hoạt như hai con rắn le lưỡi điểm vút vào ngực Châu Bá Thông.
Thủ pháp của y nhanh như chớp, xuất chiến lại đột ngột chẳng ai ngờ, nhưng bản lĩnh của Châu bá Thông cũng chẳng kém, xoay tròn thân hình, tránh khỏi đầu gậy, lật tay vung ra phản công một chiêu “Bàn Vân Kiến Nhật” (vạch mây thấy trời) năm ngón tay tựa như năm chiếc móc, chộp vào phần gậy định đoạt lấy khí giới của đối phương.
Nào ngờ cây song xà trượng của Thiết Hưng kỳ lạ khác thường, y đột nhiên hất mạnh cây song xà trượng về phía tả, tức thì hai chiếc đầu rắn nơi chót gậy bỗng vươn dài ra hơn một thước.
Thì ra nơi phía dưới hai chiếc đầu rắn có gắn lò xo, chỉ cần quật mạnh cây gậy, hai đầu lẳn sẽ bị lò xo đẩy mạnh bay vút ra nhanh như tên bắn mổ thẳng vào cườm tay hữu của Châu Bá Thông lồi tụt trở về đầu gậy ngaỵ
Châu Bá không cảm thấy nơi cổ tay đau nhói một cái như bị Ong vò vẽ chích phảị Không khỏi giật mình kinh hãi, vừa định lật tay tông ra một chưởng phản kích thì Thiết Hưng đã nhảy lui trở ra sau rồi cất giọng lạnh như đá :
- Tôn giá khỏi cần ra tay nữa mau trở về sửa soạn hòm rương là vừa!
Châu Bá Thông khẽ cúi đầu xuống nhìn, thấy cườm tay hữu gần nơi ngón trỏ thủng sâu hai vết thương nhỏ như hột gạo, nhưng nơi miệng vết thương ri rỉ chảy ra chất máu bầm không đau lắm, chỉ lạ một điều nơi da thịt xung quanh vết thường cảm thấy ngứa ngáy vô cùng.
Thì ra hai chiếc đầu rắn giả nơi chót gậy của Thiết Hưng mường tượng con rắn giả trong cây đàn Thiết Chanh mà Âu Dương Phong đã dùng để ám toán Ngọc Động chân nhân trên núi Mãng Thương sơn khi xưạ Trong đầu rắn cũng có hai cái nanh độc, có thể tự động cắn người, nơi hai nanh rắn có tẩm chất độc dược cực kỳ mãnh liệt, nếu bị cắn trúng cũng không khác nào bị rắn độc mổ phải, trong vài giờ đồng hồ sau là độc tố sẽ phát lên và chết không phương cứu chữa...
Châu Bá Thông thấy tình hình nơi vết thương biết rõ Thiết Hưng không phải nói dọa, chàng cả giận nhảy chồm lên miệng quát mắng như sấm :
- Thằng giặc thối! Đường đường một Bang chủ như mi mà lại đánh lén hại người, ta Châu Bá Thông cùng liều mạng với mi!
Nói đoạn, tung mình định nhảy bổ đến tấn công Thiết Hưng.
Trong lúc thân hình của Châu Bá Thông vừa cất lên khỏi mặt đất, trong cái tích tắc sắp nhảy vồ đến Thiết Hưng thì từ phía bên hông có tiếng gió lạ, rồi có bóng người xẹt vút ra trước, giơ tay chộp lấy cổ áo Châu Bá Thông và quát lớn :
- Sư đệ! Tính mạng cần yếu hơn. Không nên hành động lô mãng, phải nghe lời tạ chỉ bảo!
Dứt lời, tay nghịt mạnh một cái, khiến Châu Bá Thông phải loạng choạng thối lui ra saụ
Người nắm cổ áo Châu Bá Thông kéo lại không ai khác hơn là Trùng Dương, chàng kéo Châu Bá Thông trở ra phía sau xong, tiến sấn bước tới mặt Thiết Hưng, làm tấm bình phóng ngăn chặn giữa hai người rồi nói tiếp :
- Thương tích của sư đệ chứa hại gì, hãy xếp bằng ngồi yên, vận khí cho “Tam hỏa tụ đỉnh” là “Ngũ tâm hướng thiện” theo phép tọa công của Toàn Chân phái chúng ta!
Châu Bá Thông nghe sư huynh nhắc đến khẩu quyết tọa công của Toàn Chân phái, lập tức hai đầu gối quỳ đánh cốp xuống mặt đất ngoan ngoãn ngồi tĩnh tọa để vận khí đẩy chất độc rạ
Trùng Dương cũng ngồi xếp bằng đối diện với Châu Bá Thông, thái độ chàng ung dung như chẳng nhìn thấy Thiết Chưởng bang chủ và mấy trăm bang chúng đang hầm hừ phía sau lưng.
Chàng nhẹ nhàng giơ bàn tay hữu ra nắm lấy Khúc Trì huyệt nới cườm tay hữu bị thương của Châu Bá Thông, tay tả của chàng cũng cầm lấy ngón tay giữa của cánh tay bị thương.
Không đầy một khắc công phu, Châu Bá Thông cản thấy một luồng hơi nóng từ người Trùng Dương chuyển sang lòng bàn tay hữu mình, tiếp theo đó hơi nóng bốc lên cánh tay, bộ phận bị tê dại lúc nãy đã thấy máu huyết dần dần di chuyển.
Rồi chỗ vết thương nhỏ như hai hột gạo lúc nãy, bỗng mở lớn và kế máu đen từ miệng vết thương rỉ rả tuôn ra rơi trên mặt đất.
Không đầy thời gian một tuần trà, tia máu đen đã dần dần biến thành máu đỏ, Châu Bá Thông cảm thấy trong người như cất đước cánh nặng, đỉnh đầu như bị ai để một chảo nóng lên trên, hơi nóng hừng hực bốc lên như hơi khói, Trùng Dương khi ấy mới đứng phắt dậy gọi lớn :
- Sư đệ nên trở về nghỉ ngơi một chút đi!
Thiết Hưng đứng bên cạnh mục kích Trùng Dương giúp sư đệ trị liệu vết thương độc, hắn hết sức kinh hãi phục thầm, hắn không ngờ gã Trùng Dương này lại biết sử dụng “Ngạc khí công phối huyết pháp” và bản lĩnh “Ngạc khí công phối huyết pháp” này đem ứng dụng vào phương diện vô thuật thì thành môn thần công “Cách Sơn Đả Ngưu”. Trước tiên tự mình phải luyện cho đầy đủ “Tiên thiên khí kình” vào người rồi truyền qua thân hình của đối phương đoạn hòa hợp khí kình của mình với chân khí đối phương thành một, sau đấy mới dùng luồng chân khí vừa hòa hợp ấy đẩy máu độc xà, độc tố ra ngoài vết thương.
Loại công phu ấy rất hiệu nghiệm đối với loại ám khí có chất độc, bất luận với chất độc của ám khí lợi hại đến bực nào, nếu biết dùng công phu ấy thì không đầy thời gian tuần trà chất độc sẽ lập tức bị đẩy rả khỏi thân thể theo vết thương chảy ra ngoàị
Nhưng khi vận dụng phương pháp trị liệu ấy người bị độc thương cũng phải tuyệt đối tinh thông môn khí công mới được, chứ người bình thường thì không sao chữa chạy khỏi chết.
Châu Ba Thông từ nhỏ cùng Trùng Dương sớm tối luyện võ, đối với môn vận dụng khí công tất nhiên là rất thành thuộc cho nên không mấy phí sức lắm đã giúp Châu Bá Thông đẩy chất độc ra khỏi châu thân. Mấy trăm bang chúng của Thiết Chưởng bang thấy rõ tình hình như vậy đều trợn mắt há mồm lè lưỡi hít hà không ngớt. Thiết Hưng thấy bản lãnh của Trùng Dương siêu tuyệt đến thế ấy càng thất đảm hồn kinh, vì hai chiếc nanh độc nơi đầu song xà trượng của y đã dùng loại độc dược rất mãnh liệt, một khi đánh trúng được đối phương dù y có lòng thiệt đem thuốc giải ra cứu chữa cũng phải dùng thuốc cao thoa khắp người trên bảy tám lần, ngoài ra phải uống thêm trên ba mươi thang thuốc, mới mong bảo toàn tánh mạng, lại còn phải tĩnh dưỡng thêm ba bốn ngày mới có thể lành hẳn.
Nhưng đây Trùng Dương không đầy thời gian một một bữa cơm đã trị liệu cho Châu Bá Thông lành lặn như thường, thử hỏi y làm sao mà không tức giận được?
Trùng Dương sau khi điều trị cho sư đệ song lập tức quay sang đối diện với Thiết Hưng, cười như sắt lạnh và nói :
Thiết Chưởng bang chỉ nghe danh không bằng thấy người! Tài ám toán của Bang chủ thật quả cao minh ít ai sánh kịp.
Chàng vốn là một người học đạo, tánh nết khiêm cung ôn hòa ít khi nào giở giọng châm biếm một aị Nhưng hôm nay chàng thấy Thiết Hưng thủ đoạn đê tiện, lòng dạ lại ác độc, nên mới buột miệng nói ra những lời cay độc như thế khiến cho Thiết Hưng dù da mặt có dày như tấm vách tường cũng phải bừng bừng lửa thẹn.
Y thẹn quá sanh giận, động mạnh cây song đầu xà trượng xuống đất đánh cốp một cát đoạn quát to :
- Trùng Dương, mi tại Đồng Quan đánh thương thủ hạ của ta, thì hôm nay ta hạ độc thủ với sư đệ mi, vậy là trừ, không ai thua kém ai, mi còn oán trách nỗi gì chứ? Lại đây, ta và ngươi cùng quyết một phen sóng mái!
Trùng Dương “Hừ” một tiếng, không thèm trả lời, chàng vẫy tay phía sau ra dấu cho sáu đệ tử đến gần bên chàng và lên tiếng bảo :
- Mã Ngọc, Xử Cơ, Xử Đoan ba người ra đây!
Ba thiếu niêu đạo sĩ Mã Ngọc, Xử Cơ, Xử Đoan đồng ứng tiếng bước ra đứng trước mặt Trùng Dương chờ lệnh, Trùng Dương chỉ tay nói :
- Vị Thiết bang chủ này võ công quán chúng, đức cao vọng trọng, ba đồ đệ đã theo ta học hỏi mấy năm nay chưa thử tài với ai lên ngày hôm nay khá tua ngoan ngoãn, thỉnh giáo Thiết bang chủ một vài tuyệt kỷ.
Lời ấy nghe qua dường như suy tôn, nhưng bên trong cay độc mười phần còn ẩn ý một sự khinh nhờn quá mức. Vì thân phận Thiết Hưng đường đường là một Bang chủ với địa vị của Trùng Dương vẫn tương đồng, ít ra phải Trùng Dương chính mình ra đấu y mới không mất sĩ diện nhưng Trùng Dương lại cố ý kêu ba đệ tử ra thử tài với ỵ Phải chăng là một sỉ nhục cho ỷ
Thiết Hưng giận tức tột cùng, dùng giọng mũi “Hừ” lên một tiếng cực lớn trong đám bang chúng liền bước ra ba người, đồng thanh kêu lên :
- Thưa Bang chủ, đừng hạ mình ra đấu với bọn chúng mà nhẹ thể Thiết Chưởng bang của chung ta, hãy nhượng cho chúng tôi đến thỉnh giáo bản lĩnh của đệ tử Toàn Chân phái!
Ba người này là hảo thủ hạng nhất của Thiết Chưởng bang, người đi đầu là Trung Phong Mãng Hầu Thắng Phương, người thứ hai là Kim Nhân Mãng Tiêu Thiên Đình, và người đi sau cùng là Xích Bôi Mãng Chu Hồng Nghĩa, trong Thiết Chưởng bang thường gọi chúng là Tương Tây Tam Mãng, thủ đoạn ác độc có tiếng, và võ công cũng rất cao cường.
Thiết Hưng thất ba người bước ra rất hợp với ý mình nên vội thâu song đầu xà trượng về, thối lui ra sau đoạn quát lớn :
- Ba anh em mau bước ra đây, giết quách ba thằng lỗ mũi trâu ấy cho ta!
Tương Tây Tam Mãng liền vâng lên một tiếng rồi đồng phi mình nhảy vút ra trước. Truy phong Mãng Hầu Thắng Phương đón Khưu Xử Cơ, Kim Nhãn Mãng Tiêu Thiên Đình lựa Mã Ngọc còn Xích Bối Mãng Chu Hồng Nghĩa thì bổ nhào tới trước mặt Đàm Xử Đoan. Tam Mãng phân ra giao đấu với Toàn Chân tam tử.
Trong Tam Tử có Khưu Xử Cơ là người ghét kẻ ác như người thù. Chàng thấy nhân vật của Thiết Chưởng bang từ Thiết Hưng trở xuống tên nào tên ấy miệng chuột mắt lươn cử chỉ ngôn ngữ đều dãy đầy tà khí, nên đã quyết ý chém giết cho thỏa tay, để cho dịch thủ nếm mùi lợi hạị
Khưu Xử Cơ liền án kiếm theo quyết “Thanh Loan Triển Dực”. Hầu Thắng Phương múa tít cây bổng Kim Tơ Thăng Xà “Soạt” một tiếng sử dụng ngay thế “Thâm Phụng Di Sào” tấn công vào hạ bàn đối phương.
Nào ngờ cây Thắng Xà Bổng vừa vung ra cảm thấy trước mặt bạch quang thấp thoáng hơi lạnh tỏa baỵ Khưu Xử Cơ đã nhanh nhẹn theo kiếm quang xông tớị Truy Phong Mãng chợt nghe bàn tay hữu đang cầm bổng hơi nhói một cái năm ngón tay đã bị chém đứt tới bàn đau thấu tim phổi rên lên một tiếng :
- Ối cha!
Rối cơ hồ muốn ngất nhào xuống đất.
Thì ra Khưu Xử Cơ sử dụng kiếm quyết theo chữ “Niêm” là một tuyệt chiêu của Toàn Chân Thái Ất kiếm pháp, bổng của đối phương vừa tới, Xử Cơ liền truyền kình lực vào mũi kiếm, rồi một “kiền” một “dẫn” khiến cho ngọn bổng của đối phương trệch qua một bên, tiếp theo bỗng như người róc mía, chém đứt năm ngón tay của Truy Phong Mãng trong thời gian tíc tắc.
Chàng chỉ cần tấn công thêm một kiếm, thi lưỡi kiếm Thanh Phong dài ba thước kìa sẽ đâm lủng ngực kẻ địch ngaỵ Nhưng luật đạo gia không thể mỗi chốc động lòng háo sát, hơn nữa trước mặt sư phụ Xử Cơ càng không dám buông lung, nên chỉ vung nhẹ chân trái lên thưởng cho Truy Phong Mãng thêm một cước văng xa hai trượng ngoàị
Trong khoảnh khắc mà Truy Phong Mãng bị đánh bại và văng ra xa khỏi vòng chiến, thì Kim Nhãn Mãng, Xích Bối Mãng cũng đồng lượt bị thảm bạị
Kim Nhãn Mãng Tiêu Thiên Đình vừa tiến tới bên Mã Ngọc y đã dụng ngay thế “Loạn Chuyển Tụ Vân”, múa tít hai cái móc “Hổ đầu song câu” nhắm ngay hai bèn cổ của Mã Ngọc móc mạnh, tính Mã Ngọc trầm tĩnh hơn Xử Cơ, chàng vung kiếm theo thế “Phát Vân Kiến Nhật”, một thủ một thủ một “nghinh”, “kinh” ”coong” hai tiếng, đom đóm lửa túa bay, song câu của địch thủ đã bị trường kiếm của chàng đánh bật trở lạị Kim Nhãn Mãng cảm thấy hổ khẩu ray tê dại, thầm kêu một tiếng “Không xong” vừa định trầm mạnh đôi hổ đầu câu đánh tạt từ trên xuống để mượn sức nhảy ra ngoài, nào ngờ, trước mắt ánh sáng lạnh hoa lên, mui kiếm của Mã Ngọc đã kề sát yết hầụ
Kim Nhãn Mãng cảm thấy chất thép sắc lạnh như băng điểm vào giữa cổ, điếng người đành nhắm mắt chờ chết, chợt nghe Mã Ngọc trầm giọng quát :
- Bản lĩnh của ngươi còn non lắm ta không thèm giết mi cho nhơ gươm, cút về cho mau!
Nói đoạn thâu nhanh mũi kiếm, Kim Nhẵn Mãng thoát chết hổ thẹn lủi thủi trở về bổn trận.
Xích Bối Mãng sử dụng thanh Nhạn Dực Chiết Thiết đao nhảy bổ đến trước mặt Đàm Xử Đoan, đao quang lấp loáng che khắp đỉnh đầu, ngọn Chiết Thiết đao từ trên cao bổ mạnh xuống đầu Đàm Xử Đoan theo thế “Trù Phách Ngũ Nhạc”, vù một tiếng xé không gian, kình lực mạnh tựa một trái núi chụp xuống.
Đàm Xử Đoan không chút bối rối, đứng im chờ lưỡi đao gần sát đỉnh đầu, liền uốn tròn thân hình theo thế “Du Phong Ngọa Tâm” lướt tránh ngọn đao một cách nhẹ nhàng. Xích Bối Mãng lập tức trầm mạnh cổ tay theo đà đao đang xuống, biến thành thế “Quyền Để Phan Vân” chém vụt vào chân đối phương. Đàm Xử Đoan vội bước xéo ra trước một bước tránh khỏi thế đao, rồi nhanh như cắt, đâm thẳng lưỡi kiếm vào ngực đối phương.
Xích Bối Mãng không ngờ kiếm pháp của đối phương quá ư thần tốc, giật mình kinh hãi, định dùng thế “Phong Đảo Liệu Chi” để tránh ra ngoàị Ngờ đâu thế kiếm của Đàm Xử Đoan vừa hư vừa thực, kiếm hoa tủa tròn một vòng theo chiêu “Thiết Tỏa Hoành Giang” mũi kiếm đã khoét trên cánh tay của Xích Bối Mãng một lỗ tròn như cái hang chuột máu vọt ra như suối, Xích Bối Mãng la “Ái” lên một tiếng ôm cánh tay rên rỉ thối ra saụ
Tam Mãng phân đấu với Tam Tử, trong khoảnh khắc đã phân rõ thắng bạị
Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ hai người với một chiêu kiếm pháp đã đánh bại Truy Phong, Kim Nhãn Nhị Mãng, còn Xích Bối Mãng ỷ tài tự thị, không hiểu ý tốt của Đàm Xử Đoan nên qua chiếu thứ haị liền thích cho một mũi kiếm sâu hoắm vào cánh tay mặt, mới chịu bại thối luị Bang chúng của Thiết Chưởng đều ngẩn người kinh hãi vô cùng.
Thiết Hưng không ngờ đồ đệ của mình chỉ là đồ ăn hại, mới giao đấu một chút đã ôm đấu rút lui, nếu đối phương không nương tay cho thi Tương Tây Tam Mãng đã thành ba cái xác không hồn.
Và trong khoảnh khắc ấỵ Thiết Hưng đã thấy rõ thực lực của đối phương, thật đúng như lời đồn đại, kiếm pháp của phái Toàn Chân quả là thế gian hãn hữụ
Thảo nào Trùng Dương không thèm ra tiếp chiến với mình mà chỉ kêu ba đồ đệ ra giao đấụ
Trong lòng đang bồi hồi tức giận chợt nghe Trùng Dương cười và nói :
- Thiết Chưởng bang chủ, bần đạo kêu ba đồ đệ ra thỉnh giáo với Bang chủ, bề ngoài tuy có bất kính nhưng bây giờ có lẽ Bang chủ đã hiểu rõ vì sao rồi!
Lời nói của Trùng Dương vừa rồi còn cay độc hơn cả lời nhiếc mắng, khiến Thiết Hưng khí giận bốc sôi, dộng mạnh cây song đầu xà trượng xuống đất, cười nhạt và nói :
- Dưới tay tướng mạnh không binh yếu dưới trướng danh sư chẳng sĩ hèn!
Được lắm, để Thiết mỗ thỉnh giáo vớt ba vị cao đồ của nhà ngươị
Lúc nãy hắn đứng bên ngoài lượt trận, y thấy bản lĩnh của Đàm Xử Đoan kém nhất, nên vung tít cây xà trượng thành hình vòng tròn lớn nhỏ như cái miệng tô, chợt biến đầu gậy thành chiêu “Tiếu Chỉ Thiên Nan” thích mạnh đầu gậy vào ngực Đàm Xử Đoan nhanh nhứ điện chớp.
Đàm Xử Đoan vẫn đứng im bất động, thấy đầu gậy đã gần tới thân mình, Mã Ngọc, Xử Cơ hai người thừa kế địch bất ý phân ra hai bên xông tới, hai thanh trường kiếm như hái con giao long quẫy khúc nhắm tả hữu hai sườn của địch đâm tới, Thiết Hưng vội hồi trượng phong kín thân hình, Mã, Khưu hai người liền lui trở lạị Đàm Xử Đoan vũ lộng thanh trường kiếm thành một đường sáng bạc chém mạnh vào lưng địch thủ một chiêu “Xuân Vân Tá Triển”. Thiết Hưng vội tung bổng thân hình, nhảy qua đỉnh đầu Đàm Xử Đoan, xà trượng quật mạnh trở xuống, đầu trượng điểm vào Thái Dương huyệt của Mã Ngọc, đuôi trượng thích vào “Huyền Khu huyệt” của Khưu Xử Cơ một chiêu phản công hai người, nhanh như sao xẹt!
Mã, Khưu hạt người sử dụng ngay thân pháp “Phân Hoa Phất Liễu” tràn qua tránh lại lướt khỏi đầu gậy của đối phương. Trùng Dương thấy bản lĩnh của y siêu việt cũng nức lòng khen thầm.
Thiết Hưng giao đấu với Toàn Chân tam tử chỉ có một chiêu đầu, thì biết đối phương sử dụng “Liên vi chiến pháp” bọn chúng ba người đầu đuôi ương ứng, liến kết thành một khối, một tiến một thoái liên tiếp tấn công, phối hợp rất chặt chẽ. Thiết Hưng quát to một tiếng :
- Khá lắm!
Xà trượng trên tay liền biến nhanh theo “Phong Ma trượng pháp” của Lỗ Trí Thâm đảo trên phạt dưới, loang loáng quay tròn, trượng pháp đến lúc nhanh tới cực độ, bóng trượng che kín khắp nơi thành một trượng sơn tựa như đôi long xà bay lộn giữa trờị “Phong Ma trượng pháp” của y bề ngoài tuy như trò múa rối, chỉ đông rồi về tây không thành chiêu thế gì cả, nhưng bèn trong bao hàm sáu chữ quyết “Mạc”, “Đã”, “Bàn”, “Giao”, “Tỏa” “Kiền” hai chiếc đầu rắn bằng sắt trên mũi trượng cứ thỉnh thoảng bật khỏi lò so bay nhanh tới trước đớp vào mình đối phương.
Nhưng Toan Chân Tam tử không chút bối rối, ba người ba thanh trường kiếm tạo thành một khối kẻ công người thủ bên tấn bên thối, liên liên tương ứng nhau nhanh như tia chớp xẹt vòng trời, bao tròn kín mít kẻ địch tựa lửa xanh trong lò luyện thép. Đấu hơn trăm hiệp vẫn không phân thắng bạị
Thiết bang chủ dưới tay còn có hai Phó bang chủ, một người là Độc Sa Thừ Chúc Luyện đã bị Châu Bá Thông đánh bại lúc nãy được đám bang chúng khiêng đi cứu chữa, còn lại một người là Hà Vĩ Châm Từ Quảng.
Y từ nãy giờ đứng lượt trận bên ngoài thấy Trùng Dương không chịu đấu với Bang chủ của mình mà chỉ nói ba đệ tử ra ứng chiến, nư giận của y đã cành hông, đến lúc thấy Bang chủ của mình đấu với ba gã thiếu đạo sĩ mà đánh không xuể, trái lạt còn bị ba luồng kiếm quang của đối phương vây kín, tình hình có phần bất lợị Từ Quảng càng thêm nóng nảy, chỉ sợ Bang chủ sơ hở một chút là có thể bị hại dưới kiếm của ba gã thiếu niên đạo sĩ kia, thì uy danh của Thiết Chưởng bang sẽ không còn gì, mà rồi bọn người của y cùng không còn mặt mũi nào mà ngang dọc với giang hồ võ lâm nữa nên y liến cất tiếng quát đám bang chúng :
- Chúng bây còn đứng làm gì? Có mau xông tới giết sạch đám yêu đạo tạp nạp kia không?
Bang chúng Thiết Chưởng bang tuy có trên năm trăm người, nhưng lúc này thấy Trùng Dương với mộ ngón tay chỉ ra mà đẩy ngã được phiến đá to, rồi thấy Toàn Chân tam tử chỉ có một chiêu mà đánh bại Tương Tây Tam Mãng, bọn chúng tự biết người chúng tuy đông nhưng cũng chẳng làm được gì nên thân, vì bản lĩnh hơn kém nhau quá xa, không khác nào lấy trứng đem chọi đá! Nên khi nghe tiếng quát tháo của Từ Quảng mọi người đưa mắt nhìn nhau, khiếp hãi không dám tiến tớị
Từ Quảng cả giận “Hừm!” một tiếng, rút phăng chiếc roi “Hai mãng trường tiên” ra “Vút, vút” hai tiếng, đánh ngã hai bang chúng đứng gần nhất, rồi lên tiếng mắng :
- Đồ ăn hại, nuôi quân ngàn ngày, chỉ dùng một thưở, Bang chủ nuôi chúng bây no cơm ấm áo để chúng bây phè phỡn ra đứng nhìn Bang chủ bị nguy đấy à? Mau mau xông lên!
Đám bang chúng hoảng sợ, đành riu ríu rút binh khí ra la hét vang rần để lấy can đảm rồi ồ ạt xông lên chém giết.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 11-22-2012, 11:27 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 21 - 25

Võ lâm ngũ bá


Hồi 21

Tuyệt Kỹ Khiếp Quần Hùng


Thấy đám bang chúng hùng hổ tiến lên, Vương Xử Nhất, Lưu Xử Quyền, Tôn Bất Nhị ba người định rút kiếm tiến lên, Vương Trùng Dương ngăn lại nói :
- Các đồ đệ không nên tiến nữa, vì bọn chúng còn có rắn độc! Để sư phụ đối phó được rồi!
Nói xong liền cúi mình xuống, hai tay hốt hai nắm đá vụn phất nhẹ cây phất trần trên tay, thân hình như một con chim đại bàng từ trên nửa không vút xuống nhanh như một trận cuồng phong bay xẹt vào giữa đám đông bang chúng.
Lúc đám bang chúng ào ạt tiến lên, thì bầy rắn khi nãy cũng lúc nhúc di động bò nhanh đến gần Mã, Khưu, Đàm ba ngườị Trùng Dương thấy rõ như thế liền hú lên một tiếng lảnh lót, ném mạnh hai nắm đá vụn hay vào bầy rắn, sức mạnh của những viên đá bị ném ấy tựa như những viên thiết đạn khổng lổ trúng vào đầu rắn nát nhầu, trúng vào lưng rời vai, gãy xương, bầy rắn bị đám mưa đá kinh khủng kia đả kích, hoảng sợ nhốn nháo thối lui, lủi trốn bốn phía sạch trơn.
Thân hình Trùng Dương “Vút” một cái đã phi tới sát bên Thiết Hưng, phẩy nhẹ phất trần trên tay cản lấy xà trượng của đối phương rồi hất mạnh ra ngoài khiến Thiết Hưng không gượng được thối lui lia lịa ra sau hơn mấy bước.
Y chưa kịp đứng vững đã nghe Trùng Dương quát lên sang sảng :
- Thiết bang chủ, các hạ đem bang chúng đến đây để vấn tội bần đạo, giao phong nhau đã ba trận, sao các hạ chưa tự lượng mà rút lui đỉ
Thiết Chưởng bang chủ thẹn đến mặt đen càng thêm đen, lời của Trùng Dương không sai chút nào, mình đường đường một Bang chủ mà bản lĩnh không bì kịp đệ tử của đối phương còn nói gì đến chuyện giao tranh với Trùng Dương được!
Nhưng nghĩ lại, nếu rút lui nhục nhã như thế này, còn gì sĩ diện của Thiết Chưởng bang? Đã biết rằng là bại, nhưng bại cách nào cho dễ coi một chút để giữ chút ít thể thống mới được!
Nghĩ thế, Thiết bang chủ liền cả giận, nói lớn :
- Họ Vương kia, bản lĩnh của ngươi quả thật cao cường nhưng nhà ngươi chưa làm ta phục được!
Trùng Dương cười một hồi dài và đáp :
- Các hạ hãy ra lệnh cho thủ hạ ngừng tay, bần đạo làm cho các hạ bại đến xiểng liểng, dập dầu xuống đất mới thôi!
Bang chúng của Thiết Chưởng thấy Trùng Dương đã chịu ra tay, liền lật đật rút lui, nhưng có mấy gã hung hăng không tự lượng sức mình nhảy bổ đến tấn công Tam tử, chỉ trong nháy mắt đã bị Khưu Xử Cơ lia kiếm đuổi chạy như giông.
Thiết Hưng nghe Trùng Dương bảo thế, cười khẩy một tiếng rồi quay sang quát đám bộ hạ :
- Bọn ngươi mau lui xuống?
Chờ bọn thủ hạ lui xong, Thiết Hưng nói với Trùng Dương :
- Ngươi định giao đấu với ta phải không? Được lắm, tuy ta biết rõ không phải là đối thủ của ngươi, nhưng ta cũng cố gắng để lãnh hội vài chiêu tuyệt học của Toàn Chân phái ngươi cứ đến.
Lời nói của Thiết Hưng vừa rồi tuy cứng rắn nhưng khẩu khí yếu xìụ Trùng Dương cười thầm trong bụng, rồi xếp bằng tròn, ngồi ngay ngắn dưới đất, quay sang hỏi đồ đệ :
- Các ngươi ai có khăn tay không? Mau đem ra đây ta có chuyện dùng!
Mã Ngọc, Khưu Xử Cơ, Đàm Xử Đoan, đều rút khăn tay ra dâng cho sư phụ.
Trùng Dương đem ba chiếc khăn tay nối lại thành một như trò chơi hú tim, dùng ba chiếc khăn tay bịt kín hai mắt đoạn cột lại thật chắc. Thiết Hưng hết sức ngạc nhiên không hiểu Trùng Dương sắp giở trò quỷ thuật gì?
Trùng Dương bịt kín xong đôi mắt, dùng phất trần chỉ ngay Thiết Hưng và nói :
- Thiết bang chủ, bần đạo ngồi dưới đất dùng phất trần đấu với Bang chủ, nếu cây xà trượng trên tay Bang chủ điểm trúng vào người bần đạo một cái, hoặc chỉ chạm nhẹ vào quần áo của bần đạo thì kể như bần đạo đã thua! Hay là Bang chủ có thể bức bách bần đạo phải đứng dậy hoặc phải di động chỗ ngồi, cũng kể là bần đạo thua, điều kiện tỷ thí như vậy, Bang chủ có bằng lòng không?
Trùng Dương dám bịt mắt để giao đấu với đối phương, có mắt cũng như mù, như vậy cũng thiệt thòi lắm rồi, lại thêm ngồi dưới đất không được nhích mình, đứng dậy, càng bất lợi cho chàng rất nhiềụ
Thiết Hưng sửng sốt đến cực độ, sáu đệ tử của Toàn Chân phái cũng ngơ ngẩn nhìn nhau, vì Thiết Hưng tuy bản lĩnh không bằng sư phụ, nhưng cũng là một Bang chủ oai danh, võ công đâu phải hạng tầm thường. Sư phụ quá rộng rãi như vậy, vạn nhất có điều sơ xuất, thì oai danh của Toàn Chân phái sẽ tổn thương rất nhiềụ
Nhưng Thiết Hưng nghe xong lại tỏ vẻ kinh sợ vô cùng. Vì trên bộ môn võ thuật có một môn công phu gọi là Bế Mục Hoán Chưởng. Lúc luyện Bế Mục Hoán Chưởng phải dùng khăn bịt kín hai mắt, rồi chỉ cậy vào hai lỗ tai và cảm giác của thân thể, để nhận định phương hướng của địch thủ tấn công, tùy cơ mà ứng địch.
Môn công phu này chỉ có thủ mà không thể công, cho nên động tác rất trầm ẩn, quyền cước ít hay dùng đến, nhưng mà lúc xuất thủ lại nhanh chóng dị kỳ, chuyên về sự khóa chặt tay chân của địch thủ, chỉ cần nắm được là xương cốt gãy lìạ
Thủ pháp ấy thường áp dụng trong đêm tối đấu nhau, hoặc trong thạch động hay mật thất, những chỗ tối đen không có ánh sáng, nếu gặp địch thủ tấn công một cách bất ngờ, đem công phu Bế Mục Hoán Chưởng này ra ứng chiến, nếu võ công được tinh diệu phối hợp với cầm nã thủ pháp, có thể cướp được khí giới của địch một cách dễ dàng.
Trước đám đông của mấy trăm bang chúng, Trùng Dương dám ngang nhiên đem công phu Bế Mục Hoán Chưởng ra thử thách như thế, Thiết Hưng càng suy nghĩ càng kinh hãi không cùng. Nhưng đối phương đã nhường chấp y như thế, nếu y không dám giao đấu với địch thủ, thì còn chi oai danh của Bang chủ, cầm đầu một phái võ.
Nghĩ thế, y bèn dộng mạnh cây song xà trượng xuống đánh “Coong” một cái và nói :
- Hay lắm! Mi dám giao dấu với ta bằng cách này rõ ràng là mi không xem Thiết mỗ này vào đâu! Hừ! Để ta xem môn Bế Mục Hoán Chưởng công phu của mi tinh vi đến mức độ nàỏ
Nói chưa dứt tiếng thì “Vù” một cái, song xà trượng của y đã điểm nhanh vào ngực đối phương. Trùng Dương nghe tiếng gió, biết song xà trượng của Thiết Hưng tấn công phía trước mặt, bèn ngồi thẳng lưng, thuận tay vung ngọn phất trần một cái, đuôi ngọn phất trần tủa thành một vòng tròn độ hai thước cuốn lấy xà trượng của kẻ địch.
Thức ấy gọi là “Thiên Thân Đảo Khóa” (lưới trời đảo ngược) một thức trong Toàn Chân kiếm pháp mà Trùng Dương đem áp dụng vào cây phất trần.
Thiết Hưng vội hồi trượng trở về, rồi nhanh như một tia điện vụt mạnh trở ra tấn công vào eo lưng của đối thủ theo chiêu “Thám Hải Đồ Long” (dò biển giết rồng), Trùng Dương không chút bối rối, dùng cán phất trần từ trên tay hất chéo trở xuống thành thức “Thiết Tỏa Trầm Giang” kêu “Coong” một tiếng cây Long xà trượng của Thiết Hưng bị đỡ bật ra ngoàị
Thiết Hưng hai lần xuất kỳ bất ý đột kích đối phương, nào ngờ Trùng Dương bản lãnh cao cường nên ung dung đón bắt một cách dễ dàng. Y cả giận liền quát to lên một tiếng, rồi biến nhanh xà trượng sử dụng Bát Tiên trượng pháp loang loáng bốn phương tám hướng tấn công Trùng Dương tới tấp, nhanh như gió cuốn mưa tuôn.
Mọi người đứng lượt trận bên ngoài chỉ thấy bóng một người bay tới nhảy lui thấp thoáng như hình rối trong chiếc đèn kéo quân, cuồng loạn quay tròn. Còn một người thì ngồi im bất động như bụt tượng chùa quang, chỉ trong khoảnh khắc hai người đã giao tay nhau trên ba mươi chiêụ
Thiết Hưng thấy cây phất trần của Trùng Dương phòng vệ kín mít bốn phương, hễ đâm trái đỡ trái, đâm phải đỡ phải, cây song xà trượng của mình như đụng phải tường đồng vách sắt. Thầm suy tính nếu đánh mãi như thế này thì địch khỏe y mệt, dù cho không bại, nhưng cũng mệt hà hơị Y bỗng nhiên quay ngoắc thân hình, vòng ra phía sau lưng Trùng Dương, hư một trượng, thực một trượng, y liên tiếp tấn công ra bốn thế hư khiến Trùng Dương phải liên tiếp vung phất trần ra đón đỡ vào khoảng không mà không chạm được trượng của đối phương.
Thiết Hưng chỉ chờ dịp ấy là nhanh như chớp giơ cao xà trượng dồn tất cả sức mạnh đâm thẳng vào “Mệnh Môn huyệt” nơi giữa sau lưng Trùng Dương theo thế “Tiên Hạc Tróc Ngư” (hạc tiên đớp cá) đồng thời rung mạnh thân trượng điều khiển cho hai chiếc đầu rắn nơi đầu trượng bật vút ra ngoài mổ mạnh vào sọ Ót của Trùng Dương, một chiếu biến thành hai thức nhanh ảo khôn lường khiến cho sáu đệ tử của Toàn Chân phái đều thất thanh kêu lên :
- Chết rồi! Lần này sư phụ bại rồi!
Nào ngờ Trùng Dương cười dài một tiếng, rồi nhanh nhẹn ném mạnh chiếc phất trần bên tay tả ra khỏi tay, đuôi phất trần như có người điều khiển xòe ra như chiếc dù cuốn tròn lấy đầu xà trượng.
Cái ném ấy bề ngoài trông rất nhẹ, nhưng kình lực hùng mạnh phi thường, thiếu chút nữa là hất Thiết Hưng té nhào xuống đất. Và trong khi Thiết Hưng còn loạng choạng chưa đứng vững, Trùng Dương đã ung dung thâu cây phất trần trở về tay, đồng thời vận dụng Nhất Dương chỉ vào ngón tay mặt chỉ trái ra phía sau, nhưng may là chàng còn chút lòng hiếu sinh hèn chỉ sử dụng có ba thành chân lực vào cái chỉ ấỵ
Thiết Hưng đột nhiên thấy trước ngực đau nhói một cái, huyệt “Khí Môn” dường như mũi kiếm soi vào đau buốt đến tim phế. Y la lên một tiếng :
- Ối cha!
Rồi loạng choạng thối lui lia lịa ra sau mười mấy bước thân hình lảo đảo lắc lư như một kẻ say rượu, buông rơi cây xà trượng té “bộp” xuống đất không thể đứng dậy nổị
Bọn bang chúng của Thiết Chưởng bang cả kinh lầm tưởng Bang chủ của mình trúng phải ám khí của đối phương nên hô lên một tiếng, ồ ạt xông tới trước.
Hà Vĩ Chân Từ Quảng tức giận không kịp phân biệt đen trắng quát lên một tiếng thật lớn hai tay vận sức bắn ra liên tiếp sáu mũi Độc Hà Châm tấn công Trùng Dương. Mũi Độc Hà Châm ấy nhỏ li ti như sợi lông, nhưng dài đến năm tấc, được nhét trong cái ống đồng tựa hình như còn một cây, mỗi ống nhét ba mũi, chỉ cần vung tay một cái, trong ống liền có cơ quan đẩy mạnh, ba mũi độc châm sẽ bị bắn vút ra, đối phương trúng phải là chết không phương cứu chữạ
Từ Quảng được giới giang hồ đặt cho uy hiệu Hà Vĩ Châm là nhờ môn ám khí đặc biệt ấỵ Nào ngờ độc châm vừa bay ra chưa phạm tới thân hình Trùng Dương đã thấy Trùng Dương phẩy nhẹ tay áo một cái và lạ thay, sáu mũi độc châm đang thẳng đường bay tới vun vút, bỗng kêu lên vù vù xoáy tròn một chỗ như sáu chiếc chong chóng, rồi đột nhiên quay đầu bay trở về hướng Từ Quảng.
Trong lúc bất ngờ không kịp phòng bị, Từ Quảng bị trúng hết mấy mũị Loại độc châm này khác hẳn với những loại ám khí khác, vừa trúng vào người là lập tức hít sâu vào trong thịt chất độc liền theo huyết mạch chạy ngược lên tim, chỉ trong chớp mắt là tính mạng không còn. Trừ khi có sẵn đá nam châm bên mình, kịp thời phong bế huyệt mạch thì may ra mới có thể bảo toàn tính mạng được.
Cho nên Từ Quảng vừa trúng phải độc châm của mình liền ngã nhào xuống đất, dãy dụa kêu la có mấy tiếng là dốc tố đã phát ra, chết cấp kỳ tại trận.
Bọn bang chúng Thiết Chưởng vừa sợ vừa giận, la hét ồ ạt tiến lên định liều mạng với Trùng Dương, vì theo luật lệ của bang hội trong giới giang hồ thì khi Bang chủ gặp phải hiểm nguy hay bị kẻ thù sát hại thì bang chúng phải có bổn phận không được tiếc rẻ tính mạng mình, xả thân bao vây kẻ địch, dù phải thịt nát xương tan cũng không hề hối tiếc.
Trùng Dương thấy thế liền quát lớn :
- Khoan đã! Ta không phải dùng ám khí, tánh mạng Bang chủ của các ngươi vẫn không saọ
Chàng nói đến đây vụt đứng ngay dậy, thần sắc hiên ngang lẫm liệt, bọn bang chúng đang hung hăng như hổ đói, lập tức dịu xuống, mọi người dường như khiếp sợ trước chính khí ôn hòa, nhưng không kém oai vũ của Trùng Dương nên đồng loạt đứng im nhìn chàng mà không dám bạo động.
Trùng Dương chậm rãi bước đến trước mặt Thiết Hưng cười gằn và nói :
- Lúc nãy bần đạo đã hứa trước với mi là sẽ cho mi bại tới xiểng liểng mới thôi! Vậy bây giờ mi đã phục chưả Ta làm kẻ mù, mi làm người sáng, ta ngồi im để mi tấn công, nhưng rốt cuộc mi vẫn là kẻ bạị Mi còn lời nào không phục nữa chăng?
Thiết Hưng bị Trùng Dương điểm ngay huyệt “Khí Môn” đau đớn không chịu được, trên ngực như bị tảng đá ngàn cân đè lên nghẹt thở gần như đứt hơi, đau thấu lên tận óc, nhưng vì khí môn bị điểm, nên không nói được. Y nghe Trùng Dương thốt ra những lời như vậy, vừa hổ thẹn vừa giận tức, tự nghĩ đối phương đã nói thế dù không phục cũng không được.
Nghĩ xong y liền miễng cưỡng gật đầu, cái gật đầu ấy vô hình trung đã biểu lộ lòng khuất phục của ỵ Trùng Dương mỉm cười dùng tay vổ nhẹ vào ngực y, “Bộp” một tiếng. Lạ lùng thay! Thiết Hưng bị cái vỗ nhẹ ấy, liền nhảy mũi “Hách xì!” thật lớn, thân hình khôi phục như bình thường.
Trùng Dương lập tức thối lui ra sau, vòng tay thi lễ nói :
- Thiết bang chủ, chúng ta kẻ phương Nam người đất Bắc, biến kiếm đao thành nghĩa tri giao, xin Bang chủ nên sớm đưa bang chúng trở về Hồ Quang là phải hơn!
Thiết Hưng từ lúc thành tài đến nay, chưa khi nào bị bại như thế này, bây giờ bị địch thủ đánh cho xiểng niễng đến phải té bò dưới đất phẫn uất và nhục nhã biết để đâu cho hết. Nhưng võ công của Trùng Dương cao diệu hơn y gấp trăm lần muốn gỡ lại chút ít danh dự cũng không làm sao gỡ được, bởi thế y ngẩn người ngồi bẹp dưới đất tựa như hình cây, tượng gỗ, chợt nghe có vài bang chúng kêu lên :
- Bang chủ, Từ phó bang chủ bị tử thương rồị Thù này chúng ta không thể quên được.
Thiết Hưng hơi biến sắc, Trùng Dương liền nói :
- Chư vị hơi quá lời một chút, chỉ biết hận người mà quên đi lỗi mình. Lúc nãy tệ sư đệ bị Thiết bang chủ ám toán thiếu chút nữa là tuyệt mạng, nếu như bần đạo không dùng khí công thốt huyết pháp để chạy chữa thì đã chết rồi còn đâủ
Và như vị Từ phó bang chủ kia lén dùng độc châm để ám toán bần đạo, nếu bần đạo không kịp dùng khí công để phản kích có phải đã chết vì độc thủ của y không?
Đấy là tại Từ phó bang chủ tự chuốc lấy đại họa, chứ nào phải bần dạo cố tâm gây rả Chư vị sao cứ mãi xúi giục nhau để gây sự, thật không thức thời chút nào cả!
Thiết Hưng quay lại quát lớn :
- Chúng ta đã thua rồi, chết được như thế còn đỡ nhục nhả hơn! Lui mau!
Bọn bang chúng tuy nhốn nháo bất bình nhưng sợ lịnh của Bang chủ, nên chỉ đành thu liệm thi hài của Từ Quảng, lủi thủi kéo nhau xuống núị
Trùng Dương cũng dắt sáu đệ tử trở về Yên Hà Động Khưu Xử Cơ bèn chấp tay thưa:.
- Bạch sư phụ, bọn Thiết bang chủ sau lần bại trận này thế nào cũng nuôi thù kết oán với Toàn Chân phái chúng ta đến tận xương tủy, nếu sau này trên đường giang hồ vạn nhất gặp phải bọn chúng, ta nên đối xử thế nào cho phảỉ
Trùng Dương nói :
- Thì chỉ còn cách cậy vào võ công và khổ luyện của mỗi đồ đệ thôị Thầy đã nghĩ một phương pháp khảo sát võ nghệ của các đệ tử khi đã thành tài sắp rời sư môn, y như cách thức mộc nhân mộc mã và La Hán Đường của chùa Thiếu Lâm, là mỗi khi đệ tử nào thấy sở đắc võ thuật đã đầy đủ, muốn hạ san, thì nhất định phải vượt qua Mộc Nhân Cảng, dẹp trừ được chướng ngại mộc nhân mộc mã mới được phép rời chùạ Sau này thày cũng phải chế ra một phương pháp mường tượng như thế để trắc nghiệm võ công của các con cho chắc chắn, rồi mới có thể cho các con xuống núi hành đạo được.
Tôn Bất Nhị liền hỏi :
- Thưa sư phụ, sư phụ sẽ dùng phương pháp nào để khảo sát võ công của chúng con?
Trùng Dương lắc đầu mỉm cười mà không trả lờị
Chàng lại hối thúc các đệ tử tiếp tục việc mài mỏng chiếc hộp đựng Cửu Âm chân kinh.
Sáu đệ tử thay phiên nhau mài mãi, thời gian đã thấm thoát hơn năm, chiếc hộp mỏng manh làm bằng sừng tê giác kia càng ngày càng láng mịn hơn và đã mỏng đi hết phân nửa Trùng Dương hết sức vui mừng vì nguyện vọng của mình sắp đến ngày thành tựụ Nhưng chiếc hộp càng được mài sâu vào thì chất sừng bên trong lại càng cứng rắn dị thường!
Sáu đệ tử của Trùng Dương liên tục mài thêm nửa năm trời, cảm thấy chất sừng rắn hơn đá không thể mài được nữạ
Cửu Âm chân kinh vẫn còn bao trùm trong vòng bí mật. Trùng Dương hết sức khổ tâm, chàng sực nghĩ lúc Hải Vân Tử làm chiếc hộp này, tất nhiên phải có phương cách cưa xẻ được sừng tê giác, nếu không, ông ta làm sao tạo thành chiếc hộp? Rất tiếc Hải Vân Từ đã chết từ hai trăm năm nay,. không thể kêu ông sống dậy mà hỏi thăm cho rạ Chàng cố nặn óc nghĩ ngợi hết mấy ngày đêm mới thấy được lờ mờ hy vọng.
Vương Trùng Dương nghĩ rằng, sừng tê giác là một loại rất quý trọng như ngọc châu, giá đáng liên thành. Những phú gia tầm thường ít khi mua nổị Chỉ trừ ở Hoàng cung vương mới có mà thôị Như vậy tất nhiên trong cung vua thế nào cũng có vật chế tạo bằng loại tê giác, thì tại sao Trùng Dương không đến Hoàng cung để dò hỏi cho ra phương thức cưa xẻ loại sừng tê giác nàỷ Nghĩ như vậy, chàng quyết định tới đế kinh một chuyến để dò hỏi cho được chuyện kiạ
Chàng dặn dò sáu đệ tử coi chừng động phủ, một mình một ngựa lên đường đến kinh đô của Triệu Tống, nào ngờ vừa ra khỏi Tung Sơn chưa tới huyện Đăng Phong, bỗng thấy trên đường đi có vô số dân chúng chạy nạn, người nào mặt mày cũng lo âu sợ sệt, dắt díu trẻ thơ, tay bồng tay bế, chạy loạn về hướng Nam. Trùng Dương kinh hãi lầm tưởng đê Huỳnh Hà bị vỡ, nước sông Huỳnh tràn vào gây nạn thủy tai, cho nên bá tánh mới dắt díu đi tị nạn như thế!
Chàng vội tiến tới đón số người chạy loạn hỏi thăm.
Nào ngờ khi hỏi thăm, chàng nghe được một tin tức kinh thiên động địa :
quân Kim từ phương Bắc tràn đến tấn công đã xâm nhập Trung Nguyên, thế mạnh như chẻ tre, chúng đã qua khỏi địa đầu sông Hoàng Hà và sắp sửa sang sông để công hãm thành Biện Lương.
Quân Kim rất hung ác, đại quân kéo đến đâu là hãm hiếp phụ nữ, tàn sát và cướp bóc đến đấy, dã man hơn cả rợ Khiến Đơn năm xưa gấp mấy mươi lần, cho nên bá tánh dọc hai bên Hoàng Hà phải bỏ nhà cửa điền sản tản cư đến miền Nam.
Trùng Dương hết sức thất vọng, lần này chàng quyết đến kinh đô Biện Lương để dò la cho ra cách thức cưa xẻ hộp Cửu Âm chân kinh thì vừa đúng đế kinh bị nạn binh đao, thật là xui xẻọ
Chàng toan quay về Tung Sơn nhưng sực nghĩ, tuy mình là đạo sĩ xuất gia, nhưng cũng là con dân của đất nước, triều đình gặp tai họa, nhân dân bá tánh trong cơn nước lửa dầu sôi, sao mình khoanh tay mà nhìn. Chàng cân nhắc một lúc rồi quyết định tiếp tục cuộc hành trình.
Càng hướng sâu về phương Bắc, càng mục kích những sự thương tâm, dân chúng chạy loạn càng ngày càng đông, chật cả đường đị Qua khỏi huyện Lan Phong thì cảnh vật thay đổi một cách đột ngột vườn vắng ruộng hoang, khói bếp lạnh tanh không có tiếng chó sủa không một dáng ngườị
Thôn trấn, chợ búa bị đốt phá sập đổ điêu tàn, thỉnh thoảng bên vệ đường rải rác một vài thây người đứt đầu, thủng ruột. Không cần đoán cũng đủ hiểu đó là thành tích của đoàn quân khát máu để lạị
Trùng Dương càng thấy càng thêm phẫn nộ nhưng một sự việc làm chàng hết sức lạ lùng là từ Tung Sơn đến Lan Phong huyện, suốt một quãng đường dài, không hề thấy bóng dáng một tên lính Tống.
Trùng Dương thầm nghĩ nếu Kim binh quả đã bao vây Biện Lương thì các cánh quân phủ huyện không ít thì nhiều cũng đem binh đến giải cứu kinh thành, thế tại sao mình đi suốt một đoạn đường trên trăm dặm đến đế đô mà chẳng thấy một tên quân binh của Tống trào, chẳng lẽ kinh đô đã bị công phá và đại quân của nhà Tống đã bị hủy diệt toàn bộ rồi saỏ
Trùng Dương nghĩ đến đây lòng hết sức kinh khiếp sợ thầm. Đi thêm hai chục dặm mới thấy dáng quân sĩ, nhưng không phải là quân binh của nhà Tống mà là đoàn quân kị mã của bọn Kim, từ toán hoặc tám hoặc mười người, giục ngựa xuôi ngược trên đường cái quan không ngớt.
Trùng Dương khó nhọc lắm mới tìm được một căn nhà tơi tả trong khói lửa của một nông phu, để tạm trú ẩn. Trong nhà có một lão già bị gãy chân đã hai hôm rồi không tìm dược một chút cơm cháo gì đỡ lòng, đói nằm thoi thóp trên giường, Trùng Dương lập tức đem lương khô trong người ra cho ông lão già lót dạ.
Trùng Dương sau khi đút cho ông lão vài miếng cơm khô rồi đổ cho ông lão ít ngụm nước lã. Ông lão dần dần tỉnh dậỵ Trùng Dương mới hỏi han sự việc đã trải quạ
Thì ra trước đây mười ngày, Kim quân phá được thành Biện Lương, xua quân càn quét khắp hoàng thành còn bắt cả Huy Tông Thái Thượng Hoàng và đương kim Hoàng đế là Khiêm Tông cùng tất cả văn, võ triều thần, cung tần mỹ nữ trong cung trên ngàn người dùng xe trâu áp giải về phương Bắc. Biện Lương trở thành vô chủ, trật tự vì thế mà rối loạn khắp trong thành ngoài nộị
Thành Biện Lương rất kiên cố, hào rộng lũy cao, lương thực rất sung mãn, dù cho triều Tống có suy nhược cách nào, binh sĩ có ô tạp cách nào đi nữa, cũng có thể kiên thủ được một thời gian nhưng tại sao trước sau không đầy mấy ngày để cho quân Kim hạ được, đến nỗi vua chúa quan quân đều bị giặc bắt đỉ
Nguyên vì Kim chúa đã cấu kết với Tống triều Thừa tướng là Trương Bang Xương làm nội gián.
Chờ quân Kim đến tấn công Hoàng Thành, Trương Bang Xương sẽ theo kế trong ứng ngoài hiệp, mở cửa thành cho binh Kim tràn vào, đập phá lăng miếu cung, bắt mất Tống triều hai chúạ Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn từ lúc khai lập nhà Tống truyền lại con cháu không đầy một trăm năm chục năm thì bị cảnh quốc phá gia vong.
Tịnh Khang là niên hiệu cuối cùng của triều đại nhà Tống vậỵ


Hồi 22

Thảm Biến Đời Tịnh Khang


Trùng Dương sau khi rõ được biến cố của triều ca, thầm nghĩ tuy mình là một kẻ xuất gia không màng đến chuyện trần thế nhưng đã đến nơi đây thì cũng nên vào đế kinh cho rõ sự thiệt hơn? Chàng liền từ giã lão nông phu và để lại cho lão chút ít tiền bạc, lương khô rồi tiếp tục cuộc hành trình đến Hoàng cung. Trùng Dương đi không đầy nửa ngày là tới thành Biện Lương.
Đế kinh sau ngày bị quân Kim đánh phá, tiêu điều buồn bã, mây sầu phủ lấp núi rừng, rợ Hồ cưỡi ngực dọc ngang khắp nơị Nguyên soái của Kim quốc là Nghiêm Một Khát chiếm lấy Hoàng cung của nhà Tống thiết lập hổ trướng tại Tía Thần điện. Nơi ấy nguyên trước kia khi Tống Thái Tổ diệt Nam Đường, bắt được hậu chúa là Lý Lập mới cho xây lên tòa Đại Thừa điện ấy, để kỷ niệm một kỳ công vĩ đại của mình là bình định được cõi Giang Nam.
Bây giờ lại trở nên soái phủ của rợ Kim, thật là trò đời là cuộc bể dâu, thay đổi không ngừng. Trùng Dương càng nghĩ càng buồn cho thế sự. Bao nhiêu vương hầu phủ đệ đều thay đổi tên, văn quan võ tướng nào còn quyến luyến trào củ nếu không bị bắt thì cũng đào vong nơi khác, chỉ còn lại tên gian thần Trương Bang Xương cùng một số thuộc hạ chó săn chim mồi, mặt dạn mày dày cúi đầu thần phục ngoại bang cướp nước, ngày đêm đem hết mưu đồ vơ vét ngọc địa, cưỡng đoạt gái tơ cống hiến cho tướng lĩnh của giặc để đăng công.
Trùng Dương vốn là nho sĩ xuất thân, khí hăng máu nóng của nam nhi tính, vẫn còn thấy tình trạng đốn mạt như thế dựng mày, dựng râu, căm hận kẻ buôn dân bán nước, nên quyết định đêm ấy sẽ thám do Hoàng cung một phen xét tình hình trong cung nội ra sao...
Bọn Kim tuy phòng thủ Hoàng cung rất nghiêm mật, nhưng Trùng Dương là người bản lãnh siêu việt, đâu xem trò canh phòng ấy ra gì? Chàng vào tận cung đình, chẳng chút hao phí sức.
Cảnh vật trong Hoàng cung hoa lệ vẫn không có gì thay đổi nhưng sự tấp nập của cung phi đã khác xa xưa! Vua chúa, phi tần đã bị giặc bắt đưa đi đã đành, cho đến những thái giám trẻ tuổi hay những cung nữ có chút ít sắc lịch cũng bị binh tướng của quân Kim tranh nhau đem đi, chỉ còn lại vài tên nội thị, mấy nàng cung nữ xấu xí già nua đang run lẩy bẩy hầu hạ người chủ mới ngoại bang.
Trùng Dương thám thính nội khố của Hoàng cung nơi mà các triều vua chúa dùng để cất trừ châu báu quí giá, nhìn vào nội khố thấy đèn đuốc vắng im, trống rỗng sạch trơn hoang lạnh như hang quỷ, bao nhiêu châu báu ngọc vàng đều bị quân Kim cướp đoạt sạch bách không chừa một món! Nước còn không giữ được, thì vàng bạc ngọc châu báu mong gì còn? Trùng Dương càng nghĩ càng cảm thấy lòng buồn bã vô cùng.
Trong lúc chàng đang bùi ngùi nhìn cảnh tang thương của Hoàng cung đổi chủ, bông nghe từ sau khố phòng có tiếng một phụ nữ lớn tiếng van xin :
- Trăm lạy các gia gia tha cho tôi đã lớn tuổi rồi, đừng nên làm như thế!
Tiếp theo đó là một chuỗi cười thô bạo dâm dật vang lên, Trùng Dương giật mình vội phi thân đến chỗ phát ra tiếng động liền nhìn thấy một trò bỉ ổi đang diễn ra trước mắt.
Hai tên Kim binh gác cung điện đang hợp sức nhau vật một cung nữ nằm xuống giữa bụi hoa um tùm, và dùng cường lực để lột y phục dưới bán thân của nàng rạ
Nàng cung nữ nọ tóc đã điểm trắng, xem lại thì là một cung nữ già nua đang cố hết sức dãy dụa chống cự, nhưng hai tên Kim binh đang bị lửa dục thiêu đốt còn biết đẹp xấu là gì, nhất quyết giở cho được trò vô lễ để thỏa mãn thú tánh. Trùng Dương thình lình máu giận xông lên đầu, bèn nhẹ nhàng nhảy xuống, hai tay nắm chặt “Đại Chùy huyệt” (nơi sau gáy) của mỗi tên, vận sức dộng đầu chúng vào nhau “bốp” một tiếng. hai tên Kim binh rống lên thảm thiết rồi ngã vật xuống đất chết tốt.
Trùng Dương cúi xuống nhấc bổng hai cái xác to lớn của hai tên Kim binh trông nhẹ nhàng như xách một con mèo, rồi chậm rãi bước đến bờ suối nhỏ quẳng mạnh hai cái thây ma xuống lòng suối mất tích.
Nàng cung nữ thấy rõ mọi sự, mới yên tâm đôi phần, vội quì ngay dưới chân Trùng Dương lạy như tế sao, miệng thì vái lia :
- Nam mô Lữ tổ tiên ông, tiểu nữ từ mười sáu tuổi đã khởi sự trường trai, bài thần vị của Ngài, ngày đêm cúng váị Không ngờ hôm nay Ngài hiển hiện Kim thân để cứu tiểu nữ! Nam mô Lữ đại...
Trùng Dương thấy cung nữ lầm tưởng mình là tiên ông Lữ Động Tân hạ trần, chàng vừa bực vừa tức cười, chuyện ấy, đối với chàng cũng không có gì đáng lạ vì Dụ Tông Hoàng đế xem Lão giáo như quốc giáo, cung nữ nầy bị giam kín giữa thâm cung, tiêu phí cả một đời xuân sắc, nên thờ phụng Lữ Động Tân để cầu vơi số phận hẩm hiụ
Hơn nữa, trong lúc biến loạn như vậy, còn ai dám lò dò đến cung vàng hoang lạnh để làm gì! Bởi thế cung nữ vừa thấy chàng mới lầm tưởng ngay là vị tiên ông mình kính bái bấy lâu nay!
Trùng Dương vội giơ tay ngăn nàng lại và nói :
- Thôi! Đừng vái lạy làm gì! Nàng tên họ chỉ Vào cung được bao lâủ Có phải lúc trước nàng phục dịch tại tòa nội khố này chăng?
Cung nữ rơi lụy thưa :
- Dám bẩm Lữ tổ đại tiên, tín nữ họ Triệu, tiện danh là Xảo Nga, mười sáu tuổi đã bị tấn cung đến năm nay vừa đúng ba mươi sáu năm trời! Lúc trước ở Chiêu Dương cung. Lúc trước có lần Kim binh vây thành, Trương Bang Xương tâu xin với Hoàng thượng là Kim binh đòi phải cống dâng cho chúng ba ngàn gái đẹp, chúng mới chịu lui binh. Hoàng thượng vì thấy con gái trong dân gian không đủ nên mới lựa thêm mấy trăm cung nữ ở hậu cung để bù vào cho đủ số, tòa nội khố này lúc trước có bốn cung nữ phức dịch, nhưng cũng bị lựa đem dâng cho Kim binh, nên mới phái tiều nữ vào đây, nào ngờ...
Trùng Dương hỏi tiếp :
- Thôi được rồi! Ta hỏi người một câu, trong nội khố của Hoàng cung có bảo vật nào bằng sừng tê giác không?
Cung nữ tên gọi Triệu Xảo Nga ngạc nhiên giây lâu rồi đáp :
- Bảo vật bằng tê giác? Có! Lúc trước ở tiên khố có một chiếc hộp “Thất đảo Tê ngưu giác”, nhưng đã bị quân Kim lấy đi rồỉ
Trùng Dương lại hỏi tiếp :
- Tốt lắm! Bần đạo hỏi thêm một câu nữa: Đồ vật làm bằng sừng tê ngưu cứng rắn không vật nào bì kịp, phải dùng cách gì mới mềm được?
Xảo Nga không chút nghĩ ngợi đáp ngay :
- Lúc trước tiểu nữ có nghe một lão thái giám trong nội cung nói sừng tê ngưu tuy rất cứng rắn, nhưng nếu dùng chát mặn như muối chẳng hạn, thoa lên một lượt, chỉ độ nửa ngày sau sẽ mềm như đất, có thể cắt xé tùy treo ý muốn.
Trùng Dương không ngờ từ một năm mình đã hao tâm mệt trí để mài giũa chiếc hộp, rốt cuộc cũng không thể mài thủng được nó. Hôm nay, do lời nói của nàng cung nữ này, chàng đã hiểu rõ phương pháp để phá vỡ chất tê giác. Trong lòng chàng hết sức mừng rỡ liền bảo Xảo Nga :
- Bây giờ người muốn bần đạo giúp đỡ cách nàỏ Hãy nói thật, bần đạo vui lòng tìm giúp ngườị
Ý của Trùng Dương là muốn tìm một vật gì quý giá trong tay của quân Kim để đền đáp cho nàng nhưng Xảo Nga chỉ đáp :
- Trăm lạy Lữ tổ đại tiên, tiểu nữ không muốn vật gì cả mà chỉ mong Đại tiên giúp cho tiểu nữ thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng trong Hoàng cung này để về Cố lý ở Giang Nam. Tiện nữ vốn người Tô Châu, xa cách quê nhà đã ba mươi sáu năm trời, chắc cha mẹ tiện nữ cũng không còn sống đến ngày nay nhưng tiện nữ cũng vẫn muốn trở về quê cũ dù có chết cũng thỏa mãn tấm lòng.
Nói xong nàng bụm mắt khóc tức tưởị
Trùng Dương lắc đầu thương hại, gẫm lại Hoàng đế đem mấy ngàn cung nữ giữ kín trong cung vàng để một mình thọ hưởng.
Những kẻ may mắn lắm được ơn mưa móc của Thánh hoàng chiếu cố không tới năm mươi người, kỳ dư bao nhiêu cung nữ mường tượng như chim trong lòng, tháng năm dài tiêu hao cả tương lai hương sắc với cảnh gối chiết phòng không, thật là một chuyện tàn nhẫn bất công hết sức.
Nghĩ thế, Trùng Dương không chút do dự đáp ngay :
- Được!
Đáp xong, nhanh như chớp, chàng điểm vào huyệt ngủ của y thị đoạn cắp y thị vào nách, dùng thuật khinh công thoát ra khỏi cung đình nhảy ra phía sau nội viên của Hoàng cung, trộm chút ít vàng ngọc rồi đem nàng khỏi Biện Lương thành, mới giải huyệt cho nàng tỉnh dậỵ
Trùng Dương đưa Xảo Nga đi hơn mười mấy dặm mới tìm được nơi có người ở, chàng giúp Xảo Nga thuê xe ngựa và đưa nàng về tận quê cũ ở Tô Châụ
Sau khi lo giùm chuyện Xảo Nga xong. Trùng Dương liền trên đường trở về Tung Sơn. Nhưng khi về đến Yên Hà động thì Thì không thấy sáu đệ tử đâu cả, cho đến sư đệ Châu Bá Thông cũng mất tăm nốt.
Trùng Dương trong lòng hết sức kinh hãi, chàng đoán là ngoại địch đã xâm nhập vào đây giựt mất Cửu Âm chân kinh, Châu Bá Thông cùng các đồ đệ đang theo truy tầm, bởi thế mà trong động mới trống trơn không một bóng ngườị
Nhưng Trùng Dương lại sực nghĩ chuyện không thể như vậy được, vì gần đây Châu Bá Thông đã lãnh hội được nội ngoại công phu của Toàn Chân phái đến mức thần diệụ
Ngoài ra võ học của sáu đệ tử không phải hạng tầm thường, thì làm gì có kẻ nào có đủ khả năng đoạt chiếc hộp chân kinh trong tay bảy người được? Lúc trước, tuy chàng đã gây thù chuốc oán với Âu Dương Phong và Thiết Chưởng bang chủ Thiết Hưng, nhưng hai người ấy không đủ bản lĩnh làm được như thế. Trùng Dương trong lòng hoài nghi bèn đi lần ra sau động Yên Hà.
Tai mắt Trùng Dương rất thính, có thể nghe được tiếng động ngoài xa mấy dặm cho nên chàng vừa qua khỏi một ngọn núi thì nghe văng vẳng tiếng Châu Bá Thông từ xa vọng lạị
- Hay lắm! Hay lắm! Chiếc hộp sắt sắp bể rồị
Trùng Dương nương theo hướng có tiếng kêu chạy bay tới, quả nhiên không ngoài ý liệu, chạy hơn năm dặm đường chàng thấy Châu Bá Thông cùng Mã, Khưu, Tôn, Đàm. Vương, Liễu sáu đệ tử đang đứng trên một triền núi, bày thành trận đồ Thiên Cương Bắc Đẩu trận, mỗi người trong tay cầm một thanh bảo kiếm gi ơ lên khỏi đầu, có vật sáng long lanh dưới ánh mặt trời bay đi bay lại trong trận, mường tượng như một chuỗi lưu tinh xẹt lên đáp xuống giữa bảy ngườị
Thì ra chiếc hộp đựng Cửu Âm chân kinh bị bọn họ tung lên đá xuống như đá cầu, lúc ấy chiếc hộp vừa rớt xuống ngay đầu Châu Bá Thông, y liền chém mạnh lưỡi kiếm vào chiết hộp đánh “Coong” một tiếng, chiếc hộp bị chém quá mạnh bay vút lên cao ba trượng, rơi xuống ngay đầu Mã Ngọc, Mã Ngọc cũng y theo cách ấy, dùng kiếm chém mạnh ngược trở lên “Kinh, coong” hai tiếng chiếc hộp lại văng bật lên cao phi nhanh xuống đầu Khưu Xử Cơ, và thế chiếc hộp bị bảy mũi kiếm của Thiên Cương Bắc Đẩu trận chém văng lên xẹt xuống kêu lên “Coong, coong” liên hồi, sao lửa tung tốc bốn phíạ
Đừng ngỡ đấy là một trò chơi nhẹ nhàng, kỳ thực chiếc hộp không trên cao rơi xuống có trọng lực đã mạnh, thêm vào sức của Châu Bá Thông và sáu đệ tử, dồn cả kình lực vào mũi kiếm chém ngược trở lên, sức mạnh của cái chém ấy gia tăng lên gấp bội thì dù cho vật được rèn đúc chắc chắn đến đâu, cũng bị những cái chém văng lên văng xuống ấy mà rời rã thành trăm mảnh.
Nhưng chiếc hộp này nhờ dùng vật chí bảo Chiếu Dạ Bích Thủy Tê Giác làm thành, tánh chất khác hẳn loại ngũ kim, càng bị chất sắt thép va chạm, càng trở lên cứng rắn dị thường cho nên trò chơi của Châu Bá không tuy rất hay, xem ra rất đẹp mắt, nhưng không có một công hiệu cỏn con nàọ
Trùng Dương đứng lặng nhìn giây lát, trong lòng hết sức buồn cười, nhưng chàng sực khám phá được một nguyên lý mới, chàng mường tượng đến Thiên Cương Bắc Đẩu trận pháp nếu theo phương pháp cũ để luyện tập, biến hóa tuy kỳ diệu khôn lường, nhưng uy lực không được to lắm.
Nếu theo cách đánh của bảy người vừa rồi thì uy lực sẽ gia tăng gấp mấy lần, thậm chí có thể nói là sau khi luyện xong sẽ vô địch trong võ lâm thiên hạ!
Lúc đầu Trùng Dương định lên tiếng gọi bọn họ nhưng khi nghĩ ra được vấn đề trọng đại kia, chàng đứng ngẩn người ra quên cả chuyện Châu Bá Thông thâu hồi chiếc hộp trở về.
Trong khi mà chàng đang nghĩ ngợi thì từ dưới sườn núi bỗng xuất hiện hai bóng ngườị Hai bóng người nọ thấp lùn, lạ thường toàn thân từ trên đầu tới dưới chân bao kín trong một bộ trang phục bằng loại da kỳ lạ sáng cuộng, đen nhánh như chất dầu, chỉ để lộ ra hai cặp mắt sáng long lanh.
Hai quái nhân ấy rón rén đến sát sau lưng bọn người Châu Bá Thông, đột nhiên rú lên một tiếng quái dị rồi song song nhảy bổ đến trước mặt Bá Thông, xòe rộng hai bàn tay vỗ lên đầu Châu Bá Thông. Còn người kia thì thân hình bay như một chiếc tên lìa ná phi nhanh lên cao ôm chiếc hộp vào lòng, rồi vừa lăn vừa bò nhanh xuống núi tẩu thoát. Biến cuộc xảy ra quá đột ngột khiến Châu Bá Thông không kịp đề phòng thiếu chút nữa bị quái nhân áo da bóp trúng yết hầu, rất may là tai mắt chàng rất sáng tỏ, hai nữa là nội công tinh thâm, bắp thịt trong châu thân tự nhiên có thể nhô ra thụt vào theo sự cảnh giác của tâm ý, cho nên bàn tay quái nhân vừa giơ ra chưa kịp chộp vào yết hầu, thì Châu Bá Thông đã tức thì lật bàn tay quét ra một chưởng phản công đối phương trong nháy mắt, “bộp” một tiếng, kình lực của chàng sức mạnh có trên ngàn cân và lợi hại vô song. Quái nhân áo da bị chưởng ấy đánh trúng ít nhất phải lòi gân gãy xương chớ chẳng không.
Nào ngờ, lớp áo da kỳ lạ ấy đã cứu được hắn, vì lúc tay Châu Bá Thông đánh trúng người hắn, chợt cảm thấy thân hình đối phương trơn nhớt như thoa mỡ, kình lực bị trượt ra ngoài hết phân nửạ Quái nhân áo da liền thừa cơ hội ấy nhào trái ra sau phi xa hơn hai trượng định lòn mình qua giữa khe hở hai người Mã Ngọc và Xử Cơ thoát ra khỏi trận, để theo chân tên đồng đảng đoạt hộp Chân kinh ban nãy mà đào tẩu luôn.
Nhưng Mã, Khưu hai người đâu phải tay kém, quái nhân vừa chạy đến cương vị của hai người thì Mã Ngọc đã múa nhanh trường kiếm đâm thốc vào mặt y theo thế “Thần Long Đẩu Giáp” (rồng thiêu giương vảy). Quái nhân liền lách đầu sang tả để tránh, đồng thời tạt bàn tay nhanh như tia chớp ngoéo vào cổ tay của Mã Ngọc, thủ pháp vừa thần tốc vừa kỳ lạ vô cùng.
Mã Ngọc vội thâu hồi trường kiếm trở về, thì Khưu Xử Cơ không một giây chậm trể, vung lẹ một chưởng tấn công vào sau lưng của hắn. Quái nhân không thèm nhảy tránh để mặc cho thủ chưởng của đối phương đấm mạnh vào lưng đến “Bùng” một tiếng. Khưu Xử Cơ bỗng cảm thấy bàn tay của mình như đánh lên một lớp mỡ lầy nhầy trơn nhớt, và chưởng kình vì thế trượt tuốt ra ngoài, đánh vào khoảng không. Quái nhân áo da liền mượn sức chưởng lực của đối phương, bật ngược thân người lộn trái một vòng, phi xa hơn trượng, vẫn theo trườn núi vừa lăn vừa bò để tẩu thoát.
Lúc ấy, quái nhân được chiếc hộp ban nãy đã chạy cách xa hơn mười trượng, sáu đệ tử của Toàn Chân phái ráo riết đuổi theo phía sau, nhưng không theo kịp.
Bỗng nhiên mọi người cảm thấy trước mắt hoa lên... một vị trung niên đạo sĩ áo vàng bất thần xuất hiện cản lấy lối đi của quái nhân.
Châu Bá Thông mừng rỡ gọi lớn :
- Sư huynh, đừng để cho hai thằng quỷ đen ấy chạy thoát, nó dám ăn cắp chiếc hộp chân kinh của chúng ta đấy!
Quái nhân nọ dường như biết rõ người ngăn cản mình chính là Trùng Dương chân nhân nên xem ra y có đôi phần khiếp sợ, nên khi Trùng Dương vừa giơ tay chặn lại, y liền kêu một tiếng thật kỳ lạ, tay chân đồng loạt múa lên, quay tròn lông lốc như một quả bóng bằng hình người, nhảy bổ đến trước mặt Trùng Dương.
Trùng Dương chân nhân suốt đời chàng đây là lần đầu tiên nhìn thấy một lối đánh kỳ lạ như thế nàỵ Chàng không cần nghĩ ngợi, liền cất song chưởng đánh thẳng vào trái banh người ấy, “Bùng!” “Bùng!” liên tiếp hai tiếng, hai chưởng đều đánh trúng phong phóc, nhưng kỳ dị thay, quả banh người ấy tựa như một trái khí cầu bơm đầy hơi, được chưởng phong đẩy bật lên lộn tròn giữa không trung, vượt qua khỏi đầu Trùng Dương rơi nhanh xuống núị
Trùng Dương vội thối lui ra sau sử dụng thuật khinh công “Di Bộ Hoán Hình” (dời bước đổi hình) vụt một cái đã phi thân lui ra sau ba trượng ngoài, chận đầu đối phương trở lạị Lúc ấy, quái nhân thứ hai cũng vừa chạy đến nơi, đứng kế bên quái nhân thứ nhất, hai người bất chợt choàng tay ôm lấy nhau, đoạn hai tay hai chân đồng thời múa nhanh, hai trái banh người hợp lại thành một, quay tròn dưới đất nhắm chân Trùng Dương lăn lông lốc tới tấn công, và như vậy hai người đã kết thành một thể vận sức càng mạnh, uy lực tất nhiên được gia tăng lên gấp đôị
Trùng Dương thưở giờ chưa hề gặp qua lối tấn công cổ quái như hôm nay, hai tên nửa người nửa ngợm này nhờ lớp áo da bảo vệ thân thể, chàng khó đánh cho chúng bị thương được nếu chàng đẩy ra một chưởng tấn công, thân hình chúng sẽ như một trái banh da được người giằn mạnh sẽ tự nhiên đẩy bật lên cao và lộn tròn vượt qua khỏi đỉnh đầu chàng như lúc nãy chứ chẳng không!
Trùng Dương đã có kinh nghiệm lần trước liền thối lui ra sau đúng ba bước, song chưởng chấp lại trước ngực phát ra một luồng cương khí tỏa thành một bức tường ngăn chận không cho “Trái banh người” kỳ dị kia đến sát gần mình.
Khi ấy Châu Bá Thông và Toàn Chân lục tử cũng vừa đuổi tớị
Châu Bá Thông liền quát lớn :
- Đồ quân chó ăn vụng bột kia, có mau đem hộp chân kinh trả lại không, rồi khấu đầu tạ lỗi với sư huynh ta, hoặc may ra sống sót mà trở về động quỷ của bọn mị
Nói chưa dứt lời “trái banh người” bỗng đổi trước thành sau lăn mạnh trở lại tông mạnh vào chân của Châu Bá Thông, sức mạnh hung hãn vô cùng. Châu Bá Thông đang lúc chẩu mỏ quát mắng, xuất kỳ bất ý không kịp đề phòng, bị quả bóng người tông mạnh vào chân, “Bộp” một tiếng thân hình chàng như một trái mít rụng, té lăn quay dưới đất, đầu cổ quần áo đều dính đầy bụi cát, sáu đệ tử của Toàn Chân phái thấy Châu Bá Thông nhào rớt dưới đất, bốn vó đưa lên trời không nhịn được đồng buông tiếng cười ha hả.
Châu Bá Thông cả giận, tung mình đứng dậy lẹ như chớp, mặt mày nhăn nhó như mặt khỉ, hai quái nhân cũng liền lật mình đứng dậy trong nháy mắt. Bọn chúng đã rời tay ra đứng phân ra hai phía tả hữu, bốn bàn tay nắm lấy hai đầu hộp chân kinh, cất tiếng nói chát chúa như tiếng quạ kêu :
- Các người đừng cậy đông hiếp chúng ta, nếu các người tiến lên một bước, hai anh em lão gia sẽ phá hủy cả kinh lẫn hộp ngay! Hà hà!... Lấy bình hoa ném chuột chạy, chuột chết bình cũng vỡ tan, xem bọn mi còn “Chân” kinh, “Giả” kinh gì mà luyện tập chăng?


