Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ma
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #61  
Old 11-07-2012, 04:37 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 30

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXX: Quán Cầu Hồn - Phần 1

CÔ GÁI TRÊN BÈ CHUỐI


Trời mưa như trút nước, gió thổi mỗi lúc một mạnh thêm, bên ngoài trời tối đen như mực. Thỉnh thoảng, những tia chớp chỉ đủ cho Thái nhìn thấy được những lùm cây lờ mờ chứ không nhìn rõ được dòng sông. Thái vô cùng sốt ruột, bởi nếu đợi trời hết mưa thì làm sao con tim của anh chịu đựng nổi, trong khi hình bóng của Tuyết Mai vẫn bặt tăm. Tính đến lúc đó thì Mai đã mất tích đúng nửa ngày rồi.
Đối với người khác thì nửa ngày không là bao. Nhưng đối với Tuyết Mai xưa nay chưa từng rời khỏi nhà dù chỉ một giờ mà không có lý do. Nhất là sáng sớm nay đã xảy ra một biến cố trong gia đình: Cha của Mai sau khi thức trắng một đêm, ngồi uống hơn một chai rượu whisky đã nổi điên lên, khóa chặt cửa phòng con gái lại rồi nói như một lời thề:
- Nếu ai mở cửa cho nó ra khỏi phòng thì coi như đã xóa mạng thằng Tư Quang này!
Tư Quang là tên tục của Monsteur Directeur Trần Đại Quang, mà có người còn gọi trịnh trọng là quan lớn Đại!
Đã nổi tiếng là sát thủ khi giữ chức giám đốc Nha cảnh sát, mà ngoài đời thường lão Quang còn là khắc tinh của con cái trong nhà. Không ai không sợ mỗi khi nghe tiếng đằng hắng của ông ta, vậy mà trong nhà chỉ có cô con gái út Tuyết Mai là không hề bị ông ta khuất phục! Cụ thể như chuyện chiều qua, lúc ông đi làm về và gọi Tuyết Mai ra bảo:
- Con chuẩn bị thay quần cho thật đẹp, thật sang trọng, rồi bảy giờ tối nay đi với ba dự buổi tiệc chiêu đãi của ngài Thống sứ Pháp.
Lập tức ông ta nhận được câu trả lời của con gái:
- Ba đi một mình đi, con không bao giờ tới gặp họ. Bởi chẳng có việc gì con phải gặp ông ta cả!
- Gặp thằng Robert chứ ai bảo con gặp lão già đó làm gì!
- Dứt khoát không!
Nói xong, Tuyết Mai bỏ ra sân định lấy xe đi, lập tức lão Quang đã gầm lên:
- Mày nói chuyện kiểu đó với ai vậy, con ranh kia!
Bà vợ ông ta từ trên lầu bước xuống, thấy vậy thì hoảng hốt, nhào tới kéo tay lão ta lại. Bởi bà thừa hiểu, chọc giận lão cỡ đó thì chỉ có nước tự sát!
Nhưng Tuyết Mai vẫn ngang bướng quay lại nói:
- Ba bảo con đi đâu cũng được, nhưng đi tới nhà tên Tây đó thì con thà chết chứ không bao giờ đi!
Lão Đại Quang không còn dằn được, bước thẳng ra sân, dang thẳng cánh tay và tát mạnh một cái, khiến cho cô con gái bé bỏng của lão ta đang ngồi trên xe đã phải ngã nhào xuống đất, trước sự hoảng sợ của bà mẹ:
- Trời ơi, ông giết con sao!
Bà định lao ra thì lão Quang đã như một con mãnh thú, cúi xuống nắm búi tóc dài của Mai, lôi xềnh xệch vào nhà. Nhìn đôi mắt lão long lên, bà Thanh Nguyệt biết khó mà cản nổi cơn giận, nên chỉ biết đứng yên, gào lên trong vô vọng:
- Nó là con mình mà, ông ơi.
Lão Quang hầu như điên cuồng, chẳng còn nghe ai nói gì nữa, lão lại dang tay tát liền mấy cái nữa vào mặt con gái. Tuyết Mai lúc ấy chỉ còn như một cánh hoa nghiêng ngả trước gió bão, chỉ vài chục giây sau thì cô đổ nhào xuống sàn nhà, cùng lúc là tiếng quát to của lão sát thủ:
- Nhốt nó lại trong phòng!
