Go Back   Vina Forums > Vườn Thơ > Vườn Tao Đàn > Thơ Sưu Tầm
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 05-12-2004, 04:07 AM
Adieu Adieu is offline
Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 49
Default

Bờ sông vẫn gió
Tác Giả: Trúc Thông
(Chị em con kính dâng hương hồn mẹ)

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
một lần cuối ... một lần về cuối thôi.
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần.
Con xin ngắn lại đường gần
một lần ... rồi mẹ hãy dần dần đi ...
***

Trong đời sống người dân miền châu thổ thì con sông là nguồn sữa phù sa nuôi dưỡng cánh đồng, mùa vụ. Ấy là xét về giá trị thời gian. Còn từ độ nhìn không gian thì hình ảnh con sông được xem là một điểm mốc hẹn mang giá trị lâu dài, có khi thành vĩnh tồn. Vĩnh tồn ngay cả khi nó bị lấp đi! Cái con sông – “Bờ sông” – xưa tiến đưa, nay đang mong đợi ở bài thơ này được Trúc Thông sử dụng với cả hai yếu tố: không gian, thời gian và lồng cộng với hai biểu tượng tinh thần là: lá ngô và làn gió. Một thời gian mang niềm thương nhớ khôn khuây, một không gian không đổi dời, một thứ tiếng gọi thao thiết đêm ngày của gió quê, và một thứ sinh thể mang cái màu sắc thiên thu đã lay động lên, hoá thượng thanh khí lên là chiếc lá ngô – nơi cõi phần ký ức. Bốn thứ lực tác động tạo hình ảnh, hình tượng này, chúng đã hoá thân vào nhau làm một - một niềm hướng tưởng duy nhất: Miền cố hương.

Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió
người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
một lần cuối ... một lần về cuối thôi.
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh...


Nỗi nhớ quê hương trong tâm tưởng người tha hương mặn mòi, da diết lắm. Người ta xưa nay hằng “chiều chiều ra đứng ngõ sau ...” khi nhìn sông thấy khói sóng lúc cuối ngày mà buồn, khi nhìn trăng sáng đẹp mà nhớ. Vâng, còn biết nói thế nào, đến cả loài cầm thú cũng đã phải “ba năm quay đầu về núi” kia mà.
Niềm tha hương ở bài thơ này, với người mẹ - người đã dành cả quãng ngày xanh tuổi trẻ cho con cháu, nay da mồi, tóc bạc, tuổi đã vào cuối hoàng hôn mà vẫn chưa thực hiện được nguyện ước cuối cùng, về thăm quê hương bản quán, mà khoảng dặm đường nào có xa xôi: “Con xin ngắn lại đường gần ...” . Lẽ thường người con đứng trước khoảng cách “đường xa dặm thẳng” mới phải mong cho “ngắn lại” chứ?! Chính từ cái “nghịch lý” này mới hoạ rõ lên cái “nghịch phận”. Tình thơ bởi thế mới sâu nặng, mới ám ảnh. Và cũng bởi thế mà không phải ngẫu nhiên, trong một bài thơ, nhà thơ đã sử dụng từ “xin” tới ba lần : Xin người hãy trở về quê; Lệ xin giọt cuối để dành; Con xin ngắn lại đường gần . Từ xin trong ngôn ngữ tiếng Việt mang đậm tính thân phận, nhân tính, Phật tính như : cầu xin, xin ăn, xin học ... Vậy nên từ này chỉ được dùng khi tấm lòng có việc chân thành hay ai cảm. Trúc Thông với tâm thi thành và ai đã sử dụng ba lần từ xin . Qua đó niềm thân phận buồn thương, lệ tình mẫu tử lung linh ngời sáng lên tính luân lý và đạo lý sâu sắc.
Sự dụng công đầy tính kỹ thuật của bài thơ cũng là một thành công cần được soi tỏ. Nếu ta thấy tổng lượng câu chữ của bài thơ là 12 câu với 84 chữ, một bài thơ có số lượng câu chữ giản thiểu như vậy, nhưng ở phần phân lượng chữ lại được nhà thơ sử dụng gia tăng, đẩy nhân đầy ắp lên. Tính cả cụm từ “một lần” thì bài thơ có những 6 chữ được sử dụng lặp đi lặp lại thành 24 lần chữ. Lặp ngôn tới tỷ lệ như vậy mà khi thưởng thức không phải người kỹ tính không dễ nhận ra. Ấy là bởi, trong một thi phẩm khi tình thơ, hồn thơ đã toả sáng lên, động vang lên, tạo ra một trường xung cảm mạnh mẽ giữa thi phẩm và người thưởng thức thì khi ấy tính hình thức, kỹ thuật đã trở thành một phương diện cấu thành, biểu đạt của nội dung nghệ thuật; tình thơ khi ấy cất cánh bay thoát ra khỏi cái “cốt – ngôn ngữ”, thơ đã đi từ cái cá thể - mang dấu vết ngôn ngữ và thân phận - đến nhập vào hợp thể, đồng vang nơi tiếng nói (thanh ngữ ) chung. Đó là nơi ẩn cư truyền nối thiêng liêng của cõi phần tâm tình, tâm linh; nơi mà kỹ thuật ngôn ngữ chỉ còn tồn tại như một lễ nghi trước bàn thơ tinh thần: Hồn thơ màu nhiệm.
Bờ sông vẫn gió thực sự là một thi phẩm có giá trị nghệ thuật của Trúc Thông góp cho kho tàng nghệ thuật thơ và thơ lục bát nước nhà.

Lời Bình: Đỗ Trọng Khơi

-------------------------------
Giại: Cái giại, một thứ bình phong đan bằng tre dựng trước hiên nhà ở những vùng quê Bắc Bộ.

__________________
thành tình nhân đứng giữa trời không
khóc mộng thiên đường ... vta
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 05-15-2004, 08:39 PM
Adieu Adieu is offline
Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 49
Default

Đêm Hà Nội, Nhớ
(gởi Sài Gòn)
tác giả: Bùi Sim Sim

Xa một tuần có lâu quá không anh
Sao em thấy ngày cứ dài đến thế
Ðêm Hà Nội thơm nghẹn lòng hoa sữa
Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời
Ngày xa anh em bỗng hoá đơn côi
Gió cũng chẳng vô tình sang cửa nữa
Một chiếc lá rơi cũng làm em nhớ
Áp mặt lên trăng mới biết trăng gầy
Hà Nội bồng bềnh trôi theo heo may
Ánh trăng nhắc về một thời mê đắm
Thơ em xuống dòng
Buồn nghiêng dấu lặng
Nỗi nhớ về anh lấp mãi không đầy...


Có lẽ trên đời này, những người đặt bút làm thơ đặc biệt là thơ tình khó giấu nổi con người thật của mình. Bao nhiêu nỗi niềm bức xúc của tình yêu xâm chiếm, bủa vây, ám ảnh... hay nói như một nhà thơ nào đó từng tâm sự, trạng thái tinh thần đó là nỗi khổ đau ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. Và thế là có thơ. Thơ hay hay dở- chưa bàn tới. Chỉ biết cảm xúc dâng đầy- yếu tố chân cảm ấy, là điều kiện tiên quyết, là yếu tố khởi thuỷ, dẫn thơ đi...
Tôi đã đọc và đón nhận được nỗi niềm thơ ấy qua "Ðêm Hà Nội, nhớ" của tác giả Bùi Sim Sim:

Xa một tuần có lâu quá không anh
Sao em thấy ngày cứ dài đến thế
Ðêm Hà Nội thơm nghẹn mùi hoa sữa
Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời


Khổ thơ mở đầu này trải ra một cảnh ngộ xa cách của bạn tình- điều mà tác giả hé lộ từ tên bài thơ (Ðêm Hà Nội) và lời đề gửi (Gửi Sài Gòn) "Xa một tuần" cảnh ngộ (xa) và thời gian (một tuần) quả là những điều mà quá đủ thấm thía để dâng đầy thương nhớ với trái tim trẻ đang nồng nàn yêu. Thời gian và cảnh ngộ ấy, quá đủ để thành nỗi dằng dặc tương tư rồi. Thế mà Sim Sim lại có cách diễn tả thật nhẹ nhàng, dễ thương, rất con gái- nghĩa là tác giả đã kín đáo, mềm mại chuyển từ sự khẳng định sang niềm băn khoăn- Xa một tuần có lâu quá không anh. Ngay từ câu mở đầu này, người em trong thương nhớ đã "kéo" người anh trong xa cách, diệu vợi vào thế giới tâm tình riêng của hai người- bằng lời thơ mang điệu nói của những trang lứa tâm giao. Từ nỗi lòng bức xúc mà mềm mại trong câu nói ấy, câu thơ thứ hai mới buông lơi lời thổ lộ chân thành- Sao em thấy ngày cứ dài đến thế.
Ðấy là một cách tự cảm nhận. Nói với người xa- cũng là quay vào tự nói với lòng mình, tự nhủ với chính nỗi thấm thía chia xa. Bởi vì xa một tuần không chỉ là thời gian xác định- bảy ngày, từ thứ hai cho đến chủ nhật mà bởi sự lê thê ngày lại ngày, ngày nối ngày. Nặng nề làm sao cái ấn tượng của thời gian- tâm lý. Thời gian của lòng người thì làm thế nào đếm cho được bằng con số của tự nhiên.
Với hai câu thơ khởi mở này, Bùi Sim Sim đã nói trúng điều trong quy luật của tình yêu- nỗi nhớ!
Ðến đây người viết những lời bình này cũng xin phép tác giả được là người tâm giao, tri kỷ mà nói hộ tiếng nói tâm tư của một nàng Hà Nội gởi tới một chàng Sài Gòn trong niềm thương nhớ. Vâng, quả là nỗi nhớ rất Hà Nội, rất con gái nữa khi tác giả phát hiện chiều thẳm sâu của không gian đêm Hà Nội

... Thơm nghẹn lòng hoa sữa
Ngôi sao em ngân ngấn khóc chân trời.


Dường như cụm từ năm âm tiết Hà Nội- Ðêm- Hoa sữa đã nói thật thoả đáng cái duyên tình sâu lắng mà tình tứ về Hà Nội. Tác giả của "Ðêm Hà Nội, nhớ" đã mượn hương hoa- cũng là lòng hoa, mượn nét rưng rưng, lóng lánh của đêm sao mà nói hộ lòng người. Khi nhớ, khi thương nhau trong xa cách; người ta tự cảm nhận lòng mình thấm đẫm trong cảnh- điều ấy đã trở thành nỗi xúc động- thường- TÌNH CỦA VĂN CHƯƠNG, CỦA THƠ CA. Ấy vậy mà những hình ảnh Thơm nghẹn lòng hoa sữa. Ngân ngấn khóc chân trời của Sim Sim vẫn xôn xao và xúc động đến thế. Nhất là những tiếng nghẹn lòng, ngân ngấn, thật hay mà cũng thật thương!
Ðến khổ thơ tiếp sau (khổ hai) sự thổ lộ tâm tư được diễn tả qua những trạng thái ngẩn ngơ của nỗi nhớ thương

Ngày xa anh em bỗng hoá đơn côi
Gió cũng chẳng vô tình sang cửa nữa
Một chiếc lá rơi cũng làm em nhớ
ÁP MẶT LÊN TRĂNG MỚI BIẾT TRĂNG GẦY


Bao nhiêu là ngẩn ngơ, bộn bề của nỗi lòng kẻ tương tư- căn bệnh muôn thuở của tình ái, bệnh tình ấy con người trút vào thơ, mãi mãi mà chẳng thể cũ. Vẫn thánh thiện trẻ trung như tình yêu vậy. Tác giả của "Ðêm Hà Nội, nhớ" cũng diễn tả thật trẻ trung những sắc điệu tâm tính vốn đã thành quy luật. Ðó là trạng thái hẫng hụt đến chơi vơi (em bỗng hoá đơn côi). Khi mà ngọn gió chẳng vô tình ngang qua cửa nữa; ấy là chút lay động thoảng qua, mơ màng của một chiếc lá rơi..
Tất thảy thành nỗi nhớ- nỗi nhớ tự cảm thấy của lòng người, nỗi nhớ dan díu sang gió thổi, lá rơi.
Những câu thơ trên Bùi Sim Sim chân thành trong tự bạch song công bằng mà nói CHƯA CẢM HOÁ TA BỞI ẤN TƯỢNG THẬT RIÊNG. NHƯNG ĐẾN HÌNH ẢNH: ÁP mặt vào trăng mới biết trăng gầy, mới rõ ra một dáng vẻ tâm tình riêng của người viết. Hình ảnh thơ của Bùi Sim Sim ăm ắp tâm trạng và chuyển hoá tự nhiên từ một cử chỉ thật (áp mặt- xin nói thêm là áp mặt chứ không phải là úp mặt như một số bản đã in nhầm) để rồi chuyển sang một trạng thái nhận biết- áp mặt vào trăng mới biết trăng gầy. Với hình ảnh rất gợi này, tác giả đã diễn tả được sự đồng điệu của yếu tố thực và ảo, thực và mơ của nỗi nhớ thương trong sự cách vời của không gian xa cách diệu vợi... Quả là nhìn trăng, trăng thêm gầy thêm hao khuyết, bởi lòng người nhớ nhau. Ðến đây ta chợt như bắt gặp sự đồng điệu tâm tình trong bài thơ Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu:

Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát
Em đã khóc
Nhưng làm sao tới được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng


Tác giả của "Ðêm Hà Nội, nhớ" đã từ sự chạnh lòng trong nhận biết trăng gầy để rồi thao thức, rạo rực nhớ lại một thời nồng nàn, mê đắm:

Hà Nội bồng bềnh trôi trong heo may
ÁNH TRĂNG NHẮC VỀ MỘT THỜI MÊ ĐẮM


Ta như nghe thấy có tiếng thở dài trong câu thơ. Tình yêu ngỡ như chập chờn, lay động đẹp mà lại cũng thật xa- như Hà Nội đêm nay bồng bềnh trôi trong heo may. Cả đến ánh trăng thơ mộng đêm nay dường như đánh thức nỗi mê đắm ngọt ngào, đã thành quá khứ. Ðã thành dấu ấn của nỗi nhớ thương. Thời khắc say nồng qua rồi. Chỉ còn thực tại, phải trở về, phải đối diện

Thơ em xuống dòng
Buồn nghiêng dấu lặng
Nỗi nhớ về anh lấp mãi không đầy...


Cũng có những nốt lặng trong nhạc. Có những dấu chấm lửng trong văn- và có cả những nỗi thầm trong có dấu hiệu hình thức mà toả lan, dư âm mãi trong lòng người. Bài thơ tình của Bùi Sim Sim lặng lẽ mà vơi đầy nỗi nhớ thương- ngay cả khi câu chữ đã khép lại.

(Trần Trung, báo Phụ Nữ Việt Nam 2001)
__________________
thành tình nhân đứng giữa trời không
khóc mộng thiên đường ... vta
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 08-22-2004, 07:43 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Thơ tình thời con gái

Ngô Văn Phú

"Thời con gái như một thiên đường vừa qua đi". Một người bạn gái từng bùi ngùi nói? Chị đọc một bài thơ tình. Lời mộc, tính hồn hậu... Và, chị kể về lần yêu thứ nhất... Tôi bỗng nghĩ đến những bài thơ tình của thời con gái ... Có biết bao nhiêu người con gái đã yêu. Họ có những nét giống nhau của mối tình đầu. Nhưng đã bao nhiêu người đến được với hạnh phúc, còn bao nhiêu người dang dở?

Thơ tình của chính người nữ viết ra, hẳn có nhiều điều khác biệt. Bởi khi yêu, với thời con gái rực rỡ nhất, hình như phái đẹp kiêu sa hơn, nhưng cũng mềm yếu hơn. Nhiều người đẹp từng đến với hạnh phúc nhưng đồng thời, bởi đẹp, nên cũng choàng vào mình những bi kịch. Những gam bậc của những người con gái khi yêu đều có những nét khác nhau, do cá tính, do quan niệm, do hoàn cảnh... Biết bao nhiêu dáng vẻ ... Nhớ đến kỷ niệm đẹp về một tình yêu. ý

Nhi viết trong bài Dẫu chỉ là cơn mưa:

Anh có còn luôn nhớ
Mùa đông mưa trắng đồi...
Hoa lau phơ phất gió
Dốc dài và suối đôi.