Hồi 23

Song Quái Đoạt Chân Kinh


Bọn chúng tưởng dọa nạt thế, Trùng Dương cùng mọi người sẽ sợ hư chân kinh mà không dám tiến lên, nào ngờ Châu Bá Thông chỉ cười lên ngặt nghẽo không thôi!
Cười đã một hồị chàng nhăn mặt nhíu mày làm mặt quỷ lên và bảo bọn chúng :
- Tốt lắm hai chó con ơi, đừng rung cây nhát khỉ mất công! Nếu hai con có thể làm vỡ được chiếc hộp chỉ một phân hao thôi, thì anh em chúng ta không những hai tay dâng chân kinh lên trao cho hai con, mà còn mời hai con xuống dưới núi vào quán gần đây uống rượu, uống đến chừng nào no bóc ké mới thôị
Trùng Dương cũng cảm thấy buồn cười, nên đứng im một chỗ. Hai quái nhân không tin lời nên bốn tay nắm chặt bốn góc hộp kéo mạnh “rắc!” “rắc!” kêu lên mấy tiếng, chiếc sừng tê ngưu dài ba tấc.
Trùng Dương thầm kính phục cho nội lực của hai quái nhân quả khác thường và tại sao biết được chân kinh ở Tung Sơn mà đến cướp, thật là một chuyện khó mà lý đoán cho rạ
Hai quái nhân cố sức một hồi, biết mình không đủ khả năng để phá hủy chiếc hộp, bèn đút tọt chiếc hộp vào trong túi, quái nhân đứng phía tả cười lên khen khét và nói :
- Bọn ngươi đừng vội đắc ý, bộ Cửu Âm chân kinh này là một vật vô chủ, bọn ngươi có thể từ Hoa Sơn lấy về đây, thì chẳng lẽ chúng ta không có thể đoạt lại từ trong tay của bọn ngươi hay saỏ Nếu bọn ngươi có đủ bản lĩnh đoạt trở lại được thì chúng ta sẽ phục sát đất mà không dám đến quấy rầy nữa!
Trong sáu đệ tử của Toàn Chân phái, chỉ Khưu Xử Cơ là người tính nóng như lửa nên vừa nghe xong đã giận dữ quát lên :
- Nếu bọn mi không trả lại chiếc hộp cho ta thì đừng hòng còn xuống núi, xem kiếm đây!
Mũi kiếm đã theo tiếng nói bay ra “Soạt” một tiếng kiếm quang vung thành một làn sáng bạc đâm mạnh vào ngực quái nhân áo dạ
Quái nhân ấy không chút bối rối, đứng im bất động, chờ cho mũi kiếm chạm sát tới chiếc áo da, nhanh như cắt, hắn trân cứng thân mình, lồng ngực một hít một thở, Khưu Xử Cơ cảm thấy thế kiếm như rơi vào một đống bông gòn mềm nhũn, khiến mũi kiếm trượt sang một bên, quái nhân áo da thân hình như một con lươn, lòn nhẹ ra sau lưng Khưu Xử Cơ, vung trái ra một chưởng. Khưu Xử Cơ cũng nhanh nhẹn không kém mũi kiếm vừa tấn công địch thủ không trúng lập tức bước chéo sang phía tả, trong lúc thân hình vừa di dộng mũi kiếm đã quét ngang một chiêu “Tinh Hoành Đẩu Chuyển” (sao Đẩu chuyển quay) hóa giải được thế công của đối phương nhanh như điện chớp. Tuy là một chiêu hóa giải, thủ nhiều hơn công, nhưng nguy hiểm vô cùng, Trùng Dương buột miệng khen :
- Hảo chiêu! Xử Cơ nên lui ra, để sư phụ đối phó với hai tên quái nhân này, bọn nó sẽ không trốn vào đâu được!
Thì ra trong lúc quái nhân đấu với Khưu Xử Cơ, Trùng Dương đã khám phá ra bí mật của hai quái nhân này, chàng thấy rõ võ công của đối phương tuy ly kỳ, nhưng phân nửa nhờ vào uy lực của lớp áo da kia, và lớp áo trên thân hình 'của hai gã kia dường như làm bằng chất da của loại sa ngư rồi dùng chất thuốc đặc biệt tẩm luyện bên ngoài, sau đấy mới thoa thêm một chất dầu khiến cho trơn nhớt không chỗ để tay, quyền cước của bọn chúng đều có một phương lộ tựa như con thủy xà đang trườn sóng.
Trùng Dương nhớ lại trăm năm về trước ở Triết Đông gần vùng biển có lưu hành một thứ quyền pháp gọi là Thủy Láng quyền, tương truyền do một lão ngư ông hiệp khách về đó ẩn cư và sáng chế ra quyền pháp đặc sắc ấy, có thể sử dụng ở trên bờ hay lặn sâu dưới đáy nước, công hiệu và uy lực đều ngang nhaụ
Sau khi đã biết rõ tông phái của đối phương Trùng Dương đã có sẵn kế hoạch để khống chế bọn chúng. Chàng liền bước ra bảo hai quái nhân :
- Hai người nên nói rõ tên họ cho bần đạo biết vì những kẻ đến được Tung Sơn này, đa số đều là những nhân vật thành nhân, còn thứ co đầu rút cổ giấu họ giấu tên không xứng đáng là anh hùng trong thiên hạ.
Hai quái nhân dùng giọng mũi “hừ” một tiếng và nói :
- Mi muốn biết rõ tên họ của nhị lão gia đây à? Chúng ta là Đông Hải Điếu Ngao Cơ Âm gia Song quái tên Âm Trường Hà và Âm Trường Giang, nghe nói tôn giá đến Hoa Sơn được Cửu Âm chân kinh, nhưng không biết cách mở hộp rạ Như vậy có phải là phí của trời không? Cho nên anh em của lão gia bạo gan lên đây định mượn xem qua cho biết, nhưng thấy tôn giá không có ở nhà, nên mới sanh tâm đoạt chạy luôn. Bây giờ gặp được ông ở đây! Thật là may mắn! Tôn giá vui lòng cho ta mượn chân kinh trong ba năm. Và đúng ba năm sau ngày nào mời tôn giá đến Đông Hải, đảo Điếu Ngư tìm chúng ta mà lấy chân kinh về.
Nói xong phân ra hai bên tả hữu của Trùng Dương mà chạy qua, Châu Bá Thông và sáu đệ tử Toàn Chân phái chưa hề nghe danh tiếng của Đông Hải Âm thị Song quáị
Riêng Trùng Dương sớm đã cất bước phiêu bạt khắp giang hồ nhớ đến một sự kiện. Có lần chàng đi ngang qua miền Triết Giang Định Hải, nghe nhắc đến ở Đông Hải có hai anh em sanh đôi rất quái lạ và cặp quái nhân song sanh ấy họ Âm, hùng cứ một hoang đảo ở giữa biển, trên đảo có bày một Hải Loa trận (trận pháp con ốc biển) để ngăn ngừa người lạ lên hoang đảo, nếu kẻ nào tự ý xông vào trận, tất phải chết mà không đường trốn thoát. Cho đến những ngư dân phụ cận gan lì nhất, cũng xem đảo cấm ấy và những hải vực xung quanh là một vùng bất khả xâm phạm mà không héo lánh đến chài lướị
Hai quái nhân lại tàn nhẫn quá mức, nếu vạn nhất ngư dân rủi gặp phải bọn chúng, thì nhất định ghe chìm người chết, đừng mong sống sót mà trở về!
Lúc nghe được tin tức ấy, Trùng Dương rất muốn đến hoang đảo kia để xem Song quái họ Âm ấy là nhân vật thế nào mà ngang dọc hung tàn đến thế. Nhưng vì chưa có cơ hội nên chưa thực hiện được ý nguyện.
Ngờ đâu Song quái hôm nay lại dẫn xác đến đây, lại còn ra tay đoạt chân kinh toan đem đi, thật quả là hữu duyên ngàn dặm...
Song quái sau khi xưng tên họ toan lòn qua mình Trùng Dương thoát chạy đi, Trùng Dương “hừ” lên một tiếng rồi bỗng thối ra sau hai bước, giơ tay ra ngăn lại và quát :
- Chạy đi đâủ
Lúc chàng vừa thối lui một bước, chàng đã đẩy ra hai luồng nội lực chặn đứng Song quái lại không cho tiến tớị Âm thị Song quái chợt cảm thấy thân hình của mình chạm phải một tiềm lực vô hình, bị hất ngược ra phía saụ
Võ công của Song quái là độc môn võ thuật của tự hai người sáng chế ra thành một bộ môn võ thuật đặc biệt, như lúc nãy cuốn tròn thân hình thành một trái cầu người để tông vào địch thủ, tên gọi là Thủy Mẫu công, tựa như một con sứa biển đang lội giữa biển khơị
Khi hai người quyện nhau thành một khối tròn như quả bóng để xông đến người Trùng Dương. Môn công phu ấy gọi là Hải Vương Tinh. Hải Vương Tinh cũng là một sinh vật dưới đáy biển, thường hay ẩn kín nơi kẹt đá dưới đại dương để đột kích các thủy tộc khác.
Hải Vương Tinh chính là một loài sứa độc, thân hình dẹp bằng phẳng, có năm chiếc sừng dài như tay người, gặp phải con mồi thì năm chiếc sừng ấy giương ra bao chặt lấy thân hình con mồi siết mạnh cho chết, sau đấy mới đút con mồi vào miệng mà nuốt.
Song quái họ Âm y theo phương thức ấy mà sáng chế pho võ thuật kỳ lạ kia, hai thân hình của chúng tuy nhập làm một lăn tròn lông lốc dưới đất nhưng vẫn có thể tùy lúc chộp cứng hay đột kích địch thủ một cách bất ngờ và rất lợi hạị Châu Bá Thông lúc nãy quá ơ hờ thiếu chút nữa là nguy hiểm đến tính mạng nhưng nhờ Trùng Dương kịp thời khám phá ra những đặc điểm trong võ công của chúng, nên đã dùng Thái Ất huyền công kềm chế chúng lại không cho tiến lên.
Âm thị Song quái vừa chạm vào tiềm lực của Thái Ất huyền công, thân hình bị dội ngược trở lại, chúng cả sợ vội lăn tròn một vòng rồi đứng ngay dậy và lớn tiếng quát tháo :
- Hừ! Nhà ngươi không dám cho chúng ta xông đến gần saỏ Được rồi, hãy lại đây ta cho bọn mi nếm mùi lợi hại!
- Hà hà! Sư huynh đệ nhà ngươi luôn cả đồ đệ tất cả là tám mạng, mà chúng ta chỉ có hai anh em, lấy tài năng của tám người để chống lại hai anh em ta, như vậy còn gì uy phong Toàn Chân phái các ngươi nữa chứ? Hà hà...!
Trùng Dương xuỵt khẽ một tiếng và nói :
- Hai ngươi khỏi cần dùng kế khích tướng mất công. Tuy chúng ta có tám người nhưng khắc phục hai anh em bọn mi chỉ một mình ta là đủ rồỉ Bất luận mi dùng quỷ kế gì hay đánh võ thuật nào, cam đoan là bọn ngươi không thể thoát khỏi bàn tay của tạ
Lời nói ấy gián tiếp nói rõ một mình Trùng Dương chấp cả hai ngườị Song quái nghe xong cả giận quát lớn :
- Tốt lắm! Chúng ta bắt đầu đi thôi!
Nói đoạn hai người phân ra hai phía tả hữu tiến tới tấn công Trùng Dương.
Trùng Dương nhìn thấy lúc nãy hai người dùng tay kéo chiếc hộp giãn ra, biết rõ nội lực của đối phương không phải tầm thường, hơn nữa bọn chúng lại mặc y phục bằng loại da trơn tuột càng khó xâm phạm vào cơ thể chúng, và như vậy muốn thắng được Song quái này không thể dùng quyền cước công phu tầm thường được. Trùng Dương sực nghĩ ra một kế hay, chàng liền đứng yên một chỗ chờ cho Song quái nhào đến bên chân, mới giở hổng đôi tay áo lên cao, vận đẩy Thái Ất huyền công vào tay áo, đoạn sử dụng thức “Thôi Song Vọng Nguyệt” (đẩy cửa sổ nhìn trăng) nhắm vào người Song quái phất mạnh.
Trên người của Song quái nhờ lớp áo da cá đặc biệt che chở, nên không sợ bất kỳ một môn công phu nào đả kích. Nhưng lúc nãy chúng đã bị Thái Ất huyền công của Trùng Dương đập cho mấy cái, tuy người chúng không bị thương tích gì nhưng toàn thân cảm thấy nóng buốt như lửa đốt.
Nên chúng vừa thấy Trùng Dương phất hai tay áo, liền biết ngay đối phương dùng Thái Ất huyền công tấn công đến. Chúng lập tức vận khí khinh thân hạ người song song phi cao lên, định nhào lộn mèo qua khỏi đầu Trùng Dương rồi đào tẩu xuống núi Tung Sơn.
Nào ngờ Trùng Dương chỉ đợi có thế, thân hình của Song quái vừa cất bổng lên khỏi mặt đất, chàng liền dùng khẩu huyết chữ “Án” trong Thái Ất quyền, đầu tiên chàng giở cánh tay trái lên cao rồi đè mạnh trở xuống, thân mình Song quái mất đi sự tự chủ, theo sự sai khiến của tiềm lực từ trong chiếc tay áo Trùng Dương phát ra, nhào lộn mèo giữa không trung rồi hai chiếc đầu đụng mạnh vào nhau đánh “Bùng” một tiếng. Sức va chạm của cái tông ấy quả thật nặng nề khiến Âm Trường Giang, Âm Trường Hà đụng nhau đến mắt nổ đom đóm, đầu tủa hoa sao, cơ hồ muốn ngất đị
Thì ra Trùng Dương dùng nội lực sử dụng hai khẩu quyết “Khiên” và “Án” trong Thái Ất quyền mượn sức kẻ địch để khống chế địch, ban đầu chàng dùng quyết chữ “Khiên” dẫn dắt thân hình đối phương rời xa nhau, đoạn mới dùng theo quyết chữ “Án” một kéo một giữ, khiến anh em Song quái không còn tự chủ được mà nhào lộn mèo giữa không trung, một người trên cao trút đầu xuống, một người từ dưới đưa đầu lên, sau đấy chàng mới phất mạnh hai tay áo chập thành một, hai chiếc đầu của Song quái như hai trái dừa đánh “bốp” vào nhau tựa như búa thiên lôi đánh phải, đồng một lượt té rơi xuống đất.
Song quái cảm thấy trời đất như xoay tròn, không thể đứng dậy được, vừa té xuống, chúng đã mất cả hồn vía, lật đật chờ dậy bò lổm ngổm như hai con rùa đen trên bãi cát.
Châu Bá Thông và sáu đệ tử Toàn Chân phái thấy thế vỗ tay cười lên ha hả.
Trùng Dương cũng không nhịn được, cười ngất lên và nói :
- Môn công phu ấy quả ngộ nghĩnh, thật giống như rùa biển bò lên bãi cát! Làm thêm một lần nữa xem? Thú vị lắm đấy!
Song quát lẳng lặng không thốt một lời, hai tay hai chân nhất tề múa lên thành hai trái cầu người sử dụng ngay Thủy Mẫu công lăn lông lốc đến tấn công Trùng Dương.
Lần này Trùng Dương lại dùng kình lực Nhất Dương chỉ xoay nhẹ song chưởng giơ thẳng lên cao, thân hình Song quái liền mất ngay tự chủ bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất, hai người tựa như đằng vân giá vũ bị đẩy tuốt lên sáu bảy trượng cao, sau đấy thân hình hai người như lưu tinh, nham thạch trút đầu rơi băng băng trở xuống, hai chiếc sọ dừa của Song quái tựa như hai trái chùy nện mạnh xuống lòng đất “Bộp!” “Bộp!” vang lên hai tiếng.
Châu Bá Thông vỗ tay cười và nói :
- Tuyệt quá! Môn công phu này nên gọi là “Con rùa mắc câu!”
Sáu đệ tử của Toàn Chân phái thấy Song quái bị té lần này cử chỉ buồn cười tựa như con rùa đen bị lưỡi câu giựt lên khỏi mặt nước, nên đồng cười rộ lên!
Song quái bị té trước sau hai lần, tuy không đến nỗi gì, nhưng vì lúc nãy hai chiếc đầu tông vào nhau đã làm chúng nhức rêm cả đầu óc, lần thứ hai lại càng nặng nề hơn nữa, từ trên cao té xuống đất, tuy nhờ có chiếc áo da cá bảo vệ thân thể nhưng khắp người cũng đau đớn như dằn, nếu cứ y thế này té thêm vài lần nữa, dù không ngất đi, ít nhất cũng gãy xương lòi gân mà nằm bẹp luôn.
Chúng biết không thể nào địch nổi bản lĩnh của Trùng Dương nên đành quỳ ngay dưới đất và nói :
- Võ học của quý phái thật đúng danh bất hư truyền, anh em chúng tôi hôm nay mới sáng mắt mà biết rằng kẻ giỏi vẫn còn có kẻ giỏi hơn.
Châu Bá Thông đứng bên liền quát lớn:.
- Chúng bây đã phục rồi chưả Mau móc hộp chân kinh trong người ra rồi đem phép rùa đen lúc nãy bò đúng trăm bước sư huynh ta mới bằng lòng tha chết cho bọn mị
Nhứt quái Âm Trường Giang lộ vẻ bất đắc dĩ thò tay vào áo lôi chiếc hộp sừng tê ngưu ra cầm gọn trong taỵ Châu Bá Thông hớn hở hét lên :
- Đưa đây cho tạ
Chàng vừa định thò tay tiếp lấy chiếc hộp, Âm Trường Giang bất thần dùng sức ném mạnh chiếc hộp lên cao mút trên mười trượng, chiếc hộp bị ném quay tròn giữa không trung và sắp rơi nhanh xuống triền núị
Châu Bá Thông và sáu đệ tử Toàn Chân phái không ngờ sự việc xảy ra như vậy, mọi người cả giận, đồng hét lên như sấm, nhưng Trùng Dương như đã đoán được trước ý định của đối phương sẽ làm như thế nên chàng không chút chậm trể, chiếc hộp vừa bị ném đi, chàng liền sử dụng thế “Độc Hạc Xung Tiêu” nhảy vút lên cao, phi xa hơn ba trượng, vừa đúng phương hướng của chiếc hộp rớt xuống, bình tĩnh giơ tay ra bắt gọn chiếc hộp, sau đấy quẫy mình một cái, thân hình tựa một chiếc nhạn đập cánh lượn tròn giữa không trung đáp nhẹ nhàng xuống đất.
Châu Bá Thông tức giận cành hông, không thèm phân phải trái, hùng hổ sử chưởng lên thoi mạnh vào ngực kẻ địch. Âm Trường Giang cười lên một tiếng quái dị, thân hình liền nhào ngay xuống đất lăn tròn, nhanh như cơn gió lăn lông lốc đến dưới chân Châu Bá Thông rồi quơ tay níu cứng hại tay của chàng.
Châu Bá Thông nhanh như cắt trầm cổ tay xuống đánh trúng giữa đỉnh đầu của Âm Trường Giang nghe “bộp” một tiếng, nếu phải là người thường trúng phải chưởng ấy là bể đầu phọt óc chết không kịp thở! Nhưng Âm Trường Giang nhờ có chiếc áo da cá che chở bên ngoài nên chỉ ngất đi một chút rồi thôi, y nhoi người lên ôm lấy nửa thân dưới của Châu Bá Thông vận sức vật mạnh, hai người đồng té lăn cù dưới đất, ôm xà nẹo nhau thành một khối, và cứ thế hai người lăn qua lộn lại dưới đất, tay đấm chân đạp, đấu nhau một trận chí tử.
Âm Trường Hà định thừa cơ hội không ai để ý rút lên trốn xuống núi, Mã Khưu hai người liền sấn bước ra trước cản lại, đoạn hét lớn :
- Cẩu tặc, chạy đi đâủ
Song kiếm của hai người đã phân tả hữu hai bên đâm thốc tới, Âm Trường Hà cậy vào chiếc áo da đặc biệt không sợ đao kiếm đâm thủng được, nên không thèm tránh né, giơ hai tay sử dụng thế “Hải Mãng Triền Yên” (rắn biết vấn ngang lưng) trong pho Thủy Lăng quyền, chộp lấy hai lưỡi kiếm đồng thời phi nhanh hai chân đá vào hạ bộ của ngườị
Nào ngờ bản lãnh của Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ cũng không kém lanh lẹ, hai tay của Âm Trường Hà chưa chạm đến lưỡi kiếm thì Mã, Khưu hai người đã thâu nhanh kiếm trở về, thân hình thối lui ra sau ba bước. Hai tay chận của Âm Trường Hà rơi vào khoảng không. Y chưa kịp đứng vững thì mũi kiếm của Vương Xử Nhất và Đàm Xử Đoan đã đâm chéo vào hạ bộ của ỵ
Âm Trường Hà lẹ như cheo tứ chi chập thành một người y đã cuộn tròn thành một trái banh người lăn tròn dưới đất vừa vặn hai mũi kiếm của Vương, Đàm hai người chém trúng vào thân hình y, nhưng nhờ lớp da cá cản lại, đâm không thủng được. Hai người công lực còn non kém, không biết lập tức triệt kiếm trở về nên bị Âm Trường Hà ngoéo tay ra chụp lẹ được mũi kiếm dùng sức giựt mạnh một cáị Vương, Đàm hai người thờ ơ không kịp đề phòng, hai chân không nương được, chới với té nhào vào lòng của Âm Trường Hà.
Trùng Dương vừa chụp được chiếc hộp thân hình còn lơ lửng ở giữa không, đã thấy Châu Bá Thông và sáu đệ tử của mình cùng anh em Song quái đang quần nhau túi bụi thành một khối, khó rút đôi ra được.
Chàng lập tức vận dụng hết kình lực của Nhất Dương chỉ giơ hai ngón tay bên bàn tay trái ra hướng xuống mặt đất vạch một vòng tròn, liền khi đó từ mặt đất bỗng nhiên cuồn cuộn nổi lên một trận cuồng phong. Sức mạnh của trận cuồng phong ấy thật vô cùng kinh khủng, thân hình Âm Trường Giang và Châu Bá Thông đang dính xà nẹo nhau bị sức hút của cơn gió mãnh liệt ấy nhấc bổng lên khỏi mặt đất.
Âm Trường Giang hoảng hốt vội buông Châu Bá Thông rạ Hai anh em Song quái bị kình lực Nhất Dương chỉ của Trùng Dương điều khiển đi băng băng đi từ miền núi cao rơi lông lốc xuống chân núi Tung Sơn.
Châu Bá Thông bị Âm Trường Giang ôm trong lòng từ nãy giờ thiếu điều muốn đứt cả hơi thở, may nhờ sư huynh Trùng Dương dùng Nhất Dương chỉ mới giải cứu được cơn nguy khốn, trong lòng hết sức phẫn nộ, liền nhảy dựng lên định đuổi đập chúng cho đã nư, Trùng Dương vội lớn tiếng gọi lại :
- Sư đệ, giặc cùng chớ đuổi, như vậy cũng đủ cho chúng tởn rồi, để mặc chúng chạy đi thôỉ
Châu Bá Thông tuy từ nhỏ đã quen tật cứng đầu cứng cổ, tánh rắn mắc không chừa, nhưng bình nhật rất sợ sư huynh của mình, nên vừa nghe Trùng Dương khuyên ngăn liền dừng chân đứng lạị
Anh em Song quái thân hình như hai trái dừa khô rụng xuống, lăn tròn xuống triền núi trên mấy mươi vòng cho đến lúc người của chúng chạm nhằm một phiến đá tròn như cái mồm nhô ra ở triền núi ngăn thân hình chúng lại mới lóp ngóp bò dậy được.
May nhờ lớp da cá bảo vệ lấy thân thể, chúng mới khỏi bị thương tích.
Song quái hít mạnh một hơi dài rồi mới từ từ đứng thẳng người lên được. Âm Trường Giang bỗng ngẩng dầu lên gọi lớn :
- Những tặc đạo man rợ của Toàn Chân phái kiạ Gia gia hôm nay chịu thua bọn mi một keo! Nhưng bọn mi ỷ đông người mà thắng chúng ta cũng chẳng danh dự gì. Nếu bọn mi có gan thì ngày đoan nhật sang năm hãy đến Đông Hải Lục Hoành đảo cùng chúng ta thử tài một phen! Nếu bọn mi nhát gan chẳng dám đến, thì anh em chúng ta sẽ rêu rao với khắp võ lâm giang hồ là: Nhân vật Toàn Chân phái là bọn chuột nhắt chỉ “Có tài ỷ chúng hiếp cô” thôi!
Trùng Dương chưa kịp trả lời, Châu Bá Thông đã nổi nóng không nhịn được liền hớt lời :
- Có cái gì mà không dám? Nếu bọn bây muốn danh dự. thì sang năm đúng mùng năm tháng năm tiết đoan nhật, ta sẽ cùng mấy sư điệt tới Lục Hoành đảo cho chúng mi nếm mùi “Vinh dự” cho biết.
Những lời khinh xuất không chút đắn đo lợi hại của Châu Bá Thông, Vương Trùng Dương dù muốn ngăn lại cũng không kịp được.
Âm Trường Giang khoái trá cười lên điên dại nói :
- Tốt lắm! Quân tử một lời như giấy chấm mực đen? Sang năm “Đoan ngọ” anh em lão gia chờ tại Lục Hoành đảọ
Nói đoạn, hai anh em Song quái tựa như hai làn khói đen phi nhanh xuống triền núi Tung Sơn, phút chốc đã mất dạng.
Trùng Dương rầy sư đệ :
- Bá Thông, em đã lớn mà tánh như con nít, những lời gian hoạt như bọn chúng, sư đệ hơn thua lời nói mà làm gì? Đã hứa rồi mà không giữ lời, sẽ làm thiên hạ chê cườị Nhưng nếu giữ trọn lời hứa, có phải chuốt lấy bao nhiêu sự phiền lòng không?
Châu Bá Thông chu mỏ đáp:
- Nó khích thế ai mà chịu nổi chứ? Hai con quỷ lùn ấy đúng là bọn bàng môn tả đạo, sớm tối gì tôi cũng quyết đấm cho bọn chúng một trận tơi bời tôi mới hả tức!
Quả nhiên ngày hôm sau, Châu Bá Thông một mình lò mò đến Đông Hải gây ra lắm sự hãi hùng. Thiếu chút nữa bị sa hầm trên Lục Hoành đảo, may nhờ có Đông Tà Hoàng Dược Sư cố giải vây cho mới sống sót trở về.
Trùng Dương thở dài lắc đầu không đáp! Chàng đã có ý định tìm sự thanh tĩnh để hưởng thú vô vị. Nhưng từ lúc tìm được Cửu Âm chân kinh. Hộp kinh chưa mở ra được mà đã gây ra bao nhiêu sự việc rắc rối rồi, nếu sau này mở được chiếc hộp, chân kinh được đem ra ngoài thì sự rối rắm lại càng nhiều hơn nữa, mà không chừng tất cả cường địch trong võ lâm sẽ ùa nhau tìm đến đây mà quấy nhiễu hết tốp này đến tốp khác thì biết đời nào mới yên ổn được.

Việt Nam Thư Quán - Thư Viện Online

826 Phiếu
Đã xem 1750318 lần.
Kiếm Hiệp

Võ Lâm Ngũ Bá


Hồi 24
Chôn Kinh Để Rõ Chí
Nhưng sự thể đã đến nước này, thế như đã cưỡi lên lưng cọp muốn leo xuống song không được, chỉ còn cách hứng chịu những biến cố sắp đến mà thôị
Chàng dắt tất cả đệ tử trở về Yên Hà động. Về đến nơi, Trùng Dương hỏi Châu Bá Thông :
- Sư đệ, em nghĩ sao mà bày ra trò chơi kỳ cục như thế? Đem hộp Chân kinh quý giá hơn ngàn vàng quăng đi ném lại giữa ban ngày ban mặt, nếu không có ngu huynh kịp thời trở về, thật Cửu Âm chân kinh có phải bị hai tên ma đầu kia đoạt mất rồi chăng?
Châu Bá Thông xấu hổ đến mặt mày đỏ lựng, sáu đệ tử đang ngồi sau lưng y đều bậm môi cố nín cườị Trùng Dương biết rõ sư đệ mình tánh quen khỉ khọt, nhưng trước mặt bọn sư điệt, cũng nên giữ gìn chút thể thống cho ỵ Chàng chỉ đành cố nén giận thở dài nói với chúng đệ tử :
- Lần này thầy đến Biện Kinh, không đến nỗi uổng công lắm. Nhân sự tình cờ thầy đã tìm được bí quyết mở chiếc hộp.
Chàng bèn đem việc sừng tê ngưu kỵ chất muối ra sao từ đoạn thuật lại cho các đệ tử nghẹ
Châu Bá Thông liền nhảy tưng lên và nói :
- Muối ăn đấy phải không? Nếu thế dễ lắm, để em xuống núi mua ngay!
Trùng Dương vội ngăn lại bảo :
- Khoan đã! Chiếc hộp nhất định là mở ra được rồị Nhưng chúng ta cũng nên tuân theo lời di ngôn của tiền nhân là phải tắm gội sạch sẽ, cung kính đốt nhang tụng đủ ngàn biên kinh Huỳnh đình, sau đấy mới được phép mở chiếc hộp ra được?
Châu Bá Thông trề môi đáp :
- Chỉ có mở chiếc hộp mà cũng phải nam mô, nam mô ta bà ba, ta bà ho, đủ chuyện. Thật là rắc rối gớm.
Trùng Dương bèn sai Đàm Xử Đoan xuống núi mua muối đem về. Toàn Chân phái lớn nhỏ tám người đều y theo lời di chúc của Hải Vân Tử chân nhân, tắm gội tụng kinh, đốt hương, lễ bái, qua một ngày một đêm mới tụng hết được ngàn biên kinh.
Trùng Dương trịnh trọng đem muối bỏ vào chiếc thùng cây đổ nước trong vào chờ chất muối tan hết mới đem chiếc hộp đựng chân kinh bỏ vào thùng ngâm.
Kể ra cũng lạ thật, trăm phương ngàn kế cũng không làm sao mở chiếc hộp ra được. Thế mà chỉ cần ngâm trong nước muối trong thời gian không đầy một buổi cơm, chiếc hộp rắn như đá, cứng như sắt nguội ấy đã có thấy trạng thái mềm nhủn rồị
Trùng Dương bèn thò tay vớt chiếc hộp ra, để ngay ngắn trên thạch bàn, lau sạch nước muối xung quanh hộp, rồi lấy một mũi dao găm thật bén, rọc mạnh theo đường kháp chiếc hộp vừa bị nước muối làm hiện ra, “Loong”, “Coong” hai tiếng chiếc hộp đã rã thành hai mảnh.
Chiếc hộp vừa được mở ra mười sáu con mắt đều chăm chú đổ dồn về đáy hộp. Quả nhiên không ngoài ý liệu, trong hộp nằm ngay ngắn hai quyển vở chép tay bìa bọc bằng lụa đỏ, màu lụa đã ngả sang màu vàng tía, bìa quyển vở lồ lộ rõ ràng bốn chữ triện thật lớn: Cửu Âm chân kinh.
Châu Bá Thông mừng đến nhảy tưng tưng lên. Chàng định giơ tay bốc lấỵ
Trùng Dường liền ngăn lại :
- Đừng lộn xộn, chờ ta xem lại đã!
Châu Bá Thông vội rút tay lạị Trùng Dương cẩn thận cầm lên xem, thấy có hai quyển, một thượng, một hạ. Trùng Dương lật quyển thượng nơi trang thứ nhất đọc thầm:.
- Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc, thị cố hư thắng dật, bất túc thắng hữu dư, thiên hạ võ học vạn lưu đồng tông, định ư nhất, võ học tinh giả, khu khí thành vân, phách thạch sanh hỏa, đốc mạch nhị huyệt nhứt thông, tức năng đoạt thiên địa chi tạo hóa, thượng cách thương minh, thanh vấn ư thiên. Lão Tử sở dị tai tự trung nhân dã.
Tạm dịch :
- Đạo của Trời, lấy cái dư mà bù vào cái thiếu, đây là cái nguyên cớ lưng mà thắng đầy, cái thiếu thắng sự dư. Võ học trong thiên hạ tuy vạn nhánh nhưng cùng một nguồn, tóm lại chỉ là một. Người võ học tinh suốt, có thể thổi khí thành mây, chẻ đá ra lửa, nếu đốc mạch hai huyệt đều thông thì có thể đoạt quyền tạo hóa của trời đất, thượng cách sâu diệu minh mẫn, tiếng vọng tới Trời, cho nên Lão Tử mới nói do từ trong thân ra vậy...
Trùng Dương đọc đến đây, bất giác giật mình thầm nghĩ rằng :
- Cửu Âm chân kinh cao diệu lợi hại như vậy, nếu tập luyện xong, rất có thể thành kẻ trường sanh bất lão, mà trở nên một vị thần tiên trên mặt đất vậy!
Nhưng tại sao Hải Vân Tử đã giữ nó được trên mười năm, mà vẫn không thoát khỏi cái chết kìả
Chàng lật xem sơ qua quyển thượng một hồi, thấy toàn là võ học bí quyết, lý giải những công phu hít thở. Chàng liền lật đến quyển hạ để xem, thì nội dung đã khác với quyển trước, toàn là phương pháp luyện công, nhưng công phu luyện công ấy đều ác độc dị thường.
Trang nhứt và trang hai là công phu Cửu Âm thần trảo, hoàn toàn dùng công lực của ngón tay, khác hẳn với phép luyện Nhất Dương chỉ, phải cần dùng một số lớn heo dê còn sống, rồi dùng chỉ lực thọc mạnh vào trong óc của chúng, luyện đến khi đầu năm ngón tay đã thành công, còn phải tẩm thêm chất độc lên ngón tay mới được. Trang ba và trang tư ghi chú bí pháp Tồi Tâm chưởng, hoàn toàn sử dụng bằng chưởng công khác hẳn với Phích Không chưởng của Toàn Chân phái, vì chưởng lực của Tồi Tâm chưởng sau khi thoát ra ngoài có thể làm nát bấy quả tim của địch, làm cho đối phương thổ huyết mà chết.
Trang thứ năm đến trang tám thì chép về Độc Hạp thần công, đấy là công phu luyện tập móng tay, luyện xong có thể vừa đụng vào thân người, kẻ địch sẽ chết không phương cứu chữạ
Trùng Dương xem đến trang thứ tám, sắc mặt liền đổi khác, Cửu Âm chân kinh hoàn toàn ghi chép những công phu ác độc như thế này, nếu muốn luyện tập nó thì phải tàn hại biết bao nhiêu là sinh vật tỉ như Cửu Âm thần trảo phải dùng trâu chó làm vật hy sinh cho mình luyện tập, còn Tồi Tâm chưởng vá Độc Hạp thần công cũng cần có mèo chó để cho người luyện tập thí nghiệm.
Chàng là một người đã xuất gia cầu đạo không được phép sát sinh, thì đâu có thể vì luyện võ công mà trái với lẽ đạọ Dạy cho đệ tử môn hạ của mình luyện tập ư? Không những chẳng nên dạy cho đám đệ tử luyện tập loại công phu ác độc ấy mà còn phải ra công đề phòng hai quyển chân kinh lọt vào tay người ngoài tổn cả ân đức của mình nữa là khác!
Rốt cuộc, sự hao tâm mất trí của chàng để lấy lại cho được Cửu Âm chân kinh đã không ích lợi gì mà còn chuốt lấy bao nhiêu sự rắc rối cho mình.
Châu Bá Thông và sáu đệ tử cung kính đứng im chờ đợi, thấy Trùng Dương đọc hơn mười trang kinh mà sắc mặt lúc thì trong lúc thì tái xanh, thần sắc càng lúc càng biến đổi thêm, cuối cùng ngừng tay không lật nữa, mà tỏ vẻ buồn rầu tư lự, cau mày nghĩ ngợi luôn nên ai nấy đều hồ nghi không hiểu trong kinh ghi chép những gì.
Châu Bá Thông không dằn được bèn cất tiếng hỏi :
- Sư huynh, chân kinh anh đã đọc sơ qua rồỉ Sao làm thinh không nói gì hết, chẳng lẽ bị tráo thứ giả rồi hay saỏ
Trùng Dương buồn bã lắc đầu không đáp, rồi bỗng nhiên đứng phắt dậy, đập mạnh tay lên mặt ghế đá đánh “Bộp!” một tiếng, đá vụn liền bay lên rào rào trên mặt bàn, chiếc bàn đá cứng lõm sâu xuống hình một bàn tay rỏ ràng cả những dấu chỉ tay, tựa như dùng dao chạm khắc lên vậỵ Mọi người hoảng hồn ngạc nhiên hết sức. Trùng Dương bỗng kêu lên :
- Ta quấy mất! Đáng lẽ chân kinh này ta nên để nó chìm mãi dưới đáy suối Hoa Sơn mới phảị Võ học trên chân kinh tuyệt đối không nên luyện tập!
Những lời của chàng vừa thốt. Châu Bá Thông và sáu đệ tử ngạc nhiên đến cực độ, Châu Bá Thông là người rắn mắt nhứt trong bọn, liền tru tréo lên :
- Sư huynh, anh nói gì vậỷ Đưa nguyên bản chân kinh cho tiểu đệ xem thử coi!
Miệng nói, tay đã thò ra bóc lấy quyển chân kinh. Trùng Dương bất thần lại vung tay áo một cái và kêu lên :
- Dang ra! Không được loạn động!
“Bùng” “Chát!” hai tiếng, thân hình Châu Bá Thông liền bị đẩy bật ra xa hai trượng. Mã Ngọc, Khưu Xử Cơ và mọi người đều giựt mình sợ sệt. Vì tuy công phu của Châu Bá Thông chưa đến mức thượng đẳng siêu việt nhưng cũng đạt tới cảnh giới Thăng Đường Nhập Thất mà bị sư phụ rung khẽ tay áo một cái, thân hình của sư thúc văng bắn ra xa như mũi tên lìa ná! Đủ thấy võ công của sư phụ mình cao diệu đến mức không lường được!
Châu Bá Thông lăn tròn dưới đất một vòng rồi nhảy dựng dậy kêu lên :
- Sư huynh, sao anh lại dùng Thái Ất huyền công xô tiểu đệ? Nếu xương gân của tiểu đệ không cứng rắn, có phải bị sư huynh đánh cho dở chết dở sống chăng?
Trùng Dương vẻ mặt lạnh tựa như bị lớp sương che phủ, trầm giọng nói :
- Các người nên hiểu rõ: Cửu Âm chân kinh là quyển kinh thư độc đáo trong thiên hạ, nhưng tiếc thay công phu trong kinh lại tàn bạo quá mức, không đáng cho chúng ta là đệ tử của Huyền môn luyện tập nó! Vậy bắt đầu từ hôm nay, bổn Chân kinh này chúng ta không được phép luyện tập, cũng không được phép xem nó! Kẻ nào dám trái lịnh nghiêm cấm của ta lén đọc chân kinh này, sẽ lập tức bị đuổi ra khỏi cửa động, khai trừ khỏi môn phái Toàn Chân, bọn ngươi nghe rõ chưả
Trùng Dương chân nhân tánh tình vốn ôn hòa khiêm cung, đối với đệ tử rất từ ái, không hề nói nặng mấy lời Nhưng lần này lại khác với thái độ hàng ngày, khiến Châu Bá Thông và sáu đệ tử đều ngẩn ngơ kinh ngạc, tựa như chú mán lạc thành đô, sững sờ cả buổi mà không thốt lời được.
Giây lát sau, Mã Ngọc mới rụt rè lên tiếng :
- Thưa sư phụ, đệ tử xin mạo muội hỏi rõ một điều, võ công ghi chép trên quyển kinh ấy, vì sao gọi là tàn bạỏ Sư phụ có thể cắt nghĩa cho chúng con hiểu rõ. Để chúng con lấy đó mà sửa mình?
Trùng Dương gật đậu đáp :
- À! Công phu trên kinh tàn bạo như thế nào phải không? Chỉ với môn trảo công mà phải dùng nơi óc của trâu dê sống để luyện tập, với một đoạn cũng đủ hiểu rõ nội dung cả một quyển rồi! Thử hỏi các con, môn công phu như vậy có nên luyện hay không?
Chúng đệ tử đầu le lưỡi lắc đầu, đồng thanh đáp :
- Ái chà! Trong thiên hạ lại có môn võ công tàn nhẫn vậy saỏ Tất nhiên là không nên luyện nó.
Châu Bá Thông mặt mày nhăn nhó như khỉ đáp :
- Chỉ xui xẻo cho mình, trăm đắng ngàn cay mới đem được chân kinh về, hộp kinh lại không thể mở ra được, phải phí bao nhiêu tâm cơ mưu kế mới mở nổi chiếc hộp, thì chân kinh lại không thể luyện, đến đỗi đọc sơ qua một chút cũng không có quyền đọc, như vậy còn để lại làm gì mệt trí hao hơỉ Theo tôi thì đem nó bỏ vào lò lửa quách cho êm chuyện.
Trùng Dương ngẫm nghĩ một chút rồi gật đầu nói :
- Phải lắm! Xử Cơ đốt lửa lên!
Khưu Xử Cơ lập tức vào trong bưng ra một chiếc lò cùng chút ít rơm củi, đến trước hương án của Tam Thanh Đạo Tổ, rồi nổi lửa đốt lên. Trùng Dương vừa muốn ném hai quyển chân kinh vào ngọn lửa để đốt bỗng lúc ấy từ động ngoài có một luồng sơn phong thổi vào, lửa vừa mới nhúm lên, bị gió thổi tắt ngaỵ
Quả là một sự ngẫu nhiên không hiểu được, Trùng Dương ngẩn người suy nghĩ giây lát, nói :
- Khoan đã, đừng nhúm lửa nữa!
Chúng đệ tử đều ngạc nhiên không hiểụ Trùng Dương hai tay nâng lấy chân kinh xem sơ một lúc, rồi thở dài nói tiếp :
- Tâm huyết của tiền nhân, sao ta lại nỡ đem hủy diệt cho đành, ta hãy bắt chước theo ý chí của Hải Vân Tử, đem chôn nó phải hơn!
Châu Bá Thông lạ lùng hỏi :
- Sư huynh không đốt Chân. Kinh cho tốt. Anh không sợ sau này sanh ra lắm chuyện, gợi lòng tham bao nhiêu cường địch đến quấy nhiễu sơn môn hay saỏ
Vương Trùng Dương cảm khái nói :
- Ma đưa lối quỷ dẫn đường! Tự ta tìm trăm phương ngàn kế lấy cho được chân kinh ngỡ rằng sẽ được học hỏi thêm không ngờ lại tạo thêm nhiều rắc rốị
Sau này, dẫu cho vì Chân kinh mà chúng ta bị nhiều quấy rối thì cũng cam chịu chớ biết làm saọ
Trùng Dương quyết làm chiếc hộp khác bằng đá để tàng trữ chân kinh một nơi hết sức bí mật và nguyện sẽ bảo vệ chân kinh trong suốt cuộc đời mình không cho lọt vào tay người khác. Trùng Dương định rằng bao giờ chàng sức tàn hơi tận mới chịu đem Chân kinh ra hủy diệt.
Thời gian thấm thoắt đã qua một năm, vào tiết tháng ba cuối xuân, Châu Bá Thông bỗng sực nhớ ngày ước hẹn với Song quái họ Âm nơi Lục Hoành đảo đã đến, nghĩ thầm :
- Mình đã nhận lời giao ước của đối phương. Không thể nào bội ước được.
Do đó Châu Bá Thông đem ý kiến nhắc lại với Trùng Dương. Vương Trùng Dương liền bảo :
- Sư đệ, sự này chính sư đệ chuốc lấy phiền não cho mình! Vậy một mình sư đệ đi phải hơn? Đừng trách ta sao không can dự!
Châu Bá Thông đáp :
- Dĩ nhiên là biết bản lĩnh của Song quái họ Âm cũng tầm thường sư huynh không cần đi cho mất công, để tiểu đệ và mấy sư diệt đi cũng đủ rồị
Châu Bá Thông trong ý định nhờ Mã Ngọc và Khưu Xử Cơ theo giúp tay mình, nào ngờ Trùng Dương lắc đầu nói :
- Không được, mấy đồ đệ của ta bản lãnh còn non kém lắm, chưa đủ sức hạ sơn làm rạng danh môn pháị Làm sao ta dám cho chúng xuống núi thi thố tài năng được? Sư đệ không dám đi một mình saỏ Công phu của sư đệ cũng đủ sức khắc phục được hai anh em họ Âm. Hà tất kêu bọn chúng theo giúp đỡ làm gì.
Châu Bá Thông chẳng biết làm sao hơn liền đáp :
- Được rồi, đi một mình thì đi chớ ai sợ gì!
Quả nhiên hai ngày saụ Châu Bá Thông liền rời khỏi núi Tung Sơn, trực chỉ về hướng Đông nam.


Hồi 25

Công Phu Đạp Sa


Từ Hà Nam tới Triết Giang, phải qua hai tỉnh An Huy và Giang Tô, phải đi một đoạn đường trên ngàn dặm. Châu Bá Thông từ lúc lên núi Tung Sơn đến nay là lần thứ nhất chàng rời xa sơn môn, được tự do ngắm nhìn phong cảnh lạ, trong lòng khoái trá lắm, từ hạ tuần tháng tư cho đến mồng một tháng năm mới tới phía Nam An Huy địa phận Sào Huyện.
Lúc ấy Châu Bá Thòng mới thấy sốt ruột vì chỉ còn có bốn hôm nữa là đến ngày ước hẹn rồi, mà hiện giờ chàng còn ở đất An Huỵ Làm sao trong một thời gian ngắn như vậy đi đến địa phận Triết Giang cho kịp?
Hơn nữa Lục Hoành đảo ở giữa biển, tận miền đông tỉnh Triết, cách xa một đại hải rộng mênh mang, quyết không thể trong một ngày hay nửa ngày có thể tới được? Tuy dù có trễ đi một vài ngày cũng không sao, nhưng Châu Bá Thông ngại thất tín, vạn nhất đối phương nói mát vài câu có phải là nhục nhã hay không?
Châu Bá Thông vò đầu nghĩ ngợi mãi một lúc, chàng lại hỏi thăm người đi đường, cuối cùng người chỉ dẫn, nếu muốn trong vòng bốn ngày đến được địa phận Đông Hải, thì chỉ có cách thuê thuyền đi xuôi theo dòng Trường Giang về hướng Đông rồi từ Trùng Minh Đảo ở Giang Tô trực chỉ ra biển, như vậy mới mong kịp với hạn kỳ. Nhưng may rủi nhờ thế gió, nếu gió thổi về hướng Tây Nam thì có hy vọng tới được, trái lại nếu gió thổi trở qua đông, sóng to biển động đừng mong đến nơi cho kịp ngày hội ước được.
Vì An Huy ở về phía Tây của Trường Giang cần phải có gió tây nam mới thuận buồm. Châu Bá Thông muốn đến Lục Hoành Đào trước ngày đoan ngọ chàng vắt óc mới nghĩ được một mưu kế thú vị và rắn mắc vô cùng.
Chàng đi tới đầu địa phận Sào Huyện, đến một tiểu trấn gọi là Vô Tri Quân Trấn, nơi đây thuyền bè đậu dọc ngang không thiếu chi, Châu Bá Thông lựa được một chiếc vừa ý, trên thuyền không có phụ nữ mà chỉ có hai cha con người chủ thuyền, chàng liền hỏi thuê đến Lục Hiệp ở Giang Tô.
Người chủ thuyền đòi một quan tiền. Châu Bá Thông rộng rãi gật đầu không trả giá, lập tức móc tiền ra trao liền và bảo chủ thuyền khởi hành ngay lúc ấỵ
Châu Bá Thông ngồi chồm hổm trên thuyền, chuyện trò thăm hỏi luôn miệng, nhờ vậy được biết lão chủ thuyền tên Khởi Lão Đại, người con trai tên Khởi Mao Nhi, bấy lâu nay chuyên nghề đưa người trên sông độ nhật, nhưng từ lúc Kim binh xâm phạm bờ cõi thì cuộc sống bị ảnh hưởng chiến tranh nên có phần vất vả hơn.
Châu Bá Thông nhăn nhăn lỗ mũi như khỉ đột và nói :
- Cha con ông muốn suốt đời sống với nghề hạ bạc này hay muốn phát tài trở thành đạt phú gia giàu sang bốn bể.
Khởi Lão Đại ngạc nhiên trừng mắt đáp :
- Tất nhiên là ai cũng muốn giàu sang rồỉ Khách quan ông nói như thế có ý nghĩa gì?
Châu Bá Thông làm mặt trịnh trọng nóỉ
- Nếu hai cha con ông muốn giàu có cũng không khó khăn gì! Hiện nay có một chỗ để của cải cách đây cũng không xa mấy, nếu cha con ông có đủ gan dạ dám theo tôi, bảo đảm hai người nửa đời ngồi không tiêu pha cũng không hết.
Hai cha con họ Khởi ngạc nhiên đến cực độ, buông cả chèo hỏi dồn Châu Bá Thông cách thức làm giàu ra saỏ
Châu Bá Thông mới tán hươu tán vượn, dựng đứng một câu chuyện làm cho cha con họ Khởi híp cả mắt. Chàng bảo là lúc Kim binh xâm lấn Trung Nguyên, phía Nam và Bắc của Trường Giang đều bị chiến họa lan tràn, những nhà giàu có liền đổ xô từ phía Bắc tản cư về miệt Giang Nam. Cách đây một tháng có hai ba đại phú gia thuê thuyền chở đầy vàng bạc gấm ngọc định theo trong hải đảo lén lút trốn đến Mân Quảng, nào ngờ chủ thuyền sanh lòng tham cấu kết với hải tặc, đột nhiên xuất hiện bắt tất cả gia tiểu của mấy phú ông ấy giết sạch không còn một mống.
Bọn cướp biển ấy rất hung tàn, ra tay giết cả chủ thuyền rồi lưu vàng bạc đem chôn giấu trên một hoang đảo giữa biển cả gần cửa sông Trường Giang. Bọn hải tặc này lòng tham vô đáy, nên chúng giấu luôn cả thủ lĩnh của chúng, định một thời gian sau mới đem ra chia đều cho nhaụ Những tin tức bí mật ấy chàng vô tình nghe được trong lúc đi đường.
Châu Bá Thông vốn có tài miệng lưỡi, nên câu chuyện bán trời của chàng nghe ra rất có đầu có đuôi, cha con Khởi Lão Đại là người dốt nát quê mùa, trí óc đơn giản bị chàng tán tỉnh một hơi không còn nghi ngờ vào đâu được.
Nhưng Châu Bá Thông sau khi nói xong thở dài một cái như bò rống và nói :
- Rất tiếc là tôi nghe được tin ấy quá trễ nên bây giờ muốn được phát tài, sợ không còn kịp nữạ
Cha con Khởi Lão Đại nghe rất thích thú, lòng như bốc cháy trong cơ thể, vội hỏi dồn :
- Saỏ Nơi chôn của cải bị người ta đào lấy mất rồi ư?
Châu Bá Thông trợn mắt đáp :
- Ai vào đó mà đào được? Sự thật là như thế này, tôi nghe bọn hải tặc bàn luận về số vàng kia đã chôn giấu hơn một tháng naỵ Bọn chúng dự tính đến mùng sáu tháng năm này sẽ tới đó đào lên van phân chia luôn. Bây giờ chỉ còn cách có năm này nữa, chúng ta làm sao trong vòng năm ngày có thể ra khỏi cửa Trường Giang để tới trước bọn cướp một ngày mà giành lấy số tài sản kiả
Khởi Lão Đại vội đáp :
- Sao lại không được, từ đây tới cửa sông Trường Giang, nhiều lắm là ba ngày trời, ví dầu gió không được thuận buồm thì chúng tôi sẽ đem những vật dụng nặng nề bỏ bớt xuống biển, để cho thuyền nhẹ bớt, hai cha con tôi cố sức chèo chống ngày đêm thì cũng có thể trong vòng ba ngày tới Trùng Minh Đảo được.
Chừng ấy chúng tôi và khách quan đều được phát tài có phải sướng không?
Châu Bá Thông cười thầm trong bụng :
- Hay lắm! Cha con mi đã mắc kế ta rồị
Nhưng Khởi Lão Đại nào ngờ được, cha con hai người hết sức tin lời láo khoét của Châu Bá Thông, tưởng đâu số vàng chôn trên hoang đảo ngoài cửa sông Trường Giang là có thật. Nên cha con gia sức chèo chống đêm ngày, trương buồm bẻ lái mong cho mau đến nơị Trời cũng thương tình khiến gió tây thổi lại thuận buồm thuận nước trước sau không đầy bốn ngày thuyền nhỏ đã ra đến cửa biển Trường Giang.
Qua khỏi Trùng Minh Đảo thì trời biển một màu, mênh mông bát ngát, Khởi Lão Đại hỏi Châu Bá Thông nơi chôn giấu vàng bạc ở hoang đảo nàỏ
Châu Bá Thông cố ý đứng dậy ngó đông ngó tây rồi nói :
- Đúng rồi! Cứ việc đi về hướng đông sẽ thấy đảo hoang ấy ngaỵ
Khởi Lão Đại tập trung tất cả tinh thần điều khiển chiếc thuyền cho thuận theo sóng gió, thuyền chạy hơn nửa ngày chỉ thấy biển rộng mênh mông chân trời thẳng tắp, nào thấy bóng dáng hoang đảo ở đâụ Khởi Lão Đại đã bắt đầu hồ nghi liền hỏi :
- Khách quan, sao qua khỏi Trường Giang Khẩu đã quá xa mà chưa thấy hoang đảo ở đâủ Hiện giờ đã qua khỏi Sạ Bồ Giáp, nếu đi về hướng Nam thì sẽ tới hải phận của tỉnh Triết Giang.
Châu Bá Thông vờ mừng rỡ nói :
- Sắp đến rồị Sắp đến rồi, cho thuyền trực chỉ về hướng Đông Nam đị
Khởi Lão Đại đành phải nghe theo, thuyền chạy hơn nửa ngày thì trời đã tối hẳn.
Rạng ngày thứ hai, cha con Khởi Lão cho thuyền tiếp tục tiến về phía trước, quả nhiên trước mắt hiện ra mờ mờ một dãy núi cù lao lúp xúp. Khởi Lão Đại ngắm hình thể của hòn đảo một hồi, sắc mặt đột nhiên biến đổi, y giận dữ liền lớn tiếng mắng Châu Bá Thông :
- Tại sao ông lại gạt gẫm cha con tôỉ Chỗ nào là hoang đảo của bọn cướp bể chôn giấu bạc vàng đâu mà ông nói láo như vậỷ Trước mặt đây là Trầm Gia môn, một phần đảo của Thoán Sơn Quần Đảo, cách cửa bể Trường Giang trên hai trăm dặm, chớ phải loang đảo gì dâủ
Châu Bá Thông lạnh lùng đáp :
- Ồ, tới Thoán Sơn Quần Đảo rồi à? Tốt lắm rồi, cho thuyền chạy tới Lục Hoành đảọ Báu vật ở trên đấy!
Khởi Lão Đại nghe đến ba chữ Lục Hoành đảo, sắc mặt liền biến ngay chỉ tay vào mặt Bá Thông và mắng :
- Thật vô lý! Mi định gạt đưa cha con ta đến cái đảo quỷ ấy để cha con lão già nộp mạng cho quỷ phải không?
Nói xong liền nghỉ ngay tay chèo, định quay mũi thuyền chạy trở về. Châu Bá Thông ễnh lưng ngồi bẹp xuống ván thuyền đánh sầm một tiếng, toàn thân chiếc thuyền bị nhồi lên hụp xuống trên mặt nước lắc lư nghiêng ngả, nhiều lúc suýt lật nghiêng.
Khởi Lão Đại cả kinh kêu lên :
- Khách quan! Ông.. Ông..
Châu Bá Thông trợn mắt sừng sộ :
- Ông... Ông... thì saỏ Nếu nhà ngươi không chịu đưa ta đến Lục Hoành đảo, ta sẽ nhận chìm thuyền ngay, để chúng ta đến Long Cung nhờ phân xử.
Lời nói vừa dứt, lại ễnh lưng, nện mạnh bàn tọa xuống ván thuyền “sầm!”, “sầm!” liên tiếp mấy cái, lần này chiếc thuyền bị sức đè ép quá mạnh càng lắc lư dữ dội hơn nữạ
Đó là Châu Bá Thông dùng công phu Thiên Cân Trụy khiến cho thân thuyền tựa như bị sóng lớn dồi dập, lảo đảo ngửa nghiêng. Khởi Lão cả sợ kêu lên :
- Tôi sợ Ông rồi! Để tôi đưa ông đến Lục Hoành đảo ông ơị
Con trai của Khởi Lão Đại là Khởi Mao Nhi tuổi trẻ khí hăng máu nóng thấy cha con mình bị Châu Bá Thông gạt gẫm, lòng rất căm thù, y vờ như đang chèo chống cho chiếc thuyền khỏi nghiêng, rồi rón rén đến gần bên Châu Bá Thông, bất thần vung ra một quyền thoi vào sóng lưng đối phương.
Châu Bá Thông quả nhiên không chút đề phòng, bị y thoi một quyền đích đáng. Nhưng lạ thay, Khởi Mao Nhi tuy đánh trúng đối phương mà y lại đau đớn không chịu được, y cảm thấy như đánh trúng vào tấm vách sắt, bàn tay nhức nhối như muốn gãy rạ Khởi Mao Nhi đau quá buột miệng kêu lên :
- Ôi cha! Chết tôi rồị
Khởi Lão Đại quay lại nhìn thấy con trai mình đánh trúng đối phương một thoi rất mạnh. Nhưng lạ thay Châu Bá không vẫn bình yên như thường, mà trái lại bàn tay con trai mình sưng lên đỏ lòm.
Lão sợ hãi thất sắc, biết rõ Châu Bá Thông là một nhân vật có bản lãnh hơn người, vội quỳ xuống ván thuyền, khấu đầu vái lia :
- Trăm lạy lão đại gia, thằng chó con ấy ngu xuẩn vô tri, mạo phạm đến lão đại gia, ông, ông, ông tha tội cho nó.
Châu Bá Thông cười ngặt nghẽo và nói :
- Ta năm nay chưa đầy ba mươi tuổi, cái gì mà lão đại gia với không lão đại giả Cục cưng của ông vô cớ ra tay đánh người, đừng lải nhải vô ích, ta phạt cho nó đau nhức nửa ngày!
Khởi Lão Đại càng lo sợ hơn nữa, sực nghĩ ra một chủ định liền nói :
- Lão đại gia, nếu ông không chữa cho nó hết, thì mất đi một tay chèo thì làm sao đưa ông sớm đến Lục Hoành đảo được?
Châu Bá Thòng “À!” lên một tiếng, nhảy dựng người lên và nói :
- Ừ nhỉ, ta quên khuấy mất? Được rồi tạm tha cho mi một lần.
Chàng liền cầm bàn tay sưng của Khởi Mao Nhi, xoa vài lần và vờ đọc thần chú lâm râm vài câu, rồi kêu lên :
- Rồi! Hết đau rồi!
Lạ lùng thật, Khởi Mao Nhị cảm thấy bớt sưng nhức ngaỵ Qua bài học ấy cha con Khởi Lão Đại không còn dám cưỡng lịnh của Châu Bá Thông mà ngoan ngoãn lái thuyền đưa chàng đến Lục Hoành đảọ
Thuyền chạy thêm một ngày đêm nữa thì đúng vào ngày tiết Đoan ngọ mùng năm tháng năm. Lúc Châu Bá Thông xuống thuyền, chàng đã tính sẵn ngày giờ trong bụng cứ chỉ qua thời gian một ngày là chàng lại dùng vật nhọn gạch trên be thuyền một gạch, để ghi nhớ ngày giờ.
Hôm nay chàng xem lại những dấu mình gạch trên thuyền vừa đúng vào ngày Đoan Ngọ. Chính là ngày mình hẹn với Đông Hải song quái, chàng liền giật giọng kêu cha con Khởi Lão Đại hỏi :
- Ủa! Tới Lục Hoành đảo chưả Mau đưa ta lên đảo đi chứ!
Khởi Lão Đại lấy tay chỉ một vệt đen ở cuối chân trời và nói :
- Thưa lão đại gia, vật đen mù mù trơ trọi ở giữa biển kia chính là Lục Hoành đảọ
Nhiều người nói lại, gần Lục Hoành đảo trong vòng ba dặm, chỉ có chết chứ không còn sống.
Châu Bá Thông nhướng mắt nhìn kỹ thấy độ năm dặm ngoài quả nhiên có một hoang đảo nằm chơ vơ giữa biển khơi, đá dựng chập chồng, thật giống như một chữ “Lục” viết nằm ngang, bất giác cười lên một tiếng và nói :
- Người nào đi đến Lục Hoành đảo có chết mà không sống, lời nói ấy, ta không tin được.
Lời nói chưa dứt, mặt nước bên trái thuyền bỗng réo lên rào rào cuộn thành một xoáy nước kỳ lạ, tiếp theo đấy “Vèo... ! Vèo... ” rít lên hai tiếng lạnh lùng, từ trong chỗ hoa nước bắn lên tung tóe bay ra hai vật trắng sáng loáng, ghim trúng vào lái thuyền nghe “Phập!”. Cha con Khởi Lão Đại vừa nhìn thấy sợ đến sắc mặt tái trắng. Thì ra hai vật từ đáy nước bắn lên ghim vào lái thuyền là hai mũi lao Phi Ngư Thương hình dạng rất quái lạ, cán dao làm bằng cây Huỳnh Dương, mũi lao được bọc sắt nhọn tựa như hình miệng con cá.
Cha con Khởi Lão Đại thấy hình dáng hai cây Phi Ngư Thương ấy đột nhiên quỳ ngay xuống trước mặt Châu Bá Thông quỳ sụp lạy như tế sao và năn nỉ :
- Lão đại gia ông, ông, ông ông, mở lòng nhân đức, thuyền của chúng tôi nếu chạy thêm nửa dặm nữa, thì chết chẳng có chỗ chôn thâỵ
Châu Bá Thông không trả lời một tiếng, lẳng lặng tung mình ra sau lái thuyền, rút hai cây Phi Ngư Thương lên, nhìn thấy trên mặt biển hiện ra hai dợn nước chứng tỏ dưới lòng nước có người đang lặn lộị Châu Bá Thông quát lên một tiếng cực lớn, vung cánh tay một cái, hai mũi Phi Ngư Thương tựa như hai mũi tên bật khỏi dây cung, bay thẳng ra ngoài mười trượng “Soạt!” “Soạt!” cắm đầu trút xuống ngay hai dợn nước phía trước.
Nhưng tiếc vì bị sức nước cản lại, nên không thể đâm trúng được kẻ bí mật đang lặn sâu dưới đáy nước. Bỗng từ dưới đáy nước nổi nên hai vật xám đen hình tròn như trái cầụ Châu Bá Thông xem lại thì là hai đầu người có mang mặt nạ, chàng liền cất tiếng quát lớn :
- Bọn mi có phải là thủ hạ của Song quái họ Âm không? Mau lại trở về đảo, bảo với hai thằng giặc lùn họ Âm ấy rằng: Có sư đệ của Vương Trùng Dương là Châu Bá Thông tới tìm.
Hai vật hình tròn như hai trái banh ấy, nhào lộn trên mặt biển mấy vòng “ùm!” “ùm!” hai tiếng rồi lặn sâu dưới nước mất dạng. Trên mặt biển lại nổi lên hai dợn nước, trôi nhanh về phía Lục Hoành đảọ
Cha con Khởi Lão Đại lúc ấy mới hay biết Châu Bá Thông đặc biệt đến Lục Hoành đảo này để tìm Song quái gây sự. Mà y dám đến đây đơn thân độc mã thì chắc không phải là kẻ dở.
Cha con Khởi Lão Đại nghĩ như thế nên cảm thấy vững tâm phần nào mà không còn sợ sệt như lúc nãy nữạ
Hai người cứ thỉnh thoảng đưa mắt kinh ngạc lấm lét nhìn. Châu Bá Thông quay đầu lại thấy thế bèn cười lên ha hả, thân mật vỗ vào vai Khởi Lão Đại và nói :
- Nói thật cho cha con ông rõ. Năm ngoái tôi có hứa với Đông Hải song quái ra đây để đánh lộn, ông đừng lo gì hết cứ đưa tôi đến đảo, Song quái sẽ không hại ông đâụ
Cha con Khởi Lão Đại bất đắc dĩ phải trương buồm bẻ lái nương theo chiều sóng cho thuyền tiến vào bờ. Không đầy nữa giờ sau chiếc thuyền đã gần tới bờ biển Lục Hoành đảọ
Trên bãi biển màu cát trắng long lanh như tuyết nhưng khi thuyền cách xa bờ độ mười trượng, Châu Bá Thông và hai cha con Khởi Lão Đại nhìn thấy bốn vật xám đen hình tròn như quả cầu nằm tênh hênh trên bãi cát. Bốn vật lạ kỳ vừa thấy thuyền của Châu Bá Thông tiến gần liền nhúc nhích cử động. Thì ra, bốn quả cầu tròn màu xám đen ấy là bốn chiếc đầu người và thân thể họ được lấp mất dưới bãi cát, thấy người lạ đến đảo, mới vươn mình từ trong cát bò ra đứng lên.
Châu Bá Thông cảm thấy hết sức kỳ dị vì công phu chôn mình trong cát trắng rõ ràng là đang luyện một thứ võ công lợi hạị
Bọn người này đầu đội một loại mặt nạ đặc chế bằng da cá lại vùi mình trong cát đúng là hiện tượng đang lúc luyện công. Bọn họ thấy Châu Bá Thông đã tới, bốn người không hẹn đồng nhảy vọt ra bãi cát, Châu Bá Thông mới có cơ hội quan sát toàn thân thể của họ.
Bốn người này trừ chiếc mặt nạ da cá trên đầu ra, từ cần cổ đến hai chân được bao bọc trong một lớp quần áo kỳ lạ cũng bằng da cá.
Lớp quần áo da ấy láng cuộn như thoa dầu, từ trên xuống dưới liền lạc không tà, không định, cho đến nút áo và túi áo cũng không có, dường như một lớp da dính liền vào thân thể vậy, cũng không hiểu chúng làm sao mà mặc vào người được. Bọn chúng thấy Châu Bá Thông bèn khẽ cung người lại như vái chào, tên đứng đầu lên tiếng :
- Đảo chủ của chúng tôi kính đợi tôn giá quang lâm đã mấy ngày nay, Châu lão tiền bối trọng lời hứa không ngại vạn dặm đến đây thật là vạn hạnh cho tệ đảo lắm vậỵ
Châu Bá Thông gật đầu đáp :
- Ừ! Xem hình dáng bọn ngươi, chắc là đồ đệ của Song quái họ Âm thì phảỉ
Thật là giống như loàn rùa một thứ, toàn thân bị bó chặt trong chiếc mu kịch cỡm nặng nề. Mà rùa còn thò đầu ló đuôi ra để kiếm ăn, còn bọn ngươi cho đến mắc tiểu cũng đi không được. Ối chà! Đáng thương! Đáng thương hại!
Cha con Khởi Lão Đại đứng trên thuyền nghe Châu Bá Thông nói thế, suýt bật cười thành tiếng. Nhưng hai cha con biết rằng những tên bộ hạ của Đông Hải song quái tên nào cũng hung ác dị thường, giết người trong nháy mắt, thành ra không dám cười ra miệng, mà chi bậm môi ngậm miệng cho khỏi bật ra thành tiếng.
Bốn tên mặc áo da cá ấy chính là đồ đệ của Đông Hải song quái, nghe những lời móc họng của Châu Bá Thông không chút giận dữ, tên đứng đầu cất tiếng âm trầm lạnh lẽo nói :
- Châu lão gia, cần gì nói những chuyện phiếm ấỵ Chiếc thuyền đã đưa ông đến chỗ rồi chắc ông không cần đến nó nữa, và vị tất ông còn đáp thuyền ấy trở về, tốt hơn hết là cho họ khai thuyền về đị
Lời nói ấy ẩn ý rất sâu bén, khác nào nói Châu Bá Thông hôm nay đến Lục Hoành đảo này, cũng như đã đến đây nạp mạng, đừng mong sống sót ra khỏi đảo, còn đâu mà đáp thuyền trở về đất liền.
Châu Bá Thông cố moi móc tìm lời cay độc để trả đũa bốn tên quái nhân, đột nhiên thân hình nhấp nhoáng một cái, thì đã có hai tên nhảy vọt đến đầu thuyền, túm lấy ngực cha con Khơi Lão Đại, nhanh như điện rút hai mũi dao găm ra, định ngoáy vào tim của hai cha con Khởi Lão Đạị
Chuyện xảy ra ngoài cả ý liệu, cha con Khởi Lão Đại sợ thất thanh kêu oái lên :
- Chết rồi!
- Ái cha!
Châu Bá Thông mắt nhanh tay lẹ, phi thân nhảy trở lên thuyền dùng cầm nã thủ pháp, ngầm vận thần công Cách Sơn Đả Ngưu nhắm ngay sóng lưng của hai gã quái nhân đẩy mạnh từ dưới lên. Đấy là chỗ khôn ngoan lanh ý của Châu Bá Thông, chàng biết bọn thủ hạ của Đông Hải song quái tên nào cũng mặc áo da cá, trơn lình như thoa mỡ, không có chỗ để tay, nếu dùng hai thức Trảo (chộp) và Quắc (ngoắc) trong Cầm Nã thủ pháp để đối phó chúng thì hoàn toàn vô dụng mà phép điểm huyệt cũng không thể đem ra ứng dụng với họ được, nên Châu Bá Thông đem tuyệt kỹ của Toàn Chân công phu sử dụng hai kình lực “Niên” và “Hấp”, một dắt một dẫn, khiến cho hai tên quái nhân bị tưng bổng lên cao, tiếp theo đấy Châu Bá Thông vung nhẹ hai cánh tay ra ngoàị
Hai tên áo da liền nhào ngược trên không một vòng, “bộp” “bộp” rớt lộn trở lại nằm chỏng gọng trên bãi cát trắng.
Châu Bá Thông biểu diễn xong võ công ấy thái độ rất tự đức, cười ngất nói :
- Chúng bây tưởng ta không còn tánh mạng để đáp thuyền này trở về phải chăng? Thật là chuyện buồn cười! Cấm chúng bây không được động đến sợi lông chân của hại cha con thuyền phu này, mau kêu hai anh em Âm Trường Giang, Âm Trường Hà ra đây với ta!
Hai tên đảo chúng bị Châu Bá Thông trừng trị cho một trận nên thân mắt hoa đầu ù, hết dám giở trò vô lễ lẳng lặng chổi dậy cúi đầu đi thẳng một nước.
Châu Bá Thông móc ra một đĩnh bạc, thảy lên sàn thuyền, bảo cha con Khởi Lão Đại :
- Tiền thuê thuyền đâỵ Ông cất đi và khai thuyền trở về cho rồi!
Cha con Khởi Lão Đại lúc ấy sợ đến hồn phi phách tán, vội bẻ lái quay thuyền. Châu Bá Thông nhún chân nhảy nhẹ lên bờ, đưa mắt nhìn thuyền cha con họ Khởi khuất dần ngoài biển cả.
Lúc ấy trên bãi cát đã tụ tập một đoàn người đông đến bốn năm chục mạng, người nào người nấy cũng đều mang mặt nạ, mình mặc áo da cá, tuyền một sắc đen xám như nhau trông người chẳng ra người yêu quỷ cũng chẳng ra yêu quỷ.
Bọn chúng hầu hạ cung kính xung quanh hai người, khỏi nói cũng biết hai người ấy chính là Âm Trường Giang và Âm Trường Hà.
Hai anh em Song quái thấy Châu Bá Thông, trên chiếc mặt nạ liền khẽ nhúc nhích, dường như bên trong khuôn mặt đang lộ ra nụ cười lạnh lùng và trên cái mặt nạ đen thui ấy lại vang lên tiếng nói cũng rất lạnh lùng.
- Ồ! Thì ra Châu huynh đại giá quang lâm, Vương chân nhân, Chưởng môn của quý phái sao không thấy đến, chẳng lẽ khinh thị anh em chúng tôi quá ngu si không đáng để ngó tới hay saỏ
Châu Bá Thông không những bản lĩnh cao cường mà mồm mép cũng lắm, chàng cười lớn lên và đáp :
- Đông Hải song quái, thật là kẻ khí lượng hẹp hòi, rất đúng với lời đồn vậỵ
Âm Trường Giang cả giận quát lớn :
- Chúng ta khí lượng hẹp hòi chỗ nào, mi nói thử xem.
Châu Bá Thông liền đáp :
- Anh em bọn mi lần trước đến Tung Sơn để trộm cắp Cửu Âm chân kinh bị sư huynh ta trừng trị cho thất điên bát đảo thì bọn mi đâu phải là đối thủ của sư huynh ta, chỉ có ta chưa cùng bọn mi đấu sức qua lần nào! Khi ấy ta là người nhận lời hẹn ước của mi, tất nhiên một mình ta đến hội kiến với bọn mi là phải rồi! Tục ngữ có câu “Giết gà chẳng đụng dao mổ trâu” thì cần gì sư huynh ta nhọc lòng đến đây để đối phó với anh em bọn mị
Đông Hải song quái nghe nói giận đến tức cả hơi thở, Âm Trường Hà nóng nảy không dằn được, gầm lên một tiếng giận dữ, định tung mình nhảy bổ tớị Âm Trường Giang tánh nết âm trầm hơn, vội kéo y lại và nói :
- Sư đệ khoan đã!
Đoạn quay đầu lại cười lạnh lùng bảo Châu Bá Thông :
- Tốt lắm, mi dám ngang nhiên khinh thị anh em ta, chúng ta không thèm giữ quy luật giang hồ với mi làm gì. Chúng ta sẽ tỉ thí nhau ngay trên bãi cát này, hai anh em chúng ta lấy hai đánh một, họ Châu kia, mi dám nhận lời hay không?
Châu Bá Thông ngang nhiên đáp :
- Sao lại không dám, một đánh với một không thấm tháp gì hết. Lấy một đánh hai mới là thú vị chứ. Lại đây! Luôn cả bọn đồ đệ đồ tôn của mi nhào vô một lượt cho rậm đám.
Âm Trường Giang “Hừ” một tiếng và nói :
- Châu Bá Thông, chôn cất mi chỉ hai anh em ta cũng đủ rồi, cần gì phải thêm người cho mất công?
Tiếng nói chưa dứt thân hình y đã rùn lại thành một cục tròn màu xám bay vút trong tiếng gió rít nhảy bổ đến tấn công Châu Bá Thông.
Châu Bá Thông không chút bối rối hạ thấp người xuống dùng thế “Thanh Long Xuất Huyệt” (rồng xanh ra hang) trong “Thái Ất quyền pháp” tay trái vung ra nhằm ngay mặt Âm Trường Giang đẩy rạ Ngọn chưởng phong rất mạnh thế ấy chàng đã sử dụng theo phương pháp Kim Cang Kình đối phó với lối đánh của Âm thị Song quái Chàng đã biết rõ võ công của Song quái trọng ở lối nhu đấu, đường lối võ thuật của chúng gồm trong bốn chữ “Áp” “Hấp” “Khiêu” “Thoán” (ép, hít, nhảy, trốn) phối hợp với bộ áo da cá trơn tuột như dầu trên người của chúng khiến cho tay người không thể bám vào đâu được, khó mà đánh chúng theo ý muốn của mình.
Cho nên Châu Bá Thông quyết ý dùng lối đánh Cang đà trị Nhu, sức mạnh của tả chưởng chàng vừa phất ra, nặng đến ba bốn trăm cân, kêu “bùng!” một tiếng thật lớn, thân hình của Âm Trường Giang đã bị văng bật ra xa bảy tám thước.
Âm Trường Hà tựa như một cơn gió lốc, tấn công vào bên phải của Châu Bá Thông tay trái giương ra một chiêu “Đường Lang Hiện Chảo” (ngựa trời xòe vuốt), ngoáy vào huyệt Thái Dương bên trái của đối phương. Thế ấy Âm Trường Hà đã sử dụng kình lực của Âm Trảo công, năm ngón tay xòe ra, kẹp theo năm luồng gió lạnh xâm nhập vào chân tóc của kẻ địch. Châu Bá Thông chân đạp theo quyết chữ Ất dùng thế “Đơn Phụng Triều Dương Thủ” (chim phụng chầu mặt trời) tả chưởng phát mạnh trở ra, quật tréo ngọn chưởng phong vào bụng đối phương.
Âm Trường Hà biết kình lực của cái quật ấy sức mạnh nặng đến ngàn cân, tuy có lớp áo da bảo vệ bên ngoài thân thể nhưng đụng với sức mạnh ấy thế nào trong người cũng bị trọng thương, nên lập tức xoạc chân nhảy tréo sang bên cạnh để tránh. Châu Bá Thông vừa thấy chưởng phong mình quật vào khoảng trống, liền thâu tay lại quất trở ra một chưởng nhanh như gió khiến Âm Trường Hà phải thối lui lia lịa ra sau trên năm sáu bước.
Qua hạt chiêu thế, Châu Bá Thông đã nhận thức được lối quyền của Đông Hải song quái toàn dùng kình lực âm nhu, không một chiêu nào trực công đối phương cả, nhưng mỗi khi xuất chiêu thế ra khỏi tay, đều bao hàm kình lực âm độc tập kích vào yếu huyệt của đối phương. Châu Bá Thông liền nín thở, biến ngay Thái Ất quyền thành Đóa Cang quyền.
Đóa Cang quyền là quyền pháp trấn sơn của phái Thiếu Lâm, tổng cộng hai mươi tám đường. Sư phụ của chàng Thanh Hư Chân Nhân lúc sanh tiền đã dạo chân khắp trong thiên hạ, nghiên cứu tinh tường quyền pháp của tất cả các môn phái võ lâm, chùa Thiếu Lâm rất gần với Tung Sơn, ông thỉnh thoảng thấy tăng sãi trong chùa luyện võ với nhau trên sơn dã, liền suy nghiệm và sáng tác ra pho Đóa Cang quyền.
Đặc điểm của pho quyền pháp này khí lực rất hùng hậu, mỗi chiêu mỗi thế quyền cước tấn thối gì cũng đều hàm xúc rất nhiều lực đạọ Châu Bá Thông vừa sử dụng quyền pháp ấy ra, Âm thị Song quái không còn dám đến gần nữa mà chỉ quay vòng vòng, khi tả khi hữu cứ xê dịch mãi theo lối du đấu để tấn công Châu Bá Thông.
Giữa bầu trời nắng chang chang, ba bốn người quây quần nhau lúc tấn lúc thối khi phân khi hợp. giao đấu nhau trên ba mươi hiệp. Châu Bá Thông một mặt tăng thêm chưởng lực vào Đóa Cang quyền, một mặt lưu ý nghiền ngẫm võ công của riêng Đông Hải song quáị Thấy quyền pháp của Song quái hợp nhau thành một khi tấn khi thối đều ăn khớp với nhau, mỗi quyền mỗi cước đánh ra tuy uyển chuyển không thấy sức mạnh nhưng quyền phong bao trùm khắp nơi, tựa như chất thủy ngân tràn trên mặt đất, không lỗ hang nào mà chẳng chảy vàọ Châu Bá Thông mấy lần suýt bị trúng phải Âm trảo của địch thủ, sợ đến mồ hôi toát lạnh, nên vừa đấu vừa nghĩ thầm :
- Ta quá ham chơi, nếu chịu ngoan ngoãn theo cùng sư ca luyện kình lực Nhất Dương chỉ thì chỉ cần một ngón tay thôi, cũng đủ đưa hai con quái vật nữa người nửa ngợm này chầu Hà Bá Long Vương dưới đáy biển rồi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 11-22-2012, 11:30 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 26 - 30

Võ lâm ngũ bá


Hồi 26

Lạc Vào Hải Loa Trận Pháp


Đấu thêm mười mấy hiệp, Châu Bá Thông sực nhớ đến lời nói của sư huynh lúc trước, muốn ứng phó với âm nhu công phu của bọn bàng môn, phương pháp hiệu lực hơn hết là dùng chân để tấn công. Trong giới võ lâm có tục ngữ :
“Quyền đánh ba phần, cước đá bảy phần!”. Khi xưa sư phụ ta đã biến chế mười hai đường Long Đàm thố thành một pho Triền Phong cước pháp dạy riêng cho mình, tại sao không đem ra ứng dụng thử?
Chủ ý đã định, Châu Bá Thông liền quát lên một tiếng thật lớn, vận dụng Triền Phong cước ra sử dụng ngaỵ Thân hình chàng nhanh nhẹn như thỏ như chim, thấp thoáng khi cao khi thấp, hai chân quay tròn như hai cánh chong chóng, chân hữu vừa đá lên, giò trái đã ngoéo liền, chân mặt tung ra một đạp chân trái liền quét ngang nhanh như điện xẹt. Ban đầu thì còn chân lên chân xuống, nhưng chốc sau hai chân đồng bay loang loáng, càng lúc càng mau, khiến cho anh em Song quái luôn luôn nhảy tránh ra sau; chỉ còn cách lẩn đòn mà không có sức để phản công.
Đông Hải song quái không ngờ bản lĩnh Châu Bá Thông lại lợi hại như vậy, cước pháp của y tựa như cơn gió trốt, liên tiếp quét ra bốn phía, làm cho âm nhu quyền pháp của mình mất hết cả hiệu lực.
Để đối phó với đôi chân hùng mạnh của Châu Bá Thông, anh em Song quái bắt buộc phải đem môn tuyệt kỹ duy nhứt của mình ra sử dụng, môn tuyệt kỹ độc đáo ấy hoàn toàn dùng sức ở chân, gọi là Đạp Sa thố.
Đạp Sa thố tức là môn công phu đạp chân trên cát. Nguyên do là hai anh em Song quái từ nhỏ sinh trưởng trên hải đảo, mà đã là hải đảo thì có rất nhiều bãi cát, trong lúc Đông Hải song quái luyện tập công phu, ngày ngày đều phải chạy trên bãi cát. Trong võ học, sự chạy trên cát là căn bản của môn luyện tập khinh công, bọn chúng lúc chạy trên cát gót chân thường đá tung lên ít nhiều cát đất. Âm Trường Giang bỗng ngộ được một phương thức võ công nếu gặp khi giao đấu với địch thủ trên bãi cát, dùng chân liên tiếp đá cát bay vào mặt làm mù mắt kẻ địch và như vậy mình sẽ chiếm được ưu thế hơn.
Âm Trường Giang nghiền ngẫm suốt mấy tháng trời mới chế được môn tuyệt kỹ Đạp Sa thố ấy, chuyên dùng đầu ngón chân móc vào mặt cát, rồi đá lên từng bụm cát bắn vào mặt của đối phương, môn công phu ấy trẻ nít vẫn thường chạy đùa nghịch nhau luôn, coi ra tầm thường lắm.
Nhưng anh em Song quái muốn luyện cho đôi chân mình có thể đá cát lên theo lối liên hoàn, mỗi lúc sử dụng phải đá liền một, hai ba bụm cát, nói cho rõ hơn phải làm sao trong chớp mắt dùng chân móc lên được hai bụm cát đá liên tiếp vào mặt đối phương để kẻ địch bối rối không còn cách nào chống đỡ được. Môn võ học ấy xem ra rất dễ nhưng khó luyện cho tinh thục được!
Hai anh em Song quái hút gió ngầm ra hiệu nhau đem Đạp Sa công phu ra ứng dụng, tức thì một mặt lẩn tránh Triền Phong cước của Châu Bá Thông, mặt khác dùng Đạp Sa công lấy đầu bàn chân móc lên từng bụm cát nhỏ đá văng vào mặt của đối thủ!
Châu Bá Thông kêu khổ luôn miệng, vì Đông Hải song quái cứ một trước một sau luân phiên nhau đá từng vừng bụi cát, bay khắp cả đầu cổ Châu Bá Thông, khiến chàng tránh cũng không được mà đỡ cũng chẳng xong.
Chỉ khoảnh khắc sau lỗ tai, lỗ mũi, quần áo khăng khíu gì đều chứa đầy cát biển, chàng tức tối há họng quát mắng :
- Súc sinh! Đồ chó chết!
Nào ngờ chàng vừa hả miệng ra, lập tức bị cát bay vào đầy cả họng, Châu Bá Thông vừa giận vừa tức phun ra phèo phèo, chàng tự biết nếu tiếp tục đấu nữa thế nào cũng bị hạ. Chàng bỗng nghĩ ra một kế haỵ Nếu bây giờ chàng cứ chạy đến chỗ nào không có đất cát, thì không còn sợ gì nữa!
Nghĩ xong, chàng lập tức thâu Triền Phong cước, hai chân nhún mạnh xuống bãi cát dùng thân pháp Yến Tử Xuyên Liên nhảy vọt lên cao, phi nhanh ra khỏi đám mây cát bao vây, chạy như bay lên bờ bãị
Anh em Song quái thấy Châu Bá Thông chạy trốn, đồng quát to lên :
- Định chạy ngả nàỏ
Hai anh em một trước một sau đuổi theo bén gót. Châu Bá Thông chạy một đổi đường thoát khỏi vùng có bãi cát. Chàng nhảy lên một khoảnh đất lổm chổm những đá núi, dùng hai tay áo lau lia lịa mặt mày, mồm không ngớt phun cát ra phèo phèọ
Âm Trường Giang đuổi tới trước tiên, dùng ngay thế “Ưng Chuẩn Hạ Bạc” (chim ưng lao xuống) từ trên cao giơ tay ra chộp vào đầu địch thủ.
Châu Bá Thông ăn phải một họng cát, trong lòng tức tối vạn phần, thấy Âm Trường Giang vừa bay nhào đến người tấn công, chàng vội lật đật đẩy ra một chưởng “Thôi Song Vọng Nguyệt” (đẩy cửa nhìn trăng) thì từ lòng bàn tay tuôn ra một luồng lực đạo mạnh như vũ bão, bay áp vào ngực đối phương.
Âm Trường Giang từ trên cao vừa lao xuống, nên không kịp phòng bị, đối thủ lại ra tay quá thần tốc, không còn tránh né được, thân hình y lãnh trọn ngọn chưởng phong hùng mạnh của đối phương, “bùng!” “bùng!” hai tiếng nổ chát chúa, Âm Trường Giang bị văng bắn ra phía trên hai trượng, may nhờ thân hình y mềm dịu nhẹ nhàng lại có lớp da cá bảo hộ thân thể nên chỉ té lộn mèo một cái chứ không bị thương tích gì cả. Y lăn tròn dưới đất một vòng là đã đứng dậy gọn gàng.
Âm Trường Hà cũng vội đuổi theo đến nơi xông đến tấn công liền.
Châu Bá Thông rộng mồm quát mắng :
- Thứ quân chó chết, đánh không lại người ta lại dùng thủ đoạn hạ đẳng của con nít, làm trò quỷ đá cát đất văng lung tung, thật là không biết xấụ
Âm Trường Giang cười lạnh lùng nói :
- Đây là cách đấu lực kiêm đấu trí. Họ Châu kia, tới chỗ bãi cát đấu nữa chơi!
Hai anh em Song quái biết đấu không lại loại công phu “mạnh” của Châu Bá Thông. Nếu đấu nhau ở đất đá thể nào cũng chịu lép hơn đối phương, nên hai anh em láy mắt nhau ra ý, tìm lời sỉ nhục Châu Bá Thông thậm tệ, nào là quân tuyệt tử lưu tôn bị trăm đao phân thây, lỗ tai dài như tai trâu và định dùng kế khích tướng để dụ Châu Bá Thông trở ra bãi cát sẽ dùng Đạp Sa công phu mà hại ỵ
Châu Bá Thông là một tổ sư rắn mắt, lì lợm hơn ngườị Nghe hai anh em họ Âm dùng lời cay cú thúi tha chửi mình quá mức, chàng ta chẳng những không biết giận mà trái lại còn cười lên ha hả như khoái trá lắm. Chàng phủi sạch cát đất trên quần áo, rồi nhún mình nhảy lên một tảng đá thật cao, ngồi xếp bằng chễm chệ rồi chẩu mỏ xuống thi tài chửi rủa với anh em họ Âm.
Châu Bá Thông là một tay miệng lưỡi hơn người nên lời chàng chửi ra có ca có kệ cay độc còn hơn miệng lưỡi đàn bà. Âm Trường Giang biết không lừa được, mà đấu khẩu cũng không lại mồm mép của Châu Bá Thông, y bèn “hừm!” một tiếng và nói lớn :
- Họ Châu kia, mi hôm nay đến Lục Hoành đảo để tỷ thí võ công với chúng ta, hay đến đây để thi tài miệng lưỡi hở?
Châu Bá Thông nhăn nhăn mặt khỉ cười ha hả và nói :
- Hai cái mu rùa đen kín không lọt gió kia, ai thèm cùng hai đồ chó thui như bọn mi thi tài miệng lưỡi, ta đến đây để so bì võ nghệ thấp cao nhưng hai con rùa đen lại lớn tiếng chửi ông, không lẽ ông nhịn thua saỏ
Âm Trường Giang hừ giọng mũi một tiếng rồi nói :
- Được lắm, trên bãi cát mi sợ không dám tỉ thí, vậy thì trên đảo ta có Hải Loa trận (trận ốc biển), nếu mi dám vào trong ấy dạo một vòng và trở ra được anh em chúng ta sẽ viết tờ hàng phục mi và sẽ cung kính gọi mi là “lão sư” mi có dám hay không?
Châu Bá Thông lại cười to lên và đáp :
- Ta đâu phải là đứa con nít dễ dụ dỗ như bọn mi tưởng đâu! Nhưng thôi, thôi thôi! Hôm nay ta đã đến Lục Hoành đảo này thì đừng nói là Hải Loa trận Hải Sò trận, mà dù cho trận rùa đen, rùa vàng thì ta cũng tách đầu rùa con rùa cháu đem ra hết! Nào, hai rùa con ngoan ngoãn dẫn lộ cho rùa cha đi đị
Âm Trường Giang, Âm Trường Hà giận đến mặt mày tái xanh, phẩy tay ra dấu cho bọn bộ hạ, mấy mươi người da cá đều kéo nhau vào giữa lòng đảọ Châu Bá Thông lẽo đẽo theo sau anh em Song quái, đi một đoạn đường, cảnh vật bỗng biến đổi, trước mặt hiện ra một tòa núi cao, chính là ngọn núi giữa rún Lục Hoành đảo, trên đỉnh núi có một cửa động thật lớn, to như cửa thành, bên trong tối đen như mực. Đông Hải song quái và đoàn tùy tùng xô nhau bước vàọ
Âm Trường Giang đứng trước cửa động vẫy tay ngoắc Châu Bá Thông và nói :
- Họ Châu kia, lại đây xem. Chỗ này là Hải Loa trận đấy, bên trong phong thủy rất tốt, xương cốt của mi nếu được chôn tại chỗ này thật là có phước lắm!
Châu Bá Thông cười to rồi đáp :
- Phong thủy tốt, phước địa linh của anh em mi tìm được thì nên để dành mai táng hài cốt hai anh em mi phải hơn! Ông đâu thèm giành.
Âm Trường Giang cười lạnh lùng một tiếng rồi tràn mình nhảy tót vào động, Châu Bá Thông định tung mình nhảy đuổi theo, tuy chàng rắn mắc hơn người, nhưng tâm tánh rất tế nhị kỹ lưỡng, chàng chợt tỉnh ngộ và thầm nghĩ :
- Hừ! Phải rồi! Song quái họ Âm bày ra trận Hải Loa này, theo tên mà nghiệm ra ý, thì nhất định là hình thể của trận pháp tựa như cái vỏ ốc xoáy tròn khúc khuỷu nếu một khi lạc bước đường thì không mong gì trở lại trận được, ta đến đây đơn thân một người, càng không nên để mắc phải kế mọn đàn bà của hai con quái vật nàỵ
Chàng nhăn trán chau mày nghĩ ngợi một lúc khá lâu, bỗng vỗ tay đánh “bốp!” một cái tự nói :
- Hay lắm! Ta đã có cách không sợ lạc đường được, dù cho đường lối kín quanh, mười ba co, khúc khuỷu thế nào ta cũng ra khỏi như chơị
Nói xong, xắn tay áo vén quần, chun ngay vào cửa động. Vừa mới bước vào cửa động, từ trong bóng tối bỗng có tiếng gió rít trong không khí một tiếng “Vù” đã thấy một ngọn quyền đấm tréo vào “Vân Đài huyệt” hơi nách dưới của Châu Bá Thông, quyền phong ấy còn bao trùm cả tánh chất điểm huyệt.
Châu Bá Thông ước đoán kẻ đột kích quyền ấy hẳn nhiên là Song quái chứ không ai khác. Chàng bèn gọi lớn :
- Đến vừa đúng lúc!
Rồi không chút chậm trễ, chàng lật tay ngoéo vào cổ tay của đối phương, tiếp theo lấy thủ chưởng lẹ làng đẩy trở ra, thế ấy gọi là “Dẫn Hổ Nhập Lâm” (dẫn hổ vào rừng) cái ngoéo lúc nãy là thế hư, chưởng đẩy ra sau mới thật.
Châu Bá Thông hiểu rõ toàn thân Song quái được bao bọc một lớp y phục da cá trơn tuột, thì dùng phép “Cầm nã” hay thuật “Điểm huyệt” đều vô dụng không hiệu lực, chỉ có phương pháp dùng chưởng lực mạnh để đả kích mới có thể chấn thương được yếu huyệt của đối phương.
Người mai phục trong bóng tối tấn công Châu Bá Thông vừa rồi chính là Âm Trường Giang. Y thấy Châu Bá Thông phản công một chiêu vội rụt tay lại đồng thời chân mặt vung lên một cước liền. Châu Bá Thông mới vào thạch động, cảm thấy trước mặt tối đen một màu là vì bất kỳ người nào từ chỗ sáng bỗng bước vào chỗ tối đều mắc phải hiện tượng như thế, tuy đôi mắt chàng chưa thể nhìn thấy mọi vật nhưng cảm giác của hai tai rất nhạy bén, đối phương vừa cất chân lên, chàng đã phát giác được rồị
Châu Bá Thông rùn mình ngồi xuống, hai tay chắp vòng lại thành hình vòng cung, một “Hóa” một “Hiệp” sử dụng chiêu Thôi Song Vọng Nguyệt bắt lấy gót chân của kẻ địch. Âm Trường Giang nhanh như tia điện lòn mình ra sau lưng Châu Bá Thông, tay trái dùng thế “Kim Báo Hiển Trảo” (beo vàng giương vuốt), định chộp vào “Phong Phù huyệt” sau lưng chàng. Châu Bá Thông lập tức quét trái ra sau một cước, Âm Trường Giang thoắt một cái đã nhảy tránh về phía trái và kêu lên :
- Họ Châu kia, tiến vào trôn ốc thứ hai đi thôị
Rồi như một trận gió thoảng, thân hình y đã lòn tuốt bên vai của đối phương, trong nháy mắt, người y đã biến mất vào bóng tối, không hiểu đã chun vào hang ngách nàỏ
Châu Bá Thông dụi mắt mấy cái, vuốt ngực lấy lại can đảm, định thần nhìn kỹ, quả nhiên thấy được tình thế của trận pháp không khác với ý liệu của chàng.
Cái sơn động này hình thể tựa như một cái vỏ ốc thiên nhiên, bên trái một vòng bên mặt một vòng quanh đường đi uốn qua lộn lại khó nhận vô cùng, mỗi đoạn đường quanh đều có những thạch nhũ, thạch trụ, muôn hình vạn trạng sắc như kiếm, nhọn như dao, trông rất âm u rùng rợn. Châu Bá Thông vừa đi vừa lầm thầm một mình :
- Hai con rùa đen phải gió này, định gạt mình vào đây để mình lạc đường chết đóị Vào thì được mà ra khỏi thì khó, nhưng Châu lão gia này đâu có mắc mưu bọn mi!
Nói đoạn, chàng liền sử dụng Thiên Cân Trụy công phu, nện mạnh bước chân xuống đất, trên mặt đất cứng lập tức hiện ra rõ ràng từng dấu chân một của Châu Bá Thông sâu độ nửa tấc. Nơi chỗ dấu chân đá nát biến như bột, chàng cúi đầu xuống quan sát, đắc chí cười lên ngặt nghẽo và nói :
- Đại sư huynh mình thường nhắc cái gì là Tuyết Nê Hồng Trảo công phu, ta hôm nay lưu lại vết chân nơi đá cứng này mà những vết chân trên đá kia dù cho hai con ngợm ấy dùng dao mà cạo, cũng vô phương cạo mất dấu!
Vừa nói vừa nghinh ngang chui sâu vào trong động, vòng qua khỏi khúc quanh, nơi đây lại là một tòa biệt động khác.
Châu Bá Thông chưa kịp quan sát chung quanh.
Chàng nghe sau lưng có hơi gió kêu lên một tiếng “vù”, từ trong bóng tối một người nhảy ra, bất thần tấn công vào phía hậu của chàng, Châu Bá Thông lập tức quay người lại để ra tay đối phó nhưng đã không kịp, chàng chỉ còn cách sử dụng quyết chữ “Xà” của môn nội công Toàn Chân phái, thân hình co rụt vào bên trong, nơi chỗ đối phương mai phục rất gần, lại nhảy tới hết sức đột ngột, nên Châu Bá Thông đành lãnh trọn sau lưng một ngọn Âm Phong trảo đánh bùng một tiếng, may chàng kịp thời phòng bị, bắp thịt toàn thân có sức co giãn tự động thừa theo đà trảo phong của đối phương áp tới, thân hình chàng đã nhẹ nhàng bay xớt ra ngoàị
Người vừa ra tay đột kích chàng là Âm Trường Hà. Thân hình Châu Bá Thông vừa rơi xuống chàng đã lật tay đánh ra một chưởng “Hồng Vân Thác Nhật” (mây hồng đỡ vầng nhật), chém vụt vào mặt đối phương. Âm Trường Hà vội nghiêng đầu tránh khỏi, đồng thời giương tay ra, dùng năm ngón tay chộp vào khuỷu tay của kẻ địch. Châu Bá Thông liền thối lui một bước. Hai người trong động huyệt âm u đánh nhau một trận dữ dộị
Nơi chỗ hai người giao đấu, hình thế vách động rất phức tạp, thạch nhũ, thạch trụ rất nhiều, nhô ra thụt vào, dọc ngang khắp chỗ, trên mặt đất lại lồi lõm gai góc không chỗ để chân. Âm Trường Hà nương vào nơi địa vật hiểm trở này, thi thố Hải Xà công tuyệt kỹ của mình, lòn qua lộn lại giữa đám thạch trụ thạch nhũ nhấp nhô lổm nhổm, nhanh nhẹn như con rắn biển, vừa tấn công đối phương vừa lẩn trốn một cách tài tình, khiến Châu Bá Thông cứ thỉnh thoảng phải chịu đòn mà khó phản công được Âm Trường Hà.
Hải xà là một loài rắn có chất độc sống ở đáy biển, nếu bị cắn phải, nọc độc của chúng rất khó chịu, loại hải xà mà dân chài lưới thường bắt gặp chỉ độ ba bốn thước là cùng, đây là loại nhỏ. Những loại hải xà lớn thường ẩn dưới đáy biển sâu thẳm dài đến mấy trượng, lớn như khúc cột tọ Có con trên đầu mọc sừng như tê ngưu, bên mang lại mọc hai nhánh hình dạng rất quái dị mường tượng như loài yêu quáị
Nhưng loài hải xà ấy, không dễ gì gặp được chỉ những lúc sắp có bão lớn, hoặc khi thời tiết biến đổi quá bất ngờ, loại ấy mới chịu xuất hiện! Khi xuất hiện tựa như thần long một thứ, chỉ thấy được khúc đầu mà không thấy khúc mình, đấy là nguyên do những tin đồn đại về “Hải quái” hay “Hải long” mà các hàng hải gia hay các ngư ông thường bàn luận xôn xao trên báo chí.
Hai anh em Âm Trường Giang sinh trưởng ở cạnh hải vực từ nhỏ đến lớn, rất thường thấy cách lặn lội ở loài hải xà trên biển. Chúng liền hội ý và sáng chế ra môn võ công gọi là Hải Xà công. Mỗi khi sử dụng, thân mình của chúng mềm dẻo uốn éo, len lỏi qua những khe đá, những ngọn thạch nhũ như con rắn biển đang vờn theo ngọn sóng nhấp nhô trên mặt biển vậỵ
Âm Trường Hà giao đấu với Châu Bá Thông trong thời gian khoảnh khắc đã trên mấy chục hiệp. Tuy bản lãnh của Châu Bá Thông cao kỳ hơn Âm Trường Hà gấp mấy lần, nhưng cũng không có cách nào để đánh trúng Âm Trường Hà cho được.
Châu Bá Thông đang khi giao đấu kịch liệt, trong đầu chàng bỗng lóe lên một chủ ý, chàng tự nghĩ thầm :
- Không xong! Hai con quái đen này định dùng chiến pháp xa luân chiến, để làm cho ta mệt không kịp thở, rồi dẫn dụ ta vào sâu Hải Loa trận.
Chàng sực nghĩ ra một kế, liên tiếp quét ra hai chưởng thật mạnh, chưởng phong kêu lên vù vù, dồn Âm Trường Hà phải nhảy ra sau một hòn thạch nhũ, rồi bất thần chàng giơ chân trái lên dùng công phu “Thiết Tảo Trửu” (chổi quét sắt) tức thì có mấy tiếng “Ầm” “Chát!” vang lên tựa như đất động trời nghiêng, những hòn thạch nhũ đều bị cước của chàng đá gãy lông lốc, đá vụn bay lên rào rào văng khắp mình mẩy của Âm Trường Hà.
Hắn ta trong lúc bất ngờ giật nẩy mình sợ hãi chun vọt sang phía khác để tránh.
Châu Bá Thông thừa lúc Âm Trường Hà đang chạy vọt rạ Chàng liền cúi mình xuống hốt đầy hai nắm đá vụn, tiếp theo đấy vung hai tay ra, những hòn đá vụn kia tựa như những hòn liên chu bay thẳng vào người của đối phương.
Châu Bá Thông lúc chưa học nghệ đã là một chú bé rắn mắc hơn ngườị
Ném đá là một trò chơi thông thường của tuổi trẻ nên sau khi luyện xong võ nghệ tài ném đá của chàng có thể nói là xuất quỷ nhập thần.
Nắm đá vụn của Châu Bá Thông vừa ném ra xem lại rất nhẹ nhàng, nhưng Âm Trường Hà sợ đến kinh hồn thất đảm.
Thì ra Âm Trường Hà tuy nhờ có lớp da cá che chở thân hình, nhưng những viên đá của Châu Bá Thông ném ra, sức mạnh có thể xuyên qua gỗ đá, lớp y phục da cá tuy mềm dẻo, bên ngoài lại còn thoa lớp sơn dầu, những hòn đá kia dù không xuyên qua được lớp da nhưng bắn vào người đau buốt như bị lửa đốt kim châm vậỵ
Âm Trường Hà bị đám mưa đá mù mịt ấy, không còn đường đâu tránh né, khắp người y bị lãnh hết mấy mươi viên, đau nhức đến tim phổị Y kinh sợ kêu “oái” lên một tiếng, thân hình nhảy lên nhảy xuống mấy lượt, liền biến mất trong đám thạch nhũ mất dạng. Châu Bá Thông khoái trá buông tiếng cười lên ha hả!
Trong lúc chàng cười như điên dại, bỗng nghe trên đỉnh động tối âm u, tiếng động khe khẽ tựa như tiếng chim vỗ cánh. Châu Bá Thông hoảng hồn ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy một màu tối âm u, tuyệt nhiên không có một điểm gì khác lạ.
Châu Bá Thông tưởng lỗ tai mình nghe lầm, nên không thèn để ý đến, tiếp tục len lỏi qua đám thạch nhũ để tìm đường đi tới, đến đoạn đường quanh, chàng lại vận sức in bốn dấu chân xuống mặt đất đá để đánh dấu phòng khi bị lạc đường sẽ noi theo dấu chân mà tìm lối rạ Châu Bá Thông lại thò tay vào túi bá bửu của mình móc ra một nắm tùng hương và hỏa phấn rải lên mặt đất, nhưng hỏa phấn ấy có chất lân tinh nên rải đến những nơi tối tăm không có ánh sáng liền phát ra thứ ánh sáng xanh lờ mờ, với mắt của người thường rất có thể là không trông thấy nhưng với đôi mắt của những người có võ công, thì đấy là một dấu hiệu rất rõ vậỵ
Châu Bá Thông cẩn thận rải xong hỏa phấn, mới tiếp tục đi sâu vào trung tâm trận Hải Loạ
Đi độ sáu bảy trượng, chàng tại rải thêm một lớp hỏa phấn, đi thêm hai ba chục bước nữa, trước mặt chàng đột nhiên có một tiếng “vù”, tiếp theo một luồng âm phong thổi đến, hơi lạnh buốt như băng, khiến Châu Bá Thông không thể tự chủ được mà run lên cầm cập Châu Bá Thông vốn đã luyện qua nội công của Toàn Chân phái, khí lực hùng hậu sung mãn, tuyệt không thể bị khí lạnh xâm nhập vào người mà run lên một cách dễ dàng như thế. Chàng ngạc nhiên và thầm nghĩ :
- Ủa! Âm phong từ đâu mà đến vậỷ Không lẽ cổ động trên Lục Hoành đảo này có yêu ma ẩn núp hay saỏ
Chàng không còn dám khinh suất nữa, mà cẩn thận từng bước tiến tới trước.
Bỗng phía trước có ánh sáng xanh lập lòe rồi từ trên động tụt xuống một bóng đen thuị
Châu Bá Thông tròn mắt nhìn kỹ, chàng sợ hãi đến giật mình đánh thót, tim nhảy thình thịch trong lồng ngực, thì ra cái bóng đen vừa tụt xuống chính là một con quỷ thần vòng mà thế tục thường đồn đại, đầu trần tóc xõa, hai hàng lệ máu còn dính trên hai má. Chiếc lưỡi dài hơn thước đỏ như máu, lòng thòng trước ngực, trên chiếc áo trắng toát lốm đốm những vệt máu tươi, càng nhìn càng thêm rùng rợn kinh hoàng. Châu Bá Thông sợ đến há hốc mồm ngẩn người ra, chàng lẩy bẩy thối lui ra sau hai bước, kêu lên :
- Ôi! Cha mẹ Ơi!
Trong lúc chàng định quay mình trốn chạy, sau lưng chàng liền có tiếng người vang lên hết sức khẽ :
- Giả đấy!
Châu Bá Thông không hổ là cao thủ trong Toàn Chân phái, vừa nghe tiếng nói bí mật ấy liền tỉnh ngộ ngaỵ Chàng lại vội dừng chân trở lại, trố mắt nhìn kỹ, thấy rõ con quỷ thắt cổ tuy hình dáng đáng sợ nhưng không có thần sắc.
Chàng khám phá ra đấy là một tượng gỗ, tóc, tai, lưỡi đều là giả cả.
Châu Bá Thông bỗng phát cười lên ha hả và nói :
- Người sợ quỷ ba phần, quỷ sợ người đến bảy phần. Hừ! Bạn ơi, tòn teng trên ấy làm gì, định dọa mỗ saỏ Hà, hà...! Xuống đây chúng mình kết bạn nhau chơi!
Con quỷ thần vòng liền lắc lư thân hình, đu qua đu lại trên đỉnh động, bất thần tay của con quỷ nhúc nhích động đậy mấy cái như hình sống. Châu Bá Thông thấy rõ chân tay con quỷ đều có buộc những sợi dây đen ăn thông lên đỉnh động, tựa như những người bắc phương hát trò múa rối bằng hình nhân một thứ, tay chân của hình nhân giơ lên hạ xuống đều nhờ sợi dây của tay người điều khiển.
Châu Bá Thông không nghĩ ngợi, vội cúi xuống đất nhặt hai hòn đá tròn bằng nắm tay, miệng chàng vừa gọi lớn :
- Xuống đâỵ
Hai hòn đá trên tay chàng cũng đồng loạt nhanh như cơn gió bay thẳng vào tượng gỗ thần vòng đang lơ lửng trên đỉnh động. Tức thì có tiếng kêu lên :
- Ôi cha!
Tiếp theo đấy là có một bóng người từ trên cao lảo đảo rơi xuống như một chiếc lá và tượng gỗ thần vòng kia cũng đứt dây rơi theo xuống “Bộp”, “Bộp” trên mặt đất.