Rồi từ đó đến hết đêm, lão Quang đuổi hết người nhà ra, đóng cửa phòng lại và ngồi uống rượu một mình. Cho đến sáng thì người nhà phát hiện lão Quang gục tại chỗ, say đến không còn biết trời đất gì nữa, còn cửa phòng của Tuyết Mai thì mở toang. Cô con gái út của lão Quang đã biến mất.
Người nhà của Tuyết Mai ngầm báo tin cho Thái biết, thay vì chạy theo mọi người đi nhiều hướng để tìm, Thái lại chọn ngôi nhà bên dòng sông La Ngà này để ngồi đợi. Nó có lý của nó, bởi nơi này chính là chỗ hẹn đầu tiên, cũng là điểm mà mỗi khi cần gặp nhau thì anh và Tuyết Mai thường tới.
Cơn mưa đột ngột khiến Thái phải chôn chân ở trong căn nhà lá mà thường khi Thái vẫn gọi đó là Thảo Mai quán (quán lá của Mai), bởi quán rất vắng khách, đôi khi suốt buổi chỉ có anh và Tuyết Mai là khách. Chủ quán có lần giải thích với Thái:
- Vợ chồng già chúng tôi ở đây, nên sẵn đó mở quán bán, khách nào tiện đường thì ghé uống nước, nghỉ chân, chứ thật ra nơi này vắng và khuất, có mấy khách lui tới đâu!
Do vì quán vắng và là nơi quen biết, nên từ đầu cơn mưa đến giờ, Thái chưa thấy chủ quán đâu, nhưng anh cũng không quan tâm, anh chỉ nôn nao trong dạ về sự biệt tăm của Tuyết Mai mà thôi...
Có những tiếng động bất thường ở phía ngoài, hướng bờ sông, Thái căng mắt nhìn ra, nhưng không thấy gì, phải đợi đến lúc một tia sấm chớp nữa, anh mới thoáng thấy có một bóng người đang khệ nệ ôm vật gì đó vừa chạy rất nhanh vào quán.
Lúc tông cửa quán vào, người đó lên tiếng:
- Mưa gì mà mưa như điên thế này, may mà quán chưa sập!
Đó là ông chủ quán. Thái lên tiếng ngay:
- Bác Hai hả, cháu là Thái đây!
Nghe tiếng anh, ông chủ quán reo lên:
- Mav rồi! có cậu đây rồi!
Ông đặt vật trên tay xuống một cách cẩn thận, vừa hướng về phía Thái:
- Sao cậu còn ở đó, có biết ai đây không?
Thái chưa kịp chuyển động thì lão chủ quán đã gắt lên:
- Nhanh lên, cô ấy chưa biết sống chết thế nào nữa!
- Ai?
- Cô bạn cậu! Tôi đang bơi xuồng từ bên kia sông sang thì may trông thấy cô ấy đang chới với sắp chìm. Vớt lên xuồng rồi tôi mới lờ mờ nhận ra là cô bạn của cậu.
Như bị điện giật, Thái bật ngay dậy lao tới và hốt hoảng lên tiếng:
- Có đúng là cô ấy không? Cô ấy...
- Đang bị ngất đi sau khi tôi kéo lên khỏi mặt nước, như vậy không phải chết đuối. Chắc là do sợ và lạnh quá.
Vừa chạm vào cánh tay của cô nàng, Thái suýt rút tay về, bởi hơi lạnh khác nào băng giá.
- Tuyết Mai!
Thái nghe một tiếng ư nhỏ, rồi bàn tay nàng nắm lấy tay anh, tuy yếu, nhưng đủ để xác định mình còn sống. Thái quên hết cả mệt, anh ôm chầm lấy người yêu mà quên là nàng đang ướt đẫm và lạnh.
- Cậu tìm cách thay quần áo khô cho cô ấy ngay đi!
Thái tuột phăng quần áo ngoài của mình ra và nhân cơ hội ông chủ quán bước vào trong nhà, lột quần áo ướt của Mai ra, thay thật nhanh. Vừa lúc ngọn đèn dầu được chủ quán đốt lên và giọng thúc giục của ông ta:
- Cậu mau đưa cô ấy vào trong đi, có chiếc giường đó, cho cô ấy nằm đỡ. Có cả mền nữa, tuy không sạch lắm, nhưng lúc này cần phải trùm để cô ấy ấm, tránh cảm lạnh. Chờ tôi đốt bếp lửa lên, cậu hơ cho cô ấy.
Thái nghe theo, nhưng vừa bế Tuyết Mai vào tới phòng trong thì anh nghe nàng thỏ thẻ bên tai:
- Em tỉnh rồi, nhưng cứ làm như em còn mệt, anh ôm em đi!
Thái thở phào nhẹ nhõm, cất đi gánh lo ngàn cân từ cả buổi vừa qua. Anh bảo cũng thật khẽ:
- Cứ nằm yên đó.
Khi ông chủ quán Hai Lượm bưng bếp lửa vừa nhóm xong vào thì giọng ông vẫn còn lo lắng:
- Tôi mà tới chậm chừng nháy mắt nữa thì cô ấy đã chìm rồi, mưa quá lớn và gió cũng mạnh nữa. Người cỡ tôi đây mà trầm mình dưới nước như thế cũng chịu không nổi nữa là...
Không đợi bếp lửa cháy rực lên thì người của Tuyết Mai đã ấm lại rồi. Chính Thái cũng ngạc nhiên:
- Em rơi xuống nước lâu chưa mà người không lạnh?
Nàng đáp khẽ:
- Sao không lạnh. Hồi nãy bộ anh không thấy sao…
Thái nhớ lại lúc mới chạm vào cánh tay của Mai anh suýt kêu lên, nên anh càng ngạc nhiên hơn:
- Bây giờ hầu như chẳng còn chút gì là lạnh lẽo nữa. Kỳ vậy?
- Nhờ anh đó!
Thấy trong hoàn cảnh này mà nàng còn đùa được, Thái hỏi nhỏ:
- Nói cho anh nghe coi, em biến đi đâu mất từ đêm qua đến giờ?
Nói chuyện vô cùng hệ trọng mà giọng Mai dửng dưng như không:
- Em đi tự tử!
- Kìa, Tuyết Mai!
Thái nghĩ nàng trong tâm trạng bất an nên nói năng không kiểm soát, anh đem chuyện nghe thấy ở nhà thuật lại cho Tuyết Mai nghe. Nhưng vừa nghe xong, Mai chỉ nói gọn lỏn:
- Cha mà ác tâm với con, thì coi như con nó đã chết!
- Mai...
Nàng đưa tay bụm miệng anh lại:
- Tốt hơn hết là anh đừng nói gì chuyện nhà em hết. Chỉ biết bây giờ em đang ở bên anh là tốt rồi! Mà điều này thì cách đây vài giờ tưởng chừng như em đã...
Thái nghe chừng như trong cách nói năng của Mai có chút gì đó khang khác. Anh định hỏi, nhưng lúc đó ông Hai chủ quán đã bước vào, nên anh thôi. Bấy giờ ông mới hỏi:
- Sao cậu thì ở đây, còn cô thì chìm dưới sông là sao? Bộ đi bơi xuồng rồi cô bị rớt sông, trời mưa cậu tìm không được phải không?
Thấy Mai chừng như không muốn giải thích, nên Thái đỡ lời:
- Dạ, đúng vậy thưa chú.
- Cậu chọn cách ngồi ở quán đợi cũng là cách khôn ngoan. Chứ nếu không thì...
Rồi chợt ông đổi giọng:
- Cũng may cho cô cậu, nếu chuyện xảy ra ngày mai thì quán này đóng cửa, không có ai ở đây, cậu đâu vào quán ngồi đợi được.
Thái ngạc nhiên:
- Sao chú đóng cửa quán? Chú bận việc gì sao?
- Không phải bận, mà đóng cửa luôn. Chờ đến khi nào bán cho chủ khác, họ thích mở quán nữa thì mở cửa bán, còn không thì tùy họ.
Thái tắc lưỡi:
- Chú bỏ quán này uổng quá. Rồi còn chỗ đâu để tụi này...
Ông chủ quán hỏi một câu bất ngờ:
- Cậu có biết ai mua quán không, tôi bán rẻ?
Thái cười, lắc đầu:
- Cháu đâu biết.
- Hay là cậu mua đi, làm nơi hóng mát!
- Dạ, cháu...
Chợt giọng Tuyết Mai rót nhẹ vào tai anh:
- Anh mua đi!
Thái định hỏi lại, nhưng sợ lộ chuyện nàng tỉnh lại, nên anh phải lúng túng:
- Dạ...
Ông Hai quả quyết:
- Tôi nói thật đó. Nếu cậu mà mua thì tôi bán thật rẻ. Để cho cậu tôi thích hơn là bán cho người khác, họ sẽ phá nơi này làm lại, tôi thấy uổng...
Thái còn lưỡng lự thì nàng lại giục:
- Ừ đi!
- Dạ...
Thái ậm ừ như vậy, nhưng ông Hai thì ngỡ anh đồng ý, nên quyết ngay:
- Bán cho cậu giá chỉ bằng tiền mua hai chiếc xuồng thôi! Tôi gom tiền mua chiếc ghe đủ hai vợ chồng chèo lên chèo xuống con sông này, chứ bây giờ tôi cũng không còn thích sống một chỗ nữa. Vậy nghe, cậu cứ đưa trước cho tôi phân nửa cũng được.
Thái lại bị thúc ngầm, cuối cùng anh phải gật đầu:
- Thôi, cũng được. Cháu cũng cần một nơi để tới lui.
- Rồi, sáng mai mình nói chuyện cụ thể hơn. Bây giờ cô cậu có thể nằm giường đó ngủ đi, tôi ra ngoài này. Nhớ, nếu cô có bệnh hoạn gì thì kêu tôi liền.
Trời đã ngớt mưa...
Nhưng đêm cũng khá khuya. Thái hỏi khẽ:
- Anh ngủ chung, có tiện không?
Nàng bất ngờ ôm chặt lấy Thái, khiến anh gần muốn ngạt thở, cố đẩy ra thì Mai dỗi:
- Bộ không muốn gặp người ta hả?
- Bậy. Anh chỉ ngại...
Yêu nhau đã hơn ba năm, đây là lần đầu tiên Thái mới biết mùi vị của cơ thể người yêu. Anh lóng cóng mãi mới đánh bạo ôm lại và đặt một nụ hôn nhẹ lên môi nàng. Bất ngờ Thái bị nàng ghì chặt, môi anh gần như dính vào môi nàng, khó mà rời ra được!
Ở ngoài kia, ông già Hai hình như cũng chìm vào giấc ngủ...
Khoảng một canh giờ sau...
Chợt Thái nghe nàng nức nở khóc! Quá đỗi ngạc nhiên, anh hỏi khẽ:
- Chuyện gì vậy?
Nàng thổn thức đáp:
- Người ta đã là vợ anh rồi, đã bỏ nhà đi rồi, nếu anh bỏ em thì... em đi luôn!
Thái kề sát tai nàng, rót vào những lời bằng tất cả chân tình:
- Anh thề mà. Anh chẳng bao giờ thay đổi. Chỉ sợ em thôi.
- Em thì chỉ có mình anh. Em trốn nhà đi cũng chỉ vì ba em bắt ép gả cho người mà em không yêu. Ba đã hành hạ em như không phải tình máu mủ, cho nên bây giờ em chỉ còn trông cậy vào anh thôi. Anh mà bỏ em nữa, em sẽ...
Bụm miệng nàng lại, Thái nghiêm giọng:
- Đừng nói gở. Anh thề với em.
Người ta thường nói sau cơn mưa trời lại sáng, hôm sau quả đúng như thế. Bầu trời buổi sáng thật trong lành, rạng rỡ. Chừng như sau một cơn mưa lớn đã gột rửa những bụi bặm, u ám đi hết, bình minh chào đón hai tâm hồn trẻ vừa vượt qua cơn sóng dữ bằng ánh nắng sớm xuyên qua khe cửa sổ vào phòng. Thái bật dậy thì không thấy Tuyết Mai đâu, anh lo lắng cất tiếng gọi:
- Mai ơi, em ở đâu?
Có tiếng đáp của chú Hai chủ nhà:
- Cô ấy thức sớm và đi ra ngoài sông, có lẽ hít thở không khí trong lành buổi sáng. Cậu cũng nên ra đó.
Thái vừa bước ra thì ông già bảo:
- Lát nữa tôi có việc phải đi, hai cô cậu cứ ở lại đây rồi ít hôm tôi trở lại mình tính toán chuyện cái nhà cũng được. Xem ra cô ấy cần phải có thì giờ nghỉ ngơi nhiều đó cậu Thái.
Thái cám ơn ông rồi đi thẳng ra ngoài bến sông. Tuyết Mai đang ngồi đó với dáng vẻ ưu tư, khác hẳn với sự tươi tắn, linh hoạt của đêm qua.
- Sao em không gọi anh dậy?
Mai nhìn lại anh với vẻ buồn buồn. Thái lo ngại:
- Có chuyện gì vậy em?
Nàng không đáp, chỉ nhẹ lắc đầu rồi kéo Thái ngồi xuống bên cạnh. Một lúc sau, nàng đưa tay chỉ một đám lục bình trôi từ xa lại, hỏi:
- Anh nhìn kỹ xem, có phải là chiếc bè chuối không?
Thái nhìn rồi đáp:
- Không phải, lục bình đó. Nhưng sao em quan tâm tới bè chuối làm gì?
Nàng nhẹ lắc đầu:
- Thì em hỏi vậy mà...
- Sao em không vui? Hay là đã hối hận chuyện đã... cho anh?
Nàng siết chặt tay Thái:
- Điều đó làm cho em vui hơn thì có. Chỉ có điều...
Nàng lại có vẻ lo lắng, chỉ tay về phía xa và hỏi:
- Có phải cái bè chuối không?
Thái nhìn lại và vẫn lắc đầu:
- Không phải...
Tuyết Mai đột ngột hỏi:
- Nếu bây giờ em xa anh thì anh làm gì?
Thái trố mắt nhìn nàng trân trối:
- Nãy giờ em toàn nói chuyện gì đâu, em sao vậy Tuyết Mai?
- Nhưng câu em hỏi anh chưa trả lời?
- Còn làm gì nữa. Anh sẽ đi theo em!
Mai lại lắc đầu:
- Không được, trong chúng ta chỉ có một người phải xa thôi. Người đó là em. Em hỏi thật, anh có dám ở lại đây ròng rã vài ba năm không?
Thái kêu lên:
- Em lại nói lăng nhăng nữa rồi!
Nàng nghiêm giọng:
- Em hỏi thật đó. Anh sẽ làm gì nếu ở lại đây một mình? Hay là sẽ đi tìm người con gái khác về cùng chung sống?
Thái siết chặt nàng trong vòng tay:
- Tìm người này nè.
- Anh có chắc vậy không?
- Chắc chắn là vậy. Anh thề...
Nàng ngả vào lòng Thái, hai khóe mắt ươn ướt. Thái hốt hoảng:
- Em sao vậy?
- Em...
Đột nhiên Tuyết Mai ôm lấy ngực, không nói được lời nào, nhưng trông dáng vẻ thì đau đớn lắm. Thái sợ hãi:
- Em sao vậy, Tuyết Mai? Em đừng làm anh sợ.
Nàng nói qua hơi thở gấp:
- Đỡ lấy em. Cho em nhìn ra ngoài sông...
Vừa khi ấy nàng reo lên, giọng nghe rất yếu:
- Cái bè chuối!
Quả nhiên, khi nhìn ra sông Thái thấy một chiếc bè chuối trôi giữa dòng. Nàng hốt hoảng:
- Vớt nó lên, đừng để nó trôi đi!
Chưa biết là chuyện gì, nhưng Thái thấy người yêu nói như thế cũng định đứng lên, vừa lúc đó có tiếng của ông già Hai chủ quán:
- Trên bè chuối hình như có cái gì đó, để tôi bơi xuồng ra vớt lên coi!
Sẵn xuồng, ông bơi nhanh ra và chặn được hướng trôi của chiếc bè. Lát sau ông Hai vào tới, ông gọi từ dưới bến:
- Hai người xuống coi nè, có một đứa bé trên bè!
Dù đang rất mệt nhưng nghe nói thế Tuyết Mai giục:
- Anh đưa em xuống đó coi.
Thái phải dìu mới đưa Mai đi được. Vừa nhìn thấy đứa bé nằm gọn trong chiếc khăn trùm kín, Tuyết Mai reo lên:
- Đúng rồi!
Và đột nhiên nàng ngã ra ngất đi. Thái hốt hoảng:
- Tuyết Mai! Em... em sao vậy? Em...
Ông già Hai bảo:
- Chắc cô ấy xúc động khi nhìn thấy cảnh này. Vậy cậu đưa cô ấy lên nhà đi, để tôi bế đứa bé.
Ông bế đứa bé lên, nó giật mình khóc thét, đồng thời từ miếