Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ngắn - Truyện Học Trò
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #11  
Old 01-11-2013, 04:43 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Bản chất của tội ác


Ngồi bật dậy vì tiếng rung của cái dụng cụ báo giờ, Eragon vơ vội con dao săn, nhảy khỏi giường, đề phòng bị tấn công. Nó há hộc mồm thở, toàn thân như kêu thét lên phản đối vì những lạm dụng quá sức trong hai ngày vừa qua.
Eragon chớp mắt nhìn quanh, trời đã sáng bạch, Orik có lẽ đã ra đi từ lúc tinh mơ. Nó rên lên một tiếng rồi tập tễnh như ông già bị thấp khớp, bước vào phòng tắm.
Sau mười phút cùng Saphira đứng chờ dưới gốc cây, Eragon mới thấy một thần tiên tóc đen, vẻ đạo mạo tiến lại, hai ngón tay chạm môi, cúi đầu rồi giành phần nói trước nó:
- Cầu xin số phận tốt lành đến với người.
Eragon cũng đặt ngón tay lên môi, cúi đầu đáp lễ:
- Cầu xin các vì sao bảo vệ người. Sư phụ Oromis phái người tới, phải không?
Không thèm nhìn lại và trả lời Eragon, vị tiên tóc đen quay sang Saphira:
- Xin chào, ta là Vanir thuộc tộc Halbthin.
Eragon bực tức rủa thầm trong khi Saphira cúi đầu chào lại. Lúc đó Vanir mới lên tiếng bảo Eragon:
- Ta sẽ hướng dẫn mi tới nơi luyện kiếm.
Hắn quay đi ngay không đợi Eragon kịp trả lời.
Rải rác trong sân luyện kiếm đã có những cặp hoặc từng nhóm thần tiên đang tập luyện. Với sức mạnh thiên phú, những đường kiếm của họ ào ào như vũ bão, lanh lẹ như tia chớp. Hàng loạt tiếng vũ khí va chạm rung lên như chuông ngân. Dưới những tán cây quanh sân, một số thần tiên tách riêng lẻ, đang luyện Xà-Hạc quyền với những chiêu thức biến ảo, duyên dáng và phức tạp. Eragon tự nhủ mình không bao giờ đạt đến mức tuyệt chiêu như vậy được.
Sau khi tất cả ngừng tay, cúi chào Saphira, Vanir rút khỏi bao thanh kiếm mảnh mai, bảo Eragon:
- Bàn-tay-bạc, nếu bảo vệ được kiếm mình, chúng ta có thể bắt đầu.
Eragon lo lắng nhìn những kiếm khách thần tiên phi phàm chung quanh, tự nhủ: “Mình chỉ sẽ làm trò cười cho họ mà thôi.”
“Anh sẽ không sao đâu, đừng lo.”
Tuy Saphira nói vậy, nhưng Eragon cảm thấy chính cô em rồng cũng đang lo lắng cho ông anh.
Hai tay Eragon run lên vì sợ khi cầm thanh Zar’roc thủ thế. Thay vì xông lên tấn công, nó đảo bước, né tránh từ xa, ráng không để bất cứ điều gì có thể gây thêm một lần bị choáng ngất nữa. Nhưng dù cố gắng thoát khỏi những đường kiếm của đối phương, Eragon vẫn bị bốn chiêu chớp nhoáng của Vanir đánh trúng mạn sườn, ống quyển, hai vai.
Vẻ mặt đạo mạo trầm tĩnh của Vanir lúc bắt đầu thoắt trở thành vẻ giễu cợt khinh khi. Phóng mình nhảy tới, hắn lướt nhẹ kiếm suốt chiều dài thanh Zar’roc, đồng thời xoay vòng Zar’roc, xoắn mạnh cườm tay Eragon. Không chịu nổi sức mạnh của thần tiên, Eragon buông thanh kiếm bay vọt khỏi tay.
Vanir dí mũi kiếm ngay cổ Eragon, nói:
- Chết.
Gạt lưỡi kiếm của Vanir, Eragon lê chân, cúi nhặt thanh Zar’roc. Vanir lại nói:
- Như vậy là chết rồi. Đánh đấm thế này, sao mi có thể mong hạ được Galbatorix? Dù biết mi là một con người yếu ớt, ta cứ tưởng mi khá hơn nhiều.
- Vậy sao mi không tự đi mà đánh với Galbatorix, thay vì trốn chui nhủi trong đất Du Weldenvarden này?
Vanir giận sôi gan, nhưng giọng nói vẫn lạnh lùng đầy ngạo mạn:
- Vì ta không phải là một kỵ sĩ rồng. Nếu là kỵ sĩ, chắc chắn ta sẽ không là một kỵ sĩ hèn nhát như mi.
Khắp bãi tập bỗng im lặng như tờ.
Quay lưng lại Vanir, Eragon ngửa mặt nhìn trời, thầm rít lên: “Đây là một thử thách nữa mình phải vượt qua.”
Vanir vẫn tiếp tục:
- Ta nhắc lại: đồ hèn. Máu mi loãng như tất cả dòng giống loài người của mi. Ta nghĩ chắc Saphira đã mắc mưu Galbatorix, nên đã bối rối chọn lầm mi làm kỵ sĩ.
Các thần tiên chung quanh sững sờ trước những lời nói của Vanir, họ râm ran với nhau, công khai phản đối thái độ vi phạm thô bạo nghi thức xã giao của hắn.
Eragon nghiến răng. Nhục mạ nó, nó còn chịu nổi, nhưng không được đụng tới Saphira. Saphira lập tức chuyển động khi cảm thấy sự giận dữ, đau đớn, sợ hãi bùng lên trong lòng ông anh. Eragon quay phắt lại, mũi kiếm rít lên trong không khí.
Đường kiếm đó có thể giết chết Vanir, nếu hắn không kịp chống đỡ. Hắn kinh ngạc vì chiêu kiếm cực kỳ hung hãn của Eragon. Không trì hoãn một giây, Eragon đẩy lùi Vanir vào giữa sân, với những đường kiếm đâm, chém tới tấp; quyết tâm làm hắn phải bị thương. Nó rạch mạnh một đường trên hông Vanir đủ có thể làm tóe máu, dù thanh kiếm đã được bao phủ, làm cùn bằng phép thuật.
Nhưng ngay lúc đó, cơn đau như bẻ gãy lưng, Eragon nhận biết sự đau đớn bằng cả năm giác quan: tai nó ù lên như ào ào toàn tiếng thác đổ, lưỡi tanh mùi kim loại, nước mắt cay sè, hai lỗ mũi nồng nặc mùi chua như giấm; và trên tất cả là cảm giác. Tà Thần vừa xé banh lưng nó ra.
Nó còn có thể thấy Vanir đứng nhìn xuống nó với nụ cười nhạo báng. Lúc đó nó mới nhận ra Vanir còn rất trẻ.
Sau cơn choáng váng, Eragon chùi máu trên miệng, rồi xòe tay trước mắt Vanir, hỏi:
- Loãng lắm không?
Thay vì trả lời, Vanir tra kiếm vào bao, quay bước. Eragon hỏi lớn:
- Đi đâu? Việc chúng ta chưa xong mà.
- Sức khỏe mi không thể đấu được nữa.
- Cứ thử coi.
Dù thua sút thần tiên, nhưng nó không để cho họ có dịp coi thường. Nó sẽ làm họ phải nể phục, quyết đấu cho đến phút cuối cùng.
Sau khi Eragon hoàn tất luyện kiếm cùng Vanir đúng thời gian Oromis đã quy định, Saphira tiến tới, đặt cái móng to đùng lên ngực Vanir, nói: “Chết.”
Các thần tiên vội lảng ra xa. Mặt Vanir xanh nhợt như tàu lá.
Vừa cất cánh lên cao, Saphira nói ngay: “Sư phụ nói đúng.”
“Đúng chuyện gì?”
“Anh ráng sức hơn khi có đối thủ.”
Trở về lều sư phụ, thời gian còn lại trong ngày tiếp tục như thường lệ: Eragon ở lại, còn Saphira bay theo Glaedr để học tập.
Hốt hoảng vì sư phụ ra lệnh luyện thêm mấy đường Xà-Hạc quyền mới, nhưng Eragon vẫn cố lấy can đảm tuân theo. Tuy nhiên mấy chiêu thức nhẹ nhàng không làm nó bị chấn thương.
Điều đó, cùng với sự tĩnh tọa trong trảng trống, cho nó cơ hội suy ngẫm câu hỏi sư phụ đã đưa ra ngày hôm trước.
Trong lúc suy ngẫm, Eragon quan sát bầy kiến đỏ của nó đang ào ạt xâm lăng và cướp lương thực của một tổ kiến nhỏ hơn. Kết thúc cuộc tàn sát, đối phương chỉ còn lại ít con sống sót – bơ vơ vô vọng – trêng khoảng trống đầy lá thông cằn cỗi.
“Giống như những con rồng ở Alagaesia”, Eragon thầm nghĩ. Liên tưởng từ những con kiến vừa biến mất, nó so sánh với số phận hẩm hiu của rồng. Dần dần câu trả lời cho vấn đề của nó hé lộ. Một giải pháp làm nó có thể tin và ứng dụng vào cuộc sống.
Chấm dứt buổi tĩnh tọa, Eragon trở về lều.
Khi Oromis đang dọn ăn trưa, Eragon lên tiếng nói:
- Con hiểu vì sao dù hàng ngàn người có thể chết, việc chiến đấu cùng Galbatorix vẫn là điều đáng phải làm.
- Vậy sao? Hãy nói cho thầy biết.
- Vì suốt mấy trăm năm qua, sự đau khổ do Galbatorix đã gây ra, lớn hơn rất nhiều những gì chúng ta có thể gây ra trong một thế hệ. Chúng ta cũng không thể đợi chờ lão chết, vì lão không giống một bạo chúa bình thường. Lão còn có thể thống trị nhiều thế kỷ, thậm chí cả thiên niên kỷ - và suốt thời gian đó lão vẫn tiếp tục hành hạ, đày ải nhân dân - trừ khi chúng ta… bắt lão ngừng lại. Nếu lão trở nên mạnh hơn, lão sẽ tiến tới tàn sát và bắt làm nô lệ cả người lùn và thần tiên tại Du Weldenvarden này. Và…
Nó ngập ngừng tiếp:
- …và vì việc giải thoát hai trứng rồng khỏi tay Galbatorix là cách duy nhất để cứu loài rồng.
Ấm nước trên lò than réo sôi sùng sục. Oromis đứng dậy, lấy ấm khỏi bếp, pha trà. Ông hỏi:
- Vậy là con đã hiểu?
- Con hiểu nhưng không được vui.
- Đúng là không vui. Nhưng bây giờ chúng ta có thể tin tưởng là con sẽ không chùn bước khi phải đối đầu với những bất công và tàn bạo mà Varden sẽ khó tránh không phạm phải. Chúng ta không muốn con bận trí vì những hoài nghi, thắc mắc; trong khi sức lực và sự tập trung của con là điều vô cùng cần thiết. Con có tin Galbatorix là kẻ độc ác không?
- Tất nhiên con tin.
- Con có tin là hắn cho mình là kẻ có tội không?
- Không, con không tin.
- Vậy thì chắc con tin Tà Thần Durza là quỷ dữ?
Những mảnh vụn quá khứ Eragon đã moi được từ Durza trong cuộc đấu tại Tronjheim trở lại trong tâm trí, gợi Eragon nhớ lại thời trai trẻ của Tà Thần – khi đó là chàng trai Carsaib, rồi khi hắn trở thành nô lệ của đám âm binh do chính hắn chiêu hồn, để trả thù cho cái chết của Haeg, sư phụ hắn.
- Bản thân hắn không là quỷ dữ, chính những âm binh điều khiển hắn mới là quỷ dữ.
Oromis nhấp ngụm trà, hỏi tiếp:
- Còn Urgal, chúng có phải là ác quỷ không?
Eragon nắm chặt cái muỗng đến nỗi làm những lóng tay nhợt hẳn ra:
- Mỗi khi nghĩ đến cái chết, mặt của một tên Urgal lại hiển hiện trước mắt con. Chúng xấu xa ghê tởm hơn cả loài ác thú. Những gì chúng đã làm…
Nó lắc đầu không thể nói tiếp nổi.
- Eragon, con sẽ nói sao về loài người, nếu tất cả những gì con biết, đều là những hành động của họ ngoài chiến địa.
- Điều đó không là… Không, đó lại là chuyện khác. Tụi Urgal đáng quét sạch không còn một mống.
- Kể cả đàn bà trẻ con? Những kẻ vô tội không – và có lẽ họ không bao giờ - muốn làm hại con? Con cũng sẽ giết họ và đày đọa tất cả dòng giống họ xuống đáy hỏa ngục sao?
- Nếu có dịp, chúng chẳng tha ta đâu.
- Eragon, thầy không bao giờ muốn nghe con bào chữa kiểu đó nữa. Không phải những gì kẻ khác làm, thì con cũng sẽ làm. Đó là sự nhỏ nhen, đố kỵ, thành kiến và là những biểu hiện của một tâm trí thấp kém, không sáng suốt. Con rõ chưa?
- Dạ, thưa thầy.
Suốt thời gian đưa cốc trà lên môi uống, mắt Oromis không rời Eragon:
- Thật sự con biết những gì về Urgal?
- Con biết sức mạnh và yếu điểm của chúng. Con biết phải giết chúng cách nào. Con chỉ cần biết bấy nhiêu thôi.
- Vì sao chúng căm hận và gây chiến với loài người? Lịch sử và truyền thuyết về chúng, hay chúng sinh hoạt ra sao? Con biết không?
- Chuyện đó có quan trọng không ạ?
Oromis thở dài, nhẹ nhàng nói:
- Hãy nhớ rằng, trên một phương diện nào đó, kẻ thù của con cũng có thể trở thành một đồng minh. Đó là chuyện rất tự nhiên trong đời.
Cố không cãi lại thầy, Eragon quậy cốc trà đến sủi bọt. Sau cùng nó lên tiếng hỏi:
- Có phải đó là lý do Galbatorix kết nạp Urgal?
- Đó không phải thí dụ ta định đưa ra, nhưng cũng đúng.
- Lão thỏa hiệp với Urgal dường như là một chuyện lạ lùng. Vì chính chúng là những kẻ đã giết con rồng của lão. Hãy nhớ lại những gì lão đã ra tay với các kỵ sĩ, mà kỵ sĩ có trách nhiệm gì với sự mất mát của lão đâu.
- A, có thể hắn điên, nhưng hắn vẫn cứ là một con chồn tinh quái. Ta đoán hắn có ý định sử dụng Urgal để tiêu diệt Varden và người lùn, và… cả các phe phái khác nữa. Nếu cuộc tấn công Farthen Dur vừa qua thành công, hắn trừ khử được hai kẻ thù, đồng thời làm suy kiệt Urgal, như vậy lão sẽ ung dung rảnh tay sai khiến chúng.
Buổi chiều, sau khi học cổ ngữ, hai thầy trò luyện phép thuật. Hầu hết bài giảng của Oromis hôm nay chú trọng vào phương pháp điều khiển những hình thức khác nhau của năng lượng như: ánh sáng, hơn nóng, điện năng… kể cả trọng lực. Ông cắt nghĩa, vì sức phá hủy của những nguồn lực này mạnh hơn bất cứ loại thần chú nào, chúng lại có sẵn trong thiên nhiên. Chỉ cần định hình chúng bằng phép thuật, thay vì phải cố gắng tạo ra từ cái không có.
Oromis bỗng chuyển đề tài, hỏi Eragon:
- Con sử dụng phép thuật để sát thủ như thế nào?
- Con sử dụng nhiều cách. Con đi săn với một viên đá cuội – di chuyển, nhắm con mồi, rồi phóng - giống như con niệm chú câu jierda để bẻ cổ vặn chân Urgal. Có lần, với câu thrysta, con đã lấy mạng một người.
- Còn nhiều phương pháp hiệu quả hơn. Eragon, điều gì gây nên cái chết của một con người? Một lưỡi gươm xuyên qua ngực? Một cú bẻ cổ? Sự thất thoát máu? Tất cả chỉ là làm cho một động mạch não nghẽn lại, hay nói rõ hơn là cắt đứt một vài dây thần kinh. Với một câu thần chú chính xác, con có thể xóa sổ một đoàn quân.
- Đáng lẽ con phải biết điều này từ khi ở Farthen Dur. Sư phụ, cho con hỏi lần nữa, vì sao ông Brom không dạy con phương pháp này?
- Vì hắn tưởng phải nhiều tháng, nhiều năm nữa con mới phải đối mặt kẻ thù. Hơn nữa, phương pháp này không dành cho những kỵ sĩ chưa qua kiểm tra năng lực.
- Nếu giết người dễ dàng như vậy, lý do gì chúng ta và Galbatorix phải thành lập quân đội?
- Nói ngắn gọn, đó là chiến thuật. Các pháp sư có những yếu điểm thể chất khi bị lôi cuốn vào những cuộc chiến tinh thần. Do đó cần phải có những chiến binh để bảo vệ họ. Còn các chiến chiến binh cũng cần được bảo vệ, dù chỉ một phần, những khi bị tấn công bằng phép thuật, nếu không họ sẽ bị giết ngay. Những giới hạn này có nghĩa: khi hai đoàn quân đương đầu với nhau, pháp sư của họ được rải khắp trong hàng ngũ, gần giới tuyến, nhưng không gần quá để tránh nguy hiểm. Pháp sư của cả hai phe đều mở tâm tưởng để dò la đối phương có đang, hay sắp, sử dụng phép thuật không. Đề phòng địch thủ có thể là những tay cao thủ hơn, các sư còn tạo nên một rào cản quanh họ và các chiến binh, để ngăn chặn hoặc giảm thiểu sự tấn công từ xa, chẳng hạn như một hòn đá phóng từ cả dặm tới, trúng ngay đầu.
- Nhưng một con người chắc chắn không thể bảo vệ cho cả một đoàn quân.
- Một mình thì không. Nhưng có đầy đủ pháp sư, con có thể bố trí một lượng lớn bảo vệ hợp lý. Điều nguy hiểm nhất trong chiến thuật này là, một pháp sư cao tay có thể tìm ra cách tấn công độc đáo: lách qua rào cản phép thuật mà không bị phát hiện. Chính điều đó, có thể, đủ để quyết định trận chiến rồi. Ngoài ra, con nên nhớ một điều, dù trong loài nào cũng hiếm có kẻ vượt trội về khả năng sử dụng phép thuật. Thần tiên chúng ta cũng không ngoại lệ, mặc dù chúng ta là mảnh đất sản sinh ra nhiều cao thủ sử dụng phép thuật hơn bất cứ loài nào. Có dược kết quả đó là nhờ chúng ta đã sống khép kín từ bao nhiêu thế kỷ nay. Đa số những kẻ được ca tụng, phép thuật rất tầm thường, thậm chí không có chút tài năng nào. Chúng chỉ có khả năng chữa lành một vết thương nho nhỏ.
Eragon gật đầu. Nó đã từng gặp loại pháp sư này trong đoàn thể Varden.
- Thưa thầy, nhưng họ cũng cần một lượng nội lực tương đương để hoàn tất một công việc chứ ạ?
- Đúng vậy. Nhưng, những pháp sư yếu kém không dễ gì cảm nhận được dòng luân lưu của phép thuật. Họ bị phép thuật nhận chìm. Cũng có một vài pháp sư đủ mạnh để tạo ra mối đe dọa, uy hiếp cả một đoàn quân. Những người này thường sử dụng phần lớn thời gian ngoài mặt trận để theo dõi, lẩn tránh và chiến đấu với đối phương. Với người lính, đó là điều may mắn, vì nếu không nhờ vậy họ sẽ sớm bị mất mạng rồi.
Eragon áy náy nói:
- Varden ko có nhiều pháp sư.
- Đó là một lý do vì sao con quan trọng đến thế.
Một lát sau Eragon nhớ lại lời sư phụ nói về những “rào cản”!
- Những rào cản chỉ làm hao tổn nội lực của ta khi chúng hoạt động, phải không ạ?
- Phải.
- Vậy thì, nếu có đủ thời gian, ta có thể tạo ra vô vàn lớp rào cản thì… không có gì đụng được tới ta nữa, ta sẽ thành người bất khả xâm phạm sao?... Bất khả xâm phạm ngay cả với bất kỳ cuộc tấn công nào, dù là phép thuật hay con người?
- Rào cản tùy thuộc vào nội lực. Nếu sử dụng nội lực quá giới hạn, con sẽ chết. Bao nhiêu lớp rào cản không là vấn đề, vấn đề là con chỉ có thể ngăn được sự tấn công lâu chừng nào cơ thể con còn duy trì được việc tạo ra nội lực.
- Nội lực của Galbatorix mỗi năm mỗi mạnh hơn. Vì sao lão không thể làm được điều đó?
Oromis im lặng. Đôi mắt hình trái hạnh của ông chăm chú theo dõi ba con chim én bay vòng trên đầu. Eragon thấy ông đang cân nhắc cách tốt nhất để trả lời nó. Mấy con chim rượt đuổi nhau mấy phtú rồi bay vụt đi. Lúc đó Oromis lên tiếng:
- Lúc này chưa thích hợp để bàn luận vấn đề này.
Eragon kêu lên:
- Như vậy là sư phụ biết?
- Ta biết. Nhưng phải đợi tới sau này, khi con đã được huấn luyện thêm. Bây giờ con chưa được trang bị để sẵn sàng lãnh hội những điều này đâu.
Vừa nói ông vừa lom lom nhìn Eragon, như chờ nó phản đối. Nhưng Eragon chỉ cúi đầu nói:
- Tùy ý sư phụ.
Nó biết ông chỉ nói khi nào muốn, có năn nỉ cũng vô ích mà thôi. Tuy nhiên, nó vẫn tự hỏi, điều gì nguy hiểm tới nỗi Oromis không dám nói cho nó biết và giữ bí mật luôn cả với quân cách mạng Varden? Một ý tưởng chợt lóe trong đầu làm Eragon bật hỏi:
- Nếu những trận đánh được điều khiển bởi các pháp sư như thầy nói, vì sao thủ lãnh Ajihad để con chiến đấu tại Farthen Dur mà không có rào chắn phép thuật nào? Thậm chí con cũng không biết là phải mở tâm tưởng cho kẻ thù dò la, để mình phát hiện ra chúng; và tại sao Arya đã không giết nhiều, thậm chí tất cả tụi Urgal? Vì ngoài Tà Thần Durza, không có một pháp sư nào chống lại cô ta. Tà thần cũng đã không thể bảo vệ cho quân của hắn khi ở dưới đường hầm.
- Ajihad đã không bảo Arya hay một người trong nhóm Con đường Lãng du làm hàng rào bảo vệ con sao?
- Không, thưa sư phụ.
- Nhưng con vẫn chiến đấuu?
- Thưa vâng.
Đứng trầm ngâm trên bãi cỏ, một lúc sau sư phụ bỗng thốt lên:
- Ta đã lưu ý Arya chuyện này, và cô ấy bảo cặp sinh đôi đã được lệnh đánh giá khả năng của con. Chúng báo cáo lại với Ajihad là con đầy đủ khả năng trên mọi lãnh vực, kể cả rào chắn phép thuật. Cả Ajihad lẫn Arya đều không hề tỏ ra nghi ngờ nhận xét của chúng.
Eragon nghiến răng nguyền rủa:
- Hai thằng miệng trơn như bôi mỡ, đồ dòi bọ, đồ chó má xảo quyệt đó đã định làm con phải chết.
- Đừng làm ô uế không khí như thế chứ… Tuy nhiên, ta ngờ rằng cặp sinh đôi để con lâm trận không có rào chắn, không có ý định để con phải chết đâu, mà để Tà Thần Durza bắt được con.
- Sao ạ?
- Theo những gì con kể lại, thì khi Galbatorix khởi sự khủng bố các đồng minh của Varden một cách gần như chính xác, Ajihad đã nghi ngờ trong hàng ngũ Varden có kẻ phản bội. Anh em sinh đôi đã bị âm thầm theo dõi và bị phát hiện là những kẻ cộng tác với địch. Ngoài ra, chúng còn lùa con vào trung tâm Tronjheim; bằng cách đó chúng cách ly con khỏi Saphira và đặt con trong vòng tiếp cận của Tà Thần. Những điều đó cắt nghĩa rất logic, chúng là những kẻ phản bội.
- Nếu chúng thật sự phản bội cũng không thành vấn đề nữa. Anh em sinh đôi chết lâu rồi.
Oromis gật gù:
- Arya cho biết trong hàng ngũ Urgal có nhiều pháp sư trong trận Farthen Dur và chính cô đã từng chiến đấu với họ. Không pháp sư nào tấn công con sao?
- Thưa không.
- Càng thêm bằng chứng là con và Saphira không bị giết là để Tà Thần Durza bắt về cho Galbatorix. Một cái bẫy rất tinh vi.
Suốt một tiếng sau, Oromis dạy Eragon mười hai phương pháp sát thủ, phương pháp nào cũng nhẹ nhàng như việc cầm lên cây bút, không hề tốn hao công lực. Vừa thuộc lòng chiêu cuối xong, Eragon chợt tủm tỉm cười:
- Lần sau gặp lại, tụi Ra’zac đừng hòng thoát khỏi tay con.
Oromis cảnh giác đệ tử:
- Đối với chúng, con vẫn phải hết sức thận trọng.
- Vì sao ạ? Con chỉ lẩm bẩm ba câu là chúng hết ngáp.
- Hải âu ăn gì?
- Tất nhiên là cá rồi, thưa sư phụ.
- Vậy nếu một con cá nhanh hơn, thông minh hơn anh em nó, liệu nó có thoát khỏi cuộc săn đuổi của hải âu không?
- Khó lắm.
- Đó là vì hải âu được tạo ra để trở thành những thợ săn cá đại tài, cũng như sói là thợ săn trừu. Tất cả loài vật đều được phú cho một khả năng thích hợp. Cũng như Ra’zac được tạo ra để săn mồi là con người. Chúng là quái vật của bóng tối, là cơn ác mộng ám ảnh đồng loại của con.
Tóc gáy Eragon dựng lên vì khiếp đảm:
- Thật ra là chúng là sinh vật thuộc loài gì?
- Chẳng là thần tiên, không là người, người lùn hay rồng. Chúng không thuộc loài thú lông mao, lông vũ, bò sát hay côn trùng; chúng không thuộc bất kỳ loài sinh vật nào.
Eragon phì cười:
- Chẳng lẽ chúng là thực vật.
- Cũng chẳng phải là cây cối. Chúng sản sinh bằng cách đẻ trứng, giống như rồng. Khi mới nở, con nhỏ - hay có thể gọi là nhộng có lớp vỏ cứng bên ngoài giống hình dạng của người. Sự mô phỏng có vẻ kỳ dị, nhưng vẫn đủ để cho phép Ra’zac tiếp cận nạn nhân mà không gây nghi ngờ, cảnh giác nào. Nơi nào con người yếu đuối, thì Ra’zac mạnh mẽ. Chúng có thể nhìn trong đêm tối; đánh hơi thính hơn, nhảy cao hơn, di động lẹ làng hơn chó săn. Tuy nhiên ánh sáng chói chang làm chúng đau đớn và chúng sợ nước sâu đến bệnh hoạn, vì không biết bơi. Vũ khí lợi hại nhất của húng là hơi thở nồng nặc mùi xú uế, làm u mê đầu óc con người. Nhưng hơi thở ma quỷ đó lại kém tác dụng với người lùn và hoàn toàn miễn nhiễm đối với thần tiên.
Eragon rùng mình nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy Ra’zac, chân nó tê dại không thể nào bỏ chạy được.
- Vừa thấy chúng con tưởng như đang ở trong một giấc mơ, cố chạy nhưng không thể nào chạy được.
- Con diễn tả rất chính xác. Dù Ra’zac không thể sử dụng phép thuật, nhưng đừng bao giờ đánh giá thấp chúng. Nếu biết đang bị săn lùng, chúng sẽ lẩn ngay vào bóng tối – vì trong bóng tối chúng rất mạnh - rồi bày mưu phục kích, như chúng đã làm tại Dras-Leona. Kinh nghiệm như Brom còn bị sa vào bẫy chúng. Đừng bao giờ quá tự kiêu, vì sự cao ngạo sẽ làm con bất cẩn và kẻ thù sẽ lợi dụng yếu điểm đó của con.
- Con hiểu rồi, thưa thầy.
- Ra’zac lớn lên trong thân xác nhộng suốt hai mươi năm. Đêm trăng tròn thứ nhất của năm thứ hai mươi mốt, chúng lột bỏ vỏ ngoài, xòe cánh, hoàn toàn trưởng thành, sẵn sàng bay đi săn tất cả sinh vật khác, chứ không chỉ riêng loài người đâu.
- Còn vật mà chúng cưỡi, có thật là…
- À, đó là cha mẹ chúng.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 01-12-2013, 02:48 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Quyển 2 - Chân dung hoàn hảo


Eragon nghĩ: “Cuối cùng thì ta cũng đã hiểu được bản chất của kẻ thù.” Từ lần đầu chúng xuất hiện tại làng Carvahall, Eragon đã sợ đến phát khiếp, không chỉ vì những hành vi tàn ác của chúng, mà còn vì nó biết quá ít về sinh vật này. Thiểu hiểu biết, nên Eragon đã tưởng Ra’zac đầy quyền lực phi phàm hơn là chúng thực có. Đối với Eragon, Ra’zac thực sự như những cơn ác mộng. Nhưng bây giờ, những lời dẫn giải của sư phụ đã lột hết hào quang kỳ bí của chúng. Ra’zac không còn quá khủng khiếp nữa. Chúng cũng có những nhược điểm, sợ ánh sáng, sợ nước sâu. Điều đó làm Eragon cảm thấy vững niềm tin: lần sau gặp lại, nhất định nó sẽ tiêu tiệt những con quái vật đã sát hại ông Brom và cậu Garrow của nó. Eragon hỏi:
- Thưa thầy, cha mẹ chúng cũng được gọi là Razac ạ?
- Không. Chúng ta gọi chúng là Lethrblaka. Trái với đầu óc tăm tối của những đứa con, Lethrblaka có đầy đủ trí khôn của một con rồng. Một con rồng thân hình xoắn vặn, xấu xa, tàn ác.
- Thưa thầy, chúng từ đâu tới?
- Từ những mảnh đất tổ tiên của con bỏ hoang. Có thể chính vì sự phá phách của những là nguyên nhân bắt buộc vua Palancar phảo di tản. Khi chúng ta và các kỵ sĩ phát hiện ra sự hiện diện đầy ghê tởm của Ra’zac tại Alagaesia, chúng ta đã cùng nhau, bằng mọi cách tiêu diệt chúng như diệt loài sâu ăn lá vậy. Bất hạnh là chúng ta chỉ thành công một phần. Hai Lethrblaka đã trốn thoát cùng với ấu trùng của chúng. Hai ấu trùng đó chính là hai Ra’zac đã gây cho con quá nhiều đau khổ trong thời gian qua. Sau khi giết thủ lãnh kị sĩ rồng Vrael, Galbatorix đã tìm bằng được chúng, thương lượng để chúng phục vụ lão, đáp lại lão sẽ bảo vệ và cung cấp những món ăn khoái khẩu cho chúng. Đó là lý do Galbatorix để cho chúng sống gần Dras-Leona, một thành phố lớn nhất của đế quốc.
- Chúng sẽ phải trả giá vì những gì đã gây ra.
Oromis gật đầu đồng ý, rồi vào lều, ôm ra sáu phiến đá khổ chừng 15x30 cm:
- Thôi, hãy tạm dẹp đề tài không vui đó sang một bên. Ta nghĩ con sẽ thích học cách tạo nên một bức fairth . Đây là một phương pháp tuyệt vời để con tập trung tư tưởng. Những phiến đã này đã được phủ đẫm hỗn hợp nhiều màu mực khác nhau. Chỉ cần tập trung vào hình ảnh muốn ghi lại, rồi nói: “Hãy sao lại chính xác những gì ta thấy bằng tâm tưởng lên mặt phiến đá này.”
Eragon vuốt ve bề mặt trơn bóng của phiến đá. Oromis chỉ ra khoảng trống nói:
- Eragon, hãy nhìn quanh và tìm một thứ gì đó đáng để con lưu giữ.
Vật đầu tiên Eragon nhìn thấy, một bông cúc vàng ngay dưới chân, lại quá đơn giản tầm thường. Ngôi lều của sư phụ, dòng suối trắng đều chẳng có gì độc đáo. Chẳng có gì gây ấn tượng cho người ngắm về chủ đề của bức fairth và người sáng tạo. Phải tìm một chủ đề mong manh, thay đổi, dễ mất mới đáng để lưu lại. Mắt nó chợt sáng lên khi phát hiện một bướu cây màu xanh, kế bên là một cành cây bị gió giông đánh gãy, nhựa cây ứa ra thành những quả cầu nho nhỏ long lanh ánh sáng, bao phủ quanh vết thương của cành cây.
Eragon ngồi sát thân cây, để những viên nhựa cây ngược sáng đó đóng khung giữa những chồi lá non rực rỡ. In sâu hình ảnh đó vào tâm tưởng, Eragon lẩm nhẩm thần chú.
Mặt phiến đá bừng sáng, những đốm màu xuất hiện, trộn vào nhau tạo lên một sự hài hòa của sắc màu. Sau cùng, khi màu sắc ngừng di chuyển, Eragon ngẩn người nhìn bản sao kỳ lạ của những gì nó muốn ghi lại bằng tâm tưởng. Nhựa cây và những mầm lá non sống động, sắc sảo; còn tất cả những gì chung quanh đều lờ mờ như được nhìn qua một đôi mắt khép hờ. Bức fairth này khác xa toàn cảnh trong sáng trên bức của Oromis ghi lại cảnh Ilirea.
Nhận phiến đá từ tay đệ tử, Oromis quan sát mấy phút rồi nói:
- Cách suy nghĩ của con không bình thường. Nhiều người phải tập trung một cách khó khăn để có thể tạo ra một hình ảnh họ nhận thức được. Trái lại, dường như con qua sát hầu hết những gì con quan tâm. Vấn đề giống như khi con ngồi tĩnh tọa. Con phải thư giãn, mở rộng tầm mắt, thấm nhuần cảnh vật chung quanh, đừng cân nhắc những cảnh vật đó có quan trọng hay không với con.
Đặt bức tranh sang một bên, ông cầm phiến đá thứ hai, đưa cho Eragon:
- Thử lại lần nữa, nhớ những gì thầy đã…
- Khoan, kỵ sĩ!
Giật mình, Eragon quay lại. Orik và Arya đang cùng từ trong rừng chạy ra. Ông lùn vẫy tay chào. Hàm râu cắt tỉa gọn gàng, tóc chải ra sau, buộc thành đuôi ngựa. Ông mặc một áo mới màu nâu và đỏ, thêu chỉ vàng đàng hoàng; trông Orik không còn chút giấu vết nào của tình trạng bét nhè đêm qua.
Tất cả chào nhau theo đúng lễ nghi, rồi không dùng cổ ngữ, Oromis lên tiếng:
- Xin phép hỏi lý do cuộc thăm viếng này là gì đây? Rất hân hạnh đón mừng quý vị tới túp lều này, nhưng quý vị thấy đó, tôi đang bận việc với Eragon, và đây là một việc tối quan trọng.
Arya vội nói:
- Xin lỗi đã làm phiền tiền bối, nhưng…
Orik lên tiếng:
- Lỗi tại tôi. Tôi được đức vua Hrothgar phái tới đây là để bảo đảm Eragon được huấn luyện đúng quy cách. Tôi không dám nghi ngờ gì điều này, nhưng tôi bắt buộc phải đích thân thấy Eragon học tập, để khi trở về Tronjheim, mới có thể trình lên đức vua một cách trung thực những gì tai nghe mắt thấy.
- Nhưng những gì tôi dạy Eragon lại không thể chia sẻ được với bất kỳ ai. Những bí mật của kỵ sĩ chỉ dành riêng cho nó thôi.
- Tôi hiểu. Tuy nhiên, chúng ta sống trong một thời đại bất an. Những gì rắn chắc, vững vàng như đá, bây giờ cũng có thể ngả nghiêng, đổ vỡ. Chúng ta phải thích nghi để sống còn chứ. Quá lệ thuộc vào Eragon, nên người lùn chúng tôi có quyền xác minh sự huấn luyện cậu ấy có tiến triển như hứa hẹn hay không. Ngài có nghĩ là đòi hỏi của chúng tôi… vô lý không?
- Nói năng giảo hoạt lắm. Tóm lại, đây là một phần trách nhiệm của ông?
- Trách nhiệm và danh dự.
- Không gì làm ông lùi bước?
- Tôi e là không, thưa Oromis tiền bối.
- Khá lắm. Ông được phép ở lại cho đến hết buổi tập. Ông hài lòng rồi chứ?
Orik nhăn mặt:
- Buổi học sắp xong rồi sao?
- Chúng tôi mới bắt đầu.
- Vậy thì được, tôi rất hài lòng. Ít ra là trong lúc này.
Trong khi sư phụ và ông lùn trao đổi, Eragon cố đón ánh mắt của Arya, nhưng cô chỉ chăm chăm nhìn vị tiên sinh già.
- …Eragon!
- Dạ, thưa sư phụ?
- Đừng lơ đãng nữa. Thầy muốn con tạo một bức fairth khác. Khai triển tâm tưởng như thầy đã dạy.
- Vâng.
Eragon ngập ngừng nâng phiến đá, thoang lo âu trước con mắt quan sát của ông lùn và nàng tiên Arya. Nó muốn hoàn thành việc này thật hoàn hảo, để chứng tỏ Oromis là một ông thầy giỏi, nhưng nó không thể tập trung vào những cọng lá non và những hạt nhựa cây được nữa. Arya – như một miếng nam châm – níu kéo tâm trí nó về phía nàng mỗi khi nó tập trung nghĩ về một điều gì khác.
Sau cùng, đành tự thú nhận, không thể nào chống lại lực hấp dẫn đó, Eragon tạo một hình ảnh nàng trong tâm tưởng. Miệng lẩm bẩm cổ ngữ, nó trút tất cả say đắm, yêu thương, sợ hãi nàng vào câu thần chú.
Kết quả làm nó sững sờ.
Trên phiến đá, đầu và hai vai Arya nổi bật trên một hậu cảnh mơ hồ. Bên phải nàng ánh lửa ngời sáng, đôi mắt lịch lãm của nàng nhìn thẳng người đang ngắm tranh. Hình ảnh đó không thể hiện chính nàng, mà thể hiện những gì Eragon đã nghĩ về nàng: bí ẩn, xa cách và là một người đẹp tuyệt trần. Một chân dung không hoàn hảo, không giống hệt nguyên mẫu, nhưng chứa đựng tất cả những gì đầy khát khao, xúc động trong lòng Eragon.
Tiếng Saphira xa xôi thì thầm, cảnh giác: “Thận trọng…”
Oromis hỏi:
- Con dã ghi lại gì vậy?
- Con… con không biết…
Bối rối khi sư phụ đưa tay đón bức fairth , miễn cưỡng để mọi người quan sát “tác phẩm” mới hoàn thành, nhất là Arya, một lúc sau Eragon mới rời những ngón tay che trên mặt đá, trao bức tranh cho Oromis.
Thoáng nhìn, vị lão tiên nghiêm mặt quay lại Eragon làm cho nó sợ rúm người. Ông lẳng lặng trao phiến đá cho Arya.
Dù tóc phủ kín mặt, khi nàng cúi nhìn bức tranh, nhưng Eragon thấy những đường gân tay nàng phồng lên, nắm chặt phiến đá.
Ông lùn thắc mắc:
- Này này, cái gì vậy?
Vung cao tấm fairth khỏi đầu, Arya quăng mạnh xuống đất, làm phiến đá vỡ tan tành thành ngàn mảnh. Rồi, nàng thẳng người, nghiêm trang bước qua mặt Eragon, băng qua trảng trống, tiến vào khu rừng chằng chịt của Du Weldenvarden.
Ông lùn cúi nhặt một mảnh đá. Mảnh đá trống trơn. Hình ảnh đã tan biến khi phiến đá bị vỡ. Tay rờ rờ chòm râu, ông lẩm bẩm:
- Suốt mấy chục năm qua, chưa bao giờ tôi thấy Arya tức giận đến thế. Cậu đã làm gì vậy, Eragon?
Eragon thẫn thờ nói:
- Một bức chân dung cô ấy.
Orik nhăn mặt, thật sự bối rối:
- Chân dung? Vậy thì có gì mà…
Oromis nói:
- Tôi nghĩ tốt nhất là ông nên đi khỏi đây lúc này. Dù sao bài học cũng đã kết thúc, nếu muốn biết thêm về sự tiến bộ của Eragon, hãy trở lại ngày mai.
Liếc nhìn Eragon, ông lùn phủi bụi hai tay, nói:
- Phải, có lẽ tôi nên đi. Cám ơn tiền bối đã mất thời giờ với tôi.
Tiến về Ellesméra, ông ngoái lại bảo Eragon:
- Tôi ở một phòng trong điện Tialdarí, nếu thích chuyện trò, cứ đến.
Ông lùn đi khỏi, Oromis vén vạt áo, quỳ xuống gom góp những mảnh đã vụn. Eragon hỏi bằng cổ ngữ:
- Vì sao vậy, thưa sư phụ?
- Có lẽ… con đã làm Arya sợ.
- Sợ? Cô ấy chưa biết sợ bao giờ
Tuy nói vậy, nhưng thâm tâm Eragon biết điều đó không đúng. Arya rất có tài che dấu nỗi sợ thì đúng hơn.
Quỳ một chân, nó nhặt mảnh đá đặt vào tay sư phụ, hỏi:
- Xin sư phụ cho con biết, con đã làm gì để Arya sợ?
Oromis đứng dậy, tiến tới dòng suối, rải những mảnh đá lên bờ.
- Những bức fairth chỉ trình bày những gì con muốn thể hiện. Nghệ thuật ghi hình đó không lừa dối được. Để tạo ra những hình ảnh giả, đòi hỏi tài năng hơn con có hiện nay rất nhiều. Arya biết điều đó. Cô ta cũng biết hình ảnh trong bức fairth là một biểu hiện chính xác tình cảm của con đối với cô.
- Nhưng vì sao Arya lại sợ?
Oromis buồn rầu mỉm cười:
- Vì… điều đó tiết lộ sự mê cuồng đắm đuối của con. Eragon, ta thử phân tích vấn đề nhé. Trong khi con đủ khôn lớn để được coi như một người đàn ông trong xã hội loài người, thì trong con mắt chúng ta, con chẳng hơn gì một đứa trẻ.
Eragon nhíu mày, nhớ lại lời nói của Saphira đêm qua.
- Thường thì ta không so sánh tuổi tác giữa loài người và thần tiên, nhưng vì con chia sẻ tuổi thọ cùng chúng ta, con phải được xét đoán theo tiêu chuẩn của chúng ta. Con là một kỵ sĩ. Chúng ta tùy thuộc vào sự giúp sức của con để triệt hạ Galbatorix. Nếu con xao lãng việc học tập, sẽ là một thảm họa đối với tất cả mọi người đang sống trên nước Alagaesia. Vậy thì Arya đáp lại bức fairth của con bằng cách nào đây? Rõ ràng con đã nhìn cô ấy qua một lăng kính lãng mạn. Và thầy cũng không nghi ngờ tình cảm cô ấy dành cho con. Nhưng sự kết hợp đó không thể tránh khỏi tuổi trẻ, văn hóa, dòng giống và nhiệm vụ của con. Mối quan tâm của con chỉ đặt Arya vào một hoàn cảnh khó xử. Cô ấy không dám phản đối con, vì sợ con rối trí trong việc học. Là con gái của nữ hoàng, cô ta không thể liều lĩnh làm mất lòng một kỵ sĩ, nhất là một người đang gánh vác rất nhiều trách nhiệm… Kể cả nếu con là một vị hôn phu tương xứng, Arya vẫn phải nén lòng, để con có thể dâng hiến tất cả sức lực, tâm trí cho công việc trước mắt. Cô ta sẽ hy sinh hạnh phúc vì đại sự.
Giọng ông trầm hẳn xuống:
- Eragon, con phải hiểu rằng, việc giết Galbatorix quan trọng hơn bất cứ chuyện cá nhân nào.
Ông ngừng lại, dịu dàng nhìn Eragon:
- Bây giờ con còn thấy Arya tỏ ra quá lo sợ, vì e tình cảm của con dành cho cô ấy sẽ làm hỏng mưu đồ của chúng ta, là lạ lùng nữa không?
Eragon lắc đầu. Cảm thấy xấu hổ vì thái độ của nó là nguyên nhân làm Arya đau khổ, Eragon tự trách mình đã quá vụng về, non nớt. Nó tự nhủ: “Mình đã có thể tránh được tất cả những rắc rối này, nếu đủ bình tĩnh hơn.”
Vỗ vai đệ tử, Oromis đưa nó trở vào lều:
Đừng nghĩ thầy là người vô tình. Eragon, bằng cách này hay cách khác, ai cũng có thời sôi nổi như con. Đó là một phần đời khi khôn lớn. Ta cũng biết con cảm thấy khó khăn ra sao. Nhưng đó là điều cần thiết để chúng ta đi đến chiến thắng.
- Con hiểu, thưa sư phụ.
Hai thầy trò ngồi bên bàn bếp, Oromis vừa bày bút giấy để dạy cổ ngữ cho Eragon, vừa nói:
- Thật vô lý nếu thầy mong con quên tình cảm với Arya, nhưng thầy rất mong con tạm quên để đừng xao lãng khi nghe thầy giảng dạy. Con hứa chứ?
- Vâng, thưa thầy, con xin hứa.
- Còn Arya? Con sẽ có hành động cao cả nào để giúp cô ấy trong tình trạng khó khăn này?
Eragon ngập ngừng:
- Con không muốn mất tình bạn của Arya.
- Đúng vậy.
- Vì vậy… con sẽ tìm Arya để xin lỗi và bảo đảm là sẽ không bao giờ làm nàng phải khó xử như thế nữa.
Rất khó thốt ra lời hứa đó, nhưng nói xong, Eragon thấy nhẹ hẳn lòng.
Mặt sư phụ rạng rỡ khi cất tiếng vui vẻ nói:
- Chỉ riêng hành động đó thôi, đủ chúng tỏ con đã trưởng thành.
Vuốt tấm giấy phẳng phiu trên mặt bàn, Eragon lặng nhìn màu trắng trải rộng trước mắt, rồi chấm ngọn bút lông vào bình mực, bắt đầu sao chép một hàng cổ ngữ. Mỗi nét móc sổ của mỗi con chữ nổi bật trên giấy trắng như những nét vạch của bóng đêm. Eragon chăm chú viết, để cố quên đi những cảm xúc đang rối bời trong lòng.


Quên lãng


Sáng hôm sau, Eragon đi tìm Arya để xin lỗi. Hơn một tiếng đồng hồ, nó vẫn không gặp được cô. Dường như Arya đã biến mất vào một nơi kín đáo nào đó trong hoàng cung Ellesméra. Một lần thoáng thấy cô gần lối vào điện Tialdarí, nó lên tiếng gọi, nhưng Arya lẩn ngay trước khi nó kịp lại gần. “Nàng cố tình tránh mặt ta”. Sau cùng, Eragon mới nhận ra.
Suốt nhiều ngày sau đó, Eragon cắm cúi học, siêng năng tới nỗi sư phụ phải ngỏ lời khen.
Đêm ngày Eragon vùi đầu vào bài vở, học thuộc lòng những câu thần chú để phát triển, phong bế, thu hồi nội lực; tìm hiểu những tên thật sự của cây cối và loài vật; nghiên cứu những nguy hiểm khi sử dụng thần chú để biến hoá một sự vật; và cách hô mưa gọi gió, cùng vô vàn kỹ năng để hiểu biết những sức mạnh của thiên nhiên. Eragon vượt trội trong bài học về những câu thần chú để đương đầu với những năng lượng to lớn như: ánh sáng, hơi nóng, nam châm; vì nó có một tài năng đặc biệt, có thể phán đoán chính xác khi xuất chiêu tốn bao nhiêu công lực, hoặc chiêu thức đó có vượt quá năng lực của nó không.
Trong thời gina Oromis giảng giải hay Eragon một mình luyện tập những chiêu thức và những câu thần chú khó khăn, thỉnh thoảng ông lùn Orik đến quan sát, lẳng lặng đứng bên bờ vực, không phê phán gì.
Oromis bắt đệ tử hoàn thành nhiều bài học đầy thách thức: nấu ăn bằng phép thuật, phát hiện và vô hiệu hoá thuốc độc trong thực phẩm. Từ đó, nó phải kiểm tra nhiều nọc độc trong thực phẩm. Từ đó, nó phải kiểm tra nhiều nọc độc khác nhau mà sư phụ đã lén bỏ vào đồ ăn. Đã hơn một lần Eragon đành nhịn đói vì không tìm ra thuốc độc hoặc không có khả năng hoá giải chất độc. đã hai lần nó bị ói mửa và sư phụ phải ra tay chữa trị. Sư phụ còn bắt Eragon niệm những câu thần chú có những yếu tố khác nhau cùng một lúc. Việc này đòi hỏi nó phải tập trung cao độ để có thể nhằm trúng mục tiêu đúng ý định.
Oromis giảng giải hàng giờ về kỹ năng len lỏi vào mục tiêu bằng công lực, sau đó hoá giải hoặc tạo mục tiêu thành hình tượng theo ý muốn. Ông bảo:
- Đó là cách Rhunon đã yểm bùa cho những thanh kiếm của các kỵ sĩ để chúng không bao giờ bị cùn nhụt hay bị gãy; đó cùng là cách chúng ta ca hát cho cây lớn lên thành những khuôn mẫu theo ý chúng ta. Cũng bằng cách đó, chúng ta đã gài bẫy trong hộp, chỉ khi mở, bẫy mới hoạt động; và người lùn, cũng như chúng ta, dùng phương pháp này để chữa thương và tạo ra những Erisdar – đèn lồng. Đây là những câu thần chú hiệu nghiệm nhất, vì chúng đã âm thầm ngủ yên suốt hơn ngàn năm, nên khó mà nhận ra hay ngăn chặn được. Chúng tràn lan trên đất nước Alagaesia, tạo nên hình dáng đất đai sông núi và định mệnh của những con người sinh sống tại nơi này.
Eragon hỏi:
- Thần tiên có thể sử dụng phương pháp này để làm đổi thay thể xác không ạ? Hay…việc này quá nguy hiểm?
- Hỡi ôi! Con đã chạm tới yếu điểm lớn nhất của thần tiên chúng ta rồi: đó là tính phù phiếm, chỉ say mê cái đẹp. Chúng ta yêu cái đẹp trong muôn hình vạn vẻ và tìm cách tái hiện nét đẹp đó trong những biểu tượng của mình. Đó là lý do chúng ta được biết đến trong những chuyện thần tiên, cổ tích. Mỗi thần tiên đều có ngoại hình đúng y như vị đó mong muốn. Khi đọc thần chú tạo dáng và phát triển cho sinh vật, họ thường tìm cách làm thay đổi ngoại hình của chính họ, phản ảnh một dáng vẻ tốt về thẩm mỹ, họ đổi thay cấu trúc hình thể cho thích hợp với những gì chung quanh. Nhiều khi, trông họ giống muông thú nhiều hơn thần tiên. Con sẽ được thấy điều này trong Lễ-hội Huyết-thệ sắp tới. Rất hiếm có một vật chất thích hợp trong việc chứa đựng năng lượng hoà nhập vào chúng, trái lại, năng lượng đó tạo nên một sức mạnh phản hồi, mạnh đến nỗi, nếu con chạm tay vào sẽ bị một tia chớp xuyên qua người. Vật chất tốt nhất để sử dụng vào mục tiêu này là đá quý, như kim cương chẳng hạn. Thạch anh, mã não và những loại đá kém hơn đều không công hiệu bằng, nhưng tất cả đá quý đều thích hợp. Đó là lý do các chuôi kiếm của kỵ sỹ luôn có đính một viên ngọc. Đó cũng là lý do sợi dây chuyền người lùn cho con – làm toàn bằng kim loại - phải hút cạn nội công của con để lấy năng lực, vì bản thân nó không hề có chút năng lực nào.
Khi không có sư phụ, Eragon tự học thêm bằng cách đọc những gì ông đã trao cho nó. Thói quen đó tạo cho nó thành một con nghiện sách. Thời gian ở nhà, cậu Garrow chỉ dạy nó đủ biết làm sao cai quản ruộng vườn. Bây giờ những trang sách ngồn ngộn tri thức làm thoả mãn cơn khát hiểu biết của nó từ trước tới giờ, như những cơn mưa rào đổ xuống sa mạc khô cằn, nứt nẻ. Eragon ngốn ngấu từ địa lý, sinh vật, giải phẫu, triết học tới lịch sử. Quan trọng hơn, những hiểu biết đó đã mở đầu cho việc thay đổi nếp suy nghĩ của nó. Chúng bắt buộc Eragon phải xem xét lại tất cả những gì nó từng thừa nhận và tin tưởng, từ quyền lợi của cá nhân trong xã hội, tới nguyên nhân di động của mặt trời.
Thấy một tập đề cập đến Urgal và văn hoá của chúng, nhưng Eragon chỉ đọc phớt qua, dù sư phụ đã nhắc nhở đề tài này.
Hy vọng sẽ hiểu Arya nhiều hơn, Eragon nghiên cứu rất nhiều đề tài thần tiên. Nó rất ngạc nhiên khi phát hiện: thần tiên không thực sự kết hôn; nếu muốn, họ sẽ chỉ là đôi bạn trong một ngày hay…một thế kỷ. Trẻ con rất hiếm trong quần thể thần tiên. Có một đứa con được coi như là lời nguyện thề tuyệt đối của tình yêu.
Eragon cũng tìm hiểu được một điều: từ khi thần tiên và loài người gặp nhau, chỉ có vài cặp vững bền. Hầu hết là nam kỵ sĩ thuộc loài người gắn bó với bạn tình là thần tiên. Tuy nhiên, qua những tài liệu đầy ẩn dụ, đa số những mối tình này đều kết thúc trong bi thảm. Trong đó có lý do vì tuổi thọ và cái chết của con người, còn thần tiên thì thoát khỏi sự huỷ hoại của thời gian.
Những cuốn tiểu thuyết, thơ ca, sử thi…thu hút trí tưởng tượng của Eragon; vì trước kia nó mới chỉ được biết những chuyện ông già Brom thường ngâm nga trong làng Carvahall. Nó nhấm nháp những thiên anh hùng ca như thưởng thức bữa ăn thịnh soạn, nấn ná từng trang trong Chiến Công của Gada hoặc Cái Chết của Umhodan…
Saphira cũng rất tiến bộ trong học tập. Tư tưởng hai đứa luôn kết nối với nhau, nên Eragon nhận thấy dần dần rồng vàng Glaedr cũng bắt Saphira vượt qua một chế độ rèn luyện căng thẳng như nó. Cô nàng phải bay lượn, nhào xuống, phóng lên với một tảng đá quắp dưới chân. Để tăng sức chịu đựng, Glaedr bắt Saphira phun lửa suốt mấy tiếng lên một trụ đá, để làm đá phải tan chảy. Lúc đầu, Saphira chỉ có thể giữ ngọn lửa mỗi lần được mấy phút, nhưng rồi ngọn đuốc sáng rực ào ào tuôn ra từ miệng nó liên tục hơn nửa tiếng. Qua những bài học về rồng, Glaedr truyền đạt cho Saphira, Eragon hiểu biết một số chi tiết về lịch sử và đời sống của loài rồng. Điều này bổ sung cho những hiểu biết về nòi giống của mà Saphira mới chỉ có được nhờ bản năng. Nhưng có nhiều điều làm Eragon thắc mắc, không hiểu nổi. Nó ngờ cô em rồng đã che dấu những bí mật riêng tư của loài rồng, không thể tiết lộ cho bất kỳ ai. Tuy nhiên, Eragon cũng biết được một điều mà Saphira rất trân trọng: tên cha của cô nàng là Iormúngr và mẹ là Vervada. Vervada có nghĩa là Búa -Tầm-Sét trong cổ ngữ. Trong khi Iormúngr gắn bó với một kỵ sĩ, thì Vervada lại là một rồng hoang dã. Vervada sinh được rất nhiều trứng, nhưng chỉ chịu giao phó một trứng cho các kỵ sĩ, đó chính là Saphira. Cha mẹ Saphira đều bị chết trong thời kỳ kỵ sĩ suy tàn.
Có những ngày, Eragon và Saphira bay cùng sư phụ Oromis và Glaedr để tập hợp tác chiến trên không, hay đi thăm những tàn tích đổ nát ẩn trong vùng đất Du Weldenvarden. Lại có những ngày, chương trình thay đổi: Eragon bay và tập luyện cùng rồng, còn Saphira ở lại cùng sư phụ trên bờ vực Tel’naeir.
Mỗi buổi sáng Eragon lại luyện kiếm cùng Vanir và buổi nào cũng bị choáng váng một hai lần. Để làm vấn đề thêm tệ hại, anh chàng tiên trẻ luôn tỏ ra kiêu kỳ, hạ cố. Tuy nhiên anh ta cũng luôn giữ vẻ mặt lịch sự một cách khinh khỉnh và tỉnh bơ trước những lời châm chọc của Eragon. Dường như mỗi hành động của Vanir đều là một sự nhục mạ nó. Những bạn bè của Vanir – Eragon đoán chắc đều là thần tiên thế hệ trẻ - cũng ngấm ngầm coi thường nó, nhưng lại tỏ ra rất trọng nể Saphira.
Sự đố kỵ lên tới cao độ sau lần, chỉ trong một hiệp đấu Eragon bị hạ tới sáu lần. Vanir hạ thấp kiếm, nói:
- Lại chết. Khắc–Tinh của Tà-Thần, sao cứ tái diễn trò này mãi thế? Muốn tiếp tục không?
Eragon ậm ừ, lưng nó đau tới nỗi không thể thốt lên lời ganh đua cùng hắn ta nổi nữa. Nhưng Vanir vẫn không buông tha:
- Ta hơi tò mò muốn biết: chậm chạp như rùa vậy, thế mi đã giết Tà Thần Durza bằng cách nào? Thật tình ta không thể đoán nổi.
Eragon nén đau, cố trả lời:
- Ta tấn công bất ngờ.
- Xin lỗi, nếu ta không lầm thì chiến thắng này có mánh khoé lừa gạt?
Eragon nghiến răng, hổn hển:
- Nếu ta là một thần tiên và mi là một con người bình thường, mi cũng sẽ không kháng cự nổi với thanh kiếm của ta đâu.
- Có thể.
Vừa nói Vanir vừa trụ bộ, rồi chỉ trong vài giây với hai chiêu xuất ra, hắn nhẹ nhàng đoạt vũ khí của Eragon , ngạo mạn cười nói:
- Nhưng ta lại không nghĩ thế đâu. Đừng huênh hoang với một tay kiếm tài giỏi hơn mi, nếu không anh ta sẽ sớm cho mi về chầu tiên tổ đó.
Eragon giận điên lên, vận nội công, hết sức bình sinh thu gom phép thuật, bao nhiêu căm tức đều tuôn trào ra bằng câu thần chú “Malthinae!”, để trói chân tay và làm hàm của Vanir bất động. Như vậy hắn sẽ không thể mở miệng để tự hoá giải và phản công được nữa. Mắt Vanir như lồi ra vì phẫn nộ. Eragon lên tiếng:
- Và mi cũng đừng huênh hoang với một người phép thuật cao cường hơn mình nữa.
Đôi lông mày đen kịt của Vanir nhíu sát nhau.
Không một âm thanh thoát ra từ miệng hắn, nhưng một sức mạnh vô hình dội mạnh lên ngực Eragon, quăng nó ngã ngửa trên bãi cỏ xa mấy thước, phổi nó vang lên một tiếng “hự”. Cú va chạm làm rối loạn sự kiểm soát phép thuật của Eragon và giải phòng Vanir.
Eragon bàng hoàng tự hỏi: “Hắn làm cách nào vậy?”
Vanir đủng đỉnh tiến lại, nói:
- Đó là kết quả sự ngu ngốc của mi. Mi không hiểu mình nói gì. Cứ nghĩ đến chuyện mi là kẻ kế vị cố kỵ sĩ Vrael, mi được ngự trong nơi dành cho ông, mi được học hành với Hiền Nhân Sám Hối…
Hắn lắc đầu chán ngán:
- Ta phát ói vì những đặc ân đó lại ban phát cho một con người vô giá trị như mi. Thậm chí mi còn không biết phép thuật là gì, chứ đừng nói chi chuyện sử dụng phép thuật.
- Ta đã làm gì không phải với mi? Sao mi miệt thị ta quá vậy? Chẳng lẽ mi mong không có một kỵ sĩ nào tồn tại để gánh vác việc chống lại Galbatorix?
- Những lời ta nói đều có nguyên nhân của nó.
- Vậy thì nói ra đi.
- Như Nuala đã viết trong những biên bản hội nghị: sự lắng nghe là con đường khôn ngoan, nhưng phải là kết quả của một quyết định tỉnh táo, chứ không phải là một tri thức ngu si, vô giá trị.
- Đừng xa xôi bóng gió nữa, Vanir, nói rõ ra đi.
Vanir lạnh lùng mỉm cười:
- Xin tuân lệnh, ngài kỵ sĩ.
Ghé sát mặt Eragon, để nó có thể nghe được tiếng thì thầm, hắn tỉnh bơ nhỏ nhẹ:
- Suốt tám mươi năm, sau ngày suy tàn của các kỵ sĩ, chúng ta không còn nuôi hy vọng chiến thắng nữa. Chúng ta ẩn trốn để sống còn bằng mưu mô và phép thuật – dù chỉ tạm thời – vì dần dần Galbatorix sẽ đủ mạnh để tiến quân, quét sạch hàng rào phòng thủ của chúng ta. Thế rồi, sau thời gian dài đằng đẵng chúng ta đành phó thác cho số mệnh, Brom và Jeod giải thoát trứng của Saphira, một lần nữa chúng ta nuôi hy vọng lật đổ tiên bạo chúa. Tưởng tượng chúng ta đã vui mừng đến thế nào. Biết rằng để đương đầu với Galbatorix, vị tân kỵ sĩ sẽ phải dũng mãnh hơn các bậc tiền nhiệm, thậm chí mạnh hơn cả tiền bối Vrael. Vậy mà phần thưởng cho nỗi mòn mỏi đợi chờ đó của chúng ta là gì? Một con người đồng loại của Galbatorix. Tệ hơn nữa…một kẻ tàn tật. Eragon, mi làm tất cả chúng ta thất vọng, ngay từ giây phút mi chạm tay vào trứng Saphira. Đừng mong chúng ta phải hoan hỉ vì sự hiện diện của mi tại nơi này.
Nhẹ đặt hai ngón tay lên môi, Vanir tránh sang một bên, bước khỏi bãi tập, để Eragon thờ thần như bị chôn xuống đất: “Hắn nói đúng. Mình không xứng đáng được trao nhiệm vụ này. Bất cứ thần tiền nào, kể cả Vanir, đều sẽ là một kỵ sĩ tài giỏi hơn mình”.
Saphira phóng mạnh tâm tưởng, giận dữ nói: “Eragon, anh coi sự phán đoán của em chẳng là gì sao? Anh quên rằng, khi còn trong trứng, Arya đã đặt em trước những tay thần tiên này, kể cả những thiếu niên của Varden? Và em đã từ chối tất cả. Em đã không chọn anh, nếu như anh không thể giúp giống nòi của anh, của em, của thần tiên – vì định mệnh đã ràng buộc ba loài của chúng ta. Đừng bao giờ quên, em đã chọn đúng người, đúng nơi chốn, đúng thời điểm.”
“Dù có đúng như vậy, thì đó là chuyện trước khi anh bị tà thần gây thương tổn. Còn giờ đây anh chỉ thấy tương lai chúng ta đen tối quá. Anh không bỏ cuộc, nhưng anh thất vọng, vì có lẽ chúng ta không thể nào chiến thắng. Có thể công việc của anh em mình không phải là lật đổ Galbatorix, mà chỉ dọn đường cho một kỵ sĩ sẽ được một trứng rồng còn lại chọn lựa”.
***
Trở về bờ vực, Eragon thấy sư phụ đang ở trong lều. Ngồi bên bàn, ông đang vẽ một bức phong cảnh bằng mực đen dưới những dòng chữ vừa viết xong.
Eragon quì gối.
- Con chào thầy.
Mười lăm phút trôi qua trước khi Oromis điểm xuyết thêm mấy lộc non lên cây trường xuân, rửa ngọn bút lông trong bình nước bằng đất nung, rồi ông mới nhìn Eragon, hỏi:
- Sao con tới sớm vậy?
- Con xin lỗi đã làm phiền sư phụ, nhưng Vanir đã ngưng ngang buổi luyện kiếm. Còn lại một mình, con không biết phải làm gì.
- Vì sao Vanir lại bỏ đi, Eragon thiếu hiệp?
Hỏi xong, ông xếp hai tay lên đùi, lắng nghe Eragon kể lại những đụng độ giữa nó và vị tiên trẻ. Sau cùng nó kết luận:
- Đáng lẽ con không nên mất bình tĩnh đến thế. Những lời nói và hành động của con chỉ càng chứng tỏ mình là một đứa ngu ngốc. Con đã làm thầy thất vọng.
- Đúng vậy. Con đã làm ta thất vọng. Cho dù bị Vanir châm chọc, con cũng không nên đáp trả bằng cung cách đó. Con phải biết cách kiềm chế cảm xúc. Eragon hãy nhớ rằng, nếu con để sự nóng giận ảnh hưởng đến suy tính trong khi giao đấu, có thể con sẽ phải trả giá bằng mạng sống. Hơn nữa, thái độ trẻ con đó, chỉ thêm bằng cớ để các thần tiên có thêm lý lẽ phản đối con. Việc đại sự của chúng ta, không thể để những lỗi lầm như vậy xảy ra được.
- Thưa sư phụ, con đã biết lỗi mình và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Oromis tỏ vẻ hài lòng, ngồi chờ tới giờ luyện quyền thuật. Eragon rụt rè hỏi:
- Thưa thầy, bằng cách nào mà Vanir không hề thốt ra một lời mà vẫn có thể sử dụng phép thuật?
- Hắn đã làm vậy sao? Có thể hắn được một thần tiên khác hỗ trợ.
Eragon lắc đầu:
- Không đâu. Ngày đầu tiên tới hoàng cung Ellesméra, con cũng đã thấy nữ hoàng Islanzadí chỉ vỗ tay một tiếng, mà tạo ra một cơn mưa hoa. Vanir còn bảo: con không hiểu các cách điều hành phép thuật là gì? Hắn nói vậy là sao?
- Một lần nữa con lại muốn biết những điều con chưa sẵn sàng được biết. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh này thầy chỉ có thể cho con biết một điều: chuyện con hỏi là điều không được truyền dạy cho các kỵ sĩ – cũng như không được truyền dạy cho các pháp sư của chúng ta - chỉ đến khi họ có khả năng làm chủ tất cả mọi phương diện về phép thuật, vì đây là bí mật đối với bản chất thật sự của phép thuật và cổ ngữ. Ai biết điều đó, sẽ đạt được quyền năng rất to lớn, đúng vậy, nhưng đồng thời cũng sẽ gặp những mối hiểm nguy vô cùng khủng khiếp.
Im lặng một lúc rồi ông hỏi:
- Cổ ngữ gắn bó với phép thuật như thế nào, Eragon?
- Cổ ngữ có thể phóng phép thuật lưu trữ trong cơ thể để hành động bằng một câu thần chú.
- A, nếu vậy thì theo ý con, một âm thanh, một sự rung động trong không khí cũng có thể khơi dậy năng lực này sao? Những âm thanh ngẫu nhiên phát ra từ một sinh vật hay đồ vật chẳng hạn?
- Dạ, đúng vậy, thưa thầy.
- Con không thấy điều đó…có vẻ kỳ cục, vô lý sao?
Bối rối, Eragon ngập ngừng nói:
- Thưa thầy, cho dù vô lý, nhưng…nó vẫn xảy ra. Trăng khuyết rồi tròn, bốn mùa thay đổi, chim bay về phương nam để trốn đông…Con có nên nghĩ những chuyện đó là kỳ cục và vô lý không?
- Tất nhiên là không. Nhưng làm sao mà âm thanh có thể làm được quá nhiều chuyện đến thế chứ? Có một cường độ âm thanh kiểu mẫu nào thật sự gây ra một loạt phản ứng cho phép ta điều khiển năng lượng không? Không, âm thanh không có tác dụng đối với phép thuật. Nói ra một từ hay một câu bằng cổ ngữ không là điều quan trọng. Điều quan trọng là khi con “suy tưởng” bằng cổ ngữ.
Với một cái lắc nhẹ cổ tay, một tia lửa vàng thoáng hiện trên bàn tay ông rồi vụt biến, Oromis nói tiếp:
- Tuy nhiên trừ khi cấp bách, chúng ta vẫn phải đọc to thần chú, để tránh xao lãng tư tưởng, làm đứt đoạn những câu muốn nói. Đó là một điều tối nguy hiểm ngay cả đối với những pháp sư cao tay, dày dạn kinh nghiệm nhất.
Nhớ lại khi gần chết đuối dưới thác hồ Kóstha-mérna, vì chìm nghỉm dưới nước, không thể mở miệng đọc thần chú, Eragon thầm nhủ: “Nếu sớm biết chuyện này, mình đã tự cứu được rồi”. Nó nói:
- Thưa sư phụ, âm thanh không gây ảnh hưởng đến phép thuật, sao tư tưởng lại có thể điều khiển được phép thuật?
- Vì sao ư? Thầy phải nói ngay cho con biết, bản thân chúng ta không có nguồn phép thuật nào. Phép thuật tồn tại trong chính nó, không lệ thuộc vào bất cứ câu thần chú nào, giống như ma trơi trên đầm lầy gần Arough, như giếng thần trong hang động Mani của rặng nuí Beor, như những tinh thể trong suốt bồng bềnh trên Eoam. Những phép thuật hoang dại như thế ẩn hiện, bí hiểm và mạnh hơn bất cứ phép thuật nào do chúng ta tạo ra. Nhiều thế kỷ trước, phép thuật là như vậy. Để sử dụng chúng, không cần đòi hỏi gì ngoài khả năng nhận thức phép thuật bằng tâm tưởng - khả năng này, pháp sư nào cũng phải có - cộng với sức mạnh và lòng khát khao sử dụng phép thuật. Nhưng vì không có cơ cấu cổ ngữ, các pháp sư không thể làm chủ tài năng của họ, nên xảy ra rất nhiều tai hại, kết quả là hàng ngàn người bị chết. Qua thời gian, họ khám phá ra rằng diễn đạt ý định bằng cổ ngữ, giúp họ ổn định tư tưởng và tránh được những sai lầm to lớn. Tuy nhiên, cũng đã có một tai nạn khủng khiếp xảy ra, suýt tiêu diệt toàn thể sinh linh trên thế giới. Qua những trang viết còn sót lại, chúng ta mới được biết sự kiện này. Nhưng ai hay vật gì đã niệm câu thần chú tai hoạ đó thì vẫn còn là một điều bí ẩn với chúng ta.
Ông trầm ngâm rồi tiếp:
- Sau đó, cũng theo những bản viết tay, một loài được gọi là Người Xám (không phải thần tiên, vì khi đó chúng ta còn rất non trẻ) đã tập hợp năng lực của họ mà luyện nên một quyền năng phép thuật, có lẽ đó là một quyền năng lớn mạnh nhất từ trước đến mãi mãi về sau. Họ đã cùng nhau thay đổi bản chất của phép thuật. Họ làm cho phép thuật trở thành một công cụ của ngôn ngữ - ngôn ngữ cổ. Họ có thể nhìn ta, nghĩ về ta và nói “đốt cháy cánh cửa”, phép thuật sẽ làm cánh cửa bùng cháy, chứ không đốt cháy ta. Họ còn làm cánh cửa bùng cháy, chứ không đốt cháy ta. Họ còn làm cho cổ ngữ có hai tính cách độc đáo: khả năng ngăn ngừa những người nói dối khi sử dụng cổ ngữ, và khả năng diễn tả bản chất thật sự của sự việc. Bằng cách nào họ làm được điều này vẫn còn là một bí ẩn. Nội dung những tài liệu còn lại rất khác nhau về những gì xảy ra với Người Xám, nhưng dường như chính bùa chú đã rút cạn kiệt năng lực của họ, làm cho họ chỉ còn lại như cái bóng của chính mình. Họ héo tàn dần, sống âm thầm trong các thành phố riêng biết cho đến khi đá tan thành cát bụi, hoặc kết duyên cùng những nòi giống trẻ hơn, và…do đó nòi giống họ như tan vào bóng tối.
Eragon hỏi:
- Vậy thì ta vẫn có thể sử dụng phép thuật mà không cần cổ ngữ?
- Với những gì chính con đã chứng kiến, con nghĩ sao về chuyện Saphira phun lửa? Saphira biến ngôi mộ bằng đá sỏi của Brom thành ngôi mộ kim cương? Và in dấu chúc phúc cho đứa trẻ tại Farthen Dur? Saphira có thốt lời nào đâu. Tâm trí rồng khác chúng ta, chúng không cần bảo vệ khỏi phép thuật. Trừ chuyện phun lửa, chúng không thể sử dụng phép thuật một cách có ý thức, nhưng khi tài năng thiên phú đó bật lên trong chúng thì sức mạnh của chúng không gì so sánh được…Này, con có vẻ bối rối, sao vậy Eragon?
Lom lom nhìn xuống hai bàn tay, Eragon hỏi:
- Nhưng chuyện này có ý nghĩa gì với con, thưa sư phụ?
- Nó có nghĩa là con phải tiếp tục học cổ ngữ, vì con có thể hoàn thành được nhiều việc rất phức tạp, nếu không những việc đó sẽ trở thành rất, rất nguy hiểm đối với con. Nó có nghĩa, nếu con bị bắt, bị làm cho bất động, con vẫn có thể nhiệm chú để tự giải phóng, như Vanir đã làm đó. Nó cũng có nghĩa là khi con bị bắt, bị đầu độc và không kêu lên nổi bằng cổ ngữ, phải, kể cả những lúc vậy, con vẫn có thể nghĩ đến một câu thần chú. Tuy nhiên, con vẫn có thể nghĩ đến một câu thần chú. Tuy nhiên, chỉ khi tình hình thật sự nghiêm trọng nhất con cũng có thể tạo ra một câu thần chú chưa từng có trong cổ ngữ. Nhưng phải hết sức thận trọng đối với ma lực của những khả năng này. Ngay cả những thần tiên phép thuật cao cường nhất cũng phải đắn đo không dám đùa giỡn với chúng, vì sợ chết, thậm chí còn tệ hơn cái chết nữa.
Sau đó, suốt thời gian ở lại Ellesméra, sáng nào Eragon cũng luyện kiếm cùng Vanir, nhưng không hề lần nào tỏ ra mất bình tĩnh, dù anh tiên trẻ khiêu khích mọi cách từ lời nói tới hành động.
Không phải Eragon quá nhiệt tình đua tranh, nhưng cơn đau của chấn thương lưng mỗi lúc mỗi thường xuyên hơn, vượt quá sức chịu đựng của nó. Những chiêu thức tới tấp công và thủ, trước đây không đến nỗi gây khó dễ cho nó, nhưng bây giờ làm nó choáng váng, quằn quại trên mặt đất. Ngay cả khi luyện Xà-Hạc quyền cũng làm nó lảo đảo khi phóng ra những chiêu thức mạnh. Eragon không còn đủ sức luyện tập ba bốn môn trong một ngày như vậy nữa.
Mặt mày hốc hác, Eragon đi đứng, hành động chậm chạp như người đang dưỡng sức. Nó không còn tỉnh táo khi suy nghĩ hoặc lắng nghe lời giảng giải của thầy. Đôi khi đầu óc nó như mụ mị đi. Những lúc rảnh rỗi hiếm hoi, Eragon lại lấy cái nhẫn cuốn vòng của Orik, tập trung tháo gỡ cho đầu óc bớt căng thẳng. Khi hai anh em có dịp gần nhau, Saphira năn nỉ Eragon lượn mấy vòng cho thoải mái.
Một sáng, đang bay cùng Saphira, Eragon tâm sự “Anh có một cái tên mới để gọi sự đau đớn”
“Tên gì?”
“Quên lãng. Vì khi đau đớn, người ta chẳng nghĩ đến gì nữa. Không tư tưởng, không cảm xúc. Chỉ mong một điều thoát khỏi nỗi đau. Khi cái đau tạm qua đi, sức khoẻ hồi phục, sự quên lãng mới rời khỏi ta, làm ta nhận ra mình là ai, mới nhận ra mình chỉ là một sinh vật nhỏ bé, một sinh vật chỉ có một khát vọng duy nhất: chạy trốn khỏi sự đau đớn. Saphira, cơ thể anh rã rời như một con ngựa già phải cày bừa quá nhiều thửa ruộng. Hãy gắn kết với anh bằng tư tưởng của em, nếu không anh có thể tan tác từng mảnh, chẳng nhớ mình là ai nữa”.
“Em sẽ không bao giờ rời xa anh đâu.”
Nhưng rồi ngay sau đó, Eragon cảm thấy như một nạn nhân bị tế thần với ba lần liên tiếp lên cơn đau dữ dội trong khi giao đấu với Vanir, tiếp theo là hai lần trong buổi tập Xà-Hạc quyền. Vừa gượng ngồi dậy sau một cú lăn lông lốc trên mặt đất, sư phụ nó đã nói ngay:
- Làm lại, Eragon. Con phải hoàn chỉnh thế cân bằng.
Khoanh chặt hai tay để che giấu sự run rẩy toàn thân, Eragon lắc đầu:
- Con không tâp nữa.
- Sao?
- Không tập nữa
- Đứng dậy ngay. Thử lại lần nữa.
- Không.
Oromis quì gối, đặt bàn tay mát lạnh lên má đệ tử, nhìn nó bằng ánh mắt đầy trìu mến. Eragon cảm thấy hết tấm lòng thương yêu của thầy dành cho nó, và nó cũng biết rằng - nếu có thể - ông sẵn lòng chịu đau đớn thay cho nó.
Oromis nhẹ nhàng nói:
- Đừng ngã lòng. Không bao giờ được mất niềm hy vọng, con ạ.
Dường như có một nguồn năng lực từ ông truyền sang Eragon khi nó nghe lời ông nói:
- Chúng ta là kỵ sĩ. Chúng ta đứng giữa ánh sáng và bóng tối, phải giữ thế cân bằng giữa hai ranh giới này. Ngu dốt, sợ hãi, ganh ghét đều là kẻ thù của chúng ta. Hãy chối bỏ chúng với tất cả ý chí của con, nếu không chắc chắn con sẽ gặp toàn thất bại.
Đứng dậy, ông đưa tay đón nó:
- Nào, đứng lên, Khắc-Tinh của Tà-Thần, hãy chứng tỏ con có thể chiến thắng bản năng yếu đuối của thể xác mình.
Hít sâu một hơi, Eragon nhăn mặt, chống tay cố đứng dậy. Hơi lảo đảo, rồi gượng đứng thẳng người, nó nhìn thẳng mắt sư phụ:
Vị tiên già gật đầu tươi tỉnh.
Eragon nín lặng cho đến sau buổi tập quyền, khi hai thầy trò ra suối tắm, nó mới lên tiếng:
- Sư phụ…
- Nói đi con.
- Vì sao con phải chịu đựng sự tập luyện như hành xác thế này? Với phép thuật, thầy có thể truyền cho con tất cả tài năng con cần thiết, thầy có thể định hình thân thể con như thầy đã làm cho cây cối mọc theo ý thầy.
- Ta có thể. Nhưng nếu ta làm vậy, con sẽ không hiểu bằng cách nào cơ thể và khả năng con được như thế; con cũng sẽ không biết giữ gìn chúng như thế nào. Không thể đi đường tắt được, Eragon.
Trầm mình xuống nước lạnh chỉ đến cổ, Eragon hụp đầu dưới mặt nước, ôm lấy tảng đá. Nó để thân mình sóng soài trong lòng suối, cảm thấy như mình là một mũi tên bay qua dòng nước.