Hồi 27

Trong Đầm Ngư Long


Châu Bá Thông cười lên ha hả, ngờ đâu tượng gỗ giả thần vòng vừa rơi trên mặt đất liền nghe mấy tiếng “Kinh, coong” liên tiếp của hai loại kim khí đồng và thép va chạm nhau, trên thân hình của con quỷ thần vòng “Soạt, soạt” bắn ra bảy tám mũi ám khí hình dạng quái lạ, hơi lạnh lóe mắt, thoáng một cái đã bay tới suýt chút nữa đã bắn trúng vào người Châu Bá Thông.
Chàng hoảng hốt thầm kêu trong bụng :
- Hỏng to!
Chàng lập, tức dùng môn Địa Đường công nhào gọn xuống đất lăn tròn một vòng. Kể ra động tác chàng rất nhanh chóng, nhưng cũng may vì thân hình của con quỷ thần vòng bị rơi xuống đất, nên những mũi tên bắn ra mất đi hiệu lực chuẩn đích, chỉ bay xớt được qua thân hình Châu Bá Thông lao thẳng vào vách đá và thạch nhũ kêu lên liên tiếp “Coong”, “Kinh”, sao lửa xẹt lên tung tóe đủ thấy lực đạo những ám khí ấy vô cùng lợi hạị
Châu Bá Thông trong phút kinh. hoàng, giật mình đẩy ra một chưởng, chưởng phong liền đẩy bật tượng gỗ thần vòng rơi trong đám thạch nhũ sắc nhọn, “rắc, rắc” hai tiếng, chiếc hình gỗ ấy bị lao mạnh vào đá cứng, gãy thành hai đoạn.
Châu Bá Thông lúc ấy tung người đứng dậy gọn gàng, định thần nhìn kỹ thì quả đúng với ý liệu mình, con quỷ thần vòng tạc bằng gỗ khô, bên trong rỗng ruột có đặt cơ quan chằng chịt dây sắc lò xọ
Không cần đoán cũng biết đấy là nơi phát ra ám khí. Chàng lại lượm những mũi ám khí vừa rồi lên xem xét, thì thấy là một loại phi đinh đặc biệt, mũi nhọn hình ba góc, màu xanh đen óng ánh, rõ ràng có tẩm một loại độc dược cực kỳ lợi hạị Chàng “hừ” lên một tiếng lạnh lùng và nói :
- Thật là quân đáng chết, dùng cây tạc hình yêu quỷ để nhát người cho khiếp sợ, rồi dùng ám khí để hại người, ác độc thật.
Chàng nhìn thấy cách chỗ tượng gỗ thần vòng rơi không xa, còn có một người áo da đang nằm. Châu Bá Thông lập tức phi thân đến nơi, nhấc bổng gã áo da lên, người này vẫn còn sống, giữa đỉnh đầu bị lủng một một lỗ bằng nắm tay vì bị hòn đá chàng ném trúng khi nãy nên có vết thương như thế, máu me chảy tràn đọng vũng trông rất rùng rợn.
Lúc Châu Bá Thông nhấc y lên thì còn chút hơi ấm, nhưng sau đấy y thở hắt ra một cái rồi tắt thở luôn.
Châu Bá Thông kinh hãi khôn cùng vì từ lúc luyện võ đến giờ, đây là lần thứ nhất chàng dùng võ công giết ngườị Thì ra quy luật của giáo phái Toàn Chân, tuyệt đối không hại mạng người, thưở trước, Thanh Hư Chân Nhân cũng thế, mà cho đến hiện tại Trùng Dương Chân Nhân cũng noi theo như vậỵ Từ khi bọn họ thành danh đến nay chưa hề giết qua một sinh mạng nàọ
Châu Bá Thông hôm nay đến Lục Hoành Đào lần đầu tiên thi thố tài năng sở đắc, đã phạm giới quy, chàng không ngờ là với một cái ném hòn đá ấy mà giết chết được người, trong lòng hết sức hối tiếc. Chàng ném xác chết trở xuống đất, chửi đổng lên :
- Đồ rùa thúi, ai bảo mi giả ma để nhát người, làm liên lụy ông phạm phải sát giới!
Nói chưa dứt tiếng, bỗng nghe hơi gió thổi ù ù, một luồng âm phong lại bay đến khiến cho Châu Bá Thông cả kinh, vội nhảy chéo sang bên để tránh, định thần nhìn kỹ, mới khám phá sự bí mật của luồng âm phong quái lạ ấỵ
Thì ra trên nóc động có đục một hàng dài lỗ mắt cáo rất ngay ngắn, những lỗ mắt cáo ấy dường như thông ra tuốt bên ngoài động, mỗi lần có sơn phong thổi đến, luồng gió sẽ xuyên vào lỗ mắt cáo và trôn ốc theo vách núi thổi tạt xuống dưới động trở nên một luồng âm phong lạnh lẽo khác thường.
Đây là một hiện tượng rất tự nhiên theo định lý của khoa học, nhưng ít khi mà ta được gặp. Như ở Tứ Xuyên trên đỉnh núi Nga Mi có một cái động trứ danh là Lôi Thần Động, du khách mỗi khi vào động sẽ thấy âm phong từng luồng thổi đến, không thể đốt đuốc lên được. Sơn dân trong vùng đồn đãi là trong động có nhốt một con nghiệt long của một lão tiên ông, cho nên mới có hiện tượng quái dị kiạ
Nhưng chỉ là nhưng lời đồn huyễn hoặc, mà kỳ thật chính là hiện tượng như vừa nói trên thôị
Châu Bá Thông sau khi phát hiện được nguyên do của luồng âm phong, như cất đi được cục đá trong lòng, vừa định tiếp tục tiến bước vào trong, thì bất ngờ từ đám rừng thạch nhủ phía bên trái có một lưới binh khí kỳ lạ nhanh nhẹn như một con chim bay chém vút vào đầu Châu Bá Thông.
Châu Bá Thông vừa nghe tiếng gió lạ, vội hụp đầu xuống, rồi dùng ngay Triền Phong thố, giơ chân quét trái ra sau một vòng.
Địch thủ vừa tấn công lén chàng cũng là một người áo da bản lĩnh khá cao kỳ, món binh khí trên tay là chiếc vòng Cang Liên, vừa “leng keng” chụp trợt qua đầu Châu Bá Thông thì ngọn Triền Phong thố của chàng cũng vừa quét tới, y liền mượn đà của chiếc vòng Cang Liên vừa bay ra, thân hình phi bổng lên cao đã tránh được ngọn cước của đối thủ. Châu Bá Thông định đánh bồi thêm một chưởng thì từ ba phía trước mặt nhảy vụt ra ba người, mỗi người trên tay đều cầm loại binh khí “Cang Liên hoàn” như nhau, họ vừa rung chiếc vòng sắt kêu lên “loong coong” liên tiếp, vừa như một cơn gió lốc xoay tròn xung quanh Châu Bá Thông, tấn công chàng tới tấp.
Bốn người này đều là môn hạ của Đông Hải song quái mà cũng là những hảo thủ nhứt nhì trên Lục Hoành đảo, tên chúng là Huyền Quang, Huyền Minh, Phù Sanh, Phù Trần, xuất thân từ trong đám thuyền chài, cha mẹ chúng bị anh em Song quái giết chết rồi bắt cóc chúng về đây từ lúc còn bé nuôi dưỡng cho đến lớn, để làm môn hạ suốt đời hầu cận bọn anh em Âm Trường Giang.
Bọn chúng bốn người mỗi ngày ở trên đảo luyện tập môn công phu vùi mình trong cát chính là bốn tên áo da cá xám mà Châu Bá Thông đã gặp qua lúc nãy khi bước chân lên đảọ Bây giờ chúng đảm nhiệm phòng vệ vòng thứ tư của Hải Loa trận pháp.
Bọn chúng bốn ngươi sử dụng bốn chiếc vòng “Cang Liên hoàn” theo công phu Hải Xà liên pháp, bốn chiếc vòng sắt tựa như con quái xà, bay lượn, uốn khúc, trên, dưới, đông, tây, kết thành một màng lưới bàng bạc, vây kín Châu Bá Thông vào giữạ
Châu Bá Thông thấy thế công của bốn chiếc vòng Cang Liên rất tinh kỳ, nên không dám khinh xuất, tự nghĩ mình là sư đệ của Chưởng giáo Toàn Chân phái, nếu để thua thiệt dưới tay bốn tên hậu bối này, thì còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ?
Chàng không còn dám dùng tay không để tiếp chiến với binh khí của kẻ địch, liền với tay rút phăng thanh kiếm sau lưng ra Châu Bá Thông từ lúc lên Lục Hoành đảo tới giờ, đây là lần đầu tiên chàng sử dụng thế kiếm.
Mũi kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, Châu Bá Thông liền sử dụng ngay Thái Ất kiếm pháp của Toàn Chân phái, mũi kiếm trên tay chàng biến thành một luồng lãnh quang, lấp loáng trên dưới, tựa như một chiếc móng bạc bay vút giữa trời đỡ vẹt bốn ngọn Cang Liên hoàn của đối phượng ra ngoàị Trong vòng không đầy ba hiệp chàng đã dồn bọn chúng đến luống cuống cả chân tay, thối lui vòng khắp bốn vách động!
Châu Bá Thông hơn hai mươi năm trời khổ luyện trên núi Tung Sơn, thì bốn người của bọn Huyền Quang đâu phải là đối thủ của chàng.
Đấu đến ba mươi hiệp, Châu Bá Thông bỗng quát lên một tiếng rất lớn, kiếm quang bay xẹt như một tia điện, hất văng chiếc vòng sắt của Huyền Quang, tiếp theo đấy mũi kiếm trầm xuống ngoáy nhẹ soạt một tiếng, lớp da cá trên người Huyền Quang bị mũi kiếm ngoáy rách một lỗ tròn. Máu tươi từ miệng vết thương tuôn xối xả, Huyền Quang kêu lên một tiếng đau đớn :
- Ối cha!
Rồi quay mình chạy trốn vào trong động sâụ
Châu Bá Thông tinh thần càng thêm hứng khởi, vũ lộng thanh kiếm như mưa sa bão táp, “soạt! soạt” liên tiếp hai kiếm, hai chiếc “Cang Liên hoàn” trên tay của Huyền Minh, Phù Sanh trước sau bị lưỡi kiếm chém gãy, mũi kiếm bay tới đâu là lớp áo da bị rạch đứt và gây thành thương tích cho bọn chúng đến đấỵ
Châu Bá Thông trong trận đấu này, chàng đã được thêm một kinh nghiệm, lớp áo da cá trên người của Đông Hải song quái và bọn đồ đệ của chúng không tuyệt đối kiên cố dẻo dai như chàng đã lầm nghĩ. Tính chất của da rất dẻo, hơn nữa trên lớp y phục bằng da lại bôi thêm một lớp dầu sơn láng cuộn thành ra các loại vũ khí như côn bổng hay quyền cước đánh vào đều bị trợt tuốt ra ngoàị Nhưng nếu dùng những loại binh khí bén nhọn như đao kiếm đâm vào thật mạnh, thì lớp áo da cá kia sẽ bị đâm thủng ngaỵ
Cho nên lúc nãy Châu Bá Thông chỉ ném mạnh cục đá trúng vào đầu tên bộ hạ của anh em Song quái nên phải bể đầu chết tốt. Tiếp theo đấy chàng dùng Thái Ất kiếm pháp của Toàn Chân phái liên tiếp chém trọng thương ba tên trong bọn Huyền Quang, khiến bốn gã đệ tử của Song quái thấy kiếm pháp của Châu Bá Thông quá lợi hại nên không dám ham chiến, mà đồng hô lên một tiếng rồi quay mình chạy trốn như bay, mất hút trong động.
Châu Bá Thông định tâm chộp cổ một lên trong bọn để tra gạn cho rõ đường đi nước bước khắp nơi, chàng thấy bốn tên vừa lủi đầu trốn chạy, liền lao mình nhảy đuổi theo để chụp vào tên chậm chân chạy sau rốt nhất.
Bất thần từ trong bóng tối có bóng người nhảy vù ra chận lại, người này toàn thân mặc một lớp y phục bằng da màu lam, thân hình cao lớn vạm vỡ, lặng im không một tiếng nói, hai tay múa lên vun vút kèm theo tiếng gió của binh khí, đánh vụt vào mặt Châu Bá Thông!
Sự thể xảy ra quá bất ngờ, suýt chút nữa là Châu Bá Thông bị nguy nhưng đã là người võ công luyện đến mức thượng thặng, tai mắt rất linh thính và phản ứng cũng rất nhanh chóng. Vừa thấy bóng kẻ địch xuất hiện, Châu Bá Thông liền dùng thân pháp “Bạch Viên Khiêu Giang” (vượn trắng nhảy qua suối) nhanh nhẹn nhảy trái ra phía saụ
Gã mặc áo da màu xanh, thân pháp rất nhanh chóng, vừa tấn công vào khoảng không, gã đã phi mình nhảy vụt theo chàng như hình với bóng, hai ngọn binh khí đen thui song song lao nhanh vào ngực chàng, cùng trong thời gian chớp nhoáng ấy, Châu Bá Thông lúc đó mới thấy rõ hai món binh khí trên tay đối phương thật cổ quái vô cùng!
Binh khí ấy giống như một đôi càng cua thật lớn, mở ra kẹp lại linh động theo ý muốn, làm bằng thép sơn đen nhánh, trên mũi nhọn của chiếc càng cua bằng sắt ấy còn hiện lên ánh sáng xanh biêng biếc, rõ ràng có tẩm chất thuốc độc vô cùng lợi hạị Gã sử dụng đôi càng cua sắt kia không phải cầm binh khí nơi tay như người thường mà trái lại hai bàn tay của gã dường như bị chặt đi, rồi đem món binh khí lạ ấy buộc chặt vào hai khủy taỵ Nói rõ hơn một chút là người và binh khí liền nhau thành một, có thể sử dụng tùy theo tâm ý. Người đến đâu là binh khí theo đến đó, linh động như thần. Châu Bá Thông từ thưở bé đến giờ đây là lần thứ nhứt mới gặp được con người cổ quái như thế.
Chàng lập tức dùng ngay thân pháp Thiết Bảng Kiều để cho thân hình hơi ngã về phía sau đồng thời dùng Triền Phong thố quét ra một đá thật nhanh. Quái nhân tay càng cua hoảng hốt nhảy lùi về phía sau để tránh.
Châu Bá Thông vừa dồn được tên càng cua thối lui, chàng lập tức sử dụng ngay Thái Ất kiếm pháp, dùng chiêu “Khổng Tước Khai Bình” (chim sẻ mở rập) kiếm quang quét tròn thành một vòng cung sáng bạc lớn như chiếc mặt bàn tấn công vào đầu địch thủ. Quái nhân ấy liền rùn người xuống để tránh, chiếc càng cua sắt bên tay tả nhanh như một luồng điện từ phía dưới bay thốc trở lên hạ bộ của đối phương.
Châu Bá Thông cả kinh vội nhảy tréo sang bên để tránh, nhưng cũng suýt bị đôi càng cua quái ác của quái nhân kẹp trúng. Chàng tức giận chửi lớn :
- Đồ rùa thúi! Bộ mi là cua thật saỏ
Quái nhân cười khan một tiếng và lạnh lùng đáp :
- Phải, đây là môn “Báng Giải công phu” (công phu loài cua), đôi càng sắt trên tay ta là đôi càng cua! Xem đâỵ
Tiếng nói chưa dứt, thân hình y đã nằm phục xuống đất, hai tay hai chiếc càng giao nhau “Soạt, soạt” sử dụng liên tiếp bốn thế kẹp tấn công vào hạ bộ của Châu Bá Thông, linh động và lợi hại như đôi càng cua thật!
Châu Bá Thông cả giận quát lớn :
- Đồ rùa thúi! Cái gì mà càng cua với càng rùa, chống mắt coi Châu lão gia chặt đứt càng cua của mi ra cho biết.
Chàng liền biến ngay Thái Ất kiếm pháp, mũi kiếm trên loang loáng thành một chiếc móng bạc, che khắp thân thể, khiến cho đôi càng sắt của đối phương không thể đến gần. Đấu thêm mười mấy hiệp, kiếm pháp trên tay lại biến đổi, chàng vừa tấn công bên tả một chiêu “Phong Lôi Giao Kích” (Sét gió chạm nhau) thoắt một cái đã bay sang mé hữu chém liền một thế “Ngô Cang Phạt Thuế” (Chàng Ngô Cang chặt quế), mũi kiếm của chàng luôn luôn đảo tròn theo khuỷu tay của địch thủ mà chém lia lịạ
Quái nhân tuy có môn “Giải Càng Tông” rất lợi hạị Nhưng dù sao cũng vẫn là võ học của bàng môn tả đạo, làm sao có thể đương cự lại với kiếm pháp chính phái Toàn Chân nên sau mười lăm hiệp giao đấu thì chân tay của quái nhân đã bị mũi kiếm của Châu Bá Thông làm cho luống cuống, đôi càng sắt đã mất đi nhiều hiệu lực.
Châu Bá Thông biết rõ yếu điểm của đối phương, liền vận sức vung mạnh đường kiếm theo thế “Nghênh Phong Lượt Yên” (đón gió bắt khói). Hai tiếng “Kinh”, “Coong” nghe vang lên gạt bắn hai chiếc càng sắt ra ngoài, tiếp theo đấy chàng đảo mũi kiếm sử dụng chiêu “Kim Sà Bàn Thụ” chém rơi chiếc càng sắt bên tay tả của đối phương, khiến máu tươi bắn tung tóe khắp nơi, quái nhân liền kêu lên một tiếng thảm thiết.
Châu Bá Thông tưởng đâu địch thủ ít nhất phải đau đớn đến ngất đi, nào ngờ quái nhân khi đứt mất một tay liền tung mình lên bảy tám thước cao, rồi bay vượt qua khỏi đầu chàng, đã không còn thấy đâu nữa!
Sự việc xảy ra ngoài ý liệu của Châu Bá Thông, chàng kinh ngạc thở phào một hơi dài nói thầm :
- Không ngờ cái thằng càng cua này, mất đi một cánh tay mà không rên một tiếng nào cả, lại còn đủ sức trốn chạy được, kể cũng hay thật.
Vừa nòi vừa lần bước tiến trước, chàng không ngờ rằng mình đã vô tình tiến vào trung tâm vòng trôn ốc của Hải Loa trận mà anh em Đông Hải song quái đã bố trí hết sức cẩn mật.
Châu Bá Thông đang mò mẫm đi trong bóng tối, bỗng nghe có tiếng cười hoang dại từ phía trên đỉnh đầu vang xuống. Châu Bá Thông nhận ra là tiếng cười của Âm Trường Giang và Âm Trường Hà hai người, vội định thần nhìn kỹ, thì ra nơi trung tâm động này là một vòng xoáy ốc thiên nhiên, vách núi xoay tròn từ động lên đỉnh như hình cái vỏ ốc lớn, nơi chính giữa có một khoảng đất la liệt mọc dựng lên trên trăm cây thạch nhũ cao thấp không đều ngổn ngang khắp lốị Âm Trường Giang, Âm Trường Hà hai anh em mỗi người đứng trên một cây thạch nhũ, nhìn Châu Bá Thông cười ha hả như trêu chọc!
Châu Bá Thông giận dữ mắng toáng lên :
- Hai thằng rùa kia, cười cái gì? Hải Loa trận của bọn mi bị lão gia phá xong rồi mà bọn mi còn cười như vậy được saỏ
Âm Trường Giang nghe Châu Bá Thông nói, cười và đáp :
- Lão Châu kia, ta cười mi ngu dại, thiên đường sẵn lối chẳng chịu đi, địa ngục không ngõ lại lao đầu vàọ Hà! Hà! Mi đã vào nơi đây thì kiếp này đừng còn mong gặp lại Vương Trùng Dương nữạ Mi dám vào Hải Loa trận kể ra thì cũng đáng mặt anh hùng hảo hán đấỵ Nhưng một chút nữa đây thì hài cốt mi không còn, thật là đáng tiếc lắm thay!
Châu Bá Thông cả giận gầm lên :
- Châu mỗ đếch có sợ! Xem kiếm đây!
Nói xong, thân hình chàng thoắt một cái nhảy bổ đến chỗ Âm Trường Giang đang đứng, Âm Trường Giang như không có ý giao đấu nên vừa thấy Châu Bá Thông nhảy đến, thân hình y hơi nghiêng ra trước đôi cánh tay xòe ra, dùng thân pháp “Thanh Đình Đến Thủy” (chuồn chuồn đáp trên nước) người của y nhẹ nhàng tung lên đáp xuống, tựa như dùng đá ném thia lia trên mặt sông liên tiếp nhảy qua năm sáu cây thạch nhũ. Châu Bá Thông quát lớn :
- Rùa thúi định chạy đi đâủ
Vừa nói vừa đảo thanh kiếm che quanh thân để đề phòng ám khí của đối phương, người của chàng cũng đuổi theo bén gót Âm Trường Giang như bóng với hình, thân hình vừa rơi xuống định tìm một hòn thạch nhủ để đáp chân, nào ngờ hai chân chàng vừa điểm lên đầu ngọn thạch nhũ thì bỗng nghe Đông Hải song quái vỗ tay kêu lên :
- Ngã này, ngã!
Lạ thay, nơi hòn thạch nhủ mà Châu Bá Thông đang để chân, lại có thể ngã được. Chưa kịp đề khí khinh công để đứng vững thì hòn thạch nhũ ấy bỗng tự nhiên hơi nghiêng về một phía, thân hình Châu Bá Thông liền mất ngay trọng tâm lực, sẩy chân té rơi xuống.
Châu Bá Thông lập tức tràn người gượng lại và nhảy qua hòn thạch nhũ kế đó, nào ngờ hòn thạch nhũ này cũng biết cử động, gót chân của Châu Bá Thông vừa điểm lên, hòn thạch nhũ liền ngã chếch về một phía mà liên tiếp sáu bảy hòn thạch trụ gần đấy cũng lăn xuống mặt đất khiến hai chân của Châu Bá Thông đáp vào khoảng trống và thân hình chàng rơi thẳng xuống dướị
Thì ra những hòn thạch nhũ ấy nơi khúc phía dưới nước bị cưa rời thành hai đoạn, mỗi hòn thạch nhũ sau khi cưa xong được buộc vào một sợi dây hình vòng cung giữ lại cho đứng thẳng y như cũ.
Những sợi dây thắt thòng lọng ấy ăn ngầm theo vách núi thông ra một gian thạch động khác do những tay bộ hạ của Âm thị Song quái điều khiển, nếu địch thủ nhảy lên hòn thạch nhũ nào thì kẻ có phận sự giữ hòn thạch nhũ ấy liền kéo mạnh sợi dây, hòn thạch nhũ liền ngã nghiêng về một phía, hòn nào cũng đều như thế, thì dù cho khinh công của địch thủ cao diệu đến bực nào cũng phải sẩy chân rơi xuống đầm sình lầy dưới đám thạch nhũ kia ngay!
Và trong đám rừng thạch nhũ ấy, còn chừa lại độ mười mấy cây nguyên vẹn có đánh dấu bí mật. Âm Trường Giang, Âm Trường Hà cứ theo ám hiệu của những hòn thạch trụ ấy mà nhảy lên nên không sao cả. Bọn chúng chờ Châu Bá Thông đến nơi liền dùng ngay lời lẽ khích cho Châu Bá Thông nổi giận, để chàng không còn đủ thì giờ suy xét mà nhảy lên đuổi theọ
Và quả nhiên, Châu Bá Thông mắc ngay kế dụ địch của Đông Hải song quáị
Nơi Châu Bá Thông bị thọ hiểm là một khoảng đất sình bùn lầy sâu hơn năm sáu thước, nếu rủi bị rơi xuống, thân hình sẽ bị chìm lún trong sình lầy, không thể leo lên được. Nhưng Châu Bá Thông là người thông minh, chàng nhớ lại có lần nghe sư huynh Vương Trùng Dương nói qua nếu con người rủi bị sẩy chân té xuống, bất luận là bãi sình, phù sa hay trong lỗ tuyết, điều cốt yếu là phải bình tĩnh êm lặng, đừng loạn động chân tay để vùng vẫy hay bươn trườn, vì nếu làm như thế thì càng lúc càng bị lún sâu thêm cho đến ngập cả đầu cổ trong đám sình lầy phải ngộp thở mà chết.
Phương pháp thoát hiểm duy nhất là chân tay buông xuôi đừng cử động, dùng thuật khinh công cho thân hình nổi lên trên, rồi từ nấc một nhích người dần khỏi đám sình và tìm vật gì có thể bíu tay được, mượn sức của vật ấy mà tung mình nhảy lên.
Cho nên Châu Bá Thông vừa rớt xuống bãi sình lầy, chàng không chút bối rối, vội vận khí khinh thân, người chàng liền nổi bều trên bãi sình. Chỉ có hai chân và bụng dưới bị lún dưới bùn mà thôi, hơn phân nửa người phía trên vẫn nổi khỏi mặt sa lầỵ Âm thị Song quái thấy thế, đều hết sức ngạc nhiên, kinh sợ bản lĩnh cao diệu của Châu Bá Thông.
Âm Trường Hà bèn lớn tiếng gọi :
- Đồ đệ đâu! Hãy thả Trấp Long rạ
Châu Bá Thông tức giận hét lên :
- Cái gì mà “Trấp Long”, “Tráp xà”, Châu lão gia mời mi ăn vật này cho biết mùị
Hai tay chàng nhanh nhẹn bốc hai nắm bùn liệng mạnh vào người anh em Song quáị Hai anh em Âm Trường Giang phân nhau tả hữu nhảy tránh sang hai bên.
Âm Trường Giang lớn tiếng cười ha hả và nói :
- Họ Châu kia, mi hãy chống mắt xem kỹ trên đầm lầy có vật gì, lần này thật đúng là mi chết mà khỏi cần chôn thây! Hà... hà...!
Châu Bá Thông vội quay người lại thì eo ôi, từ phía dưới mặt lầy nhúc nhích như có vật gì bò đến, rồi hiện ra bảy tám chiếc đuôi thật lớn, hình dáng kỳ lạ, nhọn lểu, đang ngúc ngoắc bò tớị Giống vật bò sát quái dị kia, con nào cũng dài từ bảy tám thước đến một trượng ngoài, mỏ dài răng trắng, nhọn lêu lểu như răng cưa, bò trường trên mặt sa lầy nhanh như bay, trong khoảnh khắc chỉ con cách xa chàng không đầy hai trượng.


Hồi 28

Ngẫu Nhiên Gặp Kỳ Nhân


Thì ra giống vật mà Châu Bá Thông thấy kia, người đương thời gọi là tráp long, chính là loại cá sấu ngày naỵ
Đông Hải song quái đặt tên đám bãi sình lầy dưới đám thạch nhũ là “Đầm lầy tráp long”, và phái người đến Mãn Quảng tìm mua cho được loại cá sấu ấy về thả vào đầm tráp long nuôi dưỡng, bình thường nhốt chúng ở một đầm nước kế bên, nếu khi nào có kẻ địch té xuống đầm lầy thì người đệ tử phụ trách sẽ kéo hổng tấm bửng sắt lên, cho bầy cá sấu bò qua giết hại liền. Châu Bá Thông là người sanh trưởng trong đất liền Trung Nguyên, chưa hề thấy qua giống vật ghê tởm ấy, cho nên chàng sợ đến toát mồ hôi hột.
Trong lúc chàng còn đang sợ hãi thì hai con cá sấu dữ nhứt trong bầy đã bò đến sát người chàng, hai chiếc họng tàng hoạc như hai tấm ván cửa, để lộ ra hai hàm răng lổm chổm như hai lưỡi cưa sắt bén, lướt trong mặt bùn định gắp lấy thân hình Châu Bá Thông.
Lúc ấy, thanh kiếm Châu Bá Thông đã rơi mất trong đám sa lầy khi chàng vừa té xuống, thành thử chàng không còn khí giới gì để chống cự với quái vật.
Trong cơn gấp rút, chàng hoảng hốt không dám chần chờ vội vận sức dùng Kim Cang quyền pháp đẩy mạnh ra trước một quyền tấn công vào đầu hai con quái vật.
Lực lượng của ngọn quyền Kim Cang chàng vừa đánh ra hùng mạnh vô cùng, quyền phong vừa chạm vào đầu quái vật liền nổ một tiếng “bùng!” thật lớn, thân hình hai con quái vật lẫn cả một mảng to bùn đất bị tung bổng lên cao, rồi rơi “bộp” trở xuống phía bên kia mặt đầm sa lầỵ
Hai con cá sấu to lớn kia bị ngọn quyền phong đánh chết liền tại chỗ, nhưng Châu Bá Thông vì phải vận sức nên thân hình bị lún sâu thêm một phần xuống lầỵ
Lúc nãy chỉ có hai chân và bụng dưới ngập, bây giờ thì thân hình đã lún tới khỏi rún, tuy giết được hai con quái vật nhưng thân hình chàng đã chìm sâu dưới đáy bùn trên một thước, nếu đánh thêm hai quyền nữa thôi, thân mình chàng nhất định sẽ bị chôn lấp dưới đám sa lầy ngay! Như vậy dù chàng không chết trong hàm răng cá sấu cũng chết trong đám bùn sâụ Nghĩ đến đây Châu Bá Thông bất giác thở dài não ruột.
Còn lại sáu con cá sấu hơi nhỏ hơn một chút, những con vật bò sát vô tri ấy không vì cái chết của đồng loại mà hãi sợ, vẫn y nhiên đập đuôi hả họng nhe răng phóng mình trườn tới đớp Châu Bá Thông. Chàng cất tiếng thở dài :
- Trời hại Bá Thông này rồi!
Tiếng nói chưa dứt, trên mặt đầm lầy bỗng vang lên những tiếng lộp bộp như có vật gì rơi xuống bãi sình vậy, hai anh em Âm Trường Giang hết sức kinh ngạc liền lớn tiếng hỏi :
- Ai vậỷ
Chúng chợt thấy từ trong bóng tối có những tia sáng óng ánh “soạt!” “soạt!” bay vút trong không khí, rồi mười mấy tia sáng vàng lấp lánh ấy bay thẳng xuống đầm lầy, mỗi làn kim quang đều ghim trúng vào mỗi mắt cá sấu thật chuẩn. Sáu bảy con cá sấu lớn nhỏ trong khoảnh khắc, hai mắt bị những làn kim quang ấy đánh trúng thành ra những con vật mù lòa cả.
Bầy cá sấu quá đau đớn nhảy chồm dậy, bò trườn loạn xị cả lên, chiếc đuôi dài quét ngang quét dọc bốn phía, trong khoảnh khắc mỏ táp mỏ, đuôi quấn đuôi, quây quần cắn táp lẫn nhau thật dữ dội khiến sình lầy trên mặt đầm giao động như sóng bủa ba đào, bùn thúi bay văng tung tóe lên.
Sự việc xảy ra ngoài ý liệu của Châu Bá Thông, chàng lầm tưởng là sư huynh Vương Trùng Dương đã đến nên mừng rỡ khoa tay múa chân kêu to :
- Sư huynh! sư huynh!
Nào ngờ vì sự nhúc nhích ấy mà thân hình chàng bị chìm sâu thêm xuống sa lầỵ
Bùn lầy bay văng khắp lối, bầy sấu lộn lên nhào xuống trông thật rùng rợn.
Châu Bá Thông khiếp hãi phải nhắm mắt lại để bùn đất khỏi văng vào hai mắt.
Lúc ấy hai anh em Song quái chạy như bay đến bên nơi phát ra tiếng động, chúng nhìn thấy những tên đồ đệ phụ trách việc canh gác hầm cá sấu, tất cả bọn chúng đều bị điểm huyệt nằm cứng đơ bên bờ hồ đầm, không động đậy gì được cả.
Những tên đồ đệ của Song quái, tên nào cũng mặc một lớp y phục bằng da cá, những lối điểm huyệt thông thường vô phương xâm nhập vào cơ thể chúng được. Thế mà kẻ bí mật lại có thể cách một lớp da dày vẫn điểm trúng được huyệt đạo trong người bọn chúng, thật là một chuyện thần kỳ hoang đường vượt ngoài ý tưởng của Song quáị
Đáng giận hơn nữa là kẻ bí mật ấy sau khi điểm huyệt đồ đệ của mình, lại còn làm cho bầy sấu đui mù để chúng phải cắn lộn tàn sát lẫn nhau, thế mà hình tích kẻ lạ vẫn không thấy đâu cả.
Âm Trường Giang hết sức tức giận liền lớn tiếng mắng :
- Tên tiểu tử ở đâu đến? Dám trêu chọc anh em lão gia, nếu là đồng bọn của gã họ Châu sắp chết kia, thì đừng dùng cách giấu đầu lòi đuôi ấy, mau ra đây cùng anh em lão gia phân tài cao hạ.
Y kêu luôn hai lượt, nhưng vẫn không có một phản ứng nào khác.
Châu Bá Thông bị ngâm mình trong đám sa lầy, giữa ánh sáng tù mù, tuy mắt chàng không thấy rõ vật gì, nhưng tai chàng rất thính, chàng tự nghĩ thầm trong lòng, người vừa ra tay cứu giúp chàng, quyết không thể là Trùng Dương sư huynh được. Vì Trùng Dương đã khẳng định là không can dự đến lời ước hẹn trên Lục Hoành đảo của Châu Bá Thông. Ngay lúc chàng yêu cầu cho vài người đồ đệ theo giúp tay, Trùng Dương cũng chẳng đáp ứng, thì gẫm lại Trùng Dương chẳng bao giờ đến đâỵ
Tuy vậy, nếu có đi nữa thì sư huynh mình là Chưởng môn của một giáo phái tất nhiên đường đường chính chính mà thẳng vào Hải Loa trận, đâu cần gì phải dùng thái độ lén lút như vậỵ
Như thế thì rõ ràng ân nhân của mình là một cao thủ nào khác chứ nhứt định không phải là Trùng Dương.
Châu Bá Thông sực nhớ đến lúc mình vào vòng trận thứ nhất của Hải Loa trận, trong khi chàng vận sức để in dấu chân lên đá, bỗng nghe trên đầu có tiếng động khẽ như tiếng hút gió, lúc ấy chàng cũng không mấy để ý lắm, và đến vòng trận thứ ba, khi gặp phải tượng cây giả hình tử quỷ, chàng lại nghe sau lưng có tiếng người bảo khẽ cho chàng biết là đồ giả. Như vậy đúng là có người bí mật theo mình vào sâu trong trận Hải Loa này, nhưng tiếc là hành động kẻ ấy quá bí mật và rất kỳ quái, khiến chàng không biết là thù hay là bạn.
Nghĩ đến đây Châu Bá Thông không còn tự chủ được, lấy tay xoa xoa lên trán và lẩm bẩm liền miệng :
- Lạ! Lạ! Quái thật!
Âm Trường Giang gọi luôn một hơi chẳng thấy ai trả lời, vừa thẹn vừa tức?
Âm Trường Hà liền đề nghị :
- Đại ca, mặc kệ nó! Tiểu tử kia chắc chắn là đồng đảng của gã họ Châu, hắn dùng kế dụ ta đấy, tìm kiếm nó làm gì, chúng ta đến chôn sống gã họ Châu trước rồi sẽ hay!
Nói xong y cúi xuống khuân một tảng đá lớn lên, nhắm ngay chỗ Châu Bá Thông đang mắc kẹt dưới bãi sa lầy mà quăng mạnh xuống!
Châu Bá Thông thầm kêu lên một tiếng :
- “Không xong!”
Tảng đá lớn ấy mà rơi xuống, nếu chàng không dùng tay để đón lấy tất phải bể đầu chết ngaỵ Nhưng nếu giơ tay ra bắt lấy, thì kết quả của sự dùng sức ấy là thân hình chàng sẽ bị chìm lút trong đám sa lầỵ Trong lúc vạn phần nguy hiểm ấy bỗng xảy ra một biến cố bất ngờ: tảng đá vừa sắp rơi xuống đỉnh đầu Châu Bá Thông thì từ trên bờ đầm sa lầy bỗng “vù” lên một tiếng, hiện ra một bóng người áo xanh, mặt người áo xanh ấy phảng phất như có đeo chiếc mặt nạ, thân hình y tựa như một con chim én lượn mình ra giữa đầm đón tảng đá vừa bay đến, rồi bất thần giơ tả chưởng ra phẩy mạnh một chưởng vào tảng đá nặng trên mấy trăm cân kiạ “Bùng” một tiếng, tảng đá to tròn như chiếc mặt bàn kia bị cái đẩy nhẹ nhàng của y, lộn tròn một vòng giữa không trung, vượt quá khỏi đỉnh đầu Châu Bá Thông rồi đánh ầm xuống mặt bùn, cách người chàng không đầy một thước, bùn non bắn lên bốn phía văng vào mặt Châu Bá Thông biến chàng từ đầu đến mình đen thui như người đất. Hai anh em Song quái tuy đứng trên bờ nhưng cũng bị chất bùn bắn lên dính khắp thân thể!
Biến cố vừa xảy ra vượt quá tầm mức tưởng tượng của mọi ngườị Tảng đá mà Âm Trường Giang vừa ném xuống, sức nặng trên hai trăm cân, mà quái nhân áo xanh lại có thể dùng một chưởng nhẹ nhàng đẩy bật ra xạ
Người ấy sau khi đã cứu Châu Bá Thông không vì đấy mà mất thăng bằng rơi xuống sa lầỵ
Người ấy uốn mình nhảy vút trở lên bờ, và sau hai tiếng “vù vù” của hai lượt phi thân đã biến mất trong bóng tốị
Châu Bá Thông tuy mặt mày dính đầy đất bùn như mặt quỷ sứ, nhưng nhờ đấy chàng có được một sanh lộ. Thì ra nhờ tảng đá bị người áo xanh đẩy rơi xuống bùn, vị trí lại vừa vặn với tầm tay của chàng, Châu Bá Thông không chút chậm trễ, hai tay nhấn mạnh lên tảng đá, “vút” một tiếng, chàng đã rút thân hình ra khỏi bãi sình lầỵ
Những người tinh thông võ nghệ, toàn thân của họ súc tích sẵn một luồng khí kình, chỉ cần bám vào được một thanh tre hay một khúc gỗ là có thể mượn sức thêm sức, huống hồ đây là một tảng đá lớn.
Người áo xanh cố ý đẩy rơi phiến đá kế bên chàng có khác nào ném xuống cho người chết đuối một tấm ván hay một cái phao nổị Tuy nửa thân hình của Châu Bá Thông bị chìm sâu trong bãi sình, nhưng khí lực trong người vẫn tồn tại, nên tảng đá dù hụt mất hơn phân nửa xuống đất sình, Châu Bá Thông cũng có thể mượn sức nơi tảng đá mà rút người ra khỏi sa lầy, hai chân chàng chỉ cần điểm nhẹ lên mặt tảng đá là tung mình lên đứng vững trên bờ đầm rồi!
Sự thoát hiểm quá diệu kỳ của Châu Bá Thông càng làm anh em Song quái kinh ngạc! Hai người kêu lên một tiếng, định phi mình trở qua đẩy cho Châu Bá Thông rơi trở xuống bãi sa lầỵ
Châu Bá Thông giận như một con cọp điên sút chuồng, gầm lên một tiếng thật lớn, song chưởng múa vù vù chém vút vào mặt Song quái, anh em họ Âm vội vàng múa chưởng nghinh địch.
Ba người tựa như ba chiếc xe gió quay tròn đấu nhau bên bờ đầm một trận ác liệt.
Châu Bá Thông phẫn nộ đến cực điểm, nên chàng bất chấp cả quy luật cấm sát nhân của Toàn Chân phái, chàng đem tất cả chiêu thế lợi hại nhất trong pho Thái Ất quyền sử dụng một lượt bốn bí quyết độc đáo “Bách” “Hấp” “Niên” “Án” tấn công địch thủ tới tấp, chàng lại kẹp thêm sức mạnh kinh khủng của công phu Kim Cang chưởng, định giết cho được anh em Song quái mới hả giận!
Bản lĩnh của anh em Song quái tuy không kém hơn bao nhiêu, nhưng vì sự xuất hiện đột ngột của người áo xanh, dù rằng chưa cùng hai người giáp mặt giao đấu lần nào, nhưng cũng khiến hai người áy náy không yên. Thêm nữa, Châu Bá Thông tấn công tựa như mưa lộng gió cuồng thì hai anh em Song quái làm sao đương cự nổị
Đấu nhau chưa đầy ba chục hiệp, Châu Bá Thông dùng ngay thế “Hải Để Mô Châm” (Kim dưới đáy biển) điểm vào vai tả Âm Trường Giang. Âm Trường Giang thấy chỉ phong quá mạnh, không dám chống đỡ vội dùng ngay thế “Bá Vương Thoát Giáp” (Bá Vương cởi giáp) rùn người xuống để tránh.
Nào ngờ Châu Bá Thông dùng mưu dương Đông kích Tây, chỉ chờ đợi có thế, thân hình bỗng quay phắt ra sau thành thế “Vân Long Trạo Thủ” (Rồng trên mây quay đầu) vừa quay lại, song chưởng đã đẩy ra một ngọn chường phong đánh mạnh vào người Âm Trường Hà “bùng!” “bùng!” vang lên hai tiếng lớn. Âm Trường Hà bị hai ngọn chưởng của chàng chấn động tung bổng lên cao, suýt chút nữa là rơi xuống đầm sa lầy rồị
Thân pháp của Âm Trường Hà cũng khá nhanh nhẹn, khi lơ lửng trên không, y vội hít mạnh chân khí, xoay người một cái, đã nhẹ nhàng đáp xuống bên đầm.
Tuy vậy y cũng sợ đến hồn phi phách tán, đứng ngẩn người ra quên cả sự vào vòng đấu để tiếp tay với Âm Trường Giang.
Châu Bá Thông sau khi loại Âm Trường Hà ra khỏi vòng chiến, chàng không chút chậm trễ đẩy tiếp ra một chưởng quét tréo sang phía Âm Trường Giang. Âm Trường Giang biết rõ sức mạnh của cái chưởng đó đến ngàn cân, khó mà chống đỡ nổi, nên phi mình nhảy vút lên cao hơn trượng và gọi lớn :
- Anh em, chuồn mau!
Hai anh em Song quái một trước một sau nhảy vượt qua đầm Trấp Long, chạy vụt vào một phía khác của trận Hải Loạ
Châu Bá Thông thấy anh em Song quái định chạy trốn liền mắng lớn :
- Đồ rùa thúi, định chạy đi đâu!
Mồm thì mắng, chân chàng vẫn đuổi theo bén gót, chàng nhìn thấy hai người chạy vào một đám rừng thạch nhủ liền phi thân nhảy bổ đến. Nào ngờ trên đỉnh đầu chàng bỗng có tiếng kêu ào ào, rồi cát đất từ trên nóc động rơi trút xuống như mưạ Châu Bá Thông lầm tưởng trên đầu động bị nứt rạn và sắp sửa sập xuống, hoảng hốt kêu lên một tiếng :
- Nguy tai!
Rồi nhảy vụt một cái tránh xa nơi chỗ ấy hơn trượng ngoàị
Nào ngờ chân chàng chưa chạm đất, thì cát đất từ trên đỉnh động liên tiếp rào rào rớt xuống đầu chàng như thác đổ. Xem tình hình thì dường như toàn thể nóc động đều nứt lở và sắp sập xuống vậỵ Châu Bá Thông trong đám bụi cát mù mịt ấy, nhảy đông tràn tây khắp nơi để tránh, nhẩy một hơi liên tiếp mười mấy trượng xa, mới thoát khỏi bị chôn sống trong trận mưa cát đá hãi hùng kiạ
Nhưng khi nhìn lại cảnh trước mắt thì mù mù mịt mịt trắng xóa một vùng như sương, không còn thấy đâu là đường lối nữạ
Châu Bá Thông tưởng bụi cát từ đỉnh động bị lở nứt rơi xuống như vậy là hiện tượng tự nhiên. Nhưng sự thật đấy là do sự sắp đặt của anh em Âm Trường Giang. Trung tâm điểm của Hải Loa trận có một nơi hoàn toàn dùng ván lợp kín trần động, trên lớp ván ấy chứa đầy cát và đá vụn, những đá và cát do những mảnh vụn của thạch nhũ bị đập nát rạ Nếu có cường địch lạc đến nơi ấy, Đông Hải song quái chỉ cần ra lịnh cho đệ tử, ấn tay vào nút cơ quan một cái, tức thì tấm ván nơi ấy sẽ bị kéo lệch sang một bên và cát đất từ trên sẽ trút xuống rào rào, chôn sống địch thủ trong nháy mắt!
Nhưng cơ quan ấy cũng có nhiều nhược điểm, là vì từng tấm ván một, không thể đồng một thời gian khoảnh khắc đẩy ra một lượt được, mà chỉ có thể di động từng tấm một mà thôi, thành thử cát đất trút xuống chậm mau từng khoảng không đều, Châu Bá Thông vừa thoát hiểm khỏi đầm Trấp Long nay đã cẩn thận hơn nhiều, cứ lần lượt nhảy tránh khắp nơi, nhờ vậy mà trận Phi Sa của Song quái không hại được chàng.
Nhưng vì phải nhảy tránh liên tiếp để thoát khỏi trận Phi Sa, Châu Bá Thông không còn tìm đâu ra lối vào trận ban nãy, và vô tình chàng đã lạc vào cửa “tử” của trận pháp Hải Loạ
Thì ra Hải Loa trận của Song quái bắt chước theo Võ Hầu Bát Trận của Khổng Minh Võ Hầụ Bát trận phân ra tám cửa: Đỗ, Cảnh, Lưu, Kinh, Sanh, Tử án thành vị trí tám trận. Hải Loa trận của Song quái cũng phân ra tám trận án thành tám vị trí, hơi khác nhau một chút là tám cửa trận được sắp đặt theo vòng khu ốc mà thôị
Châu Bá Thông bị hãm vào “Tử” môn của trận Hải Loa, chàng đi vòng bên Tây quẹo sang Đông, quanh bên hữu lại lượn sang bên tả, càng đi càng mờ mịt quanh quẩn hơn nửa giờ vẫn tìm không được lối đi lúc ban sơ, Châu Bá Thông bực tức nghiến răng lẩm bẩm, mắng lấy mình :
- Mình sao mà lú quá, cho đến đường đi cũng không nhớ được! Ngu thật!
Đang lẩm bẩm một mình như thế, chàng chợt nghe bên tai có tiếng động thật sẽ như tiếng búng của hai ngón tay, chàng giật mình chưa hết kinh ngạc thì tiếp theo đấy trước mặt không xa, “bộp” một tiếng, có một hòn đá không biết do ai ném vào, rơi ngay tới chân Châu Bá Thông.
Chàng lầm tưởng Đông Hải song quái định giở trò quỷ, cố ý dẫn dụ chàng đến một nơi có mai phục hầm hố gì đây nhưng khi nghiêng tai để nghe kỹ, chàng không thấy động tĩnh gì khác, nên yên lòng tiến tới vài bước, thấy đường đi phía trước mặt không có triệu chứng hầm hố gì khả nghi, chàng cẩn thận đi thêm mười mấy bước. Gần tới một khúc quanh trước mặt chợt nghe bộp một tiếng lại có một hòn đá thứ hai bay tới, lần này không rơi ngay dưới chân chàng như lúc nãy mà lại rơi thẳng vào một động huyệt bên cạnh.
Một ý nghĩ thoáng qua đầu Châu Bá Thông.
Chàng lẩm bẩm :
- Hẳn có người định dẫn đường cho ta đây chứ gì.
Từ lúc chàng đặt chân vào Hải Loa trận, luôn luôn cảm thấy trên tinh thần có điều dị thường phảng phất như có người lẩn lút sau lưng mình nhưng trước sau vẫn không thấy ai cả.
Bây giờ chàng thấy hòn đá tự nhiên bay đến không kềm được trí tò mò nên bước mau tới trước theo hướng hòn đá. Nào ngờ chàng vừa qua khỏi một từng cửa động lại có một hòn đá thứ ba ném vào cửa động kế bên, Châu Bá Thông cứ theo hướng của hòn đá chỉ điểm mà tiến tớị
Cứ mỗi lần Châu Bá Thông đi được chín hay mười bước, hay vòng qua một khúc quanh đều luôn có hòn đá ném ra phía trước, dường như chỉ đường cho chàng.
Châu Bá Thông hết sức băn khoăn, mấy lần định nhìn cho được mặt người đã bí mật dẫn đường. Nhưng người ấy thân pháp nhanh nhẹn kỳ ảo khôn lường.
Châu Bá Thông chỉ thấy được bóng xanh thấp thoáng trước mắt, rồi mất dạng liền!
Chàng cứ theo hòn đá dẫn đường như thế, lòng vòng hơn mười mấy khúc quanh thì đã đến một khoảng động có phần rộng rãi hơn. Châu Bá Thông sực nhớ lại nơi đây là chỗ chàng gặp phải con quỷ thần vòng lúc nãy, mà cũng chính là nơi người bí mật lộ diện giúp đỡ chàng lần đầu tiên. Châu Bá Thông cả mừng nói :
- Tuyệt! Ta có thể ra khỏi Hải Loa trận rồi!
Vừa dứt lời, thì phía dưới mặt vang lên một giọng thật khẽ và cũng thật sắc nhọn :
- Tên sư đệ của Chưởng môn Toàn Chân phái kia, đã mắc kế của người ta rớt xuống bãi sa lầy, tèm nhèm như con lươn đất, phải nhờ người dẫn đường mới ra khỏi trận được, còn gì oai phong nữa mà ở đó khua môi múa mỏ một mình? Hừm!
Nói xong, cười lên một tràng cười thật lạnh lùng.


Hồi 29

Đông Tà Xuất Hiện


Châu Bá Thông không thể ngờ kẻ có ý giúp mình lại lộ ra những lời nói khinh khi mình như vậỵ Trong lòng hết sức ngạc nhiên định mở miệng hỏi, bỗng thấy hơi gió thoảng qua người chàng, rồi trước mặt hiện ra một bóng áo xanh, thấp thoáng mấy cái đã luồn ra khỏi Hải Loa trận.
Châu Bá Thông trong lòng không vui, thầm nghĩ :
- Gã áo xanh này quá cuồng ngạo thôi! Dám liệt mình vào hạng bất lực vô tài, nếu mình không bị bọn Âm Trường Giang và đám thủ hạ rùa con rùa cháu của chúng quấy nhiễu tay chân, thì mình sẽ đấu với y một trận cho rõ tài cao thấp.
Nghĩ xong liền bèn theo lối cũ, như cá theo dòng nước chun tọt ra ngoài, vừa mới ló đầu ra chàng bỗng nghe bên tai có tiếng nhiều người la hét om sòm.
Thì ra ngoài cửa động của Hải Loa trận, một đám người đen nghẹt đông như bầy kiến đang bu quanh cửa động, Châu Bá Thông định thần nhìn kỹ thì đúng là Âm thị Song quái và một đám đồ đệ của chúng. Bọn chúng tưởng Châu Bá Thông một khi đã xa vào cửa tử của Hải Loa trận lại bị đám tro cát trên trần động trút xuống, thì dù bản lĩnh chàng cao cường đến đâu, cũng phải bị chôn sống trong trận. Nếu chàng may mắn không bị chôn sống giữa trận Phi Sa đi nữa, thì chàng cũng không làm sao tìm được lối trở ra, mà phải chết đói, chết khát trong lòng động núị
Không ngờ, Châu Bá Thông lại từ trong động lù lù hiện ra như ma quỷ.
Nguyên do, vì lúc Châu Bá không ngộ hiểm cát đất trên đầu động tụt xuống, tuy nhờ thân pháp nhanh nhẹn, tránh được khỏi nguy, nhưng mặt mày cho đến tóc tai quần áo của chàng bám đầy bụi cát mốc meo, ngoài ra vì sa đầm lầy, nửa phần người bị dính đầy bùn đen dơ dáy mà Châu Bá Thông lại mặc áo trắng. Do đó bọn người trên Lục Hoành đảo thấy Châu Bá Thông đã thành một quái nhân ba màu sắc khác nhau từ dưới động hiện lên, khiến chúng hoảng hốt vội kêu vang như thế.
Châu Bá Thông vừa nhìn thấy anh em Song quái, nư giận chàng đã trào dâng, chẳng thèm nói năng một tiếng, tung mình nhào tới tấn công liền, tay bên trái dương ra, tay mặt chém mạnh xuống hai chưởng, đồng thời công ra một chiêu thế độc đáo của Thái Ất quyền gọi là “Phân Hoa Phất Liễu” ( rẽ hoa vạch liễu) quyền phong kêu lên vù vù phân ra hai phía bay áp đến anh em Song quáị
Âm Trường Giang, Âm Trường Hà cả sợ, vội dùng ngay Địa Đàn công nhào xuống đất lăn tròn một vòng, tránh khỏi luồng chưởng phong dũng mãnh kia, rồi thừa thế lăn sát vào chân Châu Bá Thông để phản công.
Châu Bá Thông vừa định nhảy chéo sang bên cạnh bỗng thấy trước mắt có mấy lằn kim quang lấp lánh một cái, tiếp theo đó tiếng Âm Trường Giang rú lên một tiếng đau đớn, lăn lộn dưới đất hai tay cào cấu loạn xạ vào mặt và đầu, thì ra hai mắt của y không hiểu ai bắn mù tức khắc.
Âm Trường Hà hoảng hốt vội tung mình ngồi dậy, y lầm tưởng là Châu Bá Thông vừa ném ra một thứ ám khí độc môn gì lợi hại, ngờ đâu y vừa tung người nhảy lên thì kim quang lại lấp lánh, một chùm ánh sáng vàng nhỏ rí như sợi tơ, bay vút vào mặt ỵ Âm Trường Hà luống cuống cả chân tay, vội cúi đầu xuống để tránh.
Những làn tơ ấy là những mũi kim vàng thật nhỏ, lúc ra không chừng là ba mũi, năm mũi, mà có thể một chùm năm sáu mươi mũi, những mũi kim lại phân tán ra bủa thành một vòng tròn rộng hơn hai trượng. âm Trường Hà trong cơn hoảng hốt, làm sao có thể tránh cho hết được. Y cảm thấy thân hình đau nhói một cái, bảy tám mũi kim vàng xuyên qua lớp da bên ngoài cắm sâu vào da thịt của ỵ
Âm Trường Hà càng kinh sợ hơn nữa vì lớp áo da trên người y là thứ da của loại “sa ngư” được tẩm luyện với một loại thuốc đặc biệt, thêm vào một lớp dầu cá bên ngoài, vừa rắn chắc dẻo dai lại vừa trơn tuột, trừ những thứ quyền cước nặng nề như loại phách không chưởng là không thể cự đương được thôị
Còn ngoài ra những thứ gươm đao ám khí sắc bén gì cũng không thể đâm thủng nổị
Không dè những mũi kim vàng kia có một kình lực thật kinh người mũi nào cũng xuyên thủng qua lớp da, cắm sâu vào người đau nhức vô cùng. Âm Trường Hà cả sợ định quay mình đào tẩu thì ngay lúc ấy bỗng nghe một tiếng “vút” trong không khí, từ phía trước mặt lại có thêm mười mấy mũi kim vàng nhắm vào hai mắt của Âm Trường Hà vèo vèo bay tớị
Âm Trường Hà kêu lên một tiếng :
- Ôi cha!
Rồi đau đớn ngã nhào xuống đất lăn lộn như điên, hai mắt của y cũng bị bắn mù như của trường hợp của Âm Trường Giang vậỵ
Âm Trường Giang, Âm Trường Hà trước sau trúng phải ám khí, mù cả đôi mắt, không những là thủ hạ của chúng hoảng hốt bàng hoàng, cho đến Châu Bá Thông cũng ngạc nhiên không kém, chàng vội quay đầu về hướng phát ra ám khí.
Ngờ đâu, lúc chưa thấy thì còn khá, đến lúc đã nhìn thấy, chàng kinh hãi đến giật mình đánh thót, miệng lẩm bẩm liên hồị
- Lạ! Quái lạ!
Thì ra trên vách cao của cửa động Hải Loa trận, hiện ra một người mặc áo ngắn màu xanh, đỉnh đầu người ấy gióc tóc theo lối ẩn sĩ, đeo mặt nạ bằng da người, mày chết, mặt chết trông rùng rợn như một con quỷ nhập tràng, lưng người ấy dựa lơ lửng vào vách đá, hai chân hỏng đất tréo vào nhau, như ngồi mà không ngồi, những mũi kim vàng lúc nãy đều do từ hai tay áo của y bay rạ
Trong ngành võ học, có một môn công phu gọi là “Bích Hổ công”, có thể vận khí cho thân hình dán vào tường, nhưng môn công áy chỉ có thể duy trì một thời gian ngắn độ buổi cơm là phải rớt xuống chớ không thể lâu hơn nữa, và lúc dùng “Bích Hổ công” không nói chuyện gì mà cũng không thể làm động tác gì khác, đừng nói chi là phóng ám khí ra tấn công kẻ địch. Quái nhân áo xanh này có thể liên tiếp dùng “Bích Hổ công” đẩy Châu Bá Thông ra khỏi động lại còn có thể phóng ra ba lần ám khí làm đui cả hai mắt anh em Song quái đủ thấy bản lãnh của người ấy siêu tuyệt đến mức độ nàọ
Những thủ hạ của Song quái thấy một quái nhân không biết từ đâu đến và hiện ra một cách đột ngột như thế, đồng reo hò dữ dội, rầm rộ cử động binh khí định xông đến đâm chém quái nhân.
Quái nhân vẫn thản nhiên bất động như không thèm kể số đến, chỉ thấy tay áo màu xanh của gã phất phơ theo làn gió.
Bọn người của Song quái ào ào tiến tới còn cách xa chỗ quái nhân liền nhẹ nhàng giơ hai tay lên, tức thì có tiếng gió kêu “vèo!” “vèo!”, từ tay áo của gã liên tiếp bay ra những mũi kim vàng óng ánh, liền khi ấy mười mấy tên áo da đi đầu đều bụm mặt gào thét như điên. Đôi mắt của chúng đều bị bắn đui như Song quái lúc nãỵ
Châu Bá Thông thấy thủ đoạn của quái nhân vừa siêu tuyệt vừa độc ác quá chừng vì những mũi kim nhỏ li ti như thế mà có thể phát ra hơn chín mười trượng xa, đủ thấy kình lực của đôi tay gã hùng mạnh vô cùng, nhưng khi ra tay không chịu giết người mà lại bắn mù đôi mắt của người, thủ đoạn độc ác như vậy, thật là thế gian hi hữu!
Bọn người trên Lục Hoành đảo thấy mười mấy đồng đảng mình bị hại như thế, kỳ dư bao nhiêu đều run sợ kinh hãi không tên nào dám xông ra trước mà chạy tháo lui trở lạị Lần này Châu Bá Thông cũng không còn nể nang gì nữa, giơ hai tay ra chộp lấy hai tên thủ hạ của Song quái đưa lên cao ném thẳng ra ngoài nhẹ nhàng như ném hai hình nhân bằng cờ.
Quái nhân áo xanh cũng rất lanh tay, thấy Châu Bá Thông vừa giở hỏng người lên thì gã liền phóng kim vàng ra bắn mù mắt kẻ ấy lập tức. Trong khoảnh khắc trên sáu mươi tên đảo chúng thủ hạ của anh em Song quái, tuy không tên nào bị giết chết, nhưng chúng thành kẻ mù lòa cả, máu rỉ nhỏ giọt trên mặt đất trước cửa động Hải Loa trận, tiếng rên, tiếng khóc kêu lên vang dậy khắp một vùng hải đảọ
Châu Bá Thông vội vòng tay xá quái nhân áo xanh một xá và nói :
- Mời huynh đài xuống đây! Huynh đài hại những người này mù cả hai mắt, bắt chúng phải dở chết dở sống thật là quá tàn nhẫn, xin...
Lời nói chưa dứt, bỗng cảm thấy dưới chân nặng trĩu, tiếp theo đấy nửa thân dưới bị một người ôm chặt, một kéo, một trì. Châu Bá Thông bất ngờ không thể gượng chân được té lộn nhào xuống đất đến “bộp” một tiếng!
Nguyên nhân, lúc Châu Bá Thông đang nói chuyện với quái nhân áo xanh, Âm Trường Giang nằm phục dưới chân chàng cách đấy không xa, tuy đôi mắt y đã bị bắn mù nhưng võ công trong người vẫn tồn tại, y nghe lời nói của Châu Bá Thông rõ biết Châu Bá Thông đứng ở gần bên cạnh mình nên bất thình lình lăn tròn đến ôm chặt Châu Bá Thông, dùng võ công để quật chàng té xuống.
Châu Bá Thông trong lúc ơ hờ không kịp phòng bị chỉ “hự!” được một tiếng rồi ngã sóng xoài dưới đất.
Châu Bá Thông vừa té xuống thì Âm Trường Giang đã nhanh nhẹn phủ lên người chàng, đè chặt Châu Bá Thông không cho vùng vẫy, rồi dùng ngay môn “Chương Ngư công” để áp chế định thủ.
Chương ngư là một loại cá trong biển có tám cái tay dàị Loại cá này dùng tám chiếc tay ấy quấn cứng địch thủ không cho lặn lội gì được. Âm Trường Giang định liều mạng với Châu Bá Thông nên dùng hai cùi tay đè chặt trên ngực chàng, hai bàn tay siết lấy cần cổ Châu Bá Thông, eo, chân, hai gối cũng đều nhất tề dùng sức đè chặt đến đỗi Châu Bá Thông tưởng phải đứt cả hơi thở.
Trong khi ấy, quái nhân áo xanh vẫn đứng áp người trên vách động vỗ tay cười ha hả.
Châu Bá Thông vừa thẹn vừa giận, cuống họng của chàng bị Âm Trường Giang siết mạnh đến rướm máu, nếu người khác lâm vào trường hợp như thế, chỉ trong khoảnh khắc sẽ nghẹt thở mà chết. Nhưng Châu Bá Thông là một cao thủ của Toàn Chân phái, tuy yết hầu bị bóp cứng, chàng vẫn có thể vận dụng nội kình của Kim Cang công để chống cự nên không đến đỗi phải nghẹt thở.
Hơn nữa, chàng lại có thể dùng kình lực của Tiên Thiên, hô hấp bằng tất cả cửu khiếu nên dù lâu đến một giờ ba khắc vẫn không hề chết vì mất thở.
Trước mặt quái nhân thanh y mà nhục nhã như thế, trong lòng Châu Bá Thông vô cùng phẫn nộ, khí giận trào sôi, thần lực như tăng thêm mấy bực, chàng quát lên một tiếng thật lớn, bắp thịt của châu thân gồng lên cứng ngắc đồng thời hai cánh tay vùng mạnh một cái tức thì thân hình của Âm Trường Giang bị bật văng ra xa trên ba thước, Châu Bá Thông vội nhảy người lên theo bàn tay vung ra một quyền theo thế “Kim Cang Huy Can” (Phật kim cang múa gậy) đánh trúng vào thiên linh cái nơi giữa óc o của Âm Trường Giang.
Quyền vừa rồi, Châu Bá Thông đã vận đủ kình lực trong người ra tấn công, thế mạnh tựa như búa lớn bửa núi cao, chùy sắt đập đá cứng, khiến Âm Trường Giang bị bể đầu, chất óc phọt ra bên ngoài, chết không kịp kêu lên một tiếng.
Trong thời gian Châu Bá Thông gồng mình để đẩy văng Âm Trường Giang xuống đất thì quái nhân khách áo xanh đã sử dụng một đường cước pháp rất cổ quái, nửa thân hình của y hoàn toàn bất động, mà chỉ có hai chân bay ra liên tiếp như cánh chong chóng, gót chân chỉ cần điểm nhẹ vào trước ngực hay sau lưng kẻ địch một chút là kẻ ấy sẽ mất mạng, ngay cách đá ra đã kỳ ảo thần tốc mà lúc thâu chân cũng quái dị nhanh nhẹn tuyệt cùng, khó mà nhìn thấy cho rõ được.
Châu Bá Thông chỉ thấy một cái bóng xanh thấp thoáng giữa đám người áo đen, nhấp nhô nhảy lên đáp xuống độ mười mấy lần thì những tên đảo chúng trên Lục Hoành đảo nằm thẳng cẳng chết cứng đơ trên mặt đất, nói rõ hơn một chút là chỉ trong một khoảnh khắc công phu, quái khách áo xanh với một đường cước pháp tuyệt thế vô song: quay múa trong một vòng tròn đã giết chết sáu mươi mạng ngườị
Châu Bá Thông nhìn thấy tình thế xảy ra quá khủng khiếp như vậy, chàng nghe như mọc ốc khắp châu thân. Quái nhân áo xanh sau khi giết sạch tất cả thủ hạ của anh em Song quái liền quay đầu lại, gương mặt da người lạnh lẽo âm u như xác chết ấy, nhìn Châu Bá Thông trừng trừng.
Châu Bá Thông là tay đảm lược hơn người nhưng không hiểu tại sao khi nhìn vào chiếc mặt nạ cổ quái ấy, chàng cảm thấy như có một luồng khí lạnh rờn rợn chạy ngược lên tim óc, hai chân như không còn chủ định thối lui ra sau một bước.
Quái khách áo xanh cười lên ha hả rồi nói :
- Họ Châu kia, mi bảo là ta làm cho bọn người ấy đui mắt khiến chúng dở sống dở chết, hành động như vậy thật chẳng xứng là anh hùng hảo hán phải không? Hà hà...! Buồn cười, thật buồn cười! Ta hỏi mi một lời, lúc nãy mi giả nhân giả nghĩa, phải chăng thiếu chút nữa đã nguy đến tính mạng của mi rồỉ
Châu Bá Thông bất giác đỏ mặt. Chàng thầm nghĩ hành động của quái nhân áo xanh này tuy có chút tà môn, nhưng những lời y nói chưa hẳn là không có lý, mình đã buông lời trách cứ đối phương tàn nhẫn nhưng vì một chút động lòng từ bi mà suýt chút nữa đã chết không kịp thở.
Quái nhân áo xanh lại tiếp :
- Này, gã họ Châu! Lúc nãy ngươi bị chúng hãm vào Hải Loa trận, lạc cả lối ra, kêu trời chẳng thấụ Cho đến sư huynh của ngươi là Vương Trùng Dương cũng không cứu được ngươi, thiếu chút nữa phải chết khô trong đó. Như vậy ngươi có gọi là tàn nhẫn không? Ác độc không?
Châu Bá Thông hết đường biện luận, nhưng lại thắc mắc không hiểu vì sao Thanh y quái nhân biết chàng họ Châu và lại còn biết chàng là sư đệ của Vương Trùng Dương.
Thanh y quái nhân nói dứt lời ngang nhiên đi xuống không thèm quay đầu lạị
Châu Bá Thông nhìn theo gọi lớn :
- Tiểu đệ tự biết lỗi mình, xin huynh đài dừng bước.
Thanh y quái nhân dừng chân nói :
- Nếu ngươi biết thế thì hay lắm. Chúng ta có thể kết bạn nhau được.
Châu Bá Thông phóng mình đến Thanh y quái nhân toan tỏ lời thân mật.
Thanh y quái nhân đưa tay rạ Châu Bá Thông cũng lập tức đưa tay ra để đón nhận bàn tay của người bạn sơ giaọ
Nào ngờ, Thanh y quái nhân nhanh như chớp, năm ngón tay bỗng quặp lại điểm vào ba yếu huyệt của Châu Bá Thông là Hội Tông huyệt ở mu bàn tay, Tía Quyết huyệt ở cổ tay và U Cốc huyệt ở khủy taỵ
Tuy hành động bất ngờ song Châu Bá Thông cũng phản ứng rất lanh lẹ.
Chàng xoay người lại lật nhẹ cườm tay, thừa lúc ngón tay của đối phương vừa chạm vào da chỉ lực chưa xuyên qua huyệt đạo, trong khoảnh khắc ấy, chàng đã dùng thế Phong Quyền Tân Vân quắc trở lại nơi huyệt Thủ Quan của quái khách.
Bàn tay Thanh y quái nhân chụp không trúng liền quay tròn một vòng như cá vẫy đuôi trong nước, lướt khỏi mu bàn tay của Châu Bá Thông.
Đoạn Thanh y quái nhân cười ha hả và nóị
- Khá lắm! Khá lắm! Quả không hổ là sư đệ của Vương Trùng Dương.
Châu Bá Thông vòng tay thủ lễ nói :
- Đại danh quý tánh của huynh đài là chỉ Tại sao lại biết được tiểu đệ?
Quái nhân áo xanh không trả lời, vội đưa tay vuốt mặt một cái, chiếc mặt nạ rơi xuống hiện ra một khuôn mặt đẹp tuyệt vờị Châu Bá Thông đôi mắt tròn xoe nhìn sững vào mặt Thanh y quái nhân, lẩm bẩm :
- Ồ! Lạ lùng thật.


Hồi 30

Trên Đảo Đào Hoa


Thanh y quái nhân là một thiếu niên mỹ mạo, tuổi chưa đầy ba mươi, mày kiếm mắt sao, da ngọc môi hồng, phong độ uy nghi tuấn kiệt. Châu Bá Thông từ nhỏ đến lớn chưa gặp một người nào đẹp trai như thế, chàng nhìn đến ngẩn người há hốc miệng toàng hoạc ra trông rất buồn cườị
Vị thiếu niên mỹ mạo thấy vậy khẽ miệng cười và nói :
- Tại hạ họ Hoàng tên Cố, biệt hiệu tự là Dược Sư với lệnh huynh cũng có chút tình biết nhau, tiện xá cũng gần đây không xa, mời nhân huynh ghé chơị
Châu Bá Thông vui vẻ nhận lời liền :
- Phải! Phải!
Nhưng chàng vẫn đứng yên một chỗ không nhích bước.
Hoàng Dược Sư phải nhắc lại :
- Xin mời nhân huynh.
Châu Bá Thông như sực nghĩ ra điều gì bèn hỏi :
- Nhà của tôn huynh ở đâủ Cũng trên đảo này chăng?
Hoàng Dược Sư khẽ mỉm cười không trả lời, rồi bất thần tung mình nhảy lên một gò nổng cao sát bờ biển, rút trong tay áo ra một ống tiêu ngắn bằng ngọc, để lên môi, thổi lên một tiểu khúc, tiếng tiêu cao vút réo rắt như tiếng hạc gáy từng không, như tiếng loan gọi bạn đêm trường.
Châu Bá Thông lòng buồn rười rượi nghĩ thầm :
- Minh hỏi “Nhà mi ở đâu” y lại thổi tiêu tấu lên bản gì nghe muốn rã ruột.
tánh của y thật là cổ quái, thật là dị thường.
Hoàng Dược Sư thổi xong một tiêu khúc mới nhảy trở xuống đất, ngẩn đầu ra bãi biển, mắt nhìn lên trời và nói bông lông :
- Thuyền tới rồi!
Châu Bá Thông đưa mắt nhìn ra mặt bể thì thấy xa xa ngoài sóng nước có ba chiếc buồm xanh đang căng gió, một chiếc đại thuyền có lầu đang từ từ tiến gần đến Lục Hoành đảọ Châu Bá Thông nghĩ thầm trong bụng :
- Ồ! Thì ra chiếc lầu thuyền này của y, thảo nào y mới có những khí phái như vậy!
Chốc sau, chiếc lầu thuyền đã tiến sát bờ, Hoàng Dược Sư vẫy tay mời Châu Bá Thông và nói :
- Lên đi!
Châu Bá Thông định khiêm cung vài câu theo phép lịch sự, nhưng sực nghĩ người này có những điểm khí phách như một danh sĩ, tánh tình phóng khoáng, cử chỉ hành động tựa như Trút Lâm Thất Hiền đời Tần, kết giao với những hạng người này, họ kị nhất là lối khách sáo câu nệ.
Nghĩ xong chàng liền lẳng lặng theo chân Hoàng Dược Sư nhảy lên thuyền.
Trên thuyền có vài tên thủy thủ và hai tên gia bộc, bọn họ vừa thấy Hoàng Dược Sư trở lên thuyền, vội cúi chào nghênh đón. Châu Bá Thông bước vào khoang thuyền, chàng ngạc nhiên hơn nữạ
Thì ra trong khoang thuyền này bày trí hết sức kỳ mỹ hoa lệ, song rèm bốn phía dùng toàn tơ gấm danh tiếng của đất Hàn Châu, bức lụa nào cũng thêu hoa, điểu, trùng ngư, mũi thêu khéo léo trông như hình sống, trên kỷ nhỏ có bầy chiếc cổ bình rất quý, mui thuyền lợp ngói quí nhà Hán, không khí trong phòng vừa tao nhã vừa cổ kính, trên sàn thuyền trải loại thảm Bắc Kinh, để chân lên mềm êm như bước lên nhung lụa, kỳ quái hơn hết là một góc khoang thuyền, chất đầy sách toàn những bản tuyển chọn, trên giá sách có một lư đồng cổ đốt bằng thứ trầm danh tiếng của miền Tây Vực, khói trắng nghi ngút bay lên, mùi hương tỏa khắp khoang thuyền.
Châu Bá Thông giật mình thầm nghĩ, gã họ Hoàng có được chiếc thuyền như thế này tất nhiên y là đại phú gia ở một cõi nhưng chàng hồ nghi không hiểu tại sao y là một nhân vật đại phú, lại có thể luyện được một bản lĩnh tráng tuyệt như thế được!
Hoàng Dược Sư nhìn rõ ý nghĩ của Châu Bá Thông, chàng khẽ cười, rồi vỗ tay hai cáị tức thì hai tên gia bộc chạy vào chờ lịnh và cũng trong lúc ấy đầu bếp đã từ khoang tàu bưng lên một mâm đồ ăn cùng một hũ rượụ
Châu Bá Thông bị vây hơn nửa ngày liên tục trên Lục Hoành đảo, trong bụng đã trống, ngửi thấy mùi thơm của tiệc rượu, đói đến nước miếng muốn chảy ra, tưởng đâu chủ nhân sẽ lên tiếng mời mình nhập tiệc. Nào ngờ Hoàng Dược Sư phất tay ra dấu với gia bộc, gã gia bộc ấy liền bưng đến cho Châu Bá Thông một hộp đựng y phục.
Hoàng Dược Sư cười và bảo :
- Huynh đài, bộ quần áo ấy dơ rồi, mời huynh đài hãy thay quần áo tắm rửa trước đã.
Châu Bá Thông thẹn đỏ mặt, mới hay mình không ra giống gì cả, bùn đất lem luốc khắp người, ba phần như quỷ, bảy phần tợ ngườị Thuyền bè của người ta tần thiết sang trọng như vậy, buổi tiếc thanh nhã thế kia, mình lại có thể để nguyên áo quần hôi hám dơ dáy mà ngồi ăn uống với chủ nhân sao được?
Chàng ngượng ngập tiếp lấy hộp quần áo, gia nhân liền dẫn chàng ra khoang sau pha nước vào bồn cho chàng tắm rửạ
Châu Bá Thông vừa lau mặt vừa hỏi người gia nhân :
- Này! Chủ nhân của các anh là đại phú gia ở địa phương nào, nhà cửa ông ấy ở đâủ
Gã gia nhân chỉ lắc đầu rồi hả họng dùng tay chỉ vào miệng mình, Châu Bá Thông bàng hoàng sửng sốt, thì ra gã gia nhân này là một kẻ câm, nghe được mà không thể nóị
Sau khi tắm rửa đổi thay y phục xong xuôị Châu Bá Thông vội vàng trở lại khoang trước, thấy Hoàng Dược Sư tay cầm một quyển sách, đang đọc bài từ Thắng Vương Các, giọng ngâm nghe sang sảng dường như y đang đọc đến chỗ cao hứng cho đến Châu Bá Thông bước vào, y vẫn lờ đi như chẳng thấỵ Bài từ Thắng Vương Các rất dài, y lại chậm rãi đọc từng chữ một, khiến cho cái bụng đói của Châu Bá Thông sôi lên rầm rầm, bào bọt như muôn ngàn con kiến đang bò trong bao tử.
Hoàng Dược Sư đọc đến trang cuối của bài từ tới hai trang chót trong bài thơ thất tuyệt, y ngâm đi ngâm lại, vỗ đùi đánh đét một cái cười lên ha hả rồi mới xếp sách đứng dậy và nói :
- Ồ! Châu huynh, thật có lỗi! Thật có lỗi!
Nói xong, liền mời Châu Bá Thông vào bàn tiệc. Châu Bá Thông không chút khách sáo ăn uống nghiến ngấu như hổ đói, chỉ trong khoảnh khắc, bàn tiệc sạch trơn không còn một món, hũ rượu cũng cạn tới đáy bình.
Ăn uống no nê xong, gia nhân dâng trà đến, lá trà xanh sẫm, nhỏ li ti, đúng là trà Vũ Di Tiên của Phước Kiến, mùi thơm ngát mũi, ngửi thấy đã phát thèm.
Châu Bá Thông nhìn ra ngoài song thuyền.
Lục Hoành đảo đã khuất dạng từ lúc nào, thuyền đang lênh đênh giữa biển cả, trời nước một màu xanh thẫm, cuối đường chân trời, mờ hiện lên một dãy cù lao, tròn trịa như cái vỏ ốc màu xanh, lúc ẩn lúc hiện giữa muôn ngàn sóng nước.
Châu Bá Thông hớp một ngụm trà, rồi bỗng cất tiếng hỏi Hoàng Dược Sư :
- Võ học của Hoàng huynh trác tuyệt, dám hỏi lệnh tôn sư là aỉ Hoàng huynh sanh phương bằng nghề chỉ Sao lại đến miền Đông Hải nàỷ Nếu chẳng có gì đáng ngại, xin vui lòng cho tiểu đệ được biết.
Hoàng Dược Sư cười lớn và đáp :
- Châu huynh quá khen rồị Tiểu đệ tuy rất háo võ, nhưng tư chất quá kém cỏi, nên chỉ học được có chút ít tài mọn, đâu dám nhận lấy bốn chữ “võ học trác tuyệt” kiạ Còn sự làm ăn của tiểu đệ ư? Cũng chả giấu Châu huynh làm gì, tôi chuyên nghề ăn cướp, những đồ vật trên thuyền này, từ món nhỏ đến món lớn, chẳng thứ nào là không phải đồ cướp đoạt mà có, nói ra Châu huynh sẽ cười chê tiểu đệ mất!
Châu Bá Thông nghe nói giật mình. Trong con mắt chàng thì võ học của Hoàng Dược Sư so với sư huynh Vương Trùng Dương hơn kém chẳng bao nhiêu mà y lại bảo chỉ học được chút tài mọn, lời nói ấy đương nhiên là lời khiêm tốn.
Còn như y nhìn nhận mình là kẻ cướp và tất cả đồ vật trên thuyền đều là những món hàng cướp đoạt được, sự ấy khó ai mà tin tưởng nổi! Nhưng giọng nói và cử chỉ của y thì không phải là lời nói dối, tại sao lại dùng người câm làm kẻ gia bộc? Tóm tắt mà nói, Châu Bá Thông cảm thấy người hiện đang ngồi trước mặt chàng, từng cử chỉ, từng lời nói của y đều hàm súc sự bí mật và quái dị khó lường.
Hoàng Dược Sư nói xong câu ấy, đôi mắt oai nghiêm long lanh nhìn vào mặt Châu Bá Thông như dò xét và hỏi :
- Châu huynh nghĩ saỏ
Châu Bá Thông khẽ rùng mình, chàng cảm thấy lời hỏi của chủ nhân bao hàm những ẩn ý không lành, chàng lơ đãng gật đầu và đáp :
- Chẳng nghĩ sao cả, làm kẻ cướp cũng chẳng hề gì, làm đạo tặc nhưng có đạo được rồi!
Lời nói ấy là chàng bắt chước theo lối ngôn ngữ bình nhật của Trùng Dương thường nói mà nói theọ Hoàng Dược Sư khoái trá cười lớn và nói tiếp :
- Không sai! Đạo tặc cũng có đạo nghĩa của Đạo! Hà..! Tệ xá ở trước mặt, nơi dãy cù lao ấy đấỵ
Châu Bá Thông nhìn ra ngoài cửa sổ thuyền thấy nơi đường chân trời hiện ra một dãy quần đảọ
Ở xa nhìn thấy núi xanh như vẽ, mây trắng quyện sườn non, khi ẩn khi hiện, tựa như cảnh trí Đào Nguyên, u nhàn như Bồng Lai tiên động. Châu Bá Thông chắt lưỡi hít hà trước phong cảnh mỹ lệ của thiên nhiên, liền quay lại hỏi :
- Nhà của huynh đài ở trên đảo ấy à? Không hiểu đảo ấy tên gọi là chỉ
Hoàng Dược Sư thản nhiên đáp :
- Đấy là Đào Hoa đảo, tệ xá của tiểu đệ Ở trên đảo đó.
Châu Bá Thông thầm nghĩ :
- Hòn đảo này gọi là Đào Hoa đảo, tên nghe rất nhã, thấy trên đảo xanh biếc một màu, hẳn là có rất nhiều thảm cảnh rừng núi thiên nhiên...
Chiếc lầu thuyền đã dần dần tiến gần đến đảọ Thủy thủ trên thuyền lăng xăng xả buồm cuốn dâỵ Châu Bá Thông lúc ấy mới phát giác được những thủy thủ trên thuyền đều câm cả, người nào cũng dùng tay ra dấu để thế lời nói, nên khi làm lụng chẳng nghe một tiếng cãi vã ồn àọ
Châu Bá Thông trong lòng thầm kinh ngạc vô cùng.
Độ nửa giờ sau là thuyền đã cặp vào bờ, chỗ này có một bực đá cho người lên xuống. Hoàng Dược Sư bước ra khỏi thuyền khẽ nhún chân một cái, thân hình nhẹ nhàng đạp lên bực đá, Châu Bá Thông cũng không chịu kém, phi thân nhảy theo bén gót. Hoàng Dược Sư thấy thân pháp của chàng cao diệu hơn người thầm khen ngợi trong lòng, liền lên tiếng mời :
- Thỉnh nhân huynh lên đảo!
Trên đảo cỏ xanh mướt, mát như tấm thảm nhung. Trừ những bãi cát ra, khắp nơi đều trồng đầy kỳ hoa dị thảo, cùng những thảo mộc lạ kỳ không biết tên chị Châu Bá Thông là người sinh trưởng ở phương Bắc, bao nhiêu lâu nay mãi theo sư phụ để luyện võ trên núi Tung Sơn, nên đối với cảnh trí thiên nhiên trên hòn đảo này, hoa thơm cỏ lạ mọc đầy, thật là chưa hề thấy qua, chưa hề thưởng thức được, trong lòng khoan khoái lâng lâng, lòng rắn mắc nổi dậy, liền với tay để ngắt đóa hoa bên đường chơi, nào ngờ Châu Bá Thông vừa mới giơ tay ra, liền cảm thấy nơi lắc léo bả vai tê buốt, bàn tay đang định bẻ hoa như mất cả sức lực từ từ xuội hẳn xuống, Châu Bá Thông kinh ngạc đến giật mình.
Bỗng nghe Hoàng Dược Sư đang đi phía sau cất tiếng cười :
- Châu huynh, hoa đẹp chỉ nên ngắm mà không nên bẻ.
Vừa nói vừa dùng tay vỗ nhẹ sau lưng chàng một cái, cánh tay của chàng trong trạng thái tê buốt liền hết ngaỵ Châu Bá Thông vội quay đầu lại thấy Hoàng Dược Sư tay cầm ống ngọc tiêu miệng nở nụ cườị Nhưng mắt chàng lại tóe ra những tia nhìn lạnh lẽo và sắc bén vô cùng.
Châu Bá Thông hơi biến sắc mặt, chàng hiểu rỏ lúc nãy Hoàng Dược Sư đã chơi một vố trên vai mình, thủ pháp “Thấu Cốt Đả Huyệt” và môn Thấu cốt đả huyệt mà y không thèm dùng ngón tay để điểm huyệt một cách thông thường, mà y lại dùng ngọc tiêu trên tay, để phát ra nội gia khí kình xuyên vào cơ thể của chàng mà phong bế huyệt đạo, thật sự lúc nãy Hoàng Dược Sư đã dùng thanh ngọc tiêu ấn vào Hồn Môn huyệt của Châu Bá Thông mà huyệt ấy chính là tổng hối của các đường huyết mạch trên cánh tay, khiến bàn tay của Châu Bá Thông mất cả sức lực và phải buông xuôi xuống. Sau đấy Hoàng Dược Sư lại vỗ nhẹ vào “Mệnh Môn huyệt” để giải huyệt cho chàng trong thời gian nháy mắt, thủ pháp của Hoàng Dược Sư thật kỳ diệu thần tốc, có thể nói là đã đến thượng đỉnh rồi vậỵ
Nếu như lúc bình thường, với tính khí cương ngạnh sẵn có, Châu Bá Thống tất đã trở mặt sanh tiếng cãi cọ rồi, nhưng chàng sực nghĩ lạị
Người họ Hoàng này tà hay chánh, lai lịch như thế nào cũng chưa biết được rành rẽ, hơn nửa nơi đây là địa điểm sào huyệt của ỵ Nếu nhứt thời động tay động chân thì phần bất lợi vế chàng nhiều hơn, nên Châu Bá Thông cố đè nén bực tức trong lòng quay đầu lại nói :
- Tiểu đệ bất quá thấy hoa lạ sanh thích ý, nếu không được phép bẻ thì thôi vậỵ
Hoàng Dược Sư đi trước dẫn lộ đưa Châu Bá Thông vào trong hoa viên, xuyên qua hướng trái, rồi rẽ hướng phải, vòng sang Đông, quẹo bên Tây, Châu Bá Thông đầu óc quay cuồng cảm thấy như chàng đang lạc vào biển xanh cây cối, chàng lại cảm thấy những bụi cỏ, lùm hoa trong hoa viên này, Hoàng Dược Sư cố ý trồng lên không phải chỉ để tô điểm thắng cảnh, hay thưởng ngoạn giải trí như những hoa viên tầm thường khác, mà trái lại những bụi hoa, những lùm cây đều có ý sắp đặt theo kỳ môn trận pháp, nên mỗi nhóm thảo mộc trong vườn đều án theo những vị trí đặc biệt, mới nhìn thì dường như mọc loạn xạ không còn đâu phân biệt lối đi, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy đường lối sắp đặt hết sức khéo léo tinh vị Nếu không có chủ nhân thân hành dẫn đường thì bất kỳ người nào cũng không thể đi vào được hoặc có thể đi vào thì cũng không còn tìm đâu lối để ra!
Châu Bá Thông thầm kinh hãi trong lòng, rất may là lúc nãy chàng dằn được không cùng Hoàng Dược Sư động thủ, bằng chẳng vậy thì đã nguy to rồị Đối phương chỉ cần dẫn chàng vào giữa rừng hoa cỏ, quanh qua quẹo lại đôi ba lượt là mình hết mong trở ra mà bị hãm trong trận pháp của hoa viên này, giống như hôm qua đã lạc lối trong Hải Loa trận không khác!
Đi hơn nửa giờ, cây cỏ đã thấy thưa dần rồi trước mặt hiện ra một tòa tịnh xá. Hoàng Dược Sư mời khách bước vàọ Châu Bá Thông thầm suy đoán lúc nãy trên thuyền chủ nhân đã trần thiết như thế thì chắc hẳn nơi trú thất của y còn chưng bày bao nhiêu kỳ trân dị bảo quý giá nữả
Nào ngờ, khi chàng đặt chân vào phòng thì mới hay biết, sự tưởng tượng ban nãy hoàn toàn sai hẳn với sự thật. Trong gian tịnh xá này chỉ là một cái thơ phòng chẳng có gì trần thiết sang trọng cả, bàn ghế vật dụng đều là loại tầm thường, nơi trung đường chỉ treo vỏn vẹn một bức tranh phong cảnh họa theo lối thủy mạc của Ngô Đạo Tử, hai bên treo hai câu đốị Bên tả đề :
“Kỳ La đồi lý mai thần kiếm”
(Trong đồi Kỳ La chôn kiếm thần)
Câu đối bên hữu viết :
“Tiên Cổ thanh trung lão Khách Tinh”
(Giữa tiếng trống tiêu có Khách Tinh)
Châu Bá Thông lẩm nhẩm đọc xong liền nghĩ thầm :
- Không biết hai câu đối của chủ nhân có ẩn ý gì mà khó hiểu quá.
Hoàng Dược Sư chờ khách an tọa xong liền lên tiếng hỏi :
- Lịnh sư huynh là Trùng Dương chân nhân, võ công cái thế, Hoàng Dược Sư tôi rất khâm phục. Nghe nói Trùng Dương chân nhân thời gian gần đây đến núi Hoa Sơn ở Thiên Tây, lấy được bộ Cửu Âm chân kinh, chuyện này có thật hay không?
Châu Bá Thông thấy đối phương vừa mở miệng đã hỏi ngây đến chuyện ấy, thì giật mình đánh thót.
Chuyện Vương Trùng Dương được Cửu Âm chân kinh trên võ lâm rất ít người biết rõ. Châu Bá Thông cũng có nghe qua Trùng Dương kể lại sự Tây Độc Âu Dương Phong muốn được quyển sách ấy, đã hai lần dùng Xà Trận để mong trừ Trùng Dương nhưng không có kết quả. Còn Hoàng Dược Sư này ở tận hoang đảo giữa Đông Hải, sao cũng biết được chuyện nàỷ
Châu Bá Thông khẽ rún mình lo ngại, vờ ngạc nhiên hỏi :
- Ủả Tệ sư huynh được Cửu Âm chân kinh saỏ Cửu Âm chân kinh là quyển sách gì? Sư huynh của tôi đến Hoa Sơn tìm được chân kinh hồi nàỏ Chuyện ấy thật tiểu đệ không biết rồi!
Hoàng Dược Sư cười lạnh lùng một tiếng rồi đứng phắt dậy nói :
- Lời nói chẳng thật tình, mời khách ra ngay!
Châu Bá Thông không ngờ chủ nhân tiếp khách không đầy hai câu nói mà đã trở mặt đuổi mình ra khỏi cửa, chàng không dằn được nư giận, phủi tay áo đứng ngay dậy, bước chân ra khỏi cửa đi liền.
Nhưng chàng vừa bước ra cửa, thì Hoàng Dược Sư bỗng gọi giật lại :
- Chậm đã!
Châu Bá Thông quay phắt lại, chưa kịp mở miệng, Hoàng Dược Sư đã lên tiếng trước :
- Mi tưởng như vậy đi ra được ư? Mi có thể dời khỏi Đào Hoa đảo này được saỏ
Châu Bá Thông chợt tỉnh ngộ, gian tịnh thất này bốn phía đều là rừng hoa cỏ dại cây cối rậm rạp được bố trí thành hình Kỳ Môn Bát Trận, nếu y không dẫn đường thì chàng khó mà tìm được nẻo rạ
Hoàng Dược Sư vẫn lạnh lùng nói tiếp :
- Bất luận kẻ nào để chân đến Đào Hoa đảo của ta đều phải theo một quy luật nhất định, dù cho kẻ ấy là Hoàng đế hay lão tử tiên ông cũng không thể vượt lệ được!
Châu Bá Thông bực tức hỏi :
- Quy luật là gì, mi nói thử xem?
Lúc ấy Hoàng Dược Sư mang lên một chiếc mặt nạ khác, trên mặt nạ hiện ra nét nghiêm lạnh như băng tương phản với chiết mặt nạ trên Lục Hoành đảo rất nhiều, y cười gằn một tiếng rồi đáp :
- Nếu kẻ nào tới đảo Đào Hoa này, mà ta thấy không xứng đáng cho ta làm bạn, thì ta nhất định bắt kẻ ấy để đây một vật trong cơ thể của họ, giống như những thủy thủ và gia bộc của ta vậỵ
Châu Bá Thông sực nhớ lại, lúc chàng thay đổi y phục trên thuyền, chàng có hỏi người gia bộc Hoàng Dược Sư là đại phú gia ở địa phương nào và lai lịch ra saỏ Gã gia bộc nọ liền hả họng lắc đầu, cho nên nói chẳng được. Ai ngờ cái lưỡi của y đã bị Hoàng Dược Sư cắt mất!
Hoàng Dược Sư bảo mình bắt chước theo như những gia bộc của y, tức là y gián tiếp muốn cắt chiếc lưỡi của mình. Châu Bá Thông nghe như lửa giận bốc thẳng lên đỉnh đầu, liền mắng to lên :
- Đồ tà ma ngoại đạo! Hừm! Làm gì có cái luật lệ vô lý ấy!
Hoàng Dược Sư cười lên ha hả, nói :
- Ta là tà ma ngoại đạo chăng? Hà hà... Không sai chút nào cả! Biệt danh của ta là Đông Tà, chú họ Châu kia hãy biết thân mà cắt lưỡi để lại làm thuốc, khỏi bận sứt ta ra tay!
Châu Bá Thông giận đến mắt nổ đom đóm, chửi toáng lên :
- Để lại mi cái khỉ khô!
Nói xong vung ra một chưởng theo thế “Thối Sơn Trấn Hải” (Đẩy núi chận biển) đấm mạnh vào ngực đối phương.
Hoàng Dược Sư chẳng thèm tránh né, dường như xem chưởng vừa rồi của Châu Bá Thông chẳng ra trò gì cả. Châu Bá Thông giật mình thầm nghĩ :
- Chưởng lực của ta cho đến Đông Hải song quái bản lĩnh như thế mà còn chẳng dám chống đỡ, cái gã kỳ khôi này cậy vào đâu mà dám ngang nhiên hứng đòn như vậỷ Hừ! Phải rồi, y chẳng dùng công phu mượn sức đánh sức là gì, mình chớ nên mắc mưu của y!
Nghĩ xong bèn chậm hẳn thế chưởng lại, để đề phòng bất trắc. Quả nhiên không ngoài ý liệu, chưởng phong của Châu Bá Thông vừa chạm đến thân hình của Hoàng Dược Sư, chàng liền cảm thấy trên thân thể y dường như thoa lên một lớp dầu chẳng có chút bíu tay, lại còn có một luồng tiềm lực vô hình hít lấy chưởng lực của Châu Bá Thông vào người ỵ
Châu Bá Thông cả kinh, vội rụt tay quyền trở lại theo thế “Hồi Long Quy Hác” (rồng nội về đầm) trong Thái Ất quyền pháp của Toàn Chân pháị
Quyền ấy sức mạnh trên mấy trăm cân, nhưng đầu quyền của chàng đã bị Hoàng Dược Sư hút cứng rồị Châu Bá Thông cố vùng vẫy nhưng cũng không thoát khỏi sức hút của đối phương.
Trong lúc hoảng hốt, chàng lập tức dùng ngón tay điểm vào mặt Hoàng Dược Sư theo thế “Ly Long Thái Châu” (rồng Ly chọn ngọc), hai ngón tay như mũi chĩa định đâm hai mắt đối phương.
Hoang Dược Sư vẫn bất động chẳng thèm tránh né, định bụng chờ hai ngón tay của đối phương điểm tới, y vẫn dùng hấp lực của Hỗn Nguyên Cang để hút lấy ngón tay của địch thủ.
Nào ngờ Châu Bá Thông lần này đã có kinh nghiệm và hai ngón tay vừa điểm vừa rồi là thế hư, giữa lúc hai ngón tay vừa sắp điểm tới thì bất thần chàng vung hai chân lên sử dụng Thiền Phong thố pháp nhảy sát đến tấn công đối phương. Hoàng Dược Sư không thể không phân nội lực để chống đỡ, tay tả chộp mạnh trở xuống, nhưng thế cước vừa rồi cũng lại là thế hư, gạt cho đối phương phải bận chống đỡ, lực hấp bị phân tán, và chàng thừa thế thâu quyền trở về, thân hình chàng tựa như mũi tên bay, nhảy vụt ra ngoàị
Hoàng Dược Sư bàn tay vừa chộp vào khoảng không liền hiểu mình đã trúng kế dương Đông kích Tây của Châu Bá Thông. Tay tả không cần thâu về mà đẩy chéo trở lên một luồng chưởng lực vô hình, thế mạnh tợ sóng thần trên mặt biển bay áp tới tấn công kẻ địch.
Châu Bá Thông lúc còn lơ lửng giữa không, hai chân chưa chấm đất, làm sao chống đỡ được? Tức thì nghe “bùng” một tiếng. Châu Bá Thông lãnh trọn ngọn chưởng phong văng thẳng vào vách tường nơi có treo bức họa, bức liễn gì cũng rơi nhầu trên mặt đất cả!
Chưởng lực vừa rồi của Hoàng Dược Sư hùng mạnh vô song, nếu như người khác có lẽ đã bị đụng đến bể đầu nát óc, gân cốt gãy lìa, nhưng Châu Bá Thông từ thưở nhỏ đã rèn luyện nội công, nên căn cơ rắn chắc hơn người, thân hình chàng vừa chạm vào vách tường, chàng liền dùng ngay công phu nội gia “Mềm như bông”, khiến cho thân hình mềm nhũn ra, rồi đáp nhẹ nhàng trên mặt đất. Người chàng vẫn nguyên vẹn không bị một chút xây xát nàọ Hoàng Dược Sư thấy thế, khâm phục trong lòng.
Tuy không bị thương nhưng Châu Bá Thông đã hiểu rõ công lực của Hoàng Dược Sư trên hẳn mình một bậc, nếu cùng y giao đấu thêm, chỉ nắm lấy thất bại mà thôi, tốt hơn hết là mau thoát khỏi căn nhà này trước rồi sẽ tính sau!
Nghĩ xong, Châu Bá Thông liền nhún chân định dùng thân pháp Yến Tử Trắc Phi (chim yến vụt bay) để luồn ra khỏi nhà. Nào ngờ, lại có bóng xanh trước mặt, Hoàng Dược Sư đã phi thân trước chàng và nhanh như cắt đóng sầm cánh cửa lại rồi hoa thanh bạch ngọc tiêu tựa như làn bạch quang thế như muốn điểm vào huyệt đạo của chàng. Châu Bá Thông hốt hoảng nhảy lui trở ra phía saụ
Chàng thầm kinh khiếp cho thân pháp quá thần tốc của Hoàng Dược Sư, cất tiếng kêu lên :
- Họ Hoàng kia, ta cùng ngươi từ xưa đến nay vô cừu vô oán, nay ngươi muốn tìm Cửu Âm chân kinh thì hỏi ngay sư huynh ta là Vương Trùng Dương, chứ ta thật vô can!
Hoàng Dược Sư “Hừ” một tiếng trong cổ họng và nói :
- Ồ, võ công của Trùng Dương chân nhân, ta hết sức khâm phục, nhưng vì lúc nãy ngươi đánh ta một chưởng, đá ta hai bước, lẽ đâu ta có thể quên đi mà chẳng báo đáp? Hãy nếm một chưởng trả lễ của tạ
Nói chưa dứt tiếng, Hoàng Dược Sư hai bàn tay chập lại hai cánh tay giao chéo nhau, đấm thẳng vào mặt vị khách quý của mình.
Châu Bá Thông thấy chủ nhân cứ mãi ép bức mình, chàng không thể không ra tay ứng chiến nên vội sử dụng Thái Ất quyền của Toàn Chân phái, một chưởng giơ lên hộ thân, một chưởng đón lấy quyền phong của đối phương vừa áp đến.
Chàng hiểu rõ đối phương có Hỗn Nguyên khí công rất lợi hại, nên chủ ý lấy “thủ” làm “công”, Thái Ất quyền pháp của Toàn Chân phái kỳ diệu tuyệt cùng, pho quyền ấy chính là nguyên thủ của Thái Cực quyền sau này, nên khi đem ra sử dụng, trầm mạnh như núi Ngũ Nhạc, khí thế tựa như công Giang Hà tuôn chảy, kín đáo cẩn mật hơn cả tường đồng vách sắt, quyền phong khi vụt lên, lúc hạ xuống, thế mạnh tưởng chừng như rồng vờn, cọp nhảỵ
Quyền pháp của Hoàng Dược Sư lại kỳ dị biến hóa độc đáo khác thường, thân hình quay tròn như chiếc xe gió, bám theo người Châu Bá Thông xoay tít như cái chong chóng. Quyền pháp đến lúc nhanh cực độ, thì trái phải, trên dưới bốn bên tám hướng đâu đâu cũng thấp thoáng bóng xanh của Hoàng Dược Sư cả, song quyền múa tít như hai con thoi, khắp nơi đều lấp loáng bóng quyền của y như hoa đào lớp lớp rơi rụng không ngừng.
Pho quyền pháp ấy chính là tuyệt kỹ Đào Hoa Lạc Anh chưởng pháp của Hoàng Dược Sư.
Châu Bá Thông lần đầu gặp phải lối quyền kỳ ảo như thế, thấy hoa cả mắt, nếu chàng chẳng dùng Thái Ất quyền để lấy “thủ” làm “công” thì đã gánh lấy sự thất bại rồị
Trong gian tịnh thất nhỏ bé, đôi bên quây quần đấu nhau dữ dội đã hơn trăm hiệp. Châu Bá Thông mấy lần định xông ra khỏi nhà, nhưng rốt cuộc vẫn vô phương thoát khỏi vòng vây quyền ảnh của đối phương!
Tuy “Lạc Anh quyền pháp” của Hoàng Dược Sư kỳ dị biến hóa khôn lường, thế quyền dầy đặc như mưa rơi cũng không thể phá nổi bức tường kiên cố như sắt thép của Thái Ất quyền.
Châu Bá Thông vừa đấu vừa thầm kêu khổ liên miên mà trong bụng Hoàng Dược Sư cũng hết sức nóng nẩy, thầm nghĩ danh tiếng của Toàn Chân phái quả danh bất hư truyền, cho đến một tên sư đệ của họ mà đấu cũng chẳng thắng nổi thì còn mong gì áp đảo được Vương Trùng Dương để đoạt lấy Cửu Âm chân kinh.
Đấu hơn trăm hiệp nữa, tổng cộng trước sau trên hai trăm hiệp, đang khi Châu Bá Thông đấu mệt bở hơi tai thì bất thần Hoàng Dược Sư thâu nhanh quyền pháp nhảy ra khỏi vòng chiến và quát lớn :
- Họ Châu kia, Thái Ất quyền của ngươi quả kỳ diệu, ta cho mi nghỉ ngơi một ngày, mốt ta sẽ tái đấu với ngươị Sớm tối gì ta cũng tìm ra cách phá quyền pháp của ngươi!
Nói xong, không đợi Châu Bá Thông trả lời, hắn tung mình một cái bay vút qua cửa sổ ra bên ngoài và khoảnh khắc sau người y dã biến mất trong những lùm cây cối.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 11:16 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.