Hay chỉ mình em thôi,
Tháng năm dài vẫn nhớ
Như nhớ về đống lửa
Như nhớ về mặt trời
Chắc bền và rực rõ
Thân gần và xa xôi...

Có khi đó là một tình yêu đẹp, chang :Di, người nữ định xoà tay đón, nhưng cái chốc lát ấy, không hiểu nguyên cớ gì (chỉ người trong cuộc mới biết) đã đẩy nó đi để rồi nuối tiếc. Đoàn Thị Ký viết:

Nửa vòng bông gạo

Có lần sợi bông gạo bay,
Như chiếc chong :Dng xoay xoay nửa vòng
Tôi đưa tay đón và mong,
Đâu ngờ gió tự trong lòng đẩy ra
Thế là bông gạo bay la
Nửa vào chong :Dng đã hoà thinh không
Một mai ngọn gió thổi nồng
Vẫn còn bông gạo nửaa vòng bay bay. . .

Còn Phi Tuyết Ba, đến với người yêu, thì bên cửa trong nhà đã có một tình huống xảy ra:

Điều anh không biết

Riêng điều ấy, không bao giờ anh biết,
Có một lần em lỡ hẹn với anh
Chiều vàng xanh nơi góc phố xanh
Em đến gần cánh cửa xanh hé mở

Bên bậc cửa có một đôi guốc đỏ
Đôi chân em sao khó bước qua
Chỉ một bước thôi là hết cách xa
Anh gần lắm... phía bên kia đôi guốc

Chẳng biết vì sao chân em lui bước
Chiều đương xanh bên cánh cửa xanh.
Có lẽ nào em lỡ hẹn cùng anh,
Đôi guốc đỏ biệt rằng em đã tới.

Tế nhị và tự trọng, nhưng đằng sau đó, cái tâm trạng kín đáo của Phi Tuyết Ba ai mà đoán nổi. Và cái điều anh không biết ấy, đến bao giờ mới nói được ra!

Những mối tình đã đến với họ. Có những mối tình trong chiến đấu thật đằm thắm, thật hết mình như "Sợi nhớ, sợi thương" của Thuý Bắc... Nhưng cũng có người đã vấp phải những dang dở, cách xa dù đó là một tình yêu thật khó quên. Bùi Kim Anh viết:

Một tình yêu tha thiết chẳng hẹn hò
Em với anh chỉ là mộng ước
Một giấc mơ gần mà không thực
Rất mặn nồng mà trống trải cô đơn.

Sẽ chẳng bao giờ đến được cùng anh
Chỉ một lần thôi là tất cả
Để cứ đến rồi đi trên đường cúc nở
Không mùi hương mà vãn nhớ âm thầm.

Thơ tình của phái nữ, có lúc có vẻ như kiêu sa. Bích Ngọc viết:

Đừng kiếm tìm ta,
Khi tim ta đang tắt dần ngọn lửa
Đừng kiếm tìm ta
Con đường qua lấp đầy cát bụi
Bàn chân ta không quen quay ngược lại

Đừng kiếm tìm ta
Mong manh lắm chạm vào dễ vỡ
Tìm nơi đâu cho ta sống thật mình.
Có lúc bồn chồn, nghi hoặc,

Chiêu Hoa viết:

Hạt mưa rơi xuống vườn hồng,
Thời gian rơi xuống nhớ mong đợi chờ.
Sao trời rơi xuống giấc mơ,
Trái yêu lơ lửng, bao giờ mới rơi?

(Không đề)

Nói vậy thế thôi, những người con gái khi yêu thường đắm đuối, lắm lúc có thể nói quá là "mê" đi trong yêu. Nguyễn Thị Đạo Tĩnh đã thú nhận cái mê của mình, sau một lần trải nghiệm:

Cám dỗ

Mảnh vườn hoang - mắt anh
Đầy bóng mát đưa chân em lạc bước
Mải dong chơi,
Ngày lá biếc
Gót trần quên đường ra
Khi mặt đất say no
Vườn hoang màu nắng tắt
Giật mình
Em tỉnh giấc
Cửa vườn anh
Lá khép lối về. . .

Hình như phái yếu khi đã yêu cũng có nhiều những nét khác đám con trai. Cái sợ nhất của người nữ chính là sự cô đơn, xa cách.

Thu Nguyệt viết:

Em ngồi hoá đá thành thơ
Trả anh ngày tháng anh đưa qua cầu.
Em ngồi hoá đá thành chiều
Trả anh cái nụ hôn liều ngày xưa. . .

Tôn Nữ Trà Mỹ viết:

Đợi anh chiều thứ bảy
Hoa mưa nở đầy trời. . .
... Hay là em sẽ khóc
Vì không thấy anh sang

Hoa không nở một cành.
Chim không đậu một mình
Ai ơi: đừng phụ tình
Lẽ nào em xa anh...

(Hoa mưa)

Nguyễn Thị Hồng Ngát, khi xa người yêu mới thấy hết nỗi cồn cào của thương nhớ. Cái nhớ mà ca dao xưa nói: "Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi. Như đứng đống lửa như ngồi đống than", đã được chị cụ thể hoá trong thời gian và công việc khi xa cách trong bài thơ "Em mới hiểu"... Còn Xuân Quỳnh tả sự thớ thương gắn bó khi yêu giữa người con trai và người con gái nồng hậu thắm thiết trong bài thơ nổii tiếng của chị "Thuyền và Biển". Nhưng lớp trẻ, những nhà thơ trẻ, xuất hiện gần đây, tả sự yêu thương gắn bó đã theo những ấn tượng khá hiện đại mà dư âm của tình yêu không phải đã kém phần mê đắm. Vũ Thị Huyền viết:

Nếu có thể

Nếu có thể
Sương tan vào cỏ
Thì em tin cỏ sẽ rất xanh
Nếu có thể
Em tan vào anh
Thì em tin
Anh cũng xanh như cỏ. . .

Nguyễn Bảo Chân có một mảnh trời thu để gửi gắm tình yêu cho người mình thương nhớ:

Với bao nhiêu lá
Thì mùa thu đi
Tàn bao nhiêu nắng
Thì gió đông về

... Mắt em đánh đắm
Mảnh nào trời thu
Anh về nơi ấy
Có tìm bâng quơ

Anh về nơi ấy
Nắng vàng không anh?
Với bao nhiêu lá
Thì còn lại em!

(Thì còn lại em)

Nhưng điều mà trong Thơ tình thời con gái(*) quan tâm nhiều nhất, đó là hạnh phúc. Không ai muốn khi yêu lại không tiến đền hạnh phúc. Hạnh phúc là điều gì rất cần thiết cho nhau, đáp ứng những đòi hỏi không thể thiếu được, như muốn cần cho cơ thể. Dã Hương nói:

Vàng và muối

Nếu không có vàng
Cùng lắm
Anh chi là kẻ nghèo

Còn nếu không có muối
Thì giầu đến như vàng
Cũng sẽ lǎn ra chết

Đừng vì một lẽ gì
Phản bội muối
Đừng vì một lẽ gì
Phản bội máu

Dòng máu
Đỏ vì máu
Không đỏ vì vàng...

Bài thơ đầy tính tượng trưng về tình yêu, nhưng cũng đầy bản lĩnh và tính thuyết phục. Có khi, hạnh phúc là một điều chợt đến, nhưng đó là một tình yêu cảm nhận được, là một tình yêu chân chính, một tình yêu trước đây mình chưa hình dung được, bỗng một hôm, nó đến thật dung dị, thật thân gần:

Em có một tình yêu
Mỏng manh như nhánh lá,
Anh bất ngờ như bể
Đến lặng thinh như tờ...

Mười nǎm anh ở rừng
Em còn là "con nhỏ"
ở khoảng giữa đôi ta
ầm ì bom đạn nổ...

Đang ăn cơm bỗng hát
Giữa giấc ngủ mỉm cười
Em bất thường lạ thật
Bắt đền anh, anh ơi!

(Khi tình yêu đến)

Nguyễn Kim Anh thì cho rằng, với một người phụ nữ thà rằng như que diêm loé sáng một lần, và được cháy hết mình cho tình yêu:

Nhưng em sẵn sàng làm chiếc que
Dám đốt cả trái tim diêm sinh bé xíu
Cháy đến tận cùng của thân tăm trắng trẻo
Dù kiếp tàn nhưng hiểu: đã được yêu.

Nói vậy thôi, chứ tình yêu, thật ra phải là cho cả một đời người và người thơ đã rất có duyên và có lý khi viết:

Nếu muôn suốt đời ở mãi bên nhau,
Thì câu ví kia xin người rút lại.
Bởi cái ngắn ngủi khác xa cái còn mãi mãi
Mà tình yêu cần đi suốt cuộc đời.

(Diêm)

Nhưng có lẽ, hạnh phúc có khi là phút giản dị trong một ngày lao động vất vả. Bài thơ Bên cửa sổ của Song Hảo, một tình yêu hồn hậu, tươi trẻ của một anh lính từ một vùng mặt trận trở về, đến với một cô thợ trẻ tan ca . . . Bỏ lại tất cả những bộn bề vừa trải qua, họ hôn nhau bên cửa sổ và thương yêu tràn đầy đến nỗi tình yêu làm đẹp thêm cho cả phố phường và vầng trǎng khuya đêm ấy

Nhưng, tình yêu có chǎng lúc nào cũng chờ ở bên ngoài bậc cửa. Có những cuộc tình trắc trở, bao nhiêu lý do, bao nhiêu buồn tủi, chán nản vây bọc những cuộc tình. Ngang trái có khi ở phía này, ở phía kia, nhưng người con gái, bao giờ cũng thường chịu phần thua thiệt. Có khi là thanh sắc nhạt phai, thời gian đổ xuống vai họ những điều tàn nhẫn. Phan Thị Thanh Nhàn, từng có bài Hương thầm nổi tiếng thời trẻ, đến nay đã phải nói thẳng đến một sự thật phũ phàng:

Con đường

Nếu anh đi với người yêu
Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi
Con đường ta đã dạo chơi
Xin đừng đi với một người khác em.
Hàng cây này đã lớn lên
Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau .
Hai ta ai biết vì đâu
Hai con đường đó xa nhau, xa hoài.

Nếu cùng người mới dạo chơi
Xin anh tránh nẻo đường vui ban đầu.

Đoàn Thị Lam Luyến, đã công khai nói cái hạnh phúc mà như là nhận lại từ một người đàn bà khác. Đó là một điều chua chát chǎng? Chưa hẳn thế... Trong cái muộn mằn "Cái giần vục phải cái sàng. Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau". "Nhặt lại" hạnh phúc, nhưng là hạnh phúc thật! Cho nên:

Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản nhiên em nhận bã tràu về têm...

(Chồng chị, chồng em)

Nói là vậy thôi, cứng cáp vậy, nhưng từ ngoài bài thơ, hình như cũng có một nỗi buồn, một sa sót. Có khi là tình yêu một phía. Biết là người tình không đến, nhưng vẫn cứ chờ, vẫn khắc khoải, vẫn yêu, không thể nào khác được. Vũ Thị Hương viết:

Em chờ

Chắc gì anh đến hôm nay
Mà em cứ đợi tàn ngày, trắng đêm
Hết đi ra cửa ngóng nhìn
Vào nhà ngồi xuống, đứng lên thẫn thờ
Chắc gì anh đến bây giờ
Trà pha để nguội, nhạt mờ vị hương
Chắc gì?
Mà dạ cứ thương
Cứ day dứt nỗi vấn vương trong lòng
Đã yêu, yêu đến tận cùng
Đã thương, thương đến nát lòng vì nhau.
Chắc gì?
Đã chắc gì đâu?
Hôm nay, cả những ngày sau
Em chờ...

Làm sao dẫn ra cho hết những tâm trạng, những mối tình thiên hình vạn trạng của thời con gái! Nói như Phạm Thị Ngọc Liên trong bài Một mình trong chiều:

Mối tình anh như mái ngói đầy rêu
Nỗi buồn đóng thành bǎng
Em dẫm vào trượt ngã
Vết nhói đau đến lạ
Như lời tình ca cũ đã xanh rêu...

Chẳng có thuộc trường sinh nào
giữ được tuổi trẻ em
Chẳng như loài hoa bất tử
Cứ lóng lánh trong hoàng hôn của mình

Con chim sẻ bay đi còn lại những dấu chân phiền muộn

Trên mái ngói đầy rêu
Như danh thiếp một mối tình đi vắng
Em ngã trong nỗi buồn thầm lặng
Già nua
Mệt nhoài. . .
Giá như anh có một lần biết được
Em như con chim sẻ kia
Bay đi
Bay đi
Dù không đến mặt trời. . .

Thơ tình thời con gái chính là điều chân thành, tâm huyết nhất của những nhà thơ nữ.

ST
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 08-28-2004, 03:17 AM
Tố Quyên Tố Quyên is offline
Member
 
Tham gia ngày: Aug 2004
Bài gởi: 85
Default

Bình thơ hay quá
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 09-01-2004, 01:44 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Nữ sĩ HỒ XUÂN HƯƠNG MỘT THIÊN TÀI NHƯNG BẤT HẠNH
Nguyễn Quý Đại, May 28, 2004


Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..
(Giấc mộng con của Tản Đà)

Nhìn lại lịch sử Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oi hùng. Những người khác không cầm gương đao xông pha nơi chiến trận, mà cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc như những nhà thơ nữ nổi tiếng : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh phụ ngâm khúc cuả ông Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn.. Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh .Nữ sĩ nỗi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1),Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài lấy sông Linh Giang làm biên giới từ (1627-1772)

Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An.Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời cuả anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3)

Hồ Xuân Hương và thân phận

Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú) Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp.Theo tục truyền chiều 30 tết Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố.

„ Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới“

Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối

„ sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào“

Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương? nên nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. Theo tài liệu cuả Giáo sư Lê trí Viễn (4) Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiến ..“ Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ :

Thảo lai băng ngọc kính
Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương

tạm dịch

Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)

Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng.. không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến „Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“ Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh của kiếp đàn bà làm lẽ mọn :

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong
Ca dao cũng có bài
Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...

Từ giả gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ "khóc Tổng Cóc".

Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Bài „khóc Tổng Cóc “gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi..để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư

rằng tôi chút dạ đàn bà,
ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
(kiều cuả Nguyễn Du)

Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng, Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh.

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi !

Cuộc đời Xuân Hương có thể „bảy nổi ba chìm„ qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như „chữ tài liền với chữ tai một vần“ !

Thơ và bạn đời

Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàng yêu đương mong đợi. ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ.Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) :

Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài : Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo...

Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi“ v v..

Đường hoa diù dật bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?

Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán...

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!

Xuân Hương với Mai Sơn Phủ„ Hoạ thơ Sơn Phủ“ bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)

Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau..

Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao an ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..

Xuân Hương trải qua nghiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi „quang cảnh trong đời chiếc gối mơ ! “ đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình „ tự thán“

Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau(1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu ? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên trúc chi từ“ bản dịch ra việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn

Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay !!

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương


Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến „ nhất nam viết tử thập nữ viết vô“ Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chửa thẹn

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc cuả bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là „ lẳng lơ“ ! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà,dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ ,tin đồn miếu linh thiên nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?
Dưới xã hội thời phong kiến người quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo) . Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng Xuân Hương xem đơn và phê ngay :

Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già .

Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký.Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.
Đọc bài „Ngủ quên„ như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén „Libido“ ..Bài thơ đầu đề không được thanh „ Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe :Dp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

Để có thể thẩm định thế đứng cuả nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng ?.. Bởi vì vấn đề tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, Dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội . Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian.

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
Ca dao

Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân .

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(ca dao)

Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng,

Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốt hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
hoặc
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẫn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi

Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh

Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thiết đãi ơn cô có bụng nầy
giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh hoat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, Đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới nuí tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ ( rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan

Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàn trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán

Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo

Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „ một đèo, một đèo lại một đèo“ từ màu sắc „ cửa son đỏ lóet; tùm hum; xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia xẽ được với thi nhân .Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lan thoi gian, tạo những nét đặc sắc ,thông thường ít nghe diệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn ..„ trong bài vịnh hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm ham
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bỏm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.

Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm...

Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không !

Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không .

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc

Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là „tục“ như cái vịnh cái quạt

Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..

Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát , bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.

Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...

Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng án đêm về dệt vải. với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ) Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu

Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội ; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo

Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
Hay qua bài
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người

Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng, đá bà chồng)

hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân.Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận ? nhưng tấm lòng được tôn trọng

Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu dù tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữa tấm lòng son

Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điễn tích . Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam...

Nguyễn Quý Đại

1/Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 - 1420) sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).
Văn học Việt nam qua các thời đại, Chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v. ..Chính nhờ ở những tác giả này tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng :Di và giàu sức diễn đạt
2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập „ Hồ Xuân Hương thơ và đời viết“ HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ?
3/ Những kỳ Án trong việt sử T.giả Trần Gia Phụng
4/( Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời trang 206) nhà xuất bản văn học.
5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc ( Nguyễn Hữu Thanh)
Tài liệu đọc thêm : Hồ Xuân Hương toàn tập của Gs Ngô lăng Vân; nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viẽn, Ng Đức Quỳnh..

(ST)
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 10-10-2004, 09:56 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Phạm Hầu-một tài thơ trong quá khứ
(ST)

Trên vòm trời thơ Việt, mỗi nhà thơ chỉ xẹt ngang trời như một vì sao đổi ngôi, để lại vài tia hồi quang đã là điều may mắn. Một trong những vì sao đó: thi sĩ Phạm Hầu, người gốc Điện Bàn, Quảng Nam, sinh năm 1920, đã từng học trường Quốc học Huế và trường Mỹ thuật Đông Dương. Sinh thời, ông chỉ có một số bài thơ in báo Tao Đàn và Mùa gặt mới. Nhờ mắt xanh của hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân, tên ông đã được ghi vào thi sử Thi nhân Việt Nam. Nếu không có cuốn sách này, chắc chắn lớp độc giả ngày nay không thể biết Phạm Hầu là ai. Thơ in sách thì còn thọ lâu, thơ in báo là dễ… “hồng nhan bạc phận”.

Dù có bài Chiều buồn và Vọng hải đài, người đọc lại chỉ nhớ có Vọng hải đài, lùi xa nữa, lại chỉ nhớ hai câu:

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Chẳng biết xa lòng có những ai?

Hai câu đó thành cái neo của con tàu Phạm Hầu neo vào lòng người đọc. Cảm giác vũ trụ mênh mang vẫy tay vào vô tận phải đứng trên đài cao Vọng hải với một tâm hồn thi sĩ mới có được. Tôi đã từng dùng bộ óc duy lý để thắc mắc ý nghĩa của câu thứ hai Chẳng biết xa lòng có những ai?

Tri kỷ tri âm tìm mới khó, mới phải đặt ra câu hỏi như vậy, còn (cách mặt) xa lòng thì đầy rẫy, việc chi Phạm Hầu phải hỏi. Nhà thơ Tế Hanh từng giải thích cho tôi: Theo cách hiểu của người miền Trung: xa lòng có nghĩa là người một lòng với mình mà phải xa cách.

Câu thơ hay có cái lạ là toàn bộ tiết điệu, hơi thở, cảm xúc của nhà thơ chiếm lấy ta, ám ảnh ta ngay khi ta chưa kịp hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Trước khi nghe anh Tế Hanh giải thích, hai câu ấy đã xâm chiếm tôi với sự cảm nhận không khác anh Tế Hanh là mấy.

Nhân nhắc đến Phạm Hầu, anh Tế Hanh có nhắc đến cái chết thê thảm của nhà thơ: trước Cách mạng thành công ít lâu, ông bị mật thám Pháp bắt ở Hà Nội, bị đánh đến trọng thương sọ não, bị giam vào nhà thương Vôi. Ông bị chết dọc đường trên tàu hoả khi mật thám Pháp giải ông về quê Quảng Nam.

Nhà thơ Tế Hanh tuy chưa được gặp Phạm Hầu, vẫn cảm thông một tài thơ yểu mệnh, đã viết một bài báo về Phạm Hầu sau khi ông chết. Anh có nhắc đến một số câu thơ của Phạm Hầu in trên báo Bạn Đường, một tờ báo xuất bản ở Thanh Hoá (1944) theo trí nhớ:

Trong đày ải mình trần tê ngọn lửa

Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn

Hai câu cuối bài này vằng vặc trong tâm tưởng nhà thơ Tế Hanh, nhất là khi mắt nhà thơ đã không còn đọc được sách, anh chỉ bạn cùng ký ức với những câu thơ thuộc tự thiếu thời:

Nếu tôi đau, trời đẹp, nếu tôi đau

Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau!

Thơ Phạm Hầu lúc nào cũng đau đáu một nỗi cô đơn. Hình tượng sự cô đơn cao thượng của Prométhée lấy lửa của trời bị chim ác rỉa thịt thật kiêu hãnh! Đó là ngọn lửa cách mạng ông góp phần mang lại cho nhân dân, sẵn sàng nhận sự tra tấn tù đày của thực dân Pháp. Nếu còn sống, hẳn ông đã đứng trong hàng ngũ thơ kháng chiến, thơ cách mạng như các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…

Tôi được tiếp xúc với nhà thơ Phạm Hầu nhiều hơn ở dạng bản thảo (26 bài) khi được anh Hoàng Minh Nhân cho xem do anh sưu tầm được trước khi xuất bản. Hoá ra sau nửa thế kỷ câu hỏi Chẳng biết xa lòng có những ai? vẫn có lời đáp, sau Tế Hanh là Hoàng Minh Nhân, là những độc giả đọc bài báo này và tập Vẫy ngoài vô tận (Nxb Thanh Niên 6-2001).

Tôi từng cảm tác câu thơ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư của thiền sư Không Lộ:

Một tiếng tâm linh ngàn tiếng vọng

Khoảng không hoá đá tạc thơ Người.

Nếu thực là tiếng tâm linh, tâm huyết thì có thể tạc cả lên khoảng không như tạc vào đá vậy!

Ngoài tấm lòng yêu nước, ông vẫn mang tâm hồn lãng mạn như bao nhà thơ thời ấy. đọc Chiều buồn, thấy một vẻ buồn sang trọng:

Buồn len lỏi trên đầu cây, thi vị

Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi

Càng quý sự tinh tế của Hoài Thanh - Hoài Chân. Hai ông thấy tâm hồn thơ Phạm Hầu mảnh mai, e dè, khiêm nhường “ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để lại dấu trên đường…” đến mức hai ông không thể cảm nhận được khi tạp chí Tao Đàn in thơ Phạm Hầu bằng thứ chữ in to đậm. Hai ông còn cho rằng Vọng hải đài chính là đài lòng của Phạm Hầu, thi sĩ đứng trên điểm cao đó để thẩm định mọi mây sớm gió chiều qua lại.

Khép lại Chiều buồn, thi sĩ thấy:

Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội

Và chỉ chờ một duyên cớ, một tác động nhỏ nào đó cũng đủ cho hai nhánh sầu đó hoà tan thành suối lệ:

Khi giọt sương âu yếm nhỏ lên người

Nàng và tôi là hai dòng lệ nối

Phạm Hầu lớn lên trong nhịp sống mòn mỏi đến tẻ nhạt, là người có học, ông càng cố gắng tìm hiểu về nơi mình sẽ đến, nhưng ông không chỉ gặp một sự trống vắng:

Tôi theo tư tưởng vô cùng tận

Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu

Sáng sớm rạng đông, chiều chạng vạng

Những giờ mới lạ có bao nhiêu?

(Lý tưởng)

Con người bơ vơ ấy từng thấy hé một chân trời, nhưng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, chỉ có thể gợi ra như một biểu tượng:

Giữa trưa bơ vơ

Sầu chi không rõ

Tôi làm câu thơ

Mà vần cũng đỏ

Ai đọc thơ tôi

Đóng giùm cửa ngõ

Trời xanh của tôi

Muốn đầy hoa đỏ

(Màu đỏ đang rung)

Nhưng dù lý tưởng của ông là thế nào, lý do tồn tại của ông cho đến hôm nay, vẫn vì ông là thi sĩ Phạm Hầu, ông tồn tại với tư cách người sáng tạo ra những câu thơ, bài thơ ghi được vào lòng người đọc, những hạt ngọc góp cho kho tàng thi ca đất nước:

Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹ

Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi!