Thị trấn Narda


Roran quỳ một gối, gãi gãi chòm râu mới mọc, nhìn xuống Narda.
Thị trấn nhỏ bé và chật chội, trông như những mảnh vụn bánh mì nhồi nhét trong một khe nứt dọc theo bờ biển. Qua khỏi thị trấn, biển đỏ như rượu nho lấp lánh dưới những tia nắng của mặt trời chiều. Roran mê mẩn nhìn mặt nước mênh mông, hoàn toàn khác hẳn với những gì nó thường nhìn thấy.
“Cuối cùng chúng ta cũng đã tới được nơi này.” Roran thầm nhủ.
Rời mỏm đá, nó trở về lều, khoan khoái hít thật sâu làn không khí mặn nồng của biển.
Dân làng cắm trại dưới chân núi Spine, tránh sự phát hiện của bất kỳ kẻ nào có thể tố giác với triều đình.
Qua những nhóm ngồi quây quần dưới tán cây, Roran nhìn tình cảnh họ, vừa xót xa vừa căm phẫn. Hành trình cam go từ thung lũng Palancar đã làm nhêìu người ốm đau, kiệt sức; mặt mày họ vêu vao vì thiếu ăn; quần áo tả tơi. Hầu hết mọi người đều quấn giẻ hai bàn tay để tránh sương muối lạnh ngắt về đêm trên núi. Những tuần lễ mang vác nặng nề làm đôi vai kiêu hãnh của họ cong oằn xuống. Nhưng tội nghiệp nhất là đám trẻ con: gầy guộc, ngơ ngác…
Roran nghĩ: “Họ xứng đáng được hưởng tình trạng hơn thế này nhiều, vì nếu không có họ che chở thì giờ đây mình đã nằm trong tay hai tên Ra’zac rồi”.
Nhiều người tiến lại gần Roran, hầu hết chỉ để vỗ vai anh hoặc để nói vài câu khích lệ. Có người mời anh một miếng đồ ăn. Không thể từ chối nổi, anh đành nhận, để rồi lại đem cho người khác. Có những người chỉ đứng xa tròn mắt nhìn Roran với đôi mắt nhợt nhạt. Anh biết họ đã nói gì về mình: Anh là một gã điên, anh bị quỷ thần ám và rằng kể cả Ra'zac cũng đã không thể nào hạ nổi anh.
Xuyên qua núi Spine cam go hơn Roran tưởng. Đoàn người đống đúc phải len lỏi qua những lối mòn trong rừng chi chít như bàn cờ, chật hẹp, trơn dốc và khúc khuỷu. Dân làng phải chặt cây, phát bụi. Một công việc vừa vất vả vừa phải vô cùng thận trọng để không lưu lại dấu vết cho quân triều đình có thể lần theo. Tuy nhiên, nhờ vậy sức khoẻ của Roran dần hồi phục, dù trong một vài động tác vết thương trên vai vẫn còn hơi nhói đau.
Một tai hoạ ập đến làm đoàn người thêm tổn thất: mưa giông thình lình kéo đến khi họ đang cố vượt qua một ngọn đồi trọc. Ba người chết cóng trong tuyết, đó là Hida, Brenna và Nesbit, toàn người già yếu. Đêm đó, lần đầu tiên Roran nhận thức một điều: toàn thể dân làng có thể bỏ mạng vì đã theo anh.
Sau đó là vụ một đứa bé trai ngã gãy tay, rồi Southwell chết đuối trên dòng suối đóng băng. Gấu và chó sói giết hại gia súc bất chấp những bếp lửa canh gác mà dân làng đã nhóm ngay sau khi khuất khỏi tầm nhìn từ Palancar và đám lính triều đình. Lại thêm cái đói bám lấy đoàn người như loài ký sinh gặm nhấm bụng mọi người, ngấu nghiến sức lực của họ, làm cạn kiệt ý chí tiếp tục lên đường.
Vậy mà họ vẫn dai dẳng sống; ngoan cường, dũng cảm y như tổ tiên họ từng sống trong thung lũng Palancar: bất chấp nạn đói, chiến tranh và dịch bệnh. Dân làng Carvahall có thể chần chừ suốt một thời gian dài dằng dặc mới đi đến quyết định, nhưng một khi họ đã quyết tâm, không gì có thể cản ngăn họ đi tới cùng.
Bây giờ đã tới sát Narda, một tinh thần hồ hởi tràn trề hy vọng toả khắp trại. Không ai biết rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng sự thật hiển nhiên là họ đã vượt qua được đoạn đường quá xa, làm tất cả đều tin tưởng.
Roran thầm nhủ: “Chưa ra khỏi đế quốc này, vẫn chưa được an toàn. Chính mình phải đảm bảo làm sao cho dân làng không bị bắt. Mình có trách nhiệm với tất cả mọi người ở đây…”.
Đó là một trách nhiệm Roran nhiệt tình nhận lãnh với tất cả con tim, vì trách nhiệm đó vừa là bảo vệ dân làng khỏi bàn tay tàn bạo của Galbatorix, vừa theo đuổi mục đích giải thoát Katrina.
“Nàng bị bắt quá lâu rồi, liệu còn sống sót không?” Roran rùng mình cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi tâm trí. Nếu cứ ngẫm nghĩ mãi đến thân phận của Katrina, chắc chắn anh sẽ hoá điên lên mất.
Chạng vạng sáng, Roran cùng chú Horst, Baldor, bà lang Gertrude và ba người con trai của ông Loring lên đường vào Narda. Họ xuống núi, lẩn lút dọc lối mòn trước khi ra đường cái. Dưới vùng thấp này, Roran cảm thấy không khí đặc quánh, hơi thở khó khăn như đang chìm trong nước.
Roran nắm chặt cán búa dắt trong thắt lưng khi tiến tới cổng thị trấnh Narda.
Hai tên lính gác mặt mày khó đăm đăm, trợn mắt ngắm nghía nhóm người quần áo tả tơi của Roran, rồi cầm ngang cây rìu, chặn lối vào. Gã đứng bên phải chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, nhưng đầu tóc đã bạc trắng, lên tiếng hỏi:
- Từ đầu tới?
Chú Horst khoanh tay, ưỡn ngực trả lời:
- Loanh quanh trong thành Teirm ấy mà.
- Đến đây làm gì?
- Mua bán. Mấy ông chủ sai tụi này đi mua hàng trực tiếp tại Narda, thay vì cứ phải mua qua tay đám con buôn.
- Vậy sao? Hàng gì?
Chú Horst còn đang ngập ngừng, bà lang Gertrude nói ngay:
- Phần tôi thì mua thảo dược và mấy cây thuốc. Cây thuốc từ đây mang đến chỗ chúng tôi toàn là thứ cằn cỗi, thối mốc không à. Vì vậy mới phải lặn lội đến tận đây để tìm hàng tốt.
Darmmen tiếp:
- Còn anh em mình tới Narda để thương lượng với đám thợ đóng giày. Giày miền bắc đang là thời trang ở Dras-Leona và Uru’baen mà…
Hắn nhăn nhó nói thêm:
- Nhưng là phải do chúng tôi đặt theo mẫu mã kìa.
Chú Horst gật đầu, tự tin trở lại:
- Tớ thì tìm phương tiện vận chuyển hàng sắt thép cho lò rèn của ông chủ.
Tên lính chỉ cây rìu bên sườn Roran:
- Còn thằng này?
Roran bảo:
- Đồ gốm.
- Đồ gốm?
- Thì đã nói rồi đó, đồ gốm.
- Xách búa theo làm gì?
- Thế…anh tưởng lớp men phủ tự nứt ra à? Phải gõ chứ.
Roran nhìn đôi mắt nghi ngờ của gã đầu bạc, như thách hắn trả lời. Tên lính ậm ừ liếc cả bọn rồi nói:
- Trông các người chẳng giống dân buôn bán chút xíu nào, cứ như lũ mèo đói vậy.
Bà lang gật đầu:
- Phải đấy. Tụi này khốn khổ suốt dọc đường mà.
- Từ Teirm tới đây? Ngựa đâu?
- Để lại nơi tụi này cắm trại
Vừa nói Humund vừa chỉ về hướng nam, ngược chiều với nơi dân làng đang trú ẩn.
- Không có xu nào để trọ trong thị trấn chứ gì…
Tên lính lèm bèm, rồi ra hiệu cho gã kia dựng thẳng cây rìu, mở lối cho mọi người:
- Thôi được, qua đi. Khôn hồn, đừng lộn xộn, ấm ớ là bị gô cổ lại, đừng trách.
Vừa qua khỏi cổng, chú Horst kéo Roran vào lề đường, ghé tai cằn nhằn:
- Sao cháu ngốc vậy. Buôn đồ gốm mà lại gõ cho nứt men là cái gì? Muốn đánh nhau với tụi nó sao? Chúng ta không thể…
Bà lang bỗng thì thầm:
- Trông kìa
Bên trái lối vào, một tấm bảng dựng đứng với mái gỗ chem một miếng giấy vàng. Nửa bảng là thông tin cáo thị hành chính; nửa còn lại treo những bức vẽ chân dung đủ loại tội phạm. Trang trọng ngay chính giữa là bức hoạ Roran không có râu.
Giật mình, Roran vội nhìn quanh để biết chắc không có người lạ đứng gần, so sánh anh và bức hoạ, rồi mới chăm chú nhìn lên bảng. Dù vẫn chờ đợi ngày bị quân triều đình truy đuổi, nhưng nhìn chứng cứ này, anh không khỏi bàng hoàng. “Chắc chắn bạo chúa đã tung tin khắp nơi để lùng bắt dân làng và mình. Giờ đây hình ảnh mình chắc được dán khắp nước rồi”.
Roran tủm tỉm cười, mừng vì đã không cạo râu và đã đồng ý cùng mọi người dùng tên giả khi ở Narda.
Giá trị tiền thưởng in ngay dưới bức hoạ. Garrow chưa bao giờ dạy Roran và Eragon đọc và viết, nhưng ông đã dạy hai anh em làm toán. Vì như ông nói: “Các con phải biết giá cả món hàng mình có và biết số tiền mình bán được là bao nhiêu, như vậy mới không bị những kẻ bất lương lừa gạt.” Vì vậy, Roran mới biết tiền thưởng là mười ngàn crow, đủ sống thoải mái mấy chục năm trời. Một cách ương bướng, số tiền thưởng lại làm anh cảm thấy vui vui, vì bỗng nhiêu Roran trở thành một nhân vật quan trọng đến thế.
Roran liếc sang tấm hoạ kế bên.
Đó chính là Eragon!
Roran tự hỏi. Rồi qua cơn sững sờ, mối căm thù cũ về vai trò của thằng em họ gây ra cảnh cha chết, nhà tan cửa nát lại ngùn ngụt trong anh, cùng mối khát khao bỏng cháy muốn biết: vì sao triều đình lại săn lùng Eragon. “Chắc chắn phải có mối quan hệ giữa hòn đá xanh và việc tụi Ra'zac lần đầu tiên tới làng Carvahall”.
Một lần nữa Roran lại tự hỏi, anh và dân làng đang vướng mắc vào mưu ma chước quỷ gì đây?
Thay vì con số tiền thưởng, dưới bức họa của Eragon lại là hai dòng chữ cổ. Roran hỏi bà lang Gertrude:
- Nó bị tội gì vậy?
Những vết nhăn quanh mắt hằn sâu khi bà nhíu mày chăm chú đọc:
- Tội phản quốc. Cả hai anh em cháu. Thông cáo đó nói: Galbatorix sẽ ban thưởng tước hầu, tước bá cho ai bắt được Eragon, nhưng cũng cảnh giác kẻ nào làm việc đó phải thận trọng vì Eragon là một tội phạm vô cùng nguy hiểm.
Roran chớp mắt ngỡ ngàng. Thằng nhóc Eragon? Vô cùng nguy hiểm ư? Dường như Roran không thể nào tin nổi cho đến khi anh tự xét lại chính mình. “Mấy tuần vừa qua mình đã thay đổi đến thế nào. Trong huyết quản hai anh em chảy cùng dòng máu. Làm sao biết được, có lẽ từ ngày bỏ nhà ra đi Eragon còn làm nhiều việc động trời hơn cả mình”.
Baldor thấp giọng:
- Này, tội giết lính của vua và chống đối lại Ra'zac chỉ treo thưởng mười ngàn; tội gì mà treo thưởng cả một cái ghế quan to thế nhỉ?
- Đủ rồi. Giữ mồm giữ miệng một chút, Baldor. Còn Roran, đừng làm mọi người chú ý đến cháu nữa. Với số tiền thưởng đó, người ta sẽ xúm vào mà dòm ngó từng khách lạ để so sánh với bức hoạ. Nào, bây giờ chúng ta đều có việc phải làm. Trở lại đây vào buổi trưa, báo cáo diễn tiến thế nào.
Tất cả chia làm ba nhóm. Ba anh em Darmmen, Larne và Humund cùng nhau đi mua lương thực cho dân làng. Bà Gertrude đi tìm mua thảo dược, thuốc nước và thuốc mỡ. Chú Horst, Roran và Baldor tiến qua con đường dốc để đến cảng, hy vọng sẽ thuê được một con tàu chuyên chở dân làng tới Surda, hay ít ra cũng tới được thành phố Teirm.
Khi tới con đường lát ván trên bãi biển, Roran ngừng lại lom khom nhìn đại dương bao la. Mặt nước xám ngoét dưới bầu trời mây nặng nề xuống thấp. Anh không bao giờ tưởng tượng chân trời lại phẳng phiu đến thế. Tiếng nước vỗ ì ầm vào những cây trụ dưới chân, làm anh cảm thấy như mình đang đứng trên mặt một cái trống khổng lồ. Mùi cá – tươi, ươn, thối rữa - lấn át tất cả những mùi vị khác.
Chú Horst nhìn Roran rồi lại ngó Baldor - cả hai đều đang ngẩn ngơ trước biển.
- Đẹp quá, phải không?
Roran gật đầu:
- Dạ.
- Trước cảnh tượng này, người ta cảm thấy mình thật nhỏ bé, đúng không?
Baldor cũng chỉ biết gật đầu. Chú Horst nói tiếp:
- Cha nhớ lần đầu tiên thấy biển, cha cũng có cảm giác giống như vậy.
Ngoài những con hải âu đang bay liệng trên vịnh, Roran còn chú ý đến một loài chim khác thường đậu rải rác trên những bờ kè. Thân hình chúng xấu xí, vụng về với cái mỏ có sọc lặc lè trước ngực làm chúng giống như một lão già khó tính, tự cao tự đại. Một con bỗng vươn cổ, khoe cái túi da dài thòng lọng dưới mỏ.
Roran hỏi chú Horst:
- Lần đầu tiên chú thấy biển là khi nào?
- Bartram – ông chủ lò rèn - chết năm chú mười lăm tuổi. Mà việc học nghề còn một năm nữa mới hoàn tất, chú phải đi tìm một chủ lò rèn khác sẵn lòng truyền nghề. Vậy là chú tới Ceunon, một thành phố bên bờ biển bắc. Chsu đã gặp Kelton, một ông già khó tính cực kỳ, nhưng lại rất giỏi nghề. Ông ta đồng ý nhận chú...
Horst cười lớn:
- Ông ấy trái tính trái nết tới nỗi, học nghề xong chú không biết nên cám ơn hay…rủa cho ông một trận.
Baldor nói ngay:
- Cám ơn là cái chắc, vì nếu không cha đã không cưới được mẹ con.
Roran lèm bèm khi quan sát bến cảng:
- Chỉ lèo tèo có mấy con tàu…
Hai tàu đánh cá neo cuối cảng, chiếc thứ ba đậu bên kia cảng giữa mấy chiếc thuyền câu bé tí teo. Cặp thuyền đậu về hướng nam, một chiếc với cánh buồm rách tả tơi. Dù không có kinh nghiệm đi biển, nhưng Roran thấy không có thuyền nào đủ sức chuyên chở gần ba trăm dân làng.
Dò hỏi hết thuyền này tới thuyền khác, ba cha con chú cháu được biết các thuyền đều đã có người thuê bao. Chiếc có cánh buồm rách thì phải vài tháng nữa mới sửa chữa xong. Chiếc Waverunner, trang bị buồm da thì sửa soạn lên đường về phương bắc, tới những hòn đảo hắc ám, chuyên trồng cây dầu Seithr. Còn chiếc Albatross, chiếc cuối cùng, thì vừa từ Feinster xa xôi trở về, đang xảm trét lại để kịp chuyên chở hàng len.
Nghe chú Horst hỏi, một công nhân cảng hinh híc cười:
- Các ông đến vừa quá sớm lại vừa quá muộn. Vào mùa xuân như thế này, hầu hết tàu thuyền đến và đi ba tuần trước cả rồi. Một tháng nữa, gió mùa tây bắc bắt đầu mạnh, đám thợ săn hải cẩu trở về, thuyền bè từ Teirm và khắp nước mới đổ về đây mua da, thịt và đầu. Lúc đó các ông mới có thể thuê một thuyền trưởng và một chiếc tàu rảnh rỗi được.
Roran gặng hỏi:
- Không còn cách nào chở hàng từ đây tới Teirm sao? Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu. Không cần phải đầy đủ phương tiện hay tốc độ cao đâu.
Ông ta chỉ tay về mấy lán trại bằng gỗ bồng bềnh trên mặt nước, tiếp:
- Hắn có mấy xà lan chở ngũ cốc vào mùa thu. Thời gian còn lại trong năm, hắn chỉ câu cá kiếm sống cũng như tất cả mọi người ở Narda. Nhưng…các ông chở hàng gì? Cừu thì đã cắt lông rồi, còn mùa gặt lại chưa tới…
Chú Horst ném cho lão một đồng tiền, ỡm ờ:
- À, tụi này chở…cái này cái kia ấy mà.
Lão bỏ tiền ngay vào túi, nháy mắt:
- Hiểu. Nhìn qua là biết liền. Nhưng đừng lo, lão Ulric này kín miệng như bưng. Hẹn gặp lại các ông.
Lão vừa huýt sáo vừa rảo bước quay đi.
Không tìm thấy Clovis trên cảng, sau khi hỏi thăm, ba người đi khoảng nửa giờ mới tới nhà hắn ở phía cuối thị trấn Narda. Clovis đang trồng mấy củ diên vĩ dọc lối đi trước nhà. Đó là một người đàn ông to béo, mà rám nắng, râu muối tiêu.
Phải mất thêm cả giờ nữa để thuyết phục - bất chấp thời tiết, họ rất muốn được thuê mấy xà-lan của hắn mới làm Clovis đồng ý dẫn ba người tới lán gỗ. Hắn mở khoá, bên trong lán là ba chiếc xà-lan giống nhau, với những cái tên: Marybell, Edeline và Trăn đỏ.
Mỗi chiếc xà-lan dài chừng 22-23 mét, rộng khoảng 6 mét và đều sơn màu đỏ. Các khoang chứa hàng bỏ ngỏ, nhưng có thể phủ bằng vải dầu. Một cột buồm dựng đứng chính giữa, với một cánh buồm hình vuông. Mấy ca-bin nhỏ nằm trên sàn, phía cuối tàu (hay theo Clovis là…đuôi tàu).
Clovis bảo:
- Coi vậy chứ các ông đừng sợ chúng không chịu đựng nổi thời tiết xấu. Tuy nhiên phải cố tránh những cơn giông bão thật sự. Mấy chếc này không thiết kế để ra biển lớn, chỉ có thể di chuyển gần dất liền thôi. Tôi nói thật, thời gian này ra khơi là tệ nhất. Suốt tháng, chiều nào cũng có giông.
Roran hỏi:
- Ông có đủ thuỷ thủ đoàn cho cả ba chiếc chứ?
- Cũng hơi rắc rối đấy. Để coi nào….Hầu hết người của tôi đã đi săn hải cẩu, vì ở đây chẳng còn việc gì làm. Tôi chỉ cần họ sau mùa gặt, nên họ muốn đi đâu thì đi…Chắc quý ông cũng hiểu…
Clovis vừa cười cười vừa nhìn hết Roran tới Baldor, chẳng biết “quý ông” nào thật sự là người đứng ra thuê mướn xà lan của hắn.
Roran bước dọc chiều dài chiếc Edeline quan sát. Tuy cũ kỹ nhưng gỗ còn tốt và nước sơn còn mới. Anh hỏi Clovis:
- Nếu chúng tôi thay thế những người vắng mặt của ông, giá cả ba xà lan này tới Teirm là bao nhiêu?
- Cũng tuỳ. Thuỷ thủ được trả mười lăm xu một ngày, ăn thì thoải mái và…ngoài ra còn thêm tí ti rượu nữa. Tiền bạc tuỳ theo công việc chứ. Thường thì chúng tôi mướn bảo vệ đi theo, nhưng họ đã…
Họ cũng đã đi săn hải cẩu. Tôi hiểu. Chúng tôi sẽ cung cấp bảo vệ cho ông.
- Vậy thì…quá tốt. Tôi chỉ tính hai trăm đồng crown cộng với khoản bồi thường thiệt hại những hư hỏng nếu người của các ông gây ra. Phần tôi - vừa là chủ vừa là thuyền trưởng sẽ hưởng hai phần trăm trên lợi nhuận món hàng của các ông.
- Chuyến đi này chúng tôi không có lợi nhuận gì hết
Câu hỏi của Roran có vẻ làm Clovis ngán ngẩm nhất. Hắn rờ cằm, lắp bắp mãi mới nói ra lời:
- Nếu vậy thì…phải thêm bốn trăm nữa là…trọn gói. Tôi…mạn phép hỏi, qúy ông vận chuyển thứ gì vậy?
“Mình làm hắn hoảng mất rồi”, nghĩ vậy, Roran nói:
- Gia súc.
- Trừu, dê, bò hay ngựa?
- Đủ cả
- Chuyển tới Teirm làm gì?
- Chúng tôi có lý do riêng. Ông có định qua khỏi Teirm không?
- Ồ không đâu. Teirm là giới hạn cuối cùng. Xa hơn nữa, tôi mù tịt, không thuộc con nước. Vả lại tôi không muốn xa vợ con lâu.
- Bao giờ ông sẵn sàng lên đường?
- Có thể năm hoặc sáu hôm nữa. Không, không, phải một tuần nữa mới đi được, vì tôi có nhiều vịêc phải làm trước lúc lên đường.
- Tôi trả thêm mười đồng để khởi hành ngay ngày mai, được chứ?
- Tôi không…
- Mười hai.
- Ngày mốt đi. Tôi sẽ cố thu xếp.
Roran gật đầu, không nhìn Clovis, nói:
- Cho tôi một phút bàn bạc với người của tôi được chứ?
- Vâng, xin ông tự nhiên. Tôi đi loanh quanh một chút chờ các ông bàn tính.
Chưa ra tới cửa lán, hắn quay lại hỏi:
- Xin lỗi, đầu óc tôi lú lẫn quá, tên ông là gì nhỉ?
- Tên tôi là Cây-búa Dũng-mãnh.
- Tên hay đấy. Thật mà.
Cánh cửa khép lại, cha con chú Horst xúm lại Roran. Baldor hấp tấp nói:
- Chúng ta không thể mướn hắn được.
- Chúng ta không thể mướn hắn thì đúng hơn. Không có vàng để mua xà-lan, không biết lái tàu, trong khi sinh mạng của mọi người tuỳ thuộc vào chuyện đó. Mướn xà-lan vừa nhanh hơn vừa an toàn hơn.
Chú Horst bảo:
- Nhưng đắt quá.
Roran gõ tay lên thành xà-lan:
- Chúng ta đặt cọc hai trăm trước. Ngay khi tới Teirm, tôi đề nghị, chúng ta trộm xà-lan, áp dụng những gì học hỏi được trên chuyến đi, hoặc vô hiệu hoá Clovis và người của hắn, cho tới khi chúng ta có thể chuồn qua một phương tiện khác. Bằng cách đó, chúng ta không phải trả thêm bốn trăm nữa.
- Làm một công việc đàng hoàng mà lại đi lừa người khác như vậy, không hợp với bản tính chú.
- Cháu cũng đâu muốn vậy. Nhưng chú thử nghĩ coi, còn cách nào khác nữa đâu?
- Đưa mọi người xuống xà-lan bằng cách nào?
- Để họ đón Clovis dưới bãi, khuất tầm mắt nhìn từ Narda khoảng một dặm.
Chú Horst thở dài:
- Thôi được rồi, đành làm theo cách đó, nhưng chú vẫn cứ cảm thấy chua xót quá. Baldor, gọi Clovis vào đây, thu xếp cho xong.
******
Chiều hôm đó, dân làng tụ tập quanh đống lửa, nghe những gì đã diễn ra tại Narda. Roran quỳ gối, đăm đăm nhìn ánh than hồng, lắng nghe bà lang Getrude và ba người con trai oong Loring kể lại những chuyện họ thấy sau khi tách riêng nhóm. Vụ hình ảnh của Roran và Eragon làm mọi người rì rầm bàn tán.
Sau khi Darmmen dứt lời, chú Horst tóm tắt ngắn gọn về việc Narda đang khan hiếm tàu bè, việc người công nhân già giới thiệu Clovis và việc ngã giá với hắn ta. Nhưng ngay sau khi Horst vừa bật ra cầu “xà-lan”, dân làng rầm rầm phản đối.
Loring tiến ra trước đám đông, đưa cao hai tay:
- Xà-lan? Chúng tôi không đời nào leo lên phương tiện ghê tởm đó đâu.
Nói xong ông nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất. Dân làng rào rào tán thành.
Delmin vội lên tiếng:
- Im lặng. Muốn chết cả đám hay sao mà la lối ầm lên như vậy? Tôi đồng ý với Loring. Không thể chấp nhận đi bằng xà-lan được. Vừa chậm chạp vừa rất dễ bị tấn công. Hơn nữa, nhồi nhét nhau lên xà-lan trong chuyến đi chẳng biết bao lâu mới tới là không thể được. Horst, nên nhớ là Elain đang mang bầu sáu tháng, không thể để chị ấy và những người già cả, đau yếu phơi nắng trong suốt mấy tuần lễ.
Horst trả lời:
- Chúng ta có thể che nắp khoang bằng vải nhựa. Không thoải mái lắm, nhưng cũng tránh được mưa nắng phần nào.
Brigit lên tiếng, tất cả ngừng cả bàn tán, nhường chỗ cho chị tiến đến trước đống lửa:
- Tôi lại quan tâm đến chuyện khác. Với hai trăm sẽ đưa Clovis và số tiền anh em Darmmen đã chi tiêu lương thực và vật dụng khác, chúng ta đâu còn bao nhiêu? Không như dân thành phố, tài sản của chúng ta không nằm trong vàng hay tiền mặt, mà là đất đai và gai súc. Đất không còn nữa, gia súc chỉ còn lại mấy con. Cho dù chúng ta trở thành hải tặc, cướp mấy chiếc xà-lan kia, lấy gì mua lương thực tại Teirm để tiếp tục lên đường đi xa hơn về miền nam?
Horst sôi nổi nói:
- Điều quan trọng là hãy tới Teirm trước đã, sau đó hãy lo chuyện khác. Phải chọn lựa phương án nghiêm trọng nhất chứ.
Bộ mặt gầy gò của Loring nhăn nhúm lại:
- Nghiêm trọng? Anh nghĩ thế nào mới là nghiêm trọng. Toàn thể cuộc phiêu lưu này không đủ là nghiêm trọng sao? Thây kệ anh nói gì thì nói, tôi nhất định không leo lên mấy cái xà-lan chết tiệt đó. Khốn khổ vượt qua được Spine để leo lên xà-lan à. Xà-lan chỉ dành cho ngũ cốc và trâu bò thôi. Điều chúng tôi mong muốn là một con tàu có phòng ốc, có giường tầng để được ngủ nghỉ cho thoải mái. Sao không đợi thêm ít tuần nữa, có thể có tàu cặp bến để chúng ta thuê? Tại sao không….
Lão tiếp tục suốt mười lăm phút, đưa ra cả trăm lý do để phản đối, trước khi để cho Thane và Ridley lên tiếng bàn cãi.
Sau đó, khi mọi tranh luận tạm lắng xuống, Roran duỗi thẳng chân đứng dậy. Tất cả dân làng nín lặng chờ đợi, hy vọng anh đưa ra những lời lẽ sâu sắc khác. Nhưng Roran chỉ buông mấy câu gọn lỏn:
- Xà-lan hoặc cuốc bộ. Tùy ý…
Rồi anh quay vào lều ngủ.


Búa lại vung lên


Trăng lên cao khi Roran rời lều ngủ chung cùng Baldor, ra thay phiên gác cho Albriech.
- Yên tĩnh, không có gì.
Albriech thì thầm rồi quay vào. Roran mắc dây nỏ, cắm ba mũi tên lông ngỗng xuống mặt đất, cuốn mền, ngồi dựa lưng vào tảng đá. Vị thế này cho anh một tầm nhìn khá tốt xuống dưới và qua những núi đồi chìm trong bóng tối.
Theo thói quen, Roran chia khung cảnh làm bốn phần, quan sát kỹ lưỡng từng phần, luôn cảnh giác từng dấu hiệu chuyển động hay một đốm sáng khả nghi, để kịp phát hiện nếu kẻ thù đang tiến tới. Nhưng chỉ được một lúc, tâm trí Roran lại vẩn vơ từ chuyện này sang chuyện khác với những giấc mơ chập chờn. Anh cắn hai má trong để tập trung vào nhiệm vụ canh phòng. Thời tiết êm dịu thế này, thật khó mà tỉnh táo nổi. Nhưng anh cũng mừng vì tránh được ca gác trước rạng đông, vì sau đó rất khó ngủ lại, sẽ bải hoải suốt cả ngày.
Một cơn gió bỗng thoảng qua làm hai tai anh nhột nhạt và da cổ nổi gai ốc, như báo hiệu một điềm chẳng lành. Cảm giác đó làm Roran hốt hoảng, không còn nghĩ đến điều gì khác, ngoài chuyện tin chắc anh và toàn thể dân làng đang gặp nguy hiểm. Toàn thân chấn động như lên cơn sốt, cố kềm mình không đứng bật lên, bỏ chạy. Thậm chí phải ráng sức, Roran mới nhổ được một mũi tên.
“MÌnh làm sao thế này”, Roran tự hỏi.
Từ hướng đông, một bóng đen tách khỏi chân trời. Hình dạng vật đó như một khoảng không đen ngòm giữa các vì sao, bồng bềnh như một tấm mạng rách trôi qua bầu trời cho đến khi nó che phủ mặt trăng. Nhờ ánh trăng phía sau, Roran có thể thấy những màng cánh trong mờ của một con vật Ra'zac từng cưỡi.
Con quái đen thui há mỏ, phát ra một tiếng rít lanh lảnh kéo dài. Roran đau đớn nhăn mặt. Tiếng rít như đâm qua màng nhĩ, làm máu anh như đóng băng, nó làm bao niềm vui, hy vọng thoắt trở thành tuyệt vọng. Tiếng tru tréo đó làm cả khu rừng thức giấc. Chim muông dã thú hàng dặm chung quanh bật lên những tiếng rên rỉ đau đớn. Roran lo lắng không biết bầy gia súc còn lại của dân làng sẽ sao đây.
Lẩn lút qua những gốc cây, Roran trở lại nơi cắm trại, thì thầm với những người anh gặp:
- Tụi Ra'zac đó. Im lặng ở yên tại chỗ.
Toán gác khác cũng đang len lỏi giữa những người dân đang hoảng hốt căn dặn như Roran.
Fisk cầm cây giáo, nhào ra từ trong lều, la lớn:
- Mình bị tấn công à?
Roran xô gã thợ mộc, hai người cùng lăn đùng xuống đất làm vai anh đau nhói. Anh rít nho nhỏ vào tai hắn:
- Im. Razac đó.
Fisk đờ người, thì thào:
- Làm gì bây giờ?
- Giúp tôi làm bầy gia súc bớt hoảng đi.
Cả hai băng qua trại, tới bãi cỏ thả dê, trừu, lừa, ngựa. Các nông dân chủ bầy gia súc cũng đã thức dậy và đang vỗ về chúng.
Roran mừng vì anh đã lo xa, cương quyết bắt họ thả gia súc rải rác ngoài rìa bãi cỏ, nơi cây cối rậm rạp có thể ngụy trang, che phủ chúng.
Vừa vỗ về một con trừu, Roran vừa ngước nhìn bóng đen khủng khiếp vẫn còn đang che phủ mặt trăng như một con dơi khổng lồ.
Bóng đen bỗng bắt dầu di chuyển về hướng dân làng đang ẩn núp. Roran khiếp đảm nghĩ: “Nếu con quái đó lại tru lên, chúng ta sẽ chết mất.”
Khi Ra’zac lượn vòng trên đầu, bầy gia súc im thin thít, nhưng một con lừa chợt lồng lộn hí vang. Không chút ngập ngừng, Roran quỳ một gối, gắn tên, bắn mũi tên xuyên qua giữa mạng sườn con vật. Con lừa đổ vật xuống, không một tiếng kêu.
Nhưng đã quá muộn. Tiếng lừa hí đã làm Ra’zac chú ý. Quái vật quay đầu, chuyển hướng về phía bãi cỏ. Há hốc mỏ, mùi hôi thối thốc tới trước, rồi nó xòe móng từ từ hạ xuống…
“Giờ là lúc ta thử xem có diệt nổi cơn ác mộng này không”. Roran thầm nhủ, trong khi đó bên anh, Fisk thu mình trong khóm cỏ, nâng cây giáo, sẵn sàng phóng tới khi nhắm đúng tầm.
Roran vừa giương nỏ, bỗng tiếng huyên náo trong rừng làm anh dừng lại.
Bầy đoàn nai ào ạt phóng qua những bụi cỏ, bất chấp dân làng và gia dúc, chúng hoảng hốt tìm đường chạy trốn. Gần một phút bầy nai chen chúc vượt qua Roran, móng vuốt cày nát mặt đất và những đôi mắt chúng rực sáng dưới ánh trăng. Chúng chạy sat bên, đến nỗi Roran nghe rõ từng hơi thở hồng hộc của chúng.
Chắc chắn bầy nai đông đúc đã cứu dân làng, vì chỉ lượn thêm một vòng trên bãi cỏ, quái vật có cánh quay về phương nam, là là chìm xuống núi Spine, tan vào bóng tối.
Roran và các bạn sững sờ tại chỗ, như mấy con thỏ bị săn đuổi, nơm nớp sợ sự Ra’zac bỏ đi chỉ là một mưu mẹo hòng lùa họ ra khoảng trống, hoặc hai con quái sinh đôi sẽ bất ngờ xuất hiện phía sauHọ chờ đợi suốt hai tiếng, căng thẳng lo âu, chỉ dám nhúc nhích khi kéo sợi dây nỏ.
Khi trăng sắp lặn, tiếng tru tréo lạnh xương của Ra’zac vọng từ xa xa tới… rồi không gian hoàn toàn tĩnh lặng.
Thức dậy vào buổi sáng hôm sau, Roran thầm nhủ: “Chúng ta đã gặp may, nhưng không thể dựa vào may mắn để thoát chết lần sau được nữa.”
Sau sự xuất hiện của Ra’zac, dân làng không còn phản đối việc ra đi bằng xà-lan nữa. Trái lại, họ nóng ruột muốn đi ngay thay vì phải đợi tới ngày mai. Roran bảo:
- Tôi cũng rất muốn vậy, nhưng chúng ta còn nhiều việc phải làm.
Anh cùng chú Horst và một toán đàn ông knữa lội bộ vào tận Narda ăn sáng. Biết rằng đi cùng họ là rất liều lĩnh, nhưng nhiệm vụ của họ rất quan trọng, ngoài ra anh tin diện mạo của mình hiện nay khác xa với hình vẽ, không ai có thể nhận ra.
Họ không gặp khó khăn khi qua cổng, vì bọn lính gác đã thay thế toán hôm qua. Roran lập tức hướng dẫn mọi người ra bến cảng và trao hai trăm cho Clovis.
Đang bận rộn giám sát nhóm người làm sửa soạn cho xà-lan sẵn sàng ra khơi, Clovis thắt chặt túi tiền vào thắt lưng bảo Roran:
- Cám ơn Cây-búa Dũng-mãnh. Không gì sướng hơn bắt đầu một ngày mới bằng những đồng tiền vàng sáng ngời như thế này.
Đưa tất cả đến bàn làm việc, Clovis trải tấm hải đồ quanh vùng Narda (đầy đủ ghi chú về những đoạn nước chảy xiết, đá ngầm, ụ cát…), kéo một đường bằng ngón tay từ Narda tới một vịnh nhỏ về hướng nam, hắn nói:
- Chúng ta sẽ đón gia súc tại đây. Mùa này thủy triều rất dễ chịu, tuy vậy vẫn phải phòng xa, tốt nhất là lên đường ngay khi thủy triều vừa lên cao.
Roran hỏi:
- Sao không chờ thủy triều xuống, nước kéo xà-lan ra, có phải dễ hơn không?
- A, đúng vậy. Nhưng phải cần thêm rất nhiều người. Điều tôi ngại nhất là, nước ào vào rút ra, quăng quật người của chúng ta khi vận chuyển đàn gia súc lên tàu.
Roran gật đầu, tin tưởng vào kinh nghiệm của Clovis:
- Ông cần bao nhiêu người để bổ sung thủy thủ đoàn?
- Tôi đã ráng kiếm bảy chàng trai khỏe mạnh, thật thà, thạo nghề đi biển và đồng ý ra khơi chuyến này. Đám người còn lại say xỉn không ngóc đầu lên nổi, chúng nốc rượu hết ráo tiền chuyến đi vừa qua. Vậy là tôi chỉ có được bảy, còn cần thêm bốn nữa.
- Người của tôi chưa thạo đi biển, nhưng đều khỏe mạnh và ham học hỏi lắm.
- Thôi cũng được, dù sao tôi vẫn thường cho mấy cậu mới vào nghề đi theo. Tuy nhiên chúng phải biết vâng lời, nếu không, công việc lộn bậy lên hết ráo. Còn chuyện bảo vệ, tôi muốn có chín người. Mỗi xà-lan ba người. Phải là những người gan dạ…
Roran cười cười:
- Những người đi cùng tôi, từng chứng tỏ khả năng lâm trận nhiều lần rồi.
- Và đều được quý ông tin tưởng chứ, Cây-búa Dũng-mãnh?
Vừa nói Clovis vừa gãi cằm ngắm nghía Gedric, Delwin và mấy người mới đi cùng Roran:
- Bao nhiêu người đi cùng ông?
- Cũng… vừa đủ thôi.
- Vừa đủ, tôi đoán ông sẽ nói vậy. Nhưng đừng bận tâm, chỉ hỏi vậy thôi mà. Cha tôi thường bảo tôi là đưa hay mau mồm mau miệng tào lao. Torso, người bạn nghề thân cận nhất của tôi, đang đi mua sắm cho chuyến đi. Ông có lương thực cho gia súc rồi chứ?
- Chúng tôi đã lo trang bị đầy đủ tất cả.
- Vậy chì chuyển bầy gia súc tới sớm đi, chúng tôi sẽ cho chúng xuống khoang hầm ngay khi dựng buồm.
Suốt ngày hôm đó nhóm của Roran chuyển những món mấy con trai ông Loring đã mua vào lán trại. Nhìn Roran chuyển bao bột mì xuống khoang hầm của chiếc Edeline, Clovis thắc mắc:
- Toàn những thứ không phải là thức ăn gia súc?
- Không, nhưng là những thứ chúng tôi cần.
Thùng đồ cuối cùng được chuểyn xong, Clovis nói với Roran:
- Quý ông đi được rồi, tôi và mấy chàng trai kia lo phần còn lại, nhưng phải nhớ có mặt, cùng với mấy anh chàng quý ông đã hứa, tại bến ba tiếng sau tảng sáng, nếu không sẽ không kịp thủy triều đâu.
- Yên tâm, chúng tôi sẽ đúng hẹn.
Trở vào núi, Roran giúp thím Elain và mọi người sửa soạn khởi hành. Tất cả đã quen nhổ trại mỗi sáng nên công việc rất mau lẹ. Sau đó anh chọn mười hai người đàn ông để đưa đến Narda ngày hôm sau. Trai tráng trong làng đều là những chiến sĩ dũng cảm, nhưng Roran yêu cầu những người có khả năng nhất, như chú Horst và Delwin, sát cánh cùng dân làng, phòng xa bị lính triều đính phát hiện hay Ra’zac trở lại.
Ngay khi đêm xuống, hai toán rục rịch lên đường. Thu mình trên một tảng đá, Roran nhìn chú Horst hướng dẫn đoàn người xuống núi, tiến về vịnh nhỏ để chờ xà-lan.
Orval leo lên tảng đá, khoanh tay hỏi Roran, giọng đầy lo lắng:
- Anh tin họ được an toàn không?
Dù cũng đang lo ngại, Roran nói:
- Mình tin. Cá với cậu một thùng rượu, ngày mai tàu cặp bờ họ vẫn còn đang ngủ ngon lành. Cậu sẽ được có niềm vui đánh thức Nolla dậy. Sướng nhé.
Nghe nhắc đến tên vợ, Orval toe toét cười, vẻ yên tâm.
“Hy vọng mình đúng.” Im lìm trên tảng đá, Roran lặng lẽ như một bức tượng, trông theo hàng người dần khuất khỏi tầm nhìn.
Thức dậy trước khi mặt trời mọc, ánh sáng còn nhợt nhạt và không khí ẩm ướt của đêm làm mấy ngón tay tê cóng, Roran vỗ nước lên mặt, rồi sửa soạn cung tên, cây búa bất ly thân cuàng tấm khiên của Fisk và cây giáo của chú Horst. Mười hai người kia còn đem theo mấy thanh kiếm chiến lợi phẩm trong cuộc đụng độ với lính triều đình tại làng Carvahall.
Mười ba người đều cố chạy xuống sườn núi gồ ghề, ra đường cái Narda, phóng vội đến cổng thị trấn.
Roran sững người khi thấy hai tên lính gác hôm đầu tiên lại ngả ngang cán rìu chặn lối vào. Tên đầu bạc quan sát nhóm người của Roran, rồi lom lom nhìn anh:
- Lần này còn đông hơn, mà ngoài mày ra, lại toàn mặt lạ. Chắc mày mong tao tin những khiên giáo kia dùng để gõ đồ gốm đấy nhỉ?
- Không. Chúng tôi được Clovis thuê làm bảo vệ xà-lan tới thành Teirm.
Tên lính gác cười hô hố:
- Chúng mày làm lính đánh thuê à? Tao nhớ mày bảo là dân buôn bán mà.
- Chuyển qua nghề này tốt tiền hơn.
- Nói láo. Tao cũng đã từng thử thời vẫn đó rồi, đói chết mồ luôn. Nào, tóm lại, nhóm “con buôn” chúng mày có bao nhiêu thằng? Hôm qua bảy, hôm nay mười hai. À, kể cả mày là mười ba chứ. Các chủ hàng… hơi bị nhiều nhân công đấy nhỉ?
Hắn lim dim mắt ngắm nghía Roran:
- Trông mày quen quen. Ê, tên gì?
- Cây-búa Dũng-mãnh.
- Chẳng lẽ là thằng Roran, nếu…
Roran thúc ngọn giáo ngay yết hầu tên lính gác. Máu ộc ra như suối. Thu hồi mũi giáo, Roran vừa nâng khiên đỡ cây rìu của tên lính thứ hai, vừa xoay người rút búa choảng mạnh xuống đầu hắn. Chiếc mũ sắt tan tành.
Dứng giữa hai cái xác, Roran thở hào hển nghĩ: “Ôi, vậy là mình đã giết mười mạng người rồi!”
Orval và mười một người kia bàng hoàng nhìn Roran. Không chịu đựng nổi ánh mắt họ, chỉ đường cống ngầm dưới lòng đường, anh cộc cằn ra lệnh:
- Giấu mấy cái xác ngay, đừng để có người nhìn thấy.
Trong khi họ làm theo lời anh, Roran lên tường phòng hộ nhìn xuống. Rất may, lúc đó không một bóng người. Cúi xuống, Roran rút ngọn giáo, chùi sạch máu lên bụi cỏ.
Mandel chiu lên, dù râu ria che khuất vẫn thấy rõ mặt chàng thanh niên xanh lè khi nói:
- Xong.
Roran gật đầu, lạnh lùng nhìn tất cả:
- Nghe đây. Chúng ta rảo bước tới bến, nhưng phải rất thận trọng. Đừng chạy. Nghe từng động tĩnh, nhưng không được hoảng hốt. Đừng có hành động nào gây nghi ngờ. Mạng sống của gia đình, bạn bè các anh tùy thuộc vào điều đó. Nếu bị tấn công, nhiệm vụ duy nhất của các anh là nhìn xà-lan ra khơi. Không còn vấn đề nào khác nữa. Rõ cả chứ?
Tất cả đều lên tiếng:
- Rõ.
- Vậy thì theo tôi.
Khi băng qua thị trấn, Roran cảm giác toàn thân căng thẳng như sắp vỡ tung thành từng mảnh. Nhìn từ đàn ông tới đàn bà, từ con chó tới đứa trẻ con, cố gắng phát hiện ra những biểu hiện của kẻ thù. Tất cả những gì chung quanh dường như sáng lên một cách bất thường, nổi rõ từng chi tiết; dường như anh có thể nhìn thấu từng đường kim mũi chỉ trên quần áo mọi người.
Nhưng rồi họ yên ổn tới cảng, Clovis vui vẻ nói:
- Tới sớm vậy, Cây-búa? Nhưng tôi rất khoái những người như vậy, chúng ta càng có nhiều thời gian thu xếp trước lúc khởi hành.
- Đi ngay bây giờ được chưa?
- Phải chờ nước lên cao hẳn đã…
Nhìn khắp lượt mười ba người, Clovis thắc mắc:
- Chuyện gì vậy? Trông các vị như vừa gặp hồn ma của Galbatorix vậy?
- Ôi, chỉ vài giờ hít thở không khí biển thì chuyện gì cũng ổn cả thôi mà.
Roran cố gượng cười nói qua loa cho anh chủ xà-lan yên lòng.
Clovis huýt sáo gọi hai thủy thủ từ xà-lan lên. Cả hai da rám nắng, nâu sậm như vỏ hạt dẻ. Chỉ anh chàng đứng bên phải với hình xăm trên vai là một con rồng, Clovis giới thiêuK
- Đây là Torson, phụ tá của tôi. Cậu ấy quản lý chiếc Merrybell. Còn anh chàng đen nhỏm này là Flint, trông nom chiếc Edeline. Trong thời gian mọi người ở trên tàu, lời nói của hai cậu này là lệnh, cũng như tôi trên chiếc Trăn Đỏ. Các người phải theo lệnh tôi, chứ không phải Cây-búa… Nào, rõ cả chưa?
- Rõ.
- Ai trực thuộc quyền tôi, ai thuộc quyền hai bạn nghề của tôi đây?
Bất chấp Clovis đã cảnh báo hắn là chỉ huy, không phải Roran, mấy anh trai làng vẫn cứ nhìn Roran đợi lệnh. Anh gật đầu, họ mới phân làm hai nhóm. Clovis chia họ thành ba nhóm nhỏ, phân phối lên mỗi xà-lan.
Suốt nửa tiếng sau đó Roran cùng các thủy thủ mới xong công việc trên chiếc Trăn Đỏ. Vừa nhìn mực nước mấp mé kè đá, anh vừa suy tính: “Cứ nấn ná ở đây, không bị giết cũng bị bắt mất thôi.”
Trừng trừng nhìn Clovis đang bóp trán, Roran mới rút cây búa được nửa chừng, hắn bỗng nhướng mày nhìn anh nói:
- Cây-búa, tôi đã quan sát anh, và tôi thắc mắc gì sao anh chiếm được sự nể trọng của họ. Tôi không nhớ xuể đã phục vụ bao nhiêu đời thuyền trưởng, nhưng chưa ai làm người khác phải tuân lệnh mà không phải đưa lên một ngón tay như anh.
Roran phì cười:
- Tôi giải đáp thắc mắc của ông ngay đây: tôi cứu họ khỏi cảnh nô lệ và khỏi bị ăn tươi nuốt sống.
Clovis trơn tròn hai mắt:
- Hả? Tôi rất muốn được nghe chuyện này.
- Ông không nên biết thì hơn.
- Phải, có lẽ đúng vậy. Mỗi người có một hướng đi riêng. A, con gái bé nhỏ của tôi tới rồi kìa. Lúc nào cũng đúng giờ răm rắp.
Nói xong người đàn ông vạm vỡ nhảy phóc lên cầu tàu, chạy lên bến, ôm chặt một bé gái tóc đen chừng mười ba tuổi và người đàn bà, chắc là mẹ cô bé. Clovis vò tóc con gái, bảo:
- Con sẽ ngoan ngoãn khi cha vắng nhà, phải không nào, Galina?
Nhìn Clovis tạm biệt vợ con, Roran chợt nghĩ đến cái chết của hai người lính gác: “Chắc họ cũng có gia đình. Có vợ con để thương yêu, có một mái ấm để trở về mỗi ngày…”. Miệng đắng chát, anh phải quay đi, nhìn mực nước lên, cô stránh cơn buồn nôn.
Những người trên xà-lan mặt đầy vẻ lo âu. Sợ họ mất tinh thần, Roran lăng xăng đi lại trên boong, ra vẻ chăm chú tính toán như anh đang rất bình tĩnh.
Sau cùng, Clovis nhảy lên Trăn Đỏ, kêu lớn:
- Nhổ neo, các bạn ơi, nước cao rồi.
Cầu tàu được kéo lên, tháo dây neo và cả ba cánh buồm căng phồng trong gió.
Phía sau, mẹ con Galina đứng nhìn theo, nghiêm trang lặng lẽ.
Clovis vỗ vai Roran:
- Cây-búa, chúng ta may mắn rồi, hôm nay có chút gió, không phải chèo trước khi thủy triều thay đổi.
Khi Trăn Đỏ ra tới giữa vịnh, chừng mười phút nữa mới tới vùng biển tự do, điều lo sợ của Roran đã xảy ra: tiếng chuông, tiếng kèn từ những tòa nhà đá lan tỏa trên mặt nước. Anh vội hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Clovis nhìu mày nhìn về thị trấn:
- Không biết. Chắc là một đám cháy, nhưng sao không thấy khói. Hay họ phát hiện có Urgal trong vùng…
Hắn lo lắng hỏi Roran:
- Trên đường đi sáng nay có bị ai dòm ngó không?
Roran chỉ biết lắc đầu, vì chính anh cũng không biết chắc điều đó.
Từ chiếc Edeline chạy song song, Flint gào qua:
- Mình quay lại chứ, ông chủ?
Roran nắm chặt thành tàu, sẵn sàng năn nỉ, nhưng lại tỏ ra quá lo âu. Ngay lúc dó Clovis đã hướng qua Flint gào lại:
- Không. Lỡ con nước mất.
- Được thôi, thưa ông. Nhưng tôi dám hy sinh một ngày lương để biết chuyện gì mà om sòm dữ vậy.
Clovis lèm bèm:
- Tao cũng đang sốt cả ruột lên đây.
Khi nh cửa đã khuất dạng phía sau, Roran lại cuối tàu, ngồi ôm gối, dựa lưng vào ca-bin. Anh nhìn bầu trời xanh thăm thẳm rồi nhìn vật nước chiếc Trăn Đỏ lướt qua với những dải rong biển lất lây trong làn sóng. Xà-lan lắc lư như một chiếc nôi làm anh cảm thấy như được vỗ về an ủi. “Một ngày tuyệt đẹp” Roran thầm nhủ, khoan khoái vì được có mặt tại đây để thưởng thức cảnh quan này.
Qua khỏi vịnh nhỏ, Roran thoải mái leo thang lên buồng lái, sau ca-bin. Clovis đang điều khiển bánh lái, vui vẻ nói:
- Chuyến nào ngày đầu tiên cũng đầy phấn khởi, mấy hôm nữa mới chán ngấy đồ ăn mang theo và bắt đầu nhớ nhà.
Chủ tâm học hỏi những điều cần thiết về cách điều hành xà-lan, Roran hỏi Clovis tên và nhiệm vụ của những vật dụng trên tàu. Clovis nhiệt tình giảng giải từ cách vận hành, từ nghệ thuật lèo lái xà-lan tới các loại tàu bè. Hai tiếng sau, hẳn chỉ một bán đảo nhỏ hẹp phía trước, bảo:
- Qua khỏi đó là tới vịnh.
Roran vươn người nhìn, nóng lòng muốn biết tình trạng của dân làng.
Khi chiếc Trăn Đỏ vòng qua một mũi đá, bãi cát trắng hiện ra cùng những người tị nạn từ thung lũng Palancar. Đám đông hoan hô, reo hò, vẫy tay rối rít khi chiếc xà-lan xuất hiện từ sau mũi đá.
Đứng bên Roran, Clovis lèm bèm rủa, rồi bảo:
- Cây-búa, ngay từ lúc mới gặp anh, tôi đã thấy chuyện bất thường. Hừ, gia súc, vật nuôi của anh đó hả? Anh cư xử như tôi là một thằng ngu.
- Ông hiểu lầm rồi, tôi đâu có dối gạt ông. Nhiệm vụ của tôi là chăm lo cho những con người này, vì vậy…
- Vì vậy… anh gọi họ là gì thây kệ, nhưng tôii không đồng ý chở người tới Teirm. Sao anh không nói thật từ đầu? Dù chuyến đi này của anh là gì, thì sau cùng cũng chỉ là rắc rối. Rắc rôi cho anh và cho cả chính tôi. Tôi sẽ quẳng các anh khỏi tàu và trở lại Narda.
- Nhưng… ông sẽ không làm vậy đâu.
- Hả? Sao tôi lại không dám làm chứ?
- Vì tôi cần mấy xà-lan này. Bằng mọi cách tôi phải giữ chúng. Mọi cách, ông Clovis ạ. Tôn trọng sự thương lượng giữa chúng ta, chuyến đi sẽ an toàn và ông sẽ trở về với con gái Galina của ông. Nếu không…
Roran không có ý định giết Clovis, dù là trong trường hợp bắt buộc, anh sẽ thả ông ta xuống một bãi biển nào đó thôi.
Mặt Clovis đỏ bừng, nhưng Roran ngạc nhiên khi ông ta chỉ lẩm bẩm:
- Tôi hiểu rồi…
Roran yên tâm, hướng mắt lên bãi cát. Ngay lúc đó, phía sau anh vang lên một tiếng “soạt”.
Phản ứng theo bản năng, Roran hụp mình, xoay người đưa tấm khiên lên che đầu. Cánh tay anh rung lên khi một cái xiên đâm thủng tấm khiên.
Roran hạ thấp tấm khiên, trừng trừng nhìn Clovis đang hốt hoảng giật lùi:
- Ông không hạ nổi tôi đâu, Clovis. Tôi hỏi lại: ông có tôn trọng hợp đồng không? Nếu không, tôi sẽ đưa ông lên bờ, rồi tự chỉ huy và bắt người của ông phải phục vụ tôi. Thật tình tôi không muốn hủy hoại phương tiên kiếm sống của ông đâu, nhưng nếu bị ông thúc ép, tôi sẽ làm… Nào, nghĩ kỹ đi. Nếu ông giúp đỡ chúng tôi, thì đây chỉ là một chuyến đi bình thường, có gì đâu. Hãy nhớ là ông đã được trả tiền rồi.
- Nếu tôi đồng ý, anh phải đàng hoàng cho tôi biết: vì sao phải phỉnh gạt tôi như thế này? Những người kia từ đâu đến? Để làm gì? Dù anh trả tôi bao nhiêu vàng, tôi cương quyết không làm trái với nguyên tắc của mình. Các anh là thảo khấu? Hay tay sai của bạo chúa?
- Tôi e, càng biết nhiều ông càng bị nguy hiểm hơn.
- Nhất định tôi phải biết.
- Ông có nghe nói đến làng Carvahall ở thung lũng Palancar không?
- Có vài lần. Thì sao?
- Ông đang thấy dân làng đó trên bãi cát kia. Quân lính của Galbatorix đã tấn công chúng tôi một cách vô cớ. Chúng tôi chống trả, khi không còn tự bảo vệ nổi nữa, chúng tôi phải xuyên qua núi Spine, dọc theo bờ biển để tới Narda. Galbatorix đã thề sẽ giết toàn bộ già trẻ lớn bé dân làng, hoặc bắt làm nô lệ hết. Tới Surda, đó là niềm hy vọng sống còn duy nhất của chúng tôi.
Roran không nhắc tới Ra’zac, vì không muốn làm Clovis quá khiếp đảm.
Bộ mặt rám nắng của ông chủ tàu tái nhợt:
- Các anh đang bị truy đuổi?
- À… nhưng triều đình chưa phát hiện ra chúng tôi.
- Vậy là chính vì các anh mà trống kén đã báo động rầm rĩ lên như thế?
Rất nhỏ nhẹ, Roran nói:
- Tôi đành phải giết hai lính gác đã nhận diện ra mình.
Clovis giật mình lùi lại, trợn mắt, tay nắm chặt tới phồng cả cơ bắp. Roran tiếp:
- Tính kỹ đi, ông Clovis, gần tới bờ rồi.
Hai vai Clovis rũ xuống, vẻ cương quyết không còn nữa. Roran biết mình đã thắng:
- Ôi, cầu cho bệnh dịch giết anh đi, Cây-búa. Tôi không ưa gì nhà vua, nên tôi sẽ đưa các anh tới Teirm. Nhưng sau đó, tôi không còn muốn dính dáng gì tới các anh nữa.
- Ông thề không chuồn đi trong đêm tối, hoặc có âm mưu gì khác chứ?
- Được. Tôi thề.
Cát đá rào rạo dưới đáy khi ba chiếc xà-lan tiến lên bãi. Tiếng sóng ào ạt vỗ bờ như tiếng thở dài của một quái vật khổng lồ. Ngay khi cầu tàu được bắc qua, Torson và Flint nhảy sang Trăn Đỏ tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra. Clovis bảo:
- Kế hoạch thay đổi.
Để ông chủ tàu cắt nghĩa lý do dân làng phải lìa bỏ thung lũng Palancar, Roran nhảy xuống bãi cát, chạy đi tìm chú Horst trong đám đông, rồi kéo ông ra một chỗ kể lại vụ giết hai lính gác tại Narda.
- Nếu phát hiện ra cháu đi cùng Clovis, chúng sẽ cho ngựa đuổi theo. Phải cấp tốc bảo mọi người lên tàu ngay.
Nhìn sâu vào mắt Roran một lúc, chú Horst mới nói:
- Cháu thành một con người cứng rắn rồi, Roran. Cứng rắn hơn cả chú từ xưa tới nay.
- Chỉ vì bắt buộc thôi, chú ơi.
- Nhớ kỹ một điều: đừng bao giờ quên cháu là ai.
Suốt ba tiếng sau Roran tất bật chuyển dân làng và hành lý của họ lên chiếc Trăn Đỏ, sắp đặt mọi thứ cho đến khi Clovis hài lòng. Phải bảo đảm sao cho những bao đồ đủ kích cỡ, nặng nhẹ khác nhau không bừa bãi, xô lệch làm mất thăng bằng của tàu và gây thương tích cho người. Phải dỗ dành những con vật bướng bỉnh chịu xuống khoang hầm, rồi buộc chúng vào những khoen bằng sắt.
Sau cùng mới tới người. Cũng như đồ đạc của họ, phải sắp đặt để mọi người chia đều hai bên cho cân xứng, tránh làm tàu nghiêng ngả hay có thể bị lật. Clovis, Torson, Flint đứng trước mũi ba xà-lan gào xuống một đám dân làng còn đứng dưới bãi.
Nghe tiếng tranh cãi rầm rầm, Roran vừa tự hỏi “lại chuyện gì nữa đây”, vừa lách tới đám đông.
Calitha đang quỳ bên người cha dượng, lão Wayland, cố gắng trấn tĩnh lão. Trong khi lão vừa vùng vẫy cố vuột khỏi vòng tay Calitha, vừa la oai oái, nước bọt nhễu nhão.
- Không, tao không leo lên con quái vật đó đâu. Buông tao ra! Buông tao ra!
Calitha nhăn nhó vì những cú đánh của lão:
- Từ lúc dựng trại đêm qua, ông ấy cứ như phát rồ lên.
Roran cùng Calitha dỗ dành, năn nỉ cho đến khi lão dịu lại, không đấm đá, kêu gào nữa. Calitha thường cho ông bố dượng một mẩu thịt bò khô. Trong khi lão chăm chú nhấm miếng thịt, Roran và cô mới có thể dìu lão lên xà-lan, thu xếp cho lão ngồi vào một góc riêng, để khỏi làm phiền ai.
Clovis la lớn:
- Nào, mau mau lên, thủy triều sắp rút rồi. Nhảy lên, nhảy lẹ lên đi.
Sau sự ồn ào, náo động cuối cùng, ván cầu được rút lên. Trên bãi chỉ còn lại hai chục người đàn ông. Họ chia làm ba toán, sửa soạn đẩy xà-lan xuống nước.
Roran điều khiển toán của chiếc Trăn Đỏ. Tiếng dô hầy đồng thanh cất lên, anh cùng mọi người căng sức đẩy chiếc xà-lan khổng lồ, cát lún dưới chân, tiếng gỗ và dây thừng kẽo két, mùi mồ hôi tỏa trong không khí. Một lúc sau, xà-lan chòng chành trượt ra mé nước chừng nửa thước.
Roran la lớn:
- Nào ráng nữa lên.
Nhúc nhích từng bước, họ tiến ra biển, cho đến khi làn nước giá lạnh ngập tới thắt lưng. Một cơn sóng lớn ập lên Roran, miệng anh đầy nước biển. Roran phun phì phì nước muối mặn chát.
Bơi cặp theo chiếc xà-lan bồng bềnh trên nước, rồi Roran bám một sợi dây leo lên. Trong khi đó, các thủy thủ chống sào, đẩy tàu ra vùng nước sâu hơn.
Khi xà-lan đã xa bờ, Clovis ra lệnh dẹp sào, mái chèo được sử dụng, lái mũi tàu thẳng tiến ra khơi. Buồm được kéo lên, căng phồng trước làn gió nhẹ. Trăn Đỏ dẫn đầu ba chiếc xà-lan tiến về hướng thành Teirm.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 01-12-2013, 05:54 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Bước đầu thận trọng


Những ngày ở Ellesméra, Eragon không thể phân biệt được thời gian trong thành phố ngàn thông này. Mùa như không tuổi, thậm chí bóng tối âm u bao phủ rừng cây vào những buổi chiều. Những buổi tối cũng như kéo dài bất tận. Tháng nào muôn hoa cũng khoe hương sắc bằng quyền uy phép thuật và bùa chúa của thần tiên.
Eragon đã yêu thương quyến luyến Ellesméra, với vẻ đẹp và sự êm đềm tĩnh lặng, với những ngôi nhà duyên dáng mọc ra từ những thân cây, những bài ca mê hoặc vang lên trong mỗi buổi chiều, những lúc trầm tư mặc tưởng, cũng như những tiếng cười giòn rộn rã của thần tiên.
Thú hoang dã tại Du Weldenvarden không phải lo sợ thợ săn. Từ ngôi nhà trên cây Eragon thường thấy một thần tiên vuốt ve âu yếm một con nai, một con chồn; hoặc thì thầm trò chuyện với một chú gấu e thẹn lăn lông lốc trên đồng cỏ. Có những con thú Eragon không thấy hình dạng chúng, vì chúng xuất hiẹn về đêm – di chuyển, lèm bèm trong bụi rậm - chạy biến ngay khi Eragon tién lại gần. Một lần Eragon thoáng thấy một sinh vật giống như con rắng phủ đầy lông. Lần khác nó lại thấy một cô gái áo trắng toát thoắt hiện nguyên hình thành một con sói cái nhe nanh nhọn hoắt.
Mỗi khi có dịp, Eragon và Saphira lại tiếp tục khám phá Ellesméra. Hai đứa cùng sư phụ Orik, vì Arya đã không còn nhập chung bọn nữa. Cô cũng không để Eragon gặp mặt từ khi cô đập tan bức fairth của nó. Đôi khi Eragon thấy cô thấp thoáng qua những hàng cây, vừa định tiến lại nói lời xin lỗi, cô lẩn đi ngay, bỏ lại nó một mình giữa những cây thông cổ thụ. Sau cùng Eragon quyết định phải nắm thế chủ động đợi có dịp nối lại mối giao hảo với cô. Vì vậy, một buổi chiều, Eragon hái một bó hoa rồi thới Tialdarí, nhờ một thần tiên chỉ đường tới cung của Arya.
Chiếc cửa lưới để ngỏ khi Eragon bước vào cung. Gõ cửa, không ai trả lời. Nó bước vào trong, vừa ngóng chờ tiếng bước chân của ai đó, vừa nhìn quanh căn phòng khách rộng phru đầy đây nho. Nối với phòng khác, một bên là phòng ngủ nhỏ, một bên là thư phòng. Trên tường treo hai bức fairth: một bức chân dung vị thần tiên nghiêm trang quắc thước, tóc màu bạc (Eragon đoán là đức vua Evandar), còn bức kia là một tiên ông trẻ, Eragon không biết là ai.
Dạo qua các phòng, Eragon ngắm nghía từng hiện vật, để đoán biết sở thích riêng tư của nàng trong đời sống. Bên giường ngủ, trong quả cầu thủy tinh là một bông hoa màu đen còn đọng sương mai8. Trên bàn viết, các cuộn giấy xếp gọn gàng, có ghi từng tựa như: Báo cáo thu hoạch mùa; Ghi chú hoạt động của giám sát Gil’lead…Trên thành cửa sô là ba cây bonsai mọc ngoằn nghèo theo dạng chữ cổ: An, lực, trí. Bên mấy cây đó, một mảnh giấy với những dòng phác thảo một bài thơ dở:
Dưới vừng trăng rực rỡ
Giữa cỏ hoà và giữa rừng thông
Mặt hồ bạc im lìm phẳng lặng
Từ đâu viên đá nhẹ rơi
Làm tan vỡ mặt trăn ánh bạc
Mảnh sáng vỡ sắc ngời như kiếm
Lao xao gợn sóng khắp mặt hồ
Rồi êm ả lại hoàn êm ả
Hồ cô đơn trở lại cô đơn
Trong bóng đêm nặng nề ảm đạm
Chiếc bóng buồn bối rối bay qua
Bay qua nơi đã một lần…
Bước lại, đặt bó hoa lên chiếc bàn nhỏ kê ngay lối vào, Eragon vừa định quay ra, bỗng sững ngời khi thấy Arya đứng bên khung cửa. Cô có vẻ ngỡ ngàng khi thấy Eragon hiện diện tại nơi đây, nhưng rồi bình thản lại ngay.
Cả hai lặng lẽ nhìn nhau.
Eragon nhặt bó hoa lên, ngập ngừng trao cho Arya:
- Tôi không biét tạo ra một đoá hoa riêng cho nàng như Faolin, nhưng đây là những đoá hoa chân thành, những đoá hoa đẹp nhất mà tôi kiếm được.
- Tôi…không thể nhận, Eragon
- Đây không là…không phải là quà tặng. Trước đây, tôi đã không biết rằng bức fairth của tôi đã đặt nàng vào hoàn cnảh khó khăn đến thế, vì vậy, tôi tha thiết cầu mong nàng tha thứ…Tôi chỉ cố gắng hoàn tất bức fairth, đâu ngờ tạo nên rắc rối. Arya, tôi biét việc học hành của mình là rất quan trọng, nàng đừng sợ tối sẽ chểnh mảng việc học để chỉ mơ màng đến nàng.
Chóng mặt đến lảo đảo, Eragon phải tựa lưng vào tường nói tiếp:
- Chỉ có vậy thôi.
Arya nhìn Eragon một lúc lâu, rồi chậm rãi giơ tay cầm bó hoa, đưa lên mũi. Đôi mắt cô vẫn chăm chăm nhìn chàng thiếu niên kỵ sĩ:
- Hình như chàng không được khoẻ? Chàng bị bệnh?
- Không. Chỉ tại cái lưng thôi.
- Tôi có nghe nói, nhưng không ngờ…
Đứng thẳng lại, Eragon nói:
- Tôi nên đi thì hơn…
- Khoan…
Arya ngập ngừng, rồi đưa Eragon đến ngồi trên chiếc ghế dài, kê bên cửa sổ. Lấy từ trên kệ xuống hai cái cốc, cô bóp vụn lá tầm ma khô vào cốc, rồi vừa rót đầy nước vừa nói: “Sôi đi”.
Nhận cốc trà nóng từ Arya, Eragon cầm bằng cả hai tay để hơi ấm truyền vào cơ thể. Nó nhìn qua cửa sổ: trên mặt đất gần mười mét dưới kia, các thần tiên thong thả dạo trong vườn ngự uyển, chuyện trò ca hát và trong làn ánh sáng mờ tỏ, từng bầy đom đóm lập loè bay lượn.
Eragon nói nhỏ:
- Ước gì…được mãi mãi thế này. Êm đềm, tĩnh mịch làm sao.
- Saphira sao rồi?
- Vẫn vậy. Còn nàng?
- Tôi sửa soạn trở về Varden
Eragon giật mình:
- Khi nào?
- Sau hội Huyết thệ. Tôi nấn ná lại đây quá lâu rồi, nhưng ra đi cũng là điều miễn cưỡng. nữ hoàng thì chỉ mong tôi ở lại. Ngoài ra, tôi chưa bao giờ tham dự hội Huyết thệ, một lễ hội quan trọng nhất của thần tiên.
Chăm chăm nhìn Eragon qua thành cốc, Arya hỏi:
- Oromis tiền bối cũng không giúp gì được cho sức khoẻ của chàng sao?
- Sư phụ đã cố đủ cách rồi.
Cùng nhấp trà và nhìn những đôi dạo dưới vườn, Arya lại hỏi:
- Việc tập luyện của chàng tiến bộ chứ?
Eragon gật đầu. Không biết nói gì thêm, nó cầm mảnh giấy lên chăm chú xem như lần đầu đọc mấy vần phác thảo của nàng:
- Nàng vẫn thường làm thơ?
Arya với tay cầm mảnh giấy, cuốn tròn rồi bỏ vào một cái ống:
- Theo phong tục, ai dự lễ Huyết thệ đều phải mang theo một bài hát, một bài thơ hoặc một tác phẩm nghệ thuật khác do chính mình làm ra. Bài này chưa làm xong…
- Tôi thấy bài thơ hay lắm.
- Nếu chàng đã từng đọc nhiều thơ thì…
- Tôi cũng được đọc nhiều thơ rồi…
Im lặng một lúc, Arya cúi đầu nói nhỏ:
- Tôi xin lỗi…tôi không thể…Vì chàng không phải là người đầy tiên gặp tôi tại Gil’ead.
- Không.Tôi…
Eragon xoay xoay cái cốc tìm lời nói:
- Arya …nàng sắp ra đi, tôi sẽ cảm thấy vô cùng đáng trách nếu đây là lần gặp cuối cùng giữa hai ta. Sao chúng ta không thể thường gặp nhau như trước kia? Sao nàng không thể hướng dẫn tôi Saphira tham quan hoàng cung Ellesméra nữa?
Giọng cô dịu dàng nhưng nghiêm khắc:
- Điều đó cũng chẳng thay đổi được gì đâu
- Đó là cái giá phải trả cho tình bạn của chúng ta chỉ vì một hành động vô tình của tôi sao? Thú nhận, tôi không thể ngăn được tình cảm của tôi đối với nàng, nhưng thà tôi chịu đau đớn vì một vết thương nữa của Tà thần, còn hơn để sự ngu ngốc của tôi huỷ diệt tình bạn cua hai ta. Vì…tôi rất quý trọng tình cảm đó.
Uống cạn cốc trà, Arya mới trả lời:
- Eragon, tình bạn của chúng ta vẫn tồn tại. Chuyện chúng ta lại cùng nhau…thì có lẽ phải chờ tương lai sẽ ra sao. Lúc này tôi rất bận, không thể hứa trước được điều gì.
Những lời cô gần như một lời hoà giải, và Eragon cũng chỉ mong có vậy thôi. Nó cúi đầu:
- Tôi hiểu, thưa công nương Arya.
Sau vài câu chuyện vui vẻ, Eragon trở lại cùng Saphira, trong lòng tràn trề hy vọng. Khi ngồi trước bàn học, mở cuộn giấy cuối cùng của Oromis, nó thầm nhủ: “Bây giờ chỉ còn trông vào số mệnh an bài”.
***
Rút từ cái túi nhỏ đeo nơi thắt lưng, Eragon lấy ra một ống đá đựng chất nalgask – sáp ong hoà cùng dầu hạt dẻ - thoa lên môi để chống nẻ. Cắt ống nalgask vào túi, nó ôm cổ Saphira, vùi đầu vào trong vòng tay để tránh ánh sáng chói chang hắt lên. Những cú vỗ cánh mạnh mẽ của Saphira – cao hơn và nhanh hơn Glaedr – làm ù hai tai Eragon.
Suốt từ rạng đông tới xế chiều, hai con rồng bay về hướng tây nam, thỉnh thoảng glaedr và Saphira lại trổ tài quyết đấu trên không. Những lúc đó, Eragon phải ôm chặt yên cương mới không bị lộn cổ khỏi lưng cô em rồng đangn hăng say biểu diễn những pha nhào lộn, làm ruột gan ông anh nhộn nhạo cả lên.
Cuộc hành trình chấm dứt tại một cụm bốn ngọn núi vươn lên giữa rừng già. Đây là những ngọn núi đầu tiên Eragon nhìn thấy tại Du Weldenvarden. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng, lộng gió, xé toạc màn mây, khoe ra những bờ vách cheo leo lạnh lẽo dưới mặt trời.
Saphira bình phẩm: “So với rặng Beor, đám núi này trông bé tí tẹo”.
Theo thói quen suốt mấy tuần lễ tĩnh toạ trầm tư, Eragon phóng tư tưởng về các ngả, giao tiếp với những sinh vật chung quanh, dò tìm có kẻ nào đó có thể làm hại nó không. Eragon cảm thấy hơi ấm trong tổ một con chồn, nhận thức sự hiện diện của quạ, chim sâu, diều hâu, vô số sóc lăng xăng trên những cành cây, và phía dưới núi, rất nhiều bầy đàn côn trùng thường gặp; và những con rắn đang trườn mình trong bụi săn lùng chuột
Khi Glaedr đáp xuống một bãi trống trên đỉnh núi thứ nhất, Saphira phải chờ cho rồng vàng xếp gọn đôi cánh khổng lồ, mới có đủ chỗ cho nó hạ cánh. Đó là một triền đá phủ đầy địa y vàng rực, phía trên mờ mờ ẩn hiện một vách đứng đen ngòm. Vách đá tạo thành một trụ tường chống đỡ một mái hiên nước đóng băng xanh ngắt. Những mảnh băng rung rời theo làn gió, vỡ vụn trên những tảng đá nằm bên dưới.
Rồng vàng Glaedr lên tiếng: “Ngọn núi này có tên gọi là Fionula. Ba ngọn anh em kia là Ethrundr, Merogoven và Griminsmal. Mỗi ngọn đều có một truyền thuyết, trên đường về ta sẽ kể, còn bây giờ ta sẽ nói về mục đích của chuyến đi hôm nay. Đó là thực chất mối ràng buộc giữa loài rồng với thần tiên, sau đó là với con người. Hai người đều đã biết chút ít về chuyện này, nhưng đã đến thời điểm phải hiểu rõ một cách nghiêm túc và sâu sắc hơn ý nghĩa mối kết hợp giữa hai người, để có thể duy trì khi ta và Oromis không còn có mặt nữa. Eragon, người muốn hỏi gì vậy?”
Eragon cuốn chăn quanh người, hỏi:
- Sao sư phụ không đến đây cùng chúng ta?
“Vì đây là trách nhiệm của ta. Trách nhiệm của những rồng già từ suốt bao nhiêu thế kỷ qua, là phải bảo đảm cho thế hệ kỵ sĩ mới thông hiểu sự quan trọng của địa vị được trao. Và…vì Oromis không được khoẻ như bề ngoài của ông ấy đâu”.
Đá lách tách rạn nứt khi Glaedr cuộn mình giữa triền núi, vươn cái đầu khổng lồ uy nghi khỏi mặt đất, chăm chú nhìn Eragon và Saphira bằng một con mắt to đùng và sáng rực. Gió thổi tản mạn ngọn khói đen toả ra từ hai lỗ mũi rồng vàng: “Một phần những gì ta sắp nói đây là sự hiểu biết thông thường của thần tiên, kỵ sĩ và những con người có học; nhưng rất nhiều điều chỉ những thủ lãnh kỵ sĩ, một số ít thần tiên, vua chúa của loài người mới được biết. Tất nhiên loài rồng hẳn phải được biết rồi. Bây giờ hãy lắng nghe. Khi hoà bình trở lại sau cuộc chiến giữa rồng và thần tiên, kỵ sĩ được thành lập để bảo đảm một cuộc xung đột như vừa qua sẽ không tái diễn giữa hai loài nữa. Nữ hoàng Tarmunora của thần tiên và con rồng được bầu lên đại diện cho loài rồng, tên là…”
Glaedr ngừng lại truyền hàng loạt tư tưởng sang Eragon: răng dài, răng trắng; chiến thắng, chiến bại; hai mươi trứng đực, mười chín trứng nở lớn tới trưởng thành…tất cả đều không thể diễn tả bằng bất kỳ ngôn ngữ nào.
“Vậy là nữ hoàng cùng rồng đại diện với cái tên rất khó gọi đó đi đến quyết định: một hiệp ước bình thường như vậy vẫn chưa đủ để bảo đảm hoà bình. Chữ ký trên giấy chẳng có nghĩa gì đối với một con rồng. Máu loài rồng luôn sôi sùng sục, chỉ cần một thời gian, việc xung đột lại với thần tiên là điều không thể nào trành khỏi, như việc từng xảy ra với người lùn hàng thiên niên kỷ. Nhưng không giống như đối với người lùn, cả thần tiên và loài rồng chúng ta đều không thể để cho một cuộc chiến nữa xảy ra: vì cả hai loài đều quá mạnh. Chiến tranh xảy ra, hai loài sẽ tận diệt lẫn nhau. Chỉ còn một cách là phải cùng đồng tâm hợp lực củng cố mối liên kết giữa hai loài bằng phép thuật”.
Thấy Eragon rùng mình vì lạnh, Gleadr vui vẻ bảo Saphira: “Sao em không nung nóng mấy hòn đá này lên cho anh chàng kỵ sĩ sưởi, khỏi bị rét run lên như thế kia?”
Saphira vươn cổ, một luồng lửa xanh phun ra từ giữa những chiếc nanh nhọn, làm cháy đen đám địa y trên sườn đá, toả ra một mùi chát đắng. Hơi nóng bốc lên làm Eragon phải vội quay mặt đi. Nó cảm thấy côn trùng dưới tảng đá lèo xèo cháy vụn trong ngọn lửa. Một phút sau, Saphira khép miệng, để lại một vành đai đá đỏ rực chung quanh.
“Cám ơn” Eragon nói rồi hơ tay sưởi ấm.
Gleadr căn dặn Saphira: “Lần sau phải nhớ dùng lưỡi điều khiển nguồn lửa. Nào bây giờ tiếp tục…Phải mất chín năm ròng, những thần tiên cao tay nhất mới phát minh ra được những câu thần chú cần thiết, rồi tụ tập hai loài tại Ilirea. Thần tiên cung cấp cấu trúc thần chú, loài rồng cung cấp sức mạnh, cùng nhau kết hợp linh hồn của hai loài”.
Mối liên két đó làm thay đổi chúng ta. Loài rông đạt được cách sử dụng ngôn ngữ và những dáng vẻ văn minh, còn thần tiên chia sẻ sự trường thọ của loài rồng. Trước đó, đời sống thần tiên cũng ngắn ngủi như loài người thôio. Phép thuật của rồng thấm đẫm trong truyền thuyết và được truyền sang thần tiên, cho họ một vẻ duyên dáng và sức mạnh đầy vẻ khoa trương. Loài người chưa bao giờ có được quyền lực mạnh mẽ như thần tiên, vì loài người tới sau khi phép thuật đã được hoàn thiện và loài người không có nhiều thời gian như thần tiên. Tuy nhiên…”Mắt rồng vàng long lanh khi nói tiếp “loài người cũng được chút ảnh hưởng từ những kẻ lần đầu tiên đặt chân lên đất Alagaesia, dù bị thoái hoá từ sau sự cố suy sụp của kỵ sĩ”.
Eragon hỏi:
- Người lùn có bị ảnh hưởng gì không?
“Không. Đó là lý do chưa bao giờ có một kỵ sĩ lùn. Họ không ưa chúng ta, cũng như chúng ta không ưa họ. Người lùn cảm thấy không yên tâm khi kết hợp với loài rồng. Có lẽ đó cũng là điều may mắn, vì nhờ vậy họ đã tránh được sự suy tàn như loài người và thần tiên.”
“Suy tàn? Sư phụ mà bị suy tàn?”
Eragon thấy rõ giọng giỡn cợt của cô rồng. Nhưng Gleadr trả lời rất nghiêm túc: “Phải, suy tàn. Nếu một trong ba loài chúng ta - thần tiên, người và rồng - bị đau khổ, thì cả ba đều bị ảnh hưởng. Sát hại rồng, Galbatorix đã gây tổn thương đồng loại lão, và cả thần tiên. Mới tới Ellesméra nên các ngươi không biết, thật ra thần tiên đang bị suy tàn; quyền lực của họ xưa kia không giống như bây giờ đâu. Còn loài người thì đang rối loạn, nền văn hoá bị mất mát quá nhiều. Cách duy nhất để lập lại trật tự thế giới là phải lấy lại thế quân bình giữa ba loài”.
Rồng vàng bóp nát mấy tảng đá dưới móng, ráng bình tĩnh tiếp: “Với phép thuật, nữ hoàng Tarmunora cho phép một rồng con kết nối với kỵ sĩ của nó. Khi một rồng mẹ quyết định trao trứng cho các kỵ sĩ, sẽ thì thầm mấy câu thần chú với trứng (mấy câu này hai người sẽ được ta dạy sau)”, để tránh việc rồng con nở trước khi chọn đúng người, cũng như để rồng con có thể ở trong trứng vô thời hạn mà không bị làm hại. Chính em là một thí dụ đó, Saphira.
Mối ràng buộc được tạo ra giữa kỵ sĩ và rồng làm con người và thần tiên trở nên mạnh mẽ và thanh lịch hơn; vẻ hung dữ của rồng cũng bớt đi nhiều…Ta thấy Eragon có điều muốn nói. Chuyện gì vậy?”
- Chỉ là…tôi không tưởng tượng nổi Glaedr và Saphira lại còn có thể hung dữ đến thế nào nữa…
Rồng vàng khùng khục cười đến rung cả dất: “Nếu mi gặp một con rồng chưa hề ràng buộc với kỵ sĩ thì sẽ không bao giờ thắc mắc về điều đó. Một con rồng đơn lẻ không hề khuất phục trước bất cứ ai, bất cứ điều gì. Nó chỉ hành động theo ý thích, chỉ tỏ ra dễ chịu với họ hàng thân tộc của nó thôi. Rồng cái lại càng khủng khiếp hơn. Một rồng đực, đã sống chung cùng kỵ sĩ, phải là một cao thủ cực kỳ mới mong kết bạn tình với một rồng cái hoang dã. Mối ràng buộc giữa Galbarorix và Shruikan, con rồng thứ hai của lão, là một sự kết hợp bỉ ổi. Vì Shruikan không chọn lão, mà chính lão đã sử dụng tà thuật bắt nó phục vụ những mưu đồ điên loạn của lão”.
Nhìn Eragon và Saphira với đôi mắt đầy xúc động Glaedr tiếp: “Mối liên hệ giữa hai người vượt khỏi sự ràng buộc đơn giản của tâm tưởng. Đó là sự liên kết giữa hai linh hồn. Eragon, người có tin linh hồn của một con người có thể tách rời khỏi thân xác không?”
- Tôi không biết. Nhưng đã một lần, Saphira đưa tôi ra khỏi thể xác, để tôi nhìn thế giới qua con mắt nó…Khi đó…dường như tôi không còn mối quan hệ nào với thể xác mình nữa.
Vươn đầu móng sắc nhọn, Glaedr lật một tảng đá, để lộ ra một con chuột đang ẩn mình trong tổ. Chiếc lưỡi đỏ lòm của rồng vàng, lẹ như tia chớp, chụp con mồi. Eragon nhăn mặt khi cảm thấy mạng sống của con vật bị kết thúc.
Glaedr nói: “Khi thể xác bị huỷ diệt, linh hồn cũng bị huỷ diệt theo”
- Nhưng một con vật không phỉa là một con người
Sau những lần tĩnh toạ trầm tư, ngươi có thật sự tin chúng ta khác xa với một con chuột không? Có tin là chúng ta được ban cho một khả năng siêu việt mà các loài khác không có được và khả năng đó, bằng cách nào đó sẽ bảo quản cho chúng ta được toàn vẹn sau khi chết không?
- Không.
"Ta cũng đã nghĩ là không. Vì chúng ta gắn kết quá chặt chẽ với nhau, nên khi một con rồng hay một kỵ sĩ bị thương, họ phải lấy hết can đảm tách rời mối gắn kết đó để bảo vệ cho nhau, tránh khỏi những đau đớn không cần thiết. Thậm chí có thể gây thành điên loạn, làm họ không chống lại được sức cám dỗ cố đem linh hồn bạn vào cơ thể mình. Kết quả là cả hai đều chết. Cho dù điều đó có thể thực hiện, thì mộ thể xác chứa đựng nhiều linh hồn là một sự ghê tởm không thể chấp nhận được."
- Chết một mình, xa rời người thân thương nhất, thật là khủng khiếp.
"Ai cũng phải chết một mình thôi, Eragon ạ. Cho dù ngươi là một vị vua bỏ mạng ngoài chiến địa, hay một nông dân nghèo hèn chết trên giường giữa gia đình, chẳng kẻ nào theo người về cõi u minh đâu…Nào, bâ giờ ta sẽ hướng dẫn hai ngươi cách tách rời tâm tưởng. Bắt đầu là…"
Trong căn tiền sảnh của ngôi nhà mọc trên cây, Eragon lom lom nhìn khay đồ ăn tối: bánh mì với bơ hạt dẻ, dâu, đậu, một bát rau xanh, hai quả trứng luộc (theo tin tưởng của thần tiên đó là trứng không nở được), và một bìh nước suối tinh khiết. Dù biết mỗi món trong bữa ăn của nó, đều đã được chăm chú với tất cả tài năng của bếp núc tinh xảo nhất của thần tiên, và nó cũng biết ngay cả nữ hoàng Islanzadí cũng ăn giống hệt thế này thôi, nhưng chỉ nhìn thấy những món này, Eragon đã không chịu nổi.
Bước rầm rầm về phòng ngủ, Eragon càu nhàu:
- Mình muốn ăn thịt. Cá, chim, thịt gì cũng được, trừ mấy món rau củ triền miên này. Mình đâu phải là một con ngựa? Làm sao có thể béo tốt khoẻ mạnh như một con ngựa khi ăn mấy món này?
Saphira duỗi chân, bước lại gần mấy lỗ hổng ngó xuống Ellesméra: “Mấy hôm nay em cũng chưa được ăn gì, anh đi cùng em không? Tha hồ nấu nướng, thần tiên không biết được đâu”
Eragon hớn hở: “Đi chứ. Có phải lấy yên cương không?”
“Gần thôi mà”
Eragon vội vàng lấy muối, dược thảo, gia vị rồi leo lên Saphira .
Khi lên cao khỏi thành phố, Saphira lượn theo dòng suối chảy xuyên qua Du Weldenvarden, tới một hồ nướ cách đó chừng vài dặm. Nó hạ cánh, rạp sát mình cho Eragon dễ dàng leo xuống rồi căn dặn: “Trong những bụi cỏ gần bờ nước, nhiều thỏ lắm. Thử xem anh bắt được con nào không. Trong khi đó, em đi săn nai”
“Cái gì? Em không muốn chia mồi cho anh sao?”
“Không đâu. Nhưng nếu tới mấy con chuột quá khổ đó mà anh cũng không vồ nổi, em sẽ chia cho anh tí ti mồi”.
Eragon cười cười khi cô rồng cái bay vút đi, rồi nhìn quanh những bụi cỏ quanh hồ, sửa soạn săn tìm bữa ăn tối.
Chưa đầu một phút sau, Eragon đã có một xâu thỏ chết. Chỉ một thoáng với tâm tưởng, nó đã phát hiện mấy con thỏ trong hang và sử dụng một trong mười hai câu thần chú sát thủ để giết chết hết cả bầy. Với phép thuật được sư phụ truyền dạy, Eragon mất hết hứng thú của sự thách thức, rượt đuổi. Nhớ lại những năm tháng mài dũa khả năng lần theo dấu vết con mồi, Eragon thầm nhủ: “Thậm chí lần này mình không cần phải lén lút rình mò. Thật vô nghĩa nếu cần bao nhiêu, mình cũng có thể nhét đầy vào giỏ. Khi đi săn cùng ông Brom chỉ với một hòn sỏi, ít ra còn có một sự thách thức thú vị hơn. Như thế này…khác gì là một cuộc tàn sát đâu”.
Câu nói của người đàn bà trui luyện kiếm vang lên trong nó: “Khi có được bất cứ điều gì, chỉ với vài câu thần chú, mục đích chẳng còn ý nghĩa gì nữa”
Eragon chợt tỉnh: “Đáng lẽ mình phải lưu tâm hơn đến lời nói của bà ta”.
Với những động tác thành thạo, Eragon rút dao săn, lột da, mổ bụng thỏ - để tim, gan, phổi, thận sang một bên - rồi chôn kỹ bộ lòng để không bốc mùi hấp dẫn loài thú chuyên ăn thịt thối. Sau đó, đào một hố nhỏ, chất đầy cành khô, Eragon nhóm lửa bằng phép thuật. Trong khi chờ củi cháy thành than, nó chặt một nhánh dương đào, róc hết cành lá, thui trên than hồng cho cháy hết phần nhựa đắng, rồi xỏ xâu xác thỏ, gác qua miệng hố trên hai nhánh cây cắm trên mặt đất. Eragon đặt một phiến đá bằng phẳng lên một góc hố than làm chảo, lấy mỡ thỏ rán phần nội tạng.
Saphira trở về bắt gặp Eragon đang ngồi bên bếp lửa, từ từ xoay trở xâu thịt. Nó đáp xuống đất với một con nai mềm oặt ngậm trong hàm, con thứ hai quắp dưới móng. Cô ả nằm dài trên bãi cỏ thơm nhai rau ráu cả da lẫn thịt con mồi. Tiếng xương gãy vụn giữa những cái răng sắc như dao, như tiếng cành cây bị giông gió bẻ gãy.
Thịt thỏ chín, Eragon vung vẩy cho nguội bớt. Nó vừa ngắm nghía những miếng thịt óng vàng vừa hít hà mùi thơm đầy hấp dẫn.
Nhưng ngay khi mở miệng cắn miếng đầu tiên, tư tưởng nó bất ngờ hiện ra những lần tĩnh toạ. Nó nhớ lại những khi len lỏi vào tâm trí của những con chim, sóc, chuột. Chúng đã chứng tỏ mình sôi nổi đến thế nào, hăn hái đến thế nào trong chiến đấu để tồn tại trước hiểm nguy. “Chẳng lẽ tất cả những gì chúng có được trong đời sống này chỉ là vậy thôi sao.”
Eragon ném xâu thịt ra xa, kinh hoàng như việc nó giết mấy con thỏ cũng ghê sợ như việc giết người vậy.
Saphira ngừng ăn, trợn mắt nhìn.
Eragon hít sâu một hơi, ấn mạnh nắm tay lên gối, cố bình tĩnh lại để tìm hiểu vì sao nó lại có thể xúc động đến thế. Suốt đời nó vẫn thường ăn thịt, cá, gia cầm. ăn rất ngon lành. Vậy mà bây giờ chỉ nghĩ đến việc ăn mấy miếng thịt thỏ kia đã làm nó phát bệnh. Nhìn Saphira, Eragon nói: “Anh không thể nào ăn nổi”
“Sao anh ngược đời vậy? Quy luật trên đời này, vật này ăn vật khác là đương nhiên”.
Nó suy nghĩ câu hỏi của Saphira. Nó không chê trách, kết tội người ăn thịt, vì biết đó là phương tiện sống còn của nhiều nôgn dân nghèo khổ. Nhưng phần nó, không thể nào nuốt trôi một miếng thịt đựơc nữa, có lẽ trừ khi đói lả. Đã từng xâm nhập vào tâm trí thỏ, đã từng cảm thấy những gì thỏ cảm thấy…ăn một con thỏ chẳng khác nào ăn thịt chính mình.
Eragon trả lời Saphira: “Vì chúng ta có thể tự làm cho mình tốt đẹp hơn. Chẳng lẽ chúng ta đầu hàng sự thèm muốn thôi thúc, để gây thương tích hay chết chóc cho những kẻ làm ta tức giận, chiếm đoạt tất cả những gì mình muốn của những kẻ yếu hơn, bất chấp vui buồn, đau khổ của kẻ khác. Chúng ta không được sinh ra như những sinh vật hoàn thiện, thì phải coi chứng những sai lầm có thể dẫn đến sự huỷ hoại chính mình”.
Chỉ xác mấy con thỏ, Eragon tiếp: “Như sư phụ đã nói, sao chúng ta lại có thể gây ra những đau khổ không cần thiết như vậy được?”
“Anh định từ bỏ hết mọi thú vui trên đời sao?”
“Anh từ bỏ những gì mang tính huỷ hoại”.
“Nhất quyết?”.
“Đúng. Nhất quyết như vậy”
Saphira tiến lại gần mấy con thỏ thơm nức mũi: “nếu vậy, đây sẽ là món tráng miệng tuyệt vời cho em”.
Chỉ trong chớp mắt, cô ả tóm gọn mấy con thỏ, liếm láp sạch bách tim gan rán trên phiến đá: “Em không thể sống thiếu thịt được. Cây cỏ là thực phẩm của lũ trâu bò lừa ngựa, không phải của rồng. Chẳng có gì phải xấu hổ khi bồi dưỡng cho chính mình. Mọi vật trên đời đều có chỗ của nó chứ. Kể cả một con thỏ cũng phải hiểu điều đó”.
‘Anh đâu định làm em cảm thấy mình có lỗi. Đây là một quyết định cá nhân. Anh không hề gây áp lực với bất kỳ ai”.
“Vậy là không đấy”. Saphira nói mỉa.


Trứng tan tành - tổ tơi tả


- Eragon, tập trung vào mà học chứ.
Nghe sư phụ sẵng giọng, Eragon chớp mắt cố tập trung vào những hàng chữ cổ:
- Con xin lỗi.
Nhưng một nỗi lo lắng như trói chặt chân tay nó. Nhìn những con chữ ngoằn nghèo, Eragon cố nâng bút lông bắt đầu viết.
Qua khung cửa sổ sau lưng Oromis, mặt trời đang lặn, vạch những bóng đen lên màu xanh trên đỉnh vực Tel’naéir. Xa xa, những dải mây nhẹ nhàng trôi trên bầu trời.
Một cơn nhói đau từ chân dội lên, làm tay Eragon giật mạnh, mực từ đầu bút lông văng khắp mặt giấy. Bên kia bàn, sư phụ nó cũng giật mình, nắm vội cánh tay phải.
- Saphira!
Eragon bật kêu lên. Nó bỗng hốt hoảng vì không thể liên lạc đựơc với Saphira. Cô em rồng đã tạo rào cản chung quanh. Eragon cảm thấy như đang cố nắm bắt một quả cầu bằng đá phủ đầy dầu mỡ. Nó nhìn sư phụ:
- Có chuyện gì xảy ra rồi, phải không ạ?
- Ta không rõ. Glaedr đang trở về, nhưng nó không chịu nói gì với ta cả.
Với tay lấy thanh kiếm Naegling trên tường, ông bước vội ra ngoài, đứng bên bờ vực, ngẩng cao đầu ngóng đợi rồng vàng.
Đứng bên ông, Eragon lo lắng nghĩ về tất cả những gì có thể xảy ra cho Saphira.
Trưa nay, hai con rồng đã cùng bay về hướng bắc, tới một nơi có tên là Trụ đá trứng vỡ. Ngày xưa, nơi đây từng là hang ổ của những con rồng hoang dại.Eragon thầm nhủ: “Đường tới đó có gì nguy hiểm đâu? Chắc chắn không có Urgal, thần tiên cũng chẳng đến đó làm gì”.
Sau cùng, Glaedr xuất hiện trên bầu trời mây xám. Khi rồng vàng hạ cánh, Eragon thấy trên lưng chân trước – bên phải - của Glaedr có một vết thương lớn bằng bàn tay, máu đỏ thấm ướt lớp vảy chung quanh.
Oromis bước lại gần, nhưng nghe tiếng rồng vàng gầm gừ, ông ngừng lại, kiên nhẫn đứng chờ. Glaedr tập tễnh bước lại bìa rừng, cuộn mình dưới tán cây. Quay lưng lại Eragon, rồng vàng bắt đầu liếm vết thương.
Oromis lại gần hơn, nhưng vẫn giữ một khoảng cách, quỳ gối chờ đợi. Eragon bồn chồn với từng giây phút trôi qua. Cuối cùng Glaedr cũng để cho Oromis tiến lại, quan sát vết thương trên chân. Dấy hiệu gedwey ignasia trên bàn tay sáng lên màu bạc khi ông đặt vào vết rách trên da Glaedr.
Thấy sư phụ vừa rụt tay về, Eragon hỏi ngay:
- Nặng không, thưa thầy?
- Trông đáng sợ vậy thôi, nhưng với thân hình to lớn của Glaedr thì chỉ như một vết trầy.
- Còn Saphira? Con vẫn không thể liên lạc được với nó.
- Con phải tới chỗ nó ngay. Nó bị thương. Glaedr không nói nhliều về chuyện gì đã xảy ra, nhưng thầy đoán là nghiêm trọng đó. Con mau đi thooi.
Eragon nhìn quanh, rên lên khổ sở vì không biết sẽ đi bằng phương tiện gì đây.
- Đường xa, không có lối mòn, làm sao con tới đó được?
- Bình tĩnh, Eragon. Con vật nào đã đưa con từ Sílthrim tới đây?
Phải mất một lúc Eragon mới nhớ ra:
- Folkvír.
- Vậy hãy dùng phép thuật mà gọi nó. Kêu đúng tên nó và cho nó biết con cần gì.
Vận dụng phép thuật vào giọng nói, Eragon gào lên, gửi lời năn nỉ của nó vang vọng qua núi rừng, tới tận Ellesméra
Oromis gật gù, khen ngợi:
- Khá lắm.
Mười hai phút sau, Folkvír xuất hiện từ bóng tối giữa rừng cây như một bóng ma màu bạc. Eragon vắt một chân lên lưng con “tuấn mã” nhỏ bé của thần tiên, nói vội với sư phụ:
- Con sẽ cố về ngay.
- Cứ lo việc của con đi
Thúc chân vào hai bên sườn Folkvír, Eragon la lớn:
- Chạy, chạy mau Folkvír.
Folkvír phóng vọt lên, khéo léo vù vù vượt qua những cành thông rậm rạp. Với những hình ảnh trong trí, Eragon hướng dẫn nó tới chỗ Saphira.
Xuyên rừng già, không đường mòn như thế này, một con ngựa chiến cỡ Hoả Tuyết phải mất hai ba giờ mới tới được Trụ đá trứng vỡ, nhưng Folkvír chỉ phóng mất hơn một giờ.
Tới chân khối đá dựng đứng, vượt cao khỏi cây rừng cả trăm mét, như một cột trụ bằng đá vân xanh, Eragon lên tiếng: “Ngưng lại.
Bước xuống đất, Eragon nhìn lên đỉnh khối đá cao vòi vọi. Saphira đang ở trên đó.
Nó bước quanh, tìm đường nhưng vô vọng. Không một kẽ hở, không mọt cái hốc gần mặt đất để có thể bám vào, leo lên.
Eragon dặn dò Folkvír: “Ở lại đây. Nếu thích thì gặm cỏ, nhưng đừng đi đâu. Được chứ?”.
Con vật nhìn lại Eragon với đôi mắt thông minh, hiểu biết: “Được. Khá lắm, chàng trai
Chăm chsu nhìn lên đỉnh khối đá, Eragon vận nội công, nói bằng cổ ngữ.
- Lên!
Sau đó Eragon mới nhận ra, nếu không quen bay cùng Saphira, nó đã không thể kiểm soát nổi thần chú và đã lộn cổ xuống chết rồi. Mặt đất vù vù trôi ngược dưới chân, cây cối đan ken vào nhau khi bay vút lên bầu trời chiều trên đầu. Cành cây như những ngón tay vươn ra vồ chụp mặt và hai vai nó. Không như những lần nhào lộn cùng Saphira, Eragon phải giữ ý thức về trọng lượng, như vẫn đang đứng trên mặt đất dưới kia.
Lên khỏi đỉnh Trụ đá trứng vỡ, Eragon từ từ hạ xuống một mắt phẳng phủ rêu. Lún mình dưới lớp rêu, nó mệt nhoài chờ đợi phản ứng của vết thương trên lưng vì sự ráng sức vừa qua, rồi thở dài nhẹ lòng khi không cảm thấy đau đớn gì.
Trên đỉnh cao này, những tháp canh mấp mô tách khỏi nhau bởi những đường nứt toang hoác, lưa thưa hoa dại mọc. Trên vách loáng thoáng hang hốc tối tăm, có cái tự nhiên có cái do những móng vuốt to dùng đào bới. Nền hang phủ đầy những lớp xương chồng chất, tàn tích của những con rồng bị giết từ thuở xa xưa. Chim chóc làm tổ nơi đã có lần là chỗ cư trú của loài rồng. Những con chim ưng, diều hâu, dại bàng hau háu nhìn Eragon, sẵn sáng tấn công để bảo vệ ổ trứng.
Eragon thận trọng lách mình qua vùng cấm địa bầy chim hung dữ, khép hai cánh tay, để không làm rớt một viên đá nhỏ; cũng không dám đi quá gần mé vực. Nếu chỉ sơ sẩy, nó sẽ rơi tõm xuống khoảng không thăm thẳm. Nhiều lần phải bò qua triền dốc cao, nhiều lần phải bay bổng lên bằng phép thuật, Eragon thấy bằng chứng cư dân loài rồng rải rác khắp nơi: từ những vết cào sâu hoắm tới những đống đá bị nung đến rã rời; những chiếc vảy xỉn màu cong queo lẫn trong đống xương vụn. Thậm chí Eragon còn đạp lên một vật sắc bén, khi nhặt lên quan sát, mới phát hiện ra đó là một mảnh vỏ trứng rồng màu xanh.
Pháo đài cao nhất nằm chính giữa, quay về hướng đông là hang động to rộng nhất. Và chính tại dây, Eragon đứng nhìn Saphira nằm co quắp trong một hốc vách, mặt hướng ra cửa hang. Các vách hang đầy những vết cháy sém còn mới, từng đống xương vụn tung toé khắp nơi, như mới có một cuộc chiến tại đây.
- Saphira.
Eragon lớn tiếng gọi vì con rồng cái vẫn khép kín tâm tưởng. Nó ngẩng đầu nhìn Eragon như nhìn một người xa lạ. Hai con ngươi cô ả mảnh như hai kẽ hở màu đen vì chói ánh mặt trời đang lặn sau lăng Eragon. Gầm gừ như một con chó hoang, ả nâng cánh, trở mình qua hướng khác, để lộ một vết cắt dài và sâu trên đùi. Tim Eragon thót lại.
Biết Saphira không để nó lại gần, Eragon bắt chước cách sư phụ cư xử với rồng vàng. Nó quỳ gối giữa đống xương vụn, chờ đợi.
Eragon qùy như vậy cho đến khi chân tê dại và hai tay cóng lại vì giá lạnh. Không thốt một lời hay có một cử chỉ nôn nóng, bực bội, vì nó vui lòng làm tất cả nếu có thể cứu được Saphira.
Mãi sau, Saphira mới truyền ý tưởng cho Eragon: “Em là một con ngốc.
“Đôi khi tất cả chúng ta đều tỏ ra ngốc nghếch”.
“Nhưng khi biết mình ngốc, thật chẳng dễ chịu chút nào”.
“Anh cũng đoán vậy”.
“Em luôn biết mình phải làm gì. Khi cậu Garrow mất, em biết việc truy lùng Ra’zac là đúng. Khi ông Brom chết, em biết chúng ta nên tới Gil’ead, để từ đó đến với Varden. Và khi thủ lãnh Ajihad tử trận, em biết anh cần phải tuyên thệ cùng Nasuada. Em nhìn mọi chuyện một cách sáng suốt, nhưng lần này…chỉ riêng lần này, em đã lạc đường”.
“Chuyện gì vậy, Saphira ?”
Thay vì trả lời, Saphira đổi đề tài, hỏi: “Anh có biết vì sao nơi này được gọi là Trụ đá trứng vỡ không?”
“Không”.
“Vì trong chiến tranh giữa rồng và thần tiên, thần tiên đã lần theo dấu vết rồng tới đây, mở cuộc tàn sát trong khi rồng say ngủ. Họ phá huỷ hang ổ và trứng rồng tan nát thành từng mảnh bằng phép thuật. Ngày hôm đó, máu đổ như mưa xuống những khu rừng dưới kia. từ đó không còn một con rồng nào sống tại nơi này nữa”.
Eragon im lặng. Lúc này, đó không phải là điều nó quan tâm. Nó chờ đợi Saphira cho biết tình trạng của cô ả hiện giờ. Nhưng Saphira lại chỉ bảo: “Anh nói gì đi chứ”.
“Để anh chữa vết thương cho em nhé”.
“Không cần đâu”.
“Vậy thì anh sẽ im lìm như tượng cho đến khi rã thành cát bụi, vì từ em, anh cũng có sự kiên nhẫn của loài rồng”.
Giọng Saphira cay đắng, tự mỉa mai mình: “Em thật xấu hổ khi phải thú thật điều này: lần đầu tiên thấy Glaedr, em đã vui mừng biết bao, vì ngoài Shruikan, dòng giốgn em vẫn còn một con rồng nữa. Trước kia em chưa từng thấy một con rồng nào khác, chỉ toàn từ những chuyện kể của ông Brom. Rồi em tưởng…em tưởng Glaedr cũng vui mừng vì sự tồn tại của em, như em mừng vì thấy anh ta”.
“Nhưng…Glaedr cũng vui mừng mà”.
“Anh không hiểu đâu. Em ngỡ anh ta sẽ kết bạn cùng em, để cùng nhau gầy dựng lại giống nòi…”
Một ngọn lửa sáng rực ào ra từ mũi Saphira khi nó hậm hực tiếp: “Em lầm. Anh ta không ưa em”.
Eragon lựa lời an ủi: “Có thể vì Glaedr biết duyên số em đã gắn bó với một kẻ khác; có thể là một trong hai trứng còn lại. Vả lại, Glaedr cũng không thể kết đôi bạn với em một khih đã là sư phụ của em”.
“Hoặc chỉ vì anh ta thấy em không đẹp”.
“Saphira, không con rồng nào xấu xí cả. Em là một cô rồng xinh đẹp nhất”.
“Em là một cô rồng ngu ngốc nhất thì cố”.
Tuy nói vậy, nhưng cô ả nâng cánh, cho phép Eragon chăm sóc vết thương.
Eragon lê đôi chân tê dại đến bên Saphira. Nhìn vết thương đỏ au, nó mừng vì đã được đọc nhiều tài liệu về giải phẫu học của sư phụ.
Cú đánh – không biết bằng răng hay móng vuốt – xé toạc cơ đùi dưới lớp da, nhưng chưa đến nỗi để lộ xương ra ngoài. Khép bề mặt vết thương như Eragon đã nhiều lần làm trước đây không đủ, mà phải khâu thịt liền lại với nhau.
Những câu thần chú Eragon sử dụng dài dòng và phức tạp, thậm chí nó không thông hiểu hết, vì nó chỉ nhớ lại phần hướng dẫn bằng cổ ngữ: “Bùa chú này chỉ làm lành những vết thương nhẹ, xương không bị gãy, nội tạng còn nguyên”. Mấy câu thần chú vừa thốt lên, Eragon sững sờ khi bắp thịt Saphira chuyển động dưới bàn tay nó: mạch máu, dây thần kinh, thớ thịt kết nối vào nahu, rồi nguyên lành như cũ. Nhưng vì vết thương hơi lớn, và trong tình trạng sác khoẻ lúc này, Eragon không dám dốc toàn nội lực, nó dựa thêm vào sức của Saphira.
Khi Eragon hoàn tất, cô em rồng lên tiếng: “Ngứa quá”.
Dựa lưng vào vách đá lởm chởm, Eragon thở dài nhìn cảnh hoàng hôn bên ngoài: “Anh mệt tới không còn cử động nổi. Chắc em phải cõng anh xuống khỏi trụ đá này”.
Saphira cựa mình, đặt đầu lên đống xương, nhỏ nhẹ: “Từ khi tới Ellesméra, em đã cư xử không phải với anh. Đáng lẽ lắng nghe, em đã làm ngơ những gì anh khuyên nhủ. Chính anh đã cảnh giác em về chuyện Glaedr, nhưng em kiêu ngại tới nỗi không nhận ra sự thật trong những lời nói của anh. Em đã làm anh thất vọng, không xứng dáng là một con rồng, và đã làm ô danh kỵ sĩ của anh”.
“Không đâu, Saphira. Em chưa bao giờ làm anh thất vọng trong bổn phận. Có thể em đã phạm sai lầm, nhưng là một sai lầm chân thật, một sai lầm mà ai cũng có thể phạm phải, nếu đứng vào địa vị của em”.
“Điều đó cũng chẳng thể bào chữa cho thái độ của em đã đối với anh”.
Eragon cố nhìn vào mắt nó, nhưng Saphira nhìn đi chỗ khác cho đến khi Eragon vuốt cổ cô em rồng, ân cần nói: “Saphira này, thành viên trong một gia đình luôn phải tha thứ cho nhau, kể cả khi không hiểu nguyên nhân hành động của nhau…Cũng như anh Roran, em là gia đình anh. Không điều gì em làm có thể đổi thay được điều đó”.
Saphira vẫn nín thinh. Eragon ngoáy tai cô ả: “Ê, nghe anh nói gì không?”
Ả húng hắng ho, gượng vui: “Mặt mũi nào em gặp lại Glaedr đây? Anh ta giận như điên…Trụ đá khổng lồ này còn phát run lên đừng nói gì em”.
“Dù sao, em chỉ cần xin lỗi Glaedr là êm chuyện.”
“Xin lỗi?”
“Ờ, thì đến gặp và bảo là em rất tiếc, là em mong được tiếp tục khoá huấn luyện, và là…chuyện kia sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Làm xong điều đó em sẽ thấy thoải mái hơn nhiều. Anh có kinh nghiệm rồi mà”.
Eragon cười cười nhắc khéo vụ Saphira khuyên nó xin lỗi Arya.
Cô ả ậm ừ, tiến ra cửa hang, nhìn xuống rừng già bên dưới: “về thôi, sắp tối rồi”.
Nghiến răng, Eragon phải ráng hai lần mới leo lên được cổ rồng.
“Eragon, cám ơn anh đã tới. Em biết, với cái lưng đau đó, anh đã phải liều mình lắm mới lên được tới đây”.
Eragon vỗ vỗ lên vai Saphira: “Chúng ta lại là một chứ?”
“Chúng ta là một”.


Quà tặng của rồng


Những ngày gần tới hội Huyết thệ là thời gian vừa tuyệt vời vừa khốn khổ nhất của Eragon. Vết thương sau lưng hành hạ nó hơn bao giờ hết, rút cạn sinh lực và sức chịu đựng , làm đầu óc nó mất cả tỉnh táo. Nhưng, bù lại, nó và Saphira chưa bao giờ gắn bó với nhau đến thế. Tâm tưởng chúng gắn kết, hoà hợp cùng nhau. Thỉnh thoảng Arya ghé thăm và cả ba cùng nhau đi dạo trong hoàng cung. Tuy nhiên cô không đến một mình, luôn có ông lùn Orik hoặc mèo ma Maud đi cùng.
Trong những buổi dạo chơi đó, Arya đã giới thiệu chàng kỵ sĩ và cô em rồng với những thần tiên xuất chúng: những chiến binh lừng lẫy nhất, những thi sĩ và hoạ sĩ danh tiếng…Cô cũng đưa chúng tới dự những buổi hoà nhạc trong rừng thông, thăm những kỳ quan tuyệt vời được giữ kín của Ellesméra.
Eragon tìm mọi dịp để chuyện trò cùng Arya. Nó kể cho cô nghe về những ngày lớn lên trong thung lũng Palancar, về anh Roran, cậu Garrow và mợ Marian, những chuyện về lão Sloan và bà vợ Ethlbert, về dân làng, và về tình yêu của nó đối với những rặng núi bao quanh Carvahall, những ánh lửa bập bùng trong những đêm đông. Nó kể về chuyện, có lần một ả cáo loạng quạng té vào thùng thuốc thuộc da của Gedric; người ta phải với nó lên bằng vợt. Kể về niềm vui trong canh tác, chăm lo tưới bón, và ngắm nhìn những mầm xanh nhú trên mặt đất…
Thỉnh thoảng Eragon cũng cóp nhặt một vài tâm tư thầm kín của Arya: tuổi thơ của cô, bạn bè, và những gì đã trải qua khi sống cùng quân cách mạng Varden. Điều này cô kể một cách thoải mái nhất, tả lại từng vụ đột kích, từng cuộc chiến đã tham gia, những tiếp tay xử lý trong những buổi hoà giải, những cuộc tranh luận cùng người lùn. Những sự kiện quan trọng trong thời gian cô lãnh trách nhiệm của một sứ thần.
Ở gần cô và Saphira, Eragon cảm thấy tâm hồn hoàn toàn thư thái, nếu không có một gợn nhỏ làm nó bận tâm đó là thời gian. Vì Arya đã quyết định rời Du Weldenvarden sau Lễ hội Huyết thệ, cho nên Eragon vừa sung sướng vì những thời khắc bên nhau, vừa lo sợ ngày lễ đã gần kề.
Cả kinh thành rộn ràng với những hoạt động thần tiên sửa soạn cho ngày lễ. Eragon chưa bao giờ thấy họ sôi nổi như vậy. Rừng cây được trang trí bằng cờ phướn và đèn lồng lộng lẫy màu sắc, nhất là chung quanh cây Menoa: Chỉ riêng Menoa, đèn lồng chi chít từ ngọn tới cành long lanh như những hạt mưa. Muôn hoa khoe hương sắc - với hàng loạt loài hoa mới rực rỡ tốt tươi. Trong những đêm khuya lơ khuya lắc, Eragon còn nghe tiếng thần tiên ca hát cho cây nghe.
Từ những thành phố rải rác trong rừng, mỗi ngày hàng trăm thần tiên kéo về Ellesméra, vì không vị nào muốn lỡ dịp dự lễ hội tuân thủ hiệp ước với rồng, trăm năm mới tổ chức một lần. Eragon đoán đa số họ đến để được gặp Saphira. Nó tự nhủ: “Dường như mình chẳng là cái thá gì, ngoài việc cúi đầu đáp lễ họ”.
Những thần tiên vắng mặt vì nhiệm vụ, sẽ tham dự từ xa bằng những tấm gương đã được yểm phép.
Một tuần trước ngày lễ, Eragon và Saphira sửa soạn về, sư phục Oromis lên tiếng:
- Hai con phải tính toán sẽ đem gì tới dự lễ. Thầy đề nghị, tránh sử dụng phép thuật. Không ai tôn trọng một sản phẩm tạo bằng phép thuật, không tự tay các con làm ra. Thầy cũng đề nghị mỗi đứa phải làm một quà riêng. Đó là phong tục.
Trên chuyến bay về, Eragon hỏi Saphira: “Em có ý kiến gì không?”
“Có thể. Nhưng em muốn thử xem, nếu thành công sẽ cho anh biết”
Tước khi cô ả phong toả hình ảnh trong trí, Eragon thoáng bắt gặp hình ảnh một phiến đá trong lòng đất. Nó cười hỏi: “Không tiết lộ được chút xíu sao?”
“Lửa. Rất nhiều lửa”.
Về tới gian nhà trên cây, Eragon lục lọi trong trí tất cả tài năng của nó có được, rồi ngẫm nghĩ: “Ngoài chuyện làm ruộng, mình có biết gì khác nữa đâu? Làm sao ganh đua với thần tiên bằng những đồ thủ công vớ vẩn của mình được. Tài năng của họ vượt trội, hơn hẳn cả những nghệ nhân tài năng nhất đế quốc Alagaesia”
“Nhưng anh có một gía trị không thần tiên nào có được”.
“Ồ, lại thế nữa”
“Chứ sao. Tiểu sử, việc làm, hoàn cảnh của anh. Hãy sử dụng tất cả những điều đó mà tạo nên một tác phẩm, một tác phẩm độc đáo, lấy căn bản từ điều nào mà anh cho là quan trọng nhất, mang ý nghĩa sâu sắc nhất đối với anh”.
Eragon trợn mắt, ngạc nhiên: “Anh không ngờ em rành nghệ thuật dữ vậy”.
“Rành gì. Anh quên là buổi chiều anh bay vói Glaedr, em ngồi xem sư phụ vẽ và nghe giảng rất nhiều về nghệ thuật sao”
“A, hiểu rồi. Vậy mà anh quên”.
Sau khi Saphira tách ra để tìm đề tài, Eragon đi quanh phòng ngủ, suy nghĩ về những gì cô ả mới nói. “Điều gì là quan trọng đối với mình? Saphira? Arya? Và tất nhêin là trở thành một Kỵ sĩ có tài. Nhưng làm sao mình có thể nói về những vấn đề mơ hồ như vậy được? Mình yêu cảnh đẹp của thiên nhiên, nhưng đề tài này thần tiên đã khai thác, đủ mọi góc cạnh rồi”.
Eragon tự soi rọi vào tâm khảm, điều gì làm nó thương yêu, giận ghét sôi nổi nhất.
Ba điều hiện ra rõ ràng: vết thương gây ra bởi bàn tay Tà thần, nỗi lo sợ một ngày sẽ đụng độ với bạo chúa Galbatorix, và những bài ca của thần tiên làm nó u mê.
Niềm hân hoan chợt loé lên trong trí Eragon, khi những sự kiện kết nối thành một câu chuyện. Chân nhẹ hẫng, nó chạy hai bậc một lên thang, nào vào thư phòng. Ngồi trước bàn, Eragon lấy giấy bút, run rẩy viết:

Trong vương quốc bên bờ biển
Trong dãy núi phủ màu xanh…

Những dòng chữ tuôn tràn từ ngọn bút, làm Eragon cảm thấy dường như không phải nó đang sáng tác một câu chuyện, mà chỉ hành động như một máng dẫn, chuyển một câu chuyện đã hoàn tất vào đời. Eragon rùng mình xúc động trong cuộc phiêu lưu mới này, vì chưa bao giờ nó ngờ rằng có ngày nó có thể làm một nhà thơ.
Say mê viết, không ngưng nghỉ để ăn uống, Eragon xăn cả hai tay áo, tránh bị đầu bút lông thoăn thoát trên mặt giấy làm văng mực. Chăm chú tới nỗi, nó không còn nghe gì ngoài nhịp đập của những vần thơ; Không thấy gì ngoài mặt giấy, không nghĩ gì ngoài câu cú kết thành hàng rực lửa trong đầu.
Một tiếng rưỡi sau, Eragon buông cây bút khỏi bàn tay rã rời đẩy ghế đứng dậy. Trước mắt nó là mười bốn trang giấy trên bàn. Chưa bao giờ, trong một lần, nó viết nhiều đến thế. Biết rằng bài thơ này không thể nào so sánh với những bài của người lun hay thầ tiên, nhưng Eragon hy vọng bài thơ đủ chân thật để họ không chê cười sự cố gắng của nó.
Sau khi nghe ông anh ngâm nga, ả rồng gật gù: “Ôim Eragon anh thay đổi quá nhiều từ khi chúng ta rời khỏi thung lũng Palancar. Không còn có thể nhận ra cậu bé ngờ nghệch lần đầu tiên nhào vào cuộc trả thù được nữa. Cậu Eragon đó lmfa sao viết được một câu thơ theo kiểu thần tiên thế này. Em chờ xem anh sẽ trở thành một con người ra sao trong năm mươi hay một trăm năm nữa”.
Eragon tủm tỉm: “Nếu anh sống dai đến thế”.

- Không trau chuốt những chân thật
Oromis nói sau khi nghe Eragon đọc bài thơ. Eragon e dè hỏi:
- Vậy là …thầy thích ạ?
- Đó là một chân dung xác thực về tinh thần con vào lúc này. Nghe được nhưng chưa phải là một tác phẩm. Tuy nhiên ta ngạc nhiên vì con có thể đọc thành lời bằng ngôn ngữ này. Không có rào cản nào trong việc viết tiểu thuyết bằng cổ ngữ. Cái khó là khi người ta đọc hay nói ra những điều đó – vì đòi hỏi người ta phải nói về những điều không thật, tưởng tượng, hư cấu - một vấn đề cấm kỵ trong cổ ngữ.
- Con đọc thành lời được vì con tin đó là sự thật
- Và cũng vì niềm tin đó, nên con viết có lực hơn, bài thơ đã làm thầy xúc động, Eragon thiếu hiệp ạ. Nó xứng đáng góp phần vào ngày hội Huyết thệ.

Lấy từ trong áo choàng ra cuộn giấy buộc băng, ông bảo:
- Trong này có viết rõ chín thế thủ. Những lễ hội của thần tiên gây áp lực mạnh mẽ lên những người thể trạng yếu hơn chúng ta. Nếu không thủ thế đề phòng con rất dễ bị cuốn vào mạng lưới phép thuật một cách nguy hiểm. Thầy đã từng chứng kiến điều này xảy ra. Cho dù đã phòng xa như vậy, con vẫn phải thận trọng đừng bị chao đảo vì những làn gió đầy mê hoặc. Hãy giữ mình, vì trong thời gian lễ hội, thần tiên chúng ta gần như hoá điên - một sư say cuồng tuyệt vời, tráng lệ - nhưng dù sao cũng vãn là … điên.

***

Đêm khai mạc Agaetí Blodhren - hội Huýet thệ kéo dài trong ba ngày - , Eragon, Saphira và Orik đi cùng Arya tới Menoa.
Từng đoàn thần tiên đã tụ tập quanh cây, những mái tóc đen, tóc màu trắng bạc lung linh trong ánh sáng toả ra từ những ngọn đèn lồng. Dưới gốc cây, nữ hoàng Islanzadí đứng trên một cái rễ cao to như thân cây phong du. Trên vai bà là con quạ Blagden và lấp ló sau lưng là ma mèo Maud. Vị lão tiên Oromis trong bộ áo hai màu đỏ và đen, hiện diện cùng rồng và Glaedr. Eragon nhận ra những thần tiên ừng quen biết như Lifaen, Narí và cả…gã tiên trẻ tuổi đáng ghét Vanir.
Bầu trời mượt như nhung vô vàn những ngôi sao lấp lánh.
- Chờ đây nhé.
Arya nói, rồi len lỏi qua đám đông. Khi trở lại, cô dẫn theo bà thợ rèn Rhunnon. Bà ta lảng tránh người chung quanh như một con cú mèo, gật đầu đáp lễ Eragon và Saphira, rồi lên tiếng:
- Rất hân hạnh, chào Vảy Sáng và Eragon Khắc Tinh của Tà Thần.
Thấy Orik, bà chào hỏi bằng ngôn ngữ của người lùn, Orik hớn hở, sôi nổi chuyện trò bằng tiếng của mình. Eragon khom mình hỏi ông lùn:
- Bà Rhunnon nói gì vậy?
- Bà ấy mời tôi tới nhà để xem công việc của bà và thoả luận về nghệ thuật kim khí.

Mặt thoáng e sợ, ông lùn thì thầm:
- Eragon, chính Futhark truyền nghề cho ba ta bước đầu đó. Ông là một tổ nghiệp huyền thoại trong nghề rèn của chúng tôi. Ước gì tôi có thể gặp được ông.
Tất cả đều chờ đợi cho đến khi tiếng chuông báo nửa đêm vang lên và nữ hoàng Islanzadí đưa cánh tay trần, như ngọn giáo bằng cẩm thạch, chỉ lên mặt trăng thượng tuần. Ánh sáng, toả xuống từ những ngọn đèn lồng trên cây Menoa, tạo thành một hình cầu trắng dịu trên bàn tay bà. Bà bắt đầu đi dọc theo chiều dài của rễ, tiến tới thân cây khổng lồ, đặt quả cầu vào một cái hốc trên cành. QUả cầu tiếp tục toả sáng.
Eragon quay hỏi Arya:
- Lễ hội bắt đầu?
- Bắt đầu rồi đó. Và sẽ kết thúc khi ánh sáng ma trơi kia tự sát.
Thần tiên tản ra những lán tại tạm thời trong rừng, dành khoảng trống quanh gốc Menoa. Rồi thình lình họ xuất hiện cùng những chiếc bàn chất đầu những đĩa đồ ăn màu sắc rực rỡ. Đó là những tác phẩm, kết quả của những pháp sư đầu bếp, thể hiện theo ngoại hình phi phàm của họ.
Các thần tiên bắt đầu trỗi giọng trong veo như tiếng sáo, cất lên những bài ca du dương, say đắm dưới trời đêm huyền hoặc. Giọng hát kích thích những cảm giác, khơi dậy những tâm tư thầm kín và làm cháy bỏng những khát khao bằng một ma thuật lạ kỳ. Lời ca nhắc nhớ những chiến công hiển hách bằng ngựa, bằng thuyền trên những vùng đất đã bị quên lãng, những tiếc nuối vẻ đẹp đã không còn nữa. Tiếng ca hát như bảo phủ Eragon, làm nó chỉ còn một khao khát, miên man nhảy múa mãi mãi giữa các thần tiên. Bên cạnh nó, Saphira lim dim mắt, ư ử hát theo điệu nhạc
Những gì xảy ra sau đó Eragon không thể nào nhớ rành mạch nổi. Cứ như nó đã lên cơn sốt, mê rồi tỉnh, tỉnh rồi mê. Nó có thể nhớ rõ vài chi tiết, nhưng không thể nào sắp đặt theo thứ tự. Nó lẫn lộn ngày với đêm, vì bất kỳ giờ khắc nào, rừng cây vẫn âm u. Nó cũng không thể nhớ mình đã lơ mơ hay ngủ gục trong thời gian lễ hội…
Nó nhớ đã nối vòng, tay trong tay một tiên nữ có đôi môi mọng như đào chín, giọng nói ngọt ngào như mật ong và không khí thơm nồng hương tầm xuân…
Nó nhớ nhiều thần tiên vắt vẻo trên cành Menoa như bầy chim sáo. Họ gẩy những cây thụ cầm bằng vàng, ra những câu đố cho Glaedr trên mặt đất, thỉnh thoảng lại chỉ một ngón tay lên bầu trời, tạo ra những đốm lửa muôn màu kết thành những hình dạng khác nhau trước khi tàn lụi…
Nó nhớ đã ngồi ở một thung lũng tràn ngập cỏ xanh dựa vào Saphira, ngắm nhìn nàng tiên đã nắm tay nó, đứng hát trước những khán giả đầy say mê ngưỡng mộ:

Bay đi, hãy bay đi
Qua đồng cỏ núi non
Tới vùng đất xa xôi đá
Bay đi cứ bay đi
Đừng bao giờ trở lại cùng em nữa

Đi đi! Anh đang xa em
Chẳng bao giờ ta còn gặp lại
Đi đi! Anh đã xa em…
Riêng em…mãi mãi ngóng trông ngày anh trở về.

Nó nhớ những bài thơ dài vô tận, bài buồn thảm, bài tươi vui. Nó cũng được nghe trọn vẹn bài thơ của Arya. Nó thấy bài thơ của nàng thật sự hay. Bài thơ xuất sắc của nữ hoàng thì dài hơn. Tất cả thần tiên vây quanh lắng nghe…
Nó nhớ các thần tiên đã đem tới buổi lễ những vật thật diệu kỳ, nhiều thứ Eragon tưởng như không thể nào có được, dù là có sự hỗ trợ của phép thuật. Những món đồ chơi, tác phẩm nghệ thụat, vũ khí…Một thần tiên đem đến một quả cầu thuỷ tinh, chỉ vài giây, trong lòng quả cầu lại nở một bông hoa khác. Một thần tiên khác, từng chu du khắp Du Weldenvarden, đã diễn một màn tuyệt đẹp từ cuống họng ông nở ra một trăm đoá hoa cúc trắng.
Bà Rhunnon góp một chiếc khiên không bao giờ đập vỡ, một đôi găng tay dệt bằng sợi thép (cho phép người đeo cầm chì nóng chảy mà không làm bàn tay bị tổn thương), và một món điêu khắc rất tinh xảo, tượng con hồng tước đang bay bằng một khối sắt và được phủ một lớp sớn, khéo léo tới nỗi trông bức tượng y như một con chim sống.
Ông lùn Orik đem tới một kim tự tháp nhiều tầng, kết nối bằng năm mươi tám mảnh gỗ. Thần tiên thích thú nhìn ông thoăn thoắt tháo rời, rồi ráp lại kim tự tháp. Họ lầm rầm tán tụng: “Ông râu dài quả là bậc thầy. Tay xảo diệu chứng tỏ chí sáng suốt”.
Nó nhớ sư phụ Oromis kéo nó ra khỏi đám đông, ấn nó ngồi xuống một thân cây và bảo:
- Con hãy ngồi đây một lúc cho bình tâm lại.
- Con có sao đâu, không cần phải nghỉ.
- Lúc này con không đủ bình tĩnh để phán đoán điều gì. Ngồi đây, cho đến khi nhớ lại những câu thần chú có thể làm con ổn định lại, lúc đó hãy tham gia cùng chúng ta.
Nó nhớ những sinh vật lạ lùng, thấp thoáng trong rừng sâu. Đa số là những loài thú đã bị thay hình đổi dạng vì thấm nhuần bùa chú trong Du Weldenvarden và bây giờ lân la ra tìm lương thực. Dường như chúng tìm nguồn dinh dưỡng từ phép thuật cuả thần tiên. Những đôi mắt rực sáng của chúng loang loáng ngoài vùng sáng của đèn lồng. Chỉ một con vật lộ nguyên hình, đó là con sói cái trong lốt người đàn bà áo trắng, mà Eragon đã có lần trông thấy. Nó lẩn lút sau bụi cây, nhe hàng răng trắng nhởn ra cười, mắt láo liêng nhìn khắp phía.
Nhưng những sinh vật đó không hoàn toàn là thú. Có cả những thần tiên thay hình đổi dạng vì nhiệm vụ hoặc vì mục đích làm đẹp một cách khác thường. Một vị, thân phủ toàn lông lốm đốm nâu, nhảy vọt qua đầu Eragon, rồi hí hởn nhảy nhót chung quanh. Đầu vị tiên này vừa hẹp vừa dài, hai tai như tai mèo, hai tay thõng tới gối vầhi tay có những đốm chai sần.
Sau đó, hai tiên nữ giống hệt nhau tự giới thiệu mình với Saphira. Khi họ yểu điệu đặt tay lên môi chào theo đúng phong tục, Eragon thấy mấy ngón tay của cả hai dính vào nhau bằng những màng mỏng. Trong lúc họ thì thầm “Chúng tôi từ xa tới”, ba hàng mang hai bên cái cổ mảnh khảnh phập phồng, để lộ ra lớp thịt hồng bên dưới. Da họ loang loáng như bôi một lớp dầu và mái tóc phủ qua đôi vai hẹp.
Eragon gặp một thần tiên có lớp vảy như vảy rồng, trên đầu là một chỏm xương, một hàng gai dọc sống lưng và hai lỗ mũi liên tục loé ra những tia lửa.
Có những thần tiên khó lòng nhận dạng, nhìn họ thấp thoáng rung rinh như qua một màn nước; có vị khi bất động, khó có thể phân biệt với cây cối chung quanh; có những thần tiên cao lớn, mắt chỉ toàn một màu đen làm Eragon phát khiếp và khi giao tiếp với vật gì, họ xuyên qua vật đó như một chiếc bóng.
Thí dụ điển hình nhất cho hiện tượng này là cây Menoa - tiền thân là tiên nữ Linnea. Cây Menoa dường như cũng hối hả theo nhịp sống sôi động chung quanh. Dù không chút gió, cành lá luôn rung động, nhiều khi tiếng cây kẽo kẹt hoà nhịp cùng tiếng hát ca, một làn hơi dịu dàng khoan dung, nhân ái toả ra từ cây, bao phủ khắp vùng…
Và Eragon cũng nhớ cả hai lần khốn khổ vì cái lưng lên cơn đau tới nỗi làm nó phải kêu gào, rên rẩm trong bóng tối trong khi các thần tiên vẫn chìm đắm trong lễ hội chung quanh, chỉ có Saphira tới sát bên nó để canh chừng…
Ngày thứ ba của lễ hội, Eragon trình bày bài thơ của nó trước quần tiên với mấy lời mở đầu:
- Tôi không phải thợ rèn, cũng không có tài điêu khắc, nặn gốm, hội hoạ hoặc bất cứ tài năng nghệ thuật nào. Tôi cũng không thể thi thố phép thuật trước tài năng của quí vị. Vì vậy tôi chỉ còn có thể xin kể một câu chuyện với kinh nghiệm của chính mình, mặc dù tôi cũng không phải là một thi nhân.
Rồi với phong cách như ông Brom đã thường biểu diễn tại làng Carvahall, Eragon ngâm nga:

Trong vương quốc bên bờ biển
Trong rặng núi phủ màu xanh
Trong ngày cuối đông lạnh gía
Một con người được sinh ra
Chỉ để hoàn thành một việc:

Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám.

Nuôi dưỡng bằng tình thương
Lớn lên bằng mưu trí
Dưới những cây sồi già
Chàng đã chạy cùng nai
Đánh nhau cùng với gấu
Và học hỏi kinh nghiệm từ những người già

Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám

Áo quần rách nát
Chỉ với đá, khúc cây và xương
Chàng chiến đầu với quỉ ma hung ác

Giết kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám

Năm tháng vụt qua
Chàng đã lớn
Toàn thân ngùn ngụt lửa căm hờn

Rồi…
Chàng tuổi trẻ gặp một vì tiên nữ
Thanh cao, rắn rỏi, khôn ngoan

Trong đôi mắt như hồ đêm thăm thẳm
Tương lai chàng rực rỡ hiện ra

Sát cánh bên nhau
Đôi bạn không còn lo sợ
Không ngại ngùng kẻ thù tại Durza
Trong vùng đất tối tăm hắc ám.

Eragon kể tiếp về hành trình của chàng tuổi trẻ tới vùng đất Durza, tìm gặp và chiến đấu với kẻ thù. Nhưng khi chiến thắng, chàng đã không tung ra lưỡi gươm chí mạng, vì kẻ thù đã bị đánh bại, chàng không còn lo sợ định mệnh khắt khe dẫn đến cái chết và không cần phải giết kẻ hung ác tại Durza nữa. Rồi trong một đêm hè, chàng trở về, rửa tay gác kiếm, thành hôn với người yêu. Cùng nàng, chàng đã sống những ngày hạnh phúc cho đến thuở bạc đầu. Nhưng:

Trong bóng tối trước bình minh
Người đàn ông đang yên ngủ
Kẻ thù lén lút mơ hồ xuất hiện
Đối thủ dũng mãnh của hắn
Giờ đã lực kiệt sức tàn
Người đàn ông cất đầu khỏi gối
Nhìn lên khuôn mặt tử thần
Lạnh lẽo trống không
Khuôn mặt của chúa tể đêm đen vô tận

Trái tim già nua từ lâu tĩnh lặng
Người đàn ông không hãi sợ Tử thần

Nhẹ như gió thoảng
Tử thần cúi đầu
Đón nhận linh hồn ngời sáng
Rồi…cải hai êm ả về cõi vĩnh hằng
Mãi mãi trong Durza
Trong vùng đất âm u tăm tối.

Eragon im lặng, cảm thấy những ánh mắt đang dồn về phía nó. Eragon vội vàng cúi đầu, tìm chỗ ngồi. Nó bối rối vì đã hé lộ quá nhiều về chính mình.
Dathdr, vị đại thần của thần tiên lên tiếng:
- Khắc tinh của Tà thần, kỵ sĩ đánh giá mình hơi thấp đó. Bài thơ hình như đã đủ chứng minh một tài năng nữa ở kỵ sĩ rồi đấy.
Nữ hoàng đưa tay lên, nói:
- Eragon công tử, tác phẩm của công tử sẽ được lưu giữ trong thư viện Cung Tialdarí để ai muốn cũng có thể thưởng thức được. Dù bài thơ như một chuyện ngụ ngôn, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu rỡhn những khó khăn, vất vả từ khi trứng của Saphira xuất hiện, điều đó có một phần trách nhiệm của chúng ta. Xin hãy đọc lại lần nữa, đểchúng ta tìm hiểu sâu xa hơn.
Eragon đành phải làm theo lệnh. Sau đó tới lượt Saphira giới thiệu tác phẩm của nó với thần tiên. Nó bay vút vào bóng đêm rồi trở lại với tảng đá đen, lớn gấp ba một người lớn, quắp chặt trong móng. Hạ xuống đất bằng hai chân sau, Saphira đặt tảng đá dựng đứng trên thảm cỏ trước mắt đám đông. Tảng đá bóng láng đã được nung chảy, tạo thành những đường cong cuốn lấy nhau, như những dợn sóng. Những nếp nhăn trên đá uốn vặn thành những kiểu mẫu đầy phức tạp, mắt nhìn khó có thể theo dõi đường nối từ đỉnh tới chân, chỉ thấy nét uyển chuyển từ vòng này sang vòng khác.
Cũng như thần tiên, lần đầu tiên Eragon được thấy tác phẩm nào của cô em rồng. Nó ngẩn ngơ hỏi: “Em làm cách nào vậy?’
“Liếm láp tảng đá nung”. Mắt long lanh thích thú, cô ả nghiêng mình phun ngọn lửa dài, phủ một trụ màu vàng ánh lên tảng đá, những khía mỏng như giấy trên tác phẩm điêu khắc của nó sáng rực màu đỏ tía, và từ những khe, hốc bập bùng những ngọn lửa nho nhỏ. Gần đá dường như chuyển động dưới sức thôi miên của ánh sáng.
Thần tiên kinh ngạc vừa vỗ tay, nhảy vòng quanh tảng đá đầy thích thú, vừa rầm rầm la lớn:
- Tuyệt vời, Vảy-sáng ơi!
Eragon thì thầm:
- Đẹp quá, Saphira
- Đa tạ, tiểu huynh.
Tiếp theo là Glaedr. Rồng vàng đem ra một phiến gỗ sồi đỏ, khắc với chỉ một mòng, hình ảnh hoàng cung Ellesméra nhìn từ trên không. Đóng góp của lão tiên Oromis là cuộn giấy Eragon vẫn thường thấy sư phụ hí hoáy vẽ viết trong thời gian dạy nó. Nửa phần trên là bản chép bằng chữ cổ Cái chết của nhà hàng hải Vestarí, nửa phần dưới là bức hoạ toàn cảnh của một vùng đất thần tiên, mang hơi thở của một nghệ sĩ tài năng trong từng chi tiết.
Rồi Arya nắm tay Eragon dìu tới gâầ cây Menoa nói:
- Hãy nhìn lửa ma chơi đang lụi dần. Chúng ta chỉ còn vài tiếng nữa trước bình mình, để rồi lại trở về với một thế giới đầy những lý lẽ lạnh lùng.
Các thần tiên tụ tập quanh cây, mắt sáng ngời chờ đợi
Nữ hoàng Islanzadí đường bệ bước dọc theo một rễ cây rộng lớn như một con đường, rồi đứng trên một khối u của cay, bà nhìn xuống thần dân đang ngóng đợi:
- Theo phong tục và theo thoả hiệp sau chiến tranh , với sự đồng ý giữa nữ hoàng Tarmunora cùng vị kỵ sĩ Eragon đầu tiên và rồng trắng của ông - đại diện cho loài rồng, vì tên rồng trắng không thể nói ra bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, nên chúng ta không thể nêu ra đây được. Ta lập lại, sau chiến tranh, khi số mệnh của thần tiên và loài rồng gắn kết cùng nhau, chúng ta có lệ quây quần để vinh danh ngày huyết thệ với những bài cam điệu múa, hoa trái…Nhiều năm trước, lần cuối cùng lễ hội này đã diễn ra trong tình trạng tuyệt vọng của chúng ta. Kể từ đó, kết quả có phần nào tiến triển khả quan hơn, là nhờ nỗ lực của chúng ta, người lùn và quân cách mạng Varden. Nhưng…đất nước Alagaesia thì vẫn sống dưới bóng tối của Wyrdfell (phản đồ), và chúng ta vẫn còn đang sống trong nỗi hổ thẹn vì chưa làm tròn nhiệm vụ với loài rồng. Trong số các kỵ sĩ tiền bối,c hỉ còn lại lão tiền bối Oromis và Glaedr. Brom và các vị khác đã vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên,chúng ta được phép đón mừng niềm hy vọng mới trong hình hài của Eragon và Saphira. Đó là lý do chính đáng và hợp lý để họ hiện diện tại đây thời điểm này, để chúng ta xác nhận lại lời thề giữa ba loài: thần tiên, rồng và loài người.
Theo một hiệu lệnh của nữ hoàng, thần tiên dọn một khoảng trống rộng dưới gốc Menoa. Chung quanh chu vi đó, họ cắm một vòng những cái gậy có gắn đèn lồng, đồng thời các nhạc công sửa soạn trống kèn đàn sáo.
Arya hướng dẫn Eragon tới ngồi giữa nàng và sư phụ Oromis. Saphira và Glaedr ngồi hai bên như hai bức tượng bằng đá quý.
Quay qua Eragon và Saphira, Oromis căn dặn:
- Hai con phải thận trọng, vì đây là thời khắc quan trọng nhất để trở thành kỵ sĩ thừa kế.
Khi các thần tiên đã ổn định chỗ ngồi, hai tiên nữ tiến ra giữa, đứng quay lưng vào nhau. Họ đều tuyệt đẹp và giống hệt nhau, chỉ từ mái tóc: một tóc đen thắt bím, một tóc sáng ngời màu bạc.
Oromis thì thầm:
- Hai tư thế, Iduna và Neya.
Con quạ trắng Blagden trên vai nữ hoàng the thé kêu lên: “Wyrda!”.
Cùng một lúc, hai tiên nữ tư tế đưa tay lên, mở khuy áo cổ. Hai áo choàng trắng rơi trên mặt cỏ. Dù không một mảnh vải trên người, hưng toàn thân họ được phủ kín bằng một hình rồng xăm lóng lánh. Hình xăm bắt đầu từ đuôi rồng, cuốn quanh mắt cá chân trái Iduna, tiếp tục lên đùi, tới khắp thân mình, rồi vết xăm lấn qua lưng Neya, chấm dứt bằng đầu rồng trên ngực của cô. Mỗi chiếc vảy rồng là một màu khác nhau; màu sắc biến ảo làm hình xăm trông như một cầu vồng.
Bàn tay, cánh tay hai tiên nữ cuốn lấy nhau, làm thân hình con rồng, uốn lượn từ thân này qua thân kia, không hề ngắt đoạn. Cả hai nâng một chân trần, đạp mạnh xuống đất, vang lên một tiếng “thịch”.
Sau tiếng “thịch” thứ ba, tiếng trống dạo dầu, rồi sau tiếng “thịch” thứ tư, tiếng thụ cầm vang lên hoà cùng tiếng sáo du dương.
Lúc đầu khoan thai, rồi rộn ràng theo tiêng nhạc, Iduna và Neya bắt đầu nhảy múa, giữ nhịp bằng đôi chân nện lên mặt đất sôi nổi đến nỗi, dường như không phải họ, mà chính là con rồng trên thân họ đang chuyển động. Họ xoay vòng xoay vòng và con rồng liên tục bay lượn trên làn da họ.
Rồi cả hai cất giọng cao vút, mạnh mẽ hơn cả tiếng trống đàn. Những ca từ của mộ lời thần chú phức tạp, Eragon không thể nào hiểu nổi. Rồi như trận gió báo trước cơn giông, các thần tiên hoà giọng vào khúc ca bùa chú. Họ hát cùng một ngôn ngữ, cùng một ý chí, cùng một tâm niệm. Eragon không hiểu, nhưng chợt thấy nó cũng đang nhép miệng hát theo. Nghe giọng Glaedr và Saphira ư ử hoà vào nhau, một mối xúc động làm run rẩy thấu xương, và Eragon thấy bầu trời thêm lung linh huyền ảo.
Càng lúc càng nhanh hơn, Iduna và Neya xoắn tít lấy nhau cho đên khi hai đôi chân của họ chỉ còn là những bóng mờ loáng thoáng, tóc bay phất phới và toàn thân bóng nhẫy mồ hôi. Tiếng nhạc vút cao tột đỉnh, hai tiên nữ quay cuồng với một tốc độ phi phàm. Rồi một ngọn lửa chạy dọc chiều dài, từ đầu tới đuôi, trên hình ảnh rồng xăm. Lúc đầu Eragon tưởng bị ảo giác dánh lừa, nhưng rõ ràng…con rồng đang chớp mắt, vỗ cánh và xiết mạnh những cái móng.
Một tia lửa phun ra từ mõm con rồng, trong khi nó phóng mình, tách ra khỏi làn da của hai tiên nữ, rồi vút bay cao, bay lượn. Những chóp đuôi con rồng, như một cuống rốn kéo dài, vẫn gắn trên thân mình Induna và Neya dưới mặt đất. Con quái khổng lồ hướng lên mặt trăng đen ngòm, rống lên tiếng kêu hoang dã của quá khứ xa xăm ngàn ngàn năm trước, rồi quay xuống nhìn các thần tiên đang quần tụ bên dưới.
Khi tia nhìn hung hãn của con rồng hướng về nó, Eragon biết ngay đây không phải ma quỷ hiện hình, mà là một vật có tri giác đã được phép thuật ràng buộc và trợ lực. Tiếng ư ử của Glaedr và Saphira lên cao mãi, cho đến khi Eragon không còn nghe được âm thanh nào khác nữa. Trong khi đó, bóng ma của nòi giống chúng bay vòng trên đầu thần tiên, lướt qua họ bằng đôi cánh ảo. Thình lình con rồng ngừng trước Eragon, như muốn nhận chìm nó xuống bằng đôi mắt đảo vòng liên tục. Theo bản năng, Eragon vội đưa cao tay phải, bàn tay nó rần rần như kiến bò. Trong trí nó vang lên một giọng nói của lửa: “Quà tặng của chúng ta, để mi hoàn tất những việc phải làm”.
Con rồng cúi đầu, chạm mõm vào giữa dấu hiệu gedway ignasia trên bàn tay Eragon. Một tia lửa nhảy nhót giữa người và rồng. Toàn thân Eragon rắn lại khi một nguồn hơi nóng ráng sức tuôn trào vào cơ thể nó. Mắt nó tràn ngập hai màu đen và đỏ, và vết thẹo trên lưng bỏng rát như bị đóng dấu bằng sắt nung. Để được an toàn, Eragon chìm sâu vào nội tâm, nhưng chỉ thấy bóng tối mịt mùng xiết chặt mà nó thì không còn đủ sức chống lại nữa.
Sau cùng, nó lại nghe tiếng lửa nói: “Quà chúng ta tặng mi”.


Dưới bầu trời đầy sao


Eragon thức dậy một mình trong ngôi nhà cây. Nó mở mắt nhìn mái trần chạm khắc. bên ngoài trời đêm vẫn tối đen và những âm thanh của thần tiên vui chơi ca hát vẫn mơ hồ vọng lại.
Chưa kịp nghĩ ngợi gì thêm, Saphira bỗng chuyển vào tâm tưởng nó hình ảnh cô ả đang đứng bên nữ hoàng Islanzadí dưới cây Menoa. Giọng Saphira đầy lo lắng: “Anh sao rồi?”.
“Anh…khoẻ. Lâu lắm rồi anh mới cảm thấy khá như thế này. Anh bị thế này…”
“Chỉ khoảng một giờ thôi. Đáng lẽ em ở bên anh, nhưng họ cần có sư phụ, Glaedr và cả em nữa, để hoàn tất buổi lễ. Anh mà thấy phản ứng của thần tiên khi anh bị ngất mới biết họ hốt hoảng đến thế nào. Vì chưa bao giờ xảy ra chuyện tương tự như thế trong lễ hội”.
“Em là nguyên nhân phải không, Saphira ?”.
“Đó không phải việc riêng em hay Glaedr. Đó là quá khứ của nòi giống em được tạo nên bởi phép thuật của thần tiên, để ban phép cho anh được có những tài năng của loài rồng. Vì anh là niêm hy vọng duy nhất có thể tránh cho dòng giống chúng em khỏi bị tiêu diệt”.
“Anh không hiểu.”
“Nhìn vào gương đi, rồi nghỉ ngơi cho khoẻ. Em sẽ về gặp anh khi trời sáng”.
Eragon đứng dậy vươn vai, kinh ngạc vì cảm thấy toàn thân hầu như hoàn toàn mạnh khoẻ. Vào phòng tắm, nó lấy cái gương vẫn dùng dao cạo mặt, đến gần nguồn sáng của ngọn đèn lồng.
Nó đờ người sửng sốt.
Dường như một số thay đổi thể xác, qua thời gian gắn bó với Saphira, mà nó từng biết, giờ đã hoàn toàn trọn vẹn biến nó thành một kỵ sĩ trong lúc nó mê man. Mặt nhẵn nhụi và có góc cạnh như mặt thần tiên, tai nhọn, mắt xếch, da trắng như thạch cao và dường như toả sáng.
“Trông mình cứ như một ông hoàng con”. Chưa bao giờ Eragon cho mình là một con người bảnh bao, nhưng lúc này chỉ một từ chính xác để tả dung mạo nó: “Đẹp”. Tuy nhiên nó vẫn chưa hoàn toàn là một thần tiên. Cằm nó mạnh mẽ hơn, lông mày rậm hơn, mặt lớn hơn. Trông nó bảnh trai hơn bất kỳ người bình thường nào, nhưng lại thô kệch hơn bất kỳ thần tiên nào.
Với những ngón tay run rẩy, Eragon vòng tay ra sau lần mò tìm vết thương. Không có gì.
Eragon lột áo, quay mình trước gương, nhìn lưng. Lưng nó nhẵn nhụi như trước trận chiến tại Farthen Dur. Eragon vuốt bàn tay lên chỗ lưng từng mang thương tích của Tà-Thần mà nước mắt ứa ra. Nó biết từ nay vết thương không bao giờ còn hành hạ nó được nữa.
Không chỉ dấu vết tàn bạo đó, mà tất cả những vết trầy vết sẹo trên da thịt nó đều biến hết. Toàn thân nó không một tì vết, như một đứa trẻ sơ sinh. Eragon tìm kiếm trên cườm tay, nơi nó cắt phạm khi mài lưỡi hái cho cậu Garrow, những vết trầy trên háng vì lần đầu bay cùng Saphira…Tất cả đều không còn lại gì. Trong một thoáng, Eragon thấy nhớ những vết tích đó như những kỷ niệm trong đời, nhưng rồi nó nhận ra, từ nay tất cả những gì làm nó đau khổ, dù nhỏ tới đâu, đều được chữa lành.
“Mình đã trở thành con người mình mong muốn”. Vừa nghĩ Eragon vừa ngây ngất hít mạnh một hơi.
Ném cái gương lên giường, Eragon lấy bộ đồ đẹp nhất: Áo màu tía may chỉ vàng, thắt lưng đính ngọc trắng, đôi ủng của thần tiên tặng, hai tấm cuốn cánh tay bằng da, quà tặng của người lùn.
Xuống khỏi cây, Eragon lang thang dưới bóng tối của Ellesméra , quan sát các thần tiên đang say sưa chè chén trong không khí háo hức của trời đêm. Không ai nhận ra nó, dù vẫn chào hỏi như một trong những đồng loại và mời nó chung vui cùng họ.
Eragon như bồng bềnh trong trạng thái tinh thần phấn khích. Giác quan như hoàn toàn mới mẻ: Âm thanh, mùi vị, hình ảnh, cảm giác ào ạt xâm nhập vào nó cùng một lúc. Nó có thể nhìn xuyên qua bóng tối; chỉ chạm vào chiếc lá, nó có thể đếm từng sợi tơ đang mọc; một mùi thoảng qua nó có thể nhận ra hơi hướm của một con rồng hay một con chồn. Nó cũng có thể nghe tiếng chuột nhắt di chuyển dưới bụi cây, tiếng một mảnh vỏ cây rơi xuống đất. Tiếng tim đập trong lòng ngực, Eragon nghe lớn như tiếng trống.
Vơ vẩn đi qua cây Menoa, nó ngừng lại nhìn Saphira giữa lễ hội, nhưng không để ai trong vành đai đó nhìn thấy.
Saphira hỏi: “Đi đâu vậy, tiểu huynh?”.
Thấy Arya đứng dậy, đi qua đám đông thần tiên, rồi như một nữ thần của núi rừng, cô lướt nhẹ dưới những tàn cây, Eragon vừa bước theo Arya vừa trả lời Saphira: “Anh đi giữa ánh sáng và bóng tối”.
Eragon theo dấu Arya bằng hương thơm từ mùi lá thông cô toả ra, bằng bước chân êm nhẹ như lông hồng trên mặt đất và bằng sự xao xuyến trong không khí trên lối cô lướt qua.
Eragon gặp cô đang đứng sát bìa rừng, ngước mặt nìn sao. Khi nó tiến lại gần, Arya quay lại. Eragon cảm tưởng ánh mắt cô như mới gặp nó lần đầu. Mắt cô mở lớn khi thì thầm hỏi:
- Chàng đó ư, Eragon?
- Tôi đây.
- Họ đã làm gì chàng vậy?
- Tôi không biết.
Cùng nhau, họ tiến vào khu rừng rậm, loáng thoáng vọng lại tiếng đàn giọng hát từ lễ hội.
Sự thay đổi thể xác lẫn tinh thần, Eragon có thể nhận thức từ tiếng thì thầm của vải vóc trên da thịt Arya, đến lớp dầu phủ nhẹ trên mi mắt làm chúng cong vút và long lanh như những cánh hoa đem ướt nước mưa.
Cả hai ngừng lại bên bờ con suối nhỏ, nước trong vắt, mơ hồ ẩn hiện trong vùng ánh sáng nhạt nhoà. Chỉ có dòng nước rì rào chảy qua những tảng đá chứng kiến sự hiện diện của họ lúc này. Chung quanh họ, thông mọc san sát, cành lá đan nhau, tạo thành một hang động biệt lập với thế giới bên ngoài. Nơi đây dường như một cõi bất diệt, được che chở bởi phép màu, thoát khỏi hơi thở khắc nghiệt của thời gian.
Trong chốn tách biệt bí ẩn này, Eragon chợt cảm thấy gần gũi với Arya, tất cả nỗi niềm say đắm đam mê cuồn cuộn trong lòng. Nó ngây ngất với nguồn sinh lực dồi dào trong huyết quản – như nguồn phép thuật bất kham tràn ngập khu rừng – không còn e dè, Eragon lên tiếng:
- Cây cao vời vợi, trăng sáng long lanh và …nàng, ôi công nương Arya, nàng đẹp tuyệt vời.
Nếu trong một tình huống bình thường khác, Eragon đã cho hành động của nó là điên rồ, nhưng trong cái đêm kỳ lạ này, thái độ của nó dường như lại hoàn toàn tỉnh táo.
- Eragon …
- Arya, tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được nắm bàn tay nàng. Tôi sẽ theo nàng tới cùng trời cuối đất. Tôi sẽ xây dựng lâu đài dâng nàng chỉ với hai bàn tay trần này. Tôi sẽ…
- Xin chàng đừng theo đuổi tôi nữa. Hãy hứa đi, Eragon, không thể được đâu. Ta già rồi, chàng còn trẻ. Điều đó chẳng thể nào có thể đổi thay.
- Nàng không có chút cảm tình nào với tôi sao?
- Cảm tình ta dành cho chàng, không gì khác hơn là tình bằng hữu. Ta cám ơn chàng đã giải thoát ta ra khỏi Gil’ead và rất vui được là bạn của chàng. Tất cả chỉ có vậy thôi….hãy cố quên tình cảm đặc biệt chàng dành cho ta, chuyện đó chỉ làm chàng thêm đau lòng mà thôi. Hãy tìm người cùng trang lứa để kết đôi bạn trăm năm.
Hai mắt ứa lệ, Eragon hỏi:
- Sao nàng có thể tàn nhẫn với tôi đến thế?
- Tôi không tàn nhẫn mà chỉ mong điều tốt cho chàng. Chúng ta sinh ra không để dành cho nhau.
- Hãy cho tôi quá khứ của nàng, tôi sẽ có đủ kinh nghiệm và sự hiểu biết giống như nàng vậy.
Arya ngẩng cao đầu. mặt cô cứng rắn, uy nghi và sáng lên dưới ánh trăng.
- Nghe cho kỹ, Eragon. Điều này không thể, không bao giờ có thể xảy ra. Nếu chàng không tự chủ, tình bạn của chúng ta sẽ không còn. Vì sự xúc động của chàng không có lợi gì, chỉ làm cản trở nhiệm vụ của chúng ta. Tạm biệt, Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Cô cúi chào rồi đi khuất vào Du Weldenvarden.
Nước mắt Eragon lã chã tuôn rơi xuống mặt rêu, như những hạt ngọc long lanh trên tấm chăn bằng nhung xanh. Ngồi trên một thân cây, Eragon như tê dại, hai tay ôm mặt khóc. Khóc vì mối tình với Arya đã chết, khóc vì đã làm cho cô xa cách nó hơn. Eragon ngồi như thế cho đến khi Saphira mon men lại gần: “Ôi, tiểu huynh, sao anh tự làm khổ mình như vậy? Anh đã biết trước chuyện gì xảy ra, nếu anh ngỏ lời với cô ta rồi mà”.
“Nhưng anh không ngăn mình được”
Nó choàng tay ôm Saphira, đu đưa mình trên thân cây, cố kìm tiếng nức nở. Phủ cái cành ấm áp lên Eragon, Saphira kéo ông anh sát mình nó, như chim ưng mẹ ủ chim con. Eragon dựa vào cô em rồng, co mình nằm im cho tới khi trời hừng sáng và Lễ-hội Huyết-thệ dần tan.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 01-12-2013, 06:04 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Ghé bờ


Roran đứng trên boong Trăn đỏ, khoanh tay trước ngực, hai chân dang rộng, giữ thăng bằng trên chiếc xà lan chao đảo. Gió biển lồng lộng thổi râu tóc anh rối bù.
Đứng bên anh, Clovis đang điều khiển bánh lái. Người thủy thủ dạn dày nắng gió chỉ tay về phía bờ, bóng những con hải âu phủ đầy đỉnh đá trên ngọn đồi thoai thoải đổ xuống biển.
- Teirm ở ngay đằng sau đỉnh đá đó.
Eragon nheo mắt trước ánh ngắng chiều hắt lên từ mặt nước:
- Vậy thì chúng tan phải ngừng lại đây.
- Anh chưa muốn vào thẳng thành phố sao?
- Chúng tôi sẽ không đi tất cả một lần. Bảo Torson và Flint cho xà lan ghé vào bờ kia. Trông có vẻ cắm trại được dấy.
Clovis nhăn mặt:
- Hy vọng tối nay có chút đồ ăn nóng.
Roran thông cảm với ông ta: đồ ăn tươi đem theo từ Narda đã hết từ lâu, chỉ còn toàn thịt, rau, cá muối.Thỉnh thoảng dân làng làm thịt một con vật hiếm hoi còn sống lại, hay săn được khi ghé đất liền.
Giọng ồ ề của Clovis vang vang trên mặt nước, gào sang thuyền trưởng của ahi xà lan kia. Khi lại gần nhau, ông ta ra lệnh ghé bờ. Tiếng phàn nàn rầm rầm nổi lên, vì từ thuyền trưởng tới thuỷ thủ đều mong sớm đến Teirm trong ngày, tiêu xài cho đã số lương mới lãnh trong thành phố sầm uất rực rỡ đó.
Sau khi ba xà lan cặp bãi, Roran len lỏi trong đám đông giúp dân làng dựng lều bạt, chuyển đồ, lấy nước từ con suối nhỏ…Khi tất cả ổn định, anh tới nói mấy lời đồng viên Morn và Tara, vì thấy họ có vẻ chán nản thất vọng. từ khi rời thung lũng Palancar, vợ chồng ông chủ quán rượu này dường như né tránh Roran. Còn hầu hết dân làng tình trạng đều khá hơn khi mới tới Narda rồi bị nhồi nhét lên mấy chiếc xà lan này. Nhưng những lo âu và hoàn cảnh khắc nghiệt làm họ chưa thể hoàn toàn hồi phục tốt như Roran mong muốn.
Thane tiến lại Roran hỏi:
- Cây-búa, mời anh dùng bữa tối với chúng tôi, được chứ?
Roran vui vẻ nhận lời. Anh vừa quay đi, đụng đầu ngay với Felda Chị là vợ của Byra, người đã bị lão Sloan ám sát.
Felda hấp tấp cúi đầu chào, rồi nói:
- Tôi nói chuyện với cậu được không, Roran?
- Chị biết là tôi luôn sẵn sàng mà.
Mấy ngón tay vê vê những sợi rua khăn choàng, lén nhìn về căn lều của mình, Felda ngập ngừng:
- Cám ơn cậu. Tôi muốn nhờ cậu một việc. Đó là…chuyện thằng Mendel nhà tôi…
Mandel là con trai lớn của Felda, Roran đã chọn nó cùng đi trong chuyến đi định mệnh - lần anh đã phải giết hai người lính gác tại Narda. Thằng nhỏ tỏ ra rất dễ thương, cũng như trong suốt mấy tuần lễ trên chiếc Edeline, nó đã học hỏi về cách điều khiển xà lan.
Felda tiếp:
- Càng ngày nó càng thân thiết với đám thuỷ thủ, lại còn đổ đốn bài bạc nữa. Nó đánh xúc xắc với cái đám vô kỷ luật đó. Không chơi bằng tiền đâu, vì chúng tôi làm gì có tiền, nhưng bằng những đồ lặt vặt. Toàn những thứ cần thiết.
- Chị cấm nó chưa?
- Từ khi cha nó chết nó chẳng coi tôi ra gì, không như trước kia đâu. Càng ngày nó càng cứng đầu cứng cổ, liều lĩnh…
“Tất cả chúng ta đều liều lĩnh mát rồi”. Roran thầm nghĩ, nhẹ nhàng hỏi:
- Chị muốn tôi làm gì?
- Cậu luôn tốt với Mandel, nó rất quý cậu. Nếu cậu nói, chắc nó sẽ nghe.
- Được, tôi sẽ thử bảo nó xem sao. Nó đã thua những gì rồi?
- Toàn là thực phẩm. Nhưng…có lần nó liều đến nỗi đổi cả sợi dây chuyền của bà ngoại, lấy một con thỏ để đặt cửa xúc xắc
- Cứ yên tâm đi, chị Felda. Tôi sẽ thu xếp sớm chuyện này.
- Cám ơn cậu nhiều lắm.
Felda cúi chào, rồi len lỏi qua mấy cái lều, để Roran đứng lại ngẫm nghĩ những lời chị vừa nói.
Lơ đãng gãi bộ râu rậm rì, Roran vừa bước đi vừa suy tính. Phải tách rời thằng Mandel khỏi đám thuỷ thủ. Anh còn quan tâm đến một điều: suốt chuyến đi, một thuỷ thủ trên tàu Torson là Frewin tỏ ra rất thân thiết với Odele- bạn của Katrina. Những khi mình không ở gần Clovis, rất có thể ông ta và đám thuỷ thủ dò la chuyện từ Odele.
Không muốn để mọi người chú ý, Roran lẳng lặng bảo những người tin cẩn nhất, theo anh tới lều của chú Horst.
Trước mặt họ, anh lên tiếng:
- Năm ngượi đã đwojc chọn sẽ lên đường ngay, khong chần chừ thêm được nữa. Chú Horst sẽ thay tôi, khi tôi vắng mặt. Phải nhớ, việc quan trọng nhất của các vị là bảo đảm sao Clovis không bỏ đi với mấy xà lan hoặc làm hư hỏng chúng. Đó là phương tiện duy nhất để chúng ta đến được Surda.
Orval góp ý:
- Ngoài ra, phải thật thận trọng, đừng để chúng ta bị phát hiện
- Chính xác. Nếu không một ai trong chúng tôi trở lại, coi như chúng tôi đã bị bắt. Hãy lên xà lan, giong buồm tới thẳng Surda. Không được ngừng lại Kuasta mua bán gì hết; rất có thể quân triều đình phục kích chúng ta tại đó.
Khi mọi người sửa soạn, Roran lên Trăn đỏ, vào buồng của Clovis, cho ông ta biết kế hoạch. Nghe Roran nói xong, Clovis hỏi:
- Chỉ có năm người đi thôi sao?
Roran trừng trừng nhìn cho đến khi làm ông chủ tàu bối rối rồi mới trả lời:
- Đúng vậy. và tôi mong, khi trở lại, tôi còn thấy nguyên vẹn ba chiếc xà lan và các người của ông tại đây.
- Sau khi thương lượng với nhau, anh còn nghi ngờ bụng dạ tôi sao?
- Tôi không nghi ngờ gì hết, chỉ cho ông biết tôi muốn gì thôi. Tiền thưởng quá lớn, nhưng nếu ông phản bộ chúng tôi, là đồng nghĩa với việc ông đã đẩy tất cả dân làng vào chỗ chết.
- Tôi biết điều đó mà
Clovis lẩm bẩm, tránh ánh mắt Roran
- Trong khi tôi vắng mặt, người của tôi sẽ tự bảo vệ họ. Còn một hơi thở, họ vẫn không để bị bắt, bị lừa hay bị bỏ rơi đâu. Nếu chẳng may, điều bất hạnh đổ xuống đầu họ, tôi sẽ báo thù, dù phải lội bộ hàng ngàn dặm để chiến ddaasu với chính Galbatorix. Hãy lưu ý đến lời tôi, ông Clovis, vì tôi chỉ nói bằng sự thật.
- Chúng tôi không quá tha thiết với Galbatorix như các anh tưởng đâu.
Roran vui vẻ cười:
- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis
Roran vui vẻ cười:
- Con người ta ai cũng tìm mọi cách để bảo vệ vợ con gia đình mình, phải không ông Clovis
Roran vừa nâng chốt cửa, Clovis bỗng hỏi:
- Khi tới được Surda rồi anh sẽ làm gì?
- Chúng tôi sẽ…
- Không pảhi chúng tôi. Anh kìa, anh sẽ làm gì, Roran? Tôi đã nghe về anh. Dường như anh cũng là người đàng hoàng, tôi không quan tâm đến những gì anh đã đối xử với tôi đâu. Nhưng tôi vẫn băn khoăn, chẳng lẽ tới Surda, anh sẽ buông cây búa để cầm lại tay cày?
Bàn tay Roran nắm mạnh chốt cửa đến trắng nhợt:
- Sau khi đưa dân làng an toàn đến Surda, tôi sẽ…đi săn…
- A ha! Đi săn lùng người đẹp tóc đỏ của anh? Tôi đã nghe loáng thoáng chuyện này. Nhưng…
Roran bước ra, sạp mạnh cửa. Để cơn giận bùng lên trong thoáng chốc – và anh cảm thấy thích thú cảm giác đó - rồi dằn xuốgn, bước tới lều cảu Felda.
Mandel đang phóng con dao săn vào một thân cây. “Felda nói ddungs, phải có người kèm cặp ông nhóc này”, Roran nghĩ rồi lên tiếng:
- em chỉ tốn thì giờ vô ích thôi, Mandel
Chú nhóc giật mình quay lại:
- Vì sao?
- Vì trong tác chiến thật sự, thay vì làm kẻ thù bị thương, không chừng em bị lòi con mắ. Phải nắm chính xác khoảng cách từ mình tới mục tiêu chứ…
Roran nhún vai tiếp:
- Tốt hơn là nên tập bằng sỏi trước.
Chú nhóc bướng bỉnh cãi:
- Gunnar kể với em , một tay ở Cithrí, có thể phóng dao hạ ngon ơ một con quạ đang bay. Mười lần trúng tam.
- Còn hai lần kia để giết em. Trong chiến trận, không ai ngu đến nỗi phóng vũ khí của mình đi, nếu không thật sự cần thiết. Thôi ây giờ thu dọn đồ đạc của em, mười lăm phút nữa đến gặp tôi trên đồi, bên kia con suối. Tôi đã quyết định cho em đi cùng tới Teirm.
- Tuân lệnh.
Mandel toét miệng cười, hí hởn chạy vội đi thu xếp hành lý. Roran vừa quay ra, gặp Felda bế đứa con gái út bước vào. Chị nhìn Roran, nhìn Mandel đang rối rít trong lều, nói nhỏ:
- Trông nom nó giùm tôi, Cây-búa.
Đặt con gái xuống đất, chị chạy vào lều, phụ với Mandel.
Roran là người dầu tiên lên đồi. Ngồi trên tảng đá, nhìn xuống biển, anh tính toán những việc trước mắt phải làm. Khi Loring, Gertrude, Birgit và câu con trai Nolfavrell tới nơi, Roran nhảy xuống khỏi tảng đá, bảo:
- Còn chờ Mandel nữa, nó cũng đi với chúng mình.
Loring hỏi ngay:
- Để làm gì?
Birgit cũng nhăn nhó:
- Đã quyết định chỉ có năm người rồi. Nhất là Mandel đã bị biết mặt ở Narda. Cậu và Gertrude đã đủ nguy hiểm, thêm thằng Mandel chỉ tổ làm cho người ta dễ phát hiện thôi.
Roran nhìn từng người:
- Tôi đành liều vậy, vì nó cần phải đi.
Sau khi nghe anh cắt nghĩa, mọi người đều đồng ý và thêm Mandel, sau người tiến hướng nam để tới thành Teirm.


Thành Teirm


Bãi biển này tạo thành bởi những đồi thấp thoai thoải, phủ đầy cỏ xanh, lác đác hồng dại, dương liễu, bạch dương. Đất bùn mềm nhũn rất khó đi. Bên phải họ, mặt biển lấp lánh; bên trái lồ lộ núi Spine tím ngắt. Những đỉnh núi phủ tuyết trắng nối kết nhau bằng những dải mây và lớp sương mù dày đặc.
Qua những nông trại, sáu người trong nhóm Roran cố tránh không để bị phát hiện. Ra tới con lộ nối Narda và Teirm, họ chạy băng qua đường, rồi tiếp tục đi sâu thêm về hướng đông, tiến tới rặng núi, phải vượt thêm mấy dặm nữa, vòng qua thành phố, mới lại quay về hướng nam.
Khi còn trên Trăn đỏ, Roran đã suy tính, chính quyền Narda chắc phải suy ra kẻ giết hai tên lính gác nằm trong đoàn người ra đi bằng mấy cái xà lan của Clovis. Nếu đúng vậy, quân lính tại Teirm chắc chắn đã được lệnh tìm kiếm trong đám dân làng, kẻ nào giống với hình ảnh đang bị truy nã. Hơn nữa, nếu Ra’zac đã tới Narda, hẳn nhiên binh sĩ tại đó cũng đã biết rằng, chúng không chỉ truy lùng vài tên sát nhân vô danh tiểu tốt, mà là Roran Cây-búa Dũng-mãnh và nhiều kẻ đào tẩu khỏi làng Carvahall. Chắc chắn thành Teirm đã giăng sẵn một cái bẫy khổng lồ. Biết thế, nhưng không thể không ghé vào thành, vì dân làng cần lương thực và phương tiện vận tải để đi tiếp.
Roran quyết định, cách đề phòng tốt nhất là ai đã bị biết mặt tại Narda sẽ không được vào Teirm, trừ anh và bà Gertrude. Vì chỉ có bà thông thạo tên thuốc, còn anh – dù dễ bị nhận diện nhất – nhưng anh không tin người nào đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Như trong vụ giết hai tên lính gác, trong khi mọi người phân vân, anh đã kịp thời ra tay hành động. Mấy người trong chuyến đi này đều đã được sàng lọc rất kỹ: Ông Loring tuy già nhưng khôn ngoan và mạnh mẽ, còn Nolfavrel, con trai của chị, tuy còn nhỏ cũng hạ được một tên lính trong chiến trận. Hy vọng cả nhóm xuất hiện như một đại gia đình cùng đi buôn bán. Roran tự nhủ: “Miễn sao thằng Mandel không gây ra chuyện gì”.
Chính Roran đưa ra ý kiến, từ phía nam tiến vào thành, làm như không phải từ Narda tới.
Xế chiều, họ đã thấy thành Teirm, một màu trắng ẩn hiện dưới hoàng hôn. Roran ngừng quan sát: thành phố bao bọc bằng những bức tường, đứng một mình trên bờ biển rộng. Ánh đuốc bập bùng giữa những lỗ châu mai, lính canh nắm cung tên liên tục rảo tới lui. Vượt khỏi những bức tường là một đài hải đăng, đang quét những tia sáng trên mặt nước biển đen ngòm.
Nolfavrell tấm tắc:
- Thành này lớn quá.
Mắt không rời Teirm, ông già Loring gật gù:
- Lớn thật.
Nhưng Roran lại chú ý đến một con tàu neo bên kè đá nhô ra từ thành phố. Chiếc tàu ba cột buồm lớn hơn tất cả nhưng con tàu Roran từng thấy Narda với thân trước cao, hai hàng mái chèo, mười hai cái máy bắn đá lắp đặt hai bên sàn. Con tàu tráng lệ thích hợp cho cả việc thương mại và phục vụ chiến tranh. Nhưng quan trọng nhất, Roran nghĩ, nó có thể chứa toàn bộ dân làng.
Chỉ tay về phía con tàu, anh bảo mọi người:
- Đó mới là cái chúng ta cần
Birgit mỉa mai:
- Chúng ta phải bán mình làm nô lệ ráo, may ra mới bước chân được lên đó.
Vì Clovis đã cho biết, cổng thầnh sẽ hạ xuống khi mặt trời lặn, nên tất cả vội vàng rảo bước.
Khi tới gần tường thành, con đường càng lúc càng tấp nập, người vào ra. Roran không ngờ có đông đúc người qua lại đến thế, nên nhận ra ngay lợi điểm dễ lẩn tránh trong đám người này. Anh dặn dò Mandel:
- Đi lùi lại phía sau, theo người khác qua cổng, để tụi lính gác không biết em đi cùng chúng ta. Nếu chúng hỏi, cứ bảo vào thành xin một chân đi biển. Chúng ta đợi em bên kia cổng.
- Tuân lệnh.
Mandel lùi lại sau. Roran hạ thấp một bên vai, bước đi tập tễnh như một người tàn tật, thầm nhẩm “kịch bản” do ông già Loring sáng tác để cắt nghĩa sự hiện diện của cả nhóm tại thành Teirm. Anh cúi đầu, bước vội tránh đường một anh chàng lùa hai con bò chở gỗ đi qua, mừng thầm vì bóng tối che kín mặt.
Đứng dưới ánh đuốc vàng bập bùng hai bên lối vào cổng là hai tên lính với phù hiệu ngọn đuốc của Galbatorix trên ngực áo màu choàng đỏ thắm. Cả hai chỉ liếc qua nhóm của Roran khi họ trà trộn cùng người khác qua cổng, tiến qua đoạn đường hầm ngắn.
Roran thở phào cùng cả nhóm tụ tập bên một căn nhà. Loring thì thầm:
- Đi nữa đi. Càng xa càng tốt.
Khi gặp lại Mandel, cả nhóm đi tìm một nhà trọ rẻ tiền để qua đêm. Vừa đi Roran vừa quan sát những ngôi nhà kiên cố, càng gần pháo đài chúng càng cao hơn. Từ pháo đài những ngôi nhà nằm phía bắc, toả ra phía nam như một chùm sao, những nhà từ đông sang tây uốn thành đường cong, chằng chịt như lưới nhện, tạo ra nhiều khoảng có rào bảo vệ những đồn quân.
Roran ngẫm nghĩ: “Nếu làng Carvahall được xây dựng như thế này, không kẻ nào có thể hạ nổi, trừ khi đích thân Galbatorix xuất quân”.
Chập tối, họ mới tìm được chỗ trọ tại Hạt Dẻ Xanh, với rượu mơ và những cái giường đầy rệp. Hà tiện từng đồng bạc quý giá, cả nhóm đi ngủ với cái bụng đói meo, nằm co quắp gần nhau, phòng xa bị những khách trọ xấu tính móc mất tiền.
Hôm sau cả nhóm Roran rời Hạt Dẻ Xanh từ sáng sớm, đi tìm mua lương thực và dò hỏi phương tiện vận chuyển.
Bà Gertrude bảo:
- Nghe nói tại đây có một bà lang danh tiếng, trị được rất nhiều bệnh. Thậm chí chỉ cần vuốt một cái bằng phép thuật bệnh tật nặng mấy cũng khỏi. Tôi phải đi tìm gặp bà ta bằng được.
Roran góp ý:
- Bà không nên đi một mình. Mandel, em theo bà Gertrude giúp bà mang xách hàng và nếu bị tấn công, bằng mọi cách phải bảo vệ cho bà. Đừng gây ra chuyện gì có thể làm hại tới bạn bè, gia đình em.
Mandel ngoan ngoãn gật đầu, theo bà Gertrude rẽ phải, xuống một ngã tư đường. Sau đó, Roran và mấy người còn lại kiên nhẫn tìm kiếm suốt từ sáng tới chiều, nhưng vẫn không tìm ra một chiếc tàu có thể chở họ tới Surda. Họ được biết con tàu mới xuất xưởng và sắp được hạ thuỷ để ra khơi lần đầu của công ty vận chuyển Đồng-Cỏ-Đen. Phải đổ ra cả đống vàng chưa chắc đã thuê được con tàu tráng lệ này, huống hồ toàn thể dân làng góp lại cũng không đủ tiền mướn một chiếc thuyền tã nhất. Mấy xà lan của Clovis cũng không giải quyết được vấn đề, vì lấy gì ăn trong suốt chuyến đi.
Birgit thở than:
- Lính tráng đầy rẫy nhà cửa thì san sát thế này, mà cổng ra vào lúc nào cũng được canh gác nghiêm ngặt, làm sao lấy trộm thực phẩm được? Căng quá.
Roran đồng ý:
- Căng thật.
Trước đó, Roran đã bàn với chú Horst, nếu bắt buôc phải chuồn khỏi Teirm với quá ít lương thực còn lại, họ đành phải cướp đồ ăn cho dân làng. Nhưng hành động đó có khác gì với những hành động của lũ dã man mà anh từng căm ghét. Chiến đấu và chém giét những kẻ phục vụ bạo chúa Galbatorix - hoặc lấy trộm xà lan của Clovis, vì ông ta vẫn còn những chiếc khác để sinh sống - lại là một nhẽ. Nhưng cướp tài sản của những nông dân vô tội, đổ mồ hôi kiếm sống như dân làng Carvahall, chẳng khác nào tội sát nhân.
Khó khăn chồng chất lên vai Roran nặng nề như đá. Biết bao hãi hùng, tuyệt vọng, lạc quan, rồi thất vọng trong suốt chuyến đi. Lúc này đây, anh chỉ sợ mình đã đưa dẩy dân làng vào vòng tù tội của kẻ thù. “Mình có thể trốn đi một mình để tìm kiếm Katrina, nhưng thành công đó sẽ là gì, nếu bỏ lại dân làng trở thành nô lệ? Dù định mệnh đẩy đưa tới đâu, mình phải gắn bó với những con người đã tin tưởng vào mình mà bỏ lại nhà cửa ruộng vườn”.
Để đỡ đói, họ ngừng lại một cửa hàng bánh, mua một ổ bánh mì và một bình mật ong nhỏ. Khi trả tiền, ông Loring bảo người bán hàng là đang cần tìm một con tàu, lương thực và một ít dụng cụ.
Một cái vỗ nhẹ lên vai làm Roran quay lại. Một người dàn ông đầu tóc rối bù lên tiếng:
- Xin lỗi vì đã trộm nghe chuyện các ông. Nhưng nếu các ông đang cần tàu và thực phẩm giá cả phải chăng, tôi nghĩ các ông nên đến dự buổi bán đấu giá…
- Đấu giá gì vậy?
- A, đó là một chuyện buồn, nhưng thời buổi này cũng là chuyện thường xảy ra. Một nhà buôn thành phố chúng tôi, ông Jeod – chúng tôi thường nghe gọi là Jeod Chân dài, gặp vận hạn chẳng ra gì. Chưa đầy một năm, ông ta mất đến bốn con tàu. Khi chuyển hàng trên đất liên thì lại bị cướp sạch và hủy hoại hết đoàn xe. Những nhà đầu tư đã ép ông ta phải tuyên bố phá sản. Bây giờ họ sắp bán tài sản của ông ta để thu hồi vốn đã mất. Lương thực thì tôi không biết sao, nhưng các ông có thể mua nhiều thứ cần thiết trong cuộc bán đấu giá đó.
Roran khấp khởi hy vọng:
- Bao giờ buổi đấu giá được tổ chức?
- Ủa, các ông không biét sao? Dán đầy trên mấy bảng thông tin khắp thành phố mà. Ngày mốt, chắc chắn đó.
Làm sao biết được, vì nhóm của Roran đâu dám mon men gần mấy bảng thông cáo, sợ có người nhận ra Roran trong tấm hình vẽ cùng số tiền thưởng kếch sù.
- Cám ơn ông nhiều. Có lẽ chúng tôi đỡ phải đi mò mẫm hỏi han thêm nữa.
- Không có chi, rất vui giúp được các ông.
Ra khỏi cửa hàng, Roran hỏi cả nhóm:
- Mình có nên tới đó không?
Ông Loring lầm bầm:
- Cũng thử đến xem sao.
- Chị Birgit ?
- Cậu không cần phải hỏi. Rõ ràng là chúng ta không thể chờ tới ngày mốt được.
- Không. Ý tôi là tới gặp cái ông Jeod đó, thử điều đình trước ngày đấu giá. Tất cả đồng ý không?
Tất cả đồng ý. Sau khi hỏi thăm đường, họ tìm đến nhà Jeod. Ngôi nhà - một cơ ngơi rộng lớn thì đúng hơn - toạ lạc trong khu tây của thành phố, gần pháo đài, giữa những ngôi nhà sang trọng với mái vòm, cửa sắt uốn, tượng đá, suối phun nước. Roran ngẩn trước sự giàu sang đến thế, khác hẳn với đời sống của quê anh.
Nhà của Jeod ngay kế bên một cửa hàng bỏ phế. Roran gõ cửa, mấy phút sau, một tên bồi tròn quay, mở hé một cánh, nhe hàm răng trắng bóng, hỏi:
- Các ông bà cần gì?
- Chúng tôi muốn được thưa chuyện cùng ông Jeod?
- Các ông bà có hẹn trước không?
- Chúng tôi chỉ ở lại thành phố này thời gian ngắn, không thu xếp trước được buổi hẹn chính thức.
- A, vậy thì tôi rất tiếc phải nói rằng, các ông bà nên dành thời gian của mình tìm tới một nơi khác nhé. Chủ nhân tôi có rất nhiều vấn đề giải quyết. Ông không có thời gian dành cho những kẻ rách rưới lang thang đến đập cửa thình thình để xin bố thí đâu.
Gã bồi vừa nói vừa toe toét cười khoe hàm răng trắng nhởn. Gã ta vừa quay lưng, Roran kêu lên:
- Khoan. Chúng tôi không xin xỏ gì hết. Chúng tôi có một đề nghị làm ăn với ông Jeod.
Gã bồi nhướng mắt:
- Lại thế nữa?
- Thật mà. Xin hỏi giúp, ông Jeod có đồng ý tiếp chúng tôi không? Chúng tôi từ rất xa tới, có chuyện cấp bách cần gặp ông Jeod ngay hôm nay.
- Tôi có được phép hỏi là chuyện gì mà cấp bách quá vậy không?
- Chuyện riêng.
- Được, nhưng tôi báo để các ông bà biết, ông Jeod hiện thời rất bận, không muốn ai quấy rầy. Tôi phải cho chủ nhân biết qúy vị tên gì đây?
- Cứ gọi tôi là Cây-búa.
Gã bồi thích thú chúm miệng như làm hề khi nghe Roran xưng tên, rồi quay vào, khép cửa
Birgit lèm bèm:
- Cầu mong sao chủ tớ đừng giống nhau.
Một phút sau, gã bồi xuất hiện lại, giọng mềm mỏng hơn:
- Ông chủ đồng ý tiếp các vị trong phòng làm việc. Xin theo tôi.
Họ theo hắn qua một lối đi xa hoa lộng lẫy, xuống một hành lang lát gỗ bóng lộn, tới một cánh cửa, hắn mở rồi hướng dẫn nhóm của Roran bước vào.


Joed chân dài


Nếu biết đọc hẳn Roran còn bàng hoàng hơn vì kho sách quý xếp hàng trên khắp các bức tường. Nhưng anh chỉ chăm chú đến người đàn ông cao lớn, tóc bạc, đang đứng sau bàn viết. Ông ta – Roran đoán là Jeod - mệt mỏi nhìn quanh. Những nếp nhăn hằn sâu trên mặt đầy u buồn, và khi ông ta quay lại nhìn nhóm của Roran, tất cả đều nhìn thấy một vết thẹo xấu xí kéo dài từ chân tóc xuống thái dương bên trái. Khi ông ta cất tiếng nói, Roran nhận xét người đàn ông này rất cứng rắn.
- Mời ngồi. Dùng chút bánh ngọt và rượu mơ nhé? Tôi không có nhiều thời gian đâu, nhưng nhìn các vị như vừa trải qua mấy tuần lễ vất vả trên đường, tôi lại nhớ những chuyến đi khát khô cả cổ của mình.

Lão Loring cười cười:
- Vâng, một chút rượu là qúy lắm rồi. Ngài hào phóng quá.
Birgit bảo:
- Xin cho thằng con tôi một ly sữa thôi.
Jeod rung chuông gọi bồi, dặn dò xong, ông ngả người trên ghế, nói:
- Chắc các vị đã biết tôi là ai, nhưng tôi chưa được biết tên các vị.
Roran:
- Tên tôi là Cây-búa Dũng-mãnh, mong được ngài giúp đỡ.
Lần lượt mọi người xưng tên giả. Birgit là Mardra, Nolfavrell là Kell, ông lão Loring là Wally.
Jeod chậm rãi nói:
- Rolf cho tôi biết các vị muốn gặp tôi để bàn chuyện làm ăn. Tôi thẳng thắn trình bày, hiện nay ở địa vị mình, tôi không còn có thể mua hay bán hàng hoá gì nữa. Không tiền gom hàng, không tàu bè trên biển. Vậy thì tôi có thể làm gì được cho các vị đây?
Roran chống tay lên gối, mấy ngón tay xoắn vào nhau, suy tính: “Chỉ lỡ một lời là hỏng chuyện hết”. Anh thận trọng lên tiếng:
- Thưa ngài, tôi xin nói ngắn gọn, chúng tôi là đại diện cho một số người, vì một lý do không thể tới đây. Chúng tôi cần mua một lượng hàng lớn, với…một số tiền nhỏ nhoi. Tôi được biết ngày mốt người ta đấu giá tài sản của ngài, để trang trải công nợ, vì vậy chúng tôi đề nghị xin mua một số hàng chúng tôi đang cần. Vì áp lực công việc, chúng tôi không thể chờ tới ngày đấu giá. Nếu chúng ta thoả thuận, chúng tôi sẽ lên đường đêm nay, trễ nhất là sáng mai.
- Các vị cần những mặt hàng gì?
- Lương thực và tất cả những gì cần thiết cho một chuyến đi biển dài ngày.
Mặt Jeod thoáng vẻ quan tâm:
- Các vị đã nhắm một tàu nào chưa? Tôi biết tất cả tàu bè hoạt động trên vùng biển này suốt hai mươi năm nay.
- Chưa…Chúng tôi chưa quyết định được chuyện này.
- Giờ thì tôi hiểu lý do các vị tìm đến tôi rồi, nhưng tôi e rằng các vị đã tốn công vô ích…
Chỉ tay quanh phòng, ông tiếp:
- Tất cả những gì các vị thấy đây là của chủ nợ, không thuộc về tôi nữa. Nếu tôi bán mà không được phép của họ, tôi sẽ bị tống vào tù vì tội lừa đảo.
Jeod ngừng nói khi thấy Rolf vào phòng với khay bánh ngọt, mấy ly pha lê, một cốc sữa và một bình rượu. Hắn dặt cái khay lên kỷ rồi rót rượu cho từng người. Roran đón ly rượu, vừa nhấp chút rượu ngọt dịu vừa tự hỏi, theo phép lịch sự lúc này cáo lui để đi lo tiếp công việc được chưa.
Khi Rolf lui ra, Jeod uống cạn cốc rượu rồi nói:
- Có thể tôi chẳng giúp gì được, nhưng tôi biết có một số đồng nghiệp, họ có thể …giúp các vị. Nếu cho tôi biết thêm chút chi tiết vê những món hàng các vị cần mua, tôi mới có thể giới thiệu đúng người đúng việc được.
Roran thấy chuyện này không có gì đáng ngại, nên kể ra một danh sách những thứ dân làng cần, những thứ thật sự cần thiết và cả những thứ cả đời họ mơ không thấy. Ông Loring và Birgit nhắc thêm những thứ Roran quên, chẳng hạn như đèn dầu. Jeod nhìn khắp lượt rồi ánh mắt chăm chú vào Roran. Hình như ông thương gia này biết, hay nghi ngờ, anh đang che dấu điều gì.
- Tôi thấy dường như đây là số dự trữ đủ để cung cấp cho mấy trăm người tới tận Feinster hoặc Aroughs…hoặc còn xa hơn nữa. Thú thật, mấy tuần nay tôi rất bận, nhưng tôi không nghe nói có khách hàng nào từ những nơi đó tới thành phố này.
Roran cố bình thản, lặng thinh trước ánh mắt dò hỏi của Jeod. Anh tự trách mình đã tiết lộ quá nhiều để ông ta có thể đi đến kết luận như thế.
Nhưng Jeod chỉ nhún vai nói:
- Tuy nhiên đó là việc riêng của các vị. Tôi đề nghị các vị hãy tới gặp Galton trên Phố Chợ để mua thực phẩm những thứ khác thì đến gặp lão Hamilton ở ngoài bến cảng. Hai người này rất đàng hoàng, hàng hoá bảo đảm, giá cả lại rẻ.
Với tay lấy một cái bánh, ông quay qua hỏi Nolfavrell:
- Sao, cậu bé Kell, thích thành phố Teirm không?
- Dạ thích. Cháu chưa thấy nơi nào rộng lớn như ở đây.
- Thật không?
- Dạ thật
Cảm thấy sẽ bất lợi nếu cứ để Nolfavrell bô bô mãi với ông nhà buôn này, Roran ngắt ngang:
- Thưa ngài, tôi hơi tò mò, vì sao giữa những ngôi nhà nguy nga này, kế bên nhà ngài lại có một cửa hàng khiêm tốn vậy?
Lần đầu tiên Jeod thoáng cười, nụ cười làm ông tươi tỉnh và như trẻ lại hàng chục tuổi:
- Chủ cửa hàng đó là một bà hơi tàng tàng. Đó là bà lang Angela, một thầy thuốc giỏi nhất mà tôi được biết. bà ta mở phòng thuốc này từ hơn hai mươi năm nay. Mấy tháng trước bà ta bỗng bỏ đi đâu không biết. Cũng đáng tiếc vì bà Angela là một người hàng xóm thú vị lắm.
Thằng Nolfavrell nhìn mẹ, bật hỏi:
- Đó là người mà bà Gertrude muốn gặp, phải không mẹ?
Roran cố nén một tiếng quát, lừ mắt nhìn Nolfavrell làm cu cậu rúm mình trên ghế. Tên bà Gertrude không có nghĩ gì với Jeod, nhưng nếu thằng Nolfavrell không giữ miệng, nó sẽ phun ra nhiều điều nguy hiểm khác. Roran tự nhủ: “Đi khỏi đây thôi”. Anh đặt ly rượu xuống bàn.
Nhưng ngay lúc đó, Roran cảm thấy tên bà Gertrude đã gợi cho người thương gia một điều gì. Mắt ông mở lớn đầy kinh ngạc, hai tay nắm chặt thành ghế, trừng trừng cố nhìn mặt thật của Roran qua bộ râu rậm rạp.
Jeod thều thào:
- Roran …Roran Garrowson.


Một đồng minh bất ngờ


Roran đã nhổm mình khỏi ghế, sẵn sàng rút cây búa từ thắt lưng khi nghe đến tên cha. Chỉ một điều ngăn anh nhảy tới đánh cho Jeod bất tỉnh: đó là “Vì sao ông ta biết Garrow”.
Loring và Birgit cũng đứng bật dậy, rút dao từ tay áo ra. Cả thằng Nolfavrell cũng lăm lăm lưỡi dao găm.
Jeod không hề nao núng trước những con người đằng sát khí, chỉ lặng lẽ hỏi:
- Cháu là Roran, phải không?
- Sao ông biết?
- Vì Brom đã đưa Eragon tới đây và vì cháu rất giống người em họ. Khi ta thấy hình cháu và Eragon, ta biết là triều đình đang truy lùng cháu và chắc chắn cháu phải chạy trốn. Nhưng…
Nhìn ba người kia, ông lắc đầu:
- Nhưng dù có giàu tưởng tượng đến đâu, ta cũng không thể ngờ cháu đem theo toàn bộ dân làng Carvahall.
Sững sờ, Roran buông mình lại xuống ghế, cây búa đặt ngang đùi:
- Eragon đã tới đây?
- Phải, cả Saphira nữa.
- Saphira?
Một lần nữa, Jeod tỏ ra kinh ngạc:
- Vậy là cháu không biết sao?
- Biết gì?
Đắn đo một lúc lâu, Jeod nói:
- Ta nghĩ đã đến lúc chúng ta đừng đóng kịch nữa, Roran Garrowson ạ. Hãy trò chuyện cởi mở, đừng e dè gì. Ta sẽ trả lời tất cả những câu hỏi cháu cần biết, như vì sao triều đình truy lùng cháu, nhưng đáp lại ta cần được biết vì nguyên nào cháu tới thành Teirm... ta cần biết nguyên nhân thật sự.
Lão Loring lên tiếng hỏi:
- Nhưng vì sao chúng tôi phải tin ông, ông Jeod? Biết đâu ông chính là người của Galbatorix ?
- Tôi là bạn của Brom hơn hai mươi năm, từ trước khi ông ta trở thành người kể chuyện trong làng Carvahall. Khi ông ta và Eragon sống dưới mái nhà này, tôi đã cố gắng giúp bằng mọi cách. Nhưng vì lúc này không có mặt hai người đó ở đây để làm chứng cho lời nói của tôi, tôi đặt mạng sống của mình trong tay các người, muốn làm gì cũng được. Tôi đã không kêu cứu, cũng sẽ không chống trả. Tôi chỉ yêu cầu một điều, hãy kể tôi nghe mọi chuyện và lắng nghe những gì tôi kể, rồi các người tự quyết định việc phải làm. Chúng ta nói chuyện đàng hoàng thì có hại gì đâu.
Birgit nhìn Roran:
- Có thể ông ta cố gắng bảo toàn tính mạng thôi.
- Có thể, nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu ông ta biết những gì.
Kéo ghế tới sát cửa, Roran ngồi chặn bất kỳ kẻ nào có thể vào thình lình.
- Được. Ông muốn nói chuyện, vậy tôi và ông bắt đầu.
- Tốt nhất là cháu nói trước đi.
- Nếu tôi nói trước, những câu trả lời của ông không đúng, chúng tôi sẽ phải giết ông.
Jeod khoanh tay trước ngực:
- Đồng ý.
Roran bị xúc động bởi vẻ dũng cảm của người thương gia, dường như ông ta không quan tâm số mạng rủi ro có thể xảy ra.
Thường ôn lại những sự kiện từ khi Ra’zac xuất hiện trong làng, nhưng chưa bao giờ Roran tả lại từng chi tiết về chúng cho người khác nghe. Bây giờ ngồi kể, anh bàng hoàng nhận ra biết bao chuyện đã xảy ra với anh và dân làng trong một thời gian ngắn như thế và chỉ trong thời gian ngắn đó triều đình đã huỷ hoại đời sống của họ trong thung lũng Palancar một cách quá dễ dàng. Sống lại những giây phút khủng khiếp đó làm Roran đau thắt ruột, nhưng cũng có chút hả hê vì Jeod tỏ ra kinh ngạc đến sững sờ khi nghe chuyện nông dân đuổi đánh lính triều đình và Ra’zac bật ra khỏi trại của chúng, vụ làng bị bao vây, vụ phản bội của lão Sloan, vụ Katrina bị bắt cóc, chuyện Roran thuyết phục dân làng ra đi và những gian khổ suốt hành trình tới thành Teirm.
Jeod kêu lên:
- Trời đất! Nói có anh linh các đấng tiên vương, chưa bao giờ ta nghe một chuyện lạ lùng đến thế. Thật phi thường. Thử nghĩ sau khi chọc giận Galbatorix đến phát điên, bây giờ toàn thể dân làng lại đang lẩn trốn ngay bên ngoài một thành phố lớn nhất của triều đình mà bạo chúa không hề hay biết. Qủa là một chuyện phi thường!
Ông lắc đầu đầy khâm phục. Lão Loring lên tiếng:
- Hoàn cảnh đẩy đưa chúng tôi phải liều mạng vậy thôi…
- Gặp hoàn cảnh đó, tôi…
Jeod ngưng bặt khi tiếng nắm cửa rọt rẹt sau lưng Roran. Tiếp theo là những tiến đập cửa thình thình và tiếng đàn bà the thé:
- Jeod, mở cửa ra. Không trốn trong cái hang đó mãi được đâu.
Jeod thì thầm hỏi:
- Tôi mở được không?
Roran búng tay về phía Nolfavrell, thằng nhóc ném ngay con dao găm cho anh. Roran nhón gót vòng qua bàn viết, kề dao ngay cổ Jeod.
- Bảo bà ta đi đi.
Jeod cao giọng nói:
- Lúc này không nói chuyện được. Anh đang họp.
- Đồ giả dối. Anh không bận gì hết. Anh bị phá sản rồi. ra gặp tôi ngay, đồ hèn. Anh có còn là một thằng đàn ông không, mà không dám nhìn thẳng vào mắt vợ.
Im lặng một lúc, vẫn không nghe tiếng trả lời, âm thanh tăng thêm độ:
- Đồ hèn! Đồ chuột thiến, đồ chấy rận. Anh không đủ tài đứng một quầy thịt, nói chỉ tới một công ty tàu biển. Nếu biết trước, cha tôi đâu đến nỗi mất hết tiền bạc như thế chứ.
Những tiếng chửi rủa sa sả làm Roran nhăn mặt nghĩ: “Chắc mình không kìm giữ nổi Jeod, nếu mụ ta cứ tiếp tục mãi."
Jeod quát lên:
- Bà im đi. Tình hình đã không đến nỗi này nếu mồm miệng bà không chửi rủa suốt ngày như một mụ bán cá thế.
Giọng mụ lạnh tanh:
- Chồng yêu quý, tôi sẽ đợi anh trong phòng ăn, nhưng nếu anh có ý định cắt nghĩa mọi chuyện trong bữa ăn tối, tôi sẽ đi khỏi cái nhà đáng nguyền rủa này ngay, và sẽ không bao giờ trở lại.
Tiếng chân của người vợ Jeod xa dần. Roran thu lưỡi dao trên cổ ông ta lại, ném trả Nolfavrell, rồi trở lại ghế ngồi chặn sau cánh cửa.
Jeod xoa xoa cổ, nhăn mặt nói:
- Nếu chúng ta không đi đến thông cảm nhau, thà các anh giết tôi đi, còn hơn tôi lại phải cắt nghĩa cho Helen vì sao đã la lối bà ấy một cách vô lý như thế.
Lão Loring nói:
- Tôi thông cảm với ông, ông Jeod.
- Thật tình…không phải lỗi bà ấy đâu. Chỉ vì bà ấy không thể hiểu nổi vì sao mà quá nhiều tai ương đổ lên đầu chúng tôi đến thế…
Jeod thở dài lẩm bẩm:
- Có lẽ lỗi tại tôi…vì tôi đã không dám nói cho bà ấy biết…
Thằng Nolfavrell buột miệng hỏi:
- Biết gì ạ?
- …rằng ta là gián điệp của Varden. Roran, có lẽ ta phải trở lại từ đầu. Mấy tháng nay cháu có nghe đồn về một tân kỵ sĩ rồng đối đầu với Galbatorix không?
- Có nghe loáng thoáng, nhưng tôi không tin.
Jeod ngập ngừng:
- Ta không thể nói khác được, Roran ạ. Chuyện đó có thật và … kỵ sĩ đó chính là Eragon, em họ của cháu. Hòn đá nó nhặt được trong núi Spine, thật ra là một trứng rồng mà ta đã giúp Varden lấy trộm từ Galbatorix nhiều năm trước. Con rồng đã nở ra cho Eragon và nó đã đặt tên là Saphira. Đó là nguyên nhân vì sao lần đầu tiên Ra’zac tới thung lũng Palancar. Và vì sao Eragon trở thành kẻ thù khủng khiếp nhất của triều đình, Galbatorix phái Ra’zac trở lại, hy vọng nếu chúng bắt cháu, sẽ ép được Eragon xuát đầu lộ diện.
Roran ngửa cổ ha hả cười đến chảy nước mắt, đau thắt bụng. Anh bất cần những cái nhìn đầy hốt hoảng của ông già Loring, Birgit và Nolfavrell. Anh không thể nín cười vì những tiết lộ lố bịch của Jeod, cười vì những lời nói của ông ta, biết đâu, lại rất có thể là sự thật.
Vừa thở dồn dập vừa cố bình tĩnh lại, Roran quệt nước mắt bằng tay áo, nhìn Jeod, cười cười, nói:
- Có thể câu chuyện của ông cũng có vẻ hợp lý, nhưng tôi còn có thể nghĩ ra hàng chục kiểu cắt nghĩa khác nữa…

Birgit lên tiếng:
- Nếu hòn đá của Eragon là một trứng rồng, vậy thì nó từ đâu tới?
- A, chuyện này thì tôi rất rõ…
Ngồi thoải mái trong ghế, Roran lắng nghe với vẻ nghi ngờ khi Jeod kể câu chuyện huyền hoặc về Brom – ông lão luôn cộc cằn gắt gỏng – đã có thời là một kỵ sĩ rồng như thế nào, đã giúp thành lập Varden ra sao. Còn Jeod đã phát hiện ra con đường bí mật dẫn vào Uru’baen bằng cách nào. Vì sao Varden tổ chức vụ trộm ba trứng rồng còn lại của Galbatorix, nhưng chỉ giải thoát được một, sau khi Brom chiến đấu và giết chết phản đồ Morzan. Phi lý đến thế nhưng vẫn chưa đủ, Jeod còn nói về một bản cam kết giữa Varden, người lùn và thần tiên: trứng rồng được luân chuyển giữa Du Weldenvarden và dãy núi của Beor, và đó là lý do vì sao trứng rồng và những tuỳ tùng tới sát rừng già và bị lọt ổ phục kích của Tà thần.
“Ha ha, lại còn có cả một Tà Thần nữa!” Roran thầm nhủ.
Vốn tính đa nghi, sự chú tâm của Roran tăng gấp đôi khi Jeod bắt dầu kể về vụ Eragon bất ngờ gặp quả trứng nuôi con rồng Saphira lớn lên trong khu rừng gần trang trại Garrow. Tuy thời gian đó Roran đang bận rộn sửa soạn tới làm việc tại nhà máy xay của Dempton ở Therinsford, nhưng anh còn nhớ Eragon đã ngơ ngẩn như mất hồn, luôn tìm cách ra khỏi nhà, làm gì không ai biết…
Khi Jeod cắt nghĩa nguyên nhân cái chết của cha anh, Roran càng thêm căm hận Eragon đã cả gan lén lút giữ con rồng, gây ra biết bao hiểm hoạ cho mọi người. “Chính vì nó mà cha mình đã chết”. Roran bật lên tiếng hỏi:
- Nó nghĩ sao mà lại làm như vậy?
Ánh mắt cảm thông của Jeod khi trả lời càng làm anh khó chịu.
- Ta tin Eragon đã biết rằng, các kỵ sĩ và những con rồng của họ vô cùng gắn bó, không thể tách rời. Eragon thà chặt đứt một chân nó, chứ không thể để Saphira bị đau đớn.
- Tại sao không. Chính vì nó mà tôi phải làm rất nhiều điều đau đớn, vì vậy tôi biết…nó cũng có thể…phải làm được.
- Cháu có quyền nghĩ vậy, nhưng đừng quên lý do Eragon rời khỏi thung lũng Palancar chính là để bảo vệ cháu và những người ở đó. Quyết định đó chẳng dễ dàng dâu. Theo quan điểm của nó, nó đã tự hy sinh để bảo đảm an toàn cho anh và để báo thù cho cậu. Dù chưa chắc ra đi đã đạt được những điều như mong ước, nhưng nếu Eragon ở lại mọi chuyện sẽ còn tệ hại hơn.
Roran lẳng lặng nghe, cho đến khi Jeod nói về lý do ông Brom và Eragon tới thành Teirm là để thử tìm kiếm tung tích Ra’zac trong đống hồ sơ vận chuyển hàng của thành phố, anh mới bật khỏi ghế, kêu lên:
- Có tìm thấy gì không?
- Quả nhiên là chúng tôi đã tìm ra.
- Ôi, vậy thì hiện nay chúng ở đâu? Hãy rủ lòng nhân từ mà nói ngay đi, ông biết điều này đối với tôi quan trọng đến thế nào mà.
- Ngoài thông tin rất rõ trong hồ sơ, sau đó tôi còn nhận được tin từ Varden, Eragon xác định lại là: hang ổ của Ra’zac trong vùng núi đá Helgrind gần Dras-Leona.
Roran hồi hộp nắm chặt cán búa, suy tính: “Đường tới Dras-Leona rất xa, nhưng thành Teirm chỉ có một đường độc đạo từ đây tới tận cùng phía nam của núi Spine. Nếu mình có thể đưa mọi người an toàn xuống bến bãi, sau đó mình sẽ tới Helgrind để cứu Katrina, nếu nàng bị giam tại đó, rồi sẽ theo dòng sông Kiet xuôi tới Surda sau”.
Dường như những tính toán của Roran đều lộ ra trên mặt, nên Jeod lên tiếng:
- Không được đâu, Roran.
- Sao?
- Không ai có thể lên tới ngọn Helgrind. Đó là một núi đá đen trơ trụi, thẳng đứng, không leo lên được. Cứ ngẫm lại hai con “chiến mã” gớm ghiếc của Ra’zac, chắc chắn chúng phải làm tổ tuốt trên đỉnh Helgrind cho được an toàn. Làm cách nào cháu lên được tới đó? Cho dù lên được, cháu có thật sự tin mình đương đầu nổi với hai con quỷ biết bay kia? Ta không nghi ngờ cháu là một chiến binh dũng cảm- dù sao cháu và Eragon phần nào cũng chung dòng máu – nhưng những kẻ thù này nguy hiểm hơn bất cứ một người bình thường nào.
Roran lắc đầu:
- Tôi không thể bỏ mặc Katrina. Có thể viển vông, nhưng tôi phải cố gắng cứu cô ấy, dù phải trả giá bằng mạng sống.
- Nếu cháu bị giết cũng có giúp gì được cho Katrina dâu. Nếu có thế, tôi xin được khuyên cháu: cố gắng tới Surda như dự định. Ở đó, ta tin chắc, cháu sẽ có thêm Eragon giúp đỡ. Kể cả Ra’zac cũng không thể sánh bằng một kỵ sĩ và một con rồng khi công khai đụng độ.
Trong trí Roran hiện lên hình ảnh hai con “chiến mã” khổng lồ, da đen nhẫy của Ra’zac. Dù muốn dù không anh phải công nhận, việc hạ hai con quái đó là vượt quá khả năng của mình. Roran hậm hực nghĩ: “Eragon! Bằng máu tao đã đổ ra, tao thề trước vong linh cha, tao sẽ bắt mày chuộc những tội do mày gây ra, bằng việc phải cùng ta tấn công ngọn Helgrind. Chính mày tạo ra đống rác rưởi này, tao sẽ bắt mày dọn sạch”.
Roran nhắc Jeod:
- Xin ông nói tiếp đi.
Jeod kể về cái chết của ông Brom, của Murtagh (con trai phản đồ Morzan), vụ bị bắt và tẩu thoát tại Gil’ead, chuyến bay tuyệt vọng để cứu một nàng tiên, trận đại chiến giữa Urgals và người lùn trong địa đạo Farthen Dur, và chính nơi đây Eragon đã hạ gục một Tà-thần. Jeod cũng kể lại bằng cách nào Varden đã chuyển quân từ núi Beor để tới Surda và chuyện hiện nay Eragon đang ở sâu trong lãnh địa Du Weldenvarden để học những bí kíp về phép thuật và chiến lược của thần tiên, nhưng cũng sắp trở về.
Khi ông thương gia im lặng, Roran tới hội ý cùng Loring và mẹ con Birgit. Lão Loring hạ giọng:
- Tôi không thể nói ông ta nói thật hay bịa đặt, nhưng bấy kỳ con người nào trước mũi dao, mà còn bình tĩnh thêu dệt được một chuyện như thế, đều đáng sống. Một kỵ sĩ mới! Hừ, mà lại chính là Eragon !
- Còn chị, Birgit ?
- Tôi cũng không biết sao. Lạ lùng quá! Nhưng …những rất có thể là sự thật. Vì chỉ có một tân kỵ sĩ mới làm triều đình truy lùng chúng ta ráo riết vậy.
Mắt lão Loring long lanh sáng:
- Đúng vậy. Chúng ta đang sống trong những sự kiện nghiêm trọng hơn chúng ta tưởng. Thử nghĩ, có một tân kỵ sĩ, chế độ này sẽ bị dẹp sạch. Roran, bác nói thật, cháu đã hành động rất đúng.
- Còn em, Nolfavrell?
Được hỏi ý kiến, cậu chàng ra vẻ nghiêm túc, cắn môi đắn đo rồi mới nói:
- Em thấy ông Jeod có vẻ thành thật. Emm nghĩ là…chúng ta có thể tin ông.
Roran trở lại với Jeod, chống tay lên bàn nói:
- Thưa ông, đây là hai câu hỏi cuối cùng của chúng tôi: Ông Brom và Eragon trông ra sao? Và vì sao khi nghe đến tên bà Gertrude, ông lại biết là ai?
- Tôi biết Gertrude vì Brom có nhắc đến chuyện ông ta đã để lại một lá thư nhờ bà ta trao cho cháu. Brom thấp hơn tôi một chút, râu rậm, mũi khoằm, luôn mang theo một cây gậy chạm trổ. Và…nhiều khi ông ta tỏ ra rất khó tính. Eragon thì... còn nhỏ. Tóc nâu, mắt nâu và nó có một cái thẹo trên cổ tay, luôn miệng hỏi hết chuyện này qua chuyện khác.
Roran gật gù nghĩ: “Đúng là ông Brom và thằng em mình. Anh giắt cây búa vào thắt lưng. Loring và mẹ con Birgit cũng tra dao vào vỏ. Rồi cả bốn người trở lại ghế ngồi như những người khách bình thường. Roran hỏi:
- Giờ thì sao, ông Jeod? Ông có thể giúp chúng tôi không? Tôi biết ông đang gặp khó khăn nhưng chúng tôi…chúng tôi đang trong tình trạng rất tuyệt vọng, không biết trông cậy vào ai. Là một điệp viên của Varden, ông có thể bảo đảm cho chúng tôi được Varden giúp đỡ không? Chúng tôi rất nhiệt tình phục vụ quân cách mạng, nếu họ che chở chúng tôi khỏi cơn cuồng nộ của Galbatorix.
- Varden sẽ rất vui mừng, còn hơn cả vui mừng nữa, nếu các người gia nhập tổ chức họ. Điều này hẳn cháu đã đoán biết rồi. Còn chuyện ta giúp…
Vuốt tay lên mặt, Jeod nhìn kệ sách sau lưng Loring, chậm rãi tiếp:
- Gần một năm nay, ta biết mình – cũng như một số nhà buôn tại đây và những nơi khác, những người đã từng tiếp tay với Varden – đã bị lộ. Đó là lý do ta không dám chạy tới Surda. Với sự theo dõi của triều đình, ta sẽ bị bắt ngay nếu có dấu hiệu bỏ trốn. ta chỉ còn đành ngồi đây mà nhìn tài sản tiêu tan, không thể chống đối, cũng không thể trốn thoát khỏi nơi này. Nhưng điều tệ hại hơn là: không thể chuyển bất cứ thứ gì cho quân cách mạng nữa. Họ cũng không dám gửi đoàn xe nào tới chúng ta để nhận hàng. Ta e rằng, khi ta không còn có ích gì cho triều đình nữa, quan trấn thủ Risthart sẽ còng tay ta mà tống vào tù. từ khi tuyên bố phá sản, ta chờ đợi điều đó hàng ngày.
Birgit đoán:
- Có lẽ chúng mong ông bỏ trốn để có thể tóm gọn luôn những ai chạy theo ông.
- Cũng có thể là vậy. Nhưng bây giờ có các người đây, ta có một phương tiện rời khỏi nơi này mà không bao giờ chúng ngờ tới.
Lão Loring hỏi:
- Vậy là ông đã có kế hoạch?
Jeod tươi tỉnh nói:
- Ồ, đúng thế. Bốn người có nhìn thấy con tàu Cánh Rồng neo ngoài cảng không?
- Có.
- Cánh Rồng là của Công ty Vận tải Blackmoor, một công ty phục vụ quân sự cho triều đình, cung cấp đồ tiếp tế cho quân đội. Gần đây chúng hoạt động tới mức báo động tuyển trai tráng vào lính, xung công trâu bò dê ngựa. Chưa biết chắc đây là dấu hiệu gì, nhưng rất có thể Galbatorix có ý định tiến quân vào Surda. Tuy nhiên, trong vòng một tuần nữa, Cánh Rồng sẽ giong buồm tới Feinster. Đó là con tàu hoàn hảo nhất từ xưa tới nay, do nhà thiết kế tàu bậc thầy Kinnel vẽ kiểu.
Lão Loring cười khùng khục:
- Hy vọng ông biết lái tàu. Đám chúng tôi chưa bao giờ rờ tay vào một thứ gì lớn hơn một chiếc xà lan đâu.
- Mấy người trong thủy thủ đoàn trên tàu của tôi vẫn còn tại thành Teirm này. Họ cũng cùng hoàn cảnh như tôi, không thể chạy trốn hay chiến đấu được. Tôi tin họ sẽ vui mừng nhảy lên mà chộp lấy dịp may này để tới Surda. Họ sẽ hướng dẫn các người khi ở trên Cánh Rồng. Không dễ, nhưng đâu còn chọn lựa nào khác nữa.
Roran nhoẻn cười. Kế hoạch đó rất trúng ý anh: tốc hành, dứt khoát và bất ngờ
Birgit nói:
- Ông bảo, cả năm qua không một chiếc tàu nào của ông – cũng như của các nhà buôn khác ủng hộ Varden tới đích được. Vậy thì làm sao chuyến này có thể thành công?
- Vì sự bất ngờ là lợi điểm của chúng ta. Luật đòi hỏi tàu buôn phải xin lộ trình và được quan chức cảng chấp thuận ít nhất là hai tuần, trước khi rời bến. Nếu chúng ta ra đi thình lình, một tuần hoặc hơn nữa, Galbatorix mới có thể cho tàu rượt theo. Nếu may mắn, chúng ta sẽ không gặp nhiều cột buồm của những kẻ truy lùng chúng ta đâu. Vì vậy…nếu các vị hăng hái tham gia thử thách táo bạo này, thì đây là những việc chúng ta cần phải làm…


Chạy trốn


Sau khi cân nhắc mọi khía cạnh kế hoạch của Jeod và đồng ý thi hành - với một vài sửa đổi – Roran bảo Nolfavrell tới quán trọ Hạt Dẻ Xanh đón bà Gertrude và Mandel, vì Jeod mời cả nhóm về nhà ông nghỉ.
Jeod đứng dậy nói:
- Bây giờ tôi xin phép cáo lui để đi trình diện bà ấy, và cũng để xem bà ấy có đồng ý cùng đi tới Surda không. Các vị có thể nghỉ ngơi trong mấy phòng trên lầu hai. Bữa ăn dọn xong Rolf sẽ vào mời các vị.
Ông ra khỏi phòng, lão Loring nói nhỏ:
- Này, để ông ta đi hỏi ý bà chằn tinh đó, có là điều khôn ngoan không vậy?
Roran nhún vai:
- Khôn hay dại thì chúng ta cũng không thể ngăn ông ta được. Cháu thấy ông ta không làm vậy thì cũng chẳng được yên thân.
Thay vì vào phòng ngay, Roran đi vơ vẩn trong nhà vừa để suy nghĩ về những điều ông Jeod nói vừa tránh gặp mấy tay phục vụ. Anh đến bên cửa sổ trông xuống tàu ngựa cuối vườn, hít đầy lồng ngực không khí quen nồng mùi khói cỏ và phân chuồng.
- Cậu có ghét nó không?
Giật mình quay lại, Roran thấy Birgit đứng ngay bực cửa. Chị ta vừa cuốn lại khăn choàng trên vai, vừa bước lại gần. Dù biết rất rõ câu hỏi của chị, Roran vẫn hỏi:
- Ghét ai?
- Eragon. Cậu ghét nó không?
Nhìn lên bầu trời đang tối dần, Roran trầm ngâm nói:
- Tôi không biết. Tôi ghét nó vì đã gây nên cái chết của cha tôi, nhưng nghĩ nó vẫn là người trong gia đình, tôi lại thương nó…Chắc tôi sẽ chẳng muốn gặp lại Eragon, nếu không vì cần nó để cứu Katrina.
- Cũng như tôi cần và ghét cậu vậy, Cây-búa.
- A, vậy thì chúng ta phải đoàn kết với nhau, đúng không? Chị giúp tôi tìm Eragon, để mượn tay nó giết Ra’zac trả thù cho anh Quimby…
- Đúng. Sau đó chính tay tôi sẽ tính sổ cậu.
Roran nhìn thẳng đôi mắt không hề chớp trong một lúc của Birgit, nhận ra sự ràng buộc giữa hai người. Anh cảm thấy phấn chấn vì hai người cùng chia sẻ một mục đích, một ngọn lửa chăm hờn như nhau; điều đó thôi thúc hai người hành động, trong khi người khác còn e ngại ngập ngừng. Dường như, trên phương diện tinh thần, chị ta mang cùng dòng máu với Roran.
Trở vào, khi qua phòng ăn, Roran nghe tiếng ông Jeod. Anh tò mò nhìn qua khe cửa: Jeod đang đứng trước một người đàn bà nhỏ bé, tóc vàng – Roran đoán là bà Helen.
- Anh tưởng tôi tin đó là chuyện thật sao?
- Không. Anh biết em không tin.
- Vậy mà anh vẫn rủ tôi đi trốn cùng anh?
- Đã có lần em bảo muốn rời xa gia đình, đi khắp nơi cùng anh. Em đã năn nỉ anh đưa em đi ngay khỏi thành Teirm này.
- Phải. Đã có lần, nhưng khi đó vết thẹo và thanh gươm của anh làm tôi lầm tưởng anh là một con người đầy hào khí…
- Anh vẫn là con người đó. Anh biết đã có lỗi với em, Helen. Nhưng anh vẫn yêu em và chỉ mong em được an toàn. Ở lại đây, anh không còn chút tương lai nào, chỉ đem lại những bất hạnh đến gia đình em. Em có thể trở về với cha hay ra đi cùng anh. Điều nào làm em hạnh phúc hơn thì cứ làm. Tuy nhiên, anh xin em cho anh một cơ hội thứ hai, để có can đảm rời khỏi nơi này và bỏ lại tất cả những kỷ niệm cay đắng của chúng ta lại phía sau. Chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu tại Surda.
Im lặng một lúc, Helen hỏi:
- Cậu bé ở đây trước kia là kỵ sĩ rồng thật sao?
- Thật. Gió đang đổi chiều rồi, Helen. Varden sắp mở cuộc tấn công, người lùn đang tập kết lại, thần tiên đang xôn xao chờ đợi giờ hành động trong các nơi ẩn cư của họ. Chiến tranh đã cận kề và nếu chúng ta may mắn, bạo chúa Galbatorix đã đến ngày tàn.
- Anh có phải là một nhân vật trong tổ chức Varden không?
- Anh đã có công phần nào trong việc thu hồi trứng của Saphira.
- Vậy thì anh cũng là người có địa vị tại Surda chứ?
- Anh…đoán thế.
Jeod đặt tay lên vai vợ. Helen để yên, thì thầm:
- Jeod, đừng ép em. Lúc này em chưa thể quyết định được gì đâu.
- Em sẽ nghĩ lại chứ?
Helen rùng mình:
- Ồ, có chứ, em sẽ suy nghĩ kỹ chuyện này.
Roran quay gót, tim nhói đau, nghĩ tới Katrina.
Trong bữa ăn tối, Roran thấy đối mắt Helen luôn hướng về anh. Roran tin chắc, bà ta đang quan sát, đánh giá và so sánh anh với Eragon.
Sau bữa ăn, Roran ngoắc Mandel ra sân sau nhà:
- Ta muốn nói chuyện riêng với em.
- Chuyện gì ạ?
Roran vuốt ve lưỡi búa, cảm thấy mình giống hệt cha mỗi khi ông giảng dạy về trách nhiệm của một con người; thậm chí Roran còn thấy mình bật ra những lời nói giống như ông. Anh thầm nghĩ: “Vậy là thế hệ này đã chuyển tiếp qua thế hệ khác”.
- Mandel, gần đây em tỏ ra quá thân mật với các thủy thủ trên tàu…
Mandel cãi lại ngay:
- Họ đâu phải là kẻ thù của chúng ta?
- Lúc này ai cũng có thể là kẻ thù. Clovis và người của ông ta có thể phản chúng ta bất kỳ khi nào. Tuy nhiên đó không phải là vấn đề, nếu chuyện thân mật của em với họ không làm em xao lãng bổn phận…
Mandel cứng người, hai má đỏ bừng nhưng không chối tội. Mừng thầm, Roran hỏi:
- Điều quan trọng nhất chúng ta phải làm lúc này là gì, Mandel?
- Bảo vệ gia đình mình.
- À, còn gì khác không?
Mandel ngập ngừng rồi thú thật:
- Em không biết.
- Giúp đỡ người khác. Đó là cách duy nhất để chúng ta sống còn. Ta thật sự thất vọng, khi nghe em đánh bạc với thủy thủ bằng lương thực. Điều đó làm tất cả dân làng càng khốn khổ hơn. Thời gian bài bạc, tập phóng dao đó, đáng lẽ em nên sử dụng vào việc săn bắn kiếm miếng ăn thêm cho mọi người. Cha mất rồi, em phải lo săn sóc cho mẹ và các em. Em hiểu chứ?
Mandel nghẹn ngào:
- Em hiểu rồi.
- Những chuyện kia có gì xảy ra nữa không?
- Không bao giờ.
- Tốt. Nào, anh không gọi em ra đây để khiển trách, mà để trao cho em một công việc. Một vịêc anh không tin bấy kỳ ai, ngoài bản thân anh. Em sẵn sàng chưa?
- Sẵn sàng.
- Sáng mai anh cần em trở lại trại, chuyển một tin cho ông Horst. Ông Jeod tin rằng triều đình đã rải gián điệp rình mò quanh nhà này. Bằng mọi cách em đừng để bị theo dõi. Ra khỏi thành phố đánh lạc hướng kẻ nào dám theo em. Nếu cần thiết, em phải giết hắn. Gặp Horst hãy nói với ông ấy là…
Khi Roran dặn dò, anh thấy mặt chú nhóc chuyển từ ngạc nhiên sang căng thẳng tới kinh hoàng. Nghe xong, Mandel hỏi:
- Lỡ…ông Clovis phản đối thì sao?
- Đêm đó bánh lái xà lan sẽ bị bẻ gãy. Một trò không đàng hoàng, nhưng không làm vậy, có thể Clovis hay người của ông ta sẽ tới Teirm trước em và dân làng. Đó mới thật sự là tai họa.
- Em sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu.
- Tốt.
Roran mỉm cười, khoan khoái vì đã giải quyết xong vấn đề Mandel và tin rằng cậu bé sẽ làm mọi cách để báo tin kịp thời cho chú Horst. Trở vào nhà, Roran chúc chủ nhân ngủ ngon, rồi bước về phòng ngủ.
Suốt ngày hôm sau, vắng mặt Mandel, nhóm còn lại của Roran lợi dụng thời gian chờ đợi để nghỉ ngơi, mài dũa vũ khí, ôn lại chiến lược.
Từ sáng tới chiều, họ chỉ vài lần thấy nữ chủ nhân lăng xăng từ phòng này qua phòng khác, gã bồi Rolf, với hàm răng trắng bóng như ngọc trai, xuất hiện nhiều hơn. Tuyệt đối không thấy ông Jeod.
Hôm đó Jeod ra khỏi nhà đi dạo trong thành phố - rồi làm như tình cờ - ông thương gia đầu bạc gặp gỡ mấy người quen cũ mà ông từng tin cẩn trong những chuyến hải hành trước kia.
Khi trở lại nhà, ông nói với Roran:
- Chúng ta có thêm năm sau tay nữa. Hy vọng là đủ rồi.

Suốt buổi tối, Jeod ở trong thư phòng, hý hoáy tạo những giấy tờ hợp pháp cho chuyến đi.
Ba giờ trước khi trời sáng, Roran, Loring và mẹ con Birgit ra khỏi giường, cố chống lại những cái ngáp dài trong khi tụ tập trên lối vào nhà. Tất cả trùm kín mặt trong những chiếc áo choàng dài. Jeod xuất hiện với một thanh kiếm nhỏ bên hông. Thanh kiếm mảnh mai rất thích hợp với dáng người cao thon và như nhắc nhở Jeod thật sự ông là ai.
Jeod châm cây đèn dầu, nâng cao trước mọi người, hỏi:
- Sẵn sàng chưa?
Tất cả gật đầu. Ông nâng then cửa, mọi người bước ra con đường lát đá vắng hoe. Phía sau, Jeod còn chần chừ nhìn lại cầu thang bên phải, nhưng không thấy Helen. Ông nhún vai, ra khỏi nhà, đóng cửa.
Roran đặt tay lên vai ông:
- Điều cần làm đã làm rồi. Ông đã cố gắng hết sức…
- Ta hiểu.
Tất cả lúp xúp chạy qua thành phố tối đen, chỉ chậm bước lại, quay vội mắt qua hướng khác, khi gặp vài người gác-dan, hoặc mấy tên trộm đêm. Mỗi lần nghe tiếng bước chân tren những mái nhà gần đó, Jeod lại lèm bèm:
- Kiểu thiết kế thành phố này chỉ có lợi cho tụi đạo chích, thoải mái leo từ nhà này sang nhà khác.
Họ đi chầm chậm khi tới gần cổng đông thành phố. Cổng này mở ra cảng, nên mỗi đêm chỉ đóng bốn tiếng, giới hạn tối đa sự cản trở việc buôn bán. Vì vậy, mới giờ khắc này đã có nhiều người đang di chuyển qua cổng.
Dù Jeod đã báo cho mọi người biết trước những gì có thể xảy ra, Roran cảm thấy lo sợ khi mấy tên lính gác hỏi nghề nghiệp của cả nhóm. Cổ khô khốc, Roran nuốt nước bọt, trong khi tên lính gác thứ hai kiểm tra cuộn giấy ông Jeod vừa trình ra.
Sau cả phút dài đằng đẵng, hắn trao lại giấy tờ cho Jeod, nói:
- Qua đi.
Ra tới cầu cảng, Jeod nói ngay:
- May quá, gặp ngay thằng mù chữ.
Sáu người đứng chờ trên sàn gỗ ướt lép nhép cho đến khi lần lượt từng người của ông Jeod xuất hiện từ trong đám sương mù dày đặc. Đám này đều lặng lẽ, mặt mày dữ tợn, tóc thắt bím dài tới lưng, tay và mặt chằng chịt những vết thẹo. Nhìn mấy người mới tới, Roran vừa nể vừa thích và anh đoán họ cũng nể và mến mình. Tuy nhiên họ không ưa Birgit.
Một anh chàng cao lớn cộ cằn nhất bọn, hất ngón tay về phía Birgit hỏi ông Jeod:
- Sao ông không nói trong cuộc chiến này có đàn bà. Làm sao tôi có thể tập trung khi có mấy mụ vô dụng lù lù chắn lối chứ?
Nolfavrell nghiến răng nói:
- Không được phép nói về bà bằng giọng đó.
- A, lại còn tha theo một thằng nhóc nữa chứ.
Ông Jeod trầm tĩnh lên tiếng:
- Chị Birgit này đã từng choảng nhau với Ra’zac. Còn chú “nhóc” con trai chị đã giết một trong những tên lính ưu tú nhất của Galbatorix đấy. Uthar, anh đã làm được thế chưa?
Một tay khác càu nhàu:
- Không được. Tôi không cảm thấy yên tâm khi có đàn bà quanh quẩn gần bên. Họ chỉ đem lại xúi quẩy. Một người đàn bà không thể…
Hắn chưa dứt lời, Birgit tung đòn chẳng giống một phụ nữ chút nào. Cú đá như chớp trúng giữa hai đùi và lưỡi dao kề sát cổ Uthar. Chi giữ nguyên vị thế cho mọi người đều thấy rõ, rồi mới buông hắn ra. Uthar lăn trên sàn, ôm chỗ đau, bật ra hàng tràng câu chửi thề.
- Còn ai phản đối nữa không?
Birgit hỏi. Nolfavrell trợn mắt, há mồm nhìn mẹ.
Roran kéo mũ trùm đầu xuống, giấu nụ cười, nghĩ: “May là họ không để ý tới bà Gertrude”
Khi không còn ai lên tiếng thắc mắc về Birgit, ông Jeod hỏi nhóm thủy thủ mới tới:
- Các anh đem đủ những gì tôi yêu cầu chứ?
Mỗi thuỷ thủ lấy từ trong áo ra một cây gậy nặng chịch và mấy cuộn dây thừng. Suốt thời gian cả nhóm lần mò xuống bến, ông Jeod đóng kín ngọn đèn. Tới gần bến, họ núp sau một nhà kho, nhìn ngọn đèn của lính gác chập chờn quanh con tàu. Cầu tàu đã được rút lên.
Ông Jeod thì thầm:
- Nhớ kỹ, điều quan trọng nhất là phải cảnh giác, tránh gây tiếng động cho tới khi chúng ta sẵn sàng lên đường.
Roran hỏi:
- Hai tên ở trên, hai tên ở dưới, đúng không?
- Thường là như vậy.
Uthar trả lời, rồi cùng Roran buộc dây quanh bụng – Roran để cây búa lại. Cả hai chạy xuống bến, tránh tầm nhìn của lính gác, rồi hụp xuống làn nước lạnh ngắt. Uthar lẩm bẩm:
- Ghét nhất phải làm chuyện này.
- Trước đây anh đã làm bao giờ chưa?
- Bốn lần rồi. Đừng ngừng cử động, chết cóng đó.
Bấm mấy cây cọc nhỏ, họ trườn ngược về nơi đã xuất phát, cho tới khi đụng kè đá dẫn tới tàu Cánh Rồng, rồi quay sang phải. Uthar ghé sát tai Roran:
- Tôi lo mỏ neo bên phải.
Roran gật. Cả hai lặn xuống dòng nước đen, rồi tách riêng hai ngả. Uthar bơi như một con nhái dưới mũi tàu, trong khi Roran nắm theo sợi dây neo tiến thẳng tới mỏ neo sát bờ. Rút cây gậy khỏi thắt lưng, anh cắn giữa hai hàm răng - vừa để răng khỏi va nhau lộp cộp vừa rảnh hai tay nắm chặt cây neo bằng thép, rồi lặng im chờ. Dây thép lạnh làm hai tay anh tê dại như nước đá.
Chưa đầy ba phút sau, Roran nghe tiếng đế ủng của Birgit trên đầu, khi chị ta tiến tới cuối kè đá, đối diện với con tàu. Rồi có tiếng Birgit nhỏ nhẹ gợi chuyện với mấy tay lính gác. Mong sao chúng mải chuyện mà không quan tâm tới phía mũi tàu.
Bát đầu!
Roran nắm chặt dây thép, kéo mình trườn dần. Anh ép chặt bàn tay lên vai phải, nơi bị Ra’zac cắn, đau buốt.
Từ lỗ hổng dẫn dây neo lên tàu, Roran leo lên cái bệ đỡ một hình tường đầu rồng, nhảy qua lan can xuống sàn tàu. Uthar đã có mặt tại đó, ướt sũng, thở hồng hộc.
Tay cầm gậy, hai người mon men xuống đuôi tàu. Họ đứng khựng lại khi thấy cách chừng mười mét, hai tên gác đang cúi mình qua lan can khoác lác với Birgit.
Nhanh như chớp, Roran và Uthar nhảy tới đập gậy lên đầu hai lính gác, trong khi chúng chưa kịp trở tay. Bên dưới, Birgit ngoắt tay gọi cả nhóm. Tất cả nhanh nhẹn đẩy cây cầu gỗ lên tàu. Uthar đón đầu, buộc chặt lên lan can.
Thấy Nolfavrell, Roran ném cho nó một cuộn dây, bảo:
- Trói chân tay, bịt miệng hai gã này lại.
Sau đó, trừ bà Gertrude, tất cả đều xuống hầm tàu truy lùng hai tên lính gác còn lại. Nhưng không chỉ hai, họ phát hiện thêm bốn tên nữa: chỉ huy thủy thủ đoàn, thủ kho, bếp trưởng và bếp phó. Tất cả đều bị lôi ra khỏi giường, đập cho ngất nếu chống cự, rồi trói thành một bó. Vụ này, Birgit càng chứng tỏ chị chẳng “vô dụng” chút nào. Một mình Birgit tóm gọn hai tên.
Jeod ra lệnh chuyển tất cả tù nhân lên boong để dễ kiểm soát, rồi tuyên bố:
- Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm mà thời gian chẳng có bao nhiêu đâu. Roran, Uthar sẽ chỉ huy tàu. Cháu và mọi người phải theo lệnh anh ta.
Suốt hai tiếng sau, tất cả đều tất bật. Toán thủy thủ lo trang thiết bị và cánh buồm. Roran và mấy người dân Carvahall dọn dẹp những hàng hoá không cần thiết trong chuyến đi, chẳng hạn như những kiện len. Họ nhẹ nhàng thả tất cả xuống nước, tránh gây tiếng động. Nếu toàn thể dân làng đều lên tàu, thì càng nhiều khoảng trống càng tốt.
Đang phụ cùng mọi người, bỗng nghe một tiếng kêu hốt hoảng:
- Có người đang tới!
Trừ Uthar và ông Jeod, mọi người trên boong đều vơ vũ khí, nằm rạp xuống. Jeod và Uthar thản nhiên đi lại như hai lính gác. Roran nằm bất động, tim đập thình lình, tự hỏi chuyện gì xảy ra đây. Anh nín thở khi thấy Jeod nói với kẻ lạ…rồi tiếng chân bước trên cầu gỗ vang lên.
Đó là Helen.
Mặc bộ đồ đơn giản, tóc gói gọn trong một cái khăn, vai khoác một túi căng phồng, Helen không nói một lời, đem hành lý vào thẳng ca bin chính, rồi trở ra đứng bên Jeod. Roran chưa bao giờ thấy một người đàn ông nào hạnh phúc hơn ông.
Bầu trời trên rặng núi Spine xa xa mới chỉ bắt đầu hừng sáng, một thuỷ thủ trong phòng lái – tay chỉ hướng bắc, miệng huýt sáo – ra dấu anh ta đã nhìn thấy dân làng.
Roran chạy vội lên boong, nhìn hàng người đang đổ xuống bờ biển. Phần này được dự trù trong kế hoạch là dựa vào một điều: Không giống những thành phố duyên hải khác, vòng tường ngoài của Teirm không mở ra biển, mà bao bọc lấy toàn thành phố, để tránh những vụ tấn công thường xuyên của hải tặc. Còn những nhà quanh cảng lại nằm ngoài tường rào, vì vậy dân làng có thể đi thẳng tới tàu Cánh Rồng.
Jeod luôn miệng hối thúc:
- Mau lên, mau lên nào!
Theo lệnh Uthar, thủy thủ khiêng ra những bó lao và mấy thùng nồng nặc mùi nhựa đường. Họ xúm lại, phết nhựa đường lên nửa thân những cây lao. Sau đó họ chuyển tới những bộ máy bắn đá trên sàn tàu. Phải cần tới hai người đàn ông mới kéo được sợi dây vào đúng khớp máy.
Dân làng vượt được hai phần ba đường tới con tàu thì bị lính tuần tra trong thành phát hiện. Tiếng trống báo động rộn rã vang lên. Nhưng cùng tiếng trống đầu tiên là tiếng gào của Uthar:
- Châm lửa! Bắn!
Chụp cây đèn dầu của Jeod, Nolfavrell chạy từ máy bắn đá này tới bộ máy khác, cầm lửa châm cho những ngọn lao tẩm nhựa đường bùng cháy. Những người đàn ông buông dây gân. Mười hai ngọn lao lửa từ Cánh Rồng phóng vút về phía những thuyền bè và nhà cửa trên bãi biển, như sao sa đỏ rực từ trời đổ xuống.
Uthar lại gào lên:
- Kéo dây! Nạp đạn!
Tiếng gỗ rên lên kẽo kẹt khi những người đàn ông kéo căng sợi dây gân. Một lần nữa Nolfavrell chạy tới lui châm lửa. Roran có thể nghe rõ tiếng chân nó luýnh quýnh khi cỗ máy trước mặt anh phóng vút đi một cây lao chưa kịp bắt lửa.
Ngọn lửa mau chóng lan toả trên bến tàu, tạo thành một rào cản đám lính phóng ra từ cửa đông, tiến đến tàu Cánh Rồng. Roran đã hy vọng những cột khói mịt mùng có thể che khuất tầm nhắm của các xạ thủ bắn tên lên tàu. Nhưng mục tiêu hơi gần, một loạt tên đã rào rào vào buồng lái và một mũi tên trúng mặt sàn, ngay kế bên là Gertrude, trước khi những tên lính trong thành bị khói chắn mắt con tàu.
Từ mũi tàu, Uthar ra lệnh:
- Tỉnh táo nhắm mục tiêu.
Lúc này dân làng đang nháo nhác chạy xuống bãi. Tới cuối cầu tàu, một số bị tên lạc của đám lính bắn trúng, lảo đảo gục xuống. Đám trẻ con gào lên khiếp đảm. Rồi khỏi lửa dọc theo kè đá, chạy rầm rầm trên cầu gỗ. Đám người hốc hác, tơi tả chen lấn lên tàu.
Birgit và bà Gertrude hướng dẫn dòng người tản ra hai phía đầu và đuôi tàu. Chỉ trong vòng mấy phút, các tầng trên tàu đã chật cứng, kể cả từ hầm chứa hàng tới cabin của thuyền trưởng. Một số người phải co ro sau mấy cái khiên trên boong tàu.
Khi Roran kêu gọi những người đã được Mandel chuyển tin của anh, trai tráng khỏe mạnh tụ tập quanh cột buồm chính, chờ chỉ thị. Chú nhóc Mandel đứng cùng họ, hãnh diện đưa tay chào Roran theo kiểu nhà binh.
Uthar chỉ một thuỷ thủ, cộc cằn nói:
- Tới đằng kia, Bonden. Đem theo người của anh, kéo neo lên, rồi xuống giữ mái chèo. Khẩn trương lên.
Với những người bên những cỗ máy bắn đá, anh ta ra lệnh:
- Chia phân nửa người của các anh sang cỗ máy bên trái tàu. Dẹp hết những gì cản trở.
Roran là một trong số người chạy sang trái. Khi anh đang phụ sửa soạn cỗ máy, thì mấy người còn lọt lại phía sau, đã vượt qua làn khói mù mịt loạng choạng leo lên tàu. Vợ chồng ông Jeod kéo sáu tù nhân bị trói lên cầu gỗ, rồi lăn họ xuống kè đá.
Mỏ neo và cầu gỗ đèu được rút lên. Dưới chân Roran, vang lên những tiếng gõ làm nhịp cho những tay cầm mái chèo. Rất từ từ, Cánh Rồng bẻ lái sang phải, hướng ra biển cả, rồi tăng tốc, con tàu rời bến.
Roran cùng ông Jeod lên phòng chỉ huy, nhìn về phía ngọn lửa tàn khốc đang thiêu hủy tất cả những gì có thể cháy giữa thành Teirm và mặt biển. Qua màn khói, mặt trời đỏ như máu, kiêu hãnh vượt lên trên thành phố.
Roran thầm hỏi: “Đến lúc này mình đã giết bao nhiêu mạng rồi”.
Ý nghĩ của anh vang thành lời nói của ông Jeod:
- Nhiều người vô tội khốn khổ vì vụ này.
Mặc cảm tội lỗi làm Roran hung hăng đến bất ngờ:
- Ông muốn được vào nhà tù của tổng trấn Ristthart hơn sao? Tôi tin là nhiều người chỉ bị thương vì đám cháy, chứ họ không phải đối diện với cái chết như chúng ta, nếu chúng ta bị bắt.
- Ta rất hiểu điều đó, cháu không cần phải giảng giải nữa. Chúng ta làm việc phải làm thật, nhưng đừng yêu cầu ta vui mừng trước đau khổ do chính mình gây ra cho người khác, để mình được an toàn.
Tới trưa, những mái chèo được xếp lại. Gió thuận chiều từ phương bắc đẩy Cánh Rồng đi.
Con tàu chật như nêm, nhưng Roran tin, khéo thu xếp, họ sẽ tới Surda chỉ với một vài trục trặc không đáng kể. Điều đáng lo nhất là khẩu phần lương thực, phải rất dẻ xẻn, mới không bị xảy ra nạn chết đói. Và với lượng người quá đông như thế này rất dễ xảy ra bệnh tật.
Sau khi nghe Uthar dặn dò về sự thận trọng của kỷ luật trên tàu, dân làng tự động bắt tay ngay vào những việc cần thiết, như săn sóc các vết thương, thu dọn hành lý, xếp đặt chỗ ngủ cho ngăn nắp. Họ cũng chọn ra những người trám vào những vị trí còn thiếu trên tàu: ai nấu ăn, ai được người của Uthar huấn luyện thành thủy thủ…
Roran đang mắc võng dùm thím Elain thì bị lôi kéo vào vụ bàn cãi sôi nổi của Odele, gia đình cô và Frewin (anh chàng này đã tách khỏi nhóm của Torson để tò mò theo sát Odele). Hai anh chị muốn lấy nhau, nhưng cha mẹ Odele quyết liệt phản đối – vì lý do anh chàng thuỷ thủ trẻ tuổi này không cha mẹ, nghề nghiệp thấp kém, chẳng có gì bảo đảm tối thiểu cho cuộc sống của con gái họ. Roran cho rằng hai người đã mê tít nhau rồi, chấp nhận cho xong – làm sao ngăn cách nổi khi chúng cứ bám riết lấy nhau trên con tàu chật ních này. Cha mẹ Odele gạt phăng lý lẽ của Roran.
Anh bực mình hỏi:
- Vậy chú thím định làm gì nào? Trói cô ta lại à? Cháu tin là Frewin càng thêm…
- Ra’zac.
Có tiếng hốt hoảng kêu lên. Roran rút ngay cây búa khỏi thắt lưng, vừa leo lên thang, chui vội qua cửa hầm tàu vừa quay sang bên la lớn. Chạy như bay tới toán người đang tụ tập trong phòng lái, Roran ngừng lại bên cạnh chú Horst, nhìn theo tay ông chỉ.
Một trong hai con “chiến mã” khủng khiếp của Ra’zac đang chập chờn bay lượn như một cái bóng tả tơi trên bờ biển, với một tên Ra’zac trên lưng. Nhìn chúng giữa ban ngày mà sự hãi hùng trong Roran không hề giảm. Anh rùng mình khi con quái có cánh rú lên tiếng kêu khiếp đảm, tiếp ngay sau là giọng tên Ra’zac rỉ rả như tiếng côn trùng bập bềnh trên mặt nước, yếu ớt nhưng rõ ràng dứt khoát.
- Các người không thoát nổi đâu.
Roran quay nhìn cỗ máy bắn đá. Không thể quay mũi máy hướng về hai con quái được. Anh hỏi lớn:
- Ai có nỏ không?
- Tôi có.
Baldor lên tiếng, rồi quỳ gối mắc dây vào nỏ:
- Đừng để nó thấy tôi.
Mọi người quây thành một vòng kín quanh Baldor. Chú Horst lẩm bẩm:
- Sao chúng không tấn công?
Roran bối rối tìm không ra nguyên nhân, chính ông Jeod lên tiếng:
- Có lẽ vì trới quá sáng. Ra’zac chỉ đi săn về đêm. Theo tôi biết, chúng rất ngại đi xa tổ khi mặt trời chưa lặn.
Bà Gertrude bảo:
- Không chỉ có vậy. Tôi nghĩ chúng sợ biển.
- Sợ biển?
- Nhìn đi. Từ lúc chúng xuất hiện, chưa hề bay xa bờ tới một mét.
- Bà nói phải.
Roran bảo bà Gertrude và thầm nhủ: “Ít ra mình có thể lợi dụng yếu điểm này của chúng”.
Mấy giây sau, Baldor bảo:
- Sẵn sàng.
Mọi người nhảy tránh sang một bên. Baldor đứng bật dậy, kéo căng dây nỏ, buông tay.
Một phát bắn đang mặt anh hùng! Hai con quái ở quá xa tầm bắn – xa hơn bất cứ điểm nào của Roran từng thấy bắn bằng cung tên – vậy mà Baldor đã nhắm trúng đích. Mũi tên của anh trúng ngay sườn phải con quái đang bay. Tiếng rú của quái vật bị thương làm cửa kính trên tàu vỡ vụn, đá trên bờ biển tan ra từng mảng. Roran vội vàng bịt chặt hai tai. Tiểng rú vẫn lanh lảnh kéo dài khi con quái đổi hướng, quay vào bờ, chìm khuất sau dãy đồi mịt mù sương.
Ông Jeod mặt nhợt nhạt, hỏi Baldor:
- Cháu giết chết nó rồi à?
- Cháu e là không. Chắc nó chỉ bị thương thôi.
Loring vừa ra tới, vẻ hài lòng, nhận xét:
- A, nhưng ít ra cháu cũng đã làm nó đau. Ta cá là chúng phải đắn đo dữ lắm, nếu muốn làm phiền chúng ta lần nữa.
Nhưng Roran lại rầu rĩ nói:
- Ông Loring ơi đừng vội mừng…
Chú Horst thắc mắc:
- Vì sao?
- Vì…bây giờ thì triều đình đã biết chính xác chúng ta đang ở đâu.
Cả phòng lái chìm vào im lặng. Tất cả thấm thía lời Roran vừa nói.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 01-13-2013, 01:42 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Trò trẻ


Trianna nói:
- Đây là mẫu sau cùng chúng tôi vừa làm ra.
Nasuada tóm tấm vẳi đen từ tay côn gái phù thuỷ. Chất lượng thật tuyệt vời. Không bàn tay con người nào có thể dệt được dải đai đẹp như thế này. Vẻ hài lòng, nhìn dãy hộp đựng nhiều đai mẫukhác do Con-đường Lãng-du sản xuất, Nasuada nói với Trianna:
- Tuyệt lăm. Hoàn hảo hơn cả mong ước của ta. Chuyển lời tới các pháp sư của cô là ta rất vui lòng. Việc làm này của Con-đường Lãng-du rất có ý nghĩa với Varden.
- Tôi sẽ chuyển lời khen tới họ, thưa công nương.
- Họ đã…
Tiếng động ngoài cửa làm Nasuada im bặt. Cô nghe tiếng rủa của mấy người lính gác, rồi tiếng kêu la đau đớn, tiếng sắtthép choang choảng chạm nhau ngoài hành lang. Nasuada vội tránh xa cửa, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ.
- Chạy mau, công nương. Thoát ra theo lối cửa của người hầu.
Cô gái phù thuỷ la lên, vừa đứng che chắn cho Nasuada vừa xắn cao tay áo, để lộ cánh tay trắng nõn, sẵn sàng sử dụngphép thuật.
Nasuada chưa kịp cất bước, cánh cửa bật mở, một người nhỏ bé nhào vào ôm hai chân và xô cô ngã xuống sàn. Ngay khi Nasuada ngã xuống, một vật sáng như bạc bay vèo qua chỗ cô vừa đứng, cắm phập và bức tường cuối phòng.
Lúc đó bốn tên lính gác chạy vào, hốt hoảng cảm thấy như chính chúng vừa tấn công, làm cô bị ngã. Khi đứng dậy được, Nasuada thấy Elva đang vùng vẫy khỏi tay mấy tên lính gác. Cô cau mày hỏi:
- Chuyện này là thế nào?
Con nhỏ tóc đen cúi gập mình, nôn khan lên tấm thảm, rồi ngước cặp mắt màu tím nhìn Nasuada, cất giọng nói khủng khiếp, lọc lõi hỏi:
- Ôi, ái nữ của thủ lãnh Ajihad đã ra lệnh cho pháp sư kiểm tra bức tường kia chứ? Thử xem tôi có chu toàn lời hứa với công nương không?
Nasuada gật đầu với Trianna. Cô phù thuỷ tiến lại cái lỗ mới thủng trên tường, lẩm bẩm thần chú. Khi quay lại, cô ta trao cho Nasuada một vật nhọn bằng kim loại:
- Thanh sắt này đã cắm sâu vào tường.
Nasuada hoang mang hỏi:
- Nhưng nó từ đâu tới chứ?
Trianna chỉ tay lên cửa sổ mở xuống phố đường Aberon:
- Chắc từ ngoài kia, tôi đoán vậy.
Nasuada quay lại Elva:
- Em biết những chuyện này?
Miệng cười khiếp đảm của con bé càng rộng hơn:
- Đó là một tên thích khác
- Kẻ nào phái nó tới đây?
- Một tên thích khách do chín Galbatorix huấn luyện bằng tà thuật…
Mi mắt sụp xuống, lơ mơ như bị hôn mê, Elva thì thầm:
- Gã đó căm ghét công nương. Nếu tôi không ngăn cản kip thời, công nương đã bị nó giết chết rồi…
Nó lại vươn cổ ói mửa, phun ra cả đống đồ ăn chua lè lên sàn, rồi nói tiếp:
- Nhưng…nó sắp phải chịu đau đớn cùng cực đến nơi rồi…
- Vì sao?
- Vì tôi sắp cho công nương biết nó đang ở trong nhà trọ trên đường Fane, lầu thượng, phòng cuối cùng. Phải mau mau đi bắt nó ngay, nếu không nó sẽ trốn đi xa, rất xa…
Elva ôm bụng rên rỉ như con thú bị thương:
- Đi gấp đi. Đi trước khi thần chú của Eragon lại bắt tôi ngăn cản các gnười làm gã đó đau đớn. Lúc đó công nương sẽ hối không kịp đâu.
Trước khi Trianna đi, Nasuada dặn thêm:
- Báo cho ông Jormundur biết chuyện gì đã xảy ra, rồi đem theo những pháp sư cao tay nhất của cô, truy lùng bằng được tên thích khách đó. Giết chết, nếu không bắt sống được.
Cô gái phù thuỷ đi khỏi, Nasuada qua lại nhìn mấy người lính của cô và những đôi chân đầy vết cắt nhỏ, máu chảy ròng ròng
- Đi tìm thầy thuốc trị vêt thương đi.
Mấy người lính đều lắc đầu. Viên đại uý bảo:
- Không, thưa công nương. Chúng tôi ở lại cho đến khi thấy thật sự an toàn.
- Tùy đại úy.
Đám lính đóng chốt, ngăn chặn các cửa sổ - làm không khí càng thêm nóng bức ngột ngạt - rồi họ chia nhau vào các phòng để bảo vệ chặt chẽ hơn.
Nasuada bước quanh phòng, tim đập thình thình, ngẫm nghĩ đến việc cô vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc: “Tổ chức Varden sẽ ra sao nếu mình bị giết? Ai sẽ là người kế vị mình?”. Cô chưa dự trù gì cho Varden trong trường hợp cô chết. Đó là một thiếu sót quá to lớn. “ta không thể để Varden tan rã vì đã không tính toán trước những sự kiện như thế này có thể xảy ra”.
Đừng bước, cô nói với Elva:
- Ta mắc nợ em rồi đó, elava
- Bây giờ và mãi mãi.
Nasuada ngỡ ngàng. Cô luôn bị bất ngờ vì những câu trả lời của con bé này.
- Ta xin lỗi vì đã không ra lệnh cho lính gác, để em có thể vào đây bất cứ lúc nào. Đáng lẽ ta đã phải dự kiến những chuyện như thế này.
- Đúng vậy.
Giọng con bé đầy giễu cợt.
Vuốt tà áo trước cho thẳng thớm, Nasuada lại bước quanh, chủ yếu là để tránh bối rối khi phải nhìn khuôn mặt trắng bệch như đá, với dấu ấn rồng trên trán của Elva.
- Bằng cách nào em trốn ra khỏi phòng vậy?
- Em kể đủ thứ chuyện cho bà vú Greta nghe.
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Bà ấy khoái nghe kể chuyện lắm
- Còn Angela?
- Sáng nay bà ta ra ngoài có việc.
- Đáp lại ơn cứu mạng, em cần gì cứ nói. Ta sẵn sàng làm trong quyền hạn của mình.
Elva nhìn quanh căn phòng lộng lẫy, rồi bảo:
- Công nương có gì ăn không? Em đói.


Linh cảm chiến tranh


Hai tiếng sau Trianna trở lại cùng hai người lính vác một thân hình mềm oặt. Cô ta ra lệnh cho họ ném cái xác lên sàn, rồi nói với Nasuada:
- Chúng tôi tìm ra kẻ thích khách đúng nơi Elva nói. Tên hắn là Drail.
Nasuada chăm chú nhìn kẻ mưu giết mình. Tên thích khách thấp người, rậm râu, vẻ chất phác; chẳng khác gì vô vàn những người đàn ông khác trong thành phố. Cô cảm thấy một mối dây liên lạc với hắn - dường như việc hắn định giết cô và việc cô tạo ra cái chết của hắn đã làm hai người thật gắn bó với nhau. Nasuada hỏi:
- Hắn bị giết cách nào? Ta không thấy dấu vết nào trên thi thể.
- Hắn tự tử bằng phép thuật khi bị chúng tôi xâm nhập vào tâm tưởng. Chúng tôi không kịp kiểm soát hành động của hắn.
- Có thu thập thông tin gì hữu ích trước khi hắn chết không?
- Có. Drail là một phần tử trong mạng lưới gián điệp đặt căn cứ tại đây. Chúng là những kẻ trung thành với Galbatorix, có tên gọi là Bàn Tay Đen. Nhiệm vụ của chúng là do thám và ngấm ngầm phá hoại những nỗ lực quân sự của chúng ta - điều quan trọng nhất chúng tôi có thể xác định trong thoáng chốc soi rọi vào quá khứ của Drail là – chúng có liên quan đến hàng chục vụ sát hại người của Varden. Rõ ràng chúng chỉ chờ cơ hội để giết công nương kể từ khi chúng ta từ Farthen Dur tới dây.
- Vì sao bọn Bàn Tay Đen này lại chưa ám sát vua Orrin?
- Tôi không rõ. Có thể vì Galbatorix cho rằng công nương là mối đe doạ nguy hiểm hơn vua Orrin. Nếu đúng vậy, thì ngay sau khi Bàn Tay Đen phát hiện công nương đã được bảo vệ khỏi sự tấn công của chúng…
Trianna liếc nhìn Elva, tiếp:
- Tôi e rằng nhà vua sẽ không sống được một tháng nữa đâu, trừ khi ông ta được bảo vệ phép thuật suốt đêm ngày, hay Galbatorix tránh có hành động trực tiếp như thế, để Bàn Tay Đen vẫn có thể âm thầm hoạt động và Surda vẫn tồn tại trong sự bao dung của bạo chúa…
Nasuada hỏi Elva:
- Em có thể bảo vệ cho cả nhà vua được không?
Đôi mắt màu tím của nó long lanh sáng:
- Có thể. Nếu ông ta yêu cầu đàng hoàng.
Nasuada thoáng tính toán cách ngăn chặn mối hiểm hoạ mới này. Cô hỏi Trianna:
- Tất cả gián điệp của Galbatorix đều có thể sử dụng phép thuật sao?
- Tâm trí của Drail bị rối loạn, khó đoán được chuyện này. Nhưng tôi nghĩ phần lớn chúng đều có thể.
“Hừ! lại là phép thuật!” Nasuada thầm rủa. Mối hiểm nguy lớn nhất các pháp sư - hoặc bất cứ kẻ nào sử dụng phép thuật – gây ra cho Varden, không phải là những vụ ám sát, mà chính là những điệp vụ. Các pháp sư có thể do thám tư tưởng người khác để thu thập tin tức, hầu phá hoại Varden. Đó là lý do vì sao Nasuada và toàn thể bộ máy lãnh đạo được dạy cách phát hiện và bao phủ tư tưởng, khi có kẻ chạm tới tâm trí mình. Nasuada ngờ rằng Orrin, vua Surda và vua lùn Hrothgar cũng trông cậy vào biện pháp đề phòng này. Cô hỏi Trianna:
- Vì sao cô đã không phát giác ra chuyện này sớm hơn? Một sát thủ lẻ loi tôi còn thông cảm được, nhưng đây là cả một hệ thống của những kẻ âm mưu phá hoại chúng ta. Cắt nghĩa đi, Trianna.
Trước những lời cáo buộc, mắt cô phù thuỷ sáng lên tức giận:
- Vì tại đây, không như ở Farthen Dur, chúng tôi không thể kiểm tra từng cá nhân để tìm ra những kẻ hai lòng. Có quá nhiều người mà nhóm pháp sư chúng tôi không thể theo dõi. Đó là nguyên nhân vì sao chúng tôi đã không biết gì về Bàn Tay Đen cho đến lúc này, thưa công nương.
Cúi đầu suy nghĩ một lúc, Nasuada nói:
- Ta hiểu rồi. Cô có phát hiện thêm được thành viên nào khác của Bàn Tay Đen không?
- Có mấy tên.
- Tốt lắm. Hãy dùng chúng để lần ra tất cả những tên còn lại. Ta mong cô giúp xoá sạch tổ chức này, Trianna. Hãy nhổ tận rễ như nhổ hoa màu bị sâu bệnh vậy. Cô cần thêm bao nhiêu quân, ta sẽ cấp cho ngay.
- Tuân lệnh.
Có tiếng gõ cửa. Mấy người lính rút gươm đứng dạt sang hai bên lối vào, rồi viên đại úy thình lình mở tung cửa. Bên ngoài là một tiểu đồng đang giơ tay định gõ tiếp. Chú tiểu đồng khiếp đảm nhìn xác chết lù lù trên sàn, giật thót mình khi nghe viên đại úy hỏi:
- Chuyện gì?
- Đức vua truyền tôi tới gặp công nương Nasuada.
Nasuada giục giã.
- Nói mau đi.
- Đức vua Orrin truyền công nương tới ngay Hội-Nghị-Đường.
- Còn gì nữa không?
- Thưa không.
- Ta phải đến đó ngay. Trianna hãy đi thi hành lệnh ta. Đại úy, ông để lại một người giải quyết cái xác của Drail. Và nhờ ông tìm giúp cô nữ tì Farica, để lau dọn phòng này.
Elva lắc lư đầu:
- Còn em?
- Em đi cùng ta, nếu em không mệt.
Con bé bật ngửa đầu, từ cái miệng nhỏ bé của nó phát ra tràng cười lạnh lẽo:
- Tôi rất khỏe, còn công nương thì sao?
Nasuada không trả lời, tiến thẳng ra hành lang cùng những người lính gác vây quanh. Những bức tường đá của tòa lâu đài tỏa ra hơi nóng hăng mùi đất. Phía sau, cô nghe tiếng chân hấp tấp của Elva ráng theo bước chân sải dài của những người lớn.
Nhóm lính gác ở lại tiền sảnh khi Nasuada và Elva vào phòng hội nghị. Gian phòng đơn giản phản ảnh tính cách tranh đấu của đất nước Surda. Các vì vua đã cống hiến tài sản để bảo vệ thần dân và lật đổ Galbatorix, không trang trí lâu đài Borromeo một cách xa hoa phù phiếm như người lùn đã làm tại Tronjheim.
Giữa đại sảnh là một cái bàn gỗ mộc dài chừng bốn mét. Một tấm bản đồ Alagaesia trải trên mặt bàn, bốn con dao găm chặn bốn góc. Vua Orrin ngồi đầu bàn. Lui xuống dưới là những cận thần của ông – Nasuada biết nhiều người trong số này đã chống đối cô quyết liệt. Hội-đồng Tiền-bối cũng hiện diện. Dù đã được Trianna thông báo về vụ gã thích khách Drail, nhưng Nasuada vẫn nhận thấy vẻ lo lắng trong ánh mắt Jormundur khi ông nhìn cô. Nasuada hỏi nhà vua:
- Bệ hạ cho gọi tôi?
Orrin đứng dậy:
- Đúng vậy. Bây giờ chúng ta…
Nhà vua ngừng lời khi thấy Elva, ông quay qua nói với nó:
- A, Trán Sáng đây mà. Trẫm chưa có dịp nào gặp người, nhưng những việc kỳ lạ người làm đã đến tai trẫm. Phải thú thật là trẫm rất tò mò muốn gặp người. Người có vừa lòng với nơi nghỉ trẫm ban cho không?
- Xin đa tạ. Nơi ở đó rất tuyệt, muôn tâu bệ hạ.
Giọng nói như người lớn, kỳ quái của con bé làm tất cả những người quanh bàn rùng mình. Bộ trưởng Irwin chỉ ngón tay vào Elva, hỏi Nasuada:
- Sao… sao công nương dám đem cái… cái thứ gớm ghiếc này vào đây?
Dù thông cảm mối hãi hùng của ông, Nasuada vẫn nói:
- Thượng quan hơi quá lời rồi đó.
Nhà vua chau mày:
- Bình tĩnh nào, Irwin. Tuy nhiên ông ấy cũng có lý, công nương Nasuada à. Không thể để một đứa trẻ có mặt trong hội nghị như thế này được.
- Galbatorix vừa định ám sát tôi…
Cả phòng vang lên những tiếng kêu kinh ngạc. Cô tiếp:
- Nếu không có hành động chớp nhoáng của Elva thì tôi đã chết rồi. Vì vậy, tôi chỉ còn tin tưởng vào nó, tôi đi đâu nó sẽ theo đến đó.
“Mặc họ hoang mang không biết chính xác Elva làm được những trò gì.” Nasuada thầm nghĩ.
Nhà vua than thở:
- Thật ghê gớm! Công nương đã bắt được tên ti tiện đó chưa?
Nasuada ngập ngừng:
- Tốt nhất là tôi sẽ tâu trình riêng cùng bệ hạ sau.
- Được, nhưng ngồi, ngồi xuống chứ. Chúng ta mới nhận được một báo cáo rất đáng lo ngại.
Sau khi Nasuada ngồi đối diện ông và Elva lấp ló sau cô, nhà vua tiếp tục:
- Dường như gián điệp của ta tại Gil’ead đã bị lừa về tình hình quân đội của Galbatorix.
- Là sao, thưa bệ hạ?
- Họ cho rằng quân của Galbatorix đóng tại Gil’ead, trong khi văn thư của một người của ta tại Uru’baen lại cho biết chính hắn chứng kiến một lượng lớn binh sẽ chuyển về hướng nam từ hơn một tuần trước. Vì là ban đêm, nên người của ta không biết chính xác, nhưng hắn chắc chắn là phải hơn mười sáu ngàn quân chủ lực của Galbatorix. Cũng có thể lên tới cả trăm ngàn hoặc hơn vậy nữa.
Một trăm ngàn! Nasuada hãi hùng đến quặn thắt bụng. Cô hỏi:
- Nguồn tin đó có đáng tin không, thưa bệ hạ?
- Tin tức của người đó luôn đáng tin cậy.
- Tôi vẫn không hiểu bằng cách nào Galbatorix di chuyển được một lượng quân lớn như thế mà người chúng ta không biết? Chỉ riêng xe vận chuyển đồ tiếp tế cũng kéo dài cả dặm rồi…
Falberd nện bàn tay nặng chịch lên bàn, dằn từng tiếng:
- Chúng ta đã bị mắc mưu. Rất có thể, gián điệp của chúng ta đã bị dụ hoặc bằng phép thuật, để đi đến lầm tưởng quân triều đình vẫn còn trong doanh trại tại Gil’ead.
Mặt Nasuada không còn sắc máu:
- Chỉ một người có khả năng tạo ra nổi một ảo ảnh to lớn và lâu dài đến thế…
Vua Orrin nói nốt ý cô:
- Chính là Galbatorix. Và đó là kết luận của chúng tôi. Điều đó có nghĩa là, sau cùng thì, bạo chúa đã rời hang ổ để sẵn sàng mở một cuộc chiến công khai. Thậm chí, có thể khi chúng ta đang ngồi đây bàn luận, thì kẻ thù đang tiến tới.
Bộ trưởng Irwin nghiêng mình tới trước:
- Câu hỏi lúc này là chúng ta phải làm gì đây? Chống trả? Tất nhiên, nhưng bằng cách nào? Bao giờ? Và tại đâu? Lực lượng của chúng tôi chưa sẵn sàng cho một chiến dịch tầm cỡ như thế này. Công nương Nasuada, trong khi đó, lực lượng Varden đã quen với chiến trận tàn khốc rồi…
- Ông nói vậy là ngụ ý gì?
Nasuada hỏi và thầm nghĩ: “Là chúng tôi chết thay cho các ông chứ gì?”
- Tôi chỉ nhận xét như vậy thôi. Công nương hiểu sao tùy ý.
Nhà vua lên tiếng:
- Một mình chúng tôi sẽ bị nghiền nát giữa một đạo quân quá lớn. Chúng tôi cần phải có nhiều đồng minh. Đặc biệt là nếu chúng ta phải đương đầu với Galbatorix, điều cần thiết nhất là phải có được Eragon. Nasuada, công nương có thể nhắn tin cho Eragon được không?
- Tôi sẽ làm khi có thể. Nhưng cho đến khi Arya trở lại, tôi không có cách nào liên lạc được với thần tiên hay gọi Eragon về đây.
- Vậy thì chỉ còn hy vọng Arya trở lại trước khi quá muộn. Tôi không tin tưởng lắm vào thần tiên trong vụ này. Một con rồng có thể vượt nhiều dặm giữa Aberon và Ellesméra với tốc độ của chim ưng, thần tiên không thể chạy bộ cùng khoảng cách như thế, để kịp tới đây trước Galbatorix. Chỉ còn cách trông chờ vào người lùn. Trẫm biết, từ nhiều năm qua, công nương vẫn giữ mối giao hảo với vua Hrothgar; liệu công nương có thể đại diện trẫm gửi lời xin họ giúp đỡ chúng ta? Người lùn vẫn hứa là họ sẽ tham gia khi thời cơ tới…
- Con-đường Lãng-du đã thu xếp với vài pháp sư của người lùn, để chúng tôi có thể chuyển tin đi một cách cấp kỳ. Tôi sẽ chuyển yêu cầu của bệ hạ… của… chúng ta tới đức vua Hrothgar và sẽ xin nhà vua cử một sứ thần tới trạm Caris để thông báo cho thần tiên nắm rõ tình hình.
- Tốt. Tuy chúng ta ở hơi xa Farthen Dur, nhưng nếu có thể cầm chân quân triều đình của Galbatorix chừng một tuần, người lùn chắc tới kịp.
Những vấn đề nghiêm trọng khác được tiếp tục thảo luận: nhiều chiến thuật có thể được áp dụng để đương đầu với một lực lượng hùng mạnh, nhưng không ai tìm ra được một giải pháp để chống lại Galbatorix, nhất là khi Eragon vẫn không thể só sánh với lão bạo chúa già khú khụ. Duy nhất một xảo thuật may ra có thể đem lại thành công: các pháp sư, người lùn, quân Varden – càng nhiều càng tốt – bao quanh Eragon, ép buộc Galbatorix phải một mình đối đầu với họ.
Nhưng Nasuada lại nghĩ: “Vấn đề của kế hoạch này là, trong thời kỳ triệt phá Kỵ sĩ rồng, Galbatorix đã từng chiến thắng những kẻ thù khủng khiếp hơn nhiều, và từ ngày đó nội công của lão chỉ càng thâm hậu hơn lên. Nếu trong hàng ngũ của ta có những pháp sư của thần tiên, may ra mới đạt được chiến thắng. Không có họ thì… nếu không hạ được Galbatorix chỉ còn con đường vượt biển tìm mảnh đất mới mà sống, chờ cho đến khi bạo chúa lìa đời…”
Tất cả sôi nổi bàn cãi hết chiến thuật này tới chiến lược khác. Hội-đồng Tiền-bối càng tỏ ra gay gắt hơn khi thảo luận với các quân sư của vua Orrin về việc phân chia trách nhiệm: ai chi tiền cho khoản này khoản kia, ai phân phối khẩu phần cho những lao động làm việc cho cả Varden và nhà vua? Giải quyết những vấn đề liên quan cả hai bên ra sao?
Giữa cuộc đấu võ miệng rầm rầm, vua Orrin rút ra một cuộn giấy, nói với Nasuada:
- Nhân bàn về vấn đề tài chính, công nương có vui lòng cắt nghĩa cho trẫm hiểu về vài vụ việc đã được tâu trình lên trẫm không?
- Tôi sẽ hết sức cố gắng, thưa bệ hạ.
- Trẫm đang có trong tay đơn khiếu nại của Hiệp Hội Nghề Dệt. Họ khẳng định thợ dệt trên toàn lãnh thổ Surda đã bị thua lỗ, vì trên thị trường tràn ngập hàng đai áo rẻ đến không ngờ. Theo như trong đơn quả quyết, thì đó là mặt hàng có xuất xứ từ Varden.
Mặt nhà vua thoáng vẻ đau khổ:
- Nếu đó là sự thật, trẫm muốn biết, vì sao Varden lại hành động như thế?
Nasuada không giấu nụ cười:
- Muôn tâu, chắc bệ hạ còn nhớ, khi từ chối cho Varden vay thêm tiền, bệ hạ đã truyền dạy tôi hãy tự tìm cách mà xoay sở.
- Đúng là trẫm đã khuyên công nương như vậy. Nhưng chuyện đó có gì liên quan đến vụ này?
- Vì phải tự xoay sở, tôi chợt nghĩ ra những đai áo quá đắt tiền là vì làm theo lối thủ công rất tốn công sức và thời gian. Nhưng nếu được sản xuất hàng loạt bằng phép thuật lại quá dễ dàng khắc phục được những nhược điểm trên. Thần dân của bệ hạ đều là những nhà tâm lý bẩm sinh, chắc phải cám ơn chúng tôi vì đã giảm được gánh nặng cho Surda, vì đã tự lo được cái ăn chỗ ở cho chính mình.
Nasuada tỏ ra quá hoan hỉ đến nỗi mặt nhà vua hằn vẻ nghi ngờ. Cuộn giấy nắm trong tay, để lơ lửng giữa cằm ông và mặt bàn, miệng hé mở, trán cau lại, dường như ông mới thấy một điều gì nhưng không hiểu nổi. Ông lắp bắp:
- Đai áo à?
- Đúng vậy, thưa bệ hạ.
- Không thể chiến đấu với Galbatorix bằng đai áo được.
- Muôn tâu, vì sao lại không thể?
Ráng sức tìm câu trả lời, một lúc sau nhà vua mới làu bàu:
- Vì… vì… không đàng hoàng, không làm người ta kính nể. Các thi nhân sẽ viết gì trong bản anh hùng ca về chiến công của chúng ta với… cái… cái đai áo?
- Chúng tôi không chiến đấu để được thi nhân tán tụng trong những bản anh hùng ca, thưa bệ hạ.
- Vậy thì dẹp chuyện anh hùng ca sang một bên. Nhưng trẫm sẽ phải trả lời sao với hiệp hội thợ dệt về chuyện này đây? Những chiếc đai giá rẻ đó đã làm hại tới đời sống thần dân trẫm, làm giảm uy tín nền kinh tế của đất nước trẫm. Không được, hoàn toàn không chấp nhận được.
Nasuada nở nụ cười rất thân thiện, dịu dàng:
- Ôi, muôn tâu, nếu đó là sự thiệt thòi nặng nề cho ngân khố triều đình, để đáp lại lòng ưu ái bệ hạ đã dành cho chúng tôi, Varden chúng tôi rất vui lòng cho bệ hạ vay một khoản tiền, tất nhiên là với… lãi suất phải chăng thôi.
Hội-đồng Tiền-bối ngồi im giữ vẻ lịch sự đúng mức, nhưng đằng sau Nasuada, Elva bật lên cười hô hố.


Hồng kiếm - Bạch kiếm tranh hùng


Mặt trời vừa xuất hiện trên hàng cây cuối chân trời, Eragon hít sâu, mở mắt, tỉnh táo lại. Thật ra nó chưa hề ngủ, không ngủ từ khi thể chất và tinh thần biến đổi. Những khi cảm thấy mệt mỏi, vừa nằm xuống nghỉ ngơi, nó lại trôi vào những giấc mơ tỉnh. Nó lại thấy những hình ảnh lạ lùng, lại đi giữa những bóng đen trong ký ức; tuy nhiên, suốt thời gian đó nó vẫn nhận biết những gì chung quanh.
Eragon nhìn mặt trời lên và nhớ lại tất cả những giờ phút gần bên Arya trong Lễ-hội Huyết-thệ hai hôm trước. Buổi sáng sau ngày hội, nó tới cung Tialdarí tìm cô, mới biết Arya đã lên đường tới Surda. “Bao giờ ta mới gặp lại nàng?” Eragon thầm nhủ. Trong ánh sáng trong vắt buổi sớm mai, nó mới nhận ra phép thuật của rồng và thần tiên đã làm đầu óc nó mê muội đến thế nào trong suốt mấy ngày lễ đó. “Chắc mình đã có những hành động ngu ngốc lắm, nhưng hoàn toàn đây phải lỗi tại mình. Cứ như say rượu tới không còn tự chủ được nữa vậy.”
Tuy vậy, từng lời nói với Arya đều là sự thật, kể cả những câu mà lúc bình thường nó chưa hề thổ lộ. Cô đã mau chóng bác bỏ tâm tình của nó. Lúc này, thoát khỏi bùa chú bao phủ tâm trí, nó tỉnh táo nhìn nhận: rất có thể nàng có lý. Tuổi tác quá cách biệt nhau. Chấp nhận nguyên nhân này chỉ làm nó thêm đau khổ.
Trước kia, Eragon đã từng nghe câu “Con tim tan nát”. Nó luôn nghĩ đó chỉ là một cách diễn tả đầy tính tưởng tượng, nhưng không thể là một triệu chứng của thể xác được. Nhưng chính lúc này đây, lồng ngực nó đau nhói theo từng tiếng đập của con tim.
Niềm an ủi duy nhất của Eragon lúc này là Saphira. Suốt hai ngày qua, Saphira không hề phê phán những gì nó đã làm, cũng không rời xa nó một phút. Cô em rồng ríu rít chuyện trò, cố lôi kéo ra khỏi cái vỏ im lìm ủ dột.
Để kéo mình ra khỏi nỗi ám ảnh về Arya, Eragon đem chiếc nhẫn rắc rối của ông lùn Orik ra, xoay xoay giữa mấy ngón tay, ngỡ ngàng vì không ngờ các giác quan trở nên sắc bén đến thế. Nó có thể cảm nhận được từng tỳ vết nhỏ trên những vòng xoắn xít này. Quan sát chiếc nhẫn, Eragon nhận ra ngay mô hình sắp đặt phức tạp của những sợi vàng mà trước đây nó không thể nào phát hiện. Tự tin vào bản năng, nó điều khiển những cái vòng hàng loạt kiểu theo ý muốn, cho đến khi tám mảnh khớp với nhau thành một chiếc nhẫn hoàn hảo. Đeo nhẫn vào ngón tay phải, Eragon thích thú ngắm nghía màu vàng lấp lánh trong ánh nắng.
Từ chỗ ngủ, Saphira ngửng đầu lên, nhận xét: “Trước đây anh đâu có thể làm được như vậy.”
“Đúng, bây giờ anh có thể nhìn thấy nhiều điều trước kia cứ như bị che mắt.”
Eragon vào phòng tắm làm vệ sinh sáng và đọc thần chú cạo râu.

Tới bãi luyện kiếm, Saphira và Eragon đã thấy ông lùn Orik đang ngồi đợi. Mắt ông lùn sáng lên khi Eragon khoe bàn tay đeo nhẫn:
- A, vậy là cậu đã lý giải được rồi hả?
- Lâu hơn tôi tưởng, nhưng cũng xong. Ông tới luyện kiếm?
- Ồ, không. Tôi tới xem cậu đấu.
- Ông đã từng thấy tôi đấu rồi mà.
- Nhưng… lâu rồi.
- Có nghĩa là ông muốn biết tôi thay đổi ra sao, phải không?
Orik nhún vai thay cho câu trả lời.
Tiến ra sân, Vanir hỏi lớn:
- Sẵn sàng chưa, Khắc-Tinh của Tà-Thần?
Thái độ hạ cố của Vanir - từ sau trận đấu trước ngày hội Huyết-thệ - có phần giảm, nhưng chưa hết hẳn.
Eragon trả lời:
- Sẵn sàng.
Cả hai thủ thé. Giữ tâm trí bình thản, Eragon nín thở, tung đòn. Không ngờ thanh Zar’roc bỗng nhẹ hẫng như một nhành liễu, vuột khỏi tay Eragon, vừa xoáy tít vừa phóng mình xa chừng hai mươi mét, rồi cắm phập vào thân một cây thông.
Vanir nhếch mép hỏi:
- Cầm kiếm cũng không nổi sao, kỵ sĩ?
- Xin lỗi, Vanir công tử. Tôi xuất chiêu hơi quá tay.
- Thận trọng, đừng tái diễn trò đó nữa.
Tiến tới cây thông, Vanir nắm chuôi Zar’roc cố nhổ ra. Thanh kiếm không hề lay chuyển. Hai lông mày nhíu sát vào nhau, Vanir nhăn mặt, người người ráng sức bình sinh nhổ bật thanh kiếm khỏi thân cây.
Đón thanh Zar’roc từ tay Vanir, Eragon lại thắc mắc không hiểu sao thanh kiếm nhẹ đến như vậy. Nó thầm hỏi: “Chuyện gì xảy ra thế này?”
- Thủ thế đi.
Lần này Vanir xuất chiêu trước. Chỉ một bước nhảy, Vanir tới gần sát Eragon, phóng mũi kiếm ngay vai phải nó. Với Eragon, hình như anh chàng tiên trẻ này di chuyển chậm chạp hơn trước kia, cứ như anh ta cố giám sức cho ngang bằng một con người. Điều đó làm Eragon dễ dàng gạt phăng thanh kiếm của đối thủ. Những tia lửa xanh lè tóe ra khi hai vũ khí chạm nhau.
Vanir bàng hoàng kinh ngạc, tấn công tiếp. Như một cành cây rạp mình trong gió, Eragon ngả mình ra sau, tránh đường kiếm. Vanir liên tiếp xuất chiêu ào ạt. Hóa giải những chiêu kiếm chợp nhoáng như tia chớp, Eragon sử dụng cả bao thanh Zar’roc làm vũ khí.
Chợt Eragon nhận ra, trong Lễ-hội Huyết-thệ, hồn ma bóng quế của rồng không chỉ làm biến đổi ngoại hình nó, mà hơn thế nữa, đã ban cho nó năng lực thể chất của thần tiên. Bây giờ, sức mạnh và sự nhanh nhẹn của nó có thể so sánh cùng như thần tiên cao thủ nhất.
Khát khao thử khả năng của mình, Eragon nhảy hết sức bình sinh lên cao. Thanh Zar’roc sáng rực màu đỏ khi Eragon vọt lên cao hơn ba mét, rồi thình lình xoay người, hạ xuống sau lưng Vanir như một nghệ sĩ nhào lộn đại tài.
Eragon bật lên một tràng cười dữ dội. Nó không còn bất lực trước thần tiên, tà thần và những sinh vật ma thuật nào nữa. Không còn phải chịu đựng sự khinh bỉ của thần tiên. Không phải lệ thuộc vào Saphira hay Arya để giải thoát nó khỏi tay những kẻ thù như Durza.
Eragon tấn công. Bãi tập vang lên những tiếng la hét hăng say, giận dữ khi hai tiếm sĩ tung ra những chiêu kiếm tới tấp tấn công, thủ trên bãi cỏ nhàu nát. Những đường gươm đầy dũng mãnh tạo nên những luồng gió mạnh làm đầu tóc họ bay tung, lá thông đổ ào ào. Trận đấu kéo dài suốt buổi sáng, vì mặc dù với năng lực mới của Eragon, Vanir vẫn tỏ ra là một đối thủ đáng gờm. Sau cùng, Eragon quay tít thanh Zar’roc, phá thế thủ của Vanir, đập mạnh lên cánh tay anh ta. Xương Vanir bị gãy.
Buông rơi thanh kiếm, mặt trắng nhợt, Vanir thì thào:
- Xuất chiêu như chớp nhoáng!
Eragon nhận ra đó là câu nói nổi tiếng trong cuốn Cái Chết của Umhodan.
Ông lùn Orik la toáng lên:
- Trời ơi là trời! Đại cao thủ. Tôi đã từng thấy cậu đấu cùng Arya khi còn ở Farthen Dur, nhưng bây giờ thì… bái phục bái phục.
Rồi Vanir làm một hành động mà Eragon không bao giờ ngờ tới: chàng thần tiên trẻ xoắn vặn bàn tay bị thương - với cung cách tỏ lòng trong thành tôn kính - đặt lên xương ức, cúi đầu nói:
- Eragon-elda, xin thứ lỗi cho thái độ trước đây của tôi. Vì quá lo sợ kỵ sĩ đưa đẩy nòi giống chúng tôi vào vực thẳm, nên đã hồ đồ thất lễ. Bây giờ công tử quả xứng danh là một kỵ sĩ rồng.
Eragon cúi đầu đáp lễ:
- Xin đừng quá khen. Tôi xin lỗi vì đã gây thương tích nặng. Cho phép tôi được điều trị…
- Không. Tôi sẽ để thiên nhiên săn sóc vết thương này và lưu giữ như kỷ niệm một lần so kiếm cùng Khắc-Tinh của Tà-Thần. Tôi thuận tay trái như tay phải, nên kỵ sĩ đừng lo buổi tập sáng mai bị hoãn lại.
Cả hai cúi chào chia tay. Sau khi Vanir đi khỏi, ông lùn Orik lên tiếng:
- Bây giờ thì ta có cơ may chiến thắng rồi. Tôi cảm thấy điều đó từ xương tủy, từ trong lớp xương rắn như đá này đây. A, chuyện này sẽ làm đức vua Hrothgar và công nương Nasuada vui mừng khôn xiết.
Eragon lẳng lặng tập trung giải tỏa lớp phép thuật bao bọc trên mặt thanh Zar’roc, nhưng trong trí nói với Saphira: “Hừ, chiến thắng đâu dễ thế? Nếu chỉ cần có sức mạnh là có thể triệt hạ Galbatorix thì thần tiên đã chiến thắng từ lâu rồi.” Tuy nhiên nó không thể ngăn được niềm vui vì năng lực là sự dũng cảm của nó đang tăng lên, cũng như sự đau đớn hành hạ cái lưng của nó suốt thời gian qua không còn nữa. Không còn cái đau như xé thịt, dường như tâm trí nó thoát ra khỏi một đám mây mù, lại có thể suy nghĩ một cách sáng suốt như trước kia.
Còn mấy phút nữa mới phải gặp sư phụ và rồng vàng Glaedr, Eragon lấy cung tên từ lưng Saphira, tiến lại xạ trường của thần tiên. Vì cung tên của thần tiên mạnh hơn của Eragon nhiều, bia tập bắn của họ vừa quá nhỏ vừa quá xa đối với nó. Eragon phải tiến lên phân nửa tầm bắn của họ.
Gắn tên xong, Eragon từ từ kéo dây cung, vui mừng vì sao lần này nhẹ nhàng thoải mái quá. Nhắm đích, Eragon buông dây. Mũi tên, như một con ong hóa rồ, vù vù bay thẳng tới tấm bia, cắm phập ngay chính giữa hồng tâm. Toác miệng cười, Eragon liên tục buông dây cung ba mươi lần.
Tới mũi tên ba mươi mốt, nó thử kéo dây hơi mạnh hơn bình thường. Một tiếng “rắc” vang lên. Cây cung bằng gỗ thủy tùng gãy làm hai.
Eragon bàng hoàng nhìn hai mảnh cung gãy. Cậu Garrow làm cây cung này để làm quà sinh nhật cho nó ba năm trước. Từ ngày đó, không tuần nào Eragon không sử dụng. Cây cung đã giúp nó cung cấp thực phẩm cho cả nhà, nhiều khi thiếu ăn đến đói lả. Với cây cung này Eragon đã hạ con nai đầu tiên, quái thú Urgal đầu tiên, và cũng với cây cung này, nó đã sử dụng phép thuật lần đầu. Mất cây cung, chẳng khác nào mất người bạn thân thiết đã từng giúp nó trong những lúc gian nan, nguy khốn nhất.
Saphira ngửi hai mảnh gỗ đong đưa trong tay Eragon, bảo: “Chắc anh cần phải thay thế bằng một cây lao để phóng.”
Eragon ậm ừ, không còn tinh thần trò chuyện cùng cô em rồng nữa. Nó uể oải tiến lại nhặt mấy mũi tên, rồi lên lưng Saphira, cùng bay tới bờ đá trắng trên vực Tel’naéir trình diện sự phụ.
Oromis đang ngồi trước lều, đôi mắt nhìn xa xôi, hỏi:
- Eragon, con đã hoàn toàn bình phục hỏi tác dụng của phép thuật trong ngày lễ chưa?
- Thưa sư phụ, con đã bình phục rồi.
Im lặng kéo dài trong khi vị lão tiên nhấm nhácp tách trà dâu đen, lẳng lặng ngắm nhìn cánh rừng già. Sau cùng ông lên tiếng:
- Glaedr cắt nghĩa cho ta biết, việc đã làm cho con trong lễ hội. Một chuyện như thế chưa từng xảy ra trong lịch sử các kỵ sĩ… Một lần nữa rồng lại chứng tỏ có khả năng vượt quá cả sự tưởng tượng của chúng ta…
Nhấp ngụm trà, ông chậm rãi tiếp:
- Nhưng Glaedr không biết chính xác sự thay đỏi làm con thêm được những khả năng gì, vì vậy ta muốn tự con cho ta biết rõ ràng những biến đổi từ nội lực tới ngoại hình của con ra sao.
Eragon mau mắn tóm tắt những đổi thay từ thính, thị, khứu, vị, xúc giác trở nên vô cùng nhạy bén, tới chuyện đã thắng Vanir trong buổi luyện kiếm ra sao.
Oromis hỏi:
- Con cảm thấy thế nào về chuyện này? Có buồn giận vì cơ thể bị đổi thay mà chưa được con cho phép không?
- Không, không chút nào, thưa sư phụ. Nếu chuyện này xảy ra trước trận đánh tại Farthen Dur, chắc con đã vô cùng phẫn nộ, nhưng lúc này con chỉ cảm thấy biết ơn vì lưng con không còn đau đớn. Con còn mong đổi thay nhiều hơn nữa để thoát khỏi lời nguyền của Tà Thần Durza.
- Ta mừng vì con đã sáng suốt chấp nhận tình trạng này, vì đó là một tặng phẩm còn quý hơn vàng trên khắp thế gian. Thôi, bây giờ thầy trò ta bắt đầu. Saphira, Glaedr đang đợi con tại Trụ Đá Trứng Vỡ. Còn con, Eragon, hôm nay con bắt đầu luyện lên cấp ba của Xà Hạc quyền, thầy muốn biết khả năng con hiện nay tới đâu.
Eragon vừa định bước ra khoảng đát nện dùng để luyện võ, nhưng thấy sư phụ vẫn ngồi yên, nên ngập ngừng hỏi:
- Sư phụ, người không ra cùng con sao?
Oromis thoáng cười buồn:
- Hôm nay thì không, Eragon. Những câu thần chú cần thiết trong hội Huyết-thệ đã rút cạn sức ta rồi. Thầy không còn đủ sức ra ngoài đó với con đâu.
- Con xin lỗi…
- Đừng rầu rĩ vậy. Thầy bị tàn tật đâu phải vì lỗi của con.
Khi Eragon cố gắng hoàn tất bài quyền, nó cảm thấy rõ ràng vẫn còn thiếu sự ổn định tinh thần và mềm dẻo cơ thể của thần tiên; hai đặc tính mà kể cả thần tiên vẫn phải khổ luyện mới đạt tới.
Những tuần tiếp theo là thời gian đầy khó khăn của Eragon. Một mặt nó tiến bộ nhiều trong luyện tập, lần lượt vượt qua những thử thách cam go mà trước đây từng làm nó bối rối. Dù vẫn thấy những bài học của sư phụ đầy thách thức, nhưng nó không còn cảm thấy như bị nhấn chìm trong đại dương tăm tối nữa. Đọc và viết dễ dàng hơn và với sinh lực dồi dào, Eragon có thể niệm những lừoi chú của thần tiên - những câu chú đòi hỏi nội công thâm hậu, có thể gây tử vong cho bất cứ một người bình thường nào. Với nguồn nội công dồi dào đó, sư phụ nó suy yếu đến nhường nào.
Nhưng tuy đạt được những thành quả tiến bộ như vậy, trong lòng Eragon vẫn không vui. Dù cố gắng hết sức để quên Arya, nhưng mỗi ngày nỗi nhớ nhưng buồn khổ chỉ tăng hơn, vì biết rằng cô không muốn gặp gỡ hay chuyện trò với nó. Hơn nữa, Eragon cảm thấy, dường như bão tố hung hãn đang quần tụ cuối trời, một trận cuồng phong hăm dọa nổi lên bất cứ lúc nào, phá hủy tất cả trên đường giông tố quét qua.
Saphira chia sẻ nỗi bất an của nó: “Eragon, thế giới này mong manh lắm. Những gì anh cảm thấy, cũng là những gì thần tiên và loài rồng chúng em cảm thấy. Bước chân của định mệnh khắt khe không thể nào ngăn cản được. Hãy khóc cho những người sẽ chết trong cơn hỗn loạn tàn phá Alagaesia. Và hãy hy vọng chúng ta sẽ đạt được một tương lai rực rỡ bằng lưỡi kiếm và cây khiên của anh, bằng nanh nhọn và móng vuốt của em.”


Những hình ảnh xa gần


Rạng sáng, Eragon tới khoảng trống giữa lùm cây, bên ngoài lều sư phụ. Nó ngồi lên thân cây trên mặt đất phủ đầy rêu, không chỉ nhập tâm trí vào chim chóc, muông thú, côn trùng, mà cả cây cỏ trong rừng. Tri thức của cây cối khác với loài vật: chậm rãi, thận trọng, nhưng bằng một cách riêng chúng cũng ý thức với những gì chung quanh như Eragon. Nhịp đập ý thức của cây tỏa sáng như những vì sao xoay tròn trong trí Eragon. Mỗi đốm sáng là một sự sống. Kể cả đá vô tri cũng tràn ngập những cơ thể sinh vật; đất đai cũng sống động và có khả năng cảm thụ.
Eragon thầm kết luận: “Đời sống thông minh tồn tại khắp nơi.”
Khi Eragon chìm đắm trong tư tưởng và cảm xúc của những cá thể chung quanh, nó đạt tới trạng thái sâu thẳm của sự an nhiên tự tại. Suốt thời gian đó, nó không còn là một thực thể, chỉ là một khoảng không lưu giữ những âm thanh của thế giới. Không điều gì lọt khỏi sự quan tâm của nó, vì nó không tập trung quan tâm đến một điều gì. Nó là rừng và là những cư dân của rừng.
Khi trở lại là chính mình, Eragon phân vân: “Cảm giác này có phải của thần linh không?”
Ra khỏi khoảng trống, Eragon vào lều quỳ gối trước Oromis:
- Thưa sư phụ, con đã làm theo lời thầy dạy. Con lắng nghe tới khi không còn nghe gì nữa.
Oromis ngừng viết, trầm ngâm nhìn Eragon:
- Hãy kể thầy nghe.
Suốt hơn một giờ, giọng Eragon sôi nổi dần, thuật lại từng chi tiết về cỏ cây, loài vật sống trong khoảng đất trống cho đến khi sư phụ nó giơ cao tay, nói:
- Ta biết là con đã nghe tất cả những gì nghe được tại đó. Nhưng con có hiểu tất cả những điều đó không?
- Thưa… không.
- Không sao. Sự hiểu biết sẽ đến cùng năm tháng… Khá lắm, Eragon. Nếu con là đệ tử của ta từ thời ta còn ở Ilirea, trước khi Galbatorix có quyền lực, hẳn con đã vượt trội hơn các bạn đồng môn, đứng chung hàng ngũ với các kỵ sĩ đại tiền bối rồi.
Oromis chống tay cố rời khỏi ghế, đứng lảo đảo. Ông khoát tay bảo Eragon:
- Cho ta mượn vai con nào, Eragon. Giúp ta ra ngoài, tứ chi ta rã rời cả rồi.
Eragon vội dìu thân hình mảnh khảnh của vị lão tiên ra bờ con suối nghỉ.
Oromis nói:
- Bây giờ con đã đạt tới trình độ để thầy có thể truyền cho con một trong những bí kíp kỳ bí nhất của phép thuật. Một bí kíp thậm chí đến cả Galbatorix cũng chưa chắc đã biết. Đây là hy vọng lớn nhất để con so tài với lão.
Ánh nhìn của ông bỗng sắc như dao:
- Eragon, cái giá phải trả cho phép thuật là gì?
- Là nội lực.
- Nội lực do đâu mà có.
- Tự bản thân.
- Chỉ có vậy thôi sao?
Eragon vội cân nhắc câu hỏi đầy ẩn ý của sư phụ, rồi hỏi:
- Ý thầy là còn có… công lực đến từ một nguồn khác nữa?
- Điều đó chính xác với những gì đã xảy ra mỗi khi Saphira trợ lực cho con.
- Đúng là nó từng truyền công lực cho con, nhưng nó và con có mối liên quan đặc biệt. Sự ràng buộc giữa con và Saphira là lý do con có thể thu nhận nội lực của nó. Còn đối với kẻ khác thì…
- Con có thể xâm nhập vào ý thức một cá thể - hoặc nhiều cá thể. Như hôm nay con đã chứng tỏ có thể làm được điều đó, kể cả với những sự sống nhỏ nhoi nhất. Bây giờ…
Đặt một tay chặn ngực, ông ho sù sụ rồi nói tiếp:
- Bây giờ ta muốn con rút từ suối lên một quả cầu nước, chỉ sử dụng năng lực con có thể thu thập từ khu rừng quanh chúng ta.
Khi Eragon xâm nhập vào cây cối, loài vật chung quanh, nó cảm thấy tâm tưởng sư phụ lướt nhẹ trong tâm tưởng nó. Vị lão tiên đang kiểm soát và ước lượng sự tiến bộ của Eragon. Eragon nhíu mày tập trung, cố tăng cường năng lực cần thiết rút từ chung quanh, cho đến khi sẵn sàng phóng phép thuật… Nhưng:
- Eragon, đừng thu hút nội lực của thầy. Thầy quá yếu, không chịu nổi đâu.
Giật mình, Eragon nhận ra nó đang thu hút cả nội lực của sư phụ.
- Con xin lỗi.
Thận trọng tránh làm sư phụ cạn kiệt sinh khí, Eragon bật kêu:
- Bay lên!
Êm như ru, một quả cầu nước đường kính chừng ba tấc cất mình khỏi mặt suối, bồng bềnh ngang tầm mắt Eragon, trong khi nó nhận thấy sự nỗ lực căng thẳng tạo ra thành quả đó dường như không làm nó mệt mỏi vì mất sức.
Nhưng quả cầu nước chỉ mới tụ được mấy giây trên không, một làn sóng chết chóc tràn lan qua những sinh vật nhỏ bé mà Eragon đang xâm nhập vào chúng. Một bầy kiến bật ngửa mình bất động, một con chuột con há hốc mồm giãy chết, vô số cây cối rũ rượi, vỡ tan từng mảnh.
Eragon giật mình khiếp đảm vì những gì mình đã gây ra. Mới được biết thế nào là tôn trọng sự sống thiêng liêng bất khả xâm phạm, nó cảm thấy hành động của mình quả là một tội lỗi xấu xa ghê tởm. Tệ hại hơn, trong lúc đang kết nối thân tình với những cá thể đó, bỗng chúng mất sự sống, Eragon cảm thấy như chính nó đang tự trải qua cái chết nhiều lần.
Thu hồi phép thuật - mặc quả cầu vỡ tung trên mặt đất – Eragon quay phắt lại gào lên:
- Sư phụ đã biết trước cơ sự này mà, phải không?
Mặt vị lão tiên tràn đầy thương xót:
- Nhưng đó là một sự cần thiết.
- Sự cần thiết là gây ra bao nhiêu chết chóc như vậy sao?
- Cần thiết để con hiểu cái giá khủng khiếp khi sử dụng loại bùa chú này. Chỉ nói suông không thể chuyển tải cảm xúc của những kẻ bị con gây ra cái chết cho họ. Chính con phải tự trải qua kinh nghiệm đó.
- Con thề không bao giờ tái phạm.
- Không phải thề. Nếu được rèn luyện, con có thể chỉ thu hút năng lực của cây cối, loài vật có khả năng chịu đựng được sự mất mát như thế. Đó là điều khó thực hiện khi lâm trận, nhưng trong thời gian học tập, con có thể áp dụng được.
Ra dấu cho Eragon dìu ông trở vào lều, Oromis nói tiếp:
- Bây giờ chắc con đã hiểu vì sao phương pháp này không được dạy cho những đệ tử mới nhập môn. Nếu để một kẻ tính khí độc ác biết được, kẻ đó sẽ gây ra vô vàn tang thương đổ nát.
Vào lều, Oromis thở dài ngồi xuống ghế. Eragon ngồi bên sư phụ, hỏi:
- Nếu có thể thu hút năng lực từ… sự sống, thì cũng có thể thu hút năng lực trực tiếp từ ánh sáng, lửa hay bất cứ sự vật nào khác có chứa năng lực được không ạ?
- Ôi, Eragon, nếu được thì chúng ta đã diệt được Galbatorix dễ dàng rồi. Chúng ta có thể trao đổi năng lực với những sinh vật khác, có thể sử dụng năng lực để di chuyển, và có thể tồn trữ năng lực trong một vài vật thể để sử dụng khi cần, nhưng không thể hấp thụ những sức mạnh cơ bản của thiên nhiên. Suy luận thì có vẻ được, nhưng chưa có ai tìm ra được một câu thần chú có thể làm nổi chuyện đó.

Chín ngày sau, Eragon tới gặp sư phụ và nói:
- Thưa thầy, đêm qua con chợt thắc mắc một điều: cả thầy và hàng mấy trăm trang giấy của thần tiên con đã đọc, đều không nhắc gì tới tôn giáo của thần tiên? Đức tin của thần tiên là gì?
Oromis thở dài trước khi trả lời:
- Chúng ta tin thế giới vận hành theo một quy luật bất khả xâm phạm. Bằng nỗ lực không ngừng, chúng ta có thể khám phá ra những quy luật đó và sử dụng chúng mà dự đoán những sự cố khi có những trường hợp lặp lại.
Eragon chớp mắt. Những lời nói đó chẳng làm sáng tỏ thêm điều nó muốn biết chút nào:
- Nhưng thần tiên thờ kính ai hoặc cái gì chứ?
- Không có gì hết.
- Thần tiên tôn thờ khái niệm hư không?
- Không đâu, Eragon. Chúng ta không tôn thờ gì hết.
Tư tưởng đó thật xa lạ với Eragon. Dân làng Carvahall dù thiếu niềm tin vào một giáo điều độc nhất, nhưng họ cũng có niềm tin riêng, có những mê tín dị đoan, chủ yếu là tránh sự xui xẻo. Trong thời gian học tập tại đây, Eragon đã bắt đầu nhận thức những hiện tượng mà dân làng tin là do sức mạnh siêu nhiên, thật ra chỉ là những quy trình tất yếu của thiên nhiên. Như những con dòi nở ra từ trứng ruồi, chứ không sinh ra từ đất như nó vẫn tưởng. Nó cũng không còn từ chối món ăn do ma quỷ quậy thành sữa chua, khi biết sữa chua thật sự là do những sinh vật li ti trong sữa tạo thành. Tuy vậy, nó vẫn tin có những sức mạnh từ thế giới khác chi phối cõi trần này. Eragon hỏi sư phụ:
- Vậy thì sư phụ tin thế giới này từ đâu mà có, nếu không phải do thần linh đã tạo dựng lên?
- Thần linh nào, Eragon?
- Thần linh của loài người chúng con, của người lùn và của… thần tiên.
- Ta không đồng ý với con. Nhưng cứ coi như con có lý, vì ta không thể chứng minh thần linh không có thật. Ta cũng không thể chứng minh thế giới này được tạo ra bởi một thực thể, hay nhiều thực thể, từ thuở xa xưa. Tuy nhiên ta có thể cho con biết, trong nhiều thiên niên kỷ, thần tiên đã nghiên cứu thiên nhiên, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến những qui luật vận hành thế giới có sự gián đoạn. Điều đó có nghĩa là chúng ta chưa hề thấy một phép lạ nào. Nhiều sự kiện thách thức khả năng chứng minh của chúng ta, nhưng chúng ta tin rằng, chúng ta thất bại chỉ vì vẫn còn quá ngu dốt, chưa hiểu hết về vũ trụ này, chứ không vì một thần nào làm thay đổi vận hành thiên nhiên.
- Thượng đế vận hành thiên nhiên theo ý ngài. Ngài làm điều đó trong hệ thống những gì đã tồn tại rồi… Thượng đế có thể sử dụng phép màu để tạo ra những sự kiện…
Oromis mỉm cười:
- Rất đúng. Nhưng con hãy tự hỏi: nếu thượng đế, thần linh có thật, họ có phải là những vị thần hộ mệnh tốt đối với đất nước Alagaesia của con không? Chết chóc, bệnh tật, đói nghèo, bạo ngược, chuyên chế và vô vàn đau khổ khắp nơi. Nếu đó là những tác phẩm của thần linh, thì họ đáng bị lật đổ, chứ không phải để phục tùng, sùng bái, thờ phụng.
- Người lùn tin…
- Chính xác. Người lùn có đức tin. Khi phải xác định một vấn đề gì, người lùn dựa vào đức tin hơn vào lý luận, chứng minh cụ thể, nếu sự thật đó đi ngược với giáo điều của họ.
- Chẳng hạn như chuyện gì, thưa thầy?
- Các nhà tu hành của người lùn dùng san hô để chứng minh đá có sự sống và có thể tăng trưởng. Điều đó khẳng định cho truyền thuyết Helzvog tạo ra dòng giống người lùn từ đó. Nhưng thần tiên chúng ta đã phát hiện ra san hô thật sự là lớp vỏ ngoài, tạo ra bởi một làoi sinh vật nhỏ li ti sống trong san hô. Bất cứ một pháp sư nào, nếu khai tâm mở trí, đều có thể thấy những sinh vật đó. Chúng ta đã cắt nghĩa điều này cho người lùn, nhưng họ không thèm nghe. Họ lý luận, trong tất cả các loại đá đều có những sinh vật mà chúng ta đã phát hiện, mặc dù chỉ những nhà tu hành của họ mới có khả năng nhận ra sự sống trong đá mà thôi.
Nhìn qua cửa sổ, Eragon lặng lẽ ngẫm nghĩ những lời của sư phụ, một lúc lâu sau nó mới lại lên tiếng:
- Như vậy là thầy không tin vào một kiếp sau?
- Từ những gì Glaedr đã nói, hẳn con đã biết rồi chứ.
- Thầy không tin tưởng vào thần linh?
- Ta chỉ tin tưởng vào những gì chúng ta có thể chứng minh là có thật. Vì không tìm ra một bằng chứng nào là thượng đế, thần linh, và những điều huyền hoặc là có thật, nên chúng ta không còn bận tâm đến chuyện này nữa. Nếu Helzvog hiển hiện cho chúng ta thấy, lúc đó chúng ta sẽ tin và thay đổi quan niệm của mình.
- Hình như… nếu không có gì khác nữa thì thế giới này lạnh lẽo quá.
- Trái lại, thế giới sẽ tốt lành hơn. Một nơi mà chúng ta phải có trách nhiệm với hành động của chính mình, nơi chúng ta đối xử nhân ái với nhau thật lòng, vì đó là những điều đúng mà chúng ta tự nguyện làm, chứ không làm vì sợ hãi sự trừng phạt của quỷ thần. Thầy không bảo con phải tin theo điều nào. Eragon, tốt hơn hết là hãy học suy luận, rồi tự quyết định, đừng để bị lung lạc, áp đặt bởi những quan niệm của người khác. Vì con hỏi thầy về vấn đề tín ngưỡng, thầy đã nói thật lòng với con. Tự con phải quyết định.

Mấy ngày sau, buổi chuyện trò đó vẫn còn làm Eragon bối rối đến nỗi không thể tập trung vào việc học tập được nữa. Kể cả khi sư phụ bắt đầu giảng giải về một đề tài nó say mê nhất: ca hát cho cây cối phát triển theo ý mình.
Eragon nhận thấy càng hiểu biết thêm càng nhiều nghi hoặc. Về căn bản, rất nhiều điều nó đồng ý với sư phụ. Nhưng vấn đề là, nếu thần tiên đúng, thì có nghĩa là hầu hết loài người và người lùn đề đã lầm đường? Eragon khó lòng chấp nhận chuyện này. Nó lý luận: “Chẳng lẽ quá nhiều người sai lầm đến thế sao?”
Khi đem vấn đề ra hỏi ý Saphira. Cô ả tỉnh bơ nói: “Em chẳng quan tâm đến chuyện này. Rồng không hề tin vào một quyền lực cao hơn. Vì sao chúng em phải tin vào chyện đó, khi muông thú coi chúng em như quyền lực tối thượng rồi? (Eragon cười sằng sặc vì mấy câu này) Chỉ một điều anh cần nhớ, đừng làm ngơ trước thực tế để tự an ủi mình. Vì nếu làm thế, anh chỉ tổ bị kẻ khác phỉnh phờ, lừa gạt mà thôi.”
Đêm đó, Eragon trằn trọc, vùng vẫy trong những giấc mơ tỉnh. Những giấc mơ dữ dội như một con gấu bị thương vùng vẫy, xé rời những hình ảnh khác nhau khỏi tâm trí nó, rồi trộn vào nhau thành một mớ hỗn độn ồn ào. Nó cảm thấy như bị đưa về lại trận chiến dưới lòng thành Farthen Dur. Nó nhìn thấy cậu Garrow nằm chết trong nhà chú Horst, đến xác ông Brom lạnh lẽo trong nấm mồ đó cô quạnh, rồi khuôn mặt bà lang phù thủy Angela đang thì thầm: “Thận trọng, Bàn-tay-bạc. Sự phản bội hiển hiện rõ ràng đây. Sự phản bội từ ngay trong ruột thịt. Hãy thận trong, Bàn-tay-bạc.”
Rồi bầu trời đỏ rực tan tác thành từng mảnh và một lần nữa Eragon lại đang đứng quan sát hai đoàn quân trong rặng nói Beor. Hai cánh quân quần thảo nhau trên cánh đồng nhuộm sắc vàng trong tiếng kêu the thảm của những con quạ đẫm máu và tiếng rít trong gió của những mũi tên đen. Mặt đất như bùng cháy: từ những hố rải rác, phun lên những ngọn lửa xanh lè, đốt thành than những thân thể không còn nguyên vẹn. Nó nghe tiếng gầm của một quái vật khổng lồ từ trên không…
Eragon vùng ngồi dậy, sờ lên sợi dây chuyền đang nóng bỏng trên cổ. Bọc tay bằng một cái áo, nó kéo dây chuyền cách xa làn da, rồi ngồi nghe ngóng trong bóng tối. Trống ngực đập liên hồi vì kinh ngạc, Eragon cảm thấy sức lực đang cạn dần, vì sợi dây yểm bùa của người lùn đang dùng sức của chính Eragon, để bảo vệ khỏi một kẻ nào đó đang cố gắng thu hình nó và Saphira. Một lần nữa, Eragon tự hỏi, phải chăng chính Galbatorix đang sử dụng phép thuật hay một trong những pháp sư trung thành của lão?
Thấy mặt dây hình cái búa đã mát lại, Eragon buông tay. Biết không thể nào ngủ được, Eragon rón rén bước qua Saphira, lên cầu thang cuốn, vào phòng học. Nó mở chụp một ngọn đèn, đọc bộ anh hùng ca của Analissia cho tới sáng.
Eragon vừa buông bộ sách, Blagden bay vù qua một lỗ hổng trên tường, đậu lên góc bàn. Con quạ trắng lom lom nhìn Eragon bằng hai mắt tròn xoe sáng rực, rít lên: “Wyrda!”
Mon men tiến lại gần hơn, con quạ ho sù sụ như dọn giọng, rồi ồ ề ngâm nga:

Với mỏ và xương
Với hòn đá đen
Nhìn kẻ phản phúc
Nhìn đứa bội thề
Và dòng suối máu

Eragon hỏi:
- Mấy câu đó có nghĩa là gì?
Con quạ ngúng ngoẩy lập đi lập lại cho đến khi Eragon năn nỉ, nó mới vừa rỉa lông vừa càu nhàu:
- Cha con giống nhau, đều mù tịt như dơi.
Eragon ngồi thẳng dậy, kêu lên:
- Khoan. Mi có biết cha ta không? Ông ấy là ai?
Lần này con quạ khùng khục trong họng như cười:

Hai có thể chia hai
Một phần hai là một
Nhưng,
Một rất có thể là hai.

- Một cái tên, Blagden. Nói đi, cho ta biết một cái tên.
Con quạ im thin thít. Eragon phóng tâm tưởng, định lấy thông tin từ trí nhớ con chim. Nhưng quạ trắng rất mưu mẹo, đánh lạc hướng ngay. Kêu lên một tiếng “Wyrda!”, Blagden quắp vội nắp bình mực thủy tinh, rồi bay vụt đi cùng chiến lợi phẩm vừa thu được.
Ruột Eragon quặn thắt khi cố giải mã mấy câu đố của con quạ trắng. Điều cuối cùng nó ước mong được nghe nhắc tợi tại Hoàng Cung Ellesméra: Tên của người cha nó chưa hề biết là ai. Sau cùng Eragon chỉ còn biết tự nhủ: “Mình sẽ tìm Blagden, truy bằng được sự thật. Nhưng lúc này mình phải đủ sáng suốt để quên đi những điềm gở đêm qua.”
Chạy xuống thang, nó đánh thức Saphira dậy và kể lại những gì đã thấy trong đêm. Lấy cái gương từ phòng tắm, Eragon ngồi giữa hai chân trước Saphira để con rồng cũng có thể thấy những gì sẽ hiện trong gương. Saphira cảnh cáo: “Arya không thích chúng ta xâm nhập vào cõi riêng tư của cô ta đâu.”
“Nhưng anh cần biết Arya có được an toàn không.”
“Anh tìm cô ta bằng cách nào? Anh chẳng bảo Arya đã tự phong tỏa là gì? Cô ta ngăn chặn tất cả những kẻ nào có ý định thu hình ảnh của mình, cũng giống như sợi dây chuyền yểm bùa của anh vậy.”
“Nếu thu được hình những người Arya giao dịch, anh có thể đoán ra tình trạng của cô ấy.”
Tập trung tư tưởng vào hình ảnh Nasuada, Eragon đặt bàn tay lên gương, lẩm bẩm: “Hiện lên đi.”
Mặt gương tỏa sáng rồi chuyển sang màu trắng. Trên nền trắng đó, chín người đang quây quần bên một cái bàn vô hình. Trong số họ, Eragon chỉ nhận ra Nasuada và Hội-Đồng Tiền-Bối, còn một đứa con gái lạ mặt lẩn lút sau lưng Nasuada, nó không biết là ai. Điều này làm Eragon bối rối, vì phép thu hình này chỉ cho phép nhìn thấy những gì đã từng thấy một lần. Nhưng con nhỏ này, chắc chắn Eragon chưa từng nhìn thấy bao giờ. Nó tạm quên thắc mắc về con bé xa lạ, vì thấy những người trong gương, kể cả Nasuada, đều trang bị vũ khí.
Saphira đề nghị: “Thử nghe họ đang nói gì.”
Eragon vừa niệm chú để nghe âm thanh, tiếng Nasuada phát ra ngay từ tấm gương:
- … và do dự sẽ hủy hoại chúng ta. Chiến binh của chúng tôi có khả năng, nhưng phải tìm ra một cấp chỉ huy xứng đáng. Xin đức vua quyết định ngay đi.
Eragon nghe một tiếng thở dài thườn thượt trước khi nói:
- Tùy công nương quyết định. Đó là nhiệm vụ của cô.
- Nhưng, thưa bệ hạ, cô ta chưa có kinh nghiệm!
- Đủ rồi, Irwin. Cô ta có nhiều kinh nghiệm chiến tranh hơn bất cứ ai ở Surda này. Và đừng quên, Varden là lực lượng duy nhất đã đánh tan tác một cánh quân của Galbatorix. Nasuada là một vị tướng của Surda, kể ra cũng là chuyện lạ, nhưng trẫm thành thật khuyên khanh, đừng ngần ngại bầu cho cô ta vào địa vị đó. Nếu các quan trong điều có ai phản đối, trẫm rất vui lòng trả lời thắc mắc của họ. Nào, bản báo cáo lương thực đâu rồi… A, cảm ơn Arya. Hơn ba ngày không có…
Cuộc thảo luận quay sang vấn đề thiếu hụt cung tên, Eragon thấy không cần thiết, vì vậy nó thu hồi phép thuật. Mặt gương trong trở lại, chỉ còn hình ảnh chính nó trong gương.
Eragon lẩm bẩm: “Nàng còn sống.”
“Họ đang cần chúng ta.”
“Hừ, chắc chắn sư phụ đã biết chuyện này, sao không hề nói gì với chúng ta?”
“Có lẽ vì sư phụ không muốn làm gián đoạn việc học tập của chúng ta.”
Eragon băn khoăn không biết còn những gì đang xảy ra tại Alagaesia mà nó không được biết. Roran! Nó chợt cảm thấy như có tội, vì suốt mấy tuần qua nó đã không nghĩ gì tới người anh họ.
Eragon lại niệm chú, và trên nền trong vắt của mặt gương hiện lên hai người. Phải mất một lúc lâu, Eragon mới nhận ra người bên phải là Roran. Anh mặc bộ quần áo đi đường rách nát, cây búa đeo bên hông, mặt hốc hác phủ bộ râu rậm rì, lộ vẻ đầy tuyệt vọng. Bên trái là Jeod. Hai người đi tới đi lui, trong khi những đợt sóng ầm ầm át hết tiếng nói của họ. Một lát sau, Roran quay lại, bước dọc theo một mặt phẳng là Eragon đoán là sàn của một con tàu. Anh ta tiến gần lại chỗ mấy chục dân làng.
Eragon bàng hoàng hỏi: "Họ đang ở đâu thế này? Tại sao lại có cả ông Jeod ở đây với họ?"
Chuyển hướng phép thuật, Eragon lần lượt lướt qua thành Teirm - giật mình trước cảnh đổ nát của bến cảng -, Therinsford, trang trại cũ của cậu Garrow, rồi tới làng Carvahall. Eragon rú lên đau đớn.
Làng xưa đã không còn nữa.
Tất cả những ngôi nhà, cả ngôi nhà tuyệt đẹp trên đồi của chú Horst, đều bị thiêu đốt hết. Carvahall không còn lại gì ngoài những đám tro tàn bên dòng sông Anora. Cư dân duy nhất còn sống sót là mấy con sói xám lang thang qua đống đổ nát.
Chiếc gương trong tay Eragon rơi xuống mặt sàn, vỡ tan tành. Nó dựa vào Saphira, nước mắt đầm đìa, đau đớn vì lại một lần nữa mất quê hương. Saphira rên từ lồng ngực, dụi mõm vào cánh tay Eragon an ủi: "Can đảm lên anh. Ít ra vẫn còn người thân bạn bè của anh sống sót."
Eragon rùng mình, cảm thấy như có một tảng đá đè trên bụng: "Chúng ta sống cách biệt với thế giới bên ngoài quá lâu rồi. Đã tới lúc phải rời khỏi Ellesméra để đương đầu cùng định mệnh, dù chuyện gì có xảy ra. Lúc này anh Roran có thể tự lo... nhưng còn Varden... chúng ta phải giúp họ."
"Đã tới thời điểm chứ?"
Giọng Saphira nghiêm túc lạ lùng.
Eragon biết cô em rồng định nói gì: đã tới thời điểm thách thức trực tiếp với triều đình chưa? Tới thời điểm tung hoành chém giết bằng hết khả năng chưa? Tới thời điểm bùng nổ hết căm hờn, phẫn nộ cho đến khi bạo chúa Galbatorix gục chết dưới chân chưa? Đã tới thời điểm tự ràng buộc vào một cuộc chiến có thể kéo dài mấy chục năm chưa?"
Thời điểm đó đã tới rồi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #16  
Old 01-13-2013, 01:45 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Tặng vật


Eragon thu xếp hành trang không đầy năm phút, rồi đóng bộ yên cương lên lưng Saphira.
Saphira vươn cổ, mũi phun lửa, bảo: “Em đợi anh ngoài bãi tập.” Với một tiếng gầm, nó phóng khỏi ngôi nhà cây, bay lướt qua rừng già.
Lanh lẹ như một thần tiên, Eragon chạy tới cung Tialdarí tìm ông lùn Orik. Orik đang ngồi trong một góc, chơi một trò chơi bằng chữ cổ, mừng rỡ vỗ vai Eragon:
- Chuyện gì mà tới giờ này? Tưởng cậu đang luyện kiếm với Vanir chứ?
- Tôi và Saphira sửa soạn rời đây.
Orik há hốc mồm, rồi lim dim mắt hỏi:
- Có tin tức gì à?
- Sẽ kể cho ông sau. Ông muốn cùng đi không?
- Tới Surda?
- Phải.
Ông lùn toác miệng cười:
- Cậu phải cùm chân tay, mới bắt tôi ở lại đây được. Ở lại hoàng cung này làm gì? Ăn cho mập ú, làm biếng nhớt thây à? Bao giờ đi?
- Càng sớm càng tốt. Thu xếp lẹ lên. Chờ chúng tôi ngoài bãi tập. À, ông chôm chỉa được lương thực đủ cho hai người trong một tuần không?
- Một tuần? Sao tới kịp…
- Chúng ta bay với Saphira.
Mặt ông lùn tái nhợt:
- Ôi, người lùn chúng tôi làm sao chịu được độ cao. Đi ngựa cho chắc ăn, như khi mình tới đây đó.
- Không được. Mất nhiều thời gian lắm. Ông yên tâm, nếu bị ngã đã có Saphira túm lại.
Orik càu nhàu, không chút tin tưởng.
Eragon chạy xuyên qua thành phố rừng thông gặp Saphira, rồi cả hai bay tới bờ vực Tel’naéir.
Oromis đang ngồi trên đùi phải của Glaedr. Những cái vẩy lóng lánh của rồng già mạ vàng lên một vùng rừng núi.
Eragon xuống khỏi lưng Saphira, cúi đầu:
- Kính chào hai sư phụ.
Rồng vàng hỏi: “Hai ngươi tự ý quyết định trở lại với Varden phải không?”
Saphira trả lời: “Chúng tôi phải đi.”
Eragon không kìm chế nổi, hằn học hỏi:
- Vì sao sư phụ đã che giấu sự thật. Sư phụ không hề cho chúng con biết là quân cách mạng Varden sắp bị tấn công.
Vị lão tiên vẫn tỏ ra điềm đạm:
- Con muốn biết vì sao không?
- Thưa sư phụ, chúng con rất muốn biết.
Saphira trả lời trước khi Eragon kịp nói. Cô ả gầm gừ ông anh: “Giữ lễ.”
- Ta còn giữ kín tin này vì hai lý do. Lý do chính là tin Varden bị đe dọa cũng chỉ mới tới tai chúng ta chín ngày trước. Lực lượng, địa điểm và hướng di chuyển thật sự của đế quốc đều hoàn toàn bí mật, chỉ mới khám phá được ba hôm trước khi quan đại thần Dathedr xuyên thủng vòng ma thuật Galbatorix sử dụng để lừa gạt chúng ta.
Eragon bướng bỉnh:
- Điều đó cũng không đủ cắt nghĩa việc sư phụ không hề nhắc tới chuyện này. Hơn nữa, khi phát hiện việc Varden đang nguy khốn, vì sao nữ hoàng Islanzadí không phát động thần tiên chiến đấu? Chúng ta không phải là đồng minh sao?
- Có đấy, Eragon. Rừng cây đang vang rền tiếng búa chạm nhau, tiếng bước chân lẻng xẻng của những đôi ủng sắt, tiếng thở than của những người sắp phải lên đường. Vì đây là lần đầu tiên trong một thế kỷ, dòng giống chúng ta mới ra khỏi Du Weldenvarden để thách đấu với kẻ thù nguy hiểm nhất. Thời điểm đã tới để thần tiên công khai bước vào Alagaesia. Con sợ chậm trễ nên rối trí, ta hiểu vì sao. Nhưng lúc này con phải nhìn xa hơn là bản thân mình. Vì thế giới đòi hỏi sự quan tâm của con.
Sượng sùng, Eragon chỉ còn biết lắp bắp:
- Thưa sư phụ, con xin lỗi.
Nhớ lại lời con quạ trắng Blagden, nó cười cay đắng, tiếp:
- Con mù lòa như một con dơi.
- Không đâu, Eragon. Con đã hoàn tất tốt đẹp nhiều việc. Xét hàng núi trách nhiệm chúng ta đặt lên vai con thì đủ rõ. Chúng ta hy vọng hai ngày nữa sẽ nhận được văn thư của Nasuada yêu cầu nữ hoàng cấp thêm người hỗ trợ và chuyện con trở lại với Varden. Ta định tới lúc đó mới báo cho con biết tình hình khó khăn của Varden, nếu vậy con vẫn còn kịp có mặt tại Surda trước cuộc chiến. Nếu thầy cho con biết sớm hơn, mối ràng buộc danh dự sẽ làm con bỏ dở dang việc học, chạy ngay về bảo vệ chủ nhân con. Đó là lý do thầy và nữ hoàng đã giữ kín chuyện này.
- Việc học tập của con sẽ chẳng ích gì nếu Varden bị hủy diệt.
- Đúng vậy. Nhưng con có thể là người duy nhất tránh cho Varden bị diệt vong nếu Galbatorix hiện diện trong cuộc chiến này. Nếu lão bạo chúa thật sự sẽ có mặt tại đó, mà thần tiên chưa kịp tới giúp Varden, con sẽ phải một mình đối đầu với Galbatorix, không có sự bảo vệ của các pháp sư thần tiên. Vì vậy, điều quan trọng là việc học tập của con duy trì được lâu thêm chừng nào càng tốt.
Bao giận hờn trong lòng Eragon tiêu tan hết, nó chỉ còn cảm thấy kính phục tinh thần cứng cắn, lạnh lùng của sư phụ khi ông thấy việc giữ im lặng là cần thiết. Cảm xúc cá nhân không thích hợp trong hoàn cảnh gay go lúc này, Eragon trầm tĩnh nói:
- Thầy nói đúng, tới tuyên thệ của con sẽ thôi thúc con phải bảo vệ sự an toàn cho Nasuada và Varden. Tuy nhiên lúc này con chưa sẵn sàng đối đầu với Galbatorix…
- Thầy đề nghị, nếu Galbatorix đích thân xuất trận, con hãy tìm đủ cách làm cho lão rối trí mà xao lãng Varden, tránh đụng độ trực tiếp với lão. Trước khi hai con đi, thầy chỉ có một yêu cầu: Eragon và Saphira phải hứa – ngay khi hoàn cảnh cho phép – hai con phải trở lại đây. Còn rất nhiều điều hai con cần học hỏi.
- Chúng con sẽ trở lại.
Vẻ hài lòng, Oromis với từ phía sau một túi vải thêu màu đỏ. Vừa mở túi ông vừa nói:
- Biết trước việc con ra đi, thầy đã thu xếp sẵn ba món quà cho con đây, Eragon.
Đưa cho nó một chai nhỏ bằng bạc, vị lão tiên ân cần nói:
- Thứ nhất là chai faelnirv đã được ta làm phép. Chất này sẽ trợ lực cho con có thể chịu đựng khi tất cả thần tiên khác đều đã kiệt lực. Nó còn giúp con một cách hữu hiệu trong nhiều trường hợp khác nữa. Nhớ dè sẻn, vì thầy chỉ đủ thời gian làm được bấy nhiêu thôi.
Lấy từ trong túi ra một thắt lưng dài, bằng vải đen và xanh, thêu những dây nho quấn quít, ông trao cho Eragon. Chiếc thắt lưng dường như dày khác thường và có vẻ nặng nề đối với nó. Tuân lệnh sư phụ, nó kéo dải tua đầu thắt lưng, một đường chính giữa mở ra, để lộ mười hai viên kim cương. Bốn viên trắng, bốn viên đen, bốn viên còn lại màu đỏ, vàng, nâu và xanh dương. Tất cả đều long lanh rực rỡ và lạnh lẽo như băng đá buổi rạng đông, tỏa sắc cầu vồng trong lòng bàn tay Eragon.
Lắc đầu, nghẹn thở, Eragon thốt mãi mới thành lời:
- Sư phụ… thầy cho con thứ này, liệu có… có an toàn không?
- Hãy thận trọng, đừng để kẻ nào thấy mà động lòng tham. Đây là đai lưng của Beloth Khôn Ngoan – con đã đọc về ông trong cuốn Tháng Năm U Tối rồi đó – và là một tài sản quý giá của kỵ sĩ. Đây là những viên kim cương hoàn hảo nhất mà các kỵ sĩ đã tìm ra được. Có viên chúng ta mua của người lùn, có viên là chiến lợi phẩm, có viên do chính chúng ta đào được. Tự thân những viên đá quý này không có phép thuật, nhưng con có thể dùng chúng như những kho dự trữ năng lực của con để sử dụng khi cần thiết. Những viên kim cương này, cộng với viên hồng ngọc trên chuôi thanh Zar’roc, sẽ cho phép con tích lũy công lực, để con sẽ không bị mê muội vì những câu thần chú khi lâm trận, kể cả khi đối đầu với những pháp sư thù địch.
Sau cùng, ông lấy từ trong một ống nhỏ ra cuộn giấy mỏng. Mở cuộn giấy, Eragon thấy bài thơ nó đã đọc trong Lễ-hội Huyết-thệ, với nét chữ như rồng bay phượng múa của sư phụ. Đầu mỗi khổ thơ là hình ảnh cây cối, muôn thú cuốn lấy nhau. Oromis nói:
- Ta nghĩ chắc con muốn có một bản chép này.
Một tay cầm cuộn giấy có bài thơ và nét chữ của thầy, Eragon cúi đầu, nói mấy câu đơn giản tự đáy lòng:
- Con vô vàn cảm tạ sư phụ.
Rồi vị tiên già làm Eragon kinh ngạc khi ông chắp tay theo đúng nghi lễ thần tiên, trang trọng nói:
- Cầu mong vận may đến cùng con.
- Cầu xin những vì sao che chở thầy.
- Cầu mong tâm hồn con luôn thanh thản.
Ông quay qua lập lại lời chúc với Saphira, rồi bảo:
- Giờ thì các con hãy lên đường, hãy bay nhanh như gió bắc và hãy biết rằng các con đã đem theo mình lời chúc phúc của Oromis: hậu duệ cuối cùng của giòng tộc Thrándurin, và cũng là Hiền Nhân Sám Hối, Tàn Mà Không Phế.
Rồng vàng Glaedr vươn cổ, chạm nhẹ đầu mũi Saphira: “Đó cũng là những lời của ta. Saphira, hãy nhớ luôn giữ tâm an lành.” Cô ả ậm ừ trong họng.
Tất cả buồn rầu chia tay. Saphira lướt bay trên cánh rừng già. Hình ảnh vị lão tiên và rồng vàng lẻ loi, nhỏ dần trên bờ vực đá.
Mặc dù thời gian ở Ellesméra chịu nhiều khó nhọc, Eragon vẫn nhớ những ngày chung sống với thần tiên. Vì sau khi rời xa thung lũng Palancar, chỉ từ khi ở cùng thần tiên, Eragon mới cảm thấy thân thiết như trong một gia đình.
Nhắm mắt ôm chặt cái gai trên cổ Saphira, Eragon thầm nhủ: “Mình đã trở thành một con người khác khi rời khỏi nơi này.”
Trước khi đi gặp ông lùn Orik, chúng ghé vào cung Tialdarí. Saphira hạ xuống khu vườn khép kín, thận trọng không để móng vuốt và cái đuôi dài thòng làm hư hỏng những luống hoa. Không đợi cô rồng nằm rạp mình xuống, Eragon nhảy phóc xuống đất. Trước đây kiểu nhảy này chắc chắn sẽ làm nó bị thương.
Một tiên ông tiến lại, đặt hai ngón tay lên môi cúi đầu hỏi:
- Các vị cần gì?
- Xin cho chúng tôi triều kiến nữ hoàng.
- Xin Bàn-tay-bạc vui lòng chờ tại đây.
Chưa đầy năm phút, nữ hoàng Islanzadí xuất hiện. Chiếc áo choàng màu đỏ của bà như một giọt máu gữa màu áo trắng của thần tiên nam nữ cận thần. Sau nghi lễ chào hỏi, nữ hoàng nói:
- Oromis cho ta biết hai người định rời xa chúng ta. Dù không vui nhưng ta chẳng thể nào ngăn cản được ý của số mệnh.
- Tâu nữ hoàng, chúng thần tới để tỏ lòng tôn kính trước khi lên đường. Nữ hoàng đã quá bận tâm và ưu ái chúng thần. Chúng thần đã được hưởng ơn nữ hoàng nhiều quá.
- Không có gì là ân huệ hết. Chúng ta chỉ mới trả được một phần nhỏ những gì chúng ta còn mang nợ các kỵ sĩ và loài rồng, vì thất bại thảm hại của chúng ta trong sự kiện suy sụp của kỵ sĩ. Eragon, khi tới Surda, hãy chuyển lời ta thăm hỏi công nương Nasuada và đức vua Orrin, đồng thời báo cho họ biết, chiến binh của ta sắp tấn công mặt bắc của Đế quốc. Nếu may mắn, chúng ta sẽ lừa được Galbatorix, giúp thời gian cho những cánh quân khác xé nhỏ lực lượng của bạo chúa.
- Xin tuân lệnh.
- Ta cũng đã phái mười hai pháp sư cao tay nhất tới Surda. Họ sẽ được đặt dưới quyền kỵ sĩ và sẽ bằng mọi giá bảo vệ kỵ sĩ suốt đêm ngày.
- Đa tạ nữ hoàng.
Bà xòe bàn tay. Một cận thần dâng lên một hộp gỗ. Mở cái hộp, bà lấy ra cây cung cẩn bạc hình những chiếc lá phong du và ống tên với những mũi tên bằng lông thiên nga.
- Giờ thì kỵ sĩ đã có sức mạnh như thần tiên chúng ta, kỵ sĩ cần phải có một cây cung của thần tiên. Ta đã tự hát để tạo ra cây cung này từ một cây thủy tùng. Dây cung sẽ không bao giờ bị đứt. Còn những mũi tên này sẽ không bao giờ lạc mục tiêu, kể cả khi trời lộng gió.
Quá bối rối vì sự hào phóng của nữ hoàng, Eragon cúi đầu nói:
- Muôn tâu, thần biết nói sao đây? VÌ tặng vật cho thần mà lệnh bà phải nhọc nhằn ngọc thể.
Nữ hoàng gật đầu rồi quay qua Saphira:
- Ta không thể nào nghĩ ra được một quà tặng cho mi, Saphira, nhưng nếu mi thích bất kỳ thứ gì tại đây, cứ nói ta rất vui lòng ban tặng.
- Rồng không hề coi tài sản là niềm vui. Giàu có với rồng có nghĩa gì, khi bộ giáp của rồng lộng lẫy sáng ngời hơn bất cứ kho tàng nào trên thế gian? Không, thần đã được vui vì tấm lòng ưu ái của lệnh bà đối với Eragon rồi.
Nữ hoàng chúc cả hai lên đường bằng an, trước khi ra khỏi vườn bà ngừng lại, nói với Eragon:
- Hãy chuyển lời ưu ái của ta tới Arya và hãy bảo hoàng cung Ellesméra rất nhớ công chúa.
Sau mấy lời nói đầy vẻ xã giao, không đợi Eragon trả lời, nữ hoàng Islanzadí đi khuất sau những thân cây bao quanh cung Tialdarí cùng các cận thần.
Nửa phút sau Eragon và Saphira bay tới bãi tập. Ông lùn Orik đang ngồi trên túi hành lý căng phồng, hai tay thảy qua thảy lại cây búa vũ khí. Thấy Eragon, ông đứng dậy làu bàu:
- Đến rồi cơ à?
Eragon xin lỗi vì sự chậm trễ rồi móc túi hành lý của Orik lên sau yên rồng. Ông lùn ngược lên nhìn đôi vai Saphira lù lù trên cao, ca cẩm:
- Ôi, làm sao tôi leo được lên đó chứ? Một bờ vực còn có nhiều chỗ để bám tay hơn thân mình mi, Saphira.
- Đây.
Saphira ép sát bụng trên mặt đất, duỗi dài một chân trước, làm cầu cho ông lùn. Ì cạch đánh đu lên ống chân, ông lùn rón rén bò lên đùi cô rồng. Tia lửa nhỏ phì ra từ hai lỗ mũi Saphira khi nó cằn nhằn:
- Lẹ lên cha, nhột quá hà.
Orik đặt hai chân hay bên gai sống lưng Saphira, thận trọng bước từ từ tới cái yên. Eragon tủm tỉm cười:
- Đừng nhào xuống nhé.
Khi Orik đã yên vị trên yên, Eragon leo lên Saphira, ngồi sau ông lùn. Để giữ cho Orik không bị chao đảo khi Saphira bay lộn, nó nới lỏng dây an toàn, nhét hai chân ông lùn vào trong.
Saphira đứng thẳng lên, Orik nắm chặt gai rồng, quay lại Eragon:
- Ui cha, cho đến khi lên tới trên không, đừng bắt tôi mở mắt đấy nhé, Eragon. Thật kỳ cục. Người lùn sinh ra đâu phải để cưỡi rồng. Chưa bao giờ lại có chuyện ngược đời như thế này.
- Chưa bao giờ sao?
Orik lắc đầu, không dám mở miệng trả lời.
Từng nhóm thần tiên từ Du Weldenvarden tiến ra tụ tập bên lề bãi tập, buồn rầu nhìn Saphira vươn cánh sửa soạn bay lên.
Eragon nắm chặt tay vịn khi cảm thấy những sợi gân mạnh mẽ phi thường của Saphira cuồn cuộn dưới chân nó. Với một cái nhún mình, Saphira phóng lên bầu trời xanh, vỗ mạnh hai cánh, vượt khỏi những hàng cây khổng lồ. Lượn vòng xoắn ốc lên cao dần, rồi cô rồng cái nhắm hướng nam, tiến về sa mạc Hadarac.
Dù gió lộng vù vù bên tai. Eragon còn nghe giọng một tiên nữ véo von, cất lên từ hoàng cung Ellesméra, bài ca nó đã nghe lần đầu khi mới tới đây:
Bay đi anh hãy bay đi
Bay qua thung lũng núi đồi
Tới vùng đất xa xôi đó
Bayđi anh cứ bay đi
Đừng bao giờ trở lại cùng em nữa…


Cuống họng của đại dương


Lớp đá gương thiên tạo vồng lên dưới Cánh Rồng, đẩy con tàu vọt cao lên không. Cánh Rồng chao đảo trên ngọn sóng ngầu bọt, rồi lao xuống máng nước không lồ đen ngòm bên dưới. Sương mù cuồn cuộn trong không khí giá lạnh, gió gầm rú như tiếng ma quỷ gọi hồn.
Roran nắm lan can tàu, nôn khan toàn nước mật đắng chát. Khi còn trên xà-lan của Clovis, Roran tự khen mình không hề bị say sóng, nhưng trận giông này quá dữ dội, kể cả những thủy thủ dày dạn nhất của Uthar cũng nôn thốc tháo đến giọt rượu cuối cùng.
Con sóng như cột nước đá khổng lồ chụp lên Roran, tràn ngập khắp sàn tàu, rồi ào ào rút qua những lỗ thoát nước, đổ lại xuống biển. Roran đưa mấy ngón tay tê cóng lên gạt nước mặn trên mắt, liếc nhìn chân trời đen như mực phía sau.
“Cơn giông này chắc làm chúng mất dấu mình rồi.” Ba con thuyền nhỏ, buồm đen, đuổi theo những người chạy trốn từ khi Cánh Rồng vừa qua khỏi Dốc-vực-sắt và vòng sang một địa danh – ông Jeod gọi là Edur Carthungave, còn Uthar lại gọi là Đỉnh Thúc Ngựa của Rathbar – Uthar cười bảo: “Chính xác thì nơi này là khúc xương đuôi của núi Spine.”
Vì Cánh Rồng quá nặng nề với toàn thể dân làng, nên ba con thuyền nhỏ đã theo kịp tới tầm tên bắn. Nguy hiểm hơn nữa là, dường như trên con thuyền dẫn đầu có một pháp sư. Những mũi tên của chúng nhắm trúng đích một cách lạ lùng. Dây bị đứt, máy bắn đá và ụ phòng thủ bị phá hủy… Theo cách tấn công của bọn chúng, Roran suy luận triều đình không còn ý định bắt sống anh nữa, mà bằng mọi giá ngăn chặn việc anh tới với Varden. Khi có một cơn mưa xối xả đổ xuống, cùng cơn giông bão ầm ầm từ hướng bắc kéo tới, Roran mới thu xếp cho dân làng sẵn sàng đẩy lui những kẻ xâm nhập lên tàu. Ngay lúc đó, Uthar cho Cánh Rồng nương theo hướng gió, quay mũi tàu về mấy đảo phía nam, hy vọng lẩn trốn thuyền nhỏ trong vùng vịnh nước nóng của Beirdland.
Những lằn chớp lóe lên cuối chân trời, cảnh vật như một bức tranh nhợt nhạt thoáng hiện ra rồi lại chìm ngập trong đêm tối.
Liên tiếp hàng loạt tia chớp xuất hiện và Roran thấy ngọn cột buồm định hướng ngả nghiêng, rồi gãy rời, văng xuống biển, kéo theo đuôi tàu chìm thấp xuống. Nắm chặt dây an toàn, Roran đu lên buồng lái, cùng Bonden chặt đứt mấy sợi dây cáp nối giữa Cánh Rồng và đỉnh trụ buồm dưới nước.
Sau đó, Roran xuống boong, tay luôn nắm chặt lan can dưới những đợt sóng cao năm thước… mười thước phủ lên tàu làm anh lạnh buốt tới xương.
Roran cầu xin mà không biết cầu xin ai: “Đừng bắt tôi chết tại đây. Đừng để tôi chết giữa những đợt sóng tàn nhẫn này, khi công việc của tôi chưa hoàn tất.” Suốt đêm dài dằng dặc đó, Roran bám lấy những kỷ niệm về Katrina làm niềm an ủi, khi trong lòng tràn ngập lo âu và gần như không còn chút hy vọng nào.

Trận giông bão kéo dài suốt hai ngày rồi tan dần vào lúc nửa đêm. Hôm sau, bình minh xuất hiện với bầu trời trong xanh và… ba cánh buồm đen đang bồng bềnh nơi hướng bắc. Phía tây nam, Beirland lờ mờ hiện ra dưới những dải mây lững lờ quanh đỉnh núi sừng sững trên đảo.
Roran, ông Jeod và Uthar gặp nhau trong một phòng nhỏ gần mũi tàu – vì phòng họp của thuyền trưởng đã dành cho những người già yếu. Uthar trải tấm hải đồ lên bàn, chỉ một điểm phía trên Beirland, nói:
- Chúng ta đang ở đây.
Lấy một bản đồ bờ biển Alagaesia, Uthar chỉ cửa sông Jiet, tiếp:
- Còn đây là điểm tới của chúng ta, vì lương thực không đủ để tới thẳng Reavstone. Nhưng cho dù có đủ lương thực chúng ta cũng không thể tới đó được. Đỉnh cột buồm lái bị gãy, mấy con thuyền đáng nguyền rủa kia chắc chắn sẽ theo kịp chúng ta vào trưa mai.
Ông Jeod hỏi:
- Chúng ta có thể thay buồm khác không? Những con tàu to lớn như thế này, chắc phải đem theo cột để thay thế chứ.
- Có thể, nếu chúng ta có thợ mộc chuyên môn về tàu thủy. Không thể cho một tay mơ leo lên cây cột mấy chục mét, sơ sẩy cột đổ còn làm thêm cả đống người bị thương nữa.
Roran hậm hực
- Nếu chúng không có pháp sư theo, ta dư sức quay lại choảng cho chúng một trận. Mấy người trên ba con thuyền nhỏ xíu kia so với chúng ta chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng nếu chọi với phép thuật, tôi e chúng ta khó thắng, cứ suy từ bao nhiêu con tàu tiếp tế cho Varden đều đã biến mất thì đủ biết.
Uthar khoanh vòng nơi Cánh Rồng đang di chuyển, rồi góc ngón tay lên một điểm:
- Nếu gió chiều lòng chúng ta, chúng ta sẽ đến được nơi này vào chiến tối mai. Cặp tàu vào Beirland hoặc Nía cũng được. Nhưng tôi cũng không biết chắc ra sao. Có thể chúng ta sẽ bị sập bẫy đám lính trên ba thuyền kia, Ra’zac hoặc có thể là chính Galbatorix.
Roran thầm lo lắng: “Một cuộc đụng độ với lính trên thuyền khó mà tránh khỏi.”
Mấy phút trôi qua, trong phòng im phăng phắc, chỉ còn nghe tiếng sóng vỗ mạn tàu. Rồi ông Jeod chỉ một điểm giữa Beirland và Nía, nhìn Uthar hỏi:
- Mắt-lợn-lòi thì sao?
Roran ngạc nhiên thấy vẻ khiếp đảm trên mặt Uthar:
- Ông Jeod, tôi không dám thí mạng như vậy đâu. Thà tôi bỏ thây trên biển vì ba chiếc thuyền kia, còn hơn phải đâm đầu vào địa ngục đó…
Jeod ngả người trên ghế, lẩm bẩm:
- Tôi nhớ đã đọc đâu đó, giữa hai đợt thủy triều lên, xuống, lộ trình rất an toàn. Có đúng vậy không?
Uthar miễn cưỡng gật đầu:
- Nhưng… Mắt-lợn-lòi bao la lắm. Phải canh giờ chính xác mới không bị tan nát tàu bè. Với áp lực ba thuyền kia đang đuổi theo, làm sao chúng ta đủ thời gian để tính toán giờ giấc được.
- Nhưng nếu chúng ta có thể canh được giờ chính xác, thì chính ba con thuyền kia mới bị tan nát, hoặc phải bắt buộc quay hướng sang Nía. Lúc đó ta có đủ thời gian tìm nơi ẩn núp dọc theo Beirland.
- Nếu, nếu… Ông sẽ đẩy chúng tôi chết chìm hết ráo dưới đại dương.
- Thôi nào, Uthar, anh hoảng hốt một cách vô lý quá. Thú thật, ý kiến của tôi có phần nguy hiểm, nhưng chưa nguy hiểm bằng khi chúng ta chạy trốn khỏi thành Teirm. Hay anh nghi ngờ khả năng của anh không đủ để điều khiển con tàu qua lỗ hổng đó? Dũng khí đàn ông của anh đâu?
- Chưa bao giờ ông thấy Mắt-lợn-lòi, đúng không? Không phải tôi thiếu can đảm, nhưng vực nước đó vượt quá sức con người. Nó bất chấp những con tàu to lớn nhất, những ngôi nhà đồ sộ nhất, hoặc bất cứ thứ gì người ta có thể nghĩ ra để vượt qua nó. Thử thời vận với nó là đâm đầu vào cõi chết.
Roran ngơ ngác hỏi:
- Nhưng… Mắt-lợn-lòi là gì?
Uthar nói như rên:
- Là cái cuống họng tham lam của đại dương, ăn tươi nuốt sống tất cả những gì vượt qua nó.
Ông Jeod bình tĩnh cắt nghĩa:
- Roran, đó là một dòng nước xoáy, tạo nên bởi những luồng sóng lớn đối đầu nhau giữa Beirland và Nía. Khi thủy triều lên mạnh, Mắt-lợn-lòi xoay chiều từ bắc sang tây. Khi thủy triều rút, nó chuyển từ bắc sang đông.
- Vậy thì có gì là nguy hiểm quá đâu?
Nghe Roran nói, Uthar lắc đầu, dải tóc bím hất qua lại hai bên cổ rám nắng:
- Ha ha, nghe cậu ta nói kìa. Có gì quá nguy hiểm đâu!
Jeod lại nói:
- Cháu không thể ngờ nó rộng lớn đến thế nào đâu. Tính trung bình, trung tâm Mắt-lợn-lòi đường kính khoảng một hải lý. Những nhánh tỏa ra chung quanh nó từ mười tới mười lăm dặm. Những con tàu bất hạnh sa bẫy nó, sẽ lọt thỏm xuống đáy đại dương, tan nát vì va chạm phải tầng đá tua tủa trong lòng biển. Người ta thường bắt gặp những mảnh tàu bồng bềnh dạt vào hai hòn đảo Beirland và Nía này.
Roran hỏi:
- Liệu có ai đồng ý qua lối này cùng chúng ta không?
Jeod lắc đầu. Uthar càu nhàu:
- Chắc chắn không có ai.
- Có cách nào vượt qua Mắt-lợn-lòi được không.
- Đó là một việc làm liều lĩnh ngu ngốc nhất.
- Uthar, tôi biết là anh không muốn liều mạng, nhưung chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Tôi không phải là dân đi biển, vì vậy tôi chỉ còn biết tin vào sự phán đoán của anh. Chúng ta vượt qua Mắt-lợn-lòi nổi không?
Uthar ngập ngừng:
- Có thể được, có thể không. Cách con quái vật đó chừng năm dặm, người ta đã như lên cơn mê sảng rồi.
Rút ra cây búa, Roran chém phập xuống bàn:
- Vậy thì tôi là một kẻ mê sảng đây. Có cần phải nhắc nhở anh, chúng ta không vượt qua chặng đường xa xôi đến thế để tới đây nghe mấy câu lảm nhảm không thể, không nên. Dân Carvahall cùng tôi đã dám bỏ lại cửa nhà, xuyên qua núi Spine. Ông Jeod đã dám nghĩ ra việc lấy trộm con tàu Cánh Rồng. Chúng ta còn sẽ dám làm những gì nữa, anh Uthar? Nếu anh dũng cảm thắng Mắt-lợn-lòi và sống để kể lại chuyện này, anh sẽ là một nhà hàng hải vĩ đại nhất trong lịch sử. Bây giờ xin anh trả lời tôi, trả lời một cách chân thật. Có thể làm được chuyện này không?
Uthar vuốt mặt, khi cất tiếng nói giọng anh ta dịu hẳn lại:
- Tôi không biết, Cây-búa ạ… Nếu chúng ta đợi cho Mắt-lợn-lòi rút xuống, thì ba thuyền kia sẽ bắt kịp và nếu ta thoát được, chúng cũng sẽ thoát theo. Còn nếu gió đổi chiều, chúng ta sẽ bị cuốn theo dòng xoáy.
- Là chỉ huy trên tàu, anh có nhiệt tình làm chuyện này không? Ông Jeod và tôi không thể nào thay thế anh được.
Trừng trừng nhìn xuống tấm hải đồ một lúc lâu, rồi Uthar kẻ mấy đường từ điểm họ đang hiện diện tới mấy hình ảnh mà Roran không hiểu. Sau cùng người thủy thủ lên tiếng:
- Tôi e chúng ta sẽ đi vào cõi chết, nhưng được, tôi sẽ cố hết sức để vượt qua.


Chạy đua với Mắt-lợn-lòi


Ngày hôm đó, ba thuyền nhỏ vẫn bám theo Cánh Rồng. Roran nhìn chúng phăng phăng tiến, Roran lo ngại ba cánh buồm đen sẽ rút ngắn khoảng cách, đủ để tấn công, trước khi Cánh Rồng tới kịp Mắt-lợn-lòi. Tuy nhiên, dường như Uthar vẫn còn khả năng cho con tàu lớn vượt trước chúng.
Theo lệnh Uthar, Roran cùng dân làng thu xếp cho tàu ngăn nắp lại sau cơn bão và sửa soạn tinh thần đón chờ thử thách sắp tới. Tất cả dọn dẹp cho tới khi đêm xuống và tắt hết đèn, hầu để đánh lạc hướng mấy con thuyền đang bám theo sau. Mẹo nhỏ đó cũng đem lại chút kết quả, vì khi mặt trời lên, Roran thấy chúng đang cách xa Cánh Rồng chừng vài dặm về phía bắc. Tuy nhiên ngay sau đó, ba thuyền nhỏ cũng đã phát hiện ra sai lầm của chúng.
Gần trưa, Roran leo lên cột buồm chính, chui vào giỏ lưới cách sàn tàu chừng 40 mét để quan sát.
Lấy ống nhòm từ trong áo ra, Roran điều chỉnh cho tới khi thấy rõ ba thuyền nhỏ, cách xa chừng bốn dặm, đang tiến tới mau hơn anh tưởng. “Chúng đã nhận ra ý định của tàu mình.” Roran nghĩ. Anh đảo quanh ống nhòm tìm dấu hiệu của Mắt-lợn-lòi. Một đĩa bọt nước khổng lồ lớn như một hòn đảo, đang xoay vòng từ bắc sang đông. Bụng anh thắt lại: “Chúng ta chắc không kịp mất rồi.” Thủy triều đang rút mạnh. Roran cố vươn mình ra ngoài giỏ lưới: qua ống nhòm anh thấy sợi dây Uthar thắt nơi đuôi tàu, để phát hiện nếu tàu đi vào vùng nước xoáy, đang bồng bềnh dọc sườn tàu, thay vì kéo thẳng ra sau. Điều may mắn duy nhất là Cánh Rồng đang trôi thuyền theo luồng nước của Mắt-lợn-lòi. Nếu không, chỉ còn cách chờ cho tới khi nước rút trong thủy triều ngày mai.
Từ bên dưới, tiếng Uthar vang vang kêu gội dân làng bố trí người cầm chèo. Chỉ một thoáng, từ hai bên mạn tàu những mái chèo tua tủa vươn ra, làm con tàu trông giống như một con nhện khổng lồ đang bước đi trên mặt nước. Một tiếng trống vang lên cùng tiếng bắt nhịp của Bonden, các mái chèo để lại những vạch nước ngầu bọt trắng xóa trên mặt biển phía sau Cánh Rồng. Con tàu tăng tốc, vượt nhanh hơn ba thuyền nhỏ vẫn còn ở ngoài tầm ảnh hưởng của Mắt-lợn-lòi.
Roran khiếp đảm nhìn những gì đang diễn ra chung quanh. Mấu chốt thiết yếu để thành công bây giờ là thời gian. Vì dù có muộn, nhưng với sự phối hợp của mái chèo và những cánh buồm, Cánh Rồng đủ thời gian để vượt qua Mắt-lợn-lòi không? Ba thuyền nhỏ kia có tăng cường mái chèo để rút ngắn khoảng cách và cũng sẽ cùng Cánh Rồng sống sót? Roran bồn chồn lắng nghe tiếng trống rộn ràng như đo thời gian từng phút. Anh giật thót người khi thấy một bàn tay níu thành giỏ lưới, rồi Baldor nhô đầu lên nói:
- Kéo mình lên với.
Roran nghiêng mình kéo Baldor lên. Vừa đưa cho Roran một cái bánh qui và một quả táo khô Baldor vừa nói:
- Cứ tưởng tượng đây là bữa cơm trưa đi. Cậu thấy Mắt-lợn-lòi chưa?
Roran ăn bánh, đưa ống nhòm cho Baldor.
Chứng nửa tiếng sau, cái đĩa bọt nước tăng độ xoáy, những vòng quay lên cao tới đỉnh. Mặt nước chung quanh vồng lên, đẩy đĩa bọt trắng khỏi tầm nhìn, lọt thỏm qua miệng hố khổng lồ, chui tọt xuống đáy biển. Hơi nước mù mịt như sương mù và từ hố sâu thăm thẳm như cái cuống họng đen ngòm của đại dương phát lên tiếng hú thê lương dài dằng dặc như tiếng một con sói bị thương.
Nhìn tốc lực khủng khiếp của Mắt-lợn-lòi, Roran hốt hoảng bảo Baldor:
- Cậu xuống cho Uthar hay ngay đi.
Leo qua giỏ lưới, Baldor căn dặn Roran:
- Buộc chặt mình vào cột buồm đi, coi chừng cậu bị rơi xuống biển đó.
Roran gật. Anh buộc thân trên vào cột buồm, để dễ dàng rút dao găm cắt dây ngay khi cần thiết.
Con tàu mới vượt vào vùng của Mắt-lợn-lòi khỏi một dặm. Phía sau, ba thuyền nhỏ còn cách xa Cánh Rồng hai dặm. Nhưng nguy hiểm hơn là, bị cản trở bởi cột nước xoáy, gió bỗng điên đảo đổi hướng, từ phía này sang phía kia rồi ngược lại. Mấy cánh buồm căng phồng, rũ xuống, lại căng lên.
Roran thầm nhủ: “Có lẽ Uthar có lý. Mình quá chủ quan. Không thể thắng một đối thủ bằng sự may mắn được. Đương đầu với sức mạnh của thiên nhiên như thế này, chắc mình đưa dân làng đến cái chết mất thôi!”
Lúc này, chu vi hố thẳm của Mắt-lợn-lòi chừng hơn chín dặm, còn chiều sâu của cái cuống họng khủng khiếp đó thì chỉ có kẻ xấu số lọt vào mới có thể biết được. Vách Mắt-lợn-lòi nghiêng vào bên trong bốn mươi lăm độ, tạo lên những đường xoắn ốc như đất sét ướt đang được nắn trên bàn nặn gốm. Tiếng hú càng lúc càng lớn hơn, Roran tưởng như cả thế giới sắp rụng rời thành từng mảnh. Từ vùng sương mù trên miệng hố quay cuồng đó, một cầu vồng rực rỡ chợt xuất hiện.
Lồng nước chảy xiết hơn, khi Cánh Rồng vòng sát mép vùng nước xoáy, mỗi lúc càng như kéo con tàu vào vực thẳm. Nhưng thật kỳ diệu, con tàu chỉ nghiêng sang phải, treo Roran lơ lửng trên mặt nước cuồn cuộn bên dưới.
Bất chấp tốc độ vượt bậc của Cánh Rồng, ba thuyền nhỏ vẫn không bỏ cuộc. Những mãi chèo của chúng vẫn hoàn hảo nhịp nhàng. Nhìn cảnh đó Roran không thể không thầm cảm phục.
Trong khi con nước xoáy càng dữ dội hơn, hơi nước trắng mịt mù phun ra từ miệng cuống họng khổng lồ, ba thuyền địch đã hiển hiện trước mắt thường. Không cần thiết tới ống nhòm nữa, Roran cất lại vào trong áo.
Cánh Rồng nương theo triền nước, Uthar cố gắng quay hướng tàu ra biển cả. Sống tàu rung lên, tốc độ chợt giảm một nửa khi Cánh Rồng ráng sức vùng ra khỏi nanh vuốt của Mắt-lợn-lòi. Cột buồm chao đảo làm Roran chóng mặt đến choáng váng.
Cắt vội dây quanh mình, Roran quăng mình vào thành giỏ lưới, nắm dây bên dưới, tụt xuống. Nhảy lên boong, anh chạy xuống, cầm mái chèo, nhập bọn ngay cùng nhóm của Baldor và Albriech.
Không ai nói một lời, gồng mình chèo trong tiếng trống thôi thúc, tiếng gào đến khản giọng của Bonden, tiếng gầm hú của Mắt-lợn-lòi và những tiếng thở dồn dập đầy tuyệt vọng. Roran cảm thấy rõ ràng sức cản của dòng nuớc xoáy khổng lồ chống cự lại với mỗi nhịp chèo.
Nhưng tất cả những nỗ lực đó cũng không ngăn được con tàu đứng khựng lại. Sự cố sức làm chân và lưng Roran rát bỏng. Xen lẫn trong tiếng trống, anh nghe tiếng Uthar bên trên gào thét ra lệnh xoay buồm, lợi dụng sức gió đang đổi hướng.
Darmmen và Hamind, ngồi trước Roran, buông mái chèo cho Thane và Ridley, rồi nằm dài trên lối đi, chân tay run rẩy. Chưa đầy một phút sau, Birgit và mấy người đàn bà phải cấp tốc thế chỗ cho những tay chèo bị ngất xỉu.
Roran nghĩ: “Nếu chúng ta sống sót được, là nhờ có nhiều người thay thế kịp thời.”
Thời gian như kéo dài vô tận trong không khí ngột ngạt đầy khói khi Roran phải triền miên đẩy và kéo mái chèo. Anh cố quên thân thể mỗi lúc càng thêm đau nhức, cổ mệt mỏi rã rời vì phải cúi gục dưới mái trần thấp lè tè, mái chèo đầm đìa máu trong hai bàn tay rách nát, Roran xé áo, bọc ngoài mái chèo trước khi chèo tiếp.
Sau cùng Roran cũng không thể gượng hơn được nữa. Chân mất cảm giác, người anh đổ nhào sang một bên và trượt dài trên sàn vì người ướt đẫm mồ hôi. Anh nằm im cho đến khi có thể thở lại bình thường, rồi chống tay bò tới cửa hầm.
Như người say rượu, Roran leo lên thang, thân hình lắc lư theo con tàu chao đảo rồi phải ngồi thụp xuống dựa tường thở dốc.
Lên boong, anh đứng hít thở không khí mát mẻ cho đầy buồng phổi, rồi loạng choạng đi về buồng lái.
- Sao rồi?
Đang điều khiển bánh lái, đáp lại câu hỏi của Roran, Uthar chỉ lắc đầu.
Nhìn ra ngoài, Roran thấy ba thuyền nhỏ cách khoảng chừng nửa dặm hơi chệch hướng về tây, gần trung tâm Mắt-lợn-lòi. Ba cánh buồm đen cũng đứng khựng lại như tàu Cánh Rồng.
Lúc đầu, khi Roran quan sát, dường như cả con tàu và ba thuyền nhỏ đều im lìm tại chỗ. Nhưng rồi anh cảm thấy Cánh Rồng bỗng rung động, như con tàu vừa vượt qua một trở ngại khó khăn và đã hồi phục sức lực. Tốc lực của nó tăng lên chừng chỉ vài mét mỗi phút, nhưng như vậy cũng đủ làm khoảng cách với thuyền địch nhiều hơn một chút. Với mỗi sải chèo, tốc lực Cánh Rồng lại tăng thêm.
Bên kia, ba cánh buồm đen không thể vượt qua sức mạnh khủng khiếp của dòng nước xoáy. Mái chèo của chúng chậm dần. Ba con thuyền bồng bềnh dạt ngược lại vào tấm màn mịt mù hơi nước – qua màn sương đó, bức tường nước xoay tròn đang chờ đợi, sẵn sàng cuốn chúng xuống đáy đại dương lởm chởm toàn đá.
“Họ không còn đủ sức chèo nữa. Tay chèo quá ít, quá mệt mỏi rồi.” Vừa nghĩ Roran vừa chạnh lòng thương những kẻ trên ba con thuyền nhỏ.
Ngay lúc đó, một mũi tên từ chiếc thuyền gần nhất, bay vèo lên Cánh Rồng. Chắc chắn mũi tên có sự hỗ trợ của phép thuật mới bay xa tới vậy. Mũi tên cắm phập lên cánh buồm định hướng, nổ tung ra những giọt lửa li ti. Những đốm lửa bám chặt vào bất cứ vật gì chúng chạm phải. Chỉ một thoáng, hai mươi vết cháy nhỏ loang trên thân cột, cánh buồm và cả trên mặt boong tàu.
Một thủy thủ hốt hoảng la lên:
- Làm sao dập tắt được.
Uthar gào lớn:
- Chặt bỏ những chỗ cháy, quăng xuống biển ngay.
Tháo đai lưng, Roran vừa dập vừa đạp chân lên những đốm lửa xanh, ngăn chặn ngay đám cháy không lan rộng thêm được nữa.
Ngay khi có tiếng reo: “Dẹp sạch rồi!”, Uthar nới lỏng hai tay đang xiết chặt bánh lái, thở phào:
- Nếu đây là phép thuật cao cường nhất của tên pháp sư này, thì chúng ta chẳng có gì phải sợ hắn nữa.
Roran sôi nổi hỏi cho niềm hy vọng thêm vững chắc:
- Chúng ta sẽ vượt được Mắt-lợn-lòi, phải không?
Uthar ưỡn ngực, thoáng nụ cười vừa kiêu hãnh vừa như không thể nào tin nổi:
- Cho tới khi thủy triều giảm hẳn, mới thật sự qua khỏi cái hố toang hoác kia, nhưng chúng ta gần tiến tới thành công rồi.
Roran chạy vội xuống thay ca chèo, và khi anh đổi ca, trở lên boong, dòng nước xoáy đang dịu dần. Tiếng hú ma quái giảm từ từ thành tiếng gió thổi bình thường, mặt nước phẳng lặng, không để lại chút vết tích của cơn cuồng nộ vừa qua; sương mù tan trong những tia nắng vàng ấm áp. Mắt-lợn-lòi hung hãn chỉ còn lại là một cái đĩa toàn bọt nước vàng nhẹ nhàng quay tròn trên mặt nước.
Và chính giữa đám bọt vàng kia, Roran nghĩ là đang nhìn thấy, lờ mờ hình bóng ba cánh buồm đen tan nát đang xoay vòng theo dòng nước xoáy mãi xoáy mãi xuống đại dương sâu thẳm. Nhưng có thể đó chỉ là hình ảnh trong trí tưởng tượng của anh.
Thím Elain lên boong, một cánh tay đặt trên bụng bầu to đùng, tiến lại bên Roran. Giọng thím nhẹ nhàng nhỏ nhẻ:
- Roran, chúng ta đã may mắn. May mắn hơn cả chúng ta hy vọng.
- Dạ, đúng vậy.


Bay tới thủ đô Aberon


Bên dưới Saphira, những cánh rừng trải mênh mông về bốn hướng chân trời. Én quạ và những loài chim của rừng già bay lượn, hốt hoảng kêu lên khi thấy Saphira. Ả rồng bay gần sát ngọn cây, để tránh cho Eragon và ông lùn Orik khỏi cái giá lạnh bắc cực trên độ cao đụng trời.
Ngoài lần chạy trốn Ra’zac vào núi Spine, đây là lần đầu tiên Saphira mới có dịp cùng ông anh Eragon thoả thuê bay bổng đường dài thăm thẳm mà không bị người đồng hành trên mặt đất làm phiền. Saphira đặc biệt thích thú chuyến đi này và không ngừng khoe nhờ sự hướng dẫn của rồng vàng Glaedr mà sự chịu đựng và sức lực của mình cải tiến rất nhiều.
Ông lùn Orik lên tiếng bảo Eragon:
- Tôi thì chẳng bao giờ có thể thấy thoải mái khi ở tít trên trời thế này nổi, nhưng tôi hiểu vì sao cậu và Saphira lại khoái bay đến vậy. Bay bổng làm người ta cảm thấy hoàn toàn tự do, cứ như con ó tung cánh săn mồi. Nhưng nó cứ làm tim tôi đập như đánh trống vậy.
Để bớt nhàm chán, ông lùn chơi trò ra câu đố với Saphira. Trò này Eragon đành rút lui, vì chưa bao giờ nó tỏ ra có biệt tài với những câu hỏi rắc rối này. Như hầu hết loài rồng, cô em rồng thì lại mê tít trò chơi câu đố.
Orik nói:
- Nhưng tôi chỉ biết những câu đố của người lùn thôi. Sẽ cố gắng dịch sao cho dễ hiểu một chút vậy. Đây, nghe nhé:
“Còn trẻ mình cao
Về già mình thấp
Cho đời anh sáng
Hơi thở của thần Urur
Chính là kẻ thù của mình”
Saphira phản đối: “Không công bằng. Tôi có biết gì tên mấy vị thần của ông đâu.”
Eragon không phải lập lại lời ả rồng, vì Orik đã đồng ý để Saphira truyền trực tiếp ý nghĩ vào tâm tưởng ông ta.
Orik ha hả cười:
- Chịu thua rồi sao?
“Không bao giờ.”
Trong mấy phút chỉ còn tiếng vỗ cánh của cô rồng, rồi nó vụt hỏi: “Cây nến! Đúng chưa?”
- Chính xác. Giỏi.
Ả khoái chí khịt mũi làm một làn khói đen bay ngược lên mặt ông lùn và Eragon: Mấy câu đố về đồ vật này khó thấy mồ. Từ khi ra khỏi trứng, tôi đã được vào trong một ngôi nhà bao giờ đâu. Nào, bây giờ nghe đây: Lá gì chữa bệnh đau đầu, cửu ngái đích thị là loài thuốc tiên. Là cây gì?
Đến lượt ông lùn giãy nảy lên:
- Không công bằng. Không phải ngôn ngữ của ta, làm sao ta biết cách chơi chữ kiểu này được?
“Ha ha! Cửu ngái đích thị là ngải cứu. Dễ ợt.”
Cứ vậy, Orik và Saphira vừa cãi nhau vừa đưa ra những câu đố càng lúc càng hóc hiểm trong khi Du Weldenvarden khuất dần phía sau. Khoảng trống của cành lá bên dưới đã để lộ ra nhiều dòng sông lấp lánh như bạc luồn lách trong rừng già. Chung quanh Saphira cuồn cuộn những đám mây tạo nên những hình dáng kỳ ảo: mái vòm uốn lượn, trụ cột vươn cao, lâu đài sừng sững… làm Eragon tưởng như đang bay bổng trong mơ.
Sâm sẩm tối, đã thấy những cánh đồng nâu đỏ, ngăn cách giữa rừng và sa mạc Hadarac. Saphira hạ xuống giữa bãi cỏ, rồi tất cả vây quanh một đống lửa nhỏ, chỉ thì thầm vài câu thực sự cần thiết. Vì giữa nơi trống trải này, âm thanh của lời nói rất dễ bị phát hiện.
Lợi dụng lúc này, Eragon nạp năng lượng vào viên hồng ngọc trên thanh Zar’roc. Viên ngọc tiếp nhận nội lực của cả Saphira khi nó truyền sang. Eragon cảm thấy phải cần cả mấy ngày mới nạp đầy năng lượng cho cả viên hồng ngọc và mười hai hạt kim cương trong chiếc đai lưng của Beloth Khôn-Ngoan.
Mệt mỏi vì việc chuyển nội lực sang viên ngọc, Eragon cuốn mền nằm xuống bên Saphira và chìm vào giấc ngủ tỉnh đầy những ảo ảnh hiển hiện trên nền trời đầy sao.

Sáng sớm hôm sau tất cả lại tiếp tục lên đường. Cỏ thưa thớt dần cho đến khi bên dưới, đất khô cằn trong nắng, chỉ lác đác vài cây cỏ đủ sức chịu đựng nổi vùng đất khắc nghiệt này. Những đụn cát đỏ xuất hiện. Từ trên Saphira, Eragon thấy những đụn cát như những dợn sóng trải dài vô tận.
Khi mặt trời sắp lặn, Eragon thấy một cụm núi xa xa về hướng đông và nó biết đó chính là Du Fells Nángoroth, nơi rồng kết bạn, nuôi con và chết dần mòn tại đó. Saphira nhìn theo ánh mắt Eragon, bảo: “Sẽ có ngày chúng mình phải tới thăm nơi đó.”
Đêm xuống, Eragon cảm thấy chung quanh còn cô quạnh hơn đêm trước, vì đang cắm trại trong một nơi hoang vu nhất sa mạc Hadarac. Không một chút hơi ẩm, môi nó nứt nẻ dù đã thoa sáp nalgask của thần tiên. Eragon nhận ra dưới đất gần như không có sự sống, chỉ vài loài cây rải rác, một ít côn trùng, vài con thằn lằn.
Khi Eragon lấy nước từ cát khô - giống như nó đã làm trong chuyến trốn khỏi Gil’ead qua sa mạc - để dự trữ trong mấy túi da, trước khi nước cạn kiệt, nó thu hình Nasuada để biết tình hình Varden. Eragon nhẹ lòng thấy chưa có gì xảy ra.

Ngày thứ ba kể từ khi rời khỏi Ellesméra, gió nổi mạnh từ phía sau, đẩy Saphira nhẹ nhàng tiến xa hơn trên suốt đoạn đường còn lại vượt qua sa mạc Hadarac.
Gần ra khỏi vùng đất hoang vu, Eragon thấy một đoàn du mục, trong những bộ áo trùm kín mít để tránh nóng, đang di chuyển trên mình ngựa. Họ vung gươm giáo về phía Saphira quát tháo rầm rầm, nhưng không ai dám bắn lên một mũi tên.
Eragon, Saphira và ông lùn Orik nghỉ đêm tại cuối rừng, là cực nam của cánh rừng Gỗ Bạc nằm bên hồ Tudosten. Mang tên rừng Gỗ Bạc, vì rừng này chỉ toàn là sồi, liễu, bạch dương. Trái ngược với ánh sáng lờ mờ dưới những cây thông ủ ê của Du Weldenvarden, rừng Gỗ Bạc tràn ngập ánh nắng rực rỡ, tiếng chim ca hót và tiếng lá xanh xào xạc. Eragon cảm thấy yêu thương cây cỏ mơn mởn đầy sức sống tại đây. Và dù không còn chút dấu vết nào của sa mạc, nhưng không khí ấm áp hơn thời tiết nơi khác trong cùng mùa này. Giống mùa hè hơn là đang xuân.

Từ rừng Gỗ Bạc, Eragon thu thập thông tin từ loài chim, hướng dẫn cho Saphira bay thẳng tới thủ đô Aberon của Surda. Suốt dọc đường, cô rồng phơi phới bay, không phải lẩn lút trốn tránh nữa. Từ những ngôi làng bên dưới thỉnh thoảng lại vang lên tiếng kêu la oai oái đầy kinh ngạc.
Xế chiều, Saphira đã bay tới Aberon, một thành phố được bao quanh bằng những bức tường thấp trên triền dốc thoai thoải giữa vùng đất phẳng phiu. Lâu đài Borromeo tọa lạc ngay trên đỉnh dốc. Lũy phòng thủ được bảo vệ bằng ba lớp tường kiên cố với nhiều tháp canh. Eragon còn nhận ra hàng trăm cỗ máy bắn đá dùng để bắn rồng. Nắng chiều vàng như màu hổ phách trải trên những ngôi nhà và làm rức sáng lớp bụi mù gây ra bởi toán lính cưỡi ngựa đang phóng vào cửa tây thành.
Khi Saphira bay là là xuống khu vực nội thành, Eragon nắm bắt hàng loạt tư tưởng lộn xộn của những người đang ở trong lâu đài. Lúc đầu những âm thanh hỗn độn tràn ngập tâm tưởng nó, không thể phân biệt bạn với thù; cho đến khi nó tập trung vào những tư tưởng riêng biệt. Những âm thanh rầm rầm dịu dần thành một chuỗi cảm xúc khác nhau của những người bên dưới.
Eragon bảo Saphira: “Thận trọng. Đừng để họ hiểu lầm mà tấn công chúng ta.”
Bụi đất mịt mù khi Saphira vỗ cánh hạ xuống giữa sân. Bầy ngựa hoảng hốt liên tục hí vang trời. Eragon phải xâm nhập vào tâm tưởng chúng, vỗ về bằng cổ ngữ.
Xuống khỏi lưng Saphira sau ông lùn Orik, Eragon nhìn đám lính đứng từng hàng sau rào phòng thủ và những cỗ máy bắn đá. Nó không sợ vũ khí, nhưng sợ xảy ra đụng độ đáng tiếc với đồng minh.
Một nhóm mười hai người, trong đó có mấy người lính chạy vội ra chỗ Saphira. Dẫn đầu là một người đàn ông cao lớn, nước da sậm như Nasuada – sau thủ lãnh Ajihad và con gái ông, đây là người thứ ba, Eragon thấy có màu da như thế. Đứng cách xa chừng mười bước, người đàn ông cao lớn, cùng nhóm người kia cúi đầu, lên tiếng:
- Xin chào kỵ sĩ, tôi là Dahwar, con trai của Kedar, tổng quản của đức vua Orrin.
Eragon cúi đầu đáp lễ:
- Xin chào. Tôi là Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần. Không là con của ai.
- Còn tôi, Orik, con trai của Thrifk.
Saphira nhờ Eragon nói lại: “Tôi, Saphira, con gái của Vervada.”
Dahwar lại cúi đầu:
- Tôi xin lỗi vì không có vị nào chức sắc cao hơn ra nghênh tiếp khách quý. Vì đức vua đã cùng công nương Nasuada và toàn thể quân cách mạng Varden lên đường từ lâu, để nghinh chiến quân của Galbatorix. Nhưng chúng tôi được lệnh, nếu quý vị tới, xin quý vị hãy lên đường ngay. Vì sự dũng cảm của quý vị là sự cần thiết cho chiến thắng của chúng ta.
Eragon hỏi:
- Quan tổng quản có thể hướng dẫn trên bản đồ để chúng tôi tìm quân ta hiện ở đâu không?
- Tất nhiên là được, thưa ngài. Trong khi tôi đi lấy bản đồ, xin quý vị vào trong dùng chút đồ giải khát.
- Chúng tôi không có nhiều thời gian đâu. Ngoài ra Saphira mới cần thấy bản đồ và nó không thể vào lọt trong nhà nổi.
Viên tổng quản nhìn thân hình đồ sộ của Saphira, gật đầu:
- Đúng vậy, thưa ngài. Tuy nhiên nếu quý vị cần gì xin cứ truyền dạy, để chúng tôi được phục vụ.
Lần đầu tiên Eragon mới nhận ra nó có quyền ra lệnh:
- Chúng tôi cần lương thực cho một tuần. Phần tôi, chỉ cần rau, bột, bánh mì là đủ. Xin lấy đầy mấy túi da đừng nước luôn thể.
Eragon ngạc nhiên thấy viên tổng quản không hề thắc mắc chuyện nó không ăn thịt. Sau đó, Orik yêu cầu thêm mấy món như thịt bò, thịt heo muối…
Dahwar búng tay ra lệnh hai thị vệ vào lấy lương thực. Rồi trong khi chờ đợi, viên tổng quản e dè hỏi:
- Thưa… kỵ sĩ đã tới đây, vậy thì… theo tôi đoán, chắc việc huấn luyện của ngài đã hoàn tất?
- Cho tới chết việc học tập của tôi cũng không thể hoàn tất được.
- Tôi hiểu. Xin tha tội tò mò, vì quá ngu dốt những hiểu biết về kỵ sĩ rồng, tôi mạn phép hỏi, ngài có phải là thần tiên không? Nghe nói… trước kia ngài là người?
Ông lùn Orik lên tiếng:
- Đúng, kỵ sĩ đây là người, nhưng đã thay đổi. Quan tổng quản nên mừng vì điều đó, nếu không thì tình trạng của chúng ta còn khó khăn hơn gấp bội lần.
Dù viên tổng quản đủ khôn ngoan không gặng hỏi thêm, nhưng Eragon đoán lão ta đã được lót tay hậu hĩ để moi tin tức về nó và Saphira cho các quan trong triều của vua Orrin.
Hai thị vệ đem nước, lương thực và bản đồ ra. Theo lệnh Eragon, hai thị vệ đặt tất cả bên Saphira, rồi chạy vội về sau lưng Dahwar, mặt tái mét vì quá sợ hãi. Quì xuống đất, viên tổng quản trải tấm bản đồ Surda và những vùng lân cận, vạch một đường theo hướng tây bắc từ Aberon tới Cithrí:
- Lần sau cùng tôi được biết, Đức vua Orrin và công nương Nasuada ngừng lại đây để nhận lương thực cho ngựa. Thật ra đó không phải là lý do chính, nhưng vì quân đế quốc đang tiến về nam, dọc theo sống Jiet và quân ta có ý đón đầu chúng tại đây. Có thể quân Varden đang rải khắp nơi từ Cithrí tới sông Jiet. Đó là theo ngụ ý của tôi. Nhưng tôi có thể nói, chắc chắn quí vị sẽ tìm gặp họ tại Cánh-đồng-cháy.
- Cánh-đồng-cháy?
- Vậy chắc quí vị biết nó với tên cổ, vì thần tiên gọi nơi đó là Du Vollar Eldrvarya.
- À, phải, tôi nhớ rồi.
Eragon đã biết đến tên này qua những cuốn sử của sư phụ. Đó là cánh đồng chứa toàn than bùn, nằm dọc bờ đông sông Jiet, biên giới Surda và cũng là nơi từng xảy ra một trận đánh nhỏ giữa các kỵ sĩ và tên phản đồ. Trong trận này, những con rồng đã vô ý phun lửa làm cháy than bùn. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng đất cho tới bây giờ. Những làn khí độc hại phun lên từ những lỗ nứt nẻ và vùng đất này trở thành khô cằn, hoang phế, không người ở.
Eragon chợt lạnh người, nhớ lại hình ảnh những cảnh báo trước: hai đạo quân quần thảo trên cánh đồng vàng rực, trong tiếng rít của những mũi tên đen và tiếng rú thảm thiết của những con người sũng trong vũng máu. Nó rùng mình nói với Saphira: “Định mệnh đang tập trung vào chúng ta. Em nhớ hết những gì trên bản đồ rồi chứ?”
“Rồi.”
Cùng ông lùn Orik trở lên lưng rồng, Eragon vừa cám ơn viên tổng quản xong, chợt nhíu mày vì tâm tưởng nó chợt thu được một mối xung đột bất hảo:
- Quan tổng quản, hai mã phu đang to tiếng với nhau. Một người tên là Tathal sắp gây án mạng. Ông cho người tới can ngăn còn kịp.
Dahwar tròn mắt kinh ngạc, thậm chí ông lùn cũng quay lại nhìn Eragon. Viên tổng quản lắp bắp:
- Vì… vì… vì sao Khắc-tinh của Tà-thần lại biết vụ này?
- Vì… tôi là kỵ sĩ rồng.
Saphira xoãi cánh. Tất cả mọi người trong sân vội chạy tìm chỗ núp cơn gió mạnh khi cô rồng vỗ cánh bay vút lên không.
Khi lâu đài Borromeo gần khuất hẳn phía sau, Orik hỏi:
- Eragon, cậu nghe được ý nghĩ của tôi không?
- Ông muốn tôi thử không? Vì ông biết đó, tôi chưa thử đọc tư tưởng ông bao giờ.
- Thử đi.
Eragon nhíu mày, ráng tập trung vào tiềm thức ông lùn, nhưng nó ngạc nhiên phát hiện tâm tưởng ông được bao phủ bằng một hàng rào tinh thần vững chãi. Nó có thể thấy sự hiện diện của Orik, nhưng không thể biết tư tưởng và cảm xúc của ông ta.
- Không thấy gì.
- Tốt. Tôi muốn biết chắc mình vẫn chưa quên bài học cũ.
Orik tủm tỉm cười, nói. Sau đó tất cả im lặng, ráng sức bay trong màn đêm đen kịt, không một dấu hiệu, không một đốm lửa. Cho đến khi mặt trời lên, Saphira mới hạ cánh xuống bờ một hồ nhỏ, để Eragon và ông lùn Orik vung vẩy chân tay cho thoải mái rồi ăn sáng.
Ngay khi Saphira vừa cất cánh bay lại, chân trời trước mặt bỗng xuất hiện một đám mây đen kéo dài như một vệt bẩn lem nhem trên nền giấy trắng. Saphira càng bay tới gần, đám mây càng lớn hơn, cho tới gần trưa thì đám mây đã phủ lên toàn thể đất đai bên dưới một tấm khăn liệm bằng hơi khói nồng nặc mùi khét lẹt.
Đã tới Cánh-đồng-cháy của đế quốc Alagaesia.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Old 01-13-2013, 01:48 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Cánh-đồng-cháy


Eragon ho sặc sụa khi Saphira bay xuống qua lớp khói dày đặc, rẽ về hướng sông Jiet sau đám mây mù. Eragon lau nước mắt. Khói làm đôi mắt nó cay xè.
Càng xuống gần mặt đất, không khí càng có vẻ sạch hơn, và Eragon đã có thể nhìn rõ chung quanh. Nắng lọc qua tấm màn khói đen và đỏ tía, nhuộm một màu cam nhạt trên khắp cảnh vật phía dưới. Thỉnh thoảng những kẽ hở trên bầu trời lem luốc rọi những luồng sáng nhợt nhạt thành những cột ánh sáng trong như thủy tinh trên mặt đất.
Dòng sông Jiet trương phình như một con mãnh xà no nê. Mặt sông phản chiếu cùng một màu nhợt nhạt lên khắp Cánh-đồng-cháy. Thậm chí khi có một tia nắng tinh khiết hiếm hoi lọt xuống, màu nước hiện ra một màu trắng đục như phấn – như màu sữa của một con ác thú- và cả dòng sông như phát ra một làn ánh sáng kỳ dị.
Hai đạo quân dàn trận dọc bờ sông con nước lờ đờ chảy. Về phía nam, quân Varden và quân Surda đóng sau nhiều lớp rào phòng thủ, với những lều trại uy nghi và những chiến mã của đội kỵ binh dưới quyền vua Orrin. Hùng mạnh vậy, nhưng vẫn không thể so sánh với lực lượng từ phương bắc tới. Lực lượng của Galbatorix quá lớn, trải suốt ba dặm chiều dài, còn chiều sâu không thể nào đoán nổi.
Giữa hai lực lượng khô đội trời chung là một khoảng cách chừng hai dặm. Phần đất này, cũng như những phần đất các lực lượng đóng quân, vô số những hố chập chờn lửa xanh. Từ những ngọn đuốc yếu ớt đó nổi lên những ngụm khói làm lu mờ cả mặt trời. Tất cả cây cối đều cháy sém trên mặt đất nứt nẻ.
Saphira xuất hiện trên vùng đất không người, ngăn cách hai đạo quân thù địch. Nó đảo mình, phóng hết tốc độ, thvăngr tién è hướng quân Varden, vì nó sợ bị những pháp sư bên địch tấn công. Phần Eragon, nó mở rộng ý thức về các ngả, tìm kiếm những ý lực thù địch có thể phản ứng lại sự thăm dò của nó.
Nhưng những gì nó cảm nhận chỉ là sự khiếp đảm bao trùm lên đám lính gác của Varden, nhiều tên trong số này chưa một lần nhìn thấy Saphira. Sợ hãi làm chúng mất bình tĩnh, bắn hàng loạt tên để ngăn chặn Saphira.
Đưa cao tay, Eragon la lớn: “Letta orya thomal!”. Những mũi tên đứng lặng giữa không gian. Với một cái lắc cổ tay và câu thần chú “Gánga!”, Eragon điều khiển những mũi tên bay vèo vào bãi đất trống, cắm phập xuống đất. Một mũi tên, bắn chậm hơn mấy giây sau, lướt sát Saphira, Eragon nghiêng mình bắt gọn.
Chỉ khi cách mặt đất chừng ba mươi mét, Saphira giang cánh, bay chầm chậm trước khi đáp xuống bằng hai chân sau, rồi hai chân trước chạm đất, từ từ chạy và dựng lại giữa những lều bạt của quân Varden.
Tháo gỡ dây nhợ buộc quanh chân, ông lùn lèm bèm:
- Tôi thà choảng nhau với cả chục quái thú Urgal còn hơn phải trải qua kiểu hạ cánh thót tim này.
Đánh đu từ thành yên, Orik buông mình xuống chân trước Saphira, rồi rón rén xuốgn đất.
Kể cả khi Eragon đã xuống khỏi lưng rồng, mấy chục tên lính vẫn còn nguyên vẻ sợ sệt mon men vây quanh Saphira. Từ giữa đám lính, một người râu rậm vừa lách ra vừa nói:
- Thôi nào, đừng đứng há hốc mồm ra đó nữa. Trở lại vị trí ngay.
Nghe lệnh, dám lính tản ra, ừa bước đi vừa ngoái lại nhìn, thì thầm bàn tán. Eragon nhận ra người đàn ông râu rậm với cái áo da bò rừng còn nguyên lông đó chính là Fredric – sĩ quan quân khí của Varden tại Farthen Dur. Khi Fredric lại gần, Eragon bắt gặp vẻ ngạc nhiên của ông ta khi thấy những thay đổi của nó.
Fredric vuốt ve cây cung, cố che giấu sự ngạc nhiên, lên tiếng:
- Xin chào, Khắc-Tinh của Tà-Thần. Ngài tới vừa đúng lúc… Nhưng… thật tình không nói sao để ngài hiều chúng tôi xấu hổ đến ngần nào khi tấn công quí vị. Lỗi lầm đó làm hoen ố danh dự tất cả đơn vị này. Mong là không vị nào bị thương.
- Không.
- Vậy thì may quá. Tôi sẽ đập cho mỗi đứa một trận, hạ cấp bậc chúng… Phạt như vậy… vừa lòng ngày chưa ạ, thưa kỵ sĩ?
- Tôi muốn gặp chúng.
Mặt Fredric thoáng lo lắng. Rõ ràng viên sĩ quan sợ Eragon hạ lệnh phải phạt đám lính khủng khiếp hơn, tuy nhiên vẫn bình tĩnh nói:
- Xin quí vị theo tôi.
Fredric hướng dẫn Eragon, Orik và Saphira vào doanh trại. Trước lều vải sọc của ban chỉ huy, khoảng hai mươi người lính đang rầu rĩ, cởi bỏ vũ khí áo giáp dưới mắt người đồng đội. Thấy Eragon và Saphira, đám “tội phạm” đều đồng loạt quỳ gối, lom lom nhìn mặt đất, lên tiếng:
- Kính chào Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Eragon lẳng lặng vừa đi qua mặt từng người lính vừa kiểm tra tư tưởng họ, rồi mới nói:
- Các bạn nên hãnh diện vì đã có phản ứng nhanh nhạy khó chúng tôi xyất hiện. Nếu Galbatorix tấn công, mũi tên của các bạn nhắm vào quân thù sẽ hiệu quả hơn những mũi tên vừa nhắm vào tôi và Saphira.
Đám lính ngơ ngác ngước nhìn Eragon nói tiếp:
- Tôi chỉ yêu cầu một điều, lần sau phải bình tĩnh nhắm mục tiêu trước khi bắn. Rõ cả rồi chứ?
- Rõ, thưa Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Dừng lại trước người thứ hai cuối hàng, Eragon đưa mũi tên đã bắt được:
- Tôi tin đây là mũi tên của anh, Harwin.
Harwin ngẩn ngơ nhận lại mũi tên:
- Dạ, đúng rồi. Tôi vẫn sơn trắng thân tên để dễ tìm lại. Đa tạ kỵ sĩ.
Eragon gật đầu rồi cao giọng nói với Fredric để tất cả cùng nghe được:
- Đây đều là những người lính tốt và trung thực, tôi không muốn họ bị bất cứ hình phạt nào vì sự kiện vừa qua.
- Dạ, đích thân tôi sẽ lo vụ này.
- Bây giờ ông đưa tôi tới ra mắt công nương Nasuada được chứ?
- Vâng, thưa ngài.
Khi quay đi, Eragon biết hành động của nó đã thu phục được sự trung thành tuyệt đối của những người lính này, và sẽ được lan truyền khắp trong hàng ngũ của Varden.
Trên đường qua những căn lều, Eragon cảm thấy chưa bao giờ nó giao tiếp với tâm tư của nhiều người đến thế. Hàng ngàn ý nghĩ, hình ảnh và cảm xúc chen lấn vào trí não nó. Dù cố gắng giữ cho những tư tưởng đó cách rời nó một khoảng cách, nhưung vẫn không thể ngăn được sự thu hút tình cờ những chi tiết trong đời sống của mỗi con người. Có những phát hiện làm nó giật mình, có những phát hiện vô nghĩa, lại có những điều thật ghê tởm, nhiều điều làm nó sửng sốt. Tất cả đều ôm ấp một hy vọng, một ước mơ, một khả năng để đạt tới một hoài bão nào đó, và họ đều có những hồi ức về những gì đã hoàn tất trong đời. Nhưng tất cả bọn họ đều cảm thấy ưu phiền, đau khổ.
Một số ít tư tưởng phát hiện luồng giao tiếp của nó, và họ vội vàng né tránh bằng nhiều luồng công lực khác nhau. Lúc đầu Eragon lo ngại trong hàng ngũ Varden có nhiều kẻ địch xâm nhập, nhưng sau một thoáng nhìn, nó nhận ra đó là những thành viên của Con-đường Lãng-du.
Saphira bảo: “Chắc họ sợ vãi linh hồn vì tưởng bị pháp sư xa lạ nào đó tấn công.”
“Họ tự phong tỏa như vậy, làm sao anh cắt nghĩa cho họ biết được mình là ai.”
“Phải mau mau gặp họ, nếu không họ sẽ hiệp lực cùng nhau tấn công chúng ta đó.”
“Không sao. Họ chẳng làm gì nổi chúng ta đâu… Du Vrangr Gata – Con-đường Lãng-du!Ngay cái tên đó chứng tỏ khả năng của họ rồi. Chính xác theo cổ ngữ, phải là Du Gata Vrangr.”
Tới cuối doanh trại của Varden, một lá cờ lớn tung bay với hình thêu hai thanh gươm song song, dưới một tấm khiên màu đen. Fredric vén cửa lều để Eragon và Orik tiến vào. Phía sau, Saphira vươn cổ nhìn vào bên trong.
Một chiếc bàn lớn kê giữa lều. Nasuada đứng tại đầu bàn, chăm chú nghiên cứu một chồng bản đồi và những cuộn giấy.
Bụng Eragon htắt lại khi thấy Arya đang đứng đối diện Nasuada. Cả hai cô đều trang bị áo giáp như những người đàn ông ngoài mặt trận.
Quay nhìn Eragon, Nasuada bật kêu nho nhỏ:
- Eragon! Anh nhận thư tôi nhanh quá vậy?
Eragon mỉm cười:
- Tôi không nhận được gì hết. Thu hình thấy quân của Galbatorix, tôi lên đường ngay. Được trở về với Varden thật sự là một niềm vui của tôi và Saphira.
Trong khi Eragon nói, Nasuada nhìn nó phân vân hỏi:
- Chuyện gì xảy ra với anh vậy, Eragon?
Saphira bảo: “Chắc Arya chưa cho cô ta biết chuyện gì.”
Vì vậy Eragon phải kể lại tất cả những gì đã xảy ra cho nó và Saphira từ khi chia tay Nasuada tại Farthen Dur. Hầu hết những gì nó kể, Eragon cảm thấy là cô đã nghe Arya hoặc những người lùn nói rồi, nhưng cô vẫn chăm chú lắng nghe. Việc học tập, Eragon rất thận trọng, không tiết lộ một lời về chuyện vị lão tiên còn sống, vì chưa được phép của sư phụ, nhưng vẫn cố gắng để Nasuada có cảm tưởng tốt về những khả năng nó thu hoạch được. Chuyện Lễ-hội Huyết-thệ, Eragon chỉ đơn giản nói: “Trong buổi lễ, những con rồng đã làm tôi thay đổi như tiểu thư đã thấy và ban cho tôi sức mạnh của thần tiên. Hơn nữa, vết thương sau lưng đã được chữa lành.”
- Vậy là vết sẹo không còn nữa?
Eragon gật đầu. Nasuada nói:
- Một chuyện thật diệu kỳ. Kỵ sĩ và Saphira đã học hỏi được quá nhiều điều từ khi rời khỏi Farthen Dur.
Eragon chỉ quanh lều:
- Tiểu thư cũng vậy. Những gì tiểu thư đã làm thật đáng khâm phục. Cả núi công việc mới chuyển được Varden tới Surda… Hội-đồng Tiền-bối có gây rắc rồi gì cho tiểu thư không?
- Không nhiều và không đặc biệt nghiêm trọng. Dường như họ đã cam chịu dưới quyền lãnh đạo của tôi.
Tiếng giáp sắt leng keng chạm vào nhau khi Nasuada ngồi xuống chiếc ghế dựa lớn và quay sang ông lùn Orik chào và hỏi ông ta có điều gì nói thêm không. Orik chỉ kể lại vài chuyện vặt trong thời gian sống trong hoàng cung Ellesméra. Eragon đoán ông lùn giữ bí mật những quan sát của riêng mình để chỉ tâu lại đức của của ông ta.
Sau cùng Nasuada lên tiếng:
- Tôi nóng lòng muốn biết, liệu chúng ta có thể vượt qua được sự tấn công khốc liệt này không? Trên đường bay từ Aberon tới đây, có ai thấy chiến binh của vua Hrothgar không? Chúng ta rất cần quân tăng viện của người lùn.
Qua Eragon, Saphira trả lời: “Không. Nhưng lúc đó trời tối, chúng tôi lại bay giữa hoặc trên những tầng mây, rất có thể không thấy một điểm đóng quân. Hơn nữa, chúng tôi bay thẳng tới đây, còn người lùn chắc phải qua những con đường mở sẵn chứ không đi qua những vùng hoang vu đâu.”
Eragon hỏi:
- Tình hình tại đây ra sao rồi, thưa tiểu thư?
Nasuada thở dài cho Eragon biết cô và vua Orrin đã biết những gì về lực lượng của Galbatorix và những nhọc nhằn để có thể tới Cánh-đồng-cháy trước quân của bạo chứa. Sau cùng cô nói:
- Chúng tới đây ba hôm trước và từ đó chúng tôi đã trao đổi hai thông điệp rồi. Đầu tiên chúng kêu gọi ta đầu hàng, chúng tôi đã từ chối. Bây giờ thì chờ chúng trả lời.
Eragon hỏi:
- Lực lượng của chúng khoảng bao nhiêu? Từ trên lưng Saphira nhìn xuống, tôi thấy chúng đông như kiến.
- Chúng tôi ước lượng Galbatorix đã tập hợp cả trăm ngàn quân.
Eragon sửng sốt:
- Hàng trăm ngàn! Ở đâu ra mà nhiều vậy? Vô lý quá! Giỏi lắm cũng chỉ có một nhúm kẻ nhiệt tình phục vụ cho Galbatorix.
- Họ bị cưỡng bách vào lính. Hy vọng duy nhất của chúng ta là, những người bị ép buộc tời khỏi mái ấm gia đình sẽ chẳng có lòng dạ nào chiến đấu. Nếu chúng ta có thể gây hoảng sợ cho họ, có thể họ sẽ tìm cách đào ngũ. Lực lượng chúng ta hiện nay mạnh hơn khi còn ở Farthen Dur, vì quân đội của vua Orrin đã sáp nhập với chúng ta và từ khi tin tức về kỵ sĩ Eragon được tung ra rộng rãi, rất nhiều người đã tình nguyện theo chúng ta.
Ngay lúc đó, Eragon cảm thấy có một tư tưởng lạ mon men xâm nhập vào tấm trí nó. Một kẻ biết nó đã phát hiện ra nhưng không lẩn trốn. Cảnh giác, Eragon quay lại nhìn suốt tới cuối lều và thấy đứa con gái tóc đen đã xuất hiện bên Nasuada khi Eragon thu hình cô từ Ellesméra. Con bé nhìn thẳng Eragon bằng đôi mắt màu tím và nói:
- Xin chào, Khắc-Tinh của Tà-Thần. Chào Saphira.
Rùng mình vì giọng nói như người lớn của con bé, Eragon hỏi:
- Em là ai?
Con bé lẳng lặng vén ngược mái tóc lòa xòa trước trán, để lộ ra một dấu hiệu màu bạc, giống hệt dấu gedwey ignasia trên bàn tay Eragon.
Eragon biết ngay đứa con gái nhỏ đó là ai.
Không ai nhúc nhích khi Eragon tiến lại gần con bé và Saphira vươn cổ dài hơn vào trong lều. Quỳ một gối, Eragon cầm bàn tay phải con bé, da con bé nóng hổi như đang lên cơn sốt. Vừa nói bằng cổ ngữ vừa truyền bằng trí lực, Eragon lên tiếng:
- Ta xin lỗi, em có tha lỗi điều ta đã gây ra cho em không?
Mắt con bé dịu xuống, nó nghiêng người hôn lên trán Eragon. Lần đầu tiên với giọng của một đứa trẻ, con bé thì thầm:
- Em tha lỗi cho kỵ sĩ. Làm sao em có thể không thua thứ, vì kỵ sĩ và Saphira đâu có ý định làm hại em. Tha thứ, nhưng em vẫn phải cho kỵ sĩ biết một điều, làm lương tâm kỵ sĩ luôn cắn rứt: kỵ sĩ đã đày đọa em trong sự tiên đoán ra tất cả những nỗi thống khổ chung quanh. Ngay lúc này đây, em đang bị thúc dục phải tới cứu một người vừa bị cắt vào tay, cách đây ba lều và một lính cầm cờ vừa bị gãy ngón tay trong trục bánh xe. Còn nhiều người khác nữa, đã hoặc sắp, bị thương… Thậm chí ban đêm em cũng không thể chợp mắt vì sức mạnh thôi thúc phải đi cứu người đo. Ôi, tài sản kỵ sĩ dành cho em là vậy đó.
Mấy lời sau cùng, giọng nó lại đầy cay đắng.
Saphira vươn vào giữa hai người, chạm nhẹ mõm lên chính giữa dấu màu bạc của con bé, bảo: “Tĩnh tâm đi, cô bé. Trong tim em ngùn ngụt giận hờn.”
Eragon bảo:
- Em sẽ không phải sống mãi thế này đâu. Thần tiên đã dạy ta cách giải lời bùa chú, ta tin là em sẽ thoát khỏi lời nguyền. Không dễ, nhưng có thể làm được.
Con bé bỗng như không còn tự kiểm soát nổi mình, hồng hộc thở đứt quãng, tay run lẩy bẩy trong bàn tay Eragon và hai mắt nó long lanh nước mắt. Nhưng rồi nó che giấu ngay cảm xúc thật bằng một nụ cười:
- Tốt, chúng ta cứ thử xem. Nhưng dù sao cũng phải chờ tới sau cuộc chiến này đã.
- Ta muốn em không phải chịu đau đớn càng sớm càng tốt.
- Không nên làm kỵ sĩ kiệt sức, khi sinh mạng mọi người tùy thuộc vào sức lực, tài năng của kỵ sĩ. Kỵ sĩ quan trọng hơn em.
Mặt nó thoáng nụ cười láu lỉnh:
- Ngoài ra, nếu em được giải lời nguyền ngay lúc này, em sẽ không còn khả năng giúp Varden nếu kỵ sĩ gặp nguy hiểm. Chắc kỵ sĩ không muốn công nương Nasuada chết vì vậy chứ, đúng không?
Cân nhắc lời nói của con bé một lúc, Eragon thú thật:
- Đúng, ta không muốn Nasuada phải chết. Được rồi, ta sẽ đợi. Nhưng ta thề với với em: nếu thắng trận này, ta sẽ sửa lại sai lầm đã gây ra cho em.
Con bé nghẹo đầu nói:
- Em sẽ bắt kỵ sĩ giữ lời thề.
Nasuada đứng dậy, nói:
- Elva chính là người đã cứu tôi khỏi chết bởi tay một kẻ ám sát tại Aberon.
- Vậy sao? Elva, vậy là ta lại mang thêm món nợ em đã cứu mạng thủ lãnh của ta.
Nasuada lên tiếng:
- Nào, bây giờ tôi phải đưa Eragon, ông Orik, Saphira và ra mắt nhà vua và các quan trong triều. Ông đã gặp nhà vua bao giờ chưa, Orik?
Ông lùn lắc đầu:
- Chưa bao giờ tôi tới miền tây này.
Khi tất cả cùng ra khỏi lều – Nasuada dẫn đầu cùng Elva đi kế bên – Eragon cố tình đi gần. Arya để nói chuyện nhưng Arya đã rảo bước lên cùng Nasuada. Thậm chí cô không hề nhìn nó một lần. Sự lãnh đãm của cô làm nó đau đớn hơn bất kỳ vết thương thể xác nào. Elva quay nhìn Eragon với đôi mắt đầy hiểu biết.
Tất cả tới một nhà bạt rộng lớn màu trắng và vàng - mặc dù màu sắc khó mà phân biệt, trên Cánh-đồng-cháy tất cả đều phủ một màu cam.
Vừa bước vào trong, Eragon ngạc nhiên thấy căn nhà bạt chất đầy ly cốc, nồi cất rượu, bình thí nghiệm và những dụng cụ của ngành khoa học tự nhiên: “Ai lại khân cả đống lỉnh kỉnh ra chiến trường thế này?” Eragon đang ngẩn người tự hỏi, chợt nghe Nasuada nói:
- Eragon, tôi muốn anh gặp Orrin, con trai của Larkin, quốc vương của Surda.
Từ sau hàng đống chai lọ, bình thủy tinh xuất hiện một người đàn ông đẹp trai, dong dỏng cao, tóc dài tới vai, đội một vương miện bằng vàng. Tư tưởng của ông vua này, giống Nasuada, như được bảo vệ bằng một bức tường thép. Chắc chắn nhà vua đã được huấn luyện khả năng này.
Qua cuộc trò chuyện, Eragon cho rằng nếu Orrin có thêm một chút sức sống trẻ trung và bớt một chút tàng tàng trong đầu, thì ông ta cũng là một người thú vị. Tóm lại, Eragon tin tưởng vào tài năng lãnh đạo của Nasuada hơn.
Sau khi né tránh hàng loạt câu hỏi của ông vua trẻ về những ngày sống giữa thần tiên, Eragon luôn phải mỉm cười, lịch thiệp gật đầu, lần lượt đáp lễ từng ông công hầu, bá tước. Ông nào cũng bảo “vô cùng vinh hạnh được diện kiến kỵ sĩ rồng” và mời Eragon tới thăm lâu đài của họ. Eragon ghi nhớ từng tên và chức vụ của các quan, theo lời dạy của sư phụ. Vì vậy nó cố giữ thái độ hòa nhã, dù đang thầm bực bội nghĩ: “Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, sắp bước vào cuộc chiến cam go, mà cứ phải đứng đây cười cợt xã giao thế này sao?”
Saphira khuyên nhỉ: “Kiên nhẫn nào, ông anh. Không còn đông các quan nữa đâu. Vả lại, nghe những lời mời mọc không? Nếu thắng trận, anh em mình đi ăn tiếc chùa cả năm không hết lượt…”
“Anh nghĩ các quan sẽ phát hoảng khi biết tài ăn nhậu của em. Chưa kể đồ nhắm, chỉ riêng khoản rượu, một đêm thôi là em nốc hết cả kho rượu của họ rồi.”
“Ghê vậy? Hai đêm thì được.”
Khi ra khỏi nhà bạt củ vua Orrin, Eragon hỏi Nasuada:
- Bây giờ tôi phải làm gì để phục vụ tiểu thư?
- Kỵ sĩ nghĩ làm gì để phục vụ tốt nhất? Anh biết trách nhiệm của mình rõ hơn tôi chứ.
Lúc này Arya mới nhìn Eragon, chờ đợi câu trả lời của nó.
Nhìn bầu trời đỏ như máu, Eragon cân nhắc câu hỏi của Nasuada:
- Tôi sẽ lãnh trách nhiệm điều hành Con-đường Lãng-du như đã có lần họ đề nghị. Rồi chỉnh đốn lại theo ý tôi để đưa họ ra trận. Cùng sát cánh bên nhau, chúng tôi có thể tạo ra cơ hội tốt nhất đánh bại những pháp sư của Galbatorix.
- Ý kiến đó rất hay.
Eragon chuyển lại câu hỏi của Saphira: “Có chỗ nào để Eragon cất hành lý không? Tôi không muốn vác mãi mấy cái túi và yên cương trên lưng đâu.”
Nasuada vội nói:
- Hãy để tạm trong lều tôi. Eragon, tôi sẽ ra lệnh dựng lều riêng cho anh ngay. Nhưng tôi đề nghị,s au khi cất hành trang, anh hãy mặc giáp vào, vì luôn luôn anh phải sẵn sàng. À, Saphira, chúng ta cũng đã mang theo bộ giáp của mi. Sẽ cho đem tới mi ngay.
Ông lùn Orik hỏi:
- Còn tôi thì sao, thưa công nương?
- Nhiều người lùn của hộ tộc Ingeitum đang trổ tài chuyên môn dựng công sự cho chúng tôi. Nếu muốn, ông có thể chỉ huy họ.
Orik hoan hỉ ra mặt vì sắp được gặp đồng hương, nhất là lại cùng dòng tộc. Đặt nắm tay lên ngực, ông lùn nói:
- Tôi xin phép lãnh nhiệm vụ đó ngay.
Không đợi nghe trả lời, Orik lạch bạch chạy qua doanh trại về hướng bắc, tới nơi đang xây công sự.
Về tới cửa lều, Nasuada bảo Eragon:
- Báo cho tôi biết ngay sau khi anh thu xếp xong với Con-đường Lãng-du.
Cô vén cửa lều, cùng Elva khuất sau lỗi vào tối om. Arya vừa định bước theo, Eragon lại gần nói bằng cổ ngữ:
- Khoan đã.
Nàng tiên dừng chân, lẳng lặng nhìn nó. Eragon nhìn cô không chớp mắt.
- Arya, tôi sẽ không xin lỗi vì tình cảm tôi đối vớinàng đâu. Tôi chỉ muốn nàng hiểu là tôi rất ân hận vì hành động của mình trong Lễ-hội Huyết-thệ. Đếm đó tôi không phải là chính mình nữa; nếu không, tôi đã không quá vô lễ với nàng đến thế.
- Và.. chàng sẽ không bao giờ làm như vậy nữa chứ?
Eragon cố nén tiếng cười mừng rỡ:
- Không bao giờ… vì chẳng đi tới đâu, phải không? Tôi không muốn làm phiền nàng, cho dù…
Eragon ngừng bặt trước khi nói ra những lời mà nó biết rồi lại sẽ làm nó thêm hối tiếc.
Vẻ mặt Arya chịu lại:
- Eragon, chàng phải hiểu là tôi không muốn làm chàng đau khổ.
- Tôi hiểu.
Im lặng một lúc, Arya hỏi:
- Chuyến bay êm ả chứ?
- Êm ả.
- Có gặp khó khăn gì trên sa mạc không?
- Khó khăn gì?
- Không. Tôi chỉ lo vậy thôi. Từ sau lễ hội, chàng sao rồi? Tôi có nghe những gì chàng nói với Nasuada, nhưng chàng chỉ nhắc tới vết thương trên lưng.
- Tôi…
Nó định nói dối – không muốn Arya biết nó đã nhớ thương cô đến ngần nào – nhưng mấy câu cổ ngữ tắt lịm trong miệng, làm nó lặng câm. Sau cùng nó sử dụng phương tháp của thần tiên, chỉ nói một phần sự thật.
- Tôi khá hơn trước nhiều.
Trong thâm tâm câu đó chỉ có nghĩa: lưng tôi khá hơn trước nhiều.
Dù Arya không bị mắc mưu nhưng cô chỉ nói:
- Tôi rất mừng.
Nghe tiếng Nasuada gọi trong lều, Arya nhìn Eragon nói:
- Họ đang càn tôi. Eragon, cả hai ta đều bận rộn. Trận chiến đã cạn kề. Bảo trọng. Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Nói xong, oArya biến vào trong lều.
Thẫn thờ, Eragon đứng lặng người. Nó đã hoàn tất việc cần làm, nhưng dường như chẳng thay đổi được gì tình trạng giữa nó và Arya. Nắm chặt hai tay, nhìn xuống đất mà Eragon chẳng thấy gì. Saphira dúi mũi lên vai làm nó giật mình: “Đi thôi, tiểu huynh. Đứng đây mãi được sao. Cái yên này làm em ngứa lưng quá rồi.”
“Vừa lèm bèm vừa tháo như muốn giật đứt mấy sợi dây, Eragon ném phịch bộ yên xuống đất. Saphira vươn đôi vai khổng lồ, khoan khoái: “Đã quá!”
Lấy bộ giáp từ trong túi xách ra, Eragon khoác lên mình bộ chiến bào rực rỡ. Áo giáp đan bằng chỉ sắt mặc ngoài áo vải của thần tiên. Xà cạp cuốn quanh chân, đầu đội mũ da, bên ngoài là lớp thép đan, sau cùng là chiếc mũ bằng vàng và bạc. Đai lưng của Beloth Khôn Ngoan và thanh Zar’roc đeo bên hông trái. Ngang lưng, Eragon khoác ống tên lông ngỗng nữ hoàng Islanzadí đã ban cho.
Sau khi cất hành lý của nó và Orik vào lều, Eragon cùng Saphira đi tìm cô gái phù thủy Trianna, thủ lãnh hiện nay của Con-đường Lãng-du. Mới đi được mấy bước, Eragon cảm thấy một ý lực rất gần đang cố bảo vệ khỏi tầm kiểm soát của nó. Đoán đó là một trong những pháp sư của Varden, Eragon và Saphira đổi hướng, tiến lại.
Đi chừng được mười mấy mét, Eragon và Saphira tới trước một lều vải nhỏ màu xanh, một con lừa buộc ngay trước cửa lều. Bên phải lềi, có một cái nồi sắt nhọ nhem treo trên cái kiềng sắt đặt trên miếng hố lửa. Mùi khói hôi khét tỏa nồng nặc. Chung quanh bếp lửa, giăng mắc nhiều sợi dây thừng, treo đầy lá cà độc dược, đỗ quyên, thủy tùng và nhiều thứ nấm. Eragon nhận ra tất cả các loại này, nhờ những bài học về độc dược của sư phụ Oromis.
Đứng bên nồi, tay cầm mái chèo dài bằng gỗ đang ngoáy nước thuốc, chính là bà lang phù thủy Angela và dưới chân bà, mèo ma Solembum ngồi nhòm nhõm.
Mèo ma “ngao” một tiếng lớn làm bà Angela ngước lên nhìn. Ánh lửa chập chờn hắt lên khuôn mặt phủ tóc rối bù. Thấy Eragon, bà Angela nhăn mặt hỏi:
- Thì ra các ngươi trở lại rồi à?
- Dạ, chúng cháu đã trở lại.
- Mi chỉ nói vậy thoi sao? Đã gặp Elva chưa? Đã thấy những gì mi làm cho con nhỏ đó chưa?
- À…
-À? Mi không biết diễn tả lời nói cho minh bạch đàng hoàng hơn sao? Suốt thời gian dài được thần tiên dạy dỗ mi chỉ biết nói “À”? Đồ đầu rỗng! Chỉ những kẻ ngu đần mới làm điều mi đã làm…
Chắp hai tay sau lưng, Eragon lẳng lặng nghe bà Angela sang sảng phân tích từng chi tiết để chỉ rõ cho nó thấy rõ ràng nó là một thằng đầu rỗng, ngu si - thậm chí bà ta còn quá đà khi bảo, chắc tổ tiến nó có người lất quái thú Urgal, nên nó mới thừa hưởng cái gien đần độn đó. Nếu bị một kẻ khác nhục mạ kiểu này, Eragon đã thách đầu rồi. Nhưng Eragon hiểu sự tức giận ngấm ngầm bấy lâu nay trong bà, bây giờ mới có dịp bùng ra. Sự phẫn nộ của bà có nguyên nhân chính đáng: chính nó đã gây nên một sai lầm kinh khủng.
Khi bà Angela ngừng lại để thở, Eragon mới lên tiếng:
- Bà nói rất đúng, vì vậy ngay sau trận chiến kết thúc, cháu sẽ giải lời nguyền cho Elva.
Bà lang phù thủy chớp mắt đúng ba lần, miệng chu lại thành một chữ “O” nho nhỏ truớc khi mím chặt lại. Ánh mắt đầy nghi ngờ, bà hỏi:
- Cháu không nói vậy để ta nguôi cơn tức bực đó chứ?
- Không đâu.
- Thật sự cháu có thể giải lời nguyền? Ta tưởng điều đó không thể nào làm nổi?
- Thần tien đã khám phá ra nhiều phương pháp sử dụng phép thuật.
- À, vậy thì tốt rồi. Mọi chuyến sẽ ổn, phải không?
Bà hớn hở cười với Eragon, rồi quay qua vỗ ngực Saphira:
- Gặp lại cháu ta vui lắm. Cháu lớn quá rồi, Saphira.
“Cháu cũng mừng được gặp lại bà.”
Khi bà Angela trở lại với nồi thuốc, Eragon nói:
- Bài diễn văn của bà hay quá.
- Cám ơn. Ta phải soạn suốt mấy tuần lễ đó. Tiếc là cháu không được nghe đoạn cuối. Tuyệt lắm. Cháu muốn nghe không?
- Ôi thôi, xin tha cho cháu. Cháu có thể tưởng tượng nó như thế nào rồi. Hình như… bà không ngạc nhiên vì sự thay đổi của cháu?
- Ta có được nghe tin này rồi. Theo ý ta thì đó là một sự tiến bộ. Nhưng nói thế nào nhỉ, cháu… chưa hoàn tất sự thay đổi, đúng không?
- Chính xác.
Chỉ những cây lá trên dây, Eragon hỏi:
- Bà làm gì với những thứ này vậy?
- Ồ, một kế hoạch nhỏ của ta, nhưng còn đang trong vòng nghiên cứu.
Ngắm nghía mấy tai nấm đầy màu sắc, Eragon lại hỏi:
- Bà đã đi đến kết luận có loài cóc hay không chưa?
- Hình như tất cả những con cóc đều là những con ếch, nhưng không phải ếch đều là cóc. Trên tinh thần đó, cóc không thật sự tồn tại, và điều đó có nghĩa là ta có lý.
Chợt bỏ qua vấn đề cóc ếch, bà ta cầm cốc nước trên băng ghế kế bên, đưa cho Eragon:
- Này, uống trà đi.
Liếc đống lá cây héo rũ chung quanh, rồi nhìn vẻ mặt cởi mở của bà Angela. Eragon đón cốc nước. Lẩm bẩm thầm để bà lang không nghe được, nó niệm thần chú loại bỏ chất độc. Chỉ đến khi biết chắc cốc nước hoàn toàn tinh khiết, Eragon mới dám uống. Dù nó không biết nước gồm những thành phần gì, nhưng mùi vị rất ngon.
Ngay lúc, đó mèo ma Solembum đủng đỉnh lại gần Saphira, ròi cong người cọ mình vào chân trước của cô rồng, giống hệt một con mèo bình thường. Saphira vuốt dọc sống lưng mèo ma bằng đầu mũi, nói: “Mình gặp một kẻ ở Ellesméra biết cậu đấy.”
“Thật sao?”
“Thật mà. Tên cô ả là Thần Cước, Vũ Nữ Trong Mơ và lại thêm cả tên Maud nữa.”
Đôi mắt vàng của Solembum mở lớn, sau vài tiếng gừ gừ trong họng, nó lại tiếp tục cọ mình vào chân rồng.
Bà Angela nói:
- Ta đoán cháu đã gặp và trò chuyện với Nasuada, Arya và vua Orrin. Cháu nghĩ sao về ông cụ non Orrin?
Eragon thận trọng lựa lời, vì biết hai người đang nói đến một ông vua:
- Hình như… ông ta quan tâm đến rất nhiều điều.
- Phải, ông ta như người sống trên mây. Nhưng bằng cách này hay cách khác, thiên hạ ai cũng thế cả thôi.
Eragon tủm tỉm cười:
- Phải là người điên mới vận chuyển cả đống chai lọ từ thủ đô tới đây.
- Lại còn thế nữa?
- Bà đã thấy bên trong nhà bạt của nhà vua chưa?
- Không như nhiều kẻ khác, ta không kheo mồm miệng khi gặp vua chúa.
Vì vậy Eragon phải tả lại hàng đống dụng cụ lỉnh kỉnh nhà vua đã chuyển đến Cánh-đồng-cháy. Bà Angela quên cả đảo thuốc, mê mẩn nghe Eragon nói. Khi nó chấm dứt, bà lang phù thủy hấp tấp thu dọn lá thuốc trên dây phơi, nói:
- Ta phải triều kiến nhà vua ngay. Lúc khác hai cháu hãy kể cho ta nghe những ngày ở Ellesméra. Thôi đi đi, cả hai đứa đi đi.
Eragon tay vẫn còn cấm cốc nước, chỉ biết lắc đầu khi người đàn bà nhỏ bé đẩy nó và Saphira ra khỏi lều.
“Nói chuyện với bà ta bao giờ cũng…”
“Khác thường?”
“Chính xác.”


Mây mù của chiến tranh


Gần một tiếng sau Eragon mới tìm thấy lều của Trianna, căn lều dành cho ban chỉ huy tạm thời của Con-đường Lãng-du. Việc tìm kiếm họ rất khó, vì chỉ một số ít người được biết sự tồn tại của Con-đường Lãng-du. Trong số ít đó, cũng chỉ vài người biết họ ở đâu. Vì căn lều ẩn sau rặng núi đá, tránh tầm nhìn của những pháp sư địch thủ trong lực lượng của Galbatorix.
Khi Eragon và Saphira tiến lại căn lều đen, cửa lều hé mở và Trianna lách ra, hai cánh tay trần đưa cao, sẵn sàng sử dụng phép thuật. Sau lưng cô ta, xúm xít những pháp sư, nhiều người trong số họ Eragon đã nhìn thấy trong cuộc chiến tại Farthen Dur, cả những người chiến đấu trực tiếp, cả những người săn sóc thương binh.
Eragon nhìn phản ứng ngỡ ngàng của Trianna và những người kia khi thấy ngoại hình thay đổi của nó.
Hạ tay xuống, Trianna lên tiếng trước:
- Khắc-Tinh của Tà-Thần, Saphira. Đáng lẽ hai vị phải báo cho chúng tôi biết sớm hơn chuyện hai vị có mặt tại đây. Chúng tôi đang sửa soạn đối đầu với một địch thủ vẫn được coi là phi thường nhất.
- Tôi không có ý làm buồn lòng cô, nhưng khi hạ xuống đây, chúng tôi phải báo cáo ngay với Nasuada và vua Orrin.
- Vậy bây giờ lý do gì chúng tôi được hân hạnh tiếp đón kỵ sĩ và Saphira đây? Trước kia chưa bao giờ kỵ sĩ hạ cố đến thăm chúng tôi. Chúng tôi, những người anh em gần gũi với kỵ sĩ hơn bất cứ kẻ nào trong hang ngũ Varden.
- Tôi tới để nhận trách nhiệm chỉ huy Con-đường Lãng-du.
Tiếng thì thầm ngạc nhiên rào rào nổi lên. Trianna đứng sững người. Eragon cảm thấy nhiều pháp sư đang dò la chủ ý thật sự trong tâm tưởng nó. Thay vì bao phủ để chống cự, nó trả đũa bằng cách châm chích nhẹ vào ý lực những kẻ định xâm nhập vừa đủ để họ phải rút lui. Eragon khoan khoái nhìn hai gã đàn ông và một phụ nữ rùng mình, quay nhìn hướng khác.
Trianna lên tiếng hỏi:
- Theo lệnh ai?
- Lệnh của công nương Nasuada.
Cô gái phù thủy cười đắc thắng:
- A… nhưng Nasuada không có thẩm quyền trực tiếp đối với chúng tôi. Chúng tôi phục vụ Varden với một ý chí tự do.
Sự chống đối của cô ta làm Eragon bối rối:
- Tôi chắc công nương Nasuada sẽ rất ngạc nhiên khi nghe những lời này, sau tất cả những gì công nương, và phụ thân của cô ấy, đã làm cho Con-đường Lãng-du. Điều đó sẽ làm công nương nghĩ rằng, Con-đường Lãng-du không còn cần đến sự ủng hộ và che chở của Varden nữa. Ngoài ra, dường như tôi cũng cần nhắc để cô nhớ, chính cô đã có lần sốt sắng trao địa vị này cho tôi. Tại sao bây giờ lại phản đối?
- Ngài đã từ chối lời đề nghị của tôi, Khắc-Tinh của Tà-Thần… hay ngài đã quên rồi?
Cô ta có vẻ chín chắn hơn lần gặp trước, làm Eragon tự nhắc nhở mình phải nghĩ lại những gian khổ Trianna đã trải qua từ ngày đó: vượt qua Alagaesia để tới Surda, giám sát các pháp sư của Con-đường Lãng-du, và bây giờ lại sửa soạn để bước vào cuộc chiến. Nó bảo:
- Vậy… chúng ta có thể không chấp hành lệnh. Vì lúc này chưa đúng thời điểm.
- Nhưng vì sao Nasuada lại muốn kỵ sĩ chỉ huy chúng tôi? Chắc chắn còn nhiều công việc khác kỵ sĩ và Saphira tỏ ra hữu ích hơn nhiều.
- Công nương muốn tôi điều khiển Con-đường Lãng-du trong tận sắp tới. Vì vậy tôi phải tuân lệnh.
Eragon nghĩ, tốt nhất là không cho cô ta biết đó chính là ý kiến của nó. Mặt Trianna sa sầm, tức tối.
- Chúng tôi hiến cả đời mình để học phép thuật. Kỵ sĩ mới chỉ học được hai năm. Điều gì làm kỵ sĩ có khả năng hơn bất kỳ ai trong chúng tôi? Vô lý quá. Hãy cho tôi biết: Chiến lược của kỵ sĩ như thế nào. Kế hoạch sử dụng chúng tôi ra sao?
- Kế hoạch của tôi đơn giản thôi. Các pháp sư trong Con-đường Lãng-du liên kết ý lực với nhau, để truy lùng những pháp sư của địch. Khi phát hiện ra tên nào, tôi sẽ trợ lực cùng các vị. Như vậy, hiệp lực cùng nhau, chúng ta có thể bẻ gãy sự bảo vệ lực lượng địch bằng phép thuật. Lúc đó quân ta sẽ dễ dàng ra tay tàn sát kẻ thù.
- Và… kỵ sĩ sẽ làm gì trong suốt thời gian đó?
- Chiến đấu bên cạnh Saphira.
Sau một lúc yên lặng đắn đo, một nam pháp sư đứng sau Trianna lên tiếng:
- Một kế hoạch rất tốt.
Gặp ánh mắt đầy giận dữ của Trianna, anh ta vội quay đi. Chậm rãi quay lại nhìn Eragon, Trianna nói:
- Từ sau khi cặp sinh đôi chết, tôi đã dẫn dắt Con-đường Lãng-du làm được nhiều điều để củng cố cho cuộc chiến này, đã quét sạch được nhóm Bàn Tay Đen - mạng lưới gián điệp định ám sát Nasuada-, cũng như rất nhiều việc khác nữa. Và tôi biết chắc có thể tiếp tục đạt những thành quả tốt đẹp như thế… Vậy thì vì sao Nasuada lại muốn phế bỏ tôi? Tôi đã làm gì để cô ta không vừa ý?
Vơi Eragon, như vậy mọi sự đã rõ ràng: Trianna đã quen với quyền lực và không muốn từ bỏ địa vị đang nắm giữ. Hơn thế nữa, cô ta nghĩ việc bị Eragon thay thế là một sự chê trách tài lãnh đạo của cô ta.
Saphira thúc dục: “Giải quyết màn tranh luận này mau mau đi, thời gian gấp rút lắm rồi.”
Eragon tìm cách sao để nắm quyền Con-đường Lãng-du mà không mất lòng Trianna. Sau cùng nó nói:
- Tôi không đến đây để gây rắc rối, mà là để kêu gọi sự giúp đỡ…
Nhìn khắp lượt, Eragon tiếp tục:
- Tôi và Saphira đủ mạnh để hạ bất cứ pháp sư trung thành nào của Galbatorix. Đúng vậy. Nhưng chúng tôi không thể có mặt khắp nơi. Không thể bảo vệ cho từng người trong hàng ngũ Varden. Và nếu pháp sư của bạo chúa lien kết lại để tấn công, thì chính chúng tôi cũng khó lòng thoát chết. Chúng tôi, tôi và Saphira, không thể chiến đấu đơn độc trong trận chiến này. Cô hoàn toàn đúng, Trianna, cô đã hoàn thành tốt công việc với Con-đường Lãng-du. Nhưng tôi không tới đây để tranh giành quyền lực. Chỉ có một điều: là một người sử dụng phép thuật, tôi cần phải làm việc cùng Con-đường Lãng-du, và là một kỵ sĩ Rồng, tôi cũng cần phải ra lệnh cho cô, lệnh phải được thi hành, không thắc mắc. Hệ thống chỉ huy phải được thiết lập. Có nghĩa là, cô vẫn giữ địa vị cao nhất trong nhóm tự trị của mình. Tôi sẽ bận rộn nhiều, không đủ thời gian để gắn liền với Con-đường Lãng-du, nhưng tôi sẽ không bỏ qua những lời góp ý của cô đâu, vì tôi biết cô có kinh nghiệm hơn tôi rất nhiều. Vậy một lần nữa tôi hỏi: cô có sẵn lòng giúp tôi vì quyền lợi của Varden không?
Trianna im lặng, rồi cúi đầu:
- Tất nhiên, thưa Khắc-Tinh của Tà-Thần. Vì quyền lợi của Varden, chúng tôi rất hân hạnh được kỵ sĩ chỉ huy Con-đường Lãng-du.
- Vậy thì chúng ta hãy bắt tay vào việc ngay…
Hơn mấy tiếng sau, Eragon thảo luận cùng các pháp sư hiện diện trong buổi họp, vì một số vắng mặt, đang thi hành nhiệm vụ giúp đỡ Varden. Nó cố gắng tìm hiểu khả năng phép thuật của họ. Đa số thành viên Con-đường Lãng-du đều học phép thuật từ người trong thân tộc và luôn phải âm thầm né tránh sự chú ý của những người sợ hãi tà ma, phép thuật, và tất nhiên, là phải lẩn trốn Galbtorix. Chỉ vài pháp sư được học tập bài bản. Vì vậy, hầu hét đều hiểu biết quá ít về cổ ngữ - không một ai có thể nói trôi chảy ngôn ngữ này -, niềm tin vào phép thuật của họ thường lệch lạc thành sự mê tín dị đoan, và tất cả họ đều mù mờ về cách ứng dụng ma thuật.
Saphira nhận xét: “Hèn gì cặp sinh đôi đã cố moi bằng được mấy từ cổ ngữ của anh tại Farthen Dur. Với mấy câu đó thôi, chúng cũng đủ chinh phục mấy pháp sư non tay này một cách dễ dàng.”
“Vậy mà chúng ta sẽ phải làm việc chung cùng tất cả những người này đấy.”
“Bây giờ anh đã sang mắt vì những gì em đã nói về người đẹp Trianna của anh chưa? Cô ả đặt tham vọng lên trên quyền lợi của nhiều người khác.”
“Em có lý, nhưng anh không trách cô ta về điều đó. Trianna đối xử với mọi người bằng cách tốt nhất theo cô ấy, cũng như tất cả chúng ta vậy thôi. Dù không chấp nhận, nhưng anh thông cảm… như lời dạy của sư phụ: hãy nuôi dưỡng niềm thông cảm trong con.”
Chuyên môn của hơn một phần ba pháp sư là chữa thương. Eragon cho những người này tiếp tục đi làm nhiệm vụ, sau khi dạy cho họ mấy câu thần chú để có thể chữa trị những vết thương trầm trọng hơn. Những pháp sư còn lại cùng Eragon thiết lập một hệ thống, chỉ huy minh bạch – nó chỉ định Trianna làm chỉ huy phó và phải bảo đảm lệnh ban ra được thi hành nghiêm chỉnh, các cá nhân phải đoàn kết trong một đơn vị chiến đấu. Cố gắng thuyết phục các pháp sư cộng tác với nhau, Eragon mới hiểu là rất khó có sự hòa thuận giữa những mối bất đồng ý kiến của họ.
Cách tốt nhất để nhận biết khả năng chính xác của từng người, Eragon bắt họ niệm một tràng thần chú. Nhìn các pháp sư chật với với mấy câu thần chú đối với nó giờ là quá đơn giản, Eragon mới thấy rõ khả năng của nó đã tiến bộ đến thế nào. Nó tí tởn với cô em rồng: “Nhớ ngày nào anh cũng chật vật như vậy mới nâng nổi viên sỏi bay lên không.”
“Phải, nhưng cũng phải nhớ Galbatorix đã trui rèn tài năng của lão suốt hơn một thế kỷ rồi đó.”

Mặt trời chìm dần xuống hướng tây, ánh sang màu cam đầm dần cho đến khi doanh trại của Varden, con sông Jiet xám xịt và toàn thể Cánh-đồng-cháy chói chang rực rỡ như cảnh tượng trong giấc mơ của một người loạn trí, khi mặt trời không còn lớn hơn bề ngang một ngón tay nơi chân trời, một tên lính chạy vào lều cho Eragon biết, Nasuada lệnh cho nó phải có mặt ngay.
Sau khi Con-đường Lãng-du hứa sẽ sẵn sàng khi được yêu cầu trợ giúp, Eragon chạy bộ bên cạnh Saphira qua những căn lều xám, tiến tới lều của Nasuada. Tiếng xôn xao trên đầu làm Eragon phải ngước nhìn.
Một đoàn chim đen nghịt bầu trời giữa hai đạo quân. Ó, ưng, diều hây, quạ khoang, quạ đen… the thé rít lên chờ đợi máu nóng thịt tươi. Với kinh nghiệm và bản năng, chúng biết nơi nào lính tráng tấp nập xuất hiện trên đất Alagaesia, nơi đó sẽ có đại tiệc ê hề xác chết.
“Mây mù của chiến tranh đang tụ về đây rồi.” Eragon thầm nhủ.


Nar Garzhvog


Eragon bước vào, còn Saphira chỉ có thể vươn đầu qua cửa lều. Năm sáu sĩ quan chỉ huy của Nasuada vội loảng xoảng rút kiếm khỏi bao. Họ hạ ngay vũ khí khi nghe Nasuada lên tiếng:
- Mời vào, kỵ sĩ Eragon.
- Tiểu thư cho gọi tôi?
- Trinh sát của chúng ta vừa báo, một đại đội Urgal đang tiến từ đông bắc tới đây.
Eragon nhíu mày, không ngờ trong trận này lại có cả tụi quái thú Urgals, vì Tà Thần Durza không còn để chỉ huy chúng nữa và chúng đã bị chết quá nhiều trong trận Farthen Dur. Nhưng nếu chúng đã tự dẫn xác tới đây, cứ để chúng tới. Eragon không ngăn được nụ cười khi dự tính sẽ tiêu diệt lũ quái thú với sức mạnh mới của mình. Nắm chặt thanh Zar’roc, Eragon nói:
- Nếu tiểu thư cho phép, tôi và Saphira có thể loại bỏ ngay những con quái vật này khỏi cuộc chiến.
- Chúng ta không thể làm như vậy, Eragon. Chúng phất cờ trắng và xin được tiếp chuyện với tôi.
Eragon há hốc miệng nhìn cô, rồi hỏi:
- Chắc chắn tiểu thư không đời nào chấp thuận…
- Ta phải cư xử đúng phép như đối với bất cứ địch thủ nào tới đây với ngọn cờ hưu chiến.
- Nhưng đó là loài súc sinh tàn nhẫn. Là những con quái vật. Cho chúng vào doanh trại là một chuyện điên rồ… Tiểu thư Nasuada, tôi đã từng chứng kiến những hành động dã man tàn bạo do chúng gây ra. Nỗi thống khổ, đau đớn của mọi người là niềm vui của chúng. Con chó dại còn đáng thương hơn tụi Urgals. Tiểu thư không phải mất thì giờ với một chuyện chắc chắn là cái bẫy. Xin hãy ra lệnh, tôi và tất cả chiến binh Varden đều nhiệt tình tiêu diệt lũ quái vật ghê tởm này.
Jormundur lên tiếng:
- Tôi đồng ý với Eragon. Nếu công nương không nghe lời chúng tôi, xin hãy nghe lời kỵ sĩ.
Nasuada thì thầm đủ để riêng Eragon nghe:
- Nếu anh mù quáng đến thế, rõ ràng việc học tập của anh chưa đi tới đâu.
Rồi cô cất cao giọng, đầy phong cách chỉ huy giống hệt người cha quá cố:
- Tất cả các vị đều quên rằng tôi cũng chiến đấu tại Farthen Dur như các vị và tôi cũng đã nhìn thấy sự dã man của Urgal. Tuy nhiên… Tôi cũng đã được thấy người của chúng ta cũng có những hành động cực kỳ tàn ác chẳng thua gì chúng. Tôi không chối bỏ đau thương do bàn tay của Urgal đã gây ra, nhưng tôi cũng không thể làm ngơ với những đồng minh tương lai, trong khi lực lượng của chúng ta quá nhỏ bé so với quân triều đình đế quốc.
- Nhưng, thưa công nương, để công nương gặp gỡ một tên Urgal là quá nguy hiểm.
- Quá nguy hiểm ư? Nguy hiểm trong khi tôi được bảo vệ giữa kỵ sĩ Eragon, Saphira, Elva và tất cả các chiến binh dũng mãnh sao? Tôi nghĩ là không đâu.
Eragon nghiến răng ken két với Saphira: “Em phải thuyết phục cô ta bỏ ngay ý định liều lĩnh này đi chứ.”
“Không. Đầu óc anh mụ mẫm rồi.”
“Em không thể đồng ý với cô ta như vậy được. Chính em đã có mặt cùng anh tại Yazuac; em biết những gì Urgals đã gây ra cho dân làng mà. Rồi những gì xảy ra khi chúng ta rời khỏi Teirm, chuyện anh bị bắt tại Gil’ead, chuyện tại Farthen Dur? Mỗi lần chúng ta đụng độ Urgals, chúng đều tìm mọi cách để giết bằng được anh em ta. Chúng là gì? Chỉ là loài thú dữ.”
“Trong thời chiến tranh với loài rồng, thần tiên cũng nghĩ như vậy về tổ tiên của em đó.”
Theo lệnh của Nasuada, lính gác buộc cao tất cả những cánh lều lên, để tất cả người bên ngoài đều thấy được những diễn tiến trong lều và Saphira có thể bò vào sát bên Eragon. Nasuada ngồi trên ghế bành cao, Jormundur và các sĩ quan chỉ huy đứng thành hai hàng từ lối vào. Eragon đứng bên phải, Elva đứng bên trái Nasuada.
Năm phút sau, một tiếng gào phẫn nộ vọng lại từ phía bắc doanh trại. Những tiếng chửi rủa, nhạo báng rầm rầm nổi lên mỗi lúc mỗi huyên náo hơn, cho tới khi một tên Kull (giống Urgal khổng lồ) xuất hiện, vượt qua đám đông giận dữ ồn ào tuôn ra những lời thóa mạ. Tên Urgal khổng lồ bước đi về hướng Nasuada, đầu ngửng cao, nhe ra những cái nanh vàng khè, nhưng không phản ứng lại những lời lăng mạ. Nó là một khuôn mẫu tuyệt đẹp: cao hơn hai mét, mặt rắn rỏi, kiêu hãnh, cặp sừng mạnh mẽ xoắn vặn, cơ bắp cuồn cuộn, làm người ta có cảm tưởng, với chỉ một cú đấm, nó có thể giết chết ngay một con gấu to lớn. Trang phục trên mình chỉ vẻn vẹn một cái khố vải, mảnh giáp thô lậu bằng sắt, một cái đĩa thép dội giữa hai sừng để bảo vệ đỉnh đầu. Mái tóc đen thắt thành bím.
Eragon phải mím chặt môi, cố kiềm chế để không rút phăng thanh Zar’roc ra khỏi vỏ. Tuy vậy nó cũng không ngăn được sự cảm phục tên Urgal đã can đảm tay không vào giữa hang hùm. Và Eragon còn ngạc nhiên hơn khi phát hiện tâm tưởng của tên Urgal được phong tỏa rất vững vàng.
Khi tên Urgal không dám tiến bước thêm, chỉ ngừng lại trước hiên lều, Nasuada ra lệnh cho lính gác quát bảo đám đông im lặng. Tất cả chăm chú nhìn quái thú Urgal.
Đưa cao hai cánh tay bắp thịt căng phồng, Urgal hít mạnh một hơi, mõm há hốc, rống lên về phía Nasuada. Ngay lập tức, những mũi kiếm tua tủa chĩa vào nó. Nhưng Urgal không thèm quan tâm tới ai, tiếp tục rống tới khi không còn hơi trong phổi. Rồi nó mới nhìn Nasuada, ồ ồ từ cổ họng:
- Âm mưu lừa gạt này là sao, công nương Thợ-săn-đêm? Lời hứa bảo vệ an toàn cho tôi đâu? Loài người nuốt lời dễ thế sao?
Một sĩ quan chỉ huy nghiêng mình nói với Nasuada:
- Xin để tôi dạy cho nó biết thế nào là lễ độ, rồi công nương sẽ nghe thông điệp của nó sau…
Eragon cũng muốn đập cho con thú hỗn xược một trận, nhưng nhớ đến trách nhiệm đối với Nasuada và Varden, nó cúi xuống nói nhỏ với cô:
- Đừng tỏ vẻ bực tức. Đó chỉ là cung cách chúng chào hỏi các chiến tướng. Đáp lại đúng cách là cùng nó cụng đầu, nhưng tôi đoán tiểu thư không thích làm như vậy.
Không rời mắt khỏi Urgal, Nasuada thì thầm hỏi Eragon:
- Thần tiên dạy vậy sao?
- Phải.
- Họ còn dạy thêm những gì nữa về Urgals?
- Rất nhiều.
Eragon miễn cưỡng trả lời. Nasuada nói với Urgal, đồng thời cũng là nói với những người đang có mặt:
- Varden không dối trá như Galbatorix và triều đình của lão. Hãy nói thật lòng, không có gì phải lo ngại trong buổi họp hưu chiến này.
Cằm vươn cao, để lộ cổ, Urgal càu nhàu mấy tiếng. Eragon nhận ra đó là một cử chỉ tỏ tình thân thiện. Còn cúi thấp đầu, có nghĩa là khi một Urgal định húc kẻ đối diện. Urgal bắt đầu nói, dường như nó phải nhai từng câu rồi mới phun ra được thành lời:
- Tôi là Nar Garzhvog, thuộc bộ tộc Bolvek. Tôi nói thay cho nòi giống tôi. Urgal bị thù ghét hơn bất cứ loài nào. Chúng tôi bị thần tiên, người lùn, con người săn đuổi và tống ra khỏi nơi ăn chốn ở.
Nasuada nói ngay:
- Họ đều có lý do chính đáng.
- Phải, đều có lý do. Lý do chúng tôi thích chiến tranh. Tuy nhiên, có bao giờ chúng tôi tấn công chỉ vì các người thấy chúng tôi xấu xa, trong khi chúng tôi thấy các người cũng xấu xa như vậy chưa? Từ sau sự cố suy tàn của các kỵ sĩ, chúng tôi đã tăng trưởng quá đông. Mảnh đất khắc nghiệt của chúng tôi đang sống không đủ sức nuôi chúng tôi…
- Vì vậy các ngươi mới liên kết với Galbatorix?
- Đúng vậy, thưa công nương Thợ-săn-đêm. Galbatorix đã hứa cấp đất tốt cho chúng tôi, nếu chúng tôi giết được kẻ thù của lão. Nhưng chúng tôi đã bị lừa. Gã pháp sư Durza tóc đỏ như lửa của lão đã uốn nắn lại ý chí những chiến tướng của chúng tôi, ép buộc các bộ tộc chúng tôi phải làm việc cùng nhau. Điều đó không đúng đường lối của Urgals. Khi phát hiện ra điều này trong lòng núi của người lùn, Herndall – thú mẹ vĩ đại cai quản chúng tôi - gửi ngay con cái của tôi tới gặp Galbatorix để hỏi vì sao lão lại sử dụng chúng tôi như thế…
Hắn lắc lư cái đầu đồ sộ:
- Cô ấy đã không trở về. Những con đực dũng cảm nhất của chúng tôi đã chết vì Galbatorix, để rồi lão ném bỏ chúng tôi như ném bỏ một thanh gươm gãy. Lão là loài dòi bọ, đồ lưỡi rắn, một kẻ bội tín thiếu cặp sừng. Công nương Thợ-săn-đêm, chúng tôi bây giờ không còn đông đúc nữa, nhưng nếu công nương cho phép, chúng tôi sẽ chiến đấu bên công nương.
- Chúng ta sẽ phải trả lại như thế nào? Herndall – thú mẹ vĩ đại của người chắc phải đòi trả giá chứ?
- Máu. Máu của Galbatorix. Và nếu khi đế quốc sụp đổ, chúng tôi xin một miếng đất để sinh đẻ và nuôi thú con lớn lên. Một miếng đất để có thể thoát khỏi những cuộc chiến xảy ra trong tương lai.
Nhìn vẻ mặt của Nasuada, dù cô chưa nói, Eragon đã biết quyết định của cô. Chắc Jormundur cũng cùng chung nhận xét, vì ông ta nghiêng sang Nasuada thì thầm:
- Công nương không thể làm như vậy. Chuyện này trái với thiên nhiên.
- Thiên nhiên không thể giúp chúng ta đánh bại Galbatorix. Chúng ta cần đồng minh.
- Mọi người sẽ bỏ đi chứ không chiến đấu bên Urgals đâu.
- Chuyện đó sẽ tính sau. Eragon, liệu Urgals có giữ lời hứa không?
- Cho đến khi nào chúng ta vẫn còn chung kẻ thù với chúng.
Với một cái gật đầu đầy quả quyết, Nasuada cất cao giọng nói:
- Nar Garzhvog, các ngươi được phép đóng quân dọc sườn phía đông của lực lượng ta, tách xa khỏi bộ chỉ huy. Sẽ bàn về những điều kiện sau.
Nar Garzhvog đấm tay lên trán, gầm lên:
- Ahgrat ukmar - tốt đẹp rồi. Thật là một Herndall khôn ngoan, thưa công nương Thợ-săn-đêm.
- Tại sao ngươi lại gọi ta như thế?
- Herndall?
- Không. Thợ-săn-đêm.
Trong cổ họng Grozhvog thoát ra những tiếng “rắc rắc”, Eragon đoán đó là tiếng cười của nó. Quái thú cắt nghĩa:
- Thợ-săn-đêm là tên chúng tôi đặt cho cha của công nương khi ông truy đuổi chúng tôi trong địa đạo tối tăm dưới lòng núi của người lùn, và cũng vì màu da của ông ấy. Là thú con của ông, công nương xứng đáng nhận tên đó.
Nasuada đứng thẳng dậy tuyên bố:
- Bất cứ ai tấn công Urgals đều sẽ bị kết tội tấn công đồng đội. Hãy dán thông báo đó tại tất cả các đại đội.
Cô vừa dứt lời, Eragon thấy vua Orrin bước vội vào lều:
- Nasuada! Có đúng sự thật cô vừa gặp gỡ một tên Urgal không? Như vậy là có ý gì? Tại sao không ai báo cho trẫm biết? Trẫm không…
Ngay lúc đó, một lính gác chạy vào la lớn:
- Một kỵ binh của đế quốc đang phóng ngựa tới gần chiến tuyến ta.
Vua Orrin quên phắt việc đang hạch hỏi, chạy vội theo Nasuada ra tuyến phòng thủ tiền trạm. Hàng trăm người cũng vội vã chạy theo. Eragon leo lên Saphira bay tới trước.
Khi Saphira tới bờ giới tuyến với những lũy, hào, chông tua tủa bảo vệ lực lượng Varden, Eragon thấy một tên lính rạp mình phóng qua khoảng đất trống giữa hai đạo quân. Phái trên hắn, bầy chim săn mồi sà xuống thấp, như để thăm dò xem bữa tiệc củachúng đã bắt đầu chưa.
Tên lính ghìm con ngựa đen đứng lại trước rào phòng thủ chùng ba mươi mét, giữ khoảng cách tối đa với quân Varden, rồi gào lớn:
- Không chịu đầu hàng theo lệnh đầy bao dung độ lượng của Đức vua Galbatorix là các ngươi đã chọn sự chết. Sẽ không còn sự thương lượng nào nữa. Bàn tay thân thiện đã chuyển thành nắm đấm chiến tranh rồi. Nếu kẻ nào trong số các ngươi vẫn còn tôn kính Hoàng Đế anh minh, sáng suốt, nhân từ, sức mạnh vô song của chúng ta, thì hãy bỏ ngũ, chạy trốn đi. Không kẻ nào sống sót nếu còn đứng trong hàng ngũ Varden, khi chúng ta làm cỏ tất những kẻ vô lại, phản bội, mưu toan lật đổ triều đình. Tuy nhiên điều đó làm hoàng thượng rất đau lòng - vì ngài biết rằng hầu hết những hành động phản loạn đều do lũ bất mãn lầm đường xúi dọc – do đó, chúng ta sẽ nhẹ nhàng trừng trị vùng đất bất trung được gọi là Surda, bằng cách đặt lại Surda dưới sự cai trị khoan hồng của hoàng đế Galbatorix, một vị vua đã lao tâm khổ trí đêm ngày mưu cầu ấm no hạnh phúc cho thần dân. Ta lập lại, bỏ đội ngũ, chạy đi nếu không các ngươi sẽ phải gánh chịu ngày tận thế đã được báo trước.
Gã linh mở miệng túi vải, đổ ra một cái đầu lâu và ném vút trở về giữa đám lính Varden. Rồi thúc ngựa quay đầu trở lại.
Eragon hỏi Nasuada:
- Giết chứ?
- Không. Chúng ta sẽ có cách đối phó khác. Đừng phạm quy luật bất khả xâm phạm của sứ thần.
- Tùy tiểu thư…
Eragon hốt hoảng, ôm chặt cổ Saphira cho khỏi bị nhào xuống đất, vì ả rồng bỗng đứng dựng lên khỏi rào, hai chân trước chống lên bờ lũy. Saphira há miệng rú lên một hơi dài, giống hệt như tiếng rú của quái thú Urgal. Nhưng đây là tiếng rú đầy thách thức kẻ thù, một lời cảnh cáo vì sự cuồng nộ do chúng gây ra và là một hồi kèn thúc dục những con người căm ghét bạo chúa Galbatorix.
Âm thanh như tiếng kèn đồng khổng lồ của Saphira làm con ngựa đen của tên lính phát hoảng, nhảy thốc sang phải, trượt chân, ngã lăm trên mặt đất nóng hổi. Gã lính bị quăng khỏi mình ngựa, sóng soài trên miệng hố lửa đang phun phì phì. Một tiếng rú khủng khiếp làm Eragon nổi da gà, rồi tất cả lại hoàn toàn im lặng.
Bầy chim đen nghẹt bắt đầu sà xuống.
Phe Varden rầm rầm hoan hô Saphira. Thậm chí Nasuada cũng tủm tỉm cười, rồi vỗ tay nói:
- Tôi nghĩ chúng sẽ tấn công ta vào sâm sẩm tối. Eragon, tập họp Con-đường Lãng-du, sẵn sàng hành động. Chừng nửa tiếng nữa tôi sẽ có lệnh cho anh.
Vừa cùng vua Orrin trở lại giữa doanh trại, Nasuada vừa nói:
Thưa bệ hạ, chúng ta cần phải quyết định vài việc. Tôi đã có kế hoạch, nhưng còn cần…
Cô rồng ngoáy tít đuôi thích chí: “Cứ để chúng tới đây. Ta sẽ rô ti ráo.”


Nar Garzhvog


Eragon bước vào, còn Saphira chỉ có thể vươn đầu qua cửa lều. Năm sáu sĩ quan chỉ huy của Nasuada vội loảng xoảng rút kiếm khỏi bao. Họ hạ ngay vũ khí khi nghe Nasuada lên tiếng:
- Mời vào, kỵ sĩ Eragon.
- Tiểu thư cho gọi tôi?
- Trinh sát của chúng ta vừa báo, một đại đội Urgal đang tiến từ đông bắc tới đây.
Eragon nhíu mày, không ngờ trong trận này lại có cả tụi quái thú Urgals, vì Tà Thần Durza không còn để chỉ huy chúng nữa và chúng đã bị chết quá nhiều trong trận Farthen Dur. Nhưng nếu chúng đã tự dẫn xác tới đây, cứ để chúng tới. Eragon không ngăn được nụ cười khi dự tính sẽ tiêu diệt lũ quái thú với sức mạnh mới của mình. Nắm chặt thanh Zar’roc, Eragon nói:
- Nếu tiểu thư cho phép, tôi và Saphira có thể loại bỏ ngay những con quái vật này khỏi cuộc chiến.
- Chúng ta không thể làm như vậy, Eragon. Chúng phất cờ trắng và xin được tiếp chuyện với tôi.
Eragon há hốc miệng nhìn cô, rồi hỏi:
- Chắc chắn tiểu thư không đời nào chấp thuận…
- Ta phải cư xử đúng phép như đối với bất cứ địch thủ nào tới đây với ngọn cờ hưu chiến.
- Nhưng đó là loài súc sinh tàn nhẫn. Là những con quái vật. Cho chúng vào doanh trại là một chuyện điên rồ… Tiểu thư Nasuada, tôi đã từng chứng kiến những hành động dã man tàn bạo do chúng gây ra. Nỗi thống khổ, đau đớn của mọi người là niềm vui của chúng. Con chó dại còn đáng thương hơn tụi Urgals. Tiểu thư không phải mất thì giờ với một chuyện chắc chắn là cái bẫy. Xin hãy ra lệnh, tôi và tất cả chiến binh Varden đều nhiệt tình tiêu diệt lũ quái vật ghê tởm này.
Jormundur lên tiếng:
- Tôi đồng ý với Eragon. Nếu công nương không nghe lời chúng tôi, xin hãy nghe lời kỵ sĩ.
Nasuada thì thầm đủ để riêng Eragon nghe:
- Nếu anh mù quáng đến thế, rõ ràng việc học tập của anh chưa đi tới đâu.
Rồi cô cất cao giọng, đầy phong cách chỉ huy giống hệt người cha quá cố:
- Tất cả các vị đều quên rằng tôi cũng chiến đấu tại Farthen Dur như các vị và tôi cũng đã nhìn thấy sự dã man của Urgal. Tuy nhiên… Tôi cũng đã được thấy người của chúng ta cũng có những hành động cực kỳ tàn ác chẳng thua gì chúng. Tôi không chối bỏ đau thương do bàn tay của Urgal đã gây ra, nhưng tôi cũng không thể làm ngơ với những đồng minh tương lai, trong khi lực lượng của chúng ta quá nhỏ bé so với quân triều đình đế quốc.
- Nhưng, thưa công nương, để công nương gặp gỡ một tên Urgal là quá nguy hiểm.
- Quá nguy hiểm ư? Nguy hiểm trong khi tôi được bảo vệ giữa kỵ sĩ Eragon, Saphira, Elva và tất cả các chiến binh dũng mãnh sao? Tôi nghĩ là không đâu.
Eragon nghiến răng ken két với Saphira: “Em phải thuyết phục cô ta bỏ ngay ý định liều lĩnh này đi chứ.”
“Không. Đầu óc anh mụ mẫm rồi.”
“Em không thể đồng ý với cô ta như vậy được. Chính em đã có mặt cùng anh tại Yazuac; em biết những gì Urgals đã gây ra cho dân làng mà. Rồi những gì xảy ra khi chúng ta rời khỏi Teirm, chuyện anh bị bắt tại Gil’ead, chuyện tại Farthen Dur? Mỗi lần chúng ta đụng độ Urgals, chúng đều tìm mọi cách để giết bằng được anh em ta. Chúng là gì? Chỉ là loài thú dữ.”
“Trong thời chiến tranh với loài rồng, thần tiên cũng nghĩ như vậy về tổ tiên của em đó.”
Theo lệnh của Nasuada, lính gác buộc cao tất cả những cánh lều lên, để tất cả người bên ngoài đều thấy được những diễn tiến trong lều và Saphira có thể bò vào sát bên Eragon. Nasuada ngồi trên ghế bành cao, Jormundur và các sĩ quan chỉ huy đứng thành hai hàng từ lối vào. Eragon đứng bên phải, Elva đứng bên trái Nasuada.
Năm phút sau, một tiếng gào phẫn nộ vọng lại từ phía bắc doanh trại. Những tiếng chửi rủa, nhạo báng rầm rầm nổi lên mỗi lúc mỗi huyên náo hơn, cho tới khi một tên Kull (giống Urgal khổng lồ) xuất hiện, vượt qua đám đông giận dữ ồn ào tuôn ra những lời thóa mạ. Tên Urgal khổng lồ bước đi về hướng Nasuada, đầu ngửng cao, nhe ra những cái nanh vàng khè, nhưng không phản ứng lại những lời lăng mạ. Nó là một khuôn mẫu tuyệt đẹp: cao hơn hai mét, mặt rắn rỏi, kiêu hãnh, cặp sừng mạnh mẽ xoắn vặn, cơ bắp cuồn cuộn, làm người ta có cảm tưởng, với chỉ một cú đấm, nó có thể giết chết ngay một con gấu to lớn. Trang phục trên mình chỉ vẻn vẹn một cái khố vải, mảnh giáp thô lậu bằng sắt, một cái đĩa thép dội giữa hai sừng để bảo vệ đỉnh đầu. Mái tóc đen thắt thành bím.
Eragon phải mím chặt môi, cố kiềm chế để không rút phăng thanh Zar’roc ra khỏi vỏ. Tuy vậy nó cũng không ngăn được sự cảm phục tên Urgal đã can đảm tay không vào giữa hang hùm. Và Eragon còn ngạc nhiên hơn khi phát hiện tâm tưởng của tên Urgal được phong tỏa rất vững vàng.
Khi tên Urgal không dám tiến bước thêm, chỉ ngừng lại trước hiên lều, Nasuada ra lệnh cho lính gác quát bảo đám đông im lặng. Tất cả chăm chú nhìn quái thú Urgal.
Đưa cao hai cánh tay bắp thịt căng phồng, Urgal hít mạnh một hơi, mõm há hốc, rống lên về phía Nasuada. Ngay lập tức, những mũi kiếm tua tủa chĩa vào nó. Nhưng Urgal không thèm quan tâm tới ai, tiếp tục rống tới khi không còn hơi trong phổi. Rồi nó mới nhìn Nasuada, ồ ồ từ cổ họng:
- Âm mưu lừa gạt này là sao, công nương Thợ-săn-đêm? Lời hứa bảo vệ an toàn cho tôi đâu? Loài người nuốt lời dễ thế sao?
Một sĩ quan chỉ huy nghiêng mình nói với Nasuada:
- Xin để tôi dạy cho nó biết thế nào là lễ độ, rồi công nương sẽ nghe thông điệp của nó sau…
Eragon cũng muốn đập cho con thú hỗn xược một trận, nhưng nhớ đến trách nhiệm đối với Nasuada và Varden, nó cúi xuống nói nhỏ với cô:
- Đừng tỏ vẻ bực tức. Đó chỉ là cung cách chúng chào hỏi các chiến tướng. Đáp lại đúng cách là cùng nó cụng đầu, nhưng tôi đoán tiểu thư không thích làm như vậy.
Không rời mắt khỏi Urgal, Nasuada thì thầm hỏi Eragon:
- Thần tiên dạy vậy sao?
- Phải.
- Họ còn dạy thêm những gì nữa về Urgals?
- Rất nhiều.
Eragon miễn cưỡng trả lời. Nasuada nói với Urgal, đồng thời cũng là nói với những người đang có mặt:
- Varden không dối trá như Galbatorix và triều đình của lão. Hãy nói thật lòng, không có gì phải lo ngại trong buổi họp hưu chiến này.
Cằm vươn cao, để lộ cổ, Urgal càu nhàu mấy tiếng. Eragon nhận ra đó là một cử chỉ tỏ tình thân thiện. Còn cúi thấp đầu, có nghĩa là khi một Urgal định húc kẻ đối diện. Urgal bắt đầu nói, dường như nó phải nhai từng câu rồi mới phun ra được thành lời:
- Tôi là Nar Garzhvog, thuộc bộ tộc Bolvek. Tôi nói thay cho nòi giống tôi. Urgal bị thù ghét hơn bất cứ loài nào. Chúng tôi bị thần tiên, người lùn, con người săn đuổi và tống ra khỏi nơi ăn chốn ở.
Nasuada nói ngay:
- Họ đều có lý do chính đáng.
- Phải, đều có lý do. Lý do chúng tôi thích chiến tranh. Tuy nhiên, có bao giờ chúng tôi tấn công chỉ vì các người thấy chúng tôi xấu xa, trong khi chúng tôi thấy các người cũng xấu xa như vậy chưa? Từ sau sự cố suy tàn của các kỵ sĩ, chúng tôi đã tăng trưởng quá đông. Mảnh đất khắc nghiệt của chúng tôi đang sống không đủ sức nuôi chúng tôi…
- Vì vậy các ngươi mới liên kết với Galbatorix?
- Đúng vậy, thưa công nương Thợ-săn-đêm. Galbatorix đã hứa cấp đất tốt cho chúng tôi, nếu chúng tôi giết được kẻ thù của lão. Nhưng chúng tôi đã bị lừa. Gã pháp sư Durza tóc đỏ như lửa của lão đã uốn nắn lại ý chí những chiến tướng của chúng tôi, ép buộc các bộ tộc chúng tôi phải làm việc cùng nhau. Điều đó không đúng đường lối của Urgals. Khi phát hiện ra điều này trong lòng núi của người lùn, Herndall – thú mẹ vĩ đại cai quản chúng tôi - gửi ngay con cái của tôi tới gặp Galbatorix để hỏi vì sao lão lại sử dụng chúng tôi như thế…
Hắn lắc lư cái đầu đồ sộ:
- Cô ấy đã không trở về. Những con đực dũng cảm nhất của chúng tôi đã chết vì Galbatorix, để rồi lão ném bỏ chúng tôi như ném bỏ một thanh gươm gãy. Lão là loài dòi bọ, đồ lưỡi rắn, một kẻ bội tín thiếu cặp sừng. Công nương Thợ-săn-đêm, chúng tôi bây giờ không còn đông đúc nữa, nhưng nếu công nương cho phép, chúng tôi sẽ chiến đấu bên công nương.
- Chúng ta sẽ phải trả lại như thế nào? Herndall – thú mẹ vĩ đại của người chắc phải đòi trả giá chứ?
- Máu. Máu của Galbatorix. Và nếu khi đế quốc sụp đổ, chúng tôi xin một miếng đất để sinh đẻ và nuôi thú con lớn lên. Một miếng đất để có thể thoát khỏi những cuộc chiến xảy ra trong tương lai.
Nhìn vẻ mặt của Nasuada, dù cô chưa nói, Eragon đã biết quyết định của cô. Chắc Jormundur cũng cùng chung nhận xét, vì ông ta nghiêng sang Nasuada thì thầm:
- Công nương không thể làm như vậy. Chuyện này trái với thiên nhiên.
- Thiên nhiên không thể giúp chúng ta đánh bại Galbatorix. Chúng ta cần đồng minh.
- Mọi người sẽ bỏ đi chứ không chiến đấu bên Urgals đâu.
- Chuyện đó sẽ tính sau. Eragon, liệu Urgals có giữ lời hứa không?
- Cho đến khi nào chúng ta vẫn còn chung kẻ thù với chúng.
Với một cái gật đầu đầy quả quyết, Nasuada cất cao giọng nói:
- Nar Garzhvog, các ngươi được phép đóng quân dọc sườn phía đông của lực lượng ta, tách xa khỏi bộ chỉ huy. Sẽ bàn về những điều kiện sau.
Nar Garzhvog đấm tay lên trán, gầm lên:
- Ahgrat ukmar - tốt đẹp rồi. Thật là một Herndall khôn ngoan, thưa công nương Thợ-săn-đêm.
- Tại sao ngươi lại gọi ta như thế?
- Herndall?
- Không. Thợ-săn-đêm.
Trong cổ họng Grozhvog thoát ra những tiếng “rắc rắc”, Eragon đoán đó là tiếng cười của nó. Quái thú cắt nghĩa:
- Thợ-săn-đêm là tên chúng tôi đặt cho cha của công nương khi ông truy đuổi chúng tôi trong địa đạo tối tăm dưới lòng núi của người lùn, và cũng vì màu da của ông ấy. Là thú con của ông, công nương xứng đáng nhận tên đó.
Nasuada đứng thẳng dậy tuyên bố:
- Bất cứ ai tấn công Urgals đều sẽ bị kết tội tấn công đồng đội. Hãy dán thông báo đó tại tất cả các đại đội.
Cô vừa dứt lời, Eragon thấy vua Orrin bước vội vào lều:
- Nasuada! Có đúng sự thật cô vừa gặp gỡ một tên Urgal không? Như vậy là có ý gì? Tại sao không ai báo cho trẫm biết? Trẫm không…
Ngay lúc đó, một lính gác chạy vào la lớn:
- Một kỵ binh của đế quốc đang phóng ngựa tới gần chiến tuyến ta.
Vua Orrin quên phắt việc đang hạch hỏi, chạy vội theo Nasuada ra tuyến phòng thủ tiền trạm. Hàng trăm người cũng vội vã chạy theo. Eragon leo lên Saphira bay tới trước.
Khi Saphira tới bờ giới tuyến với những lũy, hào, chông tua tủa bảo vệ lực lượng Varden, Eragon thấy một tên lính rạp mình phóng qua khoảng đất trống giữa hai đạo quân. Phái trên hắn, bầy chim săn mồi sà xuống thấp, như để thăm dò xem bữa tiệc củachúng đã bắt đầu chưa.
Tên lính ghìm con ngựa đen đứng lại trước rào phòng thủ chùng ba mươi mét, giữ khoảng cách tối đa với quân Varden, rồi gào lớn:
- Không chịu đầu hàng theo lệnh đầy bao dung độ lượng của Đức vua Galbatorix là các ngươi đã chọn sự chết. Sẽ không còn sự thương lượng nào nữa. Bàn tay thân thiện đã chuyển thành nắm đấm chiến tranh rồi. Nếu kẻ nào trong số các ngươi vẫn còn tôn kính Hoàng Đế anh minh, sáng suốt, nhân từ, sức mạnh vô song của chúng ta, thì hãy bỏ ngũ, chạy trốn đi. Không kẻ nào sống sót nếu còn đứng trong hàng ngũ Varden, khi chúng ta làm cỏ tất những kẻ vô lại, phản bội, mưu toan lật đổ triều đình. Tuy nhiên điều đó làm hoàng thượng rất đau lòng - vì ngài biết rằng hầu hết những hành động phản loạn đều do lũ bất mãn lầm đường xúi dọc – do đó, chúng ta sẽ nhẹ nhàng trừng trị vùng đất bất trung được gọi là Surda, bằng cách đặt lại Surda dưới sự cai trị khoan hồng của hoàng đế Galbatorix, một vị vua đã lao tâm khổ trí đêm ngày mưu cầu ấm no hạnh phúc cho thần dân. Ta lập lại, bỏ đội ngũ, chạy đi nếu không các ngươi sẽ phải gánh chịu ngày tận thế đã được báo trước.
Gã linh mở miệng túi vải, đổ ra một cái đầu lâu và ném vút trở về giữa đám lính Varden. Rồi thúc ngựa quay đầu trở lại.
Eragon hỏi Nasuada:
- Giết chứ?
- Không. Chúng ta sẽ có cách đối phó khác. Đừng phạm quy luật bất khả xâm phạm của sứ thần.
- Tùy tiểu thư…
Eragon hốt hoảng, ôm chặt cổ Saphira cho khỏi bị nhào xuống đất, vì ả rồng bỗng đứng dựng lên khỏi rào, hai chân trước chống lên bờ lũy. Saphira há miệng rú lên một hơi dài, giống hệt như tiếng rú của quái thú Urgal. Nhưng đây là tiếng rú đầy thách thức kẻ thù, một lời cảnh cáo vì sự cuồng nộ do chúng gây ra và là một hồi kèn thúc dục những con người căm ghét bạo chúa Galbatorix.
Âm thanh như tiếng kèn đồng khổng lồ của Saphira làm con ngựa đen của tên lính phát hoảng, nhảy thốc sang phải, trượt chân, ngã lăm trên mặt đất nóng hổi. Gã lính bị quăng khỏi mình ngựa, sóng soài trên miệng hố lửa đang phun phì phì. Một tiếng rú khủng khiếp làm Eragon nổi da gà, rồi tất cả lại hoàn toàn im lặng.
Bầy chim đen nghẹt bắt đầu sà xuống.
Phe Varden rầm rầm hoan hô Saphira. Thậm chí Nasuada cũng tủm tỉm cười, rồi vỗ tay nói:
- Tôi nghĩ chúng sẽ tấn công ta vào sâm sẩm tối. Eragon, tập họp Con-đường Lãng-du, sẵn sàng hành động. Chừng nửa tiếng nữa tôi sẽ có lệnh cho anh.
Vừa cùng vua Orrin trở lại giữa doanh trại, Nasuada vừa nói:
Thưa bệ hạ, chúng ta cần phải quyết định vài việc. Tôi đã có kế hoạch, nhưng còn cần…
Cô rồng ngoáy tít đuôi thích chí: “Cứ để chúng tới đây. Ta sẽ rô ti ráo.”
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Old 01-13-2013, 01:51 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Giông tố nổi lên


Những tia nắng sớm vừa rọi trên mặt đất, Trianna báo cho Eragon: “Tới thời điểm rồi.” Eragon tỉnh hẳn ngủ, đứng bật dậy, vừa leo lên yên Saphira, tay rút tên khỏi ống, vừa ra lệnh cho những người chung quanh. Urgals và những người lùn vây quanh Saphira, rồi tất cả cùng hấp tấp xuống khỏi lũy phòng thủ, tiến ra khoảng trống đã được dọn sạch trong đêm qua.
Quân Varden lặng lẽ tiến ra từ những khoảng rào trống. Hàng quân này tiếp hàng quân khác, với vũ khí cuốn giẻ để không gây tiếng động. Khi Nasuada xuất hiện trên lưng con ngựa đốm, hai bên cô là Arya và Trianna; Saphira và Eragon tiến lên cùng nhập bọn.
Ban đêm, hơi nước nồng nặc mùi khí độc ứ lại trên mặt đất, lúc này những tia nắng sớm làm chúng vồng lên, lờ đờ như một làn mây mờ đục. Do đó phe Varden dự tính, họ có thể tiến qua khoảng trống ba phần tư đường mới bị quân triều đình phát hiện. Khi nghe tiếng tù và báo động vàng lên phía trước, Nasuada ra lệnh cho Eragon báo cho vua Orrin đã tới giờ tấn công, rồi cô cất tiếng:
- Các chiến hữu Varden! Hãy chiến đấu để lấy lại quê hương, mái ấm của các bạn. Chiến đấu để bảo vệ gia đình vợ con. Chiến đấu để lật đổ Galbatorix. Tiến lên tấn công, hãy nhuộm kiếm của các bạn bằng máu kẻ thù. Xung phong!
Nasuada thúc ngựa phóng tới và với một tiếng gào lớn, tất cả đưa cao vũ khí khỏi đầu rần rần chạy theo.
Eragon truyền lệnh của Nasuada tới Barden, viên pháp sư cưỡi ngựa sát bên vua Orrin. Một lát sau, nó đã nghe tiếng trống thúc quân và tiếng vó ngựa dồn dập của nhà vua cùng đoàn kỵ binh và những Urgal còn lại, tiến tới từ hướng đông. Họ đánh thốc sườn, cầm chân quân triều đình sát bờ sông Jiet, để Varden đủ thời gian vượt qua khoảng đất trống còn lại.
Hai cánh quân lăn xả vào nhau với những tiếng gầm thét rung động một góc trời. Giáo, lao, khiên, búa, gươm và mũ sắt chan chát chạm nhau. Vượt lên tiếng kim khí giao đấu là tiếng bầy quạ đói rú lên lanh lảnh, điên cuồng vì mùi máu thịt bên dưới.
Tim Eragon đập rộn ràng. “Đây là lúc phải giết hay bị giết.” Thình lình nó cảm thấy vòng bảo vệ bằng phép thuật của nó như bị áp đảo từ phía Arya, Orik, Nasuada và Saphira.
Saphira lùi lại sau, vì sợ dễ bị pháp sư của Galbatorix phát hiện trên tuyến trước. Hít mạnh một hơi, Eragon vừa bắn tên vừa phóng ý lực tìm kiếm mấy tay pháp sư địch thủ.
Con-đường Lãng-du phát hiện pháp sư địch đầu tiên. Ngay khi được báo, lập tức Eragon tiến tới người nữ pháp sư đã bắt được địch thủ. Dốc toàn ý lực, Eragon triệt hạ sức chống đối của pháp sư địch, kiểm soát ngay tư tưởng hắn, để biết hắn đang bảo vệ cho toán quân nào, rồi niệm một trong mười hai câu thần chú sát thủ. Gã pháp sư gục xuống chết ngay. Không chậm trễ một giây, Eragon phát hiện những tên lính bây giờ đã không còn được phép thuật bảo vệ, lần lượt giết từng tên. Quân Varden reo hò khi thấy lính triều đình lả tả rũ xuống.
Eragon sững sờ: “Giết người dễ vậy sao?” Những người lính này không có cơ hội để đánh trả hay chạy trốn! Thật khác hẳn với khi chiến đấu tại Farthen Dur. Dù mừng vì khả năng tiến bộ, nhưng những cái chết này làm Eragon cảm thấy không vui.
Nhưng không còn thời gian để bận tâm suy nghĩ về những chuyện như vậy nữa.
Hoàn hồn sau cuộc tấn công đầu tiên đầy bất ngờ của Varden, quân triều đình bắt đầu bố trí những cỗ máy tác chiến của chúng: những cỗ máy bắn đạn là những khối tròn bằng đất sét nung, những cỗ máy bắn hàng loạt những mũi tên dài gần hai thước, và những cỗ máy phun lửa. Lửa lỏng và đạn đất sét nung gây tác hại nhiều nhất. Một quả đạn đất nổ tung khi chạm mặt đất cách Saphira không tới mười mét. Eragon hụp vội mình sau tấm khiên, khi một mảnh đạn bay vèo tới đầu nó, nhưng gặp lực cản của vành đai phép thuật bảo vệ, mảnh đạn lơ lửng trên không.
Những cỗ máy chiến tranh mau chóng cản bước tiến của Varden, chúng nhắm vào đâu, là nơi đó bị tàn phá tan tành. Eragon nhận xét: “Không hủy được những cỗ máy này, không thể thắng nổi triều đình.” Vô hiệu hóa chúng là chuyện quá dễ đối với Saphira, nhưng nó không dám bay giữa đám lính vì sợ bị tấn công bằng phép thuật.
Chọc thủng vành đai của Varden, tám tên lính xông tới đâm Saphira bằng giáo. Trước khi Eragon kịp rút gươm, Urgals đã thanh toán gọn hết mấy tên lính triều đình liều lĩnh đó.
“Tuyệt”, Garzhvog nói. Ông lùn Orik tán thành ngay: “Rất tuyệt.”
Eragon nới rộng ý lục và phát hiện một tiên lính đang làm nhiệm vụ bên một cỗ máy. Dù biết chắc tên lính này cũng được phép thuật bảo vệ, Eragon vận nội công, đẩy ý lực, điều khiển tên lính bước lên bệ vũ khí đã được nạp đạn này, cầm kiếm chặt sợi dây vận hành của máy. Dù sợi dây quá dày, chưa đứt hẳn khi tên lính bị đồng đội lôi kéo khỏi cỗ máy… nhưng một tiếng “rắc” vang lên, một phần dây bị đứt, quăng tay trục máy bật ngược ra sau, làm rất nhiều lính bị thương.
Lợi dụng thời khắc hỗn loạn của địch, Eragon vô hiệu hóa những cỗ máy còn lại. Khi thu hồi phép thuật, Eragon bàng hoàng thấy hàng chục người của Varden ngất xỉu chung quanh Saphira. Một thành viên của Con-đường Lãng-du đang bị địch áp đảo. Giao phó bản thân cho Saphira và những kẻ có trách nhiệm bảo vệ, Eragon lăn xả theo dấu tên pháp sư đang tung ra những câu thần chú chết người.
Trong gần một tiếng đồng hồ, Eragon không tìm được tên pháp sư nào của Galbatorix, vì chúng quá quỉ quyệt, không tấn công trực tiếp Eragon. Mãi tới khi nó tách được tư tưởng của một pháp sư trước khi gã đó tự vẫn: “… lệnh không cho giết mi và con rồng…”
Eragon bảo Saphira: “Bây giờ thì anh đã hiểu, nhưng vì sao Galbatorix vẫn muốn chúng ta được sống? Chuyện chúng ta ủng hộ Varden đã quá rõ ràng rồi mà.”
Nasuada xuất hiện trước khi Saphira kịp trả lời. Mặt cô đầy vết máu tươi và khô, tấm khiên lỗ chỗ vết thủng, chân trái cô sũng máu từ vết thương trên đùi chảy xuống. Cô hổn hển đứt quãng nói:
- Eragon tôi cần anh. Anh… và… Saphira. Hãy chiến đấu… để chứng tỏ mình… và để khích lệ lòng… lòng… can đảm của tất cả… anh em… để làm kẻ thù phải… khiếp đảm…
Tình trạng cô làm Eragon xúc động kêu lên:
- Hãy để tôi chữa thương cho tiểu thư trước đã. Đáng lẽ tôi phải vòng bảo vệ quanh tiểu thư mạnh hơn…
- Đừng. Tôi chờ được. Nếu anh không ngăn chặn ngay làn sóng kẻ thù, chúng ta sẽ bị thua…
Mắt lờ đờ dại đi, Nasuada lảo đảo trên mình ngựa trong khi cô vẫn cố thì thào:
- Chúng tôi cần… một kỵ sĩ…
Eragon đưa thanh Zar’roc lên chào:
- Một kỵ sĩ đã sẵn sàng đây, thưa tiểu thư.
- Tiến lên. Cầu thần linh phù hộ kỵ sĩ.
Eragon xuống khỏi lưng rồng, đứng trước chân Saphira, bảo ông lùn Orik và Garzhvog:
- Bảo vệ bên trái Saphira. Dù chuyện gì xảy ra, đừng chặn đường chúng tôi.
- Ngài sẽ bị đuối sức mất, Ngôn-ngữ-lửa.
- Không đâu. Nào, vào vị trí đi.
Eragon đặt tay lên chân Saphira, nhìn sâu vào một con mắt thăm thẳm màu ngọc của nó:
- Chúng ta khiêu vũ chứ, bạn hiền?
- Chúng ta sẽ cùng nhảy múa, tiểu huynh.
Rồi chúng hòa hợp vào nhau tới một mức độ chưa bao giờ có trước đây, chế ngự tất cả những gì dị biệt giữa hai đứa, để trở thành một thực thể duy nhất. Chúng gầm lên, phóng tới, dẫn đầu đoàn quân ra trận.
Eragon không còn có thể phân biệt, từ chính miệng nó hay miệng Saphira đã phun ra những ngọn lửa xanh thiêu rụi hàng chục tên lính; cánh tay Saphira hay chính tay nó vung gươm hạ xuống, bổ đôi nón sắt lính triều đình.
Mùi máu tanh tưởi bám chặt vào không khí, khói đen dày đặc chập chờn trên Cánh-đồng-cháy, lúc che kín, khi để lộ ra những thi thể - đủ mọi cấp bậc - của bại quân. Trên đầu, hàng đoàn kền kền rít lên chờ tiệc thịt người và mặt trời đang lên cao để vào trưa.
Từ tư tưởng những kẻ chung quanh, Eragon và Saphira nắm bắt được hình ảnh của chính mình. Saphira luôn được chú ý trước: một sinh vật khổng lồ với móng vuốt đẫm máu, giết hết những gì gặp trên đường đi bằng những cú đá chân, những nhát đập đuôi và những đợt sóng lửa cuồn cuộn thiêu rụi trọn một trung đội lính. Những cái vẩy long lanh như những vì sao làm lóa mắt địch thủ. Sau đó, người ta mới nhìn tới Eragon. Chạy bên Saphira, Eragon di chuyển nhanh hơn phản ứng của lính triều đình, với một sức mạnh vượt trội hơn tất cả mọi người, đập tan những tấm khiên, đâm thủng những giáp sắt, chẻ dọc những thanh kiếm của đối phương chỉ bằng một cây cung. Những mũi tên và phi lao phóng tới, bị ngăn cản bởi hàng rào phép thuật, rụng lả tả quanh nó.
Đối với Eragon – và bằng giao cảm, với cả Saphira – chiến đấu với đồng loại khó khăn hơn chém giết Urgals tại Farthen Dur. Mỗi khi nhìn một khuôn mặt khiếp sợ - hay nhìn vào tâm tư một người lính – Eragon lại tự nhủ: “Người này có thể là mình.” Nhưng nó và Saphira phải vượt qua lòng trắc ẩn, một người lính đứng trước mặt chúng, là phải chết.
Ba lần phá tuyến địch để vượt lên, ba lần Eragon chém giết rồi lại rút ngay về bên Varden để tránh bị bao vây. Lần tấn công cuối cùng, Eragon phải giảm phép thuật bảo vệ quanh Arya, Orik, Nasuada, Saphira và chính nó, để tránh bị những câu thần chú rút kiệt năng lực của nó quá mau. Dù nội công thâm hậu, nhưng trận đánh này lại quá lớn.
“Sẵn sàng chưa?” Eragon hỏi Saphira sau một thoáng nghỉ ngơi. ả rồng ậm ừ trả lời: “Sẵn sàng.”
Vừa trở lại chiến trường, một loạt mưa tên vù vù rít lên về phía Eragon. Lanh lẹ như một thần tiên – lúc này không còn hàng rào phép thuật bảo vệ nữa – Eragon đưa khiên đỡ được mười hai mũi tên. Nó bị xảy chân khi một mũi tên bay trúng bụng và một mũi tên bên sườn, cả hau mũi tên đều không xuyên qua được lớp giáp sắt, nhưng làm hai nơi đó sưng tấy lên như hai quả táo. Nó tự bảo: “Đừng ngừng lại. Mi đã từng bị đau đớn hơn thế này nhiều.”
Xông vào tám tên lính đang co cụm vào nhau, Eragon vung thanh Zar’roc như một tia chớp tử thần, gạt phăng những mũi giáo của chúng sang hai bên, xỉa mũi kiếm vào từng tên một. Một tên lính đâm mũi giáo giáo xuyên qua bao bắp tay Eragon thấu tới thịt.
Đám lính rúm người khi Saphira gầm lên.
Lợi dụng lúc đó, Eragon tăng lực bằng năng lượng tồn trữ trong viên hồng ngọc trên chuôi Zar’roc, rồi thanh toán nốt ba tên lính còn lại.
Vươn cái đuôi khổng lồ qua đầu Eragon, Saphira quét đám lính chặn ngang đường đi của nó. Nhờ năng lượng mới nạp từ viên hồng ngọc và mấy viên kim cương trong đai lưng, Eragon nhìn xuống vết thương trên bắp tay và hai vết sưng, lẩm bẩm: “Wáise heill”. Các vết thương đều lành lặn lại.
Rồi kỵ sĩ và rồng tiếp tục tiến lên.
Eragon và Saphira tạo ra từng núi xác kẻ thù trên Cánh-đồng-cháy, nhưng quân triều đình vẫn không nao núng và lùi bước. Một tiên bị giết, tên khác tiến lên.
Eragon tuyệt vọng nhìn quân triều đình ào ạt đẩy lùi quân Varden bật ngược vào doanh trại. Khi Nasuada, Arya, vua Orrin và cả bà phù thuỷ Angela vượt qua Eragon, nó cũng nhìn thấy vẻ thất vọng trên gương mặt lo âu của họ. Eragon phẫn nộ: “Được, đổi thay, học hành đến thế mà không ngăn chặn nổi chúng. Chỉ vì chúng quá đông. Năng lượng trong mấy viên ngọc cũng gần cạn kiệt rồi, chúng ta không thể kéo dài mãi cuộc chiến này được đâu.”
“Nếu cần, sao anh không thu năng lượng của những kẻ quanh đây?”
“Phải giết thêm mấy pháp sư của Galbatorix, mới có thể thu năng lượng lính triều đình. Quanh đây không có thú vật cây cối, nếu làm vậy, anh sẽ gây tổn thương cho toàn thể người của Varden.”
Suốt mấy giờ sau – vì phải loại bỏ nhiều vòng bảo vệ phép thuật để giữ sức – Eragon bị nhiều vết thương nhỏ, toàn thân ê ẩm, tay trái tê dại vì luôn phải đưa khiên lên chống đỡ những nhát búa, đường gươm. Máu ròng ròng chảy từ vết rách trên trán hoà cùng mồ hôi nhễ nhại. Nó cảm giác như một ngón tay đã bị gãy.
Tình trạng Saphira cũng không khá hơn. Trong miệng nó đầy những vết rách vì những mảnh giáp sắt của quân địch, hàng chục vết thủng vì gươm và tên bắn. vai bị một cây lao phóng trúng. Eragon niệm chú đẩy đường lao, nhưng không kịp. Mỗi bước đi của Saphira để lại những giọt máu trên mặt đất.
Bên cạnh Saphira, ba chiến binh của ông lùn và hai Urgals đã ngã gục.
Mặt trời đang chìm vào buổi chiều.
Giữa lúc Eragon và Saphira sửa soạn tấn công lần thứ bảy và cũng là lần cuối cùng, từ hướng đông lồng lộng vang lên một hồi kèn, đồng thời tiếng vua Orrin la lớn:
- Người lùn! Người lùn có mặt rồi!
Người lùn đâu? Eragon nhìn quanh, chỉ thấy trùng trùng lính triều đình. Rồi chợt hiểu, mừng đến run người, Eragon nhảy phốc lên lưng rồng. Saphira rướn mình bay vút lên. Với đôi cánh tả tơi, cô rồng giữ thăng bằng trên không, để cả hai quan sát chiến trường bên dưới.
Quả nhiên, một đạo quân hùng hậu đang tiến tới từ hướng đông Cánh-đồng-cháy. Dẫn đầu chính là vua Hrothgar – giáp vàng, vương miện nạm ngọc, tay nắm chặt cây búa chiến đấu cổ xưa. Thấy Eragon và Saphira, ông vua lùn giơ cao cây búa Volund.
Một luồng sinh lực mới tràn ngập cơ thể, Eragon quên hết những vết thương, gào đến hết hơi, cũng đưa cao thanh Zar’roc chào lại nhà vua. Saphira hoà giọng cùng ông anh. Bên dưới, quân Varden ngược nhìn với những đôi mắt chứa chan hy vọng, trong khi quân triều đình bối rối lo sợ.
Saphira vừa hạ cánh, ông lùn Orik hỏi ngay:
- Thấy gì rồi? Phải đức vua Hrothgar không? Nhiều chiến binh không?
Eragon đứng thẳng trên bàn đạp, hồ hởi la lên:
- Phấn khởi lên! Đức vua Hrothgar đã tới. Hình như không vắng mặt một người lùn nào. Chúng ta sẽ đè bẹp triều đình.
Saphira vừa vươn mình tiến bước, Eragon chợt nghe một tiếng kêu lớn, lần này từ hương tây:
- Một con tàu! Một con tàu đang ngược sông Jiet tới đây.
“Không thể để chúng cặp bến , nếu là viện binh của Galbatorix.” Eragon nghĩ, rồi chuyển lệnh bằng tư tưởng tới Trianna : “Báo cho Nasuada, tôi và Saphira sẽ đánh đắm tàu nếu đó là tàu của triều đình.”
“Tuân lệnh” Cô gái phù thuỷ trả lời.
Saphira bay lên trên cánh đồng mù mít khói. Nhưng âm thanh vũ khí va chạm nhau xa dần. Eragon hít mạnh làn không khí trong lành. Nhưng khi nhìn xuống, nó ngạc nhiên thấy hai phe đều tản mạn ra. Quân triều đình và Varden chia thành những nhóm nhỏ đánh nhau trên khắp khoảng đất trống. Binh lính của người lùn đang đánh thốc sườn quân triều đình và kỵ binh của vua Orrin đã lâm trận.
Saphira quay đầu sang trái, bay thẳng về phía sông Jiet. Một luồng gió mạnh đánh tan khói than bùn, để lộ ra một con tàu ba cột buồm đang di chuyển trên mặt nước màu cam, hai hàng mái chèo đang ráng chống chọi cùng sóng nước. Con tàu rách nát, không một màu cờ để có thể đoán biết thuộc phe phái nào. Tuy nhiên, Eragon đã sẵn sàng triệt hạ. Trong khi Saphira bay bổ xuống, Eragon vung thanh Zar’roc khỏi đầu, thét lên một tiếng xung phong đầy man rợ.


Hội tụ


Roran đứng trước mũi tàu Cánh Rồng, lắng nghe tiếng mái chèo khua nước. Vai phải anh vẫn còn đau buốt vì ca chèo vừa qua. “Mình cứ phải chịu đựng “kỷ niệm” này của Ra’zac sao?” Lau mồ hôi trên mặt, anh cố quên những buồn rầu bực tức trong lòng, chăm chú nhìn khúc sông phía trước mù mịt khói đen.
Thím Elain lại gần, một tay đặt trên bụng bầu, lẩm bẩm:
- Trông nước sông chỗ này khiếp quá. Có lẽ chúng ta nên ở lại Dauth, hơn là tự kéo nhau đến đây để đâm đầu vào nơi khó khăn thế này.
Roran thật sự lo ngại là thím đã nói đúng. Vì sau khi thoát khỏi Mắt-lợn-lòi, từ đảo phía nam, họ đã cho tàu chạy dọc duyên hải rồi vào cửa sông Jiet, tiến tới thành phố cảng Dauth của Surda. Lúc cặp bến, lương thực trên tàu đã cạn và dân làng thì đau yếu, mệt lả cả rồi.
Roran đã có ý định ở lại Dauth, nhất là sau khi được thống đốc nơi này, phu nhân Alarice, niềm nở đón tiếp. Nhưng rồi anh được nghe tin tức về quân đội của Galbatorix. Nếu Varden thất bại, anh sẽ không bao giờ còn có thể gặp lại Katrina. Vì vậy, với sự giúp sức của Jeod, anh đã thuyết phục chú Horst và những dân làng muốn tới sinh sống tại Surda, an toàn khỏi tay triều đình thì phải tiếp tục ngược sông Jiet và tiếp tay với Varden. Roran đã vượt qua được công việc khó khăn đó. Phu nhân Alarice, sau khi nghe anh trình bày, cũng sốt sắng cung cấp lương thực đầy đủ cho chuyến đi.
Nhưng từ đó, Roran luôn phân vân tự hỏi, chọn lựa đó có đúng không. Như lúc này đây mọi người đều chán ghét cảnh sống trên tàu - tất cả đều tỏ ra căng thẳng và nóng nảy – tâm trạng đó càng thêm bất lợi khi họ biết rằng đang trên đường tiến đến một cuộc chiến. “Mình có quá ích kỷ không? Mình có thực sự làm chuyện này vì quyền lợi của dân làng hay chỉ để mình càng được tiến gần Katrina hơn?” Anh nói với thím Elain:
- Thím nói đúng. Đáng lẽ mình nên ở lại Dauth.
Hai thím cháu nhìn một lớp khói dày đặc quần tụ trên đầu, che phủ mặt trời, làm tất cả cảnh vật bên dưới nhuộm toàn một màu cam bệnh hoạn. Chưa bao giờ Roran thấy những tia sáng kỳ dị như những tia sáng lọc qua lớp khói kia. Các thuỷ thủ trên boong nhìn nhau khiếp đảm và vội vàng rút những bùa hộ mệnh bằng đá đeo trước cổ ra, lầm rầm khấn khứa.
Bỗng thím Elain nghiêng đầu, bảo:
- Nghe kìa. Chuyện gì vậy?
Roran cố lắng nghe. Thoang thoảng vọng lại tiếng kim khí chạm nhau.
- Đó là… âm thanh của số phận chúng ta.
Trả lời thím Elain xong, Roran quay lại la lớn:
- Thuyền trưởng! Đang có xung đột ngay phía trước chúng ta.
Ulthar gào lên:
- Điều chỉnh máy bắn đá. Tăng tốc chèo gấp đôi lên, Bonden. Tất cả phải sẵn sàng vào vị trí.
Cả con tàu nhộn nhịp hẳn lên. Roran vẫn đứng yên, vì lúc này anh còn có thể nghe thấy cả tiếng gươm kiếm va chạm vào những tấm khiên, hoà lẫn tiếng người tiếng la thét như tiếng gầm rú của một quái vật khổng lồ.
Roran nhìn ông Jeod cũng vừa tiến lại mũi tàu, hỏi:
- Ông đã từng lâm trận bao giờ chưa?
- Tooi đã tham gia nhiều trận cùng Brom. Nhưng chưa bao giờ ở mức độ giống như thế này.
Lớp khói bên phải mỏng dần, để mọi người có thể nhìn thấy một vùng đất đen với những đốm lửa bập bùng toả lên những làn hơi màu cam vàng ủng. Tràn lan trên vùng đất đó, dày đặc người đang đánh nhau bằng vũ khí. Không thể nào phân biệt quân triều đình và quân Varden.
Giữa lúc đó vọng lại một tiếng kêu hốt hoảng:
- Một con tàu! Một con tàu đang ngược sông Jiet tới đây.
Roran bảo thím Elain:
-Ở đây không an toàn, thím xuống hầm đi.
Bà gật đầu chạy qua cửa hầm, rồi đóng lại. Một lát sau, chú Horst tiến lại đưa cho Roran một tấm khiên:
- Cháu cần thứ này đấy.
- Cám ơn chú. Cháu…
Roran im bặt vì chung quanh con tàu, không khí bỗng chuyển động rầm rầm. Thiìn thịch! Roran nghiến chặt răng. Thiìn thịch! Tai anh đau buốt vì sức ép của không khí. Tiếng thình thịch thứ ba vang lên cùng một tiếng gầm làm Roran phải vội nhìn lên: Một con rồng khổng lồ màu xanh ngọc hiện ra từ đám mây bồng bềnh. Và trên lưng con rồng là thằng em họ của anh – Eragon.
Đó không phải là thằng Eragon trong trí nhớ của anh, mà giống như một nghệ sĩ đã lấy mẫu gốc của thằng em anh và làm tăng vẻ đẹp của nó lên, làm nó vừa có vẻ quí phái hơn, lại vừa giống một con thú thuộc họ mèo, như hổ báo, hơn. Thằng Eragon này trang phục như một ông hoàng, dù phong sương trong chiến trận, và tay phải huơ lên thanh gươm màu đỏ rực. Thằng Eragon này, Roran biết, có thể chém giết không chùn tay. Thằng Eragon này dũng mãnh và bất khả xâm phạm. Và… chính nó có thể giết Ra’zac và hai con chiến mã của chúng. Chính nó sẽ giúp anh giải thoát Katrina.
Xoè đôi cánh trong mờ, ả rồng trụ lơ lửng trước con tàu. Ngay lúc đó mắt Eragon gặp mắt Roran.
Cho đến lúc này, Roran vẫn không hoàn toàn tin câu chuyện của ông Jeod về Eragon và ông già Brom. Bây giờ trừng trừng nhìn thằng em họ, cảm xúc rối bời trong lòng Roran. Eragon là một kỵ sĩ rồng! Không thể nào tin nổi thằng bé gầy gò, ủ rũ từng lớn lên cùng anh lại trở thành chiến tướng dũng mãnh này. Thấy nó còn sống, trong Roran tràn ngập một niềm vui sướng bất ngờ. Nhưng, đồng thời, mối căm hận khủng khiếp vì cái chết của cha và những thảm kịch xảy ra cho dân làng Carvahall lại ngùn ngụt bốc lên. Trong mấy giây ngắn ngủi này, Roran không biết mình yêu thương hay căm giận Eragon.
Roran sững người vì như có ai đó chạm vào tâm trí anh và có tiếng Eragon vang vang trong đầu: “Anh Roran!”
Roran bật nói:
- Hả.
“Không cần nói. Anh cứ nghĩ trong dầu thôi. Em nghe được.”
“Nghĩ gì?”
“Vì sao anh… Thôi, chúng ta không có đủ thời gian đâu. Anh cứ ở yên đây cho đến khi trận chiến được quyết định. Tốt hơn hết là anh hãy cho tàu trở lại cuối sông, triều đình sẽ không tấn công anh đuợc.”
“Eragon, chúng ta phải nói chuyện với nhau. Mày phải trả lời tao rất nhiều câu hỏi.”
“Em biết, nhưng không phải lúc này.”
Trong chớp mắt, con rồng bay vút về hướng đông, biến sau lớp khói mù mịt trên Cánh Rừng Cháy.
Giọng chú Horst đầy kinh ngạc:
- Cha ơi! Một kỵ sĩ! Một kỵ sĩ thật sự! Không bao giờ tôi dám tưởng có ngày này, chứ đừng nói chi kỵ sĩ lại chính là Eragon. Tôi tin ông nói thật rồi đó, Jeod Chân Dài
Jeod mủm mỉm cười, tí tởn như đứa trẻ.
Những lời nói của hai người chỉ loáng thoáng qua tai Roran trong khi anh trừng trừng nhìn mặt sàn tàu, với sự căng thẳng như sắp làm anh nổ tung ra. Những câu hỏi chưa có câu trả lời vang vang trong đầu. Roran cố gạt bỏ những câu hỏi về Eragon. “Bây giờ không phải lúc để nghĩ đến nó. Phải chiến đấu. Varden phải thắng triều đình.”
Một làn sóng cuồng nộ dâng trong anh. Trước đây Roran đã từng trải qua cảm giác điên cuồng kỳ lạ này, nó cho phép anh vượt qua hầu hết mọi chướng ngại, di chuyển những vật thể mà bình thường anh không thể nâng lên nổi, bình thản đối diện với kẻ thù ngoài chiến địa. Cảm giác đó lúc này đang siết lấy anh, hôi hổi trong huyết quản, làm hơi thở anh rộn ràng, trống ngực anh dồn dập.
Roran chạy dọc boong tàu tới phòng lái, báo Uthar:
- Ngừng tàu lại.
- Sao?
- Tôi nói, ngừng lại. Ở yên đây cùng tất cả mọi người trên tàu. Sử dụng máy bắn đá tàn phá những gì có thể. Đừng để kẻ nào lên tàu và nhớ bảo vệ gia đình chúng tôi bằng mọi giá. Anh hiểu chứ?
Uthar lom lom nhìn Roran. Anh đã tưởng Uthar từ chối, nhưng rồi người thủy thủ với cái mặt đầy thẹo chỉ gật đầu nói:
- Được, được rồi, Cây-búa.
Chú Horst nặng nề lê bước vào phòng lái:
- Cháu định làm gì vậy, Roran?
- Làm gì? Cháu định thay đổi số mệnh đất nước Alagaesia.


Đại ca


Khi Saphira đưa Eragon trở lại mặt trận, nó mới nhận ra ý định của Roran. Qua lần thu hình trước đây, nó biết Roran đang ở trên biển, nhưng không bao giờ Eragon có thể nghĩ rằng người anh họ lại đang trên đường tới Surda và cũng không bao giờ nó ngờ đến chuyện hai anh em gặp nhau trong hoàn cảnh này. Đôi mắt của Roran! Đôi mắt ấy như gắn chặt vào Eragon: thắc mắc, nhẹ lòng vì biết em còn sống, căm giận và… kết tội nó. Trong đôi mắt đó, Eragon hiểu là Roran đã biết vai trò của nó trong cái chết của cậu Garrow và chưa tha thứ cho nó.
Chỉ đến khi một lưỡi kiếm chạm mạnh vào áo giáp, Eragon mới trở lại với hiện tại chung quanh. Gầm lên một tiếng, bổ thanh Zar’roc xuống, Eragon hạ tên lính vừa đâm nó. Tự rủa mình quá lơ đãng, rồi Eragon liên lạc với Trianna: “Trên con tàu đó không có ai là kẻ thù. Thông báo cho tất cả, không được tấn công. Nhờ Nasuada giúp dùm tôi một việc cho người đưa tin tới ngay tàu, cắt nghĩa cho họ hiểu tình hình và bảo họ hãy tránh xa khỏi chiến trường.”
Từ sườn tây chiến trường, chỉ với mấy bước nhảy, Saphira băng qua Cánh-đồng-cháy, tới trước mặt vua Hrothgar và các bề tôi của ông. Khi Eragon nhảy từ lưng rồng xuống, ông vua lùn lên tiếng:
- Ta chào Bàn-tay-bạc và Saphira. Thần tiên hình như đã làm nhiều việc cho kỵ sĩ hơn những gì họ hứa?
- Không đâu, tâu hoàng thượng, đó là do những con rồng.
- Thật vậy sao? Sau trận chiến đẫm máu này, trẫm mong được nghe về chuyến phiêu lưu của hai khanh. Ta cũng rất vui mừng khi Eragon chấp thuận đề nghị của ta để trở thành một người trong hoàng tộc Ingeitum. Thật là một vinh hạnh khi có khanh là người chung dòng tộc.
- Muôn tâu, đó cũng là niềm vinh hạnh của hạ thần.
Nhà vua ha hả cả cười:
- Saphira, trẫm chưa quên lời hứa của khanh tái thiết Isdar Mithrim đâu nhé. Ngay lúc này, quân sĩ của ta cuũn đang thu dọn ngôi sao ngọc đó trong trung tâm Tronjheim. Ta hy vọng sẽ lại được nhìn thấy nó hoàn hảo như xưa.
- Thần hứa là sẽ hoàn tất công việc đó.
Sau khi nghe Eragon lập lại lời của Saphira, nhà vua đập ngón tay cong queo lên áo giáp cô rồng:
- Khanh đang mặc bộ giáp ta tặng, hy vọng nó bảo vệ tốt cho khanh.
- Muôn tâu, nếu không có bộ giáp này thần đã bị thương nhiều lần rồi.
Nhà vua vươn thẳng người, mắt rức sáng, đưa cao cây búa Volund:
- Vậy thì bây giờ chúng ta hãy tiến lên, thử lại lần nữa bộ giáp của khanh trong chiến trận.
Quay lại binh tướng của mình, nhà vua la lớn:
- Akk sartos oen durgrimst!
- Vor Hrothgar korda.
Eragon nhìn Orik đang đứng bên nhà vua, ông lùn dịch lại:
- Hãy chiến đấu bằng cây búa bách chiến bách thắng của đức vua Hrothgar.
Cùng tiếng hò reo vao dậy, Eragon và Saphira chạy bên ông vua lùn, tiến qua phía đoàn quân áo đỏ của triều đình.
Với sự tăng cường của người lùn, thế trận đã nghiêng về bên Varden. Sát cánh với nhau, người lùn và Varden, đẩy lùi quân triều đình, xé lẻ, ép chúng phải bật ra khỏi những vị trí phòng thủ từ buổi sáng. Sự nỗ lực của họ tăng thêm hiệu quả nhờ thuốc độc của bà phù thuỷ Angela. Nhiều sĩ quan triều đình ngơ ngác như mất hồn, ra hoàng loạt lệnh chỉ có lợi cho Varden khoét sâu vào lòng địch. Binh lính dường như nhận ra số phận không còn mỉm cuời với chúng nữa, hàng trăm tên đầu hàng, quăng vũ khí, bỏ chạy hoặc quay lại tấn công các cấp chỉ huy.
Tình trạng đó kéo dài tới quá trưa.
Giữa trận đánh, Eragon bỗng thấy một cây lao lửa bay vù vù qua đầu, rồi thẳng tới khu lều chỉ huy của triều đình, lửa ngùn ngụt bốc cháy. Chém gục các địch thủ bao quanh, Eragon ngoái đầu nhìn phía sau: hàng chục mũi tên lửa bay vòng cầu từ con tàu ngoài sông Jiet tới. “Anh đang làm gì vậy, Roran?” Vừa thầm hỏi, Eragon vừa vung gươm chém tới tấp một toán lính vừa xông tới.
Ngay sau đó, một tiếng tù-và vang lên từ phía sau quân triều đình, rồi liên tục những tiếng tù-và khác rộ lên. Ai đó bắt đầu thúc những hồi trống mạnh mẽ. Tiếng trống vang vang khắp chiến trường, làm mọi người ngơ ngác nhìn quanh. Eragon chợt thấy, một hình dạng đầy đe doạ tách khỏi chân trời phía bức, rồi vươn lên bầu trời nhợt nhạt trên Cánh-đồng-cháy. Bầy quạ khát máu tan tác khi cái bóng đen ghê sợ đó lặng lẽ trụ lại trên bầu không khí hừng hực nóng. Lúc đầu Eragon tưởng đó là một Lethrblaka – “chiến mã” của Ra’zac. Rồi một tia sáng từ hướng tây, rọi qua mây, quét ngang hình dạng đó.
Trên đầu họ, một con rồng đỏ dập dờn bay, toả sáng trong tia nắng như một tấm thảm bằng than hồng, thắm rực màu máu. Đôi cánh trong mờ của nó như màu rượu nho để trước ánh đèn. Từ móng vuốt, raăg tới những cái gai luưg đều trắng như tuyết. Trong đôi mắt màu son của con rồng lấp lánh niềm hân hoan vui sướng. Ngồi trên yên rồng là một thân nguời mặc giáp sắt bóng lộn, tay cầm một thanh đoản kiếm.
Eragon khiếp đảm nghĩ: “Galbatorix đã chế ngự được một trứng rồng nữa nở rồi!”
Nguời mặc giáp sắt trên lưng rồng đỏ đưa cao tay trái. Một luồng sáng từ lòng bàn tay hắn phóng thẳng vào ngực vua Hrothgar. Các pháp sư của người lùn rú lên đau đớn khi cố vận dụng phép thuật chống lại, trước khi gục chết. Vua Hrothgar ôm ngực bật ngửa xuống đất. Tiếng rên rẩm đau khổ của các người lùn vang lên.
- KHÔNG!
Eragon và Saphira đều kêu rống lên. Nhìn tên kỵ sĩ địch thủ, Eragon thầm nghĩ: “Ta sẽ giết mi vì tội này.”
Biết mình và Saphira đều quá đuối sức, khó thể đối đầu với kẻ thù ghê gớm kia, Eragon nhìn quanh, thấy một con ngựa hấp hối vì bị ngọn giáo đâm xuyên qua sườn. Eragon đặt tay lên cổ con ngựa còn thoi thóp, lẩm bẩm: “Ngủ đi, bạn ơi!”, rồi chuyển sinh khí của con ngựa sang mình và Saphira. Dù không đủ năng lượng cho sức lực cả hai, nhưng cũng làm êm dịu cơ bắp quá nhức mỏi và chấm dứt sự run rẩy của tứ chi.
Nhảy lên Saphira, Eragon la lớn:
- Orik, hãy chỉ huy người của ông.
Eragon thấy Arya, qua bãi chiến trường, đang đăm đăm nhìn nó đầy lo lắng.
Saphira phóng mình lên phía con rồng đỏ, hai cánh vỗ với một tốc độ điên cuồng. Vừa thắt chặt có mối dây an toàn, Eragon vừa bảo: “Hy vọng em còn nhớ những bài học của rồng vàng Glaedr.”
Saphira không trả lời, nhưng gầm lên với con rồng đỏ: “Kẻ phản bội! Kẻ đập trứng chui ra, phản bội lời thề. Đồ sát nhân!” Rồi, hai trong một, Eragon và Saphira tấn công vào trí não hai kẻ thù, tìm cách áp đảo vành đai bảo vệ bằng phép thuật của chúng. Nhưng tâm trí của kỵ sĩ kia thật kỳ lạ, dường như bao gồm vô vàn âm thanh rì rầm, giống như giọng nỉ non của những hồn ma van xin được phóng thích khỏi những ngóc ngách trong tâm hồn hắn.
Eragon và kỵ sĩ kia vừa giao tiếp, lập tức hắn chống lại với một công lực mạnh như vũ bão. Eragon vội vàng rút sâu vào sau vành đai bảo vệ phép thuật, niệm mấy câu chú sư phụ đã dạy để sự dụng khi khẩn cấp.
Sức mạnh áp đảo tâm trí Eragon dịu xuống khi Saphira và con rồng đỏ nhào vào tấn công nhau. Như hai ngôi sao băng sáng rực, chúng cuốn lấy nhau, tung ra những cú đá vào bụng bằng chân sau. Móng vuốt cào cấu lên bộ giáp của Saphira và bộ vẩy của rồng đỏ. Rồng đỏ nhỏ hơn Saphira những chân và vai nó to lớn hơn. Những cú đá làm hai rồng tách rời ra, rồi chúng lại xáp vào nhau, cả hai tìm mọi cách cắn cổ địch thủ.
Eragon chỉ còn biết giữ chặt thanh Zar’roc khi hai con rồng nhào lộn xuống, tung ra những cú đánh ghê hồn bằng chân và cả bằng đuôi. Cách mặt đất không tới năm mươi mét, chúng buông nhau ra, để lấy lại độ cao. Saphira vươn cổ như một con rắn, phun ra ngọn lửa cuồn cuộn.
Ngọn lửa chưa chạm tới đích, rồng đỏ đã kịp bay vụt lên cao. Nó vừa há miệng định trả miếng Saphira, Eragon kêu lên: “Skolir nosu fra brisingr!” Ngọn lửa phun ra từ miệng rồng đỏ bay lệch hướng, không làm cháy một cái vẩy nào của Saphira.
Cả hai con rồng vượt qua lớp khói, bay lên bầu trời trong trẻo buốt giá phía trên. Chúng tiếp tục tấn công, cố leo lên lưng đối thủ. Rồng đỏ cắn mạnh đuôi Saphira. Cả Saphira và Eragon đều bật kêu lên đau đớn. Hổn hển vì ráng sức, Saphira đảo mình, lộn vòng ra sau rồng đỏ, rồng đỏ né sang trái, bay theo đường trôn ốc, cố vượt lên trên Saphira.
Trong khi hai con rồng càng lúc càng đối đầu nhau bằng những thế đánh phức tạp hơn, Eragon nhận thấy dưới Cánh-đồng-cháy vô cùng náo động: Con-đường Lãng-du bị hai pháp sư mới của triều đình áp đảo. Hai pháp sư này cao cường hơn những pháp sư xuất hiện trước đây rất nhiều. Một pháp sư của Con-đường Lãng-du đã bị giết. Eragon nghe Trianna truyền tư tưởng kêu cứu: “Khắc-tinh của Tà-Thần, cứu ngay. Chúng tôi không cản nổi chúng. Chúng giết hết quân Varden mất. Cứu…”
Tiếng cô ta tắt lịm khi kỵ sĩ địch thủ chạm vào tâm trí nó. Eragon nghiến răng chống trả luồng tấn công dữ dội. Thấy con rồng đỏ đang phóng tới, Eragon không dám mở tâm thứ để truyền ý nghĩ cho Saphira, nó la lớn:
- Bắt lấy anh.
Với hai đường kiếm, Eragon cắt đứt dây an toàn quanh chân, rồi nhảy vọt khỏi lưng Saphira. Cười ha hả vì cảm giác khoái hoạt, choáng váng, nhẹ tênh giữa không gian, Eragon tự nghĩ: “Thật điên rồ!” Gió thốc bay tung nén sắt, nước mắt ứa ra, Eragon buông tấm khiên, giang rộng chân tay theo lời thầy đã dạy, để giữ thăng bằng trong khi bay. Kỵ sĩ giáp sắt trợn mắt nhìn. Con rồng đỏ lách sang trái Eragon, nhưng không kịp thoát, Eragon đưa thẳng lưỡi Zar’roc khi sườn rồng đỏ vụt qua. Eragon cảm thấy mũi kiếm đi thấu qua đầu gối của rồng đỏ trước khi nó tăng tốc bay.
Rồng đỏ đau đớn rống lên.
Cú va chạm làm Eragon tung lên, hụp xuống, quay vòng. Trong khi cố gắng lấy lại thăng bằng, Eragon rơi ngược đầu vun vút xuống Cánh-đồng-cháy. Nó có thể ngừng lại bằng phép thuật, nhưng như thế sẽ làm cạn kiệt hết năng lượng còn lại. “Lẹ lên, Saphira! Em đâu rồi?”
Saphira vọt ra từ lớp khói dày đặc hôi nồng nặc, hai cánh khép chặt thân mình. Hụp xuống duới Eragon, cô ả mở hé cánh để giảm độ rơi. Thận trong né mấy cái gai trên lưng rồng, Eragon khéo léo trở lại yên. Saphira quát lên: “Đừng bao giờ giở trò như vậy nữa nghe không?”
Ngắm nghía thanh Zar’roc còn dính máu, Eragon tỉnh bơ: “Vậy mà được việc đó, đúng không nào?”
Nhưng Eragon không còn thoả mãn nổi nữa khi nhận ra trò biểu diễn đầy nguy hiểm đó đã đặt Saphira duới áp lực của rồng đỏ. Nó phòng mình từ trên xuống, từ dưới lên, bên phải bên trái, thúc đẩy Saphira phải lộn xuống đất. Saphira khéo léo vượt lên, nhưng mỗi lần cố vượt lên, lại bị rồng đỏ nhào xuống cắn và dùng cánh tát tới tấp.
Hai con rồng xoắn vào nhau, quần thảo cho tới khi cả hai lưỡi thè khỏi miệng, đuôi rũ xuống, vỗ cánh hết nổi.
Một lần nữa Eragon khép kín tâm tưởng – dù với bạn hay th ù – gào lên:
- Xuống ngay, Saphira. Anh sẽ đấu với nó trên mặt đất. Saphira hạ xuống một khoảng trống gần nhất, một mặt phẳng bằng đá bên bờ tây sông Jiet. Nước sông đỏ ngầu vì máu từ chiến trường chảy ra. Eragon nhảy khỏi lưng Saphira. Mặt đá dưới chân cứng rắn và nhẵn nhụi, không có chỗ nào ghồ ghề có thể làm đau Saphira.
Vài giây sau, con rồng đỏ bay vụt qua, rồi hạ cánh xuống đầu kia của khoảng trống. Nó giữ chân bị thương cao khỏi mặt đá. Toàn thân rồng đỏ run rẩy như một con chó bị thương. Nó cố nhảy tới, nhưng đành đứng lại gầm gừ với Eragon.
Kỵ sĩ địch thủ cởi dây an toàn, tụt xuống từ bên lành lặn của con rồng, rồi vòng qua xem xét vết thương của nó. Eragon để mặc anh ta làm, vì nó biết nhìn vết thương của cộng sự gắn bó với mình là nỗi đau to lớn của một kỵ sĩ.
Chỉ trong vòng chừng ba giây, với mấy câu thần chú, kỵ sĩ địch thủ đã chữa lành vết thương của rồng đỏ.
Eragon rùng mình sợ hãi. “Vì sao hắn có thể điều trị lẹ làng như vậy được?” Hơn nữa, đây chắc chắn không phải là Galbatorix, vì con rồng của Galbatorix màu đen.
Eragon bước tới đối đầu với kỵ sĩ kia. Hai người gặp nhau ngay giữa nền đá, Saphira và rồng đỏ lùi lại sau.
Kỵ sĩ giáp sắt nắm kiếm bằng cả hai tay, vung khỏi đầu rồi bổ xuống. Eragon nâng thanh Zar’roc lên đỡ. Những đốm lửa đỏ toé ra khi hai vũ khí chạm nhau. Eragon tấn công lại, tới tấp xuất hàng loạt chiêu thức đầy biến ảo. Đâm ngang, xẻ dọc, hai chân Eragon nhẹ nhàng thoăn thoắt như nhảy múa, dồn địch thủ tới sát bờ đá. Kỵ sĩ giá sắt bộng trụ lại, nhẹ nhàng hoá giải đường kiếm tấn công của Eragon. “Cứ như hắn biết trước từng bước di chuyển của mình vậy.” Eragon thầm nhủ. Nếu không quá mệt vì cuộc chiến, nó đã dễ dàng hạ được địch thủ, nhưung lúc này đâu còn đường nào khác.
Kỵ sĩ địch thủ không có sức mạnh và sự lanh lẹ của thần tiên, nhưng kiếm pháp hơn hẳn Vanir và ngang ngửa Eragon.
Eragon thoáng lo ngại khi nhận ra dấu hiệu bắt đầu xuống sức và nó chưa làm gì được hơn là mới chỉ rạch được một vết trầy trên giáp đối thủ. Năng lượng tồn trữ trong mấy viên ngọc chỉ đủ giữ cho nó gắng sức thêm mấy phút nữa thôi. Đúng lúc đó, kỵ sĩ giáp sắt tiến lên một bước, rồi bước thứ hai… Tới chính giữa nền đá, hai kỵ sĩ đối diện nhau và những đường kiếm lại lấp loáng cuốn lấy nhau.
Thanh Zar’roc trở nên quá nặng, Eragon gần như không thể nâng lên nổi nữa. Vai rã rời, hơi thở dồn dập, mặt đầm đìa mồ hôi. Niềm khao khát trả thù cho vua Hrothgar cũng không thể giúp nó vượt qua tình trạng kiệt sức.
Bỗng Eragon bị trượt chân, ngã xuống. Quyết không để bị giết trong thế nằm trên mặt đất, Eragon lăn mình, đứng phắt dậy, đồng thời thốc mũi kiếm vào đối thủ. Hắn gạt thanh Zar’roc chỉ bằng một phất tay uể oải. Cách thức kỵ sĩ kia vung gươm sau đó - đảo lẹ một vòng bên sườn – làm Eragon chợt thấy rất quen. Nó nhìn trừng trừng thanh đoản kiếm của địch thủ, rồi tới hai con mắt sau kẽ hở bằng kính của nón sắt. Eragon kêu lên:
- Tôi biết anh rồi.
Nó nhào vào kỵ sĩ kia, kẹp hai thanh kiếm giữa hai thân thể, móc mấy ngón tay xuống dưới mũ sắt, lật ngược lên.
Và, giữa nền đá kề bên Cánh-đồng-cháy, đứng sừng sững là… Murtagh.


Của thừa kế


Murtagh lặng lẽ cười rồi bật nói:
- Thrysta vindr.
Không khí giữa hai người dồn thành một quả bóng hơi cứng rắn khi đập mạnh vào ngực Eragon, đẩy nó bật xa chừng năm sáu mét.
Khi lưng nện xuống mặt đá, Eragon nghe tiếng Saphira “hự” lên. Đầu óc choáng váng, nó oằn người ngồi dậy, chờ cho qua cơn đau. Bao nhiêu mừng rỡ khi thấy lại Murtagh bỗng trở nên nặng nề đến không chịu nổi. Một cảm giác kỳ lạ vừa xúc động vừa bối rối tức giận sôi sục trong lòng.
Hạ thấp kiếm, Murtagh chỉ ngón tay trỏ vào Eragon:
- Mi sẽ không bao giờ chịu đầu hàng.
Eragon lạnh toát dọc sống lưng. Nó nhận ra đây là cảnh đã diễn ra trong điềm báo khi còn ở trên bè từ az Ragni tới Hedarth: Một người đàn ông bò trên đất bùn, mũ sắt sứt mẻ, áo giáp đẫm máu và mặt người đó khuất sau một cánh tay giơ lên. Một cánh tay hiện ra, chỉ ngón tay đầy quyền uy của định mệnh vào một người ngã trên mặt đất.
Quá khứ và tương lai đã gặp nhau. Đây là lúc số mệnh của Eragon được quyết định.
Gượng đứng dậy, Eragon vừa ho vừa hỏi:
- Murtagh… tại sao… anh vẫn còn sống? Anh đã bị Urgals xô xuống vực. Tôi đã cố thu hình ảnh anh mà chỉ thấy toàn bóng tối âm u…
- Cậu không thấy gì, cũng như khi tôi ở Uru’baen đã cố thu hình cậu nhiều lần mà cũng chẳng thấy gì.
- Nhưng anh đã chết rồi mà. Chết trong lòng đất Farthen Dur. Arya đã tìm thấy áo quần anh đẫm máu dưới đường hầm.
Mặt Murtagh đầy u ám:
- Không. Tôi đã không chết. Đó chỉ là dàn cảnh của cặp sinh đôi thôi, Eragon ạ. Chúng điều khiển một toán Urgals phục kích để giết Ajihad và bắt cóc tôi. Chúng đã yểm bùa làm tôi không thể chạy trốn, rồi đưa tôi đến Uru’baen ngay sau đó.
Eragon lắc đầu, không còn hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra:
- Nhưng anh đã bảo tôi, anh căm ghét Galbatorix, vì sao anh lại đồng ý phục vụ cho lão?
- Đồng ý ư?
Murtagh cười sằng sặc như người điên:
- Tôi đã không đồng ý. Lúc đầu, Galbatorix phạt tôi vì tôi khinh thường những năm tháng được lão bảo bọc nuôi dưỡng, vì tội không tuân theo ý lão và chạy trốn khỏi Uru’baen. Rồi… lão moi móc hết những gì tôi biết về cậu, Saphira và Varden.
- Anh đã phản bội chúng tôi! Tôi đã đau khổ vì nhớ thương anh, vậy mà anh đã phản bội chúng tôi.
- Tôi không còn chọn lựa nào khác nữa.
- Ông Ajihad đã có lý khi giam anh lại. Đáng lẽ ông ta phải để anh chết rũ trong tù, thì những chuyện này sẽ không…
- Tôi không còn chọn lựa nào khác nữa. Sau khi Thorn nở ra cho tôi, Galbatorix bắt hai chúng tôi – tôi và con rồng Thorn - phải thề trung thành bằng cổ ngữ. Bây giờ chúng tôi chỉ còn biết tuân lệnh lão.
Trong lòng Eragon ngổn ngang vừa xót thương vừa ghê tởm:
- Anh đã trở thành như cha anh rồi.
Mắt Murtagh sáng lên một cách lạ lùng:
- Không. Sao lại như cha tôi? Tôi mạnh hơn Morzan nhiều. Galbatorix đã dạy tôi rất nhiều điều về phép thuật mà cậu có nằm mơ cũng không thấy được. Những câu thần chú đầy quyền năng mà thần tiên không dám lắp bắp nửa câu. Những từ ngữ cổ đã thất truyền, chỉ riêng Galbatorix khám phá ra được. Những cách đề khí, vận công… Những điều kỳ bí chỉ có thể huỷ diệt kẻ thù và thoả mãn tất cả mọi ý muốn của mình.
Nhớ lại những bài học của sư phụ, Eragon bắt bẻ:
- Mọi sự trên đời luôn giữ nguyên điều kỳ bí của chúng.
- Nếu hiểu biết, cậu sẽ không nói vậy. Brom là đồ bỏ. Còn thần tiên? A, ngoài chuyện chui rúc trong rừng chờ ngày bị chinh phục, thần tiên làm được trò gì?
Murtagh nhìn Eragon từ đầu tới chân:
- Bây giờ trông cậu giống thần tiên rồi đấy. Do bàn tay của nữ hoàng Islanzadí, phải không?
Eragon im lặng, Murtagh nhún vai:
- Không sao, tôi cũng sẽ sớm biết được sự thật thôi.
Nhìn theo mắt hắn, Eragon thấy cặp sinh đôi đang đứng trước chiến tuyến, phóng chưởng lực vào giữa đoàn quân Varden và người lùn. Dù qua màn khói mờ mịt, nhưng Eragon biết chắc là hai gã pháp sư này đang vừa ha hả cười vừa tàn sát những con người đã có thời từng thân thiết với chúng. Điều mà cặp sinh đôi vô tình không thấy – còn Eragon và Murtagh lại thấy rất rõ – là Roran đang bò gần tới chúng.
Tim Eragon như ngừng đập khi nhận ra người anh họ. “Đồ ngốc! Chuồn khỏi chúng ngay. Chúng giết anh mất thôi.”
Ngay khi Eragon vừa mở miệng định niệm chú đẩy Roran khỏi vùng nguy hiểm – dù với bất cứ giá nào -, Murtagh lên tiếng:
- Khoan. Tôi muốn thấy anh ta sẽ làm gì.
- Sao?
Murtagh nhếch nụ cười lạnh ngắt:
- Khi là tù nhân của chúng, cặp sinh đôi đã rất khoái trá khi hành hạ tôi.
Eragon nghi hoặc nhìn Murtagh:
- Anh không tiếp tay cặp sinh đôi để hại anh ấy chứ?
- Vel einradhin iet ai Shur’tugal. (Lời hứa của một kỵ sĩ)
Cả hai đều chăm chú nhìn khi Roran núp sau một đống xác chết. Eragon cứng người khi cặp sinh đôi nhìn về đống xác, nhưng rồi chúng tại quay đi. Roran nhảy lên, vung búa, bổ xuống một tên, đầu nó vỡ ra toang hoác. Tên còn lại bật ngã xuống đất, chân tay co giật như lên cơn động kinh, miệng há hốc không thoát ra được tiếng kêu cho đến khi nhát búa thứ hai của Roran bổ xuống. Roran đạp lên xác kẻ thù, đưa cao búa la lớn mừng chiến thắng.
Lúc đó Eragon mới quay sang hỏi Murtagh:
- Tiếp theo là chuyện gì? Anh đến đây để giết tôi?
- Đương nhiên là không. Vì Galbatorix muốn cậu sống.
- Để làm gì?
- Cậu không biết thật à? Ha ha, đùa chút vậy thôi. Không phải vì cậu đâu, mà là vì Saphira. Con rồng trong cái trứng cuối cùng của Galbatorix là rồng đực. Saphira là rồng cái độc nhất còn tồn tại. Nếu Saphira sinh đẻ, nó sẽ là mẹ của toàn thể loài rồng. Bây giờ thì cậu hiểu rồi chứ? Galbatorix không muốn loài rồng bị tiêu diệt và muốn xây dựng lại đoàn kỵ sĩ. Cậu sẽ không bị giết đâu, vì lão có cái nhìn rất thực tế. Được nghe Galbatorix phân giải quan điểm của lão, cậu sẽ không nghĩ lão là một người quá tệ đâu. Thống nhất toàn thể Alagaesia dưới một lá cờ, dẹp hết những cuộc nội chiến, phục hưng kỵ sĩ, tất cả những chuyện đó có phải là tội ác của lão không?
- Chính lão là kẻ đã huỷ diệt kỵ sĩ.
- Với lý do chính đáng. Các cụ đó già, mập, lẩm cẩm rồi. Thần tiên điều khiển các cụ, sử dụng các cụ để khuất phục loài người. Các cụ kỵ sĩ đó cần phải dẹp bỏ, để chúng ta có thể bắt tay làm lại từ đầu.
Sự phẫn uất làm mặt Eragon nhăn nhúm lại. Nó bước tới lui trên nền đá, thở nặng nề, rồi chỉ tay ra bãi chiến trường:
- Anh biện minh thế nào về tất cả những khổ đau mà con người phải chịu đựng do một tên điên rồ đã gây ra? Galbatorix không làm được gì ngoài chuyện tàn sát, đốt phá và thu gom quyền lực vào tay lão. Đó là một kẻ dối trá, sát nhân, tráo trở. Anh biết vậy mà. Chính vì vậy anh đã từng không chịu làm bầy tôi của lão.
Ngừng một lúc, giọng Eragon nhẹ nhàng hơn:
- Tôi hiểu anh đã phải bắt buộc làm trái ý mình, vì vậy anh không phải chịu trách nhiệm vì vụ giết vua Hrothgar. Anh hãy trốn đi. Tôi tin, tôi và Arya sẽ có thể vô hiệu hoá mọi ràng buộc Galbatorix đã áp đặt lên anh… Theo tôi đi, Murtagh. Anh có thể làm được rất nhiều việc cho quân cách mạng Varden. Đi với chúng tôi, anh sẽ được quí phục, vinh danh, thay vì là những lời nguyền rủa, sợ hãi và căm ghét.
Murtagh lẳng lặng nhìn thanh đoản kiếm. Eragon tràn trề hy vọng. Rồi Murtagh trầm giọng nói:
- Cậu không giúp gì được cho tôi đâu, Eragon. Không ai, ngoài Galbatorix mới có thể giải lời thề của tôi và Thorn, mà điều đó thì không bao giờ lão làm. Eragon, lão đã… biết tên thật của chúng tôi rồi. mãi mãi tôi và Thorn là nô lệ của lão.
Dù có muốn, Eragon cũng vẫn không thể nguôi ngoai xót xa cảnh ngộ của Murtagh. Hoàn toàn nghiêm túc, nó nói:
- Vậy thì hãy để tôi giết anh và Thorn.
- Giết chúng tôi? Vì sao tôi phải để cậu làm chuyện đó?
Eragon thận trọng từng lời:
- Anh sẽ thoát khỏi vòng kiềm toả của Galbatorix và sẽ cứu được mạng sống hàng trăm, hàng ngàn con người. Đó không phải là lý do cao cả để anh hy sinh sao?
Murtagh lắc đầu:
- Với cậu, có lẽ đúng. Nhưng với tôi, cuộc đời còn quá đẹp. Dễ gì chia tay sớm với thế gian này được. Không mạng sống của một kẻ xa lạ nào quan trọng hơn mạng sống của chính tôi và Thorn.
Đến lúc này thì Eragon biết phải làm gì, dù đó là điều nó hoàn toàn căm ghét. Phóng tới, hai chân chưa chạm đất, Eragon nhắm ngay tim Murtagh, đâm thẳng thanh Zar’roc. Murtagh bật kêu lên:
- Letta.
Eragon rơi phịch xuống đất, đồng thời một sợi dây vô hình trói chặt chân tay nó, làm nó bất động. Saphira phun lửa rồi nhào tới Murtagh như mèo vồ chuột.
- Risa!
Murtagh vừa ra lệnh vừa vươn tay như những cái móng để chộp Saphira.
Saphira kêu lên kinh ngạc khi bị câu thần chú của Murtagh treo nó lơ lửng, cách nền đá mấy mét. Cố sức vùng vẫy, ả rồng không thể xuống đất, cũng không thể nào bay cao lên được chút nào.
Eragon tự hỏi: “Vì sao anh ta vẫn là người, mà nội công kinh khủng thế? Với khả năng mới của mình, làm như vậy, chắc không còn sức lết đi nổi nữa.”
Dựa vào kinh nghiệm phản ứng lại thần chú của sư phụ Oromis, Eragon nói:
- Brakka du vanyalí sem huildar Saphira un eka!
Murtagh chỉ lom lom nhìn như không thèm quan tâm đến sự đối kháng vô ích của Eragon. Eragon càng ráng sức, càng làm tay nó lạnh toát, xương nhức nhối, nhịp tim chậm lại, như phép thuật đã tiêu huỷ hết nội công của nó. Saphira tiếp sức Eragon, chuyển nguồn lực khủng khiếp của toàn cơ thể cho ông anh.
Năm giây… rồi hai mươi giây trôi qua. Một sợi gân cổ Murtagh phồng lên.
Một phút…
Một phút rưỡi… Eragon rùng mình. Từ đùi xuống chân run rẩy, động đậy như sắp bung ra.
Hai phút… Eragon bắt buộc phải thu hồi phép thuật, nếu không chắc nó sẽ ngất đi rồi chết. Nó lảo đảo, gục sang một bên.
Lúc trước Eragon đã sợ, nhưng chỉ là sợ sẽ thất bại. Bây giờ nó sợ, vì không biết tài nghệ của Murtagh cao cường đến đâu.
- Cậu không tranh đua được với tôi đâu. Không kẻ nào có thể, trừ Galbatorix.
Bước lại gần, hắn dí mũi kiếm lên cổ Eragon:
- Đem cậu về Uru’baen là chuyện quá dễ dàng.
Nhìn sâu vào mắt Murtagh, Eragon nói:
- Đừng. Để tôi đi.
- Cậu vừa mới định giết tôi mà.
- Ở địa vị tôi, anh cũng sẽ làm vậy thôi. Chúng ta từng là bạn. Từng cùng nhau luyện kiếm. Chắc Galbatorix không thể thay đổi anh, đến làm anh quên tất cả…
Một phút nặng nề trôi qua, chỉ còn vọng lại âm thanh của những tiếng gầm rú từ chiến trận. Máu ri rỉ nhỏ giọt từ vêt cắt do đầu mũi kiếm của Murtagh trên cổ ga. Saphira giận dữ đập đuôi đầy tuyệt vọng.
Sau cùng Murtagh nói:
- Tôi được lệnh cố gắng bắt cậu và Saphira. Tôi… đã cố… Đừng bao giờ để chúng ta gặp lại nhau. Galbatorix sẽ bắt tôi thề bằng cổ ngữ trong việc truy bắt cậu. Lần sau gặp lại, đừng hy vọng tôi tha cậu như lần này.
Eragon cố bước lùi, nhưng vẫn không thể nhúc nhích:
- Anh đang làm một điều phải.
- Có thể. Nhưng trước khi để cậu đi…
Hắn với tay, giật thanh Zar’roc khỏi tay Eragon và lấy luôn bao kiếm đỏ khỏi đai lưng của Beloth Khôn Ngoan.
- Nếu tôi trở thành như cha tôi, tôi phải có kiếm của ông. Thorn (Gai Góc) là tên con rồng của tôi. Và sẽ là gai góc đối với những kẻ thù của tôi. Zar’roc Bất-hạnh và Gai Góc phải là một cặp. Ngoài ra… Zar’roc phải thuộc về trưởng nam của Morzan, cậu út làm sao giữ được.
Eragon lạnh toát người: “Không thể như thế được.”
Murtagh nở nụ cười tàn nhẫn:
- Chưa bao giờ tôi nhắc đến tên mẹ mình, phải không? Cậu cũng chưa bao giờ nói đến tên mẹ cậu. Bây giờ tôi nói đây. Selena. Selena là mẹ của chúng ta. Cặp sinh đôi đã phát hiện ra mối liên hệ này khi xâm nhập vào trí não tôi. Galbatorix rất quan tâm đến thông tin đặc biệt này.
- Nói láo!
Eragon la lên. Nó không thể nào chịu đựng nổi ý nghĩ là con trai của Morzan. “Ông Brom biết không? Sư phụ biết không? Sao không ai cho mình biết?” Rồi nó nhớ lời tiên tri của bà lang phù thuỷ Angela: “Kẻ phản bội là người ruột thịt.” Bà ta đã nói đúng.
Murtagh chỉ lắc đầu, lặp lại những lời đã nói một lần nữa bằng cổ ngữ, rồi ghé sát tai Eragon thì thầm:
- Chú và anh, hai anh em mình giống hệt nhau. Giống như hai giọt nước. Chú không chối được đâu, Eragon.
Eragon cố vùng vẫy khỏi thần chú của Murtagh, nhưng vô ích:
- Anh lầm rồi. Tôi và anh chẳng có gì giống nhau. Lưng tôi không còn vết thẹo nữa.
Murtagh rúm người như bị tên bắn. Mặt hắn rắn lại, lạnh lùng, cầm thanh Zar’roc thẳng đứng trước ngực:
- Anh lấy lại vật thừa kế này. Tạm biệt, em trai.
Rồi hắn nhặt mũ sắt, leo lên lưng Thorn. Từ lúc con rồng đỏ vươn mình, xoè cánh, phóng lên, bay về phương bắc, Murtagh không hề nhìn lại Eragon một lần. Chỉ đến khi con rồng đỏ khuất dạng cuối trời, mạng lưới phép thuật mới giải phong cho Eragon và Saphira.
Tiếng móng của Saphira lách tách khi nó hạ xuống nền đá. Bò lại ông anh, cô rồng nhẹ dụi đầu vào cánh tay Eragon, thỏ thẻ: “Tiểu huynh, anh không sao chứ?”
“Anh ổn thôi.” Nhưng Eragon không ổn chút nào và Saphira biết điều đó.
Eragon tiến lên, quan sát những gì sau cuộc chiến. Đúng vậy, cuộc chiến đã tàn. Với cái chết của cặp sinh đôi, Varden và người lùn đã chiếm lại những vùng đất bị mất, đánh tan tác hàng ngũ địch quân hoảng loạn, dồn chúng xuống sông hay ép chúng chạy ngược trở lại nơi chúng từng xuất phát.
Dù vẫn nhiều toán lính triều đình còn tại chỗ, nhưng tiếng kèn lui quân đã vang lên. Rõ ràng triều đình có ý định gom quân để sửa soạn đợt tấn công thứ hai hòng xâm chiếm Surda. Trên đường lui binh, chúng để lại hàng đống xác chết. Những các người, lọt xuống hố lửa than bùn, bốc lên những cuộn khói đen dày đặc.
Trận chiến tàn. Đại bàng, quạ đen, chim ưng, diều hâu… đen nghịt trời, sà xuống như tấm vải liệm khổng lồ phủ khắp Cánh-đồng-cháy.
Eragon nhắm mắt, dưới hàng mi nước mắt ứa ra.
Họ đã thắng, nhưng nó thì đã bị thua rồi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Old 01-13-2013, 01:55 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (hết)

Đoàn tụ


Eragon và Saphira chậm chạp len lỏi qua những xác chết rải rác khắp Cánh-đồng-cháy, vì kiệt sức và vì những vết thương. Những người sống sót đi loạng choạng trên bãi chiến trường cháy sém, những con mắt trũng sâu ngơ ngơ nhìn vơ vẩn xa xa.
Eragon không còn cảm thấy gì ngoài nỗi sầu khổ ê chề. Dường như cuộc chiến chẳng còn ý nghĩa gì. “Bao nhiêu người phải chết để chống đối một lão già điên. Quả là một thảm kịch!” Ngừng lại, bước tránh một đống tên cắm trên bùn, Eragon nhìn vết rách, vì bị rồng đỏ cắn trên đuôi và những vết thương khác của Saphira, nói: “Cho anh mượn sức, để anh chữa vết thương cho em.”
“Anh cứ lo cho những người bị thương nặng trước đi.”
“Em chắc ráng được chứ?”
“Chắc mà. Em không sao đâu.”
Eragon cúi xuống điều trị vết rách trên cổ một người lính triều đình, rồi tiếp tục điều trị cho một thành viên Varden. Không phân biệt bạn hay thù, Eragon săn sóc họ bằng tất cả khả năng đang có.
Đầu óc rối bời suy nghĩ, Eragon ước sao có thể bác bỏ những lời khẳng định của Murtagh. Nhưng những gì Murtagh nói về mẹ - mẹ của cả hai - rất trùng hợp với vài điều Eragon được biết về bà: Selena bỏ làng Carvahall ra đi khoảng hơn hai mươi năm trước, chỉ trở lại một lần để sinh Eragon, từ đó không bao giờ trở lại nữa. Eragon nhớ lại lần đầu nó cùng Murtagh tới Farthen Dur, Murtagh đã kể về chuyện mẹ anh ta đã biến khỏi lâu đài của Morzan như thế nào trong thời gian Morzan đang truy lùng ông già Brom, Jeod và trứng của Saphira. Sau vụ Morzan lao thanh Zar’roc suýt giết chết Murtagh, mẹ phải giấu việc đã mang thai, trở về làng để bảo vệ mình tránh khỏi bàn tay Morzan và Galbatorix. Mẹ đã lo lắng cho mình biết ngần nào. Đau đớn biết bao, mẹ đã chết rồi, chẳng bao giờ mình còn được nhìn thấy mẹ.
Eragon đã âm thầm hy vọng là cha mẹ vẫn còn sống, dù hy vọng quá mong manh. Giờ đây, nó không hề tiếc nuối vì không được gặp cha, nhưng không bao giờ được nhìn mặt mẹ là nỗi đau khôn nguôi của nó.
Từ khi khôn đủ để biết mình là một đứa con nuôi, Eragon luôn tự hỏi, cha nó là ai và vì sao mẹ lại bỏ nó lại cho cậu Garrow và mợ Marian. Nào ngờ, những câu hỏi đó được trả lời như đâm vào tim nó nhức nhối. Có lẽ phải nhiều tháng, có thể nhiều năm nữa, Eragon mới chấp nhận được tiết lộ này của Murtagh.
Eragon đã tưởng sẽ vô cùng sung sướng khi biết về cha. Bây giờ, biết cha là ai chỉ làm nó căm phẫn. Ngày nào còn nhỏ, Eragon tìm vui trong việc tưởng tượng cha là một người cao cả, quí phái, quan trọng. Nào ngờ, ngay cả trong những ước mơ điên rồ nhất, cũng không bao giờ Eragon nghĩ mình là con một Kỵ sĩ Rồng. Thảm hại hơn: con của một kẻ phản đồ.
Mơ mộng của nó bỗng biến thành cơn ác mộng.
“Mình là nòi giống của một con quái vật… Cha mình chính là kẻ phản bội tông môn, làm bề tôi cho Galbatorix.”
- Nhưng không…
Eragon bật nói khi đang điều trị cho một người lính bị dập xương sống. Một quan điểm mới về hoàn cảnh của nó chợt bật trong đầu Eragon, làm nó cảm thấy tự tin trở lại: “Morzan có thể là cha mình, nhưng ông ta không thật sự là một người cha. Cậu Garrow mới đúng là cha của mình. Cậu đã nuôi dưỡng, dạy dỗ mình sống sao cho đàng hoàng, đạo đức. Mình là mình ngày nay là nhờ cậu. Kể cả ông Brom và sư phụ giống như cha của mình hơn Morzan. Roran là anh ruột mình, không phải Murtagh.”
Saphira nhận xét: “Anh trở nên khôn ngoan hơn rồi đó.”
“Khôn ngoan gì đâu. Anh chỉ nhận ra là ông Brom hẳn biết chuyện này. Ngoài việc ông ta ẩn dật tại làng Carvahall chờ ngày em nở ra khỏi trứng, còn lý do gì nữa không? Canh chừng thằng con trai của kẻ thù.”
Eragon thật sự bối rối khi nghĩ ông già Brom đã coi nó như một mối nguy hiểm. Nó buồn rầy trao đổi tiếp với Saphira: “Nhưng ông ta cũng đúng thôi. Thử nhìn, sau cùng chuyện gì đang xảy ra cho anh đây.”
“Hãy nhớ, dù lý do của ông Brom là gì, ông vẫn luôn cố gắng bảo vệ anh em mình khỏi những mối hiểm nghèo. Ông Brom chết là vì đã che chở cho anh khỏi tay Ra’zac.”
“Anh biết… Em có nghĩ là, ông Brom không cho anh biêt sự thật, là vì ông sợ anh sẽ noi gương Morzan, giống như Murtagh?”
“Chắc chắn là không.”
“Sao em có thể quả quyết vậy?”
Saphira nâng cao đầu khỏi Eragon, tránh nhìn mắt nó: “Tự anh phải hiểu.”
Eragon quỳ gối bên một người lính của vua Orrin – anh ta rên rẩm vì bị một mũi tên xuyên qua ruột. Nắm tay người lính, Eragon nhỏ nhẹ:
- Bình tĩnh.
- Nước. Cổ tôi khô như ngói rồi. Xin rủ lòng thương, Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Mồ hôi đọng hột trên mặt người lính:
- Chữa lành vết thương xong, tôi sẽ cho anh uống. Chờ được chứ? Tôi hứa sẽ cho anh uống thoả thuê.
- Hứa nhé.
- Hứa.
Với sự trợ giúp của phép thuật, Eragon rút mũi tên khỏi bụng người lính. Sử dụng thêm một phần năng lượng của chính anh ta để tăng cường sức mạnh cho thần chú, Eragon và Saphira bắt đầu điều trị phần nội tạng.
Mấy phút sau, anh thương binh xoa tay lên bụng, da dẻ nơi vết thương nhẵn nhụi, không để lại vết thẹo nào. Mắt ướt nhoè, anh ta nhìn Eragon lắp bắp:
- Tôi… Khắc-Tinh của Tà-Thần. Ngài…
Eragon trao bịch chứa nước bằng da cho người lính:
- Giữ lấy. Anh cần nó hơn tôi nhiều.
Đi thêm khoảng một trăm mét nữa, Eragon và Saphira vượt qua bức tường khói mù mịt, tiến đến gần Orik và mười người lùn - cả nam và nữ - đang xếp hàng quanh thi hài vua Hrothgar đặt trên bốn tấm khiên.
Những người lùn, bứt tóc, đấm ngực, ngửa mặt lên trời than khóc. Eragon cúi đầu, lẩm bẩm:
- Stydja unin mor’rant, Hrothgar Konungr.
Một lúc sau, Orik mới nhìn thấy Eragon. Mặt ông lùn đỏ gay vì khóc, bím râu xổ tung. Ông lảo đảo đến gần Eragon, hỏi:
- Cậu đã giết thằng hèn đó chưa?
- Nó chạy thoát rồi.
Eragon không dám nói kỵ sĩ đó chính là Murtagh. Ông lùn đấm hai tay vào nhau:
- Barzuln.
- Nhưng nhân danh một người trong hoàng tộc Ingeitum, tôi thề trên từng viên đá của đất nước Alagaesia, sẽ bằng mọi cách, trả thù cho đức vua Hrothgar.
- Eragon, ngoài thần tiên, cậu là người duy nhất có đủ sức mạnh đem tên sát nhân khốn kiếp này ra trước công lý. Hãy bắt nó phải chịu đau khổ vì đã gây ra cái chết của đức vua.
- Chẳng phải đó là một cái chết vinh quang sao? Đức vua hằng ao ước chết ngoài chiến địa, với cây búa Volund trong tay.
- Chết ngoài chiến địa, đúng vậy, nhưng là khi đối diện với một kẻ thù nghĩa khí, một kẻ dám hiên ngang chiến đấu như một người đàn ông. Chứ không phải bị hạ bằng trò phép thuật hèn nhát…
Quay lại nhìn thi thể nhà vua, ông lùn khoanh tay cúi đầu, thở dài thườn thượt:
- Khi cha mẹ tôi qua đời vì bệnh đậu mùa, đứa vua đã đem tôi vào hoàng cung, nhận tôi làm thừa kế. Mất ngài… chẳng khác nào tôi mất cha lần nữa…
Giọng ông đầy đau khổ và Eragon cũng cảm thấy chạnh lòng:
- Tôi hiểu.
- Tôi biết cậu hiểu…
Chỉ mười người lùn, ông nói tiếp:
- Dù sao, việc trước tiên chúng tôi phải làm là chuyển ngọc thể của đức vua về Farthen Dur để an táng ngài trong đá cùng các đấng tiên vương. Bộ tộc Ingeitum phải chọn ra một grimstborith mới, và rồi mười ba tộc trưởng - gồm cả những vị cậu đang thấy tại đây - sẽ bầu lên một tân vương. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Thảm kịch này sẽ làm một số bộ tộc thêm dũng cảm và làm một số khác chống lại chúng tôi…
- Lúc này ông không nên quá lo lắng đến những chuyện đó. Tinh thần và thể xác tôi luôn sẵn sàng tranh đấu vì ông… Nếu muốn, hãy đến lều của tôi, chúng ta uống vài ly và ôn lại những kỷ niệm về đức vua.
- Tôi muốn lắm. Nhưng còn phải ở lại cầu nguyện cho linh hồn đức vua siêu thoát về kiếp sau.
Tạm biệt Eragon, Orik trở lại hoà giọng cầu nguyện cùng với các người lùn kia.
Cả hai tiếp tục băng qua Cánh-đồng-cháy. Saphira bảo: “Hrothgar là một vị vua vĩ đại.”
“Đúng vậy, và ông còn là một người tốt. Chúng mình phải đi tìm Arya và Nasuada. Anh mệt tới nỗi không đủ sức điều trị một vết trầy nhỏ nữa. Vả lại, họ cũng cần được biết về Murtagh.”
Rẽ về hướng nam để trở lại doanh trại Varden, nhưng mới đi được một đoạn đường, Eragon hốt hoảng khi thấy Roran đang từ bờ sông Jiet tiến tới. Roran đứng chặn trước mặt, mắt trừng trừng nhìn thẳng Eragon. Hàm dưới của anh đưa qua đưa lại, như muốn nói mà không thốt lên lời.
Rồi anh tung một quả đấm ngay cằm Eragon.
Né cú đánh đó là chuyện quá dễ với Eragon, nhưng nó hứng nhận rồi lăn ngay xuống đất, để tránh Roran bị vỡ khớp ngón tay. Tuy vậy, cằm nó vẫn hơi bị đau. Nhăn nhó, Eragon nhìn người anh họ, nói:
- Em đáng bị đánh đòn.
- Đúng vậy. Nào, bây giờ chúng ta nói chuyện.
- Ngay lúc này?
- Tao không chờ được nữa. Katrina bị Ra’zac bắt rồi. Tao cần mày giúp để giải cứu cho cô ấy. Chúng bắt Katrina khi chúng tao chuẩn bị đi khỏi làng.
“Thì ra vậy.” Eragon nhận ra ngay vì sao Roran hốc hác, ủ rũ thế và vì sao anh ta đã đưa toàn thể dân làng đến Surda. “Ông Brom đã đoán đúng, Galbatorix đã phái Ra’zac trở lại Carvahall.”
Eragon nhíu mày, bị giằng xé giữa trách nhiệm với Roran và bổn phận báo cáo công việc với Nasuada.
- Em có việc cần phải làm trước, sau đó anh em mình sẽ nói chuyện. Hay là… anh đi cùng em…
- Được.
Vừa đi Eragon vừa liếc nhìn Roran. Sau cùng nó nói nhỏ:
- Em nhớ anh quá.
Roran ngập ngừng rồi gật đầu. Đi thêm mấy bước, anh mới hỏi:
- Saphira đây phải không? Ông Jeod bảo tên nó là Saphira.
- Phải.
Saphira liếc Roran bằng một con mắt rực sáng: “Em vẫn mong có ngày được gặp họ hàng của anh Eragon.”
Nghe Eragon lập lại lời của cô rồng, Roran ngạc nhiên kêu lên:
- Nó biết nói à?
Saphira chuyển thẳng tư tưởng vào đầu Roran: “Sao? Anh tưởng tôi câm điếc như con tắc kè bằng đá à?”
Roran chớp mắt lia lịa:
- Xin lỗi. Mình không ngờ rồng lại… thông minh đến thế. Hừ, trước hết là Ra’zac, rồi pháp sư, bây giờ lại đến người lùn, kỵ sĩ rồi… rồng biết nói. Hình như thế giới này hoá điên hết rồi.
- Dạ, hình như vậy thật.
- Tao thấy mày đánh nhau với tay kỵ sĩ kia. Mày đánh nó bị thương, phải bỏ chạy à?
- Khoan. Rồi anh sẽ biết.
Tới căn nhà bạt, Eragon vén cửa, đưa Roran vào trong. Saphira nằm ngoài, chỉ vươn đầu cổ vaà. Nasuada đang ngồi bên bàn để người nữ tì cởi bộ giáp và sôi nổi bàn luận cùng Arya. Vết thương trên đùi cô đã được chữa lành. Cô ngừng nói khi thấy có người bước vào, rồi chạy lại choàng tay ôm Eragon, kêu lên:
- Anh đã biến đâu vậy? Tôi tưởng anh chết rồi?
- Chưa chết hẳn thôi.
Arya lẩm bẩm:
- Nến vẫn còn cháy.
Bước lùi một bước, Nasuada nói:
- Sau khi anh và Saphira hạ xuống mặt đá, chúng tôi không thể thấy được những gì xảy ra. Khi con rồng đỏ bỏ đi, không thấy anh xuất hiện, rồi Arya cố liên lạc những không được… vì vậy chúng tôi đã tưởng…
Cô im lặng cho qua cơn xúc động, rồi tiếp:
- Chúng tôi đang thảo luận, tìm cách tốt nhất để chuyển Con-đường Lãng-du và toàn thể chiến binh sang sông.
- Xin lỗi. Tôi không có ý làm mọi người lo lắng. Chỉ vì sau trận đánh tôi quá mệt, quên giảm phép thuật bảo vệ.
Cầm tay Roran, Eragon nói:
- Tiểu thư Nasuada, cho phép tôi được giới thiệu, đây là Roran, anh họ tôi. Cố thủ lãnh Ajihad chắc hẳn đã có lần nhắc đến anh ấy với tiểu thư. Anh Roran, đây là tiểu thư Nasuada, thủ lãnh Varden và là cấp trên của em. Còn đây là Svit-kona Arya, sứ thần của thần tiên. Roran lần lượt cúi chào cả hai.
Nasuada nói:
- Vinh hạnh được biết người anh của kỵ sĩ Eragon.
Arya cũng nói:
- Quả đúng vậy.
Sau đó, Eragon kể chuyện toàn thể dân làng Carvahall đã tới nơi này trên con tàu Cánh Rồng và chính Roran là người đã hạ sát cặp sinh đôi.
Nasuada nhướng đôi mày đậm:
- Varden rất mang ơn anh đã cắt đứt được sự hoành hành của chúng, Roran. Làm sao tính xuể những tai hại chúng đã gây ra. Anh đã giúp chúng tôi thắng trận này. Tôi sẽ ko bao giờ quên điều đó. Dù lương thực rất giới hạn, nhưng chúng tôi sẽ cung cấp đủ cho những người trên tàu đầy đủ áo quần, lương thực và người đau yếu sẽ được tận tình săn sóc.
Roran cúi thấp hơn:
- Đa tạ tiểu thư.
- Nếu thời gian không quá cấp bách, tôi rất muốn được biết bằng cách nào anh và dân làng trốn thoát người của Galbatorix, tới Surda và rồi tìm ra chúng tôi. Thật là một câu chuyện lạ lùng. Nhưng ngay lúc này nhiều vấn đề rất khẩn trương chờ giải quyết. Chúng ta đành hẹn gặp lại sau. Bây giờ anh có thể đi được rồi.
Eragon vội nói:
- Xin để anh ấy ở lại. Nên để anh ấy tham dự việc này.
Nasuada nhìn nó bằng ánh mắt đầy dò hỏi:
- Được, nếu anh muốn. Nhưng hãy đi ngay vào vấn đề chính đi và cho chúng tôi biết về gã kỵ sĩ kia.
Eragon tóm tắt chuyện ba trứng rồi còn lại – hai trứng đã nở rồi – và về Morzan, cũng như Murtagh để Roran có thể hiểu tầm quan trọng của vấn đề. Sau đó nó mới tả lại cuộc chiến của nó và Saphira với rồng đỏ và kỵ sĩ bí mật kia, đặc biệt nhấn mạnh đến quyền năng khủng khiếp của hắn ta:
- Ngay khi hắn huơ kiếm thành một vòng nhỏ, tôi nhận ngay ra là chúng tôi đã từng cùng giao đấu với nhau, vì vậy tôi đã xông tới, lột nón sắt của hắn ra và…
Nasuada lặng lẽ hỏi:
- Đó là… Murtagh?
- Vì sao?
Cô thở dài:
- Nếu cặp sinh đôi đã không chết, thì chắc chắn Murtagh cũng vậy. Anh ta có nói thật sự chuyện gì đã xảy ra tại Farthen Dur trong ngày hôm đó không?
Eragon thuật lại chuyện phản bội Varden của cặp sinh đôi, chúng đã điều khiển Urgal và bắt cóc Murtagh.
Một giọt nước mắt lăn trên má Nasuada:
- Thật đáng thương vì chuyện này đã xảy ra cho Murtagh, trong khi anh ấy đã phải chịu quá nhiều gian khổ. Tôi đã rất hài lòng với sự cộng tác của Murtagh tại Tronjheim và đã tin rằng anh ta là một đồng minh của chúng ta. Bây giờ khó có thể nghĩ rằng Murtagh là một kẻ thù.
Quay sang Roran, cô nói:
- Cá nhân tôi còn mang thêm món nợ nữa với anh, vì anh đã giết hai tên phản bội sát hại cha tôi.
Eragon thầm nghĩ: “Cha, mẹ, anh em, họ hàng. Tất cả đều bắt nguồn từ gia đình.” Thu hết can đảm, Eragon kết thúc báo cáo bằng sự việc bị Murtagh tước đoạt thanh Zar’roc và, sau cùng là, bí mật khủng khiếp của mình.
Nasuada thì thầm:
- Không thể như vậy được.
Eragon thấy nét mặt Roran thay đổi hẳn, trước khi anh ta cố bình tĩnh lại. Điều đó, hơn tất cả những điều khác, làm tim Eragon đau nhói.
Arya hỏi:
- Có thể Murtagh nói dối?
- Tôi không nghĩ vậy. Vì tôi cũng bảo là hắn nói dối và hắn đã lập lại nguyên văn bằng cổ ngữ.
Một sự im lặng bứt rứt tràn ngập trong nhà bạt. Một lúc lâu sau, Arya lên tiếng:
- Không một người nào khác được biết chuyện này. Người Varden đã đủ mất tinh thần vì kỵ sĩ kia xuất hiện. Họ sẽ càng hoang mang thêm khi biết kỵ sĩ đó chính là Murtagh - một kẻ từng được tin tưởng, từng cùng họ chiến đấu tại Farthen Dur. Nếu vụ Eragon là con trai của Morzan lan truyền ra, mọi người càng thêm vỡ mộng và chắc chẳng còn ai muốn theo chúng ta nữa. Kể cả vua Orrin, chúng ta cũng không nên để ông ta biết chuyện này.
Nasuada lắc đầu ngao ngán:
- Đúng vậy. Hừ, một kỵ sĩ mới! Tôi biết chuyện đó có thể xảy ra, nhưng vì mấy trứng còn lại quá lâu không nở, tôi thật sự không ngờ đến chuyện này. Bây giờ công việc của chúng ta càng khó khăn thêm gấp bội lần. Hôm nay chnsg ta có thể yên tâm, nhưng quân triều đình vẫn còn quá đông hơn quân ta. Cả Murtagh và rồng đỏ đều mạnh hơn anh, Eragon. Anh nghĩ có thể hạ nổi Murtagh với sự hỗ trợ của các pháp sư thần tiên không?
- Có thể. Nhưng tôi không tin hắn khờ khạo tới nỗi chiến đấu với tôi và thần tiên cùng một lúc.
Suốt nhiều phút họ cùng bàn luận, tiên đoán kế hoạch chiến lược của Murtagh để có thể làm giảm hiệu quả hoặc vô hiệu hoá chúng tối đa.
Sau cùng Nasuada nói:
- Thôi, bàn bạc như vậy tạm đủ rồi. Thân thể còn dính máu, mệt mỏi; đầu óc mụ mẫm vì trận đánh, chúng ta chẳng thể quyết định được gì đâu. Nghỉ ngơi đi, mai bàn tiếp.
Eragon sửa soạn quay ra, Arya tiến lại nhìn thẳng mắt nó:
- Eragon công tử, đừng quá bận tâm vì chuyện này. Chàng không giống như cha hay anh chàng đâu. Sự hổ nhục của họ không liên quan tới chàng.
Nasuada gật đầu:
- Đúng vậy. Đừng nghĩ rằng chuyện đó làm chúng tôi giảm niềm quý trọng anh, Eragon. Tôi biết anh có một con tim nhân ái. Cái tên của cha anh không làm thay đổi được đức tính đó.
Eragon nhìn hai người, tình thân hữu ấm áp tràn ngập trong lòng. Nó đặt tay lên ngực:
- Đa tạ.
Ra ngoài, Eragon chống hai tay lên mạn sườn hít mạnh làm không khí phảng phất khói. Trời đã xế chiều. Màu cam ủng của buổi trưa đã giảm thành màu vàng kim, trải khắp doanh trại, tạo thành một nét đẹp lạ kỳ. Eragon nói với Roran:
- Giờ thì anh đã biết tất cả rồi đó.
Roran nhún vai:
- Máu mủ bao giờ cũng giống nhau.
- Đừng nói vậy. Đừng bao giờ nói như thế nữa.
Eragon gầm lên. Roran nhìn thằng em họ một lúc:
- Xin lỗi. Anh không nghĩ vậy đâu.
Rồi nhìn mặt trời đỏ ửng cuối trời, Roran chuyển đề tài:
- Nasuada không giống như anh tưởng.
- Người mà anh định gặp là cha cô ấy, thủ lãnh Ajihad. Tuy nhiên, Nasuada là một chỉ huy có tài như cha cô ấy vậy.
- Da cô ấy… nhuộm à?
- Không. Da tự nhiên đó.
Ngay lúc đó Eragon cảm giác ông Jeod, chú Horst và một số người đang vội vàng tiến tới. Đi vòng qua một cái lều, dân làng bước chậm lại khi nhìn thấy Saphira.
- Chú Horst! Được gặp lại chú, cháu mừng quá.
Eragon hớn hở ôm ghì ông thợ rèn râu ria xồm xoàm. Horst lom lom nhìn Eragon rồi toác miệng cười:
- Cha cha, cháu lớn hơn hẳn khi cháu… ra đi.
- Ý chú là từ khi cháu chạy trốn khỏi làng chứ gì?
Eragon bỡ ngỡ nhìn dân làng. Sự vất vả, gian nan đã làm họ thay đổi quá nhiều. Có những người Eragon không thể nhận ra. Và nhất là họ cư xử với nó khác hẳn trước kia, vừa sợ hãi vừa oán giận. Điều đó làm Eragon nhớ lại một giấc mơ, trong giấc mơ đó tất cả những gì quen thuộc đều trở nên xa lạ. Nó bỗng cảm thấy lạc lõng giữa những người từng chung sống trong một ngôi làng này.
Đến trước ông Jeod, Eragon hỏi:
- Ông đã biết chuyện ông Brom rồi, phải không ạ?
-Ajihad đã gửi tin đó cho ta. Nhưng ta vẫn muốn được nghe trực tiếp từ cháu.
- Ngay khi có thể, cháu sẽ kể ông nghe, vì chuyện dài dòng lắm.
Jeod cúi đầu trước Saphira:
- Cả đời ta mong mỏi được nhìn thấy một con rồng. Vậy mà hôm nay ta đã được thấy tới hai con rồng trong chỉ một ngày. Quá may mắn. Tuy nhiên, mi mới là con rồng ta muốn gặp.
Cúi đầu chạm nhẹ lên trán Jeod, Saphira nhờ Eragon: “Hãy nói dùm, em cảm ơn ông đã giải thoát em khỏi bàn tay Galbatorix. Nếu không, giờ này em vẫn còn héo hon trong kho tàng của bạo chúa. Ông là bạn của ông Brom, vì vậy cũng là bạn của chúng ta.”
Nghe Eragon lập lại xong, Jeod làm chúng ngạc nhiên với một tràng cổ ngữ:
- Atra esterní ono thelduin, Saphira Bjartskular.
Horst hỏi Roran:
- Cháu đã đi đâu? Chúng ta tìm cháu khắp nơi từ sao khi cháu đuổi theo hai tay phù thuỷ đó.
- Lúc này không đủ thời gian để kể. Chú hãy trở lại tàu, cho mọi người lên bờ, Varden cho chúng ta ăn nghỉ tại đây.
Dân làng vui vẻ hoan hô rần rần, trong khi Eragon chăm chú nhìn Roran ra lệnh. Sau khi Jeod và mọi người đi khỏi, nó nói với Roran:
- Họ có vẻ rất tin tưởng anh. Cả chú Horst cũng làm theo lệnh anh mà không hề thắc mắc gì. Bây giờ anh là đại diện cho cả làng sao?
- Phải.
Lúc hai anh em về tới căn lều nhỏ của Eragon, bóng tối đã bao trùm lên Cánh-đồng-cháy. Saphira nằm trên nền đất bên ngoài, canh gác. Eragon bảo: “Ngay khi khoẻ lại, anh sẽ trị vết thương cho em.”
“Em biết rồi. Nhưng đừng thức khuya nói chuyện nhé.”
Vào lều, Eragon thắp cây đèn nhỏ. Nó có thể nhìn rõ trong tối, nhưng Roran cần ánh sáng.”
Hai anh em đối diện nhau. Eragon ngồi trên giường, Roran ngồi trên ghế xếp, dựa góc lều. Eragon bối rối không biết mở đầu như thế nào, chăm chăm nhìn ngọn lửa bập bùng của ngọn đèn dầu.
Cả hai đều ngồi bất động. Một lúc lâu sau, Roran nói:
- Cho tao biết, cha tao chết thế nào.
- Cha chúng ta.
Eragon gắt lên mấy câu xong nín bặt, vì thấy mặt Roran đanh lại. Nó dịu giọng, nhẹ nhàng nói tiếp:
- Em có quyền gọi cha như anh. Anh tự hỏi mình đi, em nói vậy có đúng không?
- Được. Cha chúng ta đã chết ra sao?
Eragon đã kể lại chuyện này nhiều lần. Nhưng lần này nó không giấu diếm một điều gì. Thay vì chỉ thuật lại những sự kiện, nó kể tỉ mỉ những gì nó đã suy nghĩ, đã cảm thấy từ khi nhặt được trứng của Saphira, cố gắng làm Roran hiểu những gì nó đã làm và vì sao.
- Em có lỗi khi giấu diếm cả nhà chuyện Saphira, nhưng là vì em sợ anh bắt em giết nó, và em đã không nhận ra Saphira đưa đẩy gia đình ta vào vòng nguy hiểm đến thế nào. Sau khi cha chết, em quyết định đi khỏi làng, để lần theo dấu vết Ra’zac, đồng thời tránh cho làng ta những hiểm nguy. Vậy mà dân làng vẫn không thoát. Nhưng nếu em ở lại, lính triều đình còn tới sớm hơn. Thậm chí, có thể đích thân Galbatorix cũng tới thung lũng Palancar của chúng ta. Có thể em là nguyên nhân cái chết của cha, nhưng không bao giờ em cố tình gây ra cớ sự. Em cũng không bao giờ có ý định gây đau khổ cho anh, cho dân làng… Anh Roran, em đã cố gắng làm những gì tốt nhất mà em có thể…
- Phần còn lại là – ông Brom từng là kỵ sĩ, việc giải thoát Arya tại Gil’ead, giết tà thần trong thủ phủ của người lùn – đúng vậy không?
- Dạ.
Eragon tóm tắt những chuyện xảy ra từ khi nó và Saphira lên đường cùng ông Brom, những ngày lưu lại hoàng cung Ellesméra và sự thay đổi của bản thân nó sau Lễ-hội Huyết-thệ.
Roran ôm gối cúi mình tới trước, lom lom nhìn mặt đất giữa hai anh em. Eragon không thể đoán được cảm xúc của người anh họ và nó không dám xâm nhập vào trí não anh. Nó cảm thấy sẽ là một sai lầm kinh khủng nếu lục lọi tư tưởng anh mình.
Roran cứ ngồi lặng lẽ như vậy, cho đến khi Eragon tưởng như anh sẽ không bao giờ chịu nói gì với nó nữa, thì Roran mới lên tiếng:
- Em đã hạm sai lầm, nhưng vẫn chưa lớn bằng lỗi lầm của anh. Cha chết vì anh đã không chịu nạp mạng cho triều đình… Chúng ta đều có tội như nhau.
Anh ngửng lên và từ từ đưa ra bàn tay phải:
- Em trai của anh.
- Anh Roran.
Eragon nắm tay anh. Hai anh em kéo nhau vào lòng, ôm nhau, vật lộn như những ngày còn ở quê nhà. Khi buông nhau ra, Eragon đưa cánh tay lên quệt nước mắt, nói đùa:
- Bây giờ hai anh em ta lại ở bên nhau, chắc chắn Galbatorix sẽ phải đầu hàng. Nào, kể chuyện chị Katrina bị Ra’zac bắt cho em nghe.
Tất cả niềm vui biến hết trên mặt Roran. Anh trầm trầm, chậm rãi kể. Eragon lắng nghe, càng lúc càng kinh ngạc vì những cuộc tấn công, bao vây, phản bội và việc di chuyển khỏi làng, vượt núi Spine, phá huỷ cảng Teirm, thoát hiểm trong dòng xoáy khủng khiếp của Mắt-lợn-lòi.
Sau cùng Eragon bảo:
- Anh đáng mặt anh hùng hơn em. Em không làm được phân nửa những chuyện anh đã làm. Chiến đấu thì có, nhưng không thuyết phục được tất cả mọi người theo mình.
- Vì anh đâu còn chọn lựa nào khác nữa. Khi chúng bắt Katrina… Đầu hàng và chết. Hoặc phải cố thoát bẫy của Galbatorix với bất cứ giá nào. Anh đã lừa gạt, đốt phá, tàn sát để tới được đây. Bây giờ dân làng đã có Varden bảo vệ, mục đích duy nhất của anh lúc này là giải thoát Katrina, nếu… cô ấy chưa chết. Em sẽ giúp anh chứ. Eragon?
Với tay lấy cái túi nơi góc lều, Eragon lấy ra một cái bát gỗ và cái bình bạc đựng rượu faelniv ông lùn Orik đã cho. Nó nhấp một ngụm nhỏ cho tỉnh người. Rồi rót rượu vào bát, gom nội lưc, Eragon nhìn vào lòng bát sóng sánh rượu, bật nói:
- Draumr kópa.
Rượu sáng lên rồi đen dần. Sau vài giây một tia sáng mỏng manh xuất hiện, để lộ ra hình ảnh Katrina. Cô đang nằm rũ bên một bức tường vô hình, hai tay bị trói bằng một sợi xích cũng vô hình, tóc xoã xuống lưng.
- Cô ấy còn sống.
Roran lẩm bẩm. Gò mình trên cái bát, Roran nghẹn thở, tưởng như anh có thể nhảy vào trong lòng bát để được gặp Katrina. Hy vọng và sự quyết tâm hiển hiện trong ánh mắt nhìn âu yếm dịu dàng. Eragon biết chỉ có cái chết mới có thể ngăn chặn Roran tìm cách cứu nàng.
Quá đuối sức, không chịu đựng hơn nổi nữa, Eragon thu hồi phép thuật. Hình ảnh Katrina mờ dần. Dựa lưng vào lều để thở, Eragon nhìn Roran lo lắng:
- Chị ấy còn sống. Chẳng may mà bị giam tại Helgrind, hang ổ của Ra’zac.
Nắm vai Roran, nó nói:
- Em trả lời câu hỏi của anh đây: em đồng ý cùng anh tới Dras-Leona. Em sẽ giúp anh giải cứu chị Katrina. Hai anh em ta sẽ giết Ra’zac để trả thù cho cha.


Phát âm


Aiedail - AY-uh-dale: Ây-u-đên.
Ajihad - AH-zhi-hod: A-Di-Hôt.
Alagaësia - al-uh-GAY-zee-uh: Am-u-Gay-di-u.
Arya - AR-ee-uh: A-i-u.
Carvahall - CAR-vuh-hall: Ca-vu-han.
Dras-Leona - DRAHS-lee-OH-nuh: Dờ-rax-li-ô-nu.
Du Weldenvarden - doo WELL-den-VAR-den: đu-Oeo-đen-va-đen.
Ellesméra - el-uhs-MEER-uh: eo-ux-Mir-u.
Eragon - EHR-uh-gahn: E-u-gan.
Farthen Dûr - FAR-then DURE (dure rhymes with lure ): Pha-đen-Đuya.
Galbatorix - gal-buh-TOR-icks: gan-bu-to-ix.
Gil'ead - GILL-ee-id: Giu-e’-it.
Glaedr - GLAY-dur: Gờ-Lay-đua.
Hrothgar - HROTH-gar: Hờ-Rót-ga.
Islanzadi - iss-lan-ZAH-dee: ix-lan-Da-đi.
Jeod – JODE: Dô-đờ Murtagh - MUR-tag: Mơ-rơ-lắc.
Nasuada - nah-SOO-ah-dah: Na-Su-a-đa.
Nolfavrell - NOLL-fah-vrel: Non-pha-vờ-reo.
Oromis - OR-uh-miss: O-u-mix.
Ra'zac - RAA-zack: Raa-dắc.
Saphira - suh-FEAR-uh: Su-phia-u.
Shruikan - SHREW-kin: Sờ-rin-kin.
Teirm – TEERM: Tim.
Trianna - TREE-ad-nuh: Tri-a-nu.
Tronjheim - TRONJ-heem: Tờ-rông-hem.
Vrael – VRAIL: Vờ-rây.
Yazuac - YA-zoo-ack: Y-A-du-ách.
Zar'roc - ZAR-rock: Da-rốc.


The ancient Language: Ngôn ngữ cổ


* adurna – water: nước.
* Agaetí Blödhren - Blood-oath Celebration: Lễ-hội Huyết-thệ.
* Aiedail - the morning star: Sao mai.
* Argetlam - Silver Hand: Bàn tay bạc.
* Atra esterní ono thelduin/Mor'ranr lífa unin hjarta onr/Un du evarínya ono varda. - May good fortune rule over you/Peace live in your heart/And the stars watch over you: Cầu xin bạn gặp may/tâm bình an và các ngôi sao sẽ phù hộ bạn.
* Atra gülai un ilian taught ono un atra ono waíse skölir frá rauthr. - Let luck and happiness follow you and may you be a shield from misfortune: Cầu cho bạn được may mắn và hạnh phúc và tránh gặp rủi ro.
* Atranosu waíse vardo fra eld hórnya. - Let us be warded from listeners: Hãy bảo vệ chúng ta khỏi kẻ nghe lén.
* Bjartskular – Brightscales: Vảy sáng.
* Blöthr - halt; stop: ngừng lại
* Brakka du vanyalí sem huildar Saphira un eka! - Reduce the magic that holds Saphira and me!: Hãy giảm phép thuật bao bọc tôi và Saphira!
* brisingr – fire: lửa.
* dagshelgr - Hallowed Day: Ngày Thánh.
* Du Fells Nángoröth - The Blasted Mountains: rặng núi Đáng nguyền rủa.
* Du Fyrn Skulblaka - The Dragon War: Chiến tranh Rồng.
* Du Völlar Eldrvarya - The Burning Plains: Cánh-đồng-cháy.
* Du Vrangr Gata - The Wandering Path: Con-đường Lãng-du.
* Du Weldenvarden - The Guarding Forest: Rừng bảo hộ.
* dvergar – dwarves: người lùn.
* ebrithil – master: Thầy, sư phụ.
* edur - a tor or prominence: Nổi bật, xuất chúng.
* Eka aí friai un Shur'tugal! - I am a Rider and a friend!: Tôi là kỵ sĩ và là bạn!
* elda-a gender – neutral honorific of great praise: Ngài, tiên sinh.
* Eyddr eyreya onr! – Emty your ears!: Hãy để tai trống rỗng. Không nghe gì hết.
* fairth - a picture taken by magical means: Một bức tranh tạo bằng phép thuật.
* Fricai Anglát - death friend: một loại nấm độc.
* Gala O Wyrda brunhvitr/Abr Berundal vandr-fodhr/Burthro lausblädar eja undir/Eom kona dauthleikr... - Sing O white-browed Fate/Of ill-marked Berundal/Born under oaken leaves/To mortal woman...
* gánga aptr - to go backward: Đi giật lùi.
* gánga fram - to go forward: Tiến lên.
* Gath sem oro un lam iet - Unite that arrow with my hand: Kết hợp mũi tên đó với tay tôi.
* gedwëy ignasia - shining palm: Lòng bàn tay sáng.
* Gëuloth du knífr! - Dull the Knife!: Làm cùn lưỡi dao.
* haldthin – thornapple: Gai cây táo.
* Helgrind - The Gates of Death: Cổng Tử thần.
* hlaupa – run: chạy.
* hljödhr - silent : im lặng.
* jierda - break; hit: Đánh.
* kodthr – catch: bắt.
* Kvetha Fricai - Greetings, friend: Chào bạn.
* lethrblaka - a bat; the Ra’zac’ mounts: một con dơi, vật để Ra’zac cưỡi.
* letta – stop: Ngừng lại.
* Letta orya thorna! - Stop those arrows!: Những mũi tên kia hãy ngừng lại!
* Liduen Kvaedhí - Poetic Script: Tập thơ.
* Losna kalfya iet - Release my calves: Buông chân ta ra.
* malthinae - to bind or hold in place; confine: Hỗn hợp sáp ong và dầu quả hạnh.
* Osthato Chetowä - the Mourning Sage: Hiền-nhân Sám-hối.
* Reisa du adurna. - Raise/Lift the water: Nâng lên/Truyền sự sống cho nước.
* rïsa – rise: Đứng lên.
* Sé mor'ranr ono finna - May you find peace: Cầu bạn bình an .
* Sé onr sverdar sitja hvass! - May your swords stay sharp!: Cầu gươm bạn bén! .
* Sé orúm thornessa hávr sharjalví lífs. - May this serpent have life's movement: Con rắn này có sự sống.
* skölir – shield: Tấm khiên, che chắn.
* skölir nosu fra brisingr! - Shield us from fire!: Hãy che chở chúng tôi khỏi ngọn lửa.
* skulblaka – dragon: con rồng .
* Stydja unin mor'ranr, Hrothgar Könungr. - Rest in peace, King Hrothgar: Hãy an nghỉ, vua Hrothgar.
* svit-kona – Công nương.
* thrysta - thrust; compress: áp đặt .
* thrysta vindr - Compress the air: Nén không khí.
* Togira Ikonoka - The Cripple Who Is Whole: Tàn nhưng không phế.
* the Varden - the Warders: Giám thị.
* Vel eïnradhin iet ai Shur'tugal. - Upon my word as a rider: Lấy danh dự của một kỵ sĩ.
* Vinr Älfakyn - Elf Friend: Bạn thần tiên.
* vor - a male honorific for a close friend: hảo bằng hữu.
* Waíse heill! - Be healed!: Hãy bình phục!.
* Wiol ono. - For you: Vì em, anh.
* wyrda – fate: số phận.
* Wyrdfell - elven name for the Forsworn: phản đồ.
* yawë - a bond of trust: Mối ràng buộc tin tưởng.
* Zar'roc – misery: Bất hạnh.


The dwarf Language :Ngôn ngữ người lùn


* Akh sartos oen durgrimst! - For family and clan!: Vì gia đình và thị tộc!
* Ascudgamln - fists of steel: Nắm đấm bằng théP.


* Astim Hefthyn - Sight Guard (inscription on a necklace given to Eragon): Con mắt bảo vệ.
* Az Ragni - The River: Sông.
* Az Sweldn rak Anhuin - the Tears of Anhuin: Nước mắt Anhuin.
* Azt jok jordn rast - Then you may pass: Được phép qua.
* barzul - to curse someone with ill fate:Rủa.
* Beor - cave bear : Hang gấu.
* dûrgrimst – clan: Thị tộc.
* eta – no: Không.
* Etzil nithgech - Stop there!: Đứng lại đó!
* Farthen Dûr - Our Father: Cha của chúng ta.
* Feldunost – frostbeard: Một loài dê đặc hữu của núi Beor.
* Formv Hrethcarach...formv Jurgencarmeitder nos eta goroth bahst Tarnag, dur encesti rak kythn! Jok is warrev az barzulegur dur durgrimst, Az Sweldn rak Anhuin, mogh tor rak Jurgenvren? Ne udim etal os rast knurlag. Knurlag ana - This Shadeslayer...this Dragon Rider has no place in Tarnag, our holiest of cities! Do you forget the curse our clan, the Tears of Anhuin, bears from the Dragon War? We will not let him pass. He is...: Gã Khắc-Tinh của Tà-Thần này… Gã kỵ sĩ rồng này không có chỗ đứng tại Tarnag, thành phố thánh của chúng ta! Mi quên lời nguyền của thị tộc rồi sao? Nước mắt Anhuin chảy ra vì chiến tranh với loài rồng, chúng ta không cho hắn vượt qua đây. Hắn sẽ….
* Grimstborith - clan chief: Tộc trưởng.
* Guntera Aruna - Guntera Bless: Lời chúc phúc của Guntera.
* Hert dugrimst? – What clan? Who passes?: Thị tộc nào?.
* hírna – statue: Bức tượng.
* huthvir - double-bladed staff weapon used by the Durgrimst Quan: Một loại vũ khí: kiếm hai đầu.
* Ignh az voth! - Bring the food!: Mang đồ ăn ra.
* Ingeitum - metalworkers; smiths: Thợ rèn.
* Isidar Mithrim - Star Sapphire: Ngôi sao saphia.
* Jok is frekk durgrimstvren? - Do you want a clan war?: Mi muốn một cuộc chiến thị tộc sao?.
* knurl - stone; rock: đá.
* knurla – dwarf:người lùn.
* Knurlag qana qiranu Durgrimst Ingeitum! Qarzul ana Hrothgar oen volfild - He was made a member of Clan Ingeitum! Cursed is Hrothgar and all who...: Anh ta đã trở thành một thành viên của tộc Ingeitum.
* knurlagn – men: người.
* knurhiem – Stonehead: đầu đá.
* knurlnien - Heart of Stone: Tim của đá.
* nagra - giant boar, native to the Beor Mountains: Con tàu vĩ đại
* oef - yes; affirmative: Vâng, đúng.
* Orik Thrifkz menthiv oen Hrethcarach Eragon rak Durgrimst Ingeitum. Wharn, az vanyali-carharug Arya. Ne oc Undinz grimstbelardn. - Orik, Thrifk's son, and Shadeslayer Eragon of Clan Ingeitum. Also, the elf-courier Arya. We are Undin's hall-guests: Orik, con trai của Thrifk và Eragon Khắc-Tinh của Tà-thần thuộc chủng tộc Ingeitum
* otho -faith: Đức tin.
* Ragni Hefthyn - River Guard: Bảo vệ sông.
* shrrg - giant wolf: sói vĩ đại.
* smer voth - Serve the food: phục vụ món ăn.
* Tronjheim - Helm of Giants: Nón sắt của người khổng lồ.
* Urzhad - cave bear: Hang gấu.
* vanyali – elf: Thần tiên.
* Vor Hrothgarz korda! - By Hrothgar's hammer!: Bằng cây búa của Hrothgar!.
* vrron – enough: đủ .
* werg - an exclamation of disgust: tán thán từ chỉ sự ghê tởm.


THE URGAL LANGUAGE: NGÔN NGỮ URGAL


Ahgrat ukmar – It is done: đã hoàn tất.
Drail-spawn of maggots: trứng dòi.
Nar: tước hiệu được tôn trọng.


HẾT PHẦN 2
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 06:11 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.