Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #21  
Old 12-08-2012, 12:01 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 1, 2

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 1

Cao áp và Nước lũ


Thông báo của Bộ nội vụ:
Sáng 8-5-1963, nhân cuộc rước Phật từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm, nhiều biểu ngữ được giương lên chống đối chính phủ. Ngay tại Từ Đàm, chỗ tập trung hành lễ, các biểu ngữ ấy được nhà sư tên Trí Quang đọc lớn qua máy phóng thanh và giải thích một cách xuyên tạc đường lối của Việt Nam Cộng hòa. Nhiều đại diện chính quyền có mặt nhưng vẫn bình tĩnh và nhờ đó, cuộc lễ được cử hành đến kết thúc, không có việc gì đáng tiếc xảy ra. Tối lại, theo dự kiến của chương trình đã phân phát rộng rãi và đã phát thanh thì phải có cuộc múa hoa tại chùa Từ Đàm nhưng không biết vì lẽ gì, chương trình đó bị Ban tổ chức lễ Phật đản hủy bỏ. Vài trăm người kéo xuống Đài vô tuyến Huế để nghe phát thanh, nhưng buổi phát thanh này bãi bỏ vì Ban giám đốc Đài vô tuyến Huế cho rằng nếu phát cuốn băng ghi âm cuộc tập họp buổi sáng ở chùa Từ Đàm thì có phương hại đến an ninh quốc gia. Một cuộc cãi vã xảy ra giữa ông Giám đốc Đài vô tuyến Huế với một số người háo thắng. Ngay lúc đó, nhà sư Trí Quang và ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến, tiếp theo là ông Phó tỉnh trưởng nội an và Ban an ninh nhằm dàn xếp ổn thỏa sự tranh chấp. Trong khi các vị này đang nói chuyện trước cổng Đài vô tuyến thì ông Phó tỉnh trưởng bị liệng cục đá làm móp chiếc nón sắt nhà binh của ông. Ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh xịt nước giải tán đám đông song vô hiệu. Để bảo đảm an toàn cho Đài vô tuyến và cho các quan chức cùng nhà sư Trí Quang, ông Phó tỉnh trưởng ra lệnh ném lựu đạn cay nhằm giải tán đám đông, bấy giờ bị những phần tử Cộng sản xúi giục đang hò hết những khẩu hiệu bôi lọ chế độ tự do của Việt Nam Cộng hòa và xúc phạm cả đến vị lãnh tụ anh minh của dân tộc Ngô Tổng thống. Bỗng hai tiếng nổ lớn phát ra, rõ ràng là do bọn Cộng sản thực hiện, làm nhiều người chết và bị thương. Hai lỗ thủng dưới dưới đất do tiếng nổ đào xới là bằng chứng mà các chuyên viên đều kết luận đó là loại plaxtic MK chỉ Cộng sản mới có chứ quân đội quốc gia chưa từng sử dụng bao giờ. Còn tin đồn rằng Ban an ninh đã cho xe thiết giáp, tăng cán người, đó là sự vu khống bỉ ổi mà tác giả không ai khác là Cộng sản và các phần tử bất mãn, tay sai của thực dân và phong kiến. Xe tăng hay xe bọc thép không thể nào leo lên cổng Đài vô tuyến Huế vì đài nằm trên ngọn đồi cao, phai vượt qua nhiều bậc tam cấp.
Cơ quan an ninh chính phủ đang ráo riết truy tầm thủ phạm và chắc chắn trong một ngày không xa, sẽ đem bọn người ấy ra trước pháp luật để bắt chúng phải đền tội.
Sài Gòn ngày 10 tháng 5 năm 1963
Bộ trưởng Bộ nội vụ VNCH
BÙI VĂN LƯƠNG
Báo cáo tuyệt mật của Chi cục Trung ương tình báo Mỹ:
1. 13 giờ ngày 6-5-1963 tức theo lịch Trung Quốc là 13-4, viên Tỉnh trưởng Thừa Thiên đến chùa Từ Đàm ở cố đô Huế gặp nhà sư Trí Quang, chuyển mật lệnh của Ngô Đình Cẩn, em ruột của tổng thống Diệm và là người đầy quyền lực ở phần phía Bắc của Việt Nam Cộng hòa. Ông Cẩn ra lệnh cho những người theo đạo Phật không được treo cờ Phật nhân lễ Phật đản lần thứ 2.507. (Theo nghi thức Phật giáo ngày này tương ứng với ngày Noel). Viên tỉnh trưởng Thừa Thiên yêu cầu nhà sư Trí Quang ký vào một thông cáo nhân danh Phật giáo về vấn đề nói trên. Nhà sư Trí Quang đề nghị viên tỉnh trưởng giải thích lý do của yêu cầu đó. Viên tỉnh trưởng trả lời rằng chính mình cũng không rõ nhưng vẫn kiên quyết yêu cầu nhà sư thực hiện. Nhà sư Trí Quang cho rằng ông không đủ thẩm quyền ra một thông cáo như vậy.
2. 20 giờ 30 ngày 6-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên chuyển công điện của tổng thống Ngô Đình Diệm cho nhà sư Trí Quang. Công điện mang số 9.159 gởi từ Sài Gòn vào hồi 15 giờ ngày 6-5 và nhận được ở Huế cùng ngày vào 16 giờ. Toàn văn bức điện mà bản sao của Tỉnh trưởng Thừa Thiên mang số 40/TT/HC/PT kèm chữ ký của Tỉnh trưởng:
“Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống điện quí ông Tỉnh trưởng. Văn phòng Phủ Tổng thống trân trọng chuyển đến quí ông chỉ thị sau đây của Tổng thống:
Ra chỉ thị cho các cơ quan phụng sự bất kỳ tôn giáo nào, trên các cơ sở phụng tự (nhà thờ, chùa chiền v.v…) chỉ treo cờ quốc gia mà thôi. Chính phủ đã hỏi các tổ chức tôn giáo, họ đều đồng ý là công dân trong một nước chỉ treo cờ quốc gia. Sự treo cờ ảnh phía trong thì tùy nghi (thường thì treo ảnh, có dán ảnh như bức vải lá cờ, ở các nước dẫu phía trong nơi phụng tự người ta cũng treo cờ quốc gia). Lúc trước vì tránh treo cờ đỏ sao vàng Việt Minh hay cờ tam tài của Pháp thì có những tôn giáo treo cờ hiệu tôn giáo. Nay nước nhà đã độc lập nên chỉ treo cờ quốc gia, các tư gia cũng vậy. Nay chỉ thị”.
3. Trong đêm hôm đó, từ 21 giờ đến gần sáng, Phật giáo họp tại chùa Từ Đàm do Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết, một cao tăng được các nhà sư và Phật tử trọng vọng như lãnh tự tinh thần tối cao, chủ tọa.
Người thuyết trình là nhà sư Trí Quang. Tổng hội chủ muốn đi đến một giải pháp ôn hòa nhưng nhiều thành viên tham dự hội nghị không đồng ý. Một số chủ trương Phật giáo tuyên bố không tổ chức lễ Phật đản năm nay để phản đối. Số khác, đông hơn, quyết định phản kích quyết liệt. Nhà sư Trí Quang được phân công thảo bức điện khẩn gởi Phật giáo thế giới: Cờ Phật giáo đã bị cấm treo ở các chùa Phật ngay trong ngày Phật đản quốc tế. Yêu cầu can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Cũng nhà sư này thảo bức điện gởi Ngô Đình Diệm: “Phật giáo rất xúc động về công điện 9.159 cấm treo cờ Phật trong ngày lễ Phật đản quốc tế. Chúng tôi không tin rằng quyết định đó có xuất phát từ ý kiến của Tổng thống. Thỉnh cầu Tổng thống ra lịnh điều tra và thu hồi công lịnh nói trên. Trân trọng”.
Một bức điện khác, đúng hơn là một thông tư gửi các tập đoàn Phật giáo Việt Nam: Cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi công điện của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Các tập đoàn sẵn sàng chờ lệnh.
Cả ba bức điện đều mang tên Tổng hội chủ Thích Tịnh Khiết.
4. Nhà cầm quyền ở Huế quyết định không chuyển ba bức điện nói trên và vào 9 giờ sáng ngày 7-5, tỉnh trưởng Thừa Thiên mời nhà sư Trí Quang và một số nhà sư khác đến tư dinh của Ngô Đình Cẩn để gặp Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và tỉnh trưởng Thừa Thiên. Cuộc trao đổi nhanh chóng thu kết quả. Bộ trưởng Nội vụ sẽ bay về Sài Gòn yêu cầu Tổng thống thu hồi quyết định 9.159. Tại đây, Ngô Đình Cẩn đã nói một câu hay nhất trong đời ông: “Tôi xin đoan chắc rằng, một trò Ơn chết làm chết cả một chính phủ, huống chi cờ của một tôn giáo lớn bị hạ ngang ngược như thế”.
5. 14 giờ ngày 7-5-1963, hàng nghìn người theo đạo Phật đến chùa Từ Đàm là nơi coi như tổng hành dinh của Phật giáo miền Trung báo tin toàn bộ cờ Phật bị triệt hạ bởi những đoàn cảnh sát hung hăng, chẳng những triệt hạ mà còn xé nát vứt xuống đường, đánh đập, dọa dẫm tín đồ. Những chiếc đèn lồng có dấu hiệu hoa sen cũng chung số phận với như cờ Phật giáo. Vào 17 giờ, tại chùa Từ Đàm người ta đã có thể kết luận rằng chiến dịch khủng bố Phật giáo không chỉ ở Huế mà khắp Trung phần, thậm chí rộng hơn nữa. Tại hai con đường chính của thành phố Huế là Trần Hưng Đạo và Phan Bội Châu, tình trạng không thể nào mô tả khác hơn là chế độ của Tống thổng Diệm hay ít nhất cũng là chính quyền Thừa Thiên đã sử dung vũ lực kể cả súng, để hạ những ngọn cờ Phật.
6. Từ 18 giờ trở đi, chùa Từ Đàm bị bao vây bằng bộ binh, quanh cảnh và thiết giáp. Bốn chiếc xe bọc thép vượt sườn đồi, húc đổ cổng tường nhà chùa. Nhưng quân lực chỉ làm đến mức đó.
7. Tất cả trở nên bi đát thật sự và vô phương cứu chữa từ 6 giờ sáng 8-5, địa điểm bùng nổ lại không phải là ngôi chùa mà trước cổng Đài phát thanh Huế. Lấy cớ bảo vệ Đài phát thanh, Phó tỉnh trưởng nội an Thừa Thiên, thiếu tá Đặng Sỹ đã ra lệnh ném lựu đạn cay, bắn súng và sử dụng luôn chất nổ. Có tất cả 44 người chết tại trận, tới 33 người bị thương. Đây là một sự kiện nghiêm trọng chưa từng có.
Ghi chú của Helen Fanfani, phóng viên tờ Financial Affairs:
Toàn văn cái gọi là “báo cáo tối mật” của Chi cục tình báo Mỹ lại được in ronéo, dịch ra nhiều thứ tiếng và tôi gửi về cho ban biên tập có thể đã chậm so với các hãng thông tấn khác.
Thông cáo của Tổng nha Thông tin:
Về việc lộn xộn nhỏ xảy ra tại Huế đã bị nhiều hãng thông tấn nước ngoài xuyên tạc. Tổng nha Thông tin được phép trình bày sự thật: Vì một hiểu lầm đáng tiếc nhân viên công lực và một số tín đồ Phật giáo có va chạm nhỏ. Lợi dụng tình hình, Việt Cộng tung lựu đạn làm chết 7 người và bị thương 6 người. Phương tiện duy nhất mà cơ quan an ninh sử dụng để vãn hồi trật tự và ngăn ngừa Cộng sản chỉ là vòi xịt nước, loại thường, vòi cỡ 2 phân không có khả năng gây thương tích cho bất kỳ người nào. Hiện nay, tình hình đã yên tĩnh. Dân chúng rất phẫn uất về việc Việt Cộng lợi dụng lễ Phật đản để tàn sát, quấy rồi và chia rẽ đồng bào với chính phủ.
Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1963
Tổng giám đốc Tổng nha Thông tin
PHAN VĂN TẠO
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nói chuyện với đồng bào ở Huế:
“Đồng bào ở Huế,
Sau một thời gian để cho các gia đình thiêng liêng và các cán bộ công cũng như tư, tự nhận định đường lối chính nghĩa về những điều kiện thiết yếu cho sự bảo vệ chính nghĩa chung cũng như chính nghĩa riêng của mình, nhất là trong giai đoạn sống còn này của dân tộc, mà tự giải quyết lấy những sự hiểu lầm về vấn đề treo quốc kỳ và những sự thi hành lệch lạc đường lối quốc gia do một số cán bộ công cũng như cán bộ tư.
Tôi rất buồn khi nhận thấy đồng bào và nhất là cán bộ công, tư hãy còn chưa đủ thấm nhuần đường lối của dân tộc, nên tôi kêu gọi đồng bào hãy tự động nhận thức nhiệm vụ bảo vệ lấy an ninh công cộng triệt để tuân hành kỷ luật quốc gia, học tập chính chắn mọi vấn đề trên lâp trường lương tri và chính nghĩa quốc gia, để tôi giải quyết vấn đề cho đúng với đường lối đấu tranh của dân tộc”.
Cuộc họp báo của cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu
(Ghi chép của phóng viên Helen Fanfani, báo Mỹ Financial Affairs).
Sáng nay, 10-5, vào 8 giờ, giờ địa phương tại dinh Độc Lập, cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu mở cuộc họp báo, dĩ nhiên quanh tình hình sôi động mấy hôm nay liên quan đến “vụ Phật giáo”. Tôi đặt vụ Phật giáo trong ngoặc kép bởi vì như những gì sẽ chứng minh dưới đây, trong các câu hỏi và câu trả lời của cuộc họp báo cho phép người ta liên tưởng đến một phạm vi chính trị rộng lớn hơn nhiều lần sự bất đồng về các nghi thức tôn giáo trong khuôn khổ luật lệ hiện hành ở Việt Nam Cộng hòa.
Có lẽ đây là lần đầu tiên ở Sài Gòn mà các nhà báo Việt Nam và ngoại quốc đến dự cuộc họp báo đông đúc nhất mà cũng háo hức nhất, một số không ít từ Mỹ, Pháp, Tây Đức, Nhật, Úc, Hongkong, Bangkok vừa xuống sân bay Tân Sơn Nhứt đã chạy một mạch vào dinh Độc Lập. Ông Ngô Đình Nhu mặt áo complet màu tro, đầu chải rẽ, thắt cà vạt xanh sậm, bề ngoài thật tươi tỉnh hiếm có đối với người luôn luôn trầm tư. Ông muốn tạo cảm giác cho các nhà báo là chế độ vẫn nắm chắc tình thế. Tổng giám đốc thông tin Phan Văn Tạo, ít tiếng tăm, lặng lẽ ngồi cạnh cố vấn và thủ vai người đệm đàn - không phải một người đệm đàn sành nghề nghiệp.
Không nghi thức, không đọc thông báo trước, cố vấn Ngô Đình Nhu đi ngay vào thực chất của cuộc gặp mắt giới báo chí:
Tình hình một tuần lễ này đã được các bạn theo dõi chăm chú, tôi nghĩ như vậy – ông nói, mắt ngó thẳng chúng tôi đầy tự tin. Các luồng thông tin không nhất thiết phù hợp nhau. Tôi không cho điều đó là không bình thường. Tuy nhiên, hôm nay, tôi muốn cùng các bạn nhìn sự việc với đôi mắt khách quan. Chúng ta là những người trong trận tuyến tự do. Cơ sở đó sẽ giúp chúng ta dễ dàng cùng nhau thông cảm. Tôi đề nghị các bạn nêu câu hỏi và tôi sẽ trả lời và trả lời ngay từng câu hỏi. Tôi muốn cuộc họp báo không bị bất kỳ một gò bó nào. Chúng ta có thể gọi hôm nay là buổi trao đổi, cùng thỏa đáng. Xin mời…
Ông Nhu châm lửa vào điếu thuốc và tôi lưu ý, chiếc gạc tàn pha lê lớn sạch bóng đã đầy tàn thuốc lá sau cuộc họp báo: ông Nhu hút có lẽ đến 40 điếu trong vòng 2 giờ…
PHÓNG VIÊN ASAHI: Theo thông báo chính thức, sự việc bùng nổ ở Huế vào ngày 8-5. Song, chính tôi có mặt ở Huế, sự việc bắt đầu từ 24 giờ ngày 2-5, nghĩa là khi giới Phật giáo sửa soạn lễ Phật đản thường lệ của họ. Cuộc đàn áp diễn ra khi đám đông dân - hôm đó là ngày chủ nhật và trước lễ Phật đản đúng một tuần – bị cảnh sát chận không cho vượt cầu Nguyễn Hoàng. Các nguồn tin của chính phủ cho biết - tất nhiên mãi về sau này mới cho biết – số dân lối 300 và có 54 người bị thương, không ai bị thương nặng, tất cả đã về nhà, không ai bị bắt… Con số dân, với chính ống kính của tôi ghi nhận, nhiều hơn nguồn tin của chính phủ hơn 10 lần, con số bị thương hơn 5 lần, bị thương nặng như bị cảnh sát bẻ gãy tay, đánh gãy chân gồm 16 người và ít nhất 6 người đã chết ngay tại chỗ, hoặc khi đến bệnh viện. Tôi không rõ số chết, khi về nhà. Còn số bị giam, như dư luận, chính là con số của 6 ni cô và 10 nhà sư… Tôi xin nêu lên ba câu hỏi:
Một: Lệnh cấm treo cờ phải chăng đã được dự kiến trước? Hay nó là kết quả của sự việc ngày 2-5?
Hai: Vì sao nhà cầm quyền Huế hành động như vậy?
Ba: Vì sao chính phủ Trung ương không thi hành một biện pháp nào trừng phạt các lực lượng vô cớ đàn áp đám đông và chỉ có biện pháp tiếp sau tức là lệnh số 9.159 ngày 6-5?
NHU: Không hề có lệnh cấm treo cờ Phật giáo. Chỉ có lệnh, như mọi quốc gia khác, nơi công cộng không một lá cờ nào được thay quốc kỳ như Dụ số 10 của Tổng thống quy định. Công chức Thừa Thiên hành động không có ý kiến của Trung ương. Ta hiểu Huế ở gần vĩ tuyến 17, nhà cầm quyền tại đây e ngại sự đột nhập của Cộng sản, điều không phải là viễn vông. Tuy vậy, họ đều bị kỷ luật, do qua nhiệt tình và không đủ khôn khéo, cũng không loại trừ một ít ai đó bị giật dây.
ASAHI: Cho phép tôi hỏi thêm ba câu: Một, tại sao Dụ số 10 không áp dụng với đạo Thiên Chúa? Chính ống kính của tôi ghi nhiều cuộc rước lớn theo nghi thức đạo Thiên Chúa tại Huế nhân Noel, cách lễ Phật đản chưa được 5 tháng. Đó là chưa kể cuộc rước lễ từ La Vang về Huế, lễ rước Trà Kiệu? Hai, theo chúng tôi biết, thiếu tá Đặng Sỹ bị bãi chức sau lễ Phật đản chứ không phải sau ngày 2-5. Ba, có thể xem ý kiến của ông Ngô Đình Cẩn là Trung ương không?
NHU: Tổng giám mục địa phận Sài Gòn đã ra thông báo: chỉ treo cờ đạo bên trong các nhà thờ, tu viện…
ASAHI: Xin lỗi, đó là thông báo mới đây thôi và cũng ở địa phận Sài Gòn thôi…
NHU: Nhưng, ông thấy đấy, chúng tôi không kỳ thị tôn giáo. Chúng tôi thi hành kỷ luật nhiều sĩ quan cảnh sát Huế ngay ngày 3-5. Tất nhiên, xin ông hiểu, không phải bất kỳ kỷ luật nội bộ nào của chúng tôi đều công bố cả. Có lẽ mọi chính phủ đều làm như vậy, nhất là với ngành nội chính. Còn câu hỏi thứ ba của ông, tôi nhắc lại, đại biểu của chính phủ tại Trung nguyên Trung phần của Việt Nam Cộng hòa hiện nay là ông Nguyễn Xuân Khương.
ASAHI: Ông cố vấn vẫn chưa trả lời về sự việc tại cầu Nguyễn Hoàng.
NHU: Tất cả đang được cứu xét và ai phạm tội sẽ bị nghiêm trị…
LE FIGARO: Trong các thông cáo, chính phủ Việt Nam nhắc nhiều lần rằng Việt Cộng chủ mưu xúi giục tín đồ đạo Phật biểu tình và cũng chính Việt Cộng ném chất nổ MK… Nhưng, nhiều người tận mắt trong thấy chính lực lượng an ninh làm việc đó…
NHU: Ông không biết rằng bộ sắc phục an ninh không phải là vật mà Việt Cộng khó tìm?
LE FIGARO: Nhưng người ta biết cả mặt người cho nổ chất nổ… Và, đó là khối TNT rất thông dụng trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
NHU: Cũng như thế, Việt Cộng tìm TNT và các loại vũ khí của quân lực Việt Nam Cộng hòa không phải là điều mới xảy ra…
LE FIGARO: Thế tại sao phải đổi TNT qua MK?
NHU: Một sơ sót kỹ thuật, chúng tôi đã khiển trách bộ phận thông tin.
LE FIGARO: Thông báo của Tổng nha Thông tin nhắc, ngoài Cộng sản, còn tay sai thực và phong nhúng vào vụ Huế. Dư luận Pháp muốn hiểu rõ hai danh từ “thực” và “phong” nhằm ám chỉ ai?
NHU: Tôi nói về “phong” trước. Huế là cố đô. Các thế lực bảo hoàng vẫn còn đông. Còn “thực”, ông muốn hiểu như thế nào, tùy ông, một nhà báo Pháp!
LE FIGARO: Tôi sẽ rất hân hạnh thông báo câu trả lời của ông cố vấn với dư luận Pháp trong số báo Figaro số mai. Cảm ơn ông cố vấn!
ĐẠI DIỆN TRUNG ƯƠNG XÃ ĐÀI BẮC TẠI HỒNG KÔNG: Ông cố vấn giải thích như thế nào việc Phật giáo là một tôn giáo dễ dàng nghe Cộng sản vô thần?
NHU: Hồng Kông gồm các nhà doanh nghiệp lớn vẫn có người theo Trung Cộng kia mà!
TRUNG ƯƠNG XÃ: Nhưng đây là dân chúng, những bức ảnh cho thấy dân chúng khá đông…
NHU: Ông quên dân chúng dự Phật đản. Họ tụ họp vì lý do đó…
ĐẠI DIỆN UPI: Nếu bạn đồng nghiệp của tôi, ông Raymind Wang, không hỏi tiếp ông cố vấn, tôi xin phép từ câu trả lời của ông cố vấn mà đặt một câu hỏi: Dân chúng tụ họp đông đảo vì lý do tôn giáo thế thì việc gì lực lượng an ninh của chính phủ phải dùng vòi rồng và hơi cay?
NHU: Liệu rằng cảnh sát ở nước Mỹ có cách nào phân biệt được trong đám đông, ai là dân thường đi hành hương hay làm một việc gì đó, đi dạ hội chẳng hạn với một người Cộng sản? Vòi rồng và lựu đạn cay càng không có khả năng phân biệt những thứ mà chính con người còn chưa phân biệt nỗi!
UPI: Một câu trả lời có tính triết lý. Rất tiếc chúng ta đang nói chuyện chính trị. Vì một ít người mà đi đến sự thô bạo với số đông, dư luận phương Tây khó đồng tình với chính phủ của Tổng thống Diệm.
NHU: Trong trường hợp này, thưa ông Roger Spekinsk, có vẻ hãng thông tấn UPI hoặc chính xác hơn, cá nhân ông, là một đồng minh đáng tin cậy của Việt Cộng!
ĐẠI DIỆN WASHINGTON POST: Nhân danh Nghiệp đoàn các phóng viên nước ngoài ở Sài Gòn mà tôi là thư ký, tôi phản đối cách nói của ông cố vấn.
NHU: Các ông có thể phản đối mặc dù trong thâm tâm tôi muốn các ông đồng tình. Tuy nhiên vấn đề là sự thật.
FANFANI: Tôi xin phép được hỏi một câu…
NHU: À! Financial Affairs đây rồi. Xin mời…
FANFANI: Tôi sẽ hỏi một câu rất hiền lành: Từ câu trả lời của ông cố vấn cho bạn đồng nghiệp Washington Post, người ta có quyền lật ngược nội dung: những cuộc đàn áp đẫm máu liên tục diễn ra ở Huế phải chẳng là đồng minh đáng tin cậy của Cộng sản?
NHU: Cô Helen thân mến, chúng ta nên nghiêm chỉnh.
FANFANI: Tôi không thấy trong câu nói của tôi có một chút khôi hài nào… Ông cố vấn muốn hôm nay không phải là một cuộc họp báo mà một cuộc trao đổi. Vậy thì, ông có cho rằng nhà sư Trí Quang đại diện cho một xu hương chính trị nào đó không?
NHU: Tôi không thích võ đoán. Tuy nhiên, với những bằng chứng xác thực, tôi có thể giới thiệu hai đặc điểm của ông Trí Quang: Một là, quê của ông ở phía Bắc vĩ tuyến 17, từng học đạo với một nhà sư nay đang ở Hà Nội. Hai là, ông Trí Quang có nhiều bạn bè thuộc đảng Đại Việt…
FANFANI: Ông cố vấn lại bắt đầu rơi vào cái chỗ mà ông vừa kết án, tức là ông nói chuyện tiếu lâm. Quê của gia đình ông cố vấn – nghĩa là có Tổng thống Diệm – cũng ở phía Bắc vĩ tuyến 17. Điều đó hình như không hề cắt nghĩa bất kỳ một khía cạnh nào của sự cố ở Huế và của cá nhân nhà sư Trí Quang. Còn về đảng Đại Việt, cũng tiếu lâm nốt khi ông cố vấn hàm ý chỉ ra rằng giữa Cộng sản và đảng Đại Việt có mối quan hệ thân ái thông qua môi giới của nhà sư Trí Quang.
NHU: Cô nhà báo đi quá xa giới hạn của cuộc trao đổi giữa chúng ta rồi. Cô có quyền suy luận song không phải ở đây…
FANFANI: Cảm ơn ông cố vấn đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc mà chúng tôi rất quan tâm…
ĐẠI DIỆN BÁO JEO (1): Thưa ông cố vấn, độc giả tiếng Pháp ở Việt Nam rất cần một minh định: Những người Pháp dính dáng như thế nào đối với vụ lộn xộn vừa rồi?
NHU: Trước hết, ông Hubert thân mến, ở Việt Nam không có ai trong cộng đồng cái gọi là Francophone (2), càng không có ai Francophile (3), nếu có – và với hơn 100 năm kể từ khi pháo thuyền Pháp bắn những quả đại bác vào Cửa Hàn, tức Đà Nẵng hiện nay để rồi sau đó chiếm cứ đất nước chúng tôi, ở Việt Nam hiện nay có một cộng đồng tên của nó là Francophobe (4)! Tuy nhiên, đó là chuyện dĩ vãng, dù dĩ vãng chưa phải đã xa xôi lắm. Hiện nay, năm 1963, tháng 5, tôi có thể nói rằng tôi không thấy một yếu tố nào để nói về một dính líu như vậy, dính líu theo cái nghĩa người Pháp tại Việt Nam, người Việt vẫn còn giữ mối quan hệ dưới một dạng nhất định với người Pháp, chính phủ Pháp – những lực lượng đó liên can đến vụ Huế.
PHÓNG VIÊN BBC: Còn sự dính líu của người Hoa, nói rộng hơn của Trung Cộng?
NHU: Câu trả lời của tôi tương tự như câu trả lời vừa rồi.
ĐẠI DIỆN HÃNG THÔNG TẤN TANJUNG: Ông cố vấn có tin rằng sự kiện ngày 8-5 ở Huế sẽ không phát triển thêm về mức độ cũng như về phạm vi?
NHU: Trước hết, tôi xin cảm ơn đại diện của hãng thông tấn Nam Tư, một nhà báo Cộng sản duy nhất nước ngoài và là nhà báo Cộng sản không ngụy trang. Triển vọng của tình hình không phải là việc dễ đoán hay quyết đoán bởi tình hình không chỉ tùy thuộc ở chính phủ. Tuy nhiên mọi người Việt Nam trở lại khung cảnh mà Việt Nam Cộng hòa đang sống. Chúng tôi đang chiến đấu, một cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù của chúng tôi ở trong và ngoài nước, những kẻ thù địch với thế giới tự do.
Và luôn cả những người trong thế giới tự do mà vì những lợi ích thiển cận, những suy nghĩ thiếu tầm chiến lược đang thọc tay vào cục diện đất nước chúng tôi. Tôi tha thiết mong các bạn nhà báo có mặt hôm nay, với lương tâm nghề nghiệp và với cái nhìn sáng suốt, góp sức với nước cộng hòa non trẻ chúng tôi đang bị xâm lược và dừng ngay chiến dịch có tính chất quốc tế bôi nhọ Việt Nam Cộng hòa, việc làm không lường nổi hậu quả tai hại. Việt Nam Cộng hòa là tiền đồn của thế giới tự do. Chúng tôi không chỉ đổ máu cho riêng mình… Tôi nhấn mạnh rằng ở Việt Nam Cộng hòa không có vấn đề kỳ thị tôn giáo, không có vấn đề áp bức đạo Phật cũng như không có đàn áp dân chủ. Trái lại, dân chủ ở Việt Nam Cộng hòa phần nào quá trớn là khác. Nhưng tôi cũng cảnh cáo những người đội lốt đạo Phật rằng, vì lợi ích tối thượng của Tổ quốc, chúng tôi sẽ không mềm yếu.
PHÓNG VIÊN NEWSWEEK: Thưa ông cố vấn, lời kêu gọi bạn hữu quốc tế của ông vừa rồi có nhằm nước Mỹ không?
NHU: Thưa bà Catherine Barbara, bà là một nhà báo kỳ cựu, thay mặt cho một tờ báo có uy tín ở Mỹ, lại sống nhiều năm ở Sài Gòn, bà có thể hơn ai hết biết rằng Việt Nam Cộng hòa coi nước Mỹ là một đồng minh lớn, một đồng minh trụ cột. Sự nghiệp độc lập tự do của Việt Nam Cộng hòa không tách khỏi mối liên minh huynh đệ ấy… Chúng tôi rất vui mừng trước chính sách liên tục của nước Mỹ ở châu Á và ở Việt Nam Cộng hòa hiện nay Tổng thống Kennedy đang thực hiện. Tuy nhiên, trong dư luận Mỹ, kể cả trong quốc hội, có một bộ phận nhỏ thôi, đang nhìn thực trạng Việt Nam Cộng hòa với cặp mắt ngờ vực, đôi khi độc ác…
NEWSWEEK: Tin đồn khá rộng rãi ở Mỹ và ở Sài Gòn về vai trò của đại sứ Frederich Nolting – vai trò thiên vị, che đỡ cho chính phủ ông Diệm. Ông cố vấn đánh giá tin đồn đó như thế ào?
NHU: Đại sứ Nolting là một người bạn quý của Việt Nam Cộng hòa, là một người giàu kiến thức và thấu đáo điều kiện của đất nước chúng tôi. Dĩ nhiên, không phải không có những cự ly trong nhận thức những sự việc nào đó giữa đại sứ và chúng tôi. Điều mà tôi nhấn mạnh là Ngài Nolting không bao giờ lầm lẫn giữa vai trò một toàn quyền hoặc thái thú xa xưa. Chắc chắn rằng đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến các đồn đãi mà bà Catherine nhắc tới…
Cuộc họp báo chấm dứt vào 10 giờ. Cố vấn Ngô Đình Nhu có vẻ sửa soạn trước khá kỹ cho cuộc “đụng độ” và ông biểu lộ sự mãn nguyện sau đó; ông đi bắt tay khắp các ký giả, chụp hình chung với họ thậm chí quàng vai tôi khá âu yếm và đùa với Victor, chồng tôi: “Khi Helen ngã vào tôi, ông nhớ chỉnh ống kính cho thật “nét” nhé!”. Tuy nhiên tôi cảm ơn ông “đã làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc”, nghĩa là tôi cảm thấy hết sức rõ sự rối rắm trong các câu trả lời của ông Nhu, một nhà hùng biện mà không ai không phục. Ông Nhu tươi tỉnh bề ngoài, cố giữ tự chủ trong khi toàn bộ tư tưởng của ông thiếu xuyên suốt. Ông không thể giải thích nỗi vụ Huế - một vụ chủ mưu ở phía chính phủ. Nói theo thuật ngữ quân sự, chính phủ Sài Gòn “ngự phòng từ xa” và họ sợ Phật giáo là ngòi pháo. Dẫu sao, Huế vẫn là một thị trấn bé nhỏ, biệt lập. Ông Nhu hiểu như vậy. Và, ông thành công hay thất bại tùy thuộc vào ở một điểm thôi: ông khoanh vùng vụ Huế ở Huế hay ngược lại… Dẫu sao, với các tín hiệu tháng 5 này tại Việt Nam Cộng hòa, phóng viên báo chí, truyền hình khắp thế giới sửa soạn visa vào Sài Gòn chắc không phải là quá sớm…
Văn thư của Văn phòng cố vấn Ngô Đình Nhu gởi Việt tấn xã:
“Ông cố vấn chỉ thị: cứ cho các phóng viên nước ngoài phát tin về buổi họp báo của ông cố vấn, không cắt xén, hạn chế. Tuy nhiên, chú ý cho phát ưu tiên bài tường thuật của hãng Reuter và đài BBC, nhất là của đài BBC vì nội dung rất có lợi cho ta”.
Báo cáo mật của bác sĩ Trần Kim Tuyến gửi Ngô Đình Nhu:
“Tôi đã thực hiện đúng chỉ thị của ông cố vấn: Chỉ cho phái viên Viễn Đông của BBC, cho phóng viên Manila Time và cho Hambourg Zeitung đưa tin như ý của ông cố vấn. Họ hứa sẽ liên tục có bài và tin. Đang vận động Đài truyền hình Bỉ phỏng vấn ông cố vấn. Đài Pháp và Mỹ từ chối. Riêng Paris Match sẵn sàng ra một số đặc biệt, hủy bỏ các ảnh đã săn ở Huế nhưng giá quá cao, chờ quyết định của ông cố vấn. Đã điều đình với Victor mua các ảnh, nhưng chưa có hiệu quả. Sẽ dùng biện pháp Hải quan khi Victor rời Sài Gòn sang Hồng Kông sáng mai…”
Thông cáo của Tòa đại biểu chính phủ ở Trung nguyên Trung phần:
Bộ trưởng Bộ nội vụ quyết định bổ nhiệm thiếu tá Lê Quang Hiển, nguyên Giám đốc Cảnh sát quốc gia miền Nam Trung nguyên Trung phần làm Giám đốc cảnh sát quốc gia miền Bắc Trung nguyên Trung phần thay trung tá Trần Văn Thương chuyển hoàn về Bộ nội vụ.
Điện đàm giữa Fishell và Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần:
THUẦN: Thưa giáo sư, ông có ý kiến gì về quyết định đối với thiếu tá Đặng Sỹ. Chúng tôi đã thảo xong lệnh…
FISHELL: Ông Bộ trưởng có thể cho biết nội dung của lệnh đó không?
THUẦN: Thưa được. Xét trách nhiệm trực tiếp của thiếu tá trong vụ lộn xộn ở Huế, quyết định bãi chức Phó tỉnh trưởng nội an, cách hàm thiếu tá, đương sự phải trình diện ở Tổng nha Cảnh sát quốc gia chịu sự thẩm vấn và bị tạm giữ theo chế độ sĩ quan chờ cứu xét…
FISHELL: Tôi nghĩ rằng cách chức Phó tỉnh trưởng là đủ. Tạm thời để thiếu tá Đặng Sỹ thôi giữ chức Phó tỉnh trưởng nội an… Lời văn như vậy có lẽ thỏa đáng. Các biện pháp khác không cần thiết và không công bằng.
THUẦN: Thưa giáo sư, tôi sẽ báo lại với ông Nhu ý kiến của giáo sư.
FISHELL: Không phải ý riêng của tôi. Chào ông Bộ trưởng.
Thượng tọa Trí Quang bay vào Sài Gòn. Tin riêng của báo Sài Gòn Mới:
Theo nguồn tin đặc biệt của bổn báo, thượng tọa Trí Quang từ Huế đã bay vào Sài Gòn, ngày 12-5 đang ngụ tại một ngôi chùa ở đô thành.
Nhân đây, Sài Gòn Mới xin hiến bạn đọc cấp bậc các giáo phẩm Phật giáo mà từ trước tới nay chúng ta chưa biết…
Lệnh đặc biệt của Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia gửi Cảnh sát đô thành và các tỉnh:
Theo dõi di chuyển của các nhà sư từ Huế vào phía Nam. Tìm mọi cách khéo léo nhưng kiên quyết giữ họ tại Huế. Cảnh sát sân bay Phú Bài, đường bộ và xe lửa phải chấp hành triệt để lệnh này.
NGUYỄN VĂN Y
Phúc trình của Tổng giám đốc Thông tin:
Kính gởi ông cố vấn chính trị Phủ tổng thống.
Tuân lệnh của ông cố vấn, chúng tôi đã triệu tập một số nhà báo của các tờ “Cách mạng quốc gia”, “Ngôn luận”, “Tự do” đến Nha tổng giám đốc phổ biến đường lối của chính phủ về việc đưa tin tức ở Huế: Giảm bớt lượng tin, bỏ hẳn việc trưng bằng cớ về Việt Cộng ném lựu đạn và đặt chất nổ, giữ giọng thật hòa dịu với Phật tử và các nhà sư theo tinh thần thông điệp của Tổng thống… Nhưng, một số ký giả vẫn viết bài theo chiều hướng cũ, đặc biệt ký giả Tô Văn và một số trong danh sách thân Đại Việt. Chúng tôi được biết linh mục Raymond De Jaegher, Chủ tịch Hiệp hội Thái Bình Dương tự do họp riêng với số ký giả này và hình như trả thù lao khá cao bằng đôla để họ viết các bài bài xích Phật giáo, những bài đó đăng rải rác trên tờ Buổi Sáng của Mai Lan Quế là em ruột của thiếu tướng Mai Hữu Xuân và một vài tờ Việt ngữ. Tờ Đông Phương tiếng Hoa, chịu sự bảo trợ về tài chính của linh mục Raymond De Jaegher cũng dịch đăng. Dĩ nhiên, tờ “Free Pacific” đăng các bài đó bằng tiếng Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha.
Trong trường hợp này, Tổng nha Thông tin không thể can thiệp được. Xin kính trình để ông cố vấn tường và cho chỉ thị.
PHAN VĂN TẠO
Phúc trình của Tổng nha Cảnh sát:
Đài phát thanh Hà Nội và đài Việt Cộng cho tới nay chưa đăng tin hoặc bình luận gì về vụ ở Huế. Đài Moscou, phần tiếng Việt, nhắc lại một tin của Pháp tấn xã, không bình luận. Trái lại, đài Bắc Kinh cả phần tiếng Việt và các tiếng Hoa phát cho Đông Nam Á đưa nhiều tin, kèm bình luận gay gắt.
Thông báo chiến sự hàng tuần của Bộ Tổng tham mưu:
Từ 2 đến 9 tháng 5, toàn chiến trường lắng dịu một cách bất thường trừ trận Tân Bình (Quảng Tín). Chung quanh Huế, không có một dấu hiệu tập trung nào của Việt Cộng.
Tin vắn của báo “Cách mạng Quốc gia”
Sau một thời gian nghiên cứu ở Học viện chỉ huy cao cấp tại Fort Bragg, Hoa Kỳ và nghiên cứ tình hình chống du kích Huk ở Phi Luật Tân, du kích Mã Lai, đại tá Nguyễn Thành Luân đã về đến Sài Gòn hôm qua, 14-5. Cùng về với đại tá có phu nhân cũng tốt nghiệp Học viện nghiên cứu cảnh sát Mỹ. Đại tá Đặng Văn Quang, chỉ huy trưởng, Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống, ông Đổng lý văn phòng Phủ tổng thống, đại tá Phó tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, trung tá James Casey đại diện cho Bộ chỉ huy viện trợ Mỹ và ông Trần Trung Dung với tư cách gia đình Tổng thống đã ra sân bay đón đại tá Nguyễn Thành Luân và phu nhân.
Thông cáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam:
Lễ cầu siêu cho các nạn nhân ở Huế trong vụ Phật đản sẽ được tổ chức khắp các chùa trong toàn quốc vào một ngày thống nhất, sẽ thông báo sau.
THÍCH TÂM CHÂU
(Thừa lệnh Tổng hội chủ)
Đại diện của tổ chức Phật giáo Thế giới gửi Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Rất xúc động và rất tiếc về sự việc bi thảm ở Huế ngày 8-5. Mong chính phủ Việt Nam Cộng hòa có biện pháp trấn an và bảo đảm quyền hành đạo của đạo Phật.
---
(1) Journal d’ Extrême Orient: Nhật báo Viễn Đông (báo tiếng Pháp, xuất bản ở Sài Gòn)
(2) Francophone: nói tiếng Pháp
(3) Francophile: thân Pháp
(4) Francophobe: chống Pháp.



Phần 7 - Chương 2


Luân và Dung vắng mặt ở Sài Gòn hơn một năm, Trong thời gian ấy, ngoài những tháng nghiên cứu trong Học viện, họ đi lại nhiều nơi trên nước Mỹ và cả châu Âu. Dĩ nhiên, lần xuất ngoại dài ngày đầu tiên này trong đời, giúp họ một loạt hiểu biết mới và kèm theo một loạt suy nghĩ mới.Tình hình trong nước đến với họ qua thông báo của đại sứ quán, qua đài phát thanh và một số báo chí. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ: Trần Văn Chương và quan sát viên của Việt Nam Cộng hòa tại Liên hợp quốc: bà Trần Văn Chương, đã dành cho vợ chồng Luân một ưu ái gia đình đặc biệt. Người viết thư thường xuyên nhất cho Luân, ngoài Nguyễn Thành Động lại là Ngô Đình Nhu. Trong những bức thư này, có cái khá dài. Nhu phản ảnh tình hình trong nước thì ít, mà than thở thì nhiều. Đôi bức thư bộc lộ nỗi hoảng sợ, mặc dù anh ta không nói rõ nỗi hoảng sợ đó là gì và cứ băn khoăn mãi về thời gian ở nước ngoài của Luân mà anh ta cho là quá dài.
“Tôi nghĩ là tôi đã sai lầm khi đồng ý để anh vào Học viện Fort Bragg. Anh không cần phải có những kiến thức chuyên môn quá sâu về hành quân. Chắc chắn anh có thể trở thành một tướng lĩnh nổi tiếng, nhưng như thế sẽ là một tổn thất đối với sự nghiệp của chúng ta. Anh đi rồi, tôi thấy hết sức trống trải. Người ta chửi tôi đương nhiên là không đếm xuể, nhưng họ chửi lén, còn số tâng bốc tôi cũng tương ứng như vậy. Tóm lại, tôi không có interlocuteur (1) và thẳng thắn, tôi không có cả adversaire – adversaire (2) với nghĩa franc-jeu (3). Gia đình đã dời sang dinh Gia Long, anh cũng biết, và ủy ban tái thiết dinh Độc Lập được thành lập, anh cũng biết. Thật buồn cười khi Tổng thống đích thân nghiên cứu bảng thiết kế xây dựng lại dinh Độc Lập.
Tôi sẽ không nói về dáng dấp của cái dinh tương lai ấy. Bởi ý của tôi là phục chế lại kiểu của cái dinh từ thuở nó còn mang tên Norodom. Kiến trúc Pháp vừa bệ vệ vừa thanh tú. Mà thôi, cái buồn cười lại ở chỗ khác. Tổng thống mời một chiêm tinh gia – thông thường chúng ta gọi là thầy địa lý, hoặc nôm na hơn là thầy bói - để tính các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài... sao cho nơi ở của nguyên thủ quốc gia tránh được những quả bom kiểu cuối tháng 2. Tôi không phản đối xây hầm bêtông kiên cố, nhưng tôi hết sức lạ lùng về lòng tin nhiệt thành của Tổng thống đối với các thuyết âm dương ngũ hành. Đã thế, khôi phục quách ngọn cờ quẻ Ly của Trần Trọng Kim để đạt một sự hài hòa đúng mức! Hôm tay thầy bói - cũng may là một tay thầy bói chưa mù - giảng về những cửa, những hướng mà dinh Độc Lập phải xây theo, thì Tổng thống bảo tôi ngồi nghe, cùng với Đức cha. Tôi không nói một lời vì biết Tổng thống sẽ nổi cơn thỉnh nộ. Đức cha gật gù, sau cùng bảo: “Kết hợp cả Đông Tây cũng là một cách tốt, tôi cho xây dựng nhà thờ Phú Cam theo những nguyên tắc na ná như vậy”. Nhà tôi khuyên tôi: “Thôi anh, Tổng thống chẳng có thú vui gì, mình đừng làm cho ảnh phiền”. Tôi không rõ kiến trúc sư số một của ta, người được giải thưởng lớn ở La Mã là Ngô Viết Thụ có ẩn ý gì hay không, khi trong bản thiết kế mặt tiền của dinh nhìn qua thấy toàn là xương, cũng còn may mắn, không phải là xương sọ! Vào những lúc “đơn thương độc mã” như vậy, tôi thấm thía về sự vắng mặt của anh. Anh ở nhà, có thể giảm nhẹ những việc lố bịch đó, bởi tiếng nói của anh dễ được Tổng thống nghe hơn của tôi và anh biết cách nói hơn tôi.
Một chuyện khác cũng không vui. Tượng bà Trưng được dựng khá bề thế ở giữa một công viên, nhưng dư luận thì cho đó là tượng của nhà tôi. Anh thấy đấy, toàn những chuyện chẳng ra làm sao cả trong khi cường độ chiến tranh mỗi lúc mỗi gia tăng và thiệt hại của chúng ta mỗi lúc một lớn hơn. Tướng Paul Harkins úp mở với tôi rằng viện trợ Mỹ về khí tài quân sự được thực tế chứng minh là không đủ để giành chiến thắng. Chắc anh hiểu hàm ý của nhận xét đó. Tôi hỏi đại tướng: cần bao nhiêu thực binh Mỹ nữa. Ông ta nhún vai và trả lời: “Cần đủ để chiến thắng”. Tôi lại hỏi: “Có thể lấy chiến tranh của Pháp ở Đông Dương hay chiến tranh Triều Tiên làm một tiêu chuẩn tính toán không?”. Ông ta nhíu mày: “Lúc cao nhất Pháp có 20 vạn quân viễn chinh ở Đông Dương - mỏng quá chăng? Còn ở Triều Tiên, Mỹ cần gần 30 vạn - nhiều quá chăng?”. Rồi ông ta cười: “Lính Nam Triều Tiên đánh giỏi hơn lính Nam Việt”... Và, ông ta nhấn mạnh: “Cần bao nhiêu thực binh Mỹ là tùy ở năng lực chiến đấu của Nam Việt”.
Tình hình Lào cũng kích động dư luận trong nước. Pathet Lào mở rộng địa bàn kiểm soát đến nỗi thủ tướng Boun Oum và tướng Nousavan bay sang Sài Gòn vận động chúng ta ủng hộ họ chống Cộng. Một đồng minh láng giềng mong manh cỡ đó thì thật nguy hiểm đối với cao nguyên Trung phần của chúng ta. Còn Sihanouk, như anh đã biết, le prince qui boude (4), ông ta luôn luôn đồng bóng, chửi Cộng sản Cambôt tàn tệ nhưng lại cho phép Việt Cộng thiết lập một phòng thông tin tại Nam Vang và làm ngơ để Kossem tiếp tục cái Fulro lá mặt lá trái của hắn ta, lôi kéo một nhóm người Thượng, và người Chàm từ Việt Nam Cộng hòa sang Camp Rolland huấn luyện. Triển vọng của tình hình, chưa thấy sáng sủa, đặc biệt khi tướng Paul Harkins vừa được chính phủ Mỹ chỉ định kiêm nhiệm Tư lệnh quân đội Mỹ cả ở Việt Nam và Thái Lan.
Thôi, anh liệu mà thu xếp về nước càng sớm càng tốt. Cho tôi hỏi thăm cô Thùy Dung.”
Trên đây là một trong các bức thư của Nhu gửi cho Luân. Với các bức thư đó, Luân hình dung được sức ép của quân Giải phóng đối với quân Sài Gòn và từ cái nền như vậy, biến động chính trị ở Nam Việt là không tránh khỏi. Luân tin chắc rằng cú ném bom của Nguyễn Văn Cử và Phạm phú Quốc là lời cảnh cáo sau chót của Mỹ. Bây giờ, không cần cảnh cáo nữa. Nếu Diệm đủ khôn ngoan thì còn buộc Kennedy cân nhắc, bằng ngược lại...
Nguồn tin chính trị thì Luân theo dõi qua các bài của Helen Fanfani. Luân đặc biệt lưu ý đến tin về ngày Phật đản năm 1962 được cử hành hết sức long trọng tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với cả trăm nghìn người tham gia theo quyết định của Phật giáo thế giới. Fanfani đã phân tích sự việc đó như là một dấu hiệu chính trị nổi bật: Phật giáo leo lên vũ đài và đằng sau các nhà sư là một khối lượng người rất khó ước định. Fanfani là một nhà báo sắc sảo, càng về sau, Luân càng khâm phục cách ghi nhận và đánh giá tình hình Nam Việt của cô. Nhiều phóng viên báo chí và thông tấn ở Sài Gòn, song Fanfani xứng đáng đại diện cho giới tài chính ngân hàng Mỹ - bao giờ cũng suy tính mọi lợi hại trên tầm bao quát. Luân đã cắt một bài của Fanfani mà anh cho là hay nhất trong các bài của cô. Dung cũng đồng ý như vậy. Bài báo viết vào đầu năm 1963, sau kỳ Noel mà Fanfani về Mỹ và gặp vợ chồng Luân - họ đi chơi tận Chicago, Los Angeles và San Francisco. Đó là lần duy nhất mà Luân gặp Fanfani ở Mỹ. Trái với Saroyan, Fanfani không hề viết riêng thư cho Luân. Cô cười khi cùng sóng đôi với Luân trên bãi biển: “Tôi viết cho ông thường nhất đấy chứ... Chẳng lẽ ông không đọc bài của tôi?”
Bài báo đặc sắc gợi cho Luân suy nghĩ, không dài, tựa là Việc đầu tư của Mỹ ở Nam Việt.
“Cái đích mà những người có quyền thế ở Mỹ, quyền thế thật sự mặc dù chưa bao giờ họ ký tên vào bất cứ một mảnh giấy con nào về các vấn đề hành chính, có vẻ mỗi lúc mỗi xa tầm với của họ ở Nam Việt. - Fanfani mở đầu bài báo. Cô viết tiếp: “Thực tế Nam Việt dấy lên cuộc tranh chấp mà vào lúc sơ khởi, hầu như chưa ai nghĩ rằng sẽ có cuộc tranh chấp như vậy. Việt Nam hay Đông Dương thuộc Pháp, vốn định mệnh đã an bày, và thật ít người Mỹ biết đến sự có mặt của nó trên hành tinh, chứ đừng nói ý định nước Mỹ dính líu vào đây. Vào thế kỷ XIX, một đại diện của hoàng đế Việt Nam tên là Bùi Viện sang Washington xin cứu viện chống lại người Pháp thì Tổng thống Mỹ lắc đầu. Nhưng lịch sử không chịu đừng yên. Năm 1951, tướng 5 sao - sau khi ông ta chết, được truy phong thống chế - Jean de Lattre de Tassigny, với tư cách là Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương đến Mỹ để xin viện trợ quân sự giữa lúc chiến tranh Triều Tiên vào hồi sắp tàn cuộc. Cái bóng ma ám ảnh cuộc thương lượng của De Lattre và chính phủ Mỹ là sự can thiệp của Trung Cộng, điều mà đúng vào ngày De Lattre hấp hối trên giường bệnh, một tướng 5 sao khác của Pháp, tướng Juin - và ông này về sau cũng được phong thống chế - khẩn cấp có mặt ở Washington xin Mỹ hãy hành động như ở Triều Tiên.
Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ lúc bấy giờ là đại tướng Bradley hoài nghi về khả năng Trung Cộng dám liều lĩnh. Theo tướng Bradley, Trung Cộng đủ khôn ngoan để học bài học Triều Tiên: nếu Mac Arthur bị Tổng thống Mỹ cách chức vì chuẩn bị vượt sông Áp Lục tiến đánh cảnh cáo Trung Quốc; thì Trung Cộng gửi liền cho Mỹ một thông điệp bằng hành động: nguyên soái lừng danh Bành Đức Hoài bị Mao Trạch Đông cách chức vì ông ta thề quét quân Mỹ ra ngoài vịnh Triều Tiên.
Chính phủ Hoa Kỳ nhắc lại sự cam kết đầu tiên là quan tâm hàng đầu đến viện trợ kinh tế theo điểm 4 trong chương trình Truman (5), mặc dù chính phủ Pháp từng cử đại sứ ở Viễn Đông để trao đổi những kiến nghị với chính phủ Mỹ về thái độ của Mỹ trong cuộc chiến Đông Dương. Sự lơ là của tướng Bradley còn liên quan đến tuyên bố của tướng Pháp Carpentier, Tổng tư lệnh quân viễn chinh Pháp vào đầu năm 1950 tại Đông Dương: “Nếu Mỹ muốn việc trợ quân sự cho các quốc gia Đông Dương thuộc Pháp thì nhất thiết sự viện trợ đó phải thông qua Liên hiệp Pháp, tức là quân đôi Pháp”. Có lẽ tướng Carpentier bị chính phủ Pháp khiển trách, do đó mà giữa tháng 5-1950 Bộ trưởng ngoại giao Anh, Pháp, Mỹ họp tại Paris với chủ đề: Viện trợ quân sự và kinh tế cho Đông Dương. Đầu tháng 6 cùng năm, Robert Blum, Trưởng phái đoàn Mỹ tới Sài Gòn chính thức thông báo phần viện trợ kinh tế của Mỹ cho Đông Dương tài khóa 1950-1951 lên đến 23.5 triệu dollar, còn viện trợ quân sự chỉ bằng vũ khí và quân nhu, sẽ qua tay quân đội Liên hiệp Pháp. Sáu ngày sau, một ủy ban viện trợ kinh tế Hoa Kỳ được thiết lập ở Sài Gòn để tiếp nhận những triệu dollar khiến nhiều người thèm rỏ dãi nói trên. Chúng ta có thể nói được rằng, đó là số tiền đầu tư quan trọng của Mỹ vào Đông Dương mà chủ yếu là vào Việt Nam.
Cũng cần thiết nhắc lại rằng, con số 23.5 triệu dollar của Mỹ đã góp phần đưa cuộc đàm phán Pau thoát khỏi tình trạng cù nhầy mà nguyên do là chính phủ Pháp của Vincent Auriol vẫn luyến tiếc chế độ trực trị các thuộc địa cũ. Ngày 22-7-1950, hai chuyến máy bay đầu tiên mang cờ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, hạ cánh ở sân bay Tân Sơn Nhất, bấy giờ còn rất cũ kỹ. Thuốc men, bột DDT, thuốc kháng sinh, dụng cụ y tế v.v... nhãn hiệu USA được phân phối trực tiếp cho chính phủ Việt Nam mà không qua các cơ quan Pháp, dù cho cái “chính phủ Việt Nam” đó gồm những người xem tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ. Bất cứ một mưu đồ lớn nào của các nhà chính trị cũng đều mở đầu một cách hiền lành, nhân đạo như vậy cả. Chính phủ Mỹ tự rút kinh nghiệm: Mùa xuân cùng năm, hai chiếc tàuchiến Mỹ bỏ neo trên sông Sài Gòn, ngay cái thành phố rất náo động và bài ngoại nổi tiếng, đã bị hàng mấy trăm ngàn người giận dữ xua đuổi. Tiếc là nhà tiên tri Nostradamus (6) không dự đoán nổi cái điềm trên là hứa hẹn hay hăm dọa. Thận trọng hơn, một phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ do Thứ trường quốc phòng Malby và tướng Erskine cầm đầu “không kèn không trống” đến Sài Gòn và phúc trình sau đó của họ được Tổng thống Mỹ chấp nhận cực kỳ nhanh chóng nếu không nói là Tổng thống đã quyết định từ trước. Âm thầm và rón rén như những kẻ buôn lậu, giữa tháng 8-1950, một tàu buôn Mỹ cập bến Sài Gòn và mọi hoạt động chỉ về đêm: súng, đạn pháo, xe bọc thép v.v... hối hả nhập vào các kho của quân đội Pháp. Quyển sử về sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương mở ra chương thứ nhất với chuyến tàu trọng tải 15.000 tấn đó.
Thang 10 cùng năm, Thủ tướng Pháp Pleven lại cử bộ trưởng quốc phòng Jule Moch sang Mỹ thúc viện trợ quân sự nhưng nói rõ chỉ viện trợ vũ khí mà thôi. Một ngày đáng ghi nhớ trong quyển sử mà tôi tin thế nào cũng sẽ xuất hiện, ngày 10-10-1950 một phái đoàn viện trợ quân sự Hoa Kỳ đặt dưới quyền của tướng Brinsk chính thức treo ngọn cờ lấm chấm những ngôi sao xanh và vằn vện những sọc đỏ giữa Sài Gòn. Nước Mỹ quyết định từ bóng tối bước ra ánh sáng vào đúng cái thời điểm bản lề của cuộc chiến Đông Dương: toàn tuyến biên giới Việt Bắc do những lực lượng tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Pháp trú đóng bị chiếc chổi khổng lồ của tướng Giáp quét một nhát sạch nhẵn, từ Cao Bằng qua Đông Khê, Thất Khê đến Lạng Sơn với 5.000 tù binh và hai đại tá sừng sỏ.
Giới doanh nghiệp Mỹ lúc đầu chú ý đến Việt Nam ít hơn giới chính trị và giới quân sự. Ngót trăm năm cai trị của Pháp, miền đất hẻo lánh này của thế giới chỉ trưng bày được trong thông tin kinh tế quốc tế với mặt hàng quá khiêm nhường: cao su thì thua Malaysia, cà phê xếp sau Brasil, các loại quặng chỉ mới tính bằng đơn vị tấn, trừ than đá và lúa gạo. Nhưng cuộc chiến tranh Pháp - Việt đã khiến cho giới doanh nghiệp Mỹ từ chỗ thờ ơ, đến chỗ quan tâm đặc biệt tình hình Việt Nam. Có lẽ cái khác nhau giữa họ - giới doanh nghiệp - với giới quân sự và chính trị chung quanh những vấn đề như vị trí chiến lược, như tiền đồn ngăn chặn làn sóng đỏ, vẫn còn trừu tượng; nhưng cái yếu tố hấp dẫn lồ lộ như nhà thôi miên cuốn hút họ: những chục triệu dollar công khai và hàng trăm triệu dollar bí mật cần phải được sử dụng, tuy tận miền Viễn Đông nhưng không thể vượt ngoài quỹ đạo của nền kinh tế Mỹ. Giới doanh nghiệp Mỹ bắt đầu làm tính với Việt Nam một cách thực dụng như họ làm tính với đồng bào họ và khi Trưởng phái bộ kinh tế đầu tiền của Mỹ ở Sài Gòn, ông Williamon, công bố số tiền viện trợ kinh tế cho Việt Nam tài khóa 1951-1952 là 25 triệu dollar thì các hãng buôn Mỹ thiết lập nhanh nhẩu chưa từng có cơ quan đại diện của mình trong các khách sạn sang trọng giữa trung tâm Sài Gòn. Một viện hối đoái được thành lập và một Huỳnh Văn Lang thân Pháp, một Đinh Quang Chiêu thân Mỹ song song điều hành công việc. Giới doanh nghiệp Mỹ không cần thiết lập nhiều ngân hàng ở Sài Gòn, trừ chi nhánh ngân hàng Manhattan, bởi các ngân hàng của Trung Hoa Tưởng Giới Thạch và của Hongkong thật sự hay phần quan trọng là của họ. Rồi cuộc chiến tranh Việt - Pháp kết thúc, rất bi thảm đối với nước Pháp nhưng rất rực rỡ đối với chính phủ Mỹ. Thế là, từ trước, khu vực ảnh hưởng xa nhất Đông Nam Thái Bình Dương của Mỹ dừng tại Philippines, bây giờ, nó thêm hàng nghìn cây số lên mép lục địa Đông Nam Á, trên đất liền. Bỗng nhiên trong giới doanh nghiệp Mỹ lưu hành một
luận điểm mỗi ngày mỗi trở nên chính thống: Đông Dương có vị trí chính trị, quân sự, kinh tế với tầm cỡ chiến lược, mà nếu như Mỹ bị hất ra khỏi nơi đó thì có nghĩa thủ đô Washington sẽ thất thu! Người xướng xuất cái lý thuyết viễn tượng khá phi thường ấy là giáo sư Henry Kissinger với một đồng minh mang bệnh tâm thần là thượng nghị sĩ Mac Carthy, dưới sự bảo trợ của một kẻ lõi đời: Foster Dulles. Các con số về tiềm năng kinh tế của Việt Nam đều được máy tính điện tử thổi phồng theo cấp số nhân. Foster Dulles chết vì bệnh ung thư nhưng rất tiếc trình độ khoa học chưa đủ sức tìm trong các tế bào rối loạn của cựu Ngoại trưởng Mỹ phần nào tượng hình ung nhọt Việt Nam. Giới doanh nghiệp Mỹ nhảy xổ vào Nam Việt Nam sau Hiệp định Genève, nói trắng ra là nhảy xổ vào 300 triệu dollar viện trợ và chừng đó dollar viện trợ quân sự hằng năm giống những cầu thủ ruby XV thô bạo dùng quyền Anh, võ Judo và cả những nhọn lao người da đỏ đánh rạp người Pháp trên thương trường. Ngày nay, những người định đoạt chính sách nước Mỹ rất thống nhất với nhau: Phải đẩy lùi càng xa càng tốt nguy cơ Trung Cộng thọc tay vào Đông Dương. Thật là may mắn, Mao Trạch Đông đã viện trợ hào phóng cho nước Mỹ bằng cách ông ta thọc tay khuấy động nội bộ nước Trung Hoa và cả phe Cộng sản quốc tế, trong đó thế nào cũng có giới Hoa kiều đông đúc ở Chợ Lớn. Phải giữ Bắc Việt tạm thời tồn tại phía Bắc vĩ tuyến 17. Lúc bấy giờ, nghĩa là mấy năm liền sau Hiệp nghị Genève, ý định này không phải là viễn vông: ông Hồ Chí Minh còn bận nhiều việc gấp hơn. Nước Mỹ phải nhập cảng vào Nam Việt thật nhiều cirage và verni để đánh bóng chiếc tủ kính trưng bày sự có mặt của nước Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Đó là sự có mặt rất đỗi ôn tồn và niềm nở, giàu có và vung tay, thậm chí rất tế nhị. Nước Mỹ chăm sóc cả những bộ ngực mỹ miều của các cô gái Nam Việt, dành một sự quan tâm ngang với quan
tâm kinh thánh, vòng nở nang của đùi và mông. Nhưng - chữ “nhưng” mà Eisenhower nổi đóa và Kennedy sắp chửi thề - Tổng thống Việt Nam Ngô Đình Diệm thích dùng cirage và verni của Mỹ đánh bóng cho cái mà danh từ Á Đông gọi là chiếc ngai vàng. Ông ta say mê trở thành hoàng đế hơn các nhà doanh nghiệp Mỹ say mê khai thác các thứ có thể khai thác trên đất nước ông. Và ở đây, tồn tại một sự can thiệp của lịch sử dù chính phủ Mỹ có nhắm mắt cũng phải thấy - đó là Cộng sản. Bây giờ họ tự xưng là Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Họ nói rằng họ chống sự xâm lược của Mỹ và chế độ độc đoán của gia đình ông Ngô Đình Diệm để xây dựng một miền đất nước không có tiếng súng, không có áp bức của nước ngoài, không có bóc lột và đối xử ngang ngược trong nước. Họ đòi thi hành Hiệp nghị Genève và tuyên bố độc lập với chế độ Cộng sản Bắc Việt bởi họ chủ trương trung lập. Nhưng đồng thời họ cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng đất nước Việt Nam của họ là một dân tộc của họ thống nhất từ 4.000 năm.
Muốn thắng Cộng sản ở Nam Việt, không một nhà chiến lược quân sự Mỹ nào không nghĩ đến qui mô chiến tranh nhất thiết phải mở rộng toàn cõi Việt Nam, hơn nữa, toàn Đông Dương.
Cái nguy cơ Trung Cộng can thiệp dứt khoát đã lùi xa, xa hơn cả những gì mà giới chiến lược Mỹ mơ ước, nghĩa là tấn thảm kịch Triều Tiên gần như tuyệt đối không thể tái diễn: không có những yếu tố vật chất, đối ngoại và tâm lý để tái diễn. Cái giá sinh mệnh hàng triệu lính Trung Quốc tại Triều Tiên chỉ để làm ranh chia hai Triều Tiên, nhích xuống phía nam vài chục cây số thì quả là giá quá cao. Trung Cộng vẫn giúp Cộng sản Việt Nam ở cả Nam và Bắc, nhưng đó là một sự giúp đỡ tự nó đã có giới hạn. Trung Cộng không muốn một Việt Nam thuộc Mỹ để phải hứng ngọn đòn vu hồi từ phía dưới khó đối phó. Nhưng Trung Cộng cũng không thích thú một Việt Nam thoát ly sự chi phối của Trung Quốc mà các hoàng đế tiền bối của họ luôn luôn nhắc nhở họ phải hoàn thành tốt. Nước Mỹ rõ ràng chỉ phải đối phó với một nước Việt Nam, mà theo Mao, cần thiết cắt đôi lâu dài như Triều Tiên, Đức. Ngay cái đảo nhỏ xứ Đài Loan mà họ cũng chỉ dọa bằng những lần cảnh cáo nhiều đến nỗi thành lố bịch. Nhưng Nga Sô đã là nước đầu tiên đưa người lên vũ trụ. Thành tựu về kỹ thuật quân sự của Nga sẽ được Cộng sản Việt Nam thụ hưởng trong chừng mực cần thiết. Ở chiến trường Nam Việt, người Mỹ và quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bắt đầu nếm khá cay đắng những thành tựu ấy, kể luôn những vũ khí tuy mang nhãn hiệu Trung Cộng nhưng từ model Nga Sô. Nước Pháp vẫn bất đồng với Mỹ về vấn đề Đông Dương, Ấn Độ luôn trung thành thuyết trung lập ảnh hưởng ngày một rộng. Thế là bài toán Việt Nam đối với nước Mỹ thêm nhiều con số mới. Chiếc tủ kính trưng bày hàng mẫu không chỉ gồm có thuốc lá Salem, nịch vú và xilip, mà còn có cả những khẩu súng của các hãng Colt, Remington v.v... Dĩ nhiên giới doanh nghiệp chẳng thiệt thòi gì. Không bán tủ lạnh, xe hơi du lịch thì bán các bộ quân phục và xe tăng,
máy bay ném bom - lãi to hơn nhiều.
Công cuộc đầu tư ở Nam Việt cứ lộn rồng lộn rắn như thế và mỗi ngày thêm nhiều triệu chứng cho thấy sự đầu tư sẽ chủ yếu bằng sinh mệnh của những người Mỹ và bằng cả vận mệnh của nước Mỹ. Các tổng thống Mỹ từ nay trở đi có dám chấp nhận một cuộc phiêu lưu như vậy hay không, đó còn là ẩn số. Song, không còn là ẩn số điều sau đây: chính giới Mỹ giải thích cái tình trạng tấn thối lưỡng nan của mình ở Nam Việt, sự thụt lùi của nỗ lực chống Cộng với các kết quả xám xịt bằng một luận điểm bất ngờ nhất nhưng lại được thống nhất nhất - sự tồn tại của chính cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm. Con người mà 9 năm trước nước Mỹ gọi rằng “vị cứu tinh của nước Việt Nam đau khổ”, trong phút chốc đã trở thành một thứ Dracula không chỉ hù con nít mà là một hiểm họa thật sự đe dọa nước Mỹ. Chính thức mà nói, nước Mỹ đầu tư vào Việt Nam bằng cái vốn Ngô Đình Diệm. Và bây giờ, bán chính thức mà nói, nhà độc tài Nam Việt đang lên giá cực cao trên thị trường chứng khoán Mỹ - cái giá của “một vật tế thần”, hiểu theo cách phương Đông. Cái có thể trở nên chuyện huyền thoại là ông Diệm cứ ngỡ mình như một thực thể do ý Chúa. Giới doanh nghiệp Mỹ, trái lại, tiêm nhiễm một thói quen sau Thế chiến thứ 2 - nước ít bị tổn thất nhất - là không cần biết ông A hay ông B cầm quyền ở nước nào đó. Lý Thừa Vãng hay Phác Chánh Hi, Magsaysay hay Macapagal... mà chỉ cần biết các kết số lời lỗ trong các giao dịch tính bằng dollar. Và, nói theo ngôn ngữ của giới gangster: “Diệm! Hãy cầu nguyện đi!”.
Bài báo tuyệt vời! Luân tấm tắc. Nếu không bị các ràng buộc về trách nhiệm, Luân đã gọi điện khen Fanfani. Nhưng, thật kỳ quặc, Nhu không hề nhắc đến các nhận định đó của Fanfani trong hằng tá thư anh ta viết cho Luân. Fanfani, chẳng thiện cảm chế độ Diệm, nhưng cô cũng không hoàn toàn tán thành cách dính líu của Mỹ vào Nam Việt. Hiểu theo một nghĩa nào đó, Fanfani đánh động ông Diệm. Tờ Financial Affairs sở dĩ đăng bài này của Fanfani là vì - chính Fanfani tiết lộ với Luân - số ngân hàng chi phối tờ báo chưa chia chác được bao nhiêu món viện trợ Mỹ ở Nam Việt.
Luận gặp Saroyan hai lần. Lần trước, chỉ vài tháng sau khi Luân đến Fort Bragg. Lần sau tại Paris, nơi Luân dừng chân ngơi nghỉ và sửa soạn đi Philippines và Malaysia.
Saroyan đến Fort Bragg và hẹn gặp Luân ở khách sạn, ngày chủ nhật.
- Tôi đã nói chuyện qua dây nói với bà đại tá. - Saroyan bắt tay Luân, nói luôn - Và tôi cũng báo cho bà đại tá là tôi sẽ gặp ông. Bà đại tá tỏ ý tiếc vì chương trình nghiên cứu không cho phép bà cùng ông tiếp tôi...
Saroyan, trong trang phục hè, “đẹp mê hồn” như chính Luân nói với Dung sau đó, mặc chiếc áo pull mỏng ngắn tay, quần jean bó sát, ngồi trước mặt Luân, dành cả mấy phút ngắm anh.
- Tôi nhớ ông... Nhớ một tình nhân... – Saroyan nói giọng thật buồn - Tôi cùng Fishell về Mỹ nghỉ hè ba tuần. Fishell lao đầu vào công việc của các cơ quan, quá nhiều cơ quan. Tôi chỉ đến Hội phụ nữ từ thiện Mỹ vài lần. Yêu cầu của tôi không có gì to tát nên họ đồng ý dễ dàng. Vài chục nghìn chiếc chăn, với chục nghìn đôi tất, một ít thuốc sốt rét... Thì giờ rỗng. Sang Việt Nam rồi, tôi mới biết nước Mỹ rỗng. Thr61 là tôi báo với Fishell tôi đi chơi. Ông ta chỉ xin lỗi tôi đã không thể rời Washington lấy một giờ... Tôi đến đây, bang Bắc Carolina này.
- Bà có bảo với giáo sư là bà sẽ gặp tôi không? - Luân hỏi, nhíu mày.
Saroyan cười, phô hàm răng trắng và, do đó, đôi môi càng nổi màu đỏ ướt, ngoẻo đầu, nũng nịu:
- Không báo!
Luân vẫn ngồi yên.
- Không báo không vì tôi sợ Fishell ngăn cản hay nghi ngờ tôi... Fishell không ngăn cản đâu, trái lại. Nếu tôi mà nhắc ông thì chính Fishell sẽ gợi ý tôi nên đến Fort Bragg ngay. Dĩ nhiên, gợi ý luôn một vài việc gì đó, bẩn thỉu không chịu được. Fishell không nghi ngờ, bởi tại sao lại nghi ngờ? Ông chắc không thể hiểu rằng nếu ông và tôi trở thành tình nhân thì kẻ sung sướng nhất lại là Fishell... Thế đấy, đại tá Luân!
Bỗng nghiên, vẻ nũng nịu dễ thương của Saroyan tan tựa làn khói mỏng. Và, cô ta ôm mặt khóc nức nở.
Tim Luân se thắt. Anh không mảy may nghi ngờ Saroyan chơi trò gài bẫy. Không, một cô gái – Saroyan đáng được gọi cô gái hơn là bà - đau khổ thật sự khi phải lấy một tay trùm tình báo. Anh đứng lên, vòng sau lưng Saroyan, dùng chính khăn tay của anh lau mắt cho cô.
- Đừng khóc, Saroyan!
Làn đầu tiên, Luân gọi Saroyan âu yếm như vậy.
- Đi rửa mặt nhé. - Luân xốc Saroyan đứng lên.
Gian phòng tĩnh mịch, ấm cúng, khiêu gợi. Cái gì cũng có thể xảy ra và xảy ra tới cùng. Saroyan đứng lên, gần như áp sát vào Luân, bộ ngực phập phồng theo hơi thở dồn dập. Luân nhìn vào mắt thăm thẳm của Saroyan, quàng lưng cô, dìu vào phòng rửa mặt. Luân biết rằng không chỉ riêng anh kiềm chế, mà Saroyan cũng kiềm chế.
- Tại sao Saroyan không ly dị Fishell? -Luân hỏi.
- Tại sao tôi không ly dị? - Saroyan cười héo hắt, khi trở lại ghế, cô không tô lại má và Luân bỗng thèm hôn lên đôi má không trang điểm đó.
- Cả tiếng Pháp và tiếng Anh đều nghèo từ hơn tiếng Việt và tiếng Ảrập - Saroyan nói - Trong xưng hô, tôi sẽ không gọi ông là đại tá Luân. Vous, toi, you, moi, I... cần hiểu theo tiếng Việt. Tôi biết tiếng Việt quá ít và chưa hề dùng nó bao giờ. Anh, em.. Được không?
Luân cười buồn và gật đầu.
- Em trở lại câu hỏi của anh. Không ly dị vì luật Hồi giáo không cho người phụ nữ cái quyền đó. Ly dị là một khái niệm xa lạ đối với đạo Hồi. Chỉ có việc người đàn ông bỏ một người đàn bà... Người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ và ruồng bỏ...
- Nhưng, Saroyan không cần cả cái mạng che mắt, biết uống rượu, hút thuốc lá, ăn thịt lợn, chắc không bao giờ đọc kinh Coran và hành hương về La Mecque (7)
- Biết khiêu vũ nữa! - Saroyan tươi tỉnh lại.
- Koweit không phải là nước Ảrập quá bảo thủ, anh hiểu như vậy... .
- Anh chưa hiểu gì cả, Luân ạ... Em còn cha mẹ, còn chị, anh và em... họ đang sống ở Koweit. Anh có biết ai dự lễ cưới của em với Fishell không? Tiểu vương Koweit. Nước Mỹ và riêng Fishell cần dầu lửa Koweit, nhà vua Koweit biết rằng dân Koweit không thể bới bằng tay để tìm dầu lửa. Đó là một sợi dây cột em cho đến khi nào chính Fishell thấy cần một người vợ khác, một phụ nữ da đen chẳng hạn, bởi nước Mỹ và cơ quan của Fishell không dừng tầm dòm ngó trong một giới hạn nào cả.
- Coi chừng vợ Fishell có thể là một phụ nữ ở sao Kim! - Luân đùa.
- Anh nói không quá đâu. - Saroyan vẫn nghiêm nghị - Nếu sao Kim có sinh vật và nước Mỹ mò tới... Nhưng em không cắt sợi dây ràng buộc ấy chẳng phải chỉ vì số phận những người thân ở Koweit. Em tự hỏi: Tìm tình yêu ở đâu?
Saroyan lại khóc lần nữa. Luân không ngăn cô. Thôi để cho cô ấy khóc, nước mắt làm vơi đi u uất...
- Em chưa có tình yêu. Fishell là người đàn ông đầu tiên biến em thành đàn bà nhưng giữa ông ta và em có đủ các thứ của mối giao tiếp nam nữ, trừ tình yêu. Giả sử Fishell yêu em, chắc chắn em sẽ đáp ứng lại với tất cả tấm lòng. Ngoài lý do chữa trị, Fishell cần đàn bà. Chỉ có thế thôi... Em nói hơi thô, anh đừng giận. Fishell coi đàn bà như một giống vật và đàn bà đối với Fishell được ghi trong chương trình hằng ngày của òng ta, vào giờ nào và bao lâu. Fishell cấm em có con với ông ta. Fishell trên 60 tuổi, chính thức ăn ở với năm người gọi là vợ và ông ta không có một đứa con nào cả. Trên tất cả em muốn anh hiểu một điều: Fishell là người Mỹ...
Luân thở dài. Ngồi cách anh có nửa mét, một phụ nữ đẹp đang oằn oại. Chắc chắn Saroyan không thiếu các loại trang sức đắt tiền nhất, các tiện nghi sinh hoạt hiện đại nhất. Vậy mà Saroyan vẫn là người nghèo, rất nghèo...
- Anh biết John Hing không? - Saroyan hỏi đột ngột.
- Có!
- Fishell và John Hing thuộc hai huyết thống khác hẳn nhau nhưng lại giống nhau như hai giọt nước. Với anh, em không muốn che giấu bất kỳ điều gì. Em đã quan sát kỹ gian phòng này, không có máy nghe lén... Một lần, Fishell đưa em đến nơi John Hing, nói là thăm xã giao. John Hing ngụ tại khách sạn Majestic. Fishell dặn em mặc jupe, để hẳn vai trần. John Hing ôm hôn em như hôn vợ một người bạn, sau đó, bảo Fishell: Bà nhà thật mỹ miều, nhưng tôi bao giờ cũng hành lạc vào buổi trưa. Tôi không phí thì giờ ban đêm, bởi đêm tối cho ta nhiều gợi ý; giữa lúc thiên hạ ngủ, ta thức!? Chúng ta nên bắt đầu trao đổi những suy nghĩ, còn bà Fishell có thể tìm nơi giải tri khác. Em hoàn toàn không ngờ Fishell sử dụng em như một con điếm. Em tát vào mặt cả Fishell lẫn John Hing và ra khỏi phòng. Không ai trong họ phản ứng - có, có phản ứng, họ cười. Tiếng cười cũng không lâu. Đêm đó, em khóc. Fishell về nhà, không mang theo một tí mùi rượu nào. Ông ta thay quần áo và bảo em, giữa lúc chiếc gối của em ướt đẫm: Xong rồi! Thống nhất rồi!... John Hing là tay rất biết điều. Ngày mai, Lansdale sẽ gặp tôi. Ngày kia, tôi sẽ gặp Lâm Sử, một tay Trung Cộng, có cỡ... Fishell vừa nói vừa lột quần áo em. Em chống cự. Gì thế? - Fishell hỏi. Và ông ta không cần em trả lời, bởi đồng hồ trên bàn chỉ cái giờ mà Fishell đã xếp công việc hàng ngày.
Luân lấy một chiếc khăn ướt, lau mặt Saroyan.
- Fishell biết rõ quan hệ giữa Nolting vả Lệ Xuân. Chính Fishell tạo điều kiện cho quan hệ đó nẩy nở, kéo dài. Ảnh làm tình của hai người phải kể đến hàng xấp trong tủ Fishell. Nhưng bây giờ, Fishell cho rằng không cần thiết nữa. Ông ta hay đùa với Nolting: Anh say mê nghề ngoại giao mà buông thả trái tim thì tốt nhất nên về vườn! Fishell chưa một lần hôn Lệ Xuân, ông ta bảo: Tôi không tìm cảm giác trong cái hôn, còn dấn sâu với con mụ này, tôi lại không có nhu cầu, mặc dù công bằng mà nói, thân thể mụ hấp dẫn.
- Saroyan! - Luân kêu khẽ.
Saroyan đưa tay ngăn Luân:
- Anh cần nghe, nghe cho hết. Phần cốt yếu khiến em đến gặp anh, em chưa nói... Tất nhiên, em không bao giờ được tiếp xúc với các tài liệu mật của Fishell, song thỉnh thoảng vẫn nghe Fishell nói với người này người khác, đôi khi nói với em. Lần nghỉ hè này, Fishell thật sự làm việc với Colby - anh thừa biết Colby là ai. Cùng về Mỹ, tuy xê dịch thời gian, cả Lansdale, William Porter, James Casey. Em tin rằng họ sửa soạn một phúc trình cho Tổng thống Mỹ - những bản phúc trình của họ bao giờ cũng được Tổng thống đánh giá cao. À, em quên, John Hing cũng về Mỹ. Có thể ông ta không trực tiếp hội họp với Colby nhưng, theo em hiểu, tiếng nói của John Hing đặc biệt nặng trong chính sách Viễn Đông của Tổng thống Mỹ, bởi cũng theo em suy luận, John Hing vừa là thành viên quản trị Công ty vũ khí Colt, vừa là phó chủ tịch Tổng công ty hóa chất Ohio Chemical Corporation, chuyên sản xuất thuốc diệt cỏ, và nhiều công ty siêu quốc gia khác nữa, vừa giữ liên hệ chặt với giới Hoa kiều Đông Nam Á, được cả Đài Bắc lẫn Bắc Kinh tin cậy... Vấn đề sẽ được đặt ra là còn hay không còn cần ông Diệm ở Nam Việt, đứng về lợi ích của Mỹ và cả của những quan hệ đan chéo trong vùng. Fishell gần đây hay cáu kỉnh với Nolting và theo em, Nolting sắp bị thay thế.
Luân rót cho Saroyan một cốc nước.
- Nếu chỉ là việc ông Diệm, em không phải bận tâm... Nhưng anh là người của ông Diệm. Fishell từng nhiều lần khen anh. Em không đủ sức phán đoán các khả năng. Tuy nhiên, em vẫn linh tính có đến hai triển vọng về anh. Hoặc anh sẽ trở nên một con người mà vị trí na ná như ông Diệm ở Nam Việt hoặc anh sẽ không còn là gì cả. Fishell khen anh. Nhưng, trong lời khen, ông ta hàm ý gờm anh. Fishell gờm ai thì thật rất rủi ro cho người đó...
Những điều Saroyan thổ lộ không phải bất ngờ đối với Luân, kể cả phần mà tình báo Mỹ dành riêng cho anh - chiếc ngai hay một phát súng. Trong lần gặp gỡ đầu tiên với đại sứ Mỹ Rheinardt tại Câu lạc bộ thủy trên bán đảo Bình Quới Tây, Luân đã nghe ý định của người Mỹ. “Nước Mỹ cần những con đại bàng biết khống chế những con đại bàng khác bay cho đúng hướng”. Hình như Rheinardt nói một câu tương tự như vậy.
Tuy nhiên, Luân vẫn băn khoăn và anh không đủ dữ kiện để giải đáp: Liệu rằng thay thế Diệm trong thời điểm hiện nay đã thật có lợi cho cách mạng chưa? Năm 1957, Luân tán thành, thậm chí nhúng tay vào một hành động nhằm trừ khử Ngô Đình Diệm trên cao nguyên Buôn Ma Thuột. Lúc bấy giờ, thế lực thân Pháp chưa sụp hẳn mà thế lực thân Mỹ còn phôi thai. Mỹ có mặt ở Nam Việt chỉ với vài trăm cố vấn. Diệm mà bị lật đổ lúc đó thì Nam Việt rơi ngay vào cảnh hỗn loạn. Nhũng người kháng chiến chống Pháp, các đảng viên và quần chúng yêu nước chưa bị tổn thất lớn, cách mạng có thể giành được một cái gì đó. Sự biến tháng 11-1960 nếu thành công, tình thế tuy phức tạp nhưng chắc cách mạng sẽ giữ một vai trò có ý nghĩa. Sự biến đầu năm 1962 chỉ là trò trẻ con. Tỉ dụ như Diệm chết vì những quả bom thì Nguyễn Tôn Hoàn sẽ đăng quang. Một đảng Đại Việt cầm quyền mở đường cho lực lượng Mỹ đổ ồ ạt lên Nam Việt và trong phần nội trị, Đại Việt sẽ không chỉ xây một P.42... Bây giờ, cũng chưa cỏ những nhân tố mới khả quan hơn cho thời kỳ “hậu Ngô Đình Diệm”. Nhận định của anh chính xác không? Người mà anh có thể trao đổi trên đất Mỹ là Thùy Dung, vợ anh. Dung cũng băn khoăn như anh. Thật cực khi mà tình thế phát triển vùn vụt, anh lại phải mỗi ngày nếu không có mặt ở giảng đường để nghe các tướng lĩnh, các giáo sư Mỹ thuyết giảng thì vẫn cắm đầu trước những trang sách trong thư viện. Dung không khác anh. Cô than thở: phải nghe, phải đọc, phải ghi chép và phải nhớ những nguyên tắc và biện pháp nghiệp vụ cảnh sát, đối lập trong từng chi tiết với kiến thức và tình cảm của cô. Họ khổ sở trong vai diễn, nhưng họ khổ sở hơn khi ở đây, cách Tổ quốc cả một đại dương, anh Sáu Đăng hay A.07 chẳng thể nào hướng dẫn họ. Nguyên tắc hoạt động của họ ngăn cấm một cách khe khắt mọi quan hệ với bên ngoài, kể cả những thế lực, nhân sĩ, cá nhân tốt bụng đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, dù người Mỹ, người nước ngoài hay Việt kiều.
- Em đến đây với mục đích thông tin cho anh, mà cũng chỉ có thể thông tin bao quát như vậy thôi...
Saroyan ái ngại nhìn Luân. Cô tôn trọng cái trầm ngâm kéo khá dài của anh.
- Bây giờ em phải về và sửa soạn theo Fishell sang Việt Nam để tiếp tục những tháng ngày cay đắng. Cầu Đức Ala phù hộ cho anh và mong anh cầu đức Chúa Trời phù hộ cho em...
Saroyan lại bưng mặt khóc... Luân đứng lên, đến cạnh cô, nhẹ nhàng nâng cô dậy, âu yếm vuốt tóc cô. Saroyan ghì chặt Luân và trong nước mắt đầm đìa, cô hôn Luân trong tiếng kêu nho nhỏ: “Anh yêu!”
Luân chợt nhớ đến Tiểu Phụng trong vùng tối của một tàng cây trên đường phố Sài Gòn vào một đêm mà sau đó, sau cái hôn nồng nàn Tiểu Phụng tặng anh, cô gái người Hoa đáng thương đã chết thê thảm. Luân rùng mình. Saroyan đờ đẫn ngó anh:
- Anh khinh em?
Luân lắc đầu. Với cả hai bàn tay, Luân áp chặt má Saroyan và từ từ cúi xuống.
- Em cảm ơn anh, nhưng em không chấp nhận một sự ban ơn và thương hại! - Saroyan thều thào.
“Trời! Chính Tiểu Phụng cũng nói một câu như vậy!”. Luân ngó vào mắt Saroyan và, rất kiên quyết, anh luôn cô đắm đuối. Hai người ghì chặt nhau khá lâu.
- Bây giờ, em mới cảm ơn anh đúng với ý nghĩa của chữ “cảm ơn”. Anh cho em cái mà em khao khát...
Lân tiễn Saroyan ra sân bay và anh chỉ quay lại Học viện khi chiếc Boeing lẫn vào chân trời.
Thùy Dung, một tuần lễ sau đến Fort Bragg, theo yêu cầu của Luân. Cô nghe tất cả và cô cũng khóc nức nở, không phải vì ghen tức.
- Nếu có một người con gái mà em thương thì người đó chính là Saroyan, cũng như trước đây em thương Tiểu Phụng. Anh của em đã làm một việc đúng.
Lần thứ hai Luân gặp Saroyan tại Paris. Lần đó có Thùy Dung. Luân tế nhị để cho hai người nói chuyện trên những lối mòn của khu rừng Boulogne.
Saroyan sắp trở lại Koweit và cô cho biết, có lẽ không phải cô mà Fishell thực hiện việc ly dị. Lý do rất đơn giản: trữ lượng dầu mỏ của Koweit thấp hơn của Arabie Seoudite và Fishell sau ly dị sẽ lấy một người trong hoàng tộc Faycal - nghe đâu bà này trên 50 tuổi.
Cả Luân và Dung đều chỉ có thể chia sẻ nỗi đau của Saroyan bằng những lời khuyên. Saroyan cung cấp cho họ thêm một số tài liệu mới, đặc biệt là những tài liệu về mối quan hệ của Fishell với một nhà sư ở Nam Việt. Không phải ngẫu nhiên mà khoa Phật học được thành lập vài năm nay ở trường Đại học Berkeley và Michigan. Người ta bắt đầu nói đến các nhà sư tiến sĩ Phật học như các tiến sĩ Thần học là linh mục trước đây.
- Với anh, em chỉ khuyên một câu trong lần chia tay có thể coi như là vĩnh biệt này: hết sức cẩn thận…
Saroyan nói với Luân như vậy trước mặt Dung. Cô chỉ bắt tay Luân mà không hôn, mặc dù Dung đã bước cách họ khá xa, một dấu hiệu cho phép.
- Em chỉ cần một lần được yêu là đủ. Anh hãy dành tất cả cho Thùy Dung. - Saroyan bảo Luân, rưng rưng nước mắt.
- Tại sao vĩnh biệt? - Luân hỏi.
Saroyan nhún vai.
- Em không thể tiếp tục ở Sài Gòn cho đến khi nào xong thủ tục ly dị? - Luân bảo.
- Em hiểu! - Saroyan cười - Em sẽ cố gắng và có gắng vì anh. Anh cho phép em? - Saroyan hôn Luân - Em hôn để cảm ơn sự tin cậy của anh.
Saroyan ôm ghì Dung khá lâu. Cả hai đều khóc. Saroyan khẩn thiết xin Luân và Dung đừng tiễn cô ra sân bay.
*
Thư của Nguyễn Thành Động gồm toàn tin chiến sự với cái giọng xốc hông quen thuộc của anh ta.
“Lão Harkins bị Việt Cộng đấm cho gãy hết cả răng - từ nay lão sẽ không ăn bánh mì mà chỉ ăn cứt thôi. Ngày 2-1-1963, con ách chủ của Harkins bị cháy queo. Tin tình báo cho biết Việt Cộng tập trung 2 tiểu đoàn ở rìa Đồng Tháp Mười, tại một địa danh mà khi xuất hiện trong bản thông báo chiến sự thì chỉ có trời mới cạy cái tên đó ra khỏi lịch sử quân sự nước Mỹ: Ấp Bắc. Tôi đoán chắc là đại tá không thể tìm trên bản đồ tỉ lệ lớn nhất tên cái ấp này. Thế là Harkins ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu của ta, với sự yểm trợ của một khối lượng trực thăng lớn chưa từng thấy chở 5 tiểu đoàn gồm Biệt động quân, lính Sư 7, lính Dù đổ xuống cánh đồng đã khô ráo. Việt Cộng từ trong các công sự đã bố trí đón sẵn trận đánh này, dùng súng trường, trung liên là chính, với vài khẩu đại liên, hạ bầy trực thăng đen như quạ ấy khi chúng lọt vào tầm hiệu quả của hỏa lực. Trực thăng rơi như lá vàng rơi - đại tá cho phép tôi nói văn chương một chút. Thông cáo của tướng André êm đềm như bài Blue Danube nhưng vợ con bọn lính kéo đến nhà xác để nhìn mặt lần chót người thân của mình thì náo động cả Sài Gòn, cả Mỹ Tho. Cái huyền thoại “chiến thuật trực thăng vận” gãy đổ giống những nhà cao tầng giữa một cơn động đất. Thế mà, 3 hôm sau, tướng Harkins dù mất hết răng vẫn ca ngợi nhưng chiếc trực thăng của ông ta. Đại tá thấy rồi đó, 11.000 quân Mỹ ở Nam Việt không múa được một bài nào cho ra hồn. Tôi có thể tóm tắt tình hình quân sự như sau: chúng ta bị đánh tơi bời khắp các hưởng, bị đánh đến sặc máu mũi, què giò, bò lê bò lết. Khi đại tá về nước sẽ làm việc với xếp mới: trung tướng Dương Văn Minh được cử làm cố vấn quân sự Phủ tổng thống, giao chức Tư lệnh hành quân lại cho Mai Hữu Xuân và trung tướng André từ Tư lệnh vùng I về giữ chức Tư lệnh lục quân. Kiến Hòa thân yêu của chúng ta, nhờ trời, chưa bị vố nào choáng váng, có lẽ vì chúng tôi chưa chịu nhận cố vấn quân sự Mỹ. Có tin sắp tới Trần Ngọc sẽ ra làm tỉnh trưởng Thừa Thiên thay cho Nguyễn Văn Đăng nào đó. Em út của đại tá, thằng Động này ớn sườn nếu người ta lại nổi điên cử Động làm tỉnh trưởng. Cầu trời khấn phật cho đại tá về sớm, họa may bầy em út sống lâu được chăng. Bọn thằng Trương Tấn Phụng, Lê Khánh Nghĩa, luôn cả ông Lâm - vừa mới lên lon thiếu tướng - cũng mong như tôi. Thằng cha Cao Tòng gì đó sư trưởng 13, đã thôi nghề cầm quân và được giao nhiệm vụ đúng sở trường của y - y vốn nổi tiếng “đại tá lái bò” - phụ trách quân nhu vùng III, chuyên cung cấp thuốc lá quân tiếp vụ cho lính cùng với những hộp thịt bò đóng nhãn một hãng miền Nam nước Mỹ, nhưng ra lò tại các căn phố của “chệc” Chợ Lớn… Thêm vài cái mới, nói trước để đại tá khỏi bỡ ngỡ khi trở về: máy bay bắt đầu rải các chất hóa học làm trụi lá cây. Vườn dừa hiền hòa của tụi mình còn một cái thân chĩa lên trời. “Tô hủ tiếu” (8) vừa tuyên bố một chính sách đặc biệt ly kỳ rùng rợn, gọi là chính sách chiêu hồi và cho thành lập những khu để nhốt mấy thằng cha Việt Cộng hụ hợ, chầu rìa, giả hiệu. Thành phần phe Quốc gia tụi mình “được tăng cường” với mấy thằng chó chết đó thì mùi xú uế càng lừng.
Bao giờ thì tụi này có thể khui sâm banh đón đại tá?”
Mỗi lần nhận được thư của Nguyễn Thành Động, Luân toát mồ hôi. Thư bị kiểm duyệt thì chết cả đám Rất may, Động không bao giừ gửi thư theo đường bưu điện, mà do những người bạn thân mang sang...
Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện gặp vợ chồng Luân ở London. Vợ chồng Luân sang thăm người chị của Luân đang dạy học tại đây. Luyện trao cho Luân một bức thư của Nhu mà Luyện không rõ nội dung.
“Anh Luân!
Nếu có cách nào tiện và an toàn tuyệt đối, anh sang Berlin gặp người anh của anh đang làm đại sứ ở Đông Đức. Điều kiện của phía bên kia về một giải pháp cho vấn đề Việt Nam là những gì? Anh đốt thư này. Chào anh, thăm cô Thùy Dung.
Nhu.
16-2-l963.
Tái bút: Giữ kín cả với ông bà nhạc của tôi và với chú Luyện”.
Bức thư ngắn gần như một điện tín được bọc trong ba lần phong bì. Luân lặng lẽ đốt thư và suy tính. Có nên không? Qua người chị, Luân biết anh của mình mạnh khỏe và trong gia đình, họ vẫn thư từ cho nhau. Người chị không có gì phải ngại: một nhà giáo không hoạt động chính trị. Chị đã vài lần sang Đông Berlin thăm anh. Khi Luân đến London, chị
định gọi dây nói cho người anh, nhưng Luân ngăn lại - điều khiến người chị giận dỗi.
- Anh em ruột nói chuyện, thăm hỏi một chút cũng không được sao? Phía ông Diệm cứ cho phía bên kia nằm sau bức màn sắt, bây giờ chị hiểu ai mới đố kỵ các quan hệ bình thường của con người...
Luân không giải thích và biết khó mà giải thích cho người chị thông. Luân cứ phải đặt mình luôn luôn trong tầm theo dõi của tình báo Mỹ và các phe chống Diệm đang lưu vong. Anh nhớ nhiều cú điện thoại của Nguyễn Tôn Hoàn, của Nguyễn Chánh Thi, Phan Huy Cơ… mặn có, chua có, cay có, thậm chí hăm he, chửi bới. Ngay chuyện James Casey đến Học viện cảnh sát thăm Dung cũng cho thấy sự bao vây đó.
James Casey, sau nhiều lần nói chuyện với Dung bằng điện thoại, đã bất thần đến trường, vào một buổi mà hắn nắm chắc là Dung có mặt một mình nơi phòng riêng.
Học viện cảnh sát đặt tại thành phố Greewonod, cách Fort Bragg 4 giờ xe lửa tốc hành và 50 bay.
James Casey gõ cửa. Dung ngồi cạnh điện thoại, đang nói chuyện với Luân, ngỡ người phục vụ gõ cửa nên mời vào. James Casey lọt vào phòng, Dung thoáng cau mặt, nhưng cô thay đổi liền thái độ.
- Chào trung tá... Xin mời ngồi... Chờ tôi một chút, tôi đang nói chuyện với nhà tôi...
Dung nói cho cả James Casey và Luân cùng nghe.
- Vâng, trung lá James Casey đến thăm em... Anh muốn nói chuyện với trung tá? - Dung quay về phía James Casey - Nhà tôi muốn nói chuyện với trung tá...
Thật ra, Luôn không bảo như vậy, chính Dung gài thế trận. Trước khi trao máy cho James Casey, Dung nói thêm:
.- Bây giờ là 14 giờ. Em sẽ đón anh vào 16 giờ để cùng đi xem hát và ăn tối... Vâng, máy bay cất cánh lúc 15 giờ, em nhớ...
Đó là cái hẹn không có thật - James Casey cầm máy, hau háu dán mắt vào ngực Dung - Dung mặc robe de chambre - và khi Dung đi vào phòng trong thay áo thì tuy miệng liếng thoáng nói với Luân, James Casey trông theo đôi chân trần của Dung như muốn nuốt chửng...
Dung trở ra trong bộ quần áo sĩ quan cánh sát. James Casey hiểu đó là dấu hiệu tống khứ hắn. Hắn ngồi đối diện với Dung, chưa mở lời thì người phục vụ đã vào phòng mang thức uống. Dung gọi người phục vụ từ phòng ngủ của cô. Người phục vụ - một cô gái Mỹ - ngồi ở góc phòng khánh, chờ yêu cầu.
- Rủi ro cho tôi. - James Casey thở dài. – Tôi đến không đúng lúc. Bà sắp phải đón ông... Trong dự định, tôi muốn xin bà cho cái hân hạnh là được cùng bà đi dự một buổi nhạc, cùng ăn... Tôi sắp sang Sài Gòn, dành phần thời gian cuối này cho cuộc gặp gỡ mà tôi ao ước từ lâu... Thật rủi ro....
- Có gì gọi là rủi ro, thưa trung tá. - Dung trả lời, giọng oai nghiêm - Nếu không trở ngại, xin mời trung tá trở lại vào 17 giờ, vợ chồng tôi sẽ rất vui mừng được mời trung tá đi xem kịch, nhạc và dùng bữa.
- Cảm ơn bà. Có lẽ tôi phải trở về Florida ngay, thăm qua gia đình... Từ hôm tôi về Mỹ, chưa thăm nhà. - James Casey tỏ tình khá trắng trợn. Tất nhiên hắn nói láo. Vợ hắn đeo hắn, có lẽ hôm nay hắn bày một mẹo đó mới thoát tới đây...
- Tôi hỏi bà một việc; bà có cần gửi thư cho ông cụ ở Hà Nội không? Tôi sẽ chuyển đi giúp. Nghe đâu ông cụ đang yếu. - James Casey thì thào.
James Casey đánh đúng cái khao khát của Dung. Từ lâu, cô bặt tin cha. “Chà, viết được cho bố vài chữ, hay quá!” Dung nghĩ.
- Tôi cũng có thể chuyển trở lại cho bà thư của ông cụ... Với bà, điều gì làm được, tôi không từ chối...
James Casey ngó trân trối vào môi Dung.
“Không được!”. Dung nhanh chóng trở lại thực trạng.. .
- Vô cùng cảm ơn trung tá. Song, tôi thấy không cần thư từ cho cha tôi... - Dung lấy tất cả sức mạnh để nói một câu trái ngược với thâm tâm đến như thế.
- Quái! - James Casey kêu - Tại sao bà lại có thể không nhớ ông cụ? Mấy dòng thăm hỏi, sao không làm?
- Tôi nhớ bố tôi, tất nhiên. Song, tôi không muốn những hàng chữ của tôi bị lợi dụng. - Dung mỉm cười.
- Lợi dụng? - James Casey trố mắt - Ai? Tôi?
- Cộng sản bắt được thư của tôi, thật rầy rà...
James Casey nhún vai. Chuông điện thoại reo. Dung đến máy.
- Alô! Anh đó hả? - Dung reo - Vâng, anh sắp ra sân bay. Em cũng vậy... Trung tá James Casey chắc cũng sắp từ giã em về Florida. Vâng, nhất định em có mặt ở sân bay trước anh... Anh muốn thi với em ư? Anh sẽ thua... Không, em lái cẩn thận. Nếu em đứng ngay cầu thang máy bay khi anh vừa xuống thì anh thua em cái gì nào?... Ồ! Anh yêu, sao anh lại có thể ở với em những ba hôm? Thế thì em phải vạch ngay một chương trình...
Dung phấn khởi - đúng vậy - nhưng cô cố tình bộc lộ công khai sự phấn khởi như chặn mọi mơ ước hão của James Casey. Cô biết là Luân không muốn cô một thân một mình đối phó với James Casey. Không phải Luân giả bộ để lừa James Casey, mà anh sắp đến thật.
Đặt máy xuống, mặc kệ James Casey ngồi thừ người với ly Cognac, Dung liếng thoắng dặn cô hầu phòng các việc cần sửa soạn, luôn việc phải làm ngay loại hoa mà Luân thích...
James Casey đứng lên.
- Xin chào bà...
Hắn thất thểu ra cửa và, đây là lần đầu, hắn không hôn tay Dung.
*
Nên hay không nên? Nhu có lẽ đã bị chặn hết lối thông sang phía bên kia nên mới nhờ Luân. Dứt khoát không phải là cái bẫy giăng nhằm vào Luân, một tín hiệu SOS thật sự. Nhưng, cuộc tiếp xúc, nếu có, lợi hại như thế nào? Thôi được, A.07 và các anh sẽ quyết định điều đó. Còn Mỹ? Chúng có chực chờ để vồ Luân khi anh liên hệ với một đại sứ Cộng sản Việt Nam ở một nước Cộng sản, dù cho đó là anh ruột của Luân? Dung cũng nát óc như Luân. Nằm chung trên chiếc gối, hai người ngó lên trần nhà, im lặng. Bên ngoài, sương mù dày đặc.
Luân có một người anh - anh Hai - bác sĩ Louis Nguyễn Thành Luân, mở phòng mạch tại Toulouse. Vợ đầm, nhưng Luân và Dung chỉ gặp Louis ở Paris, lần nào cũng đều ra sứ quán vì Louis thuộc nhóm trí thức thiên tả. Chị Tư của Luân, Christine, kiến trúc sư, sống ở Milan, Ý, sang Mỹ thăm Dung và Luân nhiều lần. Hai vợ chồng Luân cũng sang Milan một lần, ở nhà Christine. Christine và chồng - họa sĩ tranh trí – yêu nghề và yêu nước, yêu nước kín đáo. Em út của Luân, Marie-Louise, cũng kiến trúc sư và chồng là kỹ sư hóa học, công khai ủng hộ kháng chiến Việt Nam, hội viên tích cực của phong trào Việt kiều yêu nước Quebec, cho nên khi Luân và Dung sang Canada không bao giờ đến Quebec, chỉ gặp em tại Montreal và cam kết với nhau không nói chuyện chính trị.
Marguerite giống Christine. Chồng là một nhà khảo cổ. Hai vợ chồng mù tịt về thời cuộc.
Luân và Dung phải giữ gìn từng li từng li; cũng như ở Sài Gòn, thật lâu họ mới đến thăm Gustave, anh Ba của Luân, người ghét Mỹ ra mặt...
- Anh ơi! - Dung quay người sang chồng – Em nghĩ là anh nên gọi điện cho anh Năm. Gọi điện từ đây cũng được. Chỉ cần tính câu nói thế nào để anh Năm hiểu được Nhu muốn tiếp xúc với ta...
Luân vẫn nằm im.
- Theo em, anh không gọi điện hay không tỏ ra một cử chỉ nào muốn thăm hỏi anh Năm sẽ bất lợi. Chúng tinh vi lắm....
Dung nói đúng. Luân cũng tính đến tình huống đó. Anh hôn vội lên má Dung, rồi trỗi dậy. Nửa giờ sau, cuộc điện đàm bắt đầu:
- Alô, Robert đây...
- Alô, Jean đây...
- Khỏe không, Jean?
- Khỏe, còn Robert?
- Khỏe. Em và vợ em đang ở chỗ Marguerite...
- Vậy sao? Đến đó lâu chưa? Chút nữa, cho anh nói chuyện với Thùy Dung.
- Vâng... Đã 9 năm rồi, anh em ta không gặp nhau. Em rất nhớ anh... Chà, giá mà em gặp anh để xem anh thay đổi như thế nào? Chị khỏe không?
- Tất nhiên, anh rất muốn gặp chú và cô em dâu. Chị khỏe, nhắc chú luôn. Chị than mãi: làm sao nhìn mặt Thùy Dung một lần. Chị đang ở cạnh anh... Chú nói với chị nhé...
- Thưa chị, em Robert đây. Chúc chị khỏe. Dạ, Thùy Dung sẽ nói chuyện với chị.
- Thưa chị, em là Dung. Dạ, em cũng rất muốn gặp chị…
- Chỉ nghe giọng nói, chị đã hình dung thím nó đẹp ra sao rồi... Chị hôn em nhiều. Sao lâu có con vậy... Có con đi... Con gái phải giống mẹ nghe... Em nói chuyện với anh Năm, nghe...
- Alô, thưa anh Năm, em chào anh... Dạ, cám ơn. Em không được tin bố em. Cám ơn... Chị Marguerite nói chuyện với anh...
- Alô, Marguerite đây... Em “trung lập” nên mới ráp được mối cho mấy người...
*
Khi Luân trở lại Paris, đổi máy bay sang Manila thì sứ quán Việt Nam chuyển đến anh một bức thư.
“Tôi là người của luật sư Jean Nguyễn Thành Luân, muốn gặp riêng ông. Nơi gặp: bờ sông Seine, đoạn ngó sang Ile de France, vào 19 giờ ngày thứ ba. Tôi biết mặt ông, nên sẽ tự tìm ông”. Chữ ký tên không đọc được...
Luân mỉm cười. Anh gửi lại sứ quán bức thư đó và đề nghị đại sứ, nếu thấy cần, tìm hiểu người gửi và báo cáo cho Nhu biết.
Luân ở Manila 10 ngày. Những cuộc tiếp xúc với các cơ quan chống du kích Huk không có gì đáng chú ý. Chính phủ Philippines chủ yếu dùng lực lượng quân sự tiến công quân Huk. Sai lầm của du kích Huk là bám rùng núi, nơi rất ít dân và khó khăn về lương thực. Philippines lại gồm nhiều đảo, quân chính phủ dễ phong tỏa du kích. Luân biết chắc Huk sẽ chỉ mỗi ngày mỗi khó khăn hơn mà thôi, trừ phi họ đổi phương thức hoạt động.
Anh sang Kuala Lumpua. Tình hình chung của du kích Đông Nam Á giống nhau: họ bước vào cuộc chiến đấu bằng các giáo huấn và kinh nghiệm của Mao Trạch Đông. Thật tai hại khi người ta nâng thành phổ cập công cuộc giành chính quyền ở Hoa Lục: Trung Quốc đất rộng, người đông, chọn căn cứ lãnh đạo đầu não ở vùng có thế vững, trực tiếp nhận giúp đỡ của Liên Xô và tiến hành đấu tranh trong những điều kiện đặc biệt: cả thế giới lo chống chủ nghĩa phát xít, vấn đề dân tộc - tức là nạn xâm lược của Nhật – nổi bật trong yêu cầu chính trị của nhân dân Trung Quốc, giai cấp tư sản cằm quyền vừa yếu, vừa thối nát, vừa chia rẽ và nhất là chưa có kinh nghiệm chống du kích; khi Nhật bị Liên Xô đánh bại, Trung Cộng thừa hưởng đủ mọi thứ: thế chính trị, đất đai kiểm soát, cơ sở vật chất và vũ khí... Các nước Đông Nam Á trỗi dậy sau chiến tranh, trừ 3 nước Đông Dương, hầu hết đều do giai cấp tư sản bản xứ lãnh đạo công cuộc đòi độc lập, đi từ những yêu sách tự trị mà thu hồi dần chủ quyền. Những người Cộng sản không giữ được vai trò hàng đầu, nói chung không giành được ngọn cờ độc lập dân tộc.
Trong thắng lợi của những nước tư sản ở Đông Nam Á, xét cho cùng, có phần thỏa hiệp của chính các nước thực dân nhằm ngăn chặn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cũng phải kể đến một thực tế là sức ép của Mỹ. Mỹ lợi dụng sự suy yếu của các đế quốc mà mở rộng ảnh hưởng; các đế quốc muốn duy trì sự có mặt của mình ở các thuộc địa cũ đều phải dựa vào Mỹ. Nơi đấu tranh gay gắt nhất, đồng thời cũng có những tiền đề phát triển cách mạng tốt nhất là Indonésia, nhưng sai lầm của đảng Cộng sản - chính xác hơn là sai lầm của quan điểm Mao Trạch Đông - đã dẫn đến một kết quả cực kỳ đau đớn. Tác động xấu của sự kiện Indonesia len lỏi tận các vùng heo hút của Malaysia, nơi mà thực tế cấu tạo dân số rất phức tạp đã phản ánh vào nội bộ đảng Cộng sản: Chủ tịch đảng là một người Mã Lai, Phó chủ tịch là người Ấn và Tổng bí thư – Trần Bình - một người Hoa chính cống. Có thể diễn đại tình hình Malaysia như thế này: chiến sĩ du kích phần lớn là phu cao su người bản xứ cộng với một ít công nhân nông nghiệp người Ấn, vài người Thái, còn đảng viên lãnh đạo, kể cả Trung ương nằm trong tay người Hoa. Khi Luân đến Malaysia, ấp chiến lược đã trở thành đơn vị hành chính khắp lãnh thổ, vùng du kích thu hẹp và xê dịch dần lên phía bắc, giáp với biên giới Thái Lan. Nguy cơ tan rã của du kích Malaysia lớn đến nỗi nhà cầm quyền Malaysia giới thiệu với Luân hàng loạt cán bộ cấp cao của quân du kích lần lượt đầu thú và đang hợp tác với cơ quan an ninh. Chua xót và tự hào - Luân và Dung sống mấy ngày ở Malaysia trong tâm trạng mâu thuẫn đó. Chua xót vì thất bại trước mắt và triển vọng khá mờ mịt của bạn. Tự hào vì Nam Việt Nam không có một chút gì giống các nước này. Kinh nghiệm chống Cộng của các nước này nhất định bị Việt Nam vô hiệu hóa.
Theo chương trình, Luân và Dung ở Malaysia 2 tuần. Nhưng, đến ngày thứ năm thì Luân nhận được điện khẩn của Nhu gọi Luân về Sài Gòn bằng một chuyến máy bay quân sự Mỹ...
*
Báo cáo Mật.
Nơi nhận: Ông cố vấn Ngô Đình Nhu.
Chúng tôi biết chắc, từ Luân Đôn, đại tá Nguyễn Thành Luân đã điện đàm dài 15 phút với người anh ruột của đại tá là Jean Nguyễn Thành Luân, đại sứ của Bắc Việt tại Đông Đức. Nội dung cuộc điện đàm chưa rõ. Kính trình ông cố vấn tường.
Mai Hữu Xuân.
Báo cáo Mật
Nơi gửi: Phân cục tình báo Paris.
Nơi nhận: Giám đốc Trung tâm tình báo Mỹ, Washington.
Đồng gửi: Phân cục tình báo Sài Gòn.
Ngày 25-2, vào 19 giờ 6 phút, từ điện thoại đặt tại ngôi nhà số 27 Red Square 411, London, đại tá Nguyễn Thành Luân nói chuyện với đại sứ quán Cộng sản Bắc Việt ở Đông Berlin sau nửa giờ hẹn với trung tâm bưu điện. Người hẹn là Marguerite Nguyễn Thành Luân, giáo sư London Music Center, chủ hộ. Người tiếp nhận điện là Jean Nguyễn Thành Luân, luật sư, đại sứ Bắc Việt. Đã ghi âm được cuộc nói chuyện. Toàn bộ như sau...
Trong cuộc điện đàm, xin được phép lưu ý các vị về những câu: “giá mà em được gặp anh” của đại tá, “anh rất muốn gặp chú” của Jean, “em trung lập” của Marguerite... Có thể hiểu như qui ước về một cuộc hẹn nào đó. Tất nhiên cần phải phối kiểm và đối chiếu với nhiều sự kiện khác mới đi đến những kết luận chính xác. Một tràng những sự kiện đó là đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện từ Sài Gòn bay thẳng sang London gặp đại tá Luân.
Điện khẩn
Nơi gửi: Đại sứ quán Mỹ, Kuala Lumpua
Nơi nhận: Đại sứ quán Mỹ, Sài Gòn.
Độ mật: Tuyệt mật.
Đại tá Nguyễn Thành Luân đột ngột rời Malaysia mà lý ra ông ta phải ở thêm gần mười ngày nữa. Yêu cầu theo dõi và xác minh lý do.
---
(1) Người đối thoại
(2) Đối thủ - đối thủ
(3) Thẳng thắn, sòng phẳng
(4) Ông hoàng “bốc”.
(5) “Point Quatre” Plan Truman: tháng 1-1949, tổng thống Mỹ Truman công bố bổ sung chương trình Marshall một điểm (điểm 4): Mỹ sẽ giúp đỡ tài chính và kỹ thuật cho các quốc gia chậm tiến, nhằm mở rộng ảnh hưởng Mỹ.
(6) Nhà thiên văn và bác sĩ (1503-1566), tên thật là Michel De Nostre-Dame, tác giả các quyển sách tiên tri.
(7) Đất thánh của đạo Hồi.
(8) ám chỉ Ngô đình Diệm, do đọc trại “Ngô tổng thống” mà ra
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #22  
Old 12-08-2012, 12:04 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 3

