Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 12-20-2012, 01:38 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Huỳnh Dị - trọn bộ 101 hồi

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 1

Vung roi quất xuống nước


Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.
Tên gọi tuy kỳ dị, nhưng nhất định là một vùng độc nhất vô nhị thời bấy giờ. Nó vừa là nơi phơi xác lương dân, vừa là nơi những kẻ lưỡi đao nhuốm máu chen nhau cướp lấy; nguy hiểm tuy đầy rẫy, nhưng cơ hội cũng trùng trùng; là nơi anh hùng hào kiệt chết không có đất chôn, cũng là võ đài cho những kẻ bạt mạng liều lĩnh thành danh lập nghiệp; càng là một vùng đất lý tưởng để chính quyền các nơi tiến hành những vụ ngoại giao bí mật. Lúc này nó có thể là Đào Nguyên thời loạn, lúc khác lại biến thành địa ngục Tu La giữa trần gian. Không có nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, nhưng cũng không có nơi nào khác đáng yêu như nó. Biên Hoang là nơi ông trời tạo ra cho những người có bản lĩnh, triết lý và pháp quy để sinh tồn ở đó không giống bất kỳ vùng đất nào trên cõi đời này.
Sự tồn tại kỳ lạ của Biên Hoang có một lịch sử lâu đời và nhiều nhân tố khách quan, mỗi đoạn sử chương đều được viết bằng máu của những chiến binh và nỗi lầm than của dân chúng.
Từ khi tôn thất nhà Hán sụp đổ, hào kiệt các nơi nổi dậy, chiến sự kéo dài lan rộng triền miên, sản xuất đình trệ dẫn đến nạn đói, cái ác hoành hành khiến miền trung thổ vốn dĩ đã phát triển được nghìn năm bỗng chìm vào cảnh xương trắng phơi ngoài nội, ngàn dặm không có một ánh lửa thổi nấu.
Thời Tam Quốc, nước Ngô của họ Tôn và nước Ngụy của họ Tào, mỗi lần chiến sự hầu hết đều bạo phát ở vùng Hoài Tứ, khiến cho thành quách nơi đây bị phá hủy, đồng ruộng hoang hóa, nhân dân lưu lạc bốn phương, nhà cửa bỏ trống không ai ở, hàng trăm dặm lạnh ngắt không một bóng người.
Đến khi họ Tư Mã nhà Tây Tấn thống nhất thiên hạ, dân cư vùng này lẽ ra đã được sống vui vẻ, đáng tiếc loạn Bát Vương, họa Vĩnh Gia theo nhau bùng phát, ngũ đại Hồ tộc là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Đê, Hạt hợp nhau nổi dậy chống Tấn, tạo một cơn phong bạo lớn trong lịch sử, lại làm cho trung thổ thêm tàn tạ. Đến khi Hoài Mẫn nhị đế của nhà Tấn phải đào vong, tôn thất nhà Tấn bị bức dời qua Nam, hình thành cục diện
Nam Bắc đối lập, vùng Hoài Tứ vẫn là một hung địa chiến tranh, chịu nhiều thiệt hại nặng nề nhất. Hoài Thủy và Tứ Thủy trở thành biên giới bất thành văn của chính quyền Nam Bắc triều, Biên Hoang chính là “vùng đất không có người” nằm ở biên giới đó.
Tình trạng đặc biệt của Biên Hoang được tạo nên trong một hoàn cảnh như vậy.
Đối với những người Hồ xuất thân từ dân du mục phương Bắc, theo tập tục tất phải chừa một khoảng cách gọi là Âu Thoát ở nơi giáp ranh giữa hai tộc, coi như vùng tạm hoãn xung đột, những lúc nhàn sự hai bên Hồ và Hán đều không được xâm nhập, cấm chỉ với cả khách vãng lai, ngược lại sẽ coi như khơi bờ gây chuyện. Còn đối với chính quyền phương Nam, mảnh đất địa đầu này cũng không thích hợp để dân cư trú, chỉ hữu ích khi thực thi chiến lược “thành không nhà trống”, ngăn cản vó ngựa Hồ tràn xuống phía Nam. Những lý do ấy khiến cho vùng đất rộng lớn, trải dài hàng trăm dặm dần dần hoang liêu tàn tạ.
Biên Hoang đã hình thành trong tình hình kỳ quái đặc biệt, được các thế lực Nam Bắc mặc nhiên thừa nhận như vậy.
Ở trung thổ, Biên Hoang là nơi hoang vu nhất, nhưng điều mâu thuẫn là Biên Hoang Tập - nằm giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, thuộc trung tâm của Biên Hoang, bên bờ tây Dĩnh Thủy - lại chính là vùng hưng vượng nhất của trung thổ. Nó là đầu mối chuyển vận duy nhất giữa Nam và Bắc, là cây cầu thông thương của hai miền, là nơi các thế lực hào cường trong thiên hạ tranh quyền đoạt lợi, là địa bàn hành sự cho những bang hội buôn lậu và làm ăn phi pháp. Chỉ cần bảo đảm được tính mệnh để rời khỏi đây, bất luận là thương nhân, kỹ nữ, thợ thầy, hay bất kỳ ai đều có thể kiếm được số tiền tài nhiều gấp mười lần nơi khác. Điều này khiến Biên Hoang trở thành một địa phương đầy sức thu hút ma quỷ, là vùng mà trời đất tạo nên để dành riêng cho những kẻ có bản lĩnh và tốt số.
Ở đây, vương pháp không tồn tại. Những kẻ xâm nhập vùng này được gọi là “Hoang nhân”, không thuộc nhà Tấn ở phương Nam, cũng không thuộc chính quyền Hồ tộc ở phương Bắc.
Hạng Thành, tiền thân của Biên Hoang Tập, vốn là một thành đô lớn bị khói lửa chiến tranh làm cho tan phế. Nhiều năm gần đây, Biên Hoang Tập không bị bạo loạn càn quét, sự hưng vượng của nó đạt tới đỉnh cao chưa từng thấy từ trước tới giờ, đáng tiếc một trường chiến tranh hung tàn mờ mịt lại đang manh nha ở phương Bắc, đe dọa tràn qua để xuống phương Nam, trước mắt Hoang nhân đại họa gần bức đến.
o0o
Phù Kiên, thủ lĩnh Đê Tần, gò ngựa lại trên một mỏm cao, lướt nhìn xuống đội tiên phong khí thế đỉnh thịnh, tinh kỳ phần phật. Đại cử tiến công chỉ còn lại địch thủ cuối cùng - nhà Tấn ở phía Nam, mà mục tiêu của đợt ra quân đầu tiên là Thọ Dương, một trấn có tầm quan trọng chiến lược vùng nam ngạn Hoài Thủy. Cảm xúc phấn chấn đắc ý trong lòng ông ta lúc này, quả thực khó mà diễn tả thành lời.
Bảy năm về trước, Phù Kiên điều binh khiển tướng phá diệt kình địch là Đại quốc của Tiên Ti, thống nhất phương Bắc dưới vó ngựa sắt của mình. Năm tộc lớn là Hung Nô, Tiên Ti, Khương, Yết, Hán đều cúi đầu xưng thần với Phù Kiên, kết thúc bảy mươi hai năm (tính từ “họa Vĩnh Gia” của Tấn triều khiến tôn thất nhà Tấn phải dời xuống Nam) các bộ tộc tranh giành trục lộc ở tái nội và tái ngoại, ổn định được cục diện hỗn loạn như quần long mất đầu, công nghiệp cái thế chấn động cổ kim. Hiện tại tất cả mọi điều kiện để nam chinh đã hội đủ, hai châu Lương, Ích của nhà Tấn và một trấn quan trọng là Tương Dương đều đã lọt vào tầm kiểm soát của Phù Kiên, khả năng thống nhất thiên hạ sắp đến lúc có thể thò tay là nắm được, còn ai đủ lực đứng ra tranh cường với ông ta đây?
Chuyến này tiến quân xuống phương Nam, Phù Kiên cho thân đệ là Phù Dung làm soái, đại tướng Mộ Dung Thùy và Diêu Trường làm phó, xuất động sáu mươi vạn bộ binh, hai mươi bảy vạn kỵ binh, ngoài ra còn có tám vạn thủy sư từ Ba Thục xuôi dòng Trường Giang và Hán Thủy xuống phía đông, phối hợp tác chiến, thực lực đủ để nghiến nát bất kỳ sự kháng cự nào của quân Tấn vốn tướng ít binh thưa.
Phù Kiên năm nay bốn mươi lăm tuổi, thân thể khang kiện của người vốn quen dãi dầu nắng mưa nơi tái ngoại, sinh lực sung mãn, khuôn mặt vuông vức, râu ria lởm chởm xồm xoàm quanh miệng, kết hợp với sống mũi cao và cặp mắt sâu, diện mạo thật nổi bật, ngồi trên lưng ngựa tràn đầy khí độ quân chủ. Lúc này ông đang ngưng thần vọng về nơi xa, mắt lấp lánh sáng, tựa như đã nhìn thấy trước cái suy sụp thất thế của nhà Tấn, thê thảm bại vong dưới bước tiến của đạo quân hùng sư liên hợp các bộ tộc Hán, Đê, Khương, Tiên Ti và Yết của ông.
Mười mấy viên tướng lãnh quây quanh bên trái bên phải, sau lưng Phù Kiên như chúng tinh ủng nguyệt, đại diện cho những nhân vật lãnh tụ kiệt xuất nhất của các bộ tộc Bắc phương, một lòng theo ông thực thi chính sách “hợp nhất tứ hải”, là thành quả kiêu hãnh mà ông luôn lấy làm tự hào, khiến cho sự hưng khởi cường thịnh trước mắt đây trở thành sự thực. Trước kia, người thất bại trong chiến tranh luôn khó thoát khỏi cảnh thê thảm vong quốc diệt tộc, nhưng đến lượt mình, Phù Kiên khéo léo đối đãi với những kẻ đã rơi vũ khí, mỗi lần diệt một nước, ông đều ban quan hàm cho quân thần ở đó, lại ra lệnh cho những bộ thuộc thống lĩnh cũ duy trì “vương đạo”. Đối với Phù Kiên, đó là phương pháp đối nhân xử thế tất yếu trong việc thống nhất thiên hạ.
Trong số tướng lãnh ấy, người có thanh danh nhất là viên đại tướng đang đứng hàng đầu bên trái ông, Mộ Dung Thùy tộc Tiên Ti. Người này võ công cái thế, tay cầm cây thương Bắc Bá quán thế vô địch, là một thống soái tung hoành bất bại trên chốn sa trường. Y tập hợp dưới tay nhiều chiến binh Tiên Ti kiêu dũng thiện chiến, đã lập được vô số công lao hãn mã, uy chấn cả vùng tái nội và tái ngoại. Thu dụng được y là phúc khí lớn nhất của Phù Kiên, nếu không đó sẽ là một đối thủ vô cùng đáng sợ.
Mộ Dung Thùy kém Phù Kiên mười tuổi, thân hình hùng vĩ như núi, cao hơn Phù Kiên ít nhất nửa cái đầu, diện mạo tuấn vĩ, mái tóc dài đen nhánh phủ xuống vai, một vòng sắt bọc quanh trán, cặp mắt có thần, sâu thẳm không đoán được, lưng thẳng, thân hình toát ra khí thế bức nhân uy nhiếp chúng sinh, như một ma thần từ âm phủ hiện lên giữa chốn trần gian.
Bên phải Phù Kiên là Diêu Trường, mãnh tướng của Khương tộc, thanh danh chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, tuy tướng ngũ đoản, thấp hơn người thường đến một khúc, nhưng cổ to lưng dày, mặt như sắt đúc, cái đầu báo đặc biệt lớn, cặp mắt lấp lánh như chuông đồng, lại thêm đôi huyền thiết đoản mâu nặng cỡ năm mươi cân, chẳng ai còn dám xem thường y. Hiếm người nào có thể chịu đựng được hậu quả của việc đó.
Những tướng lĩnh khác thì mỗi người một dạng, nhưng đều dẻo dai dũng mãnh, đã trải qua bao sóng to gió lớn của chiến trường.
Phù Kiên thu ánh mắt, nhìn lướt hai bên trái phải, khóe môi phớt một nụ cười, nhận xét với đôi chút trào lộng: “Người ta nói An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà? Hiện tại An Thạch đã ra mặt, lo việc quân chính cho Tư Mã Diệu, để xem lão có thể biến hóa đến mức nào trong bàn tay trẫm?”.
Đại tướng Lữ Quang của Đê tộc đang đứng bên kia Mộ Dung Thùy cười khẩy: “Tạ An đáng gì? Thần xem bất quá cũng thuộc hạng như Ân Hạo, tự xưng phong lưu danh sĩ, những chuyện đạo giáo thì không ai nói lại, nhưng đối với chiến trận sa trường cùng lắm chỉ biết vuốt ve thanh kiếm”. Lữ Quang có ngoại hiệu “Long Vương”, kể về công phu dưới nước thì được xưng tụng là quán quân Hoàng Hà, binh khí sử một đôi Hồn Thủy Thích.
An Thạch là tên gọi khác của Tạ An, tể tướng nhà Tấn ở phương Nam, được tôn xưng đệ nhất danh sĩ Trung Nguyên, nhưng ẩn cư ở Đông Sơn mười sáu năm, từ chối con đường hoạn lộ, nên mới có câu “An Thạch bất xuất, tương như thương sinh hà”, hàm ý bộc lộ sự kỳ vọng và ngưỡng mộ của người Tấn đối với ông ta. Ân Hạo cũng là một danh sĩ đức cao vọng trọng của Đông Tấn, tuy học đủ năm xe sách, nhưng không hiểu quân sự, không tự lượng sức cũng mon men nối bước những danh tướng nhà Tấn như Tổ Địch,
Dữu Lượng, Dữu Dực dẫn quân bắc phạt, sau thảm bại quay về, vừa phụ tiếng thơm danh sĩ, vừa chuốc lấy sự đả kích của người trong thiên hạ. Lữ Quang coi Tạ An như Ân Hạo, đó cũng là thái độ chung của các tướng lĩnh Hồ tộc, khinh khi và xem thường loại danh sĩ tự nhận thanh cao như Tạ An.
Chư tướng nhao nhao phụ họa, phấn hứng vô cùng, duy chỉ có Mộ Dung Thùy và Diêu Trường thì im lặng không nói gì hết.
Phù Kiên thấy lạ, chau màu hỏi với vẻ không vui: “Hai vị khanh gia phải chăng có suy nghĩ khác? Mau nói thật với trẫm!”.
Diêu Trường nghiêm túc bẩm lên: “Tôn thất Tấn tuy yếu, nhưng chỗ dựa là Trường Giang hiểm trở, Giang Nam trù mật. Ngày nay chúng ta dẫn quân xuống, người phương Nam nhất định sẽ đoàn kết một lòng, nên thần chưa dám khinh địch”.
Phù Kiên lạnh lùng, ngạo mạn nói: “Người phương Nam xưa nay ăn trắng mặc trơn, chìm đắm trong hoan lạc, không chuyên cần võ bị; lại thêm sự khuynh loát lẫn nhau giữa thế gia đại tộc thiên di về Nam và các thế tộc lâu đời ở bản địa, cho dù thấy quân đến dưới thành nên đoàn kết, cũng đã quá muộn rồi. Còn cái gọi là thế hiểm của Trường Giang, với bách vạn hùng sư của chúng ta, chỉ cần quật roi xuống nước là đủ ngăn dòng chảy. Mấy tên oắt con phương Nam đó, có đáng nhắc đến không?”.
Bọn họ đều nói tiếng Hán, thời ấy là ngôn ngữ thông dụng thịnh hành nhất, không một thổ ngữ Hồ tộc nào sánh bằng, là ngôn ngữ chính thức để chứng minh cho thân phận cao quý trong các dân tộc. Đê Tần là quốc gia bị Hán hóa sâu sắc nhất trong các tộc người Hồ, Phù Kiên luôn cho mình là hiểu biết tôn chỉ “vương đạo” của Nho gia còn hơn người Hán, thường cảm khái “đã ổn định bốn phương, duy có vùng đông nam chưa nhiễm vương hóa”, hiện tại cuối cùng cũng đã đến thời khắc lịch sử để trừ bỏ mối di hận ấy.
Khi Phù Kiên đưa mắt nhìn Mộ Dung Thùy, viên đại tướng võ công và binh pháp kiêm toàn đệ nhất phương Bắc ấy bình thản thưa: “Binh lực của người phương Nam đúng là kém xa chúng ta, nhưng do Tạ An một tay ráo riết thành lập. Bắc Phủ binh, do cháu ông ta là Tạ Huyền đôn đốc huấn luyện, tuy không quá mười vạn quân, nhưng không thể xem thường, mong chúa thượng minh xét”.
Phù Kiên gật đầu tán thưởng: “Nói hay lắm, Tôn Tử có viết: biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng. Bắc Phủ binh sớm đã nằm trong dự tính của trẫm, chuyến này chúng ta xua quân xuống thẳng đô thành Kiến Khang của người phương Nam, họ chỉ có hai chọn lựa, một là phải lao ra dốc hết sức quyết chiến, một là đóng cửa thành tử thủ. Mà bất luận lựa chọn thế nào, cũng đều không còn hy vọng. Trẫm nén lòng chờ đợi nhiều năm
nay, đến lúc này thần phục Bắc cương, lại lo lắng bị tập hậu, mới dốc hết lực lượng, dùng binh uy áp đảo, quyết một trận nghiến nát giấc mộng dẹp yên của bọn Tư Mã Diệu, Tạ An. Còn Tạ Huyền tuy được xưng tụng là đệ nhất kiếm thuật đại gia của phương Nam, thượng thượng phẩm cao thủ trong hàng ngũ cửu phẩm, đáng tiếc kinh nghiệm hành quân tác chiến còn non kém, có thể chiến thắng nhiều trận đều là do chưa gặp qua cường địch. Trong hàng ngũ tướng lĩnh của Nam Triều, chỉ có Hoàn Xung còn tạm coi là một nhân vật, thừa hưởng được mấy phần bản lĩnh của người cha là Hoàn Ôn, đáng tiếc lại bị trẫm kềm chế ở Kinh Châu, đành tử thủ Giang Lăng, không cựa quậy gì được nữa”.
Rồi ông gọi lớn: “Chu khanh gia, trẫm nói vậy khanh thấy thế nào?”.
Một Hán tướng đứng ở hàng cuối cùng, tên là Chu Tự nghe gọi giật mình, vội vàng ứng tiếng: “Chúa thượng thông hiểu tình hình phương Nam, mọi việc đều nắm rõ trong lòng bàn tay, vi thần bội phục sát đất”.
Chu Tự vốn là đại tướng của nhà Tấn, bốn năm trước trấn thủ Tương Dương, thất bại đầu hàng, được Phù Kiên trọng dụng, Phù Kiên cũng thông qua y tìm hiểu cặn kẽ phân bố, điểm mạnh điểm yếu của binh lực Nam Triều. Nhưng đó là chuyện bốn năm về trước.
Phù Kiên ngửa mặt lên trời cười dài, thần tình đắc ý vô cùng, một luồng tráng chí trào thấu tâm can: “Chu khanh gia yên tâm, trẫm xưa nay tiến hành chuyên chính theo vương đạo, lấy đức thu phục lòng người, coi bốn bể là một nhà, tuyệt không lạm sát dân tình vô tội. Bình định được phương Nam rồi, người của Nam Triều sẽ được cân nhắc sử dụng, Tư Mã Diệu có thể làm Thượng thư Tả bộc xạ, Hoàn Xung làm Thị trung, Tạ An thì có thể giữ chức Lại bộ Thượng thư, dựa theo cách chia xếp cửu phẩm của họ, trẫm sẽ chọn được chỗ sử dụng người hiền”.
“Xoẹt!”.
Phù Kiên tuốt bội kiếm, trỏ thẳng vào vầng triêu dương vừa nhô lên từ đường chân trời ở phương đông, sau đó nhích dần kiếm sang hướng nam, chỉa về phía đô thành của nhà Tấn, thét lớn: “Quân ta tất thắng!”.
Chúng tướng nhao nhao tuốt binh khí, Diêu Trường gõ chéo cặp đoản mâu, tiếng kim loại giao nhau vang lên chát chúa nhất tề rầm rầm hưởng ứng.
“Đại Tần tất thắng! Đại Tần Thiên Vương vạn tuế!”, tiếng tung hô thoạt tiên vang lên từ đám thân binh đứng xung quanh hộ vệ, tiếp theo lan ra cả bình nguyên Tứ Thủy, dập dồn như tiếng triều lên với sự hô ứng của đoàn quân hàng vạn chiến binh.
Trải dài bất tuyệt, đằng trước không thấy hàng đầu, đằng sau nhìn không hết đội ngũ, đại quân Đê Tần được tập hợp từ các binh chủng, rầm rập tỏa về hướng Hoài Thủy, đợi đến lúc họ công hãm Kiến Khang Thành, Hán tộc ở Trung nguyên sẽ mất đi căn cứ địa cuối cùng, toàn bộ sẽ chìm vào vòng nô lệ mất nước, biến thành thần dân bị ngoại tộc xâm lấn thống trị.
o0o
Đô thành Kiến Khang của nhà Tấn, tọa lạc ở nam ngạn vùng hạ du Trường Giang, chẹn cứng lấy cửa khẩu dẫn ra biển, là trung tâm quân sự, chính trị và kinh tế quan trọng nhất của khu vực này. Ngoài ra, nó còn là yếu địa giao thông then chốt của cả đường sông, đường bộ và đường biển, là thành thị chuyển vận đường thủy và đường bộ giữa hai miền nam bắc.
Kiến Khang nằm trên rẻo đất cao của Kê Lung Sơn và Phúc Chu Sơn, phía đông nam nối sang bình nguyên Thái Hồ và lưu vực sông Tiền Đường bằng phẳng rộng lớn, đất đai phì nhiêu trải dài ngàn dặm. Trường Giang bắt nguồn từ hướng tây nam lượn qua thành quách chảy về phía đông bắc, Tần Hoài quanh co uốn khúc từ phía nam đổ vào Trường Giang, địa hình hiểm hóc, ưu việt, có thế rồng cuộn hổ ngồi. Diêu Trường nhận xét “Trường Giang hiểm yếu, Giang Nam trù phú”, thực không phải lời nói giả.
Khi Tây Tấn bị Hung Nô tiêu diệt, Lạc Dương biến thành vùng đất cháy xạm tro tàn, thì Tư Mã Duệ, tằng tôn của Tư Mỹ Ý hoàng đế khai quốc nhà Tấn, đang trấn thủ đô thành Kiến Nghiệp - đô thành được xây dựng bởi Tôn Quyền thời Tam Quốc, nắm đại quyền quân chính ở Dương Châu, Giang Nam. Phương bắc chìm trong tang tóc, Tư Mã Duệ dưới sự phò trợ của bọn Vương Đạo, Vương Quách lưu vong sang phía nam, tự lập làm Tấn Vương ở Kiến Nghiệp, năm sau đó xưng đế. Đến thời Tấn Mẫn Đế, chính thức đổi tên Kiến Nghiệp thành Kiến Khang.
Kiến Khang Thành chu vi hai mươi dặm mười chín bộ, ngoại vi có một loạt các thành thị như Đông Phủ Thành, Thạch Đầu Thành và Chu Dương Quận Thành, hình thế to lớn, như đám sao vây quanh mặt trăng, tạo nên một quần thể thành thị với Kiến Khang là trung tâm. Đặc biệt Thạch Đầu Thành, nằm ở thượng du phía tây Kiến Khang, là một ấp lũy quân sự kiên cố, vai trò như thần hộ vệ, nếu không công hãm được Thạch Đầu Thành, đừng nghĩ đến chuyện làm tổn hại một mảy may của Kiến Khang.
Khi đoàn quân Đại Tần của Phù Kiên tiến nhập khu vực Biên Hoang ở Hoài Tứ, tướng quân Hồ Bân của nhà Tấn, đang đóng chốt ở trọng trấn Thọ Dương vùng nam ngạn Hoài Thủy, liền nhận được phi cáp truyền thư của thám tử tiền tuyến đã cài sẵn trà trộn trong Biên Hoang Tập, biết được bách vạn đại quân của Đại Tần, đang vượt qua Hoài Thủy tiến thẳng tới đây.
Biên Hoang Tập là vùng mà tin tức nhanh chóng nhất, hai miền nam bắc dù có chút gió lùa cỏ động, bất luận là sự thực hay đồn đãi, đều được truyền ra đầu tiên ở đó. Lâu dần hình thành một tổ chức gọi là “Phong Mai” chuyên môn buôn bán tin tức, người làm “Phong Mai” phải tinh thông ngôn ngữ các dân tộc, tư chất nhạy bén, biết phân tích độ khả tín của nguồn tin, không phải là hình thức làm ăn mà ai cũng nhào vào được.
Hồ Bân nhận được tin thất kinh, sau khi kiểm chứng kỹ càng, lập tức phi báo về Kiến Khang, nhấn mạnh điều này có liên quan đến sự sinh tử tồn vong của tôn thất nhà Tấn. Tấn Đế Tư Mã Diệu kinh hoảng đến mức hồn bất phụ thể, lại sợ tin tức truyền ra khiến lòng người hoang mang, quần thần đào vong, vội vàng mật triệu ba vị trọng thần là Tạ An, Vương Thản Chi, Tư Mã Đạo Tử, vào Thân Chính Thất trong nội đình Kiến Khang để thương nghị đại kế giữ nước.
Tạ An làm Trung Lang Lệnh cho nhà Tấn, là nhân vật ngồi ghế thứ hai dưới Tư Mã Diệu, tổng quản triều chính, năm nay sáu mươi tư tuổi, thời trẻ có ra làm quan một dạo ngắn, sau lui về ở ẩn tại Đông Sơn, mãi đến năm bốn mươi tuổi dưới sự thiên hô vạn hoán bắt đầu xuống núi, kế thừa chính sách an dân “Trấn chi dĩ tĩnh” của Thừa tướng khai quốc là Vương Đạo, khiến cho đất nước yên ổn. Tạ An cùng với đại tướng Hoàn Xung, một văn một võ, là hai cột trụ lớn của triều đình, được gọi là “Giang Tả Vĩ Nhân”.
Lúc này nhà Tấn chỉ còn nắm quyền kiểm soát ở vùng hạ du Trường Giang và lưu vực Dân Giang, Châu Giang, trong đó hai châu Kinh, Dương, cả về hai mặt quân sự và chính trị đều có tầm ảnh hưởng rất lớn.
Dương Châu là tiền trạm ở mặt bắc kinh đô Kiến Khang, tầm quan trọng của nó không nói cũng biết. Kinh Châu nằm trên trung du Trường Giang, hình thế hiểm yếu, cũng là một trọng trấn chiến lược ở mặt tây của nước Tấn. Thứ sử Kinh Châu lại kiêm quản luôn việc quân sự của các châu phụ cận, để ứng phó với rợ Hồ hung mãnh ở phương Bắc, do vậy dưới tay y là đất rộng binh cường. Phàm những người nhậm chức thứ sử Kinh Châu, thường có thực lực phân quyền mạnh mẽ nhất. Vì vậy dưới thời nhà Tấn, thế lực trung ương và địa phương đấu tranh ngang ngửa, phần lớn là có liên quan đến việc tranh chấp Kinh Châu và Dương Châu. Kinh Châu đời trước do Hoàn Ôn chủ sự, quyền nghiêng triều dã. Cũng may Hoàn Xung hiện nay, tuy là con trai của Hoàn Ôn, nhưng không có dã tâm như cha, Kinh, Dương dần dần đi vào ổn định. Trong ba người
mà Phù Kiên xem trọng, ngoài Tấn Đế và Tạ An, còn tính thêm cả Hoàn Xung, qua đó có thể thấy được phần nào vai trò của y.
Tể tướng Tạ An, người được xưng tụng là đệ nhất danh sĩ đương thời, tuy đã hơn sáu mươi, nhưng tướng mạo tinh anh, thâm trầm, linh hoạt và tuấn lãng, tay cầm quạt lông vũ, dáng vẻ như Gia Cát Võ Hầu tái thế, râu dài năm nhánh, thân hình cao lớn, phong tư tiêu sái ung dung, cô ngạo bất quần.
Vương Thản Chi là con trai Thừa tướng Vương Đạo, giữ chức Tả tướng, là đại thần có vai trò quan trọng nhất, ngoài Tạ An, ở triều đình Kiến Khang. Năm nay năm mươi hai tuổi, luận về tướng mạo thì kém xa Tạ An, lại thêm nỗi thấp lùn, tóc đã điểm bạc, cũng may khuôn mặt thường tươi cười, giọng nói điềm đạm rõ ràng, cằm dày và đầy đặn, béo nhưng không phệ phạc, vẫn có tư thái tự tin và cởi mở của thế gia vọng tộc, không gợn chút hiềm khích.
Hai họ Vương, Tạ là thế gia đại tộc nổi danh nhất vùng Giang Tả. Từ khi tôn thất nhà Tấn thiên di về Nam, họ càng hết lòng phò tá, thay nhau nắm giữ các vị trí cốt cán trong triều đình. Nhà Tấn chủ trương ‘tìm người hiền không ngoài thế tộc, dụng tài năng không đâu bằng quyền quý’, khiến hai họ Vương, Tạ càng như cá gặp nước, càng được trọng vọng tôn sùng. Trúc môn đi lại với trúc môn, hai gia tộc xưa nay quan hệ vốn thân thiết, lại dựa vào nhân duyên để thắt chặt thêm tình cảm, cùng nhau phụ giúp việc triều chính.
Tư Mã Đạo Tử là thân đệ của Tấn Đế Tư Mã Diệu, được công nhận là đệ nhất nhân tài của vương tộc, đứng trong danh sách “cửu phẩm cao thủ”, hiện đang giữ chức Lục Thượng thư lục điều sự, tổng quản các bộ phận lo việc triều chính, quyền chức lớn đủ để kềm chế Tạ An, là một quân cờ do hoàng tộc đặt ra để giám sát Tạ An, vì vậy từ xưa đến nay quan hệ giữa y và ông ta không được tốt.
Tư Mã Đạo Tử năm nay ba mươi tám tuổi, thân hình dài mà gầy, sống mũi thẳng đứng như cái quản bút, trên mép để ria, mái tóc dày rậm, mình mặc võ phục, tướng mạo cân đối, tràn đầy khí độ cao quý của hoàng tộc. Chỉ có đôi mắt thỉnh thoảng híp lại như hai rãnh hẹp, để lộ bản chất lãnh khốc vô tình trong tim. Bên hông y đeo thanh trường kiếm Vong Ngôn, là vũ khí sắc bén nhất và đáng sợ nhất của vương tộc, trong thành Kiến Khang, ngoài Tạ Huyền và con trai của Vương Thản Chi là Vương Quốc Bảo ra, không có ai xứng mặt địch thủ.
Thân Chính Sảnh là nơi xử lý sự vụ của Tư Mã Diệu trong nội đình, hội nghị quân sự quan trọng nhất kể từ khi ông ta tự mình khai quốc đã trải qua hai canh giờ. Bên ngoài cung, thân đệ của Tạ An là Tạ Thạch bồn chồn chờ đợi, từ chính ngọ đến lúc
hoàng hôn, mới thấy Tạ An ung dung đi ra, nét mặt vẫn một vẻ tự nhiên nhàn nhã, nhưng Tạ Thạch xưa nay hiểu rõ con người Tạ An, đã nhanh chóng nắm bắt thần tình bối rối trong ánh mắt huynh trưởng. Y chưa từng thấy Tạ An như thế bao giờ, có thể ức đoán buổi thương nghị đã diễn ra trong không khí nặng nề và gay gắt.
Tạ Thạch tiến lên đón. Tạ An thoắt đứng sững lại, trầm giọng nói: “Tìm Tạ Huyền về đây cho ta!”.


Hồi 2

Ngàn cân treo sợi tóc


Hạng Thành để lại cho Biên Hoang Tập, ngoài những bức tường đổ nát, những hào và sông hộ thành bị san bằng, thì chỉ có một gác chuông lớn, cao đến mười lăm trượng nằm ở trung tâm thị tập, trong gác còn bỏ lại chiếc chuông đồng, giống như một dấu tích thần thánh.
Có hai con đường lớn giao nhau và chạy xuyên qua dưới gác chuông, tỏa ra bốn nhánh chính từ gác chuông đến bốn cửa Đông Nam Tây Bắc, tên gọi lần lượt là Đông Môn Đại Nhai, Nam Môn Đại Nhai, Tây Môn Đại Nhai và Bắc Môn Đại Nhai, những nhánh con khác, từ bốn nhánh lớn song song tỏa ra. Chu vi thành quây dài mười hai dặm, cũng là một quy mô thành thị khá lớn thời bấy giờ.
Nhà phố, lầu gác, cửa hiệu trong Tập mới được lục tục xây dựng chừng mười năm trở lại đây, phần lớn là những kiến trúc bằng gỗ và đá thiết kế đề cao sự tiện dụng, trông đơn sơ mộc mạc, nhưng đầy ắp sự đặc sắc về phong cách của các dân tộc cư trú trong Biên Hoang Tập, phản ánh những tập quán sinh hoạt và tín ngưỡng khác nhau.
Ở Biên Hoang Tập, tất cả lấy lợi ích làm mục tiêu, không có bằng hữu vĩnh viễn, cũng không có địch nhân vĩnh viễn. Sự cừu hận giữa các dân tộc liên tục hằn sâu, nhưng hiện thực lại buộc họ phải chịu đựng, phải thỏa hiệp với nhau, đạt tới một sự cân bằng vi diệu trong hoàn cảnh tuyệt nhiên không ổn định và tùy thời đều có thể sinh biến này.
Mảnh đất Biên Hoang Tập, chính là sự phản chiếu thu nhỏ tình hình thực tế của trung thổ, với lực lượng mạnh nhất là Đê Bang, kế đó theo thứ tự là Tiên Ti Bang, Hung Nô Bang, Hán Bang, Khương Bang và Yết Bang. Sáu thế lực lớn này, phân chia lợi ích của Biên Hoang Tập.
Vị thế của Hán Bang có phần đặc biệt, vì là bang hội duy nhất kiểm soát được hàng hóa từ phương Nam lại, những tộc khác cần đến sự hợp tác của Hán Bang mới có thể kinh doanh kiếm lợi. Tuy nhiên vị thế ấy, cùng với sự thảo phạt xuống Nam của Đê Tần, đã hoàn toàn thay đổi.
Cho dù Đê Bang thế lực mạnh nhất, nhưng bình thời cũng không dám mạo nhiên công kích bất kỳ một bang phái nào, nếu không lưỡng bại câu thương, tất khó tránh khỏi kiếp vận bị trục xuất khỏi Biên Hoang Tập.
Đừng nghĩ rằng nơi đây chỉ toàn là cường đồ hung hãn. Bốn con đường chính lúc nào cũng phồn thịnh nhiệt náo, nam nữ các tộc chen vai thích cánh, cửa tiệm cửa hiệu các loại san sát hai bên, thanh lâu đổ trường hạng gì cũng có, phạn điếm tửu quán trà thất khách trạm đầy đủ, nhưng nổi danh nhất không ai qua được Biên Hoang Đệ Nhất Lâu nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Hán Bang ở Đông Môn Đại Nhai. Lão bản Bàng Nghĩa kinh doanh sành sỏi, tài nghệ bếp núc siêu quần, đồ ăn thức uống vừa đa dạng, vừa hợp khẩu vị và tập quán ẩm thực của các dân tộc, nhưng nguyên nhân quan trọng nhất, lại nằm ở tuyệt thế giai tửu Tuyết Giản Hương do y tự tay cất lấy, thiên hạ chỉ có chính hãng của y, không đặt phân hiệu.
Đệ Nhất Lâu là một kiến trúc toàn bằng gỗ hiếm hoi ở Biên Hoang Tập, lầu cao hai tầng, mỗi tầng xếp được khoảng ba mươi cái bàn tròn lớn mà vẫn thông thoáng rộng rãi. Ở tầng trên, mạn gần đường có một ngăn riêng quây giậu gỗ, trong ngăn đặt một cái bàn.
Lúc này ở tầng hai Đệ Nhất Lâu hoàn toàn vắng vẻ, chỉ có một mình Yến Phi trong ngăn đó, đang tựa vào bàn, một vò một chén, tự rót tự uống, ánh mắt ưu tư dõi xuống Đông Môn Đại Nhai bên dưới.
Dưới ấy toàn là người Hán đang chen chúc rời khỏi Biên Hoang Tập, từ các đường nhánh cũng liên tục có người ùn ùn đổ ra, nhập vào đám đông tìm đường đào thoát.
Đông Môn Đại Nhai mới hôm qua vẫn phồn vinh thịnh vượng, giờ đã nhốn nháo tiếng người hét, ngựa hí, lừa kêu và tiếng bánh xe nghiến rào rạo mặt đường. Mọi cửa hiệu đều khóa kỹ, chẳng ai muốn trở thành nô lệ dưới ách Phù Kiên, đành thu nhặt tài vật tế nhuyễn, vội vã rời đi, giẫm đạp trên những ngả đường đào vong mờ mịt không đoán định.
So với cái ‘động’ bên dưới, thì cái ‘tĩnh’ của Yến Phi tỏ ra khác lạ một cách dị biệt. Thanh bảo kiếm Điệp Luyến Hoa uy nhiếp Biên Hoang, đang nằm trong vỏ, trên bàn, bên tay phải chàng, càng khiến người ta cảm thấy mức dị thường của tình hình. Sự đối sánh giữa ‘động’ và ‘tĩnh’, càng gây căng thẳng trước những bão táp sắp tràn về.
Tia sáng đầu tiên của ngày xuất hiện nơi chân trời Đông Môn, trên cao mây đen dày đặc, tựa như nung nấu một cơn cuồng phong bạo vũ, khiến trái tim người ta càng thêm trĩu nặng.
Tin Phù Kiên kéo quân sang vừa bay đến Biên Hoang Tập, ba cửa Nam, Bắc, Tây lập tức bị các tộc khác bịt kín, chỉ còn Đông Môn do Hán Bang kiểm soát là giành để người Hán sơ tán chạy nạn.
Yến Phi nâng chén lên uống cạn.
Đã tròn một năm rồi!
Một năm trước Yến Phi đặt chân lên Biên Hoang Tập, từ một kiếm thủ lặng lẽ vô danh, đến lúc phá xuất danh đường, trở thành một nhân vật không ai dám động tới; từ chỗ chán ghét nơi này, đến chỗ sinh lòng yêu thương nó sâu sắc, tư vị và những khúc mắc bên trong, người ngoài không tài nào biết được. Thoạt đầu, chàng tuyệt không quen nổi cái thị tập trắng trợn xé bỏ mọi thứ ngụy trang, người người bất chấp thủ đoạn vì mình mà tranh ích đoạt lợi này. Nhưng dần dần, chàng nhận ra cho dù trong hoàn cảnh ác liệt ti tiện như vậy, nhân tính vẫn còn le lói. Hiện tại thế cân bằng giữa các lực lượng ở Biên Hoang Tập đã bị sự xuất hiện của Phù Kiên triệt để phá hoại, trong lòng chàng bất giác cảm thấy mịt mờ.
Tất cả của tất cả, quá khứ, hiện tại và tương lai, đã mất hết mọi ý nghĩa, chỉ vì tình cảnh rối loạn khiến người ta lo lắng bất an này!
Chàng mơ hồ nhận thấy những ngày tháng trân quý nhất cuộc đời mình đã tan thành mây khói theo sự hung tàn của cuộc chiến tranh mù trời nam bắc. Bất luận cuối cùng hươu chết về tay ai, thiên hạ cũng không thể là cái thiên hạ của ngày xưa nữa. Tuy thiên hạ trước đây chẳng phải là có nhiều thứ đáng để lưu luyến, nhưng cơn ác mộng đang tới càng khiến người ta khó mà chịu đựng nổi.
Tiếng bước chân gấp gáp đi lên thang gác, làm đứt đoạn dòng suy nghĩ dập dồn của Yến Phi. Không cần ngoảnh đầu lại, chàng cũng biết đó là lão bản Bàng Nghĩa của Đệ Nhất Lâu, qua độ nặng nhẹ của bước chân, chàng đồng thời nhận ra nỗi hoảng hốt và sợ hãi trong lòng đối phương, đó là sự thường tình của con người.
Yến Phi lãnh đạm nói:
“Nhớ giành thêm hai vò rượu ngon nữa cho ta, coi như để tạm biệt!”.
Bàng Nghĩa lên lầu hai, xót xa nhìn quanh, ve vuốt một cách nặng lòng cái bàn gần chỗ y nhất, rèm mắt còn kịp thu lấy bóng dáng Yến Phi. Mỗi lần nhìn Yến Phi, y luôn cảm thấy bờ vai rộng ấy có thể chịu được bất kỳ gánh nặng nào, miễn là chàng muốn. Nếu không có Yến Phi tiếp quản nhiệm vụ bảo vệ Đệ Nhất Lâu, Bàng Nghĩa thật không biết phải làm ăn thế nào, tuy quan hệ giữa họ chỉ là làm thuê trả tiền, nhưng y vẫn hết sức cảm kích.
Yến Phi dường như không nhận thấy Bàng Nghĩa đến gần, kéo ghế xuống ngồi bên cạnh, mắt chàng cứ chằm chằm nhìn xuống đoàn nạn dân đang theo nhau rời khỏi Biên Hoang Tập.
Bàng Nghĩa là một đại hán vạm vỡ thô hào, mặt đầy râu quăn, y đưa mắt ngó Yến Phi rồi cau mày thắc mắc hỏi: “Sau khi người của Hán Bang đi hết, Quy Noãn Tử bên
Đê Bang sẽ nói chuyện đạo đức nhân nghĩa với ngươi sao? Hôm kia ngươi mới đánh trọng thương hai người của bọn chúng, đừng làm chuyện ngốc nghếch nữa! Mau cùng chúng ta đi đi!”.
Cặp mắt của Yến Phi lúc đó, như chung đúc linh khí của trời đất, trong trẻo, rõ ràng mà sâu thẳm, bỗng thoáng qua một nét dị thường của hồi ức xa xôi.
Vùng đất hoang phế trải dài mấy trăm dặm quanh Biên Hoang Tập đấu tranh thù sát vĩnh viễn không ngưng này, đang chứng kiến một kiếp nạn của thời đại. So với nó, cặp mắt Yến Phi quả thực là một dị bẩm tuyệt nhiên khác lạ, khiến Bàng Nghĩa tạm thời quên đi hiện tại lãnh khốc vô tình.
Không ai rõ xuất thân lai lịch của Yến Phi, chàng tựa hồ đầy rẫy nhược điểm, nhưng người ngoài nhìn vào thường nghĩ chàng hoàn mỹ vô khuyết, bởi thân hình cao lớn đẹp đẽ, đường nét như được tạc từ đá Đại Lý trong suốt óng ánh, và càng bởi khí chất chàng bẩm sinh tự nhiên tiêu sái thoát tục. Có điều nếu đánh giá theo tiêu chuẩn của Bàng Nghĩa, Yến Phi không chỉ lười biếng, thái độ sống tiêu cực, mà còn là một tửu quỷ hoàn toàn, ý chí tiêu tán, không thèm hay biết mình đang lãng phí tuổi thanh xuân. Trong máu Yến Phi có lẽ pha trộn huyết thống người Hồ, nên ở chàng vừa có cái vẻ văn tú của người Hán, vừa mang một chút thô dã hào hùng của dân du mục Bắc phương. Nói tóm lại Yến Phi là một nhân vật xuất chúng, hồi mới gặp chàng Bàng Nghĩa đã không dám coi thường, tự nhủ chàng lăn lộn ở Biên Hoang Tập, làm một tay bảo tiêu thật là phí phạm tài năng.
Giọng nói thấp trầm, ấm áp mềm mại nhưng rõ ràng của Yến Phi như tiếng trống vụt gõ vào tai Bàng Nghĩa: “Ta còn nhớ huynh từng nói, đừng để nảy sinh tình cảm gì với người và vật ở Biên Hoang Tập... Kiếm đủ tiền rồi là đi xa thật xa, sau đó quên tất cả những việc đã xảy ra ở đây. Chúng ta vốn thỏa thuận từ đầu, huynh cho ta tiền tài, Yến Phi ta thay huynh giải nạn, một bán một mua, hai bên không thiếu nợ gì nhau. Đi đi! Hãy từ từ sống những ngày an lạc, mỗi tối ngủ khỏi phải lo lắng hôm sau Đệ Nhất Lâu có thể bị người ta phá hoại!”.
Bàng Nghĩa cười khổ, thò tay giằng lấy chén Tuyết Giản Hương vừa được rót đầy, uống như đổ rượu vào trong cổ họng, tuyệt vọng nói: “Những ngày an lạc ư? Ôi! Đâu còn nơi nào sống được những ngày an lạc? Người Hán chúng ta không có hy vọng gì nữa rồi. Bàng Nghĩa ta đã mất bao gian khổ từ phương Bắc tháo chạy đến đây, thầm nghĩ ra sức kiếm được đủ tiền, rồi xuống phương Nam thành gia lập thất, an cư lạc nghiệp. Hiện tại tất cả đã hết rồi, Biên Hoang Tập cũng hết rồi, đất đai phương Nam cũng sẽ biến thành hung địa nhân gian sinh linh điêu tàn như phương Bắc, chúng ta đành sống lay lắt cho
qua ngày đoạn tháng thôi. Ngươi xem ta là huynh đệ hay không không quan trọng, ta chỉ không chịu nổi thấy ngươi bị người ta loạn đao phanh thây, đi đi! Mọi người cùng đi!”.
Yến Phi giơ tay nắm lấy miệng vò, nhưng không nhìn rượu, mà lần đầu tiên đưa mắt sang phía Bàng Nghĩa, mỉm cười nói: “Tin tức tối hôm qua vừa đưa tới, Đê Bang, Hung Nô Bang và Khương Bang đã lập tức tổng động viên, đầu tiên là liên thủ phong tỏa các cảng lớn nhỏ phía đông bắc thị tập, còn tịch thu tất cả thuyền bè đang neo ở bến, đánh bị thương giết chết hơn một trăm người, bức Hán Bang và Hán nhân chỉ có thể chạy trốn theo đường bộ, huynh nghĩ chúng có mục đích gì?”.
Bàng Nghĩa biến sắc: “Quân khốn kiếp! Lẽ nào thấy người ta rơi xuống giếng lại còn ném thêm đá, giết người cướp của?”. Y chuyển ánh nhìn xuống dòng người chạy trốn hỗn loạn như sắp phải đối mặt với ngày tận thế, bất giác sinh lòng sợ hãi cho tương lai của bản thân và của bọn họ.
Yến Phi vẫn giữ thần sắc thong dong du nhàn: “Nhớ mang theo con dao thái rau của huynh, ra khỏi tập rồi chạy thật xa nơi đông người, chọn chỗ hoang vắng hẻo lánh mà đi, có thể giữ được tính mệnh đấy”.
Bàng Nghĩa khí lạnh dội ngược, chằm chằm nhìn dòng người bơ vơ đang chen chật Đông Môn Đại Nhai, kinh hãi hỏi: “Bọn họ biết làm sao bây giờ?”.
Yến Phi nâng vò lên nhìn, cười khổ: “Ta năm nay hai mươi mốt tuổi, lúc còn nhỏ xíu không kể, từ khi lớn lên mắt đã nhìn thấy nhiều chuyện bế tắc, tai đã nghe thấy nhiều chuyện thảm liệt, tất cả chỉ quyết định ở chỗ nắm đấm của ai cứng rắn. Cũng may bây giờ rốt cục ta đã nghĩ thông một chuyện, đó là ta đã đến bước đường cùng muốn tránh cũng không tránh được nữa, lại không thể chỉ cung cúc lo cho bản thân mình. Ta tuy không ưa Tổ lão đại bên Hán Bang, nhưng phải thừa nhận y là một kẻ tinh minh lão luyện giang hồ, y sẽ có cách giúp cho những người được y bảo hộ giảm thương vong tổn thất xuống mức thấp nhất. Thêm nữa ba bang ấy, trước tiên sẽ đi qua Đông Môn do Yến Phi ta trấn giữ. Đừng khuyên can ta nữa, huynh lập tức rời khỏi đây đi, bên mình ta còn thanh kiếm, thì không phải lo lắng gì cả, Yến Phi vẫn có một tia sinh cơ”.
Bàng Nghĩa trong lòng trào lên một cơn kích động, mãi đến lúc này, y mới minh bạch tay kiếm khách xưa nay tựa hồ vẫn vô tình ấy lại dung dưỡng trong lòng những tình cảm cao thượng như vậy, nhất thời y không nói nên lời, chỉ biết há hốc miệng.
Yến Phi giơ cánh tay phải thuôn dài, sắc da trong như cẩm thạch nắm chặt lấy Bàng Nghĩa, lần đầu tiên trong đời hé một nụ cười sáng bừng như ánh dương, nói: “Ai cũng có quyền lựa chọn vận mệnh cho mình, biết mình đang làm gì không phải là kẻ ngu xuẩn. Huynh đi ngay lập tức, sau khi rời khỏi Tập hãy quên hết mọi việc ở đây,
đừng nói thêm một lời nào cả. Ha! Huynh cho ta tiền bạc, ta sẽ thay huynh giải trừ tai họa, thỏa hiệp vẫn có hiệu lực”.
Bàng Nghĩa đứng lên buông tay, cúi chào thật thấp: “Ngươi cũng biết rõ là rượu cất ở đâu rồi đấy, lúc cần thiết nó có thể trở thành nơi tránh nạn an toàn cho ngươi”. Ánh nhìn lướt qua Điệp Luyến Hoa, hai mắt chợt đỏ lên, bắn ra những tia phẫn oán không nén nổi, rồi cắm cúi lao như bay xuống gác.
Yến Phi hớp khẽ một ngụm Tuyết Giản Hương, nhìn theo Bàng Nghĩa vai khoác đãy, hòa vào dòng người rời khỏi thị tập, rồi biến mất ngoài cửa đông. Cả dãy Đông Môn Đại Nhai trở nên im lìm như quỷ vực, không còn một dấu vết người.
Tiếng móng ngựa đột ngột vang lên, từ đầu kia con đường truyền lại.
Yến Phi uống cạn ngụm rượu còn đọng trong chén, ngước mắt nhìn thinh không đang nặng trĩu mây đen, tựa như đã trông thấy tương lai mạt vận của mình. Sống thì có gì vui vẻ? Mà chết thì có gì đáng sợ?
o0o
Đô thành Kiến Khang quay mặt về nam. Kiến Khang Cung nằm ở phía bắc thành, cửa nam vào cung là Đại Tư Mã Môn, từ Đại Tư Mã Môn đến Tuyên Dương Môn ở cửa thành chính nam là đoạn ngự đạo dài hai dặm, lại ra khỏi Tuyên Dương Môn đến Chu Tước Kiều ở Tần Hoài là một đoạn ngự đạo dài năm dặm khác, ngự đạo dài tổng cộng bảy dặm ấy, là trục chính xuyên hết Kiến Khang Thành.
Bên ngoài Đại Tư Mã Môn là một đường ngang rộng rãi chạy về hai hướng đông tây, hướng đông dẫn đến cửa thành phía đông là Liên Xuân Môn, hướng tây dẫn đến cửa thành phía tây là Tây Minh Môn, chia đô thành ra làm hai bộ phận bắc và nam. Bắc là khu cung thành, nam dành cho thượng thư ngự sử của triều đình. Các viện phủ công quyền khác, cùng các khu thương mãi, cư dân, cho chí phủ trạch biệt quán của tể tướng đại thần, đều đặt ngoài thành, chủ yếu phân bố ở hai bên ngự đạo dài năm dặm từ Tuyên Dương Môn đến Tần Hoài. Sau khi Tây Tấn diệt vong, phương bắc hoang tàn bởi khói lửa chiến tranh, Hán tộc rời về nam, dân số có đến hàng trăm vạn người. Nhà Tấn dần dần đặt ra các Kiều quận ở khu vực Kiến Khang, lưỡng ngạn Tần Hoài mỗi ngày một phồn hoa, trong thành ngoài thành tấp nập người phương Bắc tìm đến, khiến Kiến Khang trở nên một thành thị dung hợp phong cách của cả hai miền nam bắc, hết sức nhiệt náo thịnh vượng.
Chu Tước Kiều còn được gọi là Chu Tước Hàng hay Chu Tước Phù Hàng, là cây cầu chính dẫn từ ngự đạo vượt qua Tần Hoài. Phù Hàng có nghĩa là cầu liền với thuyền, bình thời có tác dụng như một cầu nổi, khi gặp sự biến, tháo thuyền ngắt cầu, lập tức chặt đứt giao thông hai bờ. Phù Kiều như vậy, Tần Hoài có đến hai mươi bốn chiếc, nhưng không có cái nào nổi danh bằng Chu Tước Kiều.
Nếu Chu Tước Kiều là cây cầu nổi danh nhất của khu vực Kiến Khang, thì hẻm Ô Y, cách đó không xa lắm, bên bờ Tần Hoài, phía đông ngự đạo ngoài cửa Tuyên Dương, khẳng định là con đường danh tiếng nhất, vì thế gia vọng tộc hiển hách của Đông Tấn, là hai nhà Vương, Tạ, đều định cư ở trong ngõ này.
Hẻm Ô Y lầu son san sát, kèo khắc cột chạm, là cấm nhai trọng địa mà bá tánh tầm thường không được phép bước vào. Ô Y Hào Môn đã trở thành một danh xưng có tính đại diện cho những danh gia hiển hách thời bấy giờ.
Lúc này một đội nhân mã, ào ào như gió lốc vượt qua Chu Tước Kiều, lên đến ngự đạo liền rẽ sang phải, ngựa không dừng vó phi thẳng vào hẻm Ô Y. Bọn vệ binh canh gác không những không dám ngăn cản, mà còn đứng nghiêm kính cẩn, nét mặt lộ vẻ sùng bái ngưỡng mộ.
Tạ Huyền mặc bộ võ phục trắng toát, áo choàng đơn sắc xanh, lưng khoác thanh Cửu Vận Định Âm Kiếm danh chấn Giang Tả, cưỡi một con bạch mã lông mượt như tuyết, gương mặt anh tuấn lạnh băng, không để lộ một chút cảm xúc nội tâm nào. Dù là chót vót trên lưng ngựa, thân hình thẳng cao của y vẫn để lộ khí phách phi phàm, tràn đầy sức mạnh và tự tin, giống như một thanh bảo đao chưa tuốt vỏ. Năm nay y vừa tròn bốn mươi tuổi, nhưng bề ngoài tựa hồ chưa quá ba mươi, thần thái bay bổng.
Phi ngựa bên cạnh là Lưu Lao Chi, viên mãnh tướng số một của Tạ Huyền, giữ chức Tham quân Bắc Phủ binh, tuổi khoảng hai lăm hai sáu. Đằng sau có mười mấy tên tùy tướng, ai nấy vóc dáng mạnh mẽ, đều là những chiến binh tinh nhuệ đã kinh qua chiến trận lâu ngày.
Tạ Huyền nhận mệnh làm thứ sử Cổn Châu, xuất trấn Quảng Lăng, với sự giúp đỡ của thúc phụ Tạ An, y ra sức chiêu binh ở bờ nam Tần Hoài và bờ bắc Trường Giang. Dân cư Giang Bắc tính tình mạnh mẽ, võ nghệ cao cường, dưới sự huấn luyện sắc sảo của Tạ Huyền, thời gian trôi đi đã trở thành một quân lữ tinh nhuệ, hiệu Bắc Phủ binh. Phù Kiên nhiều lần cho quân xuống nam, Bắc Phủ binh ra mặt ngăn cự, đánh trận nào thắng trận ấy, thanh danh vang dội, vẻ tôn kính của đám vệ binh vừa rồi hoàn toàn không phải là giả bộ.
Chỉ có điều lần này Phù Kiên thân suất đại quân, nhân số chiếm ưu thế áp đảo, lại có danh tướng như Mộ Dung Thùy phò trợ, cho dù Tạ Huyền võ công trác việt, dụng binh như thần, cũng không có nửa phần chắc chắn là đẩy lui được địch nhân.
Theo sau Tạ Huyền, đám khinh kỵ phi qua cổng lớn mở toang tiến vào đại quảng trường trước chính điện của Tạ phủ, mười mấy tên gia nhân chạy lại kềm ngựa phục dịch cho từng người.
Tạ Huyền nhấn vào bàn đạp để bước xuống, Tạ Thạch bước lên đón kinh ngạc hỏi: “Huyền điệt về nhanh quá, tối hôm qua ta mới gửi phi cáp truyền thư cho cháu mà!”.
Tạ Huyền ngạc nhiên: “Cái gì mà phi cáp truyền thư? Ba ngày trước tiểu điệt nhận được tin Phù Kiên Thiên Vương của Đại Tần tiến quân từ Trường An đến Lạc Dương, toán tiên phong đã đặt chân lên Biên Hoang, hướng tiến trực chỉ Kiến Khang, quân lực đạt tới mấy trăm vạn... Do vậy phải lập tức quay về để gặp An thúc”.
Lưu Lao Chi đứng bên Tạ Huyền vội vã thi lễ với Tạ Thạch, Tạ Thạch ân cần nói: “Lưu Tham quân và các huynh đệ đường xa mệt rồi, hãy nghỉ ngơi nhấp ngụm trà nóng trước đi!”.
Liền có tên gia nhân chạy tới dẫn bọn Lưu Lao Chi vào chính điện. Tạ Thạch dắt tay Tạ Huyền, đi vòng qua trước cửa, chậm rãi tiến về hướng thư hiên của Tạ An ở nhà trong, hạ giọng nói: “Chúng ta vội gần chết, nhị huynh lại cứ thong dong thư thả như thường, tối qua mới đến Tần Hoài Lâu ở bên sông để thưởng lãm ca vũ của Kỷ Thiên Thiên, sớm nay chưa tỏ mặt người đã đi du sơn ngoạn thủy ở Tiểu Đông Sơn. Cũng may cháu về rồi, ít nhất có thể hỏi huynh ấy cho rõ ràng minh bạch”.
Tạ Huyền trầm giọng: “Phía triều đình có phản ứng thế nào?”.
Tạ Thạch lộ vẻ bực bội đáp: “Tư Mã Đạo Tử khăng khăng chủ trương cố thủ Kiến Khang, dựa vào sự hiểm trở của Trường Giang, Tần Hoài, lại gợi ý hoàng thượng xa giá qua Tuyên Thành, rõ ràng là muốn thừa cơ bao quát quân quyền, vừa may nhị ca và Vương Tả tướng cực lực phản đối, nhị thúc cháu lại dùng dân ý nhân tâm kích động hoàng thượng... Những chuyện này đều do Vương Tả tướng kể cho ta, còn nhị thúc cháu ngoài câu ‘Tìm Tạ Huyền về đây’ thì chẳng nói bất cứ một điều gì khác”.
Tạ Huyền nghe nhắc tên Tư Mã Đạo Tử, hai mắt lóe lên những tia dữ dội, rồi lại hỏi tiếp: “Nhị thúc kích động hoàng thượng như thế nào?”.
Tạ Thạch đáp: “Nhị thúc cháu nói rất khéo léo, huynh ấy tâu với hoàng thượng rằng: ‘Từ xưa tới nay chỉ có nước hữu đạo đánh vua vô đạo, lần này Tần chúa cậy mạnh tràn đến, vô cớ tấn công Đại Tấn chúng ta, vừa quay lưng lại đạo nghĩa, vừa đánh mất
lòng tin của dân chúng, binh gia viết ‘Lưỡng quốc giao binh, vô đạo tất bại’, hoàng thượng chỉ cần hiệu lệnh quân dân cả nước, dĩ hữu đạo kháng vô đạo, tất giữ được nước an được dân”. Hoàng thượng đương nhiên biết giữa nhị thúc cháu và Tư Mã Đạo Tử ai mới là người được lòng dân, huống hồ Hoàn Xung thượng tướng quân xưa nay không ưa Tư Mã Đạo Tử, Bắc Phủ binh lại nằm gọn trong tay cháu, hoàng thượng cho dù có không muốn, cũng đành phải gia phong nhị ca làm Chinh Thảo Đại đô đốc, để huynh ấy toàn quyền xử lý việc kháng địch”.
Họ đi xuyên qua con đường tắt rải đá, hai bên trồng đầy thúy trúc, tiến vào trung viên nơi đặt thư trai của Tạ An. Đây là một khu rừng nhỏ chủ yếu là trúc và đá, trong vườn có tứ quý giả sơn, lần lượt dùng Duẫn Thạch, Hồ Thạch, Hoàng Thạch, Tuyên Thạch xếp lên thành bốn ngọn núi Xuân, Hạ, Thu, Đông, mỗi ngọn thể hiện một loại thời tiết. Thư hiên ở giữa ngọn núi mùa hạ và mùa thu, lưng quay hướng bắc mặt quay về nam, to lớn hùng vĩ, bố cục ba gian bảy cột, hoành phi khắc tam đại tự “Vong Quan Hiên”, cột chính nơi thềm mái treo một đôi liễn: “Cư quan vô quan quan chi sự / Xử sự vô sự sự chi tâm”.
Cho dù hai người đang u ẩn trĩu nặng, nhưng vừa đặt mình vào khung cảnh cô ngạo thanh cao, rộng lớn tú lệ rung động lòng người như vậy, nhất thời cũng quên bẵng tâm sự, quên bẵng những điều trần tục ưu tư.
Đột nhiên một võ sĩ trẻ trung nộ khí bừng bừng, xồng xộc đi ra khỏi Vong Quan Hiên, trông thấy hai người phẫn uất kêu lên: “Thiên hạ là thiên hạ của Tạ gia các ngươi! Vương Quốc Bảo ta quả thực phải xem các ngươi ứng phó với Phù Kiên ra sao!”. Đoạn đi thẳng không ngoái lại.
Hai người nghe nói lẳng lặng nhìn nhau, rồi Tạ Thạch lắc đầu thở dài. Vương Quốc Bảo là nhi tử của Vương Thản Chi, nữ tế của Tạ An, kiếm pháp cao minh, đáng tiếc là một kẻ vô hạnh, nhìn thái độ có thể đoán biết Tạ An đã cự tuyệt dùng y vào chiến dịch kháng Tần, khiến y tức khí, nói ra những lời khó nghe như vậy.
Lúc đó thanh âm nhu hòa của Tạ An từ phía Vong Quan Hiên đưa tới: “Có phải Tiểu Huyền đến đấy chăng? Đúng lúc lắm! Ta đang định tìm người lại đánh cờ!”. Tạ Huyền và Tạ Thạch bốn mắt ngó nhau, đều không hiểu nổi suy tính của Tạ An, giữa lúc nước sôi lửa bỏng thế này, vẫn còn tâm trí để đánh cờ?
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 12-20-2012, 01:45 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 3, 4