(Mộng cù lao)

Cái nhìn người đẹp toả hương ư? Hay nhẹ như hương?

Thẫn thờ lá trúc rưng rưng lệ

Như mắt đa tình lúc tiễn đưa

(Vọng lâu)

Sau này trong Cuộc chia ly màu đỏ, Nguyễn Mỹ cũng coi lá như mắt:

Nắng còn ngời trên những mắt lá si

Nguyễn Mỹ có thể chưa đọc hai câu thơ trên để bị ảnh hưởng, nhưng người đi bước trước, vẫn là Phạm Hầu.

Lá không chỉ là mắt, với ông, lá còn là chữ của cây, của nhà thơ:

Cái cây thi sĩ vô tình đã

Biên những dòng thơ lá bẽ bàng

(Y Lan)

Sức liên tưởng phong phú cùng với tri thức hội hoạ của Phạm Hầu giúp ông tạo nên những câu thơ kỳ diệu:

Nàng khóc bằng tay trên phím ngà

Những ngón tay dài như lệ sa

(Dạ Nhạc)

Có cái nhìn rõ để phân tích, lại có cách nhìn nhoè đi, chỉ để gây cảm giác, quệt một mảng màu trên vải:

Ai về lướt thướt trong đêm trắng

(Nhớ tự nhiên)

Xưởng hoạ - thơ của thi sĩ không phải lúc nào cũng chỉ một gam màu dịu nhẹ. Có lúc ông cũng ấn tượng và dữ dội:

Trăng cháy sau màn cây đỏ ối

Máu bầm của một vết thương đau

(Sầu thương)

Từ hai bài thơ Chiều buồn và Vọng hải đài trong Thi nhân Việt Nam, nay qua cả tập thơ, ta đã hình dung được khái quát một diện mạo của thi sĩ Phạm Hầu.

(Phụ bản thơ - Báo Văn nghệ)
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 11-14-2004, 05:04 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Nguyễn Quang Lập
Chín khúc tương đồng



(Đọc Trầm tích, trường ca của Hoàng Trần Cương. NXB Hội Nhà Văn 1999, tái bản 2004)

Tôi hiểu Trầm tích là kết tủa của kí ức, sự kết tủa lỏng, từng giọt, từng giọt một của một người từ thuở “đẻ rơi bên cối giã gạo”, thuở mới chỉ là “nỗi buồn không biết nói”, “đi qua tuổi thơ nắng mưa lấn bấn”, đi qua “những nhọc nhằn mê lú”, “những tháng năm tươi nguyên màu máu chảy”, “những địa tầng mưng máu” cho đến ngày bạc tóc mới giật mình nhìn lại món nợ đời không biết trả làm sao, nhưng lại không muốn “gán cho mai sau/dù một cắc nợ nần”. Từng giọt kí ức cũng là từng giọt ăn năn, từng giọt nhớ thương day dứt, kết thành dòng sông chảy lặng lẽ giữa đời thường.


2.

Kí ức về nơi chôn rau cắt rốn, “nơi mùa hạ long đầu/mùa đông lỏng gối/ nơi linh thiêng thơm thảo tình người”. Nơi đó là miền Trung, “mảnh đất mỏng và sắc như cật nứa”, mảnh đất “về tắt mắc rừng / đi ngang vướng biển”, “mảnh đất nghèo mồng tơi không kịp rớt”.

Miền Trung, “cái chảo rang của đất đựng trời”, “đông chưa tàn, hạ đã rạn ban mai”. Sống trọn kiếp với miền Trung mới thấm cái chữ rạn kia. Mùa hạ đã rạn trời, “nắng rúc xù mái rạ”, “bảnh mắt nắng rộm màu cá rán/ nghe mo nang lốp bốp nổ khắp làng”, “trời thủng lam nham nắng chiều vàng ổi”. Những mùa hạ điêu đứng. Nắng điêu đứng nắng. “Ðất khát chen nhau gầy rạc lời ru”, “những dòng sông thoi thóp nước”. Gió điêu đứng gió. Những ngọn gió “thổi cay thổi rát”, những ngọn gió “cào lửa vào đêm”. Ðất gan gà gió xới “bụi đỏ vùi chột cả bóng tre” và “cát mênh mang là cát”, “lốc gió xoáy hình vành nón”, “bạc phau trang giấy trắng học trò”. Ðã từng vật vã trong mịt mù cát bụi, tôi hiểu vì sao nhà thơ lại nói: “câu ví dặm nằm nghiêng/ trên nắng và trên cát” và vì sao “đến câu hát cũng hai lần sàng lại”. Lịm đi vì những câu thơ hay tê tái! Những câu thơ nóng rẫy, rút ruột từ những năm tháng trời đày, những mùa hạ vật vã với nắng gió và hạn hán, thèm quá một giọt mưa trời, bao ngày “ngửa mặt nhìn trời xanh nhức mắt”, nhìn “sông Lam héo theo lá” mà lo. Và khóc: “Gặp trăng thâm quầng đứng khóc cạn đêm”. Những ai từng bị những vầng trăng quầng đe dọa suốt tuổi thơ cháy khát, khó lòng cầm được nước mắt trước thơ anh.


3.

Miền Trung, “những đồng quê gió máy bạc trời”, những cơn “mưa quây khú cả nắng vàng”. Mảnh đất “mưa giờ Ngọ chưa qua gió giờ Mùi đã tới”, mảnh đất “ròng ròng mùa chinh chiến”. Ở đâu trong kí ức da diết nhớ thương mảnh đất ấy cũng gặp “những bãi hoang loang đầy vọt bổi”, những cánh đồng “lúa con gái mà gầy còm ốm đỏ”, những xóm làng “tre pheo cụt ngọn”, những “cây mít còm nhòm nhựa ứa rưng rưng”, “những đồi chổi rành/ những truông chổi đót/ quét vẹt trời miền trung”. Một chữ vẹt xót xa, cứa vào lãng quên, đánh thức những tâm hồn bỏ trốn, đánh thức cả mùi quê cho những kẻ li hương: “mùi cỏ mặn và khẳn như lông bò tẩm nắng” , “mùi cỏ còn đắng nghét đến hôm nay”. Miền Trung, nơi ấy “chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ/ không ai gieo, mọc trắng mặt người”. Tao tác người tha phương cầu thực, đất rỗng không, trời cũng rỗng không. Trống trơn “những ngọn đồi tím lịm sim mua”, những bến sông hoang đầy gió, “tiếng gọi đò méo cả bến sông”. Một chữ méo buốt đến tận xương. Chữ của trời hay chữ của người? Ba mươi năm cạy cục viết văn, một chữ ấy làm tôi giật mình sợ toát mồ hôi. “Nhìn quầng trăng lại nhớ mảnh quê gầy”.

Muốn khóc quá.

4.