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 3


Vừa đặt chân xuống sân bay Tân Sơn Nhứt, Luân và Dung cảm giác liền cái không khí ngột ngạt của thủ đô. Những người ra đón vợ chồng Luân, tuy cái bắt tay đầu tiên rất chặt theo phép lịch sự nhưng đôi mắt thì đầy lo âu. Có lẽ trừ James Casey, hắn ta quan tâm về hướng khác và một sĩ quan không quân Việt Nam, trung tá Nguyễn Cao Kỳ. Trong vòng non 2 năm, Kỳ được thăng hai cấp và lần này y thêm một bộ râu mép khá dầy.
Trong khi chào và bắt tay Luân, đôi mắt một mí của y loé lên ánh sáng kiêu ngạo và y không cần phải cố ngoi để cho mọi người trông thấy y như trước đây. Đại tá Đặng Văn Quang lặng lẽ bước cạnh Luân còn Trần Trung Dung thì nói khẽ vào tai Luân: Tình hình gay go lắm, anh vào ngay dinh Gia Long gặp ông cố vấn.
Tại phòng đợi sân bay, số phóng viên báo chí nước ngoài, tốp rời Việt Nam và tốp mới đến đang làm thủ tục dưới sự dòm ngó đầy ác cảm của quân cảnh và cảnh sát.
- Nhiều mật vụ! - Dung bảo Luân. Anh cũng đã thấy những người mặt thường phục trà trộn trong hành khách.
Xe đưa vợ chồng Luân vào trung tâm thành phố bị nghẽn khá lâu sau khi vượt cầu Công Lý. Người bảo vệ cho biết từ một tuần nay, thành phố náo động liên tục vì các cuộc cầu siêu cho nạn nhân Huế - ngoài các buổi lễ tại tất cả các chùa, tăng ni và tín đồ còn rước bài vị, thành từng đoàn, có đoàn đông đến mấy nghìn người, kéo qua các phố, vừa đi vừa niệm Phật. Hôm nay Nha cảnh sát đô thành được đặt trong tình trạng báo động 100% để đối phó với các lễ cầu siêu lớn nhất ở Đô thành từ sau vụ Huế. Lễ cầu siêu bắt đầu ở chùa Ấn Quang, đường Sư Vạn Hạnh - Minh Mạng - Trần Quốc Toản - Phan Thanh Giản - Bà Huyện Thanh Quan. Tổ chức Phật giáo đã chính thức thông báo - thông báo chứ không phải xin phép - với Nha cảnh sát về chương trình và lộ trình nói trên. Tổng nha ra lệnh cô lập các khu vực, tuyệt đối cấm mọi hình thức ngăn cản lễ cầu siêu và cuộc diễu hành. Xe của Luân dừng trước một ngôi chùa nhỏ. Tăng ni và Phật tử choáng hết đám đất trống quanh chùa, tràn luôn mặt đường. Các nhà sư đã gắn một hệ phóng thanh khá mạnh và Luân nghe rõ từng lời, có lẽ của bài điếu văn. Đúng vậy, kết thúc bài điếu văn, người xướng đọc nói rõ: Chư vị vừa nghe ai điếu của hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Lần đầu, Luân và Dung nghe danh từ mới: “Mùa pháp nạn”.
Luân trao đổi với Dung bằng mắt. Rõ ràng một cái gì hết sức nguy kịch đối với cơn bệnh trầm kha của chế độ Ngô Đình Diệm. Từ sự việc ở Huế ngày 8-5 đến hôm nay, 21-5, vừa vặn 2 tuần lễ, trung tâm phản kháng đã chuyển một nghìn cây số vào nơi nhạy cảm nhất của Việt Nam Cộng hòa. Nhà cầm quyền đã thất bại - một thất bại chiến lược - khi không thể cô lập hóa sự kiện Huế như là một hiện tượng địa phương. Không dập tắt nổi phong trào phản kháng mang danh nghĩa Phật giáo ở một thành phố nhỏ là Huế, ở một tỉnh lẻ loi ngăn cách là Thừa Thiên thì họ không có tài phép gì triệt tiêu mũi nhọn tiến công trong bộ cà sa và với tiếng niệm Phật.
Tình cảnh Việt Nam Cộng hòa giống như các dự báo thời tiết của Nha khí tượng: Một cơn bão đã hình thành ngoài khơi biển Đông, với các cấp gió bao nhiêu đó, đang di chuyển mỗi giờ bao nhiêu cây số đó… Trong lịch sử nền Đệ nhất Cộng hòa, chắc chắn rằng đây là cơn bão lớn nhất và cũng có thể tốc độ di chuyển nhanh nhất - biết cơn bão song không sao ngăn chặn nổi.
Cuối cùng, xe của Luân phải theo đường Yên Đỗ, ra Hai Bà Trưng, lại theo đường Trần Quang Khải vòng tận Đakao để về nhà. Khắp các giao điểm, cảnh sát và cảnh sát dã chiến đằng đằng sát khí, còn các đám đông tuy lặng lẽ song cứ nhìn gương mặt của họ thì đã cho thể hiểu trận đụng độ nẩy lửa sẽ bùng dậy trong khoảnh khắc.
Người thông báo cho vợ chồng Luân những tin tức chi tiết, cụ thể là chị Sáu nấu bếp. Mừng rỡ chào hỏi vợ chồng Luân xong, chị Sáu bắt đầu tuôn ra bao nhiêu là chuyện quanh các chùa. Luân biết chị Sáu hiền lành, ít nói, thật ra không hẳn là tín đồ đạo Phật theo cái nghĩa chặt chẽ. Chị tin trời Phật thánh thần, mỗi tháng hai lần rằm và mồng một mang đến một ngôi chùa nào thuận đường hơn hết mấy ốp nhang, vài nải chuối. Chị không thuộc một câu kinh Phật nào bởi tiếng Phạn rất khó nhớ, ngoài ba chữ: Nam mô Phật. Chị Sáu đứng hẳn về phía nhà chùa, khi nhắc đến vụ Huế thì nước mắt rưng rưng. Qua chị Sáu, Luân chiêm nghiệm nhiều điều: Lý do tôn giáo trong cuộc tranh chấp gây cấn hiện nay chỉ là cái cớ - nhiều thế lực dựa vào chính sách kỳ thị tôn giáo của chính phủ Diệm để khuấy động; đông đảo dân chúng nhân vụ Phật giáo và biểu lộ nỗi bất bình sâu xa của mình đối với chế độ, nỗi bất bình ngấm ngầm với đủ nguyên cớ chỉ chờ dịp là bộc phát.
Luân và Dung vào dinh Gia Long theo điện gọi của Nhu. Nhu mệt mỏi bắt tay hai người và khi Dung đi gặp Trần Lệ Xuân thì Nhu hỏi liền:
- Sao? Hồi âm favorable (1)?
Luân hiểu Nhu muốn nói đến mối liên lạc với Jean.
- Chỉ mới ở dạng bắn tín hiệu. Tôi bắn và bên kia trả lời ở mức nhận được tín hiệu. Thế thôi.
Nghe Luân trả lời, Nhu thở dài, nói như tự hỏi:
- Muộn quá rồi chăng?
Tất nhiên, đã quá muộn. Luân từng nhắc nhiều lần ý kiến của anh với Nhu: không thể xem việc thương lượng với “phía bên kia” như là một thủ thuật làm nũng với Mỹ. Không thể nào có chuyện “phía bên kia” lại chịu bảo trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Vấn đề phải là thương lượng thành thật. Ngay bây giờ, ngồi trên những ngọn dao, Nhu vẫn mơ màng cái mưu mẹo của anh ta cứu vãn nổi cơ đồ sụp đổ. Hơn một năm vắng mặt ở Sài Gòn, nay trở về, nhìn qua cửa sổ, Luân thấy dinh Độc Lập đang quét lớp vôi cuối cùng. Thời gian xây dựng một cơ ngơi như vậy phải nói là nhanh. Điều đáng tiếc đối với anh em Diệm - Nhu là khi họ hoàn thành nơi phô trương quyền uy của chế độ thì chế độ đã không còn quyền uy phô trương.
- Ta đang gặp những đối thủ lợi hại. Chúng tấn công ta theo một kế hoạch vạch trước. - Nhu bắt đầu phân tích hiện tình của Nam Việt - Tôi đoán trước ý đồ của chúng chuyển địa bàn từ Huế vào Sài Gòn. Tiếc là Nguyễn Văn Y đã không bóp chết từ trong trứng ý đồ của chúng, Nguyễn Văn Y, Trần Kim Tuyến đều không phải là đối thủ của các tay thầy chùa đầy tham vọng trần tục, rất quỷ quyệt và có học thức. Lễ cầu siêu là cái gì? Xin lỗi anh Luân, các nhà sư đang dùng phương pháp của Cộng sản. Cầu siêu cho những người tử nạn ở Huế, hiền lành và hợp đạo lý biết bao nhiêu, nhưng cũng thâm độc biết bao nhiêu. Mỗi một cuộc tập họp, mỗi một câu kinh cầu nguyện đều dấy lên trong lòng những người theo đạo Phật sự bực tức… Chúng đang chơi cái trò nhen nhúm lửa…
Luân thấy tội nghiệp cho Nhu. Anh ta không phải không hiểu chế độ đang dấn vào chỗ mỗi lúc mỗi tối mịt, nhưng lại hoàn toàn không hiểu nguồn gốc sâu xa của nguy cơ đó, nhìn sự phản kháng của những người theo đạo Phật cách biệt với bối cảnh chung.
- Tại sao Tổng thống lại ra lệnh bỏ cờ Phật trong lễ Phật đản ở Huế? - Luân hỏi.
- Anh biết rõ quá mà! Tôi can nhưng Tổng thống không nghe. Người đáng trách hơn hết là Đức Cha, chị Cả Lễ và chú Cẩn. Tất cả đều không hiểu vị trí, thế lực của đạo Phật. Cộng vào đó, tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đăng và phó tỉnh trưởng Đặng Sỹ hành động như những tên ngu ngốc.
- Tôi e rằng lý giải của anh có phần đơn giản. Những cái anh nói chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước. Tôi cũng không tin cả Đăng lẫn Sỹ, quá nhiệt thành nên thô bạo. Làm sao có thể loại trừ khả năng Đăng và Sỹ thực hiện một ý định của anh đó. Bây giờ, kể cả chúng ta lập tòa án khẩn cấp và xử bắn tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng Thừa Thiên cũng không giải tỏa nổi cái không khí hết sức căng thẳng khắp cả nước…
- Đại sứ Nolting vẫn nhắc lời cam kết của nước Mỹ. - Nhu nói bằng một giọng mất hết tự tin.
- Nếu chính phủ Mỹ thay Nolting? - Câu hỏi của Luân đè nặng hơn mái đầu bạc khá nhanh của Nhu.
- Đã có tin Cabot Lodge sắp thay Nolting. - Giọng Nhu như thều thào.
- Kennedy chăm sóc chúng ta kỹ quá! Ông ta cử sang Việt Nam cỡ lãnh tụ đảng Cộng hòa, ứng cử viên Tổng thống của nước Mỹ để làm đại sứ. Anh có thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề không?
Nhu không trả lời, đầu càng cúi thấp hơn, khẽ bảo:
- Chiều nay anh đến chào Tổng thống, dùng cơm với gia đình, sau đó tôi và anh trao đổi tiếp.
- Tôi xin phép anh đến ra mắt trung tướng Dương Văn Minh, bây giờ là người chỉ huy trực tiếp tôi, nếu anh vẫn chưa định giao tôi công việc khác.
- Được! Anh cũng nên chú ý xem nhận định của tướng Dương Văn Minh về tình hình Phật giáo như thế nào. Ông ta là một tín đồ sùng đạo Phật… Đáng lẽ tôi phải thông báo cho anh nhiều hơn, nhưng tôi quá mệt. Văn phòng sẽ cung cấp các tài liệu cho anh. Cũng lẽ ra anh vừa về nước, nên nghỉ ngơi nhưng công việc lại đòi anh phải giúp một tay. Tôi hy vọng đâu rồi sẽ vào đó…
Nhu ngồi im trên ghế, rít thuốc. Luân vào phòng trong chào Lệ Xuân. Lệ Xuân đang ngồi nói chuyện với Dung, mặt hầm hầm:
- Chào anh Luân mới về! - Mụ chìa tay bắt tay Luân khá lỏng lẻo - Tôi đang nói với cô Thùy Dung về Tổng nha cảnh sát. Cô Dung phải bảo với ông Y rằng không có cầu siêu, không có tụng niệm gì hết. Giải tán, đóng cửa chùa… Với mấy thằng trọc mà mềm yếu thì có ngày chết với chúng.
Lệ Xuân vụt đứng lên, nện mạnh đế giày, đi lại, quên mời Luân ngồi. Luân tự tìm chỗ ngồi.
- Bọn nó còn làm trò gì nữa? Tổng thống muốn nhượng bộ, nhà tôi cứ than: khó lắm, khó lắm… - Lệ Xuân nhại giọng chồng, bĩu môi: - Không khó! Tôi bảo phải thẳng tay. Lúc này mà không thẳng tay thì hối hận về sau. Đại sứ Mỹ cũng cùng ý kiến với tôi. Bên ngoài, Việt Cộng đánh, bên trong Phật giáo phá, không phải giữa Phật giáo với Việt Cộng thông đồng với nhau là gì? Tôi bảo phải chuyển vụ lộn xộn ở Huế, các vụ cầu siêu ở Sài Gòn, ở các tỉnh ra các vụ chính trị. Tại sao không lục soát các chùa kiếm cán bộ Việt Cộng nằm vùng, thậm chí chính các thầy chùa cỡ bự đích thân là Việt Cộng, kiếm truyền đơn, máy in, cờ, súng, lựu đạn… Không ít đâu! Ông Y trình là không có các thứ ấy!
Mắt Lệ Xuân long sòng sọc - đôi mắt ngày thường khá đẹp, rất tình tứ.
- Không có cũng phải làm ra cho có! Cô Thùy Dung hiểu ý tôi rồi chứ?
Lệ Xuân ngồi phịch xuống ghế, ôm ngực:
- Mệt chao ôi là mệt… Lại còn ra lệnh bắt Đặng Sỹ! Giá như cả nước có được vài nghìn Đặng Sỹ… Tôi bảo: Không ai được động đến sợi lông chân của Đặng Sỹ. Tôi bảo: thăng Đặng Sỹ lên đại tá!
Chuông điện thoại reo. Lệ Xuân nhấc máy.
- Helo! Yes, Lệ Xuân here…(2)
Luân và Dung khẽ chào Lệ Xuân, mụ ra hiệu cho phép hai người rời khỏi phòng… Lệ Xuân tiếp tục nói, giọng nũng nịu nhưng vẻ mặt thì thật đanh đá.
- Bà ta nổi điên rồi! - Luân bảo Dung
- Nolting gọi bà ta. Tay đại sứ Mỹ này chơi cái trò “củ cà rốt” tới cùng. - Dung nhận xét.
Hai người sang phòng làm việc của Diệm. Ông vồn vã ôm Luân, vỗ vào vai Dung, ân cần kéo hai người ngồi. Trông ông phờ phạc hẳn.
- Sao, hai cháu học hành thế nào?
Biết là ông hỏi lấy lệ, Luân cũng trả lời lấy lệ.
- Cháu Luân nghe chính giới Mỹ nhận xét về tình hình ở nước ta như thế nào? Họ về hùa với tụi xấu, phải không? - Câu này, Diệm hỏi và chăm chú chờ Luân trả lời.
- Thưa Tổng thống, cháu rời đất nước Mỹ trước khi xảy ra vụ Phật giáo ở Huế cho nên dư luận cụ thể xung quanh vụ này của chính giới Mỹ cháu chưa được biết rõ…
- Tôi muốn hỏi những ý kiến chung hơn. Phật giáo chẳng qua là việc nhỏ, rồi chính phủ sẽ thu xếp ổn thỏa thôi. Vài phần tử quá khích, bất mãn gây kích động, ta vạch mặt được chúng thì nhân tâm hết xao xuyến…
- Thưa Tổng thống, trong thời gian ở Mỹ, cháu cũng như nhà cháu bận nghiên cứu trong Học viện thỉnh thoảng mới gặp vài nhân vật Mỹ. Có thể chia các nhân vật mà cháu tiếp xúc làm mấy loại. Phó tổng thống Mỹ Johnson, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mac Namara trong vài lần gặp cháu, quan tâm đến tình hình chính trị ở nước ta, có cái họ không ưng ý, nhưng đều ca ngợi Tổng thống…
- Cháu gặp hai ông đó mấy lần?
- Thưa, Phó tổng thống Mỹ nhân chuyến đi thị sát vùng Carolina - Bắc, gọi cháu đến dinh Thống đốc của bang trong một buổi ăn sáng. Thời gian nói chuyện độ 45 phút… Còn Bộ trưởng quốc phòng Mỹ thì cháu gặp ba lần, cả ba lần đều tại đại sứ quán nước ta ở thủ đô Mỹ…
- Tôi nhớ rồi, đại sứ quán có báo cáo…
- Thưa, cả ba lần đều có đại sứ Trần Văn Chương dự, kể cả lần mới nhất trước khi cháu rời Mỹ. Tuy dài ngắn khác nhau, trong ba lần gặp gỡ, Bộ trưởng và cháu chủ yếu bàn về các vấn đề quân sự, nhất là vấn đề trang bị cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa… Một giới khác mà cháu gặp là đại biểu quốc hội Mỹ, các thượng nghị sĩ như Fulbright, Mac Govern, Goldwater, Wallace… Như Tổng thống đã rõ, thế lực của các thượng nghị sĩ này khá lớn, ảnh hưởng quan trọng đến chính sách của chính phủ Mỹ. Fulbright thường đắn đo về cục diện Đông Nam Á. Có lẽ ông chủ trương kềm chế trong một giới hạn nào đó sự ủng hộ của chính phủ Mỹ đối với ta mặc dù ông vẫn muốn nước Mỹ ngày phải mỗi đứng vững ở khu vực này. Mac Govern, trái lại, gần như theo thuyết “L’Amérique d’abord”(3) của các Tổng thống Mỹ vào đầu thế kỷ và có thể nói là ác cảm với chúng ta. Về một cực đối lập hẳn, Goldwater, Wallace mà dư luận Mỹ gọi là “diều hâu” cùng với nhiều nghị sĩ chung quan điểm, chủ trương Mỹ phải tăng viện tối đa cho chúng ta, không ngại mở rộng chiến tranh lên phía Bắc vĩ tuyến 17, thậm chí toàn Đông Dương… Goldwater chê ta không đủ kiên quyết trong đối nội…
- Đức Hồng y Spellman có nói với tôi về hai thượng nghị sĩ này và các đồng chí của hai ông. Tuy nhiên, hình như phái của ông ta thiểu số.
- Nếu tính tương quan trong Quốc hội hiện thời thì các ông chưa có tiếng nói quyết định, nhưng Ngũ giác đài có lẽ đứng sau lưng phái các ông… Còn giới báo chí, chắc Tổng thống đã rõ đang phân hoá. Nhưng những bài của Water Lippman vẫn có trọng lượng hơn…
- Cũng giống như những bài của con mụ Fanfani, nghe đâu bạn của cháu. - Diệm nghiêm mặt - Tôi đã bảo ông Phan Văn Tạo và ông Ngô Trọng Hiếu trục xuất mụ ta, nhưng không rõ vì sao đại sứ Nolting lại không bằng lòng… Nếu cháu có gặp mụ ta thì nên nói cho mụ biết: Mụ phải cẩn thận!
Dừng lại một chút, Diệm hỏi tiếp:
- Cháu có gặp Colby không?
- Thưa không!
- Chắc là ông ta không thích cháu. - Diệm quay sang Thùy Dung - Còn cháu?
- Thưa Tổng thống, việc gì ạ? - Dung trả lời nhỏ nhẹ như một đứa cháu dâu trước mặt bậc trưởng thượng khả kính trong gia đình. Thái độ của Thùy Dung khiến mặt Diệm dịu hẳn, có lẽ gần đây ông phải nghe những câu, những chuyện mà ông cho là xúc phạm đến vai vế cần phải được tuyệt đối tôn trọng của ông.
- À, tôi hỏi hơi thừa. Colby không gặp cháu đâu. Nói chung, ông ta không thích những người trong gia đình chúng ta.
- Thưa Tổng thống, cháu có gặp những người chỉ huy cơ quan FBI (4) để trao đổi kinh nghiệm về nghề nghiệp.
- Ừ, tốt lắm… - Diệm đột ngột hỏi Luân: - Cabot Lodge là người thế nào?
- Thưa Tổng thống, một chính khách có cỡ của Mỹ. Cháu chưa gặp ông ta lần nào nên chưa thể có ý kiến trình lên Tổng thống.
Câu chuyện đến đó thì bị cắt ngang. Đổng lý văn phòng Phủ tổng thống sau tiếng gõ cửa nhè nhẹ, bước vào:
- Trình Tổng thống, linh mục Hoàng, như đã hẹn, xin được Tổng thống tiếp.
Diệm ngần ngừ giây lát, rồi bảo:
- Ông mời vào.
Luân và Dung đứng lên toan rút lui.
- Hai cháu cứ ngồi có thể hiểu biết thêm tình hình vì hai cháu xa đất nước cũng hơi lâu.
Viên Đổng lý văn phòng gập người chào Diệm, thụt lui mãi tận cửa, bấy giờ mới gật đầu chào vợ chồng Luân và mới dám quay lưng. “Bên ngoài đang thay đổi vùn vụt nhưng ông Diệm vẫn cố giữ cái nghi vệ hình thức. Chắc chắn đó là một trong những sức đẩy triều đại của ông ta lao nhanh xuống vực” - Luân thầm nghĩ.
Cửa mở, linh mục Hoàng hấp tấp bước vào. Ngô Đình Diệm đứng lên:
- Xin chào Cha! Mời Cha ngồi.
Linh mục Hoàng khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế bành và Diệm rời bàn viết đến ngồi cạnh ông. Linh mục Hoàng chỉ khẽ gật đầu đáp lễ khi Luân và Dung đứng lên chào ông.
- Về nước bao giờ đấy? - Linh mục hỏi, hách dịch - Tôi quên tên anh và cô bé này.
Luân chỉ mỉm cười.
- Coi thư của Cha, con muốn Cha nói rõ hơn. Còn hai cháu đây là người nhà. - Diệm ôn tồn nói với linh mục Hoàng.
- Ý của tôi tóm tắt như thế này: Một, tiếp tục phong tỏa chùa Từ Đàm ở Huế cho đến khi nào bọn chúng chịu đói không nổi, phải bò ra xin cơm thì ta mới tha tội. Hai, phong tỏa tất cả các chùa ở đô thành và các tỉnh nếu có các cuộc tập họp, Tổng thống quên rằng Quốc hội đã ủy quyền cho Tổng thống ban bố tình trạng khẩn trương trong cả nước hay sao? Ra liền một sắc lệnh giới nghiêm từng khu vực… Ba, tống xuất tất cả bọn nhà báo nước ngoài, đóng cửa các tờ báo trong nước đưa tin và ủng hộ Phật giáo. Bốn, cho phép tôi thành lập ngay một mặt trận cứu nguy đất nước, tổ chức những cuộc biểu dương lực lượng lớn, tràn ngập thành phố. Chúng nó muốn “so găng” thì chúng ta cho chúng nó biết: Trên võ đài, hạng “ruồi”, hạng “giấy” không thể nào địch nổi với hạng “nặng”. Tổng thống nên nhớ, lực lượng quy tụ chung quanh tôi không chỉ “nặng” mà còn “siêu nặng”! Tôi cam đoan trong vọng một tuần lễ sẽ dẹp đám giặc chòm này.
Linh mục Hoàng nói rất hùng hồn, Diệm lặng lẽ nghe, đôi lúc kín đáo nhếch mép cười… Dung và Luân ngồi yên. “Ông ta vừa nhớ thời vàng son tổng chỉ huy dân binh ở đồng bằng Bắc Việt, thay cho các câu giảng đạo bằng các tràng liên thanh, vừa có vẻ một bốcxơ quá tự tin ở độ nặng của thân xác mình. Vào năm này mà ông ta đòi “so găng” với Phật giáo thì thật quái lạ”. Luân theo dõi cuộc nói chuyện qua đó, anh thấy cái viễn tưởng hỗn độn của chế độ Diệm.
- Chúng nói không dấy lên chuyện treo cờ treo quạt thì chúng ta cũng phải ra tay, huống chi chính chúng nó eo sèo. Cơ hội quá tốt để dẹp bớt chùa chiền sư vãi. Tổng thống có biết từ năm 1954 tới nay trong vòng 9 năm, ở Việt Nam Cộng hòa xây mới và sửa chữa bao nhiêu chùa không? 4.766 cái, trong đó có 1275 cái mới tinh! Tổng thống có biết hiện giờ cả nước có bao nhiêu sư vãi không? Gần hai trăm nghìn. Thế mà chính phủ cứ trơ mắt ra nhìn. Hẳn Tổng thống từng nghe chuyện sư hổ mang? Tôi có đọc một chuyện nói về Nguyễn Kim Muôn ở Gia Định hồi thời Pháp. Sư mà ăn thịt chó, sư mà có hàng chục vợ…
Càng nói, linh mục Hoàng càng hăng. Luân cố kềm để khỏi bật cười. Ông ta quên phức những chuyện của chính ông ta, lại xứ đạo Bình An - có lẽ còn cao hơn sư Muôn nhiều lần.
Linh mục Hoàng mở chiếc cặp, rút ra một tập sách in ronéo.
- Tôi công bằng lắm! Trị bọn thầy chùa đồng thời cũng phải trị nội bộ giới linh mục tu sĩ chúng ta. Ai cho phép bọn này phổ biến những tài liệu chống đối đạo quá nguy hiểm như thế!
Diệm liếc qua tựa tập sách, im lặng. Luân cầm tập sách lên. Đó là các tài liệu trù bị của Công đồng Vatican 2, sẽ do Giáo hoàng Jean XXIII chủ trì, gồm 2.500 Hồng y và Giám mục của 85 nước.
Giới báo chí quốc tế gọi Công đồng Vatican 2 là “bước ngoặc của giáo hội Thiên chúa trong kỷ nguyên con người lên vũ trụ”. Tập sách chỉ in mấy phần liên quan đến lễ khai mạc ngày 11-11-1962 và chương trình mà đại hội sẽ bàn bạc. Tập sách do một số linh mục thuộc giáo phận Sài Gòn xuất bản.
- Cấm lưu hành những thứ tà thuyết này! - Linh mục Hoàng gầm gừ.
- Nhưng, đây là Công đồng do Giáo chủ triệu tập! - Diệm can thiệp, rõ ràng Tổng thống không bằng lòng để cho vị linh mục vượt quá giới hạn, va chạm đến đấng chủ chăn của đạo Thiên chúa.
Linh mục Hoàng vẫn tỉnh bơ:
- Tôi đã trực tiếp phản đối Đức giám mục Nguyễn Văn Bình về thông cáo của Tòa giám mục nhắc giáo dân treo cờ tòa thánh trong nhà thờ. Tại sao vậy? Tại sao phải nhượng bộ? Tôi nghĩ là Tổng thống nên có ý kiến với Đức giám mục. Chúng ta không sợ một cuộc thánh chiến! Còn Công đồng Vatican 2… hừ!
Linh mục Hoàng nhún vai.
- Thưa Cha, chính phủ và cá nhân con sẽ cứu xét các ý kiến của Cha. Tuy nhiên, mong Cha hiểu cho hoàn cảnh tế nhị hiện thời của chính phủ - Diệm nói rất khiêm nhường.
- Bào đệ của Tổng thống từng lăng nhục tôi. - Linh mục Hoàng mím môi - Tới những lúc như thế này thì các người mới sáng mắt ra nên dựa vào ai…
Nói xong, linh mục Hoàng đứng phắt dậy chào Diệm, xách cặp ra khỏi phòng, không thèm ngó đến Luân và Dung.
- Khó khăn quá! - Diệm than thở - Cháu đọc cái này!
Diệm lại bàn viết, lấy hai tờ giấy đánh máy trao cho Luân. Đó là hai điện mật.
Bức điện thứ nhất:
“Bộ trưởng Bộ ngoại giao Mỹ vừa mời tôi đến Bộ ngoại giao, chính thức cho biết Tổng thống Mỹ theo dõi với tất cả lo lắng sự kiện Huế và hy vọng chính phủ Việt Nam dàn xếp êm đẹp các tranh chấp kiểu đó để tập trung sức cho công cuộc chống Cộng. Tuy không có công hàm, tôi cho rằng đó là một lời phản kháng cần lưu ý. Ký tên: Trần Văn Chương Washington, 18-5-1963”.
Bức điện thứ hai:
“Giới ngoại giao ở Liên hiệp quốc, qua các tin báo chí đang xôn xao về vụ Phật giáo Huế. Những người từ trước vẫn có thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa cũng đòi được giải thích. Đề nghị ở nhà cung cấp ngay một tài liệu, dưới dạng thơ luân lưu càng hay, để đại diện của ta phân phát cho các đại biểu và giành chủ động đối với các đại biểu Cộng sản và thân Cộng. Ký tên: Bà Trần Văn Chương, New York, 17-5-1963”.
Luân mang hai bức điện đặt lên bàn của Diệm.
- Khó khăn quá! - Diệm nhắc lại - Chú Cẩn lại không đồng ý tống giam Đặng Sỹ…
Luân, lần đầu, thấy sự thống nhất giữa Cẩn và Lệ Xuân, sự thống nhất chung quanh bảo vệ một kẻ giết người!
- Thằng đó dại dột quá! - Diệm tặc lưỡi.
Luân hiểu Đặng Sỹ - anh nhớ lần ra Huế dự lễ thượng thọ vợ Ngô Đình Khả, chính Đặng Sỹ đón và đưa anh từ Phú Bài về nhà. Trên xe, Đặng Sỹ đã nói nhiều lời về đạo Phật, về các ngôi chùa. Anh ta dại dột thật, nhưng dại dột có chủ đích…
- Hai cháu nhớ gọi điện cho Đức Cha… Ngài nhắc hai cháu luôn! - Diệm dặn vợ chồng Luân. Hai người kiếu từ Tổng thống. Diệm tiếp tục ngồi trên chiếc ghế bành. Văn phòng quá rộng và Diệm trở nên trơ trọi…
Luân và Dung về đến nhà thì chị Sáu, trong lúc dọn dẹp cơm, đưa cho hai người xem một thông tư in ronéo đóng mộc mang tên Tổng trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Việt Nam. Tờ thông tư nói rõ: vì một lý do riêng, lễ cầu siêu các Phật tử tử vì đạo ở Huế phải hoãn, không chùa nào được hành động trước khi có lệnh mới.
Đọc qua tờ thông tư, Luân thấy ngờ ngợ. Hai vợ chồng ngồi vào bàn - bữa cơm đầu tiên trên quê nhà mà chị Sáu sửa soạn thật kỹ - Luân vẫn không rời tờ thông tư.
- Người ta nói tờ thông tư này là giả! - chị Sáu vừa bày thức ăn vừa nói.
- Ai nói? - Luân hỏi.
- Thầy Quảng Liên nói ở chùa Xá Lợi…
- Chắc là “sáng kiến” của ông Tạo, ông Hiếu… - Luân bảo Dung - Họ chống đỡ và chống đỡ bằng tiểu xảo…
- Cũng có thể một rạn nứt ngay trong Phật giáo, vào lúc bắt đầu.
- Có lý! Để xem… - Luân đồng tình với vợ.
Buổi chiều, Luân đến dinh Gia Long chào trung tướng Dương Văn Minh, cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống.
Luân và trung tướng biết nhau khá lâu nhưng chưa bao giờ hai người nói chuyện riêng.
Vào đến giữa phòng làm việc - Dương Văn Minh đang ngồi sau bàn viết, xem một hồ sơ hay báo cáo gì đó - Luân chập gót chân, đưa tay lên vành kêpi:
- Trình trung tướng, tôi, đại tá Nguyễn Thành Luân có mặt!
Trung tướng Minh đứng lên hơi vội vàng.
- Chào đại tá! - Ông bắt tay Luân - Ngồi! Ngồi!
Ông mời Luân và chọn chiếc ghế đối diện.
- Tại sao đại tá không nghỉ ngơi vài hôm? Nghe tin đại tá muốn gặp tôi, tôi đã dặn anh em văn phòng cứ để đại tá thong thả… - Minh nói ôn tồn.
- Đã gặp ông cụ với ông cố vấn rồi hả? - Minh hỏi.
- Thưa, đã gặp…
- Bà đại tá khoẻ không?
- Cám ơn trung tướng, nhà tôi bình thường.
- Khóa nghiên cứu kết quả không?
- Thưa, cũng thêm được nhiều hiểu biết mới.
- Đại tá Quang đã làm việc với đại tá chưa?
- Thưa, tôi gặp đại tá ngoài sân bay…
- À, tôi quên ông Quang đón đại tá…
Câu chuyện mở đầu theo lối “vấn đáp” cộc lốc như vậy. Luân thừa hiểu tướng Minh không ưa Luân, kẻ như con cháu nhà Tổng thống. Có thể nói ông đề phòng Luân. “Ông ta coi mình như một Cần Lao gộc, bộ hạ thân tín của Diệm. Hơn nữa, hạng “sớm đầu tối đánh”, vì mình từ chiến khu về. Trong hàng các tướng lĩnh của Diệm, Luân để ý đến Dương Văn Minh. Ông ta có phần nào tự phân biệt với các sĩ quan cao cấp khác ở cái mà đám bộ thuộc coi ông như một thứ Mạnh Thường Quân. Người ta thường nhắc đến ông về mặt nhân cách hơn là tài năng. Luân giao thiệp với tướng Minh đều đặn khi ông phụ trách Bộ tư lệnh hành quân và Luân tìm thấy ở ông còn sót lại những nét chất phác nhất định mà những đồng cấp của ông đánh mất từ lâu. Ông không mang tai tiếng về rượu, về gái nhất là về buôn lậu. Ông lại kém khoa ăn nói, phần nào hơi hệch hạc.
Ngồi trước mặt Luân là một trung tướng 47 tuổi, cắt tóc ngắn, thân hình vạm vỡ. Giá như đây không là cuộc yết kiến của một sĩ quan trong Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống với vị tướng cố vấn quân sự đặc biệt của Tổng thống mà là cuộc trao đổi về quần vợt thì chắc sẽ sôi nổi - tướng Minh vốn là một cây vợt có hạng trên sân C.S.S (5). Luân để ý đến tướng Minh còn vì một lý do khác: Hồ sơ của bác sỹ Trần Kim Tuyến chứa nhiều nghi vấn về mối quan hệ giữa tướng Minh với “phía bên kia”. Dĩ nhiên bác sĩ Tuyến có thói quen thổi phồng những mối liên hệ ấy: Kỳ thật, trong giòng họ của ông Minh có một số đi kháng chiến, kể cả đứa em ruột của ông nay là một sĩ quan Bắc Việt. Ngoài ra không còn cái gì khác. Rất dễ hiểu, con đường thăng quan tiến chức của tướng Minh khá chậm. Ông nổi tiếng trong chiến dịch Hoàng Diệu cuối năm 1955, truy kích tàn quân Bình Xuyên ở Rừng Sác sau khi Trịnh Minh Thế chết. Bấy giờ ông mang hàm đại tá và trợ lý cho ông là trung tá Nguyễn Khánh. Đầu năm 1956, Diệm sai ông bình định miền Tây với chiến dịch mang tên Nguyễn Huệ và ông đeo lon thiếu tướng, cũng vẫn do Nguyễn Khánh - hàm đại tá - trợ lý. Trong 4 tháng, chiến dịch kết thúc, ông được coi là người có công phủ dụ Năm Lửa và Ba Cụt về với Diệm. Tháng 8 năm đó, ông được bổ làm Tổng thư ký trường trực Bộ quốc phòng, kiêm chỉ huy Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn, kiêm luôn chỉ huy chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, kế tiếp chiến dịch Nguyễn Huệ và song song với chiến dịch Trương Tấn Bửu ở miền Đông do Mai Hữu Xuân chỉ huy. Trong quân đội, người ta chờ ông lên trung tướng. Tháng 12-1956, danh sách thăng chức được công bố. Trung tướng Lê Văn Tỵ thăng đại tướng, các thiếu tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Trần Văn Đôn, Trần Văn Minh - còn gọi là Minh nhỏ - thăng trung tướng, đại tá Thái Quang Hoàng thăng thiếu tướng. Không có tên Dương Văn Minh. Những người thông thạo thời cuộc cho rằng ông bị thất sủng, có thể vì ông không tán thành cách xử sự đối với tướng Hòa Hảo Ba Cụt: Ngô Đình Diệm cho Nguyễn Ngọc Thơ chiêu hàng Ba Cụt lần nữa; tin vào lời hứa hẹn Nguyễn Ngọc Thơ, Ba Cụt đến điểm hẹn: quân đội Diệm phục kích bắt sống Ba Cụt, kết án tử hình và hành quyết ông ta. Cũng có thể tướng Minh xuất thân từ trường võ bị Pháp, và không tỏ ra mặn mà lắm với việc nghiên cứu kiến thức quân sự Mỹ. Gần như ông ẩn cư trong Bộ quốc phòng - người thay chức Tổng thư ký của ông là bác sĩ Trần Quang Diệu, chẳng liên can gì đến nghề binh. Sau đó ông được thuyên chuyển về Bộ tổng tham mưu, đứng đầu Bộ tư lệnh hành quân một lúc. Gọi là chỉ huy trưởng Bộ tư lệnh hành quân nhưng trong tay chẳng có quân. Ông dùng thì giờ đọc sách, đánh banh và chơi phong lan. Cũng có dư luận cho rằng sở dĩ Diệm mời ông làm cố vấn quân sự đặc biệt là do vấn đề Phật giáo mỗi lúc mỗi quan trọng về mặt chính trị mà ông là một Phật tử.
- Thưa trung tướng, tôi vắng nhà hơi lâu, muốn được trung tướng cho một vài nhận định bao quát về tình hình quân sự trong nước. - Nguyễn Thành Luân lái câu chuyện sang phần nghề nghiệp.
Tướng Minh cười. Cái cười phô bày những điều ông không hài lòng:
- Tiếng là cố vấn quân sự cho Tổng thống, tôi được thông tin không đầy đủ. Bộ Tổng tham mưu báo cáo tin chiến sự về cho Phủ tổng thống, ông Nhu là người tiếp xúc với toàn bộ tin tức ấy, và tôi chỉ được trao cho những phần ít quan trọng hơn hết.
Tôi có thể không cần đọc những báo cáo đó mà nghe thông cáo chiến sự trên đài phát thanh, hai cái không khác nhau mấy. Mỗi ngày, tôi phải vào đấy vì không lẽ không vào. Tổng thống cũng ít hỏi ý kiến tôi. Đại tá Đặng Văn Quang còn bận rộn hơn tôi và khi đại tá về, chắc chắn trong nhóm sĩ quan kề cận Tổng thống, đại tá là người bận rộn nhất! Tôi nghĩ là ông Nhu đã cho đại tá biết những điều cần biết, những điều tôi không được quyền biết!
Luân rơi vào tình thế khó xử. Hẳn là tướng Minh đã nói rất thật.
- Thưa trung tướng, nếu quả cách làm việc ở Phủ tổng thống là như vậy, tôi cũng không bằng lòng. Một cố vấn quân sự của Tổng thống phải được giao trách nhiệm và chịu trách nhiệm về những vấn đề ảnh hưởng đến cục diện chung.
- Nghị định bổ tôi làm cố vấn ghi khá đầy đủ những trách nhiệm mà đại tá nhắc. Nhưng đó chỉ là một tờ nghị định. Còn tôi, một thứ cây kiểng…
- Thưa trung tướng, tôi sẽ đạo đạt lên Tổng thống và sẽ trao đổi với ông cố vấn Ngô Đình Nhu về việc này. Tôi chỉ mong trung tướng xem tôi là một sĩ quan cấp tá trong Tham mưu biệt bộ, một sĩ quan dưới quyền của trung tướng.
Tướng Minh lại cười, lần này thì chua chát hơn.
- Khó mà phân ranh giữa công và tư ở đây, hiện thời. Phải chi người ta rành rẽ trong việc phân ranh, tình hình đâu có loạn xạ. Tôi là một quân nhân, tôi thích mọi cái rõ ràng. Chính trị can thiệp vào quân sự. Chính trị và quân sự lại bị kinh tế can thiệp. Quốc gia và gia đình lộn xộn. Bây giờ tới phiên đạo này đạo kia chỏi nhau. Anh em chiến sĩ chịu đựng hy sinh mà cấp trên vùi đầu vào những tranh giành, những chia xẻ kỳ cục, thì làm sao chống Cộng nổi. Mỹ họ dòm ngó nước mình dữ lắm. Tôi sợ tới một lúc nào đó, đại tướng Tỵ, tôi, đại tá, thậm chí Tổng thống sẽ trở thành con rối trong tay họ… - Tướng Minh đang từ từ hé cái phần u uẩn bên trong của ông. Luân lặng lẽ nghe.
- Quân sĩ là để đánh giặc, súng đạn là để bắn giặc chứ không phải để hạ cờ đạo Phật, để bắn vào Phật tử…Xe tăng, đại tá nhớ cho, xe tăng - tướng Minh gằn giọng - lại cán người chỉ vì người đó muốn treo lá cờ đạo. Tôi không thể hiểu vì sao các ông lớn lại bận tâm lá cờ đạo Phật đến như vậy.
- Thưa trung tướng, tôi bắt đầu tìm hiểu các sự kiện ở Huế và cũng thắc mắc như trung tướng.
- Ông thắc mắc thật không? - Tướng Minh soi mói nhìn Luân và có lẽ, vẻ mặt trầm ngâm của Luân bảo đảm được cái thắc mắc thật sự của anh.
- Bây giờ chính đại tá phải trả lời cho tôi: Tổng thống và ông Ngô Đình Nhu muốn đi tới đâu? Ông hãy lấy tư cách là người của gia đình Tổng thống mà trả lời. Tôi muốn hỏi: Cần bao nhiêu nhà chùa bị bao vây nữa? Cần bao nhiêu Phật tử chết nữa? Nói thật, nếu tôi là Việt Cộng, tôi đánh rốc, chúng ta không có đất mà chôn. Tại sao Tổng thống lại biến những người hiền lành thành hung dữ? Giáo sư Fishell vừa hỏi tôi sáng nay câu đó mà tôi không trả lời được. - Tướng Minh ngưng nói, thở nặng nhọc.
“Thế là đã rõ!” - Luân suy nghĩ – “CIA đang chơi trò vừa nhen lửa vừa đổ dầu vừa gọi gió”.
- Đại tá biết giáo sư Fishell chứ?
- Thưa trung tướng, biết. Giáo sư là cố vấn cho các viện đại học của chúng ta. - Luân trả lời để thăm dò hiểu biết của tướng Minh về tên trùm CIA này.
- Phải rồi! Một học giả uyên bác, thấu đáo với các vấn đề Phương Đông. Ông ta quen Tổng thống từ thuở Tổng thống còn ở tu viện Maryland, tận tình đưa Tổng thống về nước, tận tình phò tá Tổng thống. Theo Fishell, đạo Phật ở Việt Nam có lịch sử dài lâu hơn đạo Thiên chúa. Đối với dân Việt Nam, đạo Phật không phải chỉ là một tín ngưỡng tôn giáo mà là một thói quen văn hóa. Ông ấy giới thiệu với tôi các sách nghiên cứu về đạo Phật. Phải nói là ông ấy giúp tôi rất nhiều. Chắc đại tá biết, tôi xuất thân từ tú tài đôi toán học, ít đọc các loại sách khác ngoài sách toán. Ông Fishell đã bổ túc cho tôi…
Tướng Minh không thể nghe được tiếng thở dài rất nhẹ của Luân. “Một con cá cắn câu và tay phù thủy Fishell đã thôi miên được viên tướng ngờ nghệch này. Fishell định dùng viên tướng này vào việc gì đây?”. Trong nhất thời, Luân chưa tìm ra đáp số.
- Thưa trung tướng, tôi nghĩ rằng Tổng thống muốn chống Cộng. - Luân trả lời chung chung.
- Tự nhiên là như vậy, không ai không thấy, nhưng tới ba bảy đường chống Cộng. Ông Nerhu, ông Unu, ông Phouma, ông Sihanouk không chống Cộng sao?
Qua câu nói, tướng Minh đã cho Luân một vài cơ sở đánh giá xu hướng chính trị, hoặc ít ra, mơ ước vừa manh nha của ông.
Luân từ giã tướng Minh đúng quân phong quân kỷ. Tướng Minh có vẻ hài lòng tiễn Luân ra khỏi phòng.
“Giữa tướng Minh và Mai Hữu Xuân có quan hệ gì không?”
Luân tiếc là chưa chủ ý tìm hiểu khía cạnh quan trọng đó trong cuộc trao đổi vừa rồi.
Bữa cơm chiều trong dinh Gia Long không được vui. Tuy gọi rằng đó là bữa cơm đón tiếp vợ chồng Luân nhưng câu chuyện lại xoáy quanh những sự kiện dồn dập xảy ra trong ngày. Đức Giám mục - vừa từ Huế bay vào - cho biết vòng vây chùa Từ Đàm vẫn thắt chặt nhưng Phật tử bên ngoài vẫn liều mạng xông vào tiếp tế. Các chùa khác ở Huế đều tiếp tục cầu siêu. Nhu cho biết ở đô thành, tất cả các chùa thuộc các môn phái khác nhau đều cầu siêu, trừ một nhóm thuộc phái Cổ Sơn Môn. Tình hình các tỉnh cũng tương tự. Những nhóm Cổ Sơn Môn, thường gọi là thầy cúng, không có ảnh hưởng trong giới Phật giáo.
Cuối bữa ăn, Nhu có báo ngày 15 Tổng thống sẽ gặp một phái đoàn Phật giáo.
- Gặp phái đoàn Phật giáo? - Trần Lệ Xuân không giấu nổi kinh dị.
- Phải gặp! Dư luận xôn xao lắm… - Nhu trả lời.
- Đã thế, tại sao anh không bắt Tổng thống đến chùa Xá Lợi hay chùa Ấn Quang dâng hương niệm Phật! - Trần Lệ Xuân xô ghế, rời bàn ăn, bỏ ra ngoài. Bữa cơm giải tán trong không khí nặng nề.
Về nhà, Luân đi lại suốt mấy tiếng đồng hồ ngoài hàng hiên. Anh tổng hợp các dữ kiện và cố gắng tìm xem mối liên hệ lục giác phát triển đến đâu: CIA - Phật giáo - Quân đội Sài Gòn - Phòng Nhì Pháp - các phe phái chống Diệm - phần tử yêu nước Phật tử.
*
Thông báo của Phủ Tổng thống:
Thứ tư 15-5-1963 từ 10 giờ 30 đến 13 giờ, tại dinh Gia Long, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã tiếp một phái đoàn Phật giáo gồm các vị:
Thượng tọa Thích Thiện Hòa, Trị sự trưởng Giáo hội tăng già toàn quốc.
Thượng tọa Thích Tâm Châu, Phó hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam.
Ông Mai Thọ Truyền, Hội trưởng Hội Phật học Nam Việt.
Đại đức Lâm Em, Phật giáo phái Théravada (người Việt gốc Miên)
Đại đức Phát Tri, Phó tăng thống Phật giáo nguyên thủy Việt Nam
Thượng tọa Thích Thiện Hoa, Phó trị sự trưởng Giáo hội Tăng già Nam Việt.
Cụ Vũ Bảo Vinh, Hội Phật học Bắc Việt.
Cùng dự buổi tiếp kiến với Tổng thống có ông Bộ trưởng Bộ nội vụ Bùi Văn Lương và ông Bộ trưởng Bộ công dân vụ Ngô Trọng Hiếu.
Phái đoàn đã trình lên Tổng thống 7 nguyện vọng. Tổng thống đã cứu xét từng nguyện vọng và đã giải quyết thỏa đáng. Cuộc tiếp xúc kết thúc trong tinh thần hiểu biết và thân ái.
Tường thuật cuộc họp báo của phái đoàn Phật giáo:
Sài Gòn (Tin riêng của báo Lẽ Sống)
Chiều hôm qua, 16-5, tại chùa Xá Lợi, phái đoàn đại diện Phật giáo sau khi tiếp kiến Tổng thống đã mở cuộc họp báo. Ngoài các vị trong phái đoàn, có thêm nhiều thượng toạ, đại đức, các đại diện báo chí trong và ngoài nước và đông đảo Phật tử. Sau khi ngỏ lời chào thường lệ, thượng tọa Thích Thiện Hoa, phát ngôn viên của phái đoàn, trình bày như sau:
- Phái đoàn của chúng tôi gồm có 5 đại đức và 2 cư sĩ. Trong số 5 nhà sư, 4 thuộc Tổng hội Phật giáo Việt Nam, phái Đại thừa, một thuộc phái Nguyên thủy người Việt và một thuộc phái Théravada người Việt gốc Miên.
Thành phần ấy chỉ rằng tuy chia nhiều môn phái, chỉ có một Phật giáo ở Việt Nam và trong mọi trường hợp, tất cả các môn phái ấy đều đoàn kết chặt chẽ trong tinh thần cũng như trong hành động.
Do ông Bộ trưởng Công dân vụ hướng dẫn, chúng tôi được Tổng thống tiếp hồi 10 giờ 45, tại dinh Gia Long, trước sự hiện diện của ông Bộ trưởng Bộ nội vụ.
Sau khi kính chào Tổng thống, chúng tôi có trình một bản nguyện vọng, gồm 5 điểm chính và 2 điểm phụ, ghi rõ trong một tuyên ngôn do vị lãnh đạo tối cao Phật giáo Việt Nam (Hòa thượng Thích Tịnh Khiết) và các Đại đức, Chủ tịch Giáo hội Tăng già và Hội Phật giáo Trung phần ký tên ngày 10-5-1963. Năm điểm chính ấy là:
1. Bãi lệnh cấm treo cờ Phật giáo.
2. Cho Phật giáo hưởng một chế độ ngang hàng với các Hội Truyền giáo Thiên Chúa.
3. Chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo hiện nay ở Huế.
4. Cho tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Đền bồi cho gia đình nạn nhân và nghiêm trị những người có trách nhiệm trong vụ đổ máu.
Hai điểm phụ do phái đoàn chúng tôi thêm vào là:
- Chính phủ bảo đảm an ninh cho phái đoàn độ 20 người (tăng già và cư sĩ) ra thăm Phật giáo Huế và an ủi vác gia đình nạn nhân.
- Ra lệnh các cấp quân chính đừng làm điều gì trở ngại những buổi lễ cầu siêu cho vong linh nạn nhân ở khắp các chùa toàn quốc.
Sau đây là những giải quyết của Tổng thống:
1. Bãi lệnh treo cờ:
Tổng thống báo sở dĩ có lệnh cấm treo giáo kỳ ngoài vòng trụ sở của mỗi tôn giáo là vì chính Tổng thống đã nhận thấy bên Phật giáo cũng như bên Công giáo, việc sử dụng lá cờ đạo quá bừa bãi và không có tinh thần tôn trọng màu cờ quốc gia. Để tránh những hiểu lầm ở cấp thừa hành, Tổng thống đưa ra một thể thức ấn định sự sử dụng cờ Phật giáo như sau trong các ngày lễ Phật giáo:
a) Tại chùa hay trụ sở hành lễ: Ngoài đường treo cờ quốc gia. Trong phạm vi chùa hay trụ sở, nếu có treo đại kỳ thời trên lá cờ quốc gia, dưới là cờ Phật giáo nhỏ hơn. Từ ngoài cổng chùa hay trụ sở trở vô được treo cờ Phật giáo xen với cờ quốc gia.
b) Tại đài làm lễ lộ thiên: Cũng một nguyên tắc, nghĩa là ngoài phạm vi lễ đài và ngoài đường thời treo cờ quốc gia. Phía trong treo cờ Phật giáo xen với cờ quốc gia.
c) Đám rước: Đại kỳ quốc gia đi trước, đại kỳ Phật giáo đi sau ở đầu đám rước. Ngoài ra, tuyệt nhiên không có một lá cờ nào khác.
d) Tại tư gia Phật tử: Được treo cờ Phật giáo trước bàn thờ
2. Cho Phật giáo hưởng một chế độ ngang hàng với các Hội truyền giáo Thiên chúa:
Phái đoàn trình rằng, Dụ số 10 quy định các hiệp hội (associations) đã đặt các Hội truyền giáo Thiên chúa ra ngoài thể lệ ghi trong các Dụ ấy và có dự rằng sẽ có một quy chế riêng cho các Hội truyền giáo nói trên. Nhưng trên 10 năm rồi, chưa thấy ban hành quy chế riêng ấy.
Tuy nhiên, Công giáo tiếp tục được hưởng những quyền tự do do những ký kết với chính phủ Pháp xưa lưu lại, còn Phật giáo thời được xem như những hiệp hội ngoài đời và mọi hoạt động đều bị gò bó trong những thể lệ của Dụ số 10.
Tổng thống đáp: Đây là một vấn đề hành chính chuyên môn cần phải nghiên cứu.
Phái đoàn lưu ý Tổng thống về điểm Nha trước bạ bắt buộc Hội Phật giáo muốn mua đất xây cất cơ sở, phải có phép trước của Tổng thống. Sự bắt buộc ấy, nếu áp dụng cho các hội truyền giáo ngoại quốc, thời hiểu được, còn áp dụng cho các tổ chức Phật giáo trong nước thời không có lý do. Tổng thống bảo có lẽ có sự hiểu lầm, vậy phải trình cho Tổng thống biết chẳng những trong việc này mà trong tất cả các việc khác nếu Phật giáo thấy có sự sai lầm.
3. Chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo hiện nay ở Huế:
Tổng thống đáp: Chính quyền có phận sự giữ gìn an ninh trật tự. Nếu chấm dứt bắt bớ thời kẻ tạo loạn thừa cơ mới làm sao? Ông Bộ trưởng Nội vụ quả quyết không có nhà sư nào bị bắt, còn những kẻ bị bắt là những hạng lưu manh phá rối. Ông Bộ trưởng Công dân vụ lớn tiếng phản kháng câu “Khủng bố tín đồ Phật giáo”
Đáp câu hỏi của phái đoàn, ông Bộ trưởng cho biết chưa tìm ra thủ phạm ném plastic, nhưng theo cuộc điều tra thì có lẽ Việt Cộng.
Phái đoàn hỏi: Ông Bộ trưởng đã nói là công chúng bất thình lình kéo nhau đến đài vô tuyến nghe phát thanh chứ không có ý biểu tình. Như vậy thời làm sao kẻ phá rối biết mà đem plastic đến liệng, vì hành vi này bao giờ cũng có sự chuẩn bị trước, sau khi biết rõ là có sự tụ họp.
Ông Bộ trưởng đáp: Kẻ phiến loạn có lẽ đã len lỏi vào hàng ngũ Phật giáo từ sáng, khi đám rước Phật biến thành cuộc biểu tình.
4. Cho tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo:
Tổng thống cho biết quyền tự do tín ngưỡng đã ghi trong Hiến pháp và riêng Tổng thống không bao giờ có ý thiên vị một tôn giáo nào. Bằng cớ là chính phủ đã để cho Phật giáo tự do tổ chức tín đồ từ thành thị đến thôn quê và thực hiện nhiều cơ sở tốt đẹp.
Phái đoàn trình có nhiều sự áp bức khó dễ cấp thừa hành với dụng ý chận nghẹt sự sinh hoạt hàng ngày của Phật giáo.
Tổng thống bảo nếu có những sự kiện như thế, thời trình nhà chức trách cấp cao hơn xét xử.
Phái đoàn cho rằng có nhiều việc đã trình ngay Tổng thống mà chưa được giải quyết, thí dụ như gần đây việc xin nhập cảnh phim “Sakya”. Trong lúc Phật giáo chờ sự giải quyết của Tổng thống thì Bộ Kinh tế cho phép nhập tạm.
Tổng thống, cũng như ông Bộ trưởng nội vụ và công dân vụ quả quyết rằng việc nhập tạm là một thủ tục hành chính không liên can gì đến sự quyết định đã có rồi của chính phủ là phim Sakya sẽ bị cấm chiếu trên toàn quốc.
5. Đền bồi cho các gia đình nạn nhân và nghiêm trị những người có trách nhiệm trong cuộc đổ máu:
Tổng thống cũng như ông Bộ trưởng nội vụ cho biết trong số nạn nhân có người Công giáo, có người không phải là Phật giáo, con em của cảnh binh và nhân viên. Toà đại biểu chính phủ đã nghĩ đến việc trợ cấp cho tất cả. Còn việc nghiêm trị thời cuộc điều tra đang tiếp tục.
- Bảo đảm an ninh cho một phái đoàn ra Huế:
Sau khi cân nhắc hiệu quả trong việc bảo vệ trật tự công cộng nhân một phái đoàn ra Huế, Tổng thống giao cho ông Bộ trưởng Công dân vụ phối hợp với Bộ Nội vụ liên lạc với nhà chức trách ở Huế để thương lượng với các cấp lãnh đạo tại chỗ hầu tránh mọi sự giao động khi phái đoàn trong Nam ra thăm.
Ngày giờ khởi hành, tùy từng phái đoàn và sẽ gồm ba tăng và ba cư sĩ.
- Ra lệnh đừng làm trở ngại các lễ cầu siêu trên toàn quốc:
Tổng thống có ý kiến nên tổ chức trong chùa và đừng tụ họp quá đông. Ông Bộ trưởng Công dân vụ đề nghị đợt tới, rằm tháng 7 làm long trọng cho toàn thể chúng sinh.
Trên đây là ý kiến hoặc quyết định của Tổng thống. Phái đoàn chúng tôi sẽ trình lại cho các Ban trị sự Phật giáo toàn quốc biết và lấy quyết định chung.
Sau khi thượng tọa Thích Thiện Hoa thông báo kết quả cuộc họp với Tổng thống, một cư sĩ không xưng tên đã đứng lên tả lại cảnh tượng ở chùa Từ Đàm và ở Đài phát thanh Huế. Theo cư sĩ này, chính quyền đã cố ý dùng vũ lực cấm ngày Phật đản và không ngại cả sự chém giết. Hiện nay, chùa Từ Đàm bị phong tỏa, nhiều tăng ni và Phật tử kiệt sức. Ông báo động với dư luận trong và ngoài nước. Giữa lúc cư sĩ đang nói, nhiều người mặc thường phục nhưng lưng lại đeo súng, chen lên gần bục gỗ. Một số thanh niên Phật tử lập ra hàng rào bảo vệ. Đáng lẽ còn có mục hỏi của nhà báo và trả lời của phái đoàn song còi cảnh sát đã rú liên hồi. Cả chùa báo động, sợ bị phong tỏa như chùa Từ Đàm, nên mọi người kéo nhau ra đường. Ở các ngã dẫn đến chùa Xá Lợi, cảnh sát dã chiến đã dàn hàng, sửa soạn tấn công. Số hiếu động trong Phật tử cũng tìm gậy, đá, sẵn sàng nghinh chiến.
Không rõ do một lịnh từ đâu, cảnh sát dã chiến tự nhiên rút êm… Nhưng cuộc họp báo cũng bất thành.
THÔNG CÁO CHUNG VIỆT - MỸ
Sau một thời gian nghiên cứu, chính phủ Mỹ thỏa thuận tăng gia việc trợ cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa ngỏ hầu thực hiện chương trình ấp chiến lược mà tổng chi phí lên đến trên 2 tỷ đồng. Ngay lập tức, chính phủ Mỹ góp thêm 55 triệu Mỹ kim tính bằng nông phẩm, phân bón, kẽm gai, xi măng, vũ khí dùng cho dân vệ.
Sài Gòn, ngày 17 tháng 5 năm 1963.
Ký thay chính phủ Mỹ:
Đại sứ Nolting
Ký thay chính phủ Việt Nam Cộng hòa
Bộ trưởng Bộ ngoại giao: Vũ Văn Mẫu
THÔNG CÁO BÁO CHÍ CỦA TÒA BẠCH ỐC
Ngày 25-5-1963, Tổng thống Mỹ Kennedy đã cho báo chí biết rằng Mỹ sẽ rút quân khỏi Việt Nam bất cứ lúc nào mà chính phủ Việt Nam Cộng hòa yêu cầu; một ngày sau khi có yêu cầu đó, quân đội Mỹ sẽ lần lượt về nước. Tổng thống hy vọng tình thế Việt Nam cho phép, vào cuối năm nay, quân đội Mỹ đã có thể rời Việt Nam.
THÔNG TRI CỦA VĂN PHÒNG TỔNG THỐNG
Do có nhiều tin tức xuyên tạc cố ý, Văn phòng Tổng thống nhắc lại với công chúng: chính phủ không hề chủ trương kỳ thị tôn giáo, vẫn tôn trọng tự do tín ngưỡng…
THÔNG BÁO CỦA GIÁO HỘI TĂNG GIÀ NAM VIỆT
Để tưởng nhớ các Phật tử tử nạn ở Huế, các tăng ni và Phật tử chùa Ấn Quang và Xá Lợi quyết định tuyệt thực 48 giờ, kể từ ngày 30-5-1963.
THÔNG CÁO CỦA NHA CẢNH SÁT ĐÔ THÀNH
Từ 14 giờ 30 đến 18 giờ hôm nay, 30-5, một số tăng ni biểu tình trước trụ sở Quốc hội. Để bảo vệ an ninh trật tự, cảnh sát được lệnh giải tán. Vài cuộc xô xát do hiểu lầm xảy ra. Không ai bị thương.
THÔNG BÁO KHẨN CỦA PHÁI ĐOÀN PHẬT GIÁO
Một số tăng ni đến Quốc hội yêu cầu thực hiện những điều Tổng thống hứa, đã bị cảnh sát đàn áp bằng lựu đạn cay và dùi cui. Nhiều tăng ni bị thương nặng.
Chùa Từ Đàm (Huế) đang nguy ngập: chính quyền đã cắt điện, nước một tuần lễ nay.
Ngày 3 và 4 tháng 6, Phật tử Huế lại bị cảnh sát đàn áp.
THÔNG CÁO CỦA PHỦ TỔNG THỐNG
Theo chỉ thị của Tổng thống, một Ủy ban liên bộ gồm Bộ trưởng Bộ nội vụ Bùi Văn Lương, Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần do Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu, đã thành lập để cùng phía Phật giáo giải quyết các khó khăn phát sinh từ một tháng nay.
Phần Phật giáo, một Ủy ban liên phái đã thành lập, gồm các thượng tọa Thích Thiện Minh, Thích Thiện Hoa, Thích Huyền Quang, Thích Đức Nghiệp do thượng tọa Thích Tâm Châu đứng đầu.
Phiên làm việc đầu tiên giữa hai Ủy ban ấn định vào ngày 5-6-1963.
Điện tín của Bộ ngoại giao Mỹ gửi đại sứ Nolting:
Tổng thống xác định lập trường ủng hộ cố gắng của chính phủ Việt Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Quan điểm của Tổng thống là các vụ Phật giáo không thể trở thành lý do để chính phủ Mỹ xét lại thái độ của mình…
(Bản sao điện tín này được gửi cho Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu và Ngoại trưởng đã chuyển cho văn phòng Phủ tổng thống)
Điện tuyệt mật của Colby gửi Fishell:
Vụ “Phật giáo” chỉ tiến triển đến mức đó thì chưa thể “bắn tín hiệu xanh”. Trao đổi thêm với John Hing. Trực tiếp gặp Lâm Sử để hoàn thành kế hoạch “Hight-pressure” (6) và sửa soạn kế hoạch “Horse-tail” (7) một khi cái trước thực hiện trót lọt.
----------
(1) Thuận lợi.
(2) Alô, phải… Lệ Xuân đây…
(3) Nước Mỹ trước hết
(4) Cơ quan an ninh nội địa Mỹ.
(5) Cercle Sportil Saigonale: Câu lạc bộ thể thao Sài Gòn, nay là sân Tao Đàn.
(6) Cao áp.
(7) Đuôi ngựa.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #23  
Old 12-08-2012, 12:06 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 4

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 4


Buổi sáng ngày 11-6, theo kế hoạch, các chùa trong đô thành tiếp tục lễ cầu siêu cho các nạn nhân ngày 8-5 ở Huế.
Nhìn bên ngoài, tình hình quan hệ Phật giáo và chính phủ có vẻ được lắng dịu đôi chút sau khi Ủy ban liên bộ chính phủ và Ủy ban liên phái của Phật giáo tiếp xúc thường xuyên và đi đến một vài thỏa thuận. Các cuộc tuyệt thực phản đối của tăng ni lan rộng khắp các tỉnh miền Trung và ở đô thành lần lượt chấm dứt.
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ra một số quyết định mà người ta có thể hiểu như là một mức nhượng bộ nào đó: trung tá Trần Ngọc, tỉnh trưởng Kiến Hòa được đề cử làm thị trưởng thành phố Đà Nẵng thay thế Hà Thúc Luyện. Tuy nhiên, cái nút gây căng thẳng vẫn chưa được tháo mở - cuộc bao vây chùa Từ Đàm ở Huế, nơi mà theo ý của Phan Quang Đông và được Diệm tán thành, là cái “lò” tiêu biểu cho sự “cứng đầu” của Phật giáo, chừng nào chưa buộc các nhà sư Từ Đàm quy hàng với bản nhận tội vô tình hay cố ý tiếp tay Cộng sản thì chưa thể chấm dứt cái gọi là chiến dịch “củng cố quyền lực chính phủ”
Một số khá đông tăng ni và Phật tử tập trung từ sáng sớm tại chùa Phật Bửu trên đường Cao Thắng. Nha cảnh sát đô thành được thông báo về lễ cầu siêu này và giám đốc nha nhìn thông báo ấy ngang với hoặc thấp hơn những lễ cầu siêu ở các địa điểm khác, bởi Phật Bửu là ngôi chùa quá nhỏ, nằm ở một vùng lao động - chợ Vườn Chuối. Chín giờ, lễ cầu siêu chấm dứt không có xung đột - tăng ni và Phật tử đọc kinh cầu nguyện trong trật tự còn nhân viên công lực, gồm một tiểu đội cảnh sát lặng lẽ theo dõi bên ngoài chùa. Cũng chừng ấy mật vụ và công an chìm được bố trí chen lẫn với Phật tử. Tất cả đều hiền lành và hẳn, cảnh sát cũng như mật vụ đều nghĩ rằng hôm nay họ sẽ có được một ngày rãnh rỗi.
Từ Phật Bửu Tự, các tăng ni rước bài vị nạn nhân ra đường Phan Đình Phùng. Số tín đồ không đông lắm và người ta đoán các tăng ni sẽ đến bến xe Nguyễn Cư Trinh để lên đường ra Huế. Chín giờ ba mươi, đoàn kéo đến ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt. Tại đây, một số tăng ni đã tập hợp từ trước. Hai con đường giao thông quan trọng của đô thành bỗng tắt nghẽn. Tăng ni và Phật tử, đông lối 700 người, hình thành một vòng tròn. Từ trên chiếc xe du lịch hiệu Austin mang số DBA 599, hai nhà sư bước xuống.
Một trong hai nhà sư, tuổi lối 70, người dong dỏng cao, mặc áo đạo màu nâu, thanh thản ngồi xếp bằng giữa ngã tư, một tay chấp trước ngực, một tay lần tràng hạt, còn nhà sư kia thì lấy từ trong xe ra một can xăng loại 20 lít, tưới lên người nhà sư đang ngồi. Xăng xối từ đầu, đẫm ướt toàn thân nhà sư. Một diêm quẹt lóe lửa, ngọn đuốc bùng cháy, khói và lửa bốc cao. Bảy trăm tăng ni đồng loạt quỳ chung quanh ngọn lửa đọc một đoạn kinh bằng tiếng Phạn.
Nhà sư tự thiêu, trong vùng lửa đỏ, ngồi như tĩnh tọa, chỉ ngã xuống khi tắt thở. Thời gian diễn biến sự việc kéo dài lối 45 phút. Thi thể của vị sư hỏa thiêu được bọc trong một tấm vải và toàn đoàn bước sau thi thể, tiếp tục đọc kinh, hướng về chùa Xá Lợi.
*
THÔNG BÁO CỦA NHA THÔNG TIN:
Hồi 9 giờ 30 ngày 11-6, tại góc đường Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng, một người đã dùng xăng tự sát. Tên ông ta là Nguyễn Văn Khiết, 73 tuổi, quê ở Khánh Hoà.
Cuộc điều tra của Nha cảnh sát đang được tiến hành để tìm hiểu nguyên nhân của vụ tự sát.
*
THÔNG BÁO CỦA GIÁO HỘI PHẬT GIÁO:
Thượng tọa Thích Quảng Đức, năm nay thọ 73 tuổi, xuất gia học đạo khi lên 7 tuổi với hòa thượng Thích Hoàng Thân. Ngoài thế tục, thượng tọa tên là Lâm Văn Tức, sau đổi là Nguyễn Văn Khiết, đạo hiệu Thích Quảng Đức, pháp danh Thụy Thủy, pháp tự Hành Pháp. Ngài thụ sadi năm 15 tuổi, thọ cụ túc giới lúc 20 tuổi và phát nguyện tham thiền trên núi 3 năm liền. Sau 2 năm vân du hóa đạo, Ngài về nhập thất ở Ninh Hòa và Nha Trang, làm chứng minh đạo sư cho chi hội Ninh Hòa Việt Nam Phật học và kiểm tăng tỉnh Khánh Hoà. Thượng tọa Thích Quảng Đức nghiên cứu giáo lý Phật ở Nam Vang 3 năm, kiến tạo và trùng tu cả thảy 31 ngôi chùa. Ngôi chùa cuối cùng Ngài trụ trì là Quan Thế Âm tự, số 66 đường Nguyễn Huệ, Phú Nhuận. Thượng tọa người thôn Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà, Trung Việt.
Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính phủ. Toàn thể tăng ni, tín đồ Phật giáo Việt Nam đang cầu nguyện cho Ngài.
*
THÔNG ĐIỆP CỦA TỔNG THỐNG GỬI ĐỒNG BÀO THỦ ĐÔ:
Sài Gòn (VTX)
Sau đây là nguyên văn thông điệp truyền thanh của Tổng thống gửi đồng bào thủ đô tối nay, 11-6-1963.
Đồng bào thân mến ở Thủ đô.
Sau cuộc tiếp xúc giữa Ủy ban liên bộ với đại diện Tổng hội Phật giáo ngày 5-6-1963, về phía chính phủ đã thi hành mọi biện pháp thích nghi để ổn định tình thế tại cố đô Huế và đời sống tại thành phố nay đã hoàn toàn trở lại bình thường. Ngày mai, 12-6-1963, một phái đoàn Tổng hội Phật giáo sẽ tới Sài Gòn để tiếp tục cuộc thảo luận với Ủy ban liên bộ về những vấn đề do Tổng hội đề ra.
Công việc đang tiến hành điều hòa như vậy thì sớm nay, do sự tuyên truyền quá khích che giấu sự thật, gây sự hoài nghi về thiện chí của chính phủ, khiến một số người bị đầu độc gây một án mạng oan uổng làm cho tôi rất đỗi đau lòng.
Tôi kêu gọi đồng bào hãy bình tĩnh nhận định tình thế, sáng suốt xét mọi vấn đề trên căn bản lương tri và ái quốc. Đồng bào hãy tin chắc rằng, tất cả mọi vấn đề dầu khó khăn đến mấy cũng có thể giải quyết trên lẽ công bằng và trên tình đoàn kết huynh đệ của dân tộc. Nếu trong hàng ngũ Phật giáo hãy còn phần tử nào vì nghe lời xuyên tạc mà lầm tưởng rằng có âm mưu thủ đoạn nào để trì hoãn cuộc giải quyết, để đàn áp bất công Phật giáo thì tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn có hiến pháp, nghĩa là có tôi.
*
THÔNG BÁO VỀ VIỆC TĂNG NI VÀ THIỆN TÍN ĐẾN CHÙA XÁ LỢI
Nha cảnh sát đô thành trân trọng thông báo:
Do chỉ thị của ông Bộ trưởng nội vụ, ngày 11-6-1963 hồi 20 giờ, Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành có tiếp xúc với ông Tổng thư ký Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo và đã thỏa thuận về những điều sau đây nhằm mục đích để cho các sư sãi, tăng ni, thiện tín có thể đến chùa Xá Lợi chiêm bái hay hành lễ cầu siêu cho giác linh Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11-6-1963:
1. Chương trình hành lễ cầu siêu:
- Tất cả các sư sãi tăng ni, thiện tín sẽ tập trung tại chùa Giác Minh, 578 đường Phan Thanh Giản để lần lượt được Ban tổ chức và nhà cầm quyền đô thành hướng dẫn bằng xe đến chùa Xá Lợi.
- Số sư sãi, tăng ni, thiện tín tối đa cho mỗi phiên hành lễ là 400 người.
- Thời gian hành lễ được ấn định kể từ ngày 12-6-1963 đến ngày 15-6-1963 vào lúc 20 giờ và dành cho các chùa kể dưới đây:
Ngày 12-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 10g00: Chùa Giác Minh, 15g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Ấn Quang.
Ngày 13-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Phật Bửu, 10g00: Chùa Kỳ Viên, 15g00: Chùa Chantareansey, 16g00: Chùa Ấn Quang, 20g00: Hội Phật học Nam Việt.
Ngày 14-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g30: Chùa Vạn Thọ, 10g00: Chùa Giác Nguyên và Chánh Giác, 15g00: các chùa Trung Hoa, 17g00: Chùa Từ Nghiêm, 20g00: Chùa Phước Hòa.
Ngày 15-6-1963
5g00: Chư tăng trụ chùa Xá Lợi, 8g00: Chùa Ấn Quang, 10g00: Chùa Chantareansey, 15g00: Chùa Kỳ Viên, 17g00: Chùa Vạn Thọ, 20g00: Chùa Từ Nghiêm.
- Thiện tín muốn đến chùa Xá Lợi bái hay hành lễ, dầu không có “chân” trong các chùa ghi trên đây được phép tháp tùng theo các phái đoàn và muốn được như vậy, cũng phải tập trung tại chùa Giác Minh.
2. Các xe của chùa Xá Lợi (Hội Phật học Nam Việt) được Nha Cảnh sát quốc gia đô thành cấp phù hiệu để ra vào chùa hành sự thong thả, bất luận lúc nào.
3. Cấp giấy chứng nhận cấp cho nhân viên chùa Xá Lợi sẽ được ông Giám đốc Nha Cảnh sát quốc gia đô thành ký tên cho phép xuất nhập chùa Xá Lợi bất luận lúc nào.
Những điều thỏa thuận giữa đôi bên kể trên đã bắt đầu áp dụng kể từ ngày 12-6-1963 vào hồi 12 giờ và đến hết ngày 12-6-1963, hồi 19 giờ đã có 1.620 người được hướng dẫn đến chùa Xá Lợi để chiêm bái hoặc hành lễ cầu siêu. Những người này đã ra về trong vòng trật tự và êm thắm.
Sài Gòn, ngày 12 tháng 6 năm 1963.
Giám đốc Nha cảnh sát quốc gia đô thành Sài Gòn.
TRẦN VĂN TƯ
Tổng kiểm tra CSQG
*
Luân hoàn toàn bất ngờ đối với vụ tự thiêu của vị cao tăng Thích Quảng Đức. Tổng nha Cảnh sát quốc gia cũng như Sở Nghiên cứu chính trị của Trần Kim Tuyến sửng sốt trước cái tin chấn động ấy. Thế nhưng nhà báo Mỹ Helen Fanfani lại có nhiều bức ảnh ghi lại hành động tử vì đạo lần đầu tiên của giới Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ gần đây.
Fanfani đến nhà Luân với một xấp ảnh đã được phóng đại. Giữa lúc Dung và Fanfani trao đổi về những góc cạnh thuộc tư thế của vị hòa thượng trước và trong cái chết, Luân bồi hồi như chạm trán với một sự cố mà tầm vóc không chỉ đơn giản là một vụ tự thiêu để phản đối. Trong vòng 5 tuần lễ, kể từ lúc chính quyền Thừa Thiên nổ súng vào đám đông Phật tử ở chân cầu Nguyễn Hoàng tại Huế, không khí chính trị của Việt Nam Cộng hòa đột ngột căng thẳng. Chắc chắn rằng cái chết của Thích Quảng Đức mới đúng là phát đại bác báo hiệu trận công đồn bước vào giai đoạn chót. Theo thuật ngữ quân sự mà Luân có thói quen liên nghĩ để so sánh các tình huống, đột phá khẩu mở vào dinh lũy của tổng thống Ngô Đình Diệm đã đủ rộng để cho không phải một trung đoàn, một quân đoàn mà để cho những đợt sóng thần nhận chìm và quét sạch những gì là chướng ngại - chướng ngại của cả hai phía: Mỹ cần qua xác Diệm để đạt ý đồ làm chủ Nam Việt; quần chúng cần xóa một tên độc tài.
Thông điệp của Ngô Đình Diệm vừa cho thấy ông cảm giác khá nhanh về mối nguy cơ mà vụ tự thiêu này sẽ dẫn tới, đồng thời vẫn chưa bỏ kiểu cách nhìn tình hình theo lối kẻ cả, rõ ràng với tinh thần hiếu thắng của một vị hoàng đế. “Tôi long trọng tuyên bố cho đồng bào biết rằng, sau lưng Phật giáo vẫn còn có Hiến pháp, nghĩa là có tôi”. Diệm có lẽ đã gắng hết sức mình để tự kềm chế, đáng lý ông không nên dùng chữ “sau lưng” mà phải “đứng trên Phật giáo”. Vượt qua tất cả, Diệm sống với cái ảo giác ông là người giữ quyền lực tối cao ở đất nước này. Ông xem vụ tự thiêu vì lý do chính trị là một vụ “án mạng oan uổng”! Ông tưởng rằng bằng một thông điệp ngắn gọn, với lời lẽ “có ân có uy”, tình hình sẽ ổn định ngay. Trong cơn tức giận và dĩ nhiên là bấn loạn, ông quên rằng chính ông đã kêu gọi dân chúng Huế đừng xao xuyến sau ngày 8-5 và kết quả là cảnh sát dã chiến Huế đã phải dùng bạo lực cao hơn và nhiều hơn để xua sư sãi vào các ngôi chùa, đặc biệt biến chùa Từ Đàm thành một nhà tù tệ hại vượt qua tất cả các nhà tù hiện có.
Giám đốc Cảnh sát đô thành Trần Văn Tư, lập lại bài bản cũ: hạn chế lễ viếng hòa thượng Thích Quảng Đức. Chế độ của Ngô Đình Diệm vẫn xét sự biến động Phật giáo một cách riêng lẻ: nếu như khoanh vụ Huế vào giữa vòng rào chùa Từ Đàm thì sẽ xóa được trong chương trình nghị sự của họ vấn đề Phật giáo; còn bây giờ nếu giảm đến mức tối thiểu số người đi viếng hòa thượng Thích Quảng Đức, thì có vẻ sự thể chỉ còn là một cái chết của một nhà sư, với các đoàn thể phúng điếu thông thường... Thậm chí Tổng nha Thông tin đã nhanh nhẩu đến nỗi gọi vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức là một vụ tự sát.
Những bức ảnh mà Fanfani ghi được - rồi đây nhất định sẽ được công bố rộng rãi trong và ngoài nước - có một sức chứa kỳ lạ. Chỉ cần xét vấn đề ở một góc độ nhỏ thôi. Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trở thành một cái gì vô nghĩa lý trước một Thích Quảng Đức ung dung, tự tin về hành động của mình. Ngọn lửa bốc cao, mảnh áo ngoài thành tro cuốn theo làn gió nhẹ, da thịt của hòa thượng trở thành chất đốt và chỉ đến lúc đó, đến lúc mà toàn bộ hệ thần kinh của hòa thượng cùng với toàn bộ tế bào đã khô kiệt, hòa thượng mới từ từ ngã xuống. Làm sao một chế độ, dù đủ súng ống, lại có thể đương đầu nổi với những cái chết tương tự? Không thể tán thành phương pháp đấu tranh của hòa thượng Thích Quảng Đức - nó mang nhiều yếu tố tiêu cực - Luân không giấu giếm sự khâm phục nhà sư. Anh hiểu rằng, nếu tách hành động của nhà sư ra khỏi các loại chủ trương mà chắc chắn có tác động đến nhà sư, thì sự hi sinh của Thích Quảng Đức, đã phản ảnh trên một khía cạnh nào đó tính cách của con người Việt Nam chân chính...
- Tại sao cô có thể chứng kiến được cảnh này? - Luân hỏi Fanfani.
Cô nhà báo Mỹ dường như đoán trước Luân sẽ hỏi câu đó nên mỉm cười:
- Nếu tôi bảo rằng vì tình cờ đi ngang mà tôi thu được ảnh của vụ tự thiêu thì đại tá sẽ nhún vai. Tôi “ngửi” được sẽ có một quả bom nổ và tôi xông xáo. Không phải Fishell cho tin, đời nào ông ta cho tôi những loại tin cỡ đó. Đại tá bằng lòng cách giải đáp đó của tôi không?
Luân không tỏ ra một thái độ nào. Fanfani trở nên tinh nghịch:
- Tôi mới nói với bà đại tá: bà là nhân viên cấp khá cao trong ngành cảnh sát, kề cận Tổng giám đốc và tiếp xúc hàng ngày với đủ loại báo cáo, thế mà bà đã không ngờ trước vụ Thích Quảng Đức. Còn ông, đủ điều kiện hơn bà để nắm mọi ngóc ngách của tình hình, ông cũng bàng hoàng nốt! Ông bàng hoàng nghĩa là ông Nhu cũng bàng hoàng.
- So với Victo, cô đã gác một điểm quan trọng! Các bức ảnh của cô sẽ làm cho tờ báo của cô đi đúng với tính chất tài chính của nó... - Luân cười nhẹ.
- Tôi báo cho đại tá một tin: Tôi chỉ thu được một số ảnh trong khi một ký giả người châu Á - một người châu Á thì là chắc chắn, còn có phải là ký giả hay không thì tôi chưa khẳng định - quay cả một cuốn phim. Có thể ông ta quay nhiều cuốn phim. Đại tá có nghĩ rằng John Hing liên can đến vụ tự thiêu này không?
- Có thể. Và, tuy tôi không hân hạnh chứng kiến sự việc tại hiện trường như cô, nhưng tôi biết chắc chắn ít nhất còn có một caméra nữa...
- Của ai?
- Theo tôi, ông Mai Hữu Xuân không bàng quan.
Điện thoại reo. Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long gấp.
- Với tôi, vụ tự thiêu cao cả của hòa thượng Thích Quảng Đức sẽ bị khai thác. Thật lòng, tôi đau đớn trước một cái chết mà tôi khâm phục cái chết đó.
Luân nói những lời chót với Fanfani trước khi lên xe.
- Ông kỹ sư là một con người kỳ quặc! - Fanfani nhận xét như vậy với Dung.
- Dù thế nào cái chết của hòa thượng cũng là một thảm kịch. Anh Luân của tôi không thích các loại thảm kịch. - Dung trả lời Fanfani.
*
Có mặt ở phòng làm việc của Diệm gần đủ mặt: Nhu, Luyện, Trần Lệ Xuân, Đức cha Ngô Đình Thục, bác sĩ Trần Kim Tuyến, đại tá Tổng giám đốc cảnh sát Nguyễn Văn Y, đại tá Đặng Văn Quang - sắp rời tham mưu biệt bộ sang phụ trách trung tâm tình báo - đại tá Nguyễn Thành Luân và bí thư của tổng thống Võ Văn Hải.
Nhìn qua thành phần, Luân hiểu rằng Diệm muốn nghe ý kiến của những người thân cận nhất để đi đến một ý kiến cực kỳ quan trọng. Đô thành và khắp các tỉnh giống như cơn dầu sôi. Vụ tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức khơi dậy những tiềm lực mà bấy lâu chế độ Diệm tạm thời nén ém được. Hết sức phũ phàng đối với Diệm - ông vẫn ngồi trên chiếc ghế bành quen thuộc nhưng vắng hẳn nụ cười thỏa mãn thường lệ mỗi khi có cuộc tập họp mang tính chất gần như gia đình này - thiên huyền thoại “không thể nào lật đổ nổi chế độ Ngô Đình Diệm” bỗng phá sản và hơn nữa, đảo ngược một cách tàn nhẫn: không một chế độ nào dễ lật đổ hơn chế độ Ngô Đình Diệm!
Diệm mở đầu cuộc họp, quên cả chọn giọng nói: ông có biệt tài nói giọng Bắc với người di cư, giọng Bắc Trung Bộ với những người đồng hương và giọng Nam với các đối tượng còn lại - bữa nay ông nói giọng lai tạp:
- Tình hình thì ai cũng đã rõ, hết sức vô lý. Giữa lúc toàn dân nỗ lực tối đa để chiến thắng Cộng sản và ngày chiến thắng gần kề thì các lão thầy chùa gây rối. Phải dập tắt tất cả các hành động đâm sau lưng chiến sĩ của bọn giả danh tu hành!
Diệm liếc về phía đại tá Tổng giám đốc cảnh sát và bác sĩ Trần Kim Tuyến.
- Sao lạ rứa? Vụ tự tử để gây kích động giữa một ngã tư lớn của đô thành mà các cơ quan cảnh sát, tình báo của chính phủ hoàn toàn không hay biết. Các ông ngủ cả à? Đã thế, còn để cho phóng viên nước ngoài chụp ảnh, quay phim. Phóng viên nước ngoài dò được tin tức trong khi ông Y, ông Tuyến chỉ báo cáo với tôi khi bọn chúng đã khiêng xác chết về chùa Xá Lợi...
Diệm lại liếc về phía Nhu - Luân ngồi cạnh Nhu:
- Nhượng bộ! Chính trị! Chú Nhu thấy rồi đó. Phải chi ngay đầu tháng 5 ta tóm cổ tất cả bọn sư sãi ở Huế, tống chúng vào lao Phủ Thừa, thì tình hình đâu có rối như hiện giờ.
Diệm nói như quát, mặt lúc tái, lúc đỏ. Những người dự họp im lặng. Nhu cau mày, rít thuốc liên hồi. Ngô Đình Thục ngó đăm đăm bộ ba Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Đặng Văn Quang - cả ba khoanh tay ngồi thu lu. Chân mày của Trần Lệ Xuân xếch ngược, môi mím chặt. Ngô Đình Luyện, khác với tất cả, ngó sang dinh Độc Lập, hình như thích thú khu vườn rợp mát đầy cổ thụ hơn là vấy vào cái không khí oi ả của gian phòng, Võ Văn Hải nép hẳn ở hàng ghế sau, với cuốn sổ và cây bút lúc nào cũng sẵn trên tay, Luân chọn một thái độ mà anh cho là thích hợp: bình tĩnh lắng nghe Tổng thống quở, thỉnh thoảng ra chiều suy nghĩ, thong thả từng lọn khói thuốc.
- Đúng như Tổng thống nói, thật vô lý! - Ngô Đình Thục hậm hực.
Đức cha Ngô Đình Thục vừa được phong chức Tổng giám mục địa phận Huế. Với ông, chức vụ đến hơi muộn. Và điều mà ông bận tâm chính là những sự cố từ năm 1960 đã trở thành những chướng ngại vật trên con đường tiến đến tước vị Hồng y mà ông thèm muốn đến độ điên cuồng. Em ông, vị tổng thống khai sáng nền Cộng hòa ở Nam Việt, còn gì hợp lý hơn là chính ông nhận chiếc mũ Hồng y đầu tiên ở Việt Nam? Năm nay, kỷ niệm 25 năm ông thụ phong Giám mục. Lễ Ngân khánh được sửa soạn từ lâu. Một ủy ban tổ chức đã thành lập và hoạt động vào tháng 3 năm nay, gồm một danh sách rôm rả. Trưởng ban tổ chức là Chủ tịch Quốc hội Trương Vĩnh Lễ, phó trưởng ban là Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Quang Trình, Bộ trưởng Công dân vụ Ngô Trọng Hiếu, Viện trưởng Viện đại học Huế, linh mục Cao Văn Luận. Đó là tổ chức cấp Trung ương, còn cấp tỉnh thì trưởng ban là tỉnh trưởng. Thông báo của ban tổ chức Trung ương cho biết lễ Ngân khánh của vị Giám mục niên trưởng Việt Nam sẽ được tổ chức vào ngày 29-6-1963 và tuy không nằm trong diện những ngày lễ của Nhà nước, nhưng vì công lao của Đức Tổng giám mục Ngô Đình Thục, dân chúng hãy xem đó như là ngày quốc lễ. Công cuộc lạc quyên được Bộ Công dân vụ xúc tiến mạnh mẽ kết hợp với các cấp hành chính, quân sự, cảnh sát và đoàn thể. Chỉ trong vòng có một tháng, trưởng ban tổ chức Trương Vĩnh Lễ đã báo cáo với Đức cha số tiền do các nhà hảo tâm và dân chúng đóng góp đã lên đến trên 20 triệu đồng. Riêng chuyến đi của Đức Tổng giám mục ra La Vang, quỹ mừng lễ Ngân khánh của địa phận Quảng Trị đã hơn nửa triệu đồng.
Cũng chính chuyến đi từ La Vang trở về Huế đã làm cho Đức Tổng giám mục bất bình. Dọc theo quốc lộ, cờ Phật tung bay, lấn át cả cờ đạo Thiên Chúa. Về đến Phú Cam chiều ngày 7-5, Ngài gọi tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng, phó tỉnh trưởng phụ trách nội an thiếu tá Đặng Sỹ và đại diện chính phủ ở Bắc Trung nguyên Trung phần Hồ Đắc Khương đến quạt cho một trận ra trò. Sau đó, ông hấp tấp bay vào Sài Gòn.
- Rứa! Những cái mà tôi lo xa thì bây giờ đã rõ. - Tổng giám mục mất hẳn vẻ ôn tồn của vị chủ chăn - Đáng lý dẹp Phật giáo thì chính phủ lại kỷ luật tỉnh trưởng và phó tỉnh trưởng Thừa Thiên. Linh mục Hoàng biên cho tôi một thơ dài, ông ta bất mãn chú Nhu. Chính phủ không dựa vào người theo đạo Chúa mà lại mơn trớn đạo Phật, thật lạ lùng... Cái trò tự thiêu nguy hiểm lắm!
Trần Lệ Xuân bây giờ mới cất tiếng:
- Thưa Đức cha, chẳng có gì nguy hiểm. Con cho đó là một vụ “rôti”. Còn những kẻ nhúng tay vào các vụ “rôti” thì phải truy tố trước pháp luật về tội sát nhân. Tôi đề nghị chính phủ ra ngay một sắc lệnh cấm chỉ những hành động tương tự với những điều khoản gắt gao. - Lệ Xuân ném giữa cuộc họp những từ ngữ dữ dội.
Ngô Đình Nhu, nếp nhăn như thêm sâu trên vầng trán thông minh, hỏi vợ:
- Em đã nói những câu vừa rồi với ai chưa?
- Nói rồi! - Môi của Lệ Xuân cong lên - Em nói với phóng viên tờ Washinggon Post ngày hôm qua. Em nói rõ, bằng tiếng Pháp, tự thiêu là rotissage và kẻ tổ chức tự thiêu là assasin. Em nói như vậy đó. Những tên thầy chùa muốn tự “quay” thì cứ để cho chúng tự “quay”. Chúng bảo sẽ về đất Phật. Mặc kệ Phật tổ với cái món “rôti” thịt người khét lẹt, buồn nôn...
Có lẽ trong những trường hợp như thế này, Lệ Xuân bộc lộ chân thật nhất con người của mụ ta. Luân cố nén cái cười mỉm, nhưng anh nghe rõ tiếng thở dài sườn sượt của Nhu.
- Tôi nghĩ là chị đã quá giận. - Ngô Đình Luyện nói: nếu vấn đề không gây cấn đến mức thì Luyện rất ít tỏ rõ ý kiến trong các cuộc họp - Những từ của chị dùng sẽ là vũ khí mà những kẻ chống chúng ta trong cũng như ngoài nước, nhất định vồ lấy để đập lại chúng ta. Ở nhà, các anh chị khó hiểu tâm lý của thế giới đối với Việt Nam Cộng hòa chúng ta. Tôi tin là anh Luân nhạy cảm trước những bất lợi mà gia đình chúng ta, chế độ chúng ta phải đối phó...
- Cũng có đến ba bảy đường dư luận. - Trần Lệ Xuân tiếp tục lồng lộn, không thèm ngó mặt Luyện - Dư luận bị đầu độc, chúng ta phải giải độc. Chẳng lẽ chúng ta xin lỗi những kẻ tự đổ xăng vào mình, tự châm lửa. Họ thích tự sát, họ thích tự đốt chùa của họ, chúng ta phải làm gì? Chúng ta có trói gô họ lại đâu, có đổ xăng vào người họ đâu? Mấy năm trước, Hoàng Văn Đáp cũng đã tự thiêu trước tòa đô chính, vài dư luận xấu muốn nhân đó bôi lọ chúng ta, nhưng chân lý vẫn là chân lý. Hoàng Văn Đáp chết, một oan án, thế thôi. Thằng cha Nguyễn Văn Khiết vừa tự sát, hoặc hắn bị những người khác giết giữa ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt, thêm một oan án nữa. Thế thôi. Đó là công việc của ngành cảnh sát hình sự: truy tầm thủ phạm, tống giam, đưa ra tòa, bỏ tù... Bấy nhiêu việc mà cả một bộ máy quốc gia không giải quyết được, lại phiền lòng đến Tổng thống, Đức Tổng giám mục. Người Mỹ nhìn vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức như thế nào? Bà Lindsay Nolting nói với tôi: “Cảnh sát Nam Việt tồi quá... ”
Ngô Đình Nhu đưa tay ra hiệu ngăn vợ:
- Đại sứ Nolting lại nói khác với tôi.
- Ông Nolting nói cái gì? - Lệ Xuân hỏi chồng một cách gay gắt.
- Ông ta bảo rằng đây là một vụ chính trị nghiêm trọng. Ông ta không chê trách cảnh sát mà lo ngại về những điều kiện dẫn đến vụ tự thiêu, nhất là hậu quả của nó...
- Thưa Tổng thống, thưa Đức Tổng giám mục, thưa ông cố vấn - đại tá Đặng Văn Quang đứng lên. Từ nãy giờ Quang là người duy nhất đứng lên rồi mới dám nói - Cơ quan tình báo Mỹ hình như biết trước vụ tự thiêu, bởi vì 9 giờ 30 phút hơn một chút, ông Fishell gọi điện cho tôi, nói rõ tên tuổi và pháp danh của người tự thiêu. Sau đó, ông mời tôi lại cơ quan của ông và cho xem một cuốn phim dài 25 phút ghi toàn bộ hình ảnh từ buổi lễ cầu nguyện ở ngôi chùa nhỏ đường Cao Thắng về chùa Xá Lợi. Ông ta còn cho biết một cuốn phim khác, đang in tráng quay cảnh cầu siêu ở chùa Xá Lợi. Tôi muốn trình với Tổng thống và quý vị khía cạnh đó...
Nói xong, Đặng Văn Quang ngồi xuống, lấm lét ngó quanh.
Nhu bỗng ngó thẳng Trần Kim Tuyến:
- Bác sĩ Tuyến có nhận được một nguồn tin nào báo trước không?
Tuyến tái mặt, lắc đầu lia lịa.
- Còn ông Y? - Nhu hỏi rà.
Y nhổm lên:
- Thưa không.
Luân chờ Nhu hỏi mình, nhưng Nhu lại bóp trán.
- Thưa Tổng thống, thưa Đức cha... Nhu nói mà không ngó ai cả - Chúng ta cần hết sức tỉnh táo. Cái gì ở đằng sau vụ tự thiêu và nhất là cái gì ở đằng trước nó? Ta có thể nào xét vụ tự thiêu vừa rồi tách ra khỏi sự cố ngày 11-11-1960, sự cố tháng 27-2-1962 hay không? Tôi không tin là Phật giáo đủ sức khuấy động đến mức thành áp lực đối với chính phủ.
Nhu móc trong túi ra một bức thư:
- Tôi xin phép Tổng thống đọc bức thư của Cha Cao Văn Luận từ Mỹ gửi về, chỉ đọc những đoạn cần thiết thôi. “Ngày 16-5, tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ và trạm đầu tiên tôi đáp xuống là San Francisco. Tôi muốn nhắc lại một chút, ngày 14-5, tôi tham dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất trường Đại học Sư phạm ở Thủ Đức, cùng với Tổng thống. Đại sứ Nolting hỏi tôi về tình hình ở Huế và tôi trả lời rằng tình hình sở dĩ gây cấn cũng có phần lỗi của chính phủ, chẳng hạn chính phủ cấm treo cờ đúng ngày lễ Phật đản trong khi các cuộc lễ bên Công giáo thì được tự do treo cờ. Ngày 15, Tổng thống gặp tôi và đã khiển trách tôi là đã chỉ trích chính phủ trước một đại sứ ngoại quốc. Tôi đã thưa với Tổng thống là tôi chỉ đưa ra một vài giải thích và thật tình tôi xem hành động của chính phủ ở Huế là bất lợi. Nhân tiện, tôi cũng bộc bạch với Tổng thống, đại ý: số giáo dân Thiên Chúa ở trong Nam chỉ vài trăm nghìn, nhờ phong trào di cư, tổng cộng ngót một triệu, tỉ lệ đó vẫn là thấp so với toàn dân mà Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người Công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào đi nữa, mà chỉ dựa vào tài năng thì bên ngoài, người ta cũng có thể nói rằng Tổng thống thiên vị Công giáo và bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi Cụ cầm quyền thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Trước đó nữa, tôi yết kiến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, Ngài chia sẻ với tôi những lo âu tương tự. Nhưng Đức cha Ngô Đình Thục thì lại bảo tôi: Cha cứ yên tâm, các phong trào chống đối của dân bất quá như ngọn lửa rơm bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ.
Những điều tôi băn khoăn được xác nhận ngay tại San Francisco. Ông chủ tịch tổ chức Asia Foundation vốn thiện cảm với Việt Nam Cộng hòa từ lâu, trong bữa cơm thân mật đã nói nỗi lo lắng của ông với tình hình Huế và Sài Gòn. Từ San Francisco tôi đến Hoa Thạnh Đốn. Đại sứ Trần Văn Chương đón tôi tại phi trường và cùng ngồi xe với tôi về tòa đại sứ, ông Trần Văn Chương hỏi qua về tình hình trong nước và báo cho tôi biết những khó khăn mà đại sứ Việt Nam đang gặp phải ở Mỹ. Đại sứ hàm ý trách cứ tôi đã không dùng ảnh hưởng của mình tác động với Tổng thống và khi biết rằng quan điểm của tôi không được Tổng thống nghe theo thì đại sứ thở dài. Nhân vật Mỹ đầu tiên tôi gặp là Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, tiểu ban Montana. Ông Mansfield là người rất có thế lực thuộc đảng Dân chủ cầm quyền, ông lo lắng cho chế độ của Tổng thống ta khó qua được cơn sóng gió. Ông nói rõ dư luận Mỹ trước năm 1960 rất có thiện cảm với Tổng thống ta. Nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9-4-1961, báo chí Mỹ bắt đầu chỉ trích chế độ Việt Nam Cộng hòa và cũng bắt đầu dùng danh từ “Nhà độc tài” để mô tả Tổng thống. Ông Mansfield cho rằng cuộc bầu cử đó là “gian lận” - gian lận không cần thiết vì uy tín của Tổng thống trong nước đảm bảo cho Tổng thống đắc cử dễ dàng. Thượng nghị sĩ Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn các nhân vật trong chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ Việt Nam Cộng hòa là gia đình trị, Công giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó không thể thắng được Cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với Tổng thống hiểu chiều hướng của dư luận Mỹ, và nếu có thể, nên giúp Tổng thống thay đổi đường lối, nhân sự thì mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Tổng thống, nếu không phải là bỏ rơi Việt Nam.
Tôi cố gắng biện hộ cho Tổng thống, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo nào giữa Phật giáo - Công giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa chính quyền và Phật giáo.
Tổng thống không mấy tin tưởng Phật giáo và Phật tử tích cực chống Cộng cho nên dè dặt đối với Phật giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế, vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi. Những giải thích và biện hộ của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được Thượng nghị sĩ Mansfield.
Trước khi chia tay, Thượng nghị sĩ Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu Tổng thống không có những thay đổi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống lâu hơn được nữa.
Lúc bấy giờ đảng Dân chủ của Tổng thống Kennedy đang nắm quyền và ông Mansfield là một lãnh tụ có nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và chính phủ dân chủ.
Do đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng là người Mỹ đã hết tin ở Tổng thống ta và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao, không phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách.
Tôi muốn biết thêm quan điểm của đảng Cộng hòa đối lập, do đó tôi thu xếp gặp Thượng nghị sĩ Dirksen, một lãnh tụ Cộng hòa lão thành. Ông Dirksen cũng cho tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các chính sách Mỹ không phân biệt Cộng hòa hay Dân chủ đều tỏ ý thất vọng với chế độ Tổng thống, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với Tổng thống nên được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Báo chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ.
Trong lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn, thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân trong vụ đổ máu tại đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở Huế và Sài Gòn, ngày 30-5, báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn áp Phật giáo, như quân đội hay các lực lượng an ninh canh gác các chùa ở Huế, cúp điện trong khu chùa Từ Đàm.
Trong thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ Tổng thống Kennedy, hiện là Bộ trưởng Tư pháp; ông Kennedy chỉ trích những hành động độc tài đàn áp đối lập, kỳ thị tôn giáo của Tổng thống Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không thay đổi, thì chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ Tổng thống Diệm được nữa, vì dư luận dân chúng và Quốc hội Mỹ sẽ làm áp lực buộc chính phủ Mỹ bỏ rơi Tổng thống Diệm, hoặc bỏ rơi hẳn Việt Nam.
Trong cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, Tổng thống Kennedy, đã có những lời lẽ chỉ trích chính phủ của Tổng thống Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào chính phủ Việt Nam yêu cầu. Trả lời cho báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng Cộng sản, thì cần có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản.
Trong cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, tôi được nghe ông nhắc lại những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là Tổng thống Diệm phải mở rộng chính phủ, lập Thủ tướng, tăng quyền cho các Bộ trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối lập tham gia tân chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lý do chính trị hay tôn giáo.
Giọng ông có vẻ gay gắt, khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật giáo. Ông châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80% dân chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, song ngụ ý rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là Tổng thống nên cho các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy với Tổng thống Kennedy. Vậy quan điểm của ông em cũng có thể được coi như quan điểm của ông anh.
Mặc dù ông Robert Kennedy không nói ra, nhưng tôi hiểu ý ông ta muốn dành cho Tổng thống Diệm một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên Tổng thống Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi.
Đến nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với Tổng thống Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực Tổng thống Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả... ”
Không khí phòng họp lặng như tờ, cái biến đổi duy nhất là sắc mặt của từng người. Người thay đổi sắc mặt nhanh nhất là Lệ Xuân và người hầu như không thay đổi là Nhu. Luân cố gắng chọn cho mình một số cử chỉ thích hợp. Thật ra, anh quá cẩn thận. Hầu như chẳng ai để ý đến anh. Những người như Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y có mỗi bận tâm riêng. Bức thư của linh mục Cao Văn Luận thật tàn nhẫn. Và, Ngô Đình Nhu còn tàn nhẫn hơn:
- Chưa hết! Thư của linh mục Luận còn một đoạn, tôi muốn Tổng thống, Đức cha và mọi người biết. Tôi xin đọc tiếp: “Tôi lên Nữu Ước và gặp một chuyện bất ngờ đau lòng. Giáo sư Buttinger, trước là Chủ tịch Hội New Land Foundtion (1) và bây giờ là Chủ tịch Hội “Những người Mỹ bạn Việt Nam” tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về Tổng thống của ta và không còn sốt sắng giúp đỡ cho ta như trước nữa. Giáo sư Buttingger gợi ý ta nên thay đổi Hiến pháp, bớt quyền Tổng thống, chỉ định Thủ tướng và cho các Tổng Bộ trưởng có thực quyền gồm những nhà chính trị có uy tín và tốt nhất nên mời các chính sách đối lập tham gia tân chính phủ. Giáo sư Buttinger nhấn mạnh với tôi rằng chính phủ Việt Nam hãy chấm dứt cho được sự kỳ thị đối với Phật giáo.
Cũng tại Nữu Ước, gặp ông Fishell từ Việt Nam sang có lẽ do một công cán đặc biệt nào đó. Ông rời Việt Nam sau tôi mấy hôm và có nhiều tình hình hơn tôi, tất nhiên là tình hình không mấy lành mạnh đối với chúng ta. Ông Fishell không giấu giếm với tôi rằng ông là một trong những người lãnh đạo cấp cao của Trung ương tình báo Mỹ. Từ Michigan, ông Fishell hấp tấp tìm tôi ở Nữu Ước bằng một chuyến bay riêng và chúng tôi nói chuyện từ 14 giờ đến 24 giờ. Ông Fishell nói toạt với tôi rằng, “nếu Tổng thống Diệm không chịu thay đổi đường lối chính trị và cải tổ nội các, thì nội trong năm 1963 này, Mỹ sẽ tìm cách loại bỏ Tổng thống Diệm ra khỏi sân khấu chính trị bằng nhiều biện pháp, mà không loại trừ biện pháp xóa ông Diệm về mặt thể chất... ”
- Quá quắc lắm! - Diệm giận dữ đấm tay lên bàn - Tôi không phải là bù nhìn, không phải là tôi tớ của Mỹ. Việt Nam Cộng hòa không phải là một bang của Mỹ... Chú Nhu giao thư đó cho tôi, tôi sẽ gọi đại sứ Nolting đến và chính thức gửi kháng thư sang cho Tổng thống Mỹ...
- Hình như linh mục Luận hơn thổi phồng. Sự thể có lẽ không giống như thế. - Tổng giám mục nói mà ai cũng có cảm giác là ông đang bày tỏ hy vọng hơn là phát biểu một ý kiến.
Trần Lệ Xuân nói gần như quát:
- Nếu tôi bảo Tổng thống Mỹ Kennedy hãy cho ông Robert Kennedy thôi chức Bộ trưởng Tư pháp vì là em của Tổng thống thì thế nào? Lố bịch đến thế là cùng!
Trần Kim Tuyến rụt rè báo:
- Theo tin vừa nhận được, Paul Maurice Katterburg, trợ lý của Fishell và Colby vừa bí mật sang Sài Gòn.
- Hắn là ai? - Diệm hỏi.
Tuyến lúng túng, liếc cầu cứu Đặng Văn Quang và Nguyễn Văn Y, nhưng hai người kia đều khẽ lắc đầu.
- Anh Luân có biết tay này không? - Nhu hỏi.
- Biết sơ sơ qua một vài tài liệu của ông ta. Katterburg sinh năm 1922, người Bỉ, di cư đến Mỹ năm 1943, trước là nhân viên OSS nay là CIA, chuyên viên các vấn đề Đông Dương và Nam Dương, một trong những tác giả cuộc lật đổ Soekarno.
Không ai nói, nhưng gần như mọi người trong gian phòng đều cùng thốt một lượt trong tư tưởng: Vậy là đã rõ!
- Có lẽ mọi người chờ ý kiến của anh Luân. - Nhu bảo.
Trong tất cả những người có mặt, Luân bỗng trở thành một “cây đinh”. Anh biết tầm quan trọng của những ý kiến mà anh sắp phát biểu cùng với tính chất phức tạp của nó. Nói cái gì đây? Nói như thế nào? Nhưng, dẫu sao cũng không thể không nói. Anh đứng lên với vẻ trịnh trọng, nhưng Nhu đã ra hiệu cho anh ngồi và Diệm cũng bảo:
- Cháu Luân cứ ngồi mà nói!
- Trước hết, tôi không cho chúng ta phải đối phó với vấn đề Phật giáo mặc dù sự chống đối của Phật giáo đang là trung tâm của các rối ren. Vì lẽ đó, tôi nghĩ là chúng ta phải hết sức thận trọng vói những cái mà tôi tạm gọi là “hữu hình” để ngăn ngừa cái mà tôi cũng tạm gọi là “vô hình”
Phật giáo hiện nay hết con chỉ là biểu tượng của hoạt động một số nhà sư nào đó, một số chùa chiền nào đó, ở một địa phương nào đó. Nếu chính phủ tập trung đối phó một số nhà sư, một số chùa chiền... thì cái kết quả sẽ làm cho tình thế nghiêm trọng hơn, sự bất mãn lan rộng hơn và xét cho cùng, chính chúng ta bị dẫn dắt vào một trận đồ đầy đường ngay ngõ tắt, sinh nở ra nhiều đối thủ mới mà sau lưng họ là hàng triệu con người. Bức thư của cha Luận không có gì bất ngờ đối với chúng ta. Tôi đã từng nghe anh cố vấn nhiều lần nhắc đến mặt trái của chính sách Mỹ đối với Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên, cái mà tôi chưa tự giải đáp được là vai trò của cha Luận và cuộc gặp gỡ giữa cha Luận với giáo sư Fishell phải chăng hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi xin nói rõ hơn: những chính sách Mỹ, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ, sinh viên Việt Nam ở Mỹ phát biểu những lời mà cha Luận ghi trong thư là do họ tự nói hay cha Luận mớm cho họ. Đáng lý, với tư cách là một con chiên, tôi không có quyền đi sâu vào mối quan hệ của hàng giáo phẩm, của các đấng bề trên, nhưng tôi buộc lòng phải nghĩ đến những ý muốn không lấy gì làm kín đáo lắm của cha Luận qua những hoạt động ở Viện đại học Huế, những hoạt động mà cha Luận có lẽ cảm thấy đôi điều bị gò bó kể từ khi Đức cha được giao cai quản Tổng giáo phận...
Ngô Đình Thục lắng nghe đoạn sau của Luân, thỉnh thoảng ông gật đầu đồng tình.
- Người Mỹ nhắc đi, nhắc lại yêu cầu mở rộng cơ cấu chính trị. Ta hiểu cái chứa đựng bên trong của yêu cầu đó là gì? Chắc chắn họ muốn vây quanh Tổng thống là những Phan Quang Đán, Phan Huy Quát, Trần Văn Hương, Nguyễn Trân, Nghiêm Xuân Thiện, Phan Khắc Sửu... Chắc chắn là họ muốn thay đổi một số bộ phận bằng các Bộ trưởng tốt nghiệp ở Michigan và quan trọng hơn, giao quyền binh cho một số sĩ quan được họ đào tạo. Họ nhắc đến chế độ đại nghị - một Tổng thống ít quyền với một Thủ tướng nhiều quyền và họ nói toạt ra là phải cho anh chị Nhu lưu vong. Tức là sẽ giải tán đảng Cần Lao, Phong trào cách mạng quốc gia, Thanh niên và Thanh nữ Cộng hòa, bỏ Sở Nghiên cứu chính trị của bác sĩ Tuyến, Trung tâm tình báo mà đại tá Đặng Văn Quang sắp nhận chức thành một chi cục của Trung tâm tình báo Mỹ.
Tướng Paul Harkins chứ không phải tướng Lê Văn Tỵ là Tổng tham mưu trưởng... Tôi quên một ý: thay đảng Cần Lao bằng đảng Đại Việt... Tất cả để sửa soạn cho một cái gì? Cho một bộ máy cai trị “kiểu Mỹ” tại Việt Nam Cộng hòa và cho một lực lượng Mỹ chưa ai đoán được số quân tràn ngập lãnh thổ chúng ta và quân đội Việt Nam Cộng hòa sẽ trở lại thời kỳ của Pháp, nghĩa là chỉ đóng vai trò quân bổ túc, lính partisan. Tôi không đi quá xa trong suy luận, nhưng tôi tin ở những cơ sở để có những suy luận như vậy...
Luân dừng ngang đó. Anh phát ra một viễn tượng đối với gia đình Ngô Đình Diệm thật rùng rợn, mặc dù những người có mặt hôm nay ai cũng linh cảm mức này hay mức khác hình ảnh tang tóc ấy.
Ngô Đình Diệm vừa đập bàn hồi nãy, đang ngã người trên chiếc ghế bành, gương mặt đăm đăm. Có lẽ ông thấm thía về những thứ quyền uy mượn tạm và khi người chủ nợ muốn lấy lại, ông chỉ còn trơ trọi cái thân xác. Họa may còn Đức Chúa đoái hoài đến ông. Nhiều lần Diệm viết thư riêng cho Hồng y Spellman và bao giờ cũng nhận được thư trả lời đầy nồng nhiệt. Nhưng, lần hồi ông Diệm hiểu rằng Hồng y Nữu Ước không phải là người quyết định chính sách của Nhà Trắng. Trong phút chốc, những kỷ niệm cũ vụt qua giống như một đoạn phim thời sự mà thuở nền điện ảnh còn phôi thai: động tác của con người “cà giật” theo tốc độ của kỹ thuật quay phim lúc ấy, hình ảnh cũ bỗng trở nên kệch cỡm, đầy tính hài hước. “Nước Mỹ, chỉ coi lợi ích của nước Mỹ là quan trọng nhất” - Diệm chua chát nghĩ thầm. Và tự nhiên, ông nhớ liền đến Magsaysay và cái chết vì rơi máy bay ở đảo Cébu. Cái giá mà “người hùng” Phi Luật Tân phải trả, khi muốn nới chiếc thòng lọng thắt cổ của chính phủ Mỹ. Ông lại nhớ Lý Thừa Vãn, một “người hùng” khác của Đại Hàn đang sống lưu đày có lẽ còn tệ hơn Nã Phá Luân trên đảo Saint Hélène. Ông cũng nhớ đến Tưởng Giới Thạch. Người Mỹ hứa “giải phóng Hoa lục” và Tưởng thống chế từng tâm sự với ông cái ngày “ký khai đắc thắng mã đáo thành công”, cờ Thanh thiên bạch nhật rợp bóng Thiên An môn. Tổng thống Eisenhower há không từng nhắc ông công cuộc “Bắc tiến” thu hồi cả giang sơn, duyệt binh giữa Hà Nội, đó sao? Lãnh tụ cả nước Việt Nam - Diệm chưa bao giờ nghi ngờ khả năng trong tầm với ấy của ông. Lãnh tụ toàn Đông Dương - chẳng có gì phải bàn cãi. Lãnh tụ Nam Á, phải đâu là viễn vông. Diệm trở mình, chiếc ghế bành có lẽ lâu ngày không tra dầu mỡ, bật lên tiếng “cót két” khô khan. Giấc mộng bá chủ thu nhỏ đến mức ngang với chiếc ghế bành và hình như để giữ cho chiếc ghế bành được nguyên vẹn không phải là việc dễ.
- Tôi không phản đối phân tích của anh Luân, - Trần Lệ Xuân cất tiếng lanh lảnh - nhưng chữa cháy phải biết dập ngọn lửa nơi phát ra chủ yếu. Phải xóa ngay cái gọi là vấn đề Phật giáo! Đây là lúc chúng ta cần chứng minh với người Mỹ rằng chúng ta là chủ, chúng ta nắm vững tình hình, chúng ta đủ sức đè bẹp mọi phản kháng. Có như vậy, người Mỹ mới bắt buộc phải đánh giá lại thực trạng Việt Nam Cộng hòa từ những nguyên tắc căn bản nhất. Cả nhà còn nhớ khi Tổng thống về nước nhận chức Thủ tướng, quân trong tay tướng Hinh, lực lượng giáo phái cát cứ, quân đội Pháp còn mấy chục vạn, Cộng sản chưa bị đánh tan. Thế mà chúng ta đã thắng. Còn bây giờ? Thật lạ lùng nếu tự dưng chúng ta cho mình vào thế yếu và lại vào thế yếu trước các “lũ trọc” chỉ biết có “mô Phật” và chỉ biết có tự “rôti”. Chúng ta tự kỷ ám thị và cái đó là cái yếu nguy hiểm hơn hết. Phải hành động! Tổng nha Cảnh sát đừng ngủ gật nữa. Bộ Tổng tham mưu đừng tán gẫu nữa. Ông Tuyến, nếu cần, hãy đeo theo vài cặp kiếng để moi cho ra những tên đầu sỏ phiến động. Ông Quang hãy làm cho Trung ương tình báo của ông thành một cơ quan biết trước các mưu toan, kể cả mưu toan của CIA, chứ không phải chỉ làm báo cáo cho Tổng thống khi mọi việc đã rành rành.
Hãy chỉ thị cho ông Mẫu tiến hành một cuộc phản kích thật rộng trên thế giới. Tôi nói hơi vô lễ, Tổng thống và Đức cha chắc không bằng lòng, cha mẹ tôi đảm đương trọng trách ngoại giao nhưng gần đầy lại giao động. Cũng như chú Luyện, tôi nói thẳng, chú làm đại sứ lưu động còn quá tài tử... Tại sao không cho phép giáo dân phải biểu tình, tại sao không biểu dương lực lượng của Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa để dằn mặt bọn thầy chùa? Tại sao không thiết lập tòa án để xử các vụ giết người bằng hình thức tự thiêu? Tại sao không cách chức Viện trưởng Đại học Huế của Cha Luận. Tôi đồng ý với anh Luân, Cha Luận là một tên phản trắc, một tên làm mủ, làm nhọt, một tên tình báo ăn tiền của Mỹ. Ông ta thèm chức Giám mục mà không được. Thế là ông ta trở quẻ. Tại sao Tổng thống không sử dụng quyền mà quốc hội cho phép trong tình trạng khẩn cấp, mở liền các phiên xử của toàn án quân sự đặc biệt, tổng tính sổ từ vụ Bình Xuyên, vụ Nguyễn Chánh Thi, vụ Phạm Phú Quốc. Tại sao?...
Khi bắt đầu nói Lệ Xuân ngồi, nói một lúc mụ đứng dậy và trước mắt Luân, là một người đàn bà không còn một nét mỹ miều nào, sao mà giống những mô hình Võ hậu, Lữ hậu, Tây thái hậu trong tiểu thuyết và trên sân khấu đến thế!
- Còn anh! - Lệ Xuân gần như điểm mặt Ngô Đình Nhu - Anh đã thấy chủ trương nhượng bộ của anh mang đến cái gì rồi đó. Trước kia, với tướng Hinh, với Bảy Viễn và với Nguyễn Chánh Thi, anh cũng chủ trương nhượng bộ. Nếu nhượng bộ, tất cả chúng ta không lưu vong thì cũng vào khám. Làm mạnh, và mạnh hơn nữa. Tình hình đòi hỏi như vậy!
Lệ Xuân ngồi xuống, mặt mụ sát khí đằng đằng. Lệ Xuân thu được kết quả trông thấy. Diệm bắt đầu tươi tỉnh. Nhu tuy vẫn đắn đo nhưng anh ta không còn rít thuốc liên hồi, thói quen chứng tỏ anh ta đã có chủ kiến rõ ràng. Luân không nói gì hết và anh cũng biết, Trần Lệ Xuân không muốn đương đầu với anh.
Cuộc họp giải tán, Nhu ngồi nán lại khá lâu.
Luân tin rằng nội hôm nay, một loạt chỉ thị sẽ được ký.
*
Về đến nhà, Luân gặp Saroyan ngồi chờ anh ở phòng khách. Dung bận công việc ở Tổng nha.
- Em đã báo với bà đại tá và bà đại tá bảo em gặp anh. - Saroyan cầm tay Luân khá lâu.
- Saroyan ngồi xuống! - Luân bảo, Saroyan gặp anh nhất định vì một việc gì đó hết sức quan trọng. Và đúng như vậy.
Saroyan báo cho Luân biết một cuộc họp tuyệt mật của một số sĩ quan cấp tướng tại một nhà nào đó, có Fishell, Katterburg và James Casey. Đặc biệt dự họp có cả một nhà sư. Saroyan không biết nội dung cuộc họp, nhưng cô đoán rằng họ bàn những việc liên quan đến chế độ ông Diệm mà với cô, tức là liên quan đến Luân.
- Em biết được do Fishell về nhà quá muộn. Em bỗng nhớ đến anh và dọ thử: Tại sao gần đây anh ít gặp đại tá Luân, Fishell trả lời: Gã đại tá này dấn quá sâu vào gia đình ông Diệm...
- Em sắp rời Nam Việt, không thể tiếp tục nấn ná được nữa, Fishell dự kiến vào cuối năm này sẽ làm lễ thành hôn với bà hoàng xứ Ả Rập, hôn lễ chính thức cử hành tại Ryad. Hôm nay, ngày mà sự ly dị giữa em và Fishell bắt đầu có hiệu lực về mặt pháp lý. Em trở thành người tự do hoàn toàn nhưng đã không phải là vợ một Fishell thì em không thể có mặt ở Sài Gòn. Anh cũng biết, tình báo Mỹ không cho phép em kéo dài thời gian tại đây. Vậy là cái mà em hết sức mong muốn được giúp đỡ anh không thể thực hiện được. Em đã lấy xong vé máy bay, về Koweit một thời gian rồi sau đó sẽ tính. Nói cho đúng, Fishell lấy vé máy bay và quyết định ngày em phải rời Sài Gòn; có thể coi đây như một quyết định trục xuất.
Tất nhiên là Luân hiểu vì trước kia, Tiểu Phụng chỉ vương vấn với Luân vào giây phút cuối cùng mà phải nhận một cái chết thảm khốc.
- Bao giờ thì Saroyan lên máy bay?... - Luân hỏi.
- Chiều ngày mai.
- Saroyan đến đây Fishell có biết không?
- Biết, em có báo cho hắn.
- Fishell bảo sao?
- Hắn bảo: Cô đã trở thành người tự do, nhưng phong tục Việt Nam không cho phép đại tá Luân lấy hai vợ. Hắn cười nham nhở. Hắn bảo: John Hing thích cô nhưng cũng thích trong những giờ hạn định và cô đã tát ông ta rồi. Cô cứ đến từ biệt Nguyễn Thành Luân, tôi không ngại cô sẽ giao cho Nguyễn Thành Luân những tài liệu gì đó thuộc công vụ của tôi, bởi vì những gì tôi biết thì Nguyễn Thành Luân cũng biết, thậm chí đôi cái về Việt Nam còn biết hơn tôi!
- Saroyan đã thu xếp xong hành lý chưa?
- Xong, và đã chuyển ra sân bay, trừ một túi nhỏ.
- Thế thì, để đề phòng mọi bất trắc, tôi muốn Saroyan ở đây với chúng tôi và chiều mai, Dung và tôi sẽ tiễn Saroyan ra sân bay. Tôi rất ngại những đột biến có khi từ Fishell mà có khi từ người khác. - Luân bảo Saroyan, giọng âu yếm.
- Em sẽ làm theo ý anh mặc dù bây giờ việc em còn hay mất gần như vô nghĩa đối với em. Em mong muốn được ở bên cạnh anh, giúp anh, dĩ nhiên không thể với tư cách là vợ hay tình nhân, nhưng điều đó không có gì quan trọng. Trong thời gian vài năm sống ở Việt Nam, em khám phá ra một điều: giá mà người Ả Rập của em có được những hiểu biết như dân tộc anh... Rất tiếc, em không có khiếu chính trị và chắc chắn không thể mang về cho người Ả Rập điều mà họ cần...
- Saroyan không thấy mấy hôm nay đường phố Sài Gòn tràn ngập các nhà sư?
- Em thấy. Thoạt đầu em cũng nghĩ người Việt giống người Ả Rập, cũng cuồng tín. Nhưng khi đọc báo và xem ảnh về cái chết của nhà sư Thích Quảng Đức, em hiểu khác. Có thể có một số nhà sư nào đó cuồng tín, cũng có thể có một số nhà sư nào đó lợi dụng đạo Phật vì mục đích chính trị hay tài chính, hay tệ hại hơn, nhưng số đông lại biết điều khiển tín ngưỡng của mình vào những mục tiêu. Chỉ có điều em cảm thấy Fishell và những người của hắn ta thủ lợi đầy đủ hơn hết trong các sự biến hiện nay. Với anh, em mong đừng để rơi vào trong cơn hỗn loạn này. Anh phải sống, sống cho Thùy Dung và xin phép anh, sống cho em!
Saroyan khóc. Luân ngồi chết trân, tâm trạng rối bời.
Tiếng còi ôtô gọi cửa. Dung vào nhà, ôm choàng Saroyan...
“Một cuộc họp gồm một số tướng, một nhà sư, các nhân vật Mỹ có cỡ... Đạn đã lên nòng. Ngón tay xạ thủ đã đặt vào ổ cò. Chỉ còn từ từ siết cò... ” - Luân vừa ngó hai phụ nữ đang ríu rít với nhau vừa nghĩ đến một ngày chắc không xa lắm. Anh bỗng như choáng ngợt. Sự kiện - một khi bùng nổ - cao rộng hơn hiểu biết của anh và chắc chắn tác động của anh, nếu có, cũng chỉ là vài chi tiết... Đây là vấn đề của Trung ương, của những nhà chiến lược lớn và có lẽ, là vấn đề của quần chúng...
Mâu thuẫn nội bộ kẻ thù gần như khó điều hòa. Trong cơn hỗn loạn, anh phải làm gì, có thể làm gì, làm với anh, làm cách nào?
Chưa bao giờ Luân khốn khổ như hiện nay: Đứt liên lạc với cấp trên. Sa - con thoi nối liền giữa anh với lãnh đạo - bỏ hẹn. Anh cố theo bản nhắn tin của đài Hà Nội, đài Giải phóng, nhưng không bắt được ám hiệu. Mục rao vặt trên báo hằng ngày cũng không thấy một mẩu nào... Anh đã mạo hiểm gọi điện lại bác sĩ Tạ Trung Quân - nơi Sa làm việc - và không phải Sa mà một cô y tá trả lời. Vả lại, anh không biết tên mà Sa đang dùng, cho nên đành gác máy.
Trong cái nôn nả chung, Luân còn yêu cầu miệng: anh muốn gửi đứa con của Mai lên Nam Vang để ra Hà Nội - anh đã có địa chỉ của nó. Dung muốn đưa nó về ở chung nhà, song Luân không chịu: biết đâu, chính nhà anh cũng sẽ xáo trộn?
Trước khi cùng Dùng vào phòng riêng, Saroyan chợt tươi tỉnh.
- Anh đừng buồn. Em và Dung sẽ tính... Không phải không có cách. Nhưng, - Saroyan lại sa sầm mặt - có khi em không còn là em nữa...
Luân ngồi thừ mãi...
Anh không thể nào nghe được cuộc nói chuyện ở nhà riêng tướng Mai Hữu Xuân - giữa ông ta với trung tá Hùng, con người mặt choắt, cằm phất phơ vài sợi lông về số phận của Saroyan.
- Saroyan sẽ rời Sài Gòn bằng chuyến thường lệ của hãng hàng không Pan American vào 4 giờ chiều mai - Tướng Mai Hữu Xuân vừa nhả khói ông píp, vừa bảo trung tá Hùng đang đứng nghiêm. - Nghĩa là anh còn... - Tướng Xuân vén đồng hồ tay - anh còn 24 tiếng đồng hồ để làm cái việc mà tôi cần và ông Fishell thì không phản đối - không phản đối nếu anh thực hiện bằng cách nào đó không thể tạo cớ để ông ta phản đối...
Mặt trung tá Hùng như choắt thêm. Trong đầu hắn ta vụt qua một loạt phương án quen thuộc. Song với Saroyan thật khó... Cô ta ở chung nhà với Fishell và nhà do quân cảnh Mỹ gác. Cô ta ra đường đi xe của Fishell và vẫn có một thằng bảo vệ người Mỹ da đen ngồi sầm sầm đó, dù cho cô ta và Fishell đã ly dị.
- Ông Fishell không có mặt ở Sài Gòn đêm nay và trọn ngày mai... - Xuân nói - Nhưng, tôi khuyên anh đừng chọn nhà Fishell, vì, như thế, quân cảnh Mỹ sẽ nổ súng và bọn anh sẽ bị khử tại chỗ hoặc sau đó, liên lụy đến tôi. Vả lại, theo tôi biết Saroyan đang ở nhà đại tá Nguyễn Thành Luân. Tôi cũng khuyên anh đừng mò đến đó. Tổng nha Cảnh sát rải một lô công an chìm canh giữ nhà đại tá, nhà đại tá lại cùng một đường phố với nhà riêng của đại sứ Nolting, chung quanh có khá nhiều nhà riêng các đại sứ nước ngoài, cạnh Hội Việt - Mỹ... Nên nghĩ cách khác!
- Ngày mai, ông Fishell không tiễn Saroyan ra sân bay? - Hùng hỏi.
- Tất nhiên! Giờ máy bay cất cánh, ông Fishell mới bắt đầu cuộc viếng thăm xã giao tướng Tôn Thất Đính tại nhà riêng của tướng Đính trên Đà Lạt.
Trung tá Hùng xin phép ngồi xuống ghế, hút thuốc.
- Khử con mụ Saroyan không khó, nhưng nếu vì đó mà đụng đến thằng Nguyễn Thành Luân và con Thùy Dung thì sao? - Hùng hỏi.
Mai Hữu Xuân lắc đầu:
- Chưa phải lúc...
- Vậy thì khó...
- Tất nhiên là khó... Ngay với Saroyan, anh cũng phải cân nhắc. Fishell sẽ làm to chuyện nếu anh hé ra một dấu hiệu nhỏ rằng Saroyan chết vì bị ám hại chứ không vì tai nạn. Fishel truy lùng và anh không trốn thoát. Anh sẽ bị xử bắn!
Mai Hữu Xuân nói chuyện ấy bằng một giọng đều đều như ông ta trao đổi với trung tá Hùng về một buổi giải trí, một cuộc dạo mát. Trung tá Hùng vân vê sợi lông càm...
- Tôi cần khóa mồm Saroyan. Chắc chắn Fishell cũng cần, theo yêu cầu khác... Fishell ngại Saroyan lật tẩy các vụ cưới vợ của ông ta - nghề tình báo buộc ông ta luôn luôn đổi vợ và cái quan trọng đối với Fishell lại là quốc tịch của vợ, chứ không phải vợ...
Xuân tiếp tục đi lại trong phòng.
- Còn tôi, tôi cần vì Saroyan thân với Nguyễn Thành Luân. Tôi không sợ Saroyan cung cấp tin tức cho Luân - Luân hiểu trăm lần nhiều hơn Saroyan về các loại “thâm cung bí sử” của Sài Gòn, Hoa Thạnh Đốn... Nhưng, Saroyan nhất định sẽ có chồng. Giả tỷ mụ ta lấy một nhân viên cao cấp ở Bộ ngoại giao Mỹ chẳng hạn, rồi lại lộn sang Sài Gòn, anh nghĩ thế nào về chỗ dựa của Luân? Tôi không đoán suông đâu. Tôi biết chắc, chẳng bao lâu, Saroyan sẽ là phu nhân của Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao Mỹ, nếu không phải là phu nhân của một nhân vật còn ghê rợn hơn - tướng Jones Stepp, chỉ huy phó các vấn đề an ninh, quân sự thuộc Ngũ Giác Đài, đặc trách châu Á và Thái Bình Dương: ông ta góa vợ và đã ngỏ lời xin cưới Saroyan... Giữa hai chiếc gường, Saroyan đang chọn - chọn vì thằng Luân...
- Có thể tôi đánh tỉa được. Có thể không. Điều kiện của thiếu tướng trói tay trói chân tôi. Không gây xây xát cho vợ chồng Luân thì không khử nổi Saroyan...
- Nếu chỉ xây xát... - Xuân trầm ngâm - Và nhất là nếu không hề hé ra một bằng cớ nào anh dính vào nội vụ...
- Cái đó thì tôi đảm bảo. Những người mà tôi giao việc, thiếu tướng cứ tin đi, họ như không có lưỡi!
-... Anh cứ làm!
Xuân phẩy tay. Trung tá Hùng hiểu: nếu lỡ “phạm dao” đến cả sinh mạng vợ chồng Nguyễn Thành Luân, cũng không đến nỗi nào, miễn là giấu biệt đầu mối...
Trung tá Hùng chào tướng Xuân, nhảy lên chiếc xe Jeep quân sự, một loáng sau đã có mặt ở một tiệm ăn và người mà gã gặp là Ly Kai.
*
Chuông điện thoại reo, Dung nhấc máy:
- Alô... Vâng, bà Saroyan có ở đây... Xin chờ một chút.
Saroyan cầm máy:
- Alô... à, chào cô! Cám ơn. Tốt quá. Không, tôi tự mua, miễn là cô dẫn tôi đến nơi bán. Chà có phiền cô lắm không? Xin cám ơn trước. Tôi đợi.
Dung không để ý lắm đến cuộc điện đàm của Saroyan, nhưng chính Saroyan bảo Dung.
- Tôi sắp đi ra phố một lúc, ca sĩ Minh Hiếu rủ tôi đi mua một chiếc ngà voi chạm trổ. Tôi muốn mang về cho gia đình vài món quà lạ ở đây. Xin lỗi Thùy Dung, tôi đi thay đồ...
Từ khi Luân đi làm việc, Saroyan nói chuyện khá lâu với Dung và hai người đổi cách xưng hô. Tin của Saroyan lóe lên trong óc Dung mối nghi ngờ. Cái gì đây?
Dung gọi điện cho Luân, thuật lại việc Saroyan sắp ra phố. Saroyan thay xong quần áo, Dung trao máy nói cho Saroyan.
- Đại tá muốn nói chuyện với Saroyan.
- Thế à? - Saroyan nói vào máy - Không lẽ... thôi được, xin “tuân lệnh” đại tá!
- Đại tá bảo Thùy Dung cùng đi với tôi, bằng xe nhà của chúng ta. Có lẽ không nên thì hành thêm một “mệnh lệnh” khác của đại tá, tức là lấy theo một bảo vệ.
- Saroyan đợi mình một chút. - Dung bảo - Ta phải thi hành y theo ý kiến của đại tá.
Khi Dung sửa soạn xong thì chuông ngoài cổng reo. Saroyan và Dung ngồi lên xe, băng trước có một vệ sĩ của Phủ tổng thống trong nhóm bảo vệ Luân. Cổng mở, một xe khác đang chực, trên xe không có ca sĩ Minh Hiếu mà là một gã lạ mặt, ngoài tài xế. Gã lạ mặt rõ ràng thất vọng khi thấy Saroyan cùng đi với Dung bằng xe riêng. Saroyan cám ơn gã và nhờ gã cám ơn ca sĩ Minh Hiếu.
Hai người đi mua một số hàng mỹ nghệ và họ về nhà khi đèn đường vừa lên; Luân chờ họ ăn tối.
Suốt đêm hôm đó, luôn sáng hôm sau, Saroyan và Dung quấn quít nhau, khi Saroyan nhắc đến viên công chức Bộ ngoại giao, rồi viên tướng Mỹ, Dung bật khóc.
- Saroyan không cần thiết phải làm như vậy!
- Tại sao không cần thiết? - Saroyan hỏi - Tôi bắt đầu hiểu quê hương của Thùy Dung qua anh Luân. Qua anh Luân, tôi lại hiểu quê hương của hai người sâu hơn. Bây giờ, tôi muốn hành động. Cần phải làm một cái gì cho các bạn. Ông Diệm là người không tốt, tôi tin như vậy. Nhưng anh Luân và Thùy Dung là người tốt. Fishell thay vợ như thay sơmi. Thế thì tại sao người Mỹ sẽ giữ mãi ông Diệm và tại sao không đổi cách cư xử với anh Luân và Thùy Dung? Không, tôi không để mất những người bạn quí...
... Hai vợ chồng Luân tiễn Saroyan ra sân bay. Xe theo đường Trương Minh Giảng. Sắp vượt cầu, Luân bỗng thấy một người đứng trên mui một chiếc xe chở khách đang đậu, hình như đưa tay ra một ám hiệu cho phía bên kia cầu. Linh tính báo với Luân có thể có một cái gì đó không tốt. Anh đột ngột bảo tài xế giảm tốc lực và rẽ ngoặc ngay lập tức vào lề, dừng hẳn xe lại. Mọi người trong xe nhảy vội ra ngoài. Đúng vào lúc đó, từ bên kia cầu, một xe tải vượt sang, người tài xế giống kẻ say rượu, lái xe ngoằn ngoèo. Tai nạn xảy ra: một xe tắc xi chưa vượt cầu đã bị chiếc xe tải đâm phải. Tên tài xế phóng khỏi xe, chạy biến. Luân nhìn lên mui chiếc xe chở khách - không có ai trên đó cả. Cảnh sát đến làm biên bản. Tài xế tắc xi chết, người khách đi trên xe bị thương nặng.
- Bây giờ, em càng quả quyết phải trở lại Sài Gòn cho bằng được! - Saroyan nói trong cơn giận dữ chứ không phải sợ hãi.
Họ vào sân bay, lên phòng đợi. Luân, Dung, vệ sĩ của Luân không rời Saroyan nửa bước.
- Chúng nó dám cho nổ máy bay lắm! - Dung nói khẽ vào tai Luân. Luân lắc đầu:
- Chưa đến mức đó đâu, nhất là chuyến của Hãng Pan America, toàn nhân vật có cỡ. Đây là tác phẩm của Mai Hữu Xuân, hoặc của bọn nào đó, nhưng không phải của CIA...
- Hành trình hơi dài... - Dung vẫn lo lắng.
Một quân nhân Mỹ đeo hàm đại tá đến chào Saroyan:
- Thưa bà, tôi là Stewart Senior làm việc ở Pentagone... Bà về Mỹ?
Saroyan lắc đầu:
- Tôi về Koweit.
Luân rạng rỡ hẳn, anh chìa tay bắt Stewart thật chặt
- Đại tá biết tướng Jones Stepp?
- Biết! - Stewart nháy mắt tinh nghịch - Rất biết, kể cả việc bà Saroyan đây... !
“Ổn rồi!” - Luân kêu thầm. Anh nói luôn:
- Thế thì Saroyan đã có bạn đường tin cậy. Tôi mong đại tá “hộ tống” bà phu nhân tương lại của tướng quân an toàn đến Koweit!
Stewart dập gót chân, cười:
- Tuân lệnh!
Vợ chồng Luân tiễn Saroyan tận cầu thang.
- Tôi sẽ trở lại! - Saroyan ôm cả hai người, nói trong tiếng nấc.
Không một ai trong họ có thể biết được, trong toalet dành cho phụ nữ tại phòng đợi, hai người mặc đồng phục nhân viên phục vụ sân bay đã trực sẵn với các dụng cụ: chiếc khăn lông to, chiếc găng tay! Saroyan sẽ bị bóp cổ và xác sẽ nằm trong toalet bị khóa chặt.
Và, cũng không một ai trong họ biết trung tá Hùng quát tháo Ly Kai; Ly Kai quát tháo lũ hạ thủ, và sau đó, trung tá Hùng lãnh đủ cơn thịnh nộ của tướng Mai Hữu Xuân để rồi đến lượt tướng Xuân nhận cú điện thoại từ Đà Lạt gọi về:
- Hello! Thế nào?
Người gọi gác máy, cắt ngang câu chuyện khi nghe Xuân báo:
- Thưa, bà Saroyan vào giờ này có lẽ đang có mặt tại gia đình bà, ở Koweit!
----------
(1) Xây dựng vùng đất mới.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #24  
Old 12-08-2012, 12:15 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 5, 6

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 5


Cuộc họp tuyệt mật của số sĩ quan cấp tướng mà Saroyan báo với Luân, về phía Mỹ không có James Casey. Lý do là đại sứ Nolting không tán thành cuộc họp này, ông ta không muốn liên can quá lộ liễu đến một âm mưu chống lại tổng thống Ngô Đình Diệm. Thâm tâm Nolting chưa tán thành quan điểm loại Diệm vào lúc này - mối quan hệ nhân ngãi với Lệ Xuân giữ một tỉ lệ nào đó, tất nhiên, trong thái độ do dự này, đồng thời ông ta lại làm mọi cái có thể làm để cho việc loại Diệm chín muồi hơn mà vẫn giữ được tiếng là kẻ hết lòng ủng hộ Diệm. Fishell và Katterburg, với danh nghĩa những người bạn của các tướng lĩnh Việt Nam đến góp ý kiến về thời cuộc, thật ra là tác giả kiêm đạo diễn của vở kịch lớn được thai nghén rồi soạn thảo từ lâu, với những phân đoạn kỹ thuật chi tiết, chia thành từng trường đoạn, thậm chí với một bảng bố trí vai diễn - có vai chính và có vai phụ.
Về phía Việt Nam, có các tướng Mai Hữu Xuân, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, và 2 đại tá - Nguyễn Hữu Có và Đỗ Mậu - có vẻ như Lê Văn Kim hoặc Trần Văn Đôn khởi xướng cuộc họp tạo phản này, nhưng, trước khi khai mạc, Katterburg rầm rì rất lâu với Đỗ Mậu, còn Fishell thì trao đổi riêng với tướng Xuân.
Nơi họp là nhà riêng của đại tá Có - một bữa tiệc thịt rừng vào chiều thứ bảy, gồm những người bạn thân Việt và Mỹ.
Ngay những người dự họp đều không biết một chi tiết khá thú vị: sau khi nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu, Fishell đã bí mật gặp John Hing; còn John Hing, để chuẩn bị gặp Fishell, đã làm việc mấy tiếng đồng hồ liền với Lâm Sử có thể tóm gọn như sau: Trung Cộng dùng ảnh hưởng của mình để hạn chế tối đa mức hoạt động của Việt Cộng một khi xảy ra biến động có tầm cỡ quốc gia ở Sài Gòn. Lâm Sử thừa biết cái “biến động tầm cỡ quốc gia” ấy là gì, tuy nhiên anh ta đắn đo về lời cam kết. Lâm Sử tự đánh giá anh ta không có khả năng làm việc đó một cách trực tiếp. Bề ngoài, Lâm Sử phải tỏ rõ cho Việt Cộng thấy Bắc Kinh nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng ở miền Nam Việt Nam. Anh ta có thể xin gặp Khu ủy Cộng sản khu Sài Gòn - Gia Định, thậm chí có thể xin gặp Trung ương Cục miền Nam nhưng sẽ chẳng ăn thua nếu anh ta lại đưa ra đề nghị Việt Cộng đừng lợi dụng thời cơ rối loạn ở Sài Gòn để đánh rã quốc sách ấp chiến lược và đánh rã quân đội Sài Gòn. Một đề nghị như thế chẳng khớp chút nào với khẩu hiệu mà đài Bắc Kinh đang ra rả suốt ngày. Lâm Sử dễ dàng hẹn với Nghị Lực, một cán bộ lãnh đạo các tổ chức lao động và học sinh người Hoa ở thành phố thuộc Khu ủy Cộng sản Việt Nam. Cũng vậy thôi, Nghị Lực là một người trọng nguyên tắc, rất có kinh nghiệm chính trị, đôi khi đề nghị của Lâm Sử lại cung cấp cho Nghị Lực cơ sở để phản ánh về cơ quan lãnh đạo cấp cao của Việt Cộng và kết quả sẽ ngược hẳn ý muốn của Lâm Sử. Hơn nữa, gần đây mối quan hệ giữa nhóm Lâm Sử và nhóm Nghị Lực bắt đầu có những biểu hiện mâu thuẫn. Mâu thuẫn lớn xoay quanh một loạt quan điểm. Từ lâu rồi, Lâm Sử bảo vệ phương châm mà anh ta cho là “nguyên lý của chủ nghĩa Mác ở châu Á” - lực lượng cách mạng Nam Việt Nam phải trường kỳ mai phục, xúc tích lực lượng, chờ đợi thời cơ, dùng nông thôn bao vây thành thị, ở nông thôn thì cơ bản là tác chiến du kích và phòng ngự, không cần thiết xây dựng lực lượng chủ lực quá cấp đại đội. Diễn tiến của tình hình chung ở Nam Việt Nam từng ngày một chẳng những đính chính mà còn phủ định cái nguyên lý kia - cái nguyên lý đã đưa phong trào cách mạng một loạt các nước Đông Nam Á vào chỗ khó khăn nghiêm trọng. Mâu thuẫn cụ thể giữa hai nhóm xuất phát từ đối tượng mà hai nhóm phụ trách.
Xét về một nghĩa nào, mâu thuẫn đó thật sự gay gắt. Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm người Hoa thuộc tầng lớp tư sản mà số không nhỏ là tư sản mại bản. Do vấn đề được đổi quốc tịch, số tư sản người Hoa đã tham gia chính quyền ở nhiều dạng và nhiều mức, giữ vị trí then chốt trong một số ngành kinh tế như tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, thương nghiệp. Nghị định cấm 11 nghề của Ngô Đình Diệm thực tế bị vô hiệu hóa bởi vì tổng đại lý mua bán sắt thép không phải là Pô Xường Thài mà là Bá Thượng Đài. Ở đây, nẩy sinh một tranh chấp tất yếu giữa một bên là những ông chủ - tất cả đều vừa giữ quan hệ tốt với sứ quán Đài Loan, vừa giữ quan hệ bí mật với nhóm Lâm Sử - và một bên là những người Hoa lao động, mang quốc tịch Việt Nan hay theo quy chế ngoại kiều. Với số lao động này, nghị định cấm 11 nghề vẫn giữ nguyên hiệu lực. Trong vòng vài năm nay, nhiều cuộc đấu tranh nổ ra giữa chủ người Hoa và lao động cũng người Hoa. Mỗi lần nhóm Lâm Sử gặp nhóm Nghị Lực, cuộc tranh luận không còn dừng ở ngang các lời lẽ hữu hảo chung chung, ủng hộ lẫn nhau chung chung, mà thật sự là cuộc đối đầu giữa hai thế lực phản ánh vị trí xã hội đối lập mà hai nhóm đại diện. Lúc đầu, nhóm Nghị Lực đề nghị nhóm Lâm Sử hướng dẫn các chủ nhân người Hoa giải quyết thỏa đáng yêu cầu của những người làm thuê Hoa và Việt trong một số xí nghiệp, tiệm buôn nhất định. Thường thường nhóm Lâm Sử né tránh bằng cách giảng giải tràng giang đại hải về sách lược đối với Hoa kiều tư sản ở Đông Nam Á. Sau này, nhóm Nghị Lực đặt thẳng các yêu cầu và nói rõ vấn đề mà họ quan tâm là lợi ích của người Hoa nghèo trong cộng đồng Hoa - Việt ở miền Nam và ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Họ không có trách nhiệm gì đối với chính sách Hoa kiều của Bắc Kinh. Có thể nói được rằng, quan hệ của hai nhóm đang khá căng thẳng. Gần đây nhất, nhóm Nghị Lực đưa ra một loạt yêu sách về cải thiện điều kiện làm việc và lương bổng của công nhân các hãng dệt lớn nhất thành phố như hàng Vimytex và Vinatexco. Cả hai hãng gồm đến hơn một vạn công nhân, phần lớn là thiếu nữ người Hoa và cả hai hãng đều tồn tại dưới dạng tổ hợp Việt - Mỹ, nên hiểu Việt là những tư sản người Hoa đổi quốc tịch Việt Nam.
Một việc khác cũng không kém phức tạp. Nhóm Lâm Sử phát hành tờ tin lưu hành trong giới học sinh - là khu vực theo thỏa thuận giữa hai đảng, thuộc phần quản lý của nhóm Nghị Lực. Tờ tin mang tên “Diện hướng Tổ Quốc”, đăng tải các bài nói về công xã nhân dân, về bước “đại nhảy vọt” và các câu của “người cầm lái vĩ đại” được thần chú hoá, Nghị Lực đã trực tiếp phản đối việc làm này, coi như là sự can thiệp vào nội bộ Việt Nam và trái ngược với những điều đôi bên đã giao ước. Thế của nhóm Nghị Lực ngày một lớn do phong trào của người Hoa kết hợp với phong trào của người Việt trong xí nghiệp và ở trường học phát triển mạnh, được cuộc chiến tranh giải phóng ở nông thôn và các hoạt động vũ trang ở đô thị hậu thuẫn. Nhóm Lâm Sử hết rơi vào chỗ lúng túng này đến chỗ lúng túng khác bởi thiếu nhất quán trong lập luận của họ. Lâm Sử đã nhiều lần lên Nam Vang gặp đại sứ Trung Cộng xin chỉ thị. Liêu Thừa Chí, người cầm đầu Vụ Hoa kiều của Bắc Kinh đã điện cho Lâm Sử, truyền đạt chỉ thị của Trung ương Trung Cộng, nhưng đó cũng chỉ là những giáo huấn rất chung.
Chính sách của Bắc Kinh đối với Ngô Đình Diệm từ đầu năm 1962 đã thay đổi. Không phải Liêu Thừa Chí mà Hàn Niệm Long, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của Trung Cộng, đồng thời là nhân vật chủ chốt của Ban đối ngoại trực thuộc Trung ương Trung Cộng đã điện cho Lâm Sử qua đại sứ Trung Cộng tại Nam Vang: Thay đổi Ngô Đình Diệm bằng cách nào đó là cần thiết đối với lợi ích của Trung Quốc bởi lẽ, trong tình hình hiện nay, sự tồn tại của Ngô Đình Diệm đồng nghĩa với việc xúc tiến những điều kiện thuận lợi để cho Việt Cộng kiểm soát toàn bộ Nam Việt Nam, hoặc trực tiếp do lực lượng Việt Cộng của Nam và Bắc phối hợp thực hiện hoặc thông qua bước quá độ kiểu chính phủ liên hiệp ở Lào. Hết sức đề phòng khả năng đảo chính tại Sài Gòn do chịu ảnh hưởng Việt Cộng hoặc vì sức ép của Việt Cộng ngoài chiến trường. Nếu có đảo chính thì lợi nhất đối với Trung Quốc là người Mỹ tổ chức đảo chính liên hiệp với các thế lực thân Pháp. Sự kiện đó xảy ra càng sớm càng tốt.
Phương hướng đã được vạch rõ. Những gì John Hing trao đổi với Lâm Sử, chỉ minh họa thêm chỉ thị của Hàn Niệm Long.
Trong một lần về Bắc Kinh, Lâm Sử đã được nghe các nhận định khái quát về phân chia vùng thế lực ở Đông Nam Á và Đông Dương của Trung ương Trung Cộng. Riêng Việt Nam, Nam vĩ tuyến 17 nằm trong vùng ảnh hưởng của Mỹ, có dung hòa lợi ích với Trung Cộng. Nước Việt Nam sẽ chia cắt lâu dài. Điều gì đụng chạm đến chủ trương đó đều phải bị gạt bỏ.
Trung Cộng hy vọng xa hơn: tạo ngay trong ruột của Việt Cộng ở miền Nam một phân hóa nào đó dẫn đến tư tưởng “tự trị” đối với cả nước; muốn được như vậy cần phải kéo dài chiến tranh, Mỹ cần phải tham gia sâu hơn vào chiến sự.
Trung Cộng theo dõi thật chi li những diễn tiến của tình hình Nam Việt và lo lắng về khả năng chính Ngô Đình Diệm, bị dồn vào thế bí, chìa bàn tay xin xỏ sự giúp đỡ của Việt Cộng. Cả John Hing và Lâm Sử đều nhìn Nguyễn Thành Luân, nay là đại tá, như một thứ gạch nối cực kỳ nguy hiểm một khi Diệm muốn thoát khỏi bế tắc. Tuy nhiên, cho đến giờ phút này, ý kiến của John Hing chưa được Fishell chấp nhận. Hơn thế nữa, một số nhân vật cao cấp của Mỹ còn đặt Nguyễn Thành Luân trong ngôi thứ trọng yếu khi Mỹ thay đổi “đồng minh” ở Nam Việt.
Gì thì gì, Lâm Sử vẫn phải trả lời cho John Hing. John Hing không bằng lòng câu trả lời nguyên tắc mà muốn hiểu xem Lâm Sử tác động cụ thể như thế nào với Việt Cộng.
- Các ông đã để vuột ra khỏi tay mình các ông bạn đồng minh Việt Cộng quí hóa của các ông... - John Hing nhún vai sau khi nghe câu trả lời rất lúng túng của Lâm Sử.
- Chúng ta phải suy tính cách của chúng ta. - John Hing bảo Fishell, sau khi lắc đầu về vai trò của nhóm Lâm Sử trong kế hoạch hành động của họ.
- Tôi đánh cuộc với Tổng thống Kennedy rằng, sẽ không có hậu quả gì đáng kể nếu ông Diệm bị thay thế. Dĩ nhiên, tình hình sẽ tùy thuộc ở chỗ sự thay thế êm thấm hay ồn ào. Tôi chủ trương cố gắng để thay thế êm thấm. Tất nhiên, ông Diệm và gia đình ông ta rất cứng đầu, cần thiết phải có một sức ép. Sức ép đó, phải từ các quân nhân bởi vì Nam Việt đang có chiến tranh, ông Diệm không thể giữ ghế Tổng thống nếu không được các tướng ủng hộ.
Cuộc họp bắt đầu bằng những lời phân tích của tướng Mai Hữu Xuân. Tướng Xuân nói trước hết về tình hình chiến sự mà theo ông là bi đát. Với tư cách là Tư lệnh hành quân, ông phác qua đại cương trạng thái các chiến trường, các binh quân chủng và qui kết mọi trách nhiệm vào sự lãnh đạo của tổng thống Diệm, đặc biệt nhấn mạnh đến sức phá hoại chính trị của vợ chồng Ngô Đình Nhu. Nói chung, những người dự họp không phản đối nhận định của tướng Xuân. Cái rắc rối bắt đầu ở chỗ phương pháp giải quyết. Tướng Xuân hăm hở nói đến một cuộc đảo chánh quân sự.
- Hành động chớp nhoáng bảo đảm chắc chắn thành công. Ở đây, tướng Đôn là tư lệnh lục quân. Với những điểm phải thanh toán, chúng ta cần một sư đoàn bộ binh, được pháo và thiết giám yểm trợ... Đại tá Có đang là Phó tư lệnh vùng 3 chiến thuật, sẽ ngăn ngừa mọi hướng tiếp ứng mà theo tôi, nếu có cũng không lấy gì làm quan trọng...
- Tôi nghĩ công việc sẽ không đơn giản như tướng Xuân tính, - tướng Lê Văn Kim, người được các tướng cho là “bộ não của một quân sư” phát biểu với sự dè dặt thường lệ của ông. - Liên binh phòng vệ Phủ tổng thống không phải là những “cây kiểng”. Sư đoàn 5 của đại tá Nguyễn Văn Thiệu đóng cách thủ đô có 30 cây số. Hải quân chưa có dấu hiệu bất mãn. Không quân còn là ẩn số. Chúng ta có thể hy vọng ở lính Dù, một bộ phận bảo an... Kế hoạch hành động khôn ngoan phải bao gồm một loạt tính toán, trong đó yếu tố chính trị là hết sức quan trọng...
- Chính phủ Mỹ sẽ tuyên bố ngay lập tức ủng hộ chính phủ mới. - Mai Hữu Xuân cắt ngang lời của Kim, liếc về phía Fishell. Fishell và Katterburg thì khoanh tay im lặng.
- Tôi cho là trở ngại chính của chúng ta không phải thuộc vấn đề kỹ thuật – đại tá Có nói - Ai sẽ cầm đầu chính phủ mới? Người đó, phải đủ uy tín trong quân đội và lời kêu gọi đầu tiên của người đó phải có hiệu lực làm bất động ít ra các đơn vị đóng quanh thủ đô và được giới Phật giáo ủng hộ.
- Tôi muốn lưu ý các anh: Tướng Tôn Thất Đính đang là Tư lệnh ở vùng 3 chiến thuật. Lực lượng ở trong tay của anh ta không phải là nhỏ. Chỉ cần anh ta bác bỏ chính phủ mới, chúng ta sẽ phải lâm vào tình thế khó xử và do đó chính biến phải kéo dài.
Nhận xét của tướng Đôn đẩy hội nghị vào điểm chết. Không ai hẹn ai, cả ba tướng đều giống như những tín đồ chờ lời phán xét của Chúa Trời. Mai Hữu Xuân bực bội mở bản đồ Sài Gòn, bản đồ bọc trong giấy kiếng, đã được vạch các mũi tên bằng bút chì mỡ. Ông toan thuyết trình tiếp. Đỗ Mậu ngó lên trần nhà, như đeo đuổi một ý nghĩ nào đó.
- Chúng tôi ủng hộ mọi sáng kiến nhằm cải thiện tình hình Nam Việt. - Fishell nói - Tuy nhiên nếu điều kiện khách quan đã tỏ ra bức xúc cho một sự thay đổi người cầm đầu nhà nước Nam Việt - thì thế lực để thực hiện việc đó lại còn quá mỏng. Tất cả chúng ta, không ai nuôi nấng ý muốn riêng tư nào đối với cá nhân Tổng thống Ngô Đình Diệm...
Fishell nói đến đây, ngó thẳng vào mặt Mai Hữu Xuân.
- Vấn đề là đường lối của chính phủ. Muốn chiến thắng Việt Cộng, chính phủ Nam Việt không thể để “lún sình” trong vụ Phật giáo. Thái độ của quân đội rõ ràng liên quan đến thái độ của chính phủ đối với Phật giáo, bởi số đông binh sĩ là tín đồ của tôn giáo này. Chính phủ Mỹ đã làm hết sức mình để hướng Tổng thống Diệm vào chính sách mềm mỏng. Những cố gắng ấy, cho đến nay, đã không thành công. Tôi nghĩ rằng trong bối cảnh và với những điều kiện như vậy, các tướng lĩnh Việt Nam cần có tiếng nói. Theo tôi, yêu cầu của những người cầm quân đối với Tổng thống Diệm có thể chia làm hai bước. Bước thứ nhất là công khai bày tỏ những lo lắng của các tướng lĩnh đối với tình hình chính phủ đàn áp đạo Phật và đề nghị Tổng thống Diệm ban hành ngay quyết định chấm dứt sự đàn áp đó. Kiến nghị phải mang nhiều chữ ký, nhất là phải có chữ ký của những tướng được quân đội tin cậy. Tôi muốn nêu một ví dụ: tướng Big Minh, nếu tướng Big Minh thay mặt cho tướng lĩnh trình bày yêu sách thì tôi tin là Tổng thống Diệm phải xét lại một cách căn bản chính sách của mình. Bước thứ hai, nghĩa là nếu bước thứ nhất không mang đến kết quả, thì các tướng lĩnh phải bằng một hình thức nào đó, biểu thị thái độ kiên quyết hơn như yêu cầu Tổng thống từ chức và xuất ngoại giống Tổng thống Lý Thừa Vãn ở Đại Hàn. Bước thứ hai tiến sát đến một hành động dứt khoát, nếu như tình thế bắt buộc và các ông, chỉ có các ông mới đủ sức cho ông Diệm thấy là các ông không nói suông. Thời gian không còn nhiều nữa. Nếu sự phản kháng của tín đồ Phật giáo lắng dịu thì coi như các ông đã đánh mất con chủ bài. Đại sứ Mỹ hiện nay sẽ chẳng tán thành bất kỳ một toan tính nào để thay đổi ông Diệm. Nhưng, đại sứ cũng sẽ không phải là trở ngại đối với các ông. Tôi phải nói điều đó, bởi vì, trong nhiều bản tuyên bố, các giới chính trị tại Sài Gòn hàm ý “cột” chính phủ Mỹ với chính sách khủng bổ Phật giáo của ông Diệm. Không phải như vậy. Và tôi cũng nói thẳng với ông Diệm: Nhiệm kỳ của đại sứ Nolting sắp chấm dứt...
Tướng Xuân xếp bản đồ lại. Những lời “phán” của Fishell có làm cho ông ta cụt hứng nhưng ông ta vẫn chưa chịu rút lui.
Bức thư gần đây nhất của Savani, người thầy và người bạn Pháp của ông, đã giúp ông nghị lực:
“Cái chúng ta chờ đợi, cái đó đang đến gần. Sự có mặt của nước Pháp ở Đông Dương thuộc Pháp vốn bắt nguồn từ những điều kiện lịch sử sâu xa, thái độ quay phắt của ông Diệm dù sao cũng chỉ mang ý nghĩa nhất thời. Đối đầu với Cộng sản ở Đông Dương, là nhiệm vụ mà thượng đế chỉ giao cho nước Pháp. Chúng ta phải thú nhận rằng chúng ta đã thua một số trận, thậm chí một số chiến dịch, nhưng, nói theo đại đế Napoléon, chúng ta chưa thất trận. Trái lại, người Mỹ đang cầu cứu chúng ta. Số sĩ quan được nước Pháp đào luyện, kể cả sĩ quan cao cấp, vẫn chiếm tỉ lệ lớn trong quân đội Nam Việt Nam. Đa số chính khách và trí thức Sài Gòn đều giữ cảm tình với nền văn minh Pháp. Còn dân chúng, họ đã có điều kiện thực tế để so sánh hai lối cư xử, nhất định sự hào hoa và tế nhị của Pháp bao giờ cũng được mến chuộng hơn tính cách thông tục và thực dụng kiểu Mỹ. Bản thân thiếu tướng, những cái mà thiếu tướng còn nắm được, không quá nhỏ bé - tôi muốn nói hệ thống điệp viên của Sở mật thám và của Phòng Nhì. Dĩ nhiên, hơn lúc nào hết, thắng lợi tùy thuộc ở tài suy đoán và chiến thuật của thiếu tướng. Sẽ không cần thiết làm như Nguyễn Chánh Thi đã làm. Điều kiện chính trị hiện nay khác hẳn năm 1960. Chỉ cần khéo léo lợi dụng các mâu thuẫn đang có thật trên cái nền phẫn nộ của dân chúng, biểu hiện gay gắt qua thái độ mỗi lúc một quyết liệt của tín đồ đạo Phật. Thiếu tướng gần đi đến đích mà chẳng nhọc công, vẫn bảo toàn được thế lực. Đó là tôi chưa nói một yểm trợ khác, gián tiếp hơn, nhưng vẫn không quan trọng: chính sách của Thái tử Sihanouk và xu thế của chính phủ Phouma. Hoàn toàn không nên lầm lẫn chủ thuyết trung lập của nhóm Băngđung - thực tế có lợi cho Cộng sản - với chủ thuyết trung lập Đông Dương của tướng De Gaulle. Đông Dương phải trung lập, nghĩa là phải thoát khỏi ảnh hưởng của Cộng sản lẫn của Mỹ. Giữa chúng ta, ông và tôi, nên thẳng thắn nhìn lại bước đường cũ. Chúng ta đã vấp một số sai lầm kỹ thuật mà chính phủ Pháp đã khắc phục sau này đối với Algérie và các thuộc địa thuộc châu Phi khác.
Sớm hơn như Nguyễn Chánh Thi là phiêu lưu. Nhưng, bây giờ trễ hơn là mất mát. Trễ hơn sẽ có nghĩa trên trận địa chỉ còn có Mỹ và Cộng sản. Vai trò “đệm” của chúng ta đòi hỏi “chớp” lấy những cái gì mà cả Mỹ, ông Diệm và Cộng sản đang biếu không.
Ông bạn Xuân thân mến, hẳn ông bạn đã đọc tiểu thuyết của Dumas: Truyện về bá tước Monte Cristo. Gần đây, các nhà điện ảnh Pháp dựng lên bộ phim “Vengeance de Monte Cristo”. Tôi biết gần 10 năm qua, ông bạn nuôi nấng một cách khôn khéo ý chí phục thù. Bây giờ, thiếu tướng thân mến, hãy như bá tước Monte Cristo, tuốt lưỡi gươm phục thù... ”
- Tại sao chúng ta không bổ sung những bước đi của ngài Fishell bằng kiểu của Stofenberg đối với Hitler? - Xuân đặt câu hỏi, đôi môi thâm mỉm cười.
- Bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể đóng được vai trò của Stofenberg.
Xuân nói tiếp rất tự tin.
Từ nãy giờ đại tá Đỗ Mậu chỉ nghe và suy nghĩ. Lần đầu, ông nói:
- Tất nhiên, mang một khối thuốc nổ cực mạnh chừng một ký lô, đựng trong chiếc cặp với chiếc đồng hồ điều khiển giờ nổ và đặt nó trong phòng họp có mặt Tổng thống Diệm, bất kỳ ai trong chúng ta đều có thể làm được. Stofenberg giả đò đi gọi dây nói để lấy tài liệu báo cáo với Hitler và chuồn thẳng; chiếc bàn đã cứu sống Hitler. Tôi hiểu chuyện ngày 20-7-1944 tại tổng hành dinh Maduri, Nhưng, vây quanh Hitler là Keitel, Goering, Himler... Còn vây quanh Tổng thống Diệm là ai? Tôi tán thành sự bổ sung của tướng Xuân với điều kiện là quả bom phải đặt dưới gường ngủ của Tổng thống Diệm, điều mà chắc chắn không ai làm nổi.
Giọng của Đỗ Mậu pha chút châm biếm khiến tướng Xuân tái mặt.
- Vả lại, - Đỗ Mậu nói tiếp - Vấn đề không phải là một âm mưu, một cuộc ám sát. Tôi nghiêng về khuyến cáo của các bạn Mỹ.
Thế là đại tá Có được giao việc tiếp xúc với tướng Big Minh và cuộc họp chấm dứt. Buổi thịt rừng gần như không ai nâng ly cầm đũa...
*
Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long.
- Sau khi xin ý kiến Tổng thống, tôi muốn nhờ anh một việc. Như anh biết, sau cái chết của Thích Quảng Đức, tình hình tiếp tục xấu. Có thể, vấn đề Phật giáo ở Việt Nam Cộng hòa sẽ bị lợi dụng để “quốc tế hóa”. Nước láng giềng của chúng ta là Cambôt, một nước theo đạo Phật. Ở Việt Nam Cộng hòa, có gần 300.000 người Cambôt, tất cả đều là tín đồ Phật giáo phái Thereveađa, chịu hệ thống lãnh đạo của các vua sãi ở Nam Vang. Hiện nay, chống lại sự phá hoại của các nhà sư phải bằng chính những người theo đạo Phật. Chúng ta có được một số sư sãi và tín đồ di cư thuộc phái Tăng già Bắc Việt, một số thuộc phái Cổ Sơn Môn ở Nam Việt, cần tranh thủ thêm phái Therevađa. Anh nên đi Nam Vang một chuyến. Nhiệm vụ của anh là gặp Sihanouk. Sở dĩ Tổng thống và tôi nghĩ đến anh trong sứ mạng này là vì chúng tôi biết anh và Sihanouk từng học chung ở Trường Chasseloup Laubat, cùng lớp thậm chí cùng phòng interne (1). Anh nghĩ sao?
Luân hơi sửng sốt trước đề nghị của Nhu. Làm thế nào mà Luân có thể thuyết phục nổi các vua sãi ở Nam Vang, còn với Sihanouk, đúng anh và ông ta là bạn học khá thân, nhưng tình đồng môn chắc chắn chẳng nghĩa lý gì trước sự chia rẽ chính trị không còn thể cứu vãn giữa Nam Việt và Cambốt. Hay là Nhu một lần nữa muốn anh làm con thoi nối với đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đại sứ Nguyễn Thương cùng học Đại học Hà Nội với anh. Phòng thông tin của Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở Nam Vang hình như do bạn của anh, Nguyễn Văn Hiếu phụ trách.
- Tôi sẵn sàng chấp hành mọi chỉ thị của Tổng thống và của anh. Song, tôi chưa hiểu tôi sẽ đến Nam Vang với tư cách nào và bằng cách nào trong khi ngoại giao của hai nước đã gián đoạn sau vụ nổ bom ở Hoàng cung. Ý kiến của anh quá đột ngột đối với tôi, liệu rằng tôi có thể tác động được gì các vị lãnh đạo tối cao của Phật giáo ở Cambôt và với thái tử Sihanouk.
- Gần đây bằng con đường không chính thức, chính phủ hoàng gia Cambôt muốn có một cuộc tiếp xúc giữa họ và chúng ta. Tôi chưa rõ họ định tiếp xúc vì vấn đề gì, có thể là vấn đề biên giới. Cũng có thể là một cớ để họ đánh lạc hướng chú ý của chúng ta. Có lẽ anh biết Cộng sản bắt đầu sử dụng một phần biên giới Cambôt làm bàn đạp luyện quân, đặt cơ sở hậu cẩn nhất là rút lương thực từ nội địa Cambôt. Tôi cử một đoàn đại biểu Quốc hội lên Nam Vang, đi bán chính thức do ông Hà Như Chi cầm đầu. Anh sẽ tháp tùng phái đoàn đó, không mang danh nghĩa gì cả vì anh không có chân trong Quốc hội. Đại khái, anh giữ chân cố vấn của phái đoàn. Đến Nam Vang, anh cứ tùy cơ ứng biến. Ông Ngô Trọng Hiếu sẽ giới thiệu với anh một số địa chỉ Việt kiều có thể làm “đầu cầu” giúp anh. Hoặc tự anh nẩy ra sáng kiến tại chỗ. Trong phái đoàn Quốc hội có một vài tín đồ của đạo Phật, họ sẽ gặp các vị lãnh đạo tinh thần của đạo Phật ở Nam Vang và dĩ nhiên anh chỉ đạo họ, có thể cùng đi với họ, nếu tiện, có thể không cần... Cách thức tiến hành cụ thể, văn phòng Quốc hội sẽ bố trí hoặc phái đoàn đi đường bộ, hoặc đáp máy bay.
... Luân suy nghĩ rất nhiều về chuyến “công du” khá đặc biệt này. Có thể nào nhân đây mà liên hệ với A.07? Tình hình Nam Việt Nam chuyển động vùn vụt, anh cần được chỉ đạo cụ thể. Không rõ vì sao cấp trên không liên lạc với anh? Nhưng, nguyên tắc bí mật lại dằn vặt anh. Riêng chuyến đi theo ủy thác của Nhu, cũng cần đánh tiếng với Mỹ như thế nào cho hợp lý. Anh mà đóng vai cố vấn của một phái đoàn Quốc hội Nam Việt, thì chỉ có những tên ngốc mới không đặt dấu hỏi và không theo dõi. Số lượng CIA ở Nam Vang cũng không kém ở Sài Gòn. Phòng Nhì Pháp thì nhất định nhung nhúc rồi.
Như vô tình, trong mộc cuộc điện đàm với James Casey, Luân cho biết anh phải vắng mặt ở Sài Gòn vài ngày.
- Tôi đã thấy danh sách của đại tá trong phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng hòa bán chính thức “đi thăm thiện chí” Vương quốc Cambôt! - James Casey kêu lên - Hẳn là một thứ “mission impossible” (2). Chắc ông Nhu muốn nhờ đại tá đi “giải độc” vụ Phật giáo.
- Đúng vậy! - Luân cũng cười trong máy nói - Chỉ có điều không biết tôi có thể giải độc nổi hay không.
- Chúc đại tá may mắn.
Phái đoàn đáp máy bay. Một chuyến bay dân dụng đặc biệt được thỏa thuận giữa hai nước và hai nước cũng thỏa thuận không đưa tin này lên các phương tiện truyền thông đại chúng. Do đó, tại Tân Sơn Nhất không có lễ tiễn và tại Pochentong cũng không có lễ đón.
Tại Tân Sơn Nhất, Luân gặp một rắc rối nhỏ - đúng hơn, bị vây vào một rắc rối mà anh không lường. Khi xe đưa Luân vào sân bay - Dung không tiễn anh theo quy định chung - thì anh thấy một đám cảnh sát dã chiến bao quanh một phụ nữ người Âu, như sắp ra tay đàn áp. Chính là Helen Fanfani, săn tin từ đâu, chực sẵn ngay cửa phòng khách quốc tế sân bay, chờ chụp một số pô ảnh và phỏng vấn trưởng đoàn Hà Như Chi. Cảnh sát dã chiến cấm cô ta và cô ta phản đối.
- Đại tá Luân! Ông xem này... Họ định hành hung với tôi, toan đập vỡ máy ảnh và máy ghi âm của tôi... - Fanfani kêu to.
- Thế nhưng tại sao cô đến đây? Đến đây rất không hợp thời và không cần thiết... - Luân vẹt đám cảnh sát, bảo Fanfani.
- Xin lỗi đại tá... Nghề nghiệp của tôi... - Fanfani vừa nói, vừa mở máy ghi âm đeo trên vai...
Luân nhanh nhẹn thò tay tắt máy:
- Tôi cũng xin lỗi cô... Không có điều gì cần thu thanh cả và xin cô chớ gương máy ảnh lên... Trong trường hợp đó, cảnh sát dã chiến sẽ tịch thu máy của cô...
- Thế, tôi không cần cầu cứu ông nữa! - Fanfani giẫy nẩy - Tôi nhờ ông Hà Như Chi vậy...
Hà Như Chi còn nhanh hơn Luân, hấp tấp lọt vào phòng khách.
- Tôi thất bại! - Fanfani thểu não... - Lẽ nào ông không thấy cái lợi khi báo Mỹ đưa tin ông đi Phnôm Pênh?
Luân lắc đầu:
- Không có lợi gì cả... Đánh tiếng về việc của chúng tôi chỉ gây rắc rối. Tôi yêu cầu cô đừng đưa tin, bất kể dưới hình thức nào. Chúng tôi không “đi đêm” nhưng giữa hai chính phủ - Việt Nam Cộng hòa và Cambôt - thỏa thuận giữ cuộc tiếp xúc trong im lặng hoàn toàn. Cô thấy đây, ngay Thùy Dung còn không tiễn tôi kia mà!
Fanfani nhún vai:
- Nếu hãng A.P hay Reuter mà đưa tin “hớt” tay trên tôi thì ông sẽ khó ăn nói với tôi sau này...
- Tôi hứa sẽ cung cấp cho cô một reportageinédit (3) về Cambôt hiện nay, nếu cô thích... Chẳng hạn, điện Chamcar Môn, Hoàng cung, các bà vợ đẹp của thái tử Sihanouk... - Luân cười.
- Cám ơn! Những cái đó tôi thừa... Tôi chỉ muốn giành ưu tiên loan tin về phái đoàn các ông. - Fanfani làm mặt giận.
- Phái đoàn Quốc hội Việt Nam Cộng hòa lại có một cố vấn như tôi... Tin của cô độc đáo lắm, song sẽ rất nguy hiểm cho sứ mạng của chúng tôi.
- Sứ mạng gì? - Fanfani nháy mắt.
Luân không trả lời, chìa tay, Fanfani bắt tay Luân, siết chặt. Đám cảnh sát dã chiến lỡ bộ, đứng trân.
- Các anh không biết mối quan hệ giữa đại tá và tôi hay sao? - Fanfani vụt đùa với đám cảnh sát - Tôi và đại tá có thể hôn nhau...
Luân bảo Fanfani:
- Thôi, cô về... Hẹn gặp lại...
Anh bước vào phòng khách, vì biết rằng nếu chậm trễ, Fanfani dám dở trò trước mặt thiên hạ - cô ta chẳng coi chuyện thân mật với Luân là điều cấm kỵ...
Sau nửa giờ bay, máy bay đáp xuống sân bay Pochentong. Sân bay được mở rộng, nhiều đường băng với một nhà ga trang nhã và hiện đại. Luân thấy trên sân nhiều máy bay thuộc nhiều hãng hạ cánh: Aeroflot của Liên Xô, Air France của Pháp, Pan American của Mỹ, CSA của Tiệp, Japan Airline của Nhật, India Air của Ấn, China’s của Trung Cộng... Chiếc DC.10 chở phái đoàn không mang cờ nước nào, hạ cánh. Ngoài nhân viên sân bay, không ai đón. Đoàn đi thẳng vào nhà ga và lên luôn một ô tô Tiệp Khắc nhiều chỗ ngồi về trung tâm thành phố. Nhìn mặt cả đoàn, Luân buồn cười: tất cả - luôn hai nhà sư, một Việt tên Thích Vân Tự nói giọng miền Trung, một gốc Miên tên Thạch Chrei mà Luân biết là sản phẩm của Trần Kim Tuyến - mặt tái nhợt. Có vẻ như họ đi ra pháp trường! Quang cảnh sân bay trung lập khiến họ không yên tâm... Xe theo một đại lộ và đại lộ tên là Liên Xô! Đến ngã rẽ, xe chuyển hướng, bây giờ theo một đại lộ khác, mang tên Mao Trạch Đông. Xe qua một bệnh viện lớn bảng đề: Hopital de I’amitié Kampuchéenne – Soviétique (4). Trước khi lên đường, Luân đã nghiên cứu bản đồ Nam Vang; anh thấy lạ: đường Mao Trạch Đông chạy rìa thành phố và bệnh viện Miên - Xô nằm tận Toul Kok, ngoại ô. Chẳng lẽ chính phủ ông Sihanouk nhét phái đoàn tận ngoại ô? Nhưng xe lại rẽ về hướng trái, ngay chân cầu được gọi là cầu Sài Gòn vắt ngang sông Bassac và theo trục lộ lớn quay vào nội thành. Xe theo con đường mang tên Monivong rồi chuyển sang con đường rất sầm uất tên Charles de Gaulle, vòng qua một loạt tên đường Tito, Tiệp Khắc, Nerhu... chạy qua khu sứ quán. Cả đoàn gần như bị điện giật khi xe bỗng chạy chậm hẳn trước ngôi nhà treo ngọn cờ đỏ sao vàng!
Luân nhìn ngọn cờ rồi nhắm nghiền mắt. Anh xúc động và cố che giấu xúc động. Ngọn cờ lay nhẹ trong gió sớm, hiên ngang làm sao! Đã khá lâu, Luân mới nhìn rõ lá cờ, nhìn lá cờ trong tư thế uy nghi, đại diện cho đất nước. Giá mà... Luân không dám buông lỏng ham muốn.
Xe chỉ chạy chậm thôi. Sau cùng, xe dừng trước một khách sạn bốn tầng, tên Sukhakhan nằm trên đường Kampuchéa Krom. Không ai trong đoàn biết ý nghĩa con đường này, trừ Luân.
“Ông Hoàng Sihanouk chơi xỏ thật!” - Luân nghĩ – “Ông ta thị uy rõ rệt bằng cách đánh đòn cân não vào đoàn, phô trương chính sách trung lập của ông ta và sau cùng đặt trước đoàn một yêu sách: Kampuchéa Krom, có nghĩa là Miên miền hạ, tên còn đường ghi nhận tham vọng bành trướng của ông ta”.
Một nghị sĩ Miên đón đoàn tại phòng khách của khách sạn. Ông tự giới thiệu: Hing Hing, nguyên tỉnh trưởng Takeo. Tóm lại, một người không giữ vị trí chính trị gì đáng kể, gần như vô danh.
Hà Như Chi bất mãn. Ông ta tự vẽ cho mình vai vế khi cầm đầu một đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, bây giờ, chỉ được cho trú ngụ tại một khách sạn loại 3 sao, được một nghị sĩ hạng bét tiếp. Ở sân bay thì ông thông cảm được: tránh sự dòm ngó; còn ở đây là thủ đô, tại sao không đưa đoàn vào nhà quốc khách hoặc một khách sạn loại sang - nghe nói không hiếm gì ở Nam Vang.
Luân phải bảo nhỏ Hà Như Chi:
- Họ chịu tiếp và cho một nghị sĩ tiếp là đã quý rồi... Ông nên chú ý, nếu ông tỏ vẻ đối địch, họ tung tin sự có mặt của chúng ta ở Nam Vang thì lập tức báo La Dépêche tiếng Pháp, báo Trung Lập tiếng Việt và các báo khác sẽ mở ngay chiến dịch đánh ta và suốt ngày, hết đoàn biểu tình này đến đoàn biểu tình khác, ném đá tan cái khách sạn này...
Bữa cơm “tẩy trần” dù sao cũng thịnh soạn. Hing Hing nâng cốc chúc sức khỏe toàn đoàn Nam Việt. Ông báo là đoàn nghỉ suốt ngày hôm nay, ngày mai sẽ bắt đầu chương trình. Bắt đầu chương trình như thế nào thì ông không nói, nhưng dặn mọi người trong đoàn chớ ra khỏi khách sạn, e không được an toàn.
- Dân chúng thủ đô chúng tôi đang giận chính phủ các ngài, nếu họ biết các ngài từ Sài Gòn tới thì có thể họ hành hung.
Hà Như Chi muốn gặp “người có trách nhiệm” của Quốc hội, Hoàng gia và Bộ trưởng ngoại giao. Thích Vân Tự và Thạch Chrei xin yết kiến các vua sãi. Hing Hing ghi chú và hứa sẽ trả lời sau. Ông ta xem danh sách cả đoàn...
-Thằng cha cù lần này còn đi trình báo! - Hà Như Chi nhận xét và yên chí sẽ rảnh rang suốt buổi chiều và cả đêm: sử dụng thời gian sao cho đáng với chuyến công du.
Ông ta gọi người phục vụ. Lát sau, bóng phụ nữ thấp thoáng trong phòng ông ta - và một số phòng nữa.
Vào hai giờ chiều, Hing Hing trở lại khách sạn. Hà Như Chi không thể tiếp mà nhờ Luân thay.
- Hai vua sãi muốn gặp hai vị sư trong đoàn ngay... Nhờ ông gọi giúp. Tôi cùng đi với họ. - Hing Hing bảo Luân.
Luân gõ cửa phòng Thích Vân Tự. Gõ mấy lượt và chờ. Cửa mở hé. Không có ai trong phòng trừ nhà sư, nhưng toalet thì đóng chặt, và nhà sư ăn vận quá vội, ngay trên gường ngủ vẫn chưa kịp giấu các đồ lót của phụ nữ.
Luân gõ cửa phòng Thạch Chrei. Cửa không cài. Và so với Thích Vân Tự, nhà sư cũng không có gì che trên thân cùng một cô gái giống như vậy.
Luân khép cửa nói vọng vào ý kiến của Hing Hing.
Mười lăm phút sau, hai “đại diện” Phật giáo nghiêm trang rời khách sạn.
Luân ra ban công, nhìn bao quát khu vực. Nam Vang xây dựng khá nhanh và phải nói là đẹp. Nhà không cao lắm, năm tầng trở lại, ngăn nắp theo một quy hoạch tổng thể. Tuy nhiên, có vẻ các nhà sang trọng nhất thuộc về người Hoa - kiểu kiến trúc đặc sệt Trung Quốc.
Ông Hoàng Sihanouk chơi trò xiếc đi dây. Những thành công bước đầu khuyến khích ông: ông giữ được thăng bằng giữa một khu vực đang xáo trộn dữ dội. Đó là nói về đối ngoại. Còn đối nội, tình hình không thuận lợi lắm. Sau vụ Đáp Chuôn, các phần tử trí thức lại rục rịch chống ông. Quân đội, ngoài mặt trung thành với ông, nhưng nhiều phe nhóm chen vào chi phối, đáng kể hơn hết là Lon Nol, người mang huyết thống Trung Quốc, đang là tướng lĩnh nắm nhiều thực quyền với cương vị Tổng tham mưu trưởng. Phòng Nhì Pháp, vào lúc này, ủng hộ Sihanouk - là chỗ dựa quan trọng của ông Hoàng. Chỗ dựa ấy còn vững đến bao giờ thì lại tùy thuộc vào tác động của Mỹ - Sihanouk nhận viện trợ kinh tế Mỹ, không nhiều, trên 10 triệu dollar năm, nhưng chính là phần ngoại tệ quan trọng thứ nhì sau Pháp. Sihanouk tìm thêm chỗ dựa mới: Trung Quốc xây dựng cho ông một số xí nghiệp công nghiệp. Liên Xô giúp ông các công trình phúc lợi xã hội. Điều nguy hiểm là Sihanouk lạm dụng mối tác động qua lại giữa các nước lớn, nay đề cao quá trớn nước này, mai đả kích cũng quá trớn nước khác. Ông sống trong ảo tưởng là ông và chế độ của ông - là một báu vật mà các nước buộc phải nuông chiều...
Một xe Mercésdès dừng trước khách sạn. Luân không để ý lắm. Vài phút sau, Giám đốc khách sạn khúm núm đưa lên một người và người đó bước ra ban công, nghiêng mình:
- Thưa đại tá, tôi là Phuissara được lệnh của Samđech (5), mời đại tá vào Hoàng cung gặp Người.
Luân không ngờ cuộc gặp mặt quá nhanh như vậy với Sihanouk. Anh xin lỗi Phuissara, vào phòng thay quần áo. Anh định báo cho Hà Như Chi biết, nhưng cửa phòng của ông ta đóng chặt. Luân đành ghi mấy dòng, bảo người thư ký của đoàn trao lại khi Hà Như Chi thức dậy.
Trên xe, Phuissara tự giới thiệu người có họ hàng với Sihanouk, phụ trách lễ tân thay cho vị hoàng thân xấu số Vakrivan chết vì quả bom nổ năm trước - tác phẩm của Ngô Trọng Hiếu - Ly Kai.
Sihanouk đón Luân ở phòng khách riêng, đặt trong Điện Chamcar Môn, trên bờ sông Cửu Long. Luân vừa lên khỏi tam cấp thì Sihanouk đã vồn vã ôm ghì anh:
- Tao cứ ngỡ không bao giờ gặp mày! - Sihanouk nói tiếng Pháp và xưng hô như lúc hai người còn học chung.
- Tôi cũng vậy, tôi đâu tưởng có thể gặp Thái tử, nhất là gặp ở Phnôm Pênh... - Luân giữ khoảng cách cần thiết.
- Đọc bảng danh sách đoàn Quốc hội Sài Gòn, thấy tên mày, tao mừng quá, bảo gọi ngay...
Sihanouk lôi Luân vào phòng.
Cuộc nói chuyện bắt đầu bằng sự nhắc nhở các kỷ niệm cũ. Sihanouk nói rất say sưa, gần như một mình ông ta nói, với giọng “mái”. Quá khứ của những năm trung học được xốc dậy, Sihanouk quả có tài nhớ mọi chi tiết, kể cả chi tiết leo rào đi chơi đêm và nhờ Luân trùm mền lên gối đánh lừa giám thị.
- Tôi muốn trao đổi với Thái tử vài vấn đề liên quan đến hai nước chúng ta... - Luân lựa lúc thuận lợi, lái câu chuyện vào hướng chính.
Sihanouk gạt phắt:
- Ồ! Hôm khác đã... Vả lại, mày đâu phải trưởng đoàn... Hôm nay chúng ta sống lại thời trẻ, chỉ làm việc đó thôi.
Hai người dùng cơm tối và Sihanouk không ngớt thao thao.
- Đáng lẽ tao phải gọi vợ con ra chào mày, song - Sihanouk cười ha hả - Tao nhiều vợ như phong tục nước ta cho phép và do đó, nhiều con, gọi cả thì quá đông, gọi một người thì không tiện. Monique gần gũi tao nhất nhưng còn nhiều bà khác... Hơn nữa, họ chẳng chia xẻ được tí gì ngôi trường của chúng ta.
Mãi gần 10 giờ đêm, Luân mới chia tay Sihanouk.
- Quốc hội Campuchia cử Hing Hing làm việc với đoàn của Nam Việt. Có thể tao sẽ gặp mày lần nữa, lần đó, tha hồ cho mày nói chính trị!
Sihanouk bảo như vậy khi tiễn Luân xuống tận xe.
Hà Như Chi chờ Luân. Ông ta thất vọng vì cuộc tiếp xúc của Luân với Sihanouk chỉ đơn thuần bè bạn.
Thích Vân Tự và Thạch Chrei mang về kết quả không phấn khởi. Hai vua sãi trách cứ nặng lời chính sách của chính phủ Việt Nam đối với Phật giáo và còn doạ, nếu chính sách ấy mà lan đến người Khmer, thì hai vị sẽ có biện pháp phản đối kiên quyết.
Hai vua sãi hỏi Thích Vân Tự và Thạch Chrei có biết hòa thượng Thích Quảng Đức, người tự thiêu vừa rồi gây chấn động khắp thế giới đã từng học đạo ba năm ở Nam Vang hay không? Cả Thích Vân Tự lẫn Thạch Chrei đều không để ý đến chi tiết này.
- Ngài là người Khmer Krom (6) lại tu hành, đừng nên theo vết chân của ông Diệm.
Vua sãi phái Tiểu thừa bảo Thạch Chrei.
- Chúng tôi sẽ xin Giáo hội Phật giáo Nam Việt một xá lợi của hòa thượng Thích Quảng Đức để vào nơi tôn kính của chùa chúng tôi.
Vua sãi phái Đại thừa bảo như vậy.
Hôm sau, Hing Hing mời đoàn đến trụ sở Quốc hội làm việc. Đoàn Cambôt, ngoài trưởng đoàn Hing Hing, có thêm hai nhân viên Bộ ngoại giao, cấp thấp. Chương trình nghị sự do Hing Hing đưa ra gồm ba vấn đề lớn:
1. Xác định lại đường biên giới “không minh định” chạy dọc theo các tỉnh Kongpong Chàm - Kratiê của Cambôt với các tỉnh Tây Ninh và Bình Long của Nam Việt.
2. Xác định lại đường phân chia hải phận trên vịnh Thái Lan.
3. Qui chế người Khmer sống ở Nam Việt.
Chương trình của Hing Hing dồn đoàn Việt Nam vào chỗ lúng túng. Hà Như Chi không được chỉ thị bàn các vấn đề đó, dù chỉ bàn về các thể thức sẽ trao đổi. Tất cả đều quá lớn và nhất định ảnh hưởng đến lãnh thổ Nam Việt kể cả đảo Phú Quốc.
Luân không nói gì. Anh biết Sihanouk thỏa thuận cho đoàn đại biểu Quốc hội Nam Việt đến Nam Vang không phải để bàn các vấn đề trên. Chẳng qua ông “xả xú páp” mối quan hệ căng thẳng giữa hai nước và các vấn đề nêu lên để ném ra một đầu cầu mà hai bên hứa sẽ tiếp tục trao đổi. Chỉ như vậy thôi.
Hà Như Chi đưa ra “phản đề nghị”:
- Cambôt cam kết giữ trung lập triệt để trong các quan hệ nội bộ Nam Việt, kể cả vấn đề Phật giáo.
Cuộc họp ngừng. Chiều hôm đó, Hing Hing mở tiệc chiêu đãi. Đêm, đoàn Nam Việt được mời xem bộ phim màu “Nữ đại sứ”, kịch bản của Sihanouk, do ông đạo diễn, ông và vợ ông, bà Monique đóng vai chính. Chuyện phim là bản án về cuộc tạo phản của Đáp Chuôn ở Xiêm Rệp, có bàn tay của tình báo Việt Nam nhúng vào. Toàn bộ bộ phim toát tinh thần kì thị chủng tộc, tỉ như nữ tình báo Nam Việt làm tình với Đáp Chuôn tên là “Cô nước mắm”.
Luân xem nửa chừng, bỏ ra về. Anh tính toán kỹ và thấy cần phản ứng, mặc dù nội dung của bộ phim không phải không chứa ít nhiều sự thật.
Về đến khách sạn, Giám đốc khách sạn rối rít báo với Luân là hoàng cung gọi điện đến cho anh.
- Alô! - Luân nói vào máy - Kính chào Thái tử... Vâng, tôi không xem hết bộ phim. Tôi không nói về đạo diễn, diễn viên và các mặt kỹ thuật. Tôi chỉ phàn nàn tác giả nhìn dân tộc tôi một cách phiến diện...
- Tôi chỉ nói những người Việt nào như tôi mô tả. - Sihanouk giải thích - Anh không phải người Việt loại đó... Anh quên rằng chính tôi suýt chết vì gói quà của Ngô Trọng Hiếu?
- Tôi không quên. Và, gói quà không riêng của Ngô Trọng Hiếu. Nó được gởi từ Hồng Kông.
- Tôi biết... Thôi, nếu có điều gì tao làm phật lòng mày thì tao xin lỗi. Ngày mai, chúng ta gặp nhau.
Hà Như Chi trách Luân thiếu tế nhị ngoại giao, nhưng khi nghe Sihanouk gọi điện xin lỗi Luân thì ông ta đổi thái độ, bắt đầu chống chế dài dòng về việc ông ta không thể rời buổi chiếu phim được do cương vị trưởng đoàn bắt buộc. Ông ta rất ngại Ngô Đình Nhu biết chuyện này.
- Anh biết tin tức mới nhất ở Sài Gòn chưa? - Sihanouk hỏi Luân ngay khi hai người ngồi vào ghế, bắt đầu trao đổi.
- Chưa... Tin gì? - Luân hỏi.
- Ba tin: Một, Hội đồng các tướng lãnh ra thông báo kêu gọi đoàn kết, bình tĩnh, mong các vấn đề được giải quyết trong tình huynh đệ. Hội đồng các tướng lãnh - anh nhớ cho, chỉ ngày 11-11-1960 mới có danh xưng này. Và, Hội đồng các tướng lãnh lại không đứng trong tư thế quân nhân chấp hành ý kiến của Tổng thống, mà trèo lên cả trên đầu Tổng thống, ra lời khuyên kiểu trọng tài thổi còi! Nguy hiểm lắm! Tin thứ hai: Nhiều sư và ni cô biểu tình trước sứ quán Mỹ, yêu cầu Mỹ can thiệp ngăn chặn ông Diệm giết tín đồ đạo Phật. Cuộc biểu tình bị đàn áp trước mũi Mỹ... Đài truyền hình Mỹ tha hồ mà chiếu hằng giờ về những cái chính phủ Mỹ cần cho công chúng Mỹ biết. Tin thứ ba: Một cuộc biểu tình lớn xảy ra ở một ngôi chùa để dự lễ tang ông hòa thượng tự thiêu, đông đến cả vạn người. Xung đột dữ dội giữa người biểu tình và cảnh sát. Đến hàng nghìn người bị bắt...
Luân trầm ngâm. Đúng là anh chưa biết ba tin này, chắc sự việc xảy ra lúc anh rời Sài Gòn.
- Chính phủ do tôi cầm đầu tới nay chưa tỏ thái độ. Tôi không muốn bị Nam Việt kết tội chen vào việc nội bộ của Nam Việt. Nhưng, nếu Cambốt không phải là nước đầu tiên lên án chính phủ Sài Gòn thì Cambốt lại không thể im lặng nếu một nước nào đó ở Đông Nam Á mở đầu lên án, nhất là nếu nạn nhân của chính sách đàn áp gồm luôn người Khmer Krom. Tôi rất lạ về ông Diệm. Anh không thể ảnh hưởng đến ông ta hay sao? Ông ta có loạn thần kinh không? Ông ta hô hào chống Cộng bằng cách tạo đủ các điều kiện phì nhiêu nhất để cho Cộng sản nảy nở... Ông ta chắc không để ý rằng chống Cộng không thể không tính đến những đổi thay của thế giới... Còn một tin nữa, hôm nay, nữ phi hành gia đầu tiên của loài người, một người Nga, một người Cộng sản bay lên vũ trụ. Bà ta tên là Valentina Têrêxkhôva...
- Tôi biết ông Nhu phái anh lên gặp tôi, do chúng ta là bạn học. Tôi thích gặp bạn học, nhất là bạn thân. Nhưng, đó là việc khác. Tôi có thể cam đoan rằng Sihanouk là người ít thích ông Diệm đổ nhất trong số những kẻ ghét ông Diệm bởi vì ông Diệm đổ - hiện nay, không do Cộng sản - thì an ninh của Cambôt cũng bị đe doạ, trong khi đồng thời tôi cũng không bao giờ cho phép ông Diệm mạnh. Ông Diệm mạnh, rảnh tay có nghĩa nạn nhân sẽ là nước Cambôt trung lập chúng tôi, ít về dân số, kém về khả năng tự vệ. Tôi không giấu giếm anh. Tôi muốn ông Diệm suy nghĩ đến chính sách trung lập ở Nam Việt, mặc dù tôi biết rằng, quá trễ và thật sự chính sách trung lập không hợp khẩu vị ông Diệm. Những gì có thể hứa với anh, tôi đã hứa!
Luân hiểu rằng Sihanouk, trong trường hợp này, nói thật. Ông ta tỏ ra một nhà chính trị khá cứng. Như vậy, ông ta sẽ tiếp tục ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng trong chừng mực có thể kiềm chế chính phủ Sài Gòn.
Công việc của đoàn đại biểu coi như xong. Trước hôm lên máy bay về Sài Gòn, một nhà báo Pháp tên Georges Chaplas, đột ngột đến gặp Hà Như Chi với một lô phỏng vấn. Hà Như Chi đẩy sang Luân. Luân từ chối.
- Tôi không có điều gì để nói với nhà báo bởi tôi lên Nam Vang với tư cách cá nhân...
- Ông đi du lịch? - Georges Chaplas hỏi móc.
- Đúng, tôi đi du lịch - Luân bình thản.
- Ông gặp những ai?
- Tôi gặp các cô hướng dẫn và các ngôi đền.
- Ông có gặp Thái tử Sihanouk?
- Không!
- Có, ông có gặp. Gặp những hai lần!
- Không!
- Ông có gặp đại diện của Bắc Việt hoặc của Mặt trận Dân tộc Giải phóng?
- Nếu ông thích tin giật gân thì ông cứ nêu lên báo rằng tôi có gặp...
- Tôi muốn đưa tin trung thực, khách quan...
- Đó không phải là nhiệm vụ của tôi...
- Tôi vừa gặp ông Trần Bửu Kiếm... Ông biết ông ấy?
- Biết... Rất biết. Ông Kiếm đang phụ trách đối ngoại của Việt Cộng...
- Tôi muốn lưu ý ông rằng tôi gặp ông Kiếm ở đây, Phnôm Pênh...
- Rất tiếc tôi không phải là Thống đốc Phnôm Pênh để đánh giá tin của ông và có thái độ...
- Ông có tham gia Hội đồng tướng lĩnh Sài Gòn?
- Tôi là đại tá... Và, xin lỗi ông, tôi đang bận.
- Trưởng đoàn của ông ủy quyền cho ông tiếp tôi.
- Tôi đi du lịch, làm gì có trưởng đoàn! Tốt nhất ông đến với ông nào tự nhận là trưởng đoàn...
Luân trục Georges Chaplas ra khỏi phòng.
Sát giờ ra sân bay, Phuissara mang đến một gói quà của Sihanouk gửi tặng vợ Luân với danh thiếp:
“Bạn Nguyễn Thành Luân! Bạn và vợ bạn cứ yên tâm mở gói quà, vài món kỷ niệm của cá nhân tôi không thể gây ra tiếng nổ... Tôi cũng muốn gửi ông Diệm một món quà, song tiếc rằng ông ấy không phải là bạn tôi... ”
NORODOM SIHANOUK.
Luân cùng đoàn bước ra cửa khách sạn, sắp lên xe thì một nhà sư trẻ - áo choàng nửa vai vàng rực - cầm bình bát đến xin khất thực. Ở thủ đô Phnôm Pênh, sư hóa trai nhiều vô kể, chẳng ai lạ gì việc xuất hiện của nhà sư trẻ này, mặc dù, da của nhà sư hơi trắng so với các nhà sư Khmer khác.
Thoạt đầu, Luân cũng không để ý, nhưng trông qua một lần, anh giật mình. Nhà sư khá đẹp trai, đầu cạo nhẵn, liếc nhìn anh.
Luân kềm chế, giữ vẻ thật bình thản, ra hiệu mời nhà sư trẻ vào chờ anh, anh gọi một tô cơm và thức ăn. Khi người phục vụ mang cơm và thức ăn đến, đoàn đã lên xe.
Hà Như Chi bảo:
- Đại tá Luân làm động tác ngoại giao cuối cùng đấy...
Luân tiến sát nhà sư trẻ, cuối chào lễ phép rồi trút cơm, thức ăn vào bình bát. Không ai thấy tay Luân và tay nhà sư trẻ chạm nhau - Luân nhận một vật thật nhỏ, như cây tăm - và mọi người ngỡ Luân chúc tụng nhà sư và nhà sư cám ơn Luân. Sự thật, mấy câu ngắn như thế này:
- Có chỉ thị của A.07 cho anh Bảy!
- Cảm ơn... Mong gặp Sa quá...
- Sẽ nối lại liên lạc ở Sài Gòn... Theo dõi mục rao vặt trên báo Cách mạng quốc gia...
- Tôi về hôm nay...
- Anh chị có cháu chưa?
- Sắp...
Cái mà Luân day dứt mãi, bây giờ mới được giải quyết...
*
Báo cáo của Phân cục tình báo Mỹ
Nơi gởi: Phnôm Pênh
Nơi nhận: Sài Gòn
Đoàn đại biểu bán chính thức của Quốc hội Sài Gòn không thu được kết quả gì trong chuyến đi đến Phnôm Pênh. Chính phủ Hoàng gia tiếp hờ hững. Nguyễn Thành Luân gặp Sihanouk nhưng chỉ nhắc tìn cảm bạn bè cũ. Không có dấu hiệu Luân tiếp xúc với một nhân vật Cộng sản nào.
------------
(1) Nội trú (nói tắt).
(2) Nhiệm vụ bất khả thi.
(3) Phóng sự chưa hề công bố.
(4) Bệnh viện hữu nghị Miên - Xô.
(5) Hoàng thân
(6) Miên miền hạ



Phần 7 - Chương 6


Luân có trong tay một tập sách mỏng in ronéo do một Quốc Tân nào đó biên soạn, dĩ nhiên là lưu hành bí mật. Tổng nha Cảnh sát quốc gia tịch thu được tập sách, chuyển lên báo cáo với Ngô Đình Nhu và Nhu trao lại cho Luân để nghiên cứu. Tập sách gồm một số chương và một số tiết mà chương đầu tập trung nói về Ngô Đình Diệm và mối liên quan giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo.
Trong tiết: “Hoàn cảnh nào đã tạo ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm?”, tác giả bắt đầu từ 1954 và nhận định rằng, do quyết định tối hậu của các đại cường, Việt Nam đã chia làm hai miền: Bắc bị Cộng sản thống trị, Nam dưới quyền chính phủ Quốc gia. Lúc đầu, chính phủ Quốc gia vẫn tiếp tục dựa vào Pháp nhưng không lâu thì Hoa Kỳ cảm thấy Pháp không đủ sức bảo vệ miền Nam tự do nên quyết định gánh vác sứ mệnh đẩy lùi sự đe dọa của Cộng sản. Do môi giới của Trần Văn Chương, đại sứ của Việt Nam ở Mỹ, Tổng thống Mỹ đã đi đến giải pháp Ngô Đình Diệm, Ngô - Trần là thông gia với nhau và ý kiến của ông được Hồng y Spellman ủng hộ, rất ăn khớp với dự định của Tổng thống Mỹ.
Tập sách nói đến con người Ngô Đình Diệm như sau: Nhờ người cha, Ngô Đình Khả, là quan đại thần triều Khải Định, Ngô Đình Diệm được học trường Hậu bổ, ra làm Tri huyện, sau thăng Tuần vũ. Sống trong buổi giao thời, với bản tính chấp nhất, quan liêu, tự mãn với địa vị của mình, ông Diệm chỉ là một người thuộc lớp “Cổ vô đạt, kim bất thông”.
Năm 1932, Bảo Đại từ Pháp về nước lập chính phủ Nam triều, ông Diệm được gọi từ Phan Thiết ra Huế giữ chức Lại bộ Thượng thư. Sau vì ghen tài với Phạm Quỳnh và thấy cái kém của mình trước một người tài hoa được nhà vua trọng dụng hơn, nên Diệm xin từ chức.
Suốt trong 12 năm, từ 1934 đến 1946 là lúc dân tộc chuyển mình trong phong trào đấu tranh giành độc lập, cả nghìn vạn chiến sĩ bị tù đày hoặc ngã gục trước mũi súng của thực dân. Vậy mà, từ Bắc chí Nam không thấy bóng dáng và tiếng nói của ông Diệm.
Thế rồi, đầu năm 1948, người ta lại thấy ông Diệm xuất hiện ở Đà Lạt để Bảo Đại ban cho chức Thủ tướng chính phủ thuộc địa. Nhưng do thế lực của Trung tướng Nguyễn Văn Xuân khi đó quá mạnh khiến ông Diệm bị thất vọng rồi ôm hận qua La Mã ở với anh ruột là Ngô Đình Thục.
Năm sau, ông Diệm qua Balê. Ở đây, ông sống trong một căn nhà trọ nghèo nàn, sinh hoạt như một chàng sinh viên kiết xác.
Khi ấy “hoàng thượng Bảo Đại” du hành qua Pháp. Có người kể tình cảnh ba đào của ông Diệm hiện tại cho “hoàng thượng” nghe, “hoàng thượng” bèn nghĩ đến thể thống quốc gia, chẳng gì cũng đường đường một vị “cựu Lại bộ Thượng thư”, sao nỡ để cho đày đọa trần ai thế!
Bởi vậy “hoàng thượng” thương tình nên giúp cho một số tiền, để người bầy tôi cũ của mình có thể thuê khách sạn mà ở cho đỡ tủi thân.
Tình trạng ông Diệm như vậy, ta đủ hiểu gia đình họ Ngô lúc đó bỉ cực đến thế nào?
Ông Diệm ở khách sạn của Hoàng đế Việt Nam thuê cho tại Balê được ít lâu thì anh ông, Giám mục Ngô Đình Thục, từ La Mã ghé qua đón ông sang Mỹ.
Ở đây, ông Diệm mặc áo dòng, hầu hạ Hồng y Spellman trong 4 năm và giữa lúc đang sửa soạn thành linh mục, thì một cơ hội nghìn năm một thuở đến với ông.
Hồng y Spellman thương tình người đồ đệ của mình, ông nhắm thời cơ và nhận thấy tình trạng đất nước Việt Nam lúc đó là một cơ hội tốt, có thể giúp Ngô Đình Diệm làm được nhiều việc có lợi hơn là nằm trong khuôn khổ một linh mục.
Bởi vậy, Hồng y Spellman đã sử dụng mọi uy tín và thế lực của mình để vận động với chính phủ Mỹ, đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam.
Trước việc làm của Spellman và lời đề nghị của Trần Văn Chương, chính phủ Mỹ vội vã cứu xét và chấp nhận ngay, vì thấy có hai điều lợi ích căn bản:
1. Dùng Diệm chắc chắn sẽ tạo được một chính phủ chống Cộng triệt để.
2. Qua Spellman, chính phủ Mỹ biết được bản tính của Diệm: thuần phục, dễ bảo. Điều đó cho biết một chính phủ do Diệm lãnh đạo sẽ không bao giờ hành động vượt ra ngoài chủ trương và sách lược của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Thế rồi, ông Diệm được sửa sang mày mặt, cởi bỏ áo dòng khổ hạnh để về Sài Gòn ngồi ghế Thủ tướng.
Và, việc gì đến đã đến!
“Giải pháp Bảo Đại không ổn thì Bảo Đại phải đi”!
Khi hoàng thượng bị truất phế, người những hai lần tuyên thệ làm bầy tôi trung thành của hoàng thượng và đã để hoàng thượng phải thương xót trong cơn ba đào tại hải ngoại, đã không ngần ngại phỉ nhổ và quét mực vào mặt hoàng thượng in trên giấy, rồi đem bêu xấu khắp các phố phường, thôn xóm.
Trong tiết “Chế độ Ngô Đình Diệm” tài liệu viết:
Khi đã truất phế xong Bảo Đại, ông Diệm bèn nghĩ đến việc chia bùi xẻ ngọt với anh em, bà con, tương tự như các bậc đế vương đời Xuân Thu - Chiến Quốc thường làm.
Với Ngô Đình Nhu, con người nuôi tham vọng trở thành “vua học thuyết và chính trị tại Việt Nam”, khi đã đóng vai cố vấn, nấp sau hậu trường, Nhu không từ một chước thần mưu quỷ nào để thu gom quyền hành về cho gia đình họ Ngô.
Ngô Đình Nhu đã âm mưu với Diệm thủ tiêu Hồ Hán Sơn và Trịnh Minh Thế, hai người có công đầu trong việc kiện toàn tổ chức, thu hồi quyền lực về cho chính phủ trung ương. Sau đó, các giáo phái, nhân sĩ, trí thức, đảng phái đối lập lần lượt bị anh em Ngô Đình Diệm hãm hại và làm cho tan rã.
Đã độc tài về chính trị, làm cho mọi người mất hết tự do, nhân dân sống trong cảnh nghẹt thở; gia đình họ Ngô còn độc tài về kinh tế. Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Cẩn thi nhau lợi dụng uy thế của gia đình mình, lũng đoạn nền kinh tế quốc gia, khiến cả triệu người lâm vào cảnh đói khổ.
Những cảnh muôn vạn người nghèo khổ, mọi thứ tự do bị chà đạp, Việt Cộng đánh phá khắp nơi đều có tội của gia đình họ Ngô gây ra cả.
Đó là những nguyên nhân sâu sa tạo ra phản ứng của quần chúng. Nhưng nguyên nhân tối hậu thúc đẩy sức phản ứng quyết liệt của quần chúng lại là vấn đề Phật giáo.
Vậy tại sao có phong trào đấu tranh của Phật giáo đồ?
Đầu năm 1963, báo HongKong Tiger Standard tiết lộ: Giám mục Ngô Đình Thục đã không ngần ngại đọc diễn văn nói về sự phát triển Thiên Chúa giáo tại Việt Nam đã đến giai đoạn cực thịnh. Ông nhấn mạnh: Phật giáo Việt Nam đã tự hủy diệt lần mòn và tới nay không còn dấu hiệu gì chứng tỏ đó là một tôn giáo đang còn sinh hoạt...
... Một mục sư Tin lành đã hoạt động tại Việt Nam trong 12 năm qua cho biết: “ông Thục lợi dụng uy thế của người em làm Tổng thống để âm mưu cùng mọi người trong gia đình đặt kế hoạch biến Thiên Chúa giáo thành quốc giáo trong vòng vài năm... ”.
Báo HongKong Tiger Standard đặt vấn đề:
“Ông Thục muốn dâng công với Tòa thánh Vatican để chiếm chức Hồng y hay nuôi tham vọng trở thành giáo chủ Việt Nam giáo, tương tự như Anh giáo”?
Phù hợp với tiết lộ trên, thực trạng tại Việt Nam cũng cho ta thấy:
- Riêng tại miền Trung đã có mấy nghìn gia đình bị cưỡng bức tòng giáo.
- Ai không chịu theo Thiên Chúa giáo thì bị tù đày, giết chóc.
- Phật giáo đồ bị ngược đãi, nhiều địa phương, chính quyền công khai xúc phạm và khinh bỉ Phật giáo.
- Công chức, quân nhân theo Thiên Chúa giáo được ưu đãi hơn mọi người theo tôn giáo khác.
Ngoài ra, mặc dù Phật giáo đồ bất bình, ta thán về đạo dụ số 10, nhưng đạo dụ đó vẫn tồn tại suốt 9 năm cầm quyền của ông Diệm.
Đạo dụ số 10 có phương hại gì đến tinh thần tín ngưỡng cùng truyền thống của dân tộc ta?
Thoát thai từ chế độ thực dân, đạo dụ số 10 ban hành năm 1950 mang nặng tính chất bất công, kỳ thị tôn giáo.
Đạo dụ này hạ thấp tôn giáo xuống ngang hàng với các hội đua ngựa, đá banh. Nhưng đặc biệt, lại đặt các hội truyền giáo Thiên Chúa ra ngoài phạm vị đạo dụ đó.
Như vậy, rõ ràng thực dân muốn miệt thị dân tộc ta, nên coi tôn giáo của đại đa số nhân dân Việt Nam không có giá trị gì.
Ông Diệm lên nắm chính quyền, không những không sửa đổi đạo dụ đó, mà lại còn ký thêm một nghị định vào ngày 23-9-1960 nói về việc mua bán các bất động sản của các tôn giáo - dĩ nhiên, trừ Thiên Chúa giáo - dù bé nhỏ tới đâu cũng phải được sự cho phép của Tổng thống.
Trên danh nghĩa, mọi tôn giáo đều chịu sự kiểm soát của Phủ tổng thống một khi tiếp nhận bất động sản do tư nhân tiến cúng. Nhưng mặt trái của sự việc này ra sao? Ông Diệm liệu có tránh khỏi thiên vị khi chính nghị định này không phải là sáng kiến của ông, mà do sự yêu cầu của người anh ruột đầy quyền hành và đầy tham vọng trần tục!
Sự kiện đó làm cho người ta hiểu rằng, dù ông Diệm không dám mong ý tưởng hủy diệt Phật giáo, nhưng ít nhất ông cũng bị chi phối, khiến không thể công bình trong việc đối xử với các tôn giáo khác.
Đã thiếu minh chính, thiếu vô tư xuyên qua đạo dụ số 10 và nghị định ký ngày 23-9-1960, ông Diệm còn phó mặc mọi công việc thuộc phạm vi quyền hành của ông cho những kẻ thân tín trong gia đình. Mà những kẻ này là ai? Là những kẻ chẳng có cương vị, chẳng có trách nhiệm gì đối với lịch sử và dân tộc, nhưng trong lòng lại chứa đầy những tham vọng cuồng dại. Mỗi người một vẻ, mỗi người đều muốn trở thành “vua” trong lĩnh vực riêng: kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Vì vậy người dân chỉ khổ trong phạm vị độc tài kinh tế, chính trị, nhưng Phật giáo đồ còn khổ cả về mặt tinh thần, tức vấn đề tín ngưỡng bị đe doạ.
Quan điểm của tập sách thật hết sức rõ ràng. Nó đáp ứng trước hết là khẩu vị của nước Mỹ và không loại trừ bàn tay của CIA nhúng vào và khai thác, chủ yếu sự thù địch tôn giáo. Mục tiêu chống Cộng vẫn là hàng đầu của người viết sách. Dĩ nhiên, những sự kiện mà tập sách nêu ra đều đúng 100%, nhưng cách phân tích những sự kiện thì lại xuất phát từ những ý định có sẵn, làm thế nào để giải thích công cuộc chống Cộng kém hiệu quả ở Nam Việt Nam bằng một luận điểm và chỉ một luận điểm mà thôi: do Ngô Đình Diệm, biểu trưng tập trung nhất là đàn áp Phật giáo.
Tập sách minh họa nhận định của lãnh đạo mà Luân nhận được ở Nam Vang từ tay Sa. Trò khua động dư luận để tạo cớ “thay ngựa giữa dòng” bắt đầu một cách rộn ràng.
Chẳng có gì khó hiểu khi thượng tọa Thích Tâm Châu, Chủ tịch Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo bỗng dưng ra một lời đính chính rằng Phật giáo không chấp nhận sự ủng hộ của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ngày mùng 10-6, Hãng thông tấn Pháp AFP loan tin này, tin bịa và thượng tọa Thích Tâm Châu đã đính chính thật. Người ta có thể thông cảm rằng Ngô Đình Nhu, Trần Kim Tuyến muốn cột phong trào Phật giáo với Việt Cộng nhưng người ta khó đoán mà thông cảm sự đính chính với lời lẽ hằn học của một nhà sư. Thượng tọa Thích Tâm Châu yêu cầu báo chí nói rõ rằng sự can thiệp của tướng Giáp là một việc làm không ăn thua vào đâu và ông ta không nhận sự ủng hộ ấy, mà ông ta xem như là một thủ đoạn của Cộng sản.
Trong đầu Luân, bài toán xoay quanh một ẩn số, đó là quần chúng, kẻ phán quyết số phận của chế độ Ngô Đình Diệm lẫn các phần tử lợi dụng đạo Phật, lợi dụng quần chúng, lợi dụng thế của cách mạng.
Ngày 16-6, Ủy ban liên bộ gồm Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Phủ tổng thống Nguyễn Đình Thuần và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Bùi Văn Lương đã ký với phái đoàn Phật giáo một thông cáo chung. Đó là kết quả của 3 ngày thảo luận tại hội trường Diên Hồng. Thông cáo chung gồm 5 điều khoản, trong đó phía chính phủ có những nhượng bộ và phía Phật giáo cũng thế. Nếu người ta chú ý đến giờ ký bản thông cáo chung - 1 giờ sáng - thì có thể hiểu quá trình “cò kè” phức tạp đến chừng nào. Thông cáo chung được hòa thượng Tổng hội chủ Phật giáo kiểm nhận và Tổng thống Ngô Đình Diệm thông qua. Bên trên chữ ký của Diệm là hai dòng bút tích của ông: “Những điều được ghi trong thông cáo chung này thì đã được tôi chấp nhận nguyên tắc ngay từ lúc đầu”.
Bị bắt buộc phải hạ mình ngang với các sư, Ngô Đình Diệm vẫn cố vớt vát.
Cái chết của hòa thượng Thích Quảng Đức vẫn chưa đủ độ mạnh để cảnh tỉnh chính phủ Ngô Đình Diệm.
Mười ngày sau khi thông cáo chung được ký kết, Tổng thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa Ngô Đình Nhu đã xác lập: Phong trào Thanh niên Cộng hòa là một phong trào quần chúng, không phải là một phong trào của chính phủ để mù quáng làm tay sai cho bất cứ ai. Người ta chỉ có thể giải thích quan điểm đó là Thanh niên Cộng hòa không thừa nhận thông cáo chung. Nhu đã nói rõ: Các nhà sư rất hăng hái lợi dụng, xuyên tạc một cách trắng trợn và ngoan cố để đầu độc một số tín đồ và gây áp lực với các vị đại đức hầu phát động một chiến dịch bất tuân pháp luật... Sự nguy hiểm của công việc thiếu giáo dục, thiếu học tập, thiếu cảnh giác nhân dân, để một số bất cứ lúc nào cũng có thể trở nên cuồng tín. Trong một vụ làm chết người có tổ chức bằng cách tưới xăng đốt một vị thượng tọa và các nhà sư không ngần ngại hành hung các cảnh sát...
Theo gợi ý chung của Nhu, Cao Xuân Vỹ, Tổng giám đốc Nha thanh niên, vận động một cuộc biểu tình đại quy mô để yêu cầu Ngô Đình Diệm duyệt lại bản thông cáo chung mà Vỹ cho là quá khoan hồng với Phật giáo. Một số cuộc mít tinh khác lập kiến nghị lên án Phật giáo. Một bộ phận trong nhóm Lục Hòa Tăng và Cổ Sơn Môn, theo gợi ý của Nhu, đã đánh điện cho Hội Phật giáo Sri Lanka lên án các hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
Trong thời gian này, Diệm chơi trò hai mặt. Một mặt dùng Nguyễn Ngọc Thơ để xoa dịu, một mặt dùng Cao Xuân Vỹ để kích động.
Phía Phật giáo cũng có cách phản ứng riêng. Chan Htoon, Chủ tịch Hội Phật giáo thế giới đã ra lời kêu gọi Phật giáo thế giới ủng hộ Phật giáo Nam Việt Nam chống lại sự áp bức và ngược đãi Phật tử. Thái tử Norodom Sihnouk, Quốc trưởng Cambôt yêu cầu giải quyết gấp rút vấn đề tôn giáo bằng đường lối hòa bình, phù hợp với những nguyên tắc đã được ghi trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên hợp quốc. Sihanouk còn đánh động các chính phủ Mỹ, tổng thống Ấn Độ, rổng thống Pháp, thủ tướng Anh; và bà Bandaranaike, thủ tướng Sri Lanka cũng hành động tương tự.
Thông điệp của Sihanouk, như ông ta cam kết với Luân, lời lẽ hết sức có mức độ. Nhưng các trung tâm Phật giáo Miến Điện, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Iran, Nhật Bản và một số nước khác đã họp tại Tân Gia Ba để bày tỏ thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo Nam Việt.
Điều mà dư luận lấy làm lạ xoay quanh chỗ hai phe chống đối đổ cho nhau là Việt Cộng. Phật giáo, qua Thích Tâm Châu, đã gán cho Ngô Đình Nhu là Cộng sản, là sử dụng nghệ thuật của Cộng sản khi gọi những người Phật giáo là phản động, là phiến loạn. Trên tờ The Times of Viet Nam, Trần Lệ Xuân cho đăng một bài tố cáo rằng những cuộc biểu tình của Phật giáo đều được tổ chức đúng như dự kiến của Cộng sản.
Phật giáo tố cáo ông Ngô Trọng Hiếu đã cho 300 cán bộ công dân vụ cạo trọc đầu, giả làm sư để làm mất thanh danh Phật giáo, thậm chí thuê may cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam. Thông cáo của Bộ Nội vụ trưng ra các bằng chứng về sự dính líu của Phật giáo với Việt Cộng: tịch thu ở chùa này truyền đơn, ở chùa kia lựu đạn, ở chùa nọ chất nổ, bắt được quả tang cán bộ Cộng sản hóa trang làm sư với giấy thông hành giả và súng ngắn. Vân vân và vân vân.
Chín giờ sáng ngày 23-7-1963, trong lúc chùa Xá Lợi đang diễn ra cuộc họp báo của bà Diệu Huệ, mẹ của giáo sư Bửu Hội, cho hay bà sẽ tự thiêu thì một đoàn biểu tình án ngữ lối ra vào chùa với các băng ghi: Đại diện cho 5 vạn thương phế binh và 12 vạn cô nhi quả phụ, yêu cầu hãy chấm dứt gây chia rẽ trong hàng ngũ Quốc gia. Trong các khẩu hiệu, ngoài những câu chống Cộng quen thuộc, Ngô Trọng Hiếu còn sáng tác ra một nội dung ngộ nghĩnh: Yêu cầu Tổng hội Phật giáo kết tội Lê Đình Thám, người sáng lập Hội Phật giáo, hiện làm tay sai cho Cộng sản miền Bắc. Nhưng có lẽ, cơ quan tình báo Mỹ đặc biệt chú ý đến hai khẩu hiệu:
- Đừng để ngoại bang xâm nhập chủ quyền dân tộc.
- Chấm dứt mọi hành động vọng ngoại ươn hèn.
Hết sức lý thú là sau cuộc biểu tình “tự động” của dân vệ và thương phế binh trước chùa Xá Lợi, Tổng giám đốc Thông tin Phan Văn Tạo hỏa tốc họp báo. Tạo thanh minh rằng chính phủ không hay biết về cuộc biểu tình này, người chịu trách nhiệm là trung tá Trần Thanh Chiêu, thanh tra Trung ương dân vệ đoàn Chính phủ đã cách chức và phạt trung tá Chiêu 40 ngày trọng cấm. Nhưng, sau cuộc họp báo giật giân này chẳng bao lâu thì Trần Thanh Chiêu lại được thưởng Anh dũng bội tinh.
Tình hình vừa căng thẳng vừa lộn xộn, có bi và có hài.
... Luân đọc các tin trên báo, trong các báo cáo và anh bỗng cười. Dung kinh ngạc.
- Em đoán xem tại sao anh cười? - Luân hỏi vợ.
- Chịu thôi!
- Hiện nay, ai cũng nhắc đến Việt Cộng cả. Em nhớ cuộc xung đột ở bán đảo Sinai giữa Ai Cập và Do Thái không? Ai Cập tuyên bố: Chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi noi theo tấm gương anh hùng của Việt Nam. Do Thái tuyên bố: Chúng tôi sẽ thắng vì chúng tôi học các bài học dũng cảm, kiên quyết của Việt Nam... Tại Sài Gòn, chính phủ buộc Phật giáo là Việt Cộng, Phật giáo buộc chính phủ là Việt Cộng... Trăm sự đều do Việt Cộng cả!
- Tất nhiên, họ xuyên tạc. Song, cái đáng nói là Việt Cộng buộc họ phải nhắc đến như một huyền thoại.
- Em nói đúng. Xét cho cùng, tất cả rắc rối thuộc nội tình của chế độ thân Mỹ ở Nam Việt sẽ không có hoặc có dưới mức gay gắt, nếu chúng ta không tồn tại, dân tộc ta không thể hiện bản lĩnh và từ 1954, không có một miền Bắc tự do, từ 1960, không có một Mặt trận Giải phóng hùng mạnh...
Luân dịu dàng ghì Dung, hôn lên má cô.
*
12 giờ trưa ngày 4-8, Thích Nguyên Hương, một nhà sư trẻ, sinh năm 1940 đã tự tưới xăng lên mình, tự châm lửa tại Đài chiến sĩ trước Tòa tỉnh trưởng Phan Thiết. Thích Nguyên Hương chết kéo theo những rắc rối mới. Cơ quan công lực tỉnh Bình Thuận bắt nhốt các tăng ni Phật tử đến viếng Thích Nguyên Hương tại nhà xác của bệnh viện. Tàn bạo hơn nữa, cảnh sát bẻ nhục thân của thầy Nguyên Hương để nhét vào hòm, đưa về Tuy Phong tránh mũi nhọn của quần chúng tại thị xã Phan Thiết.
Đại đức Thích Nguyên Hương tự thiêu không phải là một hành động đột ngột. Ngày 30-7, đại đức đã gửi một thư trần tình và bức thư đó - cùng với bức thư của đại đức gửi cho cha mẹ - được công bố trên báo chí.
20 giờ ngày 12-8, một thiếu nữ vóc dáng mảnh dẻ, mặc chiếc áo dài màu xanh đã dùng búa tự chặt tay mình tại chùa Xá Lợi. Đó là nữ sinh Mai Tuyết An. Cũng như trường hợp Thích Nguyên Hương, Mai Tuyết An đã dự định hành động và không giấu giếm ý định của mình.
Ngày 13-8, tại Huế, đại đức Thích Thanh Tuệ lại tự thiêu. 8 giờ ngày 15-8, tại Ninh Hòa, ni cô Diệu Quang tự thiêu tại chùa Ninh Hội. Ngày 16-8, tại Huế, trong khuôn viên tại chùa Từ Đàm, thượng tọa Thích Tiêu Diêu tự thiêu.
Tất cả đẩy tình hình Nam Việt đến chỗ bùng nổ.
Bình luận của các báo: Hầu hết các báo đều đăng các tin bình dưới đây, không mang chữ ký.
*
Bảng thông cáo chung, gáo nước lạnh dội vào ngọn lửa le lói...
2 giờ ngày 16-8-1963, bản thông cáo chung được ký kết giữa chính phủ và Phật giáo sau 2 ngày đêm hội đàm, 5 nguyện vọng chính đáng của Phật giáo được công nhận. Tổng hội Phật giáo Việt Nam tuyên bố, cuộc đấu tranh đã hoàn thành trong giai đoạn cần thiết.
Tổng hội Phật giáo Việt Nam đã thực hiện đúng với chương trình đấu tranh thuần túy tôn giáo, cương quyết từ chối mọi sự lợi dụng của những tổ chức chính trị. Bức thư của thượng tọa Thích Tâm Châu, Chủ tịch Ủy ban liên phái đăng trên tờ Đồng Nai chống lại sự lợi dụng của Võ Nguyên Giáp đồng thời vạch rõ vị trí hoạt động của Phật giáo Việt Nam trong cuộc đấu tranh thuần túy tôn giáo cho 5 nguyện vọng Phật giáo đồ.
Bản thông cáo chung giữa chính phủ và Phật giáo được ký kết như một giáo nước lạnh xối vào ngọn lửa le lói của bọn trung lập định lợi dụng cuộc đấu tranh huynh đệ ở Việt Nam.
*
Phối hợp chặt chẽ giữa bọn trung lập thân Cộng Việt - Miên
Trong thời gian có cuộc đấu tranh tôn giáo thì tại Cambôt, bọn trung lập thân Cộng Cao Miên cũng như lưu vong Việt Nam hớn hở mừng rỡ. Điện tín, thư từ giữa bọn trung lập Cambôt và bọn trung lập thân Cộng Việt Nam cầm đầu là Trần Văn Hữu có sự giúp sức của bọn Hồ Thông Minh, Phạm Huy Cơ, cấu kết với nhóm Việt Cộng của Mai Văn Bộ định thành lập ngay một chính phủ lưu vong mà bản tuyên ngôn đầu tiên kiểu trung lập Lào năm 1960.
Một số chính khách lưu vong từ Balê về Nam Vang hăm hở họp hằng ngày để bàn về tình hình Sài Gòn trong thời gian có cuộc đấu tranh tôn giáo.
*
Sự thật về âm mưu Sihanouk và lưu vong
Cuộc đấu tranh của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, đúng như Đức hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam và thượng tọa Thích Thiện Minh, Trưởng phái đoàn Phật giáo Việt Nam đã nói là thuần túy tôn giáo.
Cũng như Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đã nói, tinh thần bản thông cáo chung được ký kết giữa Phật giáo và chính phủ là tinh thần đoàn kết huynh đệ, những minh định trên đây của các vị lãnh đạo chính phủ cũng như Phật giáo, hơm một lần đã làm sáng tỏ thiện chí xây dựng của những người yêu nước, đặt quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc lên trên hết.
Những bọn cơ hội, bọn hoạt động, bọn tay sai cho Cộng sản, vẫn cố tình lệch lạc, nhắm mắt, bưng tai, âm mưu lợi dụng cuộc đấu tranh huynh đệ trong nội bộ Việt Nam Cộng hòa, muốn biến cuộc đáu tranh thuần túy tôn giáo của Tổng hội Phật giáo Việt Nam thành một cuộc đấu tranh chính trị có lợi cho bọn đế quốc, bọn Cộng sản và bọn thù nghịch quốc tế.
Tại Nam Vang, trong một buổi lễ khánh thành một ngôi chùa, thái tử Norodom Sihanouk, Quốc trưởng Cao Miên đã tuyên bố, sẽ tích cực can thiệp để cứu “những đạo hữu Việt Nam - của ông”. Sau đó, chính quyền Cao Miên tổ chức cuộc biểu tình của các sư sãi Cao Miên đến trước Tòa đại diện Việt Nam Cộng hòa để đưa kiến nghị.
Thái tử Norodom Sihanouk đích thân viết thư cho Tổng thống Kennedy, Thủ tướng Mac Milan, Tổng thống Ấn Độ và UThant, Tổng thơ ký Liên hợp quốc yêu cầu can thiệp vào vấn đề nội bộ Việt Nam Cộng hòa.
Tổng thống Kennedy đã trả lời Norodom Sihanouk rằng: “Nguyên tắc dân chủ, Tổng thống Kennedy không thể can thiệp vào vấn đề nội bộ Việt Nam Cộng hòa và Tổng hội Phật giáo đã đi đến một thỏa hiệp tốt đẹp.”
Norodom Sihanouk nấp sau bức bình phong tôn giáo để thực hiện một âm mưu chính trị.
Trong khi ấy, tại Nam Vang, bọn Ca Văn Thỉnh, đại diện kinh tế mậu dịch của Việc Cộng, Lê Phủ Doãn, tên trùm giám điệp Việt Cộng đã cùng với một số lưu manh, chạy theo với một số chính khách Cao Miên để tập hợp thêm một số bất mãn lưu vong ở Cambốt với sự giúp đỡ của Cambôt lợi dụng phong trào đấu tranh tôn giáo ở Việt Nam Cộng hòa điều động một số người đánh phá vùng biên giới. Một mặt, có sự phối hợp của Cộng sản miền Nam phá hoại ở đô thị gây ra những cuộc náo loạn, biến cuộc đấu tranh thuần túy tôn giáo thành cuộc đấu tranh chính trị quần chúng để lật đổ chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
*
Tờ New York Times cuối tháng 7, đăng một bài tường thuật của Erich Wulf, nhà thần học, gốc Đức, nhiều năm ở Nam Việt Nam. Tường trình của bác sĩ Erich Wulf cùng với hàng loạt cuộc diễn thuyết của ông trên đất Mỹ đã dẫn đến một cuộc hội kiến giữa công và các nhân vật có thẩm quyền của chính phủ Hoa Kỳ trong đó đáng để ý là Ngoại trưởng Dean Rusk và nhà chính trị có thế lực của đảng Cộng hòa Cabot Lodge. Erich Wulf nói:
“Ngày 8-5-1963, tại cố đô Huế, tôi phải tìm hết cách mới lén lút vào được căn nhà xác để xem 8 tử thi bị quân đội của tổng thống Ngô Đình Diệm bắn đứt đầu, gãy chân ngay trước khi chính phủ vội vàng đem chôn... Tôi là người Tây phương, không có ân huệ gì với Phật giáo Việt Nam, không có ác cảm gì với chính phủ Ngô Đình Diệm; tôi nói những điều này là tôi trông thấy, các ông nghĩ sao?
Đầu tháng 6, tôi cố gắng lắm mới tìm được cách vào săn sóc chớp nhoáng cho 62 sinh viên Phật tử, nạn nhân của những vụ “tạc đạn lửa chế tạo tại Hoa Kỳ” do chính phủ Ngô Đình Diệm gây ra. Trong chương trình viện trợ của Hoa Kỳ cho Việt Nam, gồm có nhiều thứ, nhưng chắc các ông đã nhận thấy chính phủ Ngô Đình Diệm không ham chuộng chuyên viên y tế và thuốc men bằng súng bom!
Các ông hiện nay là những yếu nhân của chính phủ Hoa Kỳ, nếu có những người dân của các ông tuyệt thực để phản đối chính sách của các ông; các ông đối phó với họ bằng cách nào? Tất nhiên, các ông phải áp dụng phương thức nhân đạo chung mà thế giới thường làm: cứu xét nguyện vọng để thỏa mãn; nếu chưa thể được thì phải giữ họ mà tiêm thuốc bổ để duy trì sức khỏe cho cơ thể họ. Các ông có biết ở miền Nam Việt Nam, người ta đã đối phó như thế nào không? Khi 300 sư sãi và Phật giáo đồ tuyệt thực 48 giờ trong chùa Từ Đàm, thì chính quyền cho lính đến bao vây, cúp điện nước. Hết hạn tuyệt thực của tăng ni, họ lại mang dây thép gai đến phong tỏa, không cho chở thực phẩm vào chùa. Vài ngày sau, một số người hoạt động trong chi nhánh hội Hồng thập tự quốc tế tại Việt Nam bí mật nhờ tôi tới xem xét có muối và nước trong chùa Từ Đàm mà các vị sư đang cần để tìm cách cứu giúp. Nhưng tôi cũng bị chung một số phận với các sinh viên Phật tử đội cơm tới chùa để cúng đường, họ bị đuổi về, sau khi thực phẩm bị quăng xuống cống. Còn tôi, tôi bị dây thép gai trói chặt lấy lương tâm và lòng thương xót của tôi.
Cũng vì việc phong tỏa này nên các sinh viên Phật tử nhất tề nổi dậy, rồi họ bị khủng bố, bị đả thương rất nhiều và nhiều người bị thương tích vô cùng trầm trọng. Tôi không thể dành cho các sinh viên này một phương pháp trị liệu đặc biệt nào, vì nhân viên chính phủ đã từ chối không cho tôi biết là họ dùng loại lựu đạn gì. Nhưng có biết cũng vô ích vì chỉ một ngày sau, tất cả các bệnh nhân của chúng tôi đều được mang đi và được giam ở một nơi rất cẩn mật, đến nỗi hiện nay chúng tôi cũng không nhận được tin tức gì về số phận của họ. Trong số những người bị thương, và bị giam giữ bí mật này có nhiều người tôi quen biết vì họ là những sinh viên ưu tú của lớp học mà tôi dạy, trước ngày bị thương trầm trọng, một trong những sinh viên ưu tú của Trường y khoa Huế đã gặp người bạn đồng nghiệp rất thân của tôi tại một góc phố. Đồng nghiệp của tôi không nhận ra anh sinh viên Phật tử này nữa, vì trông anh quá hốc hác do sự hành hạ dã man gây ra”.
Mũi tiến công đột phá của Erich Wulf được dư luận Hoa Kỳ tán đồng - dư luận báo chí và dư luận chính giới - như đã chờ đợi từ lâu, theo bản hợp xướng đã xong phần phối âm. Tờ New York Herald Tribune lên tiếng sớm nhất:
“Thượng tọa Thích Quảng Đức, một vị tu sĩ Phật giáo đã biến tấm áo cà sa vàng của mình thành một dàn hỏa thiêu không phải là một người duy nhất có thể tự đốt mình. Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam cũng đang làm một việc rất hay là ông đang tự đốt hết nền tảng của chế độ ông... ”
Thượng nghị sĩ Wayne L.Morse thuộc tiểu bang Oregon dự vào cuộc hòa âm ngay lập tức: “Chúng tôi không đồng ý cho một dollar nào nữa để ủng hộ một chế độ độc ác và tàn bạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm tại Nam Việt Nam”. Trước nghị viện, ông Morse nói thẳng thừng: “Chế độ hiện thời ở Nam Việt Nam không đáng hưởng sự hy sinh tín mệnh của một trẻ em người Mỹ... ”
*
THÔNG BÁO CỦA BỘ NỘI VỤ
Từ ngày 5 đến ngày 12 tháng 7 năm 1963, Tòa án quân sự đặt biệt Việt Nam Cộng hòa đã xử 94 can phạm gồm 19 sĩ quan và 75 thường nhân liên quan đến cuộc phiến động ngày 11 tháng 11 năm 1960. Tòa tuyên án chung thẩm tử hình đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh lữ đoàn dù, trung tá Vương Văn Đông, đồng thời đã kêu án từ 18 năm khổ sai đến 7 năm khổ sai và 5 năm cấm cố các thiếu tá Phan Trọng Chinh, trung úy Nguyễn Bá Mạnh Hùng vv...
Về thường nhân, tòa đã kết án thỏa đáng các tên Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Thành Phương, Đinh Xuân Hoạt, Phạm Lợi, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lương, Nguyễn Tường Tam, Hoàng Hồ, Trần Văn Hương, Nguyễn Lưu Viên, Huỳnh Kim Hữu, Phan Huy Quát, Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tăng Nguyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Lê Quang Luật, Lê Ngọc Chấn, Trần Văn Tuyên, Phạm Hữu Chương, Tạ Chương Phùng, Trần Văn Đỗ v.v...
*
NHÀ VĂN NHẤT LINH NGUYỄN TƯỜNG TAM TỰ SÁT
Tin các báo:
Nhà văn nổi tiếng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, một lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng, từng là Chủ nhiệm những tờ báo nổi tiếng như Phong Hóa, Ngày Nay, Xướng Xuất, Tự lực văn đoàn, tác giả nhiều quyển tiểu thuyết, đã có lúc giữ chức Ngoại trưởng chính phủ Việt Minh, vào 1 giờ 12 phút ngày 8-7-1963 đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Đồn Đất bằng thuốc độc, giữa lúc tòa án quân sự đặc biệt đang xét xử ông.
Đám tang Nguyễn Tường Tam được cử hành theo thể thức Phật giáo và một đoàn người đông đảo đã đưa linh cửu Nguyễn Tường Tam đến cầu siêu tại chùa Xá Lợi. Nguyễn Tường Tam được chôn ở chùa Giác Minh, Gò Vấp. Ông hưởng thọ 57 tuổi.
*
MỘT TÊN KHỦNG BỐ VIỆT NAM MƯU TOAN LIỆNG LỰU ĐẠN VÀO ĐÁM TANG NHẤT LINH
Tin VTX
Một tên khủng bố Việt Cộng đã bị bắt ngày hôm qua trong lúc đang trà trộn vào đám đông người dự đám táng nhà văn Nguyễn Tường Tam tại nghĩa trang chùa Giác Minh (Gò Vấp).
Tên này là phu xích lô số 0125 lúc ấy đậu trước nhà cạnh nghĩa trang.
Theo nhà chức trách, tên này mặc sơ mi kiểu quân nhân, trên túi áo để một trái lựu đạn. Vẫn theo nhà chức trách thì vị trên đường vào nghĩa trang là độc đạo, nên tên VC này chưa dám ném trái lựu đạn, vì y sợ khi ném rồi thì không có lối thoát thân.
Thật quả là một điều may mà tên khủng bố chưa thi hành được thủ đoạn, nếu không, có lẽ sẽ gây tai nạn cho nhiều người, vì lúc ấy còn đông người dự đám tang.
Cuộc điều tra của nhà chức trách còn đang tiến hành.
*
THÔNG BÁO CỦA NHA TỔNG GIÁM ĐỐC THÔNG TIN
Ngày 7-7-1963, trước cửa chùa Nguyệt Quang ở hẻm 164 đường Trương Minh Giảng đã xảy ra một vụ lộn xộn như sau:
Sáng hôm đó, một số sư sãi làm lễ cầu siêu trong chùa rồi sắp hàng kéo ra đường định biểu tình, nên các cảnh sát viên yêu cầu họ trở về chùa với lý do trật tự an ninh. Một vài ký giả ngoại quốc đứng gần đó đã tiến tới vạch lối cho sư sãi đi: đó là một trường hợp đi ra ngoài quyền hạn của báo chí.
Tiếp theo ký giả Peter Arnett, thuộc hãng thông tấn Associated Press giơ máy chụp hình và phó thẩm sát viên Lâm Văn Lý thuộc Tổng nha Cảnh sát quốc gia ra lệnh không được chụp sau khi đã xuất trình phù hiệu cảnh sát. Ký giả Arnett không những không tuân lệnh mà còn quay ống ảnh vào chính mặt ông Lâm Văn Lý chụp.
Ông Lâm Văn Lý lấy tay che ống kính máy ảnh, thì bị ký giả Malcolm Browne, cũng thuộc hãng AP, hành hung. Đồng thời ký giả Peter Arnett quay lại đánh thẩm sát viên Nguyễn Văn Lang tới giải vây cho phó thẩm sát viên Lâm Văn Lý. Cả hai nhân viên công lực đều bị thương nhẹ, và rách áo.
Còn phía ký giả Arnett Browne khai bị hư máy ảnh.
Việc này chỉ là một vụ lộn xộn nhỏ có thể xảy ra bất cứ ở nơi nào. Nhưng rất tiếc rằng một số các ký giả ngoại quốc đã tự ý cho việc này có một tầm quan trọng hơn, cho rằng “chính phủ Việt Nam định tâm dùng vũ lực đàn áp ký giả ngoại quốc” trong khi chính mấy ký giả đó đã dùng vũ lực để đàn áp cảnh sát - nói tóm lại, đã thổi phồng việc này thành một đề tài chính trị nên Tổng nha thông tin có bổn phận phải đặt lại vụ lộn xộn trong khuôn khổ sự thực.
*
ĐIỆN KHẨN
Peter Arnett gửi Tổng xã AP Sài Gòn ngày 9-7.
Thông báo của Nha tổng giám đốc Thông tin Việt Nam Cộng hòa về trường hợp của tôi và của Browne là hoàn toàn xuyên tạc. Chính Nguyễn Văn Lang và Lâm Văn Lý cùng nhiều cảnh sát đã đánh chúng tôi. Ở Sài Gòn, người ta đang sáng tác những thông báo dối trá đến độ nhơ nhớp. Ví dụ người ta đưa tin một tên khủng bố Việt Cộng mưu toan liệng lựu đạn vào đám tang nhà văn nổi tiếng Nhất Linh và tên khủng bố bị bắt. Đó là một vụ tưởng tượng, mặc dù chính phủ ông Diệm cố chụp ảnh chiếc xích lô. Thói nói láo đã trở thành một bệnh dịch được nhà nước Việt Nam Cộng hòa gieo rắc và khuyến khích cho lây lan...
*
Luân và Nhu ngồi đối diện cả 15 phút. Ngoài rít thuốc, họ im lặng. Luân đoán rằng Nhu sắp tung thêm một đòn nữa vào Phật giáo - đòn gì, anh chưa biết.
Trong những tháng gần đây, Nhu mất hẳn vẻ điềm đạm và sâu sắc mà Luân vẫn phục anh ta. Nhu bắt đầu nói năng thiếu cân nhắc, có nhiều quyết định thật đột ngột và chẳng hợp lý, nhất là trên mặt trận dư luận và trong đối phó cụ thể. Cảm thấy uy tín của chế độ mà anh ta là “linh hồn” - như anh ta tự nhận đôi khi lộ liễu - sa sút nghiêm trọng trong mấy năm nay, Nhu thích ca ngợi quá khứ, kể công. Không ít lần Luân phải chịu đựng hàng giờ với Nhu: anh ta “độc chiếm” diễn đàn thao thao bất tuyệt. So với tuổi, Nhu già quá sớm - già về khả năng suy xét.
Đối thủ của anh ta, bây giờ là cả một chính phủ Mỹ, tất nhiên rất vui lòng trước những sơ xuất liên tục của anh ta - đúng như tờ New York Herald Tribune nhận xét - “gia đình Tổng thống Diệm đang thúc đẩy sự thiêu hủy của chính mình”.
- Đã đến lúc mà một nhượng bộ nhỏ cũng trở nên nguy hiểm! - Nhu nói. - Ta phải làm mạnh. Tổng thống Mỹ ủng hộ ta. Số đông nhà sư chân chính ủng hộ ta. Các tướng nói chúng đều đứng sau lưng chính phủ. Ngay Big Minh, ông ta cũng chỉ lưu ý tôi là đề phòng cấp dưới lợi dụng danh nghĩa chính phủ mà gây ra hiểu lầm trong dư luận... Về người Mỹ, tôi nghe đâu Kennedy đau một thứ bệnh gì đó nan y.
Luân bỗng thấy thương hại Nhu. Anh so sánh Nhu với những ngày cuối cùng của Hitle mà anh xem trong nhiều sách! Đầu tháng 4, nghĩa là cách ngày Hitle tự sát non tháng, khi các vành đai phòng thủ ngoại vi dẫn đến Berlin bắt đầu nát vụn trước các mũi tiến công dữ dội của quân đội Xôviết, Hitle đã hò hét: “Đối với chúng ta, chỉ có việc đơn giản là phải đứng vững. Ở mặt trận phía đông, có thể chống cự với quân Nga ít nhất 2 tháng nữa. Từ đây đến đó, liên minh Nga - Mỹ - Anh sẽ đổ vỡ và sẽ ký một thỏa hiệp với nước nào đề nghị với ta trước... ”. Hitle có cái nhìn lịch sử khá độc đáo vào lúc y mạt vận: y cắt nghĩa thắng lợi của vua Frederik (1) là do... cái chết bất ngờ của Nga hoàng Elizabeth.
Bởi vậy, ngày 13-4, tin tổng thống Mỹ Roosevelt từ trần được bọn đầu sỏ phát xít tiếp nhận với sự vui mừng điên dại. Goebel ngã lăn ra bất tỉnh, rồi gọi điện cho Hitle: Thưa Quốc trưởng, hôm nay, đúng là bước ngoặt. Hitle cũng nhảy cỡn lên, gọi điện thoại loạn xạ đi khắp nơi.
Nhu đang ở trong tình trạng bấn loạn. Anh ta hy vọng hão huyền.
Nhu đứng lên, Luân biết là Nhu không còn sức để trao đổi với anh những vấn đề thực tế, mặc dù Nhu giao anh một cặp tài liệu cực dày về các vấn đề bảo vệ ấp chiến lược, hẹn hôm nay bàn. Hai người bắt tay nhau. Chưa bao giờ hai người lại ít nói như hôm nay. Nhu lững thững đi vào phòng riêng. Luân có cảm giác Nhu cố gắng thật dữ để lê đôi chân...
---
(1) Còn gọi là Frederik II đại đế, vua Phổ (1740-1786), chiến thắng cuộc chiến tranh “7 năm” của các nước liên minh Nga, Pháp, Áo. Elizabeth, nữ hoàng Nga (1741-1782), con gái của Pierre Đại đế.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #25  
Old 12-08-2012, 12:21 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 7, 8