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 3

Thoát nạn trong gang tấc


Yến Phi chậm rãi nâng vò lên chăm chú, tựa hồ không nghe thấy tiếng vó sắt gấp gáp, càng không trông thấy một người đơn độc đang cố sống cố chết phóng ngựa về phía Đông Môn, sau lưng là mười mấy kỵ mã Yết tộc tay cầm cung cong đã trương tên đuổi theo rất rát.
“Phập! Phập! Phập!”.
Tên mạnh vùn vụt lao đi, tưởng chừng gã kỵ sĩ đằng trước sẽ biến thành một con dím. Vừa lúc gã đến được Đệ Nhất Lâu, miệng chửi, người bật lên khỏi lưng ngựa nhanh như khỉ, lăng không lộn hai vòng, rớt xuống ngay đằng sau Yến Phi, gã vụt thò tay ra trước mặt chàng, giơ lên ba ngón, nói: “Ba lượng hoàng kim!”.
Chiến mã hí lên thảm thiết, đổ sụp xuống đất, vó trước đã khuỵu ngã, nhưng dư lực còn kéo nó trượt đi một quãng, thân mình trúng ít nhất bảy, tám mũi tên, khiến người ta thương xót không nỡ nhìn.
Chủ nhân nó lại tuyệt nhiên không tỏ ra bận tâm. Gã là một tiểu tử gầy gò, khuôn mặt lưỡi cày, tuổi ước mười tám, mười chín, thân hình tầm thước, nhưng tay dài chân dài trông khá linh hoạt. Đặc biệt là đôi mắt gã, lanh lợi tinh minh, lộ vẻ giảo hoạt đa mưu. Sự thực tiểu tử người Hán tên gọi Cao Ngạn này là một trong những nhân vật được ưa chuộng nhất Biên Hoang Tập, gã hành nghề ‘Phong Mai’ rất thành thạo, chuyên môn mua bán tin tức, bình thời hết sức đĩnh đạc, không biết vì sao lại trở nên cuống quít như thế này.
Yến Phi một tay nâng chén rượu, một tay xòe cao năm ngón, Cao Ngạn thất thanh: “Năm lượng hoàng kim, ngươi muốn giết ta hả?”.
Lúc đó đám chiến binh của Yết tộc đã thúc ngựa chạy đến, gò vàm thả lỏng dây cương, tỏa thành hình bán nguyệt, đứng dưới đường lớn ngóng nhìn lên lầu, ai nấy mắt lộ hung quang, nhưng chưa dám phát tiễn, hiển nhiên là rất úy kị Yến Phi.
Yến Phi chậm rãi uống rượu.
Một đại hán có lẽ là kẻ cầm đầu cất tiếng: “Đây là ân oán giữa Yết Bang và Cao Ngạn, Yến Phi ngươi khôn hồn thì đừng xen vào!”.
Cao Ngạn đứng sau lưng Yến Phi, trông ủ rũ như con gà rù, bỗng nghiến răng nghiến lợi bảo: “Năm lượng thì năm lượng, coi như ta thua kẻ thấy nhà cháy chạy lại hôi của như ngươi”.
Yến Phi dằn cái chén không xuống, vẻ say rượu trong mắt vụt tan biến, thần quang sắc bén như mắt chim ưng vụt sáng lên, ngữ khí lại hết sức bình tĩnh, chàng điềm đạm nói vọng xuống lầu: “Lập tức cút đi cho ta, nếu không hối hận cũng sẽ muộn đấy!”.
Đại hán Yết tộc tay siết chuôi kiếm, song mục hung quang đại thịnh, bộ dạng dữ dằn như muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Y trợn mắt nhìn Yến Phi một lúc khá lâu, rồi tức giận nói: “Được, chúng ta đi, rồi xem Yến Phi ngươi còn đắc ý được bao lâu!”.
Y huýt sáo, dẫn đồng bọn quay ngược trở lại con đường vừa đến, nhanh như gió cuốn.
Cao Ngạn thở ra một hơi thật dài, quẹt mồ hôi lạnh túa lua đầy trán, thả mình xuống chỗ Bàng Nghĩa ngồi lúc nãy, tiện tay vớ lấy vò rượu, rồi dốc ừng ực liền mấy ngụm lớn, sau đó gã đặt vò xuống, chằm chằm ngó Yến Phi: “Ngươi ở lại đây làm gì? Có phải chán sống rồi không?”. Thấy ánh mắt rõ rành của Yến Phi cứ đăm đăm nhìn lại, không mảy may chớp động, gã bất giác lộ vẻ đau đớn, gật đầu nói: “Ồi! Coi như ta thua ngươi!”, rồi móc từ trong mình ra một gói nhỏ, dốc xuống năm đĩnh vàng óng ánh, miễn cưỡng đẩy qua trước mặt Yến Phi, than thở: “Ta vào sinh ra tử, ngươi thì ngồi một chỗ hưởng lợi, thế có công bằng không?”.
Yến Phi tuyệt không khách khí, thu lấy mấy đĩnh vàng nhét vào trong bọc, rồi chau mày hỏi: “Ngươi vì sao còn ở lì mãi đây?”.
Cao Ngạn sáng mắt, nhoài lên trước hạ giọng thì thầm: “Đây là cơ hội phát tài ngàn năm có một, bọn phương Nam sẽ trả tiền. Tiện thể ta báo ngươi biết một tin, ít nhất cũng đáng giá một đĩnh vàng, nhưng lần này coi như tặng không cho ngươi, vì cái mạng của ngươi cũng chẳng kéo dài được lâu nữa. Ngũ Đại Hồ Bang của Biên Hoang Tập đã kết thành liên minh, chuẩn bị nghênh đón đoàn quân tiên phong do thân đệ của Phù Kiên là Phù Dung dẫn đầu, lại quyết định là không bỏ qua cho bất kỳ một người Hán nào. Bọn họ đang tập kết nhân mã ở quảng trường chỗ gác chuông, trước sau truy sát Hán Bang chạy nạn. Mẹ nó! Ngươi có biết mãnh tướng thủ hạ của Phù Dung là ‘Hào Soái’ Thư Cừ Mông Tốn tộc Hung Nô đêm qua đã bí mật đến đây, liên kết các tộc rồi không? Ôi! Đủ chưa? Ta phải đi đây!”. Rồi gã bật lên, băng ngang căn phòng như một làn khói, xuyên ra ngoài qua một cửa sổ khác, nháy mắt đã không còn thấy đâu nữa.
Yến Phi tựa hồ chẳng nghe thấy lời gã, đột nhiên nắm lấy Điệp Luyến Hoa, lộn mình nhảy khỏi chiếc ghế, đáp xuống giữa lòng đường, sau đó thong thả cất bước về phía Đông Môn.
Tiếng vó ngựa đột ngột vang lên sau lưng, càng lúc càng tới gần.
Yến Phi xoay vụt lại như gió lốc, đầy trời mưa tên như châu chấu đã trút xuống rào rào.
o0o
Thư đường 'Vọng Quan Hiên’ của Tạ An thấm đẫm phong vị thế gia đại tộc nhà Ngụy Tấn. Bố cục kiến trúc của Tứ diện sảnh, những cội mai già trăm năm và trúc mềm uyển chuyển trong viên lâm xung quanh, Hạ Sơn tú lệ ở hướng tây bắc, Thu Sơn hùng vĩ ở hướng đông, tiểu đình và ao xanh ở hướng bắc, xuyên qua những ô cửa sổ song hoa trổ khắp bốn bề tường, ẩn ước như lồng vào thư hiên, khiến người ta cảm thấy được hòa mình trong bốn mùa cảnh sắc.
Hiên đường trần thiết những đồ gia dụng bằng gỗ hồng, bốn mặt tường treo những bức họa danh tiếng, trên mỗi cột nhà gắn bốn ngọn đèn bát giác kiểu cung đình, cảnh tượng phú quý mà vẫn không mất vẻ văn nhã, bộc lộ rõ rệt thân phận và hứng thú của Tạ An.
Dưới ánh ban mai nhu hòa, Tạ An và Tạ Huyền ngồi bên bàn cờ đặt giữa hiên đường, Tạ An vẫn giữ dáng điệu tự nhiên nhàn tản, Tạ Huyền thì có chút lơ đãng, chau mày nhìn Tạ An chọn lấy quân đen.
Từ tư thế ngồi, có thể nhận ra sự khác nhau về tập quán sinh hoạt của người Hán và người Hồ thời đó. Người Hán từ thời Ân Chu bắt đầu ngồi kiểu hai đầu gối quỳ về đằng trước, phần hông tựa trên ‘bàn tọa’ được tạo bởi hai bụng chân, kiểu ngồi ấy trở thành một bộ phận quan trọng trong văn hóa lễ giáo nho gia. Kiểu ngồi ‘ky cứ’ đặt bệt mông xuống đất, hai chân duỗi ra đằng trước và kiểu ngồi trên cao thả chân xuống đều bị coi là hành vi cấm kỵ, bất kính. Từ sau thời Hán trở đi, ở những nơi người Hán và người Hồ sống lẫn với nhau, loại ghế cho phép người ta ngồi thả chân và kiểu ngồi ‘ky cứ’ của người Hồ lại lan rộng ra trong người Hán, tạo nên phong cách mới về nội thất, thể hiện trên những chiếc giường, ghế, hoặc đôn chân cao. Có điều trong những gia tộc thế phiệt, kiểu ngồi của người Hồ vẫn bị coi là bất kính hoặc không có tu dưỡng, không có văn hóa.
Tạ An khẽ cười ý nhị, đặt quân đen, ăn đi con rồng to mà Tạ Huyền vất vả lắm mới tạo ra được, một góc trên bàn cờ lập tức bị quân đen chiếm mất.
Tạ Huyền gục đầu khuất phục: “Tiểu điệt thua rồi!”.
Tạ An thong thả nói: “Từ khi Huyền điệt thông hiểu kỳ đạo, năm năm nay đây là lần đầu tiên ta thắng, có thể thấy con đường phân định hơn thua bắt nguồn từ trái tim. Huyền điệt tâm phiền ý loạn, không thể chuyên chú, vì thế mới bại. Nếu trên chiến trường, cháu vẫn hấp tấp nóng nảy như vậy, thì cho dù binh pháp chiến lược của Phù Kiên đều kém xa cháu, cháu cũng khó tránh khỏi thất bại!”.
Tạ Huyền cười khổ: “Nếu không vì Phù Kiên binh lực nhiều gấp mười lần, tiểu điệt làm sao phải tâm phiền ý loạn chứ?”.
Tạ An bật cười, đứng dậy, hay tay chắp sau lưng, bước đến cửa sổ phía đông, ngưng vọng cảnh sắc xinh đẹp của khu vườn bên ngoài, lắc đầu nói: “Không phải đâu! Huyền điệt vì tâm tình bất ổn, đến nỗi không nhận ra nhược điểm của Phù Kiên. Lần này y dẫn quân xuống nam, không chỉ đánh mất thiên thời, mất địa lợi, còn mất nhân hòa, chính cái mất cuối cùng đó, là yếu tố dẫn đến sự bại vong của y. Chỉ cần biết triệt để tận dụng, là có thể khiến Đại Tần của y đất tan ngói vỡ, còn Đại Tấn chúng ta thì sẽ khôi phục được Trung thổ”.
Tạ Huyền bất động, song mục lấp lóe tinh mang, nhìn chăm chăm vào bóng dáng tiêu sái phóng khoáng của thúc phụ, trầm giọng thốt: “Xin nhị thúc chỉ dạy!”.
Tạ An ung dung nói: “Đại Tấn ta năm nay được tuổi, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu; phương bắc Phù Kiên chinh chiến liên miên, đất đai phì nhiêu cũng trở thành khô cháy, sản xuất tiêu điều, vừa thống nhất phương bắc, cơ sở chưa vững, thời cơ chưa chín mùi, đã đại cử dụng binh. Vậy là thất thời”.
Rồi ông xoay mình lại, mỉm cười: “Phù Kiên lao sư viễn chinh, vượt qua Biên Hoang, bị cản trở vì dòng chảy, chúng ta thì dựa vào Trường Giang hiểm yếu cắt ngăn Nam Bắc. Vậy là thất địa”.
Tiếp đó ông cất bước trở về phía Tạ Huyền, ngồi xuống, hân hoan nói: “Phù Kiên sở dĩ lấy được thiên hạ phương bắc, đều nhờ thi hành chính sách ‘hòa hưng’, thu dụng đủ các loại hàng binh hàng tướng, đó là nhân tố thành công của y, nhưng cũng trồng xuống một thứ mầm họa. Quân đội Đại Tần tuy đông đến bách vạn, kỳ thực đều là chắp vá nhặt nhạnh, sức chiến đấu trông thì mạnh, nhưng bản chất lại yếu. Ta tin chắc những kẻ như Chu Tự, thân ở Tần quân mà lòng hướng về Đại Tấn. Suy đến cùng Đại Tấn ta vẫn là chính thống ở Trung Nguyên, tuy lệch về Giang Tả, nhưng không có sơ thất nhiều. Lần này ngoại địch đến xâm phạm, mọi người ngồi chung một con thuyền, càng không
thể không đoàn kết lại, cùng nhau chống cái nhục từ bọn rợ. Còn về đám tướng lĩnh của Phù Kiên, kẻ nào cũng có trọng binh riêng của tộc mình, bọn Mộ Dung Thùy, Diêu Trường... đều là hạng ngang tàng khó thuần dưỡng, sao có thể cam tâm xưng thần mãi dưới trướng người khác? Vậy là không được nhân hòa, ta sẽ thắng còn chúng sẽ thua. Vì thế chỉ cần Huyền điệt nhắm vào điểm này, thi hành kế sách phân hóa ly gián, không chỉ tìm hiểu được bố trí thực hư của đối thủ, mà còn có thể mưu định kế hoạch hành động về sau, dấy binh một trận là đánh bại được Đê Tần, trừ đi mối họa lớn ở phương bắc”.
Tạ Huyền hai mắt thần quang lấp lóe, gật đầu nói: “Huyền điệt vâng lời chỉ dạy, phải chăng là chúng ta nên đối đầu trực diện với y?”.
Tạ An khóe môi nhích một nét cười, điềm đạm trả lời: “Cháu là đại tướng nơi tiền tuyến, am tường chiến sự hơn hẳn ta, cháu hãy tự quyết định tất cả. Trên danh nghĩa tam thúc Tạ Thạch của cháu là nguyên soái, nhưng thực tế mọi sự vụ tác chiến cụ thể, đều phải do cháu chỉ huy. Cần xúc tiến nhanh không thể trù trừ được nữa, vì binh lực hai bên cách biệt quá lớn, triều đình Đại Tấn ta đã ở lâu trong cảnh an nhàn, lại thêm bọn tiểu nhân như Tư Mã Đạo Tử thừa cơ làm gió làm mưa, nếu để Phù Kiên dẫn quân đến Trường Giang, ổn định được cơ sở, chúng ta dù không bị đánh cũng sẽ bại. Đi đi! Sự tồn vong của Đại Tấn nằm trong nhất niệm của cháu, đừng quên ban nãy cháu đã thua như thế nào!”.
Tạ Huyền đứng dậy, cung cung kính kính cúi lạy Tạ An, nghiêm túc thưa: “Tiểu Huyền xin vâng”.
Tạ An vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, hai mắt lóe lên những biểu tình phức tạp, khẽ thở dài nói: “Trận này nếu thắng, thanh vọng địa vị của Tạ gia sẽ đạt tới đỉnh cao trước nay chưa từng có, đây là điều ta vẫn muốn tránh để không xảy ra. Chúng ta ở hẻm Ô Y uống rượu nói chuyện, viết văn làm thơ, chan chứa tình thân, cuộc sống êm ả mà phong lưu đó, xem ra sẽ mất đi không thể nào phục hồi lại nữa. Cháu hãy chiếu cố cho Diễm nhi, để y có chút cơ hội rèn luyện”.
Tạ Huyền gật đầu: “Tiểu Huyền hiểu!” rồi lặng lẽ lui ra ngoài hiên. Ánh dương từ cửa sổ phía đông tràn vào, Tạ An như hòa tan trong khung cảnh yên tĩnh mà ưu mỹ của Vọng Quan Hiên, thần thái không hề tỏ lộ chút tư lự nào về cuộc chiến có quan hệ đến sự sinh tử tồn vong của Hán tộc, đang như giông bão từ phương bắc cuốn tung xuống nam.
Tạ Huyền rời khỏi thư hiên, Tạ Diễm nãy giờ đứng đợi bên ngoài với Tạ Thạch, vội vàng tiến đến bên, hạ giọng hỏi: “Cha có nói gì không?”.
Tạ Huyền giơ tay nắm lấy bờ vai dày rộng của người em họ vốn thừa hưởng đầy đủ những nét tuấn tú của Tạ gia, mỉm một nụ cười nhẹ nhõm, dịu dàng đáp: “Chúng ta đi du sơn ngoạn thủy nào!”.
o0o
Cho dù Yến Phi kiếm pháp danh chấn thiên hạ, vẫn không dám ngăn đỡ trực diện hơn hai mươi ngọn kình tiễn bắn ra từ những cánh cung cứng trong tay đám chiến binh Hung Nô thiện kỵ thiện xạ.
Yến Phi bật cười, thoắt nhích sang mé hữu, tránh loạt mưa tên đầu tiên, hích mạnh bắp tay phải vào cánh cửa gỗ đã khóa kín của tiệm tạp hóa nằm đối diện Đệ Nhất Lâu, động tác như hành vân lưu thủy, tiêu sái đẹp mắt.
Nghe nói Thư Cừ Mông Tốn đã bí mật xâm nhập Biên Hoang Tập, y tất nghe được chàng không cần thể hiện uy dũng vẫn có thể kềm chế liên quân của bốn bang kia, khiến bọn chúng khó mà truy kích những người Hán và Hán Bang chạy nạn. Thư Cừ Mông Tốn quyết sẽ không dung tha bất cứ cao thủ nào có khả năng thích sát Phù Kiên ẩn nấp trong tập, bởi cho dù thích sát thất bại, y cũng rất khó tránh khỏi trách nhiệm, vì vậy chỉ cần Yến Phi lúc ẩn lúc hiện, là có thể trở thành mối lo trong tâm trong phế mà Thư Cừ Mông Tốn muốn trừ bỏ, so ra, giết đám người Hán chạy loạn chỉ là một chuyện nhỏ.
“Rắc!”.
Cánh tay nạp đầy tiên thiên chân khí của Yến Phi dộng mạnh, tấm cửa gỗ kiên cố bục ra như tờ giấy mỏng, hiện lên một cái lỗ hình chữ nhân to tướng, cả người chàng liền lọt thỏm vào tiệm tạp hóa vuông vắn bỏ hoang, bên trong đồ đạc la liệt khắp mặt đất, lộn xộn vô cùng.
Bên ngoài bật lên mấy tiếng chửi rủa, tiếng móng gõ tiếng ngựa hí, tình thế hỗn loạn, mấy ngọn kình tiễn theo lỗ cửa vun vút bắn vào, có thể thấy sự hung hãn lang độc của người Hung Nô.
Yến Phi không ngoảnh đầu, lắc chếch mình đi, ung dung tránh khỏi luồng tiễn, rồi nhanh chóng lướt về hướng cửa sau, định bụng trước khi địch nhân giăng xong mạng lưới bao vây sẽ rời khỏi nơi nguy hiểm này, bằng không kết cục tất sẽ rất thê thảm.
Đúng lúc đó, phiến cánh cửa sau ngay trước mặt chàng bỗng biến thành những mảnh gỗ tan tành bắn lại, dưới thanh thế kinh khiếp của những mảnh gỗ bay như mưa hoa đó, một thanh trường mâu khổng lồ nặng trịch như từ mười tám tầng địa ngục chọc thẳng lên nhân gian, thoắt một cái đâm xốc tới yết hầu chàng, đầu mâu lấp lóe kim quang, cảm giác ngụy dị vô cùng.
Cứ nhìn đối phương có thể kịp thời đuổi đến cửa sau, ngăn chặn trước khi mình thoát ra, xuất thủ công kích không hề có dấu hiệu báo trước, đủ thấy y thuộc hạng nhất đẳng cao thủ. Yến Phi đột nhiên nghĩ tới một người, dù tâm lý xưa nay không coi sống chết vào đâu, chàng cũng bất giác phát run.
“Keng!”.
Điệp Luyến Hoa tuốt vỏ, lóe sắc xanh biếc, chém mạnh xuống mũi mâu.
Điệp Luyến Hoa dài ba thước tám tấc, thân kiếm chi chít những vân mờ hình quả trám, khắc ba chữ Điệp Luyến Hoa theo lối triện, lưỡi kiếm không bằng thẳng, sống kiếm mảnh như sợi chỉ, chỗ rộng nhất ước chừng ở chỗ cách đốc kiếm khoảng nửa thước, rồi lượn cong vào phía trong, đến gần mũi kiếm lại một lần nữa nhô ra ngoài sau đó chuốt vào thành mũi nhọn, toàn thể ánh xanh lóng lánh khiến người ta cảm thấy lạnh như băng tuyết, lại sắc bén như thổi đứt cả sợi lông tơ.
Yến Phi biết sách lược tốt nhất lúc này là phải hóa giải kình lực, dẫn dụ đối phương đi lướt qua mình, đả thông con đường phía trước, chàng sẽ có thể thoát ra theo cửa sau, nhưng mũi mâu này uy thế quả thực kinh thiên hãi địa, kình khí như sơn ép thẳng tới, không khí bốn bề tựa như bị rút cạn trong nháy mắt, đừng nói đến chuyện hóa giải, mà có thể ngăn đỡ được hay không còn chưa dám chắc, đành phải thi triển đại lực, so thử xem ai có chân tài thực liệu hơn.
Không phải Yến Phi yếu thế, chỉ vì đối phương đã chuẩn bị sẵn sàng tấn công, còn chàng lại là vội vàng gặp nguy ứng chiến, tình hình nhanh chậm bất đồng, cao thủ tương tranh, thắng phụ chỉ quyết định trong sự khác biệt tựa chân tơ kẽ tóc này thôi.
Điệp Luyến Hoa chém nhanh về phía trước, những mảnh gỗ bị kiếm khí đẩy bay dạt sang ngang, giống như dòng nước chia cắt ở giữa, một chút cũng không chạm được tới người Yến Phi.
“Choang!”.
Yến Phi toàn thân rung mạnh, tuy chém trúng vào đầu mâu, nhưng thân mình bất giác bị kình lực của đối phương đẩy bật về sau.
“Rắc!”.
Cánh cửa trước bắn tung xuống như phấn bụi, hiện ra một hán tử xấu xí tộc Hung Nô, mặt sẹo chằng chịt, tóc buông rũ rượi, dáng người không cao không thấp, lưng rộng vai dày cổ to xù xì, mỗi tay cầm một cây cự phủ sắc bén nặng ít nhất cũng năm mươi cân, y hét vang, song phủ như bánh xe lăn xòng xọc xả xuống cột sống của Yến Phi lúc đó còn đang bật lui về đằng sau, hạ thủ không một chút lưu tình, ý muốn dồn Yến Phi vào chỗ chết.
Yến Phi sớm đã biết có thể sa vào hiểm cảnh tiến thoái lưỡng nan cửa sau hổ nấp cửa trước sói rình, chàng lùi lại chính là muốn trong thời gian ngắn nhất hóa giải kình lực của người ở cửa sau, để ứng phó với sự đột kích từ cửa chính công tới.
Địch nhân ở cửa sau hiện ra, nơi bờ môi và cằm của y toàn là râu ria tua tủa lởm chởm xám đen, giống như một cái bàn chải, đỉnh đầu lại hói sọi, nét mặt xanh tái hết sức dị thường, cặp mắt lạnh băng băng, tựa hồ bất luận nhìn cái gì đều không tỏ lộ tình cảm. Thân hình cao gầy, nhưng đôi tay cầm mâu lại như chứa đựng một sức lực vô cùng vô tận.
Yến Phi thầm kêu khổ, nhìn binh khí và ngoại hình của hai người, chàng đã nhận ra đối thủ là ai. Tin tức mà tên tiểu tử Cao Ngạn nói đáng giá một đĩnh vàng đó chỉ mới nhắc đến một nửa sự thật, hai người này khét tiếng phương Bắc, bất kỳ ai trong bọn họ dẫm chân một cái, cũng đủ làm rung chuyển cả Biên Hoang Tập.
Kẻ sử song phủ mà Cao Ngạn gọi bằng danh hiệu Hào Soái, chính là Thư Cừ Mông Tốn mãnh tướng dưới tay Phù Kiên, người kia là một mãnh tướng khác, hiệu Vạn Luyện Hoàng Kim Mâu danh chấn tây bắc, được xưng tụng là cao thủ lợi hại nhất của Tiên Ti, sau Mộ Dung Thùy - Ngốc Phát Ô Cô.
“Đinh!”.
Yến Phi lật tay kiếm, hành động vượt ngoài dự liệu của Thư Cừ Mông Tốn, đâm trúng vào cây cự phủ đang xả xuống trước, hai loại chân khí một nhu một cương tuyệt nhiên khác biệt mâu thuẫn lẫn nhau thấu qua lưỡi phủ xâm nhập vào thân thể, Thư Cừ Mông Tốn công lực kinh nhân cũng hãi hùng không kịp trở tay, phủ kình bị triệt để hóa giải, khiến cho lưỡi búa chậm lại, không vận dụng nổi nửa phần lực đạo, trong khi lưỡi búa kia lại đầy rẫy chân kình, một nặng một nhẹ, khó chịu cùng cực, y bất đắc dĩ đành dịch sang ngang.
Trong khi hai bên đang giao thủ, ba bốn tên chiến binh của Hung Nô Bang đã dần dà tiến lại, thấy Thư Cừ Mông Tốn thất thế phải nhích ra, bọn chúng lập tức nhào lên lấp vào chỗ trống, đao mâu kiếm nhất tề chĩa vào Yến Phi, không cho chàng cả một cơ hội để thở.
Yến Phi biết rõ thân lâm hiểm cảnh, vẫn an nhiên không sợ hãi, đột ngột xoay mình huơ kiếm, vạch ra một đường bình thường chẳng có gì kỳ lạ.
Ngốc Phát Ô Cô lúc này đã biến hóa đầy trời mâu ảnh, chụp trên bủa dưới công kích Yến Phi, tưởng như đắc thủ đến nơi, ai ngờ Điệp Luyến Hoa vạch ra, bất luận y biến hóa thế nào, vẫn bị Yến Phi vạch trúng vào đầu mâu một lần nữa, không cách gì tiếp tục được, lại sợ đối phương thừa cơ truy kích, đột phá qua khe trống, y bèn thu mâu hơi lùi lại.
Mấy tên chiến binh Hung Nô với đủ loại binh khí cũng bị quét trúng một loạt, chỉ cảm thấy lưỡi kiếm của đối phương rùng rùng lực đạo hết sức cổ quái, khiến lực đạo của mình không chỉ tiêu tán hết, mà còn bị đẩy thêm một luồng kình khí nén tim ép ruột mạnh đến nỗi kêu thảm, lảo đảo thoái lui.
Thư Cừ Mông Tốn thét vang, sắp lại trận thế, huơ phủ công lên, chẳng ngờ Yến Phi kiếm khí bạo phát, chỉ nghe ‘tinh tang’ một tràng liên miên bất tuyệt, trong chớp mắt, như muốn tỷ đấu tốc độ với Thư Cừ Mông Tốn, chàng liên hoàn đâm ra bảy kiếm, kiếm kiếm lần lượt đâm trúng hai búa trái phải, khóa chặt chiêu số tấn công của y, bức y phải bật ra lần nữa.
Song Yến Phi tự biết, Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn thực sự danh bất hư truyền, chàng đã thi triển toàn bộ chiêu số, vẫn không thể gây tổn hại đến bất kỳ người nào, mà chân nguyên hao kiệt đã nhiều, không còn chi trì lâu được nữa, nếu để hai người tạo thành thế liên thủ, chàng nhất định bị dồn vào chỗ chết.
Đám chiến binh Hung Nô Bang theo cửa chính ào ào tràn vào như nước triều, cửa sau vẫn do một mình Ngốc Phát Ô Cô trấn giữ, mà trấn giữ vững vàng như vách sắt tường đồng. Trong khoảnh khắc, Yến Phi hiểu rõ sinh lộ duy nhất là phải liều thân, xông phá qua cửa ải của Ngốc Phát Ô Cô. Ý chuyển kiếm xuất, Điệp Luyến Hoa tỏa ra kiếm vũ đầy trời, như phá sóng chặt bờ đổ về phía ấy.
Ngốc Phát Ô Cô thần sắc trầm ổn, Vạn Luyện Hoàng Kim Mâu hóa thành trùng trùng kim quang mâu ảnh, sắp sửa ngạnh đấu chính diện, đột nhiên trên mặt thoáng vẻ kinh hãi, y vụt nhích mạnh sang ngang, để khuyết một khoảng trống. Nguyên lai một người áo xám thân hình khôi vĩ, diện mạo che kín bằng tấm mạng đen hiện ra sau lưng y, hai tay cầm hai thanh đao thi triển thế công kích, khiến Ngốc Phát Ô Cô phải hoảng hồn nhảy tránh.
Người đó trầm giọng thốt: “Yến Phi!”.
Yến Phi không dám trù trừ, tiện tay chém Ngốc Phát Ô Cô một nhát, toàn lực đề khí, chạy theo cứu tinh xuyên qua hậu viện, vượt bờ tường bao, vội vàng tháo thoát.


Hồi 4

Hùng tài đại lược


Phủ đệ của Tạ gia ở hẻm Ô Y trải một khoảnh rộng hơn mười mẫu, xây dựng bên bờ Tần Hoài, hợp bởi năm khu viên lâm độc đáo, trong đó Tứ Quý Viên nơi cất Vọng Quan Hiên là nổi danh nhất, nếu luận về cảnh sắc, thì Đông Viên và Nam Viên tọa lạc bên sông có thể coi như trội hơn hẳn.
Tùng Bách Đường là kiến trúc hùng vĩ nhất trong tổ hợp phủ đệ này, cao rộng hoa lệ, bên trong là kết cấu Uyên Ương Sảnh, khu trung tâm có tám cánh bình phong phân cách, trần thiết hòa mục cao nhã. Tùng Bách Đường cũng là điện chính của Tạ gia, bên ngoài liền với cửa lớn là đại quảng trường, đến dịp khánh điển, rời chuyển bình phong đi chỗ khác, là có thể đặt được hơn ba mươi bàn tiệc, chứa được mấy trăm người vui vẻ tụ họp.
Bên ngoài chính môn là hẻm Ô Y, phía đối diện có lầu các viên lâm nguy nga của nhà họ Vương xưa nay vẫn sát vai sát cánh cùng Tạ gia trong mọi phương diện. Phía tây hẻm Ô Y tiếp giáp với ngự đạo, dài tới nửa dặm, hai bên lối ngõ thẳng băng đều là nơi ở của những bậc thế gia vọng tộc.
Lúc này trong một góc của Tùng Bách Đường, Tạ Huyền, Tạ Thạch, Tạ Diễm và Lưu Lao Chi đang cùng thương lượng đại kế.
Sau khi thảo luận vài việc thông thường có liên quan đến chiến tranh, Tạ Huyền đột nhiên trầm ngâm một lúc lâu, rồi nói như chém đinh chặt sắt: “Phải khiến Chu Tự quay trở lại bên chúng ta!”.
Tạ Thạch chau mày: “Y là phản đồ của Đại Tấn, chuyện này khó thực hiện lắm. Chẳng biết y có theo Phù Kiên xuống nam hay không, mà cho dù biết rõ y ở trong doanh trướng của quân Tần, muốn tìm y trực tiếp đàm phán cũng khó hơn lên trời”.
Tạ Diễm hừ lạnh: “Nhân sĩ thà chết không chịu nhục, đại trượng phu lập thân xử thế, khí tiết làm đầu, uổng cho Chu Tự thân phận là con cháu vọng tộc ở Lạc Dương, lại đầu nhập làm tù binh của địch, kẻ này căn bản không bận tâm đến phẩm cách. Dù có giành lại được y, sự cát hung về sau cũng khó lường”.
Tạ Huyền cười nhạt: “Chúng ta hiện đang lo nghĩ làm sao để chế địch thủ thắng trên chiến trường, hoàn toàn không phải là lúc bình giá phẩm cách cao hạ của người ta,
An thúc nhìn người tuyệt không thể sai. Chúng ta nhất định phải liên lạc với Chu Tự, nếu có thể sách động y làm nội ứng, quay trở về với ta, sẽ nắm chắc thêm mấy phần chiến thắng”.
Tạ Diễm nghe nói là ý của cha, lập tức ngậm miệng không bàn tán gì nữa.
Tạ Thạch nhăn tít lông mày: “Từ đầu cho đến lúc vượt Hoài Hà đánh hạ Thọ Dương, Đê Tần chỉ hành quân ở những nơi trống vắng hoang dã, làm sao tiếp xúc được với Chu Tự mà không để người ngoài hay biết?”.
Lưu Lao Chi gật đầu: “Phù Kiên vừa tới, tất cả những người Hán ở Biên Hoang Tập đã tháo chạy bốn phương tám hướng, thám tử của chúng ta cài ở đó cũng phải lui đi, chuyện này có những khó khăn nhất định. Tuy nhiên...”.
Tạ Huyền phấn chấn hỏi: “Tuy nhiên thế nào?”.
Lưu Lao Chi do dự giây lát, rồi đáp: “Vẫn có người làm được, đó là một tì tướng thủ hạ của tôi, tên là Lưu Dụ. Người này gan dạ cẩn thận, trí dũng song toàn, không chỉ võ công cao cường, mà thuật khinh thân đề khí cũng hết sức lợi hại, nhiều năm nay phụ trách thu thập tin tức khu vực Biên Hoang Tập, đã nhiều lần bí mật đến đó, có quan hệ lâu dài với những tay Phong Mai xuất sắc, hiểu biết hết sức cặn kẽ về tình hình Hoang Nhân, điều hiếm có nhất là y lại tinh thông ngôn ngữ của Đê tộc và Tiên Ti”.
Tạ Diễm hỏi: “Xuất thân lai lịch của y thế nào?”.
Tạ Huyền và Tạ Thạch nghe thấy đều cau mày, vào lúc hoàng triều nguy nan như cá nằm trên thớt, Tạ Diễm vẫn kiên trì với quan niệm gia thế, lại tẩn mẩn hỏi đến xuất thân, khiến người ta không biết là đáng giận hay đáng cười nữa.
Lưu Lao Chi cũng hơi lúng túng. Y vốn xuất thân hàn vi, được Tạ Huyền bỏ qua chuyện gốc gác, phá lệ đề bạt mới có ngày hôm nay, nhưng cũng không thể không đáp, đành nói: “Lưu Dụ là sĩ tộc sa sút, thời trẻ gia cảnh bần hàn, sống nhờ nghề nông, còn làm tiều phu, mười sáu tuổi gia nhập Bắc Phủ Binh, từng tham gia nhiều chiến dịch, công lao lâu năm thăng đến tì tướng”.
Tạ Huyền không để cho Tạ Diễm có cơ hội nhận xét, cắt ngang: “Chính những người xuất thân như thế, mới biết cách giao hảo với đám Hoang Nhân giảo hoạt. Lao Chi ngươi lập tức quay về, lệnh cho Lưu Dụ thâm nhập vào vùng địch, đưa công văn mật đến tận tay Chu Tự. Nhất định phải thông báo cho y rõ tình hình, hành sự tùy cơ ứng biến, ngộ biến tùng quyền, chúng ta sẽ hết sức hỗ trợ những quyết định tức thời của y, việc làm xong có thưởng, Tạ Huyền ta quyết không nói chơi”.
Tạ Thạch hỏi: “Hồ Bân nắm trong tay năm nghìn binh mã, nhiệm vụ của Lưu Dụ thành bại khó lường, chúng ta có nên tăng cường viện binh không?”.
Tạ Huyền nhích một nụ cười khó hiểu bên khóe môi: “Trước tiên nhượng Phù Kiên một nước. Khi đại quân tiên phong của Đê Tần đến bờ bắc Hoài Thủy ngoài thành Thọ Dương và tập kết đủ nhân lực vật lực để công thành, lệnh cho Hồ Bân vượt Tứ Thủy ở bên đông, lui về cố thủ tại Giáp Thạch Thành trong vùng núi Bát Công, ta sẽ khiến Phù Kiên không thể vượt qua Tứ Thủy đến nửa bước”.
Tạ Thạch, Tạ Diễm và Lưu Lao Chi rất ngạc nhiên, đồng thời cũng biết Tạ Huyền đã hoạch định toàn bộ kế hoạch tác chiến, không úy kị gì Phù Kiên nữa cả.
o0o
Khoái đĩnh chạy vùn vụt khỏi bờ tây Dĩnh Thủy, dưới tài chèo thuyền của người che mặt, bọn truy binh bị bỏ lại bờ mỗi lúc một xa. Yến Phi gác Điệp Luyến Hoa ngang đầu gối, nhắm mắt tĩnh tọa ở đầu mũi thuyền, điều tức vận khí để khôi phục lại thể lực.
Chiếc thuyền nhẹ theo dòng rất nhanh xuôi xuống hai dặm, rẽ trái qua một nhánh sông nhỏ bên phía đông, bơi ngược dòng chừng một dặm, mới chầm chậm cặp vào một nơi rậm rạp cây cối.
Yến Phi mở mắt, đôi con ngươi ưu tư của hắn lóe lên những tia vui vẻ hiếm hoi, thân hình đột nhiên bật khỏi chiếc thuyền nhỏ đến gần một trượng, hạ xuống chạc ngang của cây to bên bờ sông, rồi tiếp tục tung mình lên hai lần nữa, đến gần đỉnh ngọn, một chạc ngang cách mặt đất chừng bốn trượng, nhổ vẹt cành lá, quan sát động tịnh xa gần. Điệp Luyến Hoa không biết từ lúc nào, đã treo lủng lẳng sau lưng hắn.
Người che mặt tiện tay thả mái chèo xuống, gỡ tấm khăn, để l gương mặt tươi cười sáng bừng như ánh dương, ngước nhìn Yến Phi đang chồm hỗm trên cây cao, vui vẻ gọi: “Yến Phi, kiếm pháp của ngươi tăng tiến nhiều đó. Ung dung vô sự giữa trận giáp kích của hai đại cao thủ như Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn, chuyện này mà truyền ra ngoài danh tiếng của ngươi sẽ chấn động cả phương bắc, nhất định có nhiều người không tin nổi đâu”. Nói đoạn lộn mình lên bờ, cột con thuyền vào thân cây.
Người này xấp xỉ tuổi Yến Phi, là một người Tiên Ti thân hình rắn rỏi mạnh mẽ, cao lớn khôi ngô, tóc dài rủ xuống vai, tướng mạo khá đặc biệt, mũi diều hâu khoằm khoằm, sống mũi rất thẳng, đôi mắt sâu hoắm, trên trán có hai mấu xương gồ cao, bộ dạng lẽ ra cũng khiến người ta nhìn vào mà khiếp hãi, nhưng cặp mắt chim ưng sắc sảo,
như muốn soi thấu mọi sự, ẩn dưới hàng mày rậm rạp phảng phất ngụ ý trên đời này chẳng có chuyện gì y không làm được, lại khiến người ta cảm thấy tất cả phối hợp với nhau rất hài hòa. Còn thêm vầng trán rộng rãi, khuôn miệng rộng luôn tươi cười, cái cằm tròn trịa, đôi tai lớn vành cao hơn lông mày, khiến người ta tưởng y hình như không bận tâm tới chuyện gì hết. Chỉ có người hiểu rõ y như Yến Phi, mới biết nếu nhìn nhận y như vậy, chết rồi cũng không biết là đã xảy ra chuyện gì.
Người đó ngồi xuống một tảng đá bên bờ sông, cơn gió thổi tới, quạt vạt áo y phần phật, mái tóc dài đen nhánh xõa bay theo gió, khiến hình dáng y càng có vẻ uy mãnh cô độc.
Y ngẩng mặt nhìn mây đen đang cuồn cuộn tới, hai mắt lộ vẻ thương cảm, rầu rầu nói: “Sắp mưa to rồi! Tối hôm đó cũng mưa to ngập nhà ngập cửa, mình vẫn còn là trẻ con mười mấy tuổi, bốn phương tám hướng đều là địch nhân, chúng ta sát cánh đánh phá trùng vây, nhìn thấy thúc bá huynh đệ từng người từng người một gục ngã bên cạnh... Ôi! Chuyện cũng lâu rồi ấy nhỉ?”.
Yến Phi nhún vào cành cây, hạ xuống bên y nhẹ nhàng như cánh én, ngồi lên cành cây đối diện, ôm vòng lấy hai đầu gối, vẻ ưu tư trong mắt dường như càng trầm trọng, lạnh lẽo thốt: “Bảy năm rồi! Ngươi tại sao chỉ nói tiếng Hán?”.
Người đó nhìn Yến Phi, vẻ thương cảm tan biến, thay vào đó là sự thù hận mãnh liệt, ngữ khí ngược lại tỏ ra hết sức bình tĩnh và lạnh lùng: “Yên Đại ta sở dĩ bại vong dưới tay Phù Kiên, chính vì không hiểu được gánh nặng của các dân tộc từ bỏ dần gốc gác như Phù Kiên, không biết tiếp xúc với người Hán, càng không biết học đạo trị quốc của người Hán. Một Vương Mãnh, mà giúp cho Phù Kiên thống nhất phương bắc, có thể thấy chỉ người Hán mới thực hiện được mọi sự thông đồng bén giọt. Bỏ tiếng Tiên Ti dùng tiếng Hán, chỉ là bước đầu Thác Bạt Khuê ta học theo họ thôi”.
Yến Phi gật đầu đồng ý.
Từ sau trận Xích Bích, Ngụy Thục Ngô ba nước tạo thế chân vạc, trong đó nhà Ngụy của họ Tào nằm tiếp giáp với lưu vực Hoàng Hà thì thực lực là mạnh nhất, Tư Mã thị dựa vào dư thế, lập nên nhà Tây Tấn, từ đó thống nhất thiên hạ. Đáng tiếc sau loạn Bát vương, các tộc tây bắc theo nhau nổi dậy, hình thành đại hỗn chiến giữa các dân tộc. Họa Vĩnh Gia càng khiến cho sự thống trị của Tây Tấn suy yếu, nhà Tấn thiên di về nam.
Trước nhà Tần của họ Phù, phương bắc lần lượt xuất hiện chính quyền Hồ tộc của ba dòng họ lớn là họ Lưu của Hung Nô, họ Thạch của Yết tộc và họ Mộ Dung của Tiên Ti, nhưng đều do Hán hóa không triệt để, lại xúc tiến chính sách dân tộc cao độ do Hồ và Hán phân chia cai trị, từ đó theo nhau bại vong. Thác Bạt Khuê cao minh ở chỗ nhận
ra, chính sách dung hòa dân tộc của Phù Kiên là con đường duy nhất, mà sự duy nhất của Phù Kiên cũng là sai lầm chí mệnh, bởi dung hòa chưa đủ chín muồi, còn quá sớm để phát động nam chinh.
Thác Bạt Khuê quỳ một gối xuống trước, dang hai tay, nắm lấy bờ vai rộng của Yến Phi, cặp mắt lấp lánh những ánh sáng lạ lùng, nghiến răng nhả ra từng chữ: “Thác Bạt Khuê ta chờ đợi đủ bảy năm, hiện tại thời cơ ngàn năm có một cuối cùng cũng đã đến, Phù Kiên sẽ phải trả món nợ máu đã thiếu của họ Thác Bạt Tiên Ti. Ta vốn không hoàn toàn chắc chắn, nhưng giờ có Yến Phi trợ giúp, còn sợ gì đại sự không thành. Trong thiên hạ, chỉ một mình Yến Phi, dù về kiếm thuật hay tài trí, đều khiến Thác Bạt Khuê ta tâm phục khẩu phục”.
Yến Phi cười cười, thò tay vỗ lên má y: “Hảo tiểu tử! Không phải là ngu ngốc đến nỗi muốn hành thích Phù Kiên chứ?”.
Thác Bạt Khuê buông hắn ra, đứng dậy, quay mình chắp tay, ánh mắt nhìn theo dòng nước, lặng lẽ nói: “Hiểu Thác Bạt Khuê không ai bằng Yến Phi, chúng ta lại quen biết từ nhỏ, đã sống chung nhiều năm. Ha! Giết Phù Kiên đối với ta có trăm điều hại chứ không được một ích lợi nào cả, vì làm như vậy tức là chuyển hết tiện nghi cho Phù Dung kẻ hiện nay quyền vị chỉ đứng sau Phù Kiên. Phù Dung còn tinh minh và hiểu biết hơn huynh trưởng của y nhiều, cũng là một trong những người phản đối kịch liệt nhất chuyến nam chinh lần này. Y mà ra nắm chính quyền Đê Tần, tất lập tức lui binh, khiến giấc mộng đẹp của ta tan thành mây khói”.
Rồi quay vụt lại như cơn gió, hai tay giơ cao, ngửa mặt khảng khái nói với trời xanh: “Điều ta muốn là Đại Tần gạch nát ngói vỡ, Phù Kiên nước mất nhà tan, nếu không làm sao rửa được mối nhục vong quốc của họ Thác Bạt Tiên Ti ta chứ!”.
Cuồng phong cuộn tới, Thác Bạt Khuê tóc bay tung lên đỉnh đầu, hình dáng thê lệ, rồi những hạt mưa lớn như hạt đậu vô tri vô giác trút xuống người y rào rào, ban đầu thưa, càng lúc càng mau, hóa thành một trận mưa lớn thối đất thối cát, bốn bề một màn mờ mịt. Cơn mưa lớn tích tụ từ lâu rốt cục cũng xả xuống, tựa hồ lời nói của Thác Bạt Khuê đã chọc giận đến trời đất.
Yến Phi ngửng đầu, để mặc cho mưa quất xuống mặt, chảy vào trong cổ, hàn khí xâm nhập thân thể, hắn lại cảm thấy vô cùng sảng khoái, bởi hắn đang cần một sự hạ nhiệt và điều chỉnh mãnh liệt như vậy.
Yến Phi thở dài: “Ta chẳng phải là không muốn giúp ngươi, nhưng Tần bị diệt rồi thì sao? Phương bắc chẳng phải vẫn là nơi năm bè bảy mối, các bộ tộc thề không đội
trời chung sao? Những người không chết đều phải sống mà chịu tội, từ khi sinh ra, ta cũng chưa có một ngày nào không phải trải qua như thế, đã mệt mỏi muốn chết rồi!”.
Thác Bạt Khuê thân hình hạ thấp, hai gối khuỵu xuống đất, quỳ chân, chìa hai tay, há miệng đón lấy nước mưa, uống ừng ực mấy ngụm, tâm tình bình tĩnh lại, chậm rãi bảo: “Yến Phi, ngươi đừng tưởng ta là kẻ ngốc. Tuy mấy năm nay ta không biết ngươi đã rúc vào chỗ nào, nhưng Yến Phi vẫn là Yến Phi, chảy trong thân thể ngươi, một nửa là huyết dịch cao quý của vương tộc Thác Bạt Tiên Ti, một nửa là dòng máu của người Hán, bất kỳ nửa nào cũng không cho phép ngươi cam tâm làm nô tài mất nước dưới vó ngựa sắt của Phù Kiên. Lần này Thác Bạt Tiên Ti ta quật mồ sống lại, không phải là Tiên Ti của họ Thác Bạt chỉ biết chuyện ăn thịt, uống máu, mặc da súc vật, quanh năm di chuyển, không thích xây thành giữ thành, xem thường việc canh điền nông tang, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không coi trọng tích lũy trưng thu như ngày xưa nữa. Sau khi Phù Kiên bại vong, cục diện hỗn loạn lúc đó sẽ do ta an bài, vì ta đã chuẩn bị đầy đủ, đã học hỏi nhiều hơn bất kỳ ai từ những sai lầm trong quá khứ. Phương hướng của Phù Kiên là đúng, chỉ đi sai một nước, đó là khi chưa thể an định các tộc, chưa thể khống chế được toàn bộ phương bắc, đã mạo nhiên tiến xuống phương nam. Cũng may Vương Mãnh chết sớm, nếu không sự việc tất không thể phát sinh. Đây là cơ hội mà trời xanh ban cho Thác Bạt Khuê, ngươi không còn lựa chọn nào khác, phải toàn lực phò trợ ta”.
Yến Phi toàn thân ướt sũng, nhưng trong lòng thì có một ngọn lửa đang rừng rực thiêu đốt. Thác Bạt Khuê rốt cục cũng đã trưởng thành, từ tử vong và khổ nạn đã lĩnh hội được lý lẽ tồn vong của quốc gia dân tộc, trở thành một người lãnh đạo cao thâm viễn lự, đại lược hùng tài, không ai hiểu rõ bản lĩnh và sự lợi hại của Thác Bạt Khuê hơn hắn, khi y đã định rõ mục tiêu, là bất chấp tất cả để làm cho bằng được, chỉ có cái chết mới ngăn chặn được y. Yến Phi thở dài, hỏi: “Ngươi dựa vào cái gì mà đánh bại được bách vạn đại quân của Phù Kiên?”.
Nụ cười xuất hiện nơi khóe môi Thác Bạt Khuê, mỗi lúc một nở rộng, cuối cùng bật thành tiếng cười lớn: “Đây gọi là nhờ thế mà thành sự, Yến Phi ngươi có biết hai người đáp ứng phò tá Phù Kiên nam chinh lần này, chính là Diêu Trường và chú họ xa của chúng ta là Mộ Dung Thùy, nếu không phải có hai người đó chấp nhận phò tá, Phù Kiên đâu thể nhất ý cô hành xua quân xuống nam, trước sự phản đối dữ dội của vương tộc Phù thị như vậy được”.
Thân hình rắn rỏi của Yến Phi khẽ rung lên, hai mắt thần quang lấp lóe, chằm chằm nhìn Thác Bạt Khuê.
Thác Bạt Khuê mắt không chớp nháy, cũng đăm đăm nhìn trả hắn, trầm giọng nói: “Bảy năm nay, ta luôn thông qua Biên Hoang Tập bán cho bọn người nam những thứ mà chúng thiếu thốn, nhất là lương thảo và chiến mã, một mặt là muốn đổi được những hàng hóa cần thiết, để trang bị và nuôi sống những binh sĩ cơ sở của ta, mặt khác muốn đẩy nhanh sự lớn mạnh của Bắc Phủ Binh, gián tiếp thúc ép tâm lý chậm sợ không kịp của Phù Kiên. Để giữ bí mật, ta tuy biết rõ ngươi đến Biên Hoang Tập, nhưng tránh không liên lạc với ngươi, sợ tiết lộ cơ mật việc trong bóng tối của ta. Nếu không phải vì nắm rõ chuyện ở Biên Hoang Tập như trong lòng bàn tay, hôm nay đã không thể giúp ngươi thoát được đại nạn rồi”.
Yến Phi ngây người nhìn y, trong lòng suy nghĩ dập dồn. Thác Bạt Khuê mà hắn quen, lúc mười tuổi đã hiển lộ hết những phong cách đại tướng của một lãnh tụ, trầm tĩnh kiên nghị đa mưu túc trí, tâm lang thủ lạt, là kiêu hùng trong thời loạn, nhưng hắn chưa từng tưởng tượng được thủ đoạn của y lại cao minh lợi hại đến mức này.
Mưa lớn cứ sầm sập không ngớt, đánh lên lá cây ngọn cỏ, đất, cát, và dòng sông, hình thành một bản đại hợp tấu hỗn mang các loại giai điệu mưa, bốn bề mông lung, bọn họ tựa hồ đã biến thành trung tâm của trời đất, đang quyết định mệnh vận sau này trong thiên hạ, cho dù nhìn từ tình thế hiện tại, chuyện đó có vẻ tuyệt nhiên không thể thực hiện nổi.
Yến Phi cười khổ: “Được rồi! Ngươi đã tích lũy nhiều năm như vậy, chắc có cách đối phó với Phù Kiên. Tuy nhiên, giả thiết Phù Kiên thua trận, được lợi lớn nhất là bọn người nam, hoặc là Mộ Dung Thùy, lại hoặc là Diêu Trường thực lực vốn thấp hơn một chút, ngươi chỉ có thể đứng ở một chỗ rất xa phía cuối hàng không ai nhìn thấy. Ôi! Nỗi khổ này ở đâu ra? Ngươi cho rằng Mộ Dung Thùy sẽ ủng hộ ngươi chăng? Nếu ta là Mộ Dung Thùy, người đầu tiên ta phải giết, sẽ chính là ngươi đó”.
Thác Bạt Khuê phì cười: “Ngươi đánh giá quá cao đối thủ của ta rồi đấy. Trước tiên hãy nói đến bọn người nam, cái vận của chúng là mất nước, Tấn đế Tư Mã Diệu và Tư Mã Đạo Tử thân đệ của y đều là loài rùa đen, thối rữa đến tận gốc rễ, không có ai hiểu rõ hơn ta rằng, bọn chúng chỉ mưu đồ an ổn và duy trì tâm thái nực cười của chính quyền Giang Tả, khoan nhắc đến phong khí thanh đạm xuất thế huyền tưởng của bọn cao môn đại tộc ngụ bên Giang Tả, điểm chí mệnh nhất là bọn chúng thường cho rằng kẻ nào đuổi được người Hồ ta, kẻ đó có tư cách xưng đế, thành ra trung ương của tôn thất nhà Tấn sinh ý nghi kỵ đối với bất kỳ ai mang tư tưởng bắc phạt, không chỉ không ủng hộ, mà còn nghĩ đủ mọi cách để đả kích gây khó dễ, khiến việc bắc phạt mãi mãi không thể thành công. Thêm nữa, nhà Đông Tấn còn có hai mối lo ngầm: thứ nhất là Giang Tả Song Huyền, Tạ Huyền là một, ngoài ra còn một cao thủ dùng đao, thân đệ của Hoàn Xung, tên gọi Hoàn Huyền, thanh danh chỉ đứng sau họ Tạ, y nhờ uy vọng mấy đời cha anh, rất được tiếng ở Kinh Châu, người này không có hùng tâm, không nghĩ đến việc
thừa cơ sinh biến để quật khởi, vốn ít khả năng trở thành mối họa, nhưng nếu Phù Kiên thất bại, Tạ gia tất gặp phải sự quản chế của nhà Tấn, lúc đó cơ hội của Hoàn Huyền sẽ đến”.
Yến Phi cúi đầu không nói, từng lời Thác Bạt Khuê quả đã nhìn thấu suốt triệt để tình hình chính trị của hai miền nam bắc.
Thác Bạt Khuê tiếp: “Mối lo ngại thứ hai trong tâm phế, là Ngũ Đẩu Mễ đạo, bọn này dựng căn cứ địa ở Hải Nam, Đạo chủ Tôn Tư, võ công vượt xa Cửu Phẩm cao thủ do mấy đại gia tộc vùng Giang Tả bình chọn, lại giỏi đạo thuật mê hoặc chúng sinh, sớm muộn gì cũng nổi loạn. Vì vậy một khi ta thống nhất được phương bắc, chính quyền Giang Tả sẽ chỉ còn là đàn súc vật đợi làm thịt mà thôi. Về phía Mộ Dung Thùy, Diêu Trường, rồi cả Ngốc Phát Ô Cô, Thư Cừ Mông Tốn, sẽ do ta lo liệu, hiện tại, ta chỉ cần ngươi giúp ta làm một việc thôi”.
Yến Phi biết không cách nào từ chối y, cười khổ đáp: “Ta nghe đây”.
Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Tìm Tạ Huyền cho ta, nhắn y rằng Mộ Dung Thùy sẽ không đời nào xuất toàn lực cho Phù Kiên, thậm chí còn chặn cứng đường lui của y, phải khiến Phù Kiên thua bại trong cuộc đại chiến này, nếu Tạ Huyền chịu gật đầu đồng ý, chúng ta sẽ căn cứ vào tình thế mà vạch ra kế hoạch hợp tác với y”.
Yến Phi ngạc nhiên: “Mộ Dung Thùy?”.
Thác Bạt Khuê vụt đứng dậy, lôi từ trong bọc ra một túi da dê, đưa cho hắn: “Ta không có thời gian giải thích, trong túi này đựng bảo ngọc truyền đời trứ danh của Mộ Dung Tiên Ti, ngươi có thể dùng nó làm vật chứng, để Tạ Huyền biết rằng ngươi tuyệt không nói vô bằng vô cớ. Chuyện này rất khẩn cấp, chỉ ngươi mới có thể làm cho ta được, Tạ Huyền là người thông minh, sẽ không bỏ qua bất cứ cơ hội nào để đánh bại kẻ địch”.
Hai người lại bàn bạc thêm một hồi về cách thức liên lạc, cách thức ứng biến, những nơi có thể ẩn thân trong tập, bao gồm cả hầm chứa rượu bí mật của Bàng Nghĩa. Rồi Thác Bạt Khuê vội vã bỏ đi.
Nhìn theo bóng y chìm dần trong rừng dưới cơn mưa ào ạt, Yến Phi hiểu cuộc sống phiêu bạt chân trời góc bể rất nhiều năm nay đã kết thúc, hắn sắp phải dấn thân vào vòng xoáy loạn lạc của thời đại.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 12-20-2012, 01:49 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 5, 6

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 5

Các pháp các sư


Phù Dung hướng mục quang vào chiếc khoái thuyền ẩn kín bên sông, thần sắc lộ vẻ dò hỏi. Hai mãnh tướng cao thủ Tiên ti là Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn phân ra đứng hai bên tả hữu. Ngoài ra còn hơn chục thân binh thủ vệ phía sau, đang đốc thúc quân sĩ ráo riết lùng sục hai bên bờ dòng sông nhỏ. Đang là tiết đại vũ mùa thu. Tuy rằng mây đen vần vũ, lại có thể thoáng trông thấy nền trời trong sáng, đang khi mưa lớn, nhưng bốn bề sớm sẽ trở lại quang đãng.
Phù Dung đầu mang chiến khôi, vai khoác trường bào, cổ choàng khăn lông thú, bên trong áo giáp bó chặt, quần ngắn đẹp đẽ rủ xuống, chống kiếm vươn mình, khí thế bất phàm. Sức lực của gã không hề khiến người khác chú ý, nhưng song mục sáng ngời phát ra sát khí đằng đằng, không ai dám coi thường.
Ngốc Phát Ô Cô gầm gừ nói: “Nếu chẳng có cơn mưa rào không đúng lúc này, chúng ta tất đã bắt được hai tên tiểu tặc phân thây trăm mảnh rồi”.
Phù Dung lạnh lùng: “Bọn chúng sao không thuận dòng chuồn đi xa, lại dùng chiếc thuyền nát này lên bờ nhỉ?”
Ngốc Phát Ô Cô có chút ngạc nhiên, Thư Cừ Mông Tốn gật đầu nói:”Bọn chúng định quay trở lại Biên hoang Tập mưu đồ chuyện gì lạ đây?”.
Bóng người chợt thoáng, trước mặt Phù Dung xuất hiện một thân hình cao gầy, bên ngoài áo choàng màu đỏ, đỉnh đầu đội mũ tròn, mình bận áo ngắn, bên dưới mang quần ngắn màu đen, hình tướng quái dị. Sắc mặt trơ khấc như hoạt khô lâu của hắn không có đến nửa điểm giống người, cặp mắt cá chết như chẳng nhìn vào đâu, khiến người ta trông thấy phải phát run.
Ngốc Phát Ô Cô và Thư Cừ Mông Tốn đồng thời lộ xuất thần sắc kinh sợ. Mục quang Phù Dung chuyển từ tiểu thuyền qua phía người này, tinh thần phấn chấn nói: “Quốc Nhân chẳng phải đã có phát hiện gì mới chứ?”.
Người mới tới là cao thủ lừng danh Tiên Ti tộc, chỉ xếp dưới Mộ Dung Thùy, tên gọi Khất Phục Quốc Nhân, trong số các tộc nhân lẫn lộn ở vùng Ngũ hồ, Tiên Ti là bộ tộc đông đúc nhất, các bộ lạc phân lập, đều không chịu phụ thuộc ai. Mạnh nhất có Mộ
Dung, Thác Bạt, Đoạn, Vũ Văn, Ngốc Phát, Khất Phục các dòng họ, đều lấy họ của tộc trưởng làm tên gọi.
“Đang, đang...”.
Khất Phục Quốc Nhân buông tay, một đôi đao rơi xuống đất vang lên âm thanh chát chúa, những cử động ẻo lả của hắn khiến người ta cảm thấy bất ngờ. Một thanh âm eo éo cất lên: “Hai tên đó chia tay tại đây, một đi theo hướng Biên hoang Tập, trên đường vứt bỏ binh khí, kẻ kia vượt sang bờ bên kia, để lại chút vết tích trên lớp bùn ở bờ sông, những dấu vết khác bị mưa xóa đi, có lẽ đi về phía nam”.
Phù Dung nhíu mày nói: “Kẻ chạy về phía nam đương nhiên là Yến Phi, người còn lại là ai? Cặp đao này xem ra chẳng phải là binh khí tùy thân của hắn, vì việc che dấu thân phận, sợ chúng ta thông qua binh khí biết được y là thần thánh phương nào, do đó khẳng định hắn thiện dụng kỳ môn binh khí, lại rất có danh tiếng, khiến người ta thoạt nhìn cũng nhận ra?”.
Khất Phục Quốc Nhân da mặt bất động: “Cách buộc thuyền vào gốc cây này người tộc Tiên Ti hay dùng, chẳng cần Quốc Nhân nói ra, Phù tướng thử đoán xem kẻ nào dám tới chọc giận chúng ta”.
Phù Dung lập tức sát cơ cực thịnh lộ ra trên song mục, Thư Cừ Mông Tốn hằm hè: “Nhất định là tên cướp trời đánh, Mã tặc Thác Bạt Khuê, hắn thiện dụng song kích, không dụng kích mà đổi dùng song đao”.
Ngốc Phát Ô Cô cười âm hiểm: “Lần này hắn dám động thổ trên đầu thái tuế, ta nhất định bắt hắn muốn chết không được, cầu sinh chẳng xong”.
Phù Dung nói: “Chúng ta không có thời gian lằng nhằng với hắn, cứ việc dùng khoái đao trảm loạn ma, nghênh đón thiên vương nhập tập”.
Nói đoạn, trầm giọng quát: “Mông Tốn, Ô Cô, hai ngươi lập tức tới thành ngoại điều một đội nhân mã nhập tập, lấy người của Tiên Ti bang trùng trùng vây khốn, bất luận già trẻ trai gái, giết sạch không chừa ai, giết lầm người không quan hệ, quan trọng nhất là không để cá lọt lưới, ta dám bảo đảm Thác Bạt Khuê có mặt trong đó, bằng không sao có thể kịp thời cứu thoát Yến Phi”.
Mông Tốn, Ô Cô dạ vang, vâng mệnh bỏ đi. Phù Dung quay sang phía Khất Phục Quốc Nhân, trầm ngâm nói: “Xem như vậy, Yến Phi cùng Thác Bạt Khuê tất có quan hệ mật thiết, hắn ta thực sự xuất thân lai lịch thấp kém sao, với kiếm pháp của hắn, đáng ra không phải là kẻ nhàn cư mới phải”.
Khất Phục Quốc Nhân lãnh đạm nói: “bất luận hắn là kẻ nào, chỉ cần Phù chủ soái lệnh Quốc Nhân đi truy sát, bảo đảm hắn không thể sống quá ba ngày”.
Phù Dung ngẩng nhìn trời cười: “Kẻ này đi về phía nam, tất có ý đồ, nếu có thể bắt sống hắn, có thể bức hắn khai ra Thác Bạt mã tặc lẩn trốn nơi nào, bọn chúng đã khiến chúng ta nhiều năm qua khốn khổ ở miền biên cương phía bắc. Quốc Nhân ngươi thuật truy tung thiên hạ vô song, Yến Phi có cánh cũng không thoát khỏi bàn tay ngươi”.
Khất Phục Quốc Nhân hú lên một tiếng chói tai, tiếp đó thần tình lại trở nên ngơ ngẩn: “Tôi sẽ khiến hắn đến cả khuê danh của mẹ hắn cũng phải nói ra”. Một tiếng vỗ cánh từ thinh không truyền lại, một con chim ưng săn mồi hạ xuống đậu trên vai hữu Khất Phục Quốc Nhân.
Khất Phục Quốc Nhân chân không chạm đất, hướng về phía sau phóng đi, tóc bay phất phơ, mau chóng gia tăng thân pháp như qui mị, Phù Dung đứng trông theo, có cảm giác không rét mà run. Mặc dù Yến Phi là địch nhân, cũng không vì nỗi hắn không tránh khỏi bị khuất nhục mà sinh dạ bùi ngùi.
Khất Phục Quốc Nhân phi qua bờ bên kia, thoắt đã không thấy đâu, biến mất trong rừng cây rậm rạp.
o0o
Kinh Châu, Giang Lăng, phủ thứ sử, nội đường.
Hoàn Huyền lao qua cửa như một cơn gió, đến sau lưng Hoàn Xung đang thưởng ngoạn cảnh sắc ngoài vườn qua song cửa, giận dữ nói: “Còn có đạo lý gì không? Đại ca thử nói coi, đệ thân làm Nam quận vương, đang khi quốc gia hữu nạn, Hoàn Huyền này tự động xin đi giết giặc, nguyện lãnh ba ngàn quân tinh nhuệ lui về thủ vệ kinh thành, nguyện để Tạ An sai khiến, vậy mà ông ta không thèm nhận, nói cái gì đệ cứ yên tâm, ba ngàn binh mã có cũng không nhiều, không có cũng không ít, cần nhất bảo vệ yên ổn Kinh Châu. Đại ca nói xem, ta nên làm gì, chẳng lẽ ngồi coi Tạ An gây ra tai họa cho nước cho dân sao?”.
Hai người là anh em cùng cha khác mẹ, Hoàn Xung là trưởng, Hoàn Huyền là thiếu, thế nhưng vẻ ngoài, tính tình đều không giống nhau.
Hoàn Xung thân hình trung đẳng, tướng mạo chất phác vụng về, năm nay sáu mươi mốt tuổi, mũi to, trán cao, mục quang thận trọng kiên định, ngoại hình không làm người ta để ý, nhưng lại khiến người ta có cảm giác rất yên tâm.
Hoàn Huyền kém anh hơn ba chục tuổi, vừa mới hai mươi bảy, thực tế mặt mũi lại còn trẻ hơn tuổi, tinh thần sáng láng, ngũ quan đoan chính, nhưng cặp mắt nhỏ mà dài khiến cho gã có chút khí chất tà dị, tựa như gã sở hữu một lực lượng thần bí, lại vừa khiến cho gã nổi bật hẳn lên so với thường nhân, thể hiện rõ ràng tài trí thông minh của gã.
So với Hoàn Xung, gã cao hơn tới nửa đầu, thân hình mảnh dẻ cân xứng, da trắng như ngọc, lại có được cái gọi là bẩm phú xuất chúng của con em thế gia vọng tộc, chính là điều khiếm khuyết chí tử của Hoàn Xung. Hoàn Huyền thân mình mang y phục võ sĩ hoa lệ, hông đeo bảo đao Đoạn Ngọc Hàn, xác thực có mị lực mê người.
Hoàn Xung mắt vẫn ngắm nhìn cảnh đẹp buổi sơ đông bên ngoài, như không hề nghe thấy lời gã, bỗng nói: “Thủy quân Phù Kiên từ Ba Thục xuôi dòng mà tới, ngươi thấy tình hình ra sao?”.
Hoàn Huyền hơi ngơ ngác, bất quá vì gã rất tôn kính Hoàn Xung, không dám trái ý ông, miễn cưỡng đàn áp nộ hỏa bừng bừng trong tâm: “Chúng đã tiến công Kiến Bình thành ở thượng du, một cánh quân khác tiến tới dừng lại ở Tương Dương, thành thế ỷ giốc, uy hiếp Giang Lăng, đệ đã phái thêm binh mã phòng thủ Nghi Đô, Cảnh Lăng hai thành, nếu người Tần dám tấn công một trong hai nơi, chúng ta sẽ mang đại quân theo đường thủy mau chóng cứu viện”.
Hoàn Xung trầm giọng nói: “Nếu hai cánh địch quân này hợp làm một, thuận dòng tiến thẳng tới Kiến Khang, tiểu đệ ngươi biết sẽ có hậu quả gì chứ?”.
Hoàn Huyền ấm ức nói: “Đệ đương nhiên rất hiểu, nhưng đã có đại ca trấn thủ Kinh Châu, Dương Châu cũng ổn như Thái Sơn, đệ bất quá chỉ muốn vì triều đình tận tâm tận lực. Hãy xem, Tạ An dùng toàn người của Tạ gia, Tạ Thạch làm thống soái, tiên phong đốc quân là Tạ Huyền và Tạ Diễm, đệ về mặt này làm sao mà không bằng họ, từ khi mới mười sáu tuổi đã đem quân kháng địch, lập vô số công lao hãn mã. Hiện tại Phù Tần mang đại quân áp tới, Tạ An vẫn cứ cái kiểu một mình mình làm, tiếp tục buông thả nói suông. Đệ thừa nhận Tạ An đích thực là thạch trụ của triều đình, nhưng về quân sự lại ấu trĩ như trẻ con bị bịt mắt, chư tướng ngoài trận tiền nhiều người còn it kinh nghiệm tác chiến, thêm vào đó còn quân số nhiều ít khác nhau, thiết tưởng hậu quả ra sao cũng không khó đoán, bên ta chúng tướng đều trở thành nô lệ vong quốc hết”.
Hoàn Xung thở dài, tựa hồ cũng có đôi chút đồng ý với Hoàn Huyền, cười khổ nói: “Chính vì đại quân áp cảnh, cho nên chúng ta không có lựa chọn nào khác. Tạ An có lẽ không đến nỗi như đệ tưởng tượng, Tạ Huyền lại là danh tướng mưu dũng đầy đủ. Tiểu đệ, hãy giúp ta thủ ổn Kinh Châu, ngoài ra chỉ còn xem khí số Đại Tấn ra sao mà thôi”.
Hoàn Huyền ngó xung quanh người Hoàn Xung, lạnh lùng nói: “Đại ca chẳng nghe thiên do mệnh? Bằng vào uy vọng của đại ca nhất ngôn cửu đỉnh, đệ lập tức mang quân tới Kiến Khang gặp thánh thượng phân tách lợi hại, may ra có thể khiến thánh thượng hồi tâm chuyển ý thì thật là vạn phúc cho dân chúng”.
Hoàn Xung không buồn nhìn gã, lắc đầu: “Trận tiền dụng binh, há là việc của người trí giả? Cứ cho là Bắc phủ chư tướng đều tâm phục, lại càng khiến cho đại kế kháng địch trở thành loạn cục, những kẻ tiểu nhân như Tư Mã Đạo Tử nhân cơ làm rối, thừa nước đục thả câu, việc này tuyệt đối không thể làm”.
Hoàn Huyền căm hận nói:” Đại ca, Hoàn gia chúng ta tuyệt không thể đã sai lại sai nữa. Năm đó cha đã ép Tấn đế hành lễ cửu tích nhượng vị,nếu chẳng phải do Tạ An, Vương Thản Chi đồng lòng gây trở ngại, cha đã sớm lên ngôi bảo tọa, thiên hạ không còn của nhà Tư Mã mà là của Hoàn gia chúng ta. Chỉ hận cha không lâu vì bệnh mất đi, đại ca lại vô tâm với ngôi báu, hiện tại...”.
Hoàn Xung rốt cuộc thấy rõ lòng dạ gã, song mục thần quang sáng rực quát lớn: “Câm miệng, hiện tại Tấn thất không cần tranh giành cắn xé lẫn nhau, mà cần đoàn kết, chúng ta chỉ cần làm tròn bổn phận, nếu không hậu quả sẽ trở thành vong quốc nô. Ngươi mau cút về Nghi Đô cho ta, nhược bằng trái lệnh, chớ trách Hoàn Xung ta không niệm tình huynh đệ. Lập tức cút đi”.
Hoàn Huyền nhìn thẳng Hoàn Xung, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng hậm hực bỏ đi.
o0o
Màn đêm buông xuống, một cỗ chiến thuyền xuất phát từ Thọ Dương, nương theo Phì Thủy đi lên hướng bắc, tiến vào Hoài Thủy chuyển về hướng tây, ngược dòng đi lên Dĩnh Khẩu là đầu mối giao tiếp Dĩnh Thủy và Hoài Thủy. Trên thuyền toàn thể đều là thân binh của Thọ Dương trấn tướng Hồ Bân, do Lưu Lao Chi dặn dò, việc này cần bảo đảm tối mật, không thể để tiết lộ ra ngoài, chỉ biết là phải hộ tống một người đến Dĩnh Khẩu, mục đích gì thì với thân phận trọng tướng ở tiền tuyến như Hồ Bân cũng không biết mảy may. Tên tiểu tỳ tướng Lưu Dụ được phái đến hết sức coi thường người ta, ngay cả với hắn cũng thủ khẩu như bình, nhất định không tiết lộ manh mối, cùng hắn gặp mặt trao đổi không tới mười câu.
Hồ Bân cùng Lưu Dụ đứng trên đầu thuyền, tên này đương giương cặp mắt sáng rực quan sát tình thế trên bờ bắc Hoài Thủy.
Hồ Bân hết nhẫn nại, cất lời thăm dò: “Lưu Dụ ngươi với tình thế Biên Hoang có nắm rõ hay không?”.
Lưu Dụ thần sắc lãnh đạm khẽ gật đầu, không kiêu không nhún nói: “Thuộc hạ từng phụng mệnh nhiều lần tới Biên Hoang thám thính tin tức”.
Hồ Bân nhịn không nổi quay ra quan sát gã, trong lòng hết sức hiếu kỳ. Lần này Lưu Lao Chi phái Lưu Dụ tới Biên Hoang, Hồ Bân cho là uổng công vô ích. Vì rằng trọng trách nắm tiền tuyến quân tình là do hắn phụ trách, tự nghĩ khi Phù Kiên đem quân nam hạ, hắn đã sớm cho người trinh sát cẩn thận, gã tiểu tử này, căn bản không làm được chuyện gì, huống hồ gã mới ngoài hai chục tuổi, chắc kinh nghiệm không đủ. Nhưng hắn lại có cảm giác không thể coi thường gã, Lưu Dụ mang vẻ kiên cường, trầm tĩnh tự tin, khiến người ngoài tin tưởng ngày sau gã nhất định trở thành nhân vật phi thường.
Lưu Dụ chỉ cao hơn người thường một chút, được cái mặt to tai lớn, thân hình mạnh mẽ, tướng mạo đường đường, song mục thần ẩn kín, song chưởng đặc biệt to lớn, tuy không làm động tác gì, vẫn khiến người ta có cảm giác kinh dị, tùy thời có thể bộc phát lực lượng kinh nhân.
Hồ Bân nói: “Sau khi tiến nhập Biên Hoang tập, ngươi sẽ phải độc lập tác chiến, người của ta muốn ứng cứu sợ cũng không kịp. Ngươi thực không rõ tham quân đại nhân phái ngươi tới đó để làm gì sao? Nơi đó nay Hán nhân đi sạch không còn một ai, Hồ nhân hễ thấy người Hán là ra tay tàn sát, thủ đoạn thật tàn nhẫn, nếu ngươi bị chúng tìm bắt được, tiết lộ điều cơ mật, chẳng phải là khéo mà hóa vụng sao?”.
Lưu Dụ bình tĩnh chậm rãi nói: “Thuộc hạ địa vị thấp kém, về quân tình hiểu biết ít ỏi, nếu gặp tình thế bất ổn, ngay khi đó sẽ một bước tự tận, xin tướng quân khoan tâm”. Hồ Bân thấy mình chơi bài này, Lưu Dụ vẫn không chịu thổ lộ điều gì, trong lòng bực bội, không nói thêm nữa.
Chiến thuyền chậm chậm tạt vào hữu ngạn, Dĩnh Thủy từ mạn bắc cuồn cuộn đổ về, nhập vào Hoài Thủy, lại tiếp tục chảy về nam, sóng nước giao kích, dòng nước mạnh mẽ xô tới khiến lòng thuyền rung rinh.
Lưu Dụ nhìn sang bờ bắc Hoài Thủy, Dĩnh Thủy tự nơi xa xăm vô tận chảy về, bên bờ là bình nguyên hoang dã. Từ đây mà đi lên hướng bắc, với cước trình của gã, một đêm có thể tới được tòa thành đổ nát Nhữ Âm, từ đây lại đi thêm hai ngày sẽ tới Biên Hoang Tập, trong lòng bất giác nổi lên hào tình tráng chí, Hồ Bân ở bên cạnh cũng không biết chuyến đi này của gã chẳng những quan hệ đến sự tồn vong của nhà Tấn, mà còn liên quan đến sự nghiệp vinh nhục cả đời gã. Gã đã chờ đợi cơ hội này, chỉ có điều không phải là giao chiến lập công trên chiến trường, mà là thâm nhập vùng địch hậu, tiến hành những sứ mệnh hầu như bất khả thi.
Chiến thuyền áp sát bờ sông, Hồ Bân lạnh lẽo nói: “Đi đi, chớ cầu lập công, hãy cầu toàn mạng trở về”.
Lưu Dụ vỗ vào bao phục trên lưng, đang muốn tung người nhảy lên bờ, bỗng nhiên song thủ run lên, biểu thị đề phòng.
Có tiếng y phục xé gió vọng đến, hai người giật mình nhìn sang, một đạo hắc ảnh từ mặt nước vọt lên, bay quá bánh lái của con thuyền chừng một trượng về bên trái, mau lẹ không gì bằng lao đến phía hai người. Kẻ đến mang áo choàng màu xám lớn căng phồng theo gió sông giống như đôi cánh của một con dơi hút máu ban đêm, cặp mắt lóe lên những đốm quỷ hỏa màu lục đáng sợ, biểu thị một đường lối tu luyện nội công riêng biệt, ngụy dị vô luân.
Người chưa tới, một đạo kình khí cường đại đã áp tới, hơn chục thân binh còn chưa kịp bạt xuất binh khí, thích khách song thủ phân ra, vươn trảo chụp vào thiên linh cái Hồ Bân và Lưu Dụ...
o0o
Trên đống lửa, mỡ chảy xuống từ cái đùi sói nướng, khiến cho ngọn lửa bập bùng lúc sáng lúc tối, kèm theo âm thanh lụp bụp.
Sau hai ngày đêm vội vã mải miết đi, Yến Phi đã rời xa Biên Hoang Tập, cần phải dừng lại nghỉ ngơi, bảo trì cái bụng. Dĩnh Thủy đã ở cách nơi này chừng nửa dặm, bờ sông bên kia là Biên Hoang Tập và tòa thành hoang phế Nhữ Âm thuộc Dĩnh Khẩu. Tuy gã vẫn chưa biết làm cách nào để gặp mặt Tạ Huyền, nhưng gã quyết định cứ việc đàng hoàng, chuyện tiếp kiến tới Thọ Dương sẽ nghĩ biện pháp giải quyết. Trước mắt, chuyện cấp bách không gì hơn là hưởng thụ mỹ thực vừa săn được. Nếu có thêm một vò Tuyết Giản Hương thì càng lý tưởng.
Dòng sông Dĩnh Thủy êm ả khác thường, không thấy bóng thuyền bè, nhưng cơn cuồng phong bạo vũ vừa qua gây cảm giác trầm trọng bức bách. Vầng trăng sáng tỏ treo cao lại người ta khó mà liên tưởng tới một trường phong vũ khốc liệt hai hôm trước.
Yến Phi rút thanh chủy thủ, cắt một miếng thịt sói bỏ vào miệng ăn đầy vẻ thích thú, tự mình cảm thấy rất vui sướng. Hắn gần một năm nay không trải qua cuộc sống lưu lãng hoang dã, bỗng nhiên thấy lại cảm giác kỳ thú trước đây, nhược bằng không có chiến tranh, đây đã là một chuyện khoái ý rồi; hắn thích mong cầu thật ít thì mong cầu thật ít, đơn giản chỉ muốn kiếm sống một cách đàng hoàng, như vậy đủ cho hắn nhàn tản được mấy năm, chỉ đáng tiếc hiện thực lại tương phản với giấc mộng đó.
Bất giác nhớ lại lần nói chuyện với Thác Bạt Khuê trước lúc chia tay, Thác Bạt Khuê tự nhận tình thế hiện nay nắm rõ như trong lòng bàn tay, nhưng đối với người phương nam nhận thức lại thực có chỗ chưa tới nơi. Bởi vì Thác bạt Khuê không từng cùng hắn quay lại sống qua một thời gian đủ dài ở phương nam, đối với Ô Y môn lại càng không có những kiến giải đủ sâu sắc.
Nếu lấy Vương, Tạ làm đại biểu cho Ô Y Hào Môn, vốn là hạng áo mũ xênh xang trong triều đình bắc phương, từ sau khi nam độ trở nên kiều tính sĩ tộc, trong hàng cửu phẩm được chính sách tuyển quan dụng nhân bảo hộ, tại mảnh giang san còn lại của nam Tấn, chuyện này vẫn tiếp tục không đổi, hình thành những thế gia vọng tộc nguồn gốc sâu xa phát triển lớn mạnh, con em đệ tử có tư chất thì phong lưu hấp dẫn, nắm giữ ngôi công khanh, duy trì thế lực của gia tộc, khiến chúng ngạo thị người thường, tới mức dựa vào quân công giả mạo để tỏ ra tôn quý. Thậm chí đến hoàng đế như Tư Mã Diệu chỉ có thể phong quan tước cho hàn nhân, nhưng vô pháp biến họ thành quý tộc, vì rằng đó là luật lệ đã được truyền lại từ đời này qua đời khác, không thể với một đạo thánh chỉ mà thay đổi được.
Đối với thế gia đại tộc mà nói, ai làm hoàng đế không thành vấn đề, cần nhất là bảo tồn địa vị ưu việt của gia tộc, không có chuyện thương cảm hay tiếc nuối chi hết. Họ quan tâm tới việc phát triển gia tộc, chứ chẳng quan tâm triều đình hưng suy. Cho nên xử lý quốc sự có thể thoải mái tùy tiện, nhưng kế thừa sự nghiệp gia tộc không thể có một chút hàm hồ. Nói như vậy, trong đám con em hai thế gia này, muốn tìm trung thần khó ngang lên trời, nhưng hiếu tử thì quơ tay là đụng.
Chính cái chế độ cao môn đại phiệt này đã hình thành nên tình huống quái dị đó.
Mặc dù Vương, Tạ là lưỡng gia sĩ tộc hàng đầu, nhưng gia phong lại hết sức khác nhau. Vương gia coi trọng nho học, Tạ gia con em thì cao đạo xuất trần, tận tình theo lễ, sùng bái huyền học Lão Trang, khiến sĩ tộc hình thành vị thế sánh vai cùng Tấn thất
phối hợp đồng hành, miễn sao vượt qua lợi ích chính trị của người ngoài, biến thành lực lượng bảo thủ áp bức các hào môn bổn địa cùng hàn môn mới quật khởi.
Tình huống này, cho dù quyền cao chức trọng như Tạ An, Vương Thản Chi cũng vô pháp thay đổi, Tấn thất lại càng không có khả năng, mâu thuẫn này ngày càng trầm trọng, tất sẽ dẫn đến đại loạn, khơi ra bởi nam Tấn hoặc bởi ai đó, có thể không do tay Phù Kiên, mặc dầu lúc nào đó ông ta khẽ cong ngón tay cũng đủ nên chuyện, chỉ không biết kẻ này từ phương bắc tới hay lại là loạn thế anh hùng bản địa mới quật khởi.
Đang khi nghĩ ngợi tới chỗ đó, Yến Phi bỗng chậm rãi thu dọn mấy miếng thịt nướng đang tỏa hương vị thơm ngon, khẽ quát:” Ra đi, bằng hữu”.


Hồi 6

Hoang thiên đại pháp


Trong số tướng lĩnh Bắc phủ, Hồ Bân có thể coi là cao thủ hạng nhất, tuy không so được với Lưu Lao Chi, Hà Khiêm, Tôn Vô Chung ba người, nhưng e sánh với Cát Khản, Cao Hành, Lưu Quỹ và Điền Tế không hề sút kém. Khi trảo của địch nhân chụp tới còn cách đỉnh đầu vài thước, hắn đã nhanh như cắt rút bội kiếm tiến lên, đồng thời khuỵu thân tọa mã, triển khai một tư thế đủ cả công lẫn thủ, không chút sơ hở.
Nào ngờ đối phương bỗng nhiên biến chiêu, đổi trảo thành phất, tay áo vụt quất xuống dưới, giống như cánh tay tự dưng dài thêm ba thước, trường tụ chứa đầy chân khí nặng như non chụp vào thân kiếm, đáng sợ hơn là kình khí theo thân kiếm xâm nhập nội thể, Hồ Bân ngay lập tức bị chấn liệt hổ khẩu, không chịu nổi sức công phá, nửa thân mình đau đớn kịch liệt, trường kiếm thoát thủ bay xuống sông. Đây là lần đầu tiên hắn bị đối phương đánh bật kiếm khỏi tay.
Đang khi cực kỳ kinh hãi, lại thấy đối phương vung cước kích tới trước mặt, muốn tránh cũng không kịp, thầm kêu “mạng ta hỏng rồi”, các thân binh bên cạnh ào tới cứu viện thảy đều chậm mất một bước.
“Bồng”.
Tiếng kình khí giao nhau vang động bên tai Hồ Bân, hắn cảm giác thấy bên kia Lưu Dụ bật lùi về phía sau, địch nhân một cước suýt lấy mạng hắn vọt ra xa còn mau hơn, một tràng cười dài truyền tới, “coi như Hồ Bân ngươi mạng lớn”.
Các thân binh vây quanh Hồ Bân, bảo vệ hắn vòng trong vòng ngoài, người nào người nấy đều kinh hãi mất vía. Hồ Bân miễn cưỡng đứng dậy, liếc nhìn Lưu Dụ, thấy viên tướng trẻ này đã cho đao vào vỏ, thần tình vẫn lạnh lùng, đang chăm chú nhìn về phía bờ sông nơi thích khách đã mất dạng trong tăm tối. Hồ Bân không nhẫn nại được nữa, giọng tán thưởng: “Tiểu huynh đệ, thật không ngờ, hoàn toàn một đao của ngươi lui địch, chuyện này ta nhất định sẽ báo cáo rõ với tham quân đại nhân”.
Lưu Dụ nói: “Mục tiêu của hắn là Hồ tướng quân, lại thêm coi thường tại hạ, vì vậy mới may mắn đắc thủ. Nếu tại hạ đoán không sai, kẻ này nếu chẳng phải Thái Bình Thiên Sư Tôn Tư, thì cũng là truyền nhân đắc ý của hắn, bằng không chẳng thể có sức mạnh đến vậy, hắn ta mắt chiếu thanh quang lấp lánh, chính là đã thi triển 'địa pháp' nằm trong 'Hoàng Thiên Đại Pháp' của Tôn Tư”.
Hồ Bân đã thay đổi hoàn toàn cách nhìn với Lưu Dụ, ân cần nói: “Người này có thể ẩn nấp đâu đó tính cách hại ngươi, hay là thủ tiêu kế hoạch đêm nay, đêm mai ta sẽ an bài cho ngươi tìm chỗ khác tiềm nhập Biên Hoang”.
Lưu Dụ quả quyết nói: “Không cần đâu, tại hạ biết cách tự lo cho mình”. Nói xong tung mình lên biến mất trên bờ sông tối tăm.
o0o
Cành lá rung rinh, một người tự ngọn cây nhảy xuống, cười ha ha nói:”Ta đã tưởng nam quân ở cái chốn ma mọi này mới thiết lập một tòa phong hỏa đài, nguyên lai là tiểu tử Yến Phi nướng thịt ngon, hại mỗ lập tức thực chỉ rung động (tích cũ: có người mỗi khi sắp được ăn món ngon, ngón tay máy động báo trước, sau gọi là thực chỉ), người này không chút khách khí ngồi ngay xuống bên cạnh Yến Phi.
Yến Phi cắt một tảng thịt to đưa cho hắn nói: “Ta lại cho là ngươi chết quách đi rồi”.
Người mới tới chính là tay Phong Mai xuất sắc nhất ở Biên Hoang Tập tên Cao Ngạn, gã cầm miếng thịt đùi sói ăn ngấu nghiến, nói không ra tiếng: “Câu này lý ra là để ta hỏi ngươi mới phải. Ngươi lần này nghênh ngang như thế, không sợ chọc cho Hồ nhân tới sao?”.
Yến Phi mười phân thành thực nói: “Cho là có kẻ theo dấu truy tìm ta, cũng đã bị thủ pháp nghi binh dẫn dụ truy theo hướng ngược lại sang Nhữ Âm thành ở bờ bên kia. Nói tới phản truy tung, ta cũng có được một số biện pháp. Làm sao ngươi lại thay đổi chủ ý? Ngươi không phải muốn lưu lại Biên Hoang Tập để đại phát tài sao?”.
Cao Ngạn lắc đầu cười khổ: “Suýt chết con bà nó thì có. Bỗng dưng quân tiên phong của Phù Dung từ bốn phương tám hướng ập vào Biên Hoang Tập, chặn đường tiến ra thông đạo, lại sai người trùng trùng bao vây Biên Hoang Tập, một lũ giết người hung dữ như lang sói, may sao ta đã lo liệu trước, dự bị sẵn đường lui, mau chóng chuồn đi, bằng không thì cái mệnh nho nhỏ này cũng đi đứt rồi”.
Yến Phi cắt ngang: “Ngươi có thông đạo bí mật có thể ly khai Biên hoang tập sao?”.
Cao Ngạn giơ ba ngón tay cười hi hi: “Muốn ta nói ra cho ngươi sao? Lão tử cho ngươi một cái giá ưu đãi nha”.
Yến Phi cảm giác rất không ổn, tuy xem ra tự mình không có khả năng, nhưng Phù Dung lần này rõ ràng chĩa mũi nhọn vào Thác Bạt Khuê, bất giác tâm tình hết sức bối rối, chẳng biết nên tiếp tục hoàn thành công việc Thác Bạt Khuê phó thác, hay là quay trở lại Biên Hoang Tập coi cứu cánh, trong lòng day dứt không yên, bực tức nói: “Cút mẹ ngươi đi. Ngươi hiện giờ tính đi đâu vậy?”.
Cao Ngạn hận đến nhe hết cả bộ xỉ ra: “Không ăn được thì đạp đổ. Ngươi nhân lúc người ta gặp cơn nguy khốn, ăn chặn của ta năm đĩnh vàng mồ hôi xương máu, may sao hiện tại ta lại có thể tìm nam nhân bán chút tin tức, thu lại mấy đồng vậy”.
Yến Phi ngưng thần nhìn ngọn lửa, trầm giọng nói: “Cao Ngạn, ta có thể tin ngươi chăng?”.
Cao Ngạn ngạc nhiên đáp: “Vấn đề của ngươi thật cổ quái. Bất quá vì ngươi mấy năm nay giúp ta không ít, lão tử tuy không phải loại người cảm ân phải báo, nhưng cũng có mấy điểm cảm động. Nói đi”.
Yến Phi liếc nhìn gã, nhíu mày nói: “Ngươi cuối cùng là loại người gì? Ngoài việc bán tin tức kiếm tiền, thực không có lý tưởng hay mục đích cao xa gì sao?”.
Cao Ngạn kỳ quái hỏi: “Ngươi chẳng phải là gã Yến Phi mọi sự đều chẳng quan tâm sao? Sao bỗng dưng lại quan tâm tới ta vậy? Thấy người ta bằng hữu thân thiết, ta cũng không đành lừa ngươi, Cao Ngạn này là người thấy tiền là sáng mắt, lý tưởng duy nhất là kiếm tiền không ngừng, sau này tìm chốn phong lưu khoái hoạt. Không cần tín nhiệm ta, chỉ cần ra giá đủ hấp dẫn, với ai ta cũng có thể bán tin tức cho”.
Yến Phi cười nhẹ: “Ngươi đang lừa ta thì có, ngươi chỉ sợ bị người ta nhin thấu nội tâm lương thiện, mới đánh lộn sòng coi tiền như mệnh, thấy lợi quên nghĩa như vậy. Bớt nói lời thừa đi, coi đây!”.
Vừa nói, vừa dùng chủy thủ đào đất, đưa tay lần mò, rồi tiếp tục đào, dưới đôi mắt trợn trừng của Cao Ngạn, đã thấy mười đĩnh vàng trong tay hắn rực rỡ dưới ánh hỏa quang.
Cao Ngạn hai mắt phát sáng, trừng trừng nhìn đống vàng giận dữ nói: “Ngươi không phải là muốn vật quy nguyên chủ, lại trả tiền để mua tin tức quan trọng hay sao? Mẹ nó chứ, thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như thế nhỉ? Nói mau, chỉ cần không bắt ta quay lại Biên Hoang Tập, nhất định kiếm cách cho ngươi thỏa đáng rồi”.
Yến Phi nói: “Chuyện này nói lạ thì không lạ, nói khó cũng không khó, mà cần lợi dụng nhân duyên quan hệ của ngươi, giúp ta tìm Hồ Bân, nói với hắn năm ngày sau, vào khoảng từ giờ Dậu đến giờ Tuất ta sẽ tới Lang Tử Cương ngoài thành Thọ Dương, nếu Tạ Huyền muốn tìm kiếm một chiến thắng to lớn nhất kể từ sau trận Xích Bích thì tự thân tới đó, Yến Phi ta sẽ không để hắn phải thất vọng đâu”.
Cao Ngạn lộ thần sắc kinh ngạc ngoài sức tưởng tượng, ngơ ngác nhìn hắn một lúc lâu, lẩm bẩm: “ngươi không đùa chứ, muốn Tạ Huyền tới gặp ngươi, chẳng lẽ cứ nói khơi khơi là xong hay sao?”.
Yến Phi tiện tay cầm khúc xương đùi đã bị hai người chén hết thịt quăng đi, thu cất chủy thủ, điềm nhiên nói: “Ta đương nhiên có tín vật làm bằng, bất quá món hàng đáng giá bảy đĩnh vàng mà ngươi đòi lấy của ta mười đĩnh”.
Cao Ngạn ngạc nhiên: “Phải là mười đĩnh, đúng không?”.
Yến Phi cười nhẹ: “Ba đĩnh này là ta mua tin tức về thông đạo bí mật ra vào Biên Hoang Tập”.
Cao Ngạn hạ thấp giọng nói: “Ngươi thật có biện pháp cho Tạ Huyền thắng trận này sao?”.
Yến Phi cười khổ:” Thiên vương lão tử cũng chẳng có cách nào đưa ra bảo chứng cho chuyện này, bất quá khả dĩ khiến cho hắn có nhiều cơ hội giành chiến thắng hơn, còn chi tiết cần phải bảo mật, Tạ Huyền trông thấy vật chứng, tự khắc minh bạch”.
Cao Ngạn xòe bàn tay, tức giận nói: “Xong rồi!”.
Yến Phi bốc vàng bỏ vào tay hắn: “Không phải ngươi sẽ chuồn đi chứ?”.
Cao Ngạn thở dài: “Nếu vậy ta còn làm người được sao? Chưa kể giao tình của chúng ta, ta dầu gì đi nữa cũng là Hán nhân, lại còn tiểu tử ngươi chân trời góc biển truy sát, hại ta ngày đêm lo sợ nữa”.
Lại nói tiếp: “Phế viện Lương thị, đông bắc thành, trong khu vườn phía đông có một ao sen, nhập vào thủy đạo sẽ thông ra Dĩnh Thủy, chiều dài chừng mười mấy trượng, đủ rộng để một người chui lọt, coi chừng đại bản doanh của Để bang ở ngay cạnh”.
Yến Phi chìa ra một cái túi da dê chứa bảo, nói: “Ngươi tốt nhất đừng mở ra coi, khỏi lo không chịu nổi bị dụ hoặc, gây chuyện lụy người lụy mình”.
Cao Ngạn tiếp lấy, nhíu mày ngó Yến Phi: “Ngươi cứu cánh là loại người gì vậy?”. Yến Phi ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng bên trên, thần sắc biểu hiện thống khổ, nét u uất trong ánh mắt lại càng trầm trọng, miệng khẽ ngâm:
“ Dạ trung bất năng mị, khởi tọa đàn minh cầm.
Bạc duy giám minh nguyệt, thanh phong xuy ngã khâm.
Cô hồng hiệu ngoại dã, tưởng điểu minh bắc lâm.
Bồi hồi tương hà kiến? Ưu tư độc thương tâm”
Cao Ngạn nghe mà ngơ ngác, gã không hề biết Yến Phi ngâm tác phẩm' Vịnh hoài thi' của Nguyễn Tịch, người đứng đầu 'Trúc lâm thất hiền' trước tác hơn trăm năm trước. Tuy gã chữ nghĩa không nhiều, nhưng mà những hình ảnh gì gì tiếng đàn đêm khuya, trăng lạnh gió gào, cánh hồng cô độc cũng khiến gã đồng cảm với Yến Phi cùng nội tâm mê mang, tịch mịch, đau thương hắn mang trong lòng. Điều này ẩn khuất không lộ ra chút nào, người quen biết cũng chỉ thấy dấu vết của những lo âu tư lự mà thôi.
Có thể thấy Yến Phi không thể kềm chế nổi mà biểu lộ ra lúc này, thực có một trái tim đau thương chồng chất, nhất thời Cao Ngạn muốn hỏi mà không thốt nên lời. Yến Phi bỗng lộ thần sắc cảnh giác, chăm chú nhìn lên trời, Cao Ngạn nhảy bổ lên, quét mắt nhìn bầu trời đêm, một chấm đen đang lượn tròn trên đầu hai người. Yến Phi thần sắc ngưng trọng, trầm giọng nói: “Nếu ta không nhầm, con súc sinh này chính là của Khất Phục Quốc Nhân tên gọi Tái Bắc Thần Ưng Thiên Nhãn”. Cao Ngạn lập tức toàn thân rét run.
Khất Phục Quốc Nhân là cao thủ đáng sợ thuộc Tiên Ti tộc, chỉ xếp sau Mộ Dung Thùy, thủ đoạn tàn nhẫn, tinh thông thuật truy tung, điều khiến người ta sợ hãi nhất là hắn ta lại ham thích nam nhân, lọt vào tay hắn coi như phải chịu nhục nhã ê chề, sống không bằng chết, gã cũng quên luôn không hỏi bằng cách nào Yến Phi nhận ra đó là Thiên Nhãn Ưng của Khất Phục Quốc Nhân, kinh hãi nói: “Bọn ta chuồn thôi”.
Yến Phi vẫn thần thái thản nhiên: “Không cần vội vã. Ta sẽ chỉ cho ngươi theo đường nào mà đi, ngươi chỉ cần lập tức y theo như thế, chuồn càng xa càng tốt, đến tận Thọ Dương trấn cũng chẳng cần quay đầu nhìn lại, ta tự khắc có cách bảo mệnh trốn chạy”.
Cao Ngạn hồi hộp yên lặng chờ đợi. Yến Phi nhắm mắt, bỗng quát khẽ:”Đông nam!”.
Cao Ngạn chỉ hận cha mẹ sinh ra cho hắn có một cặp giò, kêu khẽ:”Tiểu tâm” rồi vọt đi như một tia khói.
Yến Phi chầm chậm rút Điệp Luyến Hoa đứng lên, mở to cặp hổ mục. Nháy mắt đã thấy Khất Phục Quốc Nhân áo choàng đỏ tung bay, phiêu dương như quỷ mị, từ góc tây bắc rừng rậm mà lại, chân không chạm đất, xuất hiện như u linh trước mắt.
o0o
Lưu Dụ lưng đeo bội đao, dưới ánh trăng chiếu sáng vằng vặc trên đồng hoang, mau lẹ chạy một hơi hơn mười dặm đường, cảm thấy vừa an ủi, lại vừa thất vọng. Hắn an ủi là do nguyên nhân trên đường không bắt gặp một cao thủ Ngũ Đẩu Mễ Đạo nào, chẳng phải vì hắn lo không địch nổi, mà vì không muốn sinh chuyện gì. Chẳng may thất thố thì thật là một trở ngại lớn cho nhiệm vụ lần này; hắn thất vọng lại vì chẳng kiếm nổi một nửa tên hoang dân nào trốn từ Biên Hoang Tập ra, bởi hắn hy vọng từ miệng bọn này khai thác tình hình bên trong Biên Hoang Tập. May mà hắn tính cách kiên nghị, cho nên cũng chẳng vì vậy mà tiết giảm ý chí.
Bên phải là dòng sông Dĩnh Thủy uốn khúc chảy về nam. Hắn đang phân vân không biết có nên theo bờ tây Dĩnh Thủy đi lên bắc, như thế nhiều khả năng gặp được hoang nhân. Bỗng nhiên một tiếng kêu thê thảm từ cánh rừng hoang phía tây bắc vọng tới, theo hắn dựa vào nhĩ lực phán đoán, nơi đó cách chừng nửa dặm.
Lưu Dụ trong lòng rung động, thầm nghĩ hẳn là cường đồ chặn đường cướp đoạt, xem ra cũng thuận đường, lại thêm khả năng trên đường là hoang nhân chạy trốn khỏi Biên Hoang Tập, thêm nữa là cơ hội hành hiệp trượng nghĩa, không chút do dự, theo hướng thanh âm phóng tới.
o0o
Khất Phục Quốc Nhân tựa như hồng y lệ quỷ từ địa ngục hiện lên, đứng dưới ánh trăng cách chừng hai trượng ngắm nhìn Yến Phi ngạo nghễ đứng bên đống lửa, tay không mang võ khí, nhưng Yến Phi biết rõ cây trượng thành danh Huyền Thiết Xích của hắn theo thói quen vẫn giắt sau lưng.
Yến Phi ung dung nói: “Khất Phục Quốc Nhân ngươi chẳng phải gần đây không có tiền hô hậu ủng thì mất oai phong sao? Vì cớ gì đêm nay lại lạc bước lênh đênh một mình vậy?”.
Khất Phục Quốc Nhân cặp mắt cá chết chợt thần thái đại thịnh, toàn thân cũng tự hồi phục sinh khí, khùng khục cười như gà mái: “Đã có tiểu tử ngoan ngoãn ngươi bồi tiếp, bổn nhân đâu còn sợ tịch mịch”.
Yến Phi không chút động tĩnh, mặt thoáng lộ nét cười, Điệp Luyến Hoa đã xuất khỏi vỏ, đồng thời vung tả cước đá tung đống lửa, hất bay cả đám than hồng, ngập trời hỏa tinh ập thẳng vào mặt Khất Phục Quốc Nhân. Điệp Luyến Hoa trong tay hữu hóa thành một luồng sáng xanh mau lẹ đâm tới điểm yếu hại trên ngực đối thủ, tất cả động tác thực hiện cực kỳ lăng lệ. Gã hiểu rõ sự lợi hại của đối phương, cướp tiên cơ toàn lực xuất thủ, không chút lưu tình.
Khất Phục Quốc Nhân cười ha hả, áo choàng tung bay, tựa như nhất phiến mây hồng lượn tròn cuộn lên phản kích, ngay lập tức khiến cho Yến Phi không những mất mục tiêu công kích, mà kình khí cuộn tới còn khiến toàn bộ đám tàn than lửa bị hất ngược trở lại, gã thầm kêu bất diệu, vội vã thối lui. Gã nghe đối phương danh vang Cửu hỉ, nhưng không nghĩ Khất Phục Quốc Nhân đạt đến cảnh giới ấy.
Khất Phục Quốc Nhân thực ra cũng phải âm thầm kêu khổ, hắn không tưởng Yến Phi biến chiêu linh hoạt đến thế, tùy tiện muốn tới thì tới, muốn lui thì lui, nếu để chân khí xảo kình từ áo choàng quét trúng thân kiếm, hắn sẽ thừa cơ thi triển thủ pháp tinh ảo đoạt kiếm, may mà Yến Phi hiện tại đã rơi vào bại thế, hắn chỉ cần thừa thế truy kích, bảo đảm Yến Phi vô lực hoàn thủ. Huyền Thiết Cích dài hai thước tám tấc danh tiếng lẫy lừng võ lâm phương bắc tìm theo công kích Yến Phi như hình với bóng.
“Bồng! Bồng! Bồng!”.
Âm thanh của kình khí giao kích vang lên không ngừng. Bụi than tàn lửa bắn ra tứ tung, Khất Phục Quốc Nhân đụng phải ba tầng kiếm khí vô hình hữu thực, mỗi tầng kiếm khí đều ngăn trở hắn không cách nào tiến tới, nhuệ khí hoàn toàn tiêu thất sau lần va động cuối cùng. Lần đầu tiên Khất Phục Quốc Nhân gặp phải thứ kiếm pháp như vậy.
Nguyên Yến Phi khi bay ngược trở lại đã bủa ra một lưới kiếm chia ra ba tầng bức bách Khất Phục Quốc Nhân vô pháp thừa cơ truy kích, theo nhận xét của Yến Phi, Khất Phục Quốc Nhân tuy bề ngoài thanh thế hung hãn, nhưng trong chiêu thức cựu lực đã tận, tân lực chưa sinh trong lúc lúng túng, vì vậy không thể tận dụng cơ hội. Luồng thanh mang trong tay đại thịnh, kiếm vũ ngập trời hướng đến kẻ địch đáng sợ đánh tới.
Khất Phục Quốc Nhân hành động ra ngoài dự liệu của Yến Phi, chẳng hề thoái lui, cũng không thèm dùng thiết xích phong tỏa chiêu thức của gã, mà thân mình quỳ xuống, đầu lắc mạnh, một cuộn vải bố to tướng vụt phất lên xâm nhập trung tâm lưới kiếm, đập trúng vào Điệp Luyến Hoa.
Bảo kiếm giống như bị trúng một chùy ngàn cân, sém chút đã thoát thủ bay đi, toàn thân kinh mạch hầu như tê liệt, khó chịu vô cùng, biết rõ đây là thời khắc sinh tử tồn vong, Yến Phi vội miễn cưỡng đề khởi chân khí, mượn thế xoay người, Điệp Luyến Hoa hóa ra kiếm khí che phủ toàn thân, nghiêm mật phòng thủ.
Khất Phục Quốc Nhân đắc ý cười dài, thân mình bay vọt lên, lao tới trên đầu Yến Phi, Huyền Thiết Xích cuồng mãnh kích tới Yến Phi, không để lọt một kẽ hở nào cho gã đào thoát.
Yến Phi dựa thế xoay mình hóa giải kình khí xâm nhập nội thể, mắt thấy Khất Phục Quốc Nhân dùng chiêu thức cao minh đến vậy, thầm kêu lợi hại, Điệp Luyến Hoa lập tức đảo ngược lên phản kích.
“ Đinh đinh đang đông”.
Kiếm, xích giao nhau vang lên một chuỗi âm thanh bất tận, Khất Phục Quốc Nhân từ phía trên liên tiếp đánh xuống, Yến Phi toàn lực ứng phó đối thủ đáng sợ này, thế công như bài sơn hải đảo của hắn khiến gã muốn sức cùng lực kiệt, chân không ngừng thối lui theo hướng Dĩnh Thủy.
Chỉ trong chớp mắt, Yến Phi đã ngạnh tiếp hơn chục chiêu thức quán chú đầy chân kình, biến hóa lúc khinh lúc trọng, có thể theo phương bất kỳ đánh tới.
“Pang!”.
Khất Phục Quốc Nhân bay vọt lên, hữu cước liên tiếp kích trúng mũi kiếm của Yến Phi.
Một cỗ kình lực không thể chống nổi ập tới, Yến Phi cánh tay cầm kiếm đau đớn kịch liệt, loạng choạng lùi lại phía sau.
Khất Phục Quốc Nhân cũng bị cường lực phản chấn không sao tiếp tục truy kích được nữa, thân mình vọt ngược ra sau hạ xuống đất.
Khoảng cách giữa hai người bây giờ đã xa tới hai trượng.
Yến Phi chập choạng đứng lên, 'oa'một tiếng, phun ra một búng máu, Điệp Luyến Hoa lại trỏ vào đối thủ.
Khất Phục Quốc Nhân Huyền Thiết Xích cũng trỏ thẳng Yến Phi, mớ tóc đen và tấm áo choàng không gió tự lay động, hình dáng như lệ quỷ, song mục phát xuất những tia âm lãnh kỳ dị hiếm thấy, chân khí bao trùm khóa chặt đối thủ, cất giọng âm hiểm: “Hảo kiếm pháp, Khất Phục Quốc Nhân ta gần mười năm nay mới gặp thứ kiếm thuật xuất sắc đến thế, với tuổi trẻ như ngươi cực khó đạt được, tiền đồ vô hạn lượng, chỉ tiếc là đêm nay kiếp số khó thoát”.
Yến Phi dùng toàn lực chống lại luồng kình khí Khất Phục Quốc Nhân không ngừng phát động áp tới gã, minh bạch đối phương đã bỏ ý định bắt sống, biến thành toàn tâm sát tử bản thân mình, tránh để ngày khác thành đại họa, cười nhẹ nói: “Cứ việc tận lực ra tay đi, coi xem có như ý ngươi không”.
Khất Phục Quốc Nhân trên mặt xuất hiện nét cười tàn nhẫn: “Ta biết ngươi là kẻ nào rồi, Mộ Dung Văn chẳng phải đã chết trong tay ngươi sao? Chỉ cần tin tức này truyền đi, cho là đêm nay ngươi may mắn trốn đi, người của Mộ Dung Tiên Ti há lại bỏ qua ngươi?”.
Yến Phi trong lòng rung động, tuy biết Khất Phục Quốc Nhân dùng kế công tâm, nhưng cũng bị ảnh hưởng rõ rệt, kiếm khí giảm đi mất ba phần.
Khất Phục Quốc Nhân hét lên một tiếng, tấm áo choàng vụt bay ngược ra sau, thiết xích trên tay quán đầy kình lực rung trời chuyển đất, uy lực kinh người kích đến.
Yến Phi gắng thu nhiếp tâm thần, luồng kiếm quang trên tay bung ra, toàn lực triển khai chiêu thức bảo mệnh trong Nhật Nguyệt Ly Thiên Tâm Pháp, Điệp Luyến Hoa vẽ thành một chuỗi những vòng tròn, từ vòng lớn dần hóa thành vòng nhỏ, bất kể chiêu số Khất Phục Quốc Nhân biến hóa ra sao, cuối cùng cũng bị một vòng tròn phong tỏa.
Khất Phục Quốc Nhân trước tiên cảm nhận một cỗ kiếm khí dương cương thấu qua thiết xích kích tới, bụng bảo dạ tiểu tử lợi hại, vội vận xuất toàn lực, thầm nghĩ Yến Phi không chết cũng trọng thương, bỗng thấy dương kình hóa thành âm nhu, kình khí hắn phát xuất bị hóa tán ít nhất một nửa, khi biết trúng kế thì đã muộn.
“Tang!”.
Yến Phi lại phun ra một búng máu, nhắm thẳng vào đầu vào mặt Khất Phục Quốc Nhân bắn tới, thân mình nương thế bay ngược trở lại, cười nói: “Cho lão ca ngươi một cơ hội phao tin đồn nhảm nghe”.
Khất Phục Quốc Nhân vừa mau lẹ chuyển thân tránh qua ngụm tiên huyết chứa đầy kình khí, Yến Phi đã thấy ở ngoài mười trượng xa, càng chạy càng nhanh, giận dữ gầm lên, đề khí truy theo như điên như cuồng.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 12-20-2012, 01:54 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 7, 8

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 7

Trại đêm nấu rượu


Lưu Dụ từ một lối mòn trong cánh rừng rậm rạp nhảy ra, dưới ánh trăng chiếu sáng rực rỡ xuất hiện một tòa thành bảo màu xanh thẫm, gã không lạ chút nào, loại thành bảo như thế ở miệt bắc sông Hoài là sản phẩm độc đáo của địa phương này, có điều tòa thành trước mắt rõ ràng đã bị bỏ hoang khá lâu, cỏ dại um tùm, tường thành đổ nát, không một ánh đèn lửa, cổng vào đã biến thành ô trống tối thui.
Từ Vĩnh Gia chi họa trở về sau, những thành bảo kiểu này trở thành một loại cứ điểm sanh tồn dành cho bách tính chống lại chiến hỏa tàn phá, người cùng thôn hoặc cùng họ tụ tập sinh sống, nghiễm nhiên thành ra đơn vị võ trang tự vệ dựa vào thành cao hào sâu. Thành bảo loại lớn có tới hàng ngàn hộ dân sinh sống, khói lửa mặn nồng, xóm giềng thân thiết.
Theo kiến trúc mà coi tòa thành bảo trước mắt thuộc loại nhỏ, cũng có vọng lâu, trên tường còn đắp một đoạn thành dài chừng ba thước, qui mô chỉ hơn trăm hộ cư trú. Bất quá đấy là chuyện quá xưa rồi, hiện giờ chỉ còn vườn không nhà trống, tự tại lặng thinh tố cáo lão thiên gia về khổ nạn trên thân mình.
Lưu Dụ bỗng nhiên tăng nhanh tốc độ, chuồn vào cổng bảo, thò đầu ra nhìn, mục quang quét nhanh, ba xác người liên tiếp nằm trên con đường lớn, giống như được xếp thành hàng cách nhau một trượng, thi thể gần nhất bị người bóp nát sọ, trảo kình thực là kinh khủng.
Lưu Dụ hoàn toàn không muốn nhập bảo truy tìm căn nguyên, càng không muốn gióng chuông kêu gọi yêu đạo Thái Bình Giáo tới, chỉ liếc qua rồi quay đầu mau chóng li khai, hướng Nhữ Âm chuốn thẳng.
Nếu để hỏng chuyện chính, huyết án trong bảo căn bản không đáng để nói đến.
o0o
Khất Phục Quốc Nhân chạy tới bờ đông Dĩnh Thủy, dòng sông trải dài dưới ánh trăng, sóng nước long lanh, trên bờ rừng cây tỏa bóng, hư hư thực thực, càng khiến người ta nghi thần nghi quỷ, Yến Phi thì không thấy tăm dạng.
Thiên nhãn ưng liệng vòng tròn trên cánh rừng hoang rậm rạp bờ bên kia, hiển nhiên chưa nhìn ra nơi ẩn náu của Yến Phi trên một cành cây thô tháp giống như một cánh tay đang thuận dòng trôi xuống phía nam.
Khất Phục Quốc Nhân lạnh lùng cười gằn, Yến Phi nhất định ôm cây ẩn núp trên sông, lại tá lực sang ngang cách bờ chừng sáu trượng, sau đó chuồn vào rừng rậm, hòng tránh né ánh mắt tinh tường của Thiên nhãn. Nghĩ tới đó, đang còn do dự, đại điểu đã đằng không lượn đi, hướng tới những khúc cây trôi trên sông, vô luận là cự ly hay tốc độ bập bềnh trên sóng ra làm sao cũng đều chụp tới không sót tí gì.
Mắt đang nhìn mũi nước, đột nhiên dị biến phát sinh hết sức mau lẹ, khiến cho Khất Phục Quốc Nhân bản lĩnh ứng biến như vậy mà cũng không kịp phòng bị, cước bộ đại loạn.
Từng tấc từng tấc cả một vùng bị băm nát, một đạo thanh mang phá thủy xung thiên vọt tới, kích thẳng vào những điểm yếu hại của Khất Phục Quốc nhân.
Khất Phục Quốc Nhân quát to một tiếng, thi triển bản lĩnh đề kháng giấu kín xưa nay, là chiêu thức cứu mệnh tối hậu, cố gắng đề khởi chân lực vào hữu cước thay cho tả cước đạp thẳng lên trên mũi kiếm, toàn thân công lực đều tụ vào Dũng Tuyền huyệt.
“Oanh!”.
Trường kiếm bay lên cắm xuông mặt sông, Khắc Phục Quốc Nhân rú lên kinh thiên động địa, chiếc giày nát bấy, tiên huyết bắn tóe từ bàn chân, loạng choạng mấy cái, quay đầu đi mất về bờ đông.
Dưới nước Yến Phi tuy thầm vui mừng diệu kế thành công, nhưng cũng bị lực phản chấn của đối phương khiến cho toàn thân khí huyết dâng trào, lại càng tiếc trong hoàn cảnh thuận lợi như thế nhưng cũng không thể dồn đối phương vào tử địa, dù sao thì Khất Phục Quốc Nhân cũng đã nếm mùi lợi hại, nếu không tốn thời gian điều dưỡng đừng mong quay lại truy bắt gã.
Kế sách xảo diệu của gã chính là trước tiên bám cây gỗ qua sông, chuồn vào rừng rậm, nhử cho Thiên nhãn tới truy tìm, lại bí mật xuống nước, tại đó phục kích kẻ địch. Khất Phục Quốc Nhân vừa đặt chân xuống đất, lập tức kêu gọi Thiên nhãn rồi thong thả tiến vào rừng cây bên bờ đông.
Yến Phi trèo lên bờ tây, thở sâu một hơi, không dám dừng lại, hướng Nhữ Âm tiến tới. Gã thụ nội thương nghiêm trọng, cần tìm nơi ẩn mật tránh được Thiên nhãn nhòm ngó, điều tức dưỡng thương, chờ khi phục nguyên rồi lại quay về Biên Hoang Tập. Không có chốn nào lý tưởng hơn tòa thành hoang phế này.
o0o
Đô thành Kiến khang của Nam Tấn, Ô Y Hạng, Tạ phủ, Vong Quan Hiên trong Tứ Qúy Viên.
Tạ An trải chiếu ngồi gần song cửa phía đông, đang tấu cây đàn ngũ huyền cổ cầm, ánh trăng vàng rải khắp vườn, trong hiên không một ngọn đèn, chỉ có ngọn lửa trong lò than nhỏ bập bùng, một vị tăng mang bạch y phong thần tú dật dùng quạt quạt lửa hâm rượu, thần thái du nhàn tự đắc.
Tạ An đã tiến vào thế giới của cầm âm, hiện thực không còn tồn tại, tất thảy chỉ còn âm nhạc, gió theo tây song dịu dàng thổi đến, y phục hai người không ngừng bay lất phất, phảng phất như tiên nhân. Cầm âm chuyển điệu, khi thanh thoát khích lệ vượt lên, bỗng lại tiêu trầm ai oán, bất luận biến đổi ra sao, đều khiến người ta rũ sạch lo âu, tâm tình trong sáng, quên đi trần tục.
Tiếng đàn ngưng lại, nhưng dư âm chưa dứt, vẫn quanh quẩn trong hiên. Tăng nhân nọ lắc đầu ngâm:
“Ngoại bất ký ngoại,
Nội nhuận quỳnh dao;
Như bỉ tiềm hồng,
Phất vũ vân tiêu.
Tạ huynh ẩn thì tiêu sái, làm quan thì hiển hách; ẩn thời là phong lưu danh sĩ, quan thì vẫn là phong lưu tể tướng, cả đời phong lưu, nhưng điều khiến Chi Tuần ta bội phục ấy là lúc ở ẩn không quên tình thiên hạ, khi làm quan không quên tình núi sông, không thẹn là đệ nhất phong lưu nhân vật tự xưa tới nay”.
Tạ An cười nhẹ: “Chi Tuần đại sư sao bỗng dưng tán tụng Tạ An như thế, Tạ An thẹn không dám nhận, tự Hán Tấn trở lại đây, danh sĩ bội xuất, khi nào mới tính đến ta, ta coi đại sư có ý khác đúng không?”.
Chi Tuần gật đầu: “Nghe tiếng đàn của Tạ huynh mới rõ huynh bên ngoài tỏ ra phóng đạt tiêu dao, bên trong lại có mối thâm tình lưu luyến, âm thầm chất chứa niềm thương tiếc đối với trường nội loạn ngoại nạn này, tiếng đàn đêm nay tâm sự lại càng thêm nặng nề. Có phải vì lo lắng trường đại chiến sắp tới chăng?”.
Nói xong đặt hồ rượu lên trên lò than, tay kia lấy ra hai cái chén, tự nhiên đi tới ngồi xuống đối diện Tạ An.
Tạ An khoan thai nói: “Cuộc chiến này thành bại, đã giao cho bọn trẻ phụ trách, Tạ An ta không để trong lòng. Chỉ bất quá vào thời khắc quyết định Đại Tấn tồn vong này, ta lại nghĩ đến rất nhiều điều trước đây không để ý. Đạo cùng tắc biến, vật cấp tất phản, đấy là cái lý của trời đất, không người nào đủ sức cải biến”.
Nói những lời cuối cùng, hiện ra một nét khổ sở tuyệt vọng.
Chi Tuần nâng hồ rượu nóng rót cho Tạ An, nói: “Huynh nói như dễ lắm. Thế nhưng ta lại biết rõ ngay khi Phù Kiên quật khởi, huynh đã lập tức chuẩn bị ứng phó với trường đại quyết chiến này, chẳng những tiến hành biên tịch thổ địa, thu hồi vô số đất đai từ các thế tộc, mà còn chiêu mộ tráng đinh rất nhiều, thành lập Bắc phủ binh. Chỉ bất quá huynh nhất nhất phụng mệnh hoàng thượng mà làm, hoàn toàn không làm khó cho dân, làm như kẻ thiện chiến mà không công lao hiển hách, kỳ thực thì lấy hòa tĩnh mà trấn giữ, dùng kế lâu dài để phòng ngự, vì đại cục mà bỏ qua tiểu tiết, dạy người dưới bằng hành động, bề ngoài vụng về mà bên trong cực khéo, đâu có giống như huynh nói không hề can thiệp vào chuyện gì?”.
Lại tự châm rượu cho mình, nói tiếp: “Từ hưng thịnh coi ra suy diệt, theo sinh cơ mà biết tử vong, thịnh suy sinh tử tuần hoàn xoay chuyển, chỉ một qui luật, Tạ huynh sao còn trăn trở tiếc nuối?”.
Tạ An nâng chén mời, hai người một hơi uống cạn.
Tạ An đặt chén xuống, ưu tư nói:
“Thứ nhất vong tình,
Thứ hai tận tình,
Thứ nữa nhờ tình,
Gõ tiếng chuông tình,
Chính thị bọn ta.
Vừa rồi ta đánh đàn, bỗng nhiên nghĩ đến vị trí của bản thân, mới sinh ra cảm giác lo lắng”.
Chi Tuần ngạc nhiên hỏi:”Vì sao lại nói thế?”.
Tạ An không trực tiếp trả lời mà nói: “Do Vương Đạo đến gặp ta, mỗi lần đều thúc giục chuyện cắt đất, sự thực chỉ muốn chiếm đoạt đất đai và nhân khẩu trong tay các thế tộc, nhưng bọn ta Vương, Tạ hai nhà đều là thế tộc trong hàng thế tộc, đại sư nói coi thế chẳng phải là rất mâu thuẫn hay sao?”.
Chi Tuần đã hiểu rõ.
Tấn thất lập nước, đại phong tông thất, dùng các tông vương nắm giữ các đạo quân, gieo mầm cái họa Bát vương, là cao môn thế tộc, đương nhiên theo phẩm cấp hưởng đặc quyền chiếm đất, cha truyền con nối, chiếm đoạt đất đai hộ khẩu nhiều vô số kể, lại còn được miễn trừ đóng góp cho quốc gia, cắt đất chính là hạn chế loại đặc quyền này của các công khanh thế tộc, lại càng có ý đối phó với vấn đề cưỡng chiếm thổ địa với thủ đoạn có xu hướng ngày càng ác độc.
Tạ An trầm giọng nói: “Cuối thời Đông Hán, hết loạn khăn vàng lại đến loạn Đổng Trác, quần hùng thiên hạ quật khởi, công phạt lẫn nhau, chiến họa liên miên, đến nay cũng chưa ngừng nghỉ, trải hai trăm năm, chỉ có Đại Tấn ta là thực hiện được việc thống nhất tạm thời, tuy mới có được ba mươi tám năm, trung thổ lại bị phân liệt thành cục diện cát cứ. Loạn Bát vương đương nhiên tạo sự phá hoại nghiêm trọng đối với Đại Tấn, cũng có thể vì vậy khiến các tộc Hồ làm loạn, không ai lường nổi, làm cho bách tính lưu vong, Trung Nguyên tiêu điều, ngàn dặm không thấy bóng khói, cơ hàn lưu tổn, ruộng đồng bỏ hoang, dân chúng không nơi nương tựa, từ khai thiên lập địa, theo thư tịch để lại, chưa bao giờ có chuyện như thế. Xét cho cùng nguyên nhân chính là do quyền lợi môn phiệt làm tối mắt và Hồ tộc xâm nhập Trung Nguyên, Tạ An mỗ thân là thế tộc chi thủ, nghĩ đến chuyện này, trong đầu thật quả là ngổn ngang trăm mối”.
Chi Tuần nói: “Tạ huynh có thể tự mình chiếu tình huống nghiêm khắc cảnh tỉnh mọi người, tin rằng Đại Tấn lại có hy vọng”.
Tạ An cười khổ: “Ta vì phát giác không còn hy vọng mới sanh ra đa cảm, ta cũng già rồi, ngày tháng không còn nhiều nữa, chỉ mang hy vọng ký thác vào điệt nhi Tạ Huyền, chỉ cần coi hắn tổ chức Bắc phủ binh, có thể biết hắn là người dám dỡ bỏ thành kiến, không quan tâm chuyện môn hộ, theo tài mà dùng người. Nhưng mà hiện giờ tình thế rõ ràng, cuộc chiến này nếu bại đương nhiên chẳng nói làm gì, nhược bằng đắc thắng, triều đình tất sẽ mọi bề áp chế hắn, vì sợ hắn lại trở thành một Hoàn Ôn nữa, uy hiếp cơ nghiệp hoàng triều của Tư Mã gia, trong tình huống này, Huyền điệt muốn duy trì địa vị gia tộc thật chẳng dễ, cần kíp bàn luận tiến hành cải cách nền chính trị hiện thời. Ai! Đại Tấn chẳng có hy vọng gì rồi”.
Chi Tuần nghe rồi mặc nhiên không nói gì.
Tạ An bỗng nhiên vươn tay ve vuốt cây đàn, thanh âm như lưu thủy vang lên, cất giọng ca:
“Vị quân ký bất dịch,
Vị lương thần độc nan,
Trung tín sự bất hiển,
Nãi hữu kiến nghi hoạn...”.
(Tạm dịch: vì người đã không dễ, làm trung thần còn khó hơn. Trung tín không mang lại vinh hiển, chỉ gây nên sự nghi ngờ)
Giọng ca trầm thấp khàn đục, chứa đầy nỗi niềm lo nước thương đời vang mãi đi xa.
o0o
Nhữ Âm thành chịu đựng sự phá hoại còn quá Biên Hoang Tập, tường thành hầu như không còn tồn tại, quá nửa số phòng ốc bị thiêu trụi, chỉ hai bên nam bắc con đường lớn còn lại khoảng trăm nhà dân cùng cửa tiệm vẫn được bảo trì hoàn chỉnh như cũ, tuy nhiên cửa giả các cái đều tan tành, cỏ dại tràn lan thật thê lương.
Lưu Dụ từ phía nam thận trọng tiến vào, ánh trăng chiếu xuống con đường âm u, Dĩnh Thủy chừng như ở bên hữu chảy qua, cảm thấy nguy cơ bốn bên tiềm phục, không rõ vì bị ám ảnh bởi Thái Bình yêu nhân hay là do trực giác quân nhân mẫn cảm của gã.
Phán đoán dứt khoát rồi, gã quyết định không nhập thành, mà chuyển thành đi quanh khu vực hoang phế góc đông nam, theo Dĩnh Thủy tiếp tục đi lên phía Bắc, lấy Dĩnh Thủy làm phương hướng chỉ dẫn, cho dù trăng mờ gió lớn cũng không lo lạc đường.
Vốn gã muốn vào thành tìm kiếm hoang nhân người Hán chạy trốn, nhưng tiến vào trong thành thấy tình cảnh như vậy liền hiểu rõ, dù rằng có hoang nhân trốn trong thành cũng rất mất công tìm kiếm, lại còn sợ gặp phải Thái Bình yêu đạo, nghĩ rằng thêm một việc chẳng bằng bớt một việc, mới quyết định vượt qua chứ không vào thành. Đã quyết định xong chủ ý, không do dự triển khai thân pháp, men theo bức tường thấp phía nam toàn tốc tiến về phía đông, sau đó rẽ lên phía bắc dựa vào tường thành mà đi, đó chính là nét cơ trí của gã, gặp sự tùy thời có thể tránh vào khu vực hoang phế, muốn đánh muốn chạy đều dễ.
Vừa qua khỏi góc đông bắc Nhữ Âm thành, bỗng nghe phía trước có tiếng vó ngựa dội lại, Lưu Dụ thầm kêu may mắn, vội vọt lên bức tường đổ phía tả cao chừng ba trượng chăm chú nhìn về phía bắc.
Dưới ánh trăng vàng vọt, cách đó chừng một dặm, chim chóc kinh hãi bay vọt lên, bụi đất mịt mù, ánh lửa nhập nhoạng, dùng con mắt nghề nghiệp đánh giá, thấy chừng vài trăm quân lính chắc là quân phong dọn đường của Phù Kiên, đang làm công tác chuẩn bị, dọn dẹp chướng ngại cho đại quân vượt Hoài Hà
Gã cũng rõ kiểu này không chỉ có một đội, mà chia nhiều đường tiến tới khống chế cả khu vực Dĩnh thủy.
Bản thân gã không nhất thiết phải quay lại đi lên phía bắc, có thể tránh không đụng phải chủ lực của địch nhân, nhưng lại nhiều khả năng bị trinh sát kỵ binh của đối phương bắt gặp trên đường, tính toán lợi hại thấy tốt nhất tránh vào thành nội, đợi địch quân đi qua mới tiếp tục bắc hành. Hơn nữa từ giờ đến lúc trời sáng chỉ còn chừng hai canh giờ, trời sáng rồi càng khó mà ẩn giấu tung tích.
Lưu Dụ hít thầm một hơi thở, nhảy lên bờ tường đổ phía tây, theo đường lớn chạy tới đám phòng xá phía đông bắc, một mặt quan sát hình thế nhà cửa, ghi nhớ vào lòng chuẩn bị đường tiến lui.
Đương khi gã tiềm nhập vào một tiệm ăn bên con đường lớn phía đông bắc qua song cửa lớn nhìn ra phía tây, thấy mấy trăm lính Tần vừa vào thành, phân ra hai đội di chuyển về phía nam, không buồn vào nhà tra xét.
Lưu Dụ lớn gan phục bên cửa sổ quan sát địch tình, hiểu rõ trước đó đã có thám tử vào thành tra xét nên toàn đội yên tâm vào thành không lo bị phục kích.
Gã thậm chí còn nhìn rõ dưới ánh lửa chiếu vào địch nhân đều mang nét mỏi mệt, hiển nhiên từ lúc xuất phát ngựa không dừng gót, vất vả bạt thiệp trường đồ, đang khi chăm chú nhìn, phía sau bỗng có thanh âm truyền tới.
Lưu Dụ thất kinh quay đầu lại ngó, lập tức ánh mắt trở nên ngơ ngác.
o0o
Yến Phi ung dung vô nhân vô ngã, quên hết mọi sự, đương yên lặng điều tức tĩnh dưỡng, bị tiếng động của đoàn quân nhập thành làm cho tỉnh lại, bao nhiêu thương thế trong mình đã không thuốc mà lành.
Nội công tâm pháp cơ sở của gã được mẫu thân truyền thụ, cộng thêm tự gã sáng tạo khổ luyện mà thành.
Từ sáu năm trước, thoát ly cuộc sống an lạc, dần dần giảm nhẹ nỗi đau do cái chết của từ mẫu mang đến, chuyên chí kiếm đạo, một mình một kiếm đi khắp thiên hạ, lưu lãng tứ xứ, tìm kiếm bậc cao hiền, tận sức với đan đạo huyền học, ra sức khai phá cảnh giới mới của kiếm đạo, tới Biên Hoang Tập mới yên tâm dừng bước, trải qua quá trình rèn luyện âm thầm bền bỉ, đến một đêm minh nguyệt treo cao mới ngộ thông đạo “hữu vô”, sáng tạo ra Nhật Nguyệt Ly Thiên Đại Pháp, lấy nhật nguyệt vi hữu, lấy thiên không vi vô, lấy hữu chiếu vô, minh thuộc nhật nguyệt, ám thuộc về hư không, hư thực cùng phát huy, tự đây mới bắt đầu thấp thoáng thấy cảnh giới của kiếm đạo.
Từ sau khi nhà Hán mất, huyền học phát triển mạnh mẽ, lấy công phu của Lão Tử, Trang Tử và Chu dịch làm căn bản, uyển chuyển kết hợp với xu hướng tư tưởng kinh nghĩa của nho gia hết sức phong phú thời lưỡng Hán mà thành, căn bản cuối cùng tập trung ở hai chữ “hữu vô”. Ứng dụng vào võ học, tất thành “ thiên địa vạn vật lấy vô làm gốc”, cùng với “ hữu vốn tự sinh” là hai loại tâm pháp chủ yếu, nay Yến Phi có thể dung hợp hai đại chủ lưu tâm pháp này, sáng tạo ra độc môn tâm pháp xưa nay chưa từng có. Tuy mới chỉ ở tầng sơ bộ, nhưng khả năng phát triển là vô hạn. Cũng trong khi phát triển tiềm lực này gã mới hiểu rõ Khất Phục Quốc Nhân không đời nào bỏ qua cho mình.
Một câu nói của Khất Phục Quốc Nhân khơi dậy tâm sự chất chứa trong lòng gã. Gã chẳng phải sợ Mộ Dung Tiên Ti tộc truy sát, mà là bị chạm đến hồi ức đau khổ về cái chết của từ mẫu.
Mộ Dung Văn chính là nguyên hung hại chết mẹ gã.
Bảy năm trước, Phục quốc bị Phù Tần diệt, ngoại công của gã Văn đại vương Thập Dực Kiền bị bắt rồi bị giết, gã cùng mẫu thân theo bộ hạ của Thác Bạt Khuê đi theo một bộ phận phân liệt của Phục quốc là bộ lạc của Lưu Khố Nhân. Tuy là sống nhờ người ta, nhưng cũng có được nơi an lạc qua ngày, chỉ tiếc ngày vui không dài, do Phù Kiên ngầm ra lệnh, Mộ Dung Văn đột ngột tập kích Lưu khố Nhân, thi hành thủ đoạn diệt tộc tàn bạo. Lưu Khố Nhân tử chiến tại chỗ, mẫu thân gã Tiên Ti Phi Yến Thác Bạt Yến vì bảo hộ gã cùng Thác Bạt Khuê mà thân trúng nhiều kiếm, mang bọn gã chạy tới nương nhờ bộ lạc Hạ Lan. Thác Bạt Yến cố sống được mấy tháng, cuối cùng chết vì thương thế bất trị. Gã cùng Thác Bạt Khuê trở thành một đôi cô nhi không cha không mẹ cùng quyết chí phục cừu. Thác Bạt Khuê hơn gã được một điểm, ít nhất hắn cũng biết cha mẹ là ai, gã thì lại không biết người cha Hán tộc của mình là thần thánh phương nao. Thác Bạt Yến tới khi chết cũng không chịu tiết lộ bí mật, còn những người trong nội tộc biết rõ sự tình đều vì chiến tranh liên miên mà chết cả.
Không muốn giữ mãi họ mẹ mang niềm đau thương về người quá cố, gã đổi tên thành Yến Phi để kỷ niệm vong mẫu.
Dù Thác Bạt Khuê phản đối dữ dội, gã vẫn nhất quyết cất bước lên đường lưu lãng cho tới tận ngày nay.
Hai năm trước, gã tiềm nhập kinh thành Trường An của Phù Tần, giữa phố đông giết chết Mộ Dung Văn, sau đó toàn thân thoái lui, chuyện này làm chấn động phương Bắc, cũng khiến Mộ Dung Tiên Ti cừu hận thấu trời, khi đó em trai của Mộ Dung Văn là Mộ Dung Xung và Mộ Dung Vĩnh từng phát động toàn lực truy bắt gã, may gã tinh thông thuật ẩn gấu hành tung, cuối cùng trốn đến Biên Hoang Tập mới yên tâm dừng bước, kết thúc những năm tháng sống lưu lãng phục thù.
Khất Phục Quốc Nhân đã thông qua thanh kiếm và kiếm pháp mà nhận ra gã, giấy đã không gói được lửa, lần này nếu gã không chết, về sau cần ứng phó thế lực mạnh nhất ở phương Bắc là Mộ Dung Tiên Ti hoàn thành việc báo thù.
Tuy nhiên gã cũng không để chuyện đó trong lòng, tự khi mẹ chết, gã không còn quan tâm đến chuyện sinh tử. Đời sống này không còn gì luyến tiếc, loạn thế hoàn toàn không hy vọng, kết thúc chỉ có cái chết khốn khổ, nhất thiết tùy ý làm cái mình muốn, cho đến tận khi chết.
Ánh trăng dịu dàng chiếu qua song cửa nát, bất giác khiến gã nhớ lại tình cảnh khi còn là một đứa trẻ, trên bình nguyên, trong căn lều tạm, trên trời vầng nguyệt vừa to vừa tròn, mẫu thân xinh đẹp ngồi trên một bọc chăn bên ngoài căn lều đang làm một tấm áo mới cho gã, khẽ hát lên một khúc ca của nhi đồng trên thảo nguyên, lọt vào nơi gã đang ngủ trong lều.
Giọng ca ôn nhu ngọt ngào đầy thâm tình của mẫu thân lúc này vang bên tai gã, nước mắt dâng tràn khóe mắt, tự sau khi mẹ chết, gã chưa bao giờ khóc, đêm nay bị Khất Phục Quốc Nhân khơi dậy niềm tâm sự, lại thêm xúc cảnh sinh tình, mới không có cách nào áp chế tâm trạng buồn đau giấu kín.
Từ khi gã hiểu sự, mẹ luôn vui cười, nhưng lại không phải chân chánh khoái lạc, tình yêu của bà hoàn toàn trút cho gã, nhưng gã lại không thôi bướng nghịch khiến cho mẫu thân không vui, hiện tại hối mà không kịp, vô pháp sửa chữa. Từ ngày mẫu thân quá thế đến giờ, vết thương đau trong lòng gã không sao hồi phục, Nhật Nguyệt Ly Thiên cũng bằng vô dụng.


Hồi 8

Xà huyết mỹ nhân


Cho dù nhìn thấy đích thị Thái Bình yêu đạo, cũng chưa chắc khiến Lưu Dụ có phản ứng như thế, bởi vì nhân vật vừa xuất hiện lại là một vị thiên kiều bách mị nữ tử, loại người chẳng có lý do gì để có mặt ở đây vào lúc này. Nàng ta từ cửa sau tối tăm tiến ra châm lửa, ánh sáng bừng lên, mang theo một cảm giác quỷ dị không tên. Lưu Dụ tuy bị vẻ kiều diễm của nàng ta làm chấn động, nhưng lại thấy sự xuất hiện đột ngột của nàng ta hết sức tà môn, liền âm thầm cảnh giới.
Mỹ nữ mặc áo xanh nhạt, vạt áo đuôi én bằng tơ nõn màu lục khâu chồng lên nhau, nối liền với áo ngoài phiêu phất, bên dưới quần rộng bằng lụa bạch sắc, dây lưng to bản, trang điểm như thể đang trình diện ở đại gia hào môn nào đó trong đô thành Kiến Khang, với cảnh trí nơi đây không chút hòa hợp, tuy nhiên thần thái hoàn toàn tự nhiên của nàng ta lại khiến điều bất hợp lý biến thành hợp lý.
Mái tóc đen mịn màng đẹp như gấm đoạn xõa xuống lưng một cách tự do thoải mái, da thịt nõn nà được trang điểm sơ sài càng làm nổi bật dung nhan như hoa như ngọc, cặp mắt mê người tự biết nói, như nhìn thấu mọi sự đời, thần thái ngây thơ hồn nhiên, thuần mỹ như một đóa sen trắng còn ngậm nụ.
Nàng ta tựa như không để ý đến Lưu Dụ, bỗng mau lẹ bước tới bên song cửa, ngó nghiêng ra ngoài, rồi nói nhỏ:” Trung Hoàng Thái Ất”. Thanh âm trong trẻo dễ nghe, đầy chất nhạc động lòng người, thanh khiết lạ thường, cùng với dung nhan đẹp đẽ, đều có dị lực câu hồn nhiếp phách. Lưu Dụ bỗng nghĩ tới một người, ngấm ngầm thất kinh, lắc đầu nói: “Ta chỉ là một hoang nhân qua đường”.
Trong Bắc phủ binh, gã phụ trách công tác điều tra, đối với tình hình nam bắc rất quen thuộc, vì vậy mới sơm nhận ra kẻ hành thích Hồ Bân có quan hệ với Tôn Tư, nữ tử này mỗi câu nói đều dùng ám ngữ, khiến gã liên tưởng tới một nữ tử tại bắc phương hoành hành một thời, hành sự ác độc, lập tức hiểu rõ mình không may bị hãm vào tình thế hết sức nguy hiểm, sơ sảy một chút sẽ táng mạng vì ngu xuẩn.
Trung Hoàng Thái Ất là vị thần giặc khăn vàng thời Hán mạt tin theo, giặc khăn vàng có hai đại hệ thống, phân biệt bởi Thái Bình đạo do Trương Giốc sáng lập và Thiên Sư đạo của Trương Lăng. Sau khi giặc khăn vàng bị diệt, hai hệ đạo môn lưu truyền lại, phân liệt thành nhiều hệ phái, Tôn Tư chính là tông sư của đạo giáo tại nam phương, tự xưng là kẻ kế thừa Thái Bình đạo, muốn thống nhất lưỡng đạo Thái Bình Thiên Sư làm một.
Ở phương bắc, vốn dĩ thờ phụng Thái Thanh Huyền Nguyên Thiên Sư đạo tổ sư là Trương Lăng, giáo chủ hiện thời Giang Lăng Hư, danh mãn lưu vực Hoàng Hà, cùng Tôn Tư tranh đoạt danh vị kế thừa đạo thống, thế như thủy hỏa, không thể tương dung.
Độc lập với lưỡng đại đạo thống là một nhân vật xuất chúng tên là An Thế Thanh, ngoại hiệu Đơn Vương, chuyên về thuật luyện đơn, tự xưng đạo gia phi đạo giáo, coi Thái Bình và Thiên Sư lưỡng đạo là tà dị ngu dân, sống ẩn dật ngoài tầm ảnh hưởng của hai đạo giáo này.
Nhân phẩm và hành động của người này ra sao, ít ai biết đến, vì người này không có nơi định cư, thường qua lại các danh sơn và đại giang tìm phúc địa để luyện đơn. Sở dĩ người này tên tuổi lẫy lừng là do Giang Lăng Hư và Tôn Tư đều muốn qua ông ta kiếm đạo giáo bảo vật gì đó, lần lượt phái từng nhóm cao thủ vào núi tìm An Thế Thanh, lại bị ông ta đánh cho tơi bời khói lửa, kẻ chết thì hoành thây đương trường, kẻ bị thương chạy về thì không cách chữa trị, hai sự kiện này làm rung động thảo nguyên nam bắc. Tự đó Giang Lăng Hư và Tôn Tư không dám đụng chạm đến ông ta nữa.
Đương khi mọi chuyện dần lắng dịu, bắc phương bỗng nhiên lại xuất hiện một vị nữ tử mỹ lệ tự xưng là An Ngọc Tình, nhi nữ của An Thế Thanh, liên tiếp chọc giận tam đạo đàn Thái Ất giáo, khiến cho Thái Ất giáo đồ đông đảo truy sát, khi đó hành tung của nàng ta lại biến mất. Không còn nghi ngờ gì, nữ tử trước mắt chính thị nàng ta.
Lưu Dụ đồng thời cũng minh bạch cao thủ đáng sợ lúc trước của Thái Bình đạo không phải sẵn có ý định giết Hồ Bân, chỉ vì trên đường tới Nhữ Âm thành, vớ được cơ hội thuận tiện ra tay, bản thân coi ra An Ngọc Tình cũng không phải là người của Thái Ất giáo, mà có khả năng liên quan tới đại sự của đạo giáo phát sinh tại đó, dẫn dụ được Thái Bình đạo nhân, An Ngọc Tình khơi khơi kiếm nẻo tìm tới tòa thành hoang phế này.
Lưu Dụ liền nghĩ đến chuyện sau khi chờ đợi Tần quân tới, phải lập tức rời xa chốn này.
Đúng lúc này, bàn tay gã bỗng có cảm ứng, hữu thủ vụt bung ra đỡ lấy tay áo thoảng hương của An Ngọc Tình, chạm vào vật gì đó cực kỳ sắc bén, tỉnh ngộ ra là một ngọn thiết tật lê, thì đã bị thích trúng đầu ngón tay. Một cảm giác đau nhức khó chịu lập tức theo tay truyền lên, hiển nhiên mang theo kịch độc.
An Ngọc Tình có lẽ vì gã có thể kịp thời ứng phó với thủ pháp độc môn ám khí vô thanh vô tức, vô ảnh vô hình của mình, ngước mắt nhìn gã, cứ như không có chuyện gì, ngạc nhiên nói: “Quả nhiên chân tay lanh lẹ, thật là không ngờ đấy”.
Lưu Dụ trong tâm đại nộ, thầm nghĩ lão tử không đụng tới ngươi, ngươi lại dám trêu vào ta, căn bản còn phải lo không giữ được tính mệnh, hiểu rõ tuy dung mạo tựa thiên tiên, nhưng chính thị là yêu nữ coi mạng người như cỏ rác, không biết so với Thái Hồ yêu đạo hơn kém bao nhiêu. Bất quá lúc này trục độc là khẩn yếu, tạm thời chưa tính toán với ả, chỉ ầm ừ một tiếng khô khan, đề khởi công pháp, ra sức tống xuất kịch độc theo độc tật lê ra ngoài, hầu mong nhanh chóng hồi phục.
Gã càng thêm cảm kích lão thiên gia, đã ban cho gã một đôi tay như vậy.
Lưu Dụ mười sáu tuổi tòng quân, đi theo thủ hạ thân tín của Lưu Lao Chi là phó tham quân Tôn Vô Chung, được ông ta chọn đúng làm thân binh, trải qua huấn luyện đặc biệt, không tới hai năm vô luận võ công tâm pháp đều vượt hẳn người đứng đầu Bắc phủ thập kiệt, được Tôn Vô Chung đặc biệt coi trọng, đề bạt làm chức quan tư mã, chuyên trách thâm nhập vào vùng địch thám sát tình hình.
Tôn Vô Chung có nhãn quan đặc biệt, với gã đặc biệt đánh giá cao song thủ thần kỳ, không những đối với các loại kỹ nghệ học đâu hiểu đấy, mà còn có cảm xúc linh mẫn dị thường, khiến gã vượt lên trên những bon chen của lũ hạ nhân, trở thành vì tinh tú mới mọc của Bắc phủ binh.
Trước mắt nhiệm vụ cấp bách, lại ở cách xa Tần quân, phải mau chóng thanh trừ độc tố trong mình, bằng không, yêu nữ có thể sẽ hạ sát thủ đối với gã mà không chút cố kỵ.
An Ngọc Tình nhẹ nhàng như nói một mình: “Không nói được nữa sao? ngươi trúng phải một trong chín loại độc đơn do cha ta luyện ra, kiến huyết phong hầu, ngươi lần này chết chắc, nhưng đừng có trách người ta, chết rồi cũng đừng có tìm người ta đòi nợ, có trách chỉ nên trách ngươi sinh ra nhằm giờ xấu, ở đây làm vướng víu chân tay người ta thôi”.
Lưu Dụ khí tức đầy ruột, nhưng cũng cảm thấy kỳ quái, ả nói cái gì độc tố huyền bí lợi hại, vì sao rõ ràng mình dễ dàng bài xuất ra ngoài như thế.
“Trích!”.
Máu tươi theo tật lê tràn ra, rỏ xuống đất.
An Ngọc Tình nhìn xuống, thần tình bình tĩnh, hốt nhiên trong tay xuất hiện một thanh chủy thủ, ánh sáng lóe lên, nhằm vào bên cổ Lưu Dụ vạch xuống.
o0o
Cái đuôi của đoàn quân Tần vừa khuất sau một ngã tư.
Yến Phi chuồn từ nhà nọ qua nhà kia, theo dãy sau của tòa phá viện nhảy lên mái nhà, di chuyển tới mặt trước của một ngôi điếm, nhìn qua song cửa gãy nát ra ngoài, theo dõi quân binh của Phù Tần vừa ly khai, chếch bên đối diện của đường phố là một tòa điếm khác, bên trong quang mang lóe lên, hiển nhiên là ánh sáng phản xạ của binh khí, trong lòng rất lấy làm kỳ. Bất quá tuy cách có một con đường, nhưng bằng cả thiên sơn vạn thủy, trước khi Tần quân rời thành, gã không cách nào qua đó coi cứu cánh.
Tiếng vó ngựa dần dần đi xa, bỗng nhiên từ phía tây bắc, sau những dãy phòng truyền lại tiếng rên rỉ thảm thiết. Yến Phi không khỏi run lên, toàn thần giới bị. Gã cảm thấy rõ Nhữ Âm thành đêm nay hoàn toàn không như vẻ ngoài bình an của nó, trái lại nguy cơ tứ phía rình rập.
o0o
An Ngọc Tình tay cầm chủy thủ hướng Lưu Dụ đâm tới. Lưu Dụ nắm chắc độc tật lê dùng đầu ngón tay xảo diệu bắn ra, nhanh như điện chớp nhằm vào tấm lưng thon nhỏ bé hấp dẫn của đối phương, vị trí và góc độ hết sức chính xác, nếu yêu nữ nguyên thức không đổi, ở cự ly cực gần, nhất định trúng chiêu, đồng thời người cũng mau lẹ thối lui, động tác như hành vân lưu thủy, gọn gàng nhanh nhẹn.
An Ngọc Tình chủy thủ đổi chiều, hướng xuống dưới điểm tới, nhằm trúng độc tật lê, ám khí theo tay văng xuống đất phát ra một tiếng 'ba' do kình khí tiếp xúc, có thể thấy dụng kình thật tinh xảo.
Lưu Dụ tự nghĩ mình không làm nổi như vậy, chợt có ý nghĩ, ngờ rằng ả e có người nghe thấy, sợ bại lộ hành tung, đối tượng có khả năng là Tần quân, lại nhiều khả năng là Thái Bình yêu đạo hoặc là người của Thái Ất giáo.
Nghĩ tới đó, liền có kế sách, thân mình đang tựa vào vách tường, mau chóng đứng thẳng lên, đao rời vỏ sau lưng xuất ra, chỉ thẳng vào đối thủ mỹ lệ như tiên, lập tức đao khí dàn dụa mau chóng phong tỏa toàn thân đối phương. Lưu Dụ trong lòng tự tin mãnh liệt, bất kể đối phương lợi hại cỡ nào, gã cũng đã nắm chắc điểm yếu chí mệnh của ả, cũng không cần để ý tấm nhan sắc kiều diễm mê người.
An Ngọc Tình quả nhiên không thừa thế công kích, đứng lặng mỉm cười, hộ thể chân khí vẫn tự nhiên cự lại đao khí cúa gã, cặp nhãn tinh tựa như hàm tình đắm đuối lộ xuất thần sắc kinh dị, nhìn trên ngó dưới săm soi gã, thần thái tỏ ra đã có cách nhìn khác hẳn, môi đào hé mở nói: “Không đánh được! Xem ngươi nha! Mà lại còn không sợ độc đan nữa chứ”.
Lưu Dụ chẳng biết nên giận hay nên cười, ả đã không tự trách mình thi triển độc thủ, lại còn trách người không chịu trúng độc. Lúc này tiếng vó câu đã xa, gã chắc chắn đối thủ sợ bại lộ hành tung, càng không dám chơi tới bến, liền hạ giọng nói: “Cất giùm ta thanh chủy thủ đi”.
An ngọc Tình cười ngọt ngào, thần tình ngây thơ xòe đôi ngọc chưởng nhỏ nhắn trắng như tuyết, yêu kiều nói: “Không thấy rồi nha”.
Quả nhiên chủy thủ đã biến đi đâu, kỹ xảo thật thần kỳ.
Lưu Dụ biết ả tùy lúc có thể tái xuất chủy thủ, rất không nên trêu vào ả ta, sự thực gã cũng như ả đều không muốn bị người khác phát giác, để khỏi dính phải những phiền não không cần thiết, ảnh hưởng đến chánh sự.
Gã khẽ cười nói: “Ta lại thay đổi chủ ý rồi, quyết có oán báo oán, có thù báo thù, giết chết ngươi”.
Trong mắt An ngọc Tình thấp thoáng một tia khác lạ, nhưng lập tức biến mất, bình tĩnh nói: “Con người ngươi là cái giống quỷ gì vậy? Người ta lần đầu tiên tới đây, ngươi lại kêu gào muốn đánh muốn giết. Nói thật nha, người ta thấy ngươi thân thủ cao minh, bỗng dưng sanh tâm ái mộ, còn đánh nhau gì nữa chứ?”.
Lưu Dụ tuy biết rõ lời ả không có lấy một câu thực lòng, nhưng nghe một nữ tử thiên kiều bách mị cất lên âm thanh nũng nịu mê người nói ái mộ mình, đao khí lập tức giảm đi mấy phần lợi hại, lắc đầu cười khổ, cắm đao vô bao, nói: “Ta phải đi đây”.
An Ngọc Tình nhìn trước ngó sau, vẫy tay nói: “Đi đâu chứ? Chuyện hay sắp đến rồi, hãy bồi tiếp người ta ở lại đây coi nhiệt náo chẳng phải hay lắm sao?”.
Lưu Dụ đề tụ công lực vào song nhĩ, tiếng vó ngựa trên quan đạo ngoài thành ẩn ước truyền lại, thầm nghĩ nếu lúc này lập tức ly khai, có khi lại đánh động nhân mã phía sau của Tần quân, biện pháp thông minh là rời xa yêu nữ, tới tường thành phía bắc quan sát tình thế, rồi mới quyết định đi hay ở. Nhưng nghĩ là nghĩ như thế, cặp giò dường như mọc rễ không muốn cất bước, phát giác mình đã di chuyển về vị trí ban đầu, cùng ả ta nhòm về phía con đường lớn, bỗng tỉnh ngộ, yêu nữ này tuy độc như xà hiết, phản phúc không lường, mặt khác lại có sức hấp dẫn rất mạnh với gã. Lập tức có cảm giác kích
thích hung hiểm như đang chơi với lửa, bất giác ngước nhìn ả, dưới ánh trăng lung linh, ả thần tình chuyên chú, các đường nét trông nghiêng của khuôn mặt như được điêu khắc hết sức tinh tế, không có chút tỳ vết nào, da thịt mềm mại mịn màng, chứa đầy sinh khí thơm ngát, tốt tươi mạnh khỏe, một thân hình cao và đẹp đẽ ẩn ẩn lộ lộ dưới lớp áo, khiến người ta cầm lòng không được liên tưởng đến ngọc thể mê người, hẳn phải là tuyệt phẩm nhân gian.
An Ngọc Tình đi lại phía gã, Lưu Dụ cảm thấy khó hiểu trong lòng, ngạc nhiên mở to mắt lúng túng, yêu nữ bật cười khúc khích nói nhỏ: “Tử sắc quỷ, muốn dùng mắt để chiếm tiện nghi của người ta à?”.
Lưu Dụ nghe lời này, trong lòng ngứa ngáy, càng biết rõ hàm ý ả muốn ám chỉ ham muốn xấu xa kín đáo của mình, đang lúc muốn nói, thanh âm như xé gió từ con đường lớn theo không gian truyền lại.
o0o
Yến Phi kín đáo chạy qua nhiều ngôi nhà dân, kẻ này sau khi giết người ở phía sau dãy nhà nào đó, thầm lén tiến tới cửa tiệm bên kia, khiến gã phát giác hành tung qua tiếng y phục phất động khe khẽ. Kẻ này có khả năng là Khất Phục Quốc Nhân? Hay là người của hắn? Nhưng khẳng định là cao thủ. Đổi lại nếu kẻ truy sát gã chẳng phải Khất Phục Quốc Nhân, gã sẽ lập tức ly khai, nhưng chỉ nghĩ đến Thiên nhãn có lẽ đang lượn vòng tìm kiếm trên bầu trời hoang thành, thế thì trốn ở một nơi có mái ngói che đầu chắc rằng sẽ ổn hơn.
Ngôi nhà đối diện tối om, không chút động tĩnh, ánh trăng ôn nhu trải dọc con đường, lặng yên như quỷ vực.
Ví như thực có chuyện âm hồn bất tán, khẳng định sẽ có hàng ngàn hồn ma bóng quỷ đang dật dờ trong chốn hoang lương này, khóc than cho số mệnh đau buồn của mình, trăn trở với một nghi nan không lời giải về định mệnh, phải chăng bản thân sẽ thành dã quỷ?
Yến Phi tâm trí chuyển sang nghĩ về Thác Bạt Khuê, tiểu tử này chắc chắn không đánh giá thấp Phù Dung, vấn đề là ở chỗ có thể có phản ứng ngoài dự liệu. Chính điều đáng nói là Thác Bạt Khuê trong lúc khẩn cấp xuất thủ cứu gã, sẽ bại lộ hành tàng, chỉ coi Khất Phục Quốc Nhân dễ dàng suy đoán ra mình là người đã giết chết Mộ Dung Văn, có thể biết Khất Phục Quốc Nhân trong lòng đã sớm biết người cứu gã chính là Thác Bạt
Khuê, bởi vì Mộ Dung Văn cùng Thác Bạt tộc có mối thâm cừu là chuyện nhiều người biết.
Phù Dung điều quân từ ngoài nhập thành, khiến gã cảm giác những suy đoán của mình dù không đúng cũng không mấy sai trật. Chẳng những Thác Bạt Khuê bị rơi vào tình thế nguy hiểm, mà những người của Tiên Ti bang có quan hệ với hắn cũng sẽ đại họa lâm đầu. Phù Dung nếu bắt được Thác Bạt Khuê, khả năng sẽ lưu lại mạng sống của hắn, bức bách hắn nói ra sào huyệt bí mật của tộc nhân, nếu gã kịp thời quay về, nói không chừng có thể tận điểm nhân lực, cùng lắm là bồi thêm một mạng chứ sao?
Nghĩ tới đây, liền hạ quyết tâm, không lý đến Thiên nhãn trên trời giám thị, quyết ý toàn tốc chạy về Biên Hoang tập.
o0o
Lại nói lúc này, vang lên âm hưởng của tay áo, trước mắt hình ảnh lay động, nhập lại thành một người xuất hiện trên đường phố.
Đó là một lão nhân to béo mặc đạo bào trắng, trên đạo bào trước sau có hình thêu đẹp đẽ màu đen và đỏ, biểu thị phẩm cấp cao nhất. Trong đen có chấm đỏ, trong đỏ có chấm đen, thể hiện dương trong âm hòa âm trong dương, hết sức bắt mắt.
Lão không lùn, nhưng do thân thể to béo, cái bụng phình ra to tướng, miễn cưỡng mới cài được khuy áo, nhìn cách nào cũng thấp hơn người khác một đoạn. Đầu tóc quấn thành một búi to, nằm trong đạo quan, coi hình dung sạch sẽ, dù gặp gỡ lâu cũng không khiến người ta chán ghét, nét mặt lúc nào cũng tươi cười thiện ý, coi ra cũng có chút hoạt kê, chỉ vì cặp mắt nhỏ sâu thẳm tinh tường ẩn hiện tử quang lấp loáng, kẻ có nhãn lực cao minh nhìn là biết lão không phải hạng dễ trêu vào.
Bàn đạo nhân chuyển mình xoay tròn, cười ha ha nói: “An toàn mà! Đúng lúc Phụng Thiện giáo huấn”.
Lưu Dụ đang lúc ngưng thần nhìn trộm động tĩnh của bàn đạo nhân Phụng Thiện, bên tai vang lên giọng nói dù cố tình hạ thấp nhưng vẫn đầy nhạc điệu mê hoặc dễ nghe của An ngọc Tình: “Phụng Thiện yêu đạo là môn đồ đắc ý được chân truyền của Thái Ất giáo chủ Giang Lăng Hư, đừng có vì lão lúc nào cũng cười cợt mà coi thường, lão càng cười càng muốn sát nhân. Thật ta hận không thể một đao xẻ lão làm đôi”.
Lưu Dụ lấy làm kỳ, vừa mới rồi ả nhất tâm muốn lấy cái tiểu mệnh của mình, hiện giờ lại như bằng hữu thâm giao giải thích tình hình cho gã, bỗng nhiên tỉnh ngộ, thì ra ả sợ mình bỏ đi, mà ả lại không dám kinh động đến Phụng Thiện nên vô pháp xuất thủ, vì thế cố ý nói những lời vừa rồi, đều là vì muốn lưu gã ở lại.
Lại nghĩ sâu thêm một tầng, ả vừa rồi động thủ giết mình, lý do có lẽ cũng giống như Thái Bình yêu đạo, là muốn tận sát những người sống ở kế bên, tránh để bí mật gì đó bị tiết lộ. Cũng có khả năng nữ nhân này đang lợi dụng gã, nhưng gã cũng có thể tùy tình huống biến thành hữu dụng cho mình.
Lưu Dụ tài trí hơn người, chỉ với mấy lời qua loa của yêu nữ suy đoán ra ngần ấy chuyện, quả thực tài giỏi.
Lưu Dụ cười thầm trong bụng, cố ý nói: “Đối với mấy chuyện này ta không hứng thú, chỉ muốn đi thôi”.
An Ngọc Tình quả nhiên trúng kế, vội nói: “Ngươi không muốn biết lão vì cái gì mà tới đây sao?”.
Lưu Dụ nhún vai: “Biết rồi thì làm sao? Đối với ta có ích gì?”.
An Ngọc Tình tức khí phồng mang trợn mắt nói: “Nếu chẳng phải thấy ngươi thân thủ không tệ, ta đã sớm đá cho ngươi một phát rơi xuống hoàng tuyền rồi, cái gì mà không chút lợi ích gì, thật sự là đại đại ích lợi ấy chớ”.
Phụng Thiện đạo nhân nhàn nhã đứng trên đường, như thể cứ thế mà chờ mà đợi tới lúc thế giới tận cùng.
Lưu Dụ di chuyển ánh mắt nhìn vào khuôn mặt đẹp đẽ khiến gã cho đến tận lúc này vẫn lo sợ bị sắc đẹp quyến rũ không thôi, nói: “Nói đi nào, ta không có tính nhẫn nại đâu nhé”.
An Ngọc Tình trừng mắt dữ tợn nhìn gã: “Ba năm trước, Thái Ất giáo chủ Giang Lăng Hư và Thái Bình giáo chủ Tôn Tư, hứ! Ngươi có biết bọn họ là ai không chứ?”. Lưu Dụ cười hi hi: “Nói đi! An đại tiểu thư của ta”.
An Ngọc Tình ngạc nhiên, hơi bối rối khi nghe gã nói ra danh tánh của mình, trợn mắt nhìn gã, cười mắng: “Đồ quỷ chết toi nhà ngươi, là đoán bừa mà trúng chứ gì”.
Giọng nói của Phụng Thiện đạo nhân lại vang lên ngoài đường: “Phụng Thiện ứng ước mà tới, nếu đạo huynh còn không chịu hiện thân, Phụng thiện đành quay về gặp Thái Tôn phục mệnh”.
Lưu Dụ ngoảnh đầu nhìn ra, gã đoán đạo huynh mà Phụng Thiện nhắc tới chính là Thái Bình yêu đạo, liền phát sinh ra ý định tọa sơn quan hổ đấu.
Giọng nói yêu kiều của An ngọc Tình lại rót vào tai gã: “Không cần nói chi tiết, hai người bọn họ vì tranh đoạt một khối bảo ngọc đồ có quan hệ với hai hoàn tiên đan, ác đấu một trận, kết quả là lưỡng bại câu thương, chẳng ai làm gì được ai, mỗi người quay về nam bắc dưỡng thương, ước định ba năm sau phái xuất đồng môn tái quyết chiến để quyết định xem đan ngọc đồ về tay ai. Nếu như ngươi giúp ta cướp được đơn ngọc đồ, người ta chia cho ngươi một hoàn tiên đơn thì thế nào?”.
Lưu Dụ khẳng định tiên đơn cho dù có cũng chỉ có một hoàn, chỉ bất quá ả nói có hai hoàn để dụ gã, hơn nữa gã cũng không tin tưởng cái gì tiên đơn diệu dược, bằng không người luyện đơn đã chẳng nuốt ngay từ đầu.
Đang khi cười thầm trong bụng, phong thanh vụt nổi lên, bốn đạo nhân ảnh phân ra đông nam tây bắc từ các mái nhà lao tới Phụng Thiện, đao kiếm tề phi.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 12-20-2012, 01:57 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 9, 10

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 9

Thái bình ngọc bội


Phụng Thiện đạo nhân cười ha ha, đạo bào toàn thân vụt phình to, còn kịp nói: “Người ta nói tiên lễ hậu binh, các ngươi lại tiên binh hậu lễ, thú quá thú quá”. Dứt câu cuối cùng, bỗng nhiên thân mình bay vọt lên.
Những kẻ tấn công đều bận hắc y, diện mạo che kín, nhất đao tam kiếm, chia ra công tới bối tâm, trước ngực, đỉnh đầu và song cước của Phụng Thiện, ẩn chứa trận pháp, hiển nhiên đã quen hiệp đồng tác chiến, phong tỏa đường tiến lui của đối phương, dẫu rằng Phụng Thiện vọt người bay thẳng lên nhưng khó tránh khỏi màn đao lưới kiếm như thiên la địa võng. Quả nhiên bất kể Phụng Thiện bay lên thế nào, chiêu thức của bốn người này cũng y thế biến hóa, xoay ra công vào đỉnh đầu, tiểu phúc, bối tâm và giữa ngực lão.
Bốn kẻ tập kích đều công lực thập phần đầy đủ, vừa nhập trường lập tức thi triển sát thủ, Lưu Dụ tự nghĩ nếu đổi mình là Phụng Thiện, cũng hết cách đối phó.
An Ngọc Tình lại coi thường nói: “Một lũ vô dụng!”.
Nói chưa dứt lời, thắng bại đã phân.
Tại sát na tam kiếm nhất đao sắp chạm tới, đạo bào của Phụng Thiện bỗng xẹp lại, thành dán sát vào người, làm lộ rõ thân thể to béo của lão, tiếp đó lại đột ngột phồng ra, kình khí kích hưởng, một cỗ kình lực phản chấn chấn văng ba kiếm giả ra xa, hiển nhiên khí công của bàn đạo nhân này đã tới mức đăng phong tạo cực.
Lưu Dụ thầm nghĩ, từ công lực của Phụng Thiện mà suy thì võ công của sư phó của lão Giang Lăng Hư còn cao tới mức độ nào?
“ Ya!”.
Gã bịt mặt vung đao chém xuống đỉnh đầu Phụng Thiện rú lên một tiếng thê thảm, Phụng Thiện đã thi triển thủ pháp tinh vi đoạt đao trong tay gã, đồng thời song cước tung lên lần lượt đá trúng ngực bụng địch nhân. Thân hình người này văng ngược lên rồi rơi xuống mặt đất, nằm bất động.
Tuy phì nộn nhưng thân thủ của Phụng Thiện cực kỳ linh hoạt.
Người kia thất khiếu chảy máu, ứng cước văng đi, nằm chết đương trường.
Lại một tiếng la thảm phát xuất từ kiếm thủ bị Phụng Thiện chấn lui, gã bị Phụng Thiện đánh đến khí huyết trồi ngược, mắt nổ đom đóm, lại thêm nghe tiếng đồng bọn kêu thảm lúc lâm tử, tự biết còn lâu mới là đối thủ của Phụng Thiện, sớm có ý chạy trốn, đang lúc nương thế lùi xa, hốt nhiên phát giác sau lưng chạm vào ai đó, trong khi đang hồn phi phách tán, đỉnh đầu cảm thấy một trận đau đớn kịch liệt, mắt tối sầm, miễn cưỡng đớp hơi thở cuối cùng, uể oải ngã lăn ra chết.
Ở phía bên kia của con đường, Yến Phi coi mà sởn gai ốc, Phụng Thiện công lực cao cường, thủ đoạn ác độc, nhưng so với lão, đạo nhân áo xám cao gầy từ bên cửa tiệm bất thần xuất hiện không hề chịu kém, nhanh như quỷ mị lao tới phía sau một kẻ tập kích đang chạy trốn trên đường, tùy tiện vung trảo bóp hắn chết lăn ra đất, trảo kình lợi hại đến phát sợ.
Phụng Thiện cười to: “Lư đạo huynh, ngươi khỏe chứ”.
Lão mau chóng lập thế cung thân, nhằm địch nhân đã chạy trốn tới đầu đường phía đông đánh ra một quyền cách không, người này bị quyền kình đánh trúng, tiên huyết phun ra như mưa, ngã ngửa người ra, vĩnh viễn không thể tự mình trở dậy.
“Bồng”.
Gã bị Phụng Thiện đá trúng hai cước lúc này mới nặng nề rơi xuống đất, có thể thấy chuỗi các động tác cực kỳ nhanh chóng.
“Nha!”.
Một tiếng kêu thê thảm, người còn lại bị đạo nhân cao gầy đuổi theo, song trảo bóp nát đầu.
Phụng Thiện vẫn đứng nguyên chỗ, xoa xoa hai tay như muốn chùi đi vết máu trên ngón tay, lại như xấu hổ vì đã can dự vào chuyện vớ vẩn, song mục lấp lóe nhìn về phía đạo nhân cao gầy đứng cách đó không tới hai trượng, cười hi hi nói: “Mỗ đã vì đạo huynh thất ước mà thất vọng biết bao”.
Tại chỗ trú ẩn, Lưu Dụ đang dụng thần ước lượng đạo nhân áo xám từng ám toán Hồ Bân, chỉ thấy hắn ta cao gầy như một cây sào trúc phơi áo, nhẹ tênh như thể không trọng lượng, mặt mũi khô héo vàng khè, đầu đội khăn vàng, song mục nhỏ mà dài, phối hợp với đôi nhãn thần lấp loáng như điện, khiến cho cặp mắt của hắn ta giống như một cặp kiếm sắc nhìn thật đáng sợ.
An Ngọc Tình thanh âm như mật ngọt khi nhanh khi chậm truyền vào tai gã: “Kẻ này tên là Lư Tuần, em rể của Thiên sư Tôn Tư, đời trước là Phạm Dương thế tộc, đợi khi bọn chúng lưỡng bại câu thương là đến cơ hội của chúng ta”.
Mục quang Lưu Dụ quét qua bốn hảo thủ nằm chết trên đường, nhíu mày nói: “Bọn chúng là ai?”.
An Ngọc Tình hết nhẫn nại nói:” chỉ là mấy tên dư nghiệt khăn vàng, ngươi quan tâm tới chúng làm gì?”.
Tiếng cười the thé của Lư Tuần từ ngoài vọng vào, lôi cuốn sự chú ý của hai người, chỉ nghe hắn nói: “Phụng Thiện đạo huynh xin chớ trách tội bổn nhân chậm trễ. Chiếu lý ước hẹn đêm nay, trừ sư tôn ra, chỉ có ngươi biết ta biết, lại có kẻ mang tin tức tiết lộ ra ngoài, làm cho một lũ phản đồ sinh tâm thèm muốn, bổn nhân đành phí chút thời gian tiến hành trừng trị chúng, sự việc cũng kỳ quái lắm”.
Phụng Thiện cười gằn một tiếng, chẳng nhanh chẳng chậm nói: “Bọn chúng tập kích ta chứ không phải đạo huynh, thiên hạ đời nào lại có người cố ý đưa người đến đối phó bản thân mình hay sao? Người ta niên kỷ càng lớn, lý nên nhẫn nại hơn, riêng ta thì ngược lại, ngươi mang vật tới rồi chứ?”.
Lư Tuần giương hai hố mắt vừa dài vừa hẹp ngó lên trời: “cCon súc sinh này chẳng lẽ giữa đêm khuya bay đi chơi, lại còn không ngừng lượn vòng trên đầu chúng ta, có tà môn không cơ chứ?”.
Bên kia Yến Phi rủa thầm, rõ ràng Khất Phục Quốc Nhân đã phục nguyên, lại đã tìm đến Nhữ Âm này rồi.
Phụng Thiện cũng ngẩng đầu nhìn lên trời, gật đầu:”Xem ra không phải là điềm lành, đêm nay thật không đúng lúc, vừa mới đụng phải Hồ binh nam phạm, chúng ta có nên kiếm chỗ khác ước kỳ tái chiến không?”.
Lư Tuần lắc đầu nói:” Đạo huynh so với bổn nhân quả thừa nhẫn nại. Chuyện đã phải giải quyết đương nhiên nên càng nhanh càng tốt, chúng ta đêm nay cần phân thắng phụ, quyết định “ Thái bình Động Cấp Kinh” thuộc về Thái Ất giáo ngươi hay về Thái Bình đạo chúng ta”.
Lưu Dụ nghe tới đây quay lại trợn mắt nhìn An Ngọc Tình ở phía sau, ả khẽ nhún vai, không chút ngượng ngùng dùng phép thúc âm thành tuyến nói:”Trong Động Cấp Kinh có thuật luyện đan, luyện ra hai hoàn, chẳng phải mỗi người một hay sao?”.
Lưu Dụ tức mình, cất bước định đi, sự thực gã đã có ý rời xa chốn nguy hiểm, hai yêu đạo này võ công cao cường khó đối phó, lại thêm con súc sanh bay lượn trên không khiến gã sinh lòng cảnh giác, nữ nhân này tâm địa bất lương, thượng sách là chuồn vào ẩn nấp trong đám nhà cửa khác, coi lại tình hình rồi nhân đêm tối rời khỏi chốn thị phi này.
An Ngọc Tình giương mắt nói vội:”Đừng có đi, bằng không nô gia sẽ có cách khiến bọn chúng liên thủ đối phó ngươi, đến lúc đó sợ ngươi gánh không nổi thôi”. Lưu Dụ hận ả đến tận xương tủy, nhất thời lại không cách gì đối phó ả, đành ngoan ngoãn ở nguyên chỗ cũ.
Lại nghe Phụng Thiện ở ngoài nói: “Đạo huynh đã không thiếu nhã hứng, Phụng Thiện đương nhiên phải phụng bồi tới nơi, chỉ không biết đạo huynh có y ước mang bảo bối tới đây không?”.
Lư Tuần đáp:”Người trong đạo môn tối trọng lời hứa, xem đây!”.
Liền móc ra một cái túi chỉ bằng nửa bàn tay, lôi ra một khối tuyết bạch cổ ngọc hình bán cầu, dưới ánh trăng long lanh, bạch ngọc lạnh lẽo ẩn hiện những tia hồng sắc, kỳ quái nhất là bên dưới có những vết lồi lõm hình răng cưa, đơn giản chỉ riêng việc mài dũa ngọc thành hình dạng như vậy cũng mất rất nhiều công sức.
Phụng Thiện lập tức lộ ra vẻ thèm khát, chăm chú nhìn vọng tới bảo ngọc trên tay Lư Tuần, mong nhìn rõ những đường văn nhỏ li ti trên đó, bất quá điều đó là không thể được. Cổ ngọc phản quang khiến những đường văn khi ẩn khi hiện, cự ly lại quá xa.
An Ngọc Tình cũng mắt mở trừng trừng nhìn Lư Tuần giơ cao bảo ngọc, Lưu Dụ lờ mờ cảm thấy Lư Tuần vốn hỉ nộ không lộ ra ngoài, là hạng người thâm trầm bỗng nhiên biến thành hào sảng, rất không hợp lẽ thường, nhưng nhất thời đoán không ra dụng ý của hắn.
Lư Tuần ung dung nói:”Có đi có lại mới toại lòng nhau, Phụng Thiện huynh là người minh bạch, chắc cũng hiểu nên làm thế nào chứ?”.
Phụng Thiện ho khan liên tiếp, gật đầu nói:”Cái đó đương nhiên, Phụng Thiện có một đề nghị, chúng ta cùng đặt bảo ngọc qua một bên, sau khi động thủ phân cao hạ, người thắng cứ việc mang bảo đi, ý đạo huynh thế nào?”.
Vừa nói vừa moi ra một khối ngọc khác giống hệt khối ngọc trong tay Lư Tuần, xem hình dạng các vết khuyết trên hai khối ngọc này, nếu hiệp lại sẽ thành một khối ngọc hoàn chỉnh, bên trong có một khe tròn nhỏ.
Lư Tuần cười the thé nói:”Chẳng cần làm chuyện vô ích, mỗ tính cứ giao bảo ngọc cho đạo huynh bảo quản, sau đó sẽ bằng bản lĩnh thâu lại từ nơi đạo huynh, chẳng phải thú vị và kích thích hơn sao?”.
Nói xong không kể Phụng Thiện có phản đối hay không, bàn tay vung lên, bảo ngọc hóa thành một vệt sáng trắng bắn tới Phụng Thiện, nghe âm thanh như xé gió mới biết bảo ngọc quán mãn chân khí, kình đạo hết sức mãnh liệt.
Đòn này quả nhiên nằm ngoài dự liệu của ba người đang nấp xem trộm, Phụng Thiện lại càng thất kinh, tuy biết rõ Lư Tuần không tử tế gì, nhưng cũng không thể để bảo ngọc vỡ nát, lại thêm có tâm lý cầu may, bởi vì chỉ cần cầm được bảo ngọc, tiện đường vui vẻ chuồn đi coi như đại công cáo thành.
Phụng Thiện quả là kẻ tâm kế đa đoan, thấy Lư Tuần ngay sau khi ném ngọc đồng thời cũng lao bổ tới, biết rằng nếu đưa nốt tay kia ra tiếp lấy bảo ngọc thì hóa thành cả hai tay cùng vướng, lại sợ kẻ địch trước mặt thừa cơ làm tới, thời gian và tình huống lại không đủ để cất bảo ngọc vào người, nhân cấp sinh trí, bèn chú nhập âm kình vào bảo ngọc trong tay đưa ra nghênh đón khối ngọc đang bay tới trước mặt, tay kia nắm lại thành quyền đầu nhằm Lư Tuần mau lẹ công tới một quyền cách không, chỉ cần ngăn trở đối thủ một khắc thời gian, lão có thể tranh thủ thâu nhập viên Thái Bình bảo ngọc hoàn chỉnh, khi đó muốn đánh muốn ngưng là tùy mình.
Tưởng hai khối ngọc va vào nhau sẽ cùng nát vụn như cám, nào hay Phụng Thiện sử dụng thủ pháp khéo cực, chẳng những hóa giải kình lực của Lư Tuần, mà còn khiến hai khối ngọc tiếp xúc phát ra một âm thanh trong trẻo. “Đắc”, những chỗ lồi lõm hình răng cưa đã khớp vào nhau rất vừa vặn, biến thành một hòn ngọc hoàn mỹ, dụng kình thật là tinh xảo, phương vị thời gian hết sức chuẩn xác, thật đáng thán phục. Đáng tiếc những người bàng quan là Yến Phi, Lưu Dụ và An Ngọc Tình đều hiểu rõ chính lúc này mới bắt đầu tai họa của Phụng Thiện.
Hai người võ công khác biệt không nhiều, bằng không Lư Tuần cũng không phải dùng đến kế sách mạo hiểm này, hiện giờ Phụng Thiện quá nửa tâm thần và công lực phân ra để tiếp lấy nửa khối cổ ngọc kia, chỉ còn đơn thủ ứng phó địch nhân, mạnh yếu thế nào chả cần nói cũng biết.
Quả nhiên Lư Tuần cười dài một tiếng nói: “Đạo huynh trúng kế rồi”.
Đúng vào thời điểm quyền đối phương ập đến, lão liền xoay người, hóa giải đại bộ phận quyền kình, tốc độ lao tới không những không giảm mà tăng lên, đập mạnh vào bụng Phụng Thiện.
Phụng Thiện thất kinh, đạo bào toàn thân lập tức bung ra giống như lần trước, mới hay Lư Tuần đã vọt mình bay lên đỉnh đầu mình.
Phụng Thiện chẳng những khiến người ta kinh ngạc, mà còn hoàn toàn không kể gì thân phận, ngã người lăn tròn trên mặt đất, khối ngọc từ giữa đường lăn lăn qua một bên, tuy tránh được cú đòn sấm sét này, nhưng lại bị hãm vào tình thế cực kỳ nguy hiểm, tuy vậy vào thời điểm cuối cùng lão vẫn cướp được khối ngọc về tay.
Lư Tuần xoay người, chớp mắt truy theo Phụng Thiện, Phụng Thiện không biết bằng cách nào mau lẹ vung song cước đá vào tiểu phúc và vào háng Lư Tuần. Lư Tuần thấp giọng quát: “Chân!” song chưởng ép xuống, đập trúng hai bàn chân Phụng Thiện, một người dùng toàn lực, một người miễn cưỡng phản kích, cao thấp đã rõ.
Phụng Thiện há miệng phun ra huyết hoa đầy trời, bị chưởng kình đánh trúng lăn người đi, Lư Tuần đang muốn đuổi theo kết liễu sanh mệnh lão, Phụng Thiện bàn tay vung mạnh, Thái Bình bửu ngọc cả khối hoàn chỉnh thoát thủ bay đi, vọt lên trên không.
Lư Tuần làm sao còn do dự, buông lời: “Đa tạ đạo huynh”, bỏ ý định sát nhân, xoay sang tìm kiếm, tung người theo hướng bay của bửu ngọc.
Một tiếng quát lanh lảnh cất lên, An Ngọc Tình lặng yên nãy giờ chợt bay ra như một chú se sẻ nhẹ nhàng xinh đẹp, tay áo bay bay lao tới phía trước Lư Tuần, vọt lên không đuổi theo bảo ngọc.
Phụng Thiện thọ thương không nhẹ, “pang” một tiếng đập tan cửa, lăn vào trong một gian điếm, gần chỗ Lưu Dụ.
Lưu Dụ không hề cản trở An Ngọc Tình, theo lập trường của gã, Tôn Ân và Lư Tuần của Thái Bình giáo chính là đại họa tâm phúc của Nam Tấn, nếu Thái Bình giáo theo đồ hình trên bảo ngọc tìm được Thái Bình Động Cấp Kinh gì đó, không ai biết được sẽ có chuyện gì xảy ra. Dù hậu quả ra sao, nếu cái đó rơi vào tay An Ngọc Tình có vẻ ổn hơn, hà huống Lư Tuần tất không chịu bỏ qua cho An Ngọc Tình, khi đó gã dễ dàng bỏ đi.
Thái Bình bảo ngọc lúc này đang từ trên cao hơn mười trượng rơi xuống, An Ngọc Tình chỉ cách đó chừng năm trượng, Lư Tuần thì còn ở bảy tám trượng ngoài, cặp mắt trắng dã xem tình hình An Ngọc Tình có thể nhanh chân tới trước, giận đến mức song mục thiếu điều phun lửa.
Vào lúc khẩn trương này, một đạo bạch quang từ bên kia đường bắn tới nhanh như thiểm điện, kích thẳng vào bảo ngọc, phát sau mà tới trước, khẳng định là chính xác không sai, bắn trúng bửu ngọc sẽ hóa thành bụi phấn. Chiêu này quả nằm ngoài dự liệu người ta, đột nhiên xảy đến, không ai tưởng lại có biến cố này.
Người xuất thủ đương nhiên là Yến Phi, gã cũng giống Lưu Dụ đối với Thái Bình Động Cấp Kinh hoàn toàn không lưu tâm, có lẽ coi Phụng Thiện, Lư Tuần hai người hành sự tác phong đầy tà ác, nghĩ nếu loại người này có được bảo kinh chẳng phải là chuyện tốt đẹp, gã hoàn toàn tùy tâm mà làm, liền rút chủy thủ định kích nát ngọc hoàn, kết thúc mọi chuyện.
Lưu Dụ lúc này mới biết có người ẩn thân trong ngôi nhà đối diện, tuy chưa biết đối phương là ai, cũng đại khái đoán được tâm ý của người xuất thủ, trong lòng kêu hảo
An Ngọc Tình mắt thấy bảo ngọc sắp bị kích trúng, mặt ngọc xuất hiện thần sắc phẫn nộ, hương tụ nhấc lên, chủy thủ trong tay áo bắn vọt ra, hướng tới chủy thủ trong tay Yến Phi. Lại vì lăng không vận kình nên ả không thể duy trì chân khí, đành hạ mình rơi xuống.
“Đang”.
Chủy thủ giao kích, cùng bay ra ngoài rơi xuống đất.
Lư Tuần kêu thầm một tiếng trời giúp ta, song cước dùng lực nhảy tới, chắc mẩm có thể xông tới trước An Ngọc Tình cướp lấy bảo ngọc. Nào ngờ phía bên tả bỗng nhiên kiếm quang đại thịnh, Yến Phi xuyên qua cửa sổ bay ra, không lý gì đến bảo ngọc, chỉ hướng tới hắn toàn lực ngăn chặn.
Lưu Dụ nhìn thấy Yến Phi lập tức nhận ra, gã từng nhiều lần tiến nhập Biên Hoang tập, đương nhiên hiểu Yến Phi là thần thánh phương nào, mỗi lần cùng Cao Ngạn tới Đệ nhất lâu, Yến Phi đều ngồi trên gác uống rượu tiêu sầu, do Cao Ngạn giới thiệu, hai bên đã chào hỏi qua loa, nhưng không giao đàm, đều là do thái độ cự tuyệt người ngoài ngàn dặm của Yến Phi. Lúc này bỗng nhiên gặp lại Yến Phi, không biết sao lòng rất vui mừng, chẳng những từ gã có thể biết rõ tình thế Biên Hoang tập mà còn có thể thông qua gã liên lạc với Cao Ngạn, như thế đối với nhiệm vụ của mình trăm đường lợi mà vô hại.
Nghĩ tới đó chẳng chút do dự, xuyên qua cửa sổ nhảy ra, chỉ nghĩ có thể nhanh hơn An Ngọc Tình một bước, hủy đi bảo ngọc, hoàn thành tâm nguyện của Yến Phi.
“Bồng, bồng” một chuỗi âm thanh liên tiếp vang lên, nộ khí công tâm, Lư Tuần tận xuất toàn thân bản lĩnh, tụ trảo đụng nhau, có lẽ sau khi lực chiến đã thụ thương, lại bị Yến Phi bức bách rơi xuống, đành ngồi nhìn Lưu Dụ đang xông tới chỗ bảo ngọc.
Yến Phi nhìn kẻ phá ngang vừa tới, tuy không nhớ tên nhớ tuổi, cũng không biết thân phận chân chánh của gã, nhưng nhận ra gã cùng Cao Ngạn có qua lại giao dịch, thấy gã xuất trường đao từ thiên không lao xuống chỗ bảo ngọc rơi, mừng rỡ kêu: “Xuất hiện đúng lúc lắm”.
Lưu Dụ cười dài trả lời: “Vật tà ác, người người đều có quyền hủy đi, Yến huynh ngươi yên tâm”.
Mắt thấy trường đao sắp kích trúng bửu ngọc, An Ngọc Tình lúc này đôi chân thanh mảnh vừa tiếp xuống đất, còn chưa kịp vận khí phát lực, thấy Lưu Dụ đã tại ngoài xa năm trượng chuẩn bị hủy ngọc, vội kêu thất thanh: “Đừng!”.
Ba người đang chú mục nhìn, bỗng nhiên một bóng đỏ phi tới trên đầu Lưu Dụ, từ trong tay áo bắn ra cuộn dây lưng dài ước một trượng, nhanh hơn một bước cuốn lấy bảo ngọc, khiến trường đao của Lưu Dụ chém vào hư không.
Khất Phục Quốc Nhân.
Yến Phi chân điểm trên mặt đất, vui vẻ nhìn Lư Tuần và An Ngọc Tình không hề để mắt đến gã, đang một trước một sau xông vào Khất Phục Quốc Nhân.
Lưu Dụ vừa nhào tới xong, cuộn dây lưng vải đang thu lại ngay sau lưng gã, giận dữ vươn người, trường đao theo đà chém ra, trúng vào dây lưng vải, dây lưng ứng đao đứt đôi, gã lập tức phi lên, dồn kình lực tung ra một cước trúng bảo ngọc, nghĩ rằng cổ ngọc phải vỡ tan thành bụi, nào ngờ cổ ngọc cứng rắn dị thường, chỉ bị đá văng lên cao, bay về phía Yến Phi.
An Ngọc Tình và Lư Tuần nào tính đến biến hóa như vậy, Khất Phục Quốc Nhân đã từ trên bổ xuống, hắn ẩn phục bên ngoài quan sát đã lâu, biết ba người đều là hạng khó đối phó, nhảy vọt lên tránh khỏi Lưu Dụ, ném bỏ dây lưng vải, song tụ phất ra công tới Lư Tuần và An Ngọc Tình đang hung hãn lăng không phi tới.
Yến Phi vọt người lên hành động ngoài ý liệu của Lưu Dụ, không xuất thủ hủy ngọc mà chụp lấy nó, cao giọng hô:”Huynh đệ, chuồn thôi”.
Chẳng cần gã kêu gọi, Lưu Dụ cũng mau lẹ tách khỏi chiến trường, đuổi theo Yến Phi đang chạy về phía Tây.
Khất Phục Quốc Nhân, An Ngọc Tình và Lư Tuần ba người đã nhập chiến cục, ta đánh ngươi, ngươi đánh ta, giết được địch hay không không biết, nhưng không ai có thể phân thân truy đuổi hai kẻ chạy trốn.


Hồi 10

Hoạn nạn chân tình


Yến Phi cùng Lưu Dụ kẻ trước người sau chuồn vào một cánh rừng rậm, cả hai đều cảm thấy kiệt lực. Người trước vọt lên một ngọn cây cao, người sau tựa vào thân cây khác quay lại nhìn ra khoảng đất hoang bên ngoài. Nhữ Âm thành đã biến thành một chấm đen nhỏ nằm ở phía đông.
Yến Phi nhảy xuống đất nói: “Con chim ưng săn mồi không thấy theo đến”. Lưu Dụ hỏi: “Nó kêu là Thiên nhãn phải không?”.
Yến Phi kinh ngạc: “Huynh đài kiến thức bất phàm, chính là Thiên nhãn”.
Lưu Dụ cười cười: “Mỗ nhận được áo choàng đỏ của Khất Phục Quốc Nhân, hơn nữa hắn ta hình dung quái dị, khó mà nhầm lẫn. Yến huynh hình như đã quên mỗ tên Lưu Dụ”.
Yến Phi vẻ ân hận nói: “Lưu huynh chớ thấy kỳ quái, mỗ uống say rồi thời không nhớ được bất cứ chuyện gì. Lưu huynh đúng là người can đảm, biết là gặp Khất Phục Quốc Nhân mà chẳng chút sợ hãi, xuất đao chém đứt dây lưng của hắn”.
Lưu Dụ thản nhiên nói: “Mỗ xưa nay không sợ bất kỳ kẻ nào, chỉ không rõ làm sao Yến huynh không lập tức hủy đi bảo ngọc?”.
Yến Phi lấy bảo ngọc ra, đưa cho Lưu Dụ, lãnh đạm nói: “Mỗ thực ra chỉ quấy rối địch, khiến Khất Phục Quốc Nhân vướng chân vướng tay, hiện tại ngọc này đã mất tác dụng, xin giao luôn cho Lưu huynh xử trí”.
Lưu Dụ tiếp lấy bảo ngọc, vận mục lực dưới ánh trăng quan sát kỹ càng những đường vân nhỏ trên đó, nói: “Như vậy có thể nói mục đích của Khất Phục Quốc Nhân không phải là đoạt ngọc, chính là tìm Yến huynh mà gặp đúng cơ hội. Không biết huynh với Phù Kiên có dây dưa gì?”.
Yến Phi đáp: “Chuyện này một lời khó nói hết, Lưu huynh vì chuyện gì mà tới Nhữ Âm? Nữ tử nọ có phải cùng đường với huynh không?”.
Lưu Dụ biết Yến Phi không muốn trả lời, chính mình cũng không phải là không có điều khó nói, cười khổ: “Tiểu đệ cũng là nhất ngôn nan tận, yêu nữ nọ tên là An Ngọc Tình, tình cờ gặp trong thành, còn muốn giết chết ta. Thật là kỳ quái, bằng vào sơn thủy địa lý đồ trên bảo ngọc, dù cho nhận ra được đấy là danh sơn thắng cảnh nào, lại chẳng có vị trí tiêu kỳ tàng kinh, có để làm gì?”. Nói xong chìa bảo ngọc cho Yến Phi coi. Yến Phi vốn hoàn toàn không hứng thú, chẳng đừng được dụng tâm coi kỹ: “Đúng là kỳ quái!”.
Lưu Dụ thâu bảo ngọc lại nói: “Ngọc này có lẽ còn giá trị lợi dụng, Yến huynh có phải từ Biên Hoang tập tới? Có biết tình hình Cao Ngạn không?”.
Yến Phi đối với vị bằng hữu sơ giao trí dũng song toàn này có chút hảo cảm, không muốn lừa dối gã, liền đáp: “Nếu huynh lập tức chạy tới Thọ Dương có lẽ hắn còn ở đó, cùng lắm nếu không gặp ở đó thì từ chỗ Hồ Bân có thể biết hướng đi của hắn, huynh với Hồ Bân là đồng liêu mà”.
Lưu Dụ thất vọng ra mắt, không trả lời Yến Phi, chán nản nói: “Vậy mỗ chỉ trông vào vận khí của mình thôi, Biên Hoang tập tình hình ra sao?”.
Yến Phi đã sớm đoán mục đích của gã chính là Biên Hoang tập, cười nhẹ đáp: “Lưu huynh chớ cười ta hiểu ít nói nhiều, quân tiên phong của Phù Dung đã tiến vào Biên Hoang tập, phong tỏa toàn bộ đường xuất nhập, chờ nghênh tiếp đại quân của Phù Kiên, huynh tìm tới Biên Hoang tập như vậy, không khác nào đi vào chỗ chết. Bất quá nếu Lưu huynh có thể nói thẳng cho ta biết là chuyện gì, biết đâu ta có biện pháp giúp huynh đỡ phiền phức”.
Lưu Dụ ngấm ngầm thở ra, gã tuy cùng Yến Phi mới gặp đã thấy có duyên, chỉ cần coi gã biết rõ Khất Phục Quốc Nhân ẩn nấp dòm ngó ngay bên cạnh mà vẫn không kể gì an nguy của bản thân xuất thủ hủy ngọc, tránh để yêu nhân đoạt được, có thể biết gã là hạng người nào. Vấn đề là chuyện quá quan trọng, nếu để tiết lộ việc mình tìm cách liên lạc với Chu Tự tới tai Phù Kiên, thì mọi sự hỏng bét. Cười khổ nói: “Tiểu đệ phụng nghiêm lệnh, mong Yến huynh lượng thứ”.
Yến Phi buông thõng: “Lưu huynh đã có điều bí ẩn khó nói, ta cũng không tiện truy vấn, hiện tại trời còn chưa sáng, ta lại muốn đi thêm một đoạn nữa, chúng ta chia tay bây giờ chăng? Hy vọng có ngày gặp lại”.
Lưu Dụ nắm chặt hai tay Yến Phi thành khẩn nói: “Yến huynh bỏ quá cho, Lưu Dụ hết sức cảm kích, ta đối với Yến huynh thật là nhất kiến khuynh tâm, nếu còn giữ được mạng này, Yến huynh lại có dịp qua Quảng Lăng, có thể tới phủ đệ của Tôn Vô Chung tướng quân, tiểu đệ tất sẽ tận tình bồi tiếp”.
Gã nói điều này cũng giống như gián tiếp thừa nhận mình là người của Bắc Phủ binh.
Yến Phi nghe tới tên Tôn Vô Chung, trong lòng máy động, đang muốn nói thì dị biến đột khởi.
Ban đầu, hai người vẫn như trong mộng, không hiểu là có chuyện gì, bọn họ đang trong mật lâm khuôn viên chừng ba trượng, cành lá bỗng rung động ào ào, kèm theo cuồng phong từ cánh đồng hoang phía tây bắc thổi tới.
Tiếng kêu gào tựa hồ từ bốn phương tám hướng truyền lại, ban đầu còn nhẹ bên tai, chỉ sau một sát na đã biến thành những âm hưởng vang dội trong rừng, ập vào màng nhĩ hai người, xung quanh tràn đầy kình khí, hình thành vô số những đợt sóng chưởng mãnh liệt sắc như dao quét tới, giống như bỗng nhiên bị hãm trong cuồng phong bạo vũ, thiếu chút là đứng cũng không vững, đến khi miễn cưỡng trụ bộ được thì đã kết thúc.
Yến Phi cảm thấy trời đất tối sầm lại, ánh sáng tự nhiên đương nhiên không thay đổi, vầng trăng sáng vẫn nguyên dạng, chỉ có hộ thể chân khí bị luồng khí thể cuộn xoáy kia tập kích tan mất, chân lực giảm sút đến mức chưa từng thấy. Vậy mà cho đến lúc này gã còn chưa biết vị trí của kẻ tập kích, chỉ biết kẻ này võ công chí cao, chẳng những từ trước chưa từng thấy, chưa từng nghe, mà thậm chí còn chưa từng nằm mơ đến.
“Xoẹt!”.
Lưu Dụ rút hậu bối đao ra, trong lúc Yến Phi đang nghiêng trái ngả phải mơ hồ nhìn ra bãi hoang. Gã vốn đã chịu đựng không nổi, ứng phó lại càng vất vả.
Thoắt cái hai luồng kình khí như thể hữu hình, uy lực không thể kháng cự phân biệt ập thẳng vào bối tâm hai người, nếu bị đánh trúng chắc chắn lục phủ ngũ tạng đều tan nát, hộ thể chân khí hoàn toàn không còn tác dụng.
Yến Phi qua cảm giác hiểu rõ Lưu Dụ do không có cách nào tránh khỏi nên đành phải huy đao chém vào luồng kình khí, mà khí công của người công kích chắc chắn hơn hẳn hai người, lại đem toàn lực thi xuất, hậu quả thế nào khả dĩ đoán được.
Yến Phi liền đem nguyệt kình chuyển thành nhật khí, mũi kiếm phát xuất âm thanh vi vút xé gió, mau lẹ đâm vào khoảng trống giữa hai luồng khí trụ, mũi kiếm lách ngược dòng khí lưu đâm vào đối thủ.
Lưu Dụ lúc này toàn thân chân kình dồn lên nhất đao đã đánh trúng luồng khí trụ sắc bén, hốt nhiên phát giác kình đạo đối phương thâu giảm mấy thành, nhưng đã như bị một chùy ngàn cân quật trúng lưỡi đao, oẹ một tiếng, phun ra một bụm máu, bay ngược ra sau, đến khi sống lưng đụng phải một thân cây khô mới ngồi phệt xuống, khí huyết đảo nghịch, chỉ chút nữa là không giữ nổi hậu bối đao vốn xưa nay chưa hề rời khỏi tay.
Kình khí giao kích vang lên thành một chuỗi thanh âm liên tiếp trong khoảng rừng tối đen mịt mùng, Lưu Dụ mắt còn đang nổ đom đóm bỗng thấy một hắc y nhân cao lớn, mang mặt nạ quỷ dữ tợn đáng sợ, song tụ bay tung, đánh cho Yến Phi khốn đốn, luồn đông tránh tây, bên trái thừa thì bên phải thiếu, nguy cơ trùng trùng, sơ sảy là táng mạng tại đương trường.
Lưu Dụ biết Yến Phi liều mạng kháng địch cứu mình, bằng không mình chẳng còn ngồi đây mà thở, mà đã biến thành xác chết từ khuya rồi, trong lòng rất cảm động, mau chóng hồi phục khí lực, lấy bảo ngọc trong người ra quát to: “Thái Bình bảo ngọc ở đây!”. Rồi dụng kình ném bảo ngọc ra ngoài rừng.
Ma đầu đáng sợ vung tay áo đánh bật Yến Phi sang bên, rồi bỗng nhanh như quỷ mị xuyên qua rừng cây đuổi theo bảo ngọc.
Lưu Dụ hoang mang chạy lại chỗ Yến Phi đang cố gắng đứng lên, sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, đầy vết máu.
Bỗng nhiên từ bên ngoài truyền vào tiếng quát tháo đánh nhau, Yến Phi lộ thần sắc vui mừng, đặt tay lên vai Lưu Dụ nói: “Trời giúp ta rồi, chính là Khất Phục Quốc Nhân vừa tới, chắc hắn không còn mệnh, chí ít không tới tìm bọn ta được. Mau đi thôi”.
o0o
Hai người ngồi trong một khoảnh rừng rậm trên đỉnh đồi có một nhánh sông chảy quanh, cách xa nơi bị tập kích hàng chục dặm. Họ phục tại chỗ trũng ở bờ sông lạnh lẽo, há miệng thở dốc.
Lưu Dụ bỗng nhiên bật cười, lại phun ra một búng máu, không biết gã đang vui vẻ hay đang thống khổ nữa.
Yến Phi vốn muốn hỏi, chợt cũng bật cười, cười đến khổ sở, nhưng cực kỳ thoải mái.
Lưu Dụ cảm khái: “Mỗ nói viên ngọc tà ma đó có chỗ dùng, chẳng ngờ lại dùng để cứu mạng, lại còn biết đâu nhờ nó lấy đi mạng chó của Khất Phục Quốc Nhân. Ai! Mẹ nó! Thiên hạ lại có cao thủ đáng sợ như thế, coi y không dám lộ mặt thật, theo mỗ đoán nếu chẳng phải Tôn Tư thì là Giang Lăng Hư hai yêu nhân đó”.
Yến Phi bò lên phía trước hai bước, vục đầu xuống dòng nước mát, Lưu Dụ thấy hay, cũng học theo gã, tiến tới nhúng đầu xuống sông.
Trời dần sáng, dòng sông nhỏ cuộn chảy quanh khu đất rừng, trên bờ cây cối ken dày, tạo thành nơi tỵ nạn lý tưởng cho hai người.
Lưu Dụ nhấc đầu lên khỏi mặt nước trước tiên, mặc kệ nước chảy đầy mặt, ngó quanh nói: “Y cũng có thể là An Thế Thanh, phụ thân của An ngọc Tình, tuy nhiên khả năng không cao. Hãy coi thử xem ai có thể tìm thấy chúng ta, từ đấy có thể biết người ấy là ai”.
Yến Phi chống gối ngồi dậy hành khí vận huyết, nói: “Thương thế Lưu huynh sao rồi?”.
Lưu Dụ xoay người nằm ngửa, nhìn lên khoảng không trên đầu rừng: “Chỉ là ngoài da, không đáng ngại lắm. Còn chưa có lúc nào đa tạ đại ân cứu mệnh của huynh”. Yến Phi cười khẽ: “Huynh cứu ta, ta cứu huynh, mọi người cùng chung hoạn nạn, huynh phải chăng vẫn muốn tới Biên Hoang tập?”.
Lưu Dụ chợt nói: “Việc càng khó, ta càng cảm thấy hứng thú, hoặc giả ta là loại người không cam chịu, ưa sự kích thích. Ta đang cảm thấy chưa bao giờ cuộc đời có ý nghĩa như bây giờ”.
Yến Phi gật đầu nói: “Huynh quả thật là một người rất đặc biệt, trước hết có thể trả lời ta một vấn đề hay không?”.
Lưu Dụ lờ mờ đoán được Yến Phi muốn nói gì, trải qua cuộc chiến vừa rồi, quan hệ giữa hai người đã khác hẳn, gần như đồng sanh đồng tử, kề vai tác chiến, liền đáp: “Được chứ! Ta thân mang trọng trách được thứ sử đại nhân phó thác, dù cho mất mạng cũng phải dấn thân”.
Yến Phi nhẹ giọng: “Tạ Huyền?”.
Lưu Dụ thản nhiên đáp: “Mệnh lệnh là do Tạ thứ sử tự thân phát ra”. Yến Phi vui mừng nói: “Vì sao bỗng nhiên huynh lại nói thật ra như vậy?”.
Lưu Dụ quay sang nhìn, những đường nét đẹp đẽ đầy nam tính dương cương trên khuôn mặt Yến Phi lọt vào mắt gã, không một chút tục khí giang hồ, mà lại rất sáng láng đẹp đẽ, khiến người khác vui vẻ tín nhiệm cùng gã giao kết, liền nhẹ nhàng nói: “Đạo lý rất đơn giản, nếu không có huynh giúp đỡ, ta tuyệt không có khả năng hoàn thành sứ mệnh, vì vậy đó là lựa chọn sáng suốt của ta”.
Yến Phi hướng mục quang về phía gã, ánh mắt giao nhau, đều cảm thấy tin cậy lẫn nhau, không còn chút nghi kỵ nào nữa.
Yến Phi nói: “Thực không dám giấu, Cao Ngạn tới Thọ Dương để vì ta hẹn gặp Tạ Huyền. Ta vốn có biện pháp khiến cho ông ta thắng trận này, đáng tiếc hiện tại lại không thể nắm chắc”.
Lưu Dụ nghe tới đó bật ngồi dậy, nghiêm túc nói: “Xin được nghe rõ”.
o0o
Tạ Huyền dừng ngựa bên ngoài Quảng Lăng thành, hai bên là hai đại tướng thủ hạ Lưu Lao Chi và Hà Khiêm, hai người này toàn thân giáp trụ, càng làm nổi bật Tạ Huyền nho cân bố y, phong thần tuấn tú, nhiều phần khác biệt.
Hai vạn quân tiên phong do Tạ Diễm suất lãnh hướng về phía trước tiến lên, mục tiêu là trọng điểm chiến lược Bát Công Sơn trên bờ đông Phì thủy.
Tạ Huyền nhìn Bắc Phủ binh như lang như hổ hùng dũng diễu qua trước mặt, tâm tư như triều thủy cuộn trào.
Từ khi thành lập Bắc Phủ binh tới nay, hắn chưa từng nếm qua vị đắng chiến bại, khiến cho uy danh vang dội, trận chiến xác lập địa vị ngày nay xảy ra bốn năm trước, khi đó Phù Kiên phái nhi tử là Phù Phi suất lãnh bảy vạn quân, tiến công Nam Tấn, trước tiên công chiếm Tương Dương, bắt thứ sử Chu Tự làm tù binh, chiếm được cứ điểm dừng chân rồi, lập tức phái Bành Siêu tiến công Bành Thành, làm chấn động triều đình Kiến Khang. Khi đó toàn do Tạ An một mình xếp đặt nghị sự, hắn kinh nghiệm ít ỏi nhận mệnh xuất chiến, lần đó Tạ An chỉ nói hai câu: “Hư trương thanh thế, thanh đông kích tây”, do vậy hắn y theo dặn dò của Tạ An, hư trương thanh thế muốn tiến công nơi chứa lương của Bành Siêu, buộc Bành Siêu phải kéo quân về bảo vệ, Hà Khiêm mới thừa cơ thu phục Bành Thành. Bành Siêu sau khi hội quân với cánh quân kia, mang binh lực hơn sáu vạn lại xua quân tiến về phía nam, bao vây trọng trấn Tam A cách Quảng Lăng chừng trăm dặm, hắn lập tức từ Quảng Lăng tây tiến đánh úp, đại phá Tần quân, lại đốt cháy chiến hạm lương thuyền của địch, cắt đường rút lui, tiến công tiêu diệt gần hết sáu vạn quân Tần ở Tam A, đáng tiếc đã mất Tương Dương, khiến cho có ngày hôm nay Phù Kiên muốn đích thân kéo quân nam hạ.
Lần này đại quân Phù Tần nam lai, so với năm đó khác hẳn, chẳng những tận xuất mãnh tướng tinh binh, Mộ Dung Thùy cùng Diêu Trường là những chiến tướng dũng mãnh cái thế, khiến hắn nửa phần chiến thắng cũng không nắm được, bất quá hắn hoàn
toàn tin vào một tay sắp xếp của Tạ An, vì xưa nay chưa bao giờ ông nhìn sai, chỉ không biết lần này có linh nghiệm hay không?
o0o
“Pang!”.
Hoàn Huyền một chưởng bổ xuống mặt bàn bằng gỗ nam, lập tức một dấu tay hiện ra, hắn cả đêm trước không ngủ được, một mình tại nội đường uống rượu giải sầu, trong lòng đầy phẫn uất.
Lời trách mắng của Hoàn Xung vẫn vang vang bên tai, hắn tự xét thấy so với Tạ Huyền, trên mọi phương diện mình đều trội hơn, vậy mà liệt danh trên bảng cửu phẩm cao thủ, Tạ Huyền chiếm ngôi đệ nhất, hắn đành chịu thứ hai; hiện giờ đại quân Phù Tần nam lai, Tạ Huyền đốc quân nghênh chiến, mình chỉ có thể khốn thủ Kinh Châu, đang khi càng nghĩ càng tức. Mưu sĩ thủ hạ thân tín nhất Khuông Sĩ Mưu từ ngoài nói vọng vào:” Sĩ Mưu có chuyện trọng yếu muốn lập tức bẩm lên”.
Hoàn Huyền trầm giọng đáp: “Nếu chẳng phải chuyện gấp rút thì đừng làm phiền ta”.
Khổng Sĩ Mưu nhẹ bước tới sau lưng hắn, chắp tay nói nhỏ: “Đại tư mã chẳng biết có phải vì lo lắng tình thế Giang Hoài, sau khi gặp Nam quận công vết thương cũ tái phát, phải nằm trên giường, vô phương chữa trị, xem ra tình hình bất diệu”.
Đại tư mã chính là Hoàn Xung, còn ấp phong của Hoàn Huyền là Nam quận, cố nhiên là Nam quận công.
Bốn năm trước trong trận chiến Tương Dương, Hoàn Xung trúng độc của người Tần, trục độc còn dư, từ đó lúc nào độc thương cũng có thể phục phát, thủy chung vẫn không có cách nào thanh trừ độc tố trong mình, khiến ông sức lực ngày càng kém, lại thêm niên kỷ cao, không thể nào hồi phục sự dũng mãnh năm nào.
Khuông Sĩ Mưu trang phục văn sĩ, thân thể gầy mòn, cặp mắt gian xảo lén lút, là loại người rất thích dùng tâm kế xảo thuật.
Hoàn Huyền lại uống cạn một chén rượu, vẻ bất cần nói: “Ông ta chết đi là tốt nhất, uy phong bao nhiêu đều mất sạch cả rồi”.
Khuông Sĩ Mưu mừng rỡ: “Chỉ bằng một câu nói của Nam quận công ngài, hoàng đồ bá nghiệp tất thành”.
“ Choang!”.
Chén rượu trong tay Hoàn Huyền rơi xuống mặt bàn vỡ tan, hắn giật mình nói: “Ngươi nói gì vậy?”.
Khuông Sĩ Mưu cung kính: “Chiến bại thì khuynh gia, chiến thắng thì phúc tộc, chuyện này là kết cục tất yếu của tất cả các trọng thần danh tướng công cao át chủ của Nam Tấn. Hiện tại đại quân của Phù Kiên nam lai, triều đình rối ren, nếu đại tư mã có chuyện cái gì đấy ba dài hai ngắn, Tư Mã Diệu không có chọn lựa nào khác, ắt để Nam quận công kế thừa vị trí của đại tư mã, để làm an lòng quân Kinh Châu. Đây là thời cơ trời ban, bằng không nếu chuyện này xảy ra trong lúc yên ổn, Tư Mã Diệu sẽ thừa cơ tước đi binh quyền của Hoàn gia”.
Hoàn Huyền sắc mặt trắng bệch nói: “Nếu Phù Kiên đắc thắng thì thế nào?”.
Khuông Sĩ Mưu nói: ”Chỉ cần Nam quận công đang nắm binh quyền, có thể thuận lý thành chương tự lập làm vua, hiệu triệu quân dân nam phương, nhân lúc Phù Kiên chưa vững chân, lợi dụng thế lợi đầu nguồn, thuận dòng đánh úp, đẩy lùi Phù Kiên lên phương bắc, có thể thành đại nghiệp”.
Sắc mặt Hoàn Huyền càng thêm trắng bợt, ngưng thần nhìn những mảnh chén vỡ trên mặt bàn, nói từng tiếng một: “Ngươi muốn ta...”.
Khuông Sĩ Mưu vội nói: “Sĩ Mưu nào dám mạo phạm đến Nam quận công, nhất thiết là do ngài tác chủ, Sĩ Mưu chỉ cố tận trách nhiệm thần tử, không muốn Nam quận công để mất cơ hội tốt”.
Hoàn Huyền yên lặng không nói, nhưng lồng ngực nhô lên thụt xuống không ngừng, rõ ràng nội tâm đang đấu tranh dữ dội.
Khuông Sĩ Mưu lại hạ giọng kề tai hắn nói: “Chỉ cần Nam quận công làm bộ mong mỏi bệnh tình đại quận công mau khỏi, sau đó xin giao cho hạ nhân dùng thánh dược liệu thương chữa trị cho Đại tư mã, khi đó có thể thỏa mãn tâm nguyện xưng bá thiên hạ của Đại tư mã rồi”.
Hoàn Huyền kể từ lúc này như có một chỗ tựa êm ái, tự tan mất hết thứ lực lượng xuyên suốt từ trước, nhắm mắt rên rỉ: “Nếu ông ta phục dược mà chết đi, Hoàn Huyền ta chẳng phải trở thành kẻ bất nhân bất nghĩa hay sao?”.
Khuông Sĩ Mưu nói: ”Nam quận công xin yên tâm, loại thuốc này sau khi dùng phải ba năm mới phát tác, tác dụng của nó chỉ khiến Đại tư mã vô pháp áp chế dư độc trong thân thể, bảo đảm thần bất tri quỷ bất giác. Ai! Nhân vì Sĩ Mưu mong liễu giải nỗi niềm tâm sự của Nam quận công mà phí mất một phen công phu thu xếp về đây”.
Hoàn Huyền trầm giọng nói:” Thuốc đâu?”.
Khuông Sĩ Mưu rút từ trong bọc ra một hộp gấm, cung kính đặt lên bàn.
Hoàn Huyền mở to song mục, nhìn xoáy vào hộp gấm, hỏi: “Chuyện này có ai biết?”.
Khuông Sĩ Mưu chắc mẩm lập công to, mắt mũi sáng rực nói: “Sĩ Mưu làm sao có thể sơ hốt như vậy, chuyện này chỉ duy nhất có Sĩ Mưu biết mà thôi”.
Hoàn Huyền gật gật đầu, bỗng phản thủ một chưởng, đập vào ngực Khuông Sĩ Mưu, tiếng xương vỡ thịt dập vang lên, Khuông Sĩ Mưu trúng chưởng văng ra xa, không kịp kêu thảm lấy một tiếng trước lúc chết.
Hoàn Huyền cầm chiếc hộp gấm lên, thận trọng cất vào trong bọc, giống như không có chuyện gì xảy ra, bình tĩnh nói: “Hiện tại chỉ mình ta biết thôi”.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #6  
Old 12-20-2012, 02:28 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 11, 12

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 11

Hung hoài đại chí


Yến Phi nhảy từ ngọn cây xuống, ngồi bên cạnh Lưu Dụ, cùng dựa vào một thân cây khô, nửa vầng thái dương đã chìm vào sườn núi bên bờ Dĩnh Thủy. Sau ba canh giờ gấp gáp vượt đường mà đi, họ đã nghỉ ngơi đầy đủ, hà huống đêm nay vẫn muốn bôn hành, hy vọng trước lúc trời sáng tiềm nhập thành công Biên Hoang tập.
Hai người cứ nhè đường rừng rậm rạp mà đi, đương nhiên vì sợ Khất Phục Quốc Nhân không phải đã táng mạng trong tay vị siêu cấp cao thủ kia như mong muốn, tiếp tục thả Thiên nhãn tìm kiếm hành tung của họ.
Lưu Dụ lấy ra mấy miếng lương khô chia cho Yến Phi cùng ăn, thuận miệng hỏi: “Nếu Thác Bạt Khuê lưu lại ám ký ở chỗ quy định ngoài tập, chúng ta cũng có thể không cần nhập tập”.
Yến Phi hờ hững nói: “Chúng ta có thể biết điều đó rất mau mà”.
Lưu Dụ miệng nhai lương khô, định nói gì lại thôi.
Yến Phi ngạc nhiên: “Huynh nghĩ gì vậy?”.
Lưu Dụ hơi lúng túng nói: “Ta muốn hỏi Yến huynh thực ra là người Hán hay Tiên Ti, lại sợ có phần đường đột”.
Yến Phi cười nhẹ: “Ta trước nay chưa từng phiền não vì chuyện này, cũng chưa khi nào suy nghĩ kỹ về nó. Trải qua nhiều năm các tộc dân giao hòa lẫn lộn, ở phương bắc sự phân biệt Hồ Hán càng trở nên mơ hồ, tình hình ở nam phương chắc không như vậy”.
Lưu Dụ thở than: “Đích xác không như thế, tổ tiên ta sống ở Bành thành, sau đấy thiên cư tới Kinh khẩu1, có thể nói chính là người phương nam. Đối với ta, Hồ nhân mang tới chiến tranh cùng những đổi thay lớn lao, trong số họ không ít kẻ tàn bạo, tùy ý giết người cướp của, xiết bao rùng rợn. Phù Kiên có lẽ cũng không khác, nếu buộc phải làm thần tử của hắn, ta chắc chịu không thấu, nguyện chết đi còn hơn”.
Yến Phi im lặng một lát rồi hỏi: “Tạ Huyền phải chăng đúng là nhân vật như trong truyền thuyết, dụng binh như thần, kiếm pháp cái thế?”.
Lưu Dụ nghiêm nét mặt nói: “Tạ soái đích thực là người phi thường xuất chúng, ông ta có một loại khí chất thiên sanh đặc biệt khiến người ta cam lòng chịu sai khiến, ta tuy không có chút hảo cảm với những kẻ xuất thân đại phiệt thế tộc, nhưng ông ta lại là ngoại lệ, chỉ cần coi tác phong dùng người theo tài năng, bất luận xuất thân của ông ta cũng đủ khiến người khâm phục”.
Yến Phi cười nhẹ: “Lưu huynh sùng bái ông ta quá!Hhiện giờ ta cũng hy vọng ông ta được như huynh nói, nếu không thì chẳng đủ cân lượng đối phó với Phù Kiên đâu”.
Lưu Dụ cặp mắt sáng rực, phấn khích thốt ra: “Người ta hâm mộ nhất không phải là ông ta mà là Tổ Địch, người này sinh ra trong thời kỳ loạn Bát vương, sau theo Tấn thất thiên cư về phương nam, ngày ngày gà gáy trở dậy, khổ luyện kiếm pháp. Nhớ năm xưa ông ta qua sông thề 'Tổ Địch nếu không quét sạch Trung Nguyên, chết cũng không tái hồi Giang Đông', thủ hạ quân lính không quá ngàn người, trang bị không có gì đáng nói, tự mình chiêu mộ quân sĩ, cùng lo liệu quân phí lương tiền”.
Yến Phi quay hẳn đầu lại, mục quang chớp chớp nhìn kỹ Lưu Dụ nói: “Nguyên Lưu huynh ôm tráng chí mang quân bắc phạt?”.
Lưu Dụ ngượng nghịu nói: “Yến huynh xin đừng cười, trong tình huống hiện giờ, đâu đã đến lượt đệ vọng tưởng chuyện đó?”.
Yến Phi ngước mắt nhìn ráng chiều đẹp rực rỡ hắt lên từ vầng thái dương đã khuất sườn non, song mục ánh lên thần sắc mơ màng thê lương, lắc đầu: “Người ta phải có mộng tưởng, còn thành hay không lại là chuyện khác”.
Lưu Dụ hỏi: “Mộng tưởng của Yến huynh là gì vậy?”.
Yến Phi lộ ra một nét cười khổ, tránh khỏi chủ đề chính: “Tổ Địch xác thực là người tài giỏi, thiện dụng kế dùng địch chế địch, phía bắc binh quyền vươn tới Hoàng Hà, toàn bộ đất đai phía nam Hoàng Hà đều do ông ta thâu phục. Đáng tiếc là Tấn đế Tư Mã Diệu sợ không chế áp nổi khí thế của ông ta, tìm mọi cách trói chân trói tay ông ta, khiến Tổ Địch buồn giận phát bệnh, chết tại quân doanh, tráng chí chưa kịp thực hiện”.
Lưu Dụ song mục lộ thần sắc phẫn hận, trầm giọng nói: “Nếu Lưu Dụ ta có cơ hội mang quân bắc phạt, nhất định không để triều đình có cơ hội khống chế hành động của mình”.
Yến Phi giơ ngón tay cái khen: “Có chí khí!”.
Lưu Dụ cười khổ: “Ta hiện tại giống như người mê nói mộng, nếu lời vừa rồi truyền ra, khẳng định cái đầu này không giữ nổi”.
Yến Phi hớn hở nói: “Nói vậy, Lưu huynh đã coi mỗ như bằng hữu tâm phúc rồi!”.
Lưu Dụ gật đầu khẳng định: “Đương nhiên rồi, có một điều khiến mỗ không tán đồng Tạ soái, đó là ông ấy quá vì gia tộc, hết sức duy trì hoàng tộc nhà Tấn không được lòng người, chiến thắng rồi thì thế nào? Còn dung túng cho các tướng lĩnh xuất thân thế tộc cường hào thừa cơ loạn lạc đi bốn phương cướp bắt tráng đinh phụ nữ đưa về trang viện ở Giang Nam sung làm nô tỳ, đối với với đất đai thổ địa bắc Hoàng Hà, tây Đồng Quan thì coi như bỏ, không hề có quyết tâm quang phục cố thổ”.
Yến Phi động dung nói: “Lưu huynh trong lòng ngầm chứa bất bình, nhất định không chịu hòa mình vào dòng nước đục. Ha! Xem ra Yến Phi ta không cứu lầm người”. Lưu Dụ ngượng ngùng nói: “Ta là người thế nào Yến huynh đại khái đã rõ. Hắc! Ta nói nhiều rồi, giờ đến lượt huynh đó!”.
Yến Phi thờ ơ: “Ta là kẻ không có mộng tưởng, lấy gì mà nói đây?”.
Lưu Dụ nói: “Sao có thể không có mộng tưởng được? Ở tuổi hai ta, ít nhất cũng hy vọng có một cô em ngọt ngào xinh xắn chàng chàng thiếp thiếp cùng hưởng thụ cá nước vui vầy chứ”.
Yến Phi thần sắc xuất hiện một nét thống khổ rồi hết ngay, như không có chuyện gì nói: “Có cơ hội chúng ta sẽ nói chuyện nghe, đến lúc lên đường rồi”.
Lưu Dụ bằng cảm giác nhận thấy đối với chuyện tình cảm nam nữ Yến Phi nhất định có chuyện thương tâm, biết điều đừng có đi truy tầm căn nguyên, theo gã đứng lên tiếp tục hành trình.
o0o
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa
Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia
Thương nữ bất tri vong quốc hận
Cách giang do xướng Hậu đình hoa.
(Thơ Đỗ Mục – Khương Hữu Dụng dịch
Nước lồng khói tỏa cát trăng pha
Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia
Con hát biết chi hờn mất nước
Cách sông còn hát Hậu đình hoa).
Sông Tần Hoài vốn có tên là Tàng Long phố, cũng gọi là Hoài Thủy. Tương truyền Tần Thủy Hoàng đi tuần về phía đông qua chốn này, coi trúng hình thế đẹp đẽ, do đấy mà đoán được trong lòng Hoài Hà có phương sơn địa mạch ngầm dịch chuyển, tiết ra vương khí, từ đấy mới có danh xưng sông Tần Hoài.
Triều đình đương thời thi hành chính sách cửu phẩm, làm cho chế độ môn phiệt trở nên thịnh hành, tên tuổi gia thế thành ra tiêu chuẩn tối cao xác định thân phận, thứ đặc quyền này tạo ra sự hủ hoá, ngu muội, không những theo đuổi danh lợi mà còn phục sức kỳ dị, hưởng lạc xa xỉ, chơi bời yến ẩm, cao môn tử đệ lại càng ra sức đua tranh. Lũ này sống trong một thế giới khác hẳn suốt ngày say sưa túy lúy, quốc gia hưng vong biến thành thứ hiện thực xa xăm nào đó, sùng bái thanh đàm dật nhạc, thỏa sức truy tầm thanh sắc, biến Tần Hoài thành chốn yên hoa đệ nhất thiên hạ, nơi thắng địa đầy lạc thú.
Mười dặm hai bên bờ Tần Hoài nhà thuyền san sát, chạm vẽ cầu kỳ, rèm châu buông kín, nhưng bên trong thanh sắc náo nhiệt tới sáng không dứt. Trên sông thì tàu bè qua lại như thoi đưa, hoa thuyền tấp nập. Một dải Chu Tước Hàng hai bên bờ Tần Hoài là nơi tập trung các toà thanh lâu, nổi danh nhất là Tần Hoài Lâu và Hoài Nguyệt Lâu, phân lập đối diện nam bắc đôi bờ. Hai tòa thanh lâu này không những đại biểu cho cái gọi là Tần Hoài phong nguyệt, còn đại biểu cho phương thức sinh hoạt mà các thế gia quyền quý miền Giang Tả truy cầu, chính thị lạc thú của cuộc đời.
o0o
Một chiếc tiểu thuyền từ bến thuyền tại đông viên trong tướng phủ nhập Tần Hoài, tiến tới Chu Tước kiều, coi ra đích thị thiên hạ đệ nhất danh sĩ, phong lưu tể tướng Tạ An. Sự thực là Nam Tấn đã sớm phế bỏ chế độ tể tướng, chính sự nằm trong tay trung thư giám và trung thư lệnh. Hiện thời trung thư giám là Tạ An, trung thư lệnh là Vương Thản Chi, giữa tả hữu thừa tướng không có gì phân biệt, chỉ có danh xưng là khác nhau. Hơn tám mươi năm trở lại đây, giữ chức trung thư giám đều là thế tộc theo Tấn thất nam thiên, không có ai là thế tộc bổn địa, vị trí thứ sử miền đất đế đô Dương Châu cũng không khi nào giao cho bổn địa thế tộc. Các thế tộc phương nam uất ức thế nào tưởng cũng dễ thấy.
Lại thêm kiều ngụ thế tộc cậy thế khinh người, người nào kẻ nấy tự ý chiếm đoạt ruộng đất và hồ ao đồi núi, làm tổn hại trực tiếp đến quyền lợi thế tộc bổn địa, khiến cho oán cừu ngày càng thêm sâu nặng.
Không biết làm sao, những ngày gần đây Tạ An đặc biệt hay nghĩ tới những vấn đề liên quan đến phương diện này, vì thế ông mong mỏi có thể quên đi những chuyện nan giải này, càng không muốn có chuyện phiền não đến tay. Chỉ có Kỷ Thiên Thiên mới có thể khiến ông vui vẻ quên đi ưu sầu, chỉ cần những nụ cười ngọt ngào dễ dãi của nàng cũng đủ khiến cho ông cảm thụ được mặt bên kia hết sức tốt đẹp của cuộc đời, huống hồ còn có giọng ca điệu đàn đẹp nhất Tần Hoài của nàng.
Phía sau tiểu thuyền vẽ nên hai lượn sóng nhỏ, nhẹ nhàng lan tỏa ra ngoài, cùng những con sóng vãng lai khác hòa trộn với nhau, ánh lửa đèn chiếu xuống, sóng gợn lăn tăn, hai bên bờ lầu son gác tía tựa như cảnh trong mộng.
Đại quân Phù Kiên như bão táp lẽ nào sẽ chôn vùi cảnh đẹp như thơ như họa trước mắt trong đám đổ nát hoang tàn sao?
o0o
Lưu Dụ và Yến Phi phục trong đám loạn thạch trên một ngọn đồi ở bờ tây Dĩnh Thủy, quan sát bảy cỗ đại thuyền giương buồm xuôi dòng về phía nam, Lưu Dụ tính toán cẩn thận rồi nói: “Hai chiếc hẳn là chở khí giới công thành hạng nặng, năm chiếc còn lại là lương thuyền, có thể biết là người Tần đã bố trí cứ điểm ở bờ bắc Hoài Thủy, chuẩn bị qua sông Hoài”.
Yến Phi thừa cơ điều tức vận khí, nghĩ bụng Lưu Dụ võ công có thể không hơn mình, nhưng chắc chắn trời sinh tinh lực dồi dào, thể chất khí phách đều siêu phàm hơn hẳn thường nhân, sau gần hai canh giờ toàn tốc bôn hành mà vẫn như không có gì xảy ra. Lại thêm mang hoài bão cao xa, trầm ổn kiên nghị, nhân tài như vậy chỉ Thác Bạt Khuê mới có thể sánh cùng. Nếu mai này hai người họ một nam một bắc Hán Hồ phân minh, đụng đầu nhau tình huống sẽ ra sao? Quả thực khiến người cảm thấy rất hứng thú.
Lưu Dụ quay đầu nhìn gã, thấy thần sắc của gã như vậy liền hỏi: “Yến huynh đang nghĩ gì vậy?”.
Yến Phi đương nhiên không muốn nói ra suy nghĩ trong lòng, đáp: “Đệ đang lấy làm lạ vì sao không thấy yêu đạo yêu nữ truy tung tới đây, nếu không chúng ta đã có thể thừa cơ làm rõ quái nhân mang mặt nạ quỷ là thần thánh phương nào”.
Nhược bằng Lư Tuần đuổi tới, quỷ diện quái nhân kia có lẽ là Giang Lăng Hư hay An Thế Thanh mà không phải là Tôn Tư, trao qua đổi lại, hai người có thể loại suy như vậy.
Lưu Dụ cười khổ nói: “Bọn chúng thực ra không cần phải khổ sở gian nan truy tầm, mà chỉ cần tới Biên Hoang tập chờ đón bọn ta: Lư yêu đạo hay An yêu nữ chắc đoán ra mục đích của đệ là Biên Hoang tập, lại nghĩ huynh là hoang nhân tới Nhữ Âm tiếp ứng cho đệ”.
Yến Phi nghe thế đầu mi nhăn tít, suy đoán của Lưu Dụ thật hợp tình hợp lý, hai yêu nhân này vừa võ công kinh người, lại vừa giảo quyệt tuyệt luân, tại Biên Hoang tập rình rập bọn họ, sẽ rất phức tạp vấn đề, lại tránh không khỏi. Trong tình huống như vậy, chẳng thà nhân lúc hiện tại không bị người Tần uy hiếp, cùng bọn chúng một phen giải quyết cứng rắn, chỉ tiếc trong tình hình hiện nay, dù muốn như thế cũng không làm gì được.
Lưu Dụ minh bạch lo âu trong lòng gã, nói: “Chúng ta phấn chấn tinh thần, biết đâu có thể vượt quá tai mắt bọn chúng”.
Hai người vươn người đứng lên, một trước một sau lên đường.
o0o
Tạ Huyền ngồi một mình trong thư trai trong phủ thứ sử tại Quảng Lăng thành, một tấm địa đồ trải trên mặt chiếu, thể hiện hình thế một dải núi sông Dĩnh Thủy, Hoài Thủy và Phì Thủy, nét vẽ tinh xảo.
Ngày mai hắn sẽ thân suất hai vạn Bắc Phủ binh khác triển khai lên tuyến đầu, do địch nhân thế lớn, nếu chánh diện đối đầu, bất luận trong tay hắn là tinh binh mãnh tướng như thế nào đi nữa, cũng vô tình tạo cho địch nhân cơ hội ăn sống nuốt tươi quân mình, lại có thể không cản nổi địch quân, để đối phương có chỗ đứng chân ở bờ nam Hoài Thủy, rồi lập tức chia binh nhiều đường, khiến cho hắn tiếp ứng không kịp, đến lúc
ấy Kiến Khang sẽ nguy biến. Do vậy vấn đề mấu chốt thắng bại của cuộc chiến này là có được tin tức tình báo chính xác, lợi dụng quân số đối phương quá lớn, hành quân chậm trễ, cung ứng lương thảo vật tư khó khăn, dùng kỳ binh đánh úp bất ngờ, trước tiên cắt đường tiếp lương, rồi thừa cơ đối phương mệt mỏi liên miên, ngừng chân chưa kịp ổn, đập tan nhuệ khí quân tiên phong của Phù Tần, làm dao động quân tâm sĩ khí đối phương, nhưng tuy là muốn vậy, thực hiện ra sao, cũng còn mất nhiều tâm sức. Hơn nữa địch nhân là thủ hạ Phù Dung, từng kinh qua chiến trận đã nhiều ở phương bắc, hiểu sâu binh pháp, mọi mặt đều phòng bị chu toàn.
“Cọc, cọc!”.
Tạ Huyền vẫn chăm chú nhìn vào họa đồ, ung dung nói: “Ai?”.
“Lưu tham quân cầu kiến đại nhân”.
Tạ Huyền cảm thấy lạ, hiện giờ đã là đầu canh, ngày hôm sau sắp đến, Lưu Lao Chi thật ra có chuyện gì khẩn yếu mà lại đến gặp hắn vào giờ này, liền nói: “Lao Chi mau vào đây”.
Lưu Lao Chi mặc thường phục đẩy cửa bước vào, ngồi xuống bên Tạ Huyền, hạ giọng: “Vừa tiếp được bồ câu truyền thư từ Thọ Dương, gã phong mai xuất sắc nhất Biên Hoang tập là Cao Ngạn bí mật xách ngọc tỷ truyền quốc của Yên quốc tới Thọ Dương gặp Hồ Bân tướng quân”.
Tạ Huyền ngạc nhiên nói: “Có chuyện này sao?”. tiếp lấy truyền thư, cúi đầu đọc kỹ.
Lưu Lao Chi tiếp: “Ngọc ấn này chế bằng bảo ngọc trắng truyền đời của họ Mộ Dung Tiên Ti tộc, lóng lánh trong suốt, cầm vào lạnh buốt, khác hẳn ngọc thường, bên trên khắc bốn chữ Đại Yên quốc tỷ, Hồ Bân xem rồi khẳng định không phải là đồ ngụy tạo, hiện đã phái một đội tinh kỵ đưa về Quảng Lăng, chậm nhất ngày mai sẽ đến đây”.
Tạ Huyền gật đầu nói: “Quả thực hết sức hứng thú, ngọc này vốn là ngự ấn của Yên vương, làm thế nào lại rơi vào tay Cao Ngạn?”.
Lưu Lao Chi nói: “Theo lời truyền, ngọc này năm đó Vương Mãnh phụng mệnh Phù Kiên công phạt Đại Yên, bắt được Yên vương Mộ Dung Vĩ và Mộ Dung Bình mấy người, tưởng lấy được bảo ngọc này dâng cho Phù Kiên, nhưng tìm khắp Yên cung mà không thấy, có người hoài nghi rơi vào tay tướng tiên phong của Vương Mãnh lúc ấy là Mộ Dung Thùy, vì ngọc này đối với Mộ Dung Tiên Ti có ý nghĩa to lớn, cho nên hắn sinh tư tâm chiếm riêng cho mình, nhưng mọi người gồm cả Phù Kiên trong đó, đều có lòng úy kỵ Mộ Dung Thùy, cuối cùng mọi chuyện không đi đến đâu, thành ra huyền án”.
Tạ Huyền im lặng suy nghĩ không nói, đặt truyền thư sang một bên.
Lưu Lao Chi tiếp tục nói: “Yên quốc mất nước, thực là mất trong tay Mộ Dung Thùy, năm đó Yên vương Mộ Dung Vĩ rất cố kỵ Mộ Dung Thùy, cố sức gạt hắn ra, Mộ Dung Thùy nổi giận mang thủ hạ đầu hàng Phù Kiên, đồng thời tự động xin mang quân diệt Yên, Phù Kiên chỉ việc ngồi mà hưởng lợi. Nếu chẳng có Mộ Dung Thùy trợ giúp, Phù Kiên không cách nào trong một thời gian ngắn thống nhất phương bắc”.
Tạ Huyền hỏi: “Nhưng bằng cách nào mà Cao Ngạn có được ngọc tỷ này?”.
Lưu Lao Chi nói: “Cao Ngạn thay mặt một người tên là Yến Phi truyền lời, hẹn đại nhân ngày bảy tháng bảy lúc tây mậu chi giao, tức là bốn ngày nữa, gặp mặt tại một ngọn núi ngoài thành Thọ Dương, nói có chuyện quan trọng liên quan đến thành bại của cuộc chiến này cần bẩm báo, bất quá gã nhất định đòi đại nhân thân hành tới gặp mặt”.
Tạ Huyền nhạt giọng nói: “Cao Ngạn có phải là người đáng tin cậy không?”.
Lưu Lao Chi đáp: “Cao Ngạn là tay phong mai xuất sắc nhất Biên Hoang tập, luôn luôn cùng chúng ta liên hệ chặt chẽ, tin tức của gã mười phần thì có đến chín là chuẩn xác, gã thích nhất là vung tiền thoải mái chốn phong nguyệt, vì vậy thường xuyên rỗng túi, khi nhàn rỗi thì trông vào việc mua bán cổ tịch văn vật mang từ phương bắc về, ngoài việc biết gã là Hán nhân ra, còn thì đại khái không rõ. Kỳ quái là gã nói đúng khẩu âm Giang Nam, nhưng lại tinh thông ngôn ngữ các tộc Hồ”.
Kỳ quái cũng có đạo lý của nó, người Hán phương nam rất hãn hữu tinh thông Hồ ngữ, chỉ có Hán nhân sống lâu dài ở phương bắc, vì cùng Hồ nhân giao tiếp mà hiểu biết Hồ ngữ thì cũng không có chi lạ.
Lưu Lao Chi kết luận: “Cao Ngạn tự mình đề nghị làm con tin, có thể thấy hắn tuyệt đối tín nhiệm Yến Phi, bằng không với loại người ái tài như mệnh như hắn, tất không mang tính mệnh mình ra đánh cược. Đương nhiên hắn hy vọng sau khi thành sự, chúng ta sẽ cho hắn một món tiền lớn”.
Tạ Huyền nói: “Yến Phi phải chăng là tay siêu trác kiếm thủ danh chấn Biên Hoang tập?”.
Lưu Lao Chi nói: “Chính là người này, căn cứ vào tình báo của ta, Yến Phi cô ngạo bất quần, niên kỷ chưa quá hai mươi xuất đầu, nhưng suốt ngày vùi đầu vào chén rượu, kiếm pháp thì đặc biệt khác hẳn, bất luận đơn đả hay quần đấu, Biên Hoang tập không kẻ nào có thể làm phiền gã. Một nhân tài như vậy lại không có một chút thiên hướng, cam lòng nhận việc bảo phiêu cho Biên Hoang tập đệ nhất lâu. Cao Ngạn gặp chuyện
đều nhờ thanh kiếm trong tay gã giải quyết. Có người nói gã mang huyết thống Hồ tộc, nhưng sự thực ra sao không ai biết”.
Tạ Huyền nói: “Giả thiết gã đại biểu cho Mộ Dung Thùy tới gặp ta, càng chứng thực sở liệu của nhị thúc ta không sai, các đại tướng thủ hạ của Phù Kiên đích thực có người ngầm mang dị tâm”.
Lưu Lao Chi nói: “Nhưng cũng có khả năng là một cái bẫy, Yến Phi tới để hành thích đại nhân, nhờ Cao Ngạn giúp gã đóng kịch”.
Tạ Huyền cười nhẹ: “Ta biết Lao Chi hành sự cẩn thận, thế là tốt, nhưng ta cũng muốn biết cách suy nghĩ chân chính trong lòng ngươi”.
Lưu Lao Chi thở một hơi nói: “Nếu đại nhân có ý phòng bị, ai có bản lĩnh thích sát đại nhân? Cao Ngạn lại hết sức tinh minh, là tay phong mai giảo hoạt như cáo, rất giỏi nhìn mặt coi sắc, phân biện thực giả. Hắn chịu tín nhiệm Yến Phi, nhất định không thể làm sai chuyện này. Cao Ngạn nói cho cùng vẫn là người Hán, nếu để Phù Kiên trận này đắc thắng, hắn sẽ biến thành nô lệ mất nước. Biên Hoang tập hoang nhân thứ nhất vì tiền, thứ nhì vì muốn tự do không khuất phục quyền quý. Cao Ngạn và Yến Phi chính là loại người này”.
Ngừng một chút rồi tiếp tục: “Vấn đề là trong tình huống hiện giờ, cho là Mộ Dung Thùy có ý phản bội Phù Kiên, nhưng hắn có thể múa may thế nào? Lần này thân tộc chiến sĩ hắn mang theo bất quá ba vạn người, đối với trăm vạn Tần quân không làm nổi trò trống gì, sợ nhất Mộ Dung Thùy phụng mệnh Phù Kiên bố trí cạm bẫy, ta hiện giờ khó biết chân giả, nếu trúng mưu địch, chúng ta căn bản không thể chịu đựng nổi”.
Tạ Huyền ngước mắt nhìn lên xà nhà, như không nghe thấy những lời bàn luận linh tinh của hắn, nói: “Thật kỳ quái! Nơi Yến Phi mang ngọc ấn giao cho Cao Ngạn chắc là cách Nhữ Âm không xa, khi ấy đích thân Khất Phục Quốc Nhân truy sát gã, chiếu theo thời gian Yến Phi ly khai Biên Hoang tập thì Mộ Dung Thùy và Phù Kiên chưa tiến vào Biên Hoang tập, gã làm cách nào mà liên lạc với Mộ Dung Thùy đây? Theo đạo lý thì đây là chuyện trọng đại, lại dính dáng đến ngọc tỷ của Đại Yên, Mộ Dung Thùy nhất quyết không dám mượn tay người ngoài”.
Lưu Lao Chi nói: “Chuyện này gặp Yến Phi tự khắc hỏi rõ được, hy vọng gã đúng là danh bất hư truyền, không táng mạng trong tay Khất Phục Quốc Nhân”. Tiếp đó muốn nói lại ngưng lại.
Tạ Huyền vỗ vai hắn, vui vẻ nói: “Không được coi thường Mộ Dung Thùy, người này chẳng những võ công quán tuyệt phương bắc, mà trí kế siêu quần, dụng binh như thần, hắn tất có phương pháp cản trở Phù Kiên. Ha! Nếu muốn chơi Tạ Huyền ta, hắn đâu cần sử dụng âm mưu quỷ kế gì, chỉ việc toàn tâm toàn ý phù trợ Phù Kiên tác chiến, cứ thế là xong. Hắn chịu xuất ra ngọc tỷ, chứng minh hắn thực có tâm ý. Được rồi! Ta với ngươi lập tức khởi trình đi gặp Cao Ngạn, có rất nhiều chuyện ta muốn tự mình hỏi gã mới xong, ngày mai giao lại toàn quyền xử lý quân vụ cho Hà Khiêm”.
Chú thích:
1- Kinh khẩu là tên khác của Bắc phủ.



Hồi 12

Tần Hoài chi nguyệt


“ Phấn đại giang san, lưu đắc bình hồ yên vũ.
Vương hầu sự nghiệp, đô như nhất cục kỳ bình”.1
Tống Bi Phong cùng nhóm vệ sĩ tùy thân quen thuộc của Tạ An đồng thời dừng bước, mỗi lần Tạ An tới tòa Vũ Bình đài nổi tiếng nhất trong Tần Hoài lâu này đều do dự cảm thán trước đôi liễn treo tại môn khẩu này.
Trong đám duy chỉ có Tống Bi Phong hiểu được nỗi niềm của Tạ An. Hắn theo Tạ An từ khi ông còn ẩn cư ở Đông Sơn, hiểu rõ tâm tình ông biến đổi ra sao, biết rõ thâm tâm ông không muốn xuất sơn mà chỉ muốn được vui hưởng lạc thú tiêu dao sơn thủy. Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ở Đông sơn, tâm tư điềm tĩnh, cao nhã, nhàn hạ so với hiện thời tại triều đình lừa gạt lẫn nhau, mỗi ngày đều phải minh tranh ám đấu ngươi sống ta chết, thật quả chẳng còn gì để mà nói! Tạ An thấy đôi liễn này đương nhiên phát sinh cảm xúc.
Tống Bi Phong năm nay bốn mươi lăm tuổi, là đệ nhất cao thủ trong các gia tướng Tạ phủ, kiếm pháp không hề kém sút so với các Cửu phẩm cao thủ, chỉ vì xuất thân hàn môn mới không được liệt danh trên bảng, là một nhân tài đủ sức gào mưa thét gió thiên hạ, chỉ vì Tạ An có đại ân với gia tộc của hắn, cũng vì ngưỡng mộ nhân cách mà cam lòng trở thành cao thủ hộ vệ cho ông.
Nhiều năm qua, các phe phái cử thích khách tới hành thích Tạ An, tối hậu đều không qua được cửa quan của hắn, ba chữ Tống Bi Phong trong võ lâm Kiến Khang xác thực rất có cân lượng, không kẻ nào dám không kêu anh hùng hảo hán. Tống Bi Phong suốt đời chuyên chí kiếm đạo, tới giờ vẫn còn độc thân, sinh hoạt giản dị khắc khổ, rất được Tạ An coi trọng, xem như bằng hữu.
Quả nhiên Tạ An muốn đi lại dừng, ngưng thần ngắm đôi câu đối, phất tay áo than: “ Thu phong xuy phi nhứ, linh lạc tòng thử thủy.
Phồn hoa hữu tiều tụy, đường thượng sanh kinh kỷ.
Tưởng đương niên Tần Hoàng Hán Võ, hoàng đồ bá nghiệp kim hà tại?”.
(Tạm dịch: sợi tơ bông bay theo gió thu, bắt đầu kiếp lưu lạc từ đây. Cảnh phồn hoa rồi cũng thành hoang tàn, cỏ dại mọc trong cung điện. Nhớ Tần Hoàng Hán Vũ năm xưa, hoàng đồ bá nghiệp nay ở đâu?)
Tống Bi Phong hạ giọng nói: “Đại nhân đêm nay trùng trùng tâm sự, phải chăng vì thắng bại của cuộc chiến chưa tính được?”.
Tạ An lui lại một bước, đưa tay đặt lên bờ vai rộng mạnh mẽ của Tống Bi Phong, trên mặt lộ ra vẻ mệt mỏi chưa từng thấy, cất giọng khàn đục nói riêng vào tai hắn: “Vừa rồi cưỡi thuyền tới đây, ngắm nhìn cảnh đèn lửa huy hoàng phồn hoa hai bên bờ, tự dưng cảm thấy vô cùng cô độc, Bi Phong! Ta già rồi chăng?”.
Một ý nghĩ bất ổn lướt nhanh qua đầu Tống Bi Phong, hắn trầm giọng nói: “Đại nhân vĩnh viễn không già”.
Tạ An cười ha hả, gật đầu nói: “Trừ phi đúng là có đan dược cải lão hoàn đồng, bằng không ai mà không già?”.
Chợt có tiếng đàn sầm sập từ lầu cao truyền xuống, nhanh chậm nặng nhẹ như tới như lui, khi như từ ngàn dặm xa xôi vọng tới, khi như y phục lất phất trong gió nhẹ, biến ảo phong phú, như tiếng sóng xô trên dòng Tần Hoài đưa tới.
Tạ An yên lặng nghe một lát, gật đầu cười nụ nói: “Nữ nhi ngoan ngoãn của ta cầm kỹ đã đến mức tâm thủ như nhất rồi, giống như Triệu Tử Long trong đám thiên quân vạn mã khắc địch dễ như lấy đồ trong túi, tùy ý mà làm. Nếu Tần Hoài không có Kỷ Thiên Thiên, giống như đêm tối thiếu vầng trăng sáng, không còn cảnh sắc thiên hạ. Có ý nghĩa! Có ý nghĩa!”.
Nói xong bước lên trước, trèo lên lầu.
o0o
Cổng thành mở rộng, Hoàn Huyền một mình cưỡi ngựa phi lên trước, năm trăm tinh kỵ ầm ầm theo sau, chuyển sang quan đạo dẫn tới Giang Lăng.
Một khi đã quyết tàn nhẫn, dã tâm như lang sói của Hoàn Huyền liền như thác núi đổ xuống, đã phát ra là không thể thu lại, dù nửa khắc thời gian cũng không thể chờ được, lập tức suốt đêm chạy tới Giang Lăng.
Từ nhỏ tới giờ, người hắn sùng bái nhất là phụ thân, lại càng hận vì chuyện ông ta mười phần được chín lại bỏ dở, không kịp nắm lấy cơ nghiệp từ trong tay họ Tư Mã.
Hoàn Ôn cao lớn uy vũ, văn võ toàn tài, phong tư hùng vĩ, đảm lược phi phàm, trước làm thứ sử Từ Châu, kế đó được phong làm An Tây tướng quân, Kinh Châu thứ sử, coi việc quân sự Kinh, Lương và Tứ Xuyên, lập tức đem theo một vạn quân xuất phát từ Giang Lăng, ngược dòng mà tiến, qua Tam Hiệp, thẳng tiến tới Thành Đô, lấy nhược thắng cường, năm đó đại phá quân Thục Hán, bình định đất Thục. Trận này khiến Hoàn Ôn vang danh thiên hạ, liền quyết thừa thế tiến quân bắc phạt.
Tháng hai năm thứ mười niên hiệu Vĩnh Hòa, Hoàn Ôn mang năm vạn quân xuất phát từ Giang Lăng, trực chỉ Quan Trung thảo phạt lực lượng mạnh nhất đương thời của Tần chủ Phù Kiện, chính là thúc phụ của Phù Kiên hiện nay. Người này tự mình phát triển thế lực, kiến lập Đại Tần, tự xưng là Thiên vương Đại Thiền Vu.
Uy thế của Hoàn Ôn quả bất khả đương cự, một mạch quá quan chém tướng, công chiếm Thượng Lạc, trực đáo Thanh Nê, đại phá quân Tần tới nghênh chiến, tiến tới đóng quân tại Bá Thượng. Phù Kiện bị bức bách phải lui về Trường An dựa vào thành cao hào sâu cố thủ.
Khi đó Hoàn Ôn bị Tấn thất cố ý gây trở ngại, không cấp đủ lương thảo, không thể không ban sư kéo về Tương Dương, công cuộc bắc phạt vĩ đại vì vậy đành phế bỏ. Sau đó hai lần nữa kéo quân bắc phạt nhưng không làm được chuyện gì đành kéo về.
Năm thứ mười hai niên hiệu Vĩnh Hòa, Hoàn Ôn do công lao được phong làm thị trung, đại tư mã, đô đốc quân sự cả trong lẫn ngoài, một mình coi việc triều chính, phế Tấn đế Tư Mã Dịch, lập Tư Mã Dục làm vua.
Niên hiệu Trữ Khang năm đầu tiên, Hoàn Ôn dâng sớ xin được gia lễ “cửu tích”. Đây là vinh hiển mà quyền thần các triều trước từng được hưởng. Nhờ Tạ An, Vương Thản Chi tận lực trì hoãn, không lâu sau Hoàn Ôn vì bệnh mà chết, chuyện này liền bị bỏ mặc đấy. Sau khi Hoàn Ôn chết, dư thế vẫn còn, Hoàn gia vẫn hưng thịnh quý hiển vô luân, nắm giữ binh quyền ở Kinh Châu.
o0o
Trên Vũ Bình đài, Tạ An đứng tựa vào song cửa, mục quang hướng xuống dòng Tần Hoài chảy xuôi dưới chân lầu, hai bên bờ đèn lửa huy hoàng hắt lên những ngọn sóng lấp lánh.
Tiếng đàn Kỷ Thiên Thiên từ phía sau truyền lại, mang tới cảm giác dịu dàng chưa từng có, phảng phất như từ trong đám sương mù bao phủ dày đặc Tần Hoài, nhìn thấy quầng trăng vàng óng, vừa nhẹ nhàng thanh thản, lại như ngậm cười rơi lệ, Tạ An vốn tâm sự trùng trùng, Kỷ Thiên Thiên sao khác được.
Tiếng đàn cuồn cuộn xuyên thấu hư không thanh khiết đầy ắp thâm tình, thấp thoáng lãng đãng trôi xa, ung dung miêu tả vầng trăng sáng trong trời đêm, vằng vặc chiếu xuống hai bên bờ Tần Hoài phồn hoa mà tiều tụy.
Tạ An mở rộng cõi lòng, để mặc cho tiếng đàn ôn nhu của vị tuyệt thế mỹ nữ này tiến nhập vào nơi sâu thẳm trong trái tim, tâm tư nổi lên như triều dâng, tơ tình thật là khó dứt.
Còn nhớ sau khi Đông Sơn khởi phục, có người chê ông “ xử tắc vi viễn chí, xuất tắc vi tiểu thảo” (tạm dịch: ở nhà mang chí cao xa, xuất thế lại như ngọn cỏ), câu phúng dụ này có xuất xứ từ một loại dược thảo, có phần thân ngầm dưới đất gọi là “viễn chí”, phần lộ ra ngoài gọi là “tiểu thảo”. Dùng lời này để ám chỉ Tạ An khi ẩn cư ôm chí lớn, khi ra làm quan cũng là hạng tầm thường như tiểu thảo, nhưng mà làm được gì chứ? Câu chuyện này ông chỉ coi như trò đùa, không để vào lòng mảy may. Không biết làm sao đêm nay lại nhớ đến nó, chẳng lẽ vì thời khắc để chứng minh ông là “tiểu thảo” hay là “viễn chí” đã đến rồi?
Bề ngoài tuy nói mạnh cuộc chiến này không cần quan tâm, sự thực là trong lòng ông ẩn chứa một trái tim nặng trĩu, chiến sự tuy do Tạ Thạch, Tạ Huyền phụ trách, ông vẫn là người có trách nhiệm tối cao và tối hậu đối với cuộc chiến này, vì chuyện này ông cần phải tiếp tục thi hành sách lược lấy hòa bình để trấn trị, sắp xếp thực hiện kế hoạch đã tính sẵn, tựa hồ mọi cái đều nằm trong dự liệu, dùng điều này cảm nhiễm Tạ Huyền, Tạ Thạch và cả quân dân triều đình nhà Tấn ở Kiến Khang thành. Dụng tâm của ông chỉ có vị nghĩa nữ hồng nhan tri kỷ Kỷ Thiên Thiên đang ngồi tấu đàn kia mới có thể minh bạch, sở dĩ vậy nên đêm nay tiếng đàn của nàng mới lộ xuất tình yêu thương chưa từng có trong dĩ vãng, tác động sâu sắc đến ông.
“Tranh, tranh, tranh, tranh!”.
Cầm âm chợt biến đổi, biến thành lực đạo vạn quân, trầm hùng bi tráng, như thiên quân vạn mã trùng điệp chốn sa trường, trong ầm vang tiếng trống trận tiến công, Kỷ Thiên Thiên ca:
“Biên thành đa cảnh cấp, lỗ kỵ sổ thiên dị.
Vũ hịch tòng bắc lai, lệ mã đăng thành đê.
Trường khu đạo Hung Nô, tả cố lăng Tiên Ti.
Khí thân phong nhận đoan, tính mệnh an khả hoài?
Phụ mẫu thả bất cố, hà ngôn tử dữ thê.
Danh biên tráng sĩ tịch, bất đắc trung cố tư.
Quyên khu phó quốc nạn, thị tử hốt như quy”.
(Tạm dịch: Biên thành nhiều tin báo khẩn cấp, kỵ binh của giặc đang ầm ầm di chuyển. Thư khẩn từ phương bắc đưa về, lập tức chuẩn bị ngựa sẵn sàng. Trước đạp nát Hung Nô, sau đuổi đánh Tiên Ti. Xả thân đầu mũi giáo, tính mệnh đâu mong toàn. Phụ mẫu còn không thể chiếu cố, nói chi đến thê nhi. Mang danh thân tráng sĩ, nào nghĩ chuyện riêng tư. Hy sinh vì quốc nạn, xem chết tựa như về ).
Sau mấy khúc huyền âm rung động lòng người, tiếng đàn bỗng ngừng lại, nhưng dư âm vẫn quanh quẩn không dứt.
Lời bài ca nói trên vốn là tác phẩm của thi sĩ nổi danh thời Tam quốc Tào Thực “Bạch mã thiên”, miêu tả một vị du hiệp thiếu niên vũ công cao cường, tình hoài tráng nhiệt, lời ca mang đầy phong vận Dịch thủy bi ca, sung mãn hào tình tráng sĩ một đi không trở lại, qua giọng ca ngọt ngào của Kỷ Thiên Thiên uyển chuyển phóng túng diễn dịch hết sức trong sáng, khiến nơi nơi chứa chan tình cảm khích lệ, buồn mà không thương. Một cảnh tượng tráng liệt được nàng diễn tả lưu loát bằng phương thức độc đáo, bề ngoài cương quyết không nhượng bộ, lại mang theo tình thương yêu coi nhẹ nhàng mà kỳ thực hết sức sâu sắc.
Tạ An động dung quay người, vụt nói: “Hát hay lắm”.
Bên trong sảnh đường bố trí cao nhã, Kỷ Thiên Thiên ngồi tĩnh tọa một bên, bàn tay ngọc thanh mảnh đẹp đẽ vẫn đặt trên cây đàn, cặp mắt sáng nhu mì mang chút vẻ hoang dã giống như những viên bảo thạch từ đại dương sâu thẳm chiếu ra những tia sáng long lanh đang nhìn ông, cầm khúc đắm đuối nức nở vừa rồi còn chưa lắng hẳn, dịu dàng nói: “Lão nhân gia, người khóc? Tại sao người phải khóc?”.
Mỗi lần Tạ An nhìn thấy vị tài nữ được coi là đệ nhất Tần Hoài này, liền nhớ lại cảm giác kinh ngạc và hâm mộ lần đầu gặp nàng, hoàn toàn không liên quan đến tư dục nam nữ, mà lại giống như niềm hân hoan khi thưởng lãm danh sơn thắng cảnh, ngoại trừ thiên sinh lệ chất cùng tư dung tú mỹ không gì sánh bằng, ở Kỷ Thiên Thiên tính cách khí chất linh xảo hoạt bát càng làm xiêu lòng người. Nàng tuyệt không phải loại nữ tử
cần người khác thương xót, cần có nam nhân đùm bọc thương yêu, sự thực so với đại đa số tu mi nam tử còn kiên cường hơn, trời sanh tính cách quật cường vĩnh viễn không chịu cúi đầu, vĩnh viễn không thỏa hiệp thay lòng. Cầm kỹ của nàng cố nhiên danh lừng Giang Tả, kiếm thuật cũng đại đại hữu danh. Những kẻ quyền quý ở đô thành Kiến Khang muốn cùng nàng tương kiến, mặt nào đấy chỉ thấy được tâm tình tiểu thư của nàng.
Mỹ nữ không biết sợ trời sợ đất này, hoa dung tú lệ vô luân, mái tóc đen đẹp đẽ rủ xuống để lộ cặp mắt to sâu thẳm nhu mì, da trắng như tuyết, nhất cử nhất động đều biểu lộ muôn hình ngàn vẻ, có thể là nhiệt tình hăng hái, lại cũng có thể lạnh như băng sương. Tạ An mơ hồ cảm giác nàng hoàn toàn không như bề ngoài, cam lòng làm một danh kỹ đệ nhất Tần Hoài bán nghệ không bán thân để sinh nhai, mà vì mong chờ sự xuất hiện một nhân vật hay sự kiện kinh tâm động phách nào đó.
Sảnh đường rộng rãi sang trọng chỉ có hai người họ để hết tâm trí nghe tiếng sóng vỗ êm êm hai bên bờ Tần Hoài.
Vẻ đẹp như chim sa cá lặn mà chính nàng không để ý, cùng với sống mũi thẳng tắp rất quý tộc của Kỷ Thiên Thiên khiến cho bất kỳ nam tử nào cũng tự thẹn hình dung xấu xí, giống như cặp môi thơm đầy đặn hồng thắm có khả năng câu hồn nhiếp phách kẻ ngưỡng mộ, những bước chân nhàn nhã hữu lực, thần thái cao ngạo mà tha thướt yêu kiều lại khiến người ta cảm giác nàng tới lui tự do tùy tiện, chẳng hề thuộc về bất kỳ một cá nhân nào.
Y phục của nàng gồm áo vạt bên phải, tay áo rộng, quần dài màu hoàng yến, lưng thắt một dải bạch đới, tóc búi cao, không chút son phấn và đồ trang sức, thế nhưng hình thể tươi đẹp của Kỷ Thiên Thiên lại khiến nàng có thể ngạo thị quần phương, vượt hẳn tục nhân.
Tạ An tới gần bên nàng, chợt ngồi xuống, không trả lời thẳng vào vấn đề mà nói: ”Trị thế chi âm an dĩ nhạc, kỳ chính hòa; loạn thế tri âm oán dĩ nộ, kỳ chính quai; vong quốc chi âm ai dĩ tứ, kỳ dân khốn” (tạm dịch: âm nhạc trị thế an lạc, mong chính sự hòa, âm nhạc loạn thế thì giận dữ, cầu chính sự đảo ngược, âm nhạc vong quốc buồn nhớ, làm dân khốn cùng), những điều này chỉ là thiên kiến của lũ hủ nho. Nghĩa phụ lại cho rằng nhạc khúc chỉ cần xuất phát từ tình cảm đã thành giai phẩm, giống như điệu đàn tiếng hát của Thiên Thiên, căn bản không phải để ai bình phẩm, mà thuộc về Tần Hoài đêm trăng sáng, lời ca tiếng đàn gợi nên tình cảm mênh mang, trong sóng nước ôn nhu âm thầm và mạnh mẽ vỗ vào đôi bờ phồn hoa, dư âm còn phảng phất như chiếu lên bờ sông, ánh xạ trên từng ngọn sóng”.
Kỷ Thiên Thiên đứng dậy, rót rượu vào ly cho Tạ An, một nét cười tựa như ánh dương quang thấu qua mây đen xuất hiện, vui vẻ nói: “Nghĩa phụ nói thật là hay, để chúng ta quên đi mọi phiền não trên thế gian này, Thiên Thiên kính lão nhân gia người một chén”.
Hai người chạm ly đối ẩm.
Tạ An cười ha ha, đặt ly xuống, hân hoan nói: “Ta thường hoài nghi, thế gian chẳng lẽ có nhân vật khiến nhi nữ ngoan của ta xiêu lòng sao?”.
Kỷ Thiên Thiên bất ngờ mở to mắt, kiều mị tới mức khiến con tim ông nảy lên, nhẹ nhàng nói: “Chí ít cũng có nghĩa phụ khiến nữ nhi khuynh tâm mà. Cần gì bắt Thiên Thiên tìm kẻ nào cao không với tới phải không?”.
Tạ An tức cười nói: “Nếu thời gian quay trở lại, nghĩa phụ vẫn còn trẻ tuổi tuấn tú, nhất định không chịu bỏ qua mà bái dưới quần hồng của Thiên Thiên”.
Đi sau thống khổ là tư vị của khoái lạc. Hầu như trong đám vương tôn công tử phát điên phát rồ vì Thiên Thiên trong thành Kiến Khang, cho đến hiện giờ vẫn chưa có kẻ nào lọt vào mắt xanh của nàng. Nghe đâu ngày hôm qua bọn Tư Mã Nguyên Hiển vì làm náo loạn gây phiền phức cho Thiên Thiên, kết quả là không còn chút mặt mũi nào bỏ đi, trở thành chuyện đàm tiếu ở Kiến Khang.
Tư Mã Nguyên Hiển là trưởng tử của Tư Mã Đạo Tử, cậy vào kiếm thuật được chân truyền từ Tư Mã Đạo Tử, gia thế hiển hách, kéo bè kết đảng hoành hành bá đạo ở Kiến Khang, người người đều nể sợ.
Kỷ Thiên Thiên nét mặt lộ vẻ coi thường, như không có chuyện gì nói: “Đa tạ nghĩa phụ quan tâm Thiên Thiên, xin người đừng nhắc đến tên gã để khỏi làm mất hứng đêm nay”.
Tạ An cười nhẹ: “Ngày mai ta sẽ sai người tới bảo Tư Mã Đạo Tử, nói hắn phải quản giáo nhi tử, không được quấy rầy con gái ngoan của Tạ An ta”.
Kỷ Thiên Thiên cúi đầu không nói gì.
Tạ An ngạc nhiên nói: “Thiên Thiên còn có tâm sự gì sao?”.
Kỷ Thiên Thiên ngẩng đầu nhìn lên, trong mắt hiện vẻ u buồn, nhẹ nhàng nói: “Thiên Thiên đang lo lắng rồi đây! Nghĩa phụ xưa nay chưa từng bao giờ trực tiếp xen vào công chuyện của Thiên Thiên, lần này khiến nữ nhi cảm thấy chuyện không phải tầm thường”.
Tạ An cười nhẹ: “Người ta ai cũng muốn có sự thay đổi, sẽ tùy thời thế mà thay đổi. Nhiều năm nay, nghĩa phụ luôn theo đuổi hoàng lão chi thuật, thanh tĩnh chí hư, giữ
mình khiêm cung, không ngờ hiện tại lại thành ra tập trung quân chính đại quyền vào tay, quyền lực là thứ vô cùng nguy hiểm, thịnh quá rồi sẽ đến suy, không có lấy một ngày yên ổn, vì vậy mới nhân cơ hội hiện tại còn chút năng lực vì Thiên Thiên làm bớt đi chuyện nhọc lòng”.
Kỷ Thiên Thiên tấm thân mảnh dẻ khẽ run rẩy, trầm ngâm khá lâu, thổn thức nói: “Nghĩa phụ chẳng lẽ muốn nhắc nhở nữ nhi sao?”.
Tạ An gật đầu nói: “Trận này nếu bại thì chẳng nói làm gì, nhược may mắn mà thắng, Kiến Khang sẽ biến thành nơi không ở lâu được, với ta và con đều như thế. Ngày trước nghĩa phụ rời Đông Sơn trở lại triều đình, đành từ giã đời sống tiêu dao nơi sơn dã, cũng chỉ vì không có chọn lựa nào khác. Hiện tại vì quyền vị tối cao mà nhụt chí muốn lui, nhưng cũng không thể như ý, là vì vinh nhục của gia tộc”.
Kỷ Thiên Thiên lộ vẻ sùng bái trong cặp mắt đẹp, dịu dàng nói: “Nghĩa phụ là người phi thường, tất có trí tuệ phi thường, Thiên Thiên đã thụ giáo rồi! Nhất định không dám sơ thất”.
Tạ An khẽ than: “Bất luận kẻ nào đương chính, cũng không dám bắt bí Tạ gia chúng ta, một ngày Tạ Huyền còn tại vị, kẻ nào to gan bằng trời trước khi đối phó Tạ gia cũng phải suy đi nghĩ lại kỹ càng. Ta chỉ duy nhất không an tâm về cô con gái ngoan ngoãn này thôi”.
Kỷ Thiên Thiên hai mắt hồng lên, cúi đầu nói: “Nghĩa phụ không cần lo lắng, ngày mà lão nhân gia người ly khai Kiến An, cũng là lúc nữ nhi thượng lộ. Không có nghĩa phụ, Kiến Khang chẳng còn gì khiến nữ nhi lưu luyến nữa”.
Ngữ điệu trong giọng nói của Tạ An, phảng phất có tư vị của lời di ngôn, khiến con tim nàng run lên, khơi lên một cảm giác hết sức bất tường.
Sau khi Đại Tấn nam thiên, Vương Đạo và Tạ An là hai vị lưỡng triều hiền tướng, cùng nhau vì Đại Tấn kiến lập cục diện ổn định, trong thời gian phát sinh loạn Vương Đôn và loạn Tô Tuấn, từng mang quân vây công Kiến Khang, gây ra nạn lớn, tuy rằng đã dẹp được loạn, nhưng Tấn thất nguyên khí thương tổn nặng nề, toàn là do Tạ An rời nơi ẩn dật, làm chủ triều chính, làm cho Tấn triều đạt được cục diện trên dưới một lòng đoàn kết chưa từng có, tình huống phát triển tốt đẹp này lại vì đại quân Phù Kiên kéo đến, Tấn thất đối với quyền thần đại tướng mang lòng nghi kỵ mà tan vỡ hoàn toàn. Tạ An là người nhìn xa trông rộng hiếm có trong gần trăm năm nay, mặc dù dự kiến Tần quân Phù Kiên nam lai, cũng hiểu rõ hình thế biến hóa sau chiến cục thắng hoặc bại, sớm đã có dự liệu, không hề kỳ vọng, cũng không mất hy vọng, chỉ cứ người thực việc thực nói điều đáng nói.
Kỷ Thiên Thiên đối với tâm sự của ông còn hiểu rõ hơn Tạ Huyền hay Tạ Thạch, cũng cảm thấy nỗi bi ai và sự bất lực của ông đối với Đại Tấn.
Nàng hạ giọng nói: “Nghĩa phụ với việc Đông Sơn tái phục phải chăng có điều hối hận?”.
Tạ An mỉm cười: “Nhiều năm nay, mới có người dám hỏi ta câu này. Ta hối hận chăng?”.
Song mục lộ vẻ xa xôi, thở dài, ngưng lại trong im lặng.
Đúng như Tạ An đã nói, ông căn bản không được chọn lựa, năm đó mấy người anh em họ của ông Tạ Thượng và Tạ Dịch kế tiếp nhau qua đời, thân đệ Tạ Mặc binh bại bị phế thành thứ dân, Tạ Thạch quyền vị không cao, nếu lấy tài năng của ông ta mà xét, sợ cũng khó làm nên chuyện lớn, nếu ông không chịu đại biểu cho Tạ gia ra làm quan, Tạ gia sẽ thiếu người kế tiếp, trở thành suy môn, vì toàn thể Tạ gia vinh nhục thăng trầm, ông không thể đứng ngoài.
Kỷ Thiên Thiên nhẹ nhàng: “Để nữ nhi lại tấu một khúc cho nghĩa phụ giải sầu được không?”.
Tạ An đang muốn kêu “hảo”, còn muốn uống thêm mấy ly, thanh âm Tống Bi Phong đã từ ngoài cửa vọng vào: “Bẩm đại nhân, Tư Mã Nguyên Hiển cầu kiến Thiên Thiên tiểu thư”.
Thiên Thiên nghe vậy, lông mày nhăn tít. Tạ An không vui nói: “Hắn chẳng lẽ không biết ta đang ở đây?”.
Tống Bi Phong nói: “Thẩm lão bản đã nói rất rõ ràng, Nguyên Hiển công tử vẫn kiên trì đòi mang một phần lễ vật dâng lên Thiên Thiên tiểu thư, nói là để bồi tội”.
Tạ An lạnh lùng nói: “Nếu hắn không chịu mang lễ về, hãy mời đám người mang lễ của hắn bò ra ngoài. Ngươi hãy nhớ một điều, nhắc lại thật rõ không được để thiếu một lời nào ta đã nói, ngoài ra tất cả do ngươi lo liệu, chỉ cần đừng đả thương tính mệnh hắn là được”.
Tống Bi Phong không nói một lời, lãnh mệnh đi ra.
Tống Bi Phong hạ giọng nói: “Đại nhân đêm nay trùng trùng tâm sự, phải chăng vì thắng bại của cuộc chiến chưa tính được?”.
Chú thích:
1- Tạm dịch: giang sơn gấm vóc đọng lại trong cảnh mưa bụi trên mặt hồ yên tĩnh, vương hầu sự nghiệp thảy đều giống như một cuộc cờ.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #7  
Old 12-20-2012, 02:41 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 13, 14

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 13

Thiếu mất một chút


Yến Phi và Lưu Dụ từ trong đám loạn thạch trên một đỉnh núi ló đầu ra nhìn lên phía bắc, cả hai đều ngơ ngác như gà gỗ, hầu như không dám tin vào mắt mình.
Biên Hoang tập biến mất không thấy đâu, chắn ngang tầm mắt hai người là một dãy mộc trại cao đến ba trượng, kéo dài sang hai bên tả hữu, một bên đến tận bờ tây Dĩnh Thủy.
Bên ngoài mộc trại là một khoảnh đất trống rộng tới nửa dặm, cây cối đều bị chặt trụi, có thể là để lấy gỗ dựng trại, đồng thời thi hành biện pháp phòng vệ, phòng địch nhân tiếp cận mà không biết.
Bên ngoài mộc trại kiên cố cứ cách nhau ba trượng thiết lập một tòa vọng lâu tiễn, bên trên đều có Tần binh trấn giữ, trước mắt có thể nhìn thấy hàng trăm tòa vọng lâu như vậy.
Hai tòa vọng lâu lớn nhất giáp với Dĩnh Thủy có thể gọi là mộc bảo, lưỡng bảo có thể nâng hạ đại mộc ngăn sông. Bờ đông Dĩnh Thủy cũng có mộc trại hình thức giống như thế.
Trên hàng rào bên ngoài mộc trại treo đầy phong đăng chiếu sáng như ban ngày, chỉ có kẻ nào muốn chết mới dám vượt qua rào gỗ trèo vào. Gần Dĩnh Thủy mở ra một đại môn đủ cho mười kỵ mã đồng hành, lính canh gần trăm người, trang bị đầy đủ.
Lúc này, một đoàn kỵ binh từ đại môn mở rộng phóng ra, theo Dĩnh Thủy tiến về phía nam, tựa hồ đang tiến hành nhiệm vụ tuần đêm. Giao thông thủy lộ và đường quan đạo gần bờ sông đều bị cắt đứt hoàn toàn.
Hai gã nhìn đến khắp người nổi gai ốc, một lúc lâu không nghĩ được biện pháp nào thỏa đáng. Ý định lúc đầu tiềm nhập hoàn toàn phá sản.
Yến Phi cười khổ: “Ta đã ước hẹn cùng Thác Bạt Khuê lưu lại ám ký tại gốc cây bách kia, giờ thì đã biến thành cọc lều rồi còn gì”.
Lưu Dụ cũng khổ sở nói: “Quả là uy thế của đại quân trăm vạn, đổi lại là chúng ta, cho dù toàn quân tham gia ngày đêm nỗ lực không nghỉ, nếu không đủ mười ngày đừng mong hoàn thành mộc trại phòng tuyến bề ngang hàng chục dặm thế này”.Yến Phi một
ý nghĩ loé lên trong đầu, hỏi: “Ta rời khỏi Biên hoang tập chỉ chừng ba bốn ngày, lúc đó tiên phong của Tần quân mới tới, với trăm vạn hùng sư, làm kiểu gì mà trong thời gian ngắn ngủi có thể hành quân tới hết được?”.
Lưu Dụ vỗ trán gật đầu nói: “Nói như vậy cần ít nhất năm ngày đến hai mươi ngày mới hoàn thành việc chuyên chở lương thảo xe cộ mọi thứ, khả năng hai ba chục vạn người tới bên trong tập cũng mất tương đương thời gian tương đương như vậy. Nếu dùng toàn bộ người tham gia kiến thiết công sự mới có thể hoàn thành quy mô này trong thời gian ngắn như vậy. Nếu trong tay ta có vài vạn quân mã, sẽ dùng hỏa tiễn đốt cháy mộc trại, thừa cơ đối phương mệt mỏi đột kích, bảo đảm sẽ có một trường chiến thắng ngoạn mục lắm”.
Yến Phi trầm giọng nói: “Phù Dung vì sao mà phải làm thế?”.
Lưu Dụ ngửa mặt nhìn trời, song mục thần quang lấp loáng, nghĩ kỹ rồi nói: “Nếu tại các điểm cao bên ngoài mộc trại dựng thêm một số tiểu trại, có thể tăng gấp bội năng lực phòng thủ của Biên Hoang tập, trở nên vững như thành đồng, tiến có thể công, thối có thể thủ, khiến Biên Hoang tập trở thành cứ điểm trọng yếu của Biên Hoang, bảo đảm đường vận lương an toàn. Giả như tiền tuyến thất lợi, lập tức có thể lui về cố thủ nơi này. Nếu quân Tần đoạt được Thọ Dương, hai bên hỗ trợ lẫn nhau, thế mới là chiến lược cao minh”.
Yến Phi đã minh bạch, bách vạn đại quân giống như một con quái vật khổng lồ tự nó cũng vô pháp kiểm soát chân tay mình, nếu như tại trung tâm Biên Hoang thiết lập cứ điểm, vừa làm nơi tồn trữ lương thảo xe cộ, vừa có thể tùy tình hình tác chiến ở tiền tuyến mà tiếp viện hay yểm trợ.
Lưu Dụ chợt hoàn toàn tin tưởng thốt: “Nếu ta đoán không lầm, người Tần chỉ kiến lập mộc trại phòng vệ ở phía nam cùng con đập gỗ ngăn sông, phía bên còn lại vẫn rất rậm rạp, chỉ cần chúng ta vòng qua tiền trại, là có thể tiềm nhập vào phía bên kia”.
Yến Phi quay phắt lại nhìn ra phía sau, Lưu Dụ cũng bật dậy cùng gã nhìn về đằng sau, trên sườn núi dốc về phía nam, dưới ánh trăng chỉ thấy cành lá rung rinh, gió thổi phần phật, không thấy gì lạ.Yến Phi tiếp ánh mắt dò hỏi của Lưu Dụ nói: “Hoặc giả ta nghe lầm, lại cho rằng có người tới tập kích”.
Lưu Dụ hít sâu một hơi: “Không chừng là Lư Tuần hay An Ngọc Tình đã tới”.
Yến Phi quan sát bầu trời, không thấy Thiên nhãn của Khất Phục Quốc Nhân, cũng cảm thấy nhẹ nhõm hơn, nói: “Sắp sáng rồi, chúng ta cũng chẳng có cách nào hơn. Huynh đệ, đi thôi!”.
Tư Mã Nguyên Hiển kế thừa hình thể cao lớn uy võ của Tư Mã Đạo Tử, diện mạo anh tuấn, khoảng hai mươi tuổi, chánh thị một trang niên thiếu đầy hứa hẹn, kèm theo nhất thân y phục võ sĩ cắt may tinh xảo, đáng là người trong mộng của các thiếu nữ, đáng tiếc mục quang âm u, thần tình kiêu ngạo, tựa hồ người thiên hạ đều thua kém mình, chỉ đáng đặt dưới gót chân, khiến cho khó có ai có hảo cảm. Bất quá hắn chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, tuổi còn trẻ đã đầy bụng xấu xa, giống như cha hắn sung mãn dã tâm, cứ dứt khoát phải giày xéo kẻ khác, lại dựa vào một lũ mất dạy gọi là “Kiến Khang thất công tử”, hắn chính là long đầu của bọn này, tụ bè kết đảng, hoành hành khắp vùng Giang Tả.
Lúc này hắn đang ngồi trong chính sảnh của Tần Hoài lâu, phía sau có bảy tám gã thân tùy, nét mặt trơ khấc, nghe Thẩm lão bản của Tần Hoài lâu đang xuôi tay cung thân tận lời giải thích, vẫn không hề động dung.
Tân khách xung quanh thấy tình thế bất diệu, nếu chẳng lập tức thoái lui, cũng vội vàng len lén đi qua, tìm đến các nhã viện sương phòng khác.
Tống Bi Phong bước vào chính sảnh, Tư Mã Nguyên Hiển cùng lũ thân tùy lập tức hướng mục quang tới, thần sắc bất thiện.
Tống Bi Phong vẻ mặt bình tĩnh, đi thẳng tới trước mặt Tư Mã Nguyên Hiển, thi lễ xong lạnh lùng nói: “An công sai Bi Phong đại diện Thiên Thiên tiểu thư tới nhận lễ vật của Nguyên Hiển công tử”.
Tư Mã Nguyên Hiển song mục loé lên sắc giận dữ, nhưng vẫn giữ thần thái bình tĩnh, nhíu mày nói: “Nguyên Hiển đương nhiên không dám quấy rầy An công, bất quá Nguyên Hiển mong được bồi tội trước mặt Thiên Thiên tiểu thư, hy vọng An công có thể tạo chút phương tiện, để Thiên Thiên tiểu thư ban ơn cho gặp”.
Tống Bi Phong bề ngoài không biểu hiện gì, nhưng trong lòng đột nhiên hết sức giận dữ, dù cho Tư Mã Đạo Tử tới gặp Tạ An, cũng không dám mạo phạm. Tư Mã Nguyên Hiển bất luận thân phận đia vị đều kém xa, lấy đâu ra tư cách nói chuyện cùng Tạ An, làm sao bỗng nhiên dám khoa trương đến thế, chẳng trách ngày thường Tạ An vốn thản nhiên đối với những chuyện thường nhật, lần này lại giận dữ như thế.
Tống Bi Phong nghĩ tới lời dặn dò của Tạ An, lập tức thần tình bất động, nói: “An công đã phân phó, nếu Nguyên Hiển công tử không nguyện ý mang lễ vật giao Bi Phong đưa lên Thiên Thiên tiểu thư, sẽ thỉnh các người cùng Nguyên Hiển công tử mang lễ bò ra khỏi Tần Hoài lâu”.
Tư Mã Nguyên Hiển lập tức biến sắc, không nghĩ Tạ An vốn luôn ôn hòa nho nhã lại không lưu chút dư địa nào cho hắn, còn chưa kịp phát tác, trong đám thân tùy phía sau đã có hai kẻ bạt kiếm nhảy ra, gào to: “Nô tài muốn chết!”. Vung kiếm nhằm đầu Tống Bi Phong chém tới, khiến cho Thẩm lão đứng bên hoảng sợ ngã ra đằng sau.
Bất luận Tư Mã Nguyên Hiển cậy thế cha ra làm sao, vẫn hiểu rõ không thể động võ với tùy tướng của Tạ An, đang muốn hét chúng ngừng tay, thì sự việc đã kết thúc.
Tống Bi Phong trường kiếm sau lưng rời khỏi vỏ nhanh như điện, ngay lập tức hàn khí dàn dụa, kiếm khí lạnh buốt giăng đầy trước mắt Tư Mã Nguyên Hiển, như thể hữu hình.
Bao gồm cả Tư Mã Nguyên Hiển, người nào người nấy đều cảm giác không thể cử động, hóa thành mục tiêu công kích của kiếm khí, kiếm pháp quả là kinh nhân.
Mọi người tuy từ lâu nghe danh Tống Bi Phong cùng kiếm pháp của hắn, nhưng chưa ai từng coi qua hắn xuất thủ, vì vậy cũng không hề để vào lòng, đến lúc này mới được lãnh giáo thủ đoạn của hắn.
Tiếng la thảm cất lên, hai kẻ công kích loạng choạng lui lại, hai thanh trường kiếm rơi loảng xoảng xuống đất, kiếm vẫn còn trong tay, chỉ có điều cả cánh tay đã chào tạm biệt chủ nhân, máu huyết phun ra thành vũng bao trùm cả hai cánh tay bị chặt đứt, thật khiến người thấy phải kinh hoàng.
“Tang”.
Tống Bi Phong tra kiếm vào vỏ, thần sắc thản nhiên như không có chuyện gì, thung dung nhìn vào khuôn mặt cắt không còn hạt máu của Tư Mã Nguyên Hiển, đột nhiên nói: “An công đã phân phó, dù cho Bi Phong có phải mất mạng, Bi Phong cũng sẽ tận lực vì người làm cho thỏa đáng”.
Tư Mã Nguyên Hiển thấy thủ hạ đang vội vã băng bó cho mấy kẻ bị thương, tuy hận không thể bạt kiếm chém kiếm thủ đáng sợ trước mặt nát như tương, nhưng hiểu rõ dù chơi trò quần khởi vây công, sợ cũng không ăn thua gì. Cho dù lão gia của hắn đích thân xuất mã, đơn đả độc đấu cũng không chắc đã thắng nổi. Lập tức đứng lên, căm hận hét to: “Chẳng cần gì hết, chúng ta đi!”. Sải bước đi ra, chợt quay lại chỉ vào mặt Tống Bi Phong nói: “Tống Bi Phong, hãy nhớ ta, món nợ này sẽ có ngày ta trả ngươi gấp bội!”.
Tống Bi Phong cười ha hả, cứ coi như không, xoay người đi mất, để lại Tư Mã Nguyên Hiển cùng thủ hạ căm tức đến xanh lè mặt mũi.
Đúng như Lưu Dụ dự liệu, ranh giới phía bắc Biên Hoang tập vẫn còn trong giai đoạn phạt cây, hàng rào gỗ phía tây mới chỉ hoàn thành chưa tới một nửa, nhưng nếu công trình hoàn thành, sẽ bao quát toàn bộ Biên Hoang tập trong một đại mộc trại, khoảng đất trống hai bờ Dĩnh Thủy cũng nằm trong phạm vi mộc trại, dòng sông sẽ xuyên qua mộc trại chảy về nam.
Tây nam Biên Hoang tập, bờ đông Dĩnh Thủy, lều trướng san sát, không ngừng có thuyền từ thượng du ghé qua, trên bến thuyền Biên Hoang tập có chừng trăm chiếc thuyền lớn nhỏ, khắp nơi treo đèn, chiếu lên Biên Hoang tập từ trong ra ngoài sáng như ban ngày.
Có tới hàng vạn hoang nhân và Tần binh đang miệt mài đốn cây chuyển gỗ, hoang nhân đều là bang chúng Hồ bang thuộc Biên Hoang tập trước đây, nếu chúng biết sẽ bị bắt buộc ngày đêm làm việc khổ sở như thế này, chỉ sợ đã học theo Hán nhân chuồn đi rồi, có điều bây giờ hối cũng muộn.
Hoang nhân thuộc các bang hội đương nhiên áo quần thường phục, Tần binh thì cũng cởi bỏ áo giáp, động thủ tác nghiệp, lại còn có kẻ mang lợi khí chặt cây, đây một đống, kia một đống, tình thế hỗn loạn, người người đều lộ vẻ mỏi mệt, cho dù ngay trước mặt có người đi qua, cũng chẳng có hơi sức và thời gian đâu mà để ý.
Lưu Dụ và Yến Phi phục trong một bụi cây trên sườn dốc quan sát tình thế. Khu vực phạt cây tuy hỗn loạn, nhưng hai bên đông, bắc tường rào của Biên hoang tập lại được canh phòng nghiêm ngặt, trên đầu tường cao đều có Tần quân đứng gác.
Hai bên bờ Dĩnh Thủy việc phòng vệ càng khẩn trương, chòi gác đặt khắp nơi. Lưu Dụ đau đầu nói: “Giá mà có một cơn mưa rào thì tốt biết bao”.
Yến Phi nói: “Phương pháp duy nhất là theo mặt bắc Dĩnh Thủy lặn qua, rồi theo đường cống ngầm Cao Ngạn đã nói tiến vào tập”.
Lưu Dụ nhíu mày nói: “Khu vực chòi canh bố trí dọc theo hai bờ sông dài tới hai dặm, chúng ta không thể bế khí lâu như thế, nếu có thể đi dưới đáy nước nửa dặm đã là phi thường rồi”.
Yến Phi hỏi: “Lưu huynh chẳng lẽ không tinh thông thủy tính sao?”.
Lưu Dụ đáp: “Bỏ qua chuyện công phu, Yến huynh phải chăng nghĩ đến việc dùng công phu hoán khí bằng ống trúc dưới nước, trong bao đeo sau lưng ta đã dự bị sẵn hai ống đồng, chỉ vì việc này phiêu lưu quá nên không dám nói ra”.
Yến Phi ngạc nhiên: “Vì sao lại có đến hai cái như thế?”.
Lưu Dụ nói:”Ta sinh tính cẩn thận, cái ống đồng này là dự bị cho Cao Ngạn, lại còn có hai bộ y phục của Tần binh, phương tiện dùng để thâm nhập địch doanh, tất cả đều được bao kín không sợ ngấm nước”.
Yến Phi nói: “Huynh không những cẩn thận, mà còn suy nghĩ chu toàn, chuẩn bị đầy đủ. Coi kìa! bắt đầu có người nào đấy vứt các thân cây trôi theo bờ sông, có lẽ dùng cho việc kiến trúc đài quan sát, nếu chúng ta thay họ phụ trách vận chuyển gỗ thì thế nào nhỉ? không chừng có thể bớt mạo hiểm, đến thẳng được cửa cống ngầm nọ”.
Trong tiếng cười khẽ, hai người chuồn nhanh tới khu đất có đám cây bị chặt phá.
o0o
Chỉ còn chừng nửa giờ nữa là trời sáng, Tạ Huyền mang Lưu Lao Chi cùng khoảng một trăm thân binh cưỡi ngựa phi nhanh trên đường quan đạo, bọn họ vừa gặp toán quân hộ tống Đại Yên ngọc tỷ, Tạ Huyền tự mình đã xem xét kỹ, rõ ràng là đồ thật, càng khẳng định ý nghĩa trọng đại của chuyến đi này. Trận chiến này đối với Tấn thất mà nói, ắt phải thắng chứ không được bại, đối với Tạ gia lại càng không thắng không được, bằng không cơ nghiệp khổ công gầy dựng bấy lâu của Tạ gia sẽ phút chốc tan tành.
Kể từ khi nhà Tấn khai quốc tới nay, Tạ gia tuy đời nào cũng có người tài, triều nào cũng có quan chức, nhưng so với một vài gia tộc lừng danh đương thời, lịch sử của họ Tạ không phải là lâu đời, một số gia tộc từ đời Hán đã sớm có công danh lẫy lừng, còn Tạ gia phải tới thời Tào Ngụy mới có người làm quan, chỉ là chủ quản đồn điền, trung lang tướng, không phải chức quan hiển hách gì, đến thời Tấn sơ, tằng tổ của Tạ Huyền mới đạt được danh vị “thạc nho”, thành quốc tử bác sĩ, vì gia tộc mà gây dựng địa vị. Tuy rằng danh khí Tạ gia bắt đầu khởi phát, nhưng cũng phải chờ đến đời Tạ Côn là tổ phụ Tạ Huyền, ông mặc dù không lập được công lao sự nghiệp to lớn với triều đình, nhưng là một nhà huyền học xuất chúng, danh tiếng của họ Tạ chính từ nơi ông mà bùng phát.
Gánh nặng trên vai Tạ Huyền chính là nếu không cẩn thận còn liên quan đến sự tồn tại hay diệt vong của nhà Tấn, đến vinh nhục của gia tộc, mà cả tới sự trồi sụt của Ô Y hào môn thuộc về Vương, Tạ lưỡng gia.
Câu nói của Tạ An “cuộc sống thi tửu phong lưu chỉ có một đi không trở lại” bất giác lại vang lên trong đầu Tạ Huyền.
o0o
Mây đen che kín vầng trăng sáng, Lưu Dụ và Yến Phi áo quần bẩn thỉu mặt mũi nhem nhuốc trà trộn trong đám người chuyển gỗ, hợp lực khiêng một thân gỗ to như cánh tay trơ trụi, dài tới hai trượng, tìm nơi ánh đèn lửa chiếu không tới, từ từ men theo bờ sông phía đông Dĩnh thủy bên cạnh bến sông Biên Hoang tập mà đi.
Hai người đang lúc khấp khởi vì thành công, bỗng nhiên sau một đống gỗ xuất hiện một bóng người, giơ tay ngăn lại nói: “Dừng bước”.
Hai gã cảm thấy hết sức không ổn, định thần nhìn kỹ, chỉ thấy một khuôn mặt trét đầy bùn đất, dưới vành mũ kéo xuống thấp lộ ra một cặp mắt to đẹp long lanh như nước hồ thu, chớp chớp yêu kiều ngắm nghía hai người, đầy vẻ đắc ý.
Dù đã cố hết sức trấn định, nhưng hai gã vẫn hồn phi phách tán, âm thầm kêu khẽ: “Hỏng bét!”.
Nếu chẳng phải An Ngọc Tình đại yêu nữ thì còn là ai?
An Ngọc Tình dịch lại phía Yến Phi cảnh cáo: “Không được ném bỏ thân gỗ, Thái Bình ngọc bội trong tay ai, mau khai thật ra, nếu không ta sẽ kêu to có gian tế”.
Yến Phi nhìn thẳng vào cặp mắt to của ả, nén hồi hộp nói: “Chúng ta đương nhiên là gian tế, chẳng lẽ An tiểu thư không phải, làm kinh động kẻ khác cũng chẳng phải là chuyện gì tốt đối với ngươi”.
An Ngọc Tình khẽ nhún vai nói: “Quá lắm là nhất phách lưỡng tán, coi xem ai chuồn nhanh hơn, bất quá hảo sự mà các ngươi giả ma giả quỷ định làm chắc chắn sẽ hỏng bét, Ha ha! Không hơi đâu mà nói chuyện tầm phào với các ngươi, mau mang đồ giao ra đây”.
Lưu Dụ thầm kêu khổ, trời đã bắt đầu sáng, bọn họ không còn thời gian dây dưa với ả, ủ rũ nói: “ Đồ vật đã bị người ta cướp đi rồi”.
Bốn phía mọi người đều bận công bận việc, chỉ có bọn họ đứng đó nói chuyện, may lại có một đống gỗ che khuất, không sợ có kẻ dòm ngó.
An Ngọc Tình giận dữ nói: “Tin vào mồm ngươi mới lạ chứ! Cho ngươi cơ hội cuối cùng, nếu không ta sẽ la lên đấy!”.
Yến Phi vội nói: “Bọn ta đã xem qua ngọc bội, có thể mô tả lại đồ hình ký tải trên đó, chỉ là mấy nét hình thế sơn thủy thôi mà!”.
Lưu Dụ cũng trổ miệng lưỡi: “Chỉ mong tiểu thư chịu nhượng lộ, bọn ta tất không nuốt lời”.
An Ngọc Tình đang muốn nói, bỗng nghe âm thanh rít lên trên đầu, ba người kinh hãi nhìn lên, một vật thể hình cầu to cỡ hạt đào bay tới trên đầu bọn họ, cao hơn tầm tay với, liền nổ tung hóa thành một chùm sáng màu hồng chiếu rọi xung quanh, chiếu lên ba người làm rõ tới từng sợi tóc, thu hút hàng ngàn cặp mắt hướng lại. “Có gian tế!”.
Có ai đấy hét lên, mường tượng như giọng Lư Tuần.
Ba người nhìn ngó xung quanh, tứ phía đã vang lên tiếng vó ngựa, ba đội kỵ binh tuần tra đang lao tới như lang như hổ.


Hồi 14

Hiểm tử hoàn sinh


Yến Phi thầm kêu khổ, từ sau khi mẫu thân qua đời, gã hiếm khi chịu tham gia công chuyện của người khác, vậy mà lại phải kết thúc cuộc đời kiểu này. Khi nghe tin quân Tần nam lai, gã từng có ý định tuẫn thân vì Biên Hoang tập, muốn kết thúc sinh mệnh theo cách như vậy. Thế nhưng đến lúc sinh tử quan đầu, sanh mệnh bản thân lại tự có một thứ lực lượng nào đó, khiến gã tự mình liên tục viện cớ nọ kia vì sự sanh tồn mà chiến đấu mãnh liệt.
Trong lúc cùng Thác Bạt Khuê đào thoát khỏi Biên Hoang tập, gã có cảm giác như sống lại. Gã sở dĩ đáp ứng giúp Thác Bạt Khuê đối phó Phù Kiên, cố nhiên vì Phù Kiên là kẻ địch chung của gã và Thác Bạt Khuê, vì Thác Bạt Khuê là thân tộc của gã, nhưng còn vì trong tâm tình gã đã có những biến đổi vi diệu, hy vọng trong đời ít nhất cũng làm được một chuyện gì đó bản thân cho là có ý nghĩa.
Chỉ hận đã để cho Lư Tuần yêu đạo nhúng tay vào như thế, Thác Bạt Khuê sống chết còn chưa rõ, nhất thời tâm trí mơ hồ, đối với đám Tần binh đang ào ào xông tới như không hề có chút quan hệ gì.
Lưu Dụ trái lại hết sức kinh hãi, gã không giống Yến Phi ở chỗ vô cớ nảy sinh cảm xúc vô vị, lập tức tạm thời vứt bỏ chuyện thành bại nhiệm vụ, trong một sát na đã mau chóng quét ánh mắt ước lượng hình thế, dự liệu biện pháp ứng biến cứu mạng.
Lúc này bọn họ chỉ cách Dĩnh Thủy hơn ba chục trượng, đại địch trước mắt lúc này, nhất là phòng tuyến bảo vệ phía Dĩnh Thủy hết sức nghiêm mật, nếu theo hướng đó đào tẩu chẳng khác gì tự chui đầu vào lưới, dù rằng có thể mở đường máu lao xuống sông, vẫn khó tránh khỏi bị Tần quân hai bên bờ sông dùng cung cứng tên mạnh bắn chết.
Biên Hoang tập phía bên kia lại càng không thể trông mong gì, lúc này đã có tới hàng trăm lính Tần đang từ hướng đó ùn ùn kéo tới, phong tỏa hoàn toàn đường nhập tập, đường này rõ ràng không thông rồi.
Theo hướng bắc, có ba đội kỵ binh tuần tra, mỗi đội chừng năm chục người đang quất ngựa ầm ầm phi tới, có hai đội chính theo hướng đó lao đến, nếu chọn hướng này đào tẩu chẳng khác nào tự sát. Tài cưỡi ngựa bắn cung của Hồ binh thì không thể đùa được. Đội tuần tra khinh kỵ còn lại đang từ góc phía tây phi đến, như vậy nếu không tính đến hoang nhân đang đốn gỗ hay lính Tần xây dựng công sự, miễn cưỡng có thể nói phía tây còn có khuyết khẩu để chạy trốn, chỉ hận đó lại chính là phương hướng có tiếng hô hoán của Lư Tuần truyền lại. Cho dù có thể xông qua cửa quan này của Lư Tuần, còn phải chạy trốn vong mạng mới mong thoát khỏi khoái kỵ của Tần quân truy tìm, khả năng giữ mạng không dễ dàng chút nào, chưa nói đến chuyện còn phải hoàn thành sứ mệnh liên quan đến sự tồn vong của nam Tấn.
Nhất thời dù Lưu Dụ là người trầm ổn đa trí, cũng cảm thấy kế cùng lực kiệt, không biết nên làm thế nào thoát khỏi cảm giác tuyệt vọng, lại nữa thời gian không cho phép gã nghĩ ngợi lâu.
Xung quanh đó hoang nhân và cả lính công binh mệt mỏi không chịu thấu nhao nhao bỏ công bỏ việc chạy trốn lung tung, tránh khỏi tai bay vạ gió, nhất thời tình thế hỗn loạn đến cực điểm.
Lưu Dụ quay nhìn An ngọc Tình, lúc này ở gần bọn họ nhất là đội kỵ binh từ khoảng ba trăm bộ lao đến, thời gian không thể trì hoãn, người đẹp bỗng lộ xuất một nét cười ngụy dị, Lưu Dụ phát hiện ra điều này đang hết sức nghi hoặc, bỗng nghe một âm thanh “ba”, một vầng khói tím đen bộc phát phía trước mặt ả, mau chóng khuếch tán, trước tiên che kín thân hình ả, tiếp đó là trùm kín gã và Yến Phi hai người. Khói tím dần dần lan tỏa ra ngoài.
Một vị chua chua xộc lên, Lưu Dụ vội bế hô hấp, lập tức có quyết định, hướng về phía có bóng Yến Phi thấp thoáng hét to: “Xuống nước!”.
Yến Phi bị hơi khói của An Ngọc Tình che mắt cùng tiếng thét của Lưu Dụ làm vụt tỉnh lại, thầm khen Lưu Dụ lâm nguy bất loạn, suy nghĩ chu toàn.
Cần biết khi đó phóng hơi khói là thủ đoạn của An Ngọc Tình định khống chế hành động của hai người, ả muốn tiến lên phía bắc, người khác tất không được về nam, lợi dụng mê vụ của mình thoát thân, hiện tại Lưu Dụ bằng một câu nói như vậy, xem như thương lượng cùng An Ngọc Tình, sự thực lại đề tỉnh Yến Phi, nhất thiết hành động theo kế hoạch đã định, không lo bị An Ngọc Tình phát hiện họ đã theo đường thủy tiềm nhập Biên Hoang tập.
An ngọc Tình chưa kịp biểu thị ý tứ, hai người sớm đã tâm lãnh thần hội, cùng vận kình quăng mạnh thân cây trong tay về phía kỵ mã gần nhất, đồng thời lao ngay về hướng Dĩnh Thủy.
Khói mù lúc này đã khuếch tán ra ngoài mười trượng, hoàn toàn che kín thân hình ba người, An Ngọc Tình khẽ thóa mạ một câu, chẳng thể không theo sau hai người, một là có Lư Tuần chắc đang núp đâu đó bên cạnh, hai là vì hai người có trong tay thứ mà ả nhất quyết đoạt được, bất kỳ vì nguyên nhân nào trong tình huống này, nữ nhân xảo quyệt này cũng buộc phải cùng họ tiến thoái.
Trong tiếng xé gió, hơn chục mũi kình tiễn bắn vào khoảng đất trống ba người vừa đứng bị trùm trong màn sương khói, tiếp đó là tiếng la hoảng của đối phương bị thân cây văng trúng người ngựa ngã lỏng chỏng.
“Ba!”.
Một đám khói lại bùng lên cách bờ Dĩnh Thủy bảy tám trượng, khói tím lan tỏa ra bốn phía với tốc độ kinh người, khu vực phạt cây vốn loạn càng thêm loạn, hoang nhân và lính công binh mỏi mệt không chịu nổi bỏ chạy tứ tán, trở thành chướng ngại đối với cả kỵ mã và bộ binh Tần, lại thêm hơi khói mang mùi vị chua chát khó đối phó, khiến người ta nghĩ đến khả năng là một loại độc khí nào đấy, đồng thời Tần quân vốn mệt mỏi, người nào người nấy mang tâm cố kỵ, chỉ dám đứng ngoài phạm vi làn khói hư trương thanh thế.
Sương khói trong chốc lát đã bao phủ bờ tây Dĩnh Thủy cả một vùng rộng hàng trăm bộ, gió thổi không tan, lại lan tỏa sang đối ngạn, che kín cả một khúc sông. Ánh lửa chiếu vào vùng sương khói lấp lánh, nhưng lại không đủ chiếu sáng cả vùng xung quanh, càng làm tăng thêm vẻ quỷ dị.
Ba người lúc này chỉ cách Dĩnh Thủy mươi trượng, trong chớp mắt là tới, hốt nhiên sau lưng sương tan khói tỏa, kình khí ập tới, Lư Tuần tựa như lệ quỷ đòi mạng ở đằng sau kêu to: “Hãy để ngọc bội lại!”.
An Ngọc Tình đi sau cùng cười tình tứ: “Trả cho ngươi đây!”. Ba mũi độc tật lê xếp thành hình chữ phẩm nhanh như điện xẹt bắn tới Lư Tuần đang lao tới trong đám sương khói mịt mù phía sau.
Yến Phi và Lưu Dụ thầm kêu hảo, nếu hai người này đánh nhau một trận, hai gã có thể ung dung theo Dĩnh Thủy chuồn vào Biên Hoang tập, không có An Ngọc Tình bên cạnh vướng chân vướng tay.
Sự thực là Lưu Dụ đã sớm có chủ ý, tới bờ sông sẽ một đao lén tập kích An Ngọc Tình, cho dù không đả thương được ả, cũng có thể khiến ả không thể cứ như oan hồn lằng nhằng quấy rối họ. Lưu Dụ có thể không như Yến Phi, coi việc hoàn thành nhiệm vụ là quan trọng nhất, tuy đối phương là một mỹ nữ thiên kiều bá mị, gã cũng tuyệt đối không mềm lòng.
Lư Tuần lạnh lùng nói: “Chỉ là tiểu kỹ cỏn con!”. Tốc độ truy đuổi không giảm mà tăng, ba mũi ám khí như lông bò lọt vào biển cả, vô ảnh vô tung, không chút ảnh hưởng tới hắn.
Ngoài ý liệu của hai gã, An Ngọc Tình cười duyên dáng: “Oan có đầu nợ có chủ, chuyện này vốn chẳng liên quan gì đến nô gia, ta sao phải khổ sở đứng giữa a!” Nói rồi dịch sang ngang nhường chỗ.
Chuyện này khiến Yến Phi hận yêu nữ thấu tim, với tốc độ của họ, thực ra có thể vượt lên trước Lư Tuần một bước nhảy xuống dòng Dĩnh Thủy đang chìm trong làn sương khói mịt mùng, nhưng nếu Lư Tuần truy theo họ dưới lòng sông, lúc ấy có trời mới biết hậu quả ra sao? Lại còn phải ứng phó với loạn tiễn của Tần binh bắn bừa xuống sông. Nghĩ tới đây, nhanh chóng dừng bước hướng về Lưu Dụ hét to: “Lưu huynh đi trước! Ta sẽ theo sau”.
Vừa nói Điệp Luyến Hoa đã ra khỏi vỏ, toàn lực chém một kiếm vào đôi quỷ trảo của Lư Tuần đang từ trong đám mê vụ vọt tới như từ địa phủ lên nhân gian tìm mạng. Kình khí mang theo khiến sương khói bao trùm thân hình gã cuộn lên không ngừng, kèm theo khí thế kinh nhân.
Lưu Dụ cười ha hả, xoay người, đao đã trong tay hét to: “Chúng ta cùng tiến cùng thoái!”.
Rồi huy đao chém ngang vào hữu trảo của Lư Tuần.
Lư Tuần cười lạnh: “Muốn chết!”.
Kình khí nổ rầm trời, Lư Tuần không thẹn là truyền nhân đắc ý của Thái Bình Thiên sư Tôn Ân, đến phút cuối cùng đã biến chiêu từ trảo thành phất, tụ phong mau lẹ bắn ra, phân biệt đánh vào đao kiếm của hai người, hắn toàn lực xuất thủ, hy vọng một chiêu đánh bật đao kiếm khỏi tay đối phương.
Chỉ cần coi hắn xuất phát truy đuổi sau mà tới trước, lại thêm đã được coi mấy thủ đoạn của hắn tại Nhữ Âm, Yến Phi đã sớm biết rõ lợi hại của Lư Tuần, lâm thời ngầm lưu lại mấy phần lực đạo, chờ tới khi Lư Tuần kích trúng kiếm chiêu, dương kình lập tức chuyển thành âm kình. Luận công lực của Lư Tuần, vì hắn phải phân xuất nửa phần kình khí đối phó với một đao lăng lệ của Lưu Dụ, cuối cùng một phất không ra đủ lực, để cho Điệp Luyến Hoa của Yến Phi len lỏi quấn quít ập tới, lập tức khiến toàn bộ những biến hóa tiếp sau bị ngưng trệ, không thể lợi dụng được mấy cơ hội có thể ít nhất là đánh trọng thương một kẻ địch, tệ hại nhất là Yến Phi mau lẹ không kém gì Lưu Dụ, ngăn trở hoàn toàn không để hắn dùng thủ pháp tinh vi đối phó Lưu Dụ, chỉ còn mỗi cách cố sức ngạnh tiếp.
“Bồng!”.
Lưu Dụ một đao dùng toàn lực, mãnh liệt kích trúng tay áo bên trái của Lư Tuần, bị chấn mạnh lảo đảo lui một bước. Lư Tuần nhận một đao này toàn thân kịch chấn, khí huyết sôi trào, vì còn phải đối phó với Yến Phi nhất kiếm xảo đoạt thiên công cứ quấn quít theo cánh tay công lên, hốt hoảng co người bật ngược ra sau.
Hai gã một chiêu thành công, đâu còn do dự chút nào, đao kiếm liên thủ, kề vai xông qua mấy tên Tần binh không sợ chết trấn giữ bên bờ sông, lao xuống Dĩnh Thủy mà đi.
Lưu Dụ và Yến Phi kẻ trước người sau lặn xuống lòng sông, toàn lực lướt tới phía trước, một mặt đề phòng loạn tiễn của địch nhân hai bên bờ, còn lo ngại Lư Tuần hoặc An Ngọc Tuần bám theo đằng sau.
Lúc này khói mù đã bao trùm toàn bộ khu vực bờ sông, bên ngoài địch nhân trùng trùng, với Lư Tuần và An Ngọc Tình còn lại duy nhất đào lộ là Dĩnh Thủy, thêm nữa bọn chúng dứt khoát vì ngọc bội mà không bỏ qua cho hai gã, thế nên họ càng phải sẵn sàng tư thế chờ đón.
Lưu Dụ trước tiên lặn sâu xuống chừng ba trượng, quyết định chủ ý, khi tiếp cận đáy sông sẽ men theo bờ ngầm bơi đi, lần tìm vào miệng cống ngầm nhập Biên Hoang tập, thoát ly hiểm cảnh.
Yến Phi đuổi theo phía sau Lưu Dụ, nước sông giá lạnh làm tinh thần gã phấn chấn, bỗng dưng cảm thấy rất không ổn, vì sao không nghe thấy âm thanh kình tiễn bắn xuống nước, đang định cảnh cáo Lưu Dụ, đã thấy có chuyện xảy ra.
Dưới làn nước tối đen không trông rõ được năm ngón tay, cánh tay mang đao của Lưu Dụ bỗng sinh cảm ứng, đáy sông bỗng sát khí cực thịnh, một đạo kình khí sắc nhọn nhắm thẳng ngực gã đập tới mãnh liệt, phía trước lập tức sóng ngầm cuồn cuộn ập đến, toàn thân như rớt xuống hố băng, bị kình khí đối phương bao trùm hoàn toàn trói chặt.
Lưu Dụ thầm kêu hỏng bét, vội vàng vung đao ứng địch, lòng chợt nghĩ đến một người, một đại tướng thuộc Để tộc, thủ hạ của Phù Kiên tên là Lữ Quang, người này ngoại hiệu là “Long Vương”, chính vì tinh thông thủy tính, cũng chỉ có hắn ta với công phu dưới nước mới có thể tranh tiên một bước, ẩn mình dưới sông tiến hành đột kích, kình khí sắc nhọn đâm tới chính là phát xuất từ “Hỗn thủy thích” của Lữ Quang.
Đao thích giao kích trong làn nước, nhưng Lưu Dụ không có chút cảm giác vui vẻ nào, vì Lữ Quang thường dùng một đôi Hỗn thủy thích, mình đánh trúng chỉ là một trong hai cây thích đó, âm mưu của đối phương chính là thu hút chú ý của mình, cây thủy thích còn lại đang không hơi không tiếng từ đáy nước tăm tối phóng tới, công kích vào điểm yếu hại của gã. Chỉ tiếc trong lúc vội vàng vô pháp biến chiêu, đành thu hồi một phần khí kình, mượn sức phản chấn từ đao thích giao kích bật người sang phía bờ tây, quả nhiên ngực trái như bị đập mạnh một chùy, lập tức toàn thân đau đớn kịch liệt, máu tươi ứa ra thành dòng.
Yến Phi mới nghĩ đến nguyên do địch nhân không bắn tên là có cao thủ đối phương nhanh hơn một bước tiềm phục dưới lòng sông nhằm vào bọn họ tập kích, mùi vị huyết tinh đã xộc tới, lại thêm cảm giác Lưu Dụ kiệt lực văng ra, trong lúc nguy cấp sinh tử quan đầu này, nếu để địch nhân tiếp tục truy kích Lưu Dụ sẽ chết chắc. Yến Phi mau chóng lao xuống thấp, Điệp Luyến Hoa canh đúng chỗ Lưu Dụ lướt tới, góc độ và thời gian hết sức chuẩn xác, Lưu Dụ vừa lăn qua một bên, Điệp Luyến Hoa đã lướt sát thân hình Lưu Dụ phóng ra nhanh như điện.
Lữ Quang vươn thủy thích lao thẳng về hướng Lưu Dụ, hoàn toàn không nghĩ có chuyện đối phương phản kích, còn mang theo quyết tâm lưỡng bại câu thương cùng địch nhân.
Kình khí phát ra một tiếng nổ.
Mặc dù Lữ Quang công phu dưới nước rất cao, bị khí thế lăng lệ của Yến Phi bức bách đành bỏ qua Lưu Dụ, song thích kéo về vung chéo lên miễn cưỡng chống lại một kiếm toàn lực của Yến Phi.
Đôi bên cùng hự lên một tiếng.
Yến Phi bị lực phản chấn của Lữ Quang hất bắn ngược lên trên, tuy nhiên gã đã sớm có chủ định cứu người, ngầm lưu dư lực, khi lên tới cách mặt nước chừng một trượng đã mau lẹ lánh qua một bên, lao tới chỗ Lưu Dụ đang giãy giụa không ngừng.
Lữ Quang bị một kiếm của Lưu Dụ đánh bật xuống đáy nước, nhưng không giận mà lại vui, mũi chân vừa chạm đáy sông lập tức vọt lên, quyết phải lấy mạng Yến Phi. “Tùm, tùm!”.
Tiếng nước bắn lên tung toé, Lư Tuần theo sau Lưu Dụ và Yến Phi cũng đã nhảy xuống sông, vừa hay lúc Yến Phi dịch thân rời đi, thủy thích của Lữ Quang công tới. Người trước cho rằng do một trong hai người Yến Phi dưới nước tập kích, kẻ sau lại nghĩ đó là đồng đảng của Yến Phi, nhất thời khởi lên một trận thủy chiến, biếu không cho Lưu Dụ và Yến Phi cơ hội ngàn vàng để đào tẩu.
o0o
Lúc này Yến Phi kéo theo Lưu Dụ toàn lực men theo bờ sông phía tây, theo đường cống ngầm được Cao Ngạn mách bảo bơi đi.
Đại bản doanh của Để bang nằm ở khu dân cư phía đông con đường lớn tại bắc môn của Biên Hoang tập. Cửa cống đâm ra một ao sen nằm trong một khu vườn hoang phía bắc tổng đàn Để bang, cách tổng đàn không xa.
Khi Yến Phi sức cùng lực tận lôi được Lưu Dụ ở trạng thái bán hôn mê lên bờ ao cỏ dại um tùm thì trời vừa sáng.
Bên trong phế viện yên ắng không một tiếng động, lạ nhất là bên ngoài cũng không nghe động tĩnh gì, chẳng có vẻ gì là đại quân Phù Tần đã trú nhập Biên Hoang tập.
Bên tổng đàn Để bang không người tựa hồ hợp lý, vì bang chúng thượng hạ đều bị trưng tập đi làm lao công ở mạn bắc Biên Hoang tập, còn xung quanh không phát hiện Tần binh lưu trú lại ra ngoài ý liệu. Yến Phi không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, trước hết kiểm tra vết thương trên ngực Lưu Dụ, thầm kêu may mắn, vì miệng vết thương chỉ sâu vào chừng một tấc, không chạm đến gân cốt, tuy nhiên đối phương đã quán chú khí kình vào thủy thích, tuy vết thương không sâu nhưng cũng đủ khiến Lưu Dụ thụ nội thương nghiêm trọng.
Yến Phi đỡ thân hình ướt nhẹp của Lưu Dụ nâng gã ngồi dậy, gỡ thanh đao vẫn được nắm cứng trong tay gã đặt sang một bên, hít sâu một hơi thở, nhắm mắt tĩnh dưỡng một khắc, đang định động thủ cứu người, chợt nghe tiếng nước động dưới ao sen truyền đến, nếu chẳng phải gã đang tĩnh tâm hành công vận khí, chắc rằng sẽ sơ hốt bỏ qua vì mệt nhọc.
Gã kinh hãi nhìn về phía ao sen, An Ngọc Tình đẹp như thiên tiên mà cũng quỷ dị như u linh đang từ bên bờ ao, chân không chạm đất lướt đến như quỷ mị. Yến Phi cầm Điệp Luyến Hoa đặt ngang trên đùi, cố gắng tỏ vẻ ung dung, nhạt giọng nói: “Ta có một đề nghị, An tiểu thư có nguyện ý nghe chăng?”.
An Ngọc Tình vốn định thừa lúc Lưu Dụ thụ thương, nhất cử chế trụ Yến Phi, dù không tìm ra bảo ngọc, cũng có thể dụng thủ pháp tàn khốc bức gã nói ra nơi hạ lạc của báu vật, nhưng lúc đó nhìn đôi mắt trong veo mà thâm bất khả trắc của Yến Phi, thấy thần thái ung dung tự tại của gã, lại không tự chủ được mà ngừng lại, nhíu mày nói: “Bổn tiểu thư không có thời gian dây dưa với các ngươi, mau mang bảo ngọc giao ra, ta sẽ tha cho hai cái tiểu mệnh của bọn ngươi”.
Yến Phi lạnh lùng nói: “An tiểu thư xin hiểu cho rõ, ta đủ tư cách đưa ra điều kiện, nếu không chỉ cần ta kêu to một tiếng, kinh động Tần binh thì bọn ta cả lũ đều không cách nào trốn đâu được, hiện giờ trời đã sáng tỏ, Dĩnh Thủy không còn là đường thoát lý tưởng, lại thêm Tần quân tất men sông tìm kiếm, An tiểu thư dù có thể trốn khỏi nơi này, cũng khó lòng mà xông qua khỏi trùng vây”.
An Ngọc Tình song mục giăng đầy sát khí, Yến Phi vẫn tỉnh như không, mắt nhìn thẳng không hề nhượng bộ, một tay đỡ Lưu Dụ hai mắt vẫn nhắm nghiền, một tay nắm chắc Điệp Luyến Hoa.
Một lúc lâu sau, An Ngọc Tình rốt cuộc cũng xiêu lòng, gật đầu nói: “Ngươi nói đi”.
Yến Phi không buông lơi cảnh giác, gã một đời vào sinh ra tử, hiểu rõ thế nào là chiến lược xuất kỳ bất ý, công kỳ bất bị. Bởi vì chỉ cần An Ngọc Tình trong một phút bất ngờ ngầm ra đòn quật ngã gã, thì sự uy hiếp của gã sẽ không còn chút tác dụng nào nữa.
Yến Phi trầm giọng nói: “Ta đích xác không nói chuyện hoang đường, bảo ngọc đã bị một người mang mặt nạ quỷ cướp mất khi bọn chúng ta ly khai Nhữ Âm, người này võ công còn trên cả Khất Phục Quốc Nhân. Nếu ta có nói sai một câu, nhất định không được chết an lành”.
Lời này của gã có một vẻ gì đó khiến người nghe khó lòng hoài nghi, An Ngọc Tình bất giác thâm tâm đã tin tưởng hắn mấy phần, hơi sốt ruột nói: “Bảo ngọc đã không có trong tay các ngươi, các ngươi lấy gì để cùng ta nói chuyện giao dịch đây?”.
Yến Phi cười điềm nhiên nói: “Nhưng bọn ta đã coi qua đồ hình sơn thủy trên đó, có thể vẽ lại kỹ càng, như vậy tiểu thư cũng không khác gì có bảo ngọc trong tay”. An Ngọc Tình đôi mỹ mục xoay chuyển, giọng lạnh băng: “Đồ hình trên ngọc phải chăng đánh dấu địa điểm tàng kinh?”.
Yến Phi ngầm kêu khổ, ủ rũ nói: “Nói thực thì đó chỉ là một bức sơn thủy địa hình đồ, không hề chỉ ra vị trí giấu kinh, hoặc giả bọn ta đã bỏ sót cái gì đấy”.
An Ngọc Tình lộ xuất một nụ cười ngọt ngào ra ngoài ý liệu của gã, gật đầu nói: “ Đoán ngươi không dám hồ thuyết bát đạo. Được rồi! Tuy nhiên nếu ngươi vẽ vời nhăng nhít để lừa người ta, người ta tự sẽ biết rõ đúng sai nha!”.
Yến Phi hết sức ngạc nhiên, thầm nghĩ vì sao không có chính xác địa điểm tàng kinh mà ngược lại khiến đối phương tin tưởng mình hơn, bất quá cũng không rảnh nghĩ
nhiều, nói: “Rất đơn giản, chỉ cần để ta cứu tỉnh vị bằng hữu này, bọn ta hai người cùng vẽ lại hai tấm đồ hình đưa ra, tiểu thư so sánh hai bên, tự nhiên có thể rõ thực giả”. An Ngọc Tình do dự một khắc, coi kỹ khuôn mặt nhợt nhạt vì mất máu của Lưu Dụ, gật đầu nói: “Còn không mau hạ thủ”.
Yến Phi như phụng vương mệnh, hai tay phóng chỉ như gió, nhanh chóng điểm vào một loạt yếu huyệt trên lưng Lưu Dụ.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #8  
Old 12-20-2012, 02:42 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 15, 16

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 15

Tỵ nạn chi sở


Mười đạo chân khí từ song thủ Yến Phi xâm nhập thân thể Lưu Dụ đang trong trạng thái kinh mạch toàn thân bất đồng, chân khí chạy loạn xạ khiến gã cực kỳ khó chịu, không bao lâu chân khí đã như từ những khe nhỏ theo suối ra sông, hợp lại chạy qua chỗ nào khiến đau đớn chỗ đó nhanh chóng tiêu giảm, cuối cùng mười đạo chân khí hợp lại làm một chuyển theo Nhâm Đốc nhị mạch, từ Vĩ Lư ngược lên Mệnh Môn, qua Đại Trùy tới Bách Hội, lại xuyên qua Ấn Đường hạ xuống Đản Trung, vận chuyển theo vòng chu thiên hết lần này đến lần khác.
Nội công của Lưu Dụ bị một thích của Lữ Quang chấn động thiếu chút nữa thì tiêu tán, nay bắt đầu dần dần ngưng tụ, mau chóng khởi sắc.
Lưu Dụ thực ra vẫn luôn duy trì được trạng thái còn chút tỉnh táo, nghe lõm bõm câu được câu chăng, cũng hiểu rõ cái mạng nho nhỏ này toàn là do Yến Phi cứu lại, nếu chẳng phải gã không tiếc tổn hao chân nguyên vì mình bế khí nơi đáy nước mang tới đây, dù rằng Lữ Quang không quay lại dùng biện pháp tàn ác với gã, gã cũng bị ngạt nước mà chết. Hoặc giả nổi lên mặt nước cũng bị địch nhân dùng loạn tiễn bắn chết, trong lòng bất giác đại sanh cảm kích.
Hiện tại gã đã dần tỉnh lại, biết An Ngọc Tình đang ở một bên canh chừng Yến Phi, gã căn bản cũng vô pháp ứng phó yêu nữ này, bèn tiếp tục nhắm nghiền mắt, đợi Yến Phi hồi phục công lực, bản thân cũng tận dụng cơ hội để mau chóng phục nguyên.
Đồng thời trong lòng cũng bội phục nội công tinh tuyệt ảo diệu của Yến Phi đi theo một đường lối riêng biệt, hiển nhiên đã sơ nhập cảnh giới sâu xa của Tiên thiên chân khí, theo niên kỷ của gã mà nói, thật khó làm người ta tin, nhưng sự thực thì đúng là như thế. Hữu chưởng của Yến Phi vẫn áp vào lưng gã, không hề thu hồi chân khí giúp gã vận khí hành huyết, đương nhiên là có cùng tâm ý với gã bằng cách mau chóng nhất để hồi phục công lực.
Thời gian cứ thế trôi đi.
o0o
Phù Dung đứng trên bờ tây sông Dĩnh Thủy, nơi bọn Yến Phi mấy người trước đó nhảy xuống sông, chăm chú nhìn xuống đáy sông như muốn nhìn thấu dòng nước huyền hư, bồi tiếp hai bên tả hữu là Lữ Quang, Ngốc Phát Ô Cô và Khất Phục Quốc Nhân sắc mặt tái nhợt vì thụ nội thương, thần ưng Thiên Nhãn đang lượn vòng vòng trên không. Một đội kỵ binh đang men theo bờ sông tìm kiếm, công sự phía bắc Tập vẫn tiếp tục xây dựng.
Ngốc Phát Ô Cô trầm giọng nói: “Bốn kẻ đêm qua xông vào doanh trại ta thì một đã chuồn theo khu rừng núi phía bắc, còn lại ba kẻ kia, thật là kỳ quái, bỗng dưng biến mất tăm mất tích”.
Thư Cừ Mông Tốn nói: “Trong số bốn người đó, khẳng định có một là Yến Phi. Chỉ không rõ tên Thác Bạt Khuê lọt lưới có trong số đó hay không?”.
Lữ Quang lãnh đạm nói: “Binh khí của người bị ta đâm trúng là hậu bối đao, chắc không phải là Thác Bạt Khuê, nhưng bọn chúng đã có người mang trọng thương, xem ra khó lòng chạy xa được, chỉ cần bọn ta tìm kiếm kỹ, tất sẽ bắt được chúng”.
Phù Dung nhìn Khất Phục Quốc Nhân hỏi: “Quốc Nhân có cách nào không?”.
Khất Phục Quốc Nhân ngước nhìn Thiên Nhãn, chầm chậm trả lời: “Bốn tên này trừ Yến Phi ra, trong ba người kia Quốc Nhân từng gặp tại Nhữ Âm thành có một nam một nữ, bọn chúng vì tranh đoạt một khối ngọc mà lôi kéo nhau tới đây, nếu bọn chúng còn ẩn náu gần đây, nhất định không thoát khỏi cặp mắt của Thiên Nhãn, cách giải thích duy nhất là chúng đã tiềm nhập được vào trong Tập”.
Phù Dung gật đầu biểu thị đồng ý, Ngốc Phát Ô Cô ngạc nhiên nói: “Như vậy không có khả năng, trừ phi...”.
Phù Dung ngắt lời hắn nói: “Quốc Nhân nói rất đúng. Dưới nước nhất định có đường ngầm bí mật, có thể gian tế theo đó ra vào. Thiên Vương tùy lúc có thể xa giá tới, chúng ta cần phải tìm tới đám người này, trước một bước quét sạch thích khách khỏi Tập, bằng không nếu để Thiên vương trách tội, không ai có thể đảm đương được”.
Khất Phục Quốc Nhân nói: “Chúng ta tốt nhất là tiến hành song song, phái xuất quân tinh nhuệ vào Tập, do tại hạ tự chủ trì phối hợp với Thiên Nhãn cùng tìm kiếm kỹ càng, tất khiến địch nhân không nơi lẩn trốn”.
Lời nói của hắn tuy ngữ khí bình tĩnh nhưng khiến Phù Dung ngẫm nghĩ không biết vì sao hắn hận Yến Phi thấu xương như vậy, lại nghĩ nếu Yến Phi rơi vào tay hắn chắc hẳn phải hối hận kiếp này đã đầu thai làm người.
Lữ Quang cười ha hả nói: “Những người dưới nước do ta phụ trách tìm bí đạo, bắt được Yến Phi lo gì không tìm ra tiểu tử Thác Bạt Khuê? Bất quá Khất Phục tướng quân không nên làm chết Yến Phi, huynh đệ Mộ Dung Xung và Mộ Dung Vĩnh tuyệt không hy vọng có được một xác chết đâu”.
Do Phù Dung khơi mào, chúng nhân đồng thanh cười gằn, tựa như đã thấy trước mắt cảnh tượng vui chơi xả láng ở miền nam.
o0o
Yến Phi và Lưu Dụ cùng nhìn về phía An Ngọc Tình, ả đã bước qua ngưỡng cửa, nhưng vẫn ở bên ngoài nhìn vào chứ không tiến vào đánh lén, chờ đến lúc hai người họ cùng mở mắt rồi, mới không kềm được lộ xuất biểu tình của người bị qua mặt, khẽ quát: “Nguyên lai hai tên xấu xa các ngươi tính chuyện dối lừa người ta, mau xoay lưng vào nhau vẽ địa đồ đưa ra đây!”.
Thanh âm của ả đầy vẻ ngây thơ khả ái, khiến lòng hảo cảm của Yến Phi với ả tăng lên rất nhiều.
Lưu Dụ thì vì đã nếm qua thủ đoạn độc ác của ả, không chút ảnh hưởng, nghi ngờ hỏi: “Ngươi đang nhìn cái gì? Vì sao muốn tránh vào căn nhà đổ nát đó?”.
An Ngọc Tình lại không kiên nhẫn được, nhìn ra bên ngoài nói: “Mau lên, bổn tiểu thư không có thời gian dây dưa với các ngươi, ta còn muốn theo nguyên lộ ly khai. Thật tà môn! Sao lại có một con ưng săn mồi không ngừng lượn tròn trên không chứ?”.
Y phục của ả nửa ướt nửa khô, ép sát vào người, để lộ những đường cong mỹ lệ dụ hoặc, hai người đang thưởng thức, nghe nói vậy mặt mày đồng thời biến sắc.
Yến Phi kéo Lưu Dụ dậy, bèn hướng về phía An Ngọc Tình đang lộ thần sắc cảnh giác nói vội: “Đó là Thiên Nhãn của Khất Phục Quốc Nhân, địch nhân đã đoán được chúng ta theo bí đạo dưới nước tiềm nhập vào Tập, chúng ta cần lập tức tìm nơi tốt hơn ẩn núp, chậm sẽ không kịp”.
Lần này đến lượt An Ngọc Tình kinh hoảng, dậm chân nói: “Chẳng biết lần này uống lầm thuốc gì mà lại dính phải hai con quỷ xui xẻo các ngươi”.
Lưu Dụ miễn cưỡng đứng lên, cắn răng nói: “Ta vẫn còn có thể tự đi được”. Yến Phi nói: “Theo ta đi!”.
Rồi hướng về phía dãy nhà đổ nát phía bên kia đi trước, hai người còn lại hoang mang đuổi theo sau.
Ba người ra khỏi phế viên, mới biết tiến thêm một bước cũng khó.
Đại quân tiên phong của Để Tần không trú trong Biên Hoang tập, đổi lại các cao điểm trong Tập được thiết kế thành vọng gác, tại các điểm nút giao thông và cửa Tập có sắp xếp các cửa quan ngăn chặn, đặt toàn bộ Biên Hoang tập dưới sự giám thị nghiêm mật, bố trí một tòa thành trống để chờ đợi Phù Kiên và các đại tướng trong thân binh đoàn.
Lưu Dụ hiện thời dấn thân vào địch trận càng hiểu rõ ý đồ của Phù Kiên. Khi Phù Kiên tiến vào Biên Hoang tập, thành tập này được gia tăng lực lượng phòng thủ tới mức tối đa, trở thành bộ tổng chỉ huy hậu phương của Phù Kiên, lợi dụng Dĩnh Thủy chuyên chở binh lính, lương thảo xe cộ vũ khí liên tục tiếp viện cho tiền tuyến, giải quyết chuyện hành quân của đội quân khổng lồ cùng bổ cứu các vấn đề trên mọi phương diện. Và khi đó dải đất rậm rạp nằm ở bên rìa trung tâm Biên Hoang sẽ trở thành trạm trung chuyển nam bắc, tránh khỏi nhược điểm trí mệnh để bị cắt đứt đường vận lương.
Phù Kiên đã bố trí thế trận trường kỳ tác chiến, trước sẽ toàn lực đoạt lấy Thọ Dương, sau đó dùng Biên Hoang tập và Thọ Dương hỗ tương hô ứng, phân binh đa lộ, xua quân tiến xuống phía nam, buộc Nam Tấn với binh lực bạc nhược cùng quẫn ứng phó. Đến lúc toàn bộ các thành trấn phía bắc Kiến Khang đã bị vây hãm mới ung dung bao vây Kiến Khang. Khi đó Kiến Khang thành đang từ địa vị thủ phủ trung tâm của tổ hợp các thành trấn bao quanh trở thành cô phong vô viện, giống như cá nằm trên thớt chờ Tần quân binh lực cường đại muốn chém muốn mổ ra sao cũng được. Chiến lược này của Phù Kiên quả là không chút khiếm khuyết. Nếu Lưu Dụ có thể trở về mang những điều sở kiến nhãn tiền báo cáo lên tường tận thì sẽ là những tin tức tình báo vô cùng hữu dụng. Chỉ bất quá Lưu Dụ biết rất rõ trong tình huống hiện thời, tính ra cơ hội để gã có thể sống sót trở về là hết sức ít ỏi, đừng nói đến chuyện muốn hoàn thành sứ mệnh trọng yếu Tạ Huyền phó thác cho gã.
Yến Phi dẫn theo hai người xuyên qua phòng ốc, chuyên tìm lộ tuyến có mái ngói hay cây to che chắn thân hình đào tẩu, mau chóng hướng tới nơi có chỗ trốn tránh. May mà bọn họ xuất phát từ phía đông bắc, tới phía đông thành không cần đi ngang qua những con đường qua tứ môn, nếu không tất đã bị phát hiện.
Yến Phi cuối cùng dừng lại, ngồi xổm bên song cửa của một gian phòng bỏ hoang định thần quan sát bên ngoài, đằng trước thì ra là hậu viện của một tòa nhà hai tầng làm bằng gỗ.
An Ngọc Tình và Lưu Dụ phân biệt tiến đến hai bên tả hữu, bắt chước gã nhìn ra bên ngoài.
Lưu Dụ nói: “Đệ nhất lâu?”.
An Ngọc Tình mục quang nhìn lên, nghiêng tai nghe ngóng, thấp giọng nói: “Trên mái ngói có địch nhân”.
Lưu Dụ nhíu mày nói: “Trong lâu có địa phương để lẩn trốn sao?”.
Yến Phi gật đầu: “Trong lâu có một hầm chứa rượu, kín đáo phi thường, là nơi lâu chủ Bàng Nghĩa giấu rượu và tránh họa lúc khẩn cấp, chỉ có người trong lâu mới biết được, thiết bị thông khí cũng không tệ”.
An Ngọc Tình lắc đầu nói: “Trốn tránh tại đó cũng chỉ tạm thời yên ổn, hai người ngươi lập tức vẽ ra giao cho ta địa đồ, sau đó chúng ta chia ba ngả xông ra ngoài, phó thác số mệnh cho trời”.
Lưu Dụ không phải là không biết An Ngọc Tình nói rất có đạo lý, bởi vì địch nhân đã phát hiện có người theo thủy đạo mà vào, khẳng định biết bọn họ tiềm nhập vào Tập, tìm kiếm khắp nơi không thấy, đương nhiên đoán được bọn họ đang trốn tránh tại một loại hầm bí mật nào đấy. Lại vì Yến Phi có quan hệ mật thiết với Đệ nhất lâu, tất nhiên coi Đệ nhất lâu là mục tiêu hàng đầu cần tra xét kỹ càng, đến lúc đó bọn họ sẽ vô lộ đào sanh. Ngược lại hiện tại địch nhân đang tập trung chú ý vào khu đông bắc, bọn họ cương quyết đột vây, lại có được một mảnh sinh cơ. Bất quá gã có tính cách kiên nghị, chưa đạt mục đích thà chết không chịu buông tay. Lòng nghĩ chỉ cần đến khi trời tối, có thể mặc binh phục Tần binh nguỵ trang thành địch nhân là có nhiều cơ hội trà trộn hành động theo ý mình. Đã hoàn thành nhiệm vụ lại thành công đào sanh. Hầm chứa rượu của Đệ nhất lâu đối với gã mà nói đúng là mừng ngoài sức tưởng tượng.
Yến Phi lắc đầu nói: “Xông ra khỏi Tập chúng ta thật không có bao nhiêu cơ hội, bất quá nếu tiểu thư vẫn quyết như ý, bọn ta đương nhiên sẽ thủ tín. Nhưng sẽ không bồi tiếp ngươi đi tống tử. Thời gian không có nhiều, thỉnh tiểu thư lập tức quyết định”.
An Ngọc Tình đảo cặp mỹ mục qua lại vài lần, thở nhẹ nói: “Ai! thực không biết nếu đi như thế thì vận mệnh xui xẻo ra sao? Hảo a! Vào tửu khố rồi tính sau!”. Hai người ngầm khen ả thông minh, nếu không có bọn họ giúp ả quá quan, ả sẽ chẳng có chút cơ hội nào. Yến Phi không nói gì, nhảy qua song cửa đi ra.
Cả bọn nương theo cây cối che chắn thân hình, tránh khỏi con mắt giám sát từ phía trên của lính gác, vượt qua bức tường hậu viện, theo cửa sau vào lâu, bước vào nhà bếp lớn ở phía sau tầng dưới của Đệ Nhất lâu.
Yến Phi đi tới trước một cái bếp lò, nhấc một cái chảo to tướng lên.
Lưu Dụ cùng An Ngọc Tình không hẹn mà cùng thò đầu nhìn xuống, chỉ thấy không khác gì một bếp lò bình thường, từ bên dưới có thể tống củi rơm vào hốc lò, lúc này chỉ còn lại một đám tro than tắt ngấm.
Yến Phi khẽ cười nói: “Chỗ xảo diệu chính là tại đây, do bởi tại đây có tám cái bếp lò toàn bộ đều giống nhau, bề ngoài tuyệt không thể nhìn ra có gì khác nhau”. Tiếp đó thò tay vào, đẩy xuống đáy lò, nhưng có đẩy cách nào cũng đẩy không được, Yến Phi bồn chồn.
Hai người cũng kinh hãi, bần thần nhìn gã, không biết vấn đề xảy ra từ chỗ nào. Yến Phi khốn khổ nuốt nước miếng, thẫn thờ nói: “Nơi này vốn phải có một bức tường di động được, dịch đi sẽ lộ ra đường tiến vào hầm ngầm chứa rượu”.
Lưu Dụ nói:”Vậy thì bên trong hẳn có người ngăn bức tường đó lại?”. An ngọc Tình lại ngơ ngác: “Bên trong có người sao?”.
Yến Phi đang kinh hãi mau lẹ hóa thành vui mừng, nắm tay thành quyền, vỗ lên tường theo một tiết tấu khi ngắn khi dài, tựa như gõ ám hiệu cho người bên kia bức tường. Lưu Dụ không kiên nhẫn được, hỏi:”Là Bàng Nghĩa ở trong?”.
Yến Phi lắc đầu nói: “Là tiểu tử Thác Bạt Khuê mới phải. Cuối cùng cũng biết tới đây mà lẩn trốn”.
An Ngọc Tình thấp giọng: “Phải chăng là tên trộm ngựa trứ danh ấy?”. Yến Phi gật đầu: “Chính là hắn, nếu ngươi muốn dùng cách xưng hô như thế”.
Sau tường có tiếng động khẽ truyền ra, tiếp đó cả bức tường được dịch ra, bên dưới xuất hiện là Thác Bạt Khuê, nhìn thấy Yến Phi, lắc đầu ngạc nhiên cười khổ nói: “Sao lại là ngươi?”. Mục quang tiếp đó quét qua Lưu Dụ và An ngọc Tình mà không hỏi gì, tiếp tục nói: “Tình thế đương nhiên không hay chút nào, xuống đi rồi hãy nói”. Rồi quay lại đi xuống, bên dưới là một con đường lát đá. Yến Phi dẫn đầu cả bọn đi vào.
An Ngọc Tình không còn lựa chọn nào khác, thêm nữa thấy nói thiết kế xảo diệu nên càng thêm hứng thú, theo mọi người tiến vào. Lưu Dụ là người đi sau cùng, đương nhiên không quên mang cái chảo lớn đặt nguyên tại chỗ cũ, tất cả đều hồi phục nguyên dạng trước đó, bọn họ giống như biến đi mất dạng khỏi mặt đất Biên Hoang tập.
o0o
Thọ Dương thành, tướng quân phủ, đại đường.
Cao Ngạn bị Tạ Huyền nhiều lần gạn hỏi những tình huống tối hậu liên quan đến Biên Hoang tập, nhưng đặc biệt, không hề mất kiên nhẫn, cứ thế bẩm lên. Lần này Tạ Huyền ngôn từ trúng đích, lời lẽ giản đơn súc tích, thêm Tạ Huyền có một khí chất ngoại mạo cao quý hòa nhã, phong độ khí phách dễ khiến người thân cận thuận tòng, khiến hắn có cảm giác thoải mái như cây cối gặp gió xuân, huống chi Tạ Huyền tại Nam Tấn là bậc vô địch đại sư chẳng ai không ngưỡng mộ, cho nên Cao Ngạn thấy Tạ Huyền chịu mất thời gian hỏi han hắn, chỉ cảm thấy vinh dự và kinh ngạc, vì thế mới phá lệ biết không thể không nói, nói là phải nói hết; cũng ngầm lấy làm kinh ngạc là đồ vật trong túi Yến Phi phó thác cho hắn mang tới quả có uy lực đến mức khiến cả Tạ Huyền liền nửa đêm vội vã tới đây tự thân xử lý.
Trừ Lưu Lao Chi luôn túc trực một bên, ngay cả Hồ Bân cũng được lệnh lui khỏi đại đường.
Thanh âm của Tạ Huyền lại vang bên tai Cao Ngạn: “Cao huynh đệ thực chưa xem qua đồ vật trong túi đó sao?”.
Cao Ngạn mặt đỏ lên, lúng túng nói: “Tiểu nhân không dám man trá, coi thì chưa coi qua, bất quá đã từng sờ thử qua lớp da dê, cảm giác đó là một thứ đồ bằng ngọc thạch”.
Lưu Lao Chi ngồi phía sau Tạ Huyền hiểu ý cười nhẹ.
Tạ Huyền gật đầu nói: “Ta tin lời Cao huynh đệ, có cơ tâm là chuyện thường, ta chỉ không minh bạch một điều, Cao huynh đệ là kẻ lão luyện, vì sao khi chưa rõ vật trong túi là thứ gì, không cần suy nghĩ vẫn mang tới Thọ Dương, không sợ bị người hãm hại hay sao?”.
Cao Ngạn mặt càng đỏ dữ, thẹn thùng cười nói: “Huyền gia coi rất chuẩn, chuyện này đích thực không phù hợp với tác phong xưa nay của tiểu nhân, nhưng tiểu nhân thực quả sợ là khi nhìn thấy bảo vật sẽ sinh ra ý đồ bất chính, phụ mất sự ủy thác của Yến Phi”.
Lưu Lao Chi kềm không được hỏi: “Nghe nói hoang nhân không ai tín nhiệm nhau, vì đâu ngươi lại chịu tín nhiệm Yến Phi đến thế?”.
Cao Ngạn ngơ ngác, tựa như trong lòng cũng đang tự hỏi đúng vấn đề này, một lúc sau thần tình cổ quái nói: “Nếu ở Biên Hoang tập muốn tìm một kẻ không hề kiến lợi vong nghĩa, đại khái chỉ có duy nhất Yến Phi, tiểu nhân cũng không hiểu tại sao mình lại có cách nghĩ như thế? Nhưng gã rất không giống kẻ khác, bất luận các bang hội dùng trọng kim bao nhiêu làm lễ vật, gã thủy chung không thèm để ý, cam tâm vì Đệ nhất lâu làm việc”.
Tạ Huyền nói: “Có phải vì hành vi của gã xả thân cố thủ đông môn lúc Hán nhân rời bỏ Biên Hoang đã làm ngươi ngươi cảm động thật sâu sắc không? Có thể là gã vẫn muốn vàng của ngươi cơ mà”.
Cao Ngạn cúi đầu, chầm chậm lắc đầu thấp giọng nói: “Tiểu nhân đúng là bị gã làm cảm động, nhưng lại không phải vì việc gã lưu lại tử thủ đông môn, mà vì khi đang bị Khất Phục Quốc Nhân truy sát tới nơi, gã vẫn một thân một mình chìa vai gánh vác, để cho tiểu nhân đào sanh, lúc đó tiểu nhân có cảm giác gã đối với việc ứng phó với Khất Phục Quốc Nhân hoàn toàn không nắm chắc. Ài! Tiểu nhân thực không giúp gì được cho gã, nếu lại cũng không tuân theo phân phó của gã, tiểu nhân làm sao dám nhìn mặt gã nữa đây?”.
Tạ Huyền hô một tiếng “Hảo!”, hân hoan gật đầu nói:”Gã hữu tình ngươi hữu nghĩa, như thế mới đáng gọi anh hùng hảo hán”.
Lưu Lao Chi nói theo: “Nếu Yến Phi không địch nổi Khất Phục Quốc Nhân, Cao huynh đệ há chẳng một phen trắng tay sao? Lại còn bị bọn ta hoài nghi nữa chứ”.
Cao Ngạn đầy tin tưởng nói: “Yến Phi tuyệt không phải là kẻ đoản mệnh, nhân vì tiểu nhân bằng nhãn quang đánh giá cổ vật của mình rất có tín tâm với Điệp Luyến Hoa của gã, bản thân Yến Phi lại càng không phải kẻ hữu dũng vô mưu. Cho đến bây giờ chưa ai có thể khiến cho gã phải nếm mùi cay đắng”.
Tạ Huyền cảm thấy thú vị, hỏi: “Trong lòng ngươi, Yến Phi là hạng người thế nào?”.
Cao Ngạn cười khổ: “Biên Hoang tập chỉ sợ không ai có thể trả lời khẳng định câu hỏi của Huyền gia một cách sảng khoái, Yến Phi là người ra sao? Ài! Gã có lúc mấy ngày không nói chuyện, như là một người hoài bão nỗi niềm đau thương; có khi lại có thể cùng mình uống rượu cười nói, ngôn từ như nước chảy, gã kiến văn quảng bác, đối với các địa phương nhân tình phong thổ cực kỳ hiểu biết. Tại Biên Hoang tập không ai biết lai lịch gã, gã cũng chẳng nói gì về chuyện của bản thân. Hắc! Ở Biên Hoang tập hỏi chuyện riêng của người ta là đại kỵ mà”.
Tạ Huyền nhíu mày nói: “Chiếu thời gian mà luận Yến Phi rời Biên Hoang tập cũng không cách thời điểm Cao huynh đệ ly khai Biên Hoang tập bao lâu. Lúc đó Mộ Dung Thùy còn chưa phong tỏa Tập, làm sao mà trong tay Yến Phi lại có ngọc tỷ Mộ Dung Thùy vẫn giấu kín? Yến Phi phải chăng biết tiếng Tiên Ti?”.
Cao Ngạn nói: “Yến Phi chỉ dùng Hán ngữ, bất quá dám khẳng định gã hiểu hết tiếng nói các tộc Hồ, còn vì sao gã có ngọc tỷ của Mộ Dung Thùy, tiểu nhân cũng không rõ”.
Tạ Huyền khẽ cười: “Cao huynh đệ yên tâm đi, bọn ta không chút hoài nghi ngươi, lại càng không hề nghi ngờ Yến Phi, Cao huynh đệ có thể lui xuống nghỉ ngơi được rồi, có chuyện ta lại sẽ cùng huynh đệ tán dóc nghe”.
Sau khi Cao Ngạn thoái lui khỏi đại đường, Tạ Huyền trầm giọng nói: “Lao Chi coi chuyện này ra sao?”.
Lưu Lao Chi bước tới bên tả ngồi xuống trước mặt Tạ Huyền nói: “Cao Ngạn tuy thường nghe danh giảo hoạt tham lợi, lần này tôi lại tin hắn không nói sai, hắn đối với Yến Phi thực sự có tình có nghĩa”.
Tạ Huyền đồng ý: ”Lao Chi coi việc rất chuẩn, nhưng chúng ta cũng không thể ký thác toàn bộ hy vọng vào Yến Phi cùng Mộ Dung Thùy ở đằng sau hắn. Tin tức tình báo do Cao Ngạn mang lại hết sức hữu dụng để hiểu rõ kế hoạch của địch nhân. Như thế nào sẽ có biện pháp như thế, ta khả dĩ cũng đoán được chiến thuật và mưu mô của hắn, tùy tiện sẽ để cho bên ta cùng quân tiên phong của Phù Kiên ngạnh đả một trận, trận này mà thắng, có thể khiến Chu Tự sanh xuất dị tâm đối với Phù Kiên, càng có thể thủ tín cùng Mộ Dung Thùy, cho hắn biết rõ chúng ta đủ tư cách cùng hắn hợp tác”.
Lưu Lao Chi tuy không hiểu suy nghĩ trong đầu Tạ Huyền, nhưng hắn luôn coi Tạ Huyền như thần minh, vội gật đầu đồng ý.
Tạ Huyền thở dài, ngước nhìn xà nhà nói: “Hy vọng ba ngày sau, Yến Phi có thể yên ổn tới gặp ta, hiện tại đối với gã ta có kỳ vọng rất lớn”.


Hồi 16

Di Lặc dị đoan


Hầm rượu rộng chừng ba trượng vuông, nói to không phải là to, nói nhỏ cũng không phải nhỏ. Có đến ba bốn trăm hũ Tuyết Giản Hương, đặt trên các giá gỗ thành tầng tầng lớp lớp, phân theo ngũ hành mà bố trí, đầu đuôi tương thông. Một ngọn đèn dầu đặt trên bậc đá ở bên chiếu sáng ra xung quanh.
Yến Phi bước xuống bậc đá, đưa tay ôm một hũ rượu lên, âu yếm vỗ về không rời tay: “Pháp môn kiếm tiền chân chính của Đệ Nhất lâu, chính là bảo bối này đây”. Thác Bạt Khuê mục quang sáng rực đang dò xét An Ngọc Tình và Lưu Dụ, thần tình băng lãnh, thái độ không chút thiện ý.
Yến Phi quay đầu về phía An, Lưu hai người nói: “Xin hai vị nghỉ ngơi một lát”.
Lưu Dụ vì nội thương chưa hoàn toàn thuyên giảm, sớm cảm thấy mệt mỏi kiệt sức, đặt mình ngồi xuống bậc đá, khẽ cười nói: “Nhị vị xin tùy tiện”. Lại hướng về phía An Ngọc Tình nói: “An tiểu thư tốt nhất ở xa một chút, bằng không nếu để mỗ hoài nghi ngươi có mưu đồ bất chính, phải lượng đao đối xử, chỉ e tổn thương hòa khí”.
An Ngọc Tình dưới cái nhìn dò xét của Thác Bạt Khuê đang ngầm kinh hãi, hiểu rõ thân hãm tuyệt địa hiểm cảnh, Lưu Dụ lại đã chặn đường ra duy nhất, thầm kêu bất diệu, nhưng hối thì đã muộn, hỉ còn cách tỏ ra không thèm để ý, yểu điệu hứ lên một tiếng, dịch sang một góc. Thường từ trước đến nay, nhờ vào nhan sắc khuynh quốc khuynh thành, ả luôn luôn chiếm được phần tiện nghi và ưu đãi, vậy mà ba nam nhân trước mặt đối với vẻ mỹ lệ của ả thảy đều coi cứ như không, nhất là Thác Bạt Khuê, nhìn ả như thể nhìn một đồ vật chết, không hề có một chút thay đổi tình cảm nhỏ nhặt nào. Người này tựa hồ không phải thiên tính lạnh lùng ngoan cố, mà là một nhân vật tâm trí kiên nghị đáng sợ.
Thác Bạt Khuê bị lời nói của Lưu Dụ làm cho mù mờ, càng không hiểu rõ quan hệ giữa ba người, lúc này Yến Phi một tay ôm hũ rượu, tay kia đặt lên vai hắn, cả hai theo thông đạo đi tới đầu bên kia của hầm rượu. Trong lòng hắn bất giác dâng lên cảm giác ấm áp, từ khi chia tay với Yến Phi, chưa hề có một người thứ hai nào có những động tác thân thiết như thế, mà hắn cũng không chấp nhận người khác làm như vậy.
Yến Phi nói: “Ngươi thụ thương rồi à?”.
Thác Bạt Khuê sát cơ trong song mục bừng lên, gật đầu nói: “Bọn chúng không biết làm thế nào mà đoán được ta ẩn thân trong đám Tiên Ti bang, bỗng nhiên điều động binh mã từ bốn phương tám hướng xông đến, may mà ta từng giờ từng phút giới bị, thấy tình thế không ổn lập tức xông khỏi trùng vây, chạy trốn tới đây. Nếu không có ngươi cho ta biết ở đây có chỗ ẩn thân, chắc hẳn cái mạng này không còn nữa”.
Yến Phi có thể tưởng tượng ra một trường đồ sát thảm liệt đầy khủng bố, Thác Bạt Khuê mặt đầy vẻ không vui, chính thị là nghĩ lại mà thêm đau lòng.
Hai người đi tới đầu bên kia, Thác Bạt Khuê nói: “Bọn họ là ai?”.
Yến Phi lần lượt giải thích, Thác Bạt Khuê cuối cùng lộ xuất nụ cười, nói: “Tạ Huyền quả thật có chút tay nghề, ha! Ngươi chẳng lẽ muốn làm người ôm hũ rượu như thế đi lại ngủ nghê hay sao?”.
Yến Phi buông hũ rượu xuống, cùng Thác Bạt Khuê quay trở lại. Lưu Dụ đang ngồi trên bậc đá, song mục tinh quang ngời ngời chăm chú nhìn Thác Bạt Khuê, Thác Bạt Khuê cũng không hề khách khí, mục quang vẻ dò xét nhìn lại. Yến Phi tuy rõ hai người có cùng mục tiêu vui vẻ hợp tác, nhưng vẫn có cảm giác giữa hai người ám tàng địch ý cạnh tranh; không biết là do phân biệt Hồ Hán, hay do mỗi người đều cảm thấy ngày sau người kia sẽ trở thành kình địch của mình. Cảm giác kỳ dị này thật khó mà giải thích. Còn về tình huống trước mắt hai người mà nói, Lưu Dụ vẫn chỉ là một viên tiểu tướng tầm thường ở Nam Tấn, thực lực của Thác Bạt Khuê thì còn lâu mới đủ thành sự. Mặt khác hiện tại hai người lại đều có thể thúc đẩy đại cục phát triển.
Bốn cánh tay nắm chặt.
Thác Bạt Khuê cười khẽ: “Lưu huynh tới hay lắm”.
Bên kia Yến Phi hạ thấp giọng nói: “Lưu huynh đừng cho là lạ, đối với hắn, ta không có gì giấu giếm cả”.
Hai người đều biết Yến Phi không muốn An Ngọc Tình nghe thấy, bất giác cùng quay đầu nhìn về phía ả.
Thác Bạt Khuê giang tay, nói nhỏ: “Thành đại sự bất câu tiểu tiết, Lưu huynh cho là như thế, nên chăng?”.
Lưu Dụ nhạt giọng nói: “Thái Bình yêu nữ, giết không thương xót”.
An Ngọc Tình ở một góc tuy không nghe thấy lời nói của bọn họ, nhưng thấy hai người song mục không chút biểu tình đều nhìn đăm đăm vào mình, đương nhiên biết không phải là điều tốt lành, ngầm đề khí vận kình, chuẩn bị ứng biến.
Yến Phi minh bạch hai người một hỏi một đáp đã quyết định đưa An Ngọc Tình đến chỗ chết, ngầm hít một hơi dài, nói: “Chuyện này để ta tác chủ”. Tiếp đó cao giọng nói: “An tiểu thư an tâm, bọn ta trước tiên y theo lời hứa vẽ bản đồ giao ra, sau đó sẽ nghĩ biện pháp đưa tiểu thư ly khai. Yến Phi này xin lấy đầu bảo đảm. Chỉ cần tiểu thư lập thệ không phá hoại công chuyện của bọn ta, bọn ta quyết sẽ không nuốt lời”.
An Ngọc Tình lần đầu tiên trong đời chân tâm cảm kích một người. Yến Phi khác hẳn Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê, ít nhất cũng một lời hứa đáng ngàn vàng, bất kể trong tình huống nào cũng không hối hận.
Yến Phi đã nói như vậy, Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê tuy ngàn lần không muốn, cũng không thể không theo ý gã.
Thác Bạt Khuê cười khổ lắc đầu đi ra, không một lời phản đối. Lưu Dụ thì bất lực nói: “Trong bọc của ta có giấy bút, Yến huynh muốn sao thì làm vậy đi”.
o0o
Tạ An hứa gả con gái cho Vương Quốc Bảo, một kẻ gian thần tặc tử, khi ấy ông sở dĩ đồng ý, một mặt vì Vương Quốc Bảo ác tính chưa rõ, muốn cho ái nữ vui lòng; chủ yếu còn vì tình thế bức bách, để duy trì quan hệ mật thiết giữa hai nhà Vương – Tạ, ông không thể không đáp ứng lời cầu thân của Vương Thản Chi.
Một hai năm trở lại đây, Vương Quốc Bảo với Tư Mã Đạo Tử qua lại hết sức thân mật, em gái họ của họ Vương là phi tử của họ Tư Mã, hai tên đàng điếm hợp ý, đều chìm đắm trong tửu sắc, tự nhiên mà thành tri kỷ. Thêm vào đó hai tên đều vì lý do khác biệt mà oán hận Tạ An, đố kỵ Tạ Huyền, tình huống càng ngày càng căng thẳng.
Vương Quốc Bảo bất mãn với Tạ An bởi vì Tạ An căm ghét hắn độc ác, không trọng dụng hắn, chỉ đồng ý để hắn làm một chức quan không có gì vinh hiển là Thượng thư lang. Vương Quốc Bảo nghĩ mình xuất thân từ dòng dõi Lang Nha Vương, con em danh môn vọng tộc, vẫn mong có chức quan hiển hách Lại bộ lang, không đạt được sở nguyện, bèn đối với Tạ An ôm hận trong lòng, dùng mọi phương pháp đả kích Tạ gia. Lần này chiến tranh nam bắc, Vương Quốc Bảo và Tư Mã Đạo Tử đều bị loại khỏi quân đoàn kháng địch, lòng oán hận trong lòng bọn chúng có thể biết là thế nào.
Tạ An tâm tình nặng nề cất bước leo lên các bậc đá trong chủ đường. Một vị quý phụ từ cửa lớn bước ra nghênh đón, thoáng trông chỉ chừng ba mươi, nhìn kỹ thì đã không còn thanh xuân, khoé mắt đầy những nếp nhăn khó giấu, năm tháng tuy bất lưu tình, nhưng vẫn còn thấy được tấm nhan sắc chim sa cá lặn buổi thiếu thời của một vị mỹ nhân đẹp đẽ, thần thái đoan trang nhàn nhã, với phong phạm khuê tú nhà đại gia. Tạ An ngạc nhiên nói: “Đạo Uẩn, là ngươi đến đó sao?”.
Tạ Đạo Uẩn là vị tài nữ của Tạ gia được người ngoài sùng mộ nhất, được xếp cùng những vị tiền cổ tài nữ Ban Tiệp Dư, Ban Chiêu, Thái Văn Cơ, Tả Phân danh thơm trước sau tỏa sáng. Nàng là cháu gái yêu quý nhất của Tạ An, là tỷ tỷ của Tạ Huyền. Nàng đã được gả vào nhà họ Vương, trượng phu là thứ tử của đại thư pháp đại gia Vương Hy Chi, tên là Vương Ngưng Chi, bất quá cuộc hôn nhân này lại không mấy vui vẻ, mỗi lần nàng về nhà cha mẹ đều coi thấy nét buồn trên mi mắt, chỉ vì Tạ Đạo Uẩn xưa nay không nói chuyện về trượng phu, ông cũng không biết rõ vấn đề xuất hiện từ đâu. Nàng thanh đàm huyền học tạo nghệ đều vang lừng Giang Tả. Mỗi lần Tạ An gặp nàng, trong lòng đều ngầm tiếc vì sao nàng không sinh ra là nam nhi, mỗi khi Tạ gia có chuyện thì không phải chỉ dựa vào đệ đệ Tạ Huyền của nàng độc lực gánh vác.
Tạ Đạo Uẩn bước lên nắm tay áo Tạ An đi sang bên cửa nói: “Quốc Bảo mang nỗi oán giận nhị thúc không đoái hoài tới hắn phát tiết hết lên người Sính Đình, lại còn... ài! Để Sính Đình muội ở đó khó chịu đựng được thêm một thời gian a!”.
Tạ An song mục loé lên, trầm giọng nói: “Súc sinh đó phải chăng dám vô lễ với Sính Đình?”.
Tạ Đạo Uẩn cười khổ nói: “Còn nhị thúc, hắn còn chưa dám động thủ đánh người đâu, bất quá lại đi xé bỏ tấm khăn thêu mà Sính Đình yêu thích nhất, thật làm cho người ta lo lắng”.
Tạ An hồi phục lại sự bình tĩnh, điềm đạm thốt: “Nếu súc sinh đó không thân hành đến tạ tội với Sính Đình, đừng mong ta để Sính Đình về lại nhà họ Vương”.
Tạ Đạo Uẩn trầm mặc một lát, nhẹ nhàng nói: “Nhị thúc có biết thánh thượng đã phê chuẩn dùng quốc khố để kiến tạo lại Di Lặc tự, nghênh tiếp Nhị Di Lặc Trúc Bất Quy của Di Lặc giáo không? nếu chẳng phải đại quân Phù Tần nam lai, chuyện này đã được mang ra thảo luận tại triều đình xem nên làm thế nào rồi”.
Tạ An trong tâm chấn động kịch liệt, như dâng lên sóng gió ngập trời.
Nam Tấn chi chủ Tư Mã Diệu cùng thân đệ Tư Mã Đạo Tử hai người sùng bái Phật giáo, cho xây dựng Phật tự xa xỉ cùng cực, thân thiết quan hệ đa phần là nam nữ tăng đồ.
Phật giáo truyền từ Thiên Trúc, theo danh tánh mà nói, tăng lữ mang chữ Trúc, là đời thứ chín tính từ khi Thiên Trúc có nguyệt lịch, thuộc về họ của người Hồ, Hán nhân ở Trung thổ xuất gia làm tăng, cũng theo đấy cải họ Trúc hoặc Chi. Vị phương ngoại hảo hữu của ông Chi Tuần vốn là người Hán họ Lưu, đã cải họ Chi.
Được quân vương suy sùng, tăng lữ xuất gia cũng được hưởng nhiều đặc quyền, lên tới một trình độ thượng đẳng nào đó rồi sẽ nhận được những đặc quyền giai cấp không kém gì các cao môn đại tộc, không những không phải phục dụng binh dịch, lại còn có thể được miễn thuế khóa. Chùa chiền có thể có các hộ tín đồ làm công việc gặt hái trồng trọt, lại còn có các hộ đảm nhiệm các loại tạp dịch. Đến nỗi cả các bạch đồ, dưỡng nữ đều được xếp vào danh mục nô tỳ sở hữu bởi các tăng lữ cao cấp. Thậm chí các người trong cao môn đại tộc thuộc sa môn còn không chịu tuân theo những quy lệ của tục gia, cái gọi là 'nhất bất bái phụ mẫu, nhị bất bái đế hoàng', là nghĩa như thế.
Phật môn càng hưng thịnh, đảm phụ quốc gia càng nặng nề, thực là mối lo âm thầm của Nam Tấn. Nhưng nếu đem so sánh, lại còn lâu mới bằng mối hiểm họa sâu xa dữ dội gây nên bởi Di Lặc giáo mới hưng thịnh.
Di Lặc giáo là một loại dị đoan của Phật giáo, Tạ An vốn không hề có ác cảm với giáo nghĩa của Phật giáo, nếu không đã chẳng giao du mật thiết với Chi Tuần, tuy nhiên Di Lặc giáo lại là chuyện khác.
Nguyên lai trong kinh Phật giải thuyết về Thích Ca Phật Đà, Thích Ca không phải là vị Phật duy nhất, câu: “Thích Ca trước có lục Phật, Thích Ca kế lục Phật mà thành đạo, ở kiếp mới này, tương lai sẽ có Di Lặc Phật, kế tiếp Thích Ca giáng thế”, lại thuyết: “Thích Ca chánh pháp trụ thế năm trăm năm, tương pháp một ngàn năm, mạt pháp một vạn năm”, do vậy thời đại của Thích Ca đã đến lúc như mặt trời lặn non tây, đời thứ tám Di Lặc sẽ đúng kỳ xuất thế.
Tăng nhân bắc phương Trúc Khánh Pháp giương cao ngọn cờ “tân Phật xuất thế, trừ khử cựu ma”, sáng lập Di Lặc giáo, tự xưng là Đại Hoạt Di Lặc, thế lực khuếch trương nhanh chóng. Trúc Bất Quy là nhân vật thứ hai có quyền kế thừa ngôi vị Di Lặc giáo chủ, hai tên này đều có võ công đạt cảnh giới siêu phàm nhập thánh, đã mấy lần Phật môn cao thủ liên thủ thảo phạt bọn chúng, đều hao binh tổn tướng rút về, khiến Di Lặc giáo thanh uy càng thịnh, người theo đến mỗi ngày một nhiều. Không ngờ được bây giờ lại có quan hệ chồng chéo với Tư Mã Diệu và Tư Mã Đạo Tử, thế lực duỗi lần đến phương Nam, quả là hậu hoạn vô cùng, không biết giải quyết làm sao. Sự kinh hoàng của Tạ An không phải là không có đạo lý.
Thanh âm của Tạ Đạo Uẩn lại tiếp tục bên tai: “Theo lời của Ngưng Chi, thủ hạ tâm phúc của Tư Mã Đạo Tử là Việt Nha và Cô Thiên Thu phụ trách lo liệu phí dụng và
tài liệu của việc chấn hưng Di Lặc tự, việc này tất chắc chắn sẽ làm, khiến người ta phải lo lắng”.
Tạ An hít sâu một hơi thở, lắc đầu cười khổ nói: “Chuyện này để ta cùng Chi Tuần thương lượng rồi mới nói, bây giờ ta đi gặp Sính Đình đã. Ài! Nữ nhi khổ mệnh của ta!”.
o0o
An Ngọc Tình sắc mặt bình tĩnh nhận lấy ngọc đồ được Lưu Dụ và Yến Phi vẽ ra, không nói một lời, lánh ra góc xa nhất, xem kỹ và so sánh hai bản địa đồ rồi đi mất.
Ngồi trên bậc đá nhìn An Ngọc Tình đi khuất, Lưu Dụ có dự cảm bất an, vì tà công bí kỹ của ả từng xuất thủ nhiều vô kể, thấp giọng đề tỉnh hai người: “Coi chừng ả có thể dùng thủ đoạn lộng ma giả quỷ!”.
Yến Phi biết trong lòng gã bất mãn mình cản trở bọn họ giết An Ngọc Tình, tránh khỏi bị ả làm vướng cẳng, ngầm thở một hơi, nói: “Thời gian không có nhiều, đêm nay chúng ta phải hoàn thành nhiệm vụ, sau đó sẽ tìm cách ly khai nơi này”.
Thác Bạt Khuê nhìn theo An Ngọc Tình đi khuất sau một dãy những hũ rượu xếp thành hàng, lẩm bẩm: “Ít ra cũng nên làm cho ả ngất đi, đúng không?”. Yến Phi nói: “Chúng ta nếu muốn thoát thân, vẫn còn phải nhờ đến cái trò chơi nho nhỏ của cô ta”.
Hai người lần này lại không còn gì để nói.
Lưu Dụ quay sang nhìn Thác Bạt Khuê, nghiêm túc nói: “Thác Bạt huynh coi tình hình Mộ Dung Thùy ra sao?”.
Thác Bạt Khuê ngồi bên cạnh Lưu Dụ, thấp giọng nói: “Huynh có thể coi ta như đại biểu của hắn. Lần này đại quân Phù Kiên nam lai, dùng kỵ binh hai mươi bảy vạn, bộ binh hơn sáu mươi vạn, nói vống lên thành trăm vạn. Thực ra chủ lực chiến đấu là kỵ binh, bộ binh chỉ dùng để vận thâu, chi viện cho kỵ binh tác chiến ở tiền tuyến. Đối với Phù Kiên mà nói, bộ binh quá lắm cũng chỉ là binh chủng phụ trợ, chuyện này không thể không nghiên cứu kỹ càng, vì có quan hệ đến thành bại của chiến tranh”.
Lưu Dụ tinh thần chấn động mạnh, hiểu rõ Thác Bạt Khuê đang phân tích phân bố binh lực và kết cấu đại quân Phù Kiên. Người Hồ thường giỏi chiến đấu trên lưng ngựa, hơn xa Hán nhân, vì vậy lời nói của Thác Bạt Khuê có thể tin được. Không kềm được hỏi: “Câu nói này của Thác Bạt huynh phải chăng là từ miệng của Mộ Dung Thùy?”.
Thác Bạt Khuê cười nhẹ, liếc mắt nhìn Yến Phi vừa ngồi xuống trước mặt hai người, gật đầu nói: “Có thể nói như vậy, nhưng cũng thêm vào kiến giải của cá nhân ta. Kỵ binh của Phù Kiên đa số là người Hồ, bộ binh là người Hán. Bố trí của Phù Kiên là dùng Phù Dung và Mộ Dung Thùy cùng hai mươi lăm vạn quân cả bộ lẫn kỵ làm tiên phong, sai Diêu Trường lo chuyện quân tình Ích Châu và Lương Châu, Phù Dung đánh Thọ Dương, Mộ Dung Thùy đánh Vân Thành. Một khi hạ xong hai thành, đại tướng Để tộc tâm phúc của Phù Kiên là Lương Thành thống lãnh năm vạn tinh kỵ đồn trú ở Lạc Giản, cùng Thọ Dương tương trợ nhau, liền đưa đại quân vượt sông Phì Thủy”.
Lưu Dụ và Yến Phi ngơ ngác nhìn nhau, Lạc Giản nằm ở phía đông Thọ Dương, là nhánh chia ở hạ du Hoài Thủy, chỗ phân lưu của Lạc Giản và Hoài Thủy là Lạc Khẩu, nếu Phù Kiên mang trọng binh tới đóng ở đó, cùng Thọ Dương hỗ tương hô ứng, Phù Kiên sẽ dễ dàng vượt qua Phì Thủy, khi đó sẽ phân binh nhiều đường xuôi nam, công thành chiếm đất, thẳng tới tận Trường Giang mới gặp cách trở, Kiến Khang sẽ rơi vào tình thế nguy hiểm.
Thêm vào thiết kế Biên Hoang tập thành hậu phương chi viện khổng lồ, có thể thấy lần này Phù Kiên xua quân nam hạ, kế hoạch chu toàn, tuyệt đối không sai loạn.
Thác Bạt Khuê khẽ cười: “Năm vạn kỵ binh này là tinh nhuệ của Để tộc, nhưng sự thực quân tiên phong ngoài ba vạn kỵ binh Tiên Ti tộc của Mộ Dung Thùy, số quân kỵ còn lại đều thuộc Để tộc tinh nhuệ, nếu Lương Thành và Phù Dung lưỡng quân gặp thảm bại, Phù Kiên thế lực mong manh khốn khó, nếu chạy về phương bắc, cũng biến thành không nơi nhờ cậy, hậu quả ra sao không khó tưởng tượng”.
Yến Phi cuối cùng cũng minh bạch, Thác Bạt Khuê và Mộ Dung Thùy quả là cao minh, mục tiêu của họ là để cho Nam Tấn tận diệt tinh hoa của Để tộc quân, khi đó cho dù Phù Kiên phản hồi phương bắc, Đại Tần quốc cũng vẫn khó tránh được vận mệnh nước mất nhà tan. Khi đó ai trở thành tân vương của phương Bắc, còn phải xem quyền đầu của người đó có đủ cứng hay không.
Lưu Dụ miễn cưỡng trấn áp cơn chấn động hãi hùng trong tâm, gã là người hiểu binh pháp, càng hiểu rõ đại kế của Tạ Huyền dựa vào Phì Thủy kháng địch. Nếu để Phù Kiên mang một đội tinh binh bố trí tại Lạc Khẩu, Tạ Huyền khi đó mới đến thì binh lực bạc nhược đến mức đáng thương của Bắc phủ binh sẽ trở thành lưỡng đầu thọ địch, chỉ có thể lui về bờ nam Trường Giang, ngồi coi địch nhân khí thế như gió cuốn mây bay thu gom các trấn Giang Bắc, việc duy nhất có thể làm là chờ coi khi nào thì địch nhân vượt sông tiến công Kiến Khang, không kềm được trầm giọng nói: “Mộ Dung Thùy trong tình huống như vậy có thể có động tác gì?”.
Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Hắn căn bản không cần làm gì, mà hắn không làm gì cũng đủ khiến Phù Kiên rớt đài ở trận chiến này, vấn đề ở chỗ nam nhân các người có biết nắm lấy cơ hội hay không. Mộ Dung Thùy sau khi hạ được Vân Thành, sẽ ngừng lại giữ đất, để phòng Hoàn thị ở Kinh Châu, Phù Kiên sẽ không thể không phân cho Mộ Dung Thùy tinh binh để làm việc này, đề phòng Hoàn Xung từ phía tây đột kích. Trong lòng Phù Kiên còn cố kỵ Hoàn Xung hơn nhiều so với Tạ Huyền”.
Tiếp đó khoé môi lượn lờ một nét cười khó nhận ra, nhạt giọng nói: “Tạ Huyền nếu cao minh như truyền thuyết, nên hiểu rõ câu chuyện này có thể khiến toàn bộ tình thế nghịch chuyển, chỉ có tốc chiến, mới có thể tốc thắng”.
Lưu Dụ và Yến Phi cùng ngầm kêu lợi hại, bọn họ đương nhiên không hiểu rõ sự thực Tạ An sớm đã có tiên kiến rõ ràng, không thẹn là vị chủ soái vận trù sáng suốt, quyết thắng ngoài ngàn dặm, Tạ Huyền cũng hiểu sâu sắc những chuyện liên quan bên trong, cho nên quyết tâm thắng cho được trận đầu khi địch nhân còn chưa đứng vững.
Phải biết binh mã của Phù Kiên lên tới chín chục vạn, hành quân chậm chạp, lương thảo nặng nề điều phối khó khăn, cho nên đã hạ định đại kế đem ky bịnh chủ lực tinh nhuệ công hãm Thọ Dương và Vân Thành trước, tụ tập ở Lạc Khẩu, xây dựng cứ điểm vững chắc ở tiền tuyến, sau đó đợi đại quân tập trung, sẽ vượt qua Phì Thủy xuống nam, chiến lược này không một chút sai sót. Bắc Phủ binh là đội quân duy nhất có thể thừa cơ địch nhân hành quân vất vả, binh lực chưa tập trung đầy đủ, người mệt ngựa mỏi, chủ động tiến công, đánh giết đối phương trở tay không kịp. Hiện tại Thác Bạt Khuê tận tình nói rõ sách lược của Phù quân cho Lưu Dụ, Tạ Huyền tự mình có thể chiếm hết tiên cơ, đưa ra biện pháp phản kích thích hợp.
Trận này nếu Phù Kiên bại, những kẻ lãnh đòn chính là quân bản bộ Để binh của hắn. Mộ Dung Thùy, Diêu Trường thì chẳng những không tổn hại tí gì, lại còn có thể tọa hưởng kỳ thành.
Lưu Dụ đột nhiên nói: “Ta phải lập tức mau chóng trở về”.
Yến Phi gật đầu đồng ý, vì rằng với những tin tức tình báo trân quý Thác Bạt Khuê vừa thấu lộ có thể xách động Chu Tự lại quy hàng Nam Tấn hay không đã không còn là vấn đề khó khăn gì nữa, có chăng cũng chỉ là câu chuyện vẽ gấm thêu hoa vui vẻ mà thôi.
Nhưng khi Yến Phi đưa ra ý kiến này, Thác Bạt Khuê lại lắc đầu nói: “Không được! Chu Tự sẽ là quân bài trọng yếu phi thường”.
Lưu Dụ đang muốn truy vấn thì có tiếng động lạ từ mặt đất truyền tới, hai người đồng thời kinh hãi, biết rằng địch nhân bắt đầu triển khai kế hoạch tra xét triệt để Đệ Nhất lâu. Tuy biết rõ chuyện này tất nhiên phải phát sinh, đến thời điểm phát sinh ba người vẫn bất giác cảm thấy thót tim, chỉ có thể đợi chờ sự phán quyết của vận mệnh.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #9  
Old 12-20-2012, 02:57 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 17, 18

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 17

Vì họa được phúc


“Bình!”.
Tư mã Đạo Tử đập tay lên cái kỷ nhỏ bên cạnh, mắng lớn: “Tư mã Đạo Tử ta anh hùng một cõi, tại sao lại sinh ra ngươi một tên vô dụng ngu ngốc như ngươi vậy? Không biết mình được bao nhiêu cân lượng mà dám tranh phong thất thố với Tạ An? Đừng nói gì lão ta chỉ chém cụt tay hai nô tài kia, cho dù lão có chặt tay ngươi, ta cũng không nói được gì”.
Tư mã Nguyên Hiển nước mắt khuất nhục lưng tròng, nỗ lực kềm nén không để nước mắt trào ra, khổ một cái là hai hàng lệ vẫn không chịu nghe lời mà cứ tuôn chảy, quỳ trước mặt Tư mã Đạo Tử, cúi đầu không dám đáp lời.
Lang Nha Vương phủ của Tư mã Đạo Tử ở ngoài cửa đại tư mã trong Kiến Khang Cung, trong phủ lầu các trùng điệp. Sáng sớm hôm đó sau khi bãi triều đã cùng đám tâm phúc Viên Duyệt Chi, Vương Quốc Bảo, Việt Nha, Cô Thiên Thu bốn người về phủ nghị sự, đang lúc thương lượng, Tư mã Nguyên Hiển tự thị mình được cưng chiều, tiến vào kể than với cha về chuyện đêm qua ở Tần Hoài Lâu, nào ngờ lại bị Tư mã Đạo Tử mắng tưới.
Vương Quốc Bảo ngồi chiếu bên phải không cầm được bênh giùm Nguyên Hiển: “Nguyên Hiển công tử niên kỷ còn trẻ, có lúc không biết nặng nhẹ, có thể tha thứ dựa theo hoàn cảnh.Bất quá, hừ, không nhìn mặt tăng cũng nên nể mặt Phật, Trung thư giám tuy là nhạc trượng của ta, lão ta kỳ này làm quá đáng rồi!”.
Viên Duyệt Chi bên kia cũng hừ lạnh: “Cũng khó trách lão ta, hiện tại đột nhiên nắm lấy quân chính đại quyền, đâu có tránh khỏi đắc ý, theo tôi thấy lão ta muốn tỏ ra oai thế bề trên đối với bọn ta”.
Tư mã Đạo Tử lại chừng như không nghe thấy lời nói của hai người, cũng có vẻ như không nhìn thấy Việt Nha và Cô Thiên Thu hai người gật đầu biểu thị đồng ý, giận dữ chằm chằm nhìn Tư mã Nguyên Hiển lúc này vẫn không dám ngước đầu dậy mà chỉ có thể ngầm cảm kích lời nói an ủi của Vương Quốc Bảo và Viên Duyệt Chi, y gằn từng tiếng: “Không tự lượng thực lực, gây nhục nhã. Ta phạt ngươi nội trong mười ngày không được bước ra cửa phủ nửa bước, mau đi luyện kiếm cho ta. Cút!”.
Tư mã Nguyên Hiển mặt mày uất ức đi ra, Tư mã Đạo Tử lắc đầu cười: “Khà khà! Hay cho Tạ An! Hay cho Tống Bi Phong!”.
Việt Nha thấp giọng hỏi dò: “Vương gia có phải định bỏ qua chuyện này?”.
Tư mã Đạo Tử bắn mục quang qua Việt Nha, điềm đạm thốt: “Ngươi nói ta phải làm sao chứ? Hiện tại đại quân Phù Tần tràn xuống phương Nam, bọn ta có qua được cái nạn này hay không còn chưa biết chắc được, hoàng huynh cũng không thể không dựa dẫm Tạ An, ta có thể được phép đụng đến lão ta sao?”.
Vương Quốc Bảo hiến kế: “Bọn ta ít ra có thể để cho hoàng thượng biết được chuyện này, Tạ An nắm được quân quyền, liền dung túng bộc phá làm dữ, cả Nguyên Hiển công tử cũng không tha, hoàng thượng biết vậy làm sao mà không giới phòng lão ta chứ?”.
Chỉ nghe gã kêu thẳng tên Tạ An, nghĩ ra độc kế thô bỉ như vậy là có thể biết gã đối với Tạ An không còn một chút thân tình kính ý gì, hận tới thấu xương, muốn dồn vào tử địa mới cam tâm.
Tư mã Đạo Tử mặt có vẻ do dự.
Viên Duyệt Chi coi mặt bắt lòng, nói thêm: “Do vụ này có liên quan tới vương gia, không nên để vương gia nói với hoàng thượng, nếu có thể để Trần thục viên chuyển lời đến tai hoàng thượng, lời nói càng có sức thuyết phục”.
Tất cả mọi người bao gồm Tư mã Đạo Tử, ai ai cũng để lộ nụ cười ám muội, nụ cười của Vương Quốc Bảo lại càng méo xệch.
Vốn quý phi mà Tấn đế Tư mã Diệu một mực sủng ái nhất là Trần thục viên, “thục viên” là một thứ cấp bậc quý phi, là quý phi cấp tối cao. Thân tín trong khuê các của Trần thục viên có ni cô Diệu Âm được gọi là “Tiếu Ni”, cùng Vương Quốc Bảo có mối quan hệ không thể nói cho ai biết, Viên Duyệt Chi nói như vậy, có khác nào dạy cho Vương Quốc Bảo thông qua Diệu Âm mà khiến Trần thục viên nói xấu Tạ An với Tư mã Diệu. Người biết mối quan hệ giữa Vương Quốc Bảo và Diệu Âm đâu có mấy ai, xảo hợp là người có mặt ở đâylại là người biết, cho nên cười ám muội, Vương Quốc Bảo vì vậy thần tình mới ngượng nghịu.
Chúng nhân mục quang đều lạc trên người Tư mã Đạo Tử, chờ quyết định của y. Tư mã Đạo Tử thản nhiên thốt: “Trước hết làm như vậy đi”.
Bọn Vương Quốc Bảo biết rõ Tư mã Đạo Tử trách mắng Tư mã Nguyên Hiển không phải là không muốn đụng chạm đến Tạ An, chỉ là không thể mượn vụ này mà làm khó Tạ An, vì thời cơ chưa thích hợp, cố đè nén ý muốn báo thù của Tư mã Nguyên Hiển.
Viên Duyệt Chi thở dài nhè nhẹ: “Theo tin tức truyền từ trong cung ra, hoàng thượng không còn sủng ái Trần thục viên nhiều như lúc trước nữa, nếu không phải có hai vị vương tử nói giúp nàng ta, nói không chừng hoàng thượng đã tống nàng vào lãnh cung, không thèm ngó ngàng tới”.
Hoàng hậu của Tấn đế Tư mã Diệu là Vương Pháp Huệ, xuất thân Vương thị danh môn đại tộc ở Thái Nguyên, mười sáu tuổi được tuyển nhập cung làm Hậu, nào ngờ nàng ta lại nghiện rượu quá nặng, tính tình lại vừa kiêu ngạo vừa ghen tỵ, mới hai mươi mốt tuổi đã qua đời. Trần thục viên tên thật là Trần Quy Nữ, con gái của phường chèo Trần Nghiễm, hoa dung nguyệt mạo, ca vũ đều tinh, được tuyển vào cung làm thục viên, sinh hạ được hai đứa con trai Tư mã Tôn và Tư mã Đức cho Tư mã Diệu, được Tư mã Diệu sủng ái, bất quá người yếu lắm bệnh, khó có thể ngày ngày bồi hầu Tư mã Diệu tận tình hoan lạc, Tư mã Diệu luôn luôn đắm say tửu sắc đương nhiên không thỏa mãn, không ngừng truy tầm của mới, cho nên không sủng ái nàng ta nhiều như trước.
Tư mã Đạo Tử cười khổ: “Hoàng thượng tâm ý khó đoán, chuyện đó ai ai cũng không có cách”.
Cô Thiên Thu nói: “Nếu bọn ta có thể tìm được một tuyệt sắc mỹ nhân thiên kiều bá mị, lại biết cách thăm dò đưa đẩy tâm ý của hoàng thượng, thêm vào chịu nghe lời, phương diện đó cũng không phải hoàn toàn không có biện pháp”.
Tư mã Đạo Tử phấn chấn tinh thần: “Nghe Thiên Thu nói như vậy, chắc biết có hạng gái đó ở đâu chứ?”.
Cô Thiên Thu đi bằng đầu gối tới trước, thẳng đến kề sát Tư mã Đạo Tử, rù rì một cách thần bí cực kỳ bên tai y.
Tư mã Đạo Tử nghe nói trên mặt nét mừng càng lúc càng nồng đậm, cuối cùng vỗ đùi lớn tiếng: “Thiên Thu lập tức tiến hành chuyện này đi. Tạ An! Trận chiến này bất luận là thành hay là bại, ngươi đều không còn bao nhiêu ngày giờ nữa, để xem ngươi còn có thể đắc ý hoành hành được tới khi nào đây!”.
o0o
Tiếng rổn rảng chảo sắt quăng xuống đất từ bên trên truyền xuống, kinh tâm động phách, hiển thị binh Tần đang triển khai lục lọi triệt để trong Đệ nhất Lâu, cả ông lò cũng không bỏ qua.
Địch nhân mau chóng tìm đến đây như vậy, thật vượt ngoài ý liệu của bọn họ, chỉ khổ là bọn họ không còn cách nào. Nếu địch nhân kỹ càng không để lọt một tấc đất, truy tầm ra hầm ngầm, bọn họ không thể nào độn thổ giấu mình.
Yến Phi mục quang quay sang góc An Ngọc Tình đang thu lu ẩn tàng, nàng mỹ nữ đó cũng tựa hồ biết thân biết phận như bọn họ, không dám tạo ra tiếng động. Bên trên thình lình tĩnh lặng lại, tiếng la ó lắng đi.
Ba người đưa mắt nhìn nhau, tay Lưu Dụ nắm chặt cán đao, Thác Bạt Khuê từ từ tháo song kích trên lưng xuống, bất luận cơ hội nhỏ nhoi tới đâu, bọn họ cũng phải tận lực gồng mình đột vây.
Yến Phi lại sinh ra cảm giác mơ hồ không biết mình đang ở đây, một cảm giác kỳ dị vừa quen thuộc vừa xa lạ. Tất cả trước mắt tựa hồ không có bất cứ quan hệ gì với chàng, khơi khơi lại giống như có dính líu sâu đậm. Thứ tình huống là người tham dự mà cũng lại là khách bàng quan, như đang trải qua trong mộng cảnh, chuyện xảy ra xung quanh cứ lần quần giữa thật và không thật.
Từ sau khi mẹ chàng qua đời, chàng thỉnh thoảng có thứ cảm giác đó. Cái chết của mẫu thân khiến cho chàng nhận biết sự tuyệt đối và tàn nhẫn của tử vong, mà trên sự thật mỗi một người sau khi sinh ra đã liền chờ chực tử vong tới, chỉ có thể chọn quên nó đi, cứ như tử vong không tồn tại. Nhưng cuối cùng cũng có một ngày mình cũng khó tránh khỏi phải đối diện nó, cho dù tử vong có thể là sự khởi đầu của một cuộc sống khác!
“Bình! Bình!”.
Hai tiếng động gạch đá vỡ tan vang lên, từ bên trên truyền xuống, Yến Phi còn chưa hoàn toàn tỉnh táo lại, Thác Bạt Khuê đã búng người lên trước mặt chàng, chạy lên bậc đá, tiếp theo đó là Lưu Dụ.
Thời gian chừng như đột nhiên chậm lại, chàng có thể nhìn rõ ràng mỗi một động tác của bọn họ, có thể nhất thời không biết mục đích của hành động của bọn họ, càng không rõ chuyện gì đã xảy ra.
Đang lúc hai người trước sau phóng lên bậc thang đá, lại “oành!” một tiếng như sấm sét sát mang tai, bộc phát tại đầu trên thạch cấp, vọng hưởng gấp bội lần hồi nãy, đất đá rơi xuống rào rào.
Yến Phi sực tỉnh lại, hồn vía quay về nhân thế nắm bắt tình hình xảy ra trước mắt.
Địch nhân đang dùng một loại thiết chùy phá ông lò trong nhà bếp của Đệ nhất Lâu bên trên, bao gồm cả cái lò cửa vào địa đạo, nếu lò bị hủy, đường vào tự nhiên sẽ lộ ra, bọn họ không còn may mắn nữa.
Yến Phi ngước mắt nhìn, thấy Thác Bạt Khuê dùng binh khí và tấm lưng xoay tay đội cửa vào, Lưu Dụ cũng lấn tới bên cạnh hắn, bộ dạng cũng y hệt, hai người gồng lưng đỡ gạch đá lớn có nhỏ có đang rãi rơi từ cửa vào. Yến Phi thấy vậy, liền phóng lên bậc cấp, giơ hai tay ra, che chắn đất đá, ba người hợp lại thành một đội.
Đó là kế duy nhất có thể làm trong khi không còn biện pháp, không để gạch đá rơi xuống bậc cấp, để lộ ra cửa vào, có tám chín cái lò, địch nhân có khi sơ hốt để lỡ.
Gạch đá bể vỡ không ngừng rơi đập trên lưng và lòng bàn tay ba người, rớt lăn xuống thạch cấp, thanh âm thiết chùy oanh kích mặt đá không ngừng đinh tai nhức óc, mỗi một tiếng đều vang vọng tận sâu trong tâm khảm ba người, khiến cho bọn họ như chìm mình trong một trường ác mộng không bờ bến. Chuyện duy nhất có thể làm là tận lực ngăn cản không để đáy lò vỡ nát, nhưng tiếng người và tiếng chùy đập bên trên lại càng lúc càng ép sát rõ rệt, làm cho bọn họ càng lúc càng cảm thấy được sự tiếp cận và áp lực của địch nhân.
“Oành!”.
Ba người đầu cổ mặt mày dính đầy tro bụi, lúc đất đá chui luồn luôn vào cổ, tiếng oanh kích cuối cùng đã đình chỉ. Bọn họ có thể tưởng tượng đáy lò đã biến thành bụi, chỉ còn một khoảnh còn nguyên nhờ vào máu thịt của bọn họ chống đỡ, nếu không cửa vào hầm rượu đã bộc lộ dưới mắt địch nhân rồi.
Thanh âm của Khất Phục Quốc Nhân từ bên trên truyền xuống: “Bọn chúng thật ra đang trốn ở đâu? Không ngờ không phải trong Đệ nhất Lâu, bọn ta đã lục tìm mỗi một tấc đất, thật kỳ quái!”.
Một thanh âm thô bạo khác nói: “Ta đã nói chi bằng hỏa thiêu trọn tòa quỷ lâu này đi, xem xem bọn chúng còn có thể trốn ở đâu nữa?”.
Lại một người khác: “Theo Mông Tốn thấy, trong Tập có khi còn có địa đạo khác đưa ra khỏi tập, hoặc có khi có mật thất dưới đất gì đó, nhưng khẳng định là không phải trong Đệ nhất Lâu”.
Bên trên lại im lặng trở lại.
Sau một hồi, một thanh âm bình tĩnh thốt: “Nếu có bí đạo mật thất, vậy thì thật là đau đầu. Thiêu hủy Đệ nhất Lâu căn bản trở thành chuyện vô bổ, Thiên Vương hiện tại đã đến ngoài Tập, lúc nào cũng có thể vào Tập, càng không thể thiêu đốt phừng phừng ngút trời, khói lửa ngùn ngụt. Chỉ cần bọn ta tăng cường thủ vệ tuần phòng canh gác, đồng thời tiếp tục tiến hành truy tìm. Địch nhân cực nhọc tiềm nhập Biên Hoang Tập, mục đích chỉ có một, là không tự lượng sức mình định hành thích Thiên Vương, bọn ta cứ nghiêm ngặt bố trí vây bọc chu đáo, bọn chúng còn có thể làm gì được nữa chứ?”.
Ba người tuy không nhận ra thanh âm của y, bất quá nghe giọng điệu ra lệnh của y, có thể khẳng định chính là Phù Dung.
Ngưng một chút, Phù Dung lại tiếp tục nói: “Hành động truy bắt địch nhân giao cho Quốc Nhân toàn quyền xử lý, tất cả những người tạp nhạp, đặc biệt là người của tứ bang, dứt khoát không cho phép vào Tập. Bọn ta đồng thời cải biến khẩu lệnh, phàm là người không biết khẩu lệnh, cứ coi là địch nhân. Ta hiện tại phải ra Tập nghênh tiếp Thiên Vương, mọi việc cứ y theo kế hoạch đã định mà tiến hành”.
Khất Phục Quốc Nhân nói: “Thỉnh Phù nguyên soái ban cho khẩu lệnh”. Khẩu lệnh là thủ pháp quen dùng để bảo an trong quân doanh, dùng phân biện địch ta, tránh có người trà trộn vàn bản doanh.
Phù Dung thốt: “Hễ là người Tấn tất bất tài, không kham nổi một chiêu!”.
Câu nói đó y hạ thấp giọng nói ra, khiến cho ba người nãy giờ bên dưới không dám động đậy hiểu rõ khi Phù Kiên tiến vào Biên Hoang Tập, lưu lại bên mình toàn là quan binh cội rễ Để tộc.
Tiếp đó, thanh âm của địch nhân rời xa.
Trong bóng tối dưới địa đạo, ba người sáu con mắt nhìn nhau, ngấm ngầm mừng hên, tưởng gặp họa lại được phúc, còn biết được cả khẩu lệnh bí mật của địch nhân. Thác Bạt Khuê thấp giọng: “Giá gỗ!”.
Yến Phi đương nhiên hiểu ý tứ của hắn, chỉ có điều hai tay không rảnh, đang đỡ hai góc gạch đá bể vỡ, cười khổ: “Chỉ còn nước thỉnh An đại tiểu thư của bọn ta đến giúp”.
o0o
Tạ Huyền đi lên tường thành Thọ Dương, có Hồ Bân và Lưu Lao Chi theo hầu, quan sát hình thế.
Phì Thủy từ phương Bắc chảy đến, nhập vào Hoài Thủy, lại về hướng Nam vòng qua rìa Đông Bắc của Thọ Dương thành, nằm giữa Bát Công Sơn và Thọ Dương, duỗi về phía Nam, Hoài Thủy vạch ngang hỗ trợ nửa dặm thành Bắc. Dĩnh Thủy một đoạn sông từ Biên Hoang Tập đến Hoài Thủy, chảy song song với Phì Thủy, hai con sông cách nhau mười mấy dặm, chỗ Dĩnh Thủy nhập vào Hoài Thủy kêu là Dĩnh khẩu, Phì Thủy nhập vào Hoài Thủy kêu là Hạp Thạch, một thượng du một hạ du, cách nhau chưa đến mười dặm.
Hồ Bân thăm dò: “Thọ Dương ôm sát chỗ trọng yếu Dĩnh khẩu, Hạp Thạch nơi ba con sông giao nối, chỉ cần Thọ Dương ngày nào còn giữ được, địch nhân đừng hòng nam hạ”.
Mục quang của Tạ Huyền đang đưa dọc theo đoạn sông Phì Thủy, hình thế Hạp Thạch hiểm yếu, hầu như ven sông toàn là loạn thạch, dòng nước sau khi ra khỏi Hạp Thạch chảy chậm, đặc biệt là đoạn sông phía Đông Bắc Thọ Dương và Bát Công Sơn, nước nông mà rộng, thấy rõ đáy, không cần bắt cầu nhân mã cũng có thể lội qua sông, chỉ cần ông trời đừng cho mưa lớn, quân Phù Tần có thể mau mắn vượt sông. Phải biết Phù Tần chờ thời tiết sơ đông này xâm lấn là đã trải qua toan tính thâm sâu. Nếu không, chờ đến mùa xuân hạ mưa nhiều, khó tránh khỏi biến họa.
Lưu Lao Chi tuy không nói gì, Tạ Huyền có thể đoán ra hắn trên sự thật đồng ý với cách nhìn của Hồ Bân, thành trì nằm ở chỗ cốt yếu then chốt như vầy, buông bỏ không không thì thật đáng tiếc.
Tạ Huyền điềm đạm thốt: “Phù Kiên lên tiếng quân binh điều động có cả trăm vạn, Hồ tướng quân có nắm chắc giữ được Thọ Dương không?”.
Hồ Bân mặt hiện thần sắc hiên ngang, đáp: “Thuộc hạ quyết đánh tới một binh một tốt cuối cùng cũng phải vì nguyên soái mà tử thủ Thọ Dương, không để Tần quân nam hạ”.
Tạ Huyền gật đầu: “Hay! Bất quá lần này ta phải thắng một trận đẹp mắt, hơn nữa phải tốc chiến tốc quyết, không thể cùng địch nhân tiến hành một trận đánh bên công bên thủ lâu dài. Một khi Thọ Dương biến thành Cô Thành, có thể kéo dài mười ngày chứ không ít, bọn ta biến thành hoàn toàn bị động, còn phải đoán xem địch nhân theo con đường nào nam hạ. Bằng vào binh lực bạc nhược của bọn ta, dưới tình huống như vầy, căn bản không có cách nào ngăn trở Phù Kiên, cho nên Thọ Dương không thể không buông bỏ”.
Tiếp đó ông để lộ nụ cười, giọng nói khẳng định tràn đầy lòng tin: “Mình có thể buông Thọ Dương rơi vào tay địch nhân, địch nhân từ không dấu biến thành có dấu, còn mất cả thế chủ động, lúc đó chỉ cần bọn ta đặt quân trong Bát Công Sơn, Phù Kiên làm sao dám qua Phì Thủy nửa bước?”.
Hồ Bân ngẫm nghĩ: “Phù Kiên là người biết cầm binh, chủ lực đại quân tuy lần theo Dĩnh Thủy để vượt Hoài Thủy đánh Thọ Dương, lại chắc sẽ chia một cánh quân khác lên trên Dĩnh Khẩu xuôi xuống vượt sông Hoài, hỗ tương hô ứng, đến lúc đó bọn ta biến thành trước sau đều đụng địch, tình thế không hay”.
Lưu Lao Chi gật đầu: “Nếu tôi là Phù Kiên, tối thiểu cũng chia làm hai cánh quân, một cánh ở Dĩnh Thủy thượng du vượt sông Hoài, ép thẳng Đại Giang, làm cho Hoàn đại tư mã không dám vọng động. Một cánh khác ở Thọ Dương hạ du vượt sông Hoài, tiến tới giữ Lạc Khẩu, kiến thiết doanh lũy phòng ngự chắc chắn, hỗ tương hô ứng cùng chủ lực đại quân đang chiếm lĩnh Thọ Dương”.
Nụ cười của Tạ Huyền nở rộng, hân hoan thốt: “Đó chính là then chốt thắng bại, địch nhân mệt nhọc viễn chinh mà đến, thêm vào tự thị binh lực gấp mười ta, sinh ra ý khinh địch, càng không nghĩ đến bọn ta sẽ chủ động tiến kích, tựa như thoái mà thật ra là tiến, cho nên chỉ cần bọn ta dùng kỳ binh đúng lúc đúng chỗ, trận này mức thắng cực cao”.
Hồ Bân và Lưu Lao Chi còn chưa hiểu Tạ Huyền đang có ý niệm gì trong lòng, đồng thanh: “Xin nguyên soái chỉ dạy!”.
Tạ Huyền hai mắt bừng sáng, ngưng vọng nhìn vùng đồng hoang bờ đông Phì Thủy, trầm giọng: “Bọn ta cần mười hai canh giờ giám sát động tĩnh bờ bắc Hoài Thủy, lấy Lạc Khẩu làm nơi then chốt, chỉ cần địch nhân theo đó mà đến, bọn ta có thể có thể lợi dụng địch còn chưa đứng vững, dùng kỳ binh đột tập. Nếu có thể phá được, chủ lực đại quân của Phù Kiên bị ép lưu lại ở bờ tây Phì Thủy, lúc đó mới là mới chính là thời cơ tốt để bọn ta đánh một trận tay đôi với Phù Kiên”.
Lưu Lao Chi nghe vậy tinh thần phấn chấn: “Lao Chi xin lãnh cánh quân đó”.
Tạ Huyền lắc đầu: “Ta còn cần ngươi suất lãnh thủy quân, chờ người Tần vượt sông Hoài đoạn tuyệt giao thông thủy lộ của bọn chúng, cắt đứt đường lương của bọn chúng, khiến bọn chúng không có thời cơ chín mùi để giao phong toàn diện với bọn ta. Khà khà! Ít người cũng có chỗ tốt của ít người, luận về mức độ linh hoạt, quân Phù còn thua xa ta, ta phải dạy cho Phù Kiên sự cay đắng chôn hết trăm vạn binh sĩ”.
Lưu Lao Chi và Hồ Bân gật đầu theo.
Từ xưa đến nay, người Hồ phương Bắc thiện mã chiến, người phương Nam thiện thủy chiến. Giao thủ trên sông nước, người Hồ phương Bắc không có lần nào là không thua thiệt. Bốn năm trước người Hồ xâm lấn miền Nam, vì bị cắt đứt đường lương trên nước, đại bại lui về, lần này địch nhân tuy tăng cường hơn gấp mười, nếu tính về thủy quân, vẫn không khác biệt gì trước.
Không cần biết là kỹ thuật điều khiển thuyền và dụng cụ trang bị của chiến thuyền, phương Nam đều hơn xa phương Bắc, Giang Nam vẫn là nơi kiến tạo thuyền bè trứ danh nhất thiên hạ. Lưu Lao Chi tinh thông thủy chiến, có hắn chủ trì, Phù Kiên đừng hòng có thể tùy tiện vận tải quan binh theo thủy đạo, đặc biệt là dưới sự gườm gườm như hổ rình mồi của thủy binh tinh nhuệ Bắc phủ.
Tạ Huyền thốt: “Hà Khiêm đang cầm quân trên đường đó, Hồ tướng quân có thể truyền lệnh của ta, kêu gã tuyển chọn năm ngàn tinh nhuệ tách ra tiềm phục nơi kín đáo gần Lạc Khẩu, chờ đợi tuyến quân tiên phong của địch nhân kéo đến. Một khi địch nhân hiện thân, để gã tự mình quyết định, nhắm thời cơ chuẩn mực, toàn lực xuất kích, không được thất bại”.
Hồ Bân lớn tiếng vâng dạ, lãnh lệnh ra đi.
Tạ Huyền cười khà khà: “Hay cho An thúc, đến bây giờ ta thân hành đến đây mới minh bạch cái câu tốc chiến tốc thắng của lão nhân gia người, kiến thức thật dồi dào làm sao”.
Nghe đến tên Tạ An, Lưu Lao Chi nghiêm túc kính cẩn hẳn.
Tạ Huyền nhìn kỹ mảnh sơn hà then chốt của sự tồn vong của đất Nam Tấn, ôn nhu thốt: “An thúc! Tạ Huyền tuyệt sẽ không làm cho người thất vọng”.


Hồi 18

Dị đoan tà thuyết


Hẻm Ô Y, Tạ phủ đông viện Vọng Hoài Các.
Tạ An và Chi Độn hai người sóng vai tựa lan can, nhìn xuống sông Tần Hoài chậm rãi rót vào Đại Giang. Dưới ánh dương quang đan giăng, nước sông loang loáng tươi tắn, hai bờ nhà cửa san sát, phong cảnh tuyệt đẹp.
Chi Độn vừa nghe xong chuyện Di Lặc giáo, vị cao tăng luôn luôn tiêu sái thoát tục trên mặt hiện thần sắc ngưng trọng chưa từng có, trầm mặc nghĩ ngợi một hồi rồi nói với Tạ An: “Tạ huynh có tính toán gì đối với chuyện này?”.
Tạ An cười khổ: “Tôi có thể tính gì chứ? Đạo Uẩn mật cáo chuyện này cho tôi biết, chính là hy vọng tôi có thể kịp thời ngăn trở. Hiện tại cách duy nhất có thể làm là cùng Thản Chi vào can gián hoàng thượng, lợi dụng người vẫn còn ỷ lại vào Tạ An tôi, khuyên người hủy bỏ chủ ý. Ông rành lai lịch đường lối của Di Lặc giáo hơn tôi nhiều, cho nên phải thỉnh giáo ông xem xem có thể từ trên kinh luận của Phật môn để bài xích sự sai trái của Di Lặc giáo”.
Chi Độn chầm chậm nói: “Phải phân làm hai phương diện mà nói, bản thân Di Lặc Phật và con người Trúc Pháp Khánh, người đầu thật sự có căn cứ kinh luận, vấn đề ở chỗ Trúc Pháp Khánh có phải là Phật mới giáng thế hay không”.
Tạ An cảm thấy đau đầu, dưới tình huống như vầy, chỉ cần Tư mã Diệu kiên trì nhìn nhận Trúc Pháp Khánh là Di Lặc tân Phật, ông ta không có cách nào từ góc độ bản thân Phật Môn mà phủ định.
Chi Độn thở dài nhè nhẹ, từ từ nói: “’Trường A Hàm kinh’ có nói: chín mươi mốt kiếp trước có Phật xuất thế, tên Tỳ Bà Thi, tám vạn tuổi người. Lại ba mươi mốt kiếp trước, có Phật xuất thế, tên là Thi Khí, bảy vạn tuổi người. Còn có Phật xuất thế tên là Tỳ Xá Tịnh, sáu vạn tuổi người. Rồi trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Câu Lưu Tôn, năm vạn tuổi người. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Câu Na Xá, bốn vạn tuổi người. Lại trong Hiền kiếp có Phật xuất thế, tên là Ca Diệp, hai vạn tuổi người. Sáu Phật đó có trước Thích Ca, Thích Ca theo vậy chỉ là Phật đời thứ bảy. Hiện tại Thích Ca đã vào độ giảm, Di Lặc tân Phật sẽ theo vận mà sinh ra, trong Phật môn cũng có rất nhiều người tin chắc không dời ý. Trên sự thật trong tiền điện của Phật tự có đặt tượng Thiên quan Di Lặc phật, hai bên có tứ đại thiên vương, cách bố trí đó hiển thị Di Lặc kế thừa
Thích Ca trị thế, cho nên Di Lặc giáo trong Phật điển kinh luân cũng có cơ sở và luận cứ vững chắc”.
Tạ An hỏi: “Còn Trúc Pháp Khánh là người ra sao?”.
Chi Độn đáp: “Y là người khởi đầu Di Lặc giáo, ở phương Bắc giương cao cờ xí ‘Tân Phật xuất thế, trừ khử cựu ma’, cái gọi là Tân Phật xuất thế tức là Di Lặc giáng thế, bản thân y là Di Lặc sống, hiệu triệu tín đồ Sa môn1, có dã tâm xưng bá Sa môn”.
Tạ An không buông tha: “Phật môn các người không những thông đạt thiền định, võ công còn cao cường gấp mười lần, sao lại chịu ngồi nhìn thế lực của người ta bành trướng như vậy, lẽ nào y thật là Di Lặc giáng thế, có năng lực thông thiên triệt địa?”.
Chi Độn để lộ thần tình khốn khổ bất lực, ngưng vọng nhìn một chiếc thuyền buồm lướt qua, điềm đạm đáp: “Sa môn không phải đoàn kết như trong tưởng tượng của ông, thí dụ như Nam Bắc Sa môn có khác biệt rất lớn, phương Nam trọng Nghĩa môn, phương Bắc trọng Thiền định, mỗi bên một cực đoan. Sa môn phương Nam bọn tôi giảng kinh, ở phương Bắc ‘không lý tới giảng kinh’ mà làm vậy thì sẽ bị nghiêm phạt. Cái gọi là Bắc trọng Thiền định, nhấn mạnh tu Chỉ, buộc tâm một ý ngăn cách tất cả cảnh giới; Nam trọng trí tuệ, tu Quán, dùng trí tuệ luôn luôn quán sát ảnh tượng của các pháp, phân biệt nhân duyên sinh diệt”.
Tạ An nghe nói chau mày hỏi: “Theo tôi thấy, hai bên đường lối tu hành đều không có chỗ xung đột, Định – Tuệ song khai, cùng mở rộng, Chỉ – Quán song vận, cùng hỗ trợ, người ta sao lại làm thành vấn đề nghiêm trọng vậy?”.
Chi Độn cười khổ: “Chuyện này người ngoài rất khó hiểu rõ, phương Bắc ghi trọng Thiền pháp, không lấy giảng kinh làm ý, khư khư tử thủ bổn nghĩa Phật kinh, thậm chí không hiển bổn nghĩa, chỉ biết ngồi thiền tụng kinh. Nếu như tôi giải thích ý nghĩa của phần Xiển thuật2 Bát Nhã Ba La Mật cho ông nghe, hoặc nói ai ai cũng có thể đốn ngộ thành Phật, ở phương Bắc liền bị đánh xuống mười tám tầng địa ngục. Cớ sự là tại phương Bắc tu Phật rất khốn khó, tất cả đều nương noi tử pháp và các giới luật phức tạp, làm cho người tu hành dần dần chán ghét Thích Ca, đem hy vọng ký thác vào tân Phật, làm cho phương Bắc trở thành cái giường ấm áp cho dị đoan tà thuyết”.
Tạ An giọng nặng tâm nề: “Phương Bắc cần có một Chi Độn khác”. Chi Độn thở dài: “Giới luật tiến thêm một bước ác pháp là chuyên chế và giai cấp phân minh, dưới quyền uy lâu đời, tuyệt không dung thứ cho lối nhìn tân tiến, càng không dung được hạng người như tôi. Tu Phật ở phương Bắc, đem người phân thành sơ căn, trung căn và thượng căn, sơ căn chỉ có thể tu tiểu thừa, trung căn tu trung thừa, thượng căn tu đại thừa. Cứ bằng vào phương pháp cố định như vậy mà đem người tu hành chia tách ra, bản thân là phân biệt giai cấp. Sa môn phổ thông bị đè vào hạ căn đương nhiên bất mãn, mà Trúc Pháp Khánh chính là một phản đồ từ Sa môn cấp thấp quật khởi, y được sự ủng hộ của số đông, lại có bản lãnh hơn người, cũng không phải là không có lý do”.
Tạ An thở dài thườn thượt: “Tôi chung quy đã minh bạch! Tôi còn có thể tưởng tượng tới lý do trên lợi ích, quyền lực và tài phú đều tập trung vào tay số ít tăng lữ cấp cao sinh hoạt hủ hóa mà lại ngày ngày dùng giới luật trấn áp môn hạ, giống như quan hệ giữa địa chủ và nông nô, Trúc Pháp Khánh là một người đoạt quyền thành công, cho nên có thể phất cao ngọn cờ, lợi dụng sự bất mãn của Sa môn hạ tầng, kiến lập Di Lặc giáo”.
Chi Độn gật đầu: “Tình huống đại khái là vậy, Trúc Pháp Khánh tự tôn Đại Thừa, tự xưng tân Phật, tuyên truyền chỉ có người đi theo tân Phật mới xứng đáng lên Đại Thừa. Thập giới pháp của Phật môn phương Bắc, y phá hết, bản thân còn cùng ni Huệ Huy kết làm phu phụ, phá trừ dâm giới. Lúc đó Phật môn phương Bắc tập kết cao tăng, tiến hành thanh trừ y, bị phu phụ y liên thủ giết hại thương vong thảm trọng, y liền mượn đó mà hủy diệt chùa chiền, giết sạch tăng ni, thiêu đốt kinh tượng, giương cờ Tân Phật xuất thế, trừ khử cựu ma. Hiện tại thế lực của y không ngờ đã khuếch triển đến phương Nam, Phật môn phương Nam e rằng khó tránh khỏi kiếp số”.
Lòng Tạ An chìm đắm hẳn.
Ông nghĩ đến Tư mã Diệu và Tư mã Đạo Tử hai người một mặt đắm mê tửu sắc, sinh hoạt cùng cực xa hoa, mặt khác hô hào lòng tin Phật giáo, hai phương diện mâu thuẫn lẫn nhau, người hữu đạo trong Phật môn đã sớm có lời xầm xì. Nay lại còn qua lại với Di Lặc giáo đã đả phá hết cấm quy giáo luật, khác gì là quăng bỏ hết những gì tốt đẹp còn lại đối với Phật môn, có ý uy hiếp Phật môn. Chỉ không biết ai là người trung gian làm mũi kim dẫn đường, chuyện này tất phải điều tra triệt để.
Thanh âm của Chi Độn lại vang bên tai ông ta: “Do Trúc Pháp Khánh và Trúc Bất Quy có đại bộ phận Sa môn và dân chúng ủng hộ, Phù Kiên đối với bọn họ cũng không dám khinh cử vọng động, sợ kích khởi mâu thuẫn dân tộc giữa Hán Hồ, rất bất lợi đối với công cuộc Nam phạt, càng để cho bọn Trúc Pháp Khánh không sợ kỵ ngần ngại gì hết. Y cũng là người hiểu biết quyền mưu, vì sợ làm cho người đang cầm quyền nghi kỵ, chỉ dần dần ăn mòn thế lực và tài phú của Phật môn phương Bắc, vạch rõ giới tuyến với chính trị, đương nhiên dã tâm của y không chỉ có vậy”.
Tạ An hỏi: “Phật môn hiện thời đối với võ công của y so sánh ra sao?”.
Chi Độn đáp: “Nếu bất luận thiện ác, Trúc Pháp Khánh thật là một kỳ tài võ học hiếm thấy trong Phật môn, y không những tập thành võ học Phật môn phương Bắc, còn tự sáng tạo ra ‘Thập Trụ Đại Thừa Công’, chưa từng gặp địch thủ, cho nên đối với y mà đánh thẳng hay là ám sát, đều tơi tả quay về, có thể thấy võ công của y mạnh tới dường nào. Ngay cả Trúc Bất Quy, võ công gần sát Trúc Pháp Khánh, cùng tề danh với ni Huệ Huy”.
Tạ An ngửa mặt nhìn trời xanh, thở ra một hơi, bình tĩnh thốt: “Một khi Tạ An ta còn một hơi thở, nhất định không để cho Di Lặc giáo thắng thế, đại sư có thể yên tâm”. Di Lặc Giáo bắt nguồn từ Phật giáo, thái bình như nhau, Thiên Sư Đạo3 bắt nguồn từ Đạo môn, cần phải cấm chế.
o0o
An Ngọc Tình là người cuối cùng ngồi xuống, ba nam một nữ chen nhau ngồi chỗ thạch cấp bảy tám bậc ngắn, ai ai cũng hết hơi hết sức, chỉ biết thở hổn hển.
Trải qua cả canh giờ nỗ lực, cố hết tâm tư công sức, cuối cùng đã thành công khuân dỡ hết rượu trên giá gỗ xuống, đem đội đỡ tàn dư của ông lò đá, không để cho gạch đá rơi xuống địa đạo, nếu không sẽ để lộ đường ra, lại kinh động địch nhân. Tốn trọn nửa canh giờ, Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ từ đầu đưa lưng và tay ra đỡ suốt mới có thể trước sau rụt về, cái khổ có động một chút cũng không thể động thật khó thể tả nổi.
An Ngọc Tình dựa bậc đá, liếc Yến Phi đang ngồi dưới mình một bậc, hổn hển nói nhỏ: “Đây là người tốt được đền ơn, chỉ bất quá không tưởng được lại mau ứng nghiệm như vậy”.
Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ nhìn nhau cười khổ, người khác có thể không hiểu được câu nói không đầu không não của An Ngọc Tình, hai người bọn họ lại thấu rõ An Ngọc Tình đang châm biếm ác tâm của bọn họ đối với nàng ta. Bọn họ có muốn cãi lại cũng không được, vì trên sự thật nếu không có Yến Phi một mực cản trở, để bọn họ thanh toán nàng ta, vậy còn ai sẽ đến để ra sức giúp bọn họ “thoát thân”?
Thác Bạt Khuê ngước lên nhìn chỗ ra, tránh ánh mắt đẹp của An Ngọc Tình, trông trái ngó phải nói: “Không tưởng được cố trụ giữ một chỗ ra vuông vức hai thước còn khốn khó hơn kiến tạo trường thành nữa”.
An Ngọc Tình rất muốn phủi sạch bụi bặm trên mình, lại biết làm vậy sẽ khiến cho ba người thưởng thức hết bụi đầy mình nàng, chỉ còn nước chịu khổ không động đậy, hừ lạnh: “Hay ghê! Ở đây hiện tại là nơi an toàn nhất trong Biên Hoang Tập, chỉ tiếc lối ra chỉ có thể ứng dụng một lần, các người có tính toán gì đây, Yến Phi ngươi nói đi, hai người bọn họ đều không thể tin cậy”.
Thác Bạt Khuê mục quang không khỏi lạc trên người nàng ta, chừng như lần đầu phát giác sự mỹ lệ của nàng, đưa mắt nhìn lên nhìn xuống, hắn từng gặp nhiêu mỹ nữ, lại ít gặp phải người tàn nhẫn cứng cỏi như vậy: một cô gái giảo quyệt không chịu phục tòng, có lúc lại như thiên chân không tà ác.
An Ngọc Tình không lý gì tới hắn, mục quang vẫn ngưng chú nhìn Yến Phi gần kề nàng nhất.
Yến Phi ngửi thấy thân thể nàng vì quá mệt mỏi mà tản phát ra khí vị u hương kiện khang, điềm đạm thốt: “Trên mình cô nương còn có bao nhiêu Mê Yên đạn4 có thể dùng đến?”.
An Ngọc Tình đáp lời: “Chỉ còn lại hai viên, nếu muốn xông đại ra đột vây, chưa tới cửa Tập là phải dùng hết rồi. Ài! Bổn cô nương cả đời chưa từng gặp xui như vầy”.
Lưu Dụ ngồi ở bậc cấp dưới nhất cuối cùng đã phục hồi lại khí lực, gã do đã mang thương thế từ trước, cho nên đặc biệt cật lực, mỉm cười nói: “Cô nương có thỏa mãn về tấm địa đồ bọn ta vẽ ra không? Đối với cô nương có phải có giúp ích gì được không?”.
An Ngọc Tình nhíu nhíu cái mũi nhỏ khả ái, hướng về phía gã làm mặt quỷ, tức giận thốt: “Chuyện không liên quan tới ngươi nữa, ngươi tốt hơn hết là quên đồ tượng đó đi, nếu dám nói cho người thứ tư biết, ta có cơ hội là làm thịt ngươi liền”.
Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đối với nàng thật vô pháp khả thi, nàng cho tới khi đi ra khỏi kho rượu đều sẽ ngồi nguyên tại đó, lúc nào nàng cũng có thể phá gãy cái trụ gỗ chống đỡ, để cho gạch đá vỡ rơi xuống. Lúc đó bốn người chỉ còn nước vội vàng liều mạng bỏ chạy. Mà người nàng có mang Mê Yên đạn, cơ hội đột vây đào tẩu tự nhiên là hơn nhiều.
Yến Phi giơ tay: “Bản nhân Yến Phi nay lập thệ, tuyệt không đem chuyện địa đồ dùng bất cứ phương pháp nào cho người thứ tư biết, nếu không sẽ bị chết bất đắc kỳ tử”. An Ngọc Tình lộ nụ cười ngọt ngào, nhìn ba người trước mắt hai lượt rồi mới thích thú nói: “Ta luôn nói ngươi là người tốt nhất mà!”.
Lưu Dụ kháng nghị: “Lẽ nào ta lại xấu xa dữ vậy sao? An đại tiểu thư sao không nghĩ lại xem mình đã bao nhiêu lần đối với tiểu đệ lập tâm bất lương, ta chỉ có qua có lại mà thôi!”.
An Ngọc Tình mỉm cười liếc xéo gã, nhún bờ vai thơm thốt: “Có vụ trả giá kỳ kèo nữa à? Ha! Người tốt quá ha! Mau học huynh đệ của ngươi lập lời thề độc đi”. Lưu Dụ thấy hữu cước của nàng kề sát một trụ gỗ then chốt, chỉ còn nước thề độc, trong lòng lại hận đến ngứa răng, nhưng lại có cảm giác thú vị kích thích.
Thác Bạt Khuê chợt minh bạch Yến Phi tại sao lại thề độc không tiết lộ bí mật của nàng tiểu thư một cách vô điều kiện như vậy, tất cả chỉ vì muốn cắt đứt ý niệm giết người diệt khẩu của nàng. Phải biết An Ngọc Tình không phải là thiện nam tín nữ gì, bằng vào sức một mình đương nhiên không có cách nào làm khó ba người bọn họ, nhưng nếu mượn tay quân Tần, chỉ cần nàng thò chân gạt một cái là xong, vì vậy cũng có thể thấy đầu óc Yến Phi nhanh nhẹn linh mẫn làm sao.
Không tưởng được An Ngọc Tình một cô gái nhỏ nhắn đã lập tức biến chuyển hình thế đưa bọn họ vào tình huống hạ phong, thao túng đại cuộc.
Thác Bạt Khuê giả như thờ ơ không để ý: “Nơi đây quá tiếp cận mặt trên, bọn ta chi bằng xuống dưới rồi hãy nói, tránh kinh động đến địch nhân”.
An Ngọc Tình vươn người, triển động đường nét động lòng người, lười biếng thốt: “Ta muốn nghỉ ở đây, không muốn động tới nửa ngón tay, các ngươi tự mình lăn xuống dưới đi! Đừng mong bổn tiểu thư phụng bồi”.
Ba người cười khổ không nói gì, biết rõ nàng không có tâm ý buông bỏ ưu thế trước mắt, bất quá cũng khó trách nàng, ai bảo Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đã sớm nuôi lòng muốn giết nàng.
An Ngọc Tình làm như ngạc nhiên: “Mông các ngươi dính cứng trên thạch cấp rồi à? Không phải còn có chuyện thương lượng sao? Mau lăn ra càng xa càng tốt cho ta, thương lượng kế sách đào vong cho xong, đợi khi trời tối bọn ta cần phải rời khỏi chỗ quỷ sứ này”.
Ba người anh nhìn tôi tôi nhìn anh, đều vô kế khả thi.
Lưu Dụ là người đầu tiên cười khổ đứng dậy, đề tỉnh nàng: “Nàng tốt hơn hết là đừng có ngủ gục, nếu không đang lúc mộng mị tưởng là đang đào tẩu, dang chân đá một cái là mọi người đều không còn đường chạy đó”.
An Ngọc Tình khoái trá: “Đâu cần ngươi nói chuyện lợi hại với người ta! Ngọc Tình là người hiểu biết, các ngươi lại ngoan ngoãn như vậy, người ta sẽ lo nghĩ cho các ngươi! Mau đi bàn chuyện đi!”.
Ba người chịu uy hiếp đành bất lực bỏ đi, tránh tới một góc trong hầm. Thác Bạt Khuê ngồi dựa tường, trầm giọng: “Các ngươi thấy ả ta có thể nào bán đứng bọn ta không?”.
Lưu Dụ và Yến Phi không có chỗ dựa nên ngồi giữa hai giá rượu, Lưu Dụ chau mày: “Hy vọng ả không ngu xuẩn như vậy, hai viên đạn khói mù đâu có đủ để giúp ả trốn thoát khỏi Biên Hoang Tập”.
Yến Phi nói thêm: “Hy vọng ả không nói láo về chuyện mấy viên đạn! Ả ta quỷ quyệt một bụng như vậy, sợ rằng bọn ta thề độc cũng chưa thỏa mãn”.
Thác Bạt Khuê nói: “May là còn hai canh giờ nữa trời mới tối, ả nếu muốn hại bọn ta, dù sao cũng phải đợi đến lúc trời vừa tối mới có hành động”.
Lưu Dụ cảm thấy an tâm, gật đầu đồng ý: “Hiện tại bọn ta đã biết khẩu lệnh Tần quân dùng trong Tập, lại có hai bộ quân phục Tần quân, phải lợi dụng làm sao mới hay đây?”.
Thác Bạt Khuê nói: “Còn lưu trong Tập toàn là thân binh của Phù Kiên, quân phục khác với Tần binh khác, quân phục của ngươi có dùng được không?”.
Lưu Dụ vui vẻ đáp: “Phương diện đó hoàn toàn không thành vấn đề”.
Yến Phi trầm ngâm: “Chỗ Phù Kiên ở không nằm ngoài một trong những tổng đàn của Biên Hoang Tập lục bang, khả năng lớn nhất là tổng đàn của Đê bang và Hán bang, Đê bang là vì quan hệ đồng tộc, Hán bang là vì nơi đó có quy mô nhất trong lục đàn”.
Thác Bạt Khuê nói: “Mười phần có chín là tổng đàn Hán bang, Phù Kiên thích phô trương, lại thích thoải mái, tất nhiên chọn trạch xá tốt nhất đến nghi chân, còn Phù Dung lại biết rõ tâm ý của y hơn bất cứ một ai”.
Lưu Dụ rùng mình: “Nói vậy chỗ bọn ta ở hiện tại là nơi thủ vệ sâm nghiêm nhất”. Yến Phi thở dài: “Chắc là vậy”.
Bởi Đệ Nhất Lâu thuộc phạm vi thế lực của Hán bang, mà tổng đàn Hán bang nằm kề bên, địch nhân phòng vệ khu này đương nhiên là đặc biệt sâm nghiêm.
Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Lại cũng bớt đi cho bọn ta không ít công phu, Phù Kiên ở đâu, Chu Tự chắc cũng ở gần, trong đám chư tướng của Phù Kiên, Chu Tự là người biết rõ tình huống phương Nam nhất, vì vậy mỗi lần Phù Kiên muốn nghị định sách lược, tất sẽ tìm Chu Tự đến hỏi”.
Lưu Dụ tinh thần phấn chấn: “Mộ Dung Thùy có lẽ cũng ở gần kề? Nếu bọn ta liên hệ được gã, gã có thể sẽ giúp cho một tay phải không?”.
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Ngươi quá là không rõ về Mộ Dung Thùy, nếu bọn ta đi tìm gã như vầy, gã nói không chừng sẽ tận tay bắt giữ bọn ta, tránh làm cho Phù Kiên hoài nghi, tất cả chỉ có thể bằng vào tự bọn ta nghĩ biện pháp”.
Lưu Dụ trầm mặc.
Yến Phi nói: “Hai người các ngươi giả làm thân binh của Phù Kiên, kiếm cách tìm Chu Tự. Còn ta quen thuộc tình hình Biên Hoang Tập, dễ tránh khỏi tai mắt của địch nhân hơn các ngươi, một khi các ngươi thành sự đi ra đến ngoài Tập, lại kiếm cách làm cho hỗn loạn một chút, dẫn dụ sự chú ý của quân Tần, ta và An đại tiểu thư liền có thể thừa cơ mượn đạn khói thoát thân”.
Lưu Dụ nói: “Bọn ta cũng có thể đoạt lấy hai bộ quân phục đem về”.
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Ngươi không nên làm vậy. Quy định của quân binh Tần đi tuần và canh gác chia thành ít nhất cũng mười người một tổ, cho dù ngươi có bản lãnh đồng thời chế ngự mười người, chưa đầy một khắc là bị người ta phát giác, lúc đó các ngươi càng khó lòng trở bước”.
Yến Phi cười cười nói: “Lưu huynh an tâm, ta sẽ có cách tự bảo vệ”. Lưu Dụ thở dài: “Đã là có quy định mười người lập thành một tổ, bọn ta hai người nếu ngang nhiên đi ra, có phải sẽ lập tức bị người ta nhận ra là mạo xưng không?”. Thác Bạt Khuê nói: “Chỉ cần bọn ta mạo xưng là lính truyền tin của Phù Kiên, lại biết khẩu lệnh, chắc có cơ hội trà trộn ra, lần này không thể không mạo hiểm”.
Ngưng một chút, nháy mắt với Lưu Dụ: “Lưu huynh tính toán cẩn mật, không hổ là nhân tài xuất sắc trong Bắc Phủ binh tướng, nếu chịu hợp tác với ta, có thể giành lấy một vùng đất trời Bắc phương”.
Lưu Dụ ngạc nhiên: “Ngươi không ngờ lại chiêu nhận ta? Khà khà, hiện thời ngươi còn chưa làm được chuyện gì ở phương Bắc, nếu bọn ta trận này đại bại dưới tay Phù Kiên, khả năng Bắc phạt xa vời, ngươi nói ta chọn lựa làm sao?”.
Yến Phi nghe vậy ráng nhịn cười, trong lòng nghĩ nếu không có tình huống thật đặc biệt như vầy, đừng hòng hai người hợp tác với nhau.
Thác Bạt Khuê vẫn bình tĩnh thư thái nói: “Bắc phạt? Ài! Chuyện Bắc phạt của các người căn bản không có hy vọng. Trước hết quân mã Giang Nam của các người thiếu thốn hỗn tạp, quân vận chỉ duy nhất có đường thủy, nếu đường thủy không lọt, chỉ có đường ‘nhân lương vu địch’5, hai đường thủy vận và ‘nhân lương vu địch’ có một làm không được thì khó lòng nói tới Bắc phạt. Kế đó là Bắc phương bất luận có chia năm xẻ bảy tới mức nào, thủy chung hình thế vẫn là Bắc cường Nam nhược, trên phương diện hộ khẩu và tài nguyên, quân Bắc phương chiếm ưu thế áp đảo”.
Lưu Dụ không phục: “Lời nói của Thác Bạt huynh khiến người ta khó đồng ý, nói gì thì Nam triều cũng là Trung Nguyên chính thống, là nơi lúc nào cũng nằm trong lòng người Hán tộc ở phương Bắc, cũng chỉ có phía mà lòng người hướng tới mới có thể thống nhất thiên hạ”.
Thác Bạt Khuê chọc lại: “Lưu huynh quá là không rõ tình hình phương Bắc, từ lúc Phù Kiên đăng vị, hết sức thúc đẩy chính sách Hán hóa và dung hợp dân tộc, sự phân biệt Hồ Hán đã dần dần trở thành mơ hồ. Hán nhân phương Bắc đâu còn khao khát trông mong gì Nam Tấn đã thối nát đến tật chót đỉnh, có quan niệm nhận miếu chứ không nhận thần, ai có thể bình định đất Trung Nguyên núi Tung sông Lạc, người đó liền trở thành chính thống. Nếu không bộ quân của Phù Kiên không thể có đại bộ phận là người Hán. Hiện tại cái sót của Phù Kiên là chưa thể triệt để giải quyết vấn đề dân tộc, một khi giải quyết xong, Bắc phương không còn vấn đề xung đột dân tộc nữa. Nền kinh tế và lực lượng vũ bị mạnh mẽ tiềm tàng của Bắc phương một khi tận lực phát huy, chính quyền Giang Tả làm sao có thể ngăn trở được?”.
Lưu Dụ đang định phản bác, chỗ cửa ra có tiếng động lạ truyền vào, tiếp đó là thanh âm cát đá rơi xuống bậc cấp, ba người lập tức hồn phi phách tán.
o0o
Chú thích:
1 Sa môn: giới thầy tu.
2 Xiển thuật: chỉ nêu đề tài, chưa giải nghĩa.
3 Thiên Sư Đạo: Ngũ Đấu Mễ Đạo (nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), cũng gọi Thiên Sư Đạo, là một giáo phái ra đời trong giai đoạn đầu của Đạo giáo, tức cuối đời Đông Hán (25-220) trong lịch sử Trung Quốc, do Trương Lăng (34-156) sáng lập. Từ đời Đông Tấn trở đi Ngũ Đấu Mễ Đạo được gọi là Thiên Sư Đạo, từ đời nhà Nguyên trở đi gọi là Chính Nhất Đạo.
Xem thêm về các cuộc khởi nghĩa của Thiên Sư Đạo vào thời Tấn:
4 Mê yên đạn: đạn khói mù.
5 Nhân lương vu địch: Thiên thứ nhì trong “Tôn Tử Binh Pháp” là “Tác Chiến Thiên” đề xuất một tư tưởng trọng yếu --- “Nhân lương vu địch”, ý tứ của bốn chữ này là nói: lúc thống lãnh quân đội tiến vào đất địch tác chiến, phải rành chuyện giải quyết lương thực của nước địch mà bổ cấp, do vậy giảm bớt tiêu hao cho kinh tế nước nhà.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #10  
Old 12-21-2012, 07:39 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Biên hoang truyền thuyết - Hồi 19, 20

Biên hoang truyền thuyết


Hồi 19

Liễu ám hoa minh


Tạ Huyền, Lưu Lao Chi và mười mấy thân binh từ bờ tây Phì Thủy giục ngựa vượt ngang Phì Thủy, đoạn sông này hai bờ là bãi cát rộng rãi, nước vừa chậm vừa nông, chỗ sâu nhất chỉ tới bụng ngựa.
Tạ Huyền quan sát bờ đông, cuối bãi cát là một cánh rừng thưa thoai thoải ngang chân Bát Công Sơn, tiếp đó trải thẳng lên đỉnh núi, hình thế hùng hồn bàng bạc, cây cối rậm rạp.
Đến bờ đông, Tạ Huyền vẫn trầm ngâm không nói gì, giật ngựa quay đầu, dõi nhìn bờ tây cách hai ba trăm bước, trầm giọng: “Nếu Phù Kiên bằng vào tinh kỵ đánh trận đầu vượt sông, binh lực của bọn ta căn bản không đủ để cản trở”.
Lưu Lao Chi nói: “Dễ mà, chỉ cần bọn ta mượn thế dưới cánh rừng cao của Bát Công Sơn, thiết trí lũy trại kiên cố, phối hợp với cung cứng tên mạnh, đá gỗ lăn, có thể khiến cho Phù Kiên khó lòng tiến tới một tấc đất”.
Tạ Huyền lắc đầu: “Đó chỉ có thể cản được Phù Kiên vài ngày, y không những có thể chia binh lần theo Phì Thủy vòng qua Bát Công Sơn, còn có thể đi đường tắt nam hạ, đổi lại công đả các quận huyện khác”.
Lưu Lao Chi rùng mình: “Huyền soái quyết ý một trận thư hùng với Phù Kiên tại Phì Thủy?”.
Tạ Huyền kiên định thốt: “Đó là cách thắng duy nhất, lợi dụng Phù quân đường dài lặn lội, thể lực mệt nhọc, bọn ta tinh nhuệ tỉnh táo, lấy nhanh đánh chậm, đánh nhanh xong nhanh. Trước trận chiến bọn ta lợi dụng tâm khinh địch của Phù Kiên, dùng xảo kế nhiều phen làm địch ngờ vực, dắt mũi Phù Kiên, trận này tất có thể thủ thắng”.
Lưu Lao Chi thấp giọng hỏi: “Dám hỏi Huyền soái có cách gì để làm mê hoặc địch, xin để Lao Chi đi làm”.
Tạ Huyền đáp: “Sau khi hai cánh đại quân của bọn ta hội hợp, toàn thể ngày ẩn đêm đi đến Hiệp Thạch Thành trong Bát Công Sơn, chực chờ thời cơ, an tĩnh đợi mệnh lệnh xuất kích”.
Bắc Phủ binh chia làm hai lộ, một đội do Hà Khiêm thống lãnh, đội kia do Tạ Thạch và Tạ Diễm chủ trì, đi từ Lịch Dương, thêm vào binh lực Thọ Dương, tổng số binh sĩ đạt tới tám vạn. Quan binh có thể nặn ra ở Dương Châu cũng cỡ đó, là chủ lực bảo vệ Kiến Khang. Cho nên có thể nói Tạ Huyền xả láng một bàn, cần phải phân thắng bại trong một trận với Phù Kiên, cũng vì người ít mà lắm thù, chính quyền Giang Tả căn bản không đủ sức tiến hành một cuộc chiến công phòng toàn diện đại quy mô dài lâu. Đó không những cần dũng khí của Tạ Huyền, còn cần sự chi trì toàn lực và uy danh trọng vọng của Tạ An. Tạ Huyền hiện tại có thể dừng ngựa bên bờ đông Phì Thủy, toàn quyền chỉ huy tiến hành, được như vậy đâu có phải dễ.
Tạ Huyền lại nói: “Bọn ta ngàn vạn lần không nên tăng cường bất cứ phòng ngự gì ở Bát Công Sơn, tránh cho Phù Kiên sinh lòng đề phòng, còn phải thiết pháp làm cho Phù Kiên nghĩ quân đội binh lực tiền tuyến của bọn ta bạc nhược, ta muốn Hồ Bân lựa thời cơ thích hợp buông bỏ Thọ Dương, chính là ý đó”.
Lưu Lao Chi do dự: “Có thể đúng như lời của Huyền soái, Phì Thủy nước nông, khó thành chốn hiểm ngăn trở địch nhân, cho dù chúng ta gối binh ở Bát Công Sơn, vẫn khó ngăn ngựa Hồ qua sông, huống hồ... ài! Huống hồ...”.
Tạ Huyền mỉm cười nhìn gã, điềm nhiên nói tiếp giùm gã: “Huống hồ chúng ta thiếu thốn chiến mã, số lượng có thể dùng chưa tới vạn thớt, có phải không?”.
Lưu Lao Chi đúng ý không nói gì, địch nhân kỵ binh có hơn hai chục vạn, hơn nữa toàn là quân tinh nhuệ thiện nghệ kỵ xạ, nếu không có lũy trại làm phòng ngự, xung chiến ngay tại bãi cát cùng địch binh vượt sông, bất luận Bắc Phủ binh giỏi giắn tới mức nào, cũng tuyệt không cầm cự được bao lâu.
Tạ Huyền để lộ một nụ cười cao thâm làm cho người ta không thể nào đoán nổi, nhẹ nhàng thốt: “Lao Chi lập tức sai người bí mật đẽo bện ra mấy vạn người cây người cỏ trong Hiệp Thạch Thành, mặc quân phục cho chúng, lại không cần dựng đứng lên, đợi ta phân phó rồi hãy bắt đầu y kế hành sự”.
Lưu Lao Chi ngây người đáp ứng.
Tạ Huyền song nhãn bắn ra nỗi niềm thâm tình vô bì, từ từ dõi lần theo Phì Thủy, dịu giọng: “Tạ Huyền ta có thể giúp An thúc lưu giữ mỹ danh thiên cổ bất diệt hay không, phải xem Phù Kiên có phải như sở liệu của ta hay không, có theo đoạn sông này vượt sông hay không, ta sẽ tận hết biện pháp khiến cho y làm như vậy”.
o0o
“Keng! Keng! Keng!”.
Cái chuông khổng lồ nơi bốn cửa Biên Hoang Tập nhìn vào gõ vang thấu tận trời cao, chấn động không gian Biên Hoang Tập, vọng vào đường cái ngõ hẻm, không ngờ còn phá lủng cửa vào truyền luôn xuống kho rượu, biến thành tiếng oong oong vang vọng không ngưng trong tai ba người, che đậy hết tiếng đất đá rớt xuống thạch cấp.
Trong nhất thời, ba người vẫn có hơi không rõ chuyện gì vừa xảy ra, sáu mắt nhìn nhau, ai ai cũng thất thần.
Mãi cho đến khi tiếng chuông từ nhanh chuyển thành chậm, chỉ còn dư lại tiếng vang chậm chạp từng tiếng từng tiếng làm nôn bao tử, Thác Bạt Khuê rùng mình: “Là nghi lễ đánh chuông hoan nghênh Phù Kiên nhập thành”. Nói xong từ dưới đất búng mình lên, lướt qua lối đi hẹp giữa hai giàn rượu, phóng tới chỗ ra.
Lưu Dụ và Yến Phi sực tỉnh, hoang mang rượt theo.
Bậc đá chỗ lối ra đầy gạch đá, hương rượu tràn ngập bốn bề trong tửu khố, cái giá gỗ mà bọn họ tốn công nát óc thiết kế chống đỡ khoảnh gạch vụn bên trên đã bị yêu nữ tàn nhẫn muốn dồn bọn họ vào tử địa phá hoại đi.
Thác Bạt Khuê không ngừng lướt lên bậc cấp, biến mất ngoài cửa ra, đang lúc Yến Lưu hai người theo ra đến nhà bếp lớn của Đệ Nhất Lâu, tiếng chuông cũng vừa dứt, dư âm vẫn còn quần thảo trong không gian nhỏ xíu rúng động mang tai.
Thác Bạt Khuê tay thủ song kích, đang đứng gần cửa sổ nhìn lén ra ngoài, ánh tịch dương của hoàng hôn từ song cửa mặt tây uể oải rắc rải vào, đất trời ngoài nhà bếp tĩnh lặng đến dị thường, bắc môn thấp thoáng truyền đến tiếng vó ngựa.
Thình lình tiếng hô “Thiên Vương vạn tuế” ở bắc môn vang lên, như triều dâng sóng vỗ.
Lưu Dụ lướt tới bên cửa lớn đang rộng mở, nhìn sang phương hướng Đệ Nhất Lâu.
Trong nhà bếp ngoại trừ đồ tạp nhạp và mảnh vỡ bếp lò lan đầy đất ra, bốn vách vẫn còn nguyên, Yến Phi cẩn thận rón rén tránh để lọt ra bất kỳ thanh âm gì, di động đến cửa sổ phía bắc, rướn nhìn ra, hậu viện của Đệ Nhất Lâu tĩnh lặng, không thấy địch nhân, An yêu nữ cũng mất tăm.
Thác Bạt Khuê lắc đầu cười khổ: “Đây phải gọi là cái hên trong cái rủi, An yêu nữ muốn hại bọn ta, trái lại giúp bọn ta nhìn rõ hình thế bên ngoài, có thể thấy bọn ta hồng phúc tề thiên, không mất mạng được.
Lưu Dụ tức tối nhe răng: “Ả hiện tại vẫn còn có thể hãm hại bọn ta, chỉ cần quăng mấy cục đá sang đây, nhất định sẽ kinh động địch nhân”.
Yến Phi quay sang gã hỏi: “Trong lâu có người không?”.
Lưu Dụ đáp: “Dưới lâu không có người, trên lâu khẳng định là có”.
Vì có tiếng hô hào yểm hộ, ba người chỉ cần nói nhỏ mà không sợ bị người ta nghe được.
Thác Bạt Khuê nhanh nhẹn di chuyển, hí nhìn ra từ mỗi một cánh cửa sổ, cuối cùng đến bên kia Lưu Dụ, còn Yến Phi cũng đến kề bên Lưu Dụ, trầm giọng: “Theo ta phán đoán, lúc An yêu nữ phóng ra bậc cấp chính là lúc tiếng chuông đánh lên, ả nghĩ lầm là đã bị địch nhân phát hiện tung tích, rung chuông báo động, nhất thời tình thế cấp bách bất chấp mọi thứ mà phóng ra cửa sau, trốn xa, đến lúc ả minh bạch được chuyện, ngồi xuống thì đã lỡ cơ hội tốt ám hại bọn ta rồi, chỉ còn nước than dài bất lực, trừ phi ả dám mạo hiểm quay ngược về”.
Tiếng vó ngựa vang lên, một đội tuần kỵ từ từ đi qua con hẻm dài ngoài tường hậu viện, ba người tuy biết rõ địch nhân nhìn không thấy mình, vẫn không khỏi cúi thấp xuống, chừng như có như vậy mới an toan được một chút.
Sau khi tuần binh đi qua, tiếng hô hào dần dần lắng đọng.
Thác Bạt Khuê thấp giọng: “Ta vốn nghĩ ả có hảo cảm với Yến huynh đệ, không thể bán đứng bọn ta, nào ngờ yêu nữ vẫn là yêu nữ, bản tính khó dời, nếu để cho ta bắt được ả, ta sẽ bắt ả hối hận đã làm người”.
Yến Phi biết tính cách có thù tất báo của hắn, càng rõ sự tâm ngoan thủ lạt của hắn, bất quá An Ngọc Tình quả thật không đáng để được đồng tình, ngấm ngầm thở dài không nói gì.
Ba người tâm tình vừa thoát qua một kiếp nạn vẫn còn chưa bình phục, có chút hứng khởi cảm giác kích thích.
Thác Bạt Khuê hướng sang Lưu Dụ: “Thương thế của ngươi ra sao?”. Lưu Dụ đáp: “Cũng đỡ được tám chín phần rồi. Ta bất luận thương thế nghiêm trọng đến mức nào cũng có thể phục hồi nhanh chóng vượt ngoài sở liệu của người khác”. Yến Phi ngạc nhiên: “Thể chất của Lưu huynh khác hẳn người thường”. Thác Bạt Khuê nói: “Trời sắp tối rồi! Bọn ta phải lập tức quyết định hành động như thế nào”.
Lưu Dụ nói: “Bọn ta phải cùng tiến cùng thoái, một là toàn thể ly khai, một là toàn thể lưu lại”.
Thác Bạt Khuê tán thưởng: “Hảo hán tử!”.
Yến Phi lắc đầu: “Quân phục chỉ có hai, làm sao mà có thể cùng tiến thoái được? Các ngươi mặc quân phục vào trước đi!”.
Quang tuyến bên ngoài mờ tối xuống, không khí khá thê lương hoang hàn. Đây không còn là Biên Hoang Tập mà Yến Phi quen thuộc nữa, chiến tranh phong bạo đầy tính hủy diệt chính đang chực chờ vận động.
Thác Bạt Khuê nói: “Được! Bọn ta giả thành Tần binh, tùy cơ ứng biến, kiếm cách yểm hộ Yến Phi!”.
Lưu Dụ im lặng một hồi, cuối cùng đồng ý: “Bao còn ở bên trong, bọn ta xuống dướu đi lấy áo, Yến huynh ở đây canh nhé”.
Yến Phi gật đầu đồng ý, đợi hai người đi vào địa đạo rồi đứng canh bên cửa. “Ài!”.
Sao lại có thể biến thành như vầy, lối sống bình lặng cả một năm trời đột nhiên lại tan biến hoàn toàn.
Đang nghĩ ngợi, Thanh âm giày da đạp trên đất từ bên ngoài cửa lớn của Đệ Nhất Lâu rào rạo vang lên, Yến Phi kinh hãi thò đầu ra nhìn, trong lòng lập tức kêu không hay, một đội binh Tần gần hai chục người đang rảo bước về phía Đệ Nhất Lâu.
Người dẫn đầu nhỏ giọng phân phó với thủ hạ: “Lục xét kỹ càng cho ta, Thiên Vương sẽ lập tức đến đây!”.
Yến Phi càng hoảng kinh thất sắc, vội vàng thoái lùi, lượm một cái chảo sắt lớn đã toét bể một lỗ, phóng xuống địa đạo, lại dùng chảo sắt phong bế cửa vào. Thác Bạt Khuê và Lưu Dụ đang mặc quân phục Tần binh bên dưới bậc cấp liền đình chỉ động tác, ngây ngốc như gà gỗ nhìn chàng.
Ba người chỉ có lỗ tai vẫn còn thao tác như thường, nghe tiếng bước chân bên trên, chỉ có thể hy vọng ông trời thủy chung có hậu, giữ cho họ chút đất lành bảo bọc.
o0o
Kiến Khang thành, hẻm Ô Y, trong Vọng Quan Hiên của Tạ phủ.
Tạ An và Tạ Đạo Uẩn ngồi ở một góc, thắp đàn hương trên một cái lư, uống trà nói chuyện.
Tạ An đã nhiều năm không ngồi nói chuyện với Tạ Đạo Uẩn như vầy, từ khi nàng gả mình vào nhà họ Vương, cơ hội gặp mặt của bọn họ giảm bớt đi rất nhiều, chỉ có lễ lộc mới có cơ hội hoan tụ, bất quá buổi họp mặt như vậy chỉ toàn nói chuyện gia đình bình thường, khó lòng bàn thảo sâu sắc.
Mỗi lần gặp điệt nữ tài năng khí chất phiêu dật tung hoành đó của mình là luôn cảm thấy nàng tâm sự trùng trùng. Ông ta có hơi sợ hỏi nàng, cũng không biết phải hỏi làm sao, có cảm giác biết mà bất lực làm sao!
Hôm nay cuối cùng nhịn không được: “Ngưng Chi đối với ngươi có tốt không?”. Tạ Đạo Uẩn cúi đầu tránh nhãn quang của ông ta, dịu dàng đáp: “Cũng không tệ!”.
Tạ An biết nàng không muốn nói ra, ngầm thở dài: “Chuyện có liên quan đến Di Lặc giáo bí mật phi thường, ta không thu được một chút phong thanh nào, Ngưng Chi sao biết vậy?”.
Tạ Đạo Uẩn nhẹ nhàng đáp: “Y là nghe từ chỗ Quốc Bảo, nhị thúc không biết Quốc Bảo đã từng ba lần đến Lạc Dương đi gặp Trúc Pháp Khánh sao?”.
Tạ An cười khổ lắc đầu, ngầm hạ quyết tâm, cho dù Vương Thản Chi thân hành nhún nhường đến nói chuyện, ông ta cũng không để cho cháu gái về lại Vương gia. Vương Quốc Bảo như vậy là đã đến nước không còn có thể cứu chữu, nếu không có chút thân phận tình cảm con rể cha vợ, cho dù có Tư mã Đạo Tử bảo vệ cho gã, Tạ An cũng sẽ sử hết thủ đoạn trừ khử đi gã.
Ông trầm giọng nói: “Ngưng Chi luôn luôn có quan hệ không tồi với Quốc Bảo, vì sao lại đem chuyện này nói cho con nghe? Y lẽ nào không sợ Đạo Uẩn tiết lộ cho ta biết?”.
Tạ Đạo Uẩn hiện biểu tình khốn khổ, cúi đầu nhẹ giọng: “Y chính là muốn Đạo Uẩn chuyển lời cho nhị thúc biết, muốn ngăn trở bàn tay ma của Di Lặc Giáo tiến vào Kiến Khang. Theo quan sát và thám thính của y, Quốc Bảo đã thành truyền nhân của Trúc Pháp Khánh, chuyện đó Quốc Bảo giấu rất kỹ, ngoại trừ Ngưng Chi ra không còn ai biết được. Ài! Có hoàng thượng và Lang Nha Vương đằng sau chống lưng cho gã, cho dù có người biết thì sao chứ!”.
Tạ An lấy làm lạ: “Không ngờ Ngưng Chi có kiến thức và dũng khí như vậy”.
Tạ Đạo Uẩn mặt khinh miệt, thở dài: “Nhị thúc quá đề cao y! Ài! Không có ai nói cho nhị thúc biết y dốc một lòng tin tưởng Thiên Sư Đạo sao? Mỗi ngày y ngoại trừ viết chữ ra là ngồi họa mấy câu niệm chú lên thẻ tre. Đối với y mà nói, Phật giáo là ma đạo, còn Di Lặc giáo càng là ma đạo trong ma đạo”.
Tạ An lắng nghe đến mức trợn mắt há miệng, cuối cùng đã hiểu rõ nguyên nhân sầu muộn sau khi gả mình vào nhà họ Vương. Cao môn đại tộc ở Giang Tả, không những lối sống hủ hóa, cả tinh thần cũng không thể tốt đẹp gì, Nam Tấn còn có gì để hy vọng đây?
o0o
Ba người nín thở nghe động tĩnh bên trên, bởi vì chỉ cách có một cái chảo, tiếng chân loạn xạ nghe rõ rõ ràng ràng, cả tiếng hô hấp của địch nhân cũng rành rành có thể nghe được.
Bọn họ đã có chủ ý, một khi chảo bị đẩy qua, lập tức toàn lực xuất thủ, xông ra đột vây.
Có ai có thể ngờ Phù Kiên sau khi lặn lội đường dài nhọc nhằn vẫn còn hứng chí đến Đệ Nhất Lâu, Yến Phi không ngờ lại nghĩ y không thể thưởng thức được Tuyết Giản Hương và mấy món nhấm của Bàng Nghĩa thì thật là đáng tiếc.
Phần nhiều có thể khẳng định bên trên là người của Phù Dung, vì vậy mà không bị cảnh tượng trong nhà bếp làm kinh ngạc, người của Phù Dung đã lục xét từ sớm, nếu đổi lại là thân binh của Phù Kiên mới vừa đến, không thất kinh mới quái.
Bên trên đại bộ phận đám lính đã đi qua cửa sau đến hậu viện lục soát, thanh âm hai đôi giày đạp trên đồ đạc đổ bể vang lên, từ từ tiếp cận cửa vào.
“Choang!”.
Một cái chảo bị xốc lật tạo thành tiếng động đâm vào tai ba người như tên bén xuyên tim, ba trái tim phọt tới yết hầu, mai là cái chảo đó không phải là cái chảo trên đỉnh đầu bọn họ.
Có một người thấp giọng quát: “Không nên đá ầm ầm vậy, khiến cho ta bực dọc trong lòng quá”.
Tên lính Tần đá lật chảo tức tối: “Bọn ta đâu phải là người sắt, đêm hôm qua chỉ ngủ có hai canh giờ, đêm nay...”.
Người kia ngắt lời gã: “Người của Thiên Vương còn khổ hơn so với bọn ta, nghe nói bọn họ hai ngày trời chưa chợp mắt. Đi đi! Ở đây có gì đâu mà lục soát”. Tiếng chân chuyển đi ra hậu viện.
Ba người đồng thời thở phào một hơi, rời khỏi bậc cấp, đi đến một góc nói chuyện.
Thác Bạt Khuê thấp giọng: “Hình thế này đối với bọn ta có lợi phi thường, Người của Phù Kiên và Phù Dung ai ai cũng hết gân hết sức, sự cảnh giác tất giảm thấp, nếu bọn ta có thể lợi dụng hai lộ nhân mã không nhận ra nhau, có rất nhiều cơ hội trà trộn qua cửa”.
Lưu Dụ tinh thần phấn chấn: “Lợi dụng làm sao?”.
Thác Bạt Khuê đáp: “Thân binh của Phù Kiên và Phù Dung đều chia riêng biệt, đâu có quen biết gì nhau nhiều. Hiện tại phụ trách canh giữ vòng ngoài Đệ Nhất Lâu là người của Phù Dung, thân binh của Phù Kiên đương nhiên là thủ trong lâu, cho nên chỉ cần bọn ta giả làm người của Phù Kiên, đi ra ngoài lâu là liền có thể thông hành không bị ngăn cản, vấn đề duy nhất là cần đoạt được một bộ quân phục khác”.
Lưu Dụ gật đầu: “Chuyện đó có thể tùy cơ ứng biến, tận lực nghĩ cách. Chỉ cần lần mò và chỗ nghỉ ngơi của bọn Phù Kiên, muốn bao nhiêu bộ cũng có”.
Yến Phi thốt: “Các ngươi đi đi! Ta ở lại đây, nghe ngóng coi Phù Kiên có nói gì không”.
Hai người ngạc nhiên nhìn chàng.
Yến Phi mỉm cười: “Đi theo ta!”.
Dẫn hai người đi lần theo tường, bất chợt lấy một bình rượu khỏi giá gỗ, nói: “Xem kìa!”.
Một cái ống đồng to bằng bắp tay từ vách tường thò ra, cuối ống còn bao một đoạn ống đồng khác, giật ra là có thể kéo dài ống, tiện lợi ghé tai lắng nghe. Lúc này ống đồng đang bịt bao vải.
Hai người đã hiểu, thứ thiết bị này đâu phải dị thường, thường hay bố trí dưới hầm hố mật thất giám thị thám thính bên trên. Thứ địa phương như vậy đương nhiên là dùng để tránh họa hoặc thu giấu đồ quý giá, có công cụ thám thính bên trên, có thể an nhiên đi ra sau khi địch nhân ly khai, không sợ ngăn cách tuyệt không có tin tức, đối với tình huống bên trên cái gì cũng biết được. Chỉ bất quá hai người chưa từng nghĩ hầm rượu này cũng có thiết bị chu toàn như vầy.
Yến Phi giải thích: “Cái ống đồng này thông tới vị trí chính giữa tầng dưới và tầng trên, giấu trong cột nhà, thiết kế xảo diệu phi thường, từ lúc Đệ Nhất Lâu khai trương cho đến nay, chưa từng có người ngoài phát giác được. Cao Ngạn tên tiểu tử đó thích ở đây nghe lén người ta nói chuyện, bất phải phải tốn phí, mỗi lần hai chục tiền”.
Lưu Dụ cười ngất, lối hành sự của Hoang nhân quả thật khác biệt với những nơi khác.
Thác Bạt Khuê tán thưởng: “Bàng Nghĩa con người đó thật không giản đơn”. Yến Phi gật đầu: “Y tuy võ công bình bình, nhưng lại có pháp bảo quanh người, Đệ Nhất Lâu là do y một tay một chân kiến tạo ra, tuyển lựa gỗ cũng một mình lo hết”. Lưu Dụ nói: “Để ta nghe thử xem”.
Thác Bạt Khuê giữ gã lại: “Phù Kiên chưa đến, có gì mà nghe, chuyện cần phải làm khẩn”.
Lại quay sang Yến Phi: “Nếu như mọi việc thuận lợi, bọn ta có thể quay về đây nửa canh giờ sau, nhớ đừng có uống rượu”.
Yến Phi cười khổ: “Uống hai ngụm cũng đâu có gì!”.
Thác Bạt Khuê đến bên tai chàng cảnh cáo: “Nếu ngươi giả làm người Tần mà miệng lại phun đầy mùi rượu, ngươi nghĩ hậu quả thế nào? Hừ! Nhớ là nửa hớp cũng không thể uống”.
Nói xong dẫn Lưu Dụ đi.


Hồi 20

Ngư mục hỗn châu


Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê hai người ngồi chồm hổm ở cuối bậc cấp, lén nhìn qua cửa ra có cái chảo sắt che đậy, nghe tiếng hô hấp của địch nhân bên trên.
Trên sự thật bọn họ đã sớm đoán định sẽ gặp phải tình huống này, thử hỏi thích khách lúc nào cũng có thể xuất hiện, nơi Phù Kiên đến bảo an tất phải nghiêm mật bậc nhất, nhà bếp là đường tiến nhập hậu viện phải đi ngang, làm sao mà không có Tần binh canh phòng cho được?
Lưu Dụ hai mắt nhìn lên, thì thào: “Chỉ có bốn người, mệt đừ lắm rồi, hơi thở nặng nề, ít nhất có một người ngủ li bì”.
Thác Bạt Khuê cúi đầu ngẫm nghĩ, nhắm mắt nói: “Hai phiến cửa dẫn tới Đệ Nhất Lâu và hậu viện đều đóng kín, để tránh bụi bặm gió máy lọt vào lâu, cho nên tiếng động cũng khác với hồi nãy”.
Lưu Dụ vẫn tròn mắt nhìn qua cái chảo, như muốn nhìn thấu huyền cơ bên trên: “Ngươi đoán thủ vệ là người cánh nào?”.
Thác Bạt Khuê đáp: “Rất có thể là người của Phù Kiên, nếu không đâu có mệt nhọc đến mức ngủ vùi, hơn nữa nhà bếp thuộc nội bộ Đệ Nhất Lâu, chắc do tùy binh của Phù Kiên phụ trách bảo an, ngoài lâu tất là người của Phù Dung”.
Lưu Dụ nói: “Hai người thủ cửa trước, hai người còn lại thủ cửa sau, ngươi đoán nếu bọn chúng bất chợt thấy hai huynh đệ từ địa đạo chui ra, lại hô nhỏ quân lệnh, sẽ có phản ứng gì không?”.
Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Thân tùy của Phù Kiên không có ai không phải là cao thủ chọn ra từ ngàn người, bằng vào sức của ba người bọn ta, lại phải chui từng người ra, tuyệt không có khả năng im hơi lặng tiếng mà chế phục bọn chúng”.
Bất chợt thanh âm y phục lòa xòa trên đất từ bên trên truyền xuống.
Thác Bạt Khuê hai mắt trợn trừng, tinh quang ngời bắn, Lưu Dụ vừa hay đưa mắt nhìn hắn, mục quang chạm nhau, hai người đều sinh ra cảm giác quái dị, tựa như thình lình ngay giờ phút này không ngờ lại thâm nhập thấu hiểu đối phương, nhìn ra đấu chí kiên nghị bất biến, sự phấn đấu không lùi trong nghịch cảnh của đối phương.
Lưu Dụ thốt: “Có người ngồi xuống!”.
Tiếp đó là tiếng ba người khác ngồi xuống, có người còn thư thả thở phào một hơi, lầm bầm một hai câu, bất quá không có ai đáp lời.
Thác Bạt Khuê nói: “Chắc là vậy! Trước khi Phù Kiên đi, người của Phù Kiên trong Đệ Nhất Lâu không thể đến nhà bếp, người của Phù Dung càng không thể tiến vào, nếu không làm sao dám lén lút xao lãng lười biếng đang lúc canh gác”.
Lưu Dụ hít một hơi sâu: “Ta hy vọng nghe tiếng ngáy ngủ”.
Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Tình huống này một khi bắt đầu thì khó lòng khống chế, rất mau chóng sẽ như sở nguyện của ngươi, ta đi thông tri cho Yến Phi một tiếng”. Nói xong cẩn thận rón rén bước xuống bậc cấp không để thoát ra một tiếng động nào.
o0o
Phù Kiên lúc này đã thế Yến Phi, ngồi bên cái bàn gỗ lớn trông ra đường trên lầu hai, đối diện với con đường cái thông ra Giản môn, lẳng lặng uống trà sữa dê do thị vệ dâng lên, lắng nghe Phù Dung cúi đầu cung kính đứng một bên báo cáo tình huống hiện thời của Biên Hoang Tập, cùng tình báo từ tiền tuyến Hoài Thủy truyền về.
Đường trường thủ vệ sâm nghiêm, chỗ nào lầu phòng cao đều có người canh gác, một đội tuần kỵ đang rong ruổi ra cửa Đông, Biên Hoang Tập đâu đâu cũng sát khí ngút trời.
Phù Kiên dào dạt sóng lòng, nghĩ tới quá khứ của mình, tình tự trong tim tràn trề kịch liệt, từ khi tiến vào Biên Hoang Tập, y biết rõ bá nghiệp của mình đã đạt đến thời khắc quan trọng nhất, bất cứ một quyết định nào cũng đều có thể ảnh hưởng đến mệnh vận tương lai thiên hạ, cho nên y cần tìm một chỗ tốt, tĩnh lặng tâm tư sách tính.
Vốn ngôi hoàng đế Đại Tần đâu đến phiên y, cha y Phù Hùng là thừa tướng của Đại Tần chi chủ Phù Kiện, chết trận trong chiến dịch Hoàn Ôn bắc phạt, y phận con thừa kế chức vụ của cha, được phong làm Đông Hải Vương.
Sau khi Phù Kiện chết, Phù Sinh kế vị, người này vũ dũng cái thế, lại tàn bạo bất nhân, còn hơn cả Kiệt Trụ, quần thần trên dưới bất mãn, chúng bạn người thân rời xa. Phù Kiên y từ bé thông minh hơn người, bác học đa tài, tinh thông Hán tịch điển chương, ôm ấp đại chí, rất được lòng người.
Cuối cùng có một ngày y lợi dụng Phù Sinh say rượu giết người trong cung mà chém chết Phù Sinh, tiếp đó đăng lên đế vị, xưng là Đại Tần Thiên Vương.
Thuở y mới lên ngôi, do Phù Sinh vô đạo, dân chúng điêu linh, quyền thần hào tộc hoành hành bá đạo, vào thời khắc bá tánh rục rịch nổi dậy đó, y phá lề lối đi dùng Hán nhân Vương Mãnh, thúc đẩy quốc sách cơ bản “dùng pháp trị đất nước loạn lạc”, không lý gì tới sự phản đối của bất cứ một ai, toàn lực chống lưng cho Vương Mãnh, thậm chí nội trong một năm liên tục năm lần gia quan tấn tước cho Vương Mãnh, giúp cho Vương Mãnh có thể lơi tay tại vị, cho dù là dòng quý tộc trong Đê tộc cũng tuyệt không lưu tình, kiến lập một chính quyền thanh liêm có triển vọng, đạt được cục diện đỉnh cao từ trên xuống dưới đều nghiêm minh, kẻ quý tộc giàu có cũng phải nín thở sợ hãi, đồ rơi trên đường không dám nhặt, phong hóa phát triển thịnh vượng.
Thành tựu một đời của y toàn là trông vào một ý mà hành sự, độc tài bài bác nghị luận của đám đông mà đi. Y lần này Nam phạt, cũng là một quyết định trong đầu nghĩ gì là làm, một khi đã quyết định, y vĩnh viễn không sửa đổi.
Thanh âm của Phù Dung truyền vào tai y: “Theo thám tử hồi báo, Thọ Dương hoàn toàn không tăng cường công sự phòng ngự, thật kỳ quái”.
Phù Kiên từ trong cơn trầm tư vụt quay về, nghĩ ngợi một hồi, chợt khà khà cười: “Đạo lý rất đơn giản, người Tấn binh lực bạc nhược, biết căn bản không thể giữ Thọ Dương, cho nên không làm chuyện vô vị, tránh lãng phí nhân lực vật lực”.
Phù Dung cau mày: “Chỉ sợ có gì trá ngụy”.
Phù Kiên nhìn hắn, điềm đạm thốt: “Ngươi nói cho ta xem, người Tấn bằng vào cái gì có thể cố thủ Thọ Dương? Thành trì Hiệp Thạch trong Bát Công Sơn, lại bị Phì Thủy ngăn cách, Thọ Dương chỉ là một tòa cô thành, nếu như bọn ta tấn công ngày đêm không ngừng, nó có thể cầm cự được bao lâu?”.
Phù Dung không nói gì, hắn hiểu tính cách của Phù Kiên rõ nhất, một khi đã hình thành ý tưởng, không ai có thể cải biến được y.
Phù Kiên mục quang xoay sang đường trường, trầm giọng: “Bên Kiến Khang có động tĩnh gì không?”.
Phù Dung đáp: “Tư mã Diệu giao cho Tạ An toàn quyền chủ lý, Tạ An cho Tạ Thạch làm chủ soái, Tạ Huyền, Tạ Diễm làm phó tướng, tập kết Bắc Phủ binh ở Quốc Lăng và Lịch Dương xung quanh Kiến Khang, cho nên tôi mới cảm thấy bọn chúng nếu buông bỏ Thọ Dương thì thật không có lý”.
Phù Kiên ngạc nhiên một hồi, gật đầu: “Quả thật có điều cổ quái, Hồ Bân thật ra là người ra sao? Mau truyền Chu Tự đến đây cho ta!”.
o0o
Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê khổ não chờ đợi một lúc lâu, vẫn chỉ có một tên phát ra tiếng ngáy, khiến cho hai người không dám mạo hiểm.
Lưu Dụ nhớ tới đề tài nói chuyện trước khi cửa ra bị phá, đến gần Thác Bạt Khuê nhỏ giọng: “Hiện tại ta đã nắm được tình báo chính xác có liên quan đến đại quân Đê Tần, việc tìm Chu Tự không còn trọng yếu nữa, đã là như vậy, bọn ta đâu cần mạo hiểm, đợi đoạt được quân phục, giả làm thân binh bá đạo nhất dưới trướng Phù Kiên, có thể bằng vào khẩu lệnh mà ngang nhiên đi ra”.
Thác Bạt Khuê thần sắc trào lộng nhìn gã: “Lưu huynh có dám mở phong thư Tạ Huyền sai huynh giao cho Chu Tự ra xem thật hư không?”.
Lưu Dụ có cảm giác thân thiết với Thác Bạt Khuê như đã là chiến hữu chung vai phấn đấu, lại ẩn hàm quan hệ thù địch cạnh tranh kỳ dị, hỏi nhẹ: “Ngươi nói trong thư có mật kế khác?”.
Thác Bạt Khuê thốt: “Đầu óc của ngươi xoay chuyển cũng rất mau, Nam phương từ sau khi Tạ Huyền nắm chức thống soái Bắc Phủ binh, đánh đâu thắng đó, cho nên có thể thấy được y trí dũng song toàn. Y sai ngươi vượt trăm ngàn gian khổ đưa một phong thư cho Chu Tự, trong đó đương nhiên có sự vụ khẩn yếu, hơn nữa không cho phép Chu Tự cự tuyệt. Nếu cứ nghĩ tới bề mặt của tình huống, ta cũng nghĩ Chu Tự khó có thể chịu nhận, nhưng Tạ Huyền là người phi thường, có thủ đoạn phi thường, cho nên ta vẫn nghĩ tất cần phải đem thư giao tận tay Chu Tự”.
Tiếp đó cười khan: “Xem ra ta đối với Tạ Huyền còn có lòng tin hơn là ngươi đối với y”.
Lưu Dụ bị hắn châm chọc thấy khó chịu, trong lòng tức uất, lại không thể phát tác, cười khổ: “Được thôi! Tất cả y theo lời ngươi!”.
Thác Bạt Khuê chợt thò tay nắm vai gã, thấp giọng: “Nói thẳng với ngươi: ta vốn không quá coi trọng Tạ Huyền, mãi cho đến khi từ miệng ngươi biết Tạ Huyền độc đoán buông bỏ Thọ Dương mặc cho số đông nghị luận, lập tức cải biến ấn tượng về y, đầy lòng tin đối với y. Nếu đổi lại không phải là Tạ Huyền mà là bất cứ tướng lãnh nào của Nam Tấn chủ sự, ngươi thấy tình huống sẽ ra sao chứ?”.
Lưu Dụ cảm thấy được ngón tay dài mạnh của hắn, ngầm rùng mình. Thác Bạt Khuê nhìn cực chuẩn, người Tấn lúc nghe tin đại quân Đê Tần nam hạ, trong quân quả thật có hai ý kiến. Một là cứng cỏi dựa vào Trường Giang cố thủ thành trì lấy Kiến Khang làm trung tâm, còn một kia là tử thủ Thọ Dương, không để đại quân Đê Tần vượt sông Hoài nam hạ. Chiến lược của Tạ Huyền lại nằm ngoài hai ý kiến đó, làm cho người ta khó lường cao thâm. Trong số các tướng lãnh người Tấn, Lưu Dụ là một trong vài người đủ tài trí để nhận xét về Tạ Huyền, biết cái Tạ Huyền dùng đích thị là sách lược khiến cho địch nhân “không biết lực lượng công kích ở đâu”, Thác Bạt Khuê là người ngoại tộc, chỉ bằng vào việc Tạ Huyền buông bỏ Thọ Dương là liền nhìn ra sự cao minh của Tạ Huyền, có thể thấy Thác Bạt Khuê quả là một kẻ tài trí hơn người.
Thác Bạt Khuê nói tiếp: “Người Tần rành mã chiến, kỵ binh lợi hại nhất là vận dụng xích hậu tiêm binh, đội binh mũi nhọn dò xét tình hình địch quân, nếu để bọn chúng có đồng trống rộng rãi để phát huy, Bắc Phủ binh làm sao là địch thủ cho được? Chỉ có để chúng hãm thân vào vùng sông hồ rừng núi giao nối, các ngươi mới có hy vọng thắng”.
Xích hậu là đội thám tử xem gió biết tình thế, mã thuật của người Hồ tinh thông, đến đi như gió, có thể quan sát địch nhân cách xa mà rõ như chỉ tay, hơn nữa điều động linh hoạt, lúc nào cũng có thể bằng vào kỳ binh đột tập địch thủ, một khi để cho bọn chúng tung hoành như chỗ không người ở vùng đồng trống bao la, người phương Nam chỉ còn nước cố thủ thành trì, hãm vây vào ách vận bị truy đuổi kích phá. Mà Thọ Dương ở vùng giao nối của hai con sông Hoài Thủy và Phì Thủy, quân Tần công hãm Thọ Dương sẽ từ không hình tích biến thành có hình tích, tính linh hoạt của kỵ binh vì vậy mà giảm yếu đi nhiều, cho nên lời nói của Thác Bạt Khuê là vậy.
Lưu Dụ không thể không nói: “Lời nói của Thác Bạt huynh thật cao thâm”. Đồng thời nghĩ đến khuyết điểm duy nhất của Thác Bạt Khuê có lẽ là sự kiêu ngạo tự phụ và thích người ta chịu phục của hắn.
Bên trên thình lình truyền tới tiếng mở cửa.
Hai người giật bắn mình, nghe bốn tên lính bên trên hoang mang đứng dậy, bọn họ trong lòng đang thảng thốt, đám binh sĩ đó làm sao còn có thể ngủ vùi được nữa. Có người bên trên thấp giọng nói: “Ta không nhìn thấy gì hết, khà khà!”. Tiếp đó có thanh âm mở cánh cửa thông ra hậu viện, người đó đi thẳng ra hậu viện, lớn tiếng: “Chuẩn bị ngựa!”.
Lưu Dụ và Thác Bạt Khuê thất thần nhìn nhau, Yến Phi hiện thân cuối bậc cấp, bước lên nghe hai phiến cửa trước sau nặng nề mở ra, khe khẽ thốt: “Ta biết chỗ Chu Tự ở rồi!”.
o0o
Tạ An đứng ở đầu thuyền, Tống Bi Phong lơi tay đứng kề sau lưng ông ta, gió sông lùa qua, tà áo của hai người lất phất, phành phạch vang động.
Cũng là sông Tần Hoài, cũng là đi thăm Tần Hoài Lâu, tâm tình của âm ta so với đêm hôm qua còn chìm đắm nặng nề hơn nữa.
Gánh nặng quốc gia hưng vong đè nén đến mức tức thở. Biến cục có thể đến theo chiến thắng hoặc chiến bại càng khiến cho ông ta có cảm giác sâu đậm khó thể gánh đương nổi.
Ông ta rất muốn tìm Vương Thản Chi, nói rõ cho họ Vương biết chuyện làm ám muội của con trai y, lại biết làm như vậy là bất trí phi thường. Vương Thản Chi là đại thần chức trọng quyền cao, nhưng tính khí có chỗ đoản, luôn đem sự vinh diệu của gia tộc đặt trên. Cái độc hại nhất là y nghi kỵ Tạ Huyền, sợ Tạ Huyền trở thành một Hoàn Ôn khác. Tạ An để Tạ Thạch nắm ngôi chủ soái chính là có nỗi khổ bất đắc dĩ. Ông ta cự tuyệt không cho Vương Quốc Bảo tham chiến, khẳng định đã khuấy động sự hoài nghi và bực dọc của Vương Thản Chi, nếu còn kể cho y về lầm lỗi của con trai y chỉ có thể gia tăng thêm vết rạn vỡ giữa hai đại gia tộc, cho nên chuyện Di Lặc giáo tất cần phải cẩn thận xử lý.
Tạ An ngấm ngầm thở dài, bình tĩnh hỏi: “Giang Hải Lưu có phải đang ở Kiến Khang?”.
Tống Bi Phong giật mình, Giang Hải Lưu ở phương Nam là nhân vật giậm chân có thể làm chấn động cả vùng Giang Tả. Y bản thân võ công cao cường không thua một ai, nhưng cái làm cho người ta kính sợ đích thị là ý nắm giữ địa vị long đầu lão đại của Đại Giang Bang.
Giang Hải Lưu quật khởi nhằm thời đại Hoàn Ôn nắm quyền, sáng lập Đại Giang Bang, thủ hạ hơn vạn người, thiết lập phân đà khắp thành trấn hai bờ Trường Giang, chuyên làm nghề mua bán muối, làm ăn rất có lời, càng khiến cho thế lực của Đại Giang Bang bành trướng không ngừng. Do có Hoàn Ôn chống lưng, y đối với Hoàn gia cũng một lòng trung thành. Hơn nữa Giang Hải Lưu biết lo cho tròn đều với người người, cho nên Đại Giang Bang vững như Thái Sơn, cho dù là triều đình Nam Tấn cũng phải nể mặt y.
Năm Hoàn Ôn bị bệnh chết, Tư mã Diệu vẫn không dám tước binh quyền của Hoàn gia, một trong những nguyên nhân chủ chốt chính là có Giang Hải Lưu đứng về phía Hoàn gia. Đến khi Hoàn Xung trở thành đầu não của Hoàn gia, vì Hoàn Xung chi trì triều đình, Đại Giang Bang sống hòa bình vô sự cùng triều đình, hơn nữa nạp đủ lương thuế, trái lại còn trở thành chủ lực áp bức thế lực thổ hào địa phương phía Nam.
Tạ An luôn luôn giữ khoảng cách với Giang Hải Lưu, tránh tạo sự hoài nghi của triều đình và Hoàn gia, bây giờ đột nhiên hỏi về y, tỏ ra tình huống dị thường cực kỳ.
Tống Bi Phong đáp: “Giang long đầu luôn luôn hành tung quỷ bí, bất quá y nếu ở Kiến Khang, nhất định có thể hiệu triệu đến gặp An gia, An gia có phải muốn Bi Phong truyền lời cho người?”.
Tạ An gật đầu: “Nếu y có ở Kiến Khang, ta đêm nay muốn gặp y ở Tần Hoài Lâu”.
o0o
Ba người lui xuống thạch cấp nói chuyện.
Yến Phi giải thích: “Phù Kiên hiện tại tâm huyết lai láng, muốn triệu Chu Tự đến hỏi dò về tình huống Thọ Dương, Phù Dung sai người đến Tây Uyển bên Tây môn đại nhai triệu Chu Tự đến gặp, bọn ta có thể đợi đến khi Chu Tự gặp Phù Kiên xong, sau khi quay lại Tây Uyển, để cho Lưu huynh tiềm nhập giao mật hàm cho gã”. Tiếp đó nói rõ vị trí của Tây Uyển.
Hai người trong lòng khen hay, chỉ cần bọn họ đến Tây Uyển trước khi Chu Tự quay về, có thể dễ dàng tìm ra chỗ nghỉ ngơi của gã, bất thình lình không quen không biết xông ra gặp gã, đó đương nhiên còn trông vào sự hợp tác “thân tại Tào doanh tâm tại Hán” của Chu Tự, nếu không, Chu Tự tính kế hại bọn họ, ba người không còn chỗ thoát thân.
Thác Bạt Khuê nói: “Chỉ cần bọn ta có thể học theo tên tiểu tử hồi nãy từ cửa sau đi đến hậu viện, quát lớn một tiếng ‘chuẩn bị ngựa’, chắc có thể qua khỏi, vấn đề là làm sao đến đó được”.
Lưu Dụ nói: “Một phương pháp ổn thỏa khác là đợi Phù Kiên bỏ đi, bọn ta mới ly khai. Ài! Bất quá tịnh không hợp tình lý”.
Thác Bạt Khuê gật đầu: “Đúng! Ngươi nói chuyện không đâu”.
Phải biết cho dù Phù Kiên dẫn thân binh bỏ đi, ngoài Đệ Nhất Lâu vẫn trùng trùng trạm canh, đột nhiên lại lòi ra hai “thân binh”, cho dù biết quân lệnh, không bị người ta hoài nghi mới là lạ.
Yến Phi nói: “Các ngươi nghe kìa!”.
Hai người dõng tai lắng nghe, chỗ cửa ra thấp thoáng truyền đến tiếng ngáy. Thác Bạt Khuê mừng thốt: “Chắc là tiếng ngáy của hai người”.
Yến Phi quyết đoán: “Không mạo hiểm một chút không được, lợi dụng cơ hội bốn tên thủ vệ bên trên ngủ vùi hoặc nửa tỉnh nửa mê, bọn ta lén ra, chế ngự bọn chúng, tốt nhất là dùng thủ pháp điểm huyệt, bọn chúng thần trí mù mờ, làm cho bọn chúng ngủ say, cho dù bọn chúng tỉnh lại cũng chỉ nghĩ mình mệt quá mà ngủ thiếp đi”.
Lưu Dụ nhíu mày: “Vậy ngươi muốn làm sao?”.
Thác Bạt Khuê đang ngưng thần lắng nghe, cười nói: “Người thứ ba cũng ngủ luôn rồi! Có khi bọn ta không cần đụng tới tay chân”.
Yến Phi nói: “Các ngươi từ cửa sau cứ ngang nhiên đi ra, kiếm cách thu hút sự chú ý của đám vệ sĩ ngoài hậu viện, ta từ cửa sổ lén chui ra, lợi dụng cây cối yểm hộ mà ly khai, sẽ gặp lại các ngươi ở Tây Uyển”.
Lưu Dụ lo lắng: “Ngươi có nắm chắc không?”.
Yến Phi cười khổ: “Cho nên ta nói phải mạo hiểm, bất quá An đại tiểu thư đã có thể làm được, hiện tại thủ vệ tuy đã được tăng cường, nhưng bởi bọn chúng không nghĩ tới địch nhân có thể từ Đệ Nhất Lâu lén lút đi ra, thêm vào ai ai cũng mệt mỏi muốn chết, ta có tám chín phần tin chắc là có thể qua khỏi”.
Lưu Dụ chợt nhớ tới An Ngọc Tình mà ba người chừng như đã quên bẳng đi: “An yêu nữ quả thật có nghề, không biết ả trốn đi đâu?”.
Thác Bạt Khuê căm tức: “Tốt nhất là ả bị Khất Phục Quốc Nhân bắt được, lúc đó sẽ hối hận đã bán đứng bọn ta”.
Thật ra hắn lại biết mình không thật sự hy vọng An Ngọc Tình lọt vào tay địch nhân, có cảm giác mâu thuẫn thật cổ quái.
Yến Phi đi lên thạch cấp, lên đến bậc mười, tiếng ngáy của người thứ tư cuối cùng cũng đã vang lên, hợp tấu với tiếng ngáy của ba người kia.
Yến Phi nhẹ nhàng nâng cái chảo sắt lên, ló đầu ra nhìn, thấy bốn tên thân binh của Phù Kiên đang chia thành cặp dựa ngồi kề cửa trước cửa sau nhà bếp, nhắm mắt ngủ say, binh khí đặt dưới đất, tình huống khiến cho người ta bật cười lên.
Yến Phi biết thời cơ khó có, bởi bốn tên lính là tinh binh đã trải qua huấn luyện nghiêm khắc, cho dù ngủ vẫn có tính cảnh giác rất cao, hễ có tiếng động lạ là lúc nào cũng có thể sực tỉnh, liền rón rén nâng cái chảo phóng nhẹ ra.
Hai ngọn đuốc cắm ở cửa trước cửa sau đang phừng cháy, chiếu sáng nhà bếp đồ đạc bể nát.
Một tên binh Tần trong hai kẻ ngủ gần cánh cửa thông ra Đệ Nhất Lâu hơn giật mình, tiếp đó mí mắt láy động, ngừng ngáy, lập tức muốn mở mắt ra.
Yến Phi thầm kêu không hay, nhanh trí quăng cái chảo lên cao, phóng ngang qua, một chỉ điểm ngay my tâm của gã, tên đó trúng chỉ ngã xuống, hôn mê liền. Lưu Dụ đằng sau giơ tay tiếp lấy cái chảo rớt xuống, vừa phóng ra vừa ngầm la nguy hiểm quá, tiếp đó tới phiên Thác Bạt Khuê, ba tên binh Tần kia vẫn ngủ vùi.
Lưu Dụ cầm cái chảo không hơi không tiếng đặt lại trên cửa vào, tất cả hồi phục lại nguyên trạng, ba người đều có cảm giác thở phào, ít ra đã thành công qua được cửa thứ nhất.
Yến Phi ra hiệu cho hai người đi ra.
Hai người gật đầu biểu thị đã hiểu, Yến Phi sẽ ở lại giám thị ba tên kia, bảo đảm không cho ai tỉnh dậy thành loạn.
Thác Bạt Khuê hít một hơi sâu, chỉnh lý lại quân phục trên mình hoàn toàn không khác gì bốn tên lính trong nhà bếp, cẩn thận mở cửa sau, cùng Lưu Dụ ngang nhiên cất bước đi ra.
Yến Phi nhẹ nhàng đóng cánh cửa sau cho bọn họ.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 11:39 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.