Có một miền Trung của kí ức được chiếu sáng bằng cái nhìn trẻ thơ, cái nhìn quí hơn vàng cho những ai đam mê nghệ thuật, được nhà thơ cất giữ nâng niu sau nửa đời bươn chải, bỗng sáng lên một vẻ đẹp rưng rưng. Trời quê “tẩm ngẩm xanh”, “bờ ao tím rần túm lá lộc mưng/ lá lộc mưng trảy non chát ngòm cổ họng” và trên cánh đồng quê “chiều chưa nguội nắng/ ngoài đê cỏ hỏn hẻn cười/ đã giật mình nghe sấm đuổi”. Bức tranh đồng quê của chú bé nghịch ngợm, mải chơi. Cái nhìn trẻ thơ là cái nhìn ngạc nhiên, vì thế nó mở mắt cho ta cảm được cái lạ lùng những gì hằng thấy, những gì quen thuộc, những gì nhàm chán trong cuộc sống mòn của kiếp người. “Trăng đầu tháng đỏ ngầu/ như cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi.” Ta xuýt xoa và chợt nhớ miếng bã trầu mẹ ta vẫn thường quệt ngang trên vách. “Hình như bến bờ đau đẻ/ khoắt khuya đất vật ầm ầm”. Ta phì cười và chợt nhớ những đêm thơ bé, nghe bất kì tiếng động nào ta cũng lén mẹ vụt ra sân. Cái nhìn trẻ thơ là cái nhìn vô tư lự, gạt hết cay cực ở đời, tỏa ra ánh sáng trong vắt, vì thế cho ta nhìn thấy cái đẹp ngay cả trong những gì nguy hiểm, những gì đang đe dọa. Cái đẹp của cơn lũ về lúc nửa đêm, ngoài cái nhìn trẻ thơ không ai có khả năng nhìn thấy: “Hình như sông cũng nằm mơ/ nửa đêm sóng cười trắng xóa”. Ta sống được, ta yêu đời chỉ vì ta đã bị mê hoặc bởi cái nhìn trẻ thơ, có phải thế chăng? Những con cá còm dưới đáy vó bè đói rách bỗng lấp lánh vẻ đẹp lạ thường: “Ðọng dưới đáy vó bè những mảnh trăng bơi lẻ”. Trẻ thơ là vậy, thương người cũng thật trẻ thơ: “Khoai sắn thương nhau láu táu để dành”. Thương trời cũng thật trẻ thơ: “Ðưa mây trắng về trời khêu lại nắng”. Cái chữ khêu ấy là chữ của trẻ thơ hay chữ của kí ức trẻ thơ thì cũng thế. Thương cả những con kiến mùa nước lũ. “Mùa lũ theo con kiến càng/ leo cong ngọn cỏ/ mùa lũ theo đàn kiến đỏ/ men ngược bờ tường/mùa lũ theo bầy kiến đen/ tha rơm vào tổ/ mùa lũ xua đàn kiến gió/ bỏ nhà đi hoang/mùa lũ đẩy cánh kiến vàng /sang nhà hàng xóm”. Thương mà lại hát vang lên, dung dăng dung dẻ, ấy là cách thương của trẻ thơ.

Ta già nua bởi vì ta cằn cỗi.


5.

Trầm tích chỉ những giọt tình thi thoảng, điều ngạc nhiên nhíu mày, dù thế nào thơ cũng là chốn trú ngụ của tình yêu. Nhiều thơ cho bà, ít thơ cho em, dòng thơ thật trong không thật mát. Ít nhưng mà quí hiếm, thôi thì cầm lòng vậy. Ðã bao lần ngắm em, khó thấy một cảnh này: “Buổi trăng lên em tự vuốt bóng mình”. Không phải, vẫn hằng thấy đó thôi nhưng chẳng biết nói lên. Không biết hắt lên đời thường ánh sáng lạ, xin đừng làm thi sĩ. “Em thấm vào anh/ đam mê ngọt lịm”. Ai chẳng thế nhưng thơ có cách thấm của thơ. Thấm từ khi “gặp màu xanh hút hồn thăm thẳm mắt em”. Không có hút hồn, câu thơ ấy xưa như trái đất, thơ đôi khi cũng cần phải láu. Thấm từ buổi đầu gặp gỡ, hoặc là trong ngõ nhỏ, hoặc ở giữa cánh đồng, hoặc ở bến sông quê chiều vừa lịm nắng. Không biết. Chỉ biết “em ngang qua chiều/ nắng thơm mùi rượu/ mắt sông/ môi lửa/ gió lên đồng”. Em đáng yêu và đáng... sợ, nếu là tôi, tôi sẵn sàng xin chết. Xin chết một lần yêu: “Mưa đến với đêm/ và anh mang gió/ ôm mưa ngang thềm”. Cái chết có chữ thơ che đậy. Xin chết hai lần yêu: “Khoảnh khắc gặp gỡ/ mờ đất tối trời/ như là ngọn lửa/ sấn vào đêm sâu/ đêm ngày sấp ngửa...” Một chữ sấn làm tan hết chữ thơ, lộ thiên cái chết nóng rực. Vườn thiêng đã phá, trái cấm đã ăn, cứ thế, cứ thế... “Em là thế/ và anh là thế/ xanh ngang đêm/ và thắm lệch ngày”. Xanh thì xanh ngang, thắm thì thắm lệch, lạ thay cái chữ thơ làm ta lún sâu vào tình, khó lòng dứt ra được.


6.

Bơi lội trong dòng sông kí ức có tên Trầm tích, ta gặp những mảnh đời thường lam lũ, những chân dung dựng bằng kí ức, dựng bằng tinh lọc thơ dành dụm suốt đời. Vẫn là bà muôn năm lưng còng, Trầm tích cho ta một góc nhìn lấy ra từ đau xót, phác thảo bà, đời rất đời mà đẹp hơn cổ tích: “Tuổi thơ tôi đi qua/ trong nắng mưa lấn bấn/ trong bóng bà đã lấm hoàng hôn”, trong bóng bà “lúi húi dáng lưng còng ngóng vịn cơn mưa”. Hội họa nào vẽ được cái “bóng lấm hoàng hôn” và dáng “ vịn cơn mưa”? Muôn năm không vẽ được, cho dù Rodin, cho dù Hopper. Muôn năm bà vẫn ru cháu dưới ánh trăng, chiếc võng cột gốc cau, “ánh trăng nâng bóng cau đặt mớm vào mép võng”, sao ta nghe tiếng ru hời nhớ thương đứt ruột: “Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốm”. Ðứa bé thiêm thiếp ngủ, bà “bỏm bẻm nhai trầu/ rón rén thức mùi hương”. Cháu bà là tương lai của bà, bên cánh võng bà cố giữ gìn nâng giấc tương lai, bao nhiêu đắng cay hờn tủi trong đời bà rón rén giấu đi. Cả trầu cau cũng tỏa hương rón rén! Bà nào bà không thương cháu nhưng thương như bà thuở “làng lâm nạn”, rùng rùng đói rách xâm lăng, mọi thứ trong nhà đều đem đấu giá, quả thật trong đời chưa nghe ai nhắc đến: “Biết lấy chi cho lũ cháu nô đùa/ bà xâu mấy đồng xu rỉ xanh rỉ vàng chuột tha vào trong ngạch/ quàng lên buồng chuối sau nhà/ quàng lên buổi chiều buồn thời gian không đấu giá”. Ai từng qua những ngày “lâm nạn”, những ngày ruộng đất sục sôi, thấy lại kí ức này đều cúi gằm xuống ngực khẽ nấc lên, chắc thế.

Không làm sao nói hết.

Không làm sao nói hết dáng mẹ miền Trung tần tảo nuôi con. “Mẹ hãm nhỏ đĩa đèn dầu lạc/ tẩm lớp nghệ vàng lên mẹt cá ươn/ sớm mai kéo sụp nón / sấp mặt ngồi cuối chợ/ nhặt về những đồng xu bạc phếch đất bùn.” Tuổi bé con có biết gì đâu, bạc tóc mới đau cái “buổi sáng con để xổng con cá chầy ngoài bãi/ con cá chầy sẽ mang gạo về cho các em con”. “Con cá mừng thoát nạn”, mẹ đứng trơ trên bãi, “lũ em đứng vỗ tay”, “mẹ rấm rức cười/ mắt mưng mưng gió”. Nụ cười đắng ngắt, không đau đời không nhìn thấy được. La Joconde có nụ cười bí hiểm mặc kệ La Joconde, tôi chỉ thao thức vì nụ cười của mẹ. Bạc tóc mới đau “ngày di dân gió tràn vào xóm nhỏ”. Nườm nượp những cuộc di dân chẳng phải vì đói nghèo, vì những ý tưởng vu vơ kinh tế mới. “Mẹ lận vào lưng đùm hạt giống”, “bỏ lại sau lưng mồ mả cha ông”, “dẫn bầy con đi/ ánh mắt phẳng lì màu đất nện”. Ánh mắt trơ lì cam chịu của người mẹ miền Trung. Mẹ biết mẹ đang đem con đến chỗ sa cơ nhưng chẳng thể đặng đừng, làm sao đương cự với trống dong cờ mở? Ðau đến nỗi trào ra hai chữ phẳng lì. Bỗng hiểu vì sao “mẹ vén vun cưng nựng nụ cười/ trên gương mặt thời gian còn rác rưởi”.


7.

Trầm tích có chân dung đa sắc, có chân dung một nét. Hai ngàn rưỡi câu Trầm tích, chỉ hai câu anh vẽ về cha. Phác thảo một nét xót như xát muối. Người cha vừa thoát qua cái chết dựa cột oan uổng sau một cú sửa sai, lẳng lặng về nhà. Không mừng vui cũng chẳng giận hờn. “Mẹ bảo: may mà trời có mắt/ cha chẳng nói gì/ người lẳng lặng cầm sào đi xốc lại cây rơm”. Phác thảo một nét thô tháp và trần trụi, toát lên khí chất miền Trung. Nếu là xi-nê đây là xen tuyệt hảo.


8.

Trầm tích đa thanh không tổng phổ, nói rằng giao hưởng e hãy còn xanh. Nhưng có một xô-nát cho bộ dây, chân dung không lời người lính trở về sau chiến tranh, quen rất quen, lạ vô cùng lạ. “Cho con xin trọn vẹn một ngày/ trải lá chuối lên xó vườn rậm cỏ / nằm giang tay giang chân/ để nghe gió thì thào to nhỏ/ để dõi theo mây núi trắng ngần/ để nỗi nhớ lần về tận ngõ...”

Ta nghe tiếng hòa bình vi vút.

Hòa bình đẹp như mơ, hòa bình đau hơn hoạn - nỗi niềm mênh mông người lính thời hậu chiến. “Ta nhiều khi mình giấu cả mình/ bỏ sót những cái đích kề cận/ quay lại tìm trời đã nín thinh/ quay lại tìm ta không là ta nữa”.

Ta nghe một khoảng lặng đau.

“Giặc tan/ lính tản/ loãng chiều” - Một hòa bình ngẩn ngơ. “Hoảng hốt nhìn sân trường vắng bóng trẻ con/ hoảng hốt nhìn lòng mình ruột gan như lửa đốt/ bói đâu ra bóng dáng ngày thường”. Một hòa bình ngơ ngác. Một hòa bình không có trong giấc mơ giữa hai lần xung kích. Khúc biến tấu xốn xang, quay cuồng cơn stress, báo hiệu cái kết đơn thanh, ấy là khi người lính “một mình đứng khóc cùng cỏ lác”. Tiếng vĩ cầm chầm chậm chết dần trong câm lặng.

Xô-nát của Debussy, của Saint-Saëns hay của Shostakovich? Tôi không biết, với âm nhạc tôi là tên mít đặc.


9.

Tôi hiểu Trầm tích đánh thức kỉ niệm của mỗi người, đập vỡ lớp vỏ bọc cứng nức những ham hố đương thời, những toan tính gầm ghè, những âm mưu nhơ nhuốc, những ghen ghét bệnh hoạn, kéo mỗi người về qua khứ, dẫu biết “quá khứ không toàn là kỉ niệm/ quá khứ có khi còn buốt óc”.

Không biết nói gì hơn.

Bắc Linh Ðàm, những ngày mộng du.


Nguồn: Báo Văn Nghệ, số 43, 23.10.2004

__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 02-13-2009, 08:31 AM
foryou's Avatar
foryou foryou is offline
Special Member
 
Tham gia ngày: Mar 2007
Bài gởi: 816
Default Đến với " Dòng Sông Một Bờ " của Nguyễn Khắc Thạch

Dòng sông một bờ
Nguyễn Khắc Thạch

Có một dòng sông mang tên em,
Dòng sông anh tự đặt
Xin mùa thu chiếc lá làm thuyền.

Có một dòng sông trôi vào lãng quên,
Nước trong như nước mắt
Điều chưa đến mà sao thấy mất?

Có một dòng sông chỉ có một bờ,
Phía bờ kia quay mặt.
Dòng sông anh không qua được bao giờ...

Tôi thuộc lớp người thuộc chưa nhiều thơ tình, nhưng với thi phẩm "Dòng sông một bờ” thì tôi đã đọc thuộc, thuộc từ lâu lắm rồi, từ cái thuở tôi biết yêu thơ và biết yêu em... Với người khác, "Dòng sông một bờ” của Nguyễn Khắc Thạch chỉ có thể là dòng sông thời gian, hay đó là một quá khứ xa xăm. Còn đối với tôi, một chàng trai trẻ đang yêu, khi soi mình vào "Dòng sông một bờ”, tôi như soi vào một câu chuyện tình yêu mà bờ bên này chính là anh - chàng trai, còn bờ bên kia, cái bờ "Anh không qua được bao giờ” chính là em, là trái tim còn bỏ ngở.

…Dòng sông đi vào thơ ca thì nhiều, dòng sông được ví với tình yêu trai gái bờ có hai bờ thương, bờ nhớ thì càng nhiều. Còn vi dòng sông chi có một bờ như tình yêu chỉ đến từ một phía thì có lẽ chỉ có duy nhất Nguyễn Khắc Thạch mà thôi. Cấu tứ bài thơ khá lạ và độc đáo.

Bài thơ ngắn gọn, súc tích nhưng cá 3 khổ thơ đều nhắc đến dòng sông. Ở câu thơ đầu tiên, tác giả viết: "Có một dòng sông mang tên em" mới đọc ta cứ ngỡ có một dòng sông thật đang tồn tại đâu đó, nó cũng có bên bồi bên lở, dòng sông bắt nước từ trong đất mẹ và chảy hoài về phía biển, bởi Nguyễn Khắc Thạch giới thiệu đó là dòng sông "mang tên em". Tên em là sông Hương (quê của nhà thơ) hay là đòng sông Linh Giang (quê của vợ Nguyễn Khắc Thạch?) Đúng vậy, có dòng sông nào mà chẳng có tên, có nhiều dòng sông mang trong mình những cái tên đẹp, hiền hòa như miền cổ tích... nếu không phải là người đang yêu, có lẽ tôi cũng nhầm như những người đọc khác... Nhưng sang câu thơ tiếp theo, tác giá "bật mí” dòng sông "mang tên em" chi có anh biết tên nó mà thôi... Chỉ có trái tim anh biết, bởi đó là dòng sông "anh tự đặt", không phải là sông Hương hay dòng Linh Giang xanh thăm, mà đây chính là đòng sông trong tâm tưởng, dòng sông trong hoài niệm, dòng sông không có thực trên đời mà chi có thực trong tim anh, anh chôn chặt nó trong ký ức... Một miền ký ức không vui. Một miền ký ức buồn... Con thuyền lá mà "anh xin mùa thu” cứ mãi trội, trôi đến hư vô, và không gặp được bến bờ nào cả...

Đến khổ thơ thứ hai, là quá khứ của một cuộc tình chăng? Đúng vậy, kỷ niệm, tình yêu dẫu vui, dẫu buồn rồi cũng dần trôi theo năm tháng, thời gian đi qua, tất cả đi qua, hạnh phúc và niềm đau cũng đi qua... ở đây chàng trai trong bài thơ cũng muốn quện đi lắm chứ, một chuyện tình buồn, một mối tình đơn phương, chỉ có phía "bờ anh" mà không có phía "bờ em"... nên anh đã cố quên đi, cho dù không bao giờ quên được. Dòng sông đó đã trôi vào lãng quên, dẫu đã cố gắng quên đi nhưng anh vẫn nhớ "Nước trong như nước mắt". Có giọt nước nào trong hơn nước mắt, nước mắt khóc cho một cuộc tình có lẽ càng trong hơn bờ nó được "lọc" bằng trái tim đang yêu. Vậy đây là giọt nước mắt của ai, giọt nước mắt của em khóc hay là anh khóc? Anh đã khóc "khóc không phải vì yếu hèn" mà khóc vì yêu em, khóc vì: "Điều chưa đến mà sao thấy mất", khóc vì tình yêu chưa đến mà đã đi xa thật rồi, xa mãi…

Đến khổ thơ thứ ba, một lần nữa, Nguyễn Khắc Thạch lại nhắc "có một dòng sông" nhưng đây không phải là một dòng sông bình thường có tiếng ai í ới gọi đò, mà đây chính là dòng sông chi có một bờ, chỉ có bờ bên này mà không có bờ bên kia, vì: "phía bờ kia quay mặt", bờ kia - bờ em quay mặt - em - không - đáp - lại - tình - yêu - của - anh. "Phía bờ kia quay mặt", hay chính là.em "quay mặt".

Bài thơ kết thúc giống như "dòng sông" trong lòng anh đã thôi chảy, dẫu biết rằng dòng sông cuộc đời cứ mãi trôi đi.

(sưu tầm)
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 01:58 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.