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 7


Frederick E. Nolting thỏa mãn với bài trả lời của ông cho ký giả Don Paker của Hãng UPI. Nolting nhẩm đọc:
“Hơn 2 năm sống tại Việt Nam, tôi chưa bao giờ nhận thấy dấu hiệu nào chứng tỏ có sự kỳ thị tôn giáo tại xứ này.
Vấn đề Phật giáo bỗng dưng nổi lên và tôi công nhận tình hình đang rất xấu nhưng không thể nghĩ rằng nguồn gốc của nó là từ phía chính phủ. Trái lại, chính phủ Việt Nam thành thật mong muốn giải quyết vấn đề Phật giáo theo nguyên tắc dàn xếp những hiểu lầm nho nhỏ bị phóng đại với những động cơ rõ ràng là không minh bạch. Với tư cách là người đại diện cho Hợp chủng quốc Hoa Kỳ ở Việt Nam, tôi rất tiếc có người tung hỏa mù quanh vấn đề Phật giáo cốt làm xóa nhòa những thành quả của chính phủ Việt Nam trong công cuộc chiến đấu chống Cộng sản và phát triển kinh tế, nâng cao mức sống rõ rệt của người dân tại xứ này. Dư luận Mỹ và các nước khác cần được soi sáng nếu chúng ta vẫn còn nuôi ý chí chiến thắng Cộng sản. Đó là những gì tôi thấy cần thiết nói với công chúng Mỹ”.
Nolting bấm chuông gọi thư ký. Vài giờ sau, phát biểu của ông sẽ truyền về đến Mỹ và được công bố rộng rãi. Bản sao của bài trả lời được gửi tới cho tờ The Times of Viet Nam tại Sài Gòn.
Với Nolting, đây là một động tác quan trọng cuối cùng với tư cách đại sứ Mỹ trước khi rời Việt Nam. Chiều nay, ông sẽ bay lên Đà Lạt, dĩ nhiên theo lời mời của Trần Lệ Xuân. Ông và Lệ Xuân thỏa thuận nghỉ hai ngày tại Đà Lạt. Ngày thứ ba sẽ dành cho cuộc tiễn đưa của dân Khánh Dương, phía tây Nha Trang, nơi ông và vợ đỡ đầu xây dựng trụ sở của chính quyền, trường học và bệnh xá. Bà Lindsay Nolting sẽ từ Sài Gòn bay thẳng ra Nha Trang để gặp ông và Trần Lệ Xuân từ Đà Lạt xuống. Quyết định của Tổng thống Mỹ thay thế đại sứ ở Việt Nam Cộng hòa đã khiến cho chế độ Sài Gòn hoang mang. Còn với Nolting, ông ta đã sửa soạn từ lâu cho việc rời Sài Gòn. Vai trò của ông đã xong. Ông thỏa mãn hoàn toàn. Và, đã đến lúc không nên dấy sâu hơn nữa: Lệ Xuân hết còn là cái gì khiến Nolting háo hức. Trong vòng nửa tháng nay, hầu như ngày nào Nolting cũng gặp Lệ Xuân. Điều kiện nơi ông làm việc cũng như nhà riêng của ông, không cho phép hai người vượt quá mức nghi lễ mặc dù Nolting cảm thấy Lệ Xuân dễ dàng đối với ông hơn bao giờ hết. Dẫu sao thì cuối cùng rồi hai người vẫn có thể sống bên nhau một cách thỏa mãn và cũng có thể nói là hoàn toàn tự do trong vài ngày. Nolting có trong tay bản báo cáo của Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Mac Namara trình cho Tổng thống Mỹ ngày 15-5 cùng với bản báo cáo của Ngoại trưởng Dean Rusk. Nolting tin rằng lần gặp gỡ này với Lệ Xuân được hứng thú là nhờ Mac Namara. Làm sao Lệ Xuân không cảm động được khi đọc những dòng trong báo cáo tuyệt mật này: “Tôi có cảm giác rằng việc nước Mỹ ủng hộ Tổng thống Ngô Đình Diệm là hoàn toàn chính xác. Ông Diệm xuất hiện ở Việt Nam như một phép màu. Chỉ một mình, ông Diệm đã soạn thảo bản Hiến pháp, tổ chức chính phủ mới và trong vòng không đầy mười năm đã biến Nam Việt Nam từ một nước đang ở chế độ phong kiến trở thành một quốc gia tân tiến, đã tăng gấp 3 hệ thống giáo dục trong nước, đã tổ chức được một quân đội quy củ, thiện chiến, trung thành và đã đem lại trật tự trong nước. Cần lưu ý rằng Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thực hiện ngần ấy công cuộc trong khi phải đương đầu với các hoạt động chiến tranh do Việt Cộng gây ra. Tuy chúng ta chưa có thể tiên đoán một cách chính xác kết quả chung cuộc của cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam, nhưng công bình mà nói, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho chúng ta niềm hy vọng lớn nhất. Quan điểm của Bộ quốc phòng là bất kỳ một ý định nào nhằm loại Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí nhằm giảm bớt quyền lực của ông, cũng sẽ đưa nước Mỹ đến tai họa”.
Tường trình của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ không là một tài liệu mật. Sau khi công bố phát biểu của Ngoại Trưởng Dean Rusk trong đó, ông xác nhận lập trường không thay đổi của Hoa Kỳ là ủng hộ chính phủ Việt Nam do tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo, mặc dù tình hình nội bộ Nam Việt có rối ren do vấn đề Phật giáo gây ra. Richard Phillips, phát ngôn viên của Bộ ngoại giao đã đính chính những tin tức đăng tải trên một số báo Hoa Kỳ cho rằng chính phủ Hoa Kỳ có thể đã dự liệu một giải pháp thay thế ở Việt Nam. Vấn đề nội bộ Cộng hòa Việt Nam về Phật giáo không làm thay đổi lập trường của Hoa Kỳ. “Chúng tôi,” Richard Phillips nói, “nghĩ rằng chính phủ Việt Nam Cộng hòa và giới Phật giáo sẽ giải quyết thỏa đáng và sớm về vụ tranh chấp này”.
Tài liệu thứ hai tuy công khai song Nolting vẫn dùng nó để minh họa cho tài liệu thứ nhất. Nolting đang chìm sâu trong suy nghĩ, sửa soạn trước những lời lẽ một khi chỉ còn riêng ông ta với Trần Lệ Xuân trên biệt điện Đà Lạt, thì tiếng ồn ào từ bên ngoài vọng tới. Phó đại sứ Trueheart hấp tấp xô cửa bước vào:
- Phật tử biểu tình đòi gặp ngài!
- Gặp tôi? – Nolting sửng sốt.
- Vâng. Họ muốn nhờ đại sứ chuyển một bức thư của Phật giáo cho Tổng thống chúng ta.
- Tôi không thể gặp họ, tôi không thể tiếp xúc với những người biểu tình, nghĩa là chính phủ Mỹ không thể nhúng tay vào công việc đơn thuần nội bộ của Việt Nam Cộng hòa!
- Nhưng nếu họ cứ ngồi lì hoặc phá cửa vào, thì sao?
- Điều đó nhất thiết không được xảy ra, ông nghe rõ chứ, ông Trueheart?
- Tôi nghe rõ!
Phó đại sứ Trueheart quay lưng, nhưng Nolting đã gọi lại:
- Tuyệt đối không để có va chạm nhỏ giữa quân cảnh Mỹ và người biểu tình!
Trueheart gật đầu. Ông ta hỏi:
- Thế còn quân cảnh và cảnh sát dã chiến Việt Nam?
Nolting nhún vai.
*
Chiếc trực thăng hạ cánh trên một khoảng đất trống ngay rìa quận lị Khánh Dương. Đám đông dân chúng tụ tập - một số người là Thượng, một số là người Kinh, một số là Hoa kiều. Nhưng, binh lính và gia đình họ vẫn đông hơn. Mỗi người cầm trên tay hai lá cờ Việt Nam Cộng hòa và Mỹ. Nhiều băng treo quanh. Đại loại, những băng đó ghi: Tri ân đại sứ Nolting! Tổng thống Ngô Đình Diệm muôn năm! Nhiệt liệt hoan nghênh ông bà Nolting, công dân của Khánh Dương! Nhiệt liệt hoan nghênh bà dân biểu Ngô Đình Nhu!
Vợ chồng Nolting được Trần Lệ Xuân hướng dẫn bước ra cầu thang tiếp nhận tiếng hoan hô của những người có mặt. Trần Lệ Xuân lần này mặc áo pull và quần jean. Khó mà đoán Lindsay Nolting cảm nghĩ như thế nào về Lệ Xuân khi mà bà thừa biết sự đi lại và mưu đồ của chồng và mụ ta từ 2 năm nay – vụng trộm với bà nhưng gần như công khai với người khác. Cái lý do mà Nolting bảo là ông cần cùng Lệ Xuân bàn việc 2 ngày trên Đà Lạt không thể thuyết phục được bà. Nhưng Lindsay Nolting đã là vợ của một nhà ngoại giao Mỹ chuyên nghiệp, bà hiểu ý nghĩa của những sự tiếp xúc kiểu đó. Nolting có say đắm Lệ Xuân hay không? Lindsay Nolting chỉ băn khoăn bấy nhiêu. Và khi bà nắm chắc chồng bà là một kịch sĩ lão luyện, bà an tâm. Thậm chí đôi lúc bà nghĩ, nếu Lệ Xuân sinh được một đứa con giống hệt Nolting thì chưa hẳn là một điều không may. Bổng lộc của một đại sứ Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa rất dồi dào, không phải xét, từ đồng lương hoặc quỹ mật của đại sứ quán. Bà đã có một bộ sưu tập về nghệ thuật điêu khắc người Chàm gần như vô giá. Bà lại có đến hàng trăm cổ vật Trung Quốc - những ấm, những chén cách nay hàng nghìn năm. Quà biếu của Lệ Xuân. Cả Nolting và bà đều được tặng một tượng bán thân bằng vàng do một nghệ sĩ có tài của Việt Nam sáng tác, mỗi tượng cân gần một ký lô. Cũng là quà của Lệ Xuân. Bà đã có thể ký gửi ở ngân hàng Thụy Sĩ và Canada một số dollar hàng trăm vạn - cả đời Nolting dù tằn tiện mấy cũng không thể dành dụm nổi một phần số tiền đó.
Lindsay Nolting biết tính toán. Một lần, tại nhà riêng của đại sứ, bà tiếp lệ Xuân và như vô tình để rơi một bức ảnh kẹp trong một quyển sách. Bức ảnh chụp Lệ Xuân và Nolting đang hôn nhau, trên người Lệ Xuân chỉ còn vài miếng vải mỏng. Lệ Xuân đỏ bừng mặt và hai tượng bán thân ra đời sau sự kiện như vậy để đổi lấy tấm ảnh và phim. Lindsay Nolting trao ảnh và phim với lời dặn gọn gãy bằng tiếng Pháp: Sois prudente! (1)
Kỳ mục Khánh Dương đón vợ chồng Nolting và Trần Lệ Xuân khá độc đáo. Ba người được mời lên ba chiếc kiệu thường chỉ dành để rước sắc thần, đòn chạm trổ và sơn son thiếp vàng. Tám người lực lưỡng khiêng một chiếc kiệu. Màn vén lên để chúng dân chiêm ngưỡng. Theo sau kiệu, các kỳ mục, có người râu tóc bạc, vận áo dài bằng the xanh, bịt khăn be. Kiệu đi một vòng sân rồi thẳng vào một ngôi nhà mà các kỳ mục gọi là công quán. Tại đây Nolting thay quần áo. Ông ta mặc y hệt kỳ mục trong làng, còn Lệ Xuân thì diện chiếc áo dài, lần này không hở cổ. Chỉ có mỗi Lindsay vẫn mặc như cũ. Sau tuần trà, kỳ mục mời ba vị khách đến ngôi đình. Trẻ con, hẳn là đã được người lớn dạy cẩn thận, vẫn cố nín cười bởi một ông Mỹ lại mặc áo dài khăn be, trông hết sức ngộ nghĩnh. Lệ Xuân liếc về các kỳ mục, cau mày. Mụ ta cảnh cáo thái độ vô lễ, không những của trẻ con mà của một số phụ nữ: có người che miệng cười.
Ba hồi trống vang rền rừng núi. Ba hồi đại hồng chung ngân dài. Lindsay Nolting tựa lưng vào cột đình theo dõi, có thể bà thích thú. Nolting và Lệ Xuân thắp hương rồi quỳ xuống chiếu đã kê sẵn hai chiếc gối. Người ta có cảm giác Nolting và Lệ Xuân làm lễ tơ hồng.
Một kỳ mục chắc chắn là niên trưởng, đọc một văn kiện như sau: Các bậc trưởng thượng quận Khánh Dương cùng với các hội đồng hương chính trong quận, căn cứ vào lời thỉnh cầu của đại sứ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ Frederick Nolting, đã quyết định nhận Frederick Nolting là công dân danh dự của quận Khánh Dương và cũng quyết định đổi tên Nolting thành Nguyễn Đôn Tín...
Nolting trịnh trọng tiếp nhận tờ quyết định, đứng nghiêm trước bàn thờ thần chừng một phút. Sau đó, một cuộc mít tinh quần chúng, Nolting nói bằng tiếng Việt, thay mặt cho vợ tỏ lòng cám ơn kỳ mục và dân chúng quận Khánh Dương. Trần Lệ Xuân thay mặt cho quận Khánh Dương đáp lời. Mụ ca ngợi Nolting là một đại sứ vĩ đại, một người bạn vĩ đại của Việt Nam Cộng hòa.
Bữa tiệc kéo dài đến xế chiều. Trực thăng đón họ và đêm đó họ nghỉ tại Nha Trang.
Không hiểu bằng cách nào mà Nolting lại đến được với Lệ Xuân lúc gần sáng.
- Em nên xuất ngoại một chuyến để giải độc dư luận châu Âu và châu Mỹ.
Đó là sáng kiến cá nhân cuối cùng của Nolting với Lệ Xuân, trước khi ông ta vội vã mặc quần áo, và chuồn khỏi phòng Lệ Xuân. Dù vội vã, ông vẫn như để lại cái nuối tiếc - chính cái nuối tiếc ấy nuôi hy vọng cho Lệ Xuân...
Nolting không ngờ ở Sài Gòn, nhà sư Thích Tâm Châu đã gửi cho ông một văn thư chính thức phản đối bài phát biểu của ông với hãng UPI, kèm theo bản sao bức điện của Tổng hội Phật giáo Việt Nam đánh cho Tổng thống Kennedy, cũng với nội dung như vậy.
*
Sài Gòn (VTX)
Sáng 14/8/1963, bà cố vấn, Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam đã vi hành đến Ba Xuyên thăm Phong trào phụ nữ liên đới địa phương.
Tại lễ tuyên thệ của Phụ nữ bán quân sự của tỉnh, sau khi bà Trưởng ban chấp hành Phong trào liên đới tỉnh đọc diễn văn chào mừng và đệ trình công tác huấn luyện bán quân sự từ 7-7-1962 đến 7-7-1963, bà cố vấn đã ban huấn từ cho hơn 1.000 thanh nữ bán quân sự hai khóa Đồng Tâm và Đồng Tiến với sự hiện diện của một số rất đông thính giả gồm quan khách và dân chúng.
Bà cố vấn đã nhắc lại về cuộc tranh đấu của phụ nữ cho chính nghĩa, trong đó phụ nữ đã cố gắng tột bực và luôn luôn tôn trọng sự thật và lòng ngay thẳng. Đó là tiêu chuẩn của một thành công vững bền và lâu dài.
Bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã ứng khẩu nhấn mạnh như sau:
- Như chị em thấy, không phải bất chiến tự nhiên thành, không phải chỉ với chính nghĩa mà tự nhiên chúng ta thắng. Nước của chúng ta không có tham vọng đi xăm lăng nước người, chúng ta chỉ có một ước vọng rất chính đáng là được ăn yên ở yên, được phát triển và bảo vệ đất nước.
Theo ý nghĩa đó, phụ nữ chúng ta không ưa giành giật gì của ai, cai trị gì ai. Chúng ta chỉ suy luận là chúng ta không phải là một con dân thấp kém và chúng ta chỉ xin được thật sự nam nữ bình quyền, bình đẳng.
Như tôi đã nói nhiều lần, chính nghĩa ấy mặc dầu kết sức chính đáng, đã không tự nhiên thắng và cũng không thắng dù chúng ta đã cố gắng khá nhiều một cách ngay thẳng.
Lý do là vì giá phải trả để thắng không những dựa trên một sự đấu tranh ngay thẳng, mà còn phải đấu tranh tột bực.
Ngay thẳng nghĩa là không được dùng các thủ đoạn xảo trá, lừa bịp. Ngay thẳng nghĩa là phải luôn luôn rất trung thực khi đấu tranh.
Tột bực nghĩa là không phải đấu tranh trong một phạm vi nào đó, mà bỏ phạm vi khác, tột bực là làm tròn nhiệm vụ trong tất cả các phạm vi: gia đình, xã hội, quân sự. Dĩ nhiên có thể một người không thể lo được hết nhưng nói chung, chúng ta phải liệu sao có phụ nữ tại cả ba phạm vi, một người phải đảm nhận ít nhất là hai phạm vi.
Hơn thế nữa, để khỏi phản bội chính nghĩa của một con dân là bảo vệ xứ sở, kiến thiết nước nhà và chính nghĩa của phụ nữ là bảo vệ nhân vị, củng cố quyền lợi chính đáng của chúng ta, cũng như để khỏi phản bội công lao của chúng ta để đừng bao giờ trở thành như dã tràng, cố gắng hết sức nhưng không đến đâu, chúng ta phải đặt tất cả cố gắng của chúng ta trong một khuôn khổ có tổ chức bảo đảm, có quy tắc vững chắc, rồi dựa vào đó mà áp dụng kỷ luật “triệt để”.
Một tràng pháo tay vang dội tiếp đón lời huấn thị bà cố vấn.
Xong buổi lễ, bà cố vấn cùng phái đoàn lần lượt đến thăm các cơ sở xã hội của phong trào liên đới: trụ sở tỉnh, cô nhi viện Khánh Hưng và quán cơm xã hội Khánh Hưng.
Bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam nhân dịp này, đã ứng khẩu nhắn nhủ chị em về đường lối hoạt động của phong trào liên đới trong kỷ luật và dựa trên nguyên tắc dân chủ.
Cử tọa dồn hết tâm trí theo dõi từng chi tiết các lời huấn thị của bà Chủ tịch sáng lập Phong trào phụ nữ liên đới, nhất là khi bà Chủ tịch đề cập đến vấn đề như sau:
“Chị em đừng để cho sự dị đoan, mê tín mê hoặc chị em.
Có thể nói tất cả gia đình chúng tôi là theo đạo ông bà. Riêng thân mẫu tôi theo Phật giáo, thân sinh tôi theo đạo Khổng – 20 năm về trước tôi cũng đã rất chú ý tới Phật giáo và cũng có đi chùa, niệm Phật - vì lý do đó, tôi có hiểu phần nào về Phật giáo. Cũng vì tôi hiểu mục đích chính của Phật giáo nên tôi mới ghét thậm tệ những người dám lợi dụng Phật giáo để mê hoặc chị em.
Theo tôi được biết thì giáo lý đạo Phật đã dạy mình phải tự giải thoát ra khỏi những điều nô lệ hóa chúng ta như đau khổ, bằng cách kiềm hãm và không thỏa mãn nó. Những đau khổ của loài người như: đói, khát, lạnh, giận, ghét, hận, tham lam... bất cứ cái gì có thể nô lệ hóa chúng ta.
Theo tôi, ai cũng có thể tin giáo lý đạo Phật vì chính Đức Phật đã thi hành các điều Đức Phật đặt ra và nhờ đó, đã tự giải thoát được, nghĩa là đã đạt được Niết Bàn. Vậy nếu Đức Phật đã thi hành được các điều đó, thì ai cũng có thể làm được.
Chính Đức Phật không bao giờ tự xưng là một thánh nhân nào hết mà chỉ coi mình như một người thường, cố gắng đạt được mục đích của loài người là tự giải thoát. Vì thế mà chị em có thể hiểu ngay là mê tín dị đoan cũng như các chiến dịch không dựa được trên một lý lẽ chính đáng nào và chỉ gây oán hận, bạo động và lộn xộn với những lời mỉa mai mạt sát vu vơ kẻ khác, rồi lại đổ cho họ những tội mà chính mình công khai phạm hằng ngày, nhất là không thể nằm trong đường lối do Đức Phật đã vạch ra.
Chẳng những vậy, đó còn là một sự nô lệ hóa chúng ta một cách trắng trợn, và với ý gì? Không lẽ để bảo vệ một tín ngưỡng mà không ai tranh chấp, nhất khi đức tin là một sức mạnh mà giá trị chính ở điểm là không ai có thể đụng chạm gì tới được vì ở trong lòng ta.
Tôi thấy làm lạ khi thấy những người tự xưng là theo giáo lý đạo Phật mà lại mê tín dị đoan hoặc tệ hơn nữa dùng mê tín dị đoan để mê hoặc thiên hạ. Việc đó, chúng ta không thể chấp nhận được.
Vừa mới đây, có một em bé nhỏ mới 18 tuổi tự nhiên đi chặt tay mình (may mà không đến nỗi gì) và cho biết rằng “bà Ngô Đình Nhu, là người phụ nữ chúng tôi rất biết ơn vì đã giải phóng phụ nữ, nhưng vì bà đã động tới các sư, những người mà đức độ hơn bà tới một trăm phần, nên tôi thấy tín ngưỡng của chúng tôi bị lâm nguy, vậy tôi chặt tay hy sinh để phản đối và bảo vệ tín ngưỡng”.
Nghe việc đó, tôi hết sức ngao ngán, không phải là vì em đó phán rằng ai đó đức độ trăm phần hơn tôi, vì sự thật về việc đó chỉ có trời mới biết được đúng thôi. Tôi chỉ ngao ngán là vì em đó là một phụ nữ.
Thật vậy, nếu một ai khác làm việc đó thì có lẽ tôi không chú ý gì lắm vì tôi ít khi trọng các việc quá khích vô lý. Theo tôi, mình làm chủ mạng mình. Vậy ai coi rẻ mạng mình đến nỗi sẵn sàng hy sinh mà không cần muốn biết là có nên hay không, thì họ toàn quyền. Quyền mình là phê bình và xem nên đề cao hay coi thường sự hy sinh đó.
Nhưng đây là một phụ nữ lại mới bằng tuổi con tôi, thì có chán không? Mục đích của kẻ trá hình là ngăn cản tôi làm nhiệm vụ công dân, là giải độc ai đã bị mê hoặc. Bây giờ chúng lại xui trẻ con dọa tôi. Tôi mở miệng thì các trẻ tự tử. Vậy chị em nghĩ sao? Nếu ai không đồng ý với tôi, sao không nói công khai lý lẽ của họ đi, các lý lẽ của tôi được nêu rõ khi tôi không tán thành, sao lại mạt sát tôi sau lưng rồi nếu tôi phúc đáp lại xúi các trẻ tự tử phản đối? Quan niệm gì lạ vậy? Như vậy thì ai còn trọng cái chết phi lý của mình nữa. Nhưng như vậy cũng đủ để chị em chú ý đến vấn đề đọc kỹ các lời tuyên bố của tôi và cấp tốc thực thi chiến dịch giải độc và chiêu hồi nếu thấy nên. Chúng ta không thể để cho một thiểu số phi lý áp đảo tinh thần của ta đến nỗi ta có thể quên đại đa số phụ nữ đang trông đợi ở một sự lãnh đạo sáng suốt, bất khuất nhưng cũng nhân đạo của chúng ta, nếu những người lầm đường lạc lối biết chiêu hồi”.
Lời tuyên bố của bà cố vấn được đại hội nhiệt liệt hoan nghênh.
Bà cố vấn và phái đoàn trung ương rời Ba Xuyên lúc 15 giờ 30 và đã để lại cho chị em Ba Xuyên một mối tình liên đới sâu đậm, một ý chí quyết thắng vì chính nghĩa và một niềm tin tưởng trong công cuộc giải độc cùng chiêu hồi những kẻ đi lầm đường lạc lối.
*
BÀ CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU TRẢ LỜI BÁO NEW YORK TIMES
Thưa ông,
Tham chiếu bài bình luận ngày 9-8-1963 của báo ông mạ lỵ tôi một cách vô căn cứ và vô ích, với một giọng điệu làm tôi ngạc nhiên khi đọc thấy ở một tờ báo như tờ của ông, tôi xin hỏi rằng: Khi có những người không xứng đáng dám lợi dụng tôn giáo để làm chuyện lố bịch thì những ai sùng kính tôn giáo phải tiếp tay cho cái trò chơi xúc phạm thần thánh hay là phải vạch mặt chỉ tên bọn chúng ra?
Nếu ta không có can đảm để tố giác, nếu ta cúi đầu trước sự điên rồ và ngu xuẩn, thì làm sao có hy vọng đối phó được bao điều lầm lạc sơ hở của thế nhân, thường bị Cộng sản lợi dụng cùng theo một cách thức như vậy?
Có lẽ tôi gây xúc động cho một số người khi nói rằng: “Phải đánh những kẻ khiêu khích mười lần hơn, nếu những kẻ ấy dám khoác áo thầy tu” hoặc “chỉ còn nước vỗ tay cổ võ khi coi tuồng nướng thầy tu. Thật vậy là sao mà chịu trách nhiệm về sự điên rồ của kẻ khác được!”
Đúng vậy, có lẽ tôi gây xúc động thật đối với những lời ấy, nhưng tôi đã phải nói sao bây giờ khi một phần thế giới này đang mất trí – về vấn đề mệnh danh là “Phật giáo”, nhờ sự giúp sức của các báo như báo của ông – nên cần phải được chữa trị bằng cách cho điện giật”.
Hơn nữa, tại sao lại phải bị mê hoặc và áp đảo đến nỗi không thể nhận thấy rằng các nhà tu hành, chính vì được coi là “thánh thiện” và “học thức” nên càng phải được coi là phạm tội và khó bề dung thứ khi họ dám hành động xúc phạm thần thánh nhằm mục đích gây nên tình trạng bất an cho xứ sở đang ở trong tình trạng chiến tranh, cũng như khi họ dám coi thường luật lệ của xứ sở và của tín ngưỡng họ nữa, chung qui gọi là để tranh đấu cho một quyền lợi mà thật sự không bao giờ bị ai chối bỏ, và hơn thế nữa, đã được chính phủ luôn luôn cố gắng bảo vệ.
Một vài người còn nói rằng: “Mọi việc tiến triển êm đẹp cho đến khi bà Ngô Đình Nhu đánh đổ tất cả với những lời công kích”, với những người này, tôi thấy cần phải nhắc lại rằng sự thật không bao giờ đã ổn thỏa - bằng chứng là những lời hăm dọa của những kẻ phản loạn hằng ngày được phổ biến trong nước và trên báo chí hoàn cầu mà ai cũng đều biết.
Thật vậy, làm sao ổn thỏa được khi mà, để làm vừa lòng và xoa dịu một thiểu số thầy tu giả trá, nghĩa là đem lại một tình thế êm dịu với họ, chỉ có cách là quỳ gối dâng cho họ trên khay vàng trọn đất nước và thành công của ta. Mục đích của tôi không bao giờ như thế. Mục đích của tôi là lột trần bộ mặt thật của bọn chúng dù chúng núp với hình thức giả hiệu nào cũng vậy.
Tôi đã gọi họ đúng tên, nghĩa là Việt gian, là Việt gian. Còn ông, thì vì bị chìm đắm trong mặc cảm giả tạo về một vấn đề mà ông cũng như báo chí Hoa Kỳ đã tưởng chỉ là “vấn đề Phật giáo”, ông chỉ thấy rặt có chùa và áo cà sa.
Nhưng tại sao ông không nhìn thẳng con người nấp sau bộ áo, ông lại không nhìn thẳng về những hoạt động lén lút sau bình phong của chùa chiền?
Vả lại, nếu phải nhận là “tu hành” những người thật sự không bao giờ có tư cách ấy, và chỉ vì họ muốn vậy, tại mình quá sợ những gì mình tưởng là sức mạnh của họ, thì tại sao chúng ta lại phải hy sinh lớn lao như thế kia để chống lại sự giả dối và nhất là lực lượng Cộng sản, thật sự mạnh hơn biết bao?
Tôi cũng tự nhận là đang đấu tranh bảo vệ tôn giáo và Tổ quốc, và tôi thách thức bất cứ ai có thể nêu lên bất cứ gì trong hành động và lời nói của tôi mà đã xúc phạm đến mục đích ấy.
Vì tình giao hữu giữa hai quốc gia chúng ta, tôi khẩn cấp yêu cầu ông hãy cố gắng tìm hiểu bạn hữu và đồng minh trước khi lao đầu vào cạm bẫy của kẻ thù, kẻ thù chung cho nước ông cũng như nước tôi; và cạm bẫy rõ rệt nhất mà chúng ta phải tránh là không bao giờ được hốt hoảng, đừng có cắn rứt nhau đến nỗi không lo lột mặt nạ những kẻ dám lạm dụng và lợi dụng những gì mà chúng ta coi là thiêng liêng nhất, tôn giáo và tín ngưỡng.
Thành thật
Bà Ngô Đình Nhu
*
Thùy Dung sanh một đứa con trai. Hai vợ chồng đặt tên là Nguyễn Thành Lý. Thằng bé hội được những nét đẹp của cha và mẹ, rất kháu khỉnh.
Tổng thống cử Chánh văn phòng đến chúc mừng. Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân đều có quà tặng. Riêng Lệ Xuân đã vào nhà bảo sanh thăm Dung ngay sau Dung xổ lòng. Đức Tổng giám mục cũng điện vào thăm hỏi. Ngày đầy tháng của bé Lý, người đến thăm khá đông. Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia, đại tá Đặng Văn Quang và một số quan chức tuy không thân tình với Luân nhưng vẫn muốn tỏ ra quan tâm đến Luân. Chiều tối thì Nguyễn Thành Động, Lê Khánh Nghĩa bấm chuông. Một lúc sau thiếu tướng Lâm cũng có mặt. Họ bày bàn ở sau vườn. Mừng con trai của Luân đầy tháng chẳng qua là cái cớ. Những sĩ quan này, tuy mỗi người một quan điểm, nhưng gặp nhau trong một suy nghĩ chung: tình hình rồi sẽ ra sao? Thiếu tướng Lâm mở đầu câu chuyện, sau khi nổ một chai sâm banh:
- Hấp hối! Tôi nói rằng chế độ đang hấp hối. Cũng tốt thôi. Vậy là một triều đại sẽ phải cáo chung. Chúng ta chưa có thể biết hình dạng của bước cáo chung nhưng phải cáo chung. Anh Luân có nhớ không, tôi từng nói ông Diệm là một người anh hùng nhưng ông trở thành anh hùng quá nhanh và do đó, như một ngạn ngữ: Từ chỗ vĩ đại đến chỗ lố bịch chỉ có một bước. Ông Diệm đang ở trên phần đất của sự lố bịch... - Lâm nâng ly:
- Ta hãy uống chúc sức khỏe ông Diệm – và cũng chúc sức khỏe đại tá Nguyễn Thành Luân người đã làm tất cả những gì có thể làm được để chống đỡ cho gia đình ông Diệm không rơi vào cảnh chán chê như hiện nay. Không ai trách được anh Luân, người Mỹ hay các phe nhóm đang muốn hạ bệ ông Diệm. Trong nhiều lần nói chuyện với nhau, tôi và bạn bè của tôi ví anh Luân như Gia Cát Lượng, tài bất phùng thời!
Luân cười thật tươi:
- Thiếu tướng xỏ tôi. Tôi không phải là Gia Cát Lượng, và tôi không theo xu hướng khôi phục nhà Hán. Tôi bảo vệ cái mà tôi cho là cần bảo vệ...
- Cái cần bảo vệ đó là cái gì? – Thiếu tướng Lâm phản kích.
- Tôi biết cái mà đại tá muốn bảo vệ. - Nguyễn Thành Động lên tiếng – Nhưng thật khó. Tôi đã làm thử ở Bến Tre theo gương đại tá và tôi đã thất bại. So với lúc đại tá có mặt, Kiến Hòa bây giờ nát như tương bằm. Ấp chiến lược thoi thóp. Chúng ta là những quân nhân, khổ nổi là quân nhân cấp thấp. Tôi băn khoăn mãi, không biết mình phải làm gì nếu Sài Gòn ra lệnh cho tôi bắn vào các nhà sư biểu tình và cũng sẽ không biết phải làm gì nếu một cấp trên nào đó ra lệnh tôi bắn vào dinh Tổng thống...
Giọng Nguyễn Thành Động thật chán chường.
- Đúng, chúng ta là quân nhân, nhưng mỗi quân nhân đều có cái đầu riêng. Đầu để suy nghĩ. – Người nói câu đó là Lê Khánh Nghĩa.
- Ông Diệm sẽ đổ và chắc sẽ đổ trong thời gian không xa mấy. – Lê Khánh Nghĩa nói tiếp – Có lẽ ông Diệm hết còn là cái gì để chúng ta bận tâm. Cái mà chúng ta bận tâm là sau ông Diệm. Nếu sau ông Diệm, một chính phủ hợp lòng dân ra đời, thật là điều tốt lành. Hợp lòng dân bây giờ nghĩa là làm đủ mọi cách để chấm dứt chiến tranh, thực hiện một nền dân chủ, chấm dứt chế độ độc tài gia đình trị. Chấm dứt chiến tranh chỉ có thể bằng thương lượng với đối phương. Còn ngược lại, sau ông Diệm là mở rộng chiến tranh, là chiến tranh ác liệt hơn thì có nghĩa đất nước sẽ bị tàn phá kinh khủng và những quân nhân như chúng ta là lính đánh thuê.
Người Mỹ sẽ diễn lại cái trò Cao Ly tại đây. Chắc chắn gay gắt hơn Cao Ly thập bội, thiếu tướng Lâm cũng như trung tá Động nếu quan tâm thì nên quan tâm theo hướng đó...
Luân cố giấu một nụ cười. Những điều Lê Khánh Nghĩa trình bày cũng chính là những điều ghi trong chỉ thị của A.07 gửi cho Luân. Thiếu tướng Lâm và trung tá Động rõ ràng bị Lê Khánh Nghĩa thuyết phục. Động thở dài:
- Lực lượng bảo an một tỉnh như Kiến Hòa không thể xoay chuyển nổi cục diện.
- Tôi còn không có lấy được một tiểu đội. – Thiếu tướng Lâm gầm gừ - Tôi cảm giác là thời cuộc đi quá nhanh. Ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu dường như nóng ruột hơn cả chúng ta, họ đẩy cho tình thế nhảy vọt. Đặc biệt là bà Nhu, con sư tử cái. Ai đời dám trả lời với báo New York Times: Đánh sư như thế chưa ăn thua, tôi còn đánh mạnh gấp mười lần; đến nỗi ông Trần Văn Chương, bố của bà đã phải ra tuyên bố nói rằng bà Ngô Đình Nhu đã tỏ ra vô lễ và không có tư cách khi tuyên bố về Phật giáo. Tôi chán gia đình ông Diệm – xin lỗi đại tá Nguyễn Thành Luân – nhưng tôi còn chán hơn người Mỹ. Đại sứ Nolting nói rằng vấn đề Phật giáo không có gì quan trọng. Không đáng kể, vấn đề đáng kể là phải thắng trong cuộc chiến tranh và mọi người phải dồn hết tâm lực theo hướng này. Ông Diệm, bà Nhu có thể chết vì cái trò mặt sấp, mặt ngửa của ông đại sứ kỳ quặc này...
- Chẳng kỳ quặc đâu. – Nguyễn Thành Động lắc đầu – Tôi chưa thấy một đại sứ nào làm tròn trách nhiệm bằng ông Nolting. Với nước Mỹ, ông đã tạo điều kiện đủ chín muồi cho một sự thay đổi danh chánh ngôn thuận. Người Mỹ được giới Phật giáo ngưỡng mộ như là ân nhân nếu họ lật ông Diệm. Người Mỹ tức là chính phủ Mỹ, còn Nolting thì nếu không về hưu cũng sẽ gầy một sòng bạc khác ở nơi khác. Với bà Nhu, đại sứ Nolting đã đóng rất tròn vai người yêu, một mực che chở cho bà Nhu. Bà Nhu lõa lồ đấy, nhưng vẫn được nặn tượng đặt ở công viên Mê Linh bởi bà được nấp sau cái lưng của Nolting...
- Tôi muốn nói chuyện về người Mỹ. - Thiếu tướng Lâm ngắt lời trung tá Động – Trong thời gian còn chiến tranh ở Đông Dương, Mỹ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho Pháp là đồng minh của họ rồi sau họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt: bây giờ thì họ lại bảo chúng ta đánh Cộng sản cho ông Diệm và khi nào hòa bình trở lại, họ sẽ cho chúng ta một chính phủ tốt. Nay mai họ lại sẽ bảo chúng ta đánh Cộng sản cho một cha chủ ba trợn nào đó để có một chính phủ tốt. Nghe họ làm quái gì!
Không khí đột nhiên trầm lặng. Gần như không ai buồn mở miệng. Luân hiểu trong ba người khách thì trừ Lê Khánh Nghĩa, hai người kia mới đạt đến mức phê phán chế độ cần phải soát xét những người bất mãn với chế độ trong hàng sĩ quan cấp cao đông đến bao nhiêu và lý do bất mãn của từng người hoặc từng nhóm người. Về phương diện này, có vẻ CIA và các cơ quan tình báo nước ngoài, kể cả Trung Cộng, nắm được bao quát hơn Luân.
- Phải làm gì? – Nguyễn Thành Động đặt câu hỏi, phá tan sự im lặng. Nhưng sự im lặng không bị phá tan. Không hẹn, cả ba người đều ngó Luân, như chờ đợi ý kiến phán quyết. “Làm gì?”. Chính Luân cũng chưa biết.
Khách ra về, bắt tay nhau khá nặng nề. Luân trở vào phòng. Dung thay tã lót cho con. Thằng bé, tay nắm chặt, tay và chân co duỗi liên hồi như nó định bơi trong không khí, đôi mắt mở to, miệng cười. Luân ngồi cạnh vợ. Anh thở dài. Dung đánh giá đúng tiếng thở dài của Luân. Cô ngước nhìn chồng, chia sẻ.
- Nếu tình thế bất lợi, em sẽ bồng con vào chiến khu!
Luân không trả lời vợ. Đúng, trong bài toán cần giải đáp đối với thời cuộc bây giờ thêm một con số mới và Luân không thể không đếm xỉa đến...
*
Tuyệt mật
Đại cương về “Kế hoạch nước lũ”
Kế hoạch “Nước lũ” được chia thành hai phần:
- Phân hóa và cô lập.
- Trấn áp và đấu tranh.
A) Phân hóa và cô lập
- Giữa các chùa ở Sài Gòn.
- Giữa Sài Gòn và các tỉnh.
- Kiểm soát chặt chẽ và hạn chế sự xê dịch của nhà sư và chư tăng, ni.
- Bao vây kinh tế, nhất là những vận dụng cần thiết cho sự thông tin và tuyên truyền.
B) Trấn áp và đấu tranh:
Phần này có hai biện pháp:
- Tiêu cực
- Tích cực
1. Tiêu cực
Liên tiếp tổ chức những tuần lễ như:
- Biết ơn tử sĩ.
- Giúp đỡ thương phế binh.
- Giúp đỡ gia đình tử sĩ.
- Mừng chiến thắng
- Ghi ơn những vị tiền bối cách mạng quốc gia.
- Ghi ơn những vị anh hùng dân tộc
- v.v...
Những tuần lễ này được tổ chức với mọi phương tiện sẵn có của chính quyền.
Kế hoạch này được chỉ thị tối mật cho các cơ quan, đoàn thể chia nhau luân phiên làm rùm beng trong thời gian từ 3 đến 4 tháng, nhằm mục đích cho quần chúng quên lãng cuộc đấu tranh của Phật giáo.
2. Tích cực.
Chủ trương làm mạnh để đàn áp hợp pháp:
- Mệnh danh các phong trào này, đảng nọ, nhóm kia... viết những bức thư công kích, đả kích, tố cáo Phật giáo gửi đến các cơ quan chính phủ và các nhân vật cao cấp (Phật giáo) và các báo chí trong và ngoài nước cùng các tòa đại sứ, lãnh sự tại Sài Gòn.
- Tổ chức đánh cắp trái tim (2) để phanh phui sự lừa bịp và thần thánh hóa của Phật giáo.
- Cho người len lỏi vào trong các chùa để lấy tài liệu, tìm tòi hay “tạo nên” (monter coups) những nhà sư có cấp bậc cao phạm pháp bằng mọi hình thức để truy tố trước pháp luật, quần chúng trong nước và quốc tế.
- Mua chuộc một số nhà sư cao cấp tố cáo những hành động của Tổng hội Phật giáo.
- Theo dõi để bắt hết những người cộng tác hay tiếp tay với các nhà sư để chặt tay chân, tai mắt của Tổng hội Phật giáo.
(“Kế hoạch nước lũ” không mang chữ ký của cơ quan dự thảo, lại do Tổng hội Phật giáo phát hành, gửi đến các cơ quan thông tấn và cả Tổng thống – ghi chú của hãng UPI)
*
TIN VỀ MỘT CUỘC ĐẢO CHÍNH
Sài Gòn (phóng viên báo Phillipines Herald).
Hiện nay, đang có dư luận dai dẳng ở Sài Gòn về khả năng nổ ra một cuộc đảo chính hoặc do những quân nhân tán thành Phật giáo, hoặc do chính phủ tạo cớ để đàn áp Phật giáo mạnh tay hơn hoặc do một số thế lực chống Cộng cho rằng chính phủ hiện hữu quá nhu nhượt, cần thay đổi. Gần đây ông cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu đã công khai tuyên bố về khả năng đảo chính từ những sĩ quan bất mãn các nhượng bộ đối với Phật giáo của chính phủ. Các giới am hiểu tình hình Nam Việt, đều cho lời ông Nhu mang tính cách đe dọa hơn là phản ánh khả năng có thật. Dẫu sao, không khí Sài Gòn hình như gần kề với một đột biến nào đó.
*
ĐIỆN CỦA PHÂN XÃ UPI GỬI TỔNG XÃ
Cử ngay sang Sài Gòn một số phóng viên năng nổ, kèm cả máy quay phim.
*
Tuyên bố báo chí của bà cố vấn Ngô Đình Nhu: Chúng ta không thể thối lui được nữa.
“Ngày 6-8-1963, Đài tiếng nói Hoa Kỳ có mô phỏng một lời tuyên bố của đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn, dựa theo đó đại sứ không tán thành các lời nhận xét “thiếu lễ độ” của tôi, liên quan đến vụ ám sát thượng tọa Thích Quảng Đức, do Đài vô tuyến truyền hình CBS truyền ngày 1-8-1963.
Tại cuộc phỏng vấn đó và đáp lại câu hỏi: “Bà có nghĩ rằng các Phật tử muốn lật đổ chính quyền này không?” tôi đã có trả lời chính xác như sau:
“Không phải các Phật tử. Mà chỉ có vài người tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” mà chúng tôi ví như những kẻ tàn bạo, muốn lật đổ chính quyền này mà thôi. Nhưng giữa mong muốn và năng lực làm được, có cả một sự khác biệt. Thật vậy, đối với chính phủ này đang đem quốc gia đến thắng lợi trong chiến tranh chống Cộng sản và đang xây dựng chính ngay tại căn bản quốc gia, nghĩa là tại các cấp – một nền dân chủ thật sự, có đủ đảm bảo nhất vì được cấu tạo từ hạ tầng cơ sở - đối với các thành tích ấy, thử hỏi các nhà tự xưng là “lãnh đạo Phật giáo” đã làm được những gì?
Họ không có chương trình và cũng chẳng có nhân vật khả dĩ thay thế cho sự thiếu sót chương trình. Và tất cả hành động của họ chung qui vào việc là đem “nướng” sống nhà tu, ngay cả không phải với phương tiện tự túc, mà với xăng dầu được nhập cảng. Lý do của cuộc sát nhân ấy là gì? Chỉ là mạo nhận để bênh vực một lập trường mà không bao giờ bị xúc phạm đến!
Lời lẽ ấy của tôi có thể được xem là “thiếu lễ độ” thật đấy, nếu sự kiện này liê quan đến các “việc thần thánh” chân chính; nhưng thật ra trường hợp ở đây đâu có phải như vậy! Ngoài ra, tôi không hiểu tại sao chúng ta lại phải chịu để cho các lý sự cùn, dựa trên những hoàn cảnh giả tạo, mà kẻ thù chính tông đã dựng đứng lên, mê hoặc và áp đảo chúng ta?”
Dù sao tôi rất biết ơn đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn đã cho tôi có dịp xác nhận lại quan điểm của tôi về vấn đề này:
Nước Việt Nam ở trong tình trạng chậm tiến về nhiều mặt, nguyên nhân sự chậm tiến ấy do chiến tranh ác liệt mà Cộng sản quốc tế đã đem lại.
Vì lý do ấy, Việt Nam không thể nào cho phép một cuộc thoái bộ nữa. Và thật là một sự thoái hóa đến... tối tăm, man rợ của tiền lịch sử, khi xui khiến phụ nữ, trẻ con, và các bô lão, dù có điên rồ, bệnh hoạn hay vô dụng đến đâu đi nữa – đi đến chỗ hủy mình vì một quyền lợi không bao giờ bị ai chối cãi, với mục đích phong các người khốn khổ ấy thành “thánh nhân và tử vì đạo”, để khiêu khích chung quanh xác chết của họ một sự thờ phượng khả dĩ gây mầm móng rối loạn xã hội và ngay cả việc sát nhân khác.
Những hành động này chứng tỏ sự vô liêm sĩ đến độ mà nhân cách và lòng tự trọng của dân tộc Việt Nam không thể nào tha thứ được, tại vì những hành động này chứa đựng, không những một sự lạm dụng trắng trợn lòng tin tưởng của các tín đồ, mà hơn nữa, đó là một cuộc xâm phạm đến sự kính nể mà dân tộc Việt Nam có quyền hưởng đối với toàn thế giới.
Vì danh dự và thể diện nước nhà, những hành động ấy phải được tố giác và được đặt lại đúng trong nội dung của nó.
Tôi chỉ có làm thế thôi... và tôi rất tiếc KHÔNG nói được rằng tôi đồng ý với những người nào đã nghĩ một cách khác”.
Bà NGÔ ĐÌNH NHU
*
TIN CỦA BÁO NEW YORK TIMES
Trả lời phỏng vấn của chúng tôi hỏi về việc nếu các nhà sư cứ tiếp tục tự thiêu thì chính phủ có biện pháp gì đối phó không, bà cố vấn Ngô Đình Nhu trả lời: “Chúng nó là bọn bán nước. Bởi thế, dù chúng nó có nướng sống 30 nam và nữ, hoặc hơn, chúng tôi cũng sẽ vẫn tiến tới và vỗ tay hoan hô. Chúng tôi không phải chịu trách nhiệm gì về sự điên rồ của những kẻ ấy”.
*
THÔNG BÁO CỦA BỘ QUỐC GIA GIÁO DỤC
Do không còn thích hợp với nhiệm vụ đang gánh vác, linh mục Cao Văn Luận, Viện trưởng Viện đại học Huế được phép thôi giữ chức này. Chính phủ sẽ cử một Viện trưởng khác.
TIN CỦA HÃNG AFP
Kể từ ngày 18-8-1963, một loạt các Khoa trưởng đại học thuộc Viện đại học Huế đã xin từ chức để phản đối việc chính phủ bãi chức Viện trưởng của linh mục Cao Văn Luận. Hành động này không hẳn vì cảm tình với linh mục Viện trưởng mà để bày tỏ thái độ bất bình với chính phủ.
Tiếp sau thái độ của các nhà giáo là thái độ của học sinh. Trong một tuyên cáo, Liên đoàn học sinh Phật giáo Việt Nam đã nói thẳng với chính phủ là họ không tín nhiệm cách cai trị vừa qua. Họ nhắc đến một học sinh bị đã bị người Pháp bắn chết cách đây 13 năm tên Trần Văn Ơn. Điều đó có nghĩa là nếu chính phủ không tìm cách giải quyết tình hình đang hết sức căng thẳng ở Nam Việt thì xu hướng chống chính phủ vì lý do Phật giáo có thể biến thành một cái gì nguy hiểm hơn. Trần Văn Ơn là một học sinh được Cộng sản suy tôn như anh hùng. Cho tới nay, chưa có một dấu hiệu rõ rệt nào Cộng sản lợi dụng phong trào Phật giáo ở Nam Việt, nhưng người ta không loại trừ xu thế của chính phong trào, trước sự ngoan cố của chính phủ, sẽ nghiêng về phía tả. Còn các nhà sư có tham vọng chính trị, trong khi đính chính thẳng thừng mối quan hệ của họ với Cộng sản, đã không bỏ qua một cơ hội nào lợi dụng Cộng sản – lợi dụng sức ép của Cộng sản hiện nay về chính trị và quân sự ở Nam Việt, và lợi dụng cả quá khứ của Cộng sản.
Giới Phật giáo đã quảng bá khắp nơi những lời tuyên bố nảy lửa của bà Ngô Đình Nhu. Giới ngoại giao ở thủ đô Nam Việt nhận xét rằng đó là cách làm tốt nhất dấy lên sự công phẫn của quần chúng.
----------
(1) Hãy thận trọng
(2) Trái tim của hòa thượng Thích Quảng Đức



Phần 7 - Chương 8


Luân quyết định thăm dò giới Phật giáo, trước hết là tìm hiểu ý đồ của một số nhà sư đứng đầu Ủy ban liên phái. Trong bộ thường phục nghiêm chỉnh, Luân đến chùa Xá Lợi vào buổi chiều 20-8.
Trước khi đi, Luân điện cho Nhu. Nhu trả lời uể oải:
- Tùy anh. Nhưng, tôi nghĩ là sẽ không thể nói chuyện đạo lý với các nhà sư quá tự phụ và quá ỷ lại vào nước ngoài này. Anh định đến chùa nào?
Nghe Luân sẽ đến chùa Xá Lợi, Nhu ngập ngừng một thoáng trong điện thoại rồi buông thõng: “Anh cứ đi!”
Một thoáng ngập ngừng của Nhu gợi cho Luân và Dung nhiều suy đoán. Nhu ngại một thông đồng nào đó giữa Luân và giới Phật giáo? Nhu ngại Luân nghe giới Phật giáo tố khổ rồi phân vân? Hay cái khác?
Thật ra, cho đến bay giờ, Luân vẫn chưa “phân thế” rạch ròi trong Phật giáo. Có thể xác định được thế lực thân Mỹ, thậm chí là CIA trong một số nhà sư liên quan mật thiết với đảng Đại Việt, phần lớn là di cư.
Cũng có thể biết chắc số nhà sư có lòng yêu nước liên quan đến mức này hay mức khác với kháng chiến trước kia và hiện nay cùng với một số nhà sư tu hành đơn thuần, tỉ như hòa thượng Thích Quảng Đức. Nằm giữa hai thế lực này là ai? Thế lực nào giữ vai trò quyết định? Phật tử thì đương nhiên đang sôi sục. Luân hiểu rằng phạm vi Phật tử ở đây không chỉ để chỉ những tín đồ của đạo Phật theo cái nghĩa chặt chẽ. Trong hàng ngũ biểu tình mấy tháng nay, có không ít người thật sự chưa một lần đi chùa, chưa một ngày ăn chay. Vấn đề Phật giáo trở thành vấn đề quần chúng đông đảo. Nó chứng tỏ không ai không muốn thay đổi chế độ hiện hành – mục đích thay đổi thì khác nhưng nguyện vọng thay đổi thì thống nhất, có lẽ trừ một bộ phận theo đạo Thiên chúa. Ngay với đạo Thiên chúa, cũng bắt đầu ló dạng những bất đồng quan điểm với Tổng thống Diệm chung quanh chính sách Phật giáo của chính phủ. Theo tin của cảnh sát, một ít linh mục đã có mặt tại các chùa và tỏ thiện cảm với những Phật tử bị đàn áp.
Cổng chùa Xá Lợi được thanh niên Phật tử và một số nhà sư trẻ canh phòng cẩn mật. Luân xuất trình danh thiếp. Anh phải đợi hơn 15 phút, một cư sĩ lớn tuổi, có vẻ là một trí thức, đón anh. Thạch, bảo vệ của Luân không được theo Luân.
Luân bước vào một gian phòng rộng, có máy điều hòa nhiệt độ. Ba nhà sư – tất cả còn trẻ - đứng lên niệm Phật hiệu và một trong ba người mời Luân ngồi. Cư sĩ đón Luân cũng ngồi cạnh đấy.
Chỉ cần liếc qua, Luân đã có thể nhận xét đây không phải những người cao cấp nhất của Ủy ban liên phái nói chuyện với Luân.
Một nhà sư mắt nâu, mỏng môi mở lời:
- Chúng tôi hân hạnh được đón đại tá, người của gia đình Tổng thống. Lẽ ra các thầy của chúng tôi hầu chuyện với đại tá nhưng các ngài đang tĩnh tọa. Chúng tôi được các thầy cho phép trao đổi mọi vấn đề với đại tá. Tôi là Thích Đức Nghiệp, trong phái tăng già Bắc Việt. Còn đây là đại đức Thích Từ Đức, thuộc phái tăng già Nam Việt.
Nhà sư được giới thiệu dong dỏng cao, nét chất phác bộc lộ ra ngoài, khẽ cúi đầu niệm: Mô Phật!
Thích Đức Nghiệp chỉ sang người phía bên phải ông: một nhà sư đeo kiếng trắng, gọng vàng.
- Đây là đại đức Thích Nhất Hoa, tiến sĩ, nhà văn, nhà thơ.
Người được giới thiệu hơi ưỡn ngực.
- Tôi là kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi. – Cư sĩ dẫn Luân vào, tự giới thiệu.
- Các vị đã biết tôi, chắc cũng biết luôn tôi là tín đồ đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay, khi đến đây, tôi không đại diện cho chính phủ và cũng không dính dáng gì đến tín ngưỡng. Tôi là một quân nhân, phàm quân nhân thì không được phép làm chính trị. Tôi chỉ muốn tìm hiểu những gì khiến Ủy ban liên phái và Ủy ban liên bộ không thể gặp nhau: không thể đi đến thỏa thuận mặc dù đã có thông cáo chung. Các vị có thể xem tôi như một người quan tâm đến sự ổn định nội bộ của Việt Nam Cộng hòa và có thiện chí. Tuy không cùng tín ngưỡng với các vị, tôi vẫn rất tôn trọng đạo Phật...
Hai nhà sư ngó nhau – Thích Đức Nghiệp và Thích Nhất Hoa. Có lẽ họ trao đổi cách phải đối phó với Luân mà sự xuất hiện tại chùa Xá Lợi có lẽ là đột ngột.
- Chúng ta nên bắt đầu từ chỗ nào? – Thích Đức Nghiệp nói. – Chẳng lẽ chúng ta lại phải lùi thời gian trở về các sự kiện ở Huế vào tháng 5 hoặc xa hơn? Đại tá, dù cho rằng mình không được quyền làm chính trị nhưng với cương vị quan trọng trong tham mưu biệt bộ của Tổng thống, đồng thời là người cộng sự thân tín của ông cố vấn Ngô Đình Nhu, hẳn đã rõ hết mọi tình hình. Chúng tôi không dám tiếp nhận những lời tốt đẹp của đại tá về tôn giáo chúng tôi. Chúng tôi tạm thời tin vào thiện chí của đại tá. Nhưng đã đến lúc chúng ta phải sòng phẳng với nhau. Chúng tôi không có điều gì phải giấu giếm Tổng thống. Hằng ngày, mật vụ của Tổng thống hẳn đã phúc trình đầy đủ cho văn phòng của Tổng thống. Một cuộc điều tra, dù cho một đại tá thực hiện, vẫn sẽ không thêm được điều gì mới so với các phúc trình ấy!
Thích Đức Nghiệp tiến công Luân ngay, trong khi nói, đôi mắt của ông ta lóe lên những tia hung tợn, mâu thuẫn với chiếc áo nâu mà ông ta mặc và Luân nghĩ rằng, ông ta chưa hề được giáo lý Phật cảm hóa. Luân chợt thấy vui vui: Tay này mà đấu khẩu với Lệ Xuân thì đúng là “kỳ phùng địch thủ”!
- Dẫu sao thì chúng ta cũng cần phải minh bạch. Tôi đến đây không để trinh sát nhà chùa, không để thu thập tài liệu. Đó không phải là công việc của tôi. – Luân vừa nói vừa mỉm cười – Chúng ta có thể bắt đầu từ chỗ nào mà các vị thấy cần bắt đầu. Trong vai vế nhỏ bé của mình, tôi sẽ cố gắng hết sức để tìm được tiếng nói chung giữa chính phủ và các vị cầm đầu đạo Phật.
- Chúng tôi xin lỗi đại tá. Đại đức Thích Đức Nghiệp vốn nổi tiếng là người nóng tính, bộc trực, mong đại tá hỉ xả. Như ý của đại tá, chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ phân tích xem vì sao thông cáo chung không được thi hành.
Thích Nhất Hoa chen vào câu chuyện với thái độ đĩnh đạc.
- Cũng chẳng có gì khó hiểu khi thông cáo chung biến thành mảnh giấy lộn, bởi vì chính phủ chỉ muốn có một thông cáo chung. Phó tổng thống, xét về danh vị, là nhân vật số hai của đất nước nhưng xét về giá trị có thật thì ông Nguyễn Ngọc Thơ chỉ là bù nhìn. Chữ ký mang tên ông cũng giả tạo như chức tước của ông. Không phải đây là lần đầu ông Thơ làm cò mồi. Có điều, thời thế đã khác lúc ông Thơ dụ hàng tướng Lê Quang Vinh. Chúng tôi sẵn sàng ký thông cáo chung nhưng chúng tôi cũng sẵn sàng đối phó với mọi lật lọng. Ngay cả Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng không phải là người giữ quyền lực cao nhất ở đây. Ông Nhu, bà Nhu! Chính hai người đang thao túng quốc gia và căm ghét thông cáo chung. Hai người căm ghét thông cáo chung bởi vì họ nghĩ rằng, những người theo đạo Phật sẽ từ bỏ yêu sách thiêng liêng của mình với vài dòng chữ ru ngủ và khi điều đó không xảy ra, họ điên cuồng tức giận. Thiện chí nghĩa là đôi bên cùng nghĩ đến cách giải quyết êm đẹp những bất đồng này, khác. Chính phủ rất có thiện chí với đạo Thiên Chúa nhưng lại rất ít, thậm chí không hề có thiện chí với đạo Phật. Từ khi có thông cáo chung đến nay, thời gian cũng chưa lâu lắm nhưng tình hình thì phát triển hết sức khẩn trương, đến nổi, nếu quả chính phủ có thiện chí như đại tá nói, cần có một thông cáo chung thứ hai mà nội dung không thể dừng ngang mức thông cáo chung lần trước!
- Nghĩa là thế nào? – Luân hỏi.
Thích Nhất Hoa mỉm cười – tuy chỉ là một nụ cười thật nhẹ mà hàm chứa một cái gì của kẻ bề trên, của người nghĩ rằng mình đang chiến thắng.
- Phật giáo không làm chính trị. Nhưng Phật giáo biết đòi hỏi những người làm chính trị phải có một thái độ như thế nào đối với đạo Phật, một tôn giáo về thực tế là quốc giáo ở Việt Nam. Trước đây, chúng tôi chỉ yêu cầu chính phủ Thiên Chúa giáo của ông Ngô Đình Diệm cư xử phải chăng với tuyệt đại đa số nhân dân Việt Nam. Bây giờ chúng tôi cảm thấy rằng không thể dừng yêu sách ở mức đó. Đã có quá nhiều các bậc tu hành và những tín đồ hy sinh cho đạo pháp. Cách nào đó, chúng tôi phản bội lại những hy sinh cao cả đó.
- Nghĩa là các vị muốn thay đổi chế độ?
- Không! Không có chuyện thay đổi chế độ tự do ở nước Cộng hòa chúng ta. – Thích Nhất Hoa trả lời.
- Các ngài nghĩ gì về chiến tranh?
- Tôi phải nói để đại tá an tâm. – Thích Đức Nghiệp nói – Chẳng những chúng tôi chủ trương phải loại bỏ Cộng sản vô thần ở miền Nam mà còn thực hiện yêu cầu lớn lao hơn, điều mà Tổng thống Ngô Đình Diệm không làm nổi: chúng ta sẽ Bắc tiến!
Câu nói sắt máu của Thích Đức Nghiệp được những người có mặt tiếp nhận, theo quan sát của Luân, bằng nhiều thái độ khác nhau: Thích Nhất Hoa khẽ liếc Thích Đức Nghiệp như một nhắc nhở thận trọng trong lời ăn tiếng nói; Thích Từ Đức và cư sĩ kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi khẽ lắc đầu. Với Luân, tuy anh đã dự đoán nhưng vẫn không ngờ nhà sư di cư này lại háo sát đến thế.
- Vậy là chính phủ hiện hữu và các vị gần như là không còn có thể tìm được tiếng nói chung. Tôi diễn đạt như vậy có đúng không?
- Lỗi không phải từ phía Phật giáo. – Thích Nhất Hoa trả lời.
- Tôi muốn lưu ý các vị là chính phủ có trong tay lực lượng quân sự mạnh...
- Và cảnh sát, mật vụ, Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa, Phong trào cách mạng quốc gia, Phụ nữ liên đới, đảng Cần Lao, Tổng liên đoàn lao công... - Thích Nhất Hoa chen vào, giọng mỉa mai – nhưng chính phủ không còn ông Nolting. Mọi thứ sẽ đảo lộn bởi ông Cabot Lodge không phải là ông Nolting.
- Tôi hiểu! – Luân nói, hết sức điềm đạm – Tôi hiểu rất rõ.
Và Luân thở dài. Những người có mặt dứt khoát không thể hiểu tiếng thở dài của Luân.
Vừa lúc đó, một nhà sư lao vào phòng như một ngọn gió mạnh – một nhà sư cũng trẻ.
- Báo động! Kế hoạch “Nước lũ” bắt đầu thực hiện đêm nay!
Trao cho Thích Đức Nghiệp một mảnh giấy, ông ta chợt thấy Nguyễn Thành Luân.
- Ủa! Có đại tá ở đây?
Luân lễ phép chào ông.
Mảnh giấy được trao cho hai đại đức và ông kiến trúc sư.
- Xin giới thiệu với đại tá, đây là đại đức Thích Tâm Giác...
Luân đã nghe tiếng nhà sư này từ lâu. Trong báo cáo mật của Trần Kim Tuyến, nhà sư đã được nhắc đến như một phần tử có tham vọng trở thành đại tá Trưởng phòng tuyên úy của Phật giáo trong quân đội.
- Một tín đồ đạo Phật báo cho chúng tôi đêm nay chính phủ sẽ tiến công các chùa. Không rõ ông đại tá có nắm được kế hoạch đó không và – xin lỗi đại tá – việc đại tá đột ngột đến chùa có liên quan gì đến kế hoạch đó không?
Luân có đọc kế hoạch “Nước lũ” trong bản tin của UPI. Dung không biết về kế hoạch này. Trần Kim Tuyến không hé môi mà Luân thì không tiện hỏi Ngô Đình Nhu.
- Thú thật, tôi chỉ biết cái danh xưng này qua hãng thông tấn ngoại quốc. Còn tôi, như từ đầu đã trình với các vị, tôi đến chùa Xá Lợi với tư cách riêng.
Năm người có mặt trong phòng đều nhìn Luân. Họ hoài nghi. Thích Nhất Hoa cười lạt.
- Tôi không tán thành bạo lực đối với Phật giáo – do đó tôi không tán thành cái gọi là kế hoạch “Nước lũ”. Nếu quả có một kế hoạch như thế, tôi sẵn sàng làm con tin tại đây khi chính phủ tấn công các chùa.
Luân nói, rất thành khẩn.
- Nguồn tin này chính xác một trăm phần trăm! - Thích Tâm Giác nhấn mạnh, ông ta ngồi xuống và chìa tấm giấy cho Luân xem. Nửa tờ polure, viết tay: Các thầy nên sẵn sàng, nội đêm nay chính phủ sẽ tiến công bằng võ lực các chùa.
Không có chữ ký. Nhưng nét chữ thì không xa lạ với Luân: Mai Hữu Xuân.
- Đã trình cho chư tôn hòa thượng chưa? – Nhất Hoa hỏi Tâm Giác.
- Đã và cũng đã báo động cho các vị lãnh đạo các chùa trong đô thành nhưng không báo động kịp các tỉnh.
- Ở chùa có điện thoại không? – Luân hỏi.
- Có. Nhưng để làm gì? – Nhất Hoa hỏi – Đại tá định nói chuyện với ông Nhu?
Luân gật đầu và đi đến chỗ đặt máy. Điện thoại bị cắt đứt.
- Với những triệu chứng như thế này, có khả năng các chùa chiền bị tấn công thật. – Luân bảo, căng thẳng – Tôi muốn liên lạc với Phủ tổng thống. Phiền các vị cho người cầm thư của tôi ra cổng chùa, giao cho người bảo vệ của tôi mang vào Phủ tổng thống.
Tâm Giác, Nhất Hoa, Đức Nghiệp không thích thú với sự can thiệp này. Nhất Hoa bảo:
- Không cần! chính phủ muốn gặt cái quả lớn hơn thì cứ gieo cái nhân tương xứng...
- Nhưng, tiến công có nghĩa là đổ máu, Phật tử khó tránh khỏi ít nhất cũng là thương tích! Không thể được! – Luân gằn giọng.
Trước mặt anh, ba nhà sư rõ ràng coi thường sinh mệnh của tăng ni và Phật tử. Có vẻ họ còn sốt ruột khi kế hoạch “Nước lũ” thực hiện chậm. – Một cơn giận nổi lên khiến Luân mất bình tĩnh:
- Các vị muốn đánh đổ ông Diệm, tôi không ngăn. Nhưng không thể lợi dụng xương máu của quần chúng. Các vị không sẵn sàng mang thư thì tôi sẽ ra cổng giao thư và trở vào đây cùng chịu chung số phận với các vị!
Không cần biết phản ứng của chung quanh, Luân xé một tờ giấy trong sổ tay và hí hoáy viết.
- Tôi sẽ mang thư ra cổng cho đại tá. – Thích Từ Đức nói. Từ khi Luân bắt đầu cuộc trao đổi ý kiến, đây là lần đầu Thích Từ Đức lên tiếng – Tôi nghĩ đại tá cũng có thể ra về...
Luân trao mảnh giấy cho Từ Đức.
- Cám ơn đại đức. Tôi ở đây!
Từ Đức tất tả bước ra khỏi phòng. Gian phòng im ắng một cách nặng nề. Trong đầu Luân, nhiều điều được soi sáng. Người báo tin cho Phật giáo cũng sẽ là người chỉ huy cuộc đàn áp – Mai Hữu Xuân là một con người như thế đó. Kế hoạch “Nước lũ” có thể do chính tay ông ta thảo ra, có tham khảo ý kiến của Fishell, John Hing, thậm chí tham khảo cả ý kiến của Thích Tâm Châu và ba nhà sư đang ngồi trước anh.
Thích Từ Đức trở vào, trả thư cho Luân, giọng buồn bả:
- Chùa bị phong tỏa rồi!
- Ai phong tỏa? – Luân hỏi.
- Tôi ra đến cổng thì gặp một toán an ninh quân đội đuổi tôi trở vào...
- Bên ngoài có cảnh sát hay quân đội không?
- Chưa thấy... Tín đồ ở ngoài đường đông lắm...
Luân cười gằn:
- Mai Hữu Xuân!
Thích Từ Đức và kiến trúc sư Nguyễn Văn Thi không thấy có điều gì khác lạ trong nhận xét của Luân, còn ba người kia thì mặt hơi biến sắc.
- Không phải... - Thích Đức Nghiệp buộc miệng nhưng ông ta ngừng ngang và Luân thấy rõ Tâm Giác ra hiệu bằng cách đạp lén chân ông ta.
“Thằng cha Mai Hữu Xuân ra tay trước, hắn bít cửa chùa để “kế hoạch nước lũ” đánh thật đau vào Phật giáo – nghĩa là đánh thật đau vào Ngô Đình Diệm” – Luân nghĩ như vậy.
*
Song song với cuộc đối thoại giữa Luân và một số đại đức, bên trong hậu liêu của chùa, các hòa thượng và thượng tọa không phải tham thiền như Thích Đức Nghiệp nói mà họ, cấp cao nhất của những người lãnh đạo phong trào Phật giáo hiện thời, đang họp. Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết vì mệt nên vắng mặt. Thượng tọa Thích Tâm Châu tự giới thiệu là được hòa thượng Hội chủ trao cho toàn quyền quyết định, đã chủ trì cuộc họp.
Từ chiều, giới lãnh đạo Phật giáo đã nhận được nhiều nguồn tin khác nhau về cuộc tấn công của cảnh sát. Trong những nguồn tin đó, có cả nguồn tin của giáo sư Fishell. Thượng tọa Thích Tâm Châu gửi giấy mời các vị có chân trong Ủy ban liên phái đến chùa Xá Lợi. Trừ một vài vị bận việc, hầu hết đều có mặt. Mở đầu, thượng tọa Thích Tâm Châu thông báo về tình hình có thể xảy ra trong đêm. Thượng tọa cũng nhắc lại gần như toàn văn thông tin của giáo sư Fishell, người mà các vị trong Ủy ban liên phái chỉ biết là một học giả Mỹ am tường các vấn đề phương Đông, vấn đề Phật giáo, một nhà nghiên cứu khoa học có tầm cỡ.
Một vị đã nêu câu hỏi với Thích Tâm Châu: Vì sao giáo sư Fishell lại biết kế hoạch tấn công các chùa chiều đêm nay?
Thích Tâm Châu trả lời rằng có thể vì Fishell giao thiệp rộng.
Một vị thượng tọa khác hỏi: Nếu giáo sư Fishell giao thiệp rộng, biết được tin đích xác các chùa sẽ bị tấn công tại sao ông không can thiệp với sứ quán Mỹ và với Tổng thống Ngô Đình Diệm?
Thích Tâm Châu không tả lời câu hỏi đó mà nhắc lại rằng, đã được tin thì Ủy ban liên phái phải đối phó. Ông phác ra một kế hoạch. Một mặt, ông thông báo cho giới báo chí trong và ngoài nước về khả năng xấu có thể xảy ra và đánh động dư luận. Hai, ông thông tin cho tất cả các chùa sửa soạn đối phó, chỉ thông tri cho các vị lãnh đạo, không cho tăng ni nói chung và Phật tử biết. Ba, đối phó cụ thể là sẵn sàng hy sinh vì đạo pháp. Ông tuyên bố: “Giờ lâm tử đã đến mà kế hoạch của chúng ta không thể vượt khỏi khuôn khổ bất bạo động cổ truyền. Nhưng bất bạo động mà không chịu chết âm thầm, không để cho bạo quyền tàn sát một cách lặng lẽ khiến họ có thể bưng bít dư luận. Bởi vậy, kế hoạch đối phó nằm trong khuôn khổ bất khuất, dụng nguyên lực biến thân để thành kim cương, thành gang thép rồi kết khối lại chịu cực hình cho đến chết để được tử đạo và để cầm cự cho tới thanh thiên bạch nhật khiến sự hy sinh cao cả này vang dội lên làm rung động từ cội rễ thiện tín con người và để Phật giáo đồ noi gương tiếp nối đấu tranh vì chính pháp”.
Quan điểm của thượng tọa Thích Tâm Châu được chấp thuận. Nhưng, có một vị cao tăng nêu lên một vấn đề: Tại sao chúng ta báo động với cơ quan báo chí trong và ngoài nước, với các tòa đại sứ với lãnh sự mà lại không báo động với Ủy ban liên bộ hoặc với Tổng thống, đồng thời cũng lại không thông báo cho thanh niên tăng sĩ trong các ban trật tự các chùa, cho các tín đồ có mặt ở các chùa? Theo vị cao tăng này thì nếu ủy ban liên phái làm tất cả những việc trên, sẽ có hy vọng buộc chính quyền đình chỉ kế hoạch tấn công và tránh cho tăng sĩ và đồng bào Phật tử khỏi bị thảm sát. Chúng ta – vị cao tăng ấy nói – rất hoan hỉ noi gương thánh tăng Thích Quảng Đức nhưng chúng ta không nên để những tăng ni tuổi đạo còn non thay mặt cho đạo pháp mà tử nạn như các vụ tự thiêu hoặc có hành động phản kháng gần đây. Chúng ta cần phải tránh cho Phật tử bất kể mức độ hy sinh nào.
- Thì giờ quá gấp rút, chư tôn hòa thượng miễn cho tranh cãi. - Thích Tâm Châu đã lẩn tránh câu hỏi của vị cao tăng.
*
Tường thuật của một phóng viên.
(Bản in ronéo)
Tối 20-8-1963, nếp sinh hoạt thường nhật của chùa Xá Lợi có thay đổi đôi chút. Khác với mọi khi, đêm nay, mới 9 giờ giữa lúc các thiện tín, sau khi lễ Phật xong, ra về.
Nhưng, ra tới cổng, họ đụng một số an ninh quân đội, buộc họ quay vào chùa. Cái sự khác thường này khiến tăng sĩ và tín đồ lo lắng. Nhưng, một đại đức đã động viên họ: “Không việc gì phải sợ!”
Thời gian cứ chậm chạp trôi qua. Cổng chùa, mặt tiền, bên hông đều được đóng lại kỹ lưỡng. Ngoài đường, người qua lại bắt đầu thưa thớt, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi hoặc xe gắn máy lướt nhanh trên đại lộ.
Trong sân chùa, trái với lệ thường, các ngọn đèn điện thường được tắt bớt, hôm nay ánh sáng như rực rỡ hơn.
11 giờ đêm, thời gian vẫn lặng lẽ trôi. Trên gác, các thượng tọa hầu hết đã vào phòng riêng an nghỉ. Tín đồ nằm la liệt ngoài sân. Thỉnh thoảng mới có một đại đức lướt nhanh qua hành lang hướng về phòng thượng tọa Thích Tâm Châu, nơi duy nhất có tiếng máy đánh chữ nhè nhẹ.
Dưới nhà hậu, phần lớn chư ni đã nghỉ, chỉ còn một số đang lom khom, lặng lẽ lau nốt mấy bậc thềm hoa. Số khác bận rộn trong việc quay ronéo, đóng thành từng bản tin tức để phân phối vào sáng hôm sau. Họ yên lặng làm việc, thận trọng, nhẹ nhàng.
12 giờ. Trên đường phồ bỗng xuất hiện một toán người mặc áo sơ mi bỏ ngoài, quần tây. Họ ngồi trên xe đạp, từ từ lượn quanh, ngó vào chùa dò xét...
Thế rồi, trong giây lát, một hồi còi ré lên và một đoàn trên 200 người, tay lăm lăm súng cắm lưỡi lê ào tới bao vây chùa. Đoàn người này mặc đồ trận rằn ri, mũ sụp xuống lấp trán. Họ thi nhau xông tới phá hai cổng chùa. Trong chốc lát, các cổng đều bật tung và đoàn người võ trang hùng hổ tràn vào chùa. Họ cúi lom khom, lủi nhanh, núp vào các gốc cây, bờ tường, giống như đoàn quân thiện chiến đang xung kích trận địa sống chết với kẻ thù.
Lúc này chư tăng, ni đều đã dậy cả, ai nấy vồn vã leo cầu thang rút lên thượng điện.
Các thượng tọa gấp rút gọi dây nói cho các ký giả, sứ quán, nhưng đường dây đã bị cắt đứt, đồng thời điện trong chùa cũng bị cắt luôn. Thế là, trong màn đêm, lờ mờ qua ánh điện đường, sân chùa tràn ngập bọn người hung dữ, sát khí đằng đằng. Họ ồ ạt xông vào chính điện, đập phá cánh cửa, đạp đổ bàn thờ hòa thượng Thích Quảng Đức và phá tan hộp đựng tiền công đức của thiện tín thập phương rồi cướp hết. Họ như điên cuồng, đập phá bàn ghế, xô đạp hương đài, chặt cánh tay và móc mắt Phật lấy cặp nhãn kim cương trị giá trên hai chục triệu đồng.
Trong khi đoàn người mệnh danh “quân đội chính phủ” đang đột nhập phá phách ở phía dưới chùa, thì trên thượng điện, tất cả tăng, ni và đạo hữu đều quay quần chung quanh hòa thượng và các thượng toạ. Người người nhất trí, khỏe trước yếu sau trấn đóng hai đầu cầu thang không cho bọn người hung dữ tiến lên xâm phạm vào các thượng tọa.
Ngay từ phút đầu của cuộc tấn công, cảnh chùa đã trở nên huyên náo, bên dưới bọn người hung dữ phá phách rầm rầm, ở trên thượng điện, chư tăng ni khua trống, đánh chuông, đập thùng thiếc cùng kêu la inh ỏi làm náo động cả một góc thủ đô.
Khi thanh toán xong dưới nhà, bọn người hung dữ nương theo hai cầu thang xông lên thượng điện. Nhưng họ gặp ngay phản ứng của hàng ngũ thanh niên tăng sĩ; ngoài những bàn ghế chất đầy hai đầu cầu thang dùng làm chướng ngại vật, tăng ni còn đem ấm chén, bát đĩa và tất cả vật dụng trong phòng ra xếp thành một đống phía sau; hễ kẻ nào nhô lên từ phía chân cầu thang, lập tứ các đồ vật dụng được ném xuống xối xả, khiến bọn người hung dữ không sao tiến lên được. Lập tức, lựu đạn cay từ dưới thi nhau tung lên sân thượng điện, tiếng nỗ chát chúa vang ra, cả trăm tăng, ni bị khói cay ho sặc sụa, nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng. Một số người sức yếu, ngất đi nằm vật xuống.
Bọn người hung dữ lại từ dưới xông lên. Các thanh niên tăng ni, mặc dù nước mắt nước mũi chảy ràn rụa làm mù mịt không trông thấy gì, nhưng họ vẫn liên tiếp thay phiên nhau nhắm hướng cầu thang liệng vật dụng xuống. Lựu đạn cay lại từ dưới nhất loạt tung lên, khói đen tỏa dầy đặc, nhiều tăng, ni bị lựu đạn nổ ngay trên mình hoặc bị vỏ thủy tinh bắn ra cắt đức da thịt, máu chảy quá nhiều nên ngã quỵ xuống.
Để đối phó lại, hàng tiền đạo tăng sĩ được võ trang bằng khăn ướt, bịt trên mặt để ngăn bớt khói cay.
Lần thứ ba, sau khi hưu chiến 15 phút, bọn người không tim không óc lại nhất loạt xông lên, lần này họ đội trên đầu mỗi người một chiếc ghế tựa để ngăn “đạn” từ trên xả xuống; đồng thời, họ vừa xung kích vừa tung lựu đạn cay.
Nhưng, kẻ xung kích dùng đòn độc, lấy ghế làm mộc, thì người bị tấn công, cũng đổi chiến lược, các đạn hạng nặng, như bàn giấy, chậu cảnh được quăng xuống và bất cứ một thứ thì như nước sôi, vỏ chai, hễ vớ được là họ quăng liên hồi...
Nhưng, bọn người phía dưới hung dữ quyết bám sát trận địa, hết lớp này đuối sức thì đám kia xông lên và lựu đạn vẫn nổ liên tiếp làm đinh tai điếc óc chư tăng. Trận chiến diễn ra ác liệt, chư ni một số ngã gục, một số bị ho sặc sụa, phải chạy vào phòng tắm, đóng chặt cửa tránh khói, còn một số vẫn hăng hái tìm kiếm vật dụng cho chư tăng ném xuống.
Thời gian khủng khiếp nặng nề trôi... chư tăng đã phần kiệt sức mà lực lượng cứu viện không có. Kẻ ngoại cuộc duy nhất ủng hộ là hãng USOM. Từ các cửa sổ trên lầu cao, những bàn tay người ngoại quốc, đàn bà có, đàn ông có, đưa tay vẫy liên hồi, rồi cũng những bàn tay đó, nắm chặt lấy nhau đấm vào không khí ngụ ý tán trợ và cổ võ. Thế rồi, từ trên đỉnh ngôi nhà lầu hãng USOM, ánh điện của máy chụp hình lóe lên ánh sáng, lại càng chớp nháy liên tiếp khi một bóng người đàn bà vận quân phục từ trên xe Haptơrăc nhảy xuống. Người đàn bà này đứng giữa đường, hai tay chống ngang hông ngó vào cổng chùa Xá Lợi. Lập tức viên chỉ huy bọn người hung dữ được báo động và y chạy tới khúm núm trước người đàn bà này. Người đàn bà vận quân phục chỉ trỏ và quát tháo một hồi rồi lên xe đi thẳng.
Trong chùa, trận chiến khởi đầu từ 1 giờ đến 2 giờ 45 phút thì thế cờ bắt đầu chuyển hướng. Lực lượng vũ trang xông lên hùng hổ bao nhiêu thì sức kháng cự của tăng ni yếu dần đi bấy nhiêu. Các vật dụng của nhà chùa dùng làm vũ khí đã hết... Thậm chí, chư tăng phải dùng đến cả những bàn ghế trước đây dùng làm chướng ngại vật quăng xuống...
Thế là mọi người chỉ còn hai bàn tay trắng, đưa ra đón lấy những mũi nhọn của lưỡi lê ào ạt từ dưới lao lên. Lần lượt những người tu hành bị bọn người hung dữ thúc lưỡi lê vào ngực, vào lưng, dồn tới một xó chùa. Còn cảnh nào thương tâm bằng cảnh những người tu hành, từ bỏ tất cả trừ mảnh áo cũ kỹ che thân. Nay áo đó cũng bị rách tả tơi hoặc bị lựu đạn làm cho cháy xém rách nát cả da thịt.
Khi đã chiếm xong thượng điện, bọn người hung dữ tiếp tục khủng bố. Họ tràn vào thư viện bắt trói đánh đập các thầy ở đây rồi dẫn đi. Thầy Hoàng Lạc, không chịu để cho chúng bắt, thầy chạy ra sân lầu đại điện, nhào xuống đất để chết. Không ngờ lại rớt xuống trúng đầu bọn hung dữ ở phía dưới; chúng hoảng hốt nổ súng, nhưng thầy Hoàng Lạc đã rơi xuống sân nằm bất tỉnh, khiến những viên đạn này lại bắn lộn vào đám đông, mấy mạng gục xuống. Sau đó, chúng lục xạo khắp các phòng, chân đạp tung cửa, tay chuẩn bị bóp cò súng, miệng gầm thét chửi rủa tục tĩu...
Có nhiều thầy vừa ra tới cửa bị chúng còng tay, rồi đẩy đi. Qua một trận ngửi hơi ngạt các thầy mệt mỏi, bước đi chậm chạp, bị chúng tống báng súng vào lưng, khiến các thầy ngã sấp xuống gạch. Tay lại bị còng ra phía sau, không thể chống đỡ nên các thầy đành chịu cảnh dập mày dập mắt, máu tuôn ướt áo, ướt đường.
Như để hả giận, vừa dồn các thầy ra chỗ ngồi tập trung trước sân thượng điện, bọn người hung dữ vừa chửi rủa vừa đánh đập, chúng bất kể già trẻ, ngôi vị trong chùa.
Kế đó, đèn được bật sáng; mọi người mới biết đoàn người hung dữ này không ai xa lạ mà chính là bọn mật vụ, cảnh sát, và lực lượng đặc biệt do Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành chỉ huy tổng quát. Riêng Dương Văn Hiếu, tay chân đắc lực của lãnh chúa miền Trung được đặc biệt phái vào Sài Gòn, chỉ huy mật vụ của Ngô Đình Nhu và Lê Quang Tung, Tư lệnh lực lượng đặc biệt thì chỉ thấy quân mà không thấy mặt chúng. Không rõ chúng chỉ huy đánh chiếm mạn nào hay nằm ở “Bộ tư lệnh chiến dịch đánh chùa”?
Theo lệnh Trần Văn Tư, bọn mật vụ lần lượt bắt hòa thượng Hội chủ, các thượng tọa, đại đức dẫn ra xe. Chúng vừa tìm kiếm vừa reo lên “A, thằng Tâm Châu đây rồi... cả thằng Giác Đức nữa, may quá!”. Lập tức chúng xúm lại khiêng hai thượng tọa xuống. Đại đức Thích Đức Nghiệp cũng bị chúng lôi đi lệt xệt trên cầu thang. Thế rồi các vị bị chúng đưa đi, giam mỗi người một phương nào không ai biết.
Sau khi chúng kiểm soát kỹ lưỡng khắp chùa một lần nữa, thấy không còn sót ai, bọn mật vụ, cảnh sát, lực lượng đặt biệt, xếp hàng hai bên lối đi, mỗi đứa cách nhau một thước, nối tiếp nhau từ trên Phật điện, xuống cầu thang vòng ra cổng. Chúng quay mặt đối diện với nhau, rồi một bọn khác tới lùa mấy trăm tăng ni ra xe.
Chư tăng, ni đông quá nên cầu thang trở nên chật chội, không thể nào đi nhanh được. Điều đó lại để cho bọn mật vụ có cơ hội tức giận nguyền rủa. Từ phía sau, bọn chúng chửi bới, xô đẩy và dùng báng súng thúc mạnh vào lưng chư tăng. Trong đoàn tăng, ni bị xô đạp này, nhiều người yếu quá ngã xuống, nhất là chư vị, chân không dẫm lên những đống máu đông đặc lầy nhầy đọng trên cầu thang, khiến không gượng được nên ngã xuống.
“Mặc kệ!”, “Chết bỏ!”, chúng vừa quát tháo, vừa xô mạnh cho những người phía sau giày xéo lên những người phía trước vừa ngã dưới bậc cầu thang. Có nhiều vị tăng chỉ vì cố dừng lại khiêng mấy ni cô bị ngã nhưng vì yếu sức không sao gượng dậy được giữa đám chân người lủng củng, dồn dập từ trên cao lấn xuống, nên bị chúng dùng gậy đập lên đầu đến váng óc té xỉu đi.
Cho tới 3 giờ rưỡi sáng, bọn người gian ác này hoàn toàn thành công trong việc đánh phá chùa Xá Lợi.
Ngoài những thượng tọa bị đưa đi, giam riêng, còn bao nhiêu tăng ni chúng chất lên xe chở về Rạch Cát nhốt trong một cái đồn hoang dại, hẻo lánh thuộc quận 7, ngoại ô Chợ Lớn.
Sau đó, chúng đem xe hơi tới hốt các tăng, ni, đạo hữu bị chết, bị ngất hoặc bị thương trầm trọng, nằm la liệt trên sân thượng điện về bệnh viện Cộng Hòa. Chúng chở luôn cả những “chiến lợi phẩm” mà chúng không “nuốt” được như máy móc, giấy tờ về quận 3, còn bao nhiêu thứ có thể bỏ túi được thì chúng “chia bùi xẻ ngọt” với nhau.
Chùa Xá Lợi sau hơn 3 tiếng đồng hồ sóng gió kinh hoàng, lúc này hoàn toàn tan hoang. Thứ duy nhất còn lại ngoài mấy chục bức tượng, đồ đạc hư nát là máu tươi, thịt bấy của tăng ni loang lổ khắp sân chùa.
Sáng ra, người ta mới biết người đàn bà đêm qua mặc quân phục, hằn học nhìn vào chùa Xá Lợi là bà Ngô Đình Nhu tức Trần Lệ Xuân.
Trần Lệ Xuân tới để chứng kiến cảnh tàn sát cho hả lòng căm giận đối với những người độc nhất trên đất nước này, dám công khai đả kích bà ta và công khai chống lại uy quyền của họ Ngô.
Ngoài ra, Trần Lệ Xuân còn tới để đôn đốc bọn tay sai phá chùa, chiếm lại bức thư của thân phụ bà ta mới gửi về tạ lỗi với các vị thượng tọa cách đây mấy ngày về việc Trần Lệ Xuân đã vô lễ xúc phạm tới mấy thầy, mạt sát Phật giáo, một tôn giáo mà họ Trần tôn thờ.
Trong khi chùa Xá Lợi chìm trong cảnh tang tóc máu lửa, thì hầu hết các chùa trong lãnh thổ gia đình Ngô Đình Diệm thống trị đều chung một số phận như vậy.
Riêng tại chùa Từ Đàm, Huế, trong đêm 20-8-1963, với 5.000 Phật tử túc trực bao quanh nhục thân cố thượng tọa Thích Tiêu Diêu đã là một cản trở rất lớn cho bọn tay chân Ngô Đình Cẩn. Ngô Đình Cẩn phải huy động 2.000 quân, chiến đấu từ 1 giờ đêm đến 8 giờ sáng mới thanh toán xong chiến trường. Sở dĩ có trận chiến đấu ác liệt như vậy là vì Phật giáo đồ tưởng rằng lực lượng Ngô Đình Cẩn tới cướp thi hài thượng tọa Thích Tiêu Diêu như chúng đã từng làm đối với các tăng ni tự thiêu trước đây. Và cũng vì vậy nên chư thượng tọa có mặt trong chùa để yên cho Phật giáo đồ cầm cự, cố sống chết bảo vệ lấy thi hài duy nhất của bốn vị tự thiêu tại miền Trung còn lại.
Trong những phút cuối cùng của cuộc giao tranh, Phật giáo đồ đã có lần phóng hỏa đốt chùa để cùng nhau chết trong vòng vây nguy khốn chứ không chịu khuất phục trước bạo quyền...
Nhưng việc làm này bị thất bại bởi lực lượng Ngô Đình Cẩn quá đông, chúng ào vào dập tắt lửa và tấn công dữ dội, làm cho Phật giáo đồ rối loạn, xô lấn, ngã chồng chất lên nhau.
Trong chùa lúc này, Phật tử chỉ còn hai bàn tay không giơ ra chống đỡ với lưỡi lê của kẻ bạo tàn. Bao nhiêu củi đuốc, bàn ghế, ấm chén, nồi niêu, bát đĩa, soong, chảo trong chùa, Phật giáo đồ đều dùng thay vũ khí và đã ném đi hết sạch. Vì thế, lực lượng vũ trang của Ngô Đình Cẩn chỉ còn việc lần lượt bắt trói từng người dẫn đi.
Thế rồi sáng hôm sau, ngày 21-8-1963, tại thủ đô Sài Gòn, thành phố Huế và khắp các tỉnh, khi mọi người thức dậy ra đường, đã thấy nhan nhãn những truyền đơn, hiệu triệu và sắc lệnh thiết quân luật dán đầy trên tường. Xe thông tin gắn loa phóng thanh chạy khắp phố thường thôn xã loan tin: “Chính phủ đã diệt trừ xong bọn phản động!”.
Chiều tối quần chúng lại được chính quyền cho biết, trong cuộc kiểm soát các chùa, quân đội tịch thu được vũ khí, tài liệu, chứng tỏ nhiều nhà sư hoạt động cho Việt Cộng...
*
TUYÊN CÁO CỦA TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
Trước những biến cố gần đây do Cộng sản chủ mưu, đặc biệt nhất tại miền Đông Nam Á, Lào quốc, trực tiếp ảnh hưởng đến biên giới Việt Nam.
Đồng thời tại quốc nội, giữa lúc toàn dân toàn quân đang tận lực chống Cộng sản xâm lăng, đồng bào đã thấy rõ, từ 3 tháng rưỡi nay, ý chí hòa giải tột bực của chính phủ trong việc giải quyết những vấn đề do Tổng hội Phật giáo nêu lên, nhưng những cố gắng ấy không được hưởng ứng do một số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo, lợi dụng thái độ hòa giải tột bực của chính phủ liên tiếp hành động bất hợp pháp để tạo nên một tình trạng rối loạn phá hoại chính sách ấy, cản trở chủ trương dân chủ pháp trị, rất tổn thương cho uy tín của Phật giáo, chỉ lợi cho Cộng sản.
Do đó, chiếu điều 44 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa, kể từ ngày 21 tháng 8 dương lịch 1963, tôi tuyên bố ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ quốc gia.
Ủy nhiệm cho quân đội Việt Nam Cộng hòa tận dụng mọi phương tiện và thi hành mọi biện pháp cần thiết do sắc lệnh ban hành giới nghiêm qui định để vãn hồi an ninh trật tự công cộng hầu bảo vệ quốc gia, chiến thắng Cộng sản, xây dựng tự do dân chủ.
Sài Gòn ngày 20-8-1963
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
NGÔ ĐÌNH DIỆM
*
Việt Nam Cộng hòa
Tổng thống phủ
Văn phòng
Số 84 – TTP
TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếu hiến pháp Việt Nam Cộng hòa nhất là điều 55;
Chiếu sắc lệnh số 124-TTP ngày 28-5-1961 ấn định thành phần chính phủ;
Chiếu nhu cầu hiện tại;
Để đảm bảo an ninh trật tự công cộng.
SẮC LỆNH
Điều 1: Nay tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, kể từ ngày công bố sắc lệnh này cho tới khi có lệnh mới.
Điều 2: Luật lệ nào xét ra cần ngưng thi hành sẽ được tuyên bố tạm đình chỉ áp dụng.
Điều 3: Quân đội Việt Nam Cộng hòa chịu trách nhiệm hoàn toàn về an ninh công cộng, và để đạt tới mục đích ấy, có quyền trong suốt thời hạn giới nghiêm:
+ Xét các tư gia bất cứ giờ nào, bắt giữ các người xét có hại cho an ninh công cộng.
+ Cấm mọi cuộc hội họp, tụ tập có thể phương hại cho an ninh trật tự công cộng.
+ Hạn chế tự do báo chí, kiểm soát hệ thống phát thanh, kiểm soát phim ảnh kịch trường.
+ Cấm tàng trữ, lưu hành những ấn loát phẩm, tài liệu, truyền đơn xét có hại đến an ninh công cộng.
Điều 4: Tất cả mọi vi phạm đến trật tự công cộng đều thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự.
Điều 5: Các bộ trưởng và tổng tham mưu trưởng liên quân chiếu nhiệm vụ, thi hành sắc lệnh này.
Sắc lệnh này được công bố theo thủ tục khẩn cấp.
Sài Gòn, ngày 20-8-1963
Ký tên: Ngô Đình Diệm
*
QUÂN LỆNH SỐ 1 CỦA QUYỀN TỔNG THAM MƯU TRƯỞNG LIÊN QUÂN QUÂN ĐỘI VIỆT NAM CỘNG HÒA
Chiếu sắc lệnh ngày 20-8-1963, tuyên bố tình trạng giới nghiêm trên toàn lãnh thổ Việt Nam, bắt đầu từ ngày 20-8-1963 cấm chỉ dân chúng:
1. Trong giờ giới nghiêm không được ra khỏi nhà.
2. Cấm hội họp, tụ tập có thể gây phương hại đến an ninh trật tự công cộng.
3. Không được có hành động gián tiếp hoặc trực tiếp phá rối trị an như ấn loát, lưu hành và tàng trữ mọi tài liệu báo chi truyền đơn, hình ảnh có tính cách phá hoại an ninh quốc gia. Tất cả mọi ấn loát phẩm và điện tín đều phải chịu chế độ kiểm duyệt.
4. Phải trao lại tức khắc cho cơ quan quân sự địa phương gần nhất những vũ khí đạn dược dù đã được phép mang, kể cả những vũ khí bén nhọn.
5. Mọi vi phạm một trong các điều khoản ghi trên sẽ bị truy tố trước tòa án quân sự theo thủ tục khẩn cấp
KBC 4.002
20-8-1963
Trung tướng Trần Văn Đôn
*
LỜI KÊU GỌI ĐỒNG BÀO CỦA TIẾNG NÓI QUÂN ĐỘI
Kính thưa đồng bào,
Đã đến lúc toàn thể mọi người phải đứng dậy đập tan những mưu mô chia rẽ của bọn người vong bổn cấu kết với phong kiến thực dân và Cộng sản làm đất nước chúng ta lâm nguy từ mấy tháng gần đây. Không lúc nào bằng lúc này, quân đội chúng tôi đang xả thân chiến đấu vì chính nghĩa, vì tự do, vì sự an ninh của đồng bào thì trong khi đó một số người ngoan cố đã giày xéo lên sự hy sinh vô bờ bến đó. Hàng chục vạn chiến sĩ đã đổ máu gục ngã ngoài chiến trường chống Cộng để bảo vệ sự sống yên vui của toàn dân, để giành giật từng thước đất tự do, để lo bồi từng niềm tin mà lẽ dĩ nhiên có cả niềm tin rộng lớn của tất cả các tôn giáo. Trong khi đó, một bọn người an nhàn đã lợi dụng che mặt bằng hình thức này hay hình thức khác làm phân tâm ly tán, cố làm những hy sinh của chiến sĩ trở nên vô nghĩa.
Hơn một năm nay, chính đồng bào từ thành thị tới thôn ấp đã hăng say nỗ lực nhỏ mồ hôi hòa cùng máu chiến sĩ để xây dựng một xã hội mới, một đời sống mới trên các tiêu chuẩn công bằng bác ái và dân chủ pháp trị. Sự hy sinh đó đang tiến mạnh trên con đường chiến thắng thì thình lình bị phản bội do mưu mô của bọn Việt gian phản quốc cấu kết cùng Việt Cộng, giặc chia rẽ và giặc chậm tiến phá hoại dân tộc chúng ta.
Đã từ lâu rồi, quân đội chúng tôi im lặng chịu đựng, tuân theo sự ôn hòa tột bực của chính phủ. Sự chịu đựng, câm nín đó, chính là một sự hy sinh thứ hai mà chúng tôi đã phải gánh chịu. Mặc dầu bị khiêu khích bằng mọi cách, kể cả những cách nhỏ nhen nhất như ném đá vào đầu quân đội, tuyên truyền rỉ tai để phỉ báng quân đội, vu cáo cho đồng đội chúng ta đàn áp tự do, là vô nhân cách trong khi chúng tôi chiến đấu vì tự do, vì chính họ, vì hạnh phúc của toàn dân. Bọn Việt gian phản quốc đã gây dư luận xấu xa khiến thế giới tự do, một số người nhẹ dạ, đã nghe chúng làm hại đến uy danh của dân tộc. Danh dự của quân đội bị phỉ báng. Danh dự của dân tộc bị bán đứng như vậy mà bọn chúng reo cười! Bọn chúng reo cười cả trên những cái chết thảm khốc nhất. Chúng tưởng rằng như vậy là quân đội đã thua, quân đội đã chịu hàng phục trước những mánh khoé xảo quyệt của chúng. Nhưng chiến sĩ Cộng hòa không bao giờ chịu khuất phục. Đồng bào hãy cùng chúng tôi vùng lên quyết đập tan mọi mưu mô xảo quyệt, thanh toán tận gốc rễ bọn Việt gian phá hoại. Giờ phút lịch sử đã điểm!
*
ĐÀ NẴNG THIẾT QUÂN LUẬT SAU KHI CÓ BIỂU TÌNH BẤT HỢP PHÁP.
Đà Nẵng (VTX) 20-8.
Theo thông tín viên Việt tấn xã, một cuộc biểu tình bất hợp pháp tổ chức hồi 16 giờ ngày 18-8 vừa qua đã diễu hành từ hai chùa Phổ Đà và Thị Hội qua các đường phố thị xã Đà Nẵng.
Lối một nghìn người, kể cả những kẻ hiếu kỳ kéo theo sau, có mặt trong cuộc biểu tình này.
Chính quyền và quân đội tỏ tinh thần thiện chí hòa giải tột bực.
Chính quyền địa phương và quân đội đồn trú tại Đà Nẵng đã không ngăn trở cuộc biểu tình này vì muốn bày tỏ thiện chí hòa giải tột bực do Ngô tổng thống đã đề ra trước đây.
Trung tá Trần Ngọc, Thị trưởng Đà Nẵng, đã kịp thời kêu gọi anh em binh sĩ triệt để biểu dương tinh thần kỷ luật khả dĩ tránh được mọi âm mưu phá vỡ thiện chí hòa giải của chính phủ. Nhờ đó, trật tự đã duy trì.
Dân chúng vô sự, nhưng một quân dân bị thương.
Phía chính phủ, xe thông tin bị đập phá, một quân dân bị thương. Phía đoàn người biểu tình, không có ai việc gì.
Cuộc biểu tình đã chấm dứt hồi 18 giờ cùng ngày.
*
THIẾT QUÂN LUẬT.
Lệnh thiết quân luật toàn thị xã Đà Nẵng đã được nhà cần quyền ban hành nội trong đêm 18-8 từ 22 giờ 30 cho đến 6 giờ sáng 19-8, nhằm bảo vệ an ninh cho dân chúng.
Đặc biệt lệnh này được thi hành suốt đêm ngày kể từ 6 giờ sáng ngày 18-8 cho đến khi có một quyết định mới.
*
TUYÊN NGÔN CỦA CHÍNH PHỦ
(21-8-1963)
I- Chính sách quốc gia từ tình trạng chậm tiến, chia rẽ và chiến tranh phá hoại của Cộng sản, nhằm tạo một cách nhanh chóng những điều kiện thuận lợi nhất cho sự thực hiện tinh thần hiến pháp và thực thi dân chủ pháp trị đồng đều cho mọi người, không phân biệt giai cấp, sắc dân, hay tôn giáo, là một chính sách mà chính phủ quyết tâm theo đuổi cho đến cùng bất kể trở ngại từ đâu đến.
II - Chính sách của chính phủ trong “vụ Phật giáo” nhằm cốt yếu việc thực thi chính sách quốc gia nói trên, vẫn được chính phủ theo đuổi một cách kiên nhẫn và quyết tâm hơn.
Chính sự quyết tâm này đã đưa đến việc Tổng thống ban hành lệnh giới nghiêm để bẻ gãy sự cố tình phá hoại chính sách trên do một thiểu số sư tăng thuộc Tổng hội Phật giáo, và để sau đó tái lập những điều kiện thuận lợi cho sự thực thi chính sách của chính phủ, chính sách mà mọi người đều công nhận không những là hợp với lẽ phải, mà còn là dựa trên một sự kiên nhẫn tột bực.
III - Chính phủ nhất định từ đây không dung túng một sự lạm dụng nào về tôn giáo với mục đích chính trị, một sự lạm dụng nào về các chùa chiền, biến nơi tôn nghiêm để cầu nguyện, suy niệm và hành đạo trở nên những trụ sở tuyên truyền phá rối, khủng bố hay âm mưu chống lại an ninh quốc gia, mọi hành động nào nhằm đầu độc những linh hồn ngây thơ, mê hoặc các tâm trí, xúi giục người khác tự hủy rồi khai thác xác chết trong 4 ngày để tổ chức mít-tinh, biểu tình chống lại an ninh quốc gia.
Chính phủ, vì quyền lợi tối cao của quốc gia và vì tôn trọng Phật giáo, coi tất cả những hành vi đó là trọng tội, thứ nhất là nước đang có chiến tranh.
IV - Tất cả những người bị giữ vì những biện pháp đầu tiên của lệnh giới nghiêm đều được đối xử tử tế và họ sẽ được trả lại tự do một cách nhanh chóng nếu họ sớm dứt khoát với sự lầm lẫn đạo với đời, với sự lạm dụng tôn giáo vào mục đích chính trị.
V - Tất cả các cán bộ quân dân chính đều phải theo đường lối minh định trên đây.
*
Sài Gòn (VTX).
Vì phải bảo đảm an ninh và trật tự chung của hàng triệu sinh mạng đồng bào tại đô thành.
Vì quân đội đã nhiều lần kêu gọi và nhắc nhở toàn thể đồng bào hợp tác với quân đội để thi hành lệnh giới nghiêm.
Vì cần phải áp dụng mọi biện pháp cứng rắn cần thiết để ngăn chặn mọi cuộc bạo động có thể đưa đến kết quả tai hại cho nền an ninh quốc nội.
Vì phải cương quyết tiêu diệt mọi âm mưu khuynh đảo để tiếp tay cho bọn Cộng sản tạo điều kiện quấy rối để thôn tín quốc gia.
Tổng trấn đô thành Sài Gòn thông báo lần cuối cùng:
Kể từ ngày hôm nay, tất cả các lực lượng phụ trách an ninh tại đô thành như Quân đội, Bảo an, Dân vệ, Cảnh sát và Thanh niên chiến đấu đã được lệnh nổ súng vào tất cả các cuộc tụ họp, các đám biểu tình, các nhóm người bạo động vi phạm lệnh giới nghiêm tại đô thành.
Đồng bào hãy bình tĩnh, sáng suốt và tích cực đề cao cảnh giác để khuyên răn, gìn giữ, và dạy dỗ các con em hầu tránh mọi vi phạm luật pháp quốc gia, có thể đưa đến hậu quả vô cùng tai hại.
Sài Gòn, ngày 20-8-1963
Thiếu tướng
TÔN THẤT ĐÍNH
Tổng trấn đô thành Sài Gòn
*
Việt tấn xã
Sau đây là bức tâm thư gửi sinh viên, học sinh của thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tư lệnh quân đoàn 3 kiêm Tư lệnh vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn đô thành Sài Gòn:
Trong cuộc chiến tranh cách mạng hiện nay của toàn dân chống kẻ thù chung Cộng sản; quân đội cũng như các bạn bảo an, dân vệ, thanh niên, hằng ngày phải dãi nắng dầm sương, và chịu xả thân khắp đó đây trên chiến địa để tạo thành sức mạnh chống đở quốc gia và giữ gìn biên cương lãnh thổ.
Trong lúc đó, từ tiền tuyến đến hậu phương, toàn dân ai nấy đều nỗ lực hăng say để kiến thiết quốc gia, xây dựng hạnh phúc và tiêu diệt Cộng sản thì lại có một nhóm âm mưu lợi dụng sự tranh chấp về tôn giáo làm mục tiêu đấu tranh chính trị, cấu tạo tình trạng rắc rối, phân tán tiềm lực quốc gia và cản trở sự chiến đấu của quân đội mà thật ra chỉ có lợi cho Cộng sản.
Ở tiền tuyến, quân địch đang tìm mọi cách áp dụng mọi hình thức chiến tranh để tiêu diệt ta mà hậu phương thì an ninh bị hăm dọa, trật tự bị xáo trộn, sinh hoạt quốc gia bị đình trệ, tạo nên tình trạng bế tắc mà dù cho nhân dân có tinh thần cao cả đến đâu, quân đội có hùng mạnh thế mấy đi nữa, cũng không thể nào đương đầu nổi với Cộng sản.
Trước tình trạng đe dọa và vô cùng nguy ngập hiện nay, có thể đưa đến sự tồn vong của đất nước, chính phủ đã ban hành lệnh giới nghiêm để giao nhiệm vụ bảo vệ an ninh và duy trì trật tự lại cho quân đội, hầu tạo lại tình trạng ổn định cho toàn thể đồng bào được yên vui sinh sống.
Trước hơn ai hết, các anh chị em là thành phần trí thức, là rường cột của đất nước, và tương lai và vận mệnh của quốc gia suy vong hay hưng thịnh đều tùy thuộc ở thế hệ của các anh – chị – em, gái cũng như trai.
Các anh – chị – em phải suy luận kỹ càng và mạnh dạn gánh lấy nhiệm vụ lịch sử để cùng góp sức với quân đội trong công cuộc cứu quốc và kiến quốc hiện nay.
Tôi không đòi hòi ở các anh chị em một việc làm khó khăn, một công tác nguy hiểm, mà chỉ mong các anh chị em nhận thức rõ ràng tình trạng nguy ngập cho đất nước mà tất cả các anh chị em đều có trách nhiệm về sự tồn vong hầu phụ giúp quân đội chóng hoàn thành nhiệm vụ vì cứu quốc.
*
Bản tin tức về việc Quân đội Việt Nam Cộng hòa thi hành sắc lệnh ngày 20-8-1963.
Tại Sài Gòn – Thi hành Sắc lệnh ban hành tình trạng giới nghiêm của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, quân đội Việt Nam Cộng hòa đã tức khắc mở các cuộc khám xét nhiều nơi được ghi là khả nghi.
Kết quả, tại chùa Ấn Quang ta đã tịch thâu được 3 trái mìn, 10 dao găm. Tại chùa Théravada, ta đã tịch thâu được 1 tiểu liên, 14 bánh plastic, radio.
Tại chùa Xá Lợi, ta đã bắt gặp nhiều dụng cụ ấn loát.
Cuộc khám xét chấm dứt hồi 1 giờ 30 sáng.
Công cuộc duy trì an ninh trật tự trên toàn lãnh thổ đang được thi hành nghiêm chỉnh, chúng tôi sẽ lần lượt loan tin trong những bản tin đặt biệt trong ngày.
Sài Gòn: Giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng. Lưu thông trong giờ giới nghiêm phải có giấy đặc biệt.
*
Sài Gòn (VTX)
Thiếu tướng Tôn Thất Đính, Tổng trấn Sài Gòn – Chợ Lớn kiêm tư lệnh vùng 3 chiến thuật và quân đoàn 3 vừa ra thông cáo để cho dân chúng rõ về lệnh giới nghiêm tại thủ đô như sau:
Kể từ 9 giờ tối ngày 21-8-1963, lệnh giới nghiêm từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng được áp dụng trong phạm vi thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn. Dân chúng cư trú trong thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn không được ra khỏi nhà hay đi trong các đường phố trong giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành đặc biệt do nhà chức trách quân sự cấp phát. Người nào bị bắt gặp ngoài đường phố, trong các giờ giới nghiêm mà không có giấy thông hành kể trên sẽ bị nghiêm trị theo quân luật.
Các toán tuần tiễu đã nhận được chỉ thị nổ súng vào bất cứ người nào bị bắt gặp ngoài đường phố trong những giờ giới nghiêm lẫn tránh hay chạy trốn không để toán tuần tiễu xét hỏi.
*
Luân về đến nhà vào 4 giờ sáng. Trong đời hoạt động của anh, đêm vừa qua đặc biệt nặng nề. Cọ xát với thực tế, anh đã có thể kết luận về điều gì nhất thiết phải xảy ra, không ngày mai cũng ngày kia. Khi đám cảnh sát dã chiến, mật vụ xông vào chùa, Luân áng ngữ ngay cửa. Anh lóe một chút hy vọng: một sĩ quan cảnh sát nào đó nhìn ra mặt anh và anh có thể đứng ra dàn xếp. Nhưng, chính Thích Đức Nghiệp và Thích Tâm Giác đã lôi anh lên cầu thang. Rõ ràng cả hai không thích cuộc tấn công chùa Xá Lợi bị chận ở ngoài sân. Tiếng kêu thét kinh hoàng bên dưới giống lưỡi dao đâm vào tim Luân. Anh vùng khỏi hai nhà sư, gọi to:
- Dừng lại ngay! Tôi là...
Anh không thể nói hết câu. Bây giờ, không phải hai nhà sư mà đến mấy người lực lưỡng – anh không kịp đếm – vật anh ngã, bịt miệng anh. Anh cố vùng vẫy nhưng đã bị trói tay và chính Thích Đức Nghiệp nhét vào miệng anh chiếc khăn. Họ tống anh vào một góc phòng.
Trận chiến đấu vô nghĩa diễn ra trước mắt anh. Tại đây, anh chỉ quan tâm đến những cái chết, những vết thương mà anh biết không phục vụ cho cái gì cả. Chính phủ Ngô Đình Diệm ngu xuẩn đến độ dùng bạo lực đánh vào tăng ni. Và, một số người mang cái vỏ Phật giáo quyết dùng số tăng ni ấy làm vật hy sinh...
Luân cố cựa quậy. Anh cởi được dây trói anh, rút chiếc khăn khỏi miệng:
- Dừng lại! – Anh thét lớn.
Nhưng, một thanh gỗ - anh không thể biết từ phía nào – đã nện vào gáy anh và anh ngã quỵ, thiếp luôn...
- Dậy!
Luân bừng tĩnh nhờ một cú đá vào lưng của một cảnh sát dã chiến. Anh bị còng tay và bị xô xuống cầu thang. Anh không nhớ đã thiếp bao lâu, nhưng bây giờ cảnh chùa Xá Lợi tan hoang, toàn bộ sư, ni, tín đồ, quần áo tả tơi, máu me đầy người, đang khó nhọc trèo lên những chiếc xe bít bùng.
- Lẹ lẹ... Đồ... !
Có tiếng chửi thề. Và khi Luân nhận ra người chửi thề thì người ấy cũng nhận ra Luân.
- Ủa!...
Người đó là Trần Văn Tư, Giám đốc cảnh sát đô thành.
Tư hốt hoảng. Ông ta vừa chập gót chân vừa quát tên cảnh sát đang lôi xểnh Luân:
- Không được đụng đại tá!
Tên cảnh sát ngơ gác.
- Đứa nào còng đại tá? Mở còng ngay! – Tư quát, nhưng tay vẫn để trên vành kêpi.
Luân không buồn đáp lễ.
- Vì sao đại tá lại lọt vào đây?
Luân không buồn trả lời. Anh rất muốn được theo các tăng, ni đến nơi giam giữ.
Tư ra lệnh cho một cảnh sát. Luân biết Tư cho gọi bộ đàm báo cáo với ai đó.
- Đại tá!
Người lao đến Luân là Thạch.
- Trời ơi! – Thạch kêu thảng thốt.
Luân cười an ủi Thạch:
- Không có chi, chú đừng quýnh...
- Em bị ngăn bên ngoài, không sao vào được. Em toan đi gọi điện, nhưng an ninh quân đội đã buộc em bất động trên xe. - Thạch hổn hển phân trần, y như việc vừa xảy ra với Luân là do lỗi của anh ta.
- Trình đại tá, ông cố vấn muốn nói chuyện với đại tá! – Trần Văn Tư báo cáo.
Luân nghiêng đầu nhìn viên chỉ huy cảnh sát thành phố, bước ra cổng chùa – không phải đến máy bộ đàm nói chuyện với Nhu mà lên xe về nhà.
- Còn gì để nói? – Luân lẩm nhẩm.
Dung thức trắng canh chờ chồng. Cô khóc òa khi Luân xuất hiện ở cửa.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #26  
Old 12-08-2012, 12:28 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 7 - Chương 9

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 7 - Chương 9


Người đến chia buồn đầu tiên với Luân sau cái đêm hãi hùng ở chùa Xá Lợi là Trần Kim Tuyến. Thoạt nghe Thạch báo Tuyến xin gặp Luân, Luân và Dung hơi ngờ ngợ. Lẽ nào gã trùm mật vụ này dám vác mặt gặp Luân khi sự biến đẫm máu ở chùa Xá Lợi là công trình mà nếu gã không vạch kế hoạch và chỉ huy thì cũng đồng tình. Nhu định qua Trần Kim Tuyến, bày thêm trò gì với Luân đây? Luân là một nhân chứng và Nhu chắc chắn không thích thú về những nhân chứng cỡ Luân.
Sáng nay, Luân điện đàm với Nhu. Anh quyết định không nói chuyện với Nhu song chính Nhu gọi anh. Anh tóm tắt những gì anh thấy và bản thân là nạn nhân của trận càn quét hung bạo chưa từng có vào chùa chiền. Luân không dấu sự bực dọc và phê phán nặng lời hành động của chính phủ. Anh đã dùng cả từ “ngu xuẩn”, “man rợ” để chỉ vụ chùa Xá Lợi. Nhu trước sau im lặng. Câu hỏi duy nhất của anh ta liên quan đến sức khỏe của Luân rồi gác máy, lẩn tránh tranh luận.
Bây giờ, Trần Kim Tuyến đến.
- Ít nhất hắn cũng sẽ báo cho anh hay một chân tùy viên quân sự tại một sứ quán nào đó đang chờ anh, trong vòng 24 giờ nữa... - Luân bảo Dung.
- Có thể xấu hơn không?
Luân cười siết vợ vào ngực:
- Không... Bởi vì nếu Nhu định một biện pháp tồi tệ với chúng ta thì bác sĩ Trần Kim Tuyến không cần đến đây. Một vụ chùa Xá Lợi kiểu “bỏ túi” sẽ diễn ra, có khi cả vào ban ngày!
Thằng Lý thức giấc, nhoẻn miệng cười – nó cười tiếp với một bà tiên nó gặp trong giấc ngủ.
Luân cúi hôn con và hôn Dung.
Bác sĩ Trần Kim Tuyến đợi Luân ở phòng khách. Vẻ mặt bồn chồn của vị bác sĩ đứng đầu cơ quan mật vụ khiến Luân rút liền nhận xét: Anh đoán sai. Và, anh đoán sai thật.
- Tôi đến chào từ biệt ông bà kỹ sư... - Tuyến bắt tay Luân giọng rầu rầu.
- Thế nào? – Luân kinh ngạc đến sững sờ.
- Đây, ông kỹ sư đọc thì rõ.
Tuyến chìa cho Luân tờ giấy đánh máy:
“Nay bổ nhiệm bác sĩ Trần Kim Tuyến làm Tổng lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất (Ai Cập)”. Diệm ký quyết định, đề ngày 21-8, tức là hôm nay. Luân hoàn toàn không hiểu, thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến khả năng kỳ cục như vậy.
- Bác sĩ từ chức Giám đốc Sở Nghiên cứu chính trị. Tôi chưa nghe và cũng không thấy anh Nhu dự định, việc này...
- Tôi không từ chức. Tổng thống chấm dứt nhiệm vụ của tôi vào tối hôm qua.
- Tại sao?
- Ông Nhu giải thích: Tôi bị giới Phật giáo và cả người Mỹ buộc cho nhiều tội, tôi phải rời Sài Gòn.
Giọng Tuyến càng ngao ngán:
- Một Tổng lãnh sự mà phải rời thủ đô trong vòng 48 tiếng đồng hồ... Và, không cần biết chính phủ Le Caire chấp nhận hay không! Lối “thí tốt” của ông Nhu thật tàn nhẫn... Tôi còn quá ít thì giờ nên gặp ông kỹ sư. Tôi muốn trao đổi vài việc hệ trọng với ông...
Tuyến ngó quanh. Phòng khách chỉ có hai người. Luân cố suy đoán. Cử chỉ của Tuyến đặt cho Luân nhiều câu hỏi và câu hỏi quan trọng hơn cả là liệu Nhu và Tuyến đẩy anh vào cái bẫy rập gì. Tới giờ này, dù Tuyến cầm công lệnh đi làm Tổng lãnh sự - với Tuyến, một cuộc lưu đầy – Luân vẫn chưa thể nhẹ dạ tách hai người riêng lẻ. Trong đảng Cần Lao, Tuyến giữ ngôi thứ chỉ sau Nhu và Luân; còn trong quân đội, Tuyến – không mang quân hàm – là nhân vật quan trọng số hai của đảng: Phó quân ủy trung ương mà Luân chỉ là ủy viên. Từ năm 1955 cho đến nay, Nhu và Tuyến gắn bó như hình với bóng. Ý kiến của Nhu phải qua bàn tay của Tuyến mới trở thành hành động. Tuyến thuộc hạng ít nói, ít xuất hiện chính thức, song bộ máy mật vụ đầy quyền lực của Tuyến ám ảnh mọi nhân vật, kể cả nhân vật quan trọng. Chỉ cần một vài chữ nguệch ngoạc của Tuyến, mạng sống của bất kỳ ai đều được định đoạt trong nháy mắt. Tuyến khử hàng nghìn đối thủ của gia đình Diệm – Nhu bằng đủ biện pháp, chung lại là ám sát, còn cách thức thì muôn hình trạng, từ thuốc độc, bắn, đánh chết, chặt đầu đến cho cọp xé ở P.42. Hai hung thần ấy đâu dễ phân hóa, nhất là vào lúc chế độ nhà Ngô giống “nghìn cân treo sợi tóc” như hiện nay?
Tuyến chẳng khó gì mà không hiểu sự hoài nghi của Luân. Môi của tay trùm mật vụ nhếch cười chua chát, đôi mắt sau kiếng cận bừng lên ánh oán độc – không phải với anh Luân, rõ rồi.
- Ông kỹ sư chưa tin tôi... Và cũng khó tin thật. Không ai tin. Luôn tôi, tôi không tin sẽ có ngày này... - Tuyến nói, đều đều.
- Tôi phải rời đất nước, nếu không, sẽ là nạn nhân của chính bộ máy do tôi xây dựng. Sở Nghiên cứu chính trị bị thủ tiêu... Ông kỹ sư không biết sao?
Luân không biết. Tuyến chìa cho Luân một tờ giấy khác, cũng do Diệm ký, quyết định giải tán Sở nghiên cứu chính trị, với lý do “không cần thiết nữa”. Quyết định ký ngày hôm qua và ghi rõ “gửi các báo”.
Luân chưa đọc báo hôm nay.
- Báo đăng cả tin tôi được bổ Tổng lãnh sự. Mọi việc đã công khai hóa. Quân ủy cho phép tôi thôi nhiệm vụ. Ban chấp hành đảng cho phép tôi rút ra khỏi Trung ương... Tôi sụp đổ trước khi chế độ sụp đổ...
Thế mà Luân mù tịt. Nhu không bàn với anh một lời dù anh không phải là hạng “chạy hiệu” trong Trung ương Cần Lao. Giữa lúc anh rơi vào thế trận hỗn độn tại chùa Xá Lợi thì Nhu quyết định một loạt chủ trương. Như vậy – Luân nghĩ – không chỉ có anh lãnh một gậy vào gáy mà còn Tuyến. Anh trỗi dậy nổi, Tuyến phải đội nón ra đi. Trong trường hợp này, rõ ràng Nhu như con bệnh tiến gần đến chỗ hôn mê. Anh ta không đủ sáng suốt. Anh ta sợ Tuyến, sợ một kẻ rành nội bộ triều đình nhà Ngô như rành những sợi chỉ trong lòng bàn tay Tuyến. Bao giờ thì đến lượt Luân? Không! Nhu kiệt sức rồi, không thể cho anh đo ván, dù muốn chăng nữa.
Tuyến hăng lên – hiện tượng hiếm có – cắt dòng suy nghĩ miên man của Luân:
- Tôi tha thiết với công lao của chúng ta – ông Nhu, ông kỹ sư, tôi... Tôi không muốn thấy công lao ấy thành làn khói. Cái gì sẽ xảy ra nếu một cuộc đảo chính do ai đó chủ xướng và, nói thật, tôi không sợ sinh mệnh mình bị đe dọa mà đau lòng vì bước đường chống Cộng của chúng ta đi chưa trọn... Một cuộc đảo chính!
Tuyến nhấn mạnh “Một cuộc đảo chính” và dừng ngay đó. Luân hoàn toàn ý thức về một cuộc đảo chính khó tránh khỏi, ngày mai, ngày kia... Chế độ thúc đẩy đảo chính – đã như cơn dịch từ khi Nguyễn Chánh Thi đánh vào dinh Độc Lập – gấp rút chín muồi. Giờ thì khả năng đảo chính nhều hơn bất kỳ thời gian nào trước đây, có vẻ ai cũng có thể đảo chính, chứ không riêng gì lính Dù. Lực lượng đảo chính sẽ được dân chúng và giới Phật giáo coi như anh hùng cứu dân khỏi ách đàn áp khủng khiếp. Người Mỹ, với thói quen dùng đảo chính để răn dạy tay sai, không đời nào bỏ qua cơ hội. So với lúc Nguyễn Chánh Thi, ngày nay người Mỹ dấn sâu vào Nam Việt, nắm trong tay cả chiếc mũi của ông Diệm, nếu thấy cần thì bóp...
Luân và Tuyến không nói, mỗi người theo đuổi suy nghĩ riêng của mình.
Đã có thể kết luận được: Tuyến không làm trò cò mồi rẻ tiền cho Nhu. Hắn đang bất mãn – Luân nhủ thầm.
- Một cuộc đảo chính! – Tuyến nhắc lại, chấm dứt những phút im lặng nặng nề - Tôi không thích kẻ khác làm cuộc đảo chính ấy. Tại sao không phải chúng ta? Chúng ta không thiếu lực lượng...
Tuyến đi thẳng vào lý do mà ông đến gặp Luân.
- Một cuộc đảo chính? – Luân hỏi gặng, trong khi trong đầu óc anh lóe lên một loạt phương án hành động.
- Đúng, một cuộc đảo chính và đó là tình hình không thể khác. Chúng ta buộc phải lựa chọn, bởi vì đảo chính nhất thiết sẽ nổ ra: hoặc những tên dùng đảo chính để quét tất cả công sức của chúng ta hoặc chúng ta đảo chính để giữ và đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp mà chúng ta gắn bó bằng mạng sống... Ông Diệm, ông Nhu đã tỏ rõ thiếu năng khiếu chính trị, bất tài, thất đức. Phải thay thế nguyên thủ quốc gia. Và chỉ thay thế nguyên thủ quốc gia mà thôi...
- Ai sẽ thay thế? – Luân hỏi nghiêm túc, Tuyến nhận thấy người đối thoại quan tâm đến vấn đề mà ông ta đặt.
- Trước mắt, không thể không là một quân nhân. Một quân nhân được các tướng lĩnh nghe theo đồng thời người Mỹ cũng chấp thuận...
- Còn về lâu về dài?
- Ông kỹ sư thừa biết tướng lĩnh không cai trị được. Người cai trị phải đủ điều kiện chính trị... - Tuyến lập lờ.
- Bác sĩ nên nói thẳng. Tôi không thích úp mở. - Luân nói hơi cau mày.
- Với ông kỹ sư, không có gì gọi là bí mật trong quan hệ giữa ông và tôi. – Tuyến mau miệng – Người có đủ điều kiện chính trị hiện thời, theo tôi và theo một số đông bạn Mỹ mà tôi tiếp xúc, là ông!
- Tôi? – Luân cười mỉm.
- Tôi nói với trách nhiệm... Phải, ông! Đại sứ Mỹ vừa nhận chức nói thẳng với tôi như vậy.
Luân chợt nhớ lần trao đổi với Nhu, cách đây bảy, tám năm. Kiểu “luận anh hùng” của Trần Kim Tuyến đưa Luân lên mây xanh và trong bài toán của hắn, Luân chẳng qua cũng chỉ là một chất độn.
- Tôi nghĩ hơi khác. – Luân tiếp tục cười mỉm – Người có thể gánh vác trọng trách quốc gia hiện thời phải là bác sĩ. Tôi nói với tinh thần trách nhiệm. Tôi tự biết năng lực của mình...
- Ông kỹ sư khiêm tốn quá... Dĩ nhiên, tôi và nhiều người khác sẽ hết lòng cộng tác với ông kỹ sư... Ông kỹ sư là cái gạch nối quý giá giữa các thế lực, đảng Cần Lao và số cán bộ của ông Diệm, ông Nhu dễ dàng chấp nhận ông kỹ sư, người Mỹ thì dứt khoát rồi, giới Phật giáo không chống ông, các tướng lĩnh tin cậy ông... Sau đảo chính, ông kỹ sư sẽ nhận một trọng trách dân sự, tỷ như thủ tướng và sau đó, chúng ta lần lần điều chỉnh...
Tuyến nói y như ông ta là một phù thủy, tự bày binh bố trận. Tuy nhiên, Luân hiểu rằng Tuyến nuôi nấng ý định này từ lâu và đã xếp tới xếp lui nhiều lần các quân cờ, với sự gợi ý và tham gia của nhóm người Mỹ nào đó.
- Giả tỷ như điều ông nói là tất yếu xảy ra, số phận ông Diệm, ông Nhu ra sao? – Luân hỏi.
- Thiếu chi cách! – Tuyến nhún vai – Chủ tịch hội đồng cố vấn tối cao, nếu ông ta ở lại. Sang Pháp hoặc Mỹ đều trị bệnh gì đó. Tôi nói ông Diệm. Còn ông Nhu, đành phải lưu vong cùng bà vợ thôi!
- Tại sao bác sĩ thố lộ tất cả các cơ mật như vậy với tôi? – Luân hỏi đột ngột.
- Tôi chờ câu hỏi này của ông kỹ sư... Ông Diệm, ông Nhu hiểu ông có chừng mực. Tôi thì khác, tôi hiểu... Nói bấy nhiêu, có lẽ ông kỹ sư hết thắc mắc. – Tuyến đáp lại, rất bình tĩnh.
Tuyến bủa một cái lưới bí hiểm quanh Luân. Hắn hiểu mình như thế nào? Thằng cha láu cá thật...
- Tôi chưa hết thắc mắc, trái lại, thắc mắc thêm. Tôi và ông bác sĩ là yếu nhân của đảng Cần Lao cả hai đều có chân trong quân ủy...
- Đúng vậy! – Tuyến ngắt lời Luân – Ông cùng Nhu kiến tạo chủ thuyết Cần Lao. Hơn nữa, ông là con nuôi của Giám mục Ngô Đình Thục... Song...
Tuyến ngừng lại, ngó Luân. Đôi mắt của ông ta không có vẻ gì cận, linh hoạt hẳn. Luân không tránh, anh cũng ngó thẳng Tuyến. Chừng năm giây chậm chạp trôi qua.
- Song, ông từng đi kháng chiến, có đầu óc Quốc gia thực sự, không chấp nhận một chế độ độc tài. Ông không bán linh hồn cho ông Diệm, ông Nhu mà có chủ kiến riêng...
Luân chưa thể thở phào. Thằng cha láu cá này đưa dẫn Luân đến đâu?
- Tôi là mật vụ. Tôi theo dõi ông. Ông Nhu bảo tôi theo dõi ông về một hướng khác, tôi cần hiểu ông về hướng khác. Những ngày đầu ông về thành, tôi đặt máy ghi âm, bắt song đôi điện thoại, bố trí tài xế Vũ Huy Lục theo ông và nhiều cách khác, chắc ông chả lạ gì. Và, tôi nói thật, không phải tôi không nắm trong tay một số bằng chứng mà tôi tin là ông không chối cãi nổi về những dính dáng của ông với phía bên kia... Trường hợp Vũ Huy Lục, chẳng hạn! Vũ Huy Lục không chết mà đã gặp ông – nơi gặp thì tôi không rõ song ông ngồi trên xe Lục lái, tôi có ảnh!
Luân như nghẹt thở. Khủng khiếp quá. Trong một thoáng, anh nghĩ phải bắn chết ngay tên trùm mật vụ này. Tuyến có vẻ chẳng để ý đến phản ứng của Luân, nói tiếp, giọng đều đều:
- Không chỉ vụ Lục, tôi hoài nghi khi ông tổ chức tự vệ Bình Dương, xử lý nhiều trường hợp ở Kiến Hòa và tôi biết chắc – tiếc là không có bằng chứng – ông quan hệ với một phụ nữ tên Mai, người đứng đằng sau trận ném bom dinh Độc Lập năm ngoái. Tôi không nói việc ông tiếp đại úy Phan Lạc và giúp gã vượt biên giới – ông khôn ngoan nhờ ông Nhu cho phép gã vượt biên giới một cách công khai, có đủ lý lẽ. Phan Lạc cùng một số sĩ quan Cộng hòa đã liên minh với Việt Cộng. Hôm nay, khi tôi định bàn với ông chuyện lớn của đất nước thì không cần giấu giếm: tôi từng định “khử” ông.
Thời gian cho phép tôi cộng một loạt hiện tượng về ông và tại sao tôi để cho ông sống? Đơn giản thôi, chỉ cần tôi báo cho tất cả nghi vấn cùng vài bằng chứng với ông Nhu, ông sẽ nằm dưới P.42...
Nhưng đó đâu phải là chuyện của tôi? Nói thật chính xác, từ trước vụ ném bom dinh Độc Lập, tôi chưa hội đủ tài liệu về ông. Lúc đó, nếu tôi hiểu về ông như sau này thì nhất định tôi đã ra tay. Lúc đó, tôi không như từ đó về sau... Từ đó về sau, tôi thay đổi. Tôi không thích chết chùm cùng gia đình ông Diệm, không thích chết mà mang tiếng xuẩn ngốc. Tôi bắt đầu phân tích về ông và vỡ lẽ rằng, ông giác ngộ sớm hơn tôi. Ông sửa soạn khá kỹ, không phải phao để tự cứu lúc đắm đó, mà cả một phương lực khả dĩ tạo vị thế mới cho Việt Nam Cộng hòa... Ông giữ liên lạc với phía bên kia vừa mức khiến họ ảo giác về ông, ông tham gia nhiệt liệt vào chế độ ông Diệm mà vẫn giữ khoảng cách trước công luận, ông xây dựng lực lượng, ông tiếp xúc với người Mỹ mà không lọt vào cái thòng lọng CIA, ông giữ cảm tình với phái trung lập thân Pháp cả với Sihanouk... Tóm tắt, ông là một con người chiến lược, nhìn xa, tính rộng. Ngay việc ông lưu ân tình với Lại Văn Sang cho thấy, không phải bây giờ như tôi, mà từ khi hợp tác với chế độ, ông đã “phân thế”, dự kiến... Tôi hiểu ông như vậy. Tôi đảm bảo rằng người Mỹ cũng hiểu ông như vậy...
Luân cố qua lời nói, nét mặt của Tuyến để đo độ thành thật của hắn.
- Tôi và ông, nếu còn chỗ chưa đồng nhất thì chỗ đó là thời gian xử sự. - Tuyến nói tiếp – Tôi thấy không thể chần chờ. Đảo chính là cái không sao tránh khỏi, vấn đề sống chết đối với chúng ta không phải có đảo chính hay không mà ai đảo chính. Ai đảo chính có lợi nhất? Đảng Cần Lao đảo chính là có lợi nhất... Giáo sư Fishell nghiên về hướng đó. Ông kinh ngạc về Nolting? Nolting nói riêng với tôi sau khi chia tay. Ông ta tuy vẫn luyến tiếc những lần đi lại với Trần Lệ Xuân song không mù quáng. Tôi hỏi ông ấy: Đã ướm thử đại tá Luân chưa? Ông ấy nhún vai: Đại tá Luân sẽ nổi giận. Nolting vừa rời nước ta mấy hôm nhưng tôi tin là ông kỹ sư không nổi giận. Mọi tệ hại đã phơi bày. Tình hình đòi chúng ta hành động...
*
Đúng, tình hình bao quát của miền Nam Việt Nam vụt qua trong trí Luân. Cái “có lợi nhất” của Tuyến và của Luân không giống nhau. Nhưng Tuyến rất đúng khi nhấn mạnh rằng “đảo chính là không tránh khỏi”. Ngày càng lộ rõ những dấu hiệu đảo chính. Về cơ bản, mọi đổi thay bộ máy chính trị ở miền Nam đều phải có ý kiến của Mỹ. Tuy nhiên, Luân đánh giá ảnh hưởng của Mỹ còn mức độ - chưa hoàn toàn chi phối mọi ngóc ngách của tình thế và chưa nắm tuyệt đối mọi lực lượng chống Diệm. Bàn tay CIA thọc khá sâu vào các lĩnh vực nhưng có sự có mặt chưa đến hai chục nghìn sĩ quan và binh lính Mỹ còn mỏng để Mỹ giựt dây – kẻ lãnh dollar Mỹ và sẵn sàng làm bất cứ điều bại hoại nào, lại hoặc giữ vị trí khiêm tốn trong chế độ Diệm, hoặc chỉ như con rối, hò hét các khẩu hiệu mà không có thực lực: kẻ tuy đi với Mỹ mà lòng vẫn vương vấn Pháp, số này thật sự nắm binh quyền; kẻ đáng ngờ về những dính dáng với Cộng sản kể cả dưới hình thức tình cảm bè bạn, gia tộc... Cuộc chống đối giới Phật giáo cung cấp cho Mỹ cơ hội nghìn vàng. Song CIA thừa biết, tay sai của chúng chỉ là số ít. Trong lần James Casey gặp anh gần đây nhất, anh hiểu Mỹ không phải đắn đo mặc dù chế độ Diệm sống nhờ dollar Mỹ, cắt đứt viện trợ kinh tế tức bóp mũi Diệm, song Diệm sẽ giãy giụa, rất không có lợi cho Mỹ.
- Đại tá nhìn phong trào Phật giáo hiện nay như thế nào? – James Casey hỏi Luân, và không đợi Luân trả lời, y nói luôn – Tôi rất ngại Phật giáo đi chệch con đường mà họ chọn... Con đường đòi hỏi bình đẳng tôn giáo. Khá nhiều nhà sư tán thành – tán thành kín đáo thôi – Mặt trận Giải phóng. Chiều hướng có thể xấu nếu các nhà sư ấy giữ vai trò chi phối phong trào giáo hội, họ khá đông và uy tín lớn. Tôi có đủ tài liệu về nhà sư Thích Quảng Đức, ông ta là một phần tử ít nhất cũng không chống Cộng. Tôi cũng có đủ tài liệu về nhà sư Thích Thiện Hoa, Thích Thiện Hòa, Thích Trí Tịnh, bà Huỳnh Liên v.v... Những nhà sư này được ông Thích Tịnh Khiết, ông Thích Đôn Hậu và các ông lãnh đạo tinh thần cao cấp của Phật giáo trọng vọng...
Luân xen vào:
- Còn các ông Thích Tâm Châu, Thích Đức Nghiệp, Lâm Em, Thích Tâm Giác, Thích Nhất Hạnh, Thích Huyền Quang...
- Ôi chà! – James Casey xua tay – Nếu kể hạng đó thì quá số cần thiết! Tôi nói chuyện nghiêm chỉnh với đại tá. Ngay Thích Hộ Giác, tôi mách riêng với đại tá, bố ông ta là một thủ lĩnh Phật giáo tên Thiện Luật, thân Cộng ra mặt! Một biến động xuất phát từ sự chống đối của Phật giáo rất dễ trở thành liên minh giữa tín đồ, các nhà sư đầu óc quốc gia với Việt Cộng. Tôi không thổi phồng nguy cơ đâu...
James Casey thuyết phục Luân nên tìm cách tác động Diệm, Nhu sửa soạn nhanh đường lối chính trị, James Casey thừa nhận Mỹ còn do dự vì thế lực của Mỹ trong Phật giáo chưa đủ liều lượng cho một đột biến.
Cũng như Trần Kim Tuyến, Luân băn khoăn về cái nút: ai đảo chính. “Ai đảo chính” sẽ quyết định bước phát triển sắp tới của miền Nam.
Luân nhớ một tài liệu mật do anh Sáu Đăng gửi vào. Tài liệu mật đó là bức điện của đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn gửi Ngoại trưởng Mỹ Dean Rusk đề ngày 12-5-1961, sau chuyến Phó tổng thống Mỹ L.B. Johnson thăm Sài Gòn: “Tướng Mac Garr và tôi có mặt tại các cuộc thảo luận giữa Diệm và Phó tổng tống về việc đưa các lực lượng Mỹ vào Việt Nam. Diệm nói với Phó tổng thống rằng hắn ta không muốn quân chiến đấu Mỹ đánh nhau ở Nam Việt trừ phi miền Bắc công khai vượt vĩ tuyến 17”.
Một tài liệu mật khác – cũng của anh Sáu Đăng – là báo cáo của Johnson gửi Kennedy, có đoạn: “Việt Nam giữ vai trò quyết định cơ bản tình hình Đông Nam Á trong thời điểm hiện nay và chưa ai đoán đến bao giờ thì vai trò đó sẽ giảm nhẹ. Chúng ta phải quyết định hoặc giúp đỡ các nước Đông Nam Á hết khả năng của chúng ta hoặc chịu thua ở khu vực này, kéo lùi đường phòng thủ của chúng ta về tận San Francisco và với khái niệm “nước Mỹ phòng ngự”. Quan trọng hơn, chúng ta sẽ nói với thế giới rằng đừng trông cậy ở chúng ta như họ từng trông cậy vào lúc Triều Tiên... ”
Nolting đã làm công việc gây sức ép, qua cả Lệ Xuân. Sự việc này thì Luân nắm chắc. Do đó ngày 13-10-1961, Diệm miễn cưỡng yêu cầu Mỹ gửi thêm lực lượng chiến đấu vào miền Nam. Diệm và Nolting thống nhất: lực lượng có giới hạn dưới một vạn và phải đưa vào hết sức bí mật. Robert, Mac Namara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và tướng Taylor, cố vấn quân sự của Tổng thống Mỹ đến Sài Gòn, kết quả là Taylor đề nghị gửi ngay, dưới danh nghĩa “cứu trợ nạn lụt” ở Trung phần Nam Việt từ 8.000 đến 10.000 quân Mỹ, tất cả đặt dưới sự quản lý và điều khiển của CIA. Cửa đột phá đã mở. Đến nay, 18.000 quân Mỹ có mặt ở Nam Việt, mặc dù như tin tình báo Mỹ mà Luân nắm, Nolting thẳng thừng bác con số quân Mỹ quá lớn đó và ngay trong Nhà Trắng, Roger Hillsman cũng phản đối Kennedy cho rằng “cần cứu Diệm” bằng cách đưa quân Mỹ vào Nam Việt. Bạn thân của Kenendy, đại sứ Mỹ tại Ấn Độ John Kenneth Galbraith không tán thành Mỹ tiếp tục ủng hộ Diệm. Helen Fanfani đã hé cho Luân biết tin này: Galbraith cho rằng Diệm là tên độc tài non choẹt, cùng với em trai điều khiển công việc Nhà nước bằng cảnh sát, thích củng cố quyền lực gia đình hơn là theo đuổi lý tưởng Quốc gia và giải pháp tốt nhất là loại Diệm. Kennedy đã nghĩ đến khả năng cử Galbraith hội đàm với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa song Dean Rusk lại tin là tình hình chưa xấu đến như vậy.
Mac Namara và Taylor lại được Kennedy cử sang Sài Gòn. Luân chẳng rõ hai người đã phúc trình như thế nào với Kennedy nhưng Fanfani cho anh biết rằng cả hai đều bi quan...
- Tôi đoán Tổng thống Mỹ đã tiến hành nhiều phiên họp thu hẹp của Hội đồng an ninh quốc gia để bàn việc thanh toán ông Diệm. – Trần Kim Tuyến nói – Cơ sở cho phép Mỹ định các biện pháp là lời hứa của một số nhà sư. Tôi có tài liệu: Thích Tâm Châu hứa nếu Mỹ lật ông Diệm thì Mỹ có thể đưa bao nhiêu quân vào Việt Nam tùy ý. Cũng theo Thích Tâm Châu, sau khi ông Diệm bị lật có khả năng Mỹ không cần thêm quân: một chính phủ được lòng dân đảm bảo công cuộc chống Cộng tiến triển tốt đẹp, thậm chí các đồng chí của Thích Tâm Châu đảm bảo “Bắc tiến”... Ta phải tranh thủ hành động nhanh hơn các thế lực khác. Tướng Big Minh còn nghiêng ngả. Tướng Tôn Thất Đính tuy bảo vệ ông Diệm song nếu lực lượng của ta hành động, ông ấy sẽ nhập bọn thôi... Rất tiếc, tôi phải rời Sài Gòn. Tôi bày tâm sự với đại tá vì tôi chưa bao giờ xét lầm người. Đại tá thay tôi nắm các đầu mối và tùy nghi hành sự. Tôi bí mật trú tại Băng Cốc và giữ liên lạc chặt với đại tá...
- Đồng thời, giữ liên lạc chặt với Phân cục tình báo Mỹ. - Luân bổ sung, hơi cười.
- Tất nhiên! – Tuyến mau lẹ xác nhận – Đại tá thừa hiểu nếu người Mỹ không ôkê thì chớ hòng có một cải cách nhỏ, đừng nói đảo chính. Người Mỹ không ôkê, không có Nguyễn Chánh Thi, không có Nguyễn Văn Cử và cũng không có nốt Thích Tâm Châu...
- Người Mỹ? – Luân châm biếm – Đến mấy “người Mỹ”? Đến mấy CIA?
- Cánh Fishell mạnh nhất thế giới hiện nay!
- Chưa chắc! Tôi rất ngại Cabot Lodge. Ông ta không ưa Fishell...
- Sau lưng Fishell là Mac Namara!
- Sau lưng Cabot Lodge là Kennedy! Và, tôi nghĩ còn một nhân vật nữa mà bác sĩ không nhắc, một nhân vật người Việt Nam thèm đảo chính hơn tất cả...
- Đại tá muốn nói Mai Hữu Xuân? Không sợ! Gã chẳng có lực lượng. Phòng Nhì Pháp không đủ lực lượng...
- Ông bác sĩ! Nếu trong tính toán của ông có chỗ nào chưa ổn thì chỗ đó là Mai Hữu Xuân...
- Thôi được, tôi sẽ bổ cứu sau... Tôi ít thì giờ quá. Ta hãy đi vào kế hoạch cụ thể...
Trần Kim Tuyến thấp giọng.
*
Sau khi tân đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge đến Sài Gòn, một tuần lễ sau buổi tiễn đưa lưu luyến cựu đại sứ Nolting tại Phủ tổng thống, tình hình thủ đô Nam Việt như sợi dây đàn lên thật căng. Ngay trong vụ Xá Lợi, gần sáng, Ngô Đình Diệm triệu tập hội đồng chính phủ để thông báo quyết định của cá nhân ông ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn lãnh thổ, giao quân đội giữ an ninh trật tự. Người phản đối tổng thống là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu. Ông Mẫu trình bày vắn tắt quan điểm của ông: hành động vũ lực của chính phủ sẽ khiến cái hố ngăn cách giữa chính phủ và Phật giáo càng thêm sâu. Không phải không có người nghĩ như ông Mẫu, song chẳng ai dám hó hé: Tổng thống đằng đằng sát khí. Ông Mẫu trình với Tổng thống: ông xin từ chức để cá nhân ông không dính đến, theo ông, một “sai lầm chết người”. Người ta chờ một sự trừng phạt sấm sét của ông Ngô Đình Diệm. Diệm tái mặt, ngó trừng trừng Vũ Văn Mẫu – điều rất khác thường đối với Diệm; ông ta ít ngó thẳng mặt người đối thoại. Nhưng, Diệm chỉ nói: Tôi đồng ý nhưng giáo sư phải xử lý Bộ Ngoại giao một lúc, chúng tôi bổ nhiệm người thay. Hẳn không vì Diệm sợ Mẫu, song với một nhân sĩ từng cộng tác với chế độ bảy, tám năm trời, Diệm thấy không tiện đối xử thô bạo.
Do vậy, khi Mai Hữu Xuân, bao giờ cũng rất thính mũi trước các sự kiện, mới 6 giờ sáng, xin gặp riêng Diệm – và được Diệm cho gặp – đã cung cấp nhiều tài liệu về Vũ Văn Mẫu, Diệm không nghe. Xuân báo với Diệm: Vũ Văn Mẫu là bạn cột chèo với luật sư Hoàng Quốc Tân mà Tân là cán bộ Cộng sản. Diệm hỏi lại: Thế, trường hợp nào ông sẽ bảo với tôi ông Tân là con cháu Hoàng Trọng Phu, Hoàng Cao Khải? Ông nên nhớ luật sư Trần Văn Chương là thông gia với chúng tôi...
Sáng hôm sau, Vũ Văn Mẫu xuống tóc, bày tỏ cái thái độ đứng về phía Phật giáo. Ngày hôm sau nữa, đại sứ Trần Văn Chương bị Diệm chấm dứt nhiệm vụ tại Washington.
Phi cảng Tân Sơn Nhất, do lệnh giới nghiêm, ngừng hoạt động. Tuy nhiên, chuyến máy bay chở đại sứ Cabot Lodge đã phá cả lệnh giới nghiêm ấy. Các nhà báo, phần lớn Mỹ và nước ngoài – chực khai thác vài lời của đại sứ - nhưng Cabot Lodge, không cười, nói cộc lốc: Không có gì để tuyên bố!
Chế độ Sài Gòn đón tân đại sứ bằng một loạt biện pháp mà qua chúng, ai cũng hiểu Diệm muốn nhắn với Mỹ: Sài Gòn không nhượng bộ Phật giáo – nên hiểu là không nhượng bộ sức ép của Mỹ, Bộ giáo dục đóng cửa tất cả các trường học kể từ 24-8. Ngày 29-8, hằng mấy vạn học sinh sinh viên biểu tình phản đối lệnh đóng cửa trường học, khi tập trung tại bùng binh chợ Bến Thành thì cảnh sát vũ trang xông vào giải tán. Một trận chiến bùng nổ - bùng nổ dữ dội. Học sinh, sinh viên dùng đá, gậy chống lại dùi cui. Nữ sinh Quách Thị Trang bị cảnh sát đâm chết. Gần 2.000 học sinh, sinh viên bị bắt, đưa thẳng lên Quán Tre, trại huấn luyện này biến thành nhà tù khổng lồ mà cai tù là tướng Trần Tử Oai – ông ta bắt số học sinh sinh viên phơi nắng, phơi mưa, nhịn đói theo chỉ thị trực tiếp của Nhu.
Buổi trình ủy nhiệm thư của Cabot Lodge ở Phủ tổng thống trùng với lễ cầu siêu cho Quách Thị Trang ở khắp các chùa.
Sau phần nghi thức, Diệm và Cabot Lodge trao đổi ý kiến. Diệm chờ Cabot Lodge phàn nàn trút cơn giận dữ lên chính phủ Mỹ, nhưng Cabot Lodge hoàn toàn giữ buổi trình ủy nhiệm thư trong khuôn khổ xã giao.
Ông ta chuyển đến tổng thống Nam Việt lời chào và chúc sức khỏe của Tổng thống Mỹ. Diệm cũng làm như vậy, thêm vài câu chúc tân đại sứ đóng góp hữu hiệu vào mối quan hệ thân hữu giữa hai quốc gia. Điều duy nhất mà Diệm nhắc là ông ta mong Cabot Lodge tận tụy và khách quan như cựu đại sứ Nolting. Đáp lại, cũng là điều duy nhất mà Cabot Lodge gợi ý là chính phủ Việt Nam Cộng hòa nên “thắt chặt khối đoàn kết quốc dân chung quanh Tổng thống”. Chẳng rõ có phải vì gợi ý của Tổng thống hay không mà mấy hôm sau, báo chí đưa tin Ngô Đình Diệm viếng một ngôi chùa ở Phú Nhuận. Cử chỉ rất tượng trưng này của Diệm lọt tỏm giữa một tràng biến cố ồn ào: Vương quốc Cambốt tuyên bố đoạn giao với Việt Nam Cộng hòa; Vũ Văn Mẫu hành hương sang sứ Phật Ấn Độ, chùa Xá Lợi được giải tỏa nhưng chính phủ cử một ban quản trị mới thuộc Hội phật học Nam Việt giữ chùa. Tổng trấn Tôn Thất Đính cho biết số học sinh, sinh viên giam ở Quán Tre đã được trả tự do, trừ vài người. Chính phủ hình như quyết định phản công bằng chính trị: Thanh niên, Thanh nữ cộng hòa biểu tình lớn ủng hộ chính phủ và Tổng thống; các trường trung học mở cửa lại... Quần chúng vẫn có cách phản ứng: học sinh các trường lớn như Trưng Vương Võ Trường Toản... không chịu đi học.
*
Ngày 2-9, vào buổi chiều, một chiếc xe Ford dừng trước nhà Luân. Xe mang số tư nhân, không có hộ tống. Thạch mở cổng cho Luân đi làm về, vừa thay quần áo, đang đùa với bé Lý và chờ Dung còn ở nơi làm việc. Khách vào nhà, tất cả bốn người – đều là người Mỹ. Ba dừng ngoài sân, một bước nhanh lên bậc thềm. Khách cao quá khổ, mặc bộ tropical xám tro. Khách là tân đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge.
- Xin lỗi đại tá, tôi đường đột đến nhà riêng đại tá mà không xin phép. Tôi không muốn cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta bị nhà báo lợi dụng.
Cabot Lodge chìa tay. Luân hơi bối rối vì bộ quần áo mặt trong nhà của anh.
- Đại tá khỏi thay quần áo. – Cabot Lodge hiểu liền sự bối rối của Luân – Ta nên xem nhau như bạn... Hẳn là bà đại tá đi làm chưa về.
Cabot Lodge không đợi Luân mời, đã ngồi xuống ghế, sau khi vuốt tóc bé Lý:
- Chà, chú bé Lý kháu quá! – Cabot Lodge khen.
“Gã biết về mình khá rõ!” – Luân nghĩ – “Gã biết chăc giờ này mình có ở nhà, Dung chưa về, biết cả thằng bé Lý”.
Chị Sáu mang nước.
- Chào chị Sáu! – Cabot Lodge nói và Luân dịch lại. Chị Sáu ngỡ ngàng buột miệng:
- Vì sao ông đại sứ biết thứ của tôi?
Luân chưa kịp trả lời thì Cabot Lodge đã nói:
- Có phải bà ta ngạc nhiên vì tôi gọi đúng tên của bà ta? Tôi còn biết người mở cổng tên Thạch, quê Chợ Gạo, tức là một vùng quê thuộc châu thổ sông Cửu Long, còn biết bác sĩ Soạn, biết kỹ sư Gustave...
Nói xong Cabot Lodge cười ha hả.
“Ngón đòn phủ đầu đây!” – Luân nhận xét.
Luân hiểu về Cabot Lodge cũng không kém. Anh bắt đầu nghiên cứu về tay chính khách cỡ bự này khi gã xuất hiện trong các cuộc vận động tranh cử bên Mỹ.
Henry Cabot Lodge Jr, sinh ở bang Massachusetts, năm nay 61 tuổi, vợ là Emily Sears, hai con – Georges Cabot và Henry Sears – thuở nhỏ học ở Boston, quê nhà, tiến sĩ văn chương Đại học Laval ở Canada, dạy học ở nhiều trường, viết các báo lớn ở Mỹ như Boston Evening Transcrift, New York Heral Tribune, Time, Life, Fortune magazines, Tổng giám đốc Viện nghiên cứu Đại Tây Dương, thượng nghị sĩ bang Massachusetts, đại diện Mỹ trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc từ năm 1953 đến 1960... Tóm lại, một nhân vật nặng ký so với các đại sứ Mỹ tiền nhiệm ở Việt Nam Cộng hòa. Rõ ràng, Kennedy “xuất chủ bài” để đối phó với tình hình đã sấn sâu vào rối loạn ở Sài Gòn. Và, Kennedy cũng ít nhiều có ẩn ý: Cabot Lodge là lãnh tụ đảng Cộng hòa, thôi thì các anh Cộng hòa ó ré về chính sách của chính phủ Mỹ thuộc đảng Dân chủ ở Viễn Đông, mời các anh tự tay giải quyết!
- Chúng ta bắt đầu, được chứ?
Cabot Lodge hỏi, không cần Luân đồng ý, nói luôn:
- Đại tá hãy tìm hiểu sau, hoặc tôi sẽ nói nhờ đâu tôi nắm các chi tiết quanh đại tá... Tướng Collins, đại sứ Rheinardt, Durbrow, và – Cabot Lodge bỗng cười nụ - Tướng Jones Stepp đều dặn tôi: người Việt Nam đầu tiên mà tôi cần gặp ở Sài Gòn là đại tá... Tất nhiên gặp theo cái nghĩa trọn vẹn, chứ tôi đã gặp tại sân bay Tân Sơn Nhất Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Ngoại trưởng Mẫu – gặp tôi xong, ông Mẫu xuống tóc và tôi phải thanh minh rằng hành động của ông Mẫu không hề liên đới một tí gì với tôi – và đã trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống Diệm... Tiện thể, xin báo cáo với đại tá tin vui: tướng Jones Stepp và phu nhân, bà Saroyan ấy mà, sắp sang Sài Gòn...
Luân vui thật. Thế là Saroyan giữ lời hứa. Có Saroyan lúc này, lợi cho công việc của Luân. Cabot Lodge đánh giá vẻ rạng rỡ của Luân theo hướng khác:
- Tướng Jones Stepp quí đại tá, qua phu nhân... Và, mọi quý trọng đều có giới hạn.
Luân không cần cãi lại. Anh hiểu Saroyan hơn là Cabot Lodge. Trong khoảnh khắc, công vụ lùi xuống hàng thứ yếu và Luân xót xa. Saroyan có quyền có một người chồng mà cô ấy yêu, còn việc cô ấy nhận lấy Jones Stepp, tuổi đáng bố cô, thì vì Luân...
- Theo đại tá, tình thế Nam Việt hiện thời ra sao? – Cabot Lodge đi vào trung tâm của cuộc gặp gỡ không hẹn này.
- Xấu... rất xấu! – Luân trả lời gọn.
- Xấu theo nghĩa nào?
- Theo nghĩa, tiềm lực đoàn kết quốc gia bị phá hoại nặng nề, chính phủ đối địch với dân chúng...
-... Và tạo cơ hội cho Cộng sản thu thắng lợi? – Cabot Lodge nói xen.
- Hậu quả đó là tất nhiên...
- Đại tá thấy có lối ra không?
- Chỉ thấy có sự phức tạp!
- Đâu đến bi quan như thế? Bác sĩ Trần Kim Tuyến gặp tôi... - Cabot Lodge nhìn chằm chằm vào mặt Luân – Chỉ 15 phút thôi, tôi thấy ông Tuyến không bi quan!
- Bi quan hay lạc quan là khái niệm và cảm thụ có thể của từng người, ông Diệm đang lạc quan đấy... Nhưng, trên lợi ích rộng lớn, ai cũng phải đắn đo, nhất là vị đại diện cho nước Mỹ. Có lần, tôi hỏi đại sứ Frederick Rheinardt: liệu người Mỹ định đưa bao nhiêu quân vào Nam Việt?
- Đại sứ Rheinardt trả lời như thế nào?
- Đại sứ lắc đầu.
- Tôi không khác ý đại sứ Frederick Rheinardt. Nếu đại tá nêu câu hỏi như vậy, tôi cũng lắc đầu. Tôi cho là 18.000 người Mỹ ở đây là thừa. Tôi muốn giảm...
- Một nguyện vọng lành mạnh! – Luân kêu lên. - Song thưa đại sứ, chỉ là nguyện vọng. Tôi muốn nhân dịp này xét duyệt, cùng đại sứ, một vài tấm gương. Ta hãy soi gương người Pháp... Được chứ?
- Tốt! Mời đại tá... Người Pháp ở Đông Dương?
- Không! Người Pháp ở Algérie. Bài học Đông Dương mà người Pháp rút ra là: phải có quân số đông hơn đối phương mới hòng chiến thắng. Họ đã nhân lý thuyết của Mao Trạch Đông lên gấp mấy lần – Mao bảo 3 đánh 1, người Pháp theo công thức 11 đánh 1: 760.000, để đè bẹp 65.000 quân kháng chiến Algérie. Đánh nhau 8 năm, mỗi ngày Pháp tốn 15 triệu franc. Đến hai cuộc phản nghịch trong nội bộ Pháp, rất hiếm đối với các nước văn minh phương Tây. Tướng Salan và Massu dù bị trừng phạt, nước Pháp vẫn lao đao, nền Đệ tứ cộng hòa sụp đổ... Có thể nói là nước Pháp đã thắng bằng quân sự ở Algérie nhưng rồi người Pháp phải ra đi, đi vĩnh viễn...
- Tôi hiểu ý đại tá. Còn tấm gương nào nữa?
- Hy Lạp... Thống chế John Harding của Anh có những 4 vạn quân trong khi cách mạng Hy Lạp chí có 300 quân, dưới quyền của đại tá Grivas...
- Và, người Anh đã thắng!
- Đánh nhau 5 năm... Quân số thay đổi, người Anh sắp thua nếu không có ván bài chính trị... Đúng, người Anh đã thắng, nhưng không thắng bằng quân sự... Đáng tuyên dương không phải John Harding, mà cơ quan tình báo Anh!
- Cứ cho đại tá có lý, Nam Việt thì sao?
- Đại sứ đã đọc bài South Vietnam’s international problems (1) đăng trong Pacific Affairs, số tháng 9-1959, của Bernard Fall chưa?
- Rất tiếc...
- Giáo sư Bernard Fall do khối SEATO thuê nghiên cứu công trình “Sự thâm nhập của Cộng sản vào khu vực”. Ông ta trình cho SEATO một lô nhận xét, đáng để ý là, Nam Việt đã bị bao vây và chia cắt bởi trong một thời gian ngắn, Cộng sản đã thủ tiêu các nhân viên cai trị của chính quyền Sài Gòn thuộc cấp xã. Phát hiện của Bernard Fall dẫn đến thông điệp liên bang của Tổng thống Kenendy tháng 5-1961 nói cụ thể con số cán bộ xã của Việt Nam Cộng hòa bị loại là 4.000 trong một năm và, ngài đại sứ chắc đã rõ, tướng Taylor sang Việt Nam, tiếp theo, sự can thiệp quy mô lớn của Mỹ. Với sự can thiệp đó, 10.000 trưởng ấp bị thủ tiêu. Vậy thì, ta cứ làm con toán nhỏ: bảo vệ 4.000 viên chức cần 18.000 nghìn lính Mỹ, bảo vệ 10.000 trưởng ấp cần 45.000 lính Mỹ. Và ai đoán nổi con số trưởng ấp sẽ bị loại lên đến bao nhiêu? Cái cớ thì đơn thuần tưởng tượng, còn biện pháp thì hao tốn khôn lường...
- Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau. Cho nên tôi đã gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến.
“Gã mật vụ này thố lộ cái gì với Cabot Lodge?”. Luân huy động tất cả mọi thứ mà anh có: phản xạ, ấn tượng, bộ nhớ...
- Bác sĩ có đến từ giã tôi... - Luân tự chọn được phương pháp.
- Tôi biết... Bác sĩ Tuyến thông báo với tôi về cuộc gặp gỡ đó, và khuyên nên sớm làm quen với đại tá. Theo bác sĩ Tuyến, lối thoát ở Nam Việt dính dáng – không phải dính dáng mà tùy thuộc đại tá... - Cabot Lodge nói rất nghiêm chỉnh.
Luân vụt cười to:
- Ông Tuyến thổi phồng tôi đến nổ tung mất! Tôi là cái gì để xoay chuyển tình thế?
- Đại tá Luân, ông đừng cười! Ảnh hưởng của ông đối với ông Diệm thật quan trọng. Tôi muốn ông giải bày cặn kẽ các mặt lợi hại cho ông Diệm nghe. Ông bà Nhu nên rời Việt Nam. Chỉ bấy nhiêu thôi, chúng tôi lãnh phần thu xếp với Phật giáo. Đừng để quá muộn. Đừng để phong trào Phật giáo vượt khỏi khuôn viên nhà chùa, đừng để đám thanh niên quá khích – không thể không chú ý một bộ phận của đám này chịu tác động của Cộng sản – chiếm mặt bằng của phong trào... Nếu cần một sức ép, tôi xin hứa với đại tá. Ông Tuyến dự định một kế hoạch, tôi không phản đối...
Thế là Luân yên tâm. Tuyến không hé với Cabot Lodge những điều gã thì thầm vào tai Luân.
- Tôi thử cố gắng... Tuy nhiên, tôi không hy vọng.
- Cứ cố gắng! Ông Diệm cần hiểu chính phủ Mỹ làm mọi việc để tránh cho ông ta một thảm cảnh. Phần đại tá, chúng ta còn tiếp xúc nhiều lần. Những ngày sắp tới không nhẹ nhàng với đại tá.
Cabot Lodge cho số điện thoại riêng.
- Đại tá gọi, tôi sẽ đích thân nói chuyện với đại tá. Chỉ có tôi thôi!
Cabot Lodge ra về. Luân tiễn khách xong, thay quần áo, dặn chị Sáu bảo Dung ăn cơm trước, hôn thằng Lý rồi lên xe vào Phủ tổng thống.
“Mỹ vẫn còn do dự!” - Luân kết luận – “Phải sửa soạn hết sức đề kháng từ phía Diệm. Sức đề kháng mạnh, kéo dài đến đâu, cách mạng khai thác thời cơ thuận lợi đến đó... ”
*
Nhu tiếp Luân lạnh nhạt. Luân làm vẻ chẳng để ý đến sự cư xử khác thường của Nhu. Anh quyết định thuật tỉ mỉ cuộc nói chuyện với Cabot Lodge, trừ phần liên quan đến Trần Kim Tuyến. Nhu cau mày và sau đó, đưa Luân vào phòng làm việc của Diệm.
Diệm phờ phạc hẳn. Ông ta bắt tay Luân hời hợt rồi lặng lẽ nghe Nhu. Nhu thuật khá đủ, Luân khỏi báo cáo thêm.
- Chi mà thảm họa? – Diệm nổi nóng – Thằng ni chẳng am tường tình hình, lại quen phách lối, lãnh tụ đảng Cộng hòa mà như rứa!
Nhu và Luân chào Diệm, sang phòng Nhu:
- Tổng thống dạo này hay cáu gắt... Việc nước rối rắm mà – Nhu mời Luân ngồi.
- Anh Luân này, tôi dự kiến một cú...
“Cú” dự kiến là Nhu cho nổ ra một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ với lý do chính phủ bất lực trong nội trị để giới Phật giáo lộng hành. Cuộc “đảo chính” không đụng đến tổng thống nhưng thành lập một “Nội các cứu quốc”, Nhu nắm quyền quân sự, an ninh...
“Như vậy là liều thuốc “giới nghiêm” và “tình trạng khẩn cấp”, vụ đột kích chùa Xá Lợi, sát hại Quách Thị Trang, đóng cửa trường học... chưa đủ đô.”
Luân nghĩ bụng. Quả Nhu giải khát bằng thuốc độc.
- Tôi phân vân. – Anh nói – Liệu người Mỹ sẽ phản ứng ra sao.
- Ở Sài Gòn, không chỉ có Cabot Lodge. Còn Fishell... - Nhu trả lời, chắc nịch.
- Nhưng tôi nghe giáo sư Fishell sắp rời Việt Nam sang Ba Tư...
- Fishell đi, chính sách của Fishell ở lại!
- Ai sẽ đứng ra “đảo chính”?
- Tổng trấn Sài Gòn, tướng Tôn Thất Đính!
Luân im lặng khá lâu.
- Anh ngại ông tướng hoàng tộc này? Anh Diệm đã nhận Đính làm con nuôi. Người nhà chúng ta đấy!
Luân im lặng song đầu anh hoạt động dữ dội. Trò chơi của Nhu cực kỳ nguy hiểm. Nguy hiểm đối với bản thân Diệm, Nhu. Những gì mà Luân có trong tay về viên tướng – hống hách, rỗng tuếch, thạo chơi bời hơn cầm quân, nhiều khả năng phản trắc – không phiền lòng anh mà anh lo lắng vì người điều khiển Đính một cách thật sự dứt khoát không phải là Nhu. Tại sao không phải là Fishell? Và tại sao Fishell không qua Đính loại Diệm – loại nhanh chóng, tránh mọi sơ hở khiến cách mạng lợi dụng được?
- Hay là... - Nhu sốt ruột vì Luân cứ ngó ra ngoài cửa sổ, không nói không rằng – Hay là anh gặp tướng Đính... Tôi giao cho anh bàn với Đính các chi tiết. Anh sẽ chỉ đạo Đính.
Luân không hứng thú trước việc Nhu giao, tuy nhiên, anh muốn gặp Đính.
Xe Luân vào trại Lê Văn Duyệt. Đính đón Luân, do Nhu điện dặn trước. Bề ngoài cởi mở của Đính không khỏa lấp nổi cái lúng túng của anh ta khi Luân đương nhiên là cấp trên mà anh ta phải phục tùng.
- Tôi rất mừng nhận quyết định của ông cố vấn. Có đại tá bên cạnh, tôi vững lòng hơn... - Đính xởi lởi, lúc chỉ có hai người ngồi kề nhau.
Kế hoạch của Đính quá đơn giản. Đó là vụ Xá Lợi mở rộng, thế thôi, toàn bộ nội các, kể cả Nguyễn Ngọc Thơ sẽ tạm trú tại trại Lê Văn Duyệt một thời gian. Diệm sẽ lên Đà Lạt. Trại Quán Tre thêm kẽm gai, bót gác để nhốt chừng ba hay bốn vạn người. Số cầm đầu Phật giáo bị an trí ở Phú Quốc, cùng với số nhân sĩ dính với đảng Đại Việt. Đính – như Nhu hứa – vừa là Tổng trưởng quốc phòng vừa là Tổng tham mưu trưởng. Các tướng như Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn... nhất loạt cho về hưu.
Luân không tin đó là kế hoạch thật. Kế hoạch thật là gì?
Chuông điện thoại reo. Đính nhấc máy. Luân nghe văng vẳng tiếng của một người Mỹ. À, tiếng của James Casey.
- Pardon! Je suis accupé... Le colonel Nguyễn Thành Luân est ici! Voulez vous parler avec lui? (2)
Đính nói ào ào. Chỉ trẻ con mới không hiểu là anh ta báo động về sự có mặt của Luân với James Casey để gã người Mỹ đừng nói tiếp.
- James Casey rủ tôi đi uống... - Đính lấp liếm.
- Tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch của thiếu tướng và sẽ nhận xét sau. – Luân nhỏm dậy, toan kiếu từ.
Chuông điện thoại lại reo. Lần này, Luân nghe giọng của John Hing.
Ra hiệu cho Đính, Luân ra khỏi phòng. Anh chạm mặt Mai Hữu Xuân ngay hành lang.
- Chào đại tá! – Xuân đưa tay trước...
- Chào thiếu tướng! – Luân chập gót chân... - Thiếu tướng Đính đang ở trong phòng. Mời thiếu tướng vào...
Như bận việc, Luân bước vội ra xe. Anh hiểu là Xuân ngó theo anh và chủ đề mà Xuân trao đổi liền với Đính là anh...
*
... Ngày 9-9, văn phòng Quốc hội ra thông báo: Bà Trần Lệ Xuân, dân biểu, xuất ngoại sang Belgrade dự hội nghị phụ nữ quốc tế đồng thời kết hợp đi một số nước nhằm “giải độc” dư luận thế giới về tình hình Nam Việt.
Cái “cú” mà Nhu sửa soạn không xảy ra. Anh ta buộc phải lùi một bước trước yêu sách của Cabot Lodge...
Trước hôm Trần Lệ Xuân rời Sài Gòn, có một bữa cơm gia đình vào buổi tối. Ngoài Diệm, Nhu, Lệ Xuân, Giám mục – từ Huế vừa đến – các con của Nhu, vợ con Trần Trung Dung, còn có vợ chồng Luân. Không khí nặng nề. Mọi người im lặng, thỉnh thoảng trao đổi với nhau bằng mắt, ngay nĩa muỗng cũng khua uể oải. Đám trẻ con len lén ở một bên bàn, Ngô Đình Lệ Thủy lừ mắt chúng mãi...
Lệ Xuân xuất ngoại với danh nghĩa cầm đầu đoàn đại biểu Sài Gòn dự hội nghị Liên hiệp các nghị sĩ thế giới. Mặc dù hội nghị lần này tổ chức tại Belgrade, thủ đô Nam Tư, một nước Cộng sản, báo chí Sài Gòn gần như không khai thác khía cạnh độc đáo ấy – đệ nhất phu nhân Việt Nam Cộng hòa chống Cộng khét tiếng có mặt ở một nước Cộng sản, sẽ được đón tiếp theo nghi thức dành cho dân biểu – mà xoay quanh danh từ “giải độc”. Tuyên bố của Lệ Xuân vẫn nảy lửa: thóa mạ giới Phật giáo, xỉa xói Mỹ. “Họ cần diêm quẹt và xăng không? Tôi sẽ cấp cho”. Mụ nói về các vụ tự thiêu đã xảy ra hoặc dự định. Hà Như Chi, Phó đoàn, giải thích với báo chí về chuyến đi như là một nhu cầu bức thiết và hoàn toàn chủ động của Việt Nam Cộng hòa.
Tất nhiên, bộ mặt thật của sự việc chỉ phô bày bên trong các bức tường dinh Gia Long và tại bữa cơm chia tay ảm đạm này.
- Ta lùi một bước rồi đó! – Cuối cùng, Lệ Xuân ném cái hậm hực ra bàn ăn, khuấy động không khí – Sẽ tới lượt anh Nhu. Còn ai nữa?
Giám mục bỗng đằng hắng. Diệm từ từ cúi đầu xuống dĩa súp. Dư luận chưa được thông báo song cả nhà đều biết Khâm mạng Tòa thánh truyền đạt chỉ thị của Vatican gọi Giám mục đầu tháng 10 sang La Mã yết kiến Giáo hoàng.
“Thế là lùi tới hai bước!”. Luân hiểu như vậy.
Tình hình vài hôm nay tạm lắng dịu đôi chút. Học sinh lai rai trở lại trường, song chủ yếu không phải để học. Truyền đơn, báo tay tràn ngập, nhất là những loại mang danh nghĩa Phật giáo.
- Em định chấm dứt giới nghiêm từ trưa ngày 14 tới – Nhu nói với Diệm, tránh câu hỏi của Lệ Xuân.
- Ừ! – Diệm buông thỏng.
- Lại lùi! Battre en retraite (3)! Lùi tận đâu? – Lệ Xuân quắc mắt ngó chồng.
- Phải chận trước một số nước nêu vấn đề Phật giáo ở ta tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Phức tạp lắm! – Nhu nói trổng.
- Mặc kệ họ... Việc gì họ lại xía vô nội trị của ta?
Lệ Xuân hung hăng tuy rằng mụ cũng rất lo khả năng “quốc tế hóa” vụ Phật giáo.
- Tiến triển ở Liên hiệp quốc đến đâu rồi, hả cháu Luân? – Diệm hỏi.
Luân trình bày vắn tắt: Ngày 4-9, có 16 nước gồm Afghanistan, Algérie, Cambodia, Sri Lanka, Guinée, Ấn Độ, Indonésia, Mông Cổ, Nigéria, Iran, Ruwanda, Sierra Léone, Somalie, Trinité và Tobago, Mali và Népal gửi văn thư cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc xin ghi vào chương trình nghị sự Đại hội đồng Liên hiệp quốc khóa XVIII vấn đề mệnh danh là “sự vi phạm nhân quyền tại Nam Việt”. Văn thư, kèm phụ bản giải thích, đã gửi cho tất cả hội viên Liên hiệp quốc. Rất nhiều khả năng văn phòng Liên hiệp quốc sẽ ghi vấn đề vào chương trình nghị sự và Đại hội đồng sẽ xem xét theo thủ tục khẩn cấp. Cũng rất chắc chắn Đại hội đồng sẽ cử một đoàn điều tra sang Sài Gòn...
- Thật là bọn tiếp giáo cho giặc! – Lệ Xuân nói như quát...
- Ông Bửu Hội phản ứng ra răng? – Diệm hỏi.
- Giáo sư đã phổ biến một văn thư phản đối việc đưa một vấn đề đơn thuần nội bộ Nam Việt ra Liên hiệp quốc. – Nhu trả lời.
- Em sẽ đến Mỹ! Em phải nói thẳng... Ông Bửu Hội chỉ làm lấy lệ thôi; bà mẹ của ông nằm trong danh sách tự thiêu phản đối chúng ta; ông ta thuộc hoàng tộc... - Lệ Xuân xô ghế, ra khỏi bàn.
- Nếu có phái đoàn điều tra thì có thể gồm những nước nào? – Diệm giả như không để ý thái độ của Lệ Xuân hỏi tiếp.
Nhu ngó Luân, Luân từ tốn:
- Chưa thể chắc chắn, song bằng các nguồn tin tin cậy được, đoàn thế nào cũng có các nước trung lập thuộc châu Á, châu Phi và Nam Mỹ. Trưởng đoàn, đại diện của Vương quốc A Phú Hãn (3), như Hoa Kỳ đang vận động và tên cụ thể là đại sứ Abdul Rama Pazhwak...
- Một người theo đạo Hồi? – Giám mục hỏi.
- Thưa, đúng vậy.
- Trong 16 nước đứng lên chống mình chẳng có nước nào hiểu tình hình thực tế của Nam Việt. – Nhu càu nhàu.
- Anh Luân nói ông đại sứ gì sẽ làm Trưởng đoàn? – Lệ Xuân từ bàn của đám nhỏ hỏi vọng sang.
- Tôi đoán và cộng với tin của các hãng thông tấn, của cô Fanfani... Có thể không đúng hẳn. Nhưng, A Phú Hãn đứng đầu danh sách đòi Liên hiệp quốc xét vụ Phật giáo ở ta cho nên tôi nghĩ ông Pazhwak sẽ đảm đương trách nhiệm ấy, vì ông là đại sứ của A Phú Hãn tại Liên hiệp quốc...
Lệ Xuân bảo Lệ Thủy đưa cho mụ mảnh giấy và cây bút:
- Tên ông ta viết như thế nào? – Lệ Xuân hỏi Luân.
Dung kín đáo liếc Luân. Cả hai đoán Lệ Xuân ghi Pazhwak vào bảng tên những người mà trong chuyến đi này mụ sẽ tác động đến bằng cách nào đó.
- Tôi sang Mỹ, thế nào cũng gặp bà Kennedy.
Bà Kennedy mà Lệ Xuân nhắc là mẹ của đương kim Tổng thống Mỹ, người đã sang Sài Gòn và Lệ Xuân cùng Diệm chính thức tiếp bà, sau đó Lệ Xuân hướng dẫn bà đi thăm viếng một số cơ sở xã hội, giống như những lần Lệ Xuân cùng Diệm tiếp nhà báo nữ nổi tiếng Suzane Labia, hoàng hậu Thái Lan và nhiều phu nhân khác. Vào những lúc bối rối, người ta thường ảo tưởng – Trần Lệ Xuân nhớ đến mẹ Kennedy và ngỡ rằng bà là cái phao. Luân và Dung gặp nhau trong sự đánh giá này.
Bữa cơm kết thúc sớm. Những chai sâm banh nổ giòn mà ai cũng chỉ nhúng môi.
- Tại sao chúng ta có vẻ thúc thủ? Tại sao? – Lệ Xuân đứng dậy, tay chống lên bàn.
Thái độ ấy khiến Luân nhớ câu chuyện đối đáp giữa Diệm, Nhu và Lệ Xuân mà có người thuật cho anh nghe, trong biến cố 11-11-1960. Lính Dù bao vây dinh Độc Lập, Nguyễn Chánh Thi kêu gọi Diệm đầu hàng; Diệm đã tuyên bố trên đài phát thanh từ chức và giao quyền cho phái đảo chính. Số phận coi như đã định đoạt, Diệm ngồi thừ trên ghế bành. Nhu cau mày mà chưa tìm ra kế. Diệm hỏi Nhu, uể oải: “Chú định thế nào?”. Nhu trả lời, hờ hững: “Anh làm Tổng thống thì anh định đoạt chứ tôi đâu có làm Tổng thống!”. Giữa lúc đó, Lệ Xuân giận dữ, chồm tới: “Tại sao chúng ta lại thất bại một cách dễ dàng như thế? Gọi Nguyễn Khánh vào cho tôi!”. Nguyễn Khánh hấp tấp vào, đứng nghiêm. Lệ Xuân đi đi lại lại, ra lệnh với từng chi tiết. Khánh dập gót chân, chạy vụt ra khỏi phòng.
- Không thể đầu hàng bất kỳ mức nào! – Lệ Xuân rít lanh lảnh... - Chúng nó thích đảo chính thì ta cho chúng nó được đảo chính, sợ gì? Thời thế bây giờ không giống 1960 đâu... !
Người hầu gái vào, báo: dân biểu Huỳnh Ngọc Nữ xin gặp Lệ Xuân.
- Ta sẽ trở lại phương pháp đối phó... Tôi bận giây lát – Lệ Xuân ra ngoài.
Diệm và Thục có vẻ lên tinh thần đôi chút, nhưng Nhu thì vẫn trầm trầm. Hẳn Nhu so sánh tình hình 1960 khác bây giờ, khác theo hướng bất lợi cho chính phủ. Phật giáo là một. Thế của chính phủ trong Thiên Chúa giáo không như trước – đã xuất hiện nhiều nhóm liên kết với Phật giáo – là hai. Việt Cộng mạnh hơn 1960 gấp bội, là ba. Biết bao người nuôi mộng thay thế Diệm, họ có quân trong tay, là bốn. Mỹ không giấu diếm quan điểm “thay đổi chính sách” ở Sài Gòn, tức ít nhất cũng điều chỉnh bộ máy của Diệm, là năm. Harriman, Hillman, Forrestal, Mac Namara lũ lượt kéo sang Sài Gòn và phúc trình của họ thật là tai hại. Cách đây 2 tháng, Mỹ cắt đứt viện trợ cho lực lượng đặc biệt, chỗ dựa chính của Diệm. Tám năm trước, Diệm cũng dùng kiểu đó: cắt viện trợ quân các giáo phái và các giáo phái bị đánh rã dễ dàng. Ngày hôm qua, Cabot Lodge chính thức thông báo với Diệm: Kennedy đang nghỉ mát ở Cape Cod, thông qua đề nghị của Forrestal yêu cầu ông Diệm phải loại Nhu, bằng không, Mỹ sẽ không chịu trách nhiệm về sự ổn định của Sài Gòn.
- Họ kề dao vào cổ chúng ta! – Nhu bảo Luân.
- Bà Huỳnh Ngọc Nữ đến vì việc chi, hỉ? – Diệm hỏi, không ăn nhập gì với câu chuyện đang chi phối tâm trạng mọi người.
- Chắc là bàn phong trào phụ nữ - Nhu trả lời.
- Hay là bàn về hãng giấy Cogido, rạp Rex, nhà sách Xuân Thu? – Diệm quật lại giọng rầu rĩ...
Luân và Dung ra hiệu với nhau, đứng lên xin phép về.
- Anh nhớ việc tôi bàn với anh. – Nhu giữ tay Luân trong tay anh ta hơi lâu – Anh nên xuống Cần Thơ gặp tướng Cao, tiện thể, ghé Mỹ Tho gặp Bùi Đình Đạm.
Luân gật đầu.
- Chú nhắc tôi mới nhớ, đã lâu rồi, thằng Cao không về thăm tôi. – Diệm bảo.
- Có, có về, song anh bận việc nên chỉ làm việc với em...
*
... Luân và Dung có mặt trong số người tiễn Trần Lệ Xuân tại sân bay. Bài ứng khẩu của Lệ Xuân được các nhà báo thu băng tại phòng khách danh dự.
“Tôi sẽ trở về, nhanh thôi. Người ta đầu cơ trên xương máu chiến sĩ, trên những hy sinh của dân tộc và giới phụ nữ. Song, chân lý không dễ dàng bị khuất lấp. Chúng ta có rất nhiều bè bạn khắp thế giới. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để khôi phục lại bộ mặt thật của tình hình Việt Nam Cộng hòa và chỉ ra ai là kẻ chủ mưu, ai phải chịu trách nhiệm, ai là tòng phạm, ai là nạn nhân. Như các bạn biết rõ, một nhà sư tự nhiên chạy vào lánh nạn ở sứ quán một nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa. Tại sao phải “lánh nạn”, “nạn” là gì? Tại sao không chọn một sứ quán nào khác mà chọn sứ quán của nước đồng minh kia? Cần phải làm cho thế giới hiểu rằng sứ quán của một nước đặt ở một nước không nên và không thể là trung tâm chỉ huy các hoạt động gây rối, tạo điều kiện lật đổ hoặc là hang ổ để các hạng gián điệp ẩn náu”.
Phòng khách bỗng chốc biến thành nơi họp báo chớp nhoáng.
Nhà báo Helen Fanfani hỏi: Bà tự nguyện xuất ngoại hay do một áp lực nào?
Lệ Xuân cau mày: Tại sao lại có áp lực? Ai áp lực? Nhà báo Financial Affairs nên nhớ Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia có chủ quyền...
Helen hỏi tiếp: Bà định sang Mỹ, có “xin” gặp Tổng thống Mỹ không?
Lệ Xuân nhún vai: Người cần nghe ý kiến khách quan về tình hình Việt Nam Cộng hòa không phải tôi. Tôi không “xin” gặp. Nếu nhà báo thích dùng chữ “xin” gặp thì chắc chắn cũng không phải là tôi!
Francois Sully, tuần báo NewsWeek, hỏi:
Thưa bà, bà có định đến Liên hiệp quốc không?
Lệ Xuân trỏ mặt nhà báo: Ủa, chúng tôi đã trục xuất ông từ năm ngoái, sao ông còn luẩn quẩn ở đây?
Francois Sully cười: Có lẽ bà không còn nhiều thì giờ lắm... Tôi trở lại Việt Nam vì thời hạn cấm tôi hành nghề tại đây đã hết hiệu lực, mặc dù những gì tôi phản ánh vẫn còn nguyên: tham nhũng, chính phủ chuyên đánh giặc mồm...
Lệ Xuân: Và, tôi nhớ, ông tuyên bố: các ông – nghĩa là Mỹ, tờ báo ông viết xuất bản ỡ Mỹ - không nên cùng chết chìm với chúng tôi... Thật đáng tiếc cho ông, ông Francois Sully, các ông sẽ cùng chết chìm với những kẻ chống chúng tôi...
Francois Sully: Tôi nhắc lại: Bà không còn nhiều thì giờ lắm!
Lệ Xuân: Ông nói câu đó với ý nào?
Francois Sully: Với ý nghĩa cụ thể nhất – ông vén đồng hồ đeo tay – bà chỉ còn 15 phút thôi.
Lệ Xuân: Với mươi phút, chúng tôi thừa đủ vả vào mồm những tên ăn tiền của một nước nào đó vu không chúng tôi... Tôi sẽ đến Liên hiệp quốc!
Haberstam, phóng viên tờ New York Times: Xin bà cho tôi nửa phút...
Lệ Xuân: Mời ông! Ông bị Tổng thống Mỹ gọi về nước vì ông phanh phui sự dính líu của Mỹ ở Nam Việt...
Haberstam: Có phải bà cho rằng tình hình rối loạn hiện nay ở Nam Việt là do Mỹ đạo diễn?
Lệ Xuân: Tôi xin trả lời câu hỏi nửa phút của ông chỉ bằng một phần mười giây: Đúng!... Tôi xin lỗi các bạn, tôi còn phải từ giã chồng con và người thân của tôi...
Trên đường từ nhà ga ra sân bay, Lệ Xuân nói rất khẽ với Nhu điều gì đó và Nhu gật đầu. Sắp đến cầu thang, Lệ Xuân kéo Dung tách khỏi đám đông.
- Mọi sự chị trông cậy vào em và anh Luân. Em nhớ cho: nhiều người đang khúm núm Tổng thống, anh Nhu và chị, sẽ dễ dàng trở mặt. Tổng thống hay cả tin, cụ thích những kẻ cúi mọp, đi giật lùi trước cụ. Chị nghi ngờ bọn đó... Em nên bàn với ông Tổng giám đốc cảnh sát bám sát số quân nhân đang nắm quân. Chị đã bàn với anh Nhu nên tăng quyền cho anh Luân. Lực lượng đặc biệt của ông Tung không đủ sức đâu...
Lệ Xuân ôm hôn Dung và bắt tay Luân thật chặt. Mụ lần lượt ôm hôn các thành viên của Phong trào Phụ nữ liên đới. Điều rất lạ là trong số khách tiễn Lệ Xuân có vợ bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã từ lâu gần như bị Lệ Xuân trù.
- Mọi hiểu lầm cũ, ta qua! – Lệ Xuân nói vào tai vợ Trần Kim Tuyến.
Nhu cầm tay vợ, đưa lên cầu thang. Cả hai, đến giữa cầu thang, quay lại để các nhà báo chụp ảnh. Lệ Xuân ngã hẳn vào ngực chồng, quanh hai người là bầy con: một ảnh gia đình Nhu đầm ấm nhất mà báo chí lần đầu có được...
Luân và Dung không ngờ một chuyến máy bay đáp xuống Tân Sơn Nhất trong lúc Lệ Xuân đang ở phòng khách, mang đến Sài Gòn hai nhân vật: Jones Stepp, thiếu tướng, phụ trách tình báo, trợ lý tướng Paul Harkins – thay cho Fishell đã sang Ryad – và phu nhân Soroyan...
*
Đúng buổi nhiều ngày tổ chức tuyển cử Quốc hội pháp nhiệm ba – thêm một ít liên danh “trang trí” nhưng phe thân chính phủ vẫn chiếm đa số tuyệt đối như mọi người dự đoán, kể cả Lệ Xuân vẫn đắc cử - Câu lạc bộ quân đội rộn ràng một cách khách thường. Sân tennis đông nghịt.
Tướng Dương Văn Minh, cố vấn quân sự của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đấu giao hữu với tướng Maxwell Taylor, cố vấn quân sự và phái viên đặc biệt của Tổng thống Mỹ; đại tá Nguyễn Thành Luân, trong tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống đấu với trung tá James Casey, tùy viên của tướng Paul Harkins. Sau trận đánh đơn – Minh thắng Taylor, Casey thắng Luân – đến trận đấu đôi: cặp Minh – Casey thắng cặp Luân – Taylor, rồi cặp Minh – Taylor thắng cặp Casey – Luân. Sau cùng, cặp Minh – Luân thắng đậm cặp Taylor – Casey. Dư luận xì xào về trận banh nỉ ngoại lệ này và chẳng ai quan tâm đến tỷ số cùng sự thắng bại. Chính Luân cũng không được báo trước – mãi trưa, anh mới được điện thoại của tướng Trần Văn Đôn, người tổ chức trận “giao hữu”. Sự bắt cặp cũng do tướng André bố trí. Luân phân tâm một lúc, giao và trả bóng hỏng nhiều, Taylor và Casey chơi bình thường – tuy họ cố tỏ ra xông xáo, theo Luân nhận định. Người “chơi ra chơi” là tướng Minh. Có lẽ hơn một chục lần Minh nhắc Luân khi hai người dự trận chót – lúc đầu, Minh nhắc nhã nhặn, sau thì cự hẳn. Luân phải tập trung tinh thần hơn và nhờ đó, thắng đậm.
Lúc chia tay, Taylor cười với Luân:
- Ông tướng của ông, – Ông ta ám chỉ tướng Minh – Có mỗi một bận tâm thôi, đó là quần vợt!
Dừng giây lát, Taylor nói tiếp:
- Tôi cám ơn đại tá đã không đem hết sở trường trong trận đấu đánh đôi mà tướng Minh và tôi đứng chung sân... Tôi tin đó là thái độ của đại tá. Tướng Minh và tôi là bạn, sẽ mãi mãi là bạn.
Luân về nhà thì gặp Saroyan cùng Thùy Dung ngồi ở phòng khách. Anh cố kiềm chế nhưng Saroyan vẫn sà vào anh khóc òa, mặc Thùy Dung ngồi đó. Thùy Dung cũng chặm nước mắt...
- Cám ơn Saroyan! – Luân thủ thỉ.
- Cám ơn đức Ala! Anh và Dung bình yên, thêm cháu Lý...
Saroyan bồng Lý trong lòng. Cả một thùng quà to tướng dành cho Lý và trong tiếng líu lo, Saroyan nói với Lý – dĩ nhiên, thằng bé chẳng thể hiểu – cả Luân và Dung thấu rõ nỗi xót xa của cô: Saroyan thèm một thằng bé giống như Lý. Tất cả đều thấy bất lực...
- Thôi ta hãy vào việc... - Saroyan tự trấn tĩnh – Em sang đây với Jones. Vào giờ chót, có trục trặc: người ta định cử tướng Lansdale, bây giờ đã hưu trí nhưng làm hợp đồng với Pentagone. Chính Tổng thống Kennedy can thiệp, nên Jones mới được đi. Em và Jones ghé Bangkok mấy hôm và em gặp bác sĩ Trần Kim Tuyến đang chờ thủ tục sang Cairo. Em hỏi thẳng ông ta: ai mưu toan giết hại em. Ông ta bảo: Mai Hữu Xuân, với sự đồng lõa của Fishell. Em và Jones vừa đặt chân lên đất Sài Gòn, Mai Hữu Xuân đã đến chào. Em hỏi luôn ông ta... Ông ta không chối, chỉ nói rằng em bây giờ có thể yên tâm vì thời thế đã khác. Em bảo em sẽ đến thăm anh, ông ta thản nhiên: “Bà có thể thăm bất cứ ai... ” Rồi ông ta và Jones thì thầm... Em biết, qua Jones: ngày 24-8, một số tướng Sài Gòn đề nghị lật ông Diệm, sau đêm lực lượng an ninh tấn công đẫm máu các chùa. Cabot Lodge chuyển điện về Mỹ, đúng ngày cuối tuần. Tổng thống không có mặt ở thủ đô. Các tướng Sài Gòn định ngày 29 hay 30 tháng 8 thì hành động...
- Các tướng nào, cô có thể kể vài tên không? - Luân hỏi.
- Điện viết tắt, em nhớ các chữ đầu K, X, D, và M. Hình như ba người.
Luân cau mày. Dung lẩm bẩm: K... Kim? X... Xuân? D... ?
- K là Khiêm, X đúng là Xuân, D tức là Đ theo mẫu tự ta... - Luân bảo.
- Vậy thì là Đính!
- Không! Chính... Đôn! André Đôn... Và, một trong các người đề nghị lật ông Diệm vì vụ tấn công các chùa lại chính là kẻ đã trực tiếp thực hiện vụ tấn công man rợ ấy! Tôi nhắc Saroyan, đó là Mai Hữu Xuân! Còn M? Minh? Big Minh? Không! Trần Văn Minh? Ít có khả năng M. nào?
- Em nói tiếp. – Saroyan rạng rỡ khi thông tin của cô có ích cho những người mà cô quý mến, thương yêu – Đầu tuần, Tổng thống chỉ thị: đại sứ Lodge phải chuyển cho ông Diệm một “tối hậu thư” gồm ba điểm: chấm dứt đàn áp Phật giáo kèm theo hủy bỏ giới nghiêm và trả tự do cho các sư và người theo đạo Phật bị bắt, cho các đảng không tán thành chính phủ hoạt động công khai và tham gia với một tỷ lệ thích đáng các cơ sở chính phủ, vợ chồng ông Nhu rời Việt Nam. Ông Diệm không thèm tiếp ông Lodge, không chịu nói chuyện điện thoại với sứ quán Mỹ... Ông Lodge điện cho Ngoại trưởng Dean Rusk, bức điện em nhớ đề ngày 29-8 và cũng nhớ một câu: “Nước Mỹ không còn mặt mũi nào trở lại làm lành với Diệm”.
Nhưng, chính Lodge cũng báo cáo với Rusk rằng các tướng Sài Gòn chưa nhất trí lắm về việc lật Diệm. Tướng Harkins cũng yêu cầu Tổng thống Mỹ nên xem lại... Thế là Victor Krulak, phái viên Bộ quốc phòng và Joseph Mendenhall, phái viên Bộ ngoại giao bí mật bay sang Sài Gòn...
- Tôi có biết, tuy không gặp... - Luân nói.
- Krulak cho rằng nếu ủng hộ ông Diệm mạnh hơn nữa thì có thể chiến thắng Cộng sản, Mendenhall cho rằng nếu chính phủ ông Diệm sụp đổ thì sẽ xảy ra chiến tranh tôn giáo – giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo – cho nên “Nhu phải rút lui hoặc bị loại” và ông Diệm “không phải là một hoàng đế mà là một Tổng thống dân chủ”.
- Ý của Jones Stepp thế nào?
Saroyan nhún vai:
- Một người thừa hành, không hơn không kém. Tùy những người quan trọng hơn.
Luân trầm ngâm.
- Trận bóng vừa rồi do sáng kiến của Cabot Lodge. Theo em, Cabot Lodge chỉ chịu làm đại sứ một thời gian ngắn... Sau đó, chính Taylor, tác giả của một kế hoạch bình định Nam Việt do ông ta và tiến sĩ Staley thảo. Taylor rất lạc quan, ông ta phát biểu với Jones rằng nếu nội tình Nam Việt được thu xếp ổn thì chậm nhất mùa thu năm 1965 ở Nam Việt không còn bóng dáng của một cuộc nổi dậy nào nữa mà chỉ là “bọn cướp có tổ chức”. Chiều hôm qua, tại đại sứ quán Mỹ, Cabot Lodge họp với Jones, Taylor, Casey và John Hing... Sau cuộc họp, họ ăn tối. Em không dự. Giá mà em dự, cũng có thể nắm đôi điều ngoài những cái mà Jones thuật lại. Em không thể dự!
Luân hiểu: Saroyan không chịu chạm mặt John Hing, kẻ mà cô đã tát vào mặt trước đây, khi Fishell toan dùng cô làm vật đổi chác trong nghề tình báo của hắn.
- Họ thống nhất hoạch định những bước đi sắp tới, như Jones hé với em.
- Gây sức ép mạnh hơn?
- Đúng... Tiếp tục đình viện trợ mọi mặt cho lực lượng đặc biệt, trì hoản các chuyến vận chuyển gạo, thuốc lá, sữa và các hàng hóa khác cho cả dân sự lẫn quân sự, cốt gây tâm lý hoảng loạn...
- Thâm độc thật! – Dung kêu lên.
- Theo em, – Saroyan vẫn nói như thầm thì với Luân – Sớm muộn gì ông Diệm cũng phải rời ghế Tổng thống... Đó là chuyện của ông ta. Còn chuyện của anh, của Dung và bé Lý... thật sự bận tâm em. Cho đến bây giờ, Jones rất coi trọng anh. Em chưa hề nói một lời về quan hệ riêng tư giữa chúng ta và, Dung đồng ý chứ? – quan hệ riêng tư giữa tôi và anh Luân bình thường thôi.
- Bình thường! – Dung siết cánh tay Saroyan.
- Nhưng Fishell không phải không thích thêu dệt. – Luân cười nhẹ - Tuy vậy, chắc chắn tướng Stepp chẳng đặt việc cá nhân của Saroyan vào thời cuộc... Mỹ sẽ dùng bàn tay sắt hay bàn tay nhung ở Sài Gòn tùy thuộc các yếu tố khác, lớn hơn nhiều.
- Anh để em nói... - Saroyan cướp lời. – Em muốn anh lánh xa ông Diệm. Tại sao anh không nhận một chân đại sứ ở một nước nào đó, chờ thời cuộc. Ông Tuyến đã làm như vậy.
Luân lắc đầu:
- Saroyan ngây thơ quá! Ông Tuyến không chọn mà người ta gán cho ông chức Tổng lãnh sự. Tôi xin đi làm đại sứ có nghĩa là tôi xin vào tù!
- Tại sao? Em đảm bảo Jones Stepp sẽ ủng hộ anh!
- Trước khi người Mỹ hạ bệ ông Diệm – nếu quả họ định – thì chớ có chọc tức ông ta. Jones Stepp, cả Cabot Lodge, Harkins... , đều không bịt được họng súng của ông ta... Vả lại, tôi không cần đi đâu cả. Là quân nhân, tôi phải đứng tại nơi quân nhân phải đứng...
Saroyan thở dài, cáo từ.
- Thỉnh thoảng, Saroyan đến chơi. – Dung bảo.
- Jones sẽ mời anh Luân và Dung đến chỗ chúng tôi... Nhớ mang bé Lý theo!
Saroyan ra khỏi phòng.
- Có một điều tôi dặn Saroyan. Không nên hỏi Jones Stepp nhiều quá, đừng đọc các giấy tờ mà ông ta giữ mật... - Luân choàng vai Saroyan, đưa ra xe.
- Anh không cần?
- Không phải... Song tôi cần hơn sự an toàn của Saroyan.
- Cám ơn anh... Em không đến nỗi quá ngốc đâu!
- Saroyan rất tốt, – Luân nói với Dung khi xe của Saroyan ra khỏi cổng nhà – Nhưng chưa có kinh nghiệm. CIA sẽ dùng Saroyan hoặc dọ dẫm anh, hoặc đánh lạc hướng anh, kể luôn những tài liệu và tin ngụy tạo...
- Anh lo xa là phải, song theo Saroyan, tướng Stepp say đắm Saroyan đến điên dại...
- CIA là những diễn viên mà chưa diễn viên chuyên nghiệp danh tiếng nào so nổi. – Luân cắt lời vợ.
*
Bài của Helen Fanfani: Bước ngoặt trong chính sách Mỹ ở Nam Việt?
Không có một sự kiện tầm cỡ đòi Tổng thống Kennedy xét duyệt lại chính sách Đông Nam Á của Mỹ, tỷ như cơn khủng hoảng vùng Caraibe hoặc viên phi công Power của chiếc U2. Thế nhưng, chính sách Mỹ vẫn đang được những người chóp bu của Nhà Trắng đánh giá một cách tổng quát trên một bình diện mà chính CIA thiết lập và nay đã hình thành như ý muốn của kẻ chủ xướng. Nam Việt dấn vào cuộc chiến tranh không tuyên chiến đã 3 năm và thật sự nước Mỹ cũng chỉ ném một lực lượng yểm trợ chưa đến 2 vạn người vào vùng núi non, nóng bức nam vĩ tuyến 17. Khí tài chiến tranh chủ yếu là những loại lỗi thời. Đương nhiên, Hội đồng an ninh quốc gia quan trọng hóa sự thể ở Nam Việt, dựa vào câu nói của J. Kennedy bấy giờ còn là thượng nghị sĩ: Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do tại Đông Nam Á như viên đá đỉnh vòm cung, như nút chặn lỗ rò... Việt Nam là tác phẩm của chúng ta, chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó... (Phát biểu ngày 1-8-1956 tại Hiệp hội Những người Mỹ, bạn của Việt Nam). Cái “viên đá đỉnh vòm cung”, cái “nút chặn lỗ rò”, cái “tác phẩm của chúng ta” ấy từ chỗ chính phủ Mỹ tưởng tượng bây giờ đã trộn lẫn sự tồn vong với uy tín của nước Mỹ. Năm 1956, 2 năm sau chiến tranh Đông Dương kết thúc, 7 năm sau Trung Cộng thôn tín toàn bộ Hoa lục, 5 năm sau chiến tranh Triều Tiên. Sự lên gân kỳ quặc của thượng nghị sĩ Kennedy liên quan đến chiến lược ngừa Trung Cộng tràn xuống Đông Nam Á và Bắc Việt thu hồi nốt phần Nam Việt còn lại, giữa cuộc chiến tranh lạnh lên độ băng giá nhất. Và, về thực chất, Kennedy lấy sự ủng hộ hay ruồng bỏ ông Ngô Đình Diệm làm chuẩn cho cái gọi là “chúng ta không thể bỏ rơi nó và chúng ta không thể lờ đi các nhu cầu của nó”.
Việc Diệm thay Bảo Đại là sản phẩm của F. Dulles, Spellman, Lansdale, có cả bàn tay mụ đỡ của Mansfield và Kennedy. Công bằng mà nói, Harriman sáng suốt hơn; ông ta (Ông Diệm)... hoài bão một triều đình, trầm tư sống với nội tâm, không có sức hấp dẫn quần chúng, không hiểu cái gì xảy ra trong vòng 18 năm đảo lộn trên nước Việt Nam. Mẫu người lùn, béo tròn, đi đứng lạch bạch, luôn trang phục màu trắng như trong tháp ngà. Ham nói, chuyện nhỏ cũng thuyết hàng giờ, ít nghe nên ít biết phản ứng... Ý kiến của Harriman bị chế nhạo là chỉ “chú ý ngoại hình”. Tháng 8-1954, đại sứ Mỹ, tướng Collins, bảo tướng Pháp Ely rằng chớ ủng hộ tướng Hinh trong một mưu toan đảo chính, nếu ông Diệm bị lật thì Mỹ rút, Pháp phải tự mình đối phó với Cộng sản – nghĩa là đón một trận Điện Biên Phủ thứ hai tồi tệ hơn nhiều lần. Tháng 11-1954, một lần nữa, Lansdale bóp chết một âm mưu đảo chính, lần này do các tướng Hinh, Vỹ, liên minh với tướng Viễn. Số sĩ quan định đảo chính được Lansdale giải quyết theo kiểu lập dị của ông ta: mỗi người đuợc sang Manila chơi một tháng với các cô gái. Rồi, ngày 7-4-1955, tới phiên Collins đề xuất: Diệm không có khả năng đạt sự thống nhất cần thiết giữa ý chí và hành động... để làm cho Nam Việt khỏi rơi vào tay Cộng sản. Lowton Collins muốn thay Diệm, Tổng thống Eisenhower đồng ý, mọi sự đã sẵn sàng. Nhưng, Pháp đã cứu Diệm! Pháp bật đèn xanh cho Bình Xuyên nổ súng và trong khói đạn mịt mù, Diệm tỏ rõ đủ bản lĩnh dẹp tan nhón “Mafia” Bảy Viễn chẳng mấy khó khăn. F. Dulles đã nói: Không thể để Diệm thành một Kérensky! Mỹ thử nghiệm. Năm 1956, tướng 3 sao Samuel Williams điều khiển vỏn vẹn có 629 chuyên viên quân sự Mỹ, Williams từng đánh ở Triều Tiên, ông ta bị kiểu tấn công ồ ạt của Bắc Triều Tiên ám ảnh cho nên chỉ chú trọng xây dựng lực lượng dòm ngó Bắc Việt Nam – sau này, khi Nam Việt diễn ra tình trạng nổi dậy của du kích tại chỗ, ông ta bất lực. Không riêng gì ông ta, mà cả bộ tham mưu và học viện quân sự Mỹ đều “hố”. Chương trình huấn luyện sĩ quan Việt Nam của Mỹ nặng nề chiến dịch tấn công trung và sư đoàn, kể cả sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật. Từ khi du kích mở rộng phạm vi hoạt động giữa ông Diệm và chính phủ Mỹ phát sinh nhiều bất đồng. Ông Diệm thăng tướng tá cho những mà ông nhìn suốt trong ruột họ sự trung thành mù quáng với cá nhân ông. Mỹ đòi các sĩ quan phải đánh giặc. Tuy nhiên, Lansdale và phái bộ Mac Garr vẫn ủng hộ Diệm – họ dồn sức chăm sóc Bảo an, Dân vệ và chủ trương Bảo an, Dân vệ phải được trang bị cả trực thăng, chiến xa. Phái đoàn Michigan chủ trương ngược lại: trang bị Bảo an, Dân vệ nhẹ, chăm sóc quân chính quy và các binh quân chủng khác. Lầu Năm Góc nghiêng về quan điểm của phái đoàn Michigan. Cuối năm 1960, Cộng sản kiểm soát bộ phận lớn nông thôn Nam Việt, đại sứ Mỹ Durbrow và phái bộ của tướng Mac Garr lại cãi vã. Mac Garr cho yêu cầu số một của Nam Việt là xây dựng lực lượng vũ trang chống Cộng! Durbrow cho phải thực hiện dân chủ - do đó, ép Diệm cải tổ chính phủ.
Chính phủ Mỹ chưa kết luận – Nam Việt lùi hàng thứ yếu trước điểm nóng Berlin, hội nghị cấp cao Paris thất bại và Fidel Castro lên cầm quyền ở Cuba. Eisenhower bàn giao chính quyền cho Kennedy. Mỹ thậm chí coi Lào mới là nơi nguy ngập nhất Đông Dương. Giữa lúc Mỹ lừng chừng, vụ vịnh Con Heo đánh một đòn nặng vào uy tín của Kennedy và Kennedy hoài nghi các dự án của Bộ tham mưu liên quân cùng các luận cứ của CIA: không có việc Mỹ gửi quân đến Lào đúng như lời khuyên của đại sứ Galbraith. Năm sau, Taylor đề nghị đưa 8.000 quân đặc nhiệm vào Việt Nam. Harriman bác thẳng thừng. Khi MACV thay MAAG, Paul Harkins, tướng 4 sao thay Mac Garr, quân Mỹ lên 9.000 người. Bom napalm đã được sử dụng. Cái rủi cho Harkins là đầu 1963, chiến thuật trực thăng vận bị Việt Cộng đánh bại, Nolting gợi ý với Diệm tăng thêm một ít lính Mỹ. Diệm nói thẳng: Tôi không thích chế độ bảo hộ! Từ non 700, nay Mỹ đã lên ngót 2 vạn – chẳng lẽ con số đó còn thấp? Chúng tôi cần vũ khí và phương tiện kỹ thuật tốt, người Mỹ các ông chỉ cho những thứ phế thải. Sự chênh lệch trình độ trang bị giữa lính Mỹ tại Việt Nam với quân đội chúng tôi xa cách đến mức ai trông cũng ngượng. Không trang bị, cắt giảm viện trợ đồng thời một số người Mỹ hô hoán: chúng tôi bất lực. Chúng ta là đồng minh nếu Tổng thống Mỹ hiểu chữ “đồng minh” hoàn toàn không mang hơi hướng của lối quan hệ bất bình đẳng của thời thực dân cũ thì phải giúp chúng tôi mạnh. Tự chúng tôi biết mình phải thắng Cộng sản như thế nào. Nhiều lần tôi trình bày rõ ý kiến của cá nhân tôi: Việt Nam Cộng hòa cần Mỹ giúp trong mức mà Mỹ không đổ bộ lên đất nước tôi một đội quân như người Pháp đã làm và thất bại. Việt Nam Cộng hòa sẵn sàng nghe mọi lời khuyên xây dựng song tôi sẽ phẫn nộ nếu đó không phải là lời khuyên mà mệnh lệnh. Lời khuyên thì tốt, mệnh lệnh thì sẽ chẳng bao giờ được xét tới vì Việt Nam Cộng hòa không có nghĩa vụ phải chấp hành mệnh lệnh của một nước khác, dù cho đó là Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ!... Có thể trưng vô số trường hợp Diệm phát biểu ý kiến nhất quán như vậy.
Nolting báo cáo tận chi tiết nhỏ quan điểm của Diệm. Và Nolting đã giã từ Sài Gòn, giữa lúc chính phủ Việt Nam và Phật giáo từ đấu khẩu chuyển sang đấu lưỡi lê, bom cay, gạch, đá, với hằng tá nhà sư tự thiêu. Cái đáng ngạc nhiên là tại hội nghị Honolulu, tháng 4 năm nay, tướng Paul Harkins vượt qua tất cả những vai lạc quan nhất về tình hình Nam Việt – ông long trọng thông báo với Bộ quốc phòng Mỹ rằng một bộ phận lớn, nếu không nói là tất cả nhân viên quân sự Mỹ đang có mặt ở Nam Việt sẽ ăn lễ Noel 1963 nơi quê nhà vì chiến tranh đã kết thúc! Thói thường các tướng hay nói lố, Leclerc từng tiên đoán sai sự thật đến những 9 năm ở Việt Nam, Ridgway cũng lấy ý muốn riêng làm thước đo thời gian chiến tranh ở Triều Tiên... Chẳng lẽ tướng Paul Harkins không học bài học lịch sử chưa xa xôi lắm ấy? Toàn bộ thông báo của tướng Harkins chưa được đưa ra công khai, song hình như luận điểm của ông dựa vào mức độ hoạt động không dồn dập của đối phương cuối năm 1962 và lòng tin tuyệt đối của ông vào chính sách ấp chiến lược. Sau hội nghị Honululu chẳng bao lâu, vụ Phật giáo nổ bùng. Báo chí chưa có dịp nghe tướng Harkins luận giải – bây giờ thì ông được một trạng sư biện hộ lỗi lạc, ấy là sự rối loạn nội bộ Việt Nam Cộng hòa khiến lính Mỹ không thể về Mỹ dự lễ Noel được! Những chuyên gia vấn đề Nam Việt đều nhất trí về khả năng nước Mỹ rẽ bước trong chính sách đối với Nam Việt, chắc chắn sẽ được công bố nay mai. Các phái đoàn gồm các nhân vật sừng sỏ, đặc biệt, tướng Maxwell Taylor – dư luận xưng tụng ông là ngôi sao sáng chói nhất trong các nhà quân sự chuyên nghiệp Mỹ hiện nay – đi lại như con thoi giữa Washington và Sài Gòn báo hiệu kế hoạch đã được âm thầm sửa soạn và đang ở vào thời kỳ thêm vài dấu chấm trước khi Tổng thống Kennedy ký. Bước rẽ ấy là gì? Có ba khả năng: Một là ông Diệm làm lành với Phật giáo đồng thời làm lành với các lực lượng bấy lâu thù địch ông, tỷ như nhóm Tinh Thần thân Pháp; ông bà Nhu rời hẳn Việt Nam, không can dự vào chính trị, giải tán đảng Cần Lao, mật vụ và thủ tiêu quyền binh của ông Cẩn ở Trung phần. Hai là người Mỹ tự mình cầm quyền cả quân sự lẫn dân sự và tiến hành cuộc chiến tranh theo kiểu Mỹ, với người Mỹ - để hay hạ bệ ông Diệm sẽ không mang ý nghĩa bao nhiêu. Ba là ông Diệm liên minh với Việt Cộng và trạng thái đấu tranh ở Nam Việt thay đổi từ căn gốc.
Khả năng thứ ba – có vẻ quái đản, song không phải là sản phẩm của sự tưởng tượng. Tất nhiên, nếu anh em ông Diệm quyết tâm tạo mối liên minh này thì họ phải từ bỏ nhiều thứ: dinh Gia Long, quang cảnh ngày ngày quan lại đến rạp mình hầu hạ, quyền lực, tài sản... thậm chí, chấp nhận bộ áo quần du kích. Ông Diệm, ông Nhu hẳn từng tính đến lối ra ấy – xét theo thứ tự, lối ra cuối cùng – nhưng cũng hẳn họ chưa hình dung từ vấn đề bao quát dẫn đến mỗi tình tiết dính liền với chiếc ghế bành, chiếc giường nhún nhẩy, cái búng tay... Trước kia, ông Diệm, ông Nhu thỉnh thoảng núp bóng Việt Cộng để eo sách Mỹ, bây giờ, có thể họ coi đó là một giải pháp. Nhưng, những người cách mạng Việt Nam có lý do hoài nghi chính đáng trước một “lời rao vặt” kiểu đó.
Ông Diệm chống Cộng – và đang chống Cộng – lại nhờ vả kẻ ông bắn giết một cách không ân hận chìa bàn tay với ông giữa lúc ông đang đắm thuyền. Chiến thuật dù mềm dẻo đến đâu cũng không dành chỗ cho một nhượng bộ như vậy ở người Cộng sản, nhất là chưa bào giờ có dấu hiệu họ sẽ thua trận. Rốt lại, ông Diệm, ông Nhu định lợi dụng Mặt trận Giải phóng. Thế nhưng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất ít giống Elas ở Hy Lạp, càng khác hẳn đảng Cộng sản Indonésia, Malaysia, Philippine. Người Mỹ chỉ có lợi khi công bố các tài liệu liên quan đến sự “đi đêm” này của ông Diệm.
Khả năng một khó xảy ra không kém. Ông Diệm mà không có vợ chồng ông Nhu, đảng Cần Lao, mật vụ, mà không có lực lượng Thiên Chúa giáo di cư hưởng đặc quyền thì không còn là ông Diệm nữa. Chính thể Sài Gòn mà gồm cả nhóm Phật giáo, Đại Việt, trí thức do Pháp đào tạo, quân đội Sài Gòn do các tướng chẳng chịu ân sủng của ông Diệm, chẳng đồng hương, đồng đạo chỉ huy sẽ không còn là chế độ Sài Gòn nữa. Chịu danh xưng “Tổng thống”, chịu tổ chức bầu cử mỗi nhiệm kỳ mà không là hoàng đế và “Tổng thống suốt đời”, đó là nấc lùi tận cùng của ông Diệm. Lùi hơn nữa, ông không tưởng tượng được. Cho nên, khả năng thứ ba cũng không có nốt. Phật giáo không đánh trốc ông Diệm thì ông Diệm sẽ đánh trốc Phật giáo. Canh bạc chỉ còn hai cửa “sấp và ngửa”.
Loại hai khả năng đầu và chót, còn khả năng giữa. Khả năng của người Mỹ. Giữa người Mỹ với nhau, không phải không còn vấn đề tranh luận – chắc chắn giới chức cao cấp Mỹ tốn khá nhiều giấy, nước bọt và Tổng thống chắc chắn đang nhứt đầu... Dầu gì, quả bóng vẫn đang ở trong chân Mỹ. Sút thẳng, giáo bóng thêm vài lượt... bài toán đặt ra như vậy, trừ phi chính phủ Mỹ lại sút bóng vào chính lưới của mình...
*
Luân nóng lòng chờ chỉ thị của A.07. Anh viết một báo cáo thật dài – dài nhất so với tất cả các báo cáo mà anh đã gửi về cấp trên từ khi anh nhận nhiệm vụ. Anh phản ánh nhiều mặt tình hình và cũng đề xuất nhiều phương án, trong đó, anh xin phép được trực tiếp gặp một đồng chí lãnh đạo ở nơi nào do cấp trên chọn và cũng xin phép được quan hệ thẳng với Lê Khánh Nghĩa, bây giờ là chỉ huy trung đoàn thuộc sư đoàn 5 bộ binh, đóng ở Bầu Trài, cách Sài Gòn không quá xa. Những đầu mối mà Trần Kim Tuyến giao cho anh, anh kiểm tra chặt chẽ rồi, độ tin cậy không cao – tất nhiên, tin cậy theo nghĩa họ hành động đơn thuần vì bất mãn Diệm và là bộ hạ chịu ơn hoặc ăn chịu với Trần Kim Tuyến. Một trong những đầu mối đó là đại tá Nguyễn Văn Thiệu, Sư trưởng Sư 5 – cấp trên của Lê Khánh Nghĩa – và thiếu tá Nguyễn Bá Liên, chỉ huy phó thủy quân lục chiến. Trong bản danh sách khá dài, Luân chọn lựa mãi, anh tra cứu hồ sơ, nhờ Dung sưu tra thêm và anh đi đến kết luận: Tuyến nắm người nào thì tình báo Mỹ cũng nắm người đó. Vả lại, Tuyến không thể biết, có người do John Hing, có người do Mai Hữu Xuân chi phối. Làm một cuộc đảo chính vào thời điểm bấy giờ có lẽ không có gì dễ hơn, song, đối với Luân, mục đích và kết quả thực tế của đảo chính quan trọng hơn bản thân cuộc đảo chính. Luân thức thâu đêm với các phương án. Lật đổ Diệm, giải tán cơ cấu chính quyền hiện thời, thành lập một chính quyền có xu hướng ít nhiều dân tộc, chấp nhận thương lượng chấm dứt chiến tranh... Đó là phương án cao nhất. Muốn đạt một phương án như vậy, đảo chính phải chủ yếu gồm các lực lượng thật sự có ý thức chính trị, muốn tránh cho miền Nam đất nước cảnh chết chóc, tàn phá. Phải thanh toán chính quyền Ngô Đình Diệm thật nhanh và một chính phủ mới – đã được sửa soạn – công bố liền đường lối mới, kêu gọi Mặt trận Giải phóng ngồi vào bàn đàm phán. Như vậy, chính phủ mới phải có lực lượng nòng cốt bởi khả năng đảo chính liền sau đó – do các thế lực chống Cộng và do Mỹ điều khiển – nhất thiết xảy ra. Chính phủ mới sẽ ban bố các quyền dân chủ và Luân hy vọng quần chúng đứng lên chung quanh chính phủ mới. Có thể Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Huỳnh Văn Cao, Tôn Thất Đính, đặc biệt Mai Hữu Xuân sẽ phản ứng mạnh, kể cả Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền, Nguyễn Cao Kỳ... nhưng nếu quần chúng tham gia đông đảo, những sĩ quan kia không dám liều lĩnh, chỉ cần Lê Khánh Nghĩa thọc nhanh trung đoàn 7 vào ruột Sài Gòn! Phương án “trung sách” là Diệm đổ, một chính phủ thân Pháp cầm quyền, tuyên bố theo đuổi trương đối ngoại trung lập, tuy vẫn chống Cộng nhưng loại dần ảnh hưởng Mỹ và đến một lúc nào đó sẽ đàm phán với Mặt trận Giải phóng. Phương án này dễ nhận diện hơn cả, bởi các tướng tiêu biểu hiện nay đều xuất thân từ “lò” Pháp. Nhưng đó lại là một phương án khá cơ động – Mỹ đủ sức nắm các sĩ quan dù thân Pháp trong máu. Phương án cuối cùng, chưa thể đo lường giá trị ngay là Diệm chống cự, trận đánh kéo dài, gây xáo trộn dữ dội...
Dung dự vào công việc vạch phương án của Luân. Cô cân nhắc từng chi tiếc và gợi ra nhiều khía cạnh để Luân suy nghĩ. Dung có một điểm khác Luân – rất khác: không tán thành liên hệ với Lê Khánh Nghĩa. Lập luận của cô rõ ràng; đảo chính mở đầu chứ chưa kết thúc, Luân không có quyền bộc lộ thân phận.
Cuối tháng 9, Luân nhận được chỉ thị - sở dĩ chỉ thị chậm là vì anh Sáu Đăng phải đích thân ra Hà Nội trình bày với A.07.
“Kỵ sĩ và Mimosa không cần gặp bất cứ đồng chí lãnh đạo nào. Việc đó, để cấp trên quyết định khi thấy thích hợp. Trong ba phương án, phương án một nó quá “lý tưởng”. Hai phương án sau khả dĩ gần thực tế, song điều quan trọng nhất là phải tùy cơ ứng biến. Bất cứ tình huống nào, Kỵ sĩ và Mimosa phải giữ thân phận là người Quốc gia. Tuyệt đối không được liên hệ với LKN. Hết sức đề phòng các diễn tiến nghịch thường, bọn tình báo bấy lâu “ngửi” thực chất của Kỵ sĩ và Mimosa, nhân dịp này gây khó khăn, thậm chí hãm hại. Cố mà tạo ra các điều kiện để quần chúng nổi dậy càng rộng càng tốt. Mỹ còn rất cay cú, chúng thất bại với con bài Diệm không có nghĩa là chúng chịu thua. Tóm lại, tình hình còn phức tạp, lực lượng so sánh chưa cho phép chúng ta “dứt điểm”... Không nên coi thường việc hóa thân vào các nhóm của Tuyến, tức là của một thế lực của Mỹ. Không từ chối cương vị mà Mỹ giao. Nên phân tích thái độ của Taylor sau trận “giao hữu”.”
Chỉ thị ngắn mà rõ. Luân cầm tay Dung:
- Em giỏi lắm...
Dung nép vào Luân và sau đó ghì chặt bé Lý rồi đưa con đi ngủ, để Luân tập trung, chắc là thâu đêm. Vạch ra, xóa đi, lại vạch ra chương trình hành động. Bây giờ, đã phải tính từng ngày...
*
Tờ Cách mạng quốc gia đăng một lời rao chen lẫn giữa vô số lời rao: Bán vườn cây ăn quả: xoài riêng, măng cụt, chôm chôm tại Lái Thiêu, hoa lợi lớn. Hỏi ông Hoãn ở 26/10 đường Phan Đình Phùng.
Đến ba nơi đồng thời đặt lời rao vặt ấy dưới kiếng “lúp”.
- Họ chưa chấp nhận ngày 26-10! – Tướng Trần Thiện Khiêm uể oải trao đổi với Mai Hữu Xuân.
- Trở ngại chắc chắn là vì tướng Đính... Bao giờ? – Xuân hỏi. Khiêm nhún vai. Cả hai tiếp tục buổi câu cá trên bờ sông như họ vẫn thường ngồi chung như vậy.
- Nhóm đảo chính chọn ngày Quốc khánh 26-10 nhưng chưa được Mỹ cho phép... - Luân bảo Dung. - Hoãn có nghĩa là sẽ xảy ra và xảy ra không xa ngày 26-10 bao nhiêu...
- Ta ra tay liền sau 26-10. – Nhu bảo Luân khi Luân được gọi vào dinh Gia Long – Tôi bàn với Tôn Thất Đính thực hiện một cuộc đảo chính gọi là kế hoạch Bravo. Giải tán toàn bộ chính phủ, tống giam một số tướng tá khả nghi, thiết lập tòa án binh xét xử ngay... Tổng thống sẽ tuyên bố trao quyền cho tôi. Đây, anh xem bài tôi sẽ phát biểu trên vô tuyến.
Luân nhận tờ giấy và đọc dòng mở đầu:
“Nhân danh Chủ tịch Ủy ban cứu nước, tôi tuyên bố từ nay cho đến khi tình hình trở lại bình thường, Tổng thống Ngô Đình Diệm không đảm đương công việc nước. Chủ tịch Ủy ban cứu quốc sẽ kiêm nhiệm quyền Quốc trưởng, chủ tọa nội các và Tổng tư lệnh tối cao... ”
Nhu và Luân không hề biết, vào lúc đó, một “giáo sư” đoán điềm giải mộng và chiết tự nổi tiếng tên là Minh Tân gặp Thiếu tướng Tư lệnh quân đoàn 3 và vùng 3 chiến thuật, kiêm Tổng trấn Sài Gòn Tôn Thất Đính ở nhà riêng của thiếu tướng, theo môi giới của Ly Kai.
- Tôi ghét dị đoan! – Đính bảo – Như Huỳnh Văn Cao, bất cứ điều gì xảy ra ông ta cũng nhờ Đức Mẹ báo mộng...
- Thiếu tướng yên trí... Tôi là một nhà khoa học. Tôi chỉ phân tích trên cơ sở khoa học. Thiếu tướng, xin lỗi, tên Đính. Tôi chưa rõ cụ thân sinh đặt tên thiếu tướng theo chữ nào? Có nhiều chữ Đính...
Tôn Thất Đính cười:
- Răng mà tôi biết!
- Cũng được... Đính bộ “Thạch” có nghĩa là hòn đá cột vào neo để giữ thuyền khỏi lắc lư mà cũng có nghĩa là cây cột gỗ để cột thuyền. Đính bộ “Kim” là đóng, như đinh đóng vào cột ấy. Đính bộ “Ngôn” nghĩa là ước hẹn và giữ lời, còn có nghĩa là nơi cao nhất, ví dụ hình tam giác thì nơi chóp bu là đính. Đính thiên lập địa: đội trời đạp đất... Đính nha, cái mầm non trên chóp cây – bourgeon terminal... Đính với chừng ấy nghĩa...
Lúc đầu, Tôn Thất Đính nghe lơ đãng, nhưng càng về sau càng chú ý.
- Lạ thật! – Đính nói thầm – Quả là điềm lành... Tên ta không có một nghĩa nào xấu cả? Nhất là cái nghĩa sommet của một triangle (5)... Tam đầu chế!
Đính thưởng cho “giáo sư” Minh Tân thật hậu.
Hôm sau, Đính vui miệng khoe với Luân về những kỳ ảo quanh cái tên của mình.
Luân chia vui với Đính. Luân biết gã thầy bói còn giấu ba cái nghĩa xấu của chữ “đính”. Một là “say rượu” hai là “cúi đầu sát đất”, ba là “mạo tên người khác”... Có vẻ ba cái nghĩa sau thích hợp với viên tướng hoàng tộc này hơn. Và, Luân tư lự:
- “Bravo” sẽ tiếp sau như thế nào?
---
(1) Những vấn đề nội tại của Nam Việt.
(2) Xin lỗi! Tôi bận. Đại tá Luân đang có mặt ở đây. Ông có muốn nói chuyện với ông ấy không?
(3) Vừa đánh vừa rút lui
(4) tức Afghanistan
(5) Đỉnh của tam giác.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #27  
Old 12-08-2012, 12:38 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 8 - Chương 1, 2

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 8 - Chương 1

Vòng hoa trước mộ


Giữa tháng 9, chính phủ Ngô Đình Diệm tung ra một đòn ngoạn mục: chấm dứt tình trạng giới nghiêm trên toàn quốc kể từ 12 giờ trưa ngày 14. Thoạt nhìn, người ta có thể ngỡ rằng nội tình Việt Nam Cộng hòa đã được ổn định. Tổng thống Ngô Đình Diệm có vẻ lờ mờ về một hiện thực như vậy, trong khi cố vấn Ngô Đình Nhu có một cái nhìn khác hẳn.
Nhu không rời bỏ chủ trương cho nổ ra một cuộc đảo chính giả để quét mọi thế lực chống đối theo kế hoạch mà anh ta đã trao đổi với Luân. Sở dĩ Nhu chưa bật đèn xanh cho Tôn Thất Đính là vì anh ta muốn Tổng ủy tình báo đánh giá thật chặt chẽ khả năng lợi dụng của Việt Cộng một khi Hội đồng cứu quốc do Nhu điều khiển thay cho chính phủ. Nhu cũng muốn chờ tin tức của Trần Lệ Xuân trong chuyến đi “giải độc”, nhất là tại Mỹ. Theo Nhu, biện pháp cứng rắn của Việt Nam Cộng hòa phải được sự đồng tình của một bộ phận dư luận Mỹ, đặc biệt là thượng nghị viện. Ngày 20-9, khối Á – Phi, với lời lẽ ôn hoà, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa trình bày trước Đại hội đồng Liên hợp quốc vấn đề Phật giáo. Như vậy, bản thân khối Á – Phi cũng không hoàn toàn đồng nhất với kiến nghị do Afghanistan, Nepal và Cambodia đề xuất. Trên tất cả, một vài nguồn tin phần nào khích lệ Nhu: Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn phân hóa, một bộ phận chống Ngô Đình Diệm, một bộ phận ủng hộ. Trước khi rời Việt Nam sang Arabie Seoudite, giáo sư Fishell đã gặp Nhu. Hơn 2 tiếng đồng hồ, Nhu và Fishell trao đổi như hai người bạn chí thân, thông cảm và chia xẻ với nhau mọi phấn khởi và lo lắng. Fishell không giấu giếm về sức ép ngày một tăng trong giới cầm quyền Mỹ cho một sự thay đổi căn bản ở Nam Việt Nam mà tổng thống Ngô Đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu là mục tiêu hàng đầu. Nhưng tay trùm CIA nhấn mạnh rằng tổng thống Kennedy đủ sáng suốt để thấy Ngô Đình Diệm là nhân vật không thể thay thế được trong sự nghiệp chiến thắng Cộng sản trên bán đảo Đông Dương và là tối cần thiết đối với sự có mặt của mặt tại khu vực Đông Nam Á. Tất nhiên, vấn đề Phật giáo đang gây rầy rà cho Diệm, nếu chính phủ Việt Nam Cộng hòa xử lý thật gọn vấn đề này thì quả bong bóng chống Diệm sẽ lập tức xẹp xuống – Fishell khuyên nhủ Nhu như vậy. “Xử lý bằng cách nào, tùy các ngài, miễn là nó không đẻ số. Cách nào cũng phải thật gọn”. Fishell nói thêm. Nhu không hé môi với Fishell về kế hoạch “Bravo” nhưng rõ ràng quan điểm của Fishell phù hợp với quan điểm của Nhu.
Nhu nhận được một điện tín của Trần Lệ Xuân gửi từ Belgrade:
“Hội nghị liên hiệp nghị sĩ thế giới vừa bế mạc. Đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã trình bày đầy đủ, với nhiều tài liệu và hình ảnh, về chính sách của Việt Nam Cộng hòa đối với Phật giáo cũng như đối với tín ngưỡng và nhân quyền nói chung. Trừ các phái đoàn Cộng sản và một số nước không Cộng sản bị thông tin xuyên tạc, hầu hết các phái đoàn đại biểu hoan nghênh chính sách của chúng ta cũng như cám ơn đoàn đại biểu chúng ta đã cung cấp cho họ những sự thật không thể chối cãi. Khác với nhận định khi chúng tôi còn ở nhà, vị thế của Việt Nam Cộng hòa không vì vấn đề Phật giáo mà lung lay. Qua hội nghị này, chúng tôi thấy rõ sự cần thiết phải gấp rút “giải độc” dư luận chung trên thế giới. Đề nghị chính phủ cử thêm nhiều đoàn công cán nước ngoài, nếu được một số nhà sư có tên tuổi trong các đoàn công cán ấy thì rất có lợi... ”
Điện tín bổ sung cho cuộc nói chuyện bằng điện thoại giữa Nhu và Lệ Xuân:
- Anh đó hả? Em đây...
- Em khỏe không?
- Khỏe. Rất khỏe! Anh thế nào? Nên nghỉ ngơi, anh nhé. Tình hình sẽ bình thường thôi. Các con thế nào? Anh Tổng thống khỏe không? Gia đình có việc gì mới không?
- Bình thường... Em nhớ tranh thủ thêm nhiều bạn, cân nhắc lời lẽ. Anh mừng thấy việc làm của em thu kết quả tốt. Anh Tổng thống cũng mừng.
- Cân nhắc lời lẽ là thế nào? Không đánh động dư luận một cách mạnh mẽ thì không bịt mồm được bọn nói láo và không tỉnh ngộ được bạn bè. Anh tin là em làm bất cứ việc gì cũng đều suy xét cẩn thận. Ra ngoài em mới thấy lối nhượng bộ của chúng ta là vô cùng tai hại. Em đã điện cho giáo sư Bửu Hội phải phát hành một kháng thư phản đối việc Đại hội đồng Liên hiệp quốc mang nội tình của Việt Nam Cộng hòa ra thảo luận... Em sắp bay sang Balê. Có thể gặp Đức cha ở đó, trước khi Đức cha triều kiến Giáo hoàng. Nếu Đức cha đồng ý em sẽ sang La Mã...
- Có nên không?
- Nên. Rất nên! Em và Lệ Thủy sẽ thăm Hy Lạp... Mẹ con em thanh thản như người du lịch.
- Chúc em mạnh, vui... Hôn Lệ Thủy.
- Nếu em chưa về, anh có định sang Pháp không? Em muốn gặp anh, rất nhớ anh. Lệ Thủy nhớ ba lắm.
- Anh chưa định... công việc còn bề bộn qua...
- Vụ “Triangle”...
-... Anh định nhờ anh Luân lo.
- Được lắm... Thôi, hôn anh nhiều, hôn các con. Kính chào Tổng thống. Thăm gia đình. Anh nói giùm với Thùy Dung: Cô ấy đừng quên điều em dặn tại sân bay... Lệ Thủy đi chơi, nó sẽ tiếc không được nói chuyện với ba...
*
- Tôi bàn với anh một việc tuyệt mật và thượng khẩn... – Nhu bảo Luân vào buổi sáng đầu tháng 10.
Mở đầu trịnh trọng như vậy nhưng Nhu lại không vào đề ngay. Anh ta hớp từng hớp cà phê, mắt dò xét Luân. “Việc gì?”. Luân chưa đoán ra. Kế hoạch “Bravo”? Thì Nhu đã lật sấp lật ngửa, thậm chí đã đưa cho Luân đọc bản thông cáo viết sẵn một khi “cuộc đảo chính” do Nhu đạo diễn nổ ra. Hay Nhu định phái anh vào chiến khu gặp “phía bên kia”? Không chắc. Gần đây. Nhu ít trở lại đề tài này, có vẻ anh ta cho rằng con đường thỏa hiệp với Mặt trận dân tộc giải phóng mất hết các cơ sở hiện thực. Thế thì việc gì?
Tách cà phê đã cạn, Nhu ngả người rít thuốc.
Đến 10 phút trôi qua.
- Tôi suy tính kỹ rồi, chỉ có anh gánh vác nổi việc này. Anh đừng băn khoăn tại sao tôi rào đón và ngập ngừng trrước khi nói với anh. Anh còn nhớ một lần, sau vụ Nguyễn Chánh Thi, lúc Nolting mới sang, tôi có trao đổi với anh về tài chính của ta.
Luân nhớ, bấy giờ để trả lời lo lắng của Luân về khả năng dùng áp lực tài chính để bóp cổ chế độ Nam Việt của Tổng thống Diệm, Nhu bảo rằng anh ta “có cách”. “Cách” của Nhu không phải là một khẩu hiệu chính trị. Lúc đó, Luân mơ hồ.
Nhu hỏi Luân, rất nghiêm chỉnh:
- Có khi nào anh nghe nhắc một người thuộc dân đảo Corse, tên Francisci hay không?
- Có, ông ta là trùm buôn nha phiến...
- Đúng rồi... Thế, có khi nào anh nghe nói đến “Tam giác vàng” không?
- Báo chí thế giới nhắc đến khu vực này không chỉ một lần...
- Công việc mà tôi sắp bàn với anh liên quan đến tên người và tên địa phương đó.
Luân bị bất ngờ. Cái mà Nhu gọi là “tuyệt mật” và “thượng khẩn” lại liên quan đến một tên buôn lậu nha phiến sừng sỏ và khu vực sản xuấtkhối lượng lớn nhất thứ hàng hóa giết người này.
- Chắc anh phân vân. Chẳng lẽ anh lại xếp tôi vào hạng buôn lậu nha phiến? – Nhu cười.
Luân cố kiềm chế để không nhìn đôi môi bắt đầu thâm của Nhu. Những người chống Nhu rêu rao Nhu nghiện á phiện từ nhiều chục năm, Luân biết không phải như vậy: Nhu mới đánh bạn với ả phù dung vài tháng nay, có thể từ sau biến cố Phật giáo ở Huế. Anh ta cần “ngoại viện” cho bộ não thêm hưng phấn trước bao nhiêu là sự cố dồn đập, toàn là sự cố thách thức sự tồn vong của chế độ Nam Việt. Chẳng rõ Trần Lệ Xuân phản ứng cái tật nguy hiểm này ra sao, riêng Luân, đôi lần theo lối thông cảm bạn bè, khuyên Nhu nên tránh hoặc nên bớt hút. Mỗi lần như vậy, Nhu chỉ thở dài. Anh ta thừa hiểu tác hại của mỗi liều á phiện. Nhưng, - Luân đoán – anh ta quá mệt mỏi.
Dù sao, việc mà Nhu sắp giao cho Luân không phải do nhu cầu riêng của Nhu – nó chẳng là bao; vài cân thuốc phiện dự trữ là quá thừa...
- Chính phủ Mỹ giảm viện trợ kinh tế cho chúng ta. Không loại trừ khả năng, đến một lúc nào đó, họ dùng viện trợ để đánh chúng ta một cú quyết định. Tôi không muốn ngã quỵ như một tên ăn xin, khi kẻ cho tiền khóa tủ sắt, chúng ta chỉ còn nước đầu hàng. Những chuyến buôn nha phiến đã giúp chúng ta chống đỡ, từ năm 1962 đến nay. Chúng ta đang cần rất nhiều tiền. Nhưng những cơ sở chế biến heroine đặt ở Bắc Lào nay không còn an toàn vì Pathét Lào mở rộng vùng kiểm soát của họ, tình hình ở Kontum cũng xáo trộn vì bọn Fulro lẫn lực lượng Mặt trận Giải phóng. Cơ sở chính của chúng ta đặt trong khu tam giác Lào – Trung Quốc – Miến Điện. Cần thêm vài đường băng cho máy bay sử dụng, cần thêm một số máy móc cho xưởng chế biến mở rộng. Anh cũng biết, “Tam giác vàng” luôn luôn rất an ninh bởi nó là vùng biên giới, thường hứng chịu các cuộc hành quân của nước này hay nước kia – kỳ thật, lực lượng biên phòng của mỗi nước không nhượng cho ai giữ độc quyền sản xuất heroine. Còn tàn quân của Tưởng Giới Thạch, còn các nhóm ly khai và nhất là còn sự can thiệp ráo tiết của tổ chức buôn lậu nha phiến quốc tế mà tổng hành dinh đặt tại Bangkok. Anh cần đến đó mộtlần để đánh giá khả năng phòng thủ và anh cho tôi biết kế hoạch tăng cường lực lượng vũ trang của chúng ta. Tôi đặt thiếu tá Nguyễn Thuần dưới quyền anh. Thiếu tá Thuần khá thành thạo vì trước đây anh ta thực hiện chỉ thị của Trần Kim Tuyến. Thuần là người có thể tin cậy được, nhưng cần phải giấu kín với Nguyễn Cao Kỳ... Tôi nói trước với anh: chuyến đi khá nguy hiểm và, tôi chỉ yêu cầu anh mỗi việc nghiên cứu cách bố phòng.
Do đó, thời gian cũng eo hẹp – anh chỉ được tối đa là 10 ngày để lập một tờ trình, kể cả ngày đi và ngày về. Mọi chi tiết, thiếu tá Thuần sẽ báo cáo với anh...
“Nguyễn Thuần? À, gã sĩ quan không quân gặp Dung ở biệt điện Ban Mê Thuột, trươc vụ ám sát hụt Ngô Đình Diệm... ” - Luân nhớ lại. - “Hình như anh ta gọi điện thoại xin lỗi Dung, nói rằng anh ta “làm quen” sỗ sàng với Dung không do ý riêng mà do “một mệnh lệnh” từ đâu đó...
Thôi được, bây giờ là việc thi hành ý kiến của Nhu... Ta sẽ có lợi gì? Chẳng lẽ chuyển nghề thành “nhân viên kinh tài” cho Diệm – Nhu? Và “cách” Nhu giãy giụa khỏi thòng lọng tài chính của Mỹ là đây!
Còn gã Trần Kim Tuyến nữa, trong các thứ hắn “sang sổ” cho mình, tuyệt nhiên không nhắc một lời về vụ pha phiến này... Gã lại đang ở Bangkok, tổng hành dinh của các “băng” buôn lậu... Có thể do đó mà Nhu sợ?... ”
- Cần chăng một tổ chức như GMCA của Roger Triquier? - Luân hỏi.
GMCA, chữ tắt của Groupe Mobile des Commandos Aeroportés – Nhóm biệt kích không vận cơ động.
- Chà! Anh thông thạo dữ! – Nhu kinh ngạc ngó Luân – Có thể không cần đến mức đó...
- Lúc tôi làm trưởng sở mật vụ kháng chiến, tên tuổi của viên thiếu tá Roger Trinquier cùng đội biệt kích của y thường xuất hiện trên các bản tin riêng. Y tuyển một lính sơn cước và hoạt động trong phạm vi “xứ Thái tự trị” ở Tây Bắc Việt và Bắc Lào, nơi sản xuất một lượng á phiện đáng kể...
- Tình hình thay đổi, đã thay đổi nhiều! – Nhu thở dài – Hơn 10 năm rồi, còn gì! Trinquier vẫy vùng được nhờ địa bàn thuộc quân đội Pháp kiểm soát. Chắc anh thấy rõ, quân đội Pháp chết sống bám Nà Sản, Xiêng Khoảng, Điện Biên Phủ... không đơn thuần vì quan điểm chiến lược. Á phiện giữ một tỷ lệ không nhỏ trong quyết định của người Pháp...
Nhu bộc lộ một luyến tiếc: Khu “Tam giác vàng” nằm ngoài khả năng khống chế của chính phủ Sài Gòn. Lúc bấy giờ, đầu những năm 1950 Trinquier thu á phiện sống, thường vào tháng 4, đưa về Vũng Tàu bằng máy bay quân sự. Từ Vũng Tàu, á phiện chuyển thẳng theo đường sông Soài Rạp hoặc đường bộ giao cho Bình Xuyên. Sĩ quan tình báo Savani chịu trách nhiệm kiểm tra các mối phân phối của Bình Xuyên chủ yếu qua Ly Kai và các nhóm người Hoa Chợ Lớn. Riêng Bảy Viễn, hắn có nhiều cơ sở chế biến đặt ngay trung tâm thành phố, tất nhiên ngụy trang với một cái tên nào đó. Thật sự, cả Bảo Đại lẫn Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm đều chia chác với Bảy Viễn, số tiền lên đến hàng trăm nghìn dollar... Sau này, những tên Pháp có máu mặt giành phần với số người Hoa – như Franchini, chủ khách sạn lớn Continetal: á phiện sơ chế hoặc tinh luyện tìm được nơi tiêu thụ quan trọng là các hải cảng trên nước Pháp.
Pháp rút khỏi Đông Dương đồng nghĩa với sự cáo chung của đường dây buôn á phiện so Pháp bảo trợ. Nhu và Tuyến không bỏ lỡ cơ hội Trinquier, Franchini, Bảy Viễn bị tước đoạt mọi thứ và thay vào đó bằng bộ máy: vẫn những người Pháp dày dạn kinh nghiệm thu mua, vận chuyển và chế biến mà xưa kia vốn là đàn em; vẫn những người Hoa đông khách hàng. Francisci và Mã Tuyên nổi lên như “người hùng” của ngành buôn lậu á phiện, bây giờ, do Ngô Đình Nhu bảo trợ.
Tàn dư của Trinquier chưa chịu bó tay. Nhưng Francisci thừa sức cho xộ khám hoặc tán gia bại sản những tên dám léo hánh đến “vương quốc á phiện” của anh ta như Enjahal, Labenski...
- Anh lưu ý thêm sức chở, máy bay hai động cơ chỉ có thể mang non một tấn á phiện sống. Ít quá... Vả lại, từ “Tam giác vàng” về Sài Gòn, gần hàng nghìn cây số đường bay. Chúng ta bắt buộc phải bay trên không phận Lào đến Hạ Lào mới chuyển hướng sang cao nguyên Trung phần... Không thể không tiếp nhiên liệu ở sân bay Vattay Vientiane, sân bay Savanakhet, sân bay Liên Khương Đà Lạt... Hiện nay, còn có thể thả dù trên vịnh Thái Lan song đường bay khó đảm bảo, dễ lộ bí mật nếu ta dùng Phú Quốc làm trạm. Không thể thả dù ở biển Đông, thả gần bờ thì đụng thuyền đánh cá, thả ngoài khơi thì đụng tàu tuần của Mỹ. Nhất thiết “hàng” phải xuống sân bay Biên Hòa. Đáng tiếc căn cứ Sa Thầy đành đóng cửa nay mai, ta không thể chuyển tải được bằng trực thăng ra vịnh Cam Ranh. Cũng có vài đường băng đón máy bay hai động cơ, nhưng phần lớn của các đồn điền cao su Pháp... Tôi đã nghĩ đến vùng biên giới Nam phần giáp Cambốt đó là một chuyện sắp tới... Gọn hơn hết, ta chiết suất morphine, heroine tại “Tam giác vàng”, trọng tải nhẹ...
- Francisci liên quan như thế nào với Savani?- Luân hỏi.
- Cho tới bây giờ, không thấy dấu hiệu về sự liên quan đó... Chắc anh ngại Mai Hữu Xuân? Francisci ít về Sài Gòn và tôi có tài liệu về thái độ cay cú của Mai Hữu Xuân với Francisci... Xuân là bạn thân của Franchini.
- Nguyễn Cao Kỳ?
- Hắn từng được ông Tuyến giao vận chuyển “hàng”. Hắn và bạn bè của hắn như Lưu Kim Cương, Nguyễn Ngọc Loan nắm khá sâu công việc... Anh nên cẩn thận.
Nhu căn dặn Luân y như giao cho anh một kế hoạch quan trọng, một chiến dịch cỡ “Bravo” chẳng hạn.
Nhìn đối thủ của mình, Luân man mác trong lòng niềm thương hại: Nhà tư tưởng, nhà chiến lược của triều đình họ Ngô dồn tâm trí cho một cái râu ria của đại cuộc, tầm nhìn xa của anh ta chỉ đóng khung trong tuyến buôn lậu nha phiến và khói thuốc phiện quả rất giống lớp sương mù huyễn hoặc Nhu đến độ anh ta thổi phồng những cân bạch phiến lên mức cứu tinh toàn chế độ...
- Giá mà “Tam giác vàng” nằm ở một nơi như Xuân Lộc! – Nhu nói giọng tiếc rẻ. Luân cho rằng Nhu than thở về sự cách trở đối với nguồn tài chính mà anh ta cần. Nhưng, không phải, bởi Nhu nói tiếp:
- “Tam giác vàng” ở Xuân Lộc, ở Hớn Quản, ở Bảo Lộc... Chúng ta sẽ xây dựng chiến khu tại một nơi tuyệt vời như vậy!
Luân cố giấu nụ cười mỉa. Nhu dự kiến cả chiến khu, thật trớ trêu, chiến khu mà Nhu tưởng tượng dính dáng với những cây anh túc cho chất nhựa, ru con người những phút lâng lâng quên đời, hoặc – trộn với giấm thanh – đẩy vào cái chết vô phương cứu chữa...
*
AI ĐÃ ĐẨY TỔNG THỐNG KENNEDY VÀO CON ĐƯỜNG BẾ TẮC Ở VIỆT NAM
(Frank Connif – New York American Journal).
Chúng ta đang mắc vào mớ chỉ rối ở Việt Nam và có lẽ đã đến lúc cần xem xét vì đâu chúng ta lại bị sa trong vũng lầy đó.
Tổng thống Kennedy dường như đã bảo đảm cho Bộ Ngoại giao thì hành một kế hoạch để phá hoại một chính phủ đồng minh đang chiến đấu chống Cộng sản, bằng những mưu kế nửa mùa.
Không một ai đầy đủ lý trí lại dám chê trách gì Tổng thống Kennedy về việc để mất nước Cuba lọt vào tay Cộng sản bởi vì vụ ấy đã xảy ra từ thời Tổng thống Eisenhower với sự góp sức của hệ thống tin tức của nó: tờ New York Times. Cũng trong tình trạng này, sẽ không một ai có thể tha thứ cho Tổng thống Kennedy nếu ông bắt chước những hành động trong thời Eisenhower bằng cách chấp thuận việc lật đổ một chính phủ đã từng chiến đấu chống Cộng trong 9 năm trường như Eisenhower đã bỏ rơi Batista vào lúc nguy nan nhất.
Việt Nam là một món quà của tờ New York Times tặng Tổng thống Kennedy thuộc loại một trái bom chính trị nổ chậm chẳng khác nào trước đây họ tặng Cuba cho Tổng thống Eisenhower.
Hơn nữa, không căn cứ vào những bài tường thuật mà chỉ vào quyết định của những bài bình luận, tờ New York Times đã biến đổi một cuộc tranh chấp chính trị nội bộ thành một cuộc chiến tranh giữa những người Công giáo và những người Phật giáo. Quả thật không cần ai vẽ cho ông Kennedy mới biết về ảnh hưởng chính trị của lời phỏng định hoàn toàn sai lầm đó...
Cần phải nhắc rằng, ngày 8-5-1963, cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và các tín đồ Phật giáo bùng nổ thì 10 ngày sau, tướng Maxwell Taylor, chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ đã tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn dành cho tập đoàn báo chí Hearst: Tôi có thể nói là cuộc chiến tranh ấy đang diễn tiến khá tốt đẹp; chúng tôi đang đạt được những thắng lợi thật sự, từng tháng một...
Giữa lúc đó thì việc gì đã xảy ra? Tổng hội Phật giáo tiếp tục hoạt động bí mật chống chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, gây ra một cuộc tuyên truyền phá hoại mà không một chính phủ nào có thể tha thứ được trong thời kỳ chiến tranh.
Bây giờ thì tờ New York Times đòi “triệt hạ” Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ a dua theo luận điệu đó và Tổng thống Kennedy đã nghe họ. Nhưng chỉ mới đây thôi, chính trị cố vấn quân sự mà Tổng thống Hoa Kỳ tự ý lựa chọn để mạt sát những cố gắng về chiến tranh tại Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Hai thái độ này quả là không ăn khớp với nhau chút nào.
Quan niệm của chúng tôi là:
Nếu có bao giờ cần phải chờ để cho bụi lắng xuống, thì đó chính là lúc mà cuộc tranh chấp giữa Tổng thống Ngô Đình Diệm và Phật giáo đồ trở nên công khai. Chúng ta không biết rõ rệt về những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì Tổng thống Kennedy và Bộ Ngoại giao có thể chờ đợi cho đến khi sự thật rõ ràng ra đã. Nhưng thay vì làm như vậy, chính phủ một lần nữa lại ngoan ngoãn nghe theo lối bình luận của tờ New York Times. Họ sẽ bị gậy ông đập lưng ông!
*
ĐÀI PHÁT THANH AUSTRALIA PHỎNG VẤN TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM
(Do phóng viên phụ trách Đông Nam Á Peter Barnett thực hiện)
HỎI: Những cuộc tranh chấp mới đây (với Phật giáo đồ) có dấu hiệu nào tỏ ra có ảnh hưởng đến tinh hình chính sự của miền Nam Việt Nam hay ảnh hưởng đến tinh thần của các sĩ quan và binh sĩ hiện đang hành quân không?
ĐÁP: Có và không. Có, vì rằng lúc đầu nhờ ở sự ngụy trang hết sức khéo léo, chiến dịch tuyên truyền do một nhóm nhà sư phản loạn phát động đã tạo được đôi chút ảnh hưởng tại một vài thị trấn, phần lớn là trong số các phụ nữ đã đứng tuổi và các thanh niên.
Không, vì càng ngày chiến dịch đó càng mở rộng, những sự bịa đặt quá đáng và những mục tiêu chính trị phản quốc gia ngày càng trở nên rõ rệt và đã gây ra một ảnh hưởng ngược lại, nghĩa là làm cho quân đội căm phẫn và đoàn kết. Sự kiện đó đã đưa tới việc ban hành tình trạng giới nghiêm như ông đã thấy.
Thật là một điều hết sức đáng tiếc là báo chí ngoại quốc đã đóng một vai trò chính yếu đầu độc dư luận thế giới, về “vụ Phật giáo” này. Thật ra vụ Phật giáo có rất ít tính cách Phật giáo và hơn nữa còn đi ngược những quyền lợi cao cả của Phật giáo.
HỎI: trong giai đoạn hiện tại, Tổng thống có thấy cách nào vượt qua những sự bất đồng chính kiến giữa Tổng thống với các đồng minh của Tổng thống không?
ĐÁP: Hiện đang có một âm mưu quốc tế lớn lao, song song với âm mưu Cộng sản quốc tế chống lại chính phủ Việt Nam.
Khi thi hành tình trạng giới nghiêm, quân đội đã tịch thu tại các chùa nhiều tài liệu, hiện đang còn được nghiên cứu. Những tài liệu này chứng tỏ một âm mưu rộng lớn đã được sắp đặt chống chính phủ chúng tôi. Một trong những căn bản của âm mưu ấy là chiến dịch đầu độc dư luận quốc tế như hiện đang diễn ra trước mắt ông.
Các bạn hữu của Việt Nam có bổn phận làm sang tỏ dư luận nhân dân nước họ, giải độc thế giới tự do, hơn là đòi hỏi chúng tôi phải làm việc đó, vì chúng tôi chỉ là nạn nhân của chiến dịch đó mà thôi. Nếu không có sự giúp đỡ đó, chúng tôi quả thật không thể vừa làm được công việc đó, vừa tiếp tục cuộc chiến tranh chống Cộng sản.
HỎI: Tổng thống có thể cho chúng tôi biết ý kiến về các tin đồn rằng có những người trong gia đình Tổng thống muốn đảm nhiệm việc điều khiển quốc gia thay Tổng thống không?
ĐÁP: Những tin đồn ấy là một trong những khí giới chính yếu của chiến dịch đầu độc khổng lồ nhắm nhiều mục tiêu cùng lúc: làm nản lòng những người có thiện chí, cắt đứt Việt Nam với các đồng minh, gây chia rẽ giữa nhân dân và chính phủ, gieo rắc sự ngờ vực và hoang mang khắp nơi v.v... Đó là cuộc chiến tranh cân não phụ họa vào cuộc chiến tranh nóng mà tôi cần vượt qua.
Tôi có thể bảo đảm với ông rằng, không có một người nào trong gia đình tôi muốn chiếm đoạt địa vị của tôi. Trong tình thế hiện tại, địa vị ấy thật không có gì đáng mong muốn cho lắm!
Những kẻ muốn thay thế tôi chỉ nghĩ đến việc ấy khi trong thâm tâm họ tưởng rằng có một cường quốc bảo hộ nào đó sẽ đảm nhiệm trên thực tế những trách vụ nặng nề của vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng cường quốc ấy không bao giờ có.
*
ĐẠI SỨ CABOT LODGE KHÔNG PHẢI LÀ NGƯỜI ĐE DỌA RỔNG TUẾCH
(Bài của báo New York Forum)
Tổng thống Kennedy đã hoạt động một cách sốt sắng và vất vả trong vụ khủng hoảng ở Việt Nam, nhưng ông đã thất bại.
Trước hết là Tổng thống Kennedy đã không nhận thức được sớm hơn tính cách quan trọng của cuộc khủng hoảng và các Phật giáo đồ đã châm ngòi vào kho thuốc súng. Tổng thống đã để cho tình thế rối nát đến mức ông không còn biết xử sự cách nào nữa.
Vì không biết xử sự cách nào nên dĩ nhiên là Tổng thống đã làm những việc không nên làm. Đáng lẽ đừng làm gì cả khi người ta không biết chắc cần phải làm gì. Tổng thống lại bắt đầu lên tiếng. Việc đó đã làm cho tình trở nên tệ hại hơn nữa, bởi vì Tổng thống đã nói những điều không đúng, không đúng lúc và cũng không đúng chỗ.
Ngoài ra, cũng có nhiều người khác lên tiếng nữa. Một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao đã tuyên bố về nhiều việc rất tế nhị, chẳng hạn như việc thay thế và lật đổ một chính phủ ngoại quốc. Và chỉ cốt để cho nhân dân Việt Nam thấy rõ điều đó, Đài tiếng nói Hoa Kỳ liền phát thanh những lời tuyên bố ấy. Kết quả, cả Tổng thống Kennedy và các cộng sự viên của ông với những lời tuyên bố lảm nhảm đó, đã không làm được gì hơn là để lộ cho người ta thấy rõ sự thất bại, sự mất bình tĩnh và sự phân vân của họ.
Đây quả thật là những đám mây mờ Á châu.
Họ đã nói rõ là họ muốn tổ chức lại hoặc lật đổ chính phủ “độc tài” của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Và cũng sau đó, họ lại nói một cách không kém rõ ràng là họ không muốn lật đổ chể độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nếu việc này là một sự mạo hiểm có thể dẫn tới việc đưa toàn thể miền Nam Việt Nam vào chế độ Cộng sản.
Tổng thống Kennedy bây giờ có thể nhận ra rằng tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông cần phải đề cao các nhà chuyên nghiệp trách nhiệm giải quyết. Nói cho cùng, chúng ta đã có một nhà ngoại giao giàu kinh nghiệm ngay tại chỗ là Đại sứ Cabot Lodge. Đại sứ là người không khờ dại công khai đe dọa rỗng tuếc.
Dùng biện pháp ngoại giao ôn hòa, đại sứ có thể đem lại yên ổn nội bộ tại Việt Nam và giữa Sài Gòn và Washington.
*
TUYÊN BỐ CỦA CỐ VẤN NGÔ ĐÌNH NHU
(tại cuộc họp báo ở dinh Gia Long)
Theo cái đà tiến triển chung hiện nay của nước nhà, tôi tin rằng trong 2 năm nữa, mình (người Việt miền Nam nói chung) sẽ có đủ tự do, tự do ngôn luận, tự do hội họp v.v... Tuy nhiên mình cũng phải biết tránh sự phá hoại của Cộng sản lợi dụng tự do của mình mà đập mình. Thời gian 2 năm không phải cái mức nhất định, mà mình tranh đấu tới cấp nào thì hưởng tới cấp đó. Không phải tranh đấu tới với chính phủ Ngô Đình Diệm, mà mình phải biết đặt đối tượng tranh đấu. Đối tượng tranh đấu của chúng ta hiện nay là Phong – Thực – Cộng. Mà Phong – Thực – Cộng ở đâu? Chính ở ngay trong mình và ở chung quanh mình.
*
Trả lời phỏng vấn vô tuyến truyền hình NBC của Tổng thống Mỹ Kennedy (tóm tắt)
1- Không có sự rút lui của quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
2- Nếu Việt Nam Cộng hòa sụp đổ thì toàn miền Đông Nam Á sẽ sụp đổ theo.
3- Hoa Kỳ không thể mong mỏi Việt Nam làm bất cứ điều gì theo ý muốn của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ mong chính phủ miền Nam Việt Nam áp dụng những biện pháp cần thiết hầu có thể lấy lại sự ủng hộ của dân chúng; việc này cần một khoảng thời gian và chúng ta cần phải kiên nhẫn. Bất kể như thế nào, không thể để tình hình phát triển như đã phát triển ở Trung Quốc sau Thế chiến thứ hai. Trung ương tình báo Mỹ không làm bất cứ điều gì để chống lại chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giám đốc trung tâm, ông McCone thường xuyên tham dự Hội đồng an ninh quốc gia và chính tôi – Tổng thống Mỹ - quyết định chính sách chứ không phải ai khác. Có nhiều người Mỹ sốt ruột trước các diễn biến ở Đông Nam Á, khuyên chính phủ Mỹ nên rút lui. Như vậy, chỉ có lợi cho Cộng sản. Tôi tưởng, chúng ta nên ở lại. Chúng ta nên sử dụng ảnh hưởng của chúng ta một cách hết sức hữu hiệu nhưng chúng ta không nên rút lui.
*
CUỘC ĐẢO CHÍNH BẤT THÀNH ĐÃ ĐẶT HOA KỲ VÀO MỘT TÌNH TRẠNG LÚNG TÚNG VỀ VẤN ĐỀ VIỆT NAM
(Washington Post).
Bây giờ đã rõ ràng là trong tuần lễ trước, một số nhà lãnh đạo dân chính và quân sự Việt Nam, với sự khuyến khích của Hoa Kỳ, đã dự định hoạt động để lật đổ chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm hay ít nữa cũng loại ra khỏi chế độ ấy ảnh hưởng của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ Tổng thống.
Nhưng vào khoảng giữa tuần, vì những lý do mà ở Washington người ta chưa biết được rõ rệt, các nhà lãnh đạo dân chính và quân sự ấy đã quyết định bỏ rơi tất cả. Tuy vậy, vào ngày thứ hai tuần này, Tổng thống Kennedy lại tuyên bố rằng chế độ ở Việt Nam cần phải thay đổi “về chính sách hoặc có thể về nhân viên”.
Sự thật là sự khuyến khích một cuộc đảo chính của Hoa Kỳ không có nghĩa đó phải là một cuộc đảo chính do cơ quan tình báo Trung ương điều khiển. Các nhân vật hữu trách ở đây quả quyết như thế.
Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ đã minh xác – và hiện nay vẫn còn tiếp tục minh xác như thế - rằng Hoa Kỳ quan tâm hơn hết một chính phủ cương quyết theo đuổi cuộc chiến tranh chống Việt Cộng một cách thắng lợi.
Như thế, đường lối của chính phủ Hoa Kỳ hiện nay tóm tắt như sau: Hoa Kỳ quan tâm nhiều đến những việc đang xảy ra hơn là việc ai cầm quyền. Rõ ràng là những người đang nắm quyền chính hiện này là Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu cùng phu nhân, đã bắt đầu làm trở ngại cuộc điều khiển chiến tranh vì họ, đã làm cho dân chúng Việt Nam thất vọng.
Những lời nhận xét của Tổng thống Kennedy, sau khi cuộc đảo chính không xảy ra, nhằm mục đích để cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu biết rằng Hoa Kỳ vẫn chưa hài lòng. Có thể Tổng thống Ngô Đình Diệm đã trả lời về vấn đề này trong cuộc phỏng vấn ngày hôm qua dành cho hãng thông tấn Associated Press về vụ Phật giáo và sinh viên.
Điều người ta nghi ngờ ở đây là ông Ngô Đình Nhu có thể tin rằng ông có thể điều đình với Bắc Việt và lời tuyên bố của Tổng thống Pháp De Gaulle hôm gần đây có thể khuyến khích ông Nhu đi theo một đường lối như vậy. (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn ngày 5-9-1963 dành cho các ký giả ngoại quốc, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng việc thành lập một chính phủ liên hiệp với Bắc Việt phải có nhiều điều kiện tiên quyết, và lúc này không phải là lúc đề cập tới vấn đề đó).
Tuy nhiên, các nhân vật hữu trách ở đây cho rằng ý định dùng Pháp để thay thế Hoa Kỳ - như một vài người nghĩ rằng ông Ngô Đình Nhu có thể cho là việc ấy làm được – là một sự khôi hài rõ rệt, vì chỉ có một mình Hoa Kỳ mới có đủ quân sự và muốn dùng quân lực ấy trong cuộc chiến tranh chống Việt Cộng (L.T.S. – Trong cuộc phỏng vấn dành cho ký giả ngoại quốc hôm 5-9-1963, ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã nói rằng các lời tuyên bố của tướng De Gaulle có thể nhắm vào những viễn ảnh xa xôi của vị Quốc trưởng Pháp).
Ngày nay, Hoa Kỳ trong tình trạng lúng túng, mặc dù không ai muốn thú nhận như thế. Nếu ông Ngô Đình Nhu vẫn còn giữ chức vị thì dù cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nói thế nào đi nữa, Washington vẫn thắc mắc về vấn đề không biết cuộc chiến tranh (chống Cộng) có thể tiếp tục một cách thắng lợi nữa không.
Và việc tiếp tục cuộc chiến tranh ấy, mà ở ngay Washington người ta cảm thấy có sự tiến triển hết sức tốt đẹp trong mấy tháng gần đây, chính là bí quyết của quyền lực và uy tín của Mỹ tại Đông Nam Á, một khúc rẽ quan trọng của cuộc chiến tranh lạnh chống Cộng sản trên toàn thế giới.
*
HỌ YÊU NƯỚC HƠN CẢ TÔI?
Sài Gòn.
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã dành cho ông Peter Hunt, đại diện Hãng liên hiệp vô tuyến truyền thanh và truyền hình (Associated Rodifusion Ltd) một cuộc phóng vấn mà sau đây là bản dịch.
HỎI: Các thông tín viên ngoại quốc từ Sài Gòn viết tin đi, tố cáo chính phủ quý quốc đàn áp Phật giáo đồ Việt Nam và như vậy, phá hoại nỗ lực cuộc chống Việt Cộng. Xin Tổng thống bình luận về những sự tố cáo ấy.
ĐÁP: Các thông tín viên ngoại quốc tự phụ rằng họ yêu nước tôi hơn cả tôi. Đó là một điều rất lạ lùng. Các Phật giáo đồ không là nạn nhân của một chính sách đàn áp nào cả: họ là nạn nhân của chính sự thành công của họ, của sự phát triển quá mau lẹ, ngoài khả năng của họ về mặt cán bộ; do đó đã không tránh được việc đi sai chính đạo. Kể từ ngày tôi chấp chính năm 1954, nhờ ở chính sách khuyến khích tín ngưỡng tôn giáo của chính phủ tôi, 1.275 ngôi chùa mới đã được xây dựng và 1.295 ngôi khác được trùng tu, tính ra tất cả hơn gấp đôi số chùa có trước năm 1954.
Vì vậy mới có vấn đề khủng hoảng về sự phát triển mau chóng mà chính các Phật giáo đồ có bổn phận phải tự giải quyết lấy trong nội bộ của họ; chính phủ chỉ có thể đảm bảo cho họ những điều kiện tự do à an ninh cần thiết để cho Tăng thống Phật giáo khỏi bị bọn quá khích và phần tử ngoại lai tràn ngập lấn át. Đó là điều mà chính phủ đã làm. Tăng thống Phật giáo đã nắm lại được các sư sãi và chùa chiền theo đường lối của riêng họ.
HỎI: Chính phủ quý quốc đã theo chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ hay hình như đã làm như thế. Hiện nay tướng De Gaulle chủ trương một đường lối khác. Vậy kính xin Tổng thống cho chúng tôi được biết tôn ý về vấn đề này.
ĐÁP: Nói rằng chính sách ngoại giao của chính phủ tôi nghiêng theo chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ thì thật không đúng. Hoa Kỳ là nước giúp chúng tôi mạnh nhất trong cuộc tranh đấu giải phóng chúng tôi, chúng tôi xét rằng tỏ rõ sự liên đới của chúng tôi với quốc gia này là một sự ngay thẳng tối thiểu. Tuyên bố của tướng De Gaulle không gửi cho chính phủ tôi, vì vậy chính phủ tôi không thấy cần bình luận gì về tuyên bố đó.
*
TUYÊN BỐ CỦA TỔNG THỐNG DE GAULLE
Đông Dương luôn luôn chiếm một khoảng quan tâm rất lớn đối với nước Pháp. Những liên hệ lịch sử và văn hóa hàng thế kỷ đã khiến cho mọi người Pháp vui mừng hoặc lo lắng trước các biến động ở khu vực này. Sự tranh chấp, đôi khi đẫm máu, ở Đông Dương mang tính chất xung đột bộ phận trong một thế giới phân chia nhiều cực như hiện nay. Tôi không xem các chuyển biến đang xáo trộn tình hình Nam Việt Nam như một cái gì đơn độc, riêng lẻ. Lối ra của một thực tế như vậy chỉ có thể xuất phát từ chính sách khôn ngoan nhất của những người có trách nhiệm tại đây - ấy là chính sách trung lập. Mặc dù theo con đường không phải lúc nào cũng suôn sẻ, Vương quốc Lào đã tránh được hiểm họa nội chiến cùng sự đụng độ của các thế lực bên ngoài tại địa bàn này nhờ vào chính sách trung lập. Vương quốc Cambodie là một tấm gương đầy giá trị thuyết phục về sự đứng bên ngoài mọi tranh chấp ý thức hệ quốc tế. Nước Pháp, trong bổn phận cao quý của mình, sẵn sàng hỗ trợ cho nỗ lực của toàn bán đảo Đông Dương theo phương hướng mang đến phồn vinh và ổn định ấy...
*
HÃY CHẤM DỨT “TRẬN GIẶC” BẰNG VÔ TUYẾN TRUYỀN THANH, BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN HÌNH
(Trả lời báo chí của Tổng thống Mỹ Kennedy)
HỎI: Tổng thống có thể cho biết chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với chính phủ hiện hữu ở Việt Nam hay không?
ĐÁP: Tôi đã từng tyên bố quan điểm của tôi như thế nào rồi. Chúng ta chủ trương áp dụng những hành động và chính sách khả dĩ giúp được cuộ chiến tranh ở đó. Đó là lý do tại sao 25.000 người Mỹ đã vượt 10.000 dặm để sang tham gia cuộc chiến đấu tại đây. Chúng ta ủng hộ những gì giúp chiến thắng cuộc chiến tranh đó. Và chúng ta chống lại những gì ngăn cản nỗ lực chiến đấu ở đó.
Tôi đã từng tuyên bố rằng, bất cứ một hành động của bất cứ một chính phủ nào có thể làm hại đến sự chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó cũng đều không phù hợp với chính sách và mục tiêu của chúng ta. Đây là sự thử thách mà tôi cho rằng, tất cả các cơ quan và các nhân viên trong chính phủ Hoa Kỳ cần phải đối phó trong tất cả mọi trường hợp. Và chúng ta sẽ đối phó với mối thử thách đó bằng nhiều đường lối khác nhau trong những tháng sắp tới, mặc dầu tôi không cho rằng, chúng ta nên trình bày tất cả mọi quan điểm của chúng ta trong lúc này. Theo ý tôi, những quan điểm này sẽ trở nên rõ rệt hơn về sau. Nhưng chúng ta có một chính sách rất giản dị ở đó.
Và về một vài phương diện khác, tôi cho rằng dân chúng Việt Nam và chúng ta (dân chúng Hoa Kỳ) đều đồng ý: chúng ta muốn chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó, muốn chận đứng Cộng sản và muốn người Mỹ trở về nước. Đó là chính sách của chúng ta và tôi tin chắc đó cũng là chính sách của nhân dân Việt Nam. Nhưng chúng ta không thể ở đây để chứng kiến một sự thất bại. Và chúng ta sẽ theo đuổi chính sách mà tôi vừa nói đến hôm nay, xúc tiến những chính nghĩa và những vấn đề sẽ giúp chiến thắng trong cuộc chiến tranh đó.
HỎI: theo như ban nãy Tổng thống đã nói, phải chăng Tổng thống cho rằng, chừng nào mà ông Ngô Đình Nhu vẫn còn làm cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm thì chừng đó, sẽ không có một sự thay đổi có ý nghĩa nào trong chính sách của chính phủ Việt Nam?
ĐÁP: Ngoài những lời nói tổng quát đã từng được đưa ra cho Đại sứ Lodge và những người khác thảo luận đến. Tôi không thấy có một ích lợi nào để đem vấn đề này ra thảo luận trong lúc này.
HỎI: Khi chỉ trích những chính sách và những lời bình luận của Tổng thống về Việt Nam có một vài điều nói rằng, Tổng thống hành động dựa theo những tin tức sai lầm và không được đầy đủ. Vậy xin Tổng thống cho biết ý kiến.
ĐÁP: Tôi hành động dựa theo những quan điểm theo những ý kiến đồng nhất của những người Mỹ có kinh nghiệm hiện có mặt ở Việt Nam thuộc các giới quân sự, ngoại giao, cơ quan viện trợ và những người mà chỉ có một mối quan tâm duy nhất: mong muốn chiến thắng càng sớm bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Tôi xin nói rằng, tôi đã không nói nhiều đến mối quan tâm của họ đối với các vấn đề ở Việt Nam và chúng ta không có một mối quan tâm nào khác.
Ngoài ra, như tôi đã từng nói trước đây, tôi cho rằng chúng ta may mắn có Đại sứ Lodge ở đó và tôi xin nói rằng, bất cứ một lời tuyên bố nào mà tôi đã đưa ra để bày tỏ mối quan tâm về tình hình Việt Nam cũng đều phản ánh quan điểm của ông Lodge và phản ánh một cách rất ôn hòa.
HỎI: Tổng thống nghĩ như thế nào về bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church định đệ trình, yêu cầu Tổng thống đừng viện trợ thêm cho Việt Nam nếu chính phủ Việt Nam không thay đổi chính sách và nhân viên của họ?
ĐÁP: Bản nghị quyết của Thượng nghị sĩ Church phản ánh mối lo ngại của ông. Ông Church đặc biệt quan tâm tới Viễn Đông cũng như Thượng nghị sĩ Turson và một vài thượng nghị sĩ khác.
Tôi đã từng trình bày quan điểm của tôi là chúng ta nên ở lại đó và tiếp tục trợ giúp miền Nam Việt Nam. Nhưng tôi cũng đã trình bày, tỏ rõ quan điểm của tôi là sự trợ giúp mà chúng ta cung cấp cho họ cần phải được sử dụng làm sao cho có hiệu lực nhất. Tôi nghĩ rằng, dường như đó cũng là quan điểm của Thượng nghị sĩ Church.
HỎI: Tổng thống có nghĩ đến việc cho gia đình của các nhân viên Mỹ ở Việt Nam trở về nước hay không?
ĐÁP: Như tôi đã nói, tôi cho rằng bất cứ một vấn đề nào mà chúng ta hiện đang cứu xét, tốt nhất cũng nên để cho chính phủ cứu xét và bất cứ một quyết định nào mà chúng ta đạt tới cũng sẽ được công bố vào lúc nào thích hợp nhất.
HỎI: Gần đây, báo chí, các đài truyền thanh và truyền hình liên tục công bố các ý kiến rất trái ngược của các nhân vật Hoa Kỳ và Việt Nam về tình hình Nam Việt Nam. Tổng thống có cho đó là phương pháp thông tin mang ý nghĩa xây dựng hay không?
ĐÁP: Tôi cho là nên chấm dứt các hình thái tạm gọi là “trận giặc” giật gân bằng báo chí, đài phát thanh và đài truyền hình ấy để các bên suy nghĩ và tìm đáp số cho những vấn đề tuy phức tạp nhưng vẫn chứa sẵn trong lòng nó những nhân tố giải quyết thỏa đáng.


Phần 8 - Chương 2


“Chấm dứt cuộc chiến tranh bằng báo chí, truyền thanh và truyền hình để mở đầu cho một loại hình chiến tranh nào đây?”
Dung đọc nhiều lần những câu trả lời trên báo của tổng thống Kennedy. Có vẻ người đứng đầu Nhà Trắng đã hết kiên nhẫn. Đây là những câu trả lời thằng thừng nhất của Kennedy sau nhiều lần trả lời úp mở. Kennedy không thể lẩn tránh các vấn đề mà lẽ ra ông ta cần tế nhị hơn, chẳng hạn như việc thay đổi Ngô Đình Diệm, cả số phận của con ngựa tuy nhiều chứng tật nhưng rất có công với Mỹ trong thời điểm Mỹ cố chen chân với Pháp ở Đông Dương. Có thể hiểu những câu trả lời này như là một tín hiệu cho phép đại sứ Cabot Lodge hành động hay không?
Luân rời Sài Gòn lên Lào sang hôm nay, không kịp đọc những câu trả lời này.
“Anh ấy nhạy cảm hơn mình. Trước khi đi, anh ấy bảo: Chúng ta không còn nhiều thì giờ... Anh ấy xem một tuần lễ chỉ cho vụ “Tam giác vàng” là phí phạm. Nghĩa là anh ấy đoán trước sắp có đột biến... ”.
Dung miên man với cách suy nghĩ thì chuông ngoài cổng reo, chị Sáu vào báo:
- James Casey đến.
Gã trung tá Mỹ luôn luôn quấy rầy Dung. Và lần này, gã thừa biết Luân vắng nhà nên đến gặp Dung mà không xin phép trước. Dung có thể viện cớ này cớ khác để tống khứ gã sĩ quan Mỹ nhưng cô lại đắn đo. “Tại sao mình sợ? Mình sợ cái gì? Biết đâu qua James Casey, mình thêm được những cơ sở mới để báo cáo cho các anh?”
Dung bảo chị Sáu mời James Casey vào phòng khách và cô đi thay quần áo.
- Tôi muốn gặp đại tá... - James Casey bắt tay Dung.
“Hình như gã chưa biết Luân không có mặt ở Sài Gòn.” Dung chợt nghĩ, và qua đôi mắt và cách nói của James Casey cô hiểu rằng gã đến đây không phải để tán tỉnh Dung.
- Nhà tôi chưa về...
Dung đưa đến quyết định:
- Mời trung tá ngồi.
- Xin lỗi, bà vừa đi làm về hay sắp đi đâu? - James Casey hỏi Dung bởi bộ đồng phục sĩ quan cảnh sát của Dung. Đây là lần đầu tiên Dung tiếp James Casey trong bộ đồng phục, không quên đính lên cầu vai cấp hiệu đại úy.
- Tôi vừa đi làm về và sắp trở vào Tổng nha.
James Casey ngồi xuống ghế.
- Trung tá dùng chi?
James Casey đưa tay ra hiệu từ chối:
- Cám ơn bà, khỏi, tôi cũng rất bận...
- Dạo này, Tổng nha Cảnh sát Quốc gia thường phải làm “việc đêm hay sao? - James Casey hỏi, Dung hiểu gã muốn khai thác ở Dung nhịp độ làm việc của Tổng nha cảnh sát - một dấu hiệu về độ khẩn trương của guồng máy an ninh Nam Việt, đại diện cho bộ thần kinh của chế độ.
- Có lẽ gần ba tuần lễ rồi, không hôm nào tôi không làm đêm và chỉ về nhà sau 11 giờ. Không có luôn ngày Chủ nhật!
Dung chọn lựa cách tiến công.
- Thế đấy!- James Casey như đồng tình với Dung – Tôi cũng vậy, thậm chí mỗi đêm chỉ ngủ không quá 5 tiếng đồng hồ.
- Tình hình mỗi lúc mỗi khó khăn... - Dung nói câu lơ lửng.
- Đúng! - James Casey xác nhận. – Nhưng...
James Casey cũng bỏ lửng chữ “nhưng’. Gã cười, không có vẻ gì bí hiểm.
- Nhưng, – gã nói tiếp – Có lẽ đại tá đã trấn an bà: Tình hình khó khăn là trên tổng quát, liên quan đến những nhân vật đang “so găng” với nhau... Đại tá gần như một trọng tài, mà trọng tài thì khác đối thủ! Nếu phải dùng đến chữ “khó khăn” đối với đại tá, tôi cho rằng có thể đúng vào một trận đấu khác...
- Một trận đấu khác hay một hiệp đấu khác? - Dung hỏi, như không quan tâm lắm sự tiết lộ của James Casey. Với Dung, một đảm bảo quan trọng về an toàn cho Luân...
- Trận đấu! – James Casey xác định...
- Thậm chí, tôi nghĩ đến một hiệp phụ nữa! – Dung vẫn lạnh lung.
- Bà đánh giá vai trò quá thấp của đại tá... Thôi được... Hôm này, tôi muốn gặp đại tá bởi vì Tổng thống nước chúng tôi quyết định hưu chiến với ông Diệm trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Nhưng bà Nhu vẫn lắm lời. Bà Nhu lắm lời đặt Tổng thống nước chúng tôi vào thế mất sĩ diện. Một Tổng thống Mỹ giữ sĩ diện đồng nghĩa với một biến cố. Cả đại sứ Cabot Lodge, cả tướng Jones Stepp... dĩ nhiên, cả cá nhân tôi, chưa ai cho rằng mọi thứ đã chín muồi. Đặc biệt, đại tá – tôi nói rõ, đại tá Nguyễn Thành Luân – cần một thời gian đủ để chứng tỏ với dư luận Mỹ và với các thế lực chính trị Sài Gòn rằng ông luôn luôn có quan điểm độc lập. Tốt nhất, khớp mõm bà Nhu! Đừng dại dột đổ xăng vào lửa... Đại tá có thể làm việc đó, tức là can thiệp với ông Nhu hoặc ông Diệm. Đồng thời, đại tá nên khuyên ông Thục, khi sang dự Công đồng Vatican II, đừng khuấy động dư luận Ý. Giáo hoàng La Mã đang đứng trước một sự kiện tế nhị ở Nam Việt – ông ấy không thể công khai ủng hộ con chiên của mình đàn áp một tín ngưỡng khác...
James Casey nói một thôi dài.
- Người Mỹ muốn giữ chủ động cao... - Dung bình luận.
- Bà nói chưa thật chính xác. Phải diễn đạt như thế này: Chúng ta muốn giữ chủ động cao. Chúng ta gồm tôi, những người Mỹ, và các bạn bè Việt Nam, trong đó, một khuôn mặt quan trọng là đại tá Luân.
- Mấy giờ đại tá về? – James Casey xem đồng hồ tay.
- Tôi không rõ. Nhà tôi không bảo hôm nay anh ấy làm việc ở đâu.
- Chỗ ông Nhu chăng?
- Tôi không dám chắc...
- Thôi tôi đành phải đi. Khi nào đại tá về, bà thuật lại những điều tôi vừa nói với bà và tôi mong đại tá gọi điện cho tôi... Tốt nhất, gọi điện vào 7 giờ sáng...
Tới bây giờ, James Casey mới nhìn Dung như gã từng nhìn trước đây...
- Bà có biết khi cùng các người Mỹ phát quang con đường đi của đại tá, tôi đã làm một việc ngược lại với trái tim của tôi không?
Dung nghiêm mặt:
- Tôi sẽ nhắc nhà tôi gọi điện cho trung tá...
Cô không chìa tay cho James Casey và không tiễn gã ra cửa.
*
John Hing ung dung bao nhiêu thì Lâm Sử bồn chồn bấy nhiêu. Cuộc gặp gỡ lần này diễn ra tại khách sạn Thu Thủy, Long Hải, theo yêu cầu của Sử, qua trung gian Bá Thượng Đài. Lâm Sử đề nghị gặp Hing trước ngày 26-10. Với các tin tức mà anh ta nắm, kể luôn phần tin do Ly Kai cung cấp, Sài Gòn sẽ đảo lộn dữ dội đúng vào ngày Quốc khánh hàng năm. Nhưng John Hing nhởn nhơ, hẹn rồi hoãn đến mấy lần. Ngày 26-10 nhích gần, Lâm Sử quá sốt ruột. Đến Bá Thượng Đài luôn, đôi khi đến cả Tần Hoài, Tào Phu. Các “ông vua” sắt, gỗ sốt ruột không kém Lâm Sử. Tin tức đảo chính lan truyền đến mức thành câu chuyện đầu môi của các tay phổ ky tiệm nước: “Hà, ngày mai ông Diệm không “hui nhị tì” (1) thì cũng “hui” sang ở chung với Xưởng Cái Xạch... (2)”. Nhưng ai lật Diệm? Các “ông vua” quan tâm điều đó hơn hết. Có tin đồn chính Nhu lật Diệm. Ối, thứ đảo chính “cụi” này chẳng ăn nhằm gì. Có tin đồn Dương Văn Minh lật Diệm... À, nếu quả vậy, còn chờ xem. Mai Hữu Xuân lật Diệm? Những tay bồ bịch lâu năm với các công ty Pháp mừng rơn. Tôn Thất Đính? Các “bar” sẽ mọc ra, đếm không xuể, “ chị em ta” rộng đường kiếm ăn!
Lâm Sử cần báo cáo về Bắc Kinh – Hoa kiều vụ nhắc nhiều lần, qua đại sứ Trung Quốc ở Nam Vang. Hệ thống sưu tra tin tức của Lâm Sử quá yếu – những tay Hoa kiều giàu có tỏ ra kém khiếu chính trị - rốt lại, có mỗi Ly Kai là giúp được cho Lâm Sử ít nhiều. Sau này, Ly Kai làm cao, mỗi tin theo độ mật, lên giá vùn vụt. Không hiếm trường hợp Ly Kai cung cấp tin gọi là “tuyệt mật” nhưng thật ra hắn nghe lỏm hoặc là tin trên báo Mỹ mà hắn xào nấu lại, Lâm Sử cự hắn, hắn trả lời tỉnh bơ: Vậy thì thôi, ông tìm người khác! Lâm Sử không dám buông hắn – buông hắn thì còn biết khai thác tin chính trị ở ai?
Bởi vậy, Lâm Sử hy vọng lần gặp John Hing này. Cuối cùng, Bá Thượng Đài móc nối, và hai người chọn Long Hải vào ngày giữa tuần, vắng khách. Họ trao đổi ngoài bãi cát.
Đúng ra, Lâm Sử còn lâu mới có thể đối đầu với John Hing. Một thầy giáo tiểu học miền hẻo lánh đuối sức trước một tay lõi đời, tốt nghiệp đại học thương mại, cổ đông quan trọng trong nhiều công ty hỗn hợp Mỹ - Hongkong, chủ chứa nhiều song bạc và trên tất cả, một tình báo có cỡ đứng đầu một cơ quan tình báo tư nhân lớn nhất nước Mỹ, chuyên làm thuê cho những cơ quan tình báo nào trả tiền hời. Mấy lá bùa của Lâm Sử đều vô hiệu hóa: John Hing bĩu môi về cái luận điểm cách mạng thế giới của Mao, cười khẩy về “đại tiến vọt” ở Hoa lục. Cầu thần chú “Tổ quốc” là để John hốt hồn người khác chớ đâu phải để cho Lâm Sử lên gân với gã, cả thuyết “huyết thống” cũng vậy.
- Đã gọi là hội đàm, mỗi bên phải mang đến cho bên kia một cái gì... Ông có cái gì? – John Hing đi thẳng vào cuộc trả giá.
Lâm Sử không có cái gì cả, ngoài các mẩu tin vụn vặt.
- Nghĩa là ông nhờ tôi hé cho ông vài tin để ông báo cáo cho Liêu Thừa Chí? – John Hing cười với vẻ thương hại – Tôi chưa gặp Nghị Lực, cánh Hoa vận của Việt Cộng, nhưng tôi nghĩ rằng Nghị Lực biết nhiều hơn ông...
Lâm Sử thẹn đến chín người. “Có lẽ mình chưa chi đủ tiền cho bọn săn tin”, Lâm Sử chợt nghĩ.
- Ông cần học tập cách hệ thống tình báo ở các nước mà đồng đôla có tiếng nói chung thẩm. – John Hing lên lớp một cách thô bạo – Tôi có thể cho ông biết vài tin, nhưng tôi biết chắc rằng ông không đủ tiền để trả cho tôi...
- Ông cứ thử ra giá... - Lâm Sử muốn lấy lại một chút uy phong.
John Hing lắc đầu:
- Tôi không mơ ước làm cách mạng thế giới với khẩu súng trường và gói cơm khô, cho nên ông không thể trừ vào giá biểu những khẩu hiệu suông mà lại tính bằng đôla. Ông nên nhớ đơn vị thanh toán của tôi – trực tiếp với tôi, tôi nhắc lại – đều theo đơn vị gồm đến 5 con số và tôi chỉ quen với các ngoại tệ đôla Mỹ, Canada, quan Pháp và Thụy Sĩ, bảng Anh... Tôi không dùng đôla Hồng Kông, giá bấp bênh. Tôi cũng không dùng Yên của Nhật – nhiều chữ số quá, tốn giấy! Liệu ông có sẵn vài chục nghìn đôla Mỹ để mua một tin của tôi không? Một tin thôi nhé! Tất nhiên, tin của tôi xứng với giá biểu đó... Tỷ như, sắp tới, ai sẽ đứng lên lật đổ ông Diệm, chính sách đối ngoại của nhóm đảo chính ra sao, ngày nào đảo chính nổ. Đó là ba tin, mỗi tin không thể dưới năm vạn đôla... Sao? Ông không đủ tiền?
Lâm Sử im lặng. Đúng là những tin cực kỳ hấp dẫn. Bắc Kinh mà nhận được, anh ta sẽ lên như diều. Bắc Kinh nhận sớm, sẽ có chỉ thị cho anh ta, anh ta đủ thì giờ xoay xở. Nhưng, món tiền quá lớn. Tào Phu, Tần Hoài, Bá Thượng Đài... không ai đủ “lòng yêu Tổ quốc” đến mức mở tủ sắt tuôn ra chừng ấy đôla. Đại sứ Trung Cộng ở Nam Vang nhất định “chỉnh” Lâm Sử nếu nghe yêu cầu chi xuất như vậy: Phải dựa vào người Hoa khai minh! Không thể nào dám gửi về Hoa kiều vụ Bắc Kinh một đề nghị như vậy.
John Hing đứng lên, phủi những hạt cát bám vào quần. Lâm Sử ủ rũ.
- Có lẽ tôi không nên quá nghiêm khắc với ông. – John Hing nheo mắt ngó Lâm Sử - Dẫu sao, nhờ ông mà tôi được nghỉ ngơi tại bãi biển tuyệt đẹp này... Tôi báo cho ông: ngày 26-10 không có cái gì xảy ra cả, tôi cam đoan...
- Còn sau ngày 26-10? – Lâm Sử rối rít.
- Tôi tặng không ông một tin. Nếu ông muốn thêm một tin, chúng ta trở lại điều kiện ban nãy...
John Hing bước đến chiếc dù, ngả lưng lên ghế, sau khi uống một ly bia. Lâm Sử ngồi chỗ cũ, đón mấy đợt sóng quất vào mặt mà anh ta không buồn vuốt...
*
Mai Hữu Xuân thầm thì với Tôn Thất Đính tại sở chỉ huy của Đính. Cửa phòng đóng kín. Với người ngoài, hai vị tướng bàn bạc công vụ, rất bình thường.Xuân đã cẩn thận cho thiếu tá Hùng dò trên trần nhà, gỡ từng tấc vuông bức tường, kiểm tra ngay các chiếc quạt trần – biết đâu Nhu không cài máy ghi âm. Ngay đối với Mỹ, Mai Hữu Xuân cũng đề phòng. Chính Savani, trong mật thư, đã nói lóng để Xuân lưu ý mọi bất trắc, dù tình báo Mỹ trực tiếp gợi ý Xuân tham gia vào cuộc đảo chính – về nguyên tắc, nhất thiết không tránh khỏi. “Điều mà chúng ta quan tâm là thời gian nào thích hợp nhất và vài chi tiết kỹ thuật cần xem xét thêm”. Đại tá Đỗ Mậu, mà Xuân biết rõ ông ta là người của CIA, là một chỉ huy có cỡ chứ không phải một nhân viên quèn kiểu Thích Tâm Châu. Đỗ Mậu xuống tóc, biểu tượng đứng về Phật giáo của ông – sĩ quan cấp đại tá đầu tiên công khai chống lại Ngô Đình Diệm. Nếu ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc gây tiếng vang lớn trong giới trí thức và ở nước ngoài – ông Mẫu là một luật gia tên tuổi và là Bộ trưởng Ngoại giao khá lâu của Diệm – thì hành động của đại tá Đỗ Mậu nhằm tác động quân đội đồng thời cũng nhằm sửa soạn chỗ đứng trong hàng ngũ Phật giáo của ông ta. Vả lại, Đỗ Mậu là CIA, ông ta đi nước cờ của CIA, với từng chi tiết.
Mai Hữu Xuân bắt tay Đỗ Mậu, nhưng không phải vì vậy mà Xuân quên lai lịch của Đỗ Mậu. “Thời gian thích hợp” đôi khi đồng nghĩa với hết nhiệm kỳ Tổng thống của Kennedy, tận cuối năm 1964. Với khoảng thời gian ấy, Đỗ Mậu dám bán Xuân cho Nhu lắm! “Chi tiết kỹ thuật” là gì? Rất có thể người Mỹ e ngại một loạt tướng tá do Pháp đào tạo nắm cuộc đảo chính, đưa Nam Việt Nam theo con đường của De Gaulle, nên cần điều chỉnh đôi chút – gạt Xuân ra, chẳng hạn... Cái gì cũng có thể xảy ra trên trường đỏ đen cả!
Ngay với Tôn Thất Đính, chưa phải đã có thể rút ruột mà đối xử. “Thằng cha giống Lữ Bố quá chừng”. Xuân đánh giá Đính như vậy.
- Nhu còn do dự. - Đính bảo - Lẽ ra ngày 26-10 “Bravo I” ra mắt, nhưng bỗng Nhu đổi ý. Ông ta gọi tôi vào dinh Gia Long, dặn tôi chờ Nguyễn Thành Luân...
- Luân không có mặt ở Sài Gòn.
- Có lẽ không có mặt. Hai hôm rồi, hắn chẳng liên lạc với tôi, ngay bằng điện thoại. Tôi gọi về Tham mưu biệt bộ, vợ hắn trả lời hắn đang ở chỗ Nhu. Tôi gọi chỗ Nhu, thư ký của Nhu trả lời Luân và Nhu đang bận... Song, tôi nghĩ rằng Luân đi đâu rồi.
- Đi đâu?
- Răng mà tôi biết được?
- Hỏi chỗ Harkins xem?
- Không nên...
- Đỗ Mậu biết không?
- Chắc không biết...
- Coi chừng!
- Răng mà coi chừng?
- Nó ra khu hoặc ra Hà Nội!
- Nếu Luân ra khu hoặc ra Hà Nội thì thiếu tướng và tôi muốn “coi chừng” cũng không coi chừng nổi. Nhất định hắn thực hiện lệnh của Jones Stepp. Nhưng, tôi không nghiêng về giả định của thiếu tướng...
- Thằng đó láu cá lắm. Tôi nghĩ xem!
Xuân ngồi thừ khá lâu. Bỗng Xuân quay điện thoại:
- Alô! Bộ chỉ huy không quân, phải không? Tôi là Mai Hữu Xuân, muốn nói chuyện với trung tá Nguyễn Cao Kỳ... Chào trung tá... Chúng tôi, thiếu tướng Tôn Thất Đính và tôi, muốn nói chuyện với đại tá Nguyễn Thành Luân... Ông ấy không có ở đó? Ông ấy có đến sân bay không? Ở Tân Sơn Nhất thì không, còn ở Biên Hòa? Cám ơn, tôi sẽ hỏi sân bay Biên Hòa...
Xuân gác máy, không quay hỏi sân bay Biên Hòa.
- Có vẻ thiếu tướng mất bình tĩnh... - Đính nhận xét, giọng hơi châm biếm.
- Không nên coi thường sự vắng mặt kỳ lạ này. – Xuân mím môi và quay tiếp điện thoại.
- Hello! Tôi Mai Hữu Xuân, xin nói chuyện với tướng quân Jones Stepp... Ồ... Chào phu nhân... Tôi muốn biết đại tá Nguyễn Thành Luân có chỗ tướng quân không... Vâng, có việc... Rất khẩn... Xin lỗi, nếu đại tá bàn xong công việc với tướng quân, nhờ phu nhân nói lại tôi muốn nói chuyện với đại tá qua điện thoại... Cám ơn phu nhân!
- Hắn ở chỗ Jones Stepp... - Xuân thở phào.
- Luân vắng mặt bây giờ thì tôi không thích, - Xuân đã nhồi thuốc vào pipe – Nhưng khi bắt đầu “Bravo”, tôi lại muốn hắn vắng mặt. Cả thằng Hồ Tấn Quyền. Những tiểu đỉnh ở bến Bặch Đằng, với pháo cao xạ và pháo tấn công, không phải là chuyện giỡn!
Điện thoại reo. Đính nhấc máy.
- Dạ, trình cụ, con đây... Dạ, con đến ngay...
- Trong “Dinh” gọi – Đính nói nhỏ với Xuân, sửa lại cổ áo, đội mũ, bước ra khỏi phòng.
... Saroyan đến nhà Luân, khi Dung đi làm vừa về.
- Đại tá đi vắng?- Saroyan hỏi lo lắng. Dung gật đầu, cũng lo lắng.
- Có chuyện gì sao?
- Không! – Saroyan nắm tay Dung – Đại tá đi đâu?
- Hình như đi Lào...
- Đi Lào?
- Nhu giao cho anh ấy một công vụ gì đó ở vùng “Tam giác vàng”... Dặn giữ bí mật.
- A!- Saroyan gục gặc đầu – Dính chuyện buôn nha phiến... Vừa rồi, thiếu tướng Mai Hữu Xuân hỏi đại tá. Tôi chưa đoán ra việc gì nên trả lời bừa là đại tá đang ở chỗ Jones... Thế, bao giờ đại tá về?
- Lối một tuần... Đi hai hôm rồi.
- Họ săn đón đại tá cẩn thận lắm, tôi rất ngại. – Saroyan nói, giọng buồn.
Dung cảm thấy hơi ân hận với Saroyan. Thật ra, Dung biết tường tận chuyến đi của Luân, nhưng không thể nói thật.
- Tôi có đọc vài phúc trình của tình báo Mỹ ở Bangkok chung quanh “Tam giác vàng”. Tôi không rõ đại tá thực hiện công vụ gì ở đó? Khá nguy hiểm. Những băng buôn thuốc phiện khử tất cả những gì chúng cho là cản trở ngại. Chúng có máy bay, cao xạ, xe tăng. Tại sao Dung không báo cho tôi biết? Tôi có cách bảo vệ đại tá...
- Chắc không cần, Saroyan ạ! Anh Luân đối phó được với mọi tình huống...
- Tất nhiên tôi tin anh Luân... Xin lỗi Dung, tôi tin đại tá! – Giọng Saroyan run rẩy.
- Từ nay, Saroyan cứ gọi anh Luân bằng tên, mình không buồn đâu! Việc gì mà buồn?
- Cảm ơn Dung nhiều. Saroyan không điên đến nỗi báo cho Jones về sự vắng mặt của anh Luân, nhưng nếu Jones bỗng muốn gặp Luân thì sao?
- Dung chưa nghĩ điều đó... Hôm kia James Casey đến đây, cũng muốn gặp anh Luân.
- Rắc rối quá!
Saroyan bỗng như tức giận:
- Gia đình lão Diệm đáng giá bao nhiêu mà anh Luân phải chịu cực, chịu nguy hiểm? Tôi bảo Jones: Định “súp” lão thì “súp” ngay đi...
- Tướng quân trả lời sao?
- Ông ta chỉ cười... Tôi biết tôi kém khiếu chính trị, nên không hiểu ông ta cười với ý nghĩa gì...
Saroyan quay sang bé Lý. Cô đùa với thằng bé như không chịu dứt.
---
(1) ra nghĩa địa
(2) Tưởng Giới Thạch
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #28  
Old 12-08-2012, 12:40 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 8 - Chương 3, 4

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 8 - Chương 3


Luân không lên sân bay Tân Sơn Nhất và cũng không lên sân bay Biên Hòa. Chuyến đi của anh do Nhu trực tiếp bố trí. Anh được mang Thạch theo, mặc dù lẽ ra phải một sĩ quan an ninh lo bảo vệ Luân – Nhu muốn hạn chế hết mức người hiểu biết công việc mà Nhu giao cho Luân
Thiếu tá Nguyễn Thuần đón Luân tại cổng Bộ tư lệnh Hải quân. Đại tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải quân mời Luân ăn sáng ngay tại phòng khách của Bộ tư lệnh. Cùng ăn sáng có một thiếu úy tên Tường, người Thừa Thiên, là hoa tiêu kiêm truyền tin của chuyến bay.
- Chuyến đi của đại tá chỉ ngần này người biết mà thôi. - Hồ Tấn Quyền giới thiệu với Luân và Thạch hai sĩ quan kia, một thuộc Không quân, một thuộc Thám báo. Qua Quyền, Luân biết Tường chuyên trách các chuyến bay thả biệt kích ra Bắc trên vĩ tuyến 17.
- Ông cố vấn chỉ thị riêng cho tôi tổ chức các chuyến bay của đại tá vừa thật nhanh, thật an toàn, vừa phải giữ bí mật triệt để. - Hồ Tấn Quyền khoe với Luân đầy vẻ tự đắc.
Hải quân và cả Thủy quân lục chiến vừa mới xây dựng được Nhu tin cậy sau khi lính Dù và Không quân đập chế độ hai cú choáng váng cuối năm 1960 và đầu năm 1961. Chính lực lượng Hải quân đã bắn rơi chiếc AD.06 của Phạm Phú Quốc trong cuộc nổi loạn của Không quân. Có lẽ không có gì nóng bỏng hơn trong người của Hồ Tấn Quyền bằng cái thèm khát được đeo lon chuẩn đô đốc.
“Trễ rồi, ông Tư lệnh hải quân!” – Luân cười thầm cái vẻ lăng xăng của Quyền đối với anh, “người của gia đình tổng thống”.
- Đại tá sẽ đến Cam Ranh sau non một giờ bay. Lấy nhiên liệu và nghỉ ngơi độ nửa giờ, đại tá sẽ bay lên một điểm sát vùng ba biên giới. Mất khoảng một tiếng bay. Từ đó sẽ đổi máy bay và bộ phận khác chịu trách nhiệm đưa đại tá đến nơi quy định - mọi việc thiếu tá Thuần nắm rất chắc, có thiếu úy Tường trợ lực. Tôi sẽ trực tiếp giữ liên lạc vô tuyến điện với đại tá, chúc đại tá, chuẩn úy Thạch và toàn đoàn bình yên!
Hồ Tấn Quyền chia tay Luân trên một chiếc tàu tuần bỏ neo trước Bộ tư lệnh Hải quân. Bốn người lên một trực thăng. Nguyễn Thuần khởi động, nhấc cần lái trong khi thiếu úy Tường giới thiệu với Luân đường bay trên bản đồ. Trực thăng bay về phía đông rồi men bờ biển bay lên hướng Bắc.
“Nhu muốn khỏa mọi dấu vết. Người ta sẽ xem chuyến đi của Luân như chuyến thị sát thường lệ của tham mưu biệt bộ”. Luân nghĩ thầm. Cho tới bây giờ Luân cũng chưa xác định, đối với nhiệm vụ, anh sẽ rút ra được lợi gì trong chuyến đi này. “Thật vô duyên nếu rốt cuộc mình can dự vào tội ác gieo rắc nha phiến khắp thế giới”.
Người không che giấu được sự căng thẳng là Thạch. Anh đã nghe loáng thoáng về cuộc hành trình, anh chẳng hiểu mục đích đồng thời cũng trách Luân: nhận làm gì chuyện tào lao. Thạch không rời mắt khỏi tên thiếu tá lái máy bay và tên thiếu úy hoa tiêu. Anh đã từng chứng kiến thượng sĩ Toàn và tên bảo vệ đã nổ súng vào Luân ở Bình Dương, còn phát đạn của thiếu úy Hồ Vĩnh Thanh chỉ cách một sợi tóc là có thể kết thúc cuộc đời Luân ở Trúc Giang.
Nguyễn Thuần thoải mái dựa lưng vào ghế, Tường thì thỉnh thoảng nói vào máy micro đeo ngay ở miệng: “Sao Kim đây... Sao Kim đây!”. Cả hai không lộ một nét ranh ma nào. Nhưng, Hồ Vĩnh Thanh còn hiền lành hơn, vậy mà... Mỗi lần trực thăng sà hơi thấp để tránh một đám mây, Thạch nhấp nhỏm: chúng nó dám hạ cánh ở một vùng nào đó, theo hiệp đồng với bọn bên dưới. Thạch tiếc đã không chịu cãi lại Luân, chỉ mang một khẩu súng ngắn mà không mang khẩu tiểu liên báng xếp - với khẩu tiểu liên, Thạch yên tâm hơn. Trực thăng lại tiếp lên độ cao và luôn bám chặt bờ biển, cùng bay bên trên quốc lộ 1, hết qua khu dân cư này đến khu dân cư khác.
- Đại tá chắc không biết em... - Nguyễn Thuần quay lại hỏi Luân.
- Tôi có nghe nhà tôi nói về thiếu tá...
Câu trả lời của Luân biến đổi một thoát sắc mặt của Thuần. Anh ta như đăm chiêu.
- Nhà tôi khen thiếu tá là người tự trọng. – Luân nói tiếp - Rất tiếc vì ít rảnh rang, nhà tôi và tôi không có dịp làm quen với thiếu tá...
Nguyễn Thuần nghiêng người như cám ơn Luân. Anh ta trở lại phong thái của một phi công già dặn, miệng mỉm cười. Có vẻ Thuần trút được cái ám ảnh ở Ban Mê Thuột, đã ngót 6 năm...
“Phải tìm hiểu sâu hơn tay này” – Luân tự nhủ - “Một con người có cá tính”.
Trực thăng đảo một vòng rộng trên vịnh Cam Ranh rồi đáp xuống một chiếc tàu tuần duyên mang tên “Vân Đồn 2”, theo chỉ dẫn bằng cờ của một thủy thủ và của một máy truyền tin. Hôm nay vịnh Cam Ranh gió to, chiếc Vân Đồn 2 lắc lư. Nhưng Nguyễn Thuần đã đổ trực thăng xuống đúng giữa các vạch sơn trên boong tàu. Hạm trưởng, một đại úy, mời Luân và những người đi theo vào gian phòng hẹp, đài chỉ huy của chiếc tuần duyên. Nguyễn Thuần xin phép Luân ở trên boong để theo dõi việc châm thêm nhiên liệu đồng thời rà soát động cơ của trực thăng. Anh ta dùng sandwich và uống cà phê cạnh máy bay mặc dù từng cơn gió tạt mạnh đến nỗi anh ta phải tựa lưng vào trực thăng mới không bị hất tung.
Hạm trưởng hoàn toàn không biết Luân sẽ bay về đâu. Anh ta đề nghị Luân nghỉ lại vịnh Cam Ranh chờ lặng gió, bởi gió có thể tăng cấp như đài khí tượng thông báo, sẽ không an toàn nếu Luân định ra đầm Thị Nại, cảng Đà Nẵng hoặc cửa Thuận An.
- Không sao, tôi có thể ghé xuống bất kỳ khoảng đất trống nào, nếu thời tiết xấu. – Luân cảm ơn hạm trưởng.
Chuyến bay tiếp tục. Họ lại men theo bờ biển, vượt khỏi thành phố Nha Trang và khi đến Ninh Hòa thì rẽ ngoặt về hướng tây, bay trên quốc lộ 21. Thiếu úy Tường chuyển làn sóng vô tuyến điện. Từ một nơi nào đó, người ta hướng dẫn đường bay của trực thăng.
- Chúng ta đang ở độ cao tối đa. - Nguyễn Thuần báo cáo với Luân. Kim đồng hồ cũng đã chỉ con số 8.000 feet.
- Có khi nào thiếu tá đụng phải đạn súng trường của du kích không? – Luân hỏi
Thuần nhún vai
- Nói theo cách của người Sài Gòn thì đó là chuyện “cơm bữa”.
- Vùng chúng ta đang bay thế nào?
- Có một bằng chứng sống tại đây. - Thuần hất hàm về thiếu úy Tường.
Bây giờ Luân mới nhớ chân Tường hơi khập khiễng. Hẳn đạn du kích đã xuyên vỡ một mảnh xương chân của Tường.
Dưới máy bay là một tầng mây xốp.
- Hôm nay chúng ta gặp may... - Thuần cười mỉm. - Tầng mây dày đặc kia che chở cho chúng ta.
Trực thăng không bay về thành phố Buôn Mê Thuột mà vòng về phía Tây của thành phố, ngược ra Bắc. Máy truyền tin từ tai nghe của thiếu úy Tường đã vang rõ một giọng ồ ề. Người hướng dẫn trên mặt đất nói tiếng Pháp. Thạch sửng sốt. Luân đoán rằng đó là Francisci. Trực thăng xuyên qua tầng mây xốp, những chóp núi và những cánh rừng già trải như bất tận bên dưới.
- Chúng ta đang qua vùng nguy hiểm. - Thuần báo cáo, thái độ bình tĩnh. - Rất dễ va vào núi và cũng rất dễ hứng đạn vừa của Giải phóng, vừa của mấy cha nội Fulro!
Thuần dán mắt tìm kiếm phía trước. Trong thung lũng chợt hiện lên những mái nhà tôn xám xịt. Từ trên máy bay đã trông rõ ngọn cờ ba sọc uể oải lượn trong gió núi.
- Đồn Sa Thầy... Cách đồn non cây số là đất Cambốt và đất Lào. Nhưng chúng ta không đáp xuống Sa Thầy. Đại tá nhìn về phía tay trái, đấy, khoảnh đất trống với mấy miếng vài trắng cắm bên cọc... Chúng ta sẽ đến đó...
Trực thăng chầm chậm hạ đứng xuống khoảnh đất không rộng hơn sân bóng chuyền. Dưới tán cổ thụ, những ngôi nhà lợp tranh, lớp lá rừng chen chúc quanh khoảnh đất trống. Thế mà từ trên cao, Luân không thấy gì cả.
Một người Pháp – đúng hơn một người miền Địa Trung Hải – mũi cao, mắt đục nhưng tóc đen, cao có lẽ trên 1 mét 8, tuổi xấp xỉ 40, mặc bộ quân phục dù loang lổ, đón Luân khi cánh quạt chưa dừng hẳn.
Bằng giọng lơ lớ, anh ta tự giới thiệu:
- Tôi là Bonaventure Francisci, rất hân hạnh đón đại tá.
Francisci bắt tay Thạch
- Tôi được thông báo chuẩn úy là bảo vệ của đại tá. Hân hạnh.
Francisci cố tỏ ra bặt thiệp, có học thức, song toàn bộ con người anh ta phản lại anh ta. Nháy mắt với Tường - kiểu lố bịch – anh ta huýt sáo mồm: hẹn ở Savanakhet! Câu nói lóng của Francisci chỉ có Tường hiểu được. Gã thiếu úy nháy mắt đáp lại.
Thạch bắt tay Francisci nhưng mắt không rời khỏi hai khẩu “rulo” Vesson nòng dài - loại bắn cực nhanh - xệ trước bụng Francisci.
Francisci xiết chặt tay Thuần, họ quá quen nhau.
- Mời đại tá vào nghỉ!
Luân theo Francisci, rời khoảng đất trống trong lúc hàng chục người, có lẽ là Rhadé ùa ra, dùng một chiếc lưới ni lông cắm chi chít cành cây, phủ lên chiếc trực thăng. Bây giờ thì khoảng đất trống đã biến mất, còn lại một lùm bụi um tùm, máy bay trinh sát không tài nào phát hiện...
Con đường mòn nhỏ đưa nhóm Luân vào sâu trong rừng, xuyên qua nhiều lớp nhà. Thật khó tưởng tượng, trên vùng cao hoang vu này lại mọc lên một “thị trấn”. Đúng, một thị trấn với một cừa hàng tạp phẩm – Luân nhìn thấy những chai rượu Cognac, Whisky còn trong hộp, những “tút” thuốc lá Dunhill, Cravel A, những két bia Larue - với mấy quán ăn, tiệm cắt tóc... “Thị trấn” được bố phòng khá kỹ: nhiều ụ súng, nhiều chòi gác ụ đất, nhiều hầm trú ẩn.
“Tên của gã cũng hay hay!” – Luân nhớ Francisci tự giới thiệu là Bonnaventure - cuộc phiêu lưu may mắn. Con người của gã có vẻ phù hợp với cái tên - Bonnaventure Francisci bước khá nhanh, để rồi chốc chốc phải dừng lại.
Francisci ở trong một ngôi nhà sàn lợp tranh, thoáng, “nên thơ” nữa: nhà cất cạnh dòng suối nhỏ.
- Lẽ ra tôi phải mời đại tá và các bạn uống thả cửa. Song, chúng ta sẽ làm việc đó ngày kia... Bây giờ chúng ta cần no bụng và nghỉ ngơi một chút, rồi bay tiếp... Thiếu úy Tường có thể báo cáo về cho đại tá Quyền rằng “sao Kim đã đáp xuống quỹ đạo”...
- Hình như ông mới dời cơ ngơi về đây? Tôi thấy nhà cửa đều mới... - Luân hỏi, lúc tất cả ngồi vào bàn, họ ăn món thịt rừng nấu theo kiểu Ý.
- Vừa dời xong, đại tá là vị khách đầu tiên... - Francisci trả lời, không vui.
- Trước kia, chúng tôi ở sát thị xã Kontum... Nhưng gần đây, phong trào tự trị ở Tây Nguyên của Ibih Aleo dậy lên. Thế là tôi phải rời nơi tôi đã dừng chân ngót 10 năm... Phải phá hủy nhà cửa, xóa dấu vết đường băng và đốt luôn lò chế biến morphine. Ở chỗ mới, mọi cái đều bắt đầu từ con số không. Ymơ Eban thông báo với tôi: chớ xây dựng đồ sộ, Sa Thầy không an toàn. Nhóm Fulro ly khai – và vẫn do Kossem điều khiển - dễ dàng thọc sang đánh chúng tôi. Nhóm Champasak từ Hạ Lào cũng có thể làm như vậy. Phoumi Nosavẳn – đại tá biết ông ta? – đang nắm quyền ở Lào, ông ta đòi chia lãi. Đòi chia lãi mà không tiêu tốn một đồng kíp! Nếu không có Raticun, Tổng tham mưu trưởng Lào, tôi đã bị Phoumi xử bắn rồi!
Bữa ăn trở nên nặng nề
- Nói thế thôi, tôi đâu phải chỉ có bàn tay trắng... - Francisci lại cười hồ hởi. - Ngay cả Phoumi, ông ta không chịu biết điều thì cái mạng của ông ta chưa chắc đã giữ nổi! Nếu chẳng bị các điều kiện chính trị ràng buộc, tôi thừa sức lật độ chế độ chính trị của Phoumi...
- Ông Nhu muốn chúng ta không sơ xuất nên phái đại tá lên tận ổ. Tôi không quen việc quân. – Francisci lại cười – Tôi mang súng và tôi bắn súng khá thạo. Nghe đồn đại tá bắn súng lục khá thạo, hôm nào chúng ta thử chơi... Nhưng tôi chỉ biết bắn súng cá nhân. Tổ chức bảo vệ cơ sở chế biến heroine - cứ xem như một xí nghiệp với dây chuyền sản xuất đến một quy mô nhất định – không thể là chuyện của tôi. Tôi yêu cầu ông Nhu đảm bảo vòng ngoài - tại “tam giác vàng” và tại các trạm vận chuyển - để tôi rảnh tay. Việc của tôi là thu mua á phiện sống, chế biến thành morphine, heroine hoặc cocaine, tối thiểu cũng thành “nhựa nhứt” và phân phối chúng ở các thị trường... Tôi có thể thỏa mãn đòi hỏi của ông Nhu: mỗi năm tôi bán không dưới vài tấn heroine. Đại tá có biết giá ở New York, mỗi kilo heroine là bao nhiêu không?
Thậm dốt về môn này, Luân lắc đầu.
- Hai trăm năm chục ngàn dollar! Mười kilo á phiện sống được một kilo heroine! – Francisci rõ ràng không phải là kẻ kín miệng - Loại vàng trắng mua bán từng gramme một... Một con gà ở Sài Gòn giá không đến một dollar. Một con gà ở Vientine còn rẻ hơn. Trong khi một kilo heroine giá 250.000 dollar.
Luân nhẩm tính: mỗi tấn heroine thu trên 200 triệu dollar! Một con số khủng khiếp!
- Tất nhiên, chi phí không nhẹ. - Francisci hình như đoán được cái nhẩm tính của Luân - Thiết bị vận chuyển, hàng hóa trao đổi để lấy được á phiện sống, trám mõm bao nhiêu là tai to mặt lớn, chi phí bảo vệ, hoa hồng cho đại lý, bảo hiểm... mất hơn nửa... Có khi mất đứt hàng trăm kilo, mất luôn cả người. Tổ chức quốc tế Interpol săn buôn nha phiến hoạt động rất gắt gao... Tôi đã phải mua Tư lệnh quân khu Bắc Thái Lan, lãnh tụ nhóm Shan ở Miến Điện, tướng họ Lý của tàn binh Quốc dân đảng thậm thò thậm thụt ở Vân Nam. Tôi mua Ymơ Eban, mua hoàng thân Bun Oum của Lào. Chỉ trừ ba ông Giải phóng Việt Cộng chưa mua được! Mang trong người vài chục gramme heroine, luật pháp nhiều nước đã kết án tử hình! Ông đã thấy tôi phải mạo hiểm ra sao.
Luân biết Francisci ba hoa song không bịa đặt. Bây giờ đã rõ vì sao Nhu tin cậy gã. Còn vì sao gã phải dựa vào Nhu? Tạm thời, Luân chưa trả lời được.
- Chúng ta sửa soạn lên đường. – Francisci bảo sau bữa ăn - Trước hết xin đại tá và mọi người thay thường phục... Chúng ta là những khách du lịch, kể cả tôi. Và, chúng ta cứ giữ súng nhưng đừng để người ngoài trông thấy. Đặt chân lên đất Lào, xin các vị nhớ cho: Bonnaventure Francisci là Tổng Giám đốc Công ty hàng không dân dụng Vương quốc Ai Lao... - Francisci ra điệu bộ trịnh trọng và cười lớn.
Họ xuyên khu rừng, đến một đám đất nguỵ trang bằng nhiều cành cây. Người của Francisci dọn một thoáng, mặt đất trống trơn: một phi đạo bê tông dùng cho máy bay loại nhỏ. Một chiếc L.19 được đẩy từ chỗ khuất ra đường băng. Nguyễn Thuần kiểm tra máy, nhiên liệu. Cánh quạt bắt đầu quay khi mọi người đã ngồi yên. Máy bay lấy đà. Francisci vẫy tay tạm biệt nhóm nhân viên của anh ta.
Nguyễn Thuần như quen chiếc máy bay này – sơn quốc kỳ Lào. Máy bay rời phi đạo. Nhìn xuống, Luân thấy sân bay dã chiến đang hối hả khoác các cành lá.
- Đúng 40 phút, chúng ta sẽ đáp xuống sân bay Savanakhet... - Francisci bảo Luân.
Thiếu úy Tường mở bản đồ và gọi vào máy bằng tiếng Pháp
- Cùng lúc, đại tá Quyền ở Sài Gòn cũng nghe thiếu úy Tường... - Francisci nói.
- Đoạn này không có gì nguy hiểm dù chúng ta bay trên một số vùng do Pathet Lào kiểm soát. - Nguyễn Thuần thông báo.
- Thiếu tá nhớ đừng vòng rộng sang phía bên kia sông Mékong. – Francisci dặn - Gần đây giữa tôi và viên chỉ huy biên phòng Thái Lan không êm ả lắm. Hắn ta dám bắn dọa chúng ta, buộc máy bay phải hạ cánh để đòi tiền chuộc.
Thuần gật đầu. Tường đã liên lạc được với sân bay...
Francisci giống một ông chủ cỡ bự, rời sân bay Savanakhet trên chiếc Mercedes đen, sau khi bẹo má mấy cô nhân viên hàng không. Luân và Thạch cùng ngồi với anh ta, Thuần và Tường đi trên một xe Jeep.
- Ta ngủ đêm tại đây, mai lên Vientiane.
Francisci chọn khách sạn sang nhất Savanakhet – khách sạn “Con gà vàng”.
Chủ khách sạn, một phụ nữ, đon đả mở cửa xe mời Francisci... Khi nhận xong chìa khoá phòng, Francisci bảo nhỏ Luân:
- Đại tá biết bà chủ là ai không? Nguyễn Thị Lý...
Luân vẫn chưa hiểu Nguyễn Thị Lý là nhân vật nào mà Francisci tỏ ra thận trọng. Một người nói giọng hơi khó nghe, tuổi trên dưới 40, không đẹp, không xấu.
- Chị ruột của Nguyễn Cao Kỳ đấy!
À ra thế... Hèn chi giọng nói hơi khó nghe - giọng Sơn Tây.
- Bà ta chỉ là chủ khách sạn?
Francisci nhún vai:
- Đại tá quên em của bà ta hiện nay là chỉ huy trưởng sân bay Tân Sơn Nhất, đồng thời chỉ huy trưởng phi đoàn vận tải số một gồm ba mươi hai chiếc C.47! Savanakhet là trạm trung chuyển của phi đoàn...
Luân biết chức trách của Kỳ, song anh không dè Kỳ có người chị ở đây
- Tại sao bà ta không rút về Sài Gòn? Ông Kỳ không còn được chỉ huy tuyến đường bay sang Lào nữa.
Luân nói về sự trừng phạt của Mỹ đối với Kỳ. Mỹ thay máy bay C.47 hai động cơ bằng máy bay C.54 bốn động cơ, bọn Kỳ phải tập lái: ngay trong chuyến đầu, Kỳ đã chở hàng tá gái nhảy - hắn tỏ cho Mỹ biết lái C.54 chỉ là trò trẻ đối với hắn, cố vấn Mỹ bực mình, quyết định cử phi công Đài Bắc sang lái và cấm Kỳ léo hánh lên Lào.
- Chờ thời cơ! Biết đâu… – Francisci nhướn mày theo lối anh chị của dân Corse.
Trời vừa tối, Nguyễn Thị Lý mời cơm cả đoàn.
- Quý vị chưa biết tôi... nhưng ông chủ Francisci thì biết... Hai vị này cũng biết… - Mụ Lý chỉ Thuần và Tường – Quý vị chớ ngại, với những bạn bè của ông chủ Francisci, khách sạn “Con gà vàng” tiếp đãi chu đáo, không lấy tiền phòng, không lấy tiền cơm.
- Bởi vậy, đến Savanakhet tôi không thể chọn chỗ nào khác. – Francisci đùa.
- Ông chủ thì đâu phải ngại tốn mà đến đây... Của riêng vẫn dành cho ông chủ.
Mụ Lý nheo mắt cười. Luân hiểu hai người đang nói về gái. Và ngay lúc đó 5 cô gái ùa vào phòng. Mà cô sà vào đùi Francisci, cả 5 cô đều là người lai: Hoa – Lào, Hoa - Việt hoặc Hoa – Thái, hết sức khêu gợi.
- Ông chủ chưa giới thiệu hai vị khách lạ với chúng tôi. - Mụ Lý ngó Luân và Thạch.
- Đây là ông Thành, người trong công ty của tôi. – Francisci chỉ Luân – Còn đây là ông Chuẩn, em họ của ông Thành... - Francisci nói về Thạch.
- Vậy, tôi may mắn gặp một ông chủ nữa. Xin chúc các vị ngon miệng. Các cô sẽ hầu các vị... Tôi xin kiếu...
Mụ Lý ra ngoài. Luân thầm khen Francisci khôn khéo trong đối phó.
- Đại tá chú ý, có thể bị chụp ảnh! - Nguyễn Thuần ghé sát tai Luân thì thào.
Không phải ai đó cần ảnh Luân đang ôm trong lòng một cô gái - người ta cần biết những cộng sự của Francisci. Nguyễn Cao Kỳ sẽ đặt câu hỏi: Luân sang Lào làm gì? Nhưng làm sao ngăn được? Cabot Lodge, Jones Stepp, thậm chí Maxell Taylor sẽ nhìn Luân với cặp mắt: thì ra gã là tay buôn bạch phiến.
“Được, mình có cách...” - Cuối cùng rồi Luân bình thản trở lại. Anh tỏ cho Thuần hiểu anh không sợ.
Chỉ có hai cô gái được giữ suốt đêm, một với Francisci, một với Tường.
*
Ngày hôm sau, họ đến Vientiane, bằng chuyến bay thường lệ của Hãng hàng không dân dụng Lào. Tất cả nghỉ ở nhà khách của hãng, Francisci tiếp họ với tư cách Tổng Giám đốc. Buổi chiều, Francisci vắng nhà. Khi đi, chiếc cặp của anh ta căng phồng, lúc về, lép kẹp. Anh ta làu bàu: mất đứt hơn một vạn dollar.
Bữa cơm vội vã. Trời sụp tối, đoàn lặng lẽ rời nhà khách, ra bờ sông. Họ ngồi trên một chiếc thuyền vượt sông, không gây một tiếng động nhỏ. Đổ bộ lên đất Thái Lan, họ âm thầm nối đuôi nhau – Francisci dẫn đầu - băng qua cánh đồng khá rộng, sau đó lẩn vào rừng. Thỉnh thoảng, Luân nghe tiếng huýt sáo và Francisci đáp lại cũng bằng huýt sáo...
- Ổn rồi! – Francisci thở phào khi cả nhóm lọt ra một con đường mòn.
Ánh đèn pin lấp loáng trước mặt họ.
Ba chiếc Land Rover chực sẵn. Francisci mời Luân lên xe. Xe nổ máy. Trước và sau Luân là xe bảo vệ: Luân đã thấy tốp người mặc quân phục Thái Lan mang tiểu liên.
Đoàn xe theo con đường gồ ghề chạy mãi về hướng tây bắc.
- Các bạn nên ngủ... Ngủ trong tư thế khó chịu nhưng nên ngủ. Nhanh gì cũng phải quá nửa đêm chúng ta mới đến trạm. Sẽ có một bữa ăn khuya đền bù... - Francisci khuyên mọi người, anh toa xoãi chân, tựa đầu vào thành cửa, một lúc sau, đã ngáy...
... Nơi mà đoàn xe đến là một thị trấn không to, nhưng khá sầm uất. Nguyễn Thuần cho Luân biết tên thị trấn của Bắc Thái Lan này: Chiêng Rai. Và, họ vào dinh của viên huyện – ông ta xun xoe đón Francisci, dù đã nửa đêm.
“ Ghê thật! Francisci xỏ mũi cả huyện trưởng Thái” – Luân thực tâm phục tài Francisci.
- Chúng ta ăn thật nhanh. – Francisci giục mọi người.
Hai giờ sáng, ba chiếc Land Rover lại lăn bánh và độ nửa giờ sau, đến một đường băng, ở đó, một chiếc C.47 đã đợi họ.
- Chúng ta phải bay đêm. Không thể đến “Tam giác vàng” vào ban ngày được. – Francisci bảo Luân.
Nguyễn Thuần và Tường vào buồng lái. Francisci, Luân, Thạch cùng nửa tiểu đội vũ trang ngồi bẹp ở khoang giữa – không có ghế. Mùi thơm bốc nực mũi: đây là máy bay chở thuốc phiện.
Máy bay nặng nề rời đường băng. Ánh sáng lù mù của thị trấn Chiêng Rai lùi dần.
- Nhớ tắt đèn báo hiệu! – Francisci mở cửa buồng lái nhắc Thuần.
- Chúng ta sẽ đến nơi trước rạng sáng – Francisci bảo Luân.
... Chiếc C.47 đáp xuống đường băng, lấy chuẩn từ mấy đống lửa. Trời còn tối, Luân không nhìn thấy khu vực - một màu đen sẫm.
Họ lại lên những chiếc Land Rover. Vẫn đường mòn xuyên rừng, chỉ khác là nhiều dốc. Trời mát lạnh. Họ đang ở trên một cao nguyên.
- Đến rồi! – Francisci nhảy ra khỏi xe. Trời vừa hửng, Luân có thể nhìn rõ vòng rào kẽm gai, tuyến chiến hào bao bọc một khu giống doanh trại quân đội.
Chiếc cầu treo từ từ thả xuống. Đoàn xe qua cổng. Những người lính – khó mà đoán họ thuộc sắc tộc gì - mặt lầm lì, chào Francisci theo nhiều kiểu. Họ trở nên rạng rỡ khi đám bảo vệ lôi trong xe ra những thùng rượu...
Tam giác vàng là một khu vực nằm trên tả ngạn sông Saluen – con sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua Vân Nam, đông Miến Điện, đổ ra Ấn Độ Dương ở vịnh Martoban - độ cao hơn 1.000 mét so với mặt nước biển; là giáp giới của ba nước: Trung Quốc, Lào và Miến Điện mà phần đất của Miến Điện như chiếc gối nhô sâu vào tỉnh Vân Nam đến hàng trăm cây số. Nhiều tộc cư trú tại đây, Thái, Môn – Khơme, Tạng - Miến, Mèo – Dao... Trong lịch sử xa xưa, khu ba biên giới này không được xác định rõ rệt, lại rất hẻo lánh - gần như tách với thế giới vì không có đường giao thông thuận lợi - thường xảy ra tranh chấp giữa các chính phủ, chủ yếu là giữa các bộ tộc, các lãnh chúa. Dân cư bên này hay bên kia biên giới vốn có họ hàng với nhau nên sự phân định địa lý chỉ có ý nghĩa tương đối. Đặc biệt, tộc Mèo – Dao tránh sự xâm chiếm của người Hán ở phương Bắc, từ nhiều thế kỷ trước đã tràn xuống vùng biên giới. Thời kỳ cuối Minh đầu Thanh, những vua nhà Minh kéo dài cuộc đề kháng tại đây. Tại đây, vua Vĩnh Lịch của nhà Minh bị Ngô Tam Quế bắt và bị giết. Do đó, một số người Hán định cư luôn, và nhờ trình độ văn hóa và tài tổ chức, họ thành thống lĩnh các bộ tộc, nói chung, sống ngoài vòng pháp luật của chính phủ ba nước. Trong Thế chiến thứ hai, Anh và Mỹ dùng con đường Miến Điện tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch, qua ba biên giới. Quân đội Nhật không mò tới khu vực này. Khi Trung Cộng kiểm soát lục địa Trung Hoa, một bộ phận quân của Tưởng Giới Thạch lại chọn vùng ba biên giới làm căn cứ ẩn náu.
Là phần đất nhiệt đới nhưng khí hậu mát mẻ do độ cao, cây á phiện mọc kháp vùng. Cây á phiện trong vùng - rộng đến nửa triệu cây số vuông – cho chất lượng nhựa tốt hơn tất cả á phiện trồng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Bắc Việt Nam, Trung Á... Nơi giáp giới ba nước nghiễm nhiên thành “Tam giác vàng”, nguồn lợi lớn, cứ mỗi 5 năm lại lớn hơn. Với cây á phiện, tình hình khu vực đột nhiên phức tạp. Các thế lực buôn lậu á phiện quốc tế tìm cách thâm nhập “Tam giác vàng”. Luân khi nhận nhiệm vụ của Nhu, nghiên cứu mấy nét về vùng này.
Kasen, từ gốc Miến Điện: Kayin, có nghĩa là “man rợ” do thực dân đặt cho một sắc tộc trên cao nguyên Dawna và lưu vực sông Tennaserrin. Vào thế kỷ XVII, các nhà truyền giáo Anh thu hút hàng trăm nghìn người Kasen vào đạo Thiên Chúa trong tổng số 4 triệu dân Kasen, xui Kasen chống lại các cuộc nổi dậy của Miến Điện – năm 1947, Anh tổ chức mặt trận Kasen với quân đội hẳn hoi.
Sau này mặt trận phân hóa, phe nắm các nhóm Kasen mà bọn buôn á phiện lậu là thế lực chi phối quan trọng, thậm chí đứng đằng sau cả “Phong trào đòi quốc gia Shan độc lập”. Xứ Shan thuộc Miến Điện, liền ranh giới “Tam giác vàng”.
Có thể nói, tam giác vàng là nơi cung cấp á phiện sống quan trọng nhất thế giới, tính hàng nghìn tấn mỗi năm. Trước kia, các “băng” buôn lậu chủ yếu thu mua á phiện sống tại đây, chuyển tải sang Hongkong chế biến. Nhu cầu tiêu thụ á phiện trên thế giới tăng vùn vụt, do lượng người nghiện ngày càng đông. Theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, số người nghiện ma túy ở Cộng hòa Liên bang Đức từ 5.300 năm 1955 lên 50.000 năm 1960. Con số tương ứng ở Canada là từ 3.400 lên 60.000, ở Anh từ 335 lên 20.000, ở Hongkong từ 9.000 lên 90.000, ở Ý từ 165 lên 10.000, ở Thái Lan từ 18.000 lên 350.000, ở Mỹ từ 10.000 lên 600.000. Riêng ở Mỹ, 25 đến 40% sinh viên nghiện ma túy dưới những mức khác nhau. Cũng theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, sản lượng heroine đã lên 50 tấn mỗi năm và riêng Hongkong đã cất chế đến 20 tấn.
Tuy nhiên, việc chuyên chở á phiện sống ngày một khó khăn: khối lượng kềnh càng khó che giấu. Các “băng” - gọi theo một nghĩa thông dụng là các công ty - quyết định chế biến ở những vùng gần nguyên liệu. Nhưng, đầu những năm 1960, Tây Bắc Lào, Đông Bắc Miến Điện, Đông Bắc Thái Lan xáo trộn liên miên – đánh nhau giữa các phe nhóm, phong trào cách mạng phát triển... Thế là các công ty buộc phải chế biến tại chỗ, mặc dù cơ sở vật chất thiếu thốn, mướn nhân viên tốn kém, khó bảo vệ, dễ sạt nghiệp nếu bị quân chính phủ tấn công. Mỗi công ty, do thỏa thuận theo “luật giang hồ”, chia nhau khu vực thu mua và cũng chia nhau thị trường tiêu thụ. Francisci - từng ở Việt Nam lâu năm - chọn Sài Gòn làm cảng xuất khẩu, bằng đường bay và tàu biển, qua hệ thống người Triều Châu rất già dặn kinh nghiệm xuất khẩu á phiện, qua nhóm thủy thủ đi châu Âu và châu Mỹ, qua cả quân nhân Mỹ.
Như vậy, thắc mắc của Luân được giải đáp: Francisci phải liên kết với Nhu. Mối “đồng minh” này thiết lập từ năm 1960, sau cuộc đảo chính không thành của Nguyễn Chánh Thi. Trần Kim Tuyến môi giới và Francisci gặp Nhu nhiều lần. Nhu cho phép Tuyến thành lập một đơn vị vũ trang gồm mươi sĩ quan người Kinh và một đại đội người Rhadé bảo vệ cơ sở chế biến của Francisci ở ngoại vi thị xã KonTum, sau đó, rời về Sa Thầy. Một nhóm công binh xây dựng đường băng cho máy bay, bố trí công sự mà họ chỉ biết là để phục vụ cho công tác biên phòng. Francisci đóng một số chuyên viên chế biến kỹ thuật từ Lào và Hongkong sang. Anh ta sản xuất loại á phiện sơ chế mang nhãn hiệu U.4 – nhãn hiệu thật ra của Raticun, Tổng tham mưu trưởng của Hoàng gia Lào, rất được tín nhiệm trên thị trường vì “nguyên chất” và được luyện với tay nghề cao. Francisci cũng sản xuất các loại kẹo ngậm có thành phần á phiện dành cho trẻ con và tẩm á phiện vào thuốc lá – cách gieo giắc nghiện ngập từng bước và cũng là cách tạo khách hàng bền vững.
Francisci không cần chuyện chính trị. Anh ta có mỗi mong ước là làm sao sản xuất và xuất càng an toàn nhiều heroine, món hàng này không bao giờ xuống giá. Anh ta đang hợp tác với Nhu và sẽ hợp tác với ai khác - chẳng có gì phải bận tâm. Với bất kỳ ai, anh ta luôn là kẻ mạnh thế, mọi chia chác thực sự tự anh ta quyết định. Ngân hàng Thụy Sĩ, ngân hàng Pháp, Mỹ, Anh, Ý... đâu cũng có tiền gửi của anh ta với nhiều bí số, bí danh. Trong lúc vui miệng, anh khoe với Luân, lãi suất hàng tháng, đã lên hàng triệu dollar. Anh ta tậu cả một đồn điền cà phê ở Brasil, là cổ đông trong các hãng điện tử Nhật, cơ khí Pháp, đóng tàu Tây Đức, sản xuất ôtô Anh...
- Tôi sẽ bỏ nghề vào tuổi 50. Và, bấy giờ tôi sẽ lấy vợ, cùng vợ ẩn cư đâu đó, mọi ân oán chấm hết...
- Tại sao phải 10 năm nữa? – Luân hỏi.
- Ông hẳn đinh ninh tôi còn muốn làm giầu... Phải. Song, không chỉ có bấy nhiêu. Tôi còn sức, còn thích thách đố nguy hiểm... Không sao chịu nổi cảnh nằm yên. Tôi hy vọng thời gian giúp tôi.
Francisci nói thật. Luân nghĩ như vậy.
- Ông không định trở thành một chính khách? Hay một nhà hoạt động xã hội, một nhà từ thiện tên tuổi. Cái vỏ đó cần cho sự an toàn cuối đời của ông.
- Tôi dễ dàng trở thành một nghị sĩ Mỹ - quốc tịch Mỹ của tôi cho phép. Nhưng, tôi ghét chính trị. Còn một nhà hoạt động xã hội, một nhà từ thiện... Không cần, cái vỏ che cho tôi tại Mỹ, một nước Nam Mỹ, tại Thụy Sĩ hay một hòn đảo ở giữa Thái Bình Dương là tiền. Đủ rồi. Tôi không hối hận việc tôi đã và đang làm, tại sao tôi phải chuộc lỗi? Interol đang săn lùng tôi như săn lùng con thú ăn thịt người, nhưng họ lại làm ngơ trước những công ty đúc súng... Ông thấy đấy, heroine đâu có giết người nhanh và hàng loạt bằng những họng súng, những quả bom? – Francisci đang thao thao bỗng ngừng ngang – Tôi lại thuyết chính trị với đại tá rồi! Tuy vậy sẽ không thừa nếu tôi lưu ý đại tá về sự tin cậy đến độ quá cao của ông Nhu dành cho đại tá...
Luân không vồ vập cái chợt lóe lên trong lời của Francisci.
Cả hai đang ngồi trên ban công ngôi nhà hai tầng xây gạch cho phép nhìn bao quát toàn khu doanh trại. Họ nhấm nháp ly Wishky pha soda với những mảnh nước đá lấp lánh.
- Với tôi, một khi giã từ cái nghề này – cái nghề mà một số nước treo cổ tôi ngay lập tức nếu vớ được tôi giữa lúc này – thì mọi nguy hiểm tan biến giống làn thuốc phiện. Interpol quên tôi nhanh hơn quên một tay buôn lậu thuốc trị hôi nách giả. Tôi ẩn cư để sống những ngày tháng cuối đời đền bù mấy chục năm đùa giỡn với cái chết chớ không phải vì sợ sự săn lùng. Tôi có thể về Ajoccio và sống đường hoàng nơi quê nhà; sở dĩ tôi không có ý định ấy là vì tôi không thích đảo Corse, chỉ vậy thôi...
Francisci hình như vẫn chưa nói hết điều anh ta muốn nói.
Luân lặng lẽ nghe, đằng xa, trong một dãy nhà lợp tôn, một ít khói nhẹ vương vấn cành cây – có lẽ đó là nơi sơ chế á phiện.
- Đại tá và tôi thuộc hai số phận không có chút gì giống nhau. – Francisci kiên nhẫn ém ý nghĩ khi anh ta chưa nói hết - Người Corse, người Sicile, người Sardainge... đều mang tính khí bẩm sinh miền biển Nam châu Âu như vậy.
Luân bỗng nhớ đến các truyện của Prosper Merermee, các truyện của các nhà văn Ý viết về con người Địa Trung Hải...
- Nhưng tôi có một tương lai vững vàng, còn đại tá - tất nhiên, hiện nay, chúng ta đều phải đương đầu với những may rủi y nhau... Hiện nay sẽ lùi vào kỉ niệm. Ngày mai!
Francisci tặc lưỡi:
- Tôi biết về đại tá, biết đủ để tôi khâm phục. Tôi thích phiêu lưu. Đảo Corse dạy tôi phiêu lưu ngay lúc tôi tập bước. Đại tá cũng là một người phiêu lưu. Từ một kỹ sư, đại tá tham gia cuộc nổi loạn chống nước Pháp, chỉ huy hàng nghìn người, rồi bỏ sự nghiệp mà may mắn đại tá không ngã gục vì nó, lao vào hướng khác, ngược hẳn lại, trong 8 năm lên ba cấp... Ông Nhu tin cậy đại tá song song với người Mỹ. Nhưng, ông Nhu cho phép - hoặc, nói thật đúng – xô đẩy đại tá vào tận cái bí mật không còn thể có cái nào bí mật hơn, tức là đường dây sản xuất và buôn nha phiến ở bản Huoi Then này – nơi chúng ta đang uống Whisky – không có trên bản đồ, dù là bản đồ mang tỉ lệ xích lớn nhất, chính là cái rốn của bí mật. Phải chăng ông Nhu muốn cột ông chung một rọ với ông ta? Sống cùng sống, chết cùng chết!
Luân không chen một lời, để Francisci nói. Ai bảo anh ta chỉ biết buôn á phiện lậu?
- Đại tá chắc kinh ngạc vì tôi không quá tách biệt với thời cuộc... Trẻ con ở Việt Nam cũng hiểu như tôi. Ông Nhu, ông Diệm thọ làm sao nổi... Phật giáo là cái cớ của người Mỹ, không có Phật giáo thì sẽ có cái khác. Buôn á phiện không đủ sức nặng để xóa triều đại ông Diệm sao?
Francisci hớp một hớp rượu
- Tôi quen nhiều nhân vật CIA. Họ thích quà cáp của tôi. Nhưng, tôi không bao giờ là CIA dù họ rủ rê, thậm chí dọa già. Tôi không cần tiền – tôi giàu hơn bằng vạn lần bất kỳ tay CIA sừng sỏ nào. Tôi lại ghét trò rình rập... Đại tá có thể yên tâm. Người Mỹ thích đại tá, tôi dám cam đoan nhận xét này. Và, ông Nhu thừa hiểu đại tá nằm trong danh sách dự bị mà CIA sửa soạn. Tôi thông báo với đại tá: ngay ông Trần Kim Tuyến cũng chưa đến đây, ông ta không được phép. Thiếu tá Nguyễn Thuần và thiếu úy Huỳnh Tường được phép - những con tốt mà ông Nhu muốn cho biến mất lúc nào cũng dễ. Tại đây, ông Nhu dùng cả một số người Bình Xuyên cũ. Tôi không xếp đại tá vào cùng lứa với số đó. Ông Nhu cột đại tá vào ông ta trong cuộc hụp lặn sắp tới!
- Ông cũng bị cột như vậy! – Luân cười...
- Không! – Francisci lắc đầu – Tôi khi hề bị cam kết sống chết với ông Nhu. Tiền, vàng, tiền – đó là mối quan hệ giữa chúng tôi. Hàng về sân bay, có khi Liên Khương, có khi Tân Hòa, có khi Tân Sơn Nhất, có khi Cát Lái... người của tôi tiếp nhận và cho đi. Ông Nhu sẽ được thông báo trương mục mang ký hiệu của ông ấy thêm bao nhiêu dollar, giới hạn quyền lực của ông ấy chỉ tới đó. Ông Nhu toàn quyền chi xuất thông qua đại diện của ông ta ở nước ngoài... Tôi thấy chẳng có gì phải dè dặt với đại tá: đại diện của ông Nhu ở nước ngoài là Mã Hằng... Đại tá chưa nghe bao giờ? Chưa chắc đã có một tên Hằng thật. Họ Mã thì thật. Đại tá có nghe tên Mã Tuyên? Cũng không... Tuyên ở Chợ Lớn. Tóm lại, họ Mã giữ tủ sắt cho ông Nhu. Tôi dại gì uống máu ăn thề với ông Nhu... Nhiều ông Nhu, theo nhiệt kế chính trị, trong khi chỉ có một Francisci! Trước khi làm ăn với ông Nhu, tôi đã làm ăn với Bảy Viễn...
- Thế ông có định làm ăn với tôi không? – Luân trêu chọc
- Tôi nói đúng đắn... Đại tá chớ đùa. Đại tá Nguyễn Thành Luân mà buôn lậu á phiện! Thực tâm, tôi mến đại tá, nhưng nếu vì lí do gì mà đại tá không chia sẻ số phận với ông Nhu thì chính tôi phải chuyển hướng: vĩnh biệt Sài Gòn! Không sao, tôi còn Bangkok, Rangoon... Ngược lại, nếu cuối cùng đại tá thấy chính trị là thứ vớ vẩn, xin cứ tìm tôi...
Francisci đứng lên:
- Đại tá lấy súng, ta thử chơi!
Không đợi Luân đồng ý, Francisci đã nhét hai khẩu Vesson vào lưng, chỏ một cành cây bằng cổ tay, cách ban công chừng mươi thước:
- Đạn sẽ xuyên qua cành cây đó, đúng chỗ nó uốn cong... Đại tá thấy chưa?
Hệt một tay Garry Cooper (1) chính cống, nhanh như chớp, Francisci rút cùng lúc hai khẩu súng; hai tiếng nổ nối tiếp, cành cây bị xé toạc.
Luân mỉm cười:
- Ông bắn giỏi quá!
- Xin mời đại tá!
Luân vẫn mỉm cười, lắc đầu...
*
Nguyễn Thuần cung cấp cho Luân một loạt hiểu biết về các cuộc xung đột ở “Tam giác vàng”. Bản Houi Then nằm ở phía nam “Tam giác vàng”, không trực tiếp bị tàn quân Lý Mật của Quốc dân đảng Trung Hoa khống chế, nhưng khi quân của Lý bị quân đội Miến tấn công thì chúng mượn đường này chạy sang đường Lào. Đó là tháng 1-1961. Tên tù trưởng địa phương U Bwê thu góp số súng rơi rớt của Lý Mật, tập hợp một lực lượng chừng 200 tên chiếm bản Hoiu Then, liên hệ trực tiếp với nhóm chống chính phủ Miến Điện. Nhóm ly khai này bị đánh tan, U Bwê đầu hàng chính phủ. Nhưng, sau đó, y lại hợp tác với U Ba Thiên, một lãnh tụ ly khai khác. Giữa năm 1961, U Ba Thiên tuyên bố thành lập quân đội Quốc gia Shan, có sự hỗ trợ của CIA. Nhà sư Kham được phong làm Tổng chỉ huy. Chẳng bao lâu, Thiên bắn chết Kham vì tranh giành quyền lợi, chủ yếu là á phiện. U Bwê, thủ hạ tin cẩn của Kham, bất mãn. Thiên bao vây bản Houi Then, triệt hạ nhà cửa, U Bwê chết trong lúc lộn xộn. Francisci đến Houi Then khi bản đã tiêu điều. Anh ta nắm em ruột của U Bwê, quy tụ người La Hủ - tộc của U Bwê - mở con đường sang Bắc Lào, nơi Francisci có một bàn đạp tiếp nhận máy bay. Thế là bản Houi Then hồi sinh nhờ Francisci. Thiên lại tấn công lần nữa, nhưng lần này Thiên đại bại; súng của bản Houi Then tốt hơn - phần lớn là súng trường tự động và trung liên – và được mấy tay “anh chị” của Bảy Viễn chỉ huy – tù binh bị bắt năm 1955, Nhu tha cho, đưa đi phục dịch cho Francisci.
Cơ ngơi mở rộng từ đó. Francisci sử dụng các dân bản tỏa rộng nương rẫy người Mèo, đổi muối, vải, rượu, đồng hồ, thuốc lá... lấy á phiện sống khi tới mùa thu hoạch. Xưởng chế biến hoạt động, triển vọng tốt. “Chuyên viên” từ Hongkong sang. Đường băng cũ được tu sửa – nguyên là đường băng của người Anh. Francisci đã cho thả dù trên vịnh Thái Lan mấy trăm cân á phiện sống và Hồ Tấn Quyền thừa lệnh Nhu, thu nhặt mang về Sài Gòn. Heroine không thể thả theo dù bừa bãi, phải bằng đường hàng không...
Bản Houi Then bố phòng như một thành cổ phương Tây - kiến thức của Francisci không thể vượt những gì anh ta tưởng tượng.
Luân mất trọn hai ngày luồn rừng quan sát ngoại vi của bản. Dẫu sao, anh cũng phải hoàn thành công việc do Nhu giao. Nguyễn Thuần và Tường giúp Luân vẽ bản đồ tổng thể của cả vùng mà bản Houi Then là trung tâm, đồng thời Luân phác một kế hoạch phòng thủ nhiều lớp với nhiều tình huống tiến công giả định.
- Chưa biết đề án của đại tá sẽ do ai sử dụng? - Nguyễn Thuần nói với Luân trong khi Luân đánh dấu chấm hết trong bản kế hoạch.
- Nghĩa là? – Luân hỏi lại
- Đại tá quá rõ... - Thuần ngó Luân, mắt như giễu cợt.
Từ hôm đi cùng với Luân, Thuần ít nói. Nhưng Luân đánh giá viên thiếu tá phi công này không phải là “bình thường”. Anh ta từng nhận làm cò mồi cho ai đó để gài bẫy Dung, sau lại tỏ vẻ hối hận... Và anh ta được Nhu tin dùng.
- Chúng ta là quân nhân, nghĩa là chỉ biết kỷ luật! – Luân trả lời chung chung.
- Còn có những thứ kỷ luật khác nghiêm khắc hơn các hoa mai mà đại tá và tôi cài lên ve áo! Tôi nói kỷ luật của thời thế...
- Theo thiếu tá, thời thế sẽ ra sao?
- Câu hỏi như vậy nên để tôi đặt cho đại tá, một trong không nhiều người lắm ảnh hưởng đến thời thế...
- Thiếu tá coi tôi như Nã Phá Luân không bằng!
- Chắc chắn đại tá không là Nã Phá Luân. Trước hết, vì đại tá không thích làm hoàng đế, kế đến, vì thời gian chúng ta cách xa thời đại Nã Phá Luân đến 150 năm. Nhưng, đại tá dù không phải Nã Phá Luân vẫn phải gách vác trách nhiệm, có phần do người ta đùn cho đại tá, có phần do đại tá tự nguyện...
Nguyễn Thuần tiếp tục dồn Luân. “Anh ta hiểu mình như thế nào? Hiểu đến đâu?”, Luân tự trách chưa đi sâu về anh chàng này.
- Tôi là một sĩ quan lái máy bay... Chưa ai có thể trình lý lịch gọn bằng tôi! Tôi thích ngành không quân, được tuyển đi học và lái máy bay, từ máy bay trinh sát, chiến đấu, ném bom đến vận tải. Có thể đại tá thắc mắc, tôi đóng trò bỉ ổi ở Buôn Mê Thuột để làm gì? Quá đơn giản.
Tôi thích bà – dù đã là phu nhân của đại tá – lúc ấy, mới là thiếu tá. Có người khích tôi? Vì sao họ khích tôi? Tôi không cần biết. Tôi nghĩ rằng không khó chinh phục một phụ nữ nếu tôi muốn. Tôi nhận lời thách. Nhận như từng nhận và từng thắng trước đây - kể cả với những bà nổi tiếng đức hạnh, vợ của tướng, bộ trưởng, thậm chí, vợ của các cố vấn nước ngoài. Tại Biệt điện, tôi thua – thua như một võ sĩ hạng ruồi lại nghinh chiến với võ sĩ siêu nặng. Tôi tự ái, căm ghét bà, căm ghét luôn ông. Nhưng, không lâu, tôi lại bị “nốc ao” lần nữa. Lần này, khác hẳn về diễn biến. Một bà – xin phép đại tá, tôi giấu tên, vả lại cái tên chẳng nghĩa lý bao nhiêu - từng buông thả vào vòng tay tôi, bỗng trở chứng ngay trong lần hò hẹn mà bà chủ động. Tôi bị kết tội toan cưỡng dâm một mệnh phụ. Đáng lý tôi vào quân lao để chờ ngày lĩnh một cái án, ít nhất cũng 10 năm tù... Người ta làm ra vẻ rộng lượng và tôi phải chuộc tội. Tôi chuộc tội bằng cách lái máy bay chở thuốc phiện. Tôi được thăng cấp, Francisci tặng tôi tiền, nghĩa là đôla. Với đôla, tại Sài Gòn, tôi bảo một tay dắt mối tìm cho tôi một mệnh phụ đẹp và nổi tiếng đỏng đảnh. Kẻ đến hiến cho tôi chính là bà mệnh phụ nọ! Lần này, tôi đủ khôn ngoan. Tôi bố trí chụp ảnh lúc ân ái. Bà mệnh phụ khóc, thú nhận trước kia mê cái mã của tôi, lần bà hại tôi là do mưu của chồng, lần này, bà cần tiền... bà xin tôi hủy các bức ảnh... Tôi không đồng ý, phòng xa vẫn tốt hơn. Tôi ra điều kiện: làm trắng cái án cũ của tôi đi. Vài hôm sau, người ta tặng huân chương cho tôi với thông báo toàn quân chủng: thiếu tá Nguyễn Thuần anh dũng trong công vụ, từ trước tới nay luôn luôn giữ đúng tư cách sĩ quan... Tôi xé ảnh, đốt phim trước mặt hai vợ chồng – tôi buộc chồng bà ta chứng kiến. Ảnh và phim vừa cháy, cả hai trở mặt: sẽ hủy huân chương và tôi phải ra toà vì bản cung do tôi ký vẫn còn nguyên... Nhưng, tôi sẽ được khoan hồng nếu tôi lung lạc được bà Thùy Dung. Họ nói rõ cần các bức ảnh giống như tôi vừa đốt. Hai vợ chồng gã lái buôn mạt hạng này đắc ý không lâu: tôi bảo cho họ biết, phim đã phiên bản và tôi còn giữ nhiều ảnh.. Người chồng thất thểu ra về, người vợ ở lại với mọi trò mà chắc người đứng đắn như đại tá không sao tưởng tượng nổi. Tôi tống cổ mụ ta ra cửa. Tôi kinh tởm. Tôi bảo: thà ngủ với điếm vẫn an toàn hơn, điếm có giá biểu, nếu nhỡ đụng phải vi trùng thì đã có bác sĩ, còn ngủ với loại điếm lậu, vừa đòi hỏi nhục dục vừa muốn giữ danh giá, vừa thèm tiền, vừa tráo trở thật nguy hiểm... Tôi cũng dạy họ, chớ đụng vào bà Thùy Dung...
Nguyễn Thuần nói một hơi và kết luận:
- Một chế độ như thế mà đại tá cùng tôi phục sự nó!
Thái dương Nguyễn Thuần giật giật... Anh ta không bịa, Luân tin ở xét đoán của mình. Đến một anh chàng trác táng còn hiểu được cái nhơ nhớp của cái gọi là “chế độ cộng hòa”... Sự cáo chung của nó là tất yếu. Nhưng, Thuần vẫn chưa khám phá bàn tay thực sự xô cả một tầng lớp thượng lưu vào tấn tuồng bỉ ổi đó. Thuần chưa hiểu và cũng chưa phải lúc làm cho Thuần hiểu.
Họ quay về, lần này theo lối khác: dùng đường bộ đến bản Huôi Xai của Lào rồi về Luang Prabang, nơi họ sẽ đáp máy bay tới thẳng Savanakhet. Lộ trình do Nhu quy định, để Luân quan sát được các con đường vận chuyển khác nhau. Bản Huôi Xai vẫn còn tương đối an toàn, ít ra đến vụ thu hoạch mùa xuân sang năm. Đoàn xe rời bản Huôi Then vào lúc gà rừng chưa gáy.
Đoàn xe vòng lên phía bắc thị trấn Mong Wao, rồi quặt xuống phía Nam, xuyên qua thị trấn Kentung - chỉ là một khu dân cư với vài hàng quán. Có vẻ dân địa phương quen với những đoàn xe kiểu này. Xe dừng, mọi người vào một quán điểm tâm. Chủ quán người Hoa rối rít mời khách. Một phụ nữ đen đúa cho con bú; một chú bé chắc chừng 3 tháng, mặc dù trời khá rét, vẫn trần truồng.
- Chang Xưởng và vợ ông ta... - Nguyễn Thuần giới thiệu riêng với Luân.
- Người Quảng Đông?
- Phải, bà vợ người H’Mông.
Quán là một căn trong dãy nhà lợp ngói vách ván. Nếu không có người phụ nữ, Luân ngỡ mình đang ở Chợ Lớn. Bày trí, khói, mùi mỡ hành, tiếng dao băm thịt, giống mọi tiệm hủ tiếu. Đủ cả, xíu mại, dầu cháo quẩy, bánh bao... Sau cùng, cà phê và trà – trà ướp lài.
Lúc đoàn xe sắp rời quán, một toán người từ phía Mong Wao sải ngựa đến. Họ gồm trên hai chục, tất cả đều cầm súng carbine và đeo súng ngắn, kèm theo ngọn dao to bản đuôi bọc da dắt trên lưng, đội nón lá cọ rộng vành, đi giày nhà binh, có thể của Mỹ. Họ cột vào gốc cây trước quán bầy ngựa Bắc Thảo, bờm dựng đứng, không một người nào trong họ cao ngang yên ngựa.
Francisci lầm lì hẳn. Khi lên đến xe, anh ta nói với Luân
- Bọn U Ba Thiên đó.
Luân ngoảnh lại: các kỵ sĩ trông theo đoàn xe và hình như một gã nói điều gì đó với đồng bọn, vẻ nghiêm trọng, gã chủ quán cũng châu đầu vào...
- Có thể xảy ra việc gì? – Luân hỏi.
- Chưa biết... Cũng có thể không xảy ra việc gì cả. Ta đi xe, chúng đi ngựa... - Francisci trả lời. - Hơn nữa, chúng đã đếm số người của ta và nhất là đã thấy số người của ta được trang bị như thế nào...
Ba chiếc Land Rover gồm 15 tay súng loại tiểu liên cực nhanh, cực mạnh, chưa kể đến Francisci và nhóm Luân, không kể lái chính và lái phụ đều có súng tùy thân, mỗi xe thêm một trung liên.
Đoàn xe theo con đường đá từ Simao của Vân Nam đổ theo triều Đại Lĩnh qua đầu nguồn sông Mékong, xuôi xuống Nam. Đó là quan lộ duy nhất nối miền heo hút này với thế giới bên ngoài. Đường mở vào năm 1941, nay hư hỏng nặng. Tốc độ của đoàn vì thế rất chậm, đôi đoạn nhích từng mét một. Hai bên đường không có làng, bản; các nương ngô cũ cây cỏ dại bít chịt. Mãi trước lúc mặt trời lặn, đoàn mới đến xóm nhỏ, với năm ba ngôi nhà sàn.
- Đây là nơi giáp giới Thái Lan. - Nguyễn Thuần chỉ cho Luân trên bản đồ cùng tô màu đỏ sậm; dải núi Tanen Tong ngăn Miến Điện và Thái Lan.
- Chúng ta vẫn còn ở độ cao gần 2.000 thước. - Nguyễn Thuần nói tiếp.
Bữa cơm nếp thịt gà thật ngon miệng, Francisci cấm các người trong đoàn uống rượu.
- Đoạn thử thách bắc đầu... - Francisci gọi toán bảo vệ quây quần chung quanh anh ta căn dặn. Xe chở Francisci và nhóm Luân chạy giữa, hai xe bảo vệ chạy trước và sau. Mọi người ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Đoàn xe bấy giờ chuyển sang hướng đông
- Khoảng 10 giờ, chúng ta vượt sông Mékong; trễ lắm 2 giờ sáng cũng tới bản Huôi Xai. – Francisci xem đồng hồ tay bảo Luân.
Đoàn xe theo đường mòn, xuống dốc dần. Họ vượt qua một thung lũng chắc có cư dân – ánh lửa, ánh đèn ẩn hiện sau đám lau sậy.
Đến sông. Nước dân cao bởi đang mùa lũ. Xe được chở trên chiếc bè kết bằng nứa, lần theo sợi dây mây căng trên hai bờ. Các đoàn lặng lẽ, luôn những người chống bè.
- An toàn rồi! – Francisci thở phào khi xe lên bờ. Anh ta cho phép cả đoàn hút thuốc, nghỉ ngơi giây lát.
Luân bấm đèn pin soi bản đồ, chợt hỏi:
- Từ Kentum đến bản Huôi Xai ngoài đường mòn dùng cho xe hơi mà chúng ta đang đi có con đường tắt nào chỉ đi ngựa?
- Có. – Francisci trả lời - Một con đường rất hẹp, ngoằn nghèo, gần như song song với xe hơi, trịch về phía Bắc...
- Hai con đường sẽ gặp nhau ở đâu?
- Ngay trên đỉnh đồi trước mặt chúng ta...
- Vậy thì chúng ta nên đi ngay, thật nhanh!
Francisci như hiểu ra nhưng lại nhún vai.
Đoàn xe gấp rút rồ máy, vách núi dựng đứng, xe chậm chạp bò lên đồi.
- Trong số người của U Ba Thiên mà ông gặp ở quán, có ai là sĩ quan? hoặc cầm đầu? họ là người thuộc tộc nào? – Luân hỏi.
- Hai thằng chỉ huy, một thì tôi từng chạm mặt song không biết tên, nó nguyên doanh trưởng của Lý Mật – như tiểu đoàn trưởng – sau này về với U Ba Thiên. Một thằng phó chỉ huy, tên Vàng Pao, vốn là tướng cướp. Phần lớn số đó là người H’Mông, cư trú vùng này.
- Hình như U Ba Thiên có căn cứ ở Thượng Lào?
- Đúng, hơn trăm cây số phía đông bắc Huôi Xai, sát biên giới Vân Nam... Vàng Pao chỉ huy căn cứ đó.
- Ông Francisci, ông cho phép tôi bố trí đoạn đường này... Theo tôi, chúng ta chưa an toàn.
Francisci cười nửa miệng:
- Xin mời đại tá, phòng xa tốt thôi, nhưng cũng chi là phòng xa. Qua ngọn đồi này, chúng ta đã đến các bản ngoại vi thị trấn bản Huôi Xai, cách ngọn đồi không xa, đồn binh của tướng Raticun...
Luân không tranh cãi với Francisci
- Chú Thạch! – Luân bảo – Chú lái xe thay tài xế...
Thạch trèo lên chỗ tay lái. Người tài xế cũ lầm lì ngồi xuống chỗ của Thạch.
- Tôi sẽ ngồi chỗ người phụ lái! – Luân quyết định tiếp, anh lôi khẩu trung liên lên ghế đầu với anh.
- Thiếu tá Thuần, thiếu úy Tường, khi tình hình cần nổ súng, chú ý bắn cấp tập... Ông Francisci, ông dặn số bảo vệ cũng làm như thế.
Francisci ra lệnh cho tổ bảo vệ trong xe và gọi bộ đàm cho hai xe hộ tống, dặn một cách chiếu lệ.
- Thế còn tôi? Tôi làm gì? – Francisci hỏi, vẫn cười.
- Phiền ông nạp đạn giúp tôi! – Luân bảo, không hề ẩn giấu ý đùa cợt.
- Nạp đạn? – Francisci hỏi ngạo nghễ - Tôi mà nạp đạn cho đại tá? Đại tá xem tôi là hạng người nào?
Francisci lên giọng:
- Chính tôi cầu mong bị phục kích ngay lập tức, để đại tá đánh giá lại tôi như tôi vốn có cái giá ấy... Làm một tên nạp đạn! Hừ!
- Hình như có tiếng vó ngựa… – Luân lắng nghe – Đúng, tiếng vó ngựa rầm rập
Francisci cũng nhô người qua cửa xe, lắng tai.
- Ừ, tiếng vó ngựa... Khá đông!
- Chú Thạch đạp hết ga nghe! Bóp còi giục xe trước... Ta phải chiếm đỉnh đồi trước họ...
Chiếc Land Rover rùng mình, chồm chồm trên những đoạn đường gồ ghề, một bên vách núi, một bên vực thẳm.
- Cẩn thận! Giặc đâu chưa thấy mà xe lăn xuống vực, chết ráo bây giờ... - Người tài xế cũ hậm hực. Trước kia ở trong quân đội Bảy Viễn, gã đầu hàng Diệm, được giao lái xe đường này, đã hơn 5 năm.
- Ngựa thồ của tụi Mèo đi chợ phiên, đâu phải giặc. – Francisci đốt thuốc. Nhưng Francisci chưa kịp hút thì từ đỉnh đồi súng nổ rộ, có cả carbine, súng trường và trung liên... - Cái gì? – Francisci quăng điếu thuốc, rút khẩu Vesson.
Súng càng nổ dữ dội. Francisci luống cuống. Anh ta gọi vào máy bộ đàm, mong liên lạc được với đồn binh của Raticun. Đồn binh trả lời: bọn U Ba Thiên phục kích đấy và đồn không đủ lực lượng để giúp Francisci. Francisci quăng ống nói, giọng lạc hẳn: “Nguy!”. Chiếc xe đi đầu trúng đạn, quay ngang, Francisci toan phóng xuống đất, Luân giữ anh ta lại: Đừng!
- Tắt đèn, tăng ga! – Luân ra lệnh cho Thạch. Francisci mọp sát, núp sau lưng Luân.
Đạn vạch từng dây, từng chấm đỏ ối, tuôn xối xả. Khi đến sát chiếc xe dẫn đầu đang quay ngang, Luân ra lệnh:
- Nhảy ra!
Anh là người trước tiên kê khẩu trung liên lên thành xe, miết cò.
- Chúng nó chỉ có một khẩu Bren thôi!
Luân vừa thay băng đạn vừa nói.
Chiếc xe đoạn hậu dừng lại từ xa, bắn ẩu. Nhiều phát đạn véo ngay cạnh bọn Luân.
- Ông bảo họ đừng bắn, thế mà cũng gọi là bảo vệ... - Luân nổi cáu, quát Francisci.
Súng từ đỉnh đồi tuy rộ nhưng rõ ràng không phải là những xạ thủ chuyên nghiệp
- Thiếu tá Thuần, ông lợi dụng những tảng đá bên sườn núi, bắn thật rát vào khẩu trung liên của chúng nó.
Thuần chấp hành lệnh của Luân khá tốt. Khẩu Bren im bặt...
Súng trên đỉnh đồi thưa dần....
- Chú Thạch thử khởi động xe! – Luân chỉ vào chiếc xe đang là công sự của họ - Tôi bắn yểm trợ, chú quay đầu xe lên đỉnh đồi, bật pha.
Ánh pha soi rõ đỉnh đồi. Luân bắn liên tục.
- Phóng lên đồi! – Luân đập vỡ kính chắn gió, nhả đạn về phía trước.
Xe lên đến đỉnh đồi. Chỉ còn vài phát carbine lẻ tẻ của những tên tháo chạy. Mấy con ngựa lăn kềnh, máu đầy mặt đường. Mấy tử thi, kể cả xạ thủ khẩu Bren, mấy người bị thương kêu khóc.
Francisci nạp đạn vào khẩu Bren, nằm xuống, theo ánh pha nhằm số lố nhố lưng đồi quát:
- Cho bọn mày biết tay Francisci!
Nhưng, anh ta chưa bóp cò thì Luân đã giật khẩu trung liên.
- Không bắn! - Giọng của Luân thật nghiêm.
Francisci ngỡ ngàng
- Ông gọi họ: đừng sợ, ở đó ta giao người chết, bị thương của họ. Ông gọi ngay đi!
Francisci đứng lên, ngó Luân trân trối. Nhưng, anh ta làm đúng theo lời Luân.
- Chưa đủ sao? - Giọng Luân khàn đặc – Vô lý đến bao nhiêu người chết, chưa đủ sao?
Người của U Ba Thiên được đưa lên xe, mang xuống đồi. Tổn thất của U Ba Thiên trên đỉnh đồi không nhỏ: 5 chết, 7 bị thương. Phần của Francisci nhẹ hơn nhiều: tài xế chiếc xe đầu trúng đạn, chết liền, số còn lại chỉ bị xây xát.
- Ta đánh một trận giặc thực sự, nhưng để làm gì? - Nguyễn Thuần hỏi Luân. Luân cắn môi, không trả lời.
- Ông đụng độ như vậy bao nhiêu lần rồi? – Lúc sau, Luân hỏi Francisci
- Ác liệt, thì đây là lần đầu...
Luân tư lự. “Bọn U Ba Thiên chỉ là đám cướp, không thạo đánh trận, nếu tên chỉ huy có kiến thức hơn... Không cần chiếm đỉnh đồi, cứ dựa vào vách núi bắn tỉa, chẳng ai có thể thoát đạn của họ”.
- Thật là vô lý! – Luân lầm bầm - Những cái vô lý nhất trên thế gian chạm trán tại vùng hoang dại này...
Khi đoàn xe lăn bánh, Francisci nói với Luân, giọng đứt quãng.
- Tôi thách đại tá bắn súng... Đại tá từ chối. Tại đây tôi chỉ có thể làm người lắp đạn cho đại tá...Và, khi tôi lấy lại can đảm, đạn của tôi lạc lõng... Đó là tôi chưa nói cái sai lầm lớn của tôi, chỉ khoảnh khắc, đưa chúng ta vào chỗ chết. Đại tá, về hình thể, thấp hơn tôi ít nhất cũng một tấc, nhưng về trí tuệ thì hơn tôi cả một cái đầu, còn gan dạ, lòng nhân hậu... tôi không biết phải đo bằng gì cho xứng... Tôi không tin Chúa, thế mà lần này, tôi nghĩ là Chúa phái đại tá đến với tôi! Một người như đại tá cần cho mọi chỗ. Nếu đại tá nhận lời, tôi xin làm một tay giúp việc... - Francisci bỗng thủ thỉ - Thưa đại tá! Biết đâu đến lúc nào đó, đại tá cần tôi. Súng chẳng hạn. Tôi biết đại tá theo sức tôi có. Tiền? Đại tá gọi một tiếng... Đại tá không dùng tiền cho cá nhân mình, rõ ràng như vậy!
“Vô lý! bao nhiêu người chết...” - Luân ngó thi thể người tài xế trong xe, tiếp tục nghĩ.
- Tôi hiểu những cuộc nổ súng vừa rồi thật vô lý, khiến đại tá đau lòng. Nhưng, xin đại tá đừng giận, tôi sinh ra không để làm những việc có lý. Nếu có thể, lần đầu và chắc cũng là lần cuối, tôi sẽ thử làm việc có lý... Việc đó có liên quan đến đại tá!
Luân liếc Francisci. Gã dân đảo Corse dù hết sức bừa bãi về đủ các mặt vẫn chưa phải mất sạch lương tri.
Dưới bầu trời khuya lung linh sao, Francisci sốt ruột nhìn Luân như chờ một cái gật đầu. Phía trước đoàn xe, thị trấn Huôi Xai mờ ảo trong sương...
*
Luân về đến Sài Gòn, không ghé nhà mà đi thẳng vào dinh Gia Long. Nhu tiếp Luân rất thoải mái. Nghe Luân xong – Luân trình bày kèm bản đồ bản Huôi Then, sơ đồ bố phòng, các yêu cầu xây dựng công sự và vũ khí, quân số... - Nhu hỏi tỉ mỉ nhiều khía cạnh của cơ sở chế biến bạch phiến, mặc dù anh ta chỉ giao cho Luân nhiệm vụ xem xét và đề xuất ý kiến về phòng thủ. Nhu xúc cảm thật sự trước cuộc đụng độ gần bản Huôi Xai; Luân chỉ thuật qua nhưng Nhu lại dừng ở đó khá lâu.
- Tôi đoán là anh có thể gặp nguy hiểm nhưng không ngờ nguy hiểm đến mức như vậy. Cũng may anh là sĩ quan quân đội, bằng không... Tôi phải cảm ơn anh, anh không thích tôi vẫn cảm ơn. Ít ra, anh cũng giúp tôi yên được một bề. Người Mỹ muốn bóp chẹt viện trợ cỡ nào, tôi cũng không sợ. Francisci sắp sang Hongkong. Khách hàng của ông ta đòi số lượng “hàng” lớn hơn trước đây gấp ba gấp bốn. Chúng ta phải có đủ tiền để nuôi quân. Chúng ta cần tiền cho chiến dịch “giải độc” – chúng ta tiêu tốn không ít cho một bài viết tốt về chúng ta đăng trên một tờ báo lớn ở Mỹ. Sắp tới, tôi phải chi thật hào phóng cho phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc. Một nhóm nhà sư gửi thư riêng cho tôi, họ xin thành lập tổ chức bảo vệ tôn chỉ đạo Phật, ủng hộ chính phủ chống lại phe quá khích, không thể để cho họ chạy theo các đám cúng; họ cần ra báo, lập trụ sở... Còn “Bravo” nữa. Trần Quang Bửu dốt về chính trị nhưng thạo về cách tiêu tiền sao cho có lợi...
Nhu càng nói càng hồ hởi:
- Nhà tôi báo tin, cuộc gặp gỡ với giới chính trị và báo chí ở các nước La Mã, Pháp, Mỹ của phái đoàn ta đạt kết quả không ngờ... Dư luận thế giới bắt đầu chuyển hướng có lợi cho chúng ta. Có lẽ vì vậy mà tổng thống Mỹ quyết định cử sang đây Bộ trưởng quốc phòng và tướng Taylor chứ không cử những nhà chính trị. Nghĩa là, điều mà Mỹ quan tâm không phải là chuyện Phật giáo. Cần thêm sức mạnh quân sự để chúng ta mau chóng đẩy lùi Việt Cộng. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy cần quét sạch mọi mầm nguy hiểm từ trong ruột của chúng ta. Không rảnh tay trong đối nội thì khó thể thắng kẻ thù, càng khó ăn nói với Mỹ. So với lúc anh đi, tình hình khả quan hơn nhiều... Bây giờ, anh nghĩ. Rất tiếc anh không thể nghỉ dài ngày. Trưa mai, anh nên nắm vững tin tức, các báo cáo và có thể tướng Taylor gặp anh, tất nhiên, về những vấn đề đơn thuần quân sự.
- Về việc anh vắng mặt, tôi đã bảo Việt tấn xã sửa soạn một bản tin, theo đó, anh thị sát lực lượng hải quân theo lệnh của tổng thống... - Nhu nói tiếp.
- Có lẽ không nên...- Luân lắc đầu – Có lẽ, Việt tấn xã đừng nên nhắc đến tôi. Còn những người tò mò, tôi có cách làm họ tin.
- Cũng được... Tùy anh. À! – Nhu chợt nhớ - Anh đừng nói gì với tổng thống về chuyến công tác của anh.
Luân chào Nhu ra về. Luân cảm giác Nhu không đủ minh mẫn như trước, từ việc lớn đến việc nhỏ. Tuy chưa nắm tất cả tin tức, Luân khẳng định rằng Lệ Xuân không gặp may như Nhu khoe: Mac Namara sang Sài Gòn không có nghĩa Kennedy đặt quân sự cao hơn các rắc rối về nội bộ Nam Việt, hoặc do nhu cầu quân sự mà phải kết thúc nhanh các trở ngại chính trị. Tại sao lại không là một thứ nghi binh trước khi Mỹ hành động? Luân hiểu Kennedy đứng trước một khó khăn lớn nhất của nước Mỹ đối với Nam Việt từ 1954, thế lực ủng hộ Diệm vẫn còn trong chính giới Mỹ, thậm chí trong CIA, và bài toán mà CIA chưa tin vào đáp số: cái gì xảy ra sau Diệm?
Nhu đã tự lừa dối mình. Khi bắt tay từ giã, Luân thấy Nhu cười, Luân không cười. Anh muốn giữ thái độ độc lập trong cách phán đoán tình hình. Đọc được ý nghĩ của Luân, Nhu bảo:
- Anh không vui? Anh quên Rabelais rồi sao? Tôi nhắc nhé, Rabelais nói: “Mieux est de ris que de larmes, écrire pour ce que rire est le propre de l’homme!” (2)
Nhu dựa vào một câu triết lý của nhà văn Pháp - chỗ dựa của Nhu mong manh đến thế. Nhu vốn ít cười. Bây giờ anh tìm chút lạc quan trong tiếng cười. Có lẽ đó là dấu hiệu hoảng loạn thần kinh của Nhu dễ thấy nhất.
---
(1) Tên một diễn viên điện ảnh của Mỹ, chuyên đóng phim cowboy
(2) Tốt hơn là viết về cái cười hơn là bàn về cái khóc, vì cười là thuộc tính của con người



Phần 8 - Chương 4


... Dung nghe Luân. Mắt cô đỏ. Những giây phút nguy hiểm đó có đáng cho Luân gánh chịu không?
Luân lựa lời an ủi vợ: “Anh chưa rút ra được điều lợi gì trong chuyến đến “Tam giác vàng”, nhưng ít ra anh cũng nắm thêm được hiện tượng về cơn thoi thóp của chế độ. Riêng việc làm quen với Francisci chắc không phải hoàn toàn vô nghĩa. Còn thiếu tá Nguyễn Thuần nữa... ”
Dung tóm tắt tình hình lúc Luân vắng nhà: Trần Lệ Xuân bị đả đảo ở Ý, ở Pháp, ở Mỹ. Tổng thống Kennedy không tiếp mụ ta, trong khi đó, cựu đại sứ Trần Văn Chương – bố mụ ta – kịch liệt chỉ trích Trần Lệ Xuân là kẻ gây rối tình hình Nam Việt. Ngày hôm qua, quốc hội triển hạn thêm 2 năm nữa quyền ban sắc luật của Diệm. Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc hôm nay đến Sài Gòn. Liên lạc với anh Sáu Đăng và A.07 đứt, không rõ lý do. Dung định nhắn tin trên báo theo quy ước nhưng chờ Luân quyết định. James Casey hỏi tin Luân. Tham mưu biệt bộ trả lời: Luân đi công cán ở miền Trung theo lệnh đặc biệt của cố vấn Ngô Đình Nhu. Saroyan dặn hễ Luân về thì báo ngay vì tướng Taylor muốn gặp riêng Luân.
- Mỗi ngày, có điện thoại hỏi thăm anh, lúc em vắng nhà. Chị Sáu không biết ai hỏi, nhưng hình như ba nơi, theo chị Sáu đoán...
- Cabot Lodge có gọi anh không?
- Một lần, gọi đến văn phòng em. Em trả lời anh đi công vụ dài ngày...
- Còn ai nữa?
- Tướng Andre gọi hai lần. Tướng Đính gọi thường hơn.
- Còn Mai Hữu Xuân?
- Không...
Giữa lúc hai vợ chồng Luân nói chuyện, Thạch vào, thái độ lo lắng:
- Thưa đại tá, nhà em đau nặng.
Thạch chìa bức điện cho Luân.
“Em đau nặng. Stop. Anh xin phép đại tá về ngay mới còn mong thấy mặt em. Stop”. Lê Thị Kỷ.
Điện đánh ngày 21-10.
Luân đọc đi đọc lại bức điện mấy lần. Thạch thở dài liền liền.
- Không biết vợ em đau bệnh gì...
- Tôi nhớ vợ chú không đánh điện cho chú bao giờ. Phải không? – Luân hỏi.
- Dạ, đúng vậy... Vợ em không quen đến nhà dây thép...
- Hình như vợ chú dặn chú đừng về làng?
- Dạ đúng vậy...
Luân cau mày một hồi lâu.
- Chắc không phải chị Thạch điện cho anh đâu! – Dung cũng đoán như Luân.
- Kỳ cục quá! – Thạch gãi đầu, phân vân.
- Ta có thể kiểm tra, không khó đâu.
Luân lại máy điện thoại đặc biệt dành liên lạc với các đơn vị quân đội, gọi thẳng đơn vị trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa, làng của Thạch, nhờ phái người đến nhà vợ Thạch.
- Chú đợi, độ một tiếng đồng hồ nữa, người ta sẽ trả lời... - Luân bảo Thạch.
Điện trả lời của đơn vị trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa làm sáng tỏ nghi vấn của Luân: vợ Thạch chẳng đau ốm gì cả, nghĩa là bức điện tín giả mạo. Gạt Thạch về quê để bắt Thạch. Tất nhiên bắt Thạch nhằm khai thác những việc liên quan đến Luân. Đến lúc mà các đối thủ muốn thật chắc mọi bằng cớ hiển nhiên, đầy đủ về Luân, từ đó, định một thái độ dứt khoát với anh, kể cả cái ghê rợn nhất: để anh sống hay chết! Ít ra, chúng muốn tìm hiểu sự vắng mặt của Luân trong tuần lễ vừa qua. Nhưng, bọn nào? Không ngoài những kẻ gọi điện thoại hỏi thăm Luân mà chị Sáu không thể biết. Bọn nào?
Luân và Dung trao đổi. Theo phương pháp loại trừ, Tổng nha, Tổng ủy tình báo không nằm trong số khả nghi. Còn lại, có thể Mai Hữu Xuân. Xuân không trực tiếp hỏi tin tức Luân nhưng hắn đời nào rời mắt bất kỳ động tịnh nhỏ lớn của Luân. Có thể John Hing. Tay này chăm sóc Luân khá kỹ. Ai nữa? Nguyễn Cao Kỳ? Không! Kỳ nhất định có ảnh hưởng của Luân ở khách sạn “Con gà vàng” trên Savanakhet. Và CIA?
Điện thoại reo. Dung nhấc máy: Saroyan hỏi thăm tin Luân.
- Saroyan sẽ đến ngay, hình như có việc cần... - Dung gác máy, bảo Luân.
... Saroyan vừa vào nhà, bắt tay vợ chồng Luân, chưa kịp ngồi, đã nói, giọng lo lắng:
- Jones muốn gặp anh. Ông ta định gặp ngày hôm qua, nhưng anh chưa về. Jones có vẻ nghi ngờ sự vắng mặt tương đối lâu của anh. Anh nên gọi ông ta, đang ở chỗ tướng Harkins, cho một cái hẹn. Liệu... - Saroyan không nói tiếp, đôi mắt âu lo của cô đã nói thay. - Cám ơn Saroyan! – Luân cười – Chẳng có gì đáng lo đâu, Saroyan yên tâm. Được, tôi nói chuyện với tướng quân. Saroyan ngồi chơi với Dung...
Luân lại máy nói. Dung thuật vắn tắt chuyến đi của Luân. Saroyan lắng nghe và cô, cũng như Dung mắt đo đỏ...
Khi Luân nói chuyện xong với Jones Stepp, quay lại salon, Saroyan đứng lên:
- Mình xin phép Dung nhé!
Cô hôn mạnh vào mắt Luân...
- Mừng anh thoát hiểm... Tuy vậy, em không thích anh dấn vào những chỗ kỳ quặc. Dung nghĩ giống em...
Luân nhìn Saroyan, tự nhiên anh ứa nước mắt.
- Tôi đi ngay đến MACV, tướng quân chờ tôi... Saroyan ở chơi với Dung.
Luân không dám kéo dài cơn xúc động.
... Jones Stepp tiếp Luân hơi lạnh nhạt. Nhìn chiếc gạt tàn thuốc, Luân đoán Paul Harkins vừa rời chỗ này và chắc hai người đã mổ xẻ Luân trước khi Luân đến.
- Đại tá đi vất vả lắm, phải không? – Jones hỏi, bản thân câu hỏi đã chứa cả đống nghi vấn.
- Thưa tướng quân, không chỉ vất vả vì đường xa mà còn vì nguy hiểm. Tôi thoát một trận phục kích vào đêm khuya, trên một ngọn đồi... - Luân trả lời.
- Người anh sạm, hốc hác, - Jones có vẻ đồng ý. - Tất nhiên, tôi nghĩ đại tá không đi nghỉ mát. Nhưng rơi vào ổ phục kích thì... quái lạ! Ai phục kích? Phục kích trên ngọn đồi nào?... - Giọng Jones vẫn khô khốc.
- Thế, theo tướng quân, tôi đi đâu? – Luân mím môi.
- Thông báo của Tham mưu biệt bộ Phủ thổng thống đã cho tôi biết: đại tá đi kiểm tra các lượng lượng hải quân. Trên biển có một ngọn đồi ư? Hoặc đại tá nói chưa chuẩn xác: tàu của đại tá đụng Việt Cộng tại một hòn đảo nào đó... Không hề gì, ta đính chính lại được thôi. – Jones bắt đầu theo kiểu hỏi cung của CIA.
- Tôi không đi kiểm tra hải quân! Nói cho chuẩn xác như tướng quân muốn, công vụ kiểm tra hải quân là cái cớ bên ngoài...
Jones khẽ động đậy, đôi mắt xanh đục của viên tướng già giống con diều hâu phát hiện mồi, nhưng giả bộ trông về hướng khác.
- Nơi tôi bị phục kích, thưa tướng quân, cạnh bản Huôi Xai, sát sông Mekong...
Jones Stepp vẫn giữ đôi mắt trong trạng thái rình mò:
- Vùng đó do Pathet Lào kiểm soát? Ai phục kích?
- Vùng đó thuộc quân khu II của Vương quốc Lào, đặt trực tiếp dưới quyền của tướng Raticun... - Luân hơi cười mỉm.
- À tôi nhớ... Nhưng...
- Bọn phỉ U Ba Thiên chen vào công việc của đại tá? – Jones vẫn lục vấn đều đều.
- Dễ hiểu. Tôi từ “Tam giác vàng” quay về...
Jones kinh ngạc thật sự:
- Đại tá đi “Tam giác vàng”?
- Vâng!
- Thôi, tôi không cần hỏi thêm... Ông Nhu phái đại tá vì một yêu cầu không phải chính trị... Tôi tạm tin như thế...
- Để tướng quân rút chữ “tạm tin”, tôi đề nghị tướng quân điện cho trung tá Nguyễn Cao Kỳ... Tướng quân chỉ xin vài tấm ảnh mà người của trung tá Kỳ, chủ một khách sạn, đã làm việc đó.
- Chị của trung tá Kỳ?
- Vâng, chị ruột...
Jones chống cằm, đôi mắt bắt đầu ấm áp đôi chút.
- Thưa tướng quân, tôi không hề phiền long, trái lại, mong tướng quân đi cho hết đà, điều mà tướng quân muốn tìm hiểu.
Jones đứng lên, đủng đỉnh lại máy nói.
- Trong vòng nửa giờ nữa, chúng ta có thể thỏa mãn. - Jones trở lại chỗ ngồi.
- Lúc chờ đợi, ta uống cái gì chứ? Tôi gọi Whisky, còn đại tá? Cũng Whisky?
- Không! Tôi xin bia...
Jones bấm interphone, gọi rượu, rồi nheo mắt với Luân:
- Đại tá không theo sở thích của cấp trên?
- Không! – Luân trả lời cụt lủn.
- Tại sao?
- Ở đây, vì nhiều lẽ: sở thích là cái riêng của mỗi người, quyền lực không thể can thiệp được; về cấp bậc, thiếu tướng đương nhiên cao hơn đại tá, song chúng ta thuộc hai quốc gia, hai quân đội, tôi cho rằng tướng quân chẳng thích thú gì nếu đặt sĩ quan Mỹ lên trên sĩ quan Việt... Một đại úy Mỹ cố vấn cho một trung đoàn Việt Nam, điều đó có thể chấp nhận vì là kiến thức, nhưng nếu một đại úy Mỹ lại chỉ huy một trung tá Việt Nam, thì trước hết, kỷ cương đảo lộn, tôi chưa nói đến tâm lý...
- Đúng lắm! – Jones Stepp reo lên... - Cám ơn đại tá! Có lẽ người Mỹ chúng tôi phải cố gắng giữ cho được sự phân biệt này... Tuy nhiên... - Jones không nói tiếp, nâng ly mời Luân.
- Tuy nhiên, cũng không ít sĩ quan Việt Nam muốn tự hạ cấp bực mình trước sĩ quan Mỹ... - Jones cười ha hả.
- Có, có nhiều nữa... - Luân đặt cốc bia xuống bàn nói đủng đỉnh... - Cái đáng quan tâm là người Mỹ định làm gì ở đây? Tổng thống Kennedy nhắc hơn một lần ý chí chiến thắng. Làm sao chiến thắng được nếu mọi binh sĩ Việt Nam chỉ biết nghiên cứu sở thích của người Mỹ hơn là nghiên cứu cách chiến thắng!
- Chắc giữa chúng ta không có gì khác nhau. Tuy vậy, biên độ cho phép không thể vô giới hạn...
- Tướng quân muốn nói đến chính sách đối nội hiện nay của chính phủ Việt Nam Cộng hòa?
Jones gật đầu, rót tiếp ly rượu thứ hai.
- Có biên độ... Tôi hiểu biên độ đó là chiến thắng!
- Hoàn toàn thống nhất với đại tá! – Jones chia tay bắt rất chặt tay Luân.
- Hình như Saroyan đang ở chỗ đại tá? – Jones Stepp làm vẻ ông ta hỏi tình cờ.
- Vâng, phu nhân đến thăm tôi... Giờ này, có thể bà còn trò chuyện với vợ tôi...
- Tôi theo dõi sự vắng mặt của đại tá qua Saroyan, cô ấy luôn bồn chồn... - Jones ngó thẳng Luân.
- Vợ tôi còn bồn chồn hơn. Không ai được biết chuyến đi của tôi, trừ những người cùng đi...
- Saroyan rất mến đại tá!
- Tôi và vợ tôi cũng rất mến phu nhân!
- Ta nâng ly! – Jones uống ly thứ ba...
- Mọi cái đều có biên độ. Thưa tướng quân, tôi hy vọng ly này là ly cuối cùng...
- Không! – Jones rót ly thứ tư – Tôi phải uống một ly để cảm ơn cái biên độ mà đại tá vừa nói... Mọi thứ đều có biên độ, phải không? Trừ tình bạn giữa đại tá và tôi... vì vậy, tôi uống thêm ly thứ năm...
Jones đã ngà ngà – những 5 ly Whisky chính cống Scotland, mỗi ly bằng 50 grammes. Người sĩ quan hầu cận mang vào một phong bì, Jones xé ra: mấy bức ảnh chụp Luân, không chỉ với cô gái điếm mà cả ảnh Luân xuống sân bay Savanakhet, lên máy bay đi Vientine...
Jones ngó qua, trỏ Francisci:
- Ai đây?
- Một trùm buôn nha phiến quốc tế.
Jones bỗng cười sặc:
- Đại tá phải chuộc cái gì đáng giá, bằng không tôi gửi cho bà đại tá bức ảnh này, – Jones chọn bức ảnh cô gái sà vào lòng Luân – Thì đất dưới chân đại tá sẽ sụt...
Jones dồn các bức ảnh vào phong bì, bảo sĩ quan hầu cận:
- Vứt đâu đó!
Viên sĩ quan hầu cận ngập ngừng:
- Thưa tướng quân...
- Gì?
- Trung tá Nguyễn Cao Kỳ đích thân mang những bức ảnh này đến và chờ chỉ thị của tướng quân!
- Chỉ thị? À, có. Anh báo với ông Kỳ tôi bận làm việc với đại tá Nguyễn Thành Luân, cho phép ông ấy về...
Viên sĩ quan hầu cận chập gót chân, ra khỏi phòng.
- Thêm một kẻ chuyên làm theo sở thích của chúng tôi! – Jones bĩu môi.
- Ông Kỳ vẫn có sở thích riêng...
- Tôi biết! Tôi biết! Hắn chở gái điếm lên máy bay bốn cánh quạt. Vượt quá biên độ cho phép!
- Bây giờ, tôi báo với đại tá một tin: ngày mai, tướng Taylor sẽ tiếp đại tá...
Giọng Jones Stepp tỉnh như sáo.
Khi bắt tay Luân, Jones Stepp nói thêm:
- Tôi có thể cho mình quyền thay mặt tướng Paul Harkins chúc mừng đại tá trở về Sài Gòn bình yên...
*
LẬP TRƯỜNG CỦA HOA KỲ VỀ VẤN ĐỀ NAM VIỆT
Hoa Thịnh Đốn (VTX)
Hôm thứ tư, Tòa Bạch ốc vừa cho công bố một bản tuyên cáo toàn thể chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam, trong đó có dự định riêng rằng viện trợ Hoa Kỳ cho Việt Nam có thể sẽ chấm dứt vào cuối năm 1965.
Bản tuyên cáo được công bố sau một phiên họp bất thường của Hội đồng an ninh quốc gia, đã xác nhận rằng Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ Chính phủ và nhân dân Việt Nam để dẹp tan những hoạt động phá hoại của Việt Cộng càng sớm càng hay.
Thuyết minh mới đây của chính sách Hoa Kỳ căn cứ vào bản phúc trình của ông Mc. Namara và của tướng Macwell Taylor công nhận rằng tình hình chính trị tại Việt Nam vẫn còn rất nghiêm trọng nhưng chưa gây thiệt hại trực tiếp cho những cố gắng về quân sự.
*
Bản tuyên cáo của tòa Bạch Ốc dự định có thể bớt 1.000 cố vấn quân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam từ nay tới cuối năm.
Các điểm chính trong bản tuyên cáo:
Washington (AFP)
Như tin đã loan, sau một phiên họp bất thường của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, lâu 50 phút, hôm thứ tư, dưới quyền chủ tọa của tổng thống Hoa Kỳ, Nhà Trắng đã công bố một bản tuyên cáo về toàn thể chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Bản tuyên cáo này được ông Pierre Salinger, Tham vụ báo chí Nhà Trắng, trao cho các ký giả.
Bản tuyên cáo đã căn cứ vào bản phúc trình rất dài của Bộ trưởng quốc phòng Mac Namara và tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ vừa đệ trình một bản lên Tổng thống Kennedy và một bản lên Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ.
Bản tuyên cáo của Nhà Trắng xác nhận rằng bản phúc trình ấy gồm có một số tin tức và lời khuyến cáo mật, sẽ được đem ra nghiên cứu kỹ càng.
Những lời xác nhận căn bản trong phúc trình ấy đã được toàn thể các nhân vật trong Hội đồng an ninh quốc gia chấp thuận và Tổng thống Hoa Kỳ đã chấp thuận bản tuyên cáo sau đây về chính sách của Hoa Kỳ, căn cứ trên những lời khuyến cáo của ông Mac Namara, tướng Taylor và ông Henrry Cabot Lodge:
1. Nền an ninh của Việt Nam là một yếu tố quan trọng đối với Mỹ và những quốc gia tự do khác. Chúng ta cương quyết duy trì chính sách của ta là hợp sức với nhân dân và chính phủ Việt Nam để bảo vệ xứ này chống Cộng sản và sớm diệt trừ phản loạn do bên ngoài khuyến khích và ủng hộ. Chính sách của chúng ta ở Việt Nam nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện công cuộc đó một cách hữu hiệu.
2. Chương trình quân sự ở Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và theo nguyên tắc, chương trình ấy vấn có giá trị, tuy rằng chúng ta luôn luôn cương quyết tìm cách cải thiện cho hoàn hảo.
3. Phần lớn viện trợ của Hoa Kỳ dành cho nỗ lực quân sự đó sẽ đem ra sử dụng cho đến khi nào dẹp tan được phiến loạn mới thôi, hay là đến khi nào lực lượng an ninh quốc gia Việt Nam có thể tự mình đảm trách được nhiệm vụ ấy.
Về phần ông Mac Namara và tướng Taylor thì cho rằng phần lớn nỗ lực quân sự của Mỹ sẽ được hoàn tất từ nay cho đến cuối năm 1965. Tuy nhiên, sau thời hạn đó có thể còn giữ lại một số hạn chế huấn luyện viên quân sự Mỹ.
Ông Mac Namara và tướng Taylor đã tuyên bố trong bản báo cáo rằng, từ nay đến cuối năm, chương trình huấn luyện của Mỹ giúp cho Việt Nam, sẽ tiến triển tốt.
4. Tình hình chính trị ở Việt Nam vẫn còn nghiêm trọng.
5. Chính sách của Mỹ ở Việt Nam – cũng như các nơi khác trên thế giới – vẫn luôn luôn nhằm mục đích hỗ trợ những cố gắng của nhân dân xứ này để ngăn ngừa xâm lăng do đó mở đường tiến tới một xã hội hòa bình và tự do.
*
THÔNG CÁO CỦA PHỦ TỔNG THỐNG
Theo nguyện vọng riêng của giáo sư Vũ Văn Mẫu, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã chấp nhận đơn từ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của ông và quyết định cử ông Trương Công Cừu, Bộ trưởng đặc nhiệm xã hội văn hóa kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Tổng thống cũng chấp nhận cho giáo sư Vũ Văn Mẫu được xuất ngoại để hành hương ở Ấn Độ.
*
TIN VỀ BỔ NHIỆM
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa vừa ký sắc lệnh bổ nhiệm Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, Tổng thanh tra bảo an và dân vệ làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
*
Đại tướng Maxwell Taylor, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ, tiếp Luân tại cơ quan của tướng Paul Harkins và lần này, không cần nghi trang bằng một trận đấu quần vợt. Xe Luân dừng tận thềm văn phòng của P. Harkins và Jones đích thân mở cửa xe mời Luân. Cái bắt tay rất chặt của viên tướng tình báo được máy ảnh, máy quay phim ghi nhận.
Fanfani vẹt các nhà báo, đứng sát Luân:
- Chúc mừng đại tá!
Luân chưa kịp chào đáp lễ, Fanfani đã mở máy ghi âm, hỏi:
- Đại tá cho nửa phút... Tự đại tá xin gặp đại tướng hay đại tướng mời đại tá?
- Điều đó có ý nghĩa gì? – Luân mỉm cười.
- Đại tướng đã ra kia, xin đại tá trả lời, chúng ta có quá ít thời giờ...
- Tôi vẫn thấy không cần thiết phải trả lời câu hỏi của cô. Nó vô nghĩa.
- Đại tá không chú ý cơ quan USIS, các nhà báo nước ngoài, hãng truyền hình CBS... chầu chực đại tá như một người hùng sao? Câu hỏi rất có ý nghĩa, thưa đại tá...
Luân nhún vai. Và anh đã phải tiến lên khỏi các bậc thềm, đón bàn tay đang chìa ra rất ân cần của Taylor. Fanfani bực dọc tắt máy ghi âm và giương chiếc máy ảnh. Hình như, trong dự kiến Taylor sẽ ôm Luân giống đôi bạn thân lâu ngày gặp nhau nhưng có lẽ vì Luân giữ đúng quân phong, nghiêm người chào ông ta mà cái màn “ôm hôn thắm thiết” không diễn ra – nếu diễn ra, sẽ khá sượng. Hai cánh tay Taylor dang rộng rồi khép lại. Ông cũng phải chào lại như một cấp trên. Đúng là Jones Stepp cố tình làm rùm beng cuộc gặp gỡ này, mà danh xưng sẽ gây hứng thú cho các nhà báo. Luân thăm xã giao: Đại tướng Taylor mời Luân trao đổi công vụ... Gì thì gì, một đại tá Nam Việt tùng sự trong Tham mưu biệt bộ Phủ Tổng thống, chẳng giữ chức quyền to tát, lại được một đại tướng Mỹ, nhà quân sự được xem là số một của phương Tây hiện nay, đón như thượng khách, một thiếu tướng Mỹ mở cửa xe và hướng dẫn, hai lính thủy quân lục chiến Mỹ bồng súng chào... Dứt khoát được báo chí khai thác đến mức giật gân nhất. Trong khi đó, không hề có một nhà báo Sài Gòn nào có mặt, trừ tờ Viễn Đông nhật báo xuất bản bằng tiếng Pháp.
- Tôi chờ mãi, hôm nay mới gặp đại tá! – Taylor choàng vai Luân vào phòng khách, sau khi hai người phải đứng một lúc để các nhà báo lấy bức ảnh “chính”.
Các nhà báo chưa buông tha Taylor và Luân. Họ ùa vào phòng khách và chỉ chịu rút lui khi lấy được bức ảnh Taylor và Luân chạm ly mừng cuộc “tái ngộ”.
- Đại tá khó chịu các nhà báo? – Taylor hỏi.
- Tôi vốn ít xuất hiện trên báo, trên phim...
- Đôi khi vẫn phải chịu cái mà mình ít thích, thậm chí ghét nữa, - Taylor nói – Tôi không khác đại tá về điều đó!
- Lúc đầu, Bộ trưởng Mac Namara muốn gặp đại tá, dĩ nhiên tại đại sứ quán Mỹ, song vào giờ chót, ông ấy bận gặp Tổng thống Diệm nên nhờ tôi xin lỗi đại tá và tôi được ủy quyền thay mặt Bộ trưởng... - Giọng Taylor trở nên trịnh trọng.
Jones Stepp đứng lên:
- Tôi xin phép tướng quân và đại tá. Một công việc khẩn đang đợi tôi...
Luân hiểu Jones Stepp muốn tránh mặt để Taylor và Luân dễ nói chuyện riêng.
- Ta hãy trao đổi như hai quân nhân... - Taylor nói, khi Jones khuất sau cửa phòng – Dù sao thiếu tướng vẫn là một nhà chính trị.
Taylor cười mỉm: CIA là một ngành chính trị!
- “Tam giác vàng” chắc gợi cho đại tá ít nhiều não nề... đúng không? – Taylor ngó Luân, thăm dò.
Quan hệ giữa hai người đúng ra còn mang ý nghĩa thầy trò. Taylor từng giảng nhiều giờ học viện tham mưu cao cấp mà Luân theo học. Lúc ấy, tuy Taylor nhìn Luân không hoàn toàn như mọi học viên khác – những ý kiến phản bác hoặc bổ sung của Luân về chiến thuật quân sự trên các chiến trường vùng nhiệt đới đối đầu với các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc và được lãnh đạo, chỉ huy tốt thường khiến Taylor trầm ngâm khá lâu trước khi giải đáp – song Luân mới dừng lại mức gây ấn tượng đối với Taylor. Lần sang Sài Gòn gần đây nhất, Taylor thay đổi cách cư xử với Luân – hẳn cơ quan tình báo Mỹ yêu cầu Taylor lưu ý Luân trong ván cờ mà CIA bắt đầu sắp xếp các quân, không còn nằm trong dự kiến xa xôi nữa.
- “Tam giác vàng”? Thưa tướng quân, nếu tôi là Interpol! – Luân trả lời, hơi cau mày.
- Tôi hiểu... Bẩn thỉu! ta hãy xem như không có cái tam giác đó... Chẳng thể nào để cái mùi nha phiến, dù đã tinh chế, chen vào công việc của chúng ta. Nước Mỹ không dính đến sự cố gọi là nha phiến cách nay hơn trăm năm mà người Anh dùng chiêu bài đó tiến công Trung Quốc...
- Vâng! Nếu cần bàn thì lại là khía cạnh quân sự của cuộc viễn chinh ấy... - Luân gật đầu, nói thêm một câu hơi mơ hồ.
Taylor ngó Luân đăm đăm.
- Người Anh thành lập đội “Viễn chinh phương Đông” với 41 tàu chiến và 15.000 quân... - Luân nói thêm.
- Và, viên chỉ huy Trung Quốc, tôi quên tên...
- Khâm sai đại thần Lâm Tắc Từ... - Luân giúp cho Taylor một chút sử liệu.
- Gọi theo âm Anh thì Lin... Phải, viên quan to từ Bắc Kinh xuống đã thua dễ dàng quân thật nhỏ bé trước một Trung Hoa mênh mông... Hình như quân Anh chỉ bắn phá vài lần.
- Tướng quân nhớ rất chính xác. Sau vài lần bắn phá, Trung Quốc nhượng Hongkong cho Anh... Chuyện của thế kỷ trước thường đơn giản như vậy!
Taylor bỗng cười to:
- Cám ơn đại tá giúp tôi trở lại thế kỷ chúng ta đang sống. Người Mỹ đã có trên 20.000 tại Nam Việt...
- Sau khi người Pháp đã có trên 200.000...
- Thật chính xác! Cách đo lường mỗi thời gian một khác. Dầu vậy, chúng tôi – Bộ trưởng Mac Namara, một người am hiểu sâu rộng các vấn đề quân sự và tôi – nghĩ rằng có thể giới hạn con số cố vấn và thực binh Mỹ như hiện nay mà vẫn tìm được chiến thắng. Đại tá có tin điều đó không?
- Tôi vừa đọc phần công bố công khai phúc trình của ngài Bộ trưởng và tướng quân, tôi cũng nghe tuyên cáo của Tổng thống Kennedy. Chắc không ai không thở phào khi biết đến năm 1965, quân nhân Mỹ giã từ miền đất nóng bức ẩm ướt này và càng phấn khởi hơn với những quân nhân nào trong số 1.000 được dự lễ Noel năm nay trên đất Mỹ... Về mặt đó, tôi xin chia vui với tướng quân.
Câu nói văn hoa lại kèm nụ cười của Luân kéo Taylor – đang tựa lưng trên ghế - bật dậy:
- Đại tá nghĩ khác chúng tôi?
- Phải nói thế nào đây, thưa tướng quân? Một phúc trình công bố công khai với những chứa đựng thật sau các từ ngữ có thể vẫn tách biệt nhau, thậm chí, chẳng liên quan gì với nhau... Không! Có liên quan. Cái nọ che cái kia... Sau cùng, một điều mà Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ cố ý – cố ý một cách lộ liễu – nhét vào giữa tuyên cáo ấy: “Tình hình chính trị ở Nam Việt vẫn còn nghiêm trọng” lại chính là cốt tủy của bản tuyên cáo dài dòng... Năm 1965 người Mỹ về nước, Noel năm nay, 1.000 quân nhân Mỹ đoàn tụ với gia đình... Tất cả tùy thuộc ở chỗ tình hình chính trị kia. Nó vẫn còn nghiêm trọng. Và, nếu cái gì mà phái đoàn của ngài Bộ trưởng và tướng quân không thể chủ động, cái đó nằm trong điều thứ tư... Logic sẽ như thế này: Chiến thắng chắc chắn đến, có quyền tính từng tháng, nếu xóa được điểm thứ tư kia... Điểm thứ tư trong tuyên cáo trùng hợp với Fourth Point của Tổng thống Truman...
Taylor lại cười lớn:
- Tôi chỉ đính chính một chi tiết. Điểm 4 của tuyên cáo lần này chẳng giống gì điểm 4 của Tống thống Truman. Vấn đề Nam Việt chưa đến mức cần cả một chính sách tầm cỡ thế giới hậu thuẫn. Còn các nhận định của đại tá, tôi đồng ý. Thâm chí, tôi kinh ngạc: Phải thú thật với đại tá rằng tôi chưa hiểu đúng tầm vóc của đại tá!... Ta uống nhé!
Hai ly rượu mùi cụng nhau.
- Tướng quân là một nhà chiến lược quân sự lớn thế giới. Nhưng tôi, xin phép nói thẳng, cái trở ngại nói trong điều 4 không lớn đến thế...
Taylor cướp lời Luân:
- Ở đây, như nhiều chuyên gia nhấn mạnh và nếu tôi không lầm, đại tá cũng đồng quan điểm với các chuyên gia ấy, là cuộc chiến tranh chính trị. Một chính phủ phải được lòng dân...
- Liệu rằng sẽ có một chính phủ được lòng dân hơn không? Với ông Diệm, 20.000 người Mỹ đến Nam Việt... Sau ông Diệm, con số đó e quá thấp! – Luân cũng cướp lời Taylor.
- Chà! Chúng ta đều không phải là những nhà tiên tri. Nhưng dù sao, cuộc chiến đấu không thể xúc tiến bình thường nếu những người cầm sung theo đạo Phật thích xả thân cho một vị Tổng thống dùng cả xe tăng ủi sập chùa, bắn vào đồng đạo của họ...
Luân thấy không nên tranh luận thêm với Taylor. Số phận Ngô Đình Diệm đã được Washington phán quyết. Đó là điều chủ yếu nhất mà Luân cần biết.
- Chúng ta đi hơi xa mục đích cuộc gặp gỡ. – Luân cười thân ái – Không phải hai quân nhân nói chuyện với nhau về nghề nghiệp mà về chính trị.
Taylor đưa tay lên trời:
- Biết làm thế nào được? Tôi là Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân kiêm cố vấn của Tổng thống Mỹ, còn đại tá – Taylor mỉm cười – cũng đảm đương nhiệm vụ sau na ná như tôi... Chúng ta bị ràng buộc và không thể tự mình phá vỡ sự ràng buộc đó. Thành tâm, tôi rất mong quân đội Mỹ càng ít dính líu vào Nam Việt càng tốt. Kế hoạch mang tên tôi, giáo sư Staley và Vũ Quốc Thúc chính là để tránh một thảm họa Triều Tiên thứ hai. Bởi vậy, tôi ái mộ đại tá, người không thích tiếng súng át mọi âm thanh đáng yêu khác.
Luân rời Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ.
“Taylor muốn tốn ít máu người Việt nhất để đạt kết quả lớn nhất... ”. Luân trầm ngâm cho đến khi xe qua cổng vào nhà anh, về cái mà anh từng gọi là “học thuyết Taylor”. “Nhưng liệu Taylor bảo vệ nổi học thuyết của ông ta không?”
*
TUYÊN BỐ CỦA PHÁI ĐOÀN MAC NAMARA
Thay mặt đại tướng Taylor và những nhân viên khác trong phái đoàn chúng tôi, tôi xin cảm tạ tất cả quý vị đã sốt sắng giúp đỡ chúng tôi trong lúc chúng tôi lưu lại ở Việt Nam Cộng hòa.
Trong tuần lễ qua, đại tướng Taylor và tôi cùng các nhân viên trong phái đoàn đã đi thăm khắp nơi ở Việt Nam. Chúng tôi đã chuyện trò với hàng trăm người. Chúng tôi đã đến thăm cả 4 vùng chiến thuật. Chúng tôi đã tiếp xúc với dân chúng ở mọi tầng lớp. Chúng tôi đã hội đàm với Tổng thống Ngô Đình Diệm, Phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và những viên chức trong chính phủ.
Chúng tôi đã đàm luận với các nhân viên quân sự Việt và Mỹ, ở mọi cấp bậc, từng người cũng như từng nhóm. Chúng tôi đã viếng thăm các cơ sở huấn luyện và đặt chân đến những bộ chỉ huy hành quân ở trận tuyến. Chúng tôi đã thu hoạch được rẩt nhiều kết quả tốt đẹp trong một tuần lễ.
Tối hôm nay, chúng tôi rời Việt Nam để trở về Washington và sẽ đệ trình lên Tổng thống Kennedy bản phúc trình của chúng tôi, bổ sung bản phúc trình mà dư luận đã được thông báo. Trong hoàn cảnh tế nhị của chúng ta, chúng tôi nghĩ là không nên nói những gì tạo ra nghi vấn về thái độ của nước Mỹ quyết đứng bên cạnh Việt Nam Cộng hòa và dân chúng của nước này.
*
Bỗng nhiên Tòa đại sứ Mỹ được tăng thêm lực lượng bảo vệ khác thường. Một hàng rào chiếm đến nửa đường Hàm Nghi, nhiều tốp quân cảnh Mỹ đứng đằng sau các bao cát, tiểu liên cực nhanh như sẵn sàng nhả đạn. Trên tầng cao các nhà đối diện, cảnh sát dã chiến Nam Việt cũng ở trong tư thế tương tự. Tin đồn về một sự phẫn nộ của dân chúng có thể dẫn đến một cuộc tấn công đập phá sứ quán, ám sát nhân viên ngoại giao Mỹ, kể cả đại sứ Cabot Lodge đã đặt tòa nhà đại sứ vào tình trạng báo động. Hình như chính đại sứ quán nhận được nhiều cú điện thoại hăm dọa.
Nhu bực bội. Anh ta đích thân nói chuyện với Cabot Lodge, đảm bảo rằng sẽ không thể nào xảy ra bất cứ điều gì gây tổn hại cho đoàn ngoại giao Mỹ nhưng Tòa đại sứ vẫn thi hành biện pháp mà họ cho là “đề phòng”.
- Người Mỹ muốn tạo ra không khí bất ổn ở ngay thủ đô chúng ta. Họ rất cần một cái cớ!
Nhu nói với Luân.
- Jones Stepp có trao đổi gì với anh không? – Nhu hỏi, đôi mắt sau thăm thẳm.
Luân lắc đầu.
- Tôi biết sắp thêm một vài vụ tự thiêu nữa làm quà cho phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc... chẳng lẽ chúng ta khoanh tay?
Nhu gieo những bước nặng nề trên hành lang. Anh ta tự nêu câu hỏi và không trả lời.
- Tổng nha cảnh sát mà để cho một Phật tử tự thiêu, tôi tống cổ Tổng giám đốc vào khám!
Luân lặng lẽ song đôi với Nhu. Đến bây giờ, Luân biết nhiều bí ẩn hơn Nhu, qua Saroyan. Và ngay cả Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia không phải đã báo cáo với Nhu mọi tin tức mà Tổng nha nắm. Về mặt này, Dung biết cũng nhiều hơn Phủ Tổng thống.
Quả có nhiều cú điện thoại hăm dọa đại sứ quán, quả tình báo Mỹ bắt được một kế hoạch ám sát, đập phá nhằm vào nhân viên và sứ quán Mỹ. Song, tất cả là tác phẩm của chính CIA, dưới hình thức thông báo mật của tướng Trần Văn Đôn – thông báo miệng, tất nhiên. Điện thoại được ghi âm và chuyển sang Phủ tổng thống coi như bằng chứng. Người gọi điện thoại nếu không phải thủ hạ của Đỗ Mậu thì của Mai Hữu Xuân.
Washington xếp các bằng chứng ấy vào một hồ sơ đặc biệt và Tổng thống Mỹ đọc chúng không phải hằng ngày mà hằng giờ.
Cái mà Kennedy sốt ruột chờ đợi là nhận xét của phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc – chỉ cần phái đoàn thừa nhận chính phủ Nam Việt đang theo đuổi chính sách trấn áp những người theo đạo Phật thì lập tức tổng thống Mỹ bắn tín hiệu xanh cho Cabot Lodge. Dẫu sao, Kennedy cũng không thích bị dư luận kết án thọc quá sâu vào nội tình một nước đồng minh...
- Tại sao Việt Cộng dạo này tấn công thưa thớt? – Nhu lại hỏi Luân, đột ngột.
Luân không trả lời vì anh biết Nhu bày tỏ một nguyện vọng hơn là đặt một câu hỏi. Giữa lúc này, Mặt trận Giải phóng đánh mạnh sẽ hậu thuẫn cho lập luận của Nhu: giới Phật giáo gây rối nên bị Việt Cộng khai thác.
Cái gì là mâu thuẫn đan chéo đều bộc lộ trong thời điểm hiện nay. Tấn bi hài kịch, thắt nút từ lâu, cần bật tung cho một kết thúc đúng đòi hỏi của sân khấu – không thể hạ màn thiếu cao trào...
Hai người bước tới lui ở hành lang đến nửa giờ. Nếu thỉnh thoảng Nhu không nói, người ngoài dễ nghĩ rằng đôi bạn đang tản bộ cho tiêu cơm. Chỉ mới hai ngày thôi, Nhu từ trạng thái thoải mái – khi tiếp Luân sau chuyến Luân đi “Tam giác vàng” – đổi sang cau có. Nhu cố che đậy song Luân thấy rõ anh ta lo lắng
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #29  
Old 12-08-2012, 02:57 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 8 - Chương 5, 6

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 8 - Chương 5


Họp báo của bà cố vấn Ngô Đình Nhu ở Nữu Ước
Hôm thứ tư vừa qua, bà cố vấn Ngô Đình Nhu đã xuất hiện lần đầu tiên tại Nữu Ước, trong ánh sáng của các máy chụp hình trước hơn sáu trăm ký giả và độ một nghìn người chen lấn nhau trong phòng khách danh dự lộng lẫy ở khách sạn Waldorf – Astoria
Bữa “tiệc họp mặt” này do Câu lạc bộ Báo chí Nữu Ước tổ chức, nhưng lẫn lộn trong đám ký giả ngoại quốc ở Hoa Kỳ, còn có một số người đủ các thành phần – nhà xuất bản, hội trưởng các hội phụ nữ.. và điều đáng chú ý là có cả sự hiện diện của một vị chức sắc “Phật giáo Hoa Kỳ”, đại đức Cakya Anatta, tên thật là Edward Elbuch, từ thành phố New Jersey đến để dự cuộc họp mặt này, trong bộ áo cà sa màu vàng nghệ.
Trong một bài diễn từ đọc sau bữa tiệc, bà Nhu cho biết ngay rằng bà đến Hoa Kỳ không phải để đấu khẩu nhưng, khi gián tiếp nhắc về việc bà đến thăm Hoa Kỳ đã làm cho chính quyền ở Hoa Thịnh Đốn bối rối, và nhất là cuộc đón tiếp vô cùng nồng nhiệt mà báo chí tại đây đã dành cho bà – trái hẳn với sự lạnh nhạt của chính quyền – bà đã cho biết rằng bà đã từ chối nhiều cuộc phỏng vấn vô tuyến truyền hình vì bà không muốn các nhân vật chính thức Hoa Kỳ oán hận bà.
Về tình hình báo chí Mỹ tại Sài Gòn, bà Ngô Đình Nhu nhận định rằng các ký giả ngoại quốc tại Sài Gòn không có thiện cảm với chính sách của tổng thống Ngô Đình Diệm và vì thế, “những tin tức họ đưa ra đều sai lạc vì họ bị những cảm xúc chi phối”. Bà nói tiếp, “các ký giả không tiếp xúc nhiều với chính phủ” và “tiếc rằng tổng thống Diệm là một người ít nói và không có tài hùng biện”. Bà Ngô Đình Nhu nói tiếp: “Nhưng trái lại, các ký giả rất được “những người đối lập với chính phủ” nhất là Phật giáo đồ trọng đãi và họ có xu hướng bênh vực cho các người này”.
Trong phần còn lại của diễn từ, bà Ngô Đình Nhu đã trình bày về sự liên lạc chặt chẽ giữa các tổ chức Phật giáo với Việt Cộng, kế hoạch chính trị hoá Phật giáo Việt Nam để tìm cách biến Phật giáo thành một quốc gia trong quốc gia. Bà cũng xác nhận lại một lần nữa rằng những nạn nhân trong các vụ xảy ra ở Huế - các vụ này đã khởi đầu cho các vụ rối ren sau này - đều do các chất nổ gây ra, chớ không phải vì cảnh sát bắn vào nhóm biểu tình.
Sau hết, sau khi đã trả lời rất nhiều những câu hỏi của ký giả - trong đấy có những câu rất xấc xược – bà Ngô Đình Nhu đã được mọi người tán đồng khi bà hô hào cần phải có sự đoàn kết giữa Hoa Kỳ và quốc gia đồng minh Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Cộng và bỏ qua những “hiểu nhầm” và mục đích của bà đến đây là đánh tan những hiểu nhầm đó. Cuối cùng, bà Nhu đã rời diễn đàn với sự vỗ tay của đa số các cử toạ.
Trong khi bên trong khách sạn, bà Ngô Đình Nhu đang nói chuyện, thì ở bên ngoài khoảng năm mươi người thuộc nhiều hội tiến bộ hoặc hoà bình tụ họp, phân phát những truyền đơn chống lại tổng thống Ngô Đình Diệm và chống việc tiêp tục chiến tranh tại Việt Nam và họ đã âm mưu tổ chức một cuộc biểu tình chống tổng thống Ngô Đình Diệm, nhưng thất bại.
Công chúng Mỹ chưa được kích động đúng mức đối với Việt Nam để có thể biểu tình vì Việt Nam. Về phần bà Ngô Đình Nhu, người ta có thể nói rằng bà đã qua một thời kỳ sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và đã đậu ưu hạng, và từ nay bà tỏ ra có đủ điều kiện để thuyết phục cả nước Hoa Kỳ
***
Tường thuật trên một tờ báo Mỹ kia lẽ ra khích lệ Nhu nhưng, Nhu chưa lú lẫn đến mức không phân biệt tờ báo ít tiếng tăm, số phát hành hạn chế với những tờ báo mà ấn bản lên hàng mấy triệu và thật sự làm chủ dư luận Mỹ - họ mô tả không khí của cuộc họp báo hoàn toàn khác hẳn. Nhu biết Lệ Xuân chi rộng rãi cho các cây bút hạng nhì, hạng ba và thuê hẳn số cột của tờ báo theo giá cao hơn quảng cáo.
- Tôi đọc báo Mỹ, cuộc họp báo của chị khá tốt! – Nhu ngó Luân. Trong một thoáng, Luân nhận mình sai lầm khi nhận xét như vậy.
- Anh nói thật hay anh định an ủi tôi? – Nhu xẵng giọng. Và, chính Nhu đã gỡ rối cho Luân.
- Anh nên bình tĩnh… - Luân gián tiếp trả lời.
- Nhà tôi chủ quan quá. Và, bài báo lá cải làm sao đổi ngược ý định của tổng thống Mỹ…
- Tôi đã quyết định! – Nhu nói rất nhỏ song thật dứt khoát – anh kiểm tra lần chót kế hoạch của ông Đính và báo cáo với tôi càng sớm càng hay.
Nhu bắt tay Luân, bước thật nhanh vào phòng làm việc.
Luân đủng đỉnh bước xuống bậc thềm, lên xe. Đầu óc anh căng thẳng, làm gì? Phải làm gì? Có thể làm gì? Làm với cái gì?
Xe dừng tận sân nhà mà Luân vẫn còn ngồi thừ, mãi tới khi bé Lý gõ vào cửa xe gọi “ba, ba”, anh mới chợt tỉnh.
… Một đêm trôi qua. Một đêm Luân không ngủ. Dung cũng không ngủ.
- Anh phải đến nhà chị Cả!
Nhà chị Cả là nơi có lần Ngọc đưa Luân đến tạm trú sau vụ Luân bị rượt đuổi ở Hoà Hưng, cách đây tám năm.
Dung không ngăn. Chắc chắn chỗ chị Cả an toàn, như những tài liệu công an mà Dung nắm.
Luân gọi Thạch. Gọi mấy lần. Thạch không thưa. Cửa phòng Thạch vẫn mở.
- Đầu hôm, cậu Thạch nói với tôi đi mua thuốc hút, nhờ tôi đóng cửa… Rồi tôi quên lửng…
Chị Sáu cho Luân và Dung biết bấy nhiêu
- Thạch bị bắt cóc! – Luân bảo Dung.
Thông cáo của Ban chấp hành Trung ương Phong trào phụ nữ liên đới:
Một vài hãng thông tấn nước ngoài nhằm đầu độc mối bang giao Mỹ - Việt đã thuật lại sai hẳn nội dung của nó một câu trong bài tuyên bố của bà Ngô Đình Nhu tại La Mã, và do đó gây ra một sự hiểu lầm trong một vài giới người Mỹ.
Lời tuyên bố đó, chính đã được bà Ngô Đình Nhu nói ra trong hoàn cảnh sau đây: để trả lời câu hỏi về cảm tưởng của bà Ngô Đình Nhu đối với cuộc viếng thăm của phái đoàn Mac Namara, bà chủ tịch đã nói rằng:
“Tôi rất hài lòng được biết ông Mac Namara tới Sài Gòn để xem công việc của người Mỹ ở đây được điều khiển ra sao. Một vài viên chức cấp dưới giúp việc tại các cơ quan Mỹ đã có những thái độ và hành động như những lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ. Họ không hiểu nổi những gì đang xảy ra xung quanh họ. Do thái độ vô trách nhiệm của mình, họ đã dồn các cấp chỉ huy của họ theo một chính sách mơ hồ”
Danh từ “lính” đây không có nghĩa là quân nhân, chỉ có nghĩa là bọn phiêu lưu có mộng lập vương tại xứ người ta. Thế mà các hãng thông tấn nói trên lại bóp méo ra như sau:
“Những sĩ quan trẻ tuổi của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã hành động một cách vô trách nhiệm như những tên lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ”.
Người ta còn nhớ rằng trong mấy tuần lễ vừa qua, bà Nhu còn tố cáo “những kẻ phiêu lưu quốc tế” âm mưu phá hoại an ninh của Quốc gia Việt Nam.
Bà cố vấn đã nói rằng hạng người đó có lối một nửa tá. Các điện tín, báo chí đều đồng ý về điểm này. Và ai ở Sài Gòn cũng đều biết một nửa tá đó là dân sự, không phải quân sự Hoa Kỳ.
Bà Ngô Đình Nhu cũng đồng quan điểm rằng nhân dân Mỹ không được biết rõ về những sự thật ở Việt Nam tới mức đáng được biết, nhất là về vụ Phật giáo. Sở dĩ có tình trạng đó cũng vì chiến dịch đầu độc dư luận quốc tế trong đó “những kẻ phiêu lưu quốc tế” nói trên đã đóng một vai trò chủ chốt.
Chính bà Nhu đã nói tại La Mã về đám người nửa tá phiêu lưu quốc tế này.
Ngoài ra mới đây nhân việc một phái đoàn nghị sĩ Hoa Kỳ có thể sẽ sang quan sát tại Việt Nam, bà Ngô Đình Nhu đã tuyên bố rằng phái đoàn đó sẽ được Việt Nam đón tiếp niềm nở, vì mọi cuộc thăm viếng như vậy sẽ giúp cho các vị đại biểu của nhân dân Mỹ hiểu biết tại chỗ tình hình Việt Nam, một tình hình thật sự rất khác hẳn những điều mà bọn nửa tá “lính trẻ tuổi phiêu lưu giang hồ” nói trên đã cố ý muốn làm cho nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ tin theo lời họ nói.
Như vậy là rõ rệt: bà Ngô Đình Nhu không hề ám chỉ một binh sĩ nào, cũng như không hề chỉ trích tinh thần trách nhiệm và tinh thần hy sinh của các cố vấn quân sự Hoa Kỳ ở Việt Nam thuộc cấp trên cũng như cấp dưới. Vì theo lời khai của các thượng toạ, tăng ni và sinh viên, bọn phiêu lưu đang mộng lập vương kia đều thuộc giới dân sự cả.
Bà Ngô Đình Nhu cũng như tất cả các đoàn viên Phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam bao giờ cũng kiên quyết và đích xác tố cáo những hành động đáng chê trách của bọn nửa tá phiêu lưu quốc tế đang tìm cách phá rối những mối giao hảo quốc tế giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng ngược lại, phong trào phụ nữ liên đới Việt Nam luôn luôn rất khâm phục cũng như rất biết ơn các cố vấn quân sự Mỹ và qua các vị này, phong trào liên đới cũng rất khâm phục và rất bíêt ơn nhân dân Hoa Kỳ, nhất là các bà mẹ và vợ con của các chiến sĩ Mỹ đang chiến đấu cho chính nghĩa chung Mỹ - Việt, tại Việt Nam cũng như các nơi khác trên thế giới.
Đó là một điều hợp với lý trí, công bằng và đoan chính.
***
Thạch bị bắt cóc… Không còn nghi ngờ gì nữa. Từ trước tới nay, chưa bao giờ Thạch vắng nhà nửa tiếng đồng hồ.
- Em gọi Nha cảnh sát đô thành nhé! – Dung gợi ý
- Em cứ gọi họ cử người đến đây… Song, anh linh tính Thạch không còn nữa…
Thấy Dung ngơ ngác, Luân nói thêm:
- Bọn bắt cóc khai thác Thạch, chúng cần nhanh. Làm sao giữ Thạch lâu được? Lộ hết… Và tới giờ này Thạch không về, có nghĩa là chúng không khai thác được gì ở Thạch và thủ tiêu chú ấy.
Nước mắt Luân trào. Dung ôm mặt, nức nở. Chị Sáu không hiểu, đứng chết trân.
- Bọn nào? – Dung hỏi
- Còn bọn nào nữa? Mai Hữu Xuân!
- Nên báo với Nhu không?
- Anh sẽ báo!
- Saroyan?
- Khoan… Đừng tỏ ra hốt hoảng. Rất có thể Jones Stepp đứng sau lưng Xuân.
- Em không nghĩ như vậy. CIA cần gì ở anh Thạch?
- Cần, rất cần. Họ dùng trắc nghiệm theo lối Mỹ để đánh giá anh thật chính xác. Họ muốn từng nghi vấn nhỏ phải được giải đáp trước khi họ xếp các quân cờ trên bàn cờ mới.
Chuông cổng reo. Một thiếu tá cảnh sát vào nhà.
- Người bảo vệ kiêm lái xe của tôi đi mất từ chập tối hôm qua… Anh ta bảo với chị nấu bếp là đi mua thuốc lá. Rồi, không quay về.
- Thiếu uý Thạch? - Người thiếu tá cảnh sát hỏi.
- Đúng.
- Đại tá cho phép tôi báo cáo về Nha bằng điện thoại, còn tôi sẽ phăng mối từ đây… Từ chỗ bán thuốc lá gần nhất. Tôi sẽ hỏi lực lượng công an chìm được bố trí quanh đây…
- Thiếu tá cứ làm nhiệm vụ…
Sau đó, Luân gọi điện cho Nhu, Nhu vặn lại: Liệu Thạch chơi bời đâu đó, chưa về? Luân khẳng định không thể có việc đó.. Tới lượt Nhu sửng sốt:
- Sao kỳ quặc đến thế! Ai dám?
- Vào lúc này, ai cũng dám cả - Luân trả lời.
- Chúng định cảnh cáo cả tôi à? Được, nếu quả Thạch bị bắt cóc hay bị một cái gì đó, chúng sẽ biết tay tôi.
- “Chúng” là ai? – Luân hỏi, hơi mỉm cười.
- Anh đừng hỏi đố tôi, cả anh và tôi đều biết “chúng “ là ai…
Mệnh lệnh số 5 của Tổng thủ lãnh thanh niên Cộng hoà
Qua tình hình quốc gia gần đây, anh chị em thanh niên chắc đã ý thức được tình thế trầm trọng trong quốc nội gây nên bởi sự hiệp đồng giữa những thế lực chống chế độ cộng hoà chúng ta trong và ngoài nước.
Nguyên nhân của sự trầm trọng đó là do một số sư sãi trong Tổng hội Phật giáo đã có những “hành vi, ngôn ngữ và thái độ bất chấp đến “ý chí hoà giải tột bực” của Tổng thống và chính phủ Việt Nam cộng hoà, coi ý chí hoà giải đó là biểu hiện của một sự nhu nhược.
Người ta biến các chùa chiền thành những trung tâm khuấy rối, khủng bố các vị chân tu, hàng ngày mạt sát và đả kích chính phủ. Rồi cứ thế được đà, người ta đã tiến tới những âm mưu vận động phá hoại an ninh quốc gia. Súng đạn đã được mang vào các chùa chiền, một mặt uy hiếp các vị chân tu, một mặt tổ chức đảo chính, người ta công khai thiết lập bàn giấy tuyển mộ những lực lượng chiến đấu dưới hình thức “tuyển mộ thanh niên bảo vệ Phật giáo”.
Toàn thể anh chị em thanh niên Cộng hoà cũng như toàn thể dân chúng đều thấy rõ hàng nghìn những sự việc thuộc loại trên không có tính chất tôn giáo, chỉ nhằm mục đích không giấu giếm là khuynh đảo chính phủ, phá hoại an ninh quốc gia. Những người ngoại quốc ở trên nước này vô tư và khách quan cũng điều công nhận điều đó là đúng.
Mặc dù thế, Tổng thống và chính phủ Việt Nam cộng hoà vẫn theo đuổi thực hiện ý chí hoà giải: luôn trong mấy tháng, vẫn nhẫn nhục đọc những bức thư mà Uỷ ban liên phái gửi tới, giọng khiêu khích và khinh mạn, vẫn chứng kiến những cuộc tụ tập để mạt sát chính phủ, để phổ biến những tài liệu ngoại quốc chống đối lại quốc gia Việt Nam. Chính phủ đã bãi bỏ lệnh giới nghiêm.
Thái độ nhẫn nhục của Chính phủ đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết đã bị nhiều người kết tội là nhu nhược và bị người ta hiểu lầm là “bất lực” không tìm được biện pháp thích nghi để giải quyết vấn đề Phật giáo.
Tới nay thì tình thế không cho phép Tổng thống và Chính phủ Việt Nam cộng hoà chờ đợi sự hưởng ứng của những phần tử đã tiếm đoạt danh nghĩa Tổng hội Phật giáo. Những cuộc vận động phá hoại an ninh quốc gia đã tới mức độ đòi hỏi Tổng thống và Chính phủ Việt Nam cộng hoà phải có thái độ cương quyết chặn đứng những hành động phá hoại trong quốc nội để kịp thời đối phó với Cộng sản.
Anh chị em thanh niên Cộng hoà tất phải tự hỏi tại sao “ý chí hoà giải tột bậc” của Tổng thống Việt Nam cộng hoà không được sự hưởng ứng của Tổng hội Phật giáo? Tôi có thể trả lời ngay rằng Uỷ ban liên phái đại diện cho Tổng hội Phật giáo đã bị một số người đầu cơ chính trị, lợi dụng tôn giáo khủng bố, thao túng và giật dây. Tôi tin rằng một ngày gần đây chính phủ cũng như nhân dân sẽ lột mặt nạ những kẻ đó và đưa ra ánh sáng.
Tôi tin rằng thái độ và hành động kiên quyết của những người chịu trách nhiệm về vận mệnh của Việt Nam cộng hoà sẽ mang lại bình ổn trong nước.
Nhiệm vụ của anh chị em thanh niên cộng hoà lúc này là đóng góp vào nỗ lực của lãnh đạo quốc gia. Một trong những công việc quan trọng của anh chị em là chấp hành kỷ luật, sát cánh cùng lực lượng an ninh và quân đội đập tan mọi mưu toan phản loạn, gây rối, ám sát, bắt cóc, cấu kết với ngoại bang. Không còn có thể nào lùi bước được nữa!
Nhân danh Tổng thủ lãnh thanh niên Cộng hoà, tôi đặt toàn bộ lực lượng thanh niên trong tình trạng trực chiến. Mệnh lệnh này cần được phổ biến rộng rãi bằng các phương tiện của quốc gia. Tôi uỷ nhiệm Phó Tổng thủ lãnh Cao Xuân Vĩ ban hành các biện pháp cụ thể và hữu hiệu. Ký tên: Ngô Đình Nhu…
Tổng thống Ngô Đình Diệm trả lời báo Pháp France Soir
- Sài Gòn – “Việc cần phải gây dựng tại miền Nam Việt Nam, là một cuộc cách mạng nhân dân chống Cộng Sản và hướng về nền kỹ nghệ hoá”, đó là lời tuyên bố của Tổng thống Việt Nam cộng hoà trong một cuộc phỏng vấn giành cho ký giả Eugene Manoni, đặc phái viên báo France Soir.
Tổng thống nói tiếp “cuộc chiến tranh hiện nay bắt buộc miền Nam Việt Nam phải thực hiện cuộc cách mạng đó một cách thận trọng, nhưng dầu sao đi nữa cũng phải thực hiện”.
Tổng thống Việt Nam cộng hoà cũng đã nhấn mạnh rằng: “chính trong bối cảnh lịch sử đó, trong cuộc chiến tranh không trận tuyến đó mà người ta cần phải tìm hiểu để có quan niệm khách quan về những người chỉ trích nhắm vào những người thân cận của tôi”.
Tổng thống giải thích thêm rằng “chúng tôi là một nước đang lâm vào cảnh chiến tranh, và không phải những người thân cận của tôi đã gây ra cuộc chiến tranh đó với những hậu quả của nó”. Tổng thống cũng đã nhấn mạnh rằng “chung quy chính tôi là người mà người ta đang tìm cách ám hại, bởi vì tôi không phải là một con bù nhìn, và cũng bởi vì tôi được quốc dân mến chuộng”.
Trong đoạn kết luận, Tổng thống nói: “Tất cả những người bạn của chúng tôi trong thế giới tự do cần phải giúp đỡ chúng tôi cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần, và nhất là đừng âm mưu chia rẽ chúng tôi trong lúc chúng tôi đang phải đương đầu với kẻ thù chung”.
- Câu hỏi thứ 1: Kính thưa Tổng thống, theo ý Tổng thống, người ta có thể rút ra được những bài học nào về những biến cố vừa qua ở quý quốc?
-Trả lời: Mọi người đều nói đến Cộng Sản và vấn đề kém mở mang. Nhưng, trong lĩnh vực chính trị cũng như trong lĩnh vực thông tin, rất ít người có trách nhiệm trong thế giới tự do hiểu được tận gốc, mà lại còn tỏ ra không chú tâm đến các vấn đề đó, mặc dầu những vấn đề đó là những hiện tượng trọng yếu của thế kỷ 20. Tại những quốc gia tiên tiến phương Tây, vấn đề Cộng Sản nội bộ được đặt ra một cách khác hẳn. Quả vậy, những tiến bộ kỹ thuật và kinh tế, thực hiện được một phần cũng nhờ sự khai thác các thuộc địa trong thời kỳ cực thịnh của chủ nghĩa tư bản, đã làm cho những cuộc tranh chấp xã hội và lý tưởng mất hẳn tính chất khao khát của nó. Như vậy, dĩ nhiên là những nhà lãnh đạo chính trị cũng như những nhà lãnh đạo dư luận không thể nào có được một ý niệm rõ rệt về điều kiện nhân sinh tại các nước chậm tiến. Thêm vào đó, lại còn có tệ trạng các quốc gia tiền tiến nghiễm nhiên nắm độc quyền trên thị trường quốc tế cũng như trong lĩnh vực phổ biến nền cao học. Tổng hợp lại các hiện tượng đó, người ta mới hiểu được các nỗi khó khăn mà những dân tộc như dân tộc chúng tôi đã vấp phải trong các mối bang giao với các nước tiên tiến, và cũng mới hiểu rõ được niềm thất vọng cũng như nỗi cay đắng của chúng tôi.
Tất cả những sự cách biệt về mặt kỹ thuật, kinh tế và tâm lý giữa các quốc gia tiền tiến và những quốc gia mới thâu hồi độc lập đều bị lợi dụng với mục đích gây ra một cuộc chiến tranh mà trong đó người ta dễ lâm vào cảnh đánh bạn hơn là đánh kẻ thù chung.
- Câu hỏi 2: Những người thân cận của Tổng thống đã bị chỉ trích. Người ta đã nghĩ như thế nào về lời chỉ trích đó?
- Trả lời: Đó cũng là một hình thức của cuộc chiến tranh không trận tuyến nhằm mục đích làm xáo trộn tình thế, và cô lập hoá chúng tôi. Chúng tôi đang ở trong tình trạng khẩn cấp, đạo quân thứ năm thuộc mọi phần tử, những vụ phản bội, những âm mưu phục kích, tình trạng chợ đen…
Mọi người đều có những kẻ thân cận của mình. Nhưng, người ta chỉ trích những kẻ thân cận của tôi với những lý luận cụ thể nào, ngoài những lời đồn đãi?
Tôi hoàn toàn đồng ý về điểm phải để ý tới những lời chỉ trích đó, nhưng không phải theo cái lối mà một vài người bạn theo phái tự do đã noi theo. Tôi thiết nghĩ rằng trước hơn hết phải phân tích cái gì là đúng và cái gì là không đúng trong những lời chỉ trích đó. Rồi phải có CAN ĐẢM CÔNG KHAI tỏ một thái độ khách quan về tất cả vấn đề này. Nếu chúng ta làm cách khác, thì cũng ví như chúng ta chấp nhận trước là sẽ bị đánh bại vì dư luận thế giới bị đầu độc bằng những mánh khoé vu khống và tin đồn thất thiệt – mà chẳng có ai dám đứng lên đánh tan những tin đồn đó – và như vậy là người ta đánh bại những người chống Cộng hữu hiệu nhất.
- Câu hỏi 3: Theo ý Tổng thống, thì có những biện pháp nào khả dĩ?
a) Tái lập được tình trạng hết căng thẳng ở quý quốc?
b) Đánh tan được cái trạng huống khó chịu mà người ta đã nhận thấy trong các mối bang giao Mỹ - Việt?
- Trả lời: Vì nhiều lý do nước tôi rất dễ bị mọi thứ chủ nghĩa xâm nhập, trong khi đang phải đương đầu với chiến tranh và phải cấp tốc giảm bớt sự chậm tiến quá lớn lao của mình về mặt kỹ thuật, kinh tế và xã hội.
Việc cần phải gây dựng tại miền Nam Việt Nam, là một cuộc cách mạng nhân dân và hướng về nền kỹ nghệ hoá, nghĩa là cần phải cố gắng gấp bội chứ không phải chỉ lo nghỉ ngơi. Đó là việc mà phần đông nếu không nói là tất cả, những quốc gia Á – Phi đang thực hiện
Vì đó là giai đoạn lịch sử, giai đoạn tiến từ nền văn minh này tới một nền văn minh khác, mà những nước ấy phải thực hiện cho được bằng xương máu của mình, không phải chỉ có một vài cải cách nhỏ nhặt không đáng gì là được đâu!
- Câu hỏi 4: Như vậy Tổng thống có nghĩ rằng lời tuyên bố mới đây của Đại tướng De Gaulle là có thể giúp được phần nào để tìm một giải pháp cho những nỗi khó khăn vừa qua chăng?
- Trả lời: Tôi rất khâm phục đại tướng De Gaulle vì ông là một nhà đại ái quốc, và lúc cần đến, ông dám có quyết định không được lòng dân ngay lúc đó, nhưng sau mới tỏ ra là có ích cho quyền lợi lâu dài của nhân dân Pháp.
Bây giờ không còn là thời kỳ mà người ta có thể chỉ định nghĩa dân chủ bằng những danh từ tự do chính trị và chính thể đại nghị; dân chủ ngày nay đòi hỏi phải có kỹ nghệ và kế hoạch; chính trị và các nghị viện cần phải đáp ứng theo sự đòi hỏi lịch sử đó.
Vả lại, Việt Nam không phải là nước Pháp. Việt Nam không còn hạ tầng cơ sở, cũng như không có các cán bộ như nước Pháp, và nhất là kém dân tộc Pháp về tinh thần yêu nước sáng suốt biết chống lại mọi sự xâm nhập của bất cứ phần tử ngoại lai nào.
Hiệu triệu của Đại đức Lâm E
Từ mấy tháng nay, sự tranh chấp cho năm nguyện vọng của Phật giáo đồ kéo dài quá lâu làm cho có người len lỏi và lợi dụng thời cơ để biến thành một cuộc đấu tranh có màu sắc chính trị.
Thật vậy, sau trường hợp đáng tiếc xảy ra ở Huế nhân ngày Phật đản 8/5/63, Chính phủ đã hết sức cố gắng dàn xếp mọi việc trong ý chí hoà giải. Nhờ thế bản “thông cáo chung” đã được ký kết vào ngày 16/6/63 làm toàn thể Phật giáo đồ toàn quốc vui mừng là đã chấm dứt được sự ngộ nhận của đôi bên. Nhưng trong Uỷ ban liên phái, một số người quá khích đã cố tình reo giắc căm thù, đào hố sâu chia rẽ giữa Phật tử và chính quyền làm cho tình trạng trở lại trầm trọng hơn trước đến nỗi Chính phủ phải ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc.
Kính thưa toàn thể Phật tử
Sau những điều trình bày trên đây, toàn thể quý vị Phật tử đều thấy rõ là cuộc vận động của Phật giáo không còn nguyên vẹn ý nghĩa tôn giáo nữa.
Là Phật tử, chúng ta không thể nhắm mắt để cho những người chuyên lợi dụng, lấy đó làm đà để đấu tranh cho tham vọng cá nhân.
Nhân danh Đại đức Tăng trưởng và Chủ tịch Trung ương giáo phái Therevada tại Việt Nam, chúng tôi tuyên bố tự rút khỏi Uỷ ban liên phái và chúng tôi thành khẩn kêu gọi toàn thể Phật tử Việt Nam nói chung và các vị Đại đức tăng cùng các Phật tử giáo phái Therevada nói riêng, hãy bình tĩnh, sáng suốt tin tưởng vào sự tự do của chính quyền.
Hãy đề phòng, hãy cảnh giác đừng để cho những người lợi dụng đưa Phật giáo chúng ta vào con đường phiêu lưu vô định có lợi cho cộng sản.
Chúng ta cần phải thành tâm góp sức thực thi bản “thông cáo chung” để sớm chấm dứt tình trạng hiện tại.
Chúng tôi đặt cả niềm tin nơi sự sáng suốt của toàn thể Phật tử và thành tâm tin tưởng nơi sự anh minh của Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Ngô Đình Nhu ghi vào góc bản hiệu triệu của Lâm E lời phê bằng mực đỏ: “Gửi ông Lê Trọng Hiếu. Liệu Lâm E có thể tổ chức một cuộc tổng biểu tình gồm vài chục vạn người diễu hành trên đường phố để báo chí và đài truyền hình nước ngoài tường thuật, quay phim không? Tốn bao nhiêu, bảo Cao Xuân Vỹ”.
Ngô Trọng Hiếu gặp ngay Cao Xuân Vỹ. Cuộc mặc cả bắt đầu.
- Tôi có thể huy động hai chục nghìn người…
- Tốt lắm. Nhưng phải hai chục nghìn tín đồ Phật giáo, và ít ra cũng vài nghìn nhà sư cả phái Therevada và các phái khác - Vỹ bảo.
- Cần tới vài nghìn nhà sư sao? - Hiếu lo lắng.
- Chứ sao! Vài nghìn là ít…
- Hơi khó… Áo vàng thì dễ, áo dà không may kịp… còn cạo tóc nữa!
- Chẳng lẽ ông tổ chức một cuộc biểu tình của dân thường? Đó là việc của tôi. Tôi có thể trong ngày tập hợp bốn năm chục nghìn thanh niên Cộng hoà. Song, ông cố vấn muốn cuộc tổng biểu tình giới Phật giáo kia!
- Ông chi chừng bao nhiêu tiền?
- Tuỳ ông… Mỗi “tín đồ” hai trăm đồng được không?
- Ít quá, ba trăm…
- Ừ, ba trăm. Còn mỗi nhà sư?
- Sư của Lâm E và mấy ông thầy cúng thì giá hơi cao, hai nghìn đồng một người, riêng Lâm E và các tay trùm phải tính bạc vạn…
- Cũng được.!
- Bạc Việt hay đôla?
- Sao lại đôla?
- Lâm E và các tay trùm đòi đôla…
- Họ đòi hay ông đòi?
- Tôi đòi làm gì! Cần lối hai chục ngàn đôla. Không có thì không tổ chức nổi.
- Tôi phải xin ý kiến ông cố vấn…
- Chớ! Chớ! Tôi với ông thoả thuận là xong mà…
- Vậy tôi ghi ba chục nghìn đôla…
- Phần ông bao nhiêu?
- Tôi một nửa, ông một nửa…
- Ít quá, ghi năm chục nghìn đi! Tôi mười lăm nghìn, ông mười lăm nghìn…
- Ôkê!
- Còn nữa…
- Cái gì?
- Mướn báo, truyền hình… Năm chục nghìn đôla thêm…
- Ông đừng chơi trội! Tôi được chia bao nhiêu?
- Thôi, ông lấy mười nghìn vậy!
- Ôkê! Nhưng, nhắc ông: ông cố vấn sẽ đếm người biểu tình, không đủ số thì khó mà nuốt trôi…
- Đếm làm sao nổi?
Cuộc biểu tình dự định chưa kéo đi đã giải tán: gom góp không được một nghìn người.
Ngô Trọng Hiếu và Cao Xuân Vỹ sợ mất mật. Nhưng, Nhu quên cái lệnh của anh ta…
***
Báo cáo của Nha cảnh sát đô thành về trường hợp Thạch như sau:
Bảy giờ tối, Thạch đến chỗ bán thuốc lá đường Đinh Tiên Hoàng, mua một tút Bastos xanh. Người bán thuốc quen mặt Thạch nên không thể lầm lẫn. Thạch cầm tút thuốc rời chỗ bán thì có một chiếc xe hơi chờ sẵn, vì bóng tối, người bán thuốc không rõ điều gì xảy ra, xong thấy hình như có cãi cọ hay xô đẩy gì đó, rồi xe chạy. Thạch lên xe hay không người bán thuốc không rõ… Xe du lịch, sơn màu hột gà; hiệu và biển số xe thì người bán thuốc không thể biết.
Một cảnh sát viên gác ngã tư Tự Đức – Đinh Tiên Hoàng – cách nơi bán thuốc chừng năm mươi thước và cách chiếc xe chừng ba mươi thước cho biết: Vào lúc bảy giờ, một xe Peugeot 240 dừng dưới bóng tối do tàn cây che khuất đèn, hai người xuống xe, đón một người từ nơi bán thuốc lá đi tới, hỏi han việc gì đó, hình như ấn người cầm thuốc lá vào khoang sau, và xe phóng chạy; người cảnh sát chỉ kịp thấy biển xe mang chữ NBO, còn số thì nhìn không kịp, nhưng chắc chắn con số bắt đầu bằng số 2. Xe phóng thẳng đường Đinh Tiên Hoàng, không rẽ qua Phan Thanh Giản.
Một cảnh sát viên gác ngã tư Phan Thanh Giản – Đinh Tiên Hoàng cho biết: Chiếc NBO vượt đèn đỏ, anh thổi còi, song xe phóng luôn. Không kịp đọc số xe vì một xe tải che khuất, nhưng anh chắc chắn người ngồi cạnh tài xế, qua đèn đường, có bộ mặt choắt và hình như cằm mọc một chùm lông đen…
Tin của Việt tấn xã
Gần đây báo chí nước ngoài đề cập đến một cuộc vận động của chính phủ Việt Nam cộng hoà qua một nhân vật ngoại giao thuộc một nước thứ ba để tiến tới sự dàn xếp gặp gỡ giữa chính phủ Việt Nam cộng hoà và chính quyền Cộng sản Bắc Việt. Đó là loại tin đầy ác ý. Việt tấn xã được phép bác bỏ sự bịa đặt lố bịch kia.
Thông cáo về phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc
Ngày 24 tháng 10, với sự thoả thuận của chính phủ Việt Nam cộng hoà, một phái đoàn của Liên hiệp quốc sang Sài Gòn để điều tra về cái gọi là “vấn đề Phật giáo”, theo nghị quyết ngày 7 tháng 10 của Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã tới Sài Gòn trên chuyến bay thường lệ của Pan America. Phái đoàn mang bức thư riêng của Tổng thư ký Liên hiệp quốc U Thant gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm và nghị quyết Đại hội đồng Liên hiệp quốc do chủ tịch khoá này là Carlos Sosa Rodriquez ký. Phái đoàn gồm có: Abdul Rahman Pazhwak, A Phú Hãn, trưởng đoàn và các đoàn viên, các ông: Correa Da Costa, đại diện Ba Tây: Seneral Gunewardere, đại diện Tích Lan, Fernado Volis Jimenez, đại diện Costa Rica; Louis Ignacioi Pinto, đại diện Dahomey; Ahmeh Tabi Benhima, đại diện Maroc, Matrica Prasad Koirala, đại diện Nepal
Mọi phí tổn của phái đoàn do Liên hiệp quốc đảm nhiệm để bảo đảm cho sự vô tư của cuộc điều tra. Tổng chi phí ước tính 33 nghìn đôla Mỹ.
Đón phái đoàn tại phi cảng Tân Sơn Nhất có ngoại trưởng kiêm nhiệm Trương Công Cừu.
Theo dự tính, ngày 25 tháng 10, phái đoàn sẽ được Tổng thống Việt Nam cộng hoà tiếp.
Lần đàu tiên, Sài Gòn nhắc đến Hà Nội
Tin A.P - Việt tấn xã, cơ quan thông tin chính thức của Chính phủ Việt Nam cộng hoà vừa phát một số đoạn trong bài xã luận của tờ “Nhân dân” cơ quan trung ương của Đảng Lao động (Cộng sản) Bắc Việt. Đó là những đoạn mà Hà Nội lên tiếng kịch liệt phản đối việc Đại hội đồng Liên hiệp quốc cử đoàn điều tra sang Sài Gòn để thu thập tài liệu về vụ Phật giáo. Theo “Nhân dân”, việc làm này là “một thủ đoạn của đế quốc Mỹ nhằm tước đoạt danh nghĩa của Liên hiệp quốc và bành trướng sự can thiệp cùng chiến tranh xâm lược tại miền Nam Việt Nam, vi phạm thô bạo hiệp định Geneve năm 1954 về đình chỉ chiến sự và giải quyết hoà bình vấn đề Đông Dương. Cũng theo “Nhân dân”, việc điều tra phải thuộc thẩm quyền của Uỷ hội quốc tế…
Đây là lần đầu tiên trong vòng tám năm nay, Việt tấn xã trích trung thực những đoạn của tờ “Nhân dân” và điều đáng lưu ý là Việt tấn xã không hề để vào ngoặc kép những từ “đế quốc Mỹ”, “chiến tranh xâm lược”, “vi phạm thô bạo hiệp định Geneve”… Người ta có thể hiểu rằng Sài Gòn muốn cho thấy, trên một số vấn đề nào đó, họ không khác ý kiến của Hà Nội, điều mà trước đây họ coi như cấm kỵ. Đồng thời Sài Gòn, qua nguồn tin này, thả chiếc bóng thăm dò nhiều phía - cả Bắc Việt lẫn Mỹ.
***
Mặc dù rất lo lắng cho số phận của Thạch – và anh đã hình thành trong đầu phương án hành động sau khi đọc đoạn báo cáo của Nha cảnh sát đô thành liên quan đến gã ngồi cạnh tài xế chiếc Peogeut – “có bộ mặt choắt và chùm lông trên cằm” – Luân vẫn đến nhà chị Cả. Chỉ cách này, mong manh song còn hy vọng, anh tìm liên lạc với lãnh đạo.
Luân đỗ xe trước Bar Kim Sơn; bây giờ thì anh phải tự lái, gọi cà phê. Luân ung dung uống, kín đáo quan sát. Không có “cái đuôi” nào bám theo anh. Căn phố lầu số 31 bên kia đường Trần Hưng Đạo mang bảng hiệu: Hồng Hoa store. Anh không nhớ lần Ngọc dẫn anh trốn, cửa hàng này có chưa? Và chị Cả còn ở đấy không? Anh ngó lên tầng lầu, cửa đóng kín. Phải sang hỏi thôi…
Anh băng qua đường, vào cửa hiệu
- Ông đến có việc gì? - Một trung niên ngồi sau chiếc bàn chất đầy giấy tờ, đứng lên lễ phép hỏi Luân.
Cả căn phố bày la liệt mẫu hàng cùng với những bánh, những thùng – có vẻ đây là một hiệu buôn đồng thời kho hàng vải sợi.
- Tôi xin hỏi: người chủ căn phố này còn ở đây không? Tôi muốn thăm, tôi là bà con…
- Ông là bà con với bà chủ nhà?
- Dạ, đúng vậy! - Hai tiếng “bà chủ” khiến tim Luân đập mạnh
- Bà chủ ở tầng trên… Ông đến thang lầu cách đây ba căn
Luân theo chỉ dẫn, gõ cửa tầng trên
- Ai đó? - một giọng phụ nữ hỏi. Giọng trẻ, không phải của chị Cả.
- Tôi là bà con của chị Cả…
- Chị Cả nào? Ở đây, không ai là chị Cả… - Rõ sàng, sau cánh cửa, đôi mắt qua một lỗ nhỏ nhìn Luân
- Vậy là tôi nhầm. Xin lỗi – Luân chán nản, quay lưng
- Ông kỹ sư! - Vẫn giọng đó và một luồng lạnh chạy theo cột sống của Luân - nhất thời anh chưa phân định được mừng hay sợ.
Cánh cửa hé – hé một chút
- Mời ông vào!
Luân lách qua cửa. Cửa khép sau lưng anh. Gian nhà hơi tối. Luân chỉ nhận ra một bóng nhỏ nhắn. Đèn bật sáng. Luân sững sờ: Mai đứng trước mặt anh.
Anh chụp tay Mai, siết mạnh:
- Cô bình yên!
Luân không giấu nỗi mừng. Mai thoát khỏi tay Trần Kim Tuyến, điều thật lạ.
- Mời ông kỹ sư ngồi!
Mai trở chiếc ghế tựa. Vẫn là chiếc ghế tựa năm xưa, khi anh được Ngọc đưa đến đây, sau trận bị bộ hạ của Mai Hữu Xuân truy đuổi ở Nhị Tì Quảng Đông, năm 1955.
- Tôi bình yên, nhờ ông kỹ sư… Ông kỹ sư nhắc tôi mấy lần về tâm địa của đảng Đại Việt – Mai nói, giọng xúc động – Tôi chuyển chỗ ở trước. Quả, gần trưa ngày 27/2, công an chụp căn phòng tôi ở…Không có dấu vết gì. Tất nhiên, do Phạm Phú Quốc khai…
Giọng Mai bỗng như lạc:
- Chú tôi…
Cô ôm mặt khóc. Thế là, Luân hiểu, người lao công Sở thú không còn nữa – cái chết thảm khốc ở P42, mồi cho một con cọp nào đó…. Luân chợt nhớ tới Ngọc. Chiếc đi văng kia! Anh lấy khăn lau mũi. Mai khó đoán lý do cái đau của Luân.
- Mỗi người trong cuộc chiến đấu này đều phải chịu mất mát… - Luân nói thầm.
Anh hỏi con của Mai
- Tôi gửi đi xa…
Người mẹ ngậm ngùi nghe nhắc con, nhưng Luân tìm thấy trong câu trả lời của Mai sự yên tâm - hẳn cô đã gửi con ra miền Bắc. Luân không dám hỏi tin chồng Mai. Đủ rồi…
Bây giờ, Luân ngắm Mai. Cô gày rạc, tóc lốm đốm bạc. Trong khoảnh khắc, Luân nhớ liền khuôn mặt của Mai giống một người…
- Chú Sáu khoẻ không, cô?
- Chú Sáu nào? – Mai hơi bối rối
- Tôi tin chú Sáu là ba cô…
Mai ngó Luân trân trối:
- Tại sao ông kỹ sư biết ba tôi?
- Biết. Biết và chịu ơn…
Luân thuật vắn tắt cho Mai nghe trường hợp chú Sáu giúp Luân an toàn ra khỏi trạm kiểm soát của công an trên đường Phụng Hiệp đi Cần Thơ khi anh rời chiến khu về thành…
- À, tôi có nghe ba tôi nói. Ba tôi nói một cán bộ rất lớ ngớ trước công an… Không ngờ người đó là ông kỹ sư
Không khí bỗng nhẹ nhàng. Bao nhiêu hình ảnh buổi ban sơ vụt sống lại. Luân hơi mỉm cười. Đúng, anh lớ ngớ thật, anh nghi kỵ, sợ hãi nữa. Nhưng, người anh gặp lại là chú Sáu, một người dân tốt bụng. Dẫu sao, người tốt bụng vẫn đông hơn…
- Chắc chú Sáu vào khu…
Mai không xác nhận và cũng không phủ nhận
- Chị Cả vẫn ở đây?
- Vẫn ở đây… Chị đi chợ, sắp về…
- Có tin gì của anh Cả không?
- Có..
Hai người thầm thì một lúc.
***
Bị kẹp giữa hai người lưng nách. Thạch không thể vùng vẫy. Hai khẩu súng chọc hai bên thông Thạch đau nhói – còn khẩu súng của anh, chúng tước ngay khi ấn anh vào xe.
- Mày ngồi yên! Hễ kêu lên hay ra dấu cho tụi cảnh sát gác đường thì coi như mày theo ông bà ông vải ngay lập tức…
Gã ngồi băng trước, quay lại doạ Thạch.
- Thiếu tá Hùng, như vầy là sao?
Thạch hỏi. Thiếu tá Hùng chẳng xa lạ gì với Thạch.
- Là sao? – Hùng cười khẩy – là như vậy đó!
- Các ông làm sai luật. Tôi là người của Nha cảnh sát… - Thạch vẫn nói cứng.
- Im! - Thiếu tá Hùng quát - Luật lệ là cái con mẹ gì? Mày sẽ trả lời, chút nữa thôi. Nên nhớ mày chỉ có nhiệm vụ trả lời chớ không được cãi. Hiểu chưa con?
Xe quay về đường Hiền Vương, chạy một lúc, rẽ ngoặt vào một hẻm tối om.
Thạch hiểu số phận của anh: khi thiếu tá Hùng không cần giấu mặt thì có nghĩa là chúng sẽ khử anh.
Xe chui qua một cổng đã mở sẵn. Khi cánh cửa sắt đóng lại, hai gã kè Thạch bước lên bậc thềm một ngôi biệt thự.
- Còng nó lại! - Thiếu tá Hùng ra lệnh.
Thạch bị đẩy vào một chiếc ghế.
- Mày muốn sống hay muốn chết? – Hùng hỏi.
Thạch bây giờ thấy sợ.
- Ai mà không muốn sống!
- Ừ, biết điều đa! – Hùng cười hô hố, chùm lông cằm rung rinh.
- Mày biết thiếu tá Lưu Kỳ Vọng?
Tất nhiên là Thạch biết tay trưởng Ty cảnh sát Kiến Hoà.
- Tại sao thiếu tá Vọng chết?
Thạch thuật lại những điều anh chứng kiến ở Trúc Giang. Anh chưa lấy lại bình tĩnh nên không rõ lý do cuộc cật vấn này - Thiếu tá Vọng và thiếu tá Hùng vốn là bạn chí thân.
- Tao không hỏi mày chuyện đó. Tao hỏi mày vậy chớ thiếu tá Nguyễn Thành Luân tổ chức giết thiếu tá Vọng như thế nào? - Giọng Hùng gay gắt.
- Dạ, tôi đâu rành… Tôi… - Thạch lắp bắp.
- Mày rành! Mày phải rành! Ở bên cạnh thằng Luân mà mày không rành sao được…
Thạch chưa bao giờ nghĩ Luân dính vào một tội ác. Tuy sợ, anh vẫn lắc đầu:
- Không có chuyện đó đâu…
- Hà? Mày không chịu khai hả? - Thiếu tá Hùng chồm tới, dang tay định tát Thạch.
Cửa phòng xịch mở. Thiếu tá Hùng vội thu tay về, đứng thẳng người:
- Kính chào thiếu tướng!
Thạch nhìn lên, gặp nụ cười của Mai Hữu Xuân
- Sao lại còng thiếu uý Thạch? – Xuân nghiêm mặt.
Còng được tháo.
- Ta bắt đầu - Xuân ngồi xuống ghế, đối diện với Thạch. Thiếu tá Hùng vẫn đứng.
- Thiếu uý uống cà phê? – Xuân hỏi Thạch.
Không đợi Thạch trả lời, thiếu uý Hùng bước ra ngoài.
- Tụi nó chắc làm thiếu uý sợ… Không có gì nguy hiểm đâu, thiếu uý cứ yên tâm.. Xuân nhồi thuốc vào pipe sau đó, nhấc bao thuốc Capstan về phía Thạch.
- Hút đi!
Thạch hoang mang thực sự. Lạ lùng quá. Anh rút điếu thuốc mà tay lẩy bẩy.
Thiếu tá Hùng trở vào với hai tách cà phê, rón rén đặt lên bàn.
- Mời thiếu uý! – Xuân bảo.
- Chắc thiếu tá Hùng vừa cật vấn với thiếu uý về cái chết của thiếu tá Lưu Kỳ Vọng, đúng không?
Thạch khẽ gật đầu, lấm lét ngó Hùng
- Tầm bậy! – Xuân xoay người nhìn thiếu tá Hùng - Thiếu tá lẫn lộn chuyện chung với tình cảm riêng tư… Ta cần thiếu uý Thạch ở điểm khác.
Thạch không thể phân biệt Xuân khiển trách Hùng thật hay giả. “Họ cần gì ở mình?”. Thạch hớp một tách cà phê mà như hớp một thứ nước đăng đắng chẳng ra mùi vị, dù Thạch nghiện cà phê.
- Tôi muốn thiếu uý trả lời mấy câu hỏi của tôi, mấy câu hỏi bình thường thôi… - Xuân hút thuốc, phả làn khói xám toả rộng, quanh ông ta - Thiếu uý làm việc với đại tá Nguyễn Thành Luân bao năm rồi?
- Dạ, tám năm…
- Lâu dữ há?
- Dạ, cũng lâu…
- Thiếu uý có khi nào định xin thôi việc cạnh ông Luân không?
- Dạ… dạ không…
- Tại sao?
- Dạ, ông Luân đối với em rất tốt…
- Vợ anh ở Thân Cửu Nghĩa, Mỹ Tho?
- Dạ, phải.
- Vùng do Việt Cộng kiểm soát?
- Dạ, không. Vùng cửa an ninh…
- Nghĩa là ban đêm thì Việt Cộng, ban ngày là quốc gia?
- Dạ
- Tại sao anh không đưa vợ con anh lên Sài Gòn?
- Dạ, em còn cha mẹ già, còn miếng vườn. Lên Sài Gòn sống không nổi.
- Ừ, ừ… Tại sao gia đình anh không bị Việt Cộng làm khó dễ?
- Em không biết…
- Ừ, ừ… Nhà anh có ai theo Việt Cộng không?
- Dạ, không.
- Tôi hỏi chơi anh. Chớ nếu có người theo Việt Cộng, anh làm sao biết được. Ở xóm anh, người ta biết anh bảo vệ ông Luân không?
- Dạ, gia đình em giấu việc này… Dân thì không biết, nhưng một số người trong hội đồng hương, chính đồn trưởng, chỉ huy trưởng sân bay Thân Cửu Nghĩa biết.
- Tại sao hôm rồi vợ anh đau nặng, gọi anh về, anh lại không về?
- Dạ, em ngại…
- Ngại cái gì?
- Ngại Việt Cộng gài bẫy…
- Ừ, ừ… Rồi anh báo với đại tá?
- Dạ.
- Đại tá cho xác minh. Chỉ huy sân bay trả lời vợ anh không ốm. Phải không?
- Dạ, phải.
- Nếu bây giờ tôi báo với anh vợ con bắt bị bắt, anh tính sao?
Thạch rơi điếu thuốc, mồ hôi rịn.
- Dạ… vợ con em bị bắt… dạ, ai bắt?
- Việt Cộng chớ còn ai
Xuân ngó chăm chăm nét mặt của Thạch và, Thạch đã tỏ ra không đủ bản lĩnh trước một tay mật thám cỡ Xuân: anh thở phào, tuy nhè nhẹ mà cả Xuân và Hùng đều nghe, mặt anh giãn ra.
- Đủ rồi… - Xuân cười nửa miệng – Anh có cảm tình với Việt Cộng nếu không nói anh chính là Việt Cộng!
- Thiếu tướng dạy sao? - Thạch dường như nghe nhầm – Em mà Việt Cộng?
- Anh đừng đóng kịch nữa.. Hoặc anh nghĩ đến việc nhờ đại tá Luân can thiệp để Việt Cộng thả vợ con anh.
Nghe vợ con bị Việt Cộng bắt, Thạch hết sợ. Vì anh tin Việt Cộng không cớ gì hãm hại vợ con anh như anh từng theo dõi các vụ trừng trị của Việt Cộng; anh không phải hạng ác ôn. Nhưng, câu sau của Xuân thì anh chưa nghĩ tới - thật kỳ cục nếu Luân can thiệp và nếu như vậy thì chắc chắn Việt Cộng sẽ trị vợ con anh. Việt Cộng từng nhiều lần khử Luân.
- Dạ không. Việt Cộng mà nghe em là người của đại tá thì họ giết vợ con em liền! Việt Cộng oán đại tá thấu xương….
Đôi mắt sắc của Xuân xoáy vào Thạch. Kinh nghiệm nghề nghiệp của ông ta kết luận là Thạch nói thật.
- Việt Cộng không oán đại tá Luân đâu. Anh thử xin đại tá giúp cho… - Xuân tiếp tục trò chơi dụ dẫn tuy ông ta đã có phần cụt hứng.
- Dạ… em không dám! - Thạch trả lời xuôi xị.
- Thôi được. Tôi hỏi anh, anh muốn đặc cách lên lon đại uý không?
- Dạ, muốn thì muốn nhưng em chỉ theo đúng quy định chung, cấp trung uý đã quá sức em rồi…
- Tôi tặng cho anh một cơ hội lớn. Vừa rồi anh và đại tá đi đâu?
- Thưa, đi “Tam giác vàng”…
- À! – Xuân chống tay lên cằm, cau mày – Anh thuật cho tôi nghe chuyến đi của anh… Thật tỉ mỉ!
Trong lúc Thạch thuật. Xuân lim dim mắt, chốc chốc hỏi xen. Thạch thuật xong, Xuân lại ngồi thừ.
- Một chuyến đi chỉ với mục đích nghiên cứu bảo vệ nơi sản xuất bạch phiến… - Xuân như tự nói.
Rồi ông ta bỗng hoạt bát hẳn.
- Anh ký tên vào tờ cung.
- Dạ. Tờ cung gì?
- Tờ cung về việc đại tá Nguyễn Thành Luân buôn lậu bạch phiến… Anh ký xong, ngày mai sẽ nhận được quyết định thăng đại úy.
Thạch cắn môi. Không thể làm việc tồi bại như vậy được. Đại tá đâu có buôn bạch phiến.
- Dạ, em sẽ ký tờ cung như em vừa trình với thiếu tướng… Em không mong được thăng đại uý, em cũng không thể nói sai sự thật. Đại tá không đi buôn, buôn bất kỳ thứ gì, chứ đừng nói đến á phiện…
- Anh thật ngu! Anh nhất định không ký?
Thạch dứt khoát: - Dạ!
Mai Hữu Xuân hất đầu ra hiệu cho thiếu tá Hùng. Thạch đoán: anh sắp chết. Tự nhiên, nước mắt anh trào. Anh sắp quỳ xuống xin Xuân tha mạng.
- Anh ký chớ?
Thạch ngồi vững lại, không thể ký. Vợ Thạch từng dặn Thạch ăn ở với Luân sao cho phải… và, Luân Dung đối đãi với Thạch… Không thể ký!
Anh lắc đầu, chấm dứt mấy phút nặng nề mà Xuân hau háu nhìn anh. Xuân vỗ bàn, không nói gì, đứng phắt lên. Thạch biết, thế là hết. So với lần ở khách sạn Vị Lai, anh tuyệt vọng.
Thiếu tá Hùng bấm chuông. Ngay lúc đó, một sĩ quan bước vào… Thạch lạnh toát người nhưng, viên sĩ quan dập gót chân báo cáo.
- Trình thiếu tướng, trung tướng Jones Stepp nói chuyện điện thoại với thiếu tướng.
Mai Hữu Xuân vội vã ra khỏi phòng. Tiếng Xuân văng vẳng ở điện thoại. Bây giờ, một người nữa bước vào, một gã đen trũi, áo phanh ngực bày dấu xăm xanh lè, cặp mắt ti hí lừ lừ của thiếu tá Hùng, đưa chiếc còng vào tay Thạch. Đã đến lúc phải liều, Thạch chụp chiếc còng và đánh cùi chỏ thật mạnh vào bụng gã, rồi lao vào thiếu tá Hùng. Gã đen trũi đau quá, ôm bụng, sụm xuống. Thiếu tá Hùng bị bất ngờ, không kịp tránh chiếc còng vụt vào đầu hắn vang một tiếng “bốp” khô khan. Hùng té ngửa. Thạch định tước súng Hùng, và anh tính, nếu Mai Hữu Xuân bước vào, anh sẽ bắn…. Rồi ra sao thì ra… Thạch chưa mở được bao súng của Hùng thì cửa mở.
- Cái gì? – Mai Hữu Xuân kinh ngạc và ông ta hiểu liền.
- Đừng lộn xộn, đứng dậy, đưa tay lên… - Xuân ra lệnh cho Thạch, hai vệ sĩ giương nòng tiểu liên về phía Thạch.
- Trung tướng Jones Stepp sẽ đến đây trong mươi phút nữa để gặp thiếu uý… - Xuân bảo Thạch.
Gã đen trũi và Hùng được đỡ ra khỏi phòng. Máu tuôn ướt đẫm mặt Hùng. Việc lau quét khẩn trương. Xuân mời Thạch ngồi và ông ta cũng ngồi. Xuân nhìn Thạch khá lâu.
- Đại tá Luân dạy một bảo vệ đúng là một bảo vệ…
- Tôi không rõ đã phạm tội gì mà các ông cư xử tệ như vậy… Thiếu tướng ra lệnh trả khẩu súng của tôi cho tôi… Tôi muốn nói chuyện với đại tá!
Thạch đổi cách xưng hô, không thèm ngó Mai Hữu Xuân. Anh không cần biết Jones Stepp đến là tốt hay xấu với anh.
- Chi mà gấp… Gặp trung tướng Mỹ xong, ta sẽ tính… - Xuân nói, giọng đủng đỉnh.
“Ta sẽ tính?” Nghĩa là mạng sống của Thạch chỉ được kéo dài thêm một ít nữa. Không! Thạch mím môi.
Jones Stepp vào phòng. Xuân chào theo điều lệnh còn Thạch chỉ đứng lên.
Jones bắt tay Thạch, người thông ngôn ngồi cạnh. Cửa ra vào, hai quân cảnh Mỹ thay thế cho hai vệ sĩ của Xuân.
- Thế nào? – Jones hỏi Thạch
- Tôi xin phép được nói chuyện với đại tá Luân - Thạch nhắc đòi hỏi lúc nãy.
- Chưa được! – Jones trả lời lạnh lùng. Jones bước ra ngoài cùng Xuân. Hai quân cảnh vẫn lăm lăm tiểu liên.
Ngoài hành lang, Jones bảo Mai Hữu Xuân:
- Đại tá Nguyễn Thành Luân gọi điện thoại cho tôi về vụ người bảo vệ kiêm lái xe của ông ấy mất tích và đại tá quả quyết thiếu tướng là tác giả. Cả ông Ngô Đình Nhu cũng nghĩ như ông Luân…
Mai Hữu Xuân hiểu rằng Jones, qua vụ này, đánh giá nghề nghiệp của ông ta. Tai Xuân nóng bừng.
- Chỉ vì cảnh sát nhận dạng được người của thiếu tướng. Mặt như khỉ, có chòm lông ở cằm… Một chi tiết không đáng kể nhưng nó phá vỡ mọi công phu của thiếu tướng.
Mai Hữu Xuân bực dọc. “Cái thằng Hùng, bảo nó cạo quách chòm lông, nó không nghe. Phen này, mày sẽ chết với tao!”. Xuân nghĩ trong bụng.
- Thiếu uý Thạch! Tôi chỉ muốn hỏi thiếu uý một câu thôi – Jones trở vào phòng, bắt đầu hỏi.
- Thưa trung tướng, trước khi trung tướng hỏi và, dĩ nhiên tôi có phận sự phải trả lời ngay thẳng, tôi xin phép trung tướng cho biết vì sao tôi bị bắt, bị xử tử?
- Xử tử?… - Jones trố mắt
- Dạ phải… Nếu trung tướng đến trễ…
- À, ra vậy… - Jones quay sang Mai Hữu Xuân – Tí nữa, thiếu tướng sẽ giải thích cho tôi hiểu… Còn bây giờ - ông trở lại với Thạch – tôi giải thích ngay cho thiếu uý về lí do tôi hỏi thiếu uý. Thiếu uý là người luôn đi sát đại tá Luân, theo thiếu uý, sở thích của đại tá là gì?
- Tôi chưa hiểu thật rõ câu hỏi của trung tướng - Thạch đáp lại, rụt rè
- Chẳng hạn, có bao giờ đại tá muốn có một đồn điền, một nhà máy… ở Việt Nam hoặc ở ngoại quốc?
Thạch lắc đầu. Quả là anh chưa từng nghe Luân nói một việc tương tự như vậy.
- Hoặc là đại tá muốn mở một tài khoản ngân hàng ở Hồng Kông hay Thuỵ Sĩ…
Thạch lắc đầu.
- Hoặc đại tá muốn trở thành một nhân vật chính trị, một tướng lĩnh, một bộ trưởng?
Thạch vẫn lắc đầu
- Thiếu uý không nghe nhưng ít ra cũng đoán được… Có khi nào đại tá phàn nàn ông Diệm, ông Nhu?
- Có… - Thạch gật đầu – Có một số lần, thậm chí gọi ông Diệm, ông Nhu, bà Xuân là ngu.
- Về việc gì?
- Tôi không nhớ hết, song về nhiều việc. Tôi nghe lỏm khi ông bà đại tá trao đổi với nhau. Gần đây, đại tá phiền vụ Phật giáo…
- Đại tá có khó chịu về “Tam giác vàng” không?
- Tôi đoán, chắc có…
- Suốt thời gian đại tá đi, ở, về trong chuyến “Tam giác vàng”, thiếu uý không rời đại tá?
- Dạ, không…
- Cả ban đêm?
- Dạ, tôi ngủ chung phòng với đại tá.
- Đại tá thường nghe radio không?
- Không thường lắm…
- Nghe đài nào?
- Tôi không rõ, những khi tôi gặp, đại tá thường nghe đài tiếng Anh…
- Thú tiêu khiển của đại tá là gì?
- Câu cá, đi bách bộ, nghe nhạc, nhất là xem sách.
- Còn thể thao?
- Đại tá tập thể dục nhiều, thỉnh thoảng chơi tennit
- Uống rượu? Rượu gì?
- Ít lắm… Bia là chính.
- Thuốc lá?
- Hút nhiều…
Thạch vừa trả lời vừa ngó Jones Stepp, có vẻ lạ lùng về các câu hỏi linh tinh kia.
- Đại tá thích ăn món gì? Cá, thịt?
- Cá…
- Vợ chồng đại tá đầm ấm không?
- Đầm ấm
- Đại tá thường gặp người anh, kỹ sư Gustave?
- Lâu lâu một lần.
- Con của kỹ sư Gustave có đến nhà đại tá không?
- Cũng lâu lâu…
- Ông bà đại tá thường đến nhà bác sĩ Soạn không?
- Chiều chủ nhật, nếu đại tá không bận.
- Khách đến nhà đại tá là những ai?
- Nhà ít khác… Trung tá James Casey, trung tá Nguyễn Thành Động, thiếu tướng Lâm, nhà báo Fanfani và…
Thạch bỗng ngập ngừng
- Và bà Saroyan! – Jones Step nói luôn
- Dạ…
- Trước khi rời Sài Gòn, bác sĩ Tuyến có gặp đại tá?
- Dạ, có…
- Anh biết một trung tá, Lê Khánh Nghĩa?
- Dạ, biết…
- Ông Nghĩa đến với đại tá thường không?
- Tôi biết một lần. Nhân đại tá có việc vui gì đó, tôi quên. Trung tá Nghĩa đến cùng thiếu tướng Lâm, trung tá Động và một thiếu tá, quận trưởng ở Kiến Tường…
- Thiếu tướng Trương Tấn Phụng, quận trưởng Tuyên Nhơn….- Jones bổ sung giữa sự kinh ngạc của Thạch – Anh có bao giờ gặp một phụ nữ tên Mai?
- Dạ, không…
- Đại tá thức khuya không?
- Thường đại tá nghỉ sau mười một giờ đêm.
- Đọc sách?
- Tôi không rõ vì đại tá ở trong phòng làm việc…
- Chị Sáu là người như thế nào? Chị Sáu nấu bếp ấy…
- Thế nào là sao?
- Đại khái, hiền lành hay trái lại, mến ông bà đại tá không?
- Hiền, ít nói. Chắc là rất mến ông bà đại tá.
- Có bao giờ đại tá sai chị Sáu đi đâu vắng lâu không? Nửa ngày chẳng hạn?
- Không. Chị Sáu phải lo cơm nước mà.
- Thư từ ở hộp thư ngoài cổng, ai nhận mỗi ngày?
- Tôi nhận.
- Bà đại tá có thường mang các giấy tờ ở Tổng nha về nhà không?
- Tôi không rõ.
- Anh biết Vũ Huy Lục hiện ở đâu?
- Vũ Huy Lục chết rồi - Thạch trả lời, chưng hửng.
- À, tôi nhớ rồi. Lục chết ở Nha Trang – Jones Stepp nói, mép hơi nhếch.
- Từ hôm từ “Tam giác vàng” về, thiếu tá Thuần có đến thăm đại tá không?
- Dạ, không.
- Cảm ơn thiếu uý! – Jones đứng lên, chìa tay cho Thạch - Thiếu uý có thể kể cho đại tá nghe về những gì tôi đã hỏi thiếu uý.
Jones bắt tay Mai Hữu Xuân. Xuân tiễn Jones ra khỏi phòng.
- Tôi phải làm gì, thưa trung tướng? – Xuân hỏi.
Jones nhún vai
- Thiếu tướng tự định liệu… Đại tá Luân sẽ biết những câu hỏi của thiếu tướng, của thiếu tá Hùng, biết cách cư xử của thiếu tướng. Nếu thiếu tướng đủ gan và đủ mưu thì cứ khử gã tài xế… Nhưng, nên nhớ, tôi sẽ tự coi mình không hay biết cái chết của gã Thạch. Và, nếu chứng cứ buộc tội đủ thiếu tướng thì tôi phải làm cái việc vô nhân đạo là đứng về phía đại tá Nguyễn Thành Luân.
Jones Stepp lên xe, vẫy tay tạm biệt Mai Hữu Xuân
Thiếu tá Hùng được băng bó, tên đen trũi cũng hết đau. Cả hai hồng hộc chạy tới
- Thằng chó đẻ đó đâu rồi? Bắn bể đầu nó! - Thiếu tá Hùng rít lên
- Đồ ngu! – Mai Hữu Xuân quát to – Hai đứa bây lủi khuất mắt tao…
Hai đứa lỡ bộ, đứng chết trân… Xuân xem đồng hồ: mười giờ
- Hỏi thiếu uý Thạch cần ăn gì không? Lo chỗ ngủ tử tế. Nhưng không được để anh ta thoát khỏi nơi đây. Sáng mai, tao sẽ gặp lại. Cấm đụng đến anh ta, cấm nói bậy bạ… Nghe chưa?
Xuân bảo trỏng. Hùng đứng nghiêm: Xin tuân lệnh!
“Các câu hỏi của Jones Stepp đã bộc lộ các ý đồ của Mỹ, nếu không phải của chính Kenedy thì cũng là của Cabot Lodge, chí ít, của William Porter. Cũng có thể của Marc Cone… Phức tạp. Một con bài! Không đời nào mình để thằng Luân trở thành con bài của Mỹ. Mụ Saroyan… Hừ…!”
Mai Hữu Xuân tiếc đã không giết được Saroyan trước kia. Bây giờ, thật khó. Jones Stepp nhất định đã nghe Saroyan ỉ ôi. Thằng tướng già mê Saroyan, hiển nhiên rồi. Xuân chợt rùng mình. Nếu Jones Stepp ra một dấu hiệu khử Xuân, ông ta có chạy lên trời cũng không thoát. Nhưng, Jones Stepp là tướng tình báo thâm trầm. Chưa hẳn nó buông lỏng nghề nghiệp đến độ trả thù cho vợ… Xuân thấy yên tâm đôi chút.
Chìm trong mớ ý nghĩ, suy tính khá lộn xộn. Mai Hữu Xuân bỗng giật nảy mình khi nghe xe chở ông ta dừng lại. Không có gì. Đã đến nhà.. Ngày mai vụ của Thạch… làm sao đây?
Mai Hữu Xuân uể oải bước lên thềm nhà….


Phần 8 - Chương 6


Điểm báo Nữu Ước (VTX):
Tờ Nữu Ước thời báo hôm thứ tư đã viết:
“Vị đệ nhất phu nhân” của Việt Nam đã đến rồi thì không lẽ người Hoa Kỳ có tiếng là hay nói thẳng, lại còn dè dặt không chịu nói thẳng trong khi bà Ngô Đình Nhu đã thẳng thắn trong những lời nói của bà... Khi bà từ giã chúng ta, bà sẽ biết được thái độ của người Mỹ về vấn đề Việt Nam”.
Đoạn tóm tắt thái độ ấy, tờ Nữu Uớc thời báo viết: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh có tính chất chính trị nhiều hơn quân sự: chỉ có một chính phủ được lòng dân mới có thể dẹp tan bọn phiến loạn Cộng sản.
Mặc dù nếu có thể làm việc ấy, người phương Tây cũng có thể tự mình chọn lựa chính phủ, hoặc chính mình đảm đương cuộc nội chiến trong một nước châu Á”.
Tờ Nữu Uớc thời báo viết tiếp:
“Chính nhân dân Việt Nam phải tự giải quyết cuộc khủng hoảng tại nước của họ. Vai trò của Hoa Kỳ là làm cho họ hiểu rằng cuộc viện trợ và sự ủng hộ của Hoa Kỳ là không thể kéo dài vô thời hạn. Chúng tôi hy vọng rằng “quan điểm ấy của người Mỹ” sẽ được trình bày rõ ràng với bà Nhu, và nếu bà trở về Sài Gòn với ý niệm rõ ràng đó, thì cuộc viếng thăm của bà tại Hoa Kỳ không phải là không hữu ích”.
*
Tin của Helen Fanfani (Financil Affairs):
Ngày 26-10 - một ngày thứ bảy - trôi qua, không có một xáo trộn nhỏ nào. Nhưng, lần đầu tiên từ khi ông Ngô Đình Diệm giành được quyền bính, đây là lễ Quốc khánh tẻ nhạt nhất. Chế độ cố sức thổi phồng quang cảnh tưng bừng, thế mà cả thành phố nín thở chờ đợi một cái gì ghê gớm bùng nổ.
Diễn từ chiếm các trang nhất mọi tờ báo, đài phát thanh ra rả đọc mãi cái điệp khúc do Bộ Thông tin chỉ huy. Nguyễn Đình Thuần, thay mặt các bộ, phát một diễn từ ca ngợi Tổng thống hết lời. Đại tướng Lê Văn Tỵ, nhân danh quân đội, tuyên thệ trung thành với Tổng thống, hẳn bài viết của ông đóng hai chữ FM (1) đỏ chót. Tỉnh trưởng từ Quảng Trị đến An Xuyên điện về tới tấp. Ngoại giao đoàn đến chào Tổng thống tại dinh Gia Long. Nguyên thủ nhiều quốc gia chúc mừng Việt Nam Cộng hòa. Điện của Tổng thống Kennedy hết sức thắm thiết: “Tôi xin đảm bảo với Ngài, chính phủ Hoa Kỳ và cá nhàn tôi, chúng tôi xem sự hợp lực với chính phủ Việt Nam Cộng hòa do Ngài đừng đầu là một trong những sứ mệnh cao cả của Chúa giao phó. Chín năm trước Nam Việt đứng trên bờ vực sụp đổ, ngày nay Việt Nam Cộng hòa trở thành tiền đồn chống Cộng hữu hiệu ở Đông Nam Á”.
Buổi chiều, Ngô Đình Diệm mở tiệc chiêu đãi ngoại giao đoàn. Đại sứ Cabot Lodge cụng ly với Diệm. Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc cũng có mặt - từ trưởng phái đoàn đến đoàn viên không che giấu vẻ hả hê. Sau tiệc, quan khách xem phim tư liệu: “Việt Nam Cộng hòa - miền tự do dược chinh phục”.
Tuy nhiên, sự giả tạo vẫn là biểu trưng của ngày Quốc khánh. Ông Diệm ý thức rõ thực tế đó - nụ cười của ông chợt tắt và chốc chốc, ông như rơi và trạng thái lơ đãng ngay cả trước những cử chỉ xã giao vồ vập của một số đại sứ.
*
Điểm báo Tây Đức:
Born (VTX)
Báo chí tại Cộng hòa Liên bang Đức đã bình luận rất nhiều về bản phúc trình của hai ông
Mac Namara và Taylor về tình hình Việt Nam.
Tờ “Franxfurter Allgemeine Zeitung” cho rằng quyết định của Hoa Kỳ muốn ngưng toàn thể viện trợ cho Việt Nam kể từ năm 1965 không làm cho báo ấy ngạc nhiên, và theo báo đó, thì Hoa Kỳ không thể bỏ rơi Việt Nam, ít cũng trong tình thế hiện tại.
Nhưng Hoa Kỳ rất muốn làm như vậy. Ngoài ra, báo này còn nhận xét rằng tướng Taylor không muốn tập trung nhiều binh sĩ Hoa Kỳ tại một căn cứ hoạt động mà muốn sử dụng những phương tiện chuyên chở tối tân để di chuyển quân đội một cách linh động hơn tới một vùng bị đe dọa.
Ông Mac Namara xưa nay vẫn theo đuổi chính sách tiết kiệm tài chính trong vấn đề quốc phòng, cũng đã chấp nhận lý thuyết này.
Chính phủ Mỹ đã chịu ảnh hưởng của báo chí Mỹ về vấn đề Việt Nam. Tại Hoa Thịnh Đốn, người ta không thích đọc những tin tức về “sự thối nát của tình hình miền Nam Việt Nam”.
Hơn nữa, các báo cáo của những nhà ngoại giao và những ký giả nhiều khi không phù hợp với những tin tức của quân đội và mật vụ.
Vị tân Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã cố ý làm giảm sút mối giao hảo với chính phủ Ngô Đình Diệm. Ông Bộ trưởng Mac Namara và đại tướng Taylor đã phải củng cố mối bang giao đó.
Ông Bộ trưởng quốc phòng Mỹ có cảm tưởng rằng các nước đồng minh sẽ không chiến thắng nếu họ không được sự ủng hộ của nhân dân. Sau khi tiếp xúc với các nhà quân sự, ông Bộ trưởng nhận thức rằng các ký giả đã phác họa tình hình thành một bức tranh quá đen ám... Theo ông thì Tổng thống Ngô Đình Diệm “rất vững”...
*
Luân đánh giá toàn cảnh buổi chiêu đãi ở dinh Gia Long – một hiện tượng tranh tối tranh sang diễn ra trước mắt anh. Tôn Thất Đính xum xoe đến chào Diệm và hàng tướng lĩnh đều làm như vậy, song hình như tất cả, kể luôn Diệm đều hiểu sâu sắc rằng họ đang đóng kịch. Nhu tuy lánh mặt, qua máy thu hình truyền bằng dây vào phòng riêng, anh ta xác định: không thể không ra tay. Anh ta đã bảo Luân như vậy, sau đó.
Paul Harkins, nhân khoảng giữa bữa tiệc và buổi chiếu phim, đi bách bộ với Luân ngoài tiền sảnh.
- Đại tá nghĩ gì về tương lai? – Paul Harkins hỏi.
- Thưa tướng quân, tôi nghĩ về tương lai thông qua nghĩ về hiện tại. Bất cứ tương lai nào cũng định đoạt ngay từ hiện tại...
- Đúng! – Harkins vui vẻ. – Đại tá, một quân nhân lại có khiếu về chính trị, về triết học...
- Cám ơn tướng quân quá khen...
- Hiện tại không mấy tốt, tôi đồng ý, nhưng làm sao chuyển tình thế tốt hơn?
- Mọi người đang chơi ván bài chính trị, xử lý mọi xung khắc bằng điển từ, âm mưu, dàn cảnh... trong khi chúng ta thích nghiên cứu bản đồ. Tình thế sẽ tốt hơn nếu mọi người cùng đứng trước bản đồ.
- Tôi quan tâm số phận của quân lính Mỹ. Còn hai tháng nữa, một số cố vấn và binh sĩ Mỹ sẽ về nước dự lễ Noel như tướng Taylor và Bộ trưởng Mc Namara long trọng hứa với dân chúng và Tổng thống Mỹ... Liệu tôi có thể thực hiện điều đó không?
- Thưa tướng quân, tôi không nghĩ đại tướng và ngài Bộ trưởng tin vào cái họ hứa! E rằng, chúng ta sẽ chứng kiến nhứng đáp số trái ngược.
- Đại tá hơi bi quan chăng?
- Thưa tướng quân, rất hạnh phúc nếu nhận xét của tôi sẽ thực tế là bi quan. Tôi không nói về nội tình và những bất đồng giữa chính phủ hai nước mà tướng quân và tôi đều trung thành. Tôi nói về chuyện khác, chuyện nước Mỹ tách xa ý định ban đầu khi mở rộng ảnh hưởng đến khu vực này. Tôi nhớ một ý kiến rất sắc sảo của tiến sĩ Kissinger: “Ở Nam Việt, Việt Cộng sẽ thắng nếu không thua, còn Mỹ sẽ thua nếu không thắng... ”. Cao Ly kết thúc bằng “Match nul” (2). Nam Việt khe khắt hơn: không có hòa. Hai chục nghìn quân Mỹ, con số đẻ con số, lúc đầu dưới dạng toán cộng nhưng ai dám quyết đoán là nước Mỹ sẽ không buộc phải dùng phép toán nhân? Bởi vậy, tôi cho rằng tướng quân sửa soạn bài toán trừ là hơi sớm!
Harkins không phản ứng trước lời nói – theo phong cách quân sự - khá vô lễ giữa một đại tá với một đại tướng. Ông ta, một lúc sau, thở dài:
- Cánh quân nhân chúng ta chỉ là bức màn khói. Họ - các nhà chính trị ấy – cần chúng ta như cần một dữ kiện để dẫn chứng, để ví dụ, thế thôi...
Các nhân viên lễ tân đã mời quan khách vào phòng lớn xem phim. Harkins siết tay Luân:
- Đại tá có thể trở thành nhà chính trị! Đại tá thích không?
Luân cười, tránh trả lời - anh quyết định giữ thái độ lửng lơ như vậy.
*
Buổi sáng nay, Ngô Đình Nhu dàn dựng một kịch mới: Phu nhân của đại tá Huỳnh Hữu Hiền, tư lệnh không quân, viếng hải quân tại bến Bạch Đằng, nhận làm “mẹ đỡ đầu Hỏa vận hạm 471”. Có mặt trên chiến hạm đại tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh hải quân và trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng tham mưu trưởng, đại úy hạm trưởng, phu nhân của thiếu tướng Trần Thiện Khiêm và đại tá Nguyễn Thành Luân, thay mặt cố vấn Ngô Đình Nhu. Phu nhân đại tá Huỳnh Hữu Hiền, dong dỏng cao, mặc chiếc áo dài lụa trắng đẹp lộng lẫy. Bà ta rất trẻ, toát lên sức quyến rũ đến nỗi trung tướng Đôn nhìn mãi bà, từ chiếc cổ cao trắng ngần, đôi má ửng hồng đến các bộ phận nảy nở bốc lửa khác trên cơ thể bà. Trung tướng ghé vào tai Luân: Lão Hiền tìm đâu ra một hoa hậu của hoa hậu? Luân không đánh giá bà đại tá đến mức đó – anh so bà ta với Dung của anh và không thiên lệch, anh vẫn thấy Dung của anh đẹp hơn, đẹp kín đáo hơn. Bà đại tá cười luôn. Trung tướng không rời bà và có vẻ bà cũng thích gần trung tướng. Vài va chạm như vô tình – ngón thon thả hơi lâu một chút...
Thỉnh thoảng, bà cũng nhìn Luân, cố làm vẻ hờ hững. Đáng lẽ lễ “đỡ đầu” tiến hành nửa giờ, nhưng trung tướng kéo dài suốt buổi sáng.
Hồ Tấn Quyền than với Luân: “Ông André thấy bà Hiền y như mèo thấy mỡ!”.
Khi chia tay, phu nhân đại tá, môi ướt rượt, cho trung tướng một cái hẹn.
“Nhu muốn móc gan của tướng Đôn đây!” – Luân mỉm cười.
Bà Hiền bắt gặp cái mỉm cười đó, tiến lại chỗ Luân:
- Tạm biệt đại tá! Lẽ ra tôi phải làm quen với đại tá từ lâu...
- Cám ơn bà!
- Không nên làm quen với đại tá Luân. – Trung tướng Đôn cười – Bà đại tá Luân ghen dữ lắm!
- Tôi nghe nói bà đại tá rất đẹp, đúng không?
Luân hơi đỏ mặt.
“Thế là Nhu dấn vào cuộc phiêu lưu với bất cứ thủ đoạn nào.” – Luân nghĩ. Sự phô trương không quân và hải quân đoàn kết chỉ có giá trị tuyên truyền, còn thực chất là vợ của Hiền phải xỏ mũi cho kỳ được tướng Đôn mà Nhu hiểu là tay hoạt động và tổ chức những đòn tấn đánh chế độ - nếu được Mỹ đồng ý. Nhu nặng về chiến thuật – đúng ra, nặng về mưu mẹo vặt thậm chí không được sạch. Bà Hiền – hình như một nữ sinh, tên Ly Ly, chưa đỗ tú tài đã trở thành vợ của một tư lệnh không quân – nhận vai trò này hẳn qua ý kiến của chồng. Xét tới cùng, Nhu đang bí lối, thần kinh mất nhạy bén. Sai lầm của Nhu sẽ thúc đẩy chế độ chóng tan rã...
*
Trong ba tuần lưu lại Hoa Kỳ, bà Ngô Đình Nhu đi thăm 12 thành phố, tham gia 17 chương trình phát thanh, đọc 17 bài diễn thuyết, dự 15 đại tiệc... và bà đã qua kỳ thi sơ khảo trước báo chí Hoa Kỳ và đã đậu ưu hạng.
Nữu Ước (VTX):
Hôm thứ tư vừa qua, bà Ngô Đình Nhu tố cáo một số cơ quan thông tấn Hoa Kỳ tại Việt Nam là đã liên can tới một vụ âm mưu lật đổ chính phủ Việt Nam. Bà tuyên bố: “Nếu đã có một vụ âm mưu lật đổ chính phủ như thế, tôi có thể đoán chắc với quý vị là âm mưu ấy đã thất bại”.
Đây là lần đầu tiên bà Ngô Đình Nhu nói chuyện với công chúng từ khi bà tới Mỹ Quốc ngày thứ hai. Trong một cuộc phỏng vấn vô tuyến truyền hình, bà tuyên bố rằng bà không tin các cấp lãnh đạo ở Hoa Thịnh Đốn đã tán thành “âm mưu ấy”. Nhưng bà cho biết thêm là các hãng thông tấn Hợp chủng xã (United Press International), Mỹ liên xã (Associated Press), đài phát thanh “Tiếng nói Hoa Kỳ” (Voice of America) và cả tờ “Nữu Ước thời báo” (New York Times) đều có dính líu tới vụ âm mưu kể trên. “Chỉ vì họ không ưa chúng tôi, thế thôi”, bà tiếp.
Trong khi bà Ngô Đình Nhu trả lời phỏng vấn, thì khoảng hơn một chục người biểu tình trước khách sạn Waldorf Astoria và khi bà nói chuyện tại “Câu lạc bộ báo chí” thì bọn đó lại tập hợp cách đó chừng vài dẫy nhà. Những người biểu tình đó tự xưng là sinh viên.
“Sau đó, bà Ngô Đình Nhu chỉ trích các ký giả Mỹ ở Việt Nam. Bà xác nhận đã có lần chính phủ Việt Nam dự định truy tố 6 ký giả Mỹ ra trước tòa án về tội “ngăn cản” cảnh sát thi hành nhiệm vụ trong một cuộc biểu tình của bọn phiến loạn.
Nhưng Hoa Kỳ đã yêu cầu chính phủ Việt Nam đừng khởi tố 6 ký giả Mỹ đó. Nếu nghe theo lời yêu cầu ấy, chính phủ Việt Nam sẽ bị mất thể diện, chúng tôi cảm thấy rằng chính phủ Việt Nam cần phải để cho tòa án quyết định về việc này”.
Bà Ngô Đình Nhu cũng cải chính tin nói rằng chính phủ Việt Nam đã bắt giam “hàng nghìn người”. Bà nói: “Chính phủ đã bắt giam 10 nhà sư phản loạn, còn những người khác có bị giữ ít lâu nhưng đã được trả lại tự do”.
Bà Ngô Đình Nhu tuyên bố tiếp:
“Chúng tôi không tự hào là chính phủ Việt Nam Cộng hòa được toàn thể nhân dân ủng hộ, nhưng các phần tử chống đối chính phủ ở nước tôi rất ít.
Chính phủ Việt Nam chỉ bắt giữ những người nào có những hoạt động phá hoại.
Chính phủ Việt Nam đã cho bắt giữ một số nhà sư phản loạn vì chúng tôi không muốn bị những phần tử phá hoại khoác áo cà sa lừa gạt.
Việt Nam không là một quốc gia độc tài. Mặc dầu sống trong tình trạng chiến tranh từ chin năm nay, chúng tôi đã tổ chức được năm cuộc bầu cử dựa trên nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cho những người đã trưởng thành. Nói rằng những cuộc bầu cử ấy đều là “bịp bợm” thì rất dễ nhưng “lấy gì làm bằng cớ?”
Bà Ngô Đình Nhu cho biết là Hoa Kỳ đã đem ông cố vấn và bà ra làm bia đỡ đạn. Bà tuyên bố:
“Từ bao năm nay, tôi đã khuyên chồng tôi đừng bị các công chức lợi dụng. Nếu chồng tôi còn ở lại chính quyền cốt là để giúp đỡ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nhưng khi Hoa Kỳ đòi hỏi chồng tôi là: “cứ ở lại” nếu chính phủ Hoa Kỳ không thể nói rõ lý do vì sao mà chồng tôi phải bỏ rơi chính phủ”.
*
Thạch đến nhà đúng lúc Luân từ chỗ chị Cả trở về. Luân nghe Thạch báo cáo tất cả diễn biến.
Đêm qua, Thạch không ngủ, anh bị giam lỏng và bọn vệ sĩ dọa anh: hễ rời khỏi phòng thì bọn chúng nổ súng. Thiếu tá Hùng biến mất, sau khi trả lời cho lại cho Thạch khẩu súng nhưng lấy hết đạn. Sáng, Thạch được ăn điểm tâm, uống cà phê, xong rồi ngồi đó. Vệ sĩ không trả lời câu hỏi của Thạch: bao giờ thì anh mới được tự do. Mãi gần 9 giờ, Mai Hữu Xuân đến, gặp Thạch tại phòng khách sạn hôm qua.
- Tôi cho phép anh về! – Mai Hữu Xuân bảo.
- Anh có thể tường trình mọi việc tại đây với đại tá Luân. Tôi hành động theo lợi ích quốc gia, qua đó, đại tá sẽ hiểu. Ở đây không hề có việc tư thù: tôi và đại tá chẳng có hiềm khích cá nhân. Nhưng, nếu đại tá cố chấp thì tôi đành chịu – cuộc nói chuyện sau này sẽ không qua những bộ hạ cấp dưới như anh mà giữa tôi và đại tá... Dĩ nhiên, riêng với anh tôi nói rõ: thái độ lỗ mãng đối với anh là của thiếu tá Hùng, anh ta sẽ bị kỷ luật; vả lại, anh không thiệt thòi bao nhiêu khi hai người kia đều nhận ở anh mấy đòn chí mạng!
“Mai Hữu Xuân chọn cách tốt nhất – không giấu giếm. Hắn dằn mặt mình. Như vậy, có hai yếu tố: một, hắn dựa vào ai đó, kể cả Jones Stepp; hai, tình thế sẽ díễn ra có lợi cho hắn và sẽ diễn ra không lâu. Hắn không sợ Nhu trừng phạt, công khai thách thức quyền lực của Nhu... Thật rõ ràng”. Luân rút ra kết luận đó. Anh an ủi Thạch. “Thạch là con người trung thực”, Luân bắt tay Thạch, không nói lời cám ơn nhưng đôi mắt Luân nhìn Thạch hết sức tha thiết.
- Đại tá... đại tá chịu thua bọn họ sao? – Thạch lung bung.
- Đừng nghĩ đến chuyện ăn thua! – Luân dặn thêm: - Không hé răng với ai. Nhắn vợ con chú lên.
Thạch không thể hiểu vì sao Luân lại “chịu thua”.
*
Thiếu úy Tường đến nhà Luân. Đây là lần đầu anh ta đến, xe đỗ ngoài cổng. Tường khập khiễng bước vào.
- Tôi xin phép nói chuyện cơ mật với đại tá...
- Liệu ở đây tiện không? - Tường nhìn phòng khách và Luân hiểu anh ta sợ bị nghe trộm.
- Anh cứ nói. Không có máy ghi âm...
- Thời giờ không nhiều, tôi xin nói ngay: Bác sĩ Trần Kim Tuyến gửi thư cho tôi, dặn tôi báo với đại tá.
- Anh vẫn giữ liên lạc đều với bác sĩ?
- Vâng, rất đều...
- Anh đã thông báo với bác sĩ về chuyến đi “Tam giác vàng” của chúng ta?
- Vâng! – Tường trả lời không do dự.
- Bác sĩ vẫn còn ở Bangkok?
- Vâng!
Trong các “đầu mối” mà Tuyến giao lại, không có Tường. “Chắc chắn không chỉ riêng trường hợp Tường”.
- Anh nói đi...
Tường rút trong túi ra mảnh giấy nhỏ.
- Đây là thư của bác sĩ, thư mã hóa, tôi đã giải mã...
Luân nhận mảnh giấy.
“Tiến hành gấp phương án Y. Đừng để bọn ta chỉ là hạng đứng bên ngoài vỗ tay khi đại cục kết thúc. Gặp C7, hỏi giờ giấc của thằng cha đó và bàn với C7: có cách nào “điệu hổ ly sơn” không, nếu thằng cha đó vẫn núp trong hang”
Phương án Y – C7 – Thằng cha đó – Hang – trong bốn mật danh, Luân biết mình là C7. Nghĩa là, còn những C1, C2... và C8, C9 v.v... Nghĩa là còn A, còn B... Thế mà, Tuyến chẳng hé cho anh một tý gì. Và, rốt lại, cũng như cách của Nhu, mọi người đối với Tuyến đều là loại tốt, một tay sai không hơn không kém.
- Tôi xin giải thích – Tường nói – C7 là đại tá...
- Còn C6? – Luân cướp lời Tường.
- Xin phép đại tá, tôi không có quyền trả lời những câu hỏi khác ngoài những cái ghi trong thư... - Tường nói, giọng kể cả.
“Té ra, ngay thằng này cũng là “cấp trên” của mình!” – Luân cười lạt.
- Đến một lúc nào đó đại tá sẽ rõ tất cả. - Tường dịu giọng – “Thằng cha đó” là Ngô Đình Nhu. Còn “phương án Y” là kế hoạch ám sát Nhu!
Tường thông báo một chủ trương khủng khiếp cỡ đó với thái độ thản nhiên. “Chúng nó dự định từ lâu rồi”, Luân hiểu. Và, có “phương án Y” tức có các phương án A, B...
- Cho tôi biết chi tiết về kế hoạch?
- Tôi không biết! – Tường trả lời cộc lốc.
- Được rồi... Tôi phải đưa ông cố vấn ra khỏi “cái hang” – dinh Gia Long, đúng không?
- Đúng...
- Ra khỏi dinh thôi, còn đi đâu cũng được?
- Đúng... Chỉ cần Nhu ra khỏi vòng rào của Liên binh phòng vệ...
- Bao giờ?
- Từ nay đến cuối tháng...
- Chỉ còn 4 ngày!
- Phải, thời gian hạn độ bấy nhiêu...
Luân khoanh tay trước ngực, ngó ra vườn.Tường theo dõi Luân – anh ta đinh ninh Luân suy tính mưu kế “điệu hổ ly sơn”. Nhưng, Luân suy tính hướng khác: Biến cố có thể xảy ra đầu tháng 11. Liệu Mai kịp móc liên lạc giúp anh không? “Phương án Y” hết còn bí mật với Luân – nhóm nào đó sẽ khử Nhu khi Nhu rời dinh Gia Long. Tức là Tuyến và phe Tuyến không đặt được người trong dinh, một phát phóng lựu M79, một băng tiểu liên là đủ nhưng Nhu phải ra khỏi “hang”. Tức là dinh Gia Long bị bao vây ngầm.
- Tôi cố gắng. Hơi khó, nhưng tôi cố gắng...
Mắt Tường sáng lên. Anh ta chào Luân.
Luân gọi điện cho Dung, nhưng Dung không về buổi trưa được, Luân ngồi vào bàn, cầm bút. Anh vẽ, xóa, vẽ... như trò giải trí, với những hình thù kỳ dị...
James Casey đến.
- Chào đại tá! – James Casey bắt tay Luân, ngồi vào ghế, không đợi Luân mời.
- Ta uống cái gì? – Luân hỏi.
- OK! Nhưng nhẹ nhẹ...
Vẻ tất bật của viên sĩ quan Mỹ lây sang Luân – anh hồi hộp.
Sau vài hớp bia, James Casey nói:
- Tôi gặp đại tá với sự ủy nhiện của phó đại sứ William Porter...
- Không có sự ủy nhiệm đó, tôi vẫn tiếp trung tá như đã từng tiếp... - Luân chặn ngang cách rào đón của Casey.
- Tất nhiên... Tất nhiên... chúng ta cùng làm việc chung không phải mới ngày hôm qua. Nhưng dù sao, tôi muốn báo với đại tá buổi nói chuyện này thuộc loại chính thức. Để kiểm tra tính chất chính thức đó, đại tá chờ... - James Casey xem đồng hồ tay – Nửa phút nữa.
Gã uống tiếp, rồi châm thuốc. Chuông điện thoại reo. Gã nháy mắt, cười:
- Đại tá cứ nghe điện thoại đi.
- Tôi hân hạnh tiếp ai ở đầu dây đây? – Luân hỏi... - Tôi, Luân đây... Xin chào ngài đại sứ. Vâng, trung tá James Casey đang ngồi tại phòng khách nhà tôi... Vâng, tôi hiểu. Chào ngài.
Luân gác máy, trở lại ghế.
- Rõ rồi, phải không? – James Casey ngó Luân – Tôi được ủy quyền, báo với đại tá: đại sứ Mỹ muốn biết đại tá cần bao nhiêu tiền – tiền Việt và dollar?
- Tôi chưa hiểu... - Luân từng đoán rằng sẽ có lần một người Mỹ nào đó đặt vấn đề như vậy với anh. Nhưng anh vẫn làm như bị bất ngờ.
- Có gì khó hiểu đâu? – James Casey cười – Trong công việc sắp tới – sắp tới nghĩa là rất gần, thậm chí bây giờ - đại tá cần chi phí... Bao nhiêu?
- Bao nhiêu à? Tôi không rõ...
- Tiền Việt để chi trả những món nhỏ. Dollar để chi trả những món lớn, giao tiền mặt một phần, một phần quan trọng hơn sẽ gửi ngân hàng; ngân hàng nào tùy đại tá và “thân chủ” của đại tá định...
- Thú thật, tôi rất dốt về món này... - Luân cau mày.
- Tôi dự đoán đại tá sẽ coi như bị xúc phạm. Nhưng, đây không hề là một hành động mua chuộc.
James Casey nói rất trân trọng:
- Ai mà mua chuộc nổi đại tá Nguyễn Thành Luân!
- Tôi sẽ không nhận, dù là một xu. Nhưng, khi cần, tôi sẽ báo với trung tá, như vậy tiện hơn...
James Casey lắc đầu nguầy nguậy:
- Không được! Ngài Porter muốn mọi thứ đều lên sổ sách.
“Bọn Mỹ chi li mọi thứ, kể cả mưu mô đảo chính, đều phải biểu hiện bằng con số - đồng Việt, đồng dollar”. – Luân suy nghĩ. “James Casey muốn chính mình cho giá”.
- Theo trung tá bao nhiêu? – Luân buộc kẻ mở miệng phải là phía Mỹ.
- Bao nhiêu à? Tôi đâu rõ. Đại tá là người nắm “thân chủ”...
- Cứ xem như trung tá cần tiền cho một việc cỡ việc mà trung tá sự kiến...
- Tôi nói theo lối bịt mắt đi đêm nhé... Hai trăm nghìn dollar và năm trăm triệu đồng Việt... Đủ không?
- Tôi không biết lấy gì để đối giá nên xin nghe trung tá. Và, tôi nhắc lại: khi nào cần, tôi báo chớ không nhận...
- OK! Một trương mục ngân hàng Hồng Kông sẽ mang tên... Tên gì? À, Lý Dung... Hay lắm, rất có vẻ người Hoa. Cháu bé và bà đại tá... Đại tá nhận được ngân phiếu trong vòng vài hôm. Còn tiền Việt, một tài khoản mang ký hiệu... Ký hiệu gì? À, Hoàng Nguyễn – họ của ông bà... Tại chi nhánh ngân hang Mahattan – Sài Gòn. Ổn chứ?
Ổn hay không, Luân không quan tâm. James Casey đi rồi, Luân trở vào bàn viết, tiếp tục vẽ, xóa, vẽ các hình kỳ dị... Nhưng, anh không thể tập trung suy nghĩ, bởi một người khách lại đến. Bây giờ là John Hing. Và đề tài của John giống hệt của James Casey về cơ bản, chỉ khác chi tiết. Hoặc, cũng có thể xem John chính là “con đường nối dài” của James.
- Việc trang bị cho quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ đặt ra gay gắt. Đặt ra cho hàng triệu quân, từ dân vệ đến quân thường trực. Tôi muốn biết đại tá sẽ chọn hãng sản xuất vũ khí nào – đưa yêu cầu mới hoặc mua loại cũ. Hãng Mỹ, Pháp, Tây Đức, Ý, Thụy Điển, Bỉ, Canada... Vũ khí bộ binh, nặng nhẹ. Các khí tài khác kể cả xe tăng, máy bay, tàu, bom, xe lội nước, phương tiện truyền tin và, công trình sân bay, quân cảng... Đại tá qua tôi, sẽ được thỏa mãn. Tất nhiên, đây là phần thuộc ngân sách của Việt Nam Cộng hòa. Phần của Mỹ, tôi đã làm việc với người đại diện của Ngũ Giác Đài.
“ Vui thật! Mình gặp toàn “trùm” buôn lậu á phiện, buôn lậu khí tài chiến tranh, buôn lậu chính trị! – Dù sao, Francisci vẫn lương thiện một phần nghìn lần hơn John Hing, gã Tây Corse không thu lợi trên sinh mạng con người một cách thô bạo”. Và John Hing cung cấp cho Luân một cơ sở nhận định quan trọng: Mỹ quyết thắng để không thua. Sau biến cố, nhất định sẽ xảy ra, tình hình chiến tranh chỉ thêm khốc liệt. Với Luân, đó là một tai họa cho đất nước. Làm sao tránh đây?
Luân rơi vào những day dứt đau xót, không để ý lắm lời của John Hing:
- Tôi sẽ mở trương mục cho đại tá. Tùy đại tá lựa chọn, nhưng có lẽ ngân hàng Thụy Sĩ là thuận lợi...
- Trương mục gì?- Luân choàng tỉnh.
John Hing cười – hắn ngỡ Luân giả ngây thơ.
- Không ai làm không công cho người khác. Đại tá xứng đáng được trả công.
- Trả công? – Luân nổi nóng. Lớn tiếng xong, Luân hối hận: “Nên như vậy không... ”
John nhìn sững Luân:
- Đại tá không thích tiền?
Luân lắc đầu.
- Tuy đại tá không thích, tôi vẫn phải thực hiện đúng nhiệm vụ. Tôi nhắc lại, trang bị tương lại cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đại tá gọi tôi, đại tá sẽ hài lòng...
- Tôi quyết định thế nào nổi việc to tát ấy!
- Nổi, nổi! Tất nhiên, đại tá là một tiếng nói và tôi chỉ cần đại tá nói, thế thôi.
John Hinh ngó Luân:
- Đại tá có nghe hãng Izui Syozi không?
Luân nhớ mang máng hình như anh đọc một tài liệu nào đó nói về hãng này... Phải rồi! Hãng ngụy trang “nhóm đặc biệt Phòng châu Á” chuyên xuất vũ khí khu vực Đông Nam Á. Hãng cạnh tranh với các công ty Mỹ, kể cả công ty “Ngựa bay” Colt và công ty Keytesville mà tướng Taylor có phần hùn.
Thấy Luân nhớ ra, John Hing nói liền:
- Hãng Izui Syozi có thể cung cấp máy bay, từ trinh sát hai chỗ ngồi, trực thăng H.9 đến máy bay vận tải C1, xe tăng cải tiến, các loại xe vận tải chuyên dụng, xe tải 6 hoặc 7 tấn, tàu kéo, súng cầm tay... Tóm lại, thỏa mãn cho nhu cầu một quân đội lớn, hiện đại.
- Tôi nghĩ là Izubissi Busan đủ kinh nghiệm hơn!
John Hing trợn mắt:
- Hóa ra đại tá không phải là tay mơ... Chắc Francisci mách cho đại tá chớ gì... Không! Izubissi cũ kỹ lắm. Izui tân tiến hơn. Tăng 61 – sản xuất năm 1961, đại tá nhớ cho, 35 tấn, gắn pháo 90 ly, tốc độ 45 cây số/giờ, tổ lái chỉ cần 4 người. Tuyệt! Phải không? Tôi sẽ đưa đại tá catalogue, cả phim 8 ly...
- Ông có phần hùn trong Izui?
John Hing nheo mắt:
- Đó là chuyện phụ. Chuyện chính, những khẩu súng cầm tay gọn nhẹ, nước sơn trông sướng mắt. Sản xuất năm ngoái.
John Hing nói đến vũ khí mà như nói về các cô gái hơ hớ. Luân cố kìm chế.
- Ta thỏa thuận nhé... Trương mục của đại tá sẽ mang ký hiệu 761921...
- 761921... Cái gì vậy?
- Đơn giản quá, thưa đại tá. Ngày sinh 7-6-1921, không phải của đại tá sao?
Luân suýt kêu to kinh ngạc. Bọn tình báo chẳng bỏ một chi tiết nào về anh.
- Số tiền, mà đại tá toàn quyền sử dụng sẽ là 100.000 franc Thụy Sĩ, tương ứng 44.050 dollar, tính theo hối đoái hiện hành, tức 2.28 franc Thụy Sĩ ăn 1 dollar...
- Tôi không thể nhận một món tiền lớn như vậy mà lý do không rõ ràng. – Luân kiên quyết.
- Lý do rất rõ ràng... Công ty của tôi, công ty rau quả California chia lại cho đại tá theo cổ phần mà đại tá đóng, từ 1955 đến nay.
- Tôi không đóng bất kỳ một cổ phần nào...
- Hay đại tá thích công ty đồ hộp San Francisco? – John Hing chẳng thèm để ý thái độ của Luân.
- Tôi đã nói là không...
- Thưa đại tá, chúng tôi đã nói là đại tá có!
Đại tá phải nhận. Hoặc đại tá giữ trương mục ở ngân hàng Thụy Sĩ, hoặc đại tá không có gì cả. Không có gì cả không nói về tiền đâu. Chúng tôi quyết định rồi.
John Hing bắt tay Luân rất lịch sự, ung dung ra cửa. Âm thanh “chúng tôi” vẫn tiếp tục vang trong đầu Luân.
Luân lại phải vào dinh Gia Long.
Nhu trao đổi lần nữa với Luân kế hoạch “Bravo”.
- Tôi định nổ vào ngày 31-10 hoặc 1-11... Chi tiết đây, anh xem...
Luân tập trung đọc bản kế hoạch mà anh biết do Tôn Thất Đính thảo – đúng hơn, do Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim thảo...
- Anh thấy thế nào? – Luân đọc xong, Nhu hỏi.
- Tôi cần suy nghĩ kỹ trước khi trả lời anh. Hẹn anh ngày mai.
- Được! Nhưng không quá ngày mai. Chiều mai, vì sáng mai tôi tiếp phái đoàn Liên hợp quốc...
- Anh tiếp ở đâu?
- Tại đây!
- Tốt...
Thấy Luân ngập ngừng, Nhu hỏi:
- Anh ngại?
- Tại đây thì sao. Tôi khuyên anh đừng ra khỏi dinh trong lúc này.
- Tôi hiểu. Cám ơn anh... À, thiếu úy Thạch thế nào?
- Bình yên. Tôi muốn ta đừng bận tâm những chuyện trẻ con như vậy...
- Không trẻ con đâu. Tôi lột da thằng Mai Hữu Xuân!
- Anh bình tĩnh. Còn nhiều cái lớn lao hơn đòi hỏi anh đối phó...
- Thôi được, tôi tạm nghe anh. Nhưng tôi không bỏ qua.
Luân đứng lên.
- Tôi đã trình Tổng thống, anh sắp nhận quân hàm thiếu tướng... - Nhu bắt tay Luân, thông báo.
- Không nên trong lúc này! Dư luận nhắc mãi danh từ “gia đình trị”. Tôi thăng cấp tạo cớ cho dư luận mở rộng...
- Tôi không chịu thua anh lần này! – Nhu kiên quyết – Tổng thống đã ký, anh có chối cũng không xong...
Luân lắc đầu, hỏi sang chuyện khác:
- Chị thế nào?
Nhu chợt rầu rầu:
- Lệ Thủy điện về báo mẹ nó xỉu... Căng thẳng quá tội nghiệp.
Luân về đến nhà thì Dung báo có hai khách chờ anh.
- Chà, hôm nay “được mùa” khách! Ai?
- Hai đại diện phong trào sinh viên.
Luân cau mày, không biết hai người.
- Em sẽ cung cấp tài liệu cho anh, nội đêm nay. Nhưng em báo trước: họ thuộc cánh Phật giáo Thích Tâm Châu. Họ là Tô Lai và Võ Như...
---
(1) Franchise Militaire (Trung thực quân sự), dấu hiệu thời Pháp ghi trên phong bì thư từ quân nhân để khỏi dán tem.
(2) tỷ số hòa
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #30  
Old 12-08-2012, 03:04 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Ván Bài Lật Ngửa - Phần 8 - Chương 7

Ván Bài Lật Ngửa


Phần 8 - Chương 7


Ngày đêm 20 rạng ngày 21 tháng 8, tức đêm kế hoạch “Nước lũ” mở màn, đại sứ quán Mỹ mở một phiên họp đặc biệt. Chủ trì phiên họp là Williams Porter, phó đại sứ. Tham dự, ngoài số nhân viên tình báo đặc trách các vấn đề chính trị, còn có Jones Stepp.
- Tôi cho rằng sức ép của chúng ta chưa đủ mạnh... - Porter mở đầu phiên họp khi đồng hồ điểm một tiếng - Tôi xin nói rõ ý tôi: Sức ép thông qua phong trào Phật giáo coi như đến điểm cao nhất , song rõ ràng chỉ với danh nghĩa Phật giáo, chúng ta khó khuất phục ông Diệm và em của ông ta. Ngài Mac Cone nhắc nhở chúng ta: Dư luận thế giới, dư luận Mỹ và bản thân Tổng thống chưa được kích động đúng mức, nếu không nói phần nào phân vân vì cuộc khủng hoảng chính trị rốt lại chỉ là sự xung đột tôn giáo. Ở châu Âu và châu Mỹ, các vị đều hiểu như tôi. Phật không được chấp nhận như người ta chấp nhận Chúa...
- Tôi xin phép cắt lời ngài phó đại sứ. - Jones Stepp hắng giọng - Hiện nay toàn bộ tình hình đã được trình bày dưới dạng “vi phạm nhân quyền”, nghĩa là vượt khỏi lằn ranh xung đột tôn giáo...
- Thưa tướng quân! - Porter cười mỉm - Đó chỉ mới là ý nghĩ của chúng ta. Hẳn tướng quân theo dõi chặt chẽ tin tức công bố khắp thế giới, danh từ “Phật giáo” chiếm gần hết tỷ lệ các bài, các mẩu tin... Đúng, nếu chúng ta chuyển được tình hình hiện nay ra một chất khác - một nhãn khác, tùy cách nhận thức của mỗi người - như nhân quyền, thì kế hoạch “Cao áp” sẽ đạt hiệu quả như tướng quân mong muốn...
Tiếng interphone vang lên: “Một nhà sư xin tỵ nạn, đang đứng bên ngoài vòng rào sứ quán...”
Jones Stepp không nhúc nhích - ông ta đang suy nghĩ điều mà Porter vừa nêu. “Mac Cone có lý...”.
- Nhà sư nào? - Một nhân viên hỏi.
- Tôi biết! - Porter trả lời - Tất nhiên, ta cần ông ấy. Nhưng, giữ bí mật đến độ có thể giữ được vì ông Diệm có thể cột chúng ta vào điều khoản “can thiệp nội bộ một quốc gia có chủ quyền”. Ngài đại sứ không thích trong lúc này lại phải phân trần với dư luận.
Jones Stepp hất hàm về một người ngồi ở cuối bàn:
- Louis! Việc của ông đấy!...
Louis đứng lên, chiếc trán hói bóng lộn như đánh xira, nhún vai:
- Sớm hơn tôi dự liệu!
- Dù sao, cũng phải tiếp ông ta đàng hoàng. Con bài dự trữ... - Porter ra lệnh - Các ông không nên bao giờ quên: khi Phật giáo thành lực lượng chính trị, tất yếu sẽ có phân hóa: trong số các nhà sư tiêu biểu, có vẻ chúng ta chỉ nắm được các nhà sư mà đạo hạnh không mấy sáng. Về phương diện này, ông Diệm cũng giống ta. Các sư được mọi người tôn trọng chưa đồng tình với chúng ta lắm. Ngay hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết, tôi đọc rất nhiều thông tri, cáo bạch của ông ta, ông ta tránh đả động đến chính trị. Còn ông Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí Tịnh... Hình như tướng quân Stepp chưa thấy vị trí của họ. Họ là người miền Nam... Tiện đây, tôi nhắc ông Louis: nên tốp nhỏ máy phát thanh Thích Đức Nghiệp, Thích Tâm Giác, cả Thích Tâm Châu. Họ tỏ ra quá mẫn cán khi muốn ký biên nhận dollar của ông Louis bằng cách quảng cáo chống Cộng, “Bắc tiến”. Trò trẻ con đó không “Best-seller” (1) hiện nay. Tôi trở lại nhà sư tỵ nạn: sẽ có dịp dùng và dùng đúng dịp. Cứ coi như chuyện ông ta chọn sứ quán Mỹ như vì bước đường cùng và không bao giờ - tôi nhấn mạnh - không bao giờ để ông ấy tuyên bố chống Cộng.
Louis gật đầu, ra khỏi phòng.
- Ta hãy suy tính xem... - Porter buông thõng.
- Về các tướng lĩnh... - James Casey nói. Porter ngăn James Casey và liếc một người đứng tuổi, dáng phục phịch, luôn im lặng: Conein...
- Hôm nay, ta không bàn việc đó.
- Tôi nghĩ là còn cái kho trí thức và sinh viên Huế đi trước một bước. - Jones Stepp vừa nói vừa mở cặp.
- Mời tướng quân! - Porter khuyến khích.
Jones Stepp đặt lên bàn xấp giấy khá dày.
- Sau khi linh mục Cao Văn Luận bị bãi chức Viện trưởng Viện đại học Huế, các khoa trưởng đồng loạt từ chức: Lê Khắc Quyến - khoa trưởng Y, Bùi Tường Huân - khoa trưởng Luật, Tôn Thất Hạnh - khoa trưởng Khoa học, cùng 32 người nữa gồm giáo sư, nhân viên, giảng huấn có tên tuổi như Cao Huy Thuần, Bùi Nam, Lê Tuyên, Nguyễn Văn Tường...
- Và chỉ có bấy nhiêu! - Porter gay gắt - Đã hơn 2 tháng rồi! Vả lại, trong việc này, bóng của linh mục Cao Văn Luận trùm lên quá rõ. Vị linh mục do ngài Fishell nặn ra, luôn luôn tự coi mình như trung tâm của vũ trụ, huênh hoang quá đáng. Ngài Mac Cone không hài lòng.
Jones Stepp cụt hứng, nhét xếp giấy vào cặp.
- Không phải những người trí thức Huế từ chức đều tán thành chúng ta. Mỗi người có lý do riêng. Họ chống ông Diệm, không có gì phải bàn cãi, song Cộng sản chống ông Diệm còn quyết liệt hơn bất kỳ ai... Tôi nói rõ ý của tôi: Hãy đưa tình trạng Huế vào Sài Gòn và hãy bấm nút: sinh viên! Các ông kiểm tra xong đã có gì trong tay, Nguyễn Hữu Thái, Chủ tịch Tổng sinh viên là người thế nào?
Jones ngó một người - trẻ, đẹp trai.
- Joseph, anh trả lời!
- Phải lật đổ tay này thì mới nắm được Tổng hội Sinh viên. Thái là phần tử tự do...
- Anh ra quan hệ với Việt Cộng? - Porter hỏi.
- Cho tới nay, chưa có bằng chứng. Nhưng anh ta giao du rộng.
- Sinh viên trường nào? - Porter có vẻ chú ý.
- Thưa, Kiến trúc.
- Cần lật đổ không?
- Theo tôi, phải lật đổ...
- Anh có chủ bài trong tay chưa?
Joseph cười nhẹ, như gián tiếp trả lời là đã có, khá dồi dào nữa.
- Tốt! - Porter nói xong, xem đồng hồ. Hai giờ 15 phút.
Interphone lại vang lên:
- Xung đột dữ dội ở chùa Xá Lợi...
- Có đổ máu không? - Porter hỏi.
- Tất nhiên, có! - Tiếng interphone trả lời.
- Bao nhiêu người chết? - Porter nôn nóng chờ trả lời.
- Hình như không ai chết...
- Tồi! Làm ăn tồi! - Porter cáu gắt.
- Bí số K.4 xin được báo cáo bằng điện thoại...
- Thông dây vào interphone, chúng tôi cùng nghe.
- Ông ta nói tiếng Anh không thạo lắm!
- Tại sao phải nói tiếng Anh? Cứ nói tiếng mẹ đẻ của ông ta.
Interphone rè rè. Toàn cảnh “Nước lũ” được phản ánh.
- Ông ta sẽ là hội chủ, thay cho ông Tịnh Khiết trở thành nhân vật tượng trưng. - Jones Stepp bảo với mọi người.
- Không thể tìm được một người miền Nam sao? - Porter cau mày.
- Chúng tôi sẽ cố gắng, song K.4 đi với chúng ta “cả xác thịt lẫn linh hồn”, nếu dùng một cách văn vẻ.
- Ông Nhu có khá nhiều tài liệu về K.4 của tướng quân. Cả ảnh không mấy đẹp.
Jones Stepp đưa tay lên trời:
- Biết làm sao khi chúng ta không thuyết phục ông ta về giáo lý và ông ta đi với chúng ta không bằng giáo lý!
- Tôi chỉ muốn cảnh cáo các ngài: ông Diệm thất bại một phần vì linh mục Hoàng Quỳnh. Phương ngôn Á Đông có một câu rất hay: xe trước đổ, xe sau nên tránh!
Porter cười độ lượng.
- Vấn đề sau cùng: không một ai được lộ với tướng Harkins những gì chúng ta bàn, dù một chi tiết vặt vãnh.
Cả Conein lẫn Jones Stepp đều gật đầu.
Câu dặn dò rất nghiêm ấy của Porter kết thúc cuộc họp.
*
Tổng thống Ngô Đình Diệm triệu tập nội các bất thường trễ hơn sứ quán Mỹ: 5 giờ 30 sáng.
Nhu sửa soạn cho phiên họp khá chu đáo. Song, anh ta không liên lạc được với Luân - nghe tin Luân kẹt ở chùa Xá Lợi, Nhu hơi bực. Anh ta xẵng giọng với Dung và sau đó “quạt” Trần Văn Tư một trận. Anh ta không nghe lời phân trần của Tư:
- Các anh thật ngu... Tôi muốn cách chức tất cả! Đại tá có mặt có nghĩa là đại tá muốn điều chỉnh các hoạt động của anh, lẽ ra các anh phải xin ý kiến của đại tá.
- Thưa, thiếu tướng Xuân trông thấy đại tá, nhưng không dặn chúng tôi...
- Ai? Ai chỉ huy các anh? Tôi! Nghe rõ không! Tôi có nghĩa là đại tá Nguyễn Thành Luân. Anh đem Mai Hữu Xuân dọa tôi à? Anh có mắt không? Có đầu không?
Cuộc họp nội các căng thẳng. Tuy Nhu đã dặn trước nhưng Diệm vẫn bị bất ngờ. Sau khi Diệm thông báo chính thức quyết định của chính phủ, người ngơ ngác đầu tiên là Phó tổng thổng Nguyễn Ngọc Thơ. Thái độ của Thơ rất bất lợi cho Diệm. Ông ta lúng túng trước các cặp mắt thăm dò của thành viên nội các. Ngồi trong phòng riêng, qua máy truyền hình, Nhu tự trách: Lẽ ra, nên cho lão Thơ hay trước và hôm nay, để lão chủ tọa phiên họp, có lợi hơn.
Dù sao thì cũng không còn cứu vãn kịp.
“Vì Cộng sản xâm nhập các tỉnh lỵ, thị trấn và ngoại vi Sài Gòn, cho nên tôi quyết định thiết quân luật”. Diệm giải thích thêm. Toàn thể chính phủ im lặng. Thật ra, hơn phân nửa đã được phổ biến sự việc - một số tham dự hẳn vào kế hoạch “Nước lũ” như Nguyễn Đình Thuần, Trương Công Cừu, một số nghe mang máng. Chẳng có gì phải quan tâm. Số còn lại bây giờ mới rõ - họ nghe ồn ào nhưng chẳng hiểu lý do.
Người duy nhất nói trong buổi họp là Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu. Ông nói khá tế nhị: “Nếu quả thật có sự đột nhập của Việt Cộng vào ngoại ô Sài Gòn thì đã đủ lý do để giải thích sự việc...”
Diệm phật ý. “Nếu quả thật...”. Tay luật sư này quả là đáo để. Chẳng lẽ Tổng thống nói láo? Nhưng, không phải là lúc thích hợp để dạy cho Vũ Văn Mẫu bài học ghi chú cẩn thận. Mẫu tự lái xe và tiếp xúc với giới trí thức.
- Tại sao chú không cho bắt Mẫu? - Diệm nói gần như quát.
- Tại sao lại bắt ông Mẫu? - Nhu hỏi lại, giọng lạnh lùng - Ông ta không phải là Việt Cộng, không phải là tình báo Mỹ, không phải Đại Việt, bắt ông ta là đánh vào số trí thức đứng giữa. Em thích Vũ Quốc Thúc cạo đầu… Bắt kẻ như Thúc mới đập đúng đầu rắn. Bọn CIA khôn ranh lắm. Anh tin Trần Quốc Bửu, em không tin. Chúng xem như đây là cơ hội ngóc dậy. Những loại đó, hề rục rịch, em tóm cổ ngay! Còn ông Mẫu, anh cứ cho ông ta được nghỉ “vì lý do sức khoẻ”. Nghe đâu ông ta xin đi Ấn Độ hành hương, cùng gia đình, anh cứ cho phép. CIA sẽ tịt ngòi.
Nước cờ của Nhu khá cao. Thích Tâm Châu gọi điện báo với Jones Stepp và Jones Stepp chỉ khuyên nhà sư mang mật danh K.4 nên tìm mục tiêu khác.
Thích Tâm Châu không cần tấn công. Lệnh thiết quân luật kích động cả thành phố. Ngay chiều 21-8, sinh viên Trung tâm kỹ thuật Phú Thọ bãi khóa được một số giáo sư đồng tình. Chiều 22-8, giáo sư Phạm Biểu Tâm khoa trưởng Y khoa từ chức. Sáng hôm sau, ông bị Trần Văn Tư bắt. Không khí náo động, trường Y đông nghẹt sinh viên các khoa.
Nhu nhận được tin vào giữa trưa. Trần Văn Tư bị gọi vào dinh Gia Long.
- Ai cho phép anh bắt bác sĩ Tâm? - Nhu hỏi, mắt đổ lửa.
- Thưa, ông Thuần truyền lệnh của Tổng thống...
- Không có ai được ra lệnh trong lúc này, trừ tôi! Anh thả ngay bác sĩ Tâm...
Giáo sư Phạm Biểu Tâm được thả. Ra khỏi Nha cảnh sát, ông rơi vào một cuộc bao vây khác. Lấy cớ mừng giáo sư thoát nạn, một bộ phận sinh viên mời giáo sư đến trường đại học Y.
- Thưa giáo sư! - Một sinh viên, đầu cạo trọc nhẵn, nói trước micro - Xin thầy cho biết lập trường của sinh viên lúc này nên như thế nào?
- Tôi xem các anh như những người lớn, các anh làm những gì các anh muốn làm, tuy nhiên cũng đừng quá khích...
Cuộc họp mau chóng biến thành một cuộc mít tinh và một số sinh viên viết ngay đoạn đầu trong câu nói của giáo sư Tâm như khẩu hiệu: “Sinh viên là người lớn, muốn làm những gì sinh viên muốn làm!”.
Người sinh viên cạo trọc đầu thét to một câu bằng tiếng Pháp: “Nous sommes dépourvus de tous” (2). Trong cảnh gần như hỗn loạn ấy, một “Ủy ban chỉ đạo sinh viên Liên khoa” công bố thành lập, gồm 19 người, do Tô Lai, khoa Luật, chủ tịch và Đường Thiệu Đồng, Lâm Tường Vũ, Nguyễn Đông, Võ Như... trong ban chỉ đạo.
“Ủy ban chỉ đạo” đương nhiên thay thế Tổng hội Sinh viên. Người ta nghĩ rằng “Ủy ban chỉ đạo” đã đập mạnh Vũ Quốc Thúc, khoa trưởng Luật khoa, nhưng không; Vũ Quốc Thúc chỉ bị một số sinh viên cảnh cáo.
Người được “Ủy ban chỉ đạo” hoan hô dữ dội là giáo sư Nguyễn Văn Bông - ông ta tham gia biểu tình với sinh viên.
Ngô Đình Nhu ra lệnh: Bắt ngay Nguyễn Văn Bông. Nhưng lệnh của Nhu không có hiệu lực. Porter chính thức điện cho Nhu. Nhu ném chiếc gạt tàn vỡ tan tành. “Thằng Đại Việt đầu sỏ, thằng CIA này mà không trị thì thật nguy...”
“Ủy ban chỉ đạo” huy động một lực lượng hùng hậu, số sinh viên khoa học bãi thi APM và APD - bao vây văn phòng Viện trưởng Viện đại học Sài Gòn, giáo sư Lê Văn Thới. Giáo sư Thới lánh mặt. Văn phòng bị đập phá.
- Tại sao các anh không làm nhục được Lê Văn Thới?
Thích Đức Nghiệp xộc đến trụ sở “Ủy ban chỉ đạo” chất vấn.
- Thằng ấy có anh đi theo Việt Cộng!
Thích Đức Nghiệp không ngờ câu hằn học của y ta phân hóa phong trào sinh viên - một số khá đông ghét Diệm nhưng hoàn toàn không muốn gắn việc làm của họ với khẩu hiệu chống Cộng.
*
Tuyên ngôn
Trong khi toàn dân, toàn quân đang nỗ lực đẩy lưu âm mưu thôn tính miền Nam của Cộng sản; trong khi những người quốc gia yêu nước đang phải siết chặt hàng ngũ trước nguy vong của đất nước, mọi hành động chà đạp lên tự do tín ngưỡng của chính quyền miền Nam bằng cách khủng bố, hành hạ các tu sĩ tức là xâm phạm đến tín ngưỡng và công bình xã hội, đều có lợi cho đối phương.
Trước tình trạng đó, nhân dân không còn biết đâu là tự do, và vì thế cuộc chiến đấu chống Cộng sản bảo toàn đất nước sẽ mất phần hữu hiệu.
Chúng tôi, toàn thể sinh viên, học sinh Việt Nam
- Không phân biệt tôn giáo.
- Không chịu sự chi phối của bất cứ một đảng phái chính trị nào.
nhận thức rằng: Cộng sản và độc tài là kẻ thù của dân tộc, đồng thanh cương quyết thành lập Ủy ban chỉ đạo sinh viên học sinh tranh đấu cho tự do để:
1) Yêu cầu chính phủ thực sự tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng.
2) Yêu cầu chính phủ trả tự do cho những tăng ni, tín đồ Phật giáo, sinh viên, học sinh, giáo sư hiện bị giam giữ. Họ không phải là Cộng sản và vô tội.
3) Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng khủng bố, bắt bớ, hành hạ tín đồ Phật giáo.
4) Yêu cầu chính phủ giải tỏa chùa chiền, ban bố tự do ngôn luận.
Sinh viên, học sinh Việt Nam nguyện đem mồ hôi, xương máu tranh đấu cho bốn nguyện vọng khẩn thiết trên.
Đồng bào hãy sát cánh cùng chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho tự do và đòi được quyền phụng sự Tổ quốc.
Làm tại Sài Gòn, ngày 23-8-1963
Ủy ban chỉ đạo
Sinh viên học sinh
*
Ngô Đình Nhu phản ứng ngay lập tức: đóng cửa các trường. Phản ứng của Nhu đúng ra là quá trễ. Học sinh, nhất là học sinh các lớp trên cùng sinh viên không ai còn thiết đi học. Mọi người chờ đợi một cái gì đó sẽ nổ ra. Và, ngòi pháo được châm lửa.
*
Báo cáo của Joseph Stainer, Phân cục tình báo Mỹ.
Theo sự vận động của Ủy ban chỉ đạo Sinh viên Liên khoa, học sinh, sinh viên Sài Gòn sẽ tập trung tại trường Dược, đường Công Lý để tổ chức biểu tình vào sáng 25-8-1963. Nhưng khi mọi người tới đây thì lực lượng cảnh sát đã chiếm đóng trường này và phong tỏa tất cả các trường tại thủ đô từ chiều hôm trước.
Bởi vậy, học sinh, sinh viên phải đổi địa điểm tập trung từ trường Dược qua chợ Bến Thành.
8 giờ sáng ngày 25-8-63, học sinh, sinh viên từ 8 ngã kéo về Công trường Diên Hồng, người người chật nghẽn đường lối. Dân trong chợ Bến Thành đổ ra hưởng ứng biểu tình cùng sự góp mặt của thanh niên, thanh nữ trong gia đình Phật tử và các đoàn thể Phật giáo, đã biến nơi trung tâm đô thành này thành một biển người.
Một vài biểu ngữ vừa được trương lên thì lập tức lực lượng cảnh sát chiến đấu ào tới đàn áp và cuộc xung đột diễn ra. Cảnh sát giơ cao dùi cui, đập túi bụi vào đám học sinh, sinh viên, bất kể nam nữ. Để chống lại, nữ sinh tháo guốc đưa cho nam sinh nhắm đầu cảnh sát quăng tới tấp...
Thình lình, súng nổ vang lên. Tiếng súng từ bót cảnh sát Lê Văn Ken hướng vào toán nữ sinh đang xô với nhân viên cảnh sát. Một nữ sinh gục xuống và nhiều người khác ngã theo. Học sinh, sinh viên hoảng hốt chạy tán loạn. Lực lượng cảnh sát săn đuổi ráo riết, thắt chặt vòng vây rồi tiếp tục khủng bố, đánh đập.
Trong cuộc biểu tình này, ngoài những nữ sinh bị thương, riêng Quách Thị Trang, nữ sinh đệ nhị bị bắn một viên đạn vào thái dương nên chết ngay sau khi đưa tới bệnh viện được ít phút.
Chính quyền Ngô Đình Diệm hết sức che đậy cái chết này.
Cái chết của một nữ sinh tại chợ Bến Thành chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ sau đã được loan truyền khắp thủ đô, khiến không những học sinh, sinh viên mà cả công chúng đều căm phẫn. Người ta không rõ nữ sinh đã bỏ mình là ai: là Quách Thị Trang, là Mỹ Hạnh hay Lê Thị Hạnh nhưng người ta chỉ biết và biết rõ ràng máu của một nữ sinh thơ ngây, vô tội đã đổ.
Sau cuộc biểu tình này, có trên 2000 nam nữ học sinh, sinh viên bị bắt đưa về nhốt tại Trung tâm huấn luyện Quang Trung.
*
Điện khẩn:
Hàng nghìn sinh viên Việt Nam ở các tỉnh Lyon, Grenoble, Toulouse, Montpellier... kéo về Paris phản đối vụ gọi là “tàn sát Quách Thị Trang”. Dư luận chung cực kỳ bất lợi cho ta. Xin cho chỉ thị.
Phạm Khắc Hy, đại sứ.
*
Điện khẩn:
Phúc điện cho đại sứ, nên cố gắng tổ chức phản biểu tình. Phân tích xem trong số sinh viên kéo về Paris gồm những xu hướng nào? Thân Cộng bao nhiêu? Có Đại Việt không? Thái độ của chính phủ Pháp và đại sứ quán Mỹ. Thái độ của nhóm Vương Văn Đông, Trần Đình Lan?
Ký:
Ngô Đình Nhu.
*
Điện khẩn:
Trong số sinh viên, hầu như đủ xu hướng, tất nhiên số thân Cộng nòng cốt. Đang tiếp xúc phản biểu tình nhưng rất khó. Chính phủ Pháp tỏ ra trung lập, cảnh sát chỉ giữ trật tự mà không can thiệp. Không ai thấy đại sứ quán Mỹ tiếp xúc với sinh viên. Vương Văn Đông, Trần Đình Lan, Quách Sến gặp nhau luôn. Hội đoàn Việt kiều do Cộng sản nắm, được Cộng sản Pháp hỗ trợ chống chính phủ Việt Nam Cộng hòa như từ trước.
Ký:
Phạm Khắc Hy, đại sứ.
*
Báo cáo của Joseph Stainer:
Chất lượng của phong trào sinh viên Sài Gòn bị pha loãng do sự xuất hiện đột ngột của học sinh. Nữ sinh các trường Trưng Vương, Gia Long, Marie Curie, kêu gọi học sinh toàn quốc chống ông Diệm. Thật ra, nếu không quy mô ở đây, với các trường nữ này, chưa phải là điều chúng ta lưu ý, kể cả sự tham gia sau đó của trường Jean Jacques Rousseau. Nói chung, với số đông trong họ thuộc gia đình quyền quý và mộ đạo Phật, chúng ta thu lợi nhiều hơn. Nhưng, khi học sinh các trường Võ Trường Toản, Chu Văn An, Lê Văn Duyệt, Hưng Đạo, Trường Sơn, Văn Lang, nhất là trường kỹ thuật Cao Thắng nhảy vào vòng chiến, tình thế phức tạp. Số này không làm như nhóm sinh viên Đinh Quốc Ân (Y khoa), Nguyễn Trọng Nho (Nông lâm), Phạm Đức Khoan (Văn khoa) trích huyết viết kiến nghị gửi ông Diệm cốt khoa trương và tạo tên tuổi, nhắc nhở chúng tôi rằng họ đang có mặt và họ cũng xứng đáng được đối xử nhu Tô Lai, Võ Như... Học sinh đông hằng mấy vạn không chịu sự kiểm soát của Ủy ban chỉ đạo và có vẻ muốn tự lập. Không thể không nghi ngờ Việt Cộng len lỏi vào phong trào học sinh, nơi chúng có điều kiện hơn trong sinh viên vì tuyệt đại đa số học sinh là con nhà lao động, thân nhân dính líu với Việt Minh trước đây. Cứ xem các cuộc xung đột trên đường phố thì ta có thể kết luận được rằng Ủy ban chỉ đạo lần lần để vuột khỏi tay mình lực lượng đông nhất. Trong Ủy ban chỉ đạo lại phát sinh tranh chấp ngôi vị lợi quyền. Tôi trực tiếp chứng kiến cuộc đụng độ ngày 9-9, cảnh sát dã chiến với học sinh trường Cao Thắng - một trận đánh hẳn hoi mà tôi có thể minh họa bằng hình ảnh Công xã Paris: chướng ngại vật, các loại vũ khí nào búa, gậy, dao cầm cự suốt nửa ngày với lựu đạn cay, phi tiễn, dùi cui, vòi rồng... Tình hình trường Chu Văn An rất gay go, tuy nhiên biểu thị tính cách Phật giáo rõ hơn. Học sinh hạ cờ Việt Nam Cộng hòa, kéo cờ Phật giáo và đánh nhau với cảnh sát. Cuối cùng, 1200 học sinh bị áp giải... Tôi đề nghị thiếu tướng Jones Stepp nên cùng Tổng nha cảnh sát trao đổi. Yêu cầu của chúng ta là không để phong trào học sinh vượt khỏi lằn ranh cho phép và nhất là không để phong trào học sinh trở thành nòng cốt dẫn dắt trở lại phong trào sinh viên. Trong vụ Chu Văn An đã lọc được 72 tên tình nghi cảm tình Việt Cộng trong khi toàn bộ Cao Thắng có lẽ do Việt Cộng chỉ huy.
*
Luân thay quần áo, mặc bộ quân phục ra phòng khách. Hai sinh viên có vẻ sốt ruột.
- Xin lỗi, tôi vừa đi làm về.... Nào, ta cần gì nhau? - Luân bắt tay Tô Lai và Võ Như.
- Chúng tôi xin tự giới thiệu... - Tô Lai nói.
- Khỏi! Tôi biết hai anh là ai. Báo chí đăng khá nhiều hình các anh, đặc biệt anh Tô Lai... Một Vũ Văn Mẫu hay một Đỗ Mậu? - Luân cười cười, ngó cái đầu cạo nhẵn của Tô Lai.
- Thế thì chúng ta có thể vào đề ngay. Nhưng chúng tôi muốn biết chúng tôi phải xưng hô với ông thế nào cho đúng?
Luân cười, ngó thẳng Tô Lai:
- Tôi là đại tá Nguyễn Thành Luân...
- Nếu ông thích quân hàm đại tá, chúng tôi sẽ xưng hô theo ý thích của ông.
- Ở đây, không có chuyện theo ý thích. Hai anh là sinh viên, tôi gọi là anh. Còn chủ tịch Ủy ban chỉ đạo, tôi không biết!
- Một đại tá thân cận với Tổng thống Diệm mà không biết chủ tịch Ủy ban chỉ đạo sinh viên, học sinh?
- Có thể tôi không biết. Có thể tôi không cần biết. Cái tôi cần biết là hai anh đến gặp tôi có chuyện gì? Tôi đã quá tuổi sinh viên từ lâu, cho nên chức vị của hai anh không khiến tôi phải mất thì giờ.
- Chúng tôi chống ông Diệm!
- Đó là quyền của các anh. Tôi hiểu.
- Nhưng, chúng tôi muốn đại tá tỏ thái độ...
- Tại sao tôi phải tỏ thái độ? Và thái độ gì?
- Người ta nói với chúng tôi rằng đại tá có uy tín với quân đội, với người Mỹ. Sinh viên muốn đại tá đứng về phía chúng tôi...
- Quân nhân chúng tôi không được quyền làm chính trị. Các anh biết luật lệ đó, nhất là anh, anh Tô Lai, sinh viên khoa Luật! - Luân châm biếm.
Luân đang cố phân tích xem hai người gặp anh thực chất nhằm mục đích gì.
- Tôi xin hỏi thẳng hai anh: Phong trào mà hai anh đứng đầu chống ông Diệm đàn áp Phật giáo, đúng không?
- Đúng...
- Đã đến lúc tình thế phải ngã ngũ. Ngã ngũ không có nghĩa là nếu ông Diệm thôi đàn áp Phật giáp thì đâu sẽ vô đó... Đúng không?
Hai người hơi lúng túng, ngó nhau, chưa tìm ra câu trả lời.
- Giả tỷ ông Diệm thôi đàn áp Phật giáo, các anh sẽ thất vọng, đúng không?
Vẫn không có câu trả lời.
- Nhiệm vụ của các anh là làm thế nào để cho ông Diệm không thể thôi đàn áp Phật giáo - bây giờ, thì đàn áp cả sinh viên, học sinh, trí thức... Đúng không?
Võ Như lắc đầu:
- Hai chữ “nhiệm vụ” mà đại tá dùng, mơ hồ quá!
Luân cười rộ:
- Chẳng lẽ hai anh không tự đặt cho mình một nhiệm vụ nào cả? Đùa hả? Đùa với sinh mạng Quách Thị Trang hả?
- Nếu theo nghĩa đó, chúng tôi có nhiệm vụ. Nhiệm vụ hoặc lý tưởng... - Tô Lai lấy lại giọng bình tĩnh.
- Tôi không cần đi sâu vào danh từ. - Luân ngó hai người với đôi mắt người lớn - Sau khi lật đổ ông Diệm, cứ giả định như vậy, các anh định làm gì?
- Xây dựng một chế độ tự do thật sự ở Nam Việt. - Võ Như nói như tuyên cáo.
- Nghĩa là mọi người đều được luật pháp bảo vệ? - Luân hỏi.
- Tất nhiên, trừ Việt Cộng! - Võ Như tiếp tục khẳng định.
- Thế thì vấn đề hòa bình sẽ giải quyết như thế nào? Chúng ta đang có chiến tranh và chiến tranh khá khốc liệt.
- Không có cách nào khác hơn phải đánh đổ chế độ Cộng sản Bắc Việt! - Võ Như trả lời thật dứt khoát.
- Bằng cách nào?
- Đại đức Thích Đức Nghiệp đã chủ trương. Chúng tôi sẽ thành lập quân đoàn giải phóng miền Bắc...
- Tiếc quá! - Luân hóm hỉnh - Báo Tự Do có anh ký giả tên Vũ Bắc Tiến. Tôi biết không phải một trong hai anh mang tên đó... Chuyện của hai nhân vật “Ủy ban chỉ đạo” mà trẻ con đến cỡ này sao? - Giọng Luân từ châm biếm sang khinh miệt.
- Ông Diệm và cả ông nữa, các ông không làm nổi sự nghiệp thống nhất giang sơn, chúng tôi làm! - Võ Như câng câng mặt.
- Người Mỹ! Tôi nhắc lại! Người Mỹ cũng chưa dám nghĩ tới chuyện đó mặc dù họ có thể sẽ lên mặt trăng không bao lâu nữa. Các anh chống ông Diệm, tôi không có ý kiến vì nó thuộc về quyền của các anh. Tôi là quân nhân song tôi không biệt những loại chính kiến trong phạm vi những người Quốc gia với nhau. Tôi chỉ khuyên các anh: Làm người lớn phải có cái đầu người lớn. Các anh đừng tự phơi bày mình như một thứ hình nộm ai muốn giật dây cũng được. Tôi nói thật nghiêm chỉnh đó. Cái đầu cạo láng của anh không nâng anh lên một chút nào. Các anh cứ ghi nhớ: các anh sẽ bị xô giạt bên lề và chính các anh hối hận.
Luân nói giọng khô khốc.
- Chúng tôi muốn đại tá làm cố vấn cho Ủy ban chúng tôi! - Tô Lai dịu hẳn giọng.
- Tôi vừa làm cố vấn cho các anh... Không đủ sao? Nếu cần thêm, tôi lưu ý các anh: Đừng làm con két!
Hai người ngượng nghịu bắt tay Luân.
- Tập tễnh làm chính khách! Thế lực không lớn, tìm chỗ dựa. CIA nắm, song không nắm được hạng có ý thức. Các cậu sẽ rơi đài sớm thôi!
Luân trầm ngâm với ý nghĩ riêng cho đến khi Thạch mang vào chiếc phong bì có dấu mật và gắn xi.
*
Điện mật:
Một đoàn đại biểu Phật giáo do Pháp Tri, phái Tiểu Thừa dẫn đầu, bí mật vượt biên giới và đã đến Nam Vang. Họ viết một bức huyết thư gửi ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hợp quốc và thái tử Sihanouk đồng thời liên lạc với Nhất Hạnh cùng Cao Thị Phượng đang ở Mỹ và Mẫn Giác ở Ấn Độ. Họ đã gặp cả hai vua sãi Cambot Phanmayut và Manahica.
Ký:
Tổng lãnh sự VNCH tại Nam Vang.
*
Bản sao điện mật chẳng gợi cho Luân một ý nghĩa nào. Sự thể đã phát triển quá xa. Số mạng của chế độ Ngô Đình Diệm không còn đếm từng ngày mà từng giờ. Kề cái chết, họ giãy giụa nhưng càng giãy giụa, sợi thòng lọng càng thít chặt. Tự nhiên Luân nhớ đến Ngô Đình Thục, nhớ cái hôm chia tay.
Luân mời Giám mục đến nhà ăn cơm và Dung tự nấu. Bữa ăn chung ở dinh Gia Long thật buồn, bữa ăn ở nhà Luân cũng chẳng hơn. Với Giám mục, ông chỉ linh cảm thôi nhưng chừng ấy điều xảy ra dồn dập cũng cho linh cảm của ông những cơ sở phán đoán.
Thức ăn ngon, hợp khẩu vị Giám mục - thường thì Giám mục vừa ăn vừa khen - nhưng hôm nay, ông lơ đễnh, mắt như ngó đâu.
- Tình hình rối quá, con hỉ? - Ông hỏi.
Luân không biết trình bày sao cho hợp với buổi chia tay - Luân cũng linh cảm Giám mục sẽ không bao giờ về Việt Nam nữa.
- Thưa Đức cha, tuy rối, song cũng còn đường ra...
Mặt Giám mục không hé một chút phấn khởi.
- Cha nghĩ lão linh mục Hoàng có lý. Đặng Sĩ cũng có lý. Giá mà Tổng thống nghe lời thím Nhu, mạnh tay vào, bọn Phật giáo bị triệt từ tháng 5. Sai một nước cờ, hư cả bàn cờ!
Luân càng thấy thương hại người cha nuôi của mình. Cũng không nên trách ông. Ông không thể có cách suy nghĩ khác.
- Cha sẽ trình bày cho dư luận Công giáo thế giới biết sự thật... Cả Đức Thánh cha cũng cần được thông báo các chi tiết. Đức khâm mạng Tòa thánh cho Cha hay, theo ngài thì chế độ của chúng ta khó thoát khỏi cơn thử thách định mệnh này. Để tránh hậu quả tai hại cho Công giáo, ngài thúc Cha đi La Mã sớm dù Công đồng chưa họp. Cha muốn gặp Đức Hồng y Spellman.. Nhưng, ra đi như thế này, Cha bứt rứt trong lòng... Chúa vốn công bằng, sao lại đưa Tổng thống và gia đình ta vào thế hiểm nghèo? Đức khâm mạng đã dạy, Cha nghĩ ngài nghe được cái gì đó...
Ngưng một lúc, Giám mục bảo Luân:
- Con sống với gia đình chúng ta thấm thoát 9 năm, bằng thời gian con kháng chiến... Cha, Tổng thống, chú Nhu, mọi người đều xem con và vợ con như ruột thịt. Cha biết con giỏi. So với chú Nhu, con suy tính nhiều việc kỹ, sâu hơn. Cho nên, trước khi ra đi, Cha mong con trước sau như một, hết sức vì gia đình. Con cũng đoán ra, suốt 9 năm, nhiều kẻ ghen ghét toan hãm hại con, song Cha, Tổng thống một mực tin con. Đã qua, con xứng đáng lắm. Trên mình con, bao nhiêu vết thương chí mạng là vì họ Ngô. Không ai không nhớ... Con thường thư cho Cha. Công đồng họp khá lâu, Cha cần tin tức ở nhà.. Cha sẽ năng thư cho con.
Khi Giám mục và anh ôm nhau, Luân rưng rưng nước mắt. Ngô Đình Thục thuộc gia đình mà cách mạng không thể không triệt hạ - tội ác của họ cao như núi - nhưng, mặt khác, nếu không được Thục che chở, Luân không bị giết thì cũng trút bộ lốt hiện giờ từ lâu, khó thực hiện được gánh nặng mà anh Hai trực tiếp giao, mà A.07 trực tiếp chỉ đạo...
Một cái gì như bất nhẫn dâng lên trong lòng Luân. Dung thông cảm tâm trạng của Luân. Tiễn Giám mục lên xe, còn riêng hai người, Dung ngồi sát Luân:
- Anh cứ buông thả tình cảm, em thấy như vậy không có hại gì. Chúng ta là con người. Vả lại, ông ấy chưa hề có ý định xấu về anh.
Dung cung cấp cho Luân nhiều tin mới, chúng củng cố thêm nhận định của Luân: “Bravo” của Nhu chính là tín hiệu cho phía đảo chánh hành động.
Chuông ngoài cổng reo. Thạch mở cổng. Chiếc xe tải to sầm sơn màu vàng của hãng BGI vào sân. Mấy người khuân các két bia, nước ngọt xuống. Một nhân viên đi vào nhà, với quyển sổ thanh toán trên tay.
Luân sửng sốt một giây.
- Mời ông ngồi! - Luân chỉ ghế cho nhân viên của hãng BGI. Anh nói khẽ vào tai Dung:
- Khi người ta xuống xong các thứ, nhận xong vỏ chai, em bảo Thạch mời tất cả ra chỗ Thạch đãi họ... Lý do? Lấy sinh nhật bé Lý...
Dung hiểu. Cô liếc nhanh “nhân viên” BGI - và cô đoán: Anh Sáu Đăng. “Nhân viên” BGI mỉm cười với cô.
...Mỹ dứt khoát loại Diệm bằng hình thức đảo chính. Đó là điều Mỹ cố tránh song không tránh khỏi. Diệm tuy là tay sai của Mỹ nhưng lại không ngoan ngoãn. Y có mặt “tương đối độc lập” của y. Từ khi lên cầm quyền, Diệm bắt tay xây dựng một triều đại kiểu hoàng đế mà không xưng hoàng đế: “Tổng thống suốt đời”. Y dựa vào thế lực Thiên Chúa giáo phản động cực đoan di cư và dân di cư nói chung, dựa vào các phần tử tư sản thuộc gia đình và vây cánh y thay chân số thân Pháp và dựa vào quân đội, cảnh sát. Nhưng, giữa Mỹ và y có một khoảng cách và khoảng cách đó lớn dần. Y muốn thâu tóm mọi quyền hành, Mỹ muốn chia xẻ quyền hành cho nhiều nhóm để kìm chế lẫn nhau. Từ khi nhân dân miền Nam đồng khởi và Mặt trận Dân tộc Giải phóng ra đời, Mỹ - Diệm mất quyền kiểm soát ở nông thôn. Mỹ rút ra kết luận là vì Diệm thực hiện sai lệch chính sách của Mỹ nên Cộng sản mới giành được thắng lợi.
Mỹ buộc phải đưa thêm cố vấn vào miền Nam và đến mức phải thành lập cả một Bộ chỉ huy, thực chất là Bộ chỉ huy viễn chinh hay ít ra cũng là tiền thân của Bộ chỉ huy ấy. Với mấy lần cảnh cáo quân sự không kết quả, Mỹ dùng sức ép chính trị thông qua phong trào Phật giáo. Tiếng là phong trào Phật giáo, kỳ thực gần như mọi giới, mọi tầng lớp đều chống Diệm, dựa danh nghĩa Phật giáo. Mỹ hiểu được điều đặc biệt ấy; nếu để các nhà sư tiến bộ lãnh đạo thì phong trào sẽ phát triển về phía mở ra khả năng thương lượng với Mặt trận, nghĩa là Mỹ sẽ thất bại. Cho nên Mỹ phải tung tay sai vào lèo lái phong trào Phật giáo, và bây giờ thêm phong trào học sinh, sinh viên. Tất cả màn chính trị sục sôi là giáo đầu cho một cú quân sự mà cú quân sự sẽ chớp nhoáng để ta không kịp khai thác. Mỹ nắm được một số tướng và thỏa thuận với Pháp một số tướng vốn là người của Pháp. Yêu sách của Pháp, như De Gaulle tuyên bố ở Nam Vang, đặt Nam Việt trong quy chế trung lập, Mỹ ỡm ờ, nhưng chắc chắn cốt lợi dụng Pháp, không đời nào chịu nhả Nam Việt. Có thể có những khả năng sau đây: Nếu Diệm đổ, một ê kíp tay sai gồm cả thân Mỹ và thân Pháp điều khiển khá cuộc chiến tranh, Mỹ khỏi đưa thêm quân vào mà đẩy lùi chính sách liên minh với Pháp; nếu ê kíp mới tỏ ra kém khả năng, sẽ có thay đổi tay sai, loại những người thân Pháp, chỉ để bọn thân Mỹ độc quyền, trong trường hợp này, đẩy lùi được ta thì Mỹ vẫn giữ mức quân như hiện nay, hoặc tăng thêm chút ít nữa; nếu cả giải pháp đó không thu kết quả thí chiến cuộc sẽ thay đổi quy mô, chưa đoán trước quy mô tới đâu song chắc chắn sẽ là cuộc chiến tranh lớn và chiến tranh của Mỹ.
Về Diệm, hoặc y đề kháng hoặc y đầu hàng. Y đề kháng, có lợi cho phong trào - nhân rối loạn mà quét ấp chiến lược. Y bị hạ bệ và lưu vong, mâu thuẫn chưa dàn xếp, diễn tiến sẽ còn phức tạp.
Về phong trào Phật giáo, nhất định phân hóa. Số chân tu và số quần chúng yêu nước hiện nay đang say, họ căm ghét Diệm mà chưa thấy cái nguy hiểm của Mỹ, nhưng sớm muộn gì họ cũng sẽ thấy. Về phong trào sinh viên, học sinh, đang phân hóa, đã có một số nhận thức chống Diệm đồng thời phải chống Mỹ - số này còn nhỏ nhưng chắc chắn sẽ lớn nhanh.
Tương quan chung chưa cho phép ta làm cái gì vang dội nếu đảo chánh xảy ra. Đó là thời cơ tập hợp lực lượng, tiến công chính trị, phá ấp chiến lược, khiến nội bộ Mỹ ngụy không ổn định.
Riêng “Kỵ sĩ”, phải bám cho được vị trí hợp pháp - nghĩa là vẫn được Mỹ tin dùng. Có thể tham gia đảo chánh đến mức nào đó và tùy tình hình mà xử lý.
Anh Sáu Đăng tranh thủ phổ biến mấy nhận định lớn cho Luân. Luân báo cáo tình hình những ngày qua.
- Anh không được liên lạc với cô Mai và chị Cả, rất nguy hiểm. Từ nay, anh khỏi báo cáo tình hình, chúng tôi có điều kiện nắm khá đủ. Anh chỉ có việc hành động theo phương hướng đã vạch, khi cần, chúng tôi trực tiếp móc liên lạc, không sử dụng điện đài hay hộp thơ. Nghĩa là cắt đứt tất cả. Anh phải dấn thân sâu hơn và càng ít dấu viết liên hệ với cách mạng càng có lợi. Chỉ khi nào thật bức bách thì anh hoặc cô Dung đến chỗ này... - Anh Sáu Đăng chấm nước viết lên mặt bàn.
- Tôi cần một số người trung kiên tiếp tay, - Luân đề xuất - Chẳng hạn các đồng chí cho tôi một lái xe, một thư ký, một nhóm bảo vệ...
- Lái xe thì anh Thạch. Tin cậy được, tuy Thạch không hiểu công việc của anh và cô Dung. Thư ký có lẽ không cần, cô Dung làm tốt hơn. Nhóm bảo vệ thì để xem...
- Xin chọn cho ba Đảng viên thật trung kiên, vào dân vệ hay bảo an ở ba nơi, báo cho tôi biết, tôi sẽ điều...
- Để chúng tôi bàn thêm. Số người tốt anh liên hệ từ trước nên tùy lúc mà sử dụng như Nguyễn Thành Động, Trương Tấn Phụng, thậm chí Phan Cao Tòng, thiếu tướng Lâm. Riêng Lê Khánh Nghĩa thì không được. Nghĩa có việc của anh ta.
Luân báo cáo cho anh Sáu biết Jones Stepp chú ý đến Nghĩa khi hỏi Thạch. Anh Sáu hơi cau mày:
- Vậy là có một lỗ dò nào rồi. Tại sao tình báo Mỹ chú ý đến Nghĩa?
Tất nhiên Luân không biết.
- Tôi sẽ thử tìm nguyên nhân...
- Không cần! - Anh Sáu dứt khoát - Chúng tôi lo chuyện đó. Vợ của Thạch tốt, nhưng hình như binh vận Mỹ Tho định qua chị ta tranh thủ Thạch. Việc này hơi rối. Nếu chúng tôi ngăn thì sẽ lộ anh - anh em Mỹ Tho cũng có người ngờ ngợ về anh, do anh em Bến Tre thông báo. A.07 phê bình dữ lắm... Jones Stepp tin anh, nhưng Williams Porter còn đang thẩm tra thêm anh. Có hai tay mà anh phải hết sức đề phòng, một tay tôi đã nói lúc gặp anh trên Đất Ung, tức John Hing. Tay kia là Mai Hữu Xuân. Chúng tôi vẫn có kế hoạch bảo vệ anh, nhưng anh không cần biết.
Bây giờ, Luân mới nhìn kỹ anh Sáu. So với lúc gặp ở Đất Ung, anh Sáu có vẻ khỏe hơn. “Nó cũng là mặt báo hiệu phong trào mạnh”, Luân nghĩ - và, qua cách nói của anh Sáu, Luân hiểu ta thâm nhập nhiều ngả vào các cấp ngụy quân, ngụy quyền, tình báo của ta phát triển rộng. Nội việc anh Sáu có thể ung dung vào thành, đến nhà Luân bằng một xe của hãng BGI thì đã rõ.
- Nhu nhiều lần ngỏ ý muốn thương lượng với ta. Tôi xin ý kiến anh.
- Chúng tôi biết, qua nước thứ ba. Song, Nhu đánh đòn gió thôi. Bây giờ, còn gì để thương lượng, mặc dù ta biết một sự ủng hộ nào đó của ta giúp Diệm đề kháng lâu hơn... Song, để làm gì? Tôi nghĩ anh nên bắt đầu tính đến sự tồn tại của anh sau thời kỳ Diệm.
Luân báo cáo về James Casey và John Hing với các trương mục ngân hàng.
- Tốt thôi! - Anh Sáu bảo - Anh đừng vồ vập nhưng cũng đừng từ chối... Cũng là một thử thách nữa.
- Chúng nói nhiều đến vũ khí. Sau Diệm, chiến tranh có thể...
- Đó là một khả năng. Ta đang cố gắng tránh khả năng đó. Nhưng, tránh được hay không, bây giờ chưa thể nói trước. - Anh Sáu Đăng thở dài.
- Chiến tranh có nghĩa là tàn phá! - Luân cũng thở dài - Tôi đã nghiên cứu ở học viện Fort Brag, đọc nhiều tài liệu về chiến tranh hiện đại. Trong chương trình, học viện giảng cho chúng tôi sử dụng cả bom nguyên tử chiến thuật... Tôi nghĩ không chỉ như là Triều Tiên. Hơn Triều Tiên!
- Vì vậy, trách nhiệm của anh càng nặng...
- Tôi có một thắc mắc: bọn CIA biết rằng tôi không có lực lượng để làm đảo chính, tại sao chúng chi tiền cho tôi. James Casey nói rõ như vậy... - Luân hỏi.
- Đó là cái cớ thôi. Ý định của chúng là tách anh ra khỏi Nhu với hai mục đích: Anh chống lại kế hoạch đảo chính thì kế hoạch sẽ khó thực hiện; khó sửa soạn vai mới cho anh. - Anh Sáu Đăng giải thích.
- Anh có thể cho tôi biết tin các bạn chiến đấu cũ? - Luân chuyển sang chuyện tình cảm.
- Lưu Khánh đã về Nam, đang chỉ huy một đơn vị. Vũ Thượng xuất ngũ rồi, tôi không rõ làm gì... Anh Tư đang làm đại sứ ở Liên Xô.
- Sức khỏe của anh Hai.
- Anh Hai ra Bắc năm 1957, sau nhiều lần suýt bị bắt. Chắc anh biết tin của anh Hai sau đại hội Đảng lần thứ III. Anh Hai khỏe. A.07 cũng khỏe.
- Còn về Francisci, - Anh Sáu như chợt nhớ - Cũng có thể có cái gì hay hay, A.07 được bạn Pathet Lào báo về một vụ đụng độ giữa họ với nhóm phỉ U Ba Thiên và được cánh Francisci hỗ trợ. Bạn hơi lạ vì Francisci không bao giờ hành động kiểu đó. Khi được thư anh, tôi mới vỡ lẽ. Francisci là một tay giang hồ, do giang hồ, gã phục những lối hảo hớn như anh.
Anh Sáu Đăng hơi mỉm cười. Luân thấy má nong nóng.
- Cũng có lúc, phải tỏ ra hảo hớn. Anh khá lắm.
- Sa thế nào rồi?
Anh Sáu không trả lời, chỉ cười.
- Còn Lục?
- Đừng hỏi... Không có cái gì xấu xảy ra với họ, anh biết vậy là đủ... Quyến, tôi đoán thế nào anh cũng hỏi - đang học, ở xa.
- Saroyan rất tốt với anh. Song, anh nên chú ý Jones Stepp... - Anh Sáu trở lại công việc.
- Tôi hiểu. Jones Stepp cũng hiểu lằn mức trong quan hệ giữa chúng tôi.
- Fanfani viết nhiều bài hay... Cả anh chồng, cung cấp các ảnh rất giá trị. A.07 cho rằng anh đã ảnh hưởng đến quan điểm của Fanfani.
- Không hẳn... Cô ta rất độc lập trong nhận định và rất cứng về nghề nghiệp.
- Tình hình ra và Bắc Kinh mỗi ngày mỗi xấu thêm. Đường lối chủ nghĩa của Bắc Kinh dẫn họ vào vũng lầy phản bội. Cho nên, Lâm Sử là một mũi mà anh không thể coi thường.
- Các anh mình đánh giá về tướng Minh thế nào?
- Không khác đánh giá của anh: có tinh thần quốc gia chừng mực nào, tự trọng nhưng kém kinh nghiệm chính trị. Trong các hoạt động trước mắt, Minh là bình phong, người tổ chức là Andre, nhưng người thật lợi hại là Đỗ Mậu.
Tiện thể , Luân báo cáo với anh Sáu về vợ Huỳnh Hữu Hiền mà Luân nghĩ là trò chơi của Nhu.
- Chưa chắc! Chưa biết ai xỏ mũi ai... Andre không quá kém về kinh nghiệm dâu...
Chuyện chung coi như xong.
- Ta cụng một ly! - Anh Sáu đột nhiên đề nghị và anh cùng Luân uống cạn cốc bia.
- Tôi được A.07 cho phép thông báo với anh: Do thành tích của anh, của đồng chí Dung, Nhà nước quyết định thăng anh vượt cấp từ trung tá lên đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và đồng chí Dung là đại úy Công an Nhân dân kể từ ngày 1-1-1963. Anh được tặng Huân chương Quân công hạng nhất, đồng chí Dung, hạng ba....
Luân vừa nghe xong, không tự chủ được nữa, bật khóc...
Đoàn thể, Tổ quốc chăm sóc anh và Dung chu đáo đến mức không ngờ tới. Bao nhiêu hình ảnh cũ bỗng vụt hiện trong đầu anh. Kể từ khi anh hiểu cách mạng - trên chuyến xe lửa vào Nam, bạn học của anh, Quý, soi vài tia sáng - đến nay gần 20 năm, trong 20 năm đó, số phận chia đều: một nửa trong tư thế một cán bộ công khai đảm đương các chức vụ khác nhau, sống tập thể có anh có em, sinh hoạt Đảng đều đặn, hòa lẫn với đồng bào; một nửa ngược hẳn - anh phải mang bộ quần áo ngụy, phải nghe, phải nhìn, phải nói, phải làm những điều đôi khi tự chúng sỉ vả anh, chen giữa đám nhơ nhuốc, vượt những thử thách kỳ quặc, luôn giữ vai kịch đến khốn khổ. Từng giây, từng phút anh đặt mình trước bao nhiêu ống kính, bao nhiêu ngọn đèn pha soi anh từ đủ phía. Từng phút, từng giây anh phải đối phó với tráo trở, lừa gạt, lật lọng, gian trá, nham hiểm, láo khoét. Anh từng phát sợ - không phải sợ kẻ thù mà sợ anh: chừng ấy chất độc liệu có len lỏi phần nào vào cơ thể anh không và nếu cuối cùng rồi, anh tìm thấy trong mùi tanh tưởi một chút nước hoa thoang thoảng, thì sao? Không! Không phải những cuộc đọ trí, đọ súng nao núng anh. Sự cám dỗ: Quyền lực, tiền, gái... Anh tự nghĩ, nếu cạnh anh không có Dung. Công lao mà Đảng đánh giá, thật sự thuộc về người anh yêu, vai trò Dung dường khiêm tốn song quyết định, anh hiểu hơn ai hết. Và, xét cho cùng, anh chưa làm được bao nhiêu so với lòng tin cậy của các anh...
Qua nước mắt, Luân nhìn ra ngoài sân. Dung đang tiếp mấy người của BGI. Cô rót bia, dịu dàng mời khách. Ngay việc đó, phải đâu không ý nghĩa gì cả....
Anh Sáu im lặng. Anh muốn Luân vơi đi bao nhiêu dồn nén.
- Tin của ông cụ và ông chú Dung? - Luân hỏi.
- Ông cụ còn khoẻ, rất nhớ Dung... Song chỉ có thể động viên ông cụ thôi, ông cụ tỏ ra người có nghị lực. Còn đồng chí Thuận, chú Dung, cũng khỏe... - Anh Sáu hơi mỉm cười - chỉ mỉm cười thôi Luân cũng đoán ra người cán bộ tình báo già dặn hẳn đang thực hiện một công việc có thể quanh quẩn đâu đây...
Hai người bắt tay nhau thật chặt.
- Vùng giải phóng lan sát ven Sài Gòn, tôi nói để anh hiểu. Nếu thấy không thể tiếp tục đứng được. Anh ra hướng nào cũng an toàn cả.
- Cám ơn anh. - Luân nói - Nhưng sẽ không có việc tôi đào ngũ đâu!
Anh Sáu Đăng nghiêm mặt:
- Sao lại đào ngũ? Tôi ra lệnh cho anh: nếu cảm thấy không an toàn thì lập tức ra khu ngay. Tôi tin anh chấp hành đúng kỷ luật của Đảng...
- Tôi xin hứa!
Hai người không dám ôm hôn nhau...
Khi chiếc BGI ra khỏi cổng, Dung lững thững vào nhà.
Luân bất thần ôm chầm Dung, xốc cô lên. Dung bối rối. Từ khi yêu nhau, chưa bao giờ Luân có cử chỉ sôi nổi như vậy.
- Anh! Coi chừng chị Sáu thấy...
Luân không nói, bế Dung vào phòng ngủ, hôn Dung tới tấp. Dung không hiểu, không thể hiểu, cái đắm say mà Luân trao cho Dung hôm nay - ngay đêm tân hôn cũng không đến thế.
Dung muốn hỏi nhưng đến lượt cô, chỉ còn có thể cắn nhẹ vào vành tai Luân: Anh yêu của em...
*
Nhu gọi Luân vào dinh Gia Long.
- Ngày mai, tôi gặp phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc. Anh cùng gặp với tôi.
Nhu đẩy cặp hồ sơ dầy cộm cho Luân. Luân chưa vội mở cặp. Chẳng có gì bí mật. Và Luân thừa biết vụ Phật giáo đối với Nhu không phải trong hồ sơ này mà ở chỗ khác - ở mẹo của Ngô Trọng Hiếu.
Nói chung, nhà chiến lược, nhà tư tưởng Ngô Đình Nhu sau các biến cố dồn dập, thu hình lại chỉ còn là nhà ảo thuật, một mưu sĩ tầm thường. Về mặt này, Nhu kém xa bất kỳ một kẻ bẻm mép, ma cô nào của đất Sài Gòn.
- Anh cùng đi với tôi một lúc. - Nhu mời.
Luân ngỡ Nhu muốn thả bách bộ với anh. Nhưng không, Nhu đưa anh vào một phòng nhỏ.
“Anh ta định cho mình xem một kế hoạch gì đây?”. Căn phòng có bậc thềm. Đèn bật sáng. Đến đây thì Luân hiểu: Nhu giới thiệu với anh nhà hầm xây dưới dinh Gia Long - Luân biết việc đó, tuy không trực tiếp dính líu.
Qua bậc thềm hẹp, hai người xuống một gian hầm rộng hình chữ nhật khoảng trên 20 mét nằm theo chiều từ đường Công Lý qua đường Pasteur, phía sau dinh Gia Long. Luân ước cách mặt đất khá sâu. Nhu và Luân thường ngồi bên trên và bây giờ thì Luân hiểu: thảm cỏ xanh mượt chính là nóc hầm.
Hầm chỉ có hai cửa, cửa sắt dày. Một cửa thông với bốn lối xuống hầm: từ phòng ngủ của Tổng thống, từ phòng ngủ của Nhu, từ tầng dưới dinh và từ văn phòng của Tổng thống. Một cửa đi lên mặt đất, dùng cho lính bảo vệ, với lỗ thông hơi và một công sự bố trí đại liên. Hầm chia nhiều phòng nhỏ: Tổng thống có phòng khách, phòng ngủ và phòng tắm. Nhu cũng có ba phòng. Một hành lang nối các phòng.
Hầm vừa xây xong, mùi vôi nồng nặc. Chưa trang trí nội thất, ngay quạt và máy điều hòa không khí.
Luân cảm giác đây là một chiến hạm, một thứ hầm trú ẩn. Hình như hầm của tướng De Castries ở Điện Biên Phủ kiên cố hơn...
Nhu đưa Luân vào một phòng. Phòng đặt đầy máy thu phát vô tuyến điện và điện thoại. Bốn nhân viên - tất cả đều là liên quân của Liên binh phòng vệ, đứng lên chào.
- Cho tôi liên lạc với tướng Huỳnh Văn Cao! - Nhu bảo. Máy phát siêu tần số nhấp nháy đèn.
- Nhu đây!
- Chào ông cố vấn! Cao đây... Xin nghe chỉ thị.
- Không có chỉ thị gì. Tôi cùng đại tá Nguyễn Thành Luân kiểm tra hệ thống thông tin thôi. Tốt lắm, nghe rõ lắm... Chào thiếu tướng.
- Chúc sức khỏe ông cố vấn và đại tá...
Mặt Nhu thoáng nét thỏa mãn.
- Cho tôi đại tá Bùi Đình Đạm!
Câu chuyện lặp lại. Nhu gọi Nguyễn Khánh tận Pleiku, gọi Nguyễn Văn Thiệu ở Củ Chi, gọi Tôn Thất Đính, Huỳnh Hữu Hiền, gọi cả Nguyễn Cao Kỳ, gọi Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền... Đâu cũng răm rắp. Hai đường dây chạy thẳng đài phát thanh quốc gia và quân đội. Riêng tại đây, một đài phát thanh “bỏ túi” với công suất 2.000 Watt.
- Hầm này chịu được bom tấn! - Nhu bảo Luân khi họ theo bậc thang trở lên.
- Anh có đặt đường dây thẳng với sứ quán Mỹ không? - Luân chợt hỏi...
- Chưa... mà cần không?
- Cần... Tôi nghĩ là cần...
- Nội sáng nay, sẽ có đường dây đó...
Hai người thả bách bộ quanh dinh. Khoảng trời bên ngoái quá cao rộng, Luân so sánh với căn hầm. Thế là chế độ Ngô Đình Diệm bằng lòng một căn hầm vào chục thước vuông, trong khi họ từng làm chủ cả 170.000 cây số vuông và tham vọng làm chủ 340.000 cây số vuông của cả nước Việt Nam.
Anh bỗng nhớ Phạm Công Tắc - giáo chủ đòi những 40 cây số vuông kia...
Hai người gặp Diệm, cũng đang thả bách bộ.
- Chú Nhu đưa Luân xem căn hầm chưa? Đẹp, chắc, tiện hỉ?
Họ định dùng căn hầm làm gì? Luân lại bỗng nhớ Hitler, vào những ngày cuối cùng...
Và, cách đây vài tháng, Luân đọc một tin trên báo: một thợ may đường Lê Thánh Tông bị đâm chết giữa đêm. Dung nói riêng với anh: người thợ may tình cờ thấy người ta chở đất lên các xe tải, anh ta không thể sống... Có lẽ là tin thêu dệt. Theo quan sát của Luân, hầm không có lối thông ra ngoài. Một hầm cố thủ hơn là hầm tẩu thoát...
---
(1) Bán chạy, ăn khách
(2) Chúng tôi bị tước đoạt tất cả
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 12:21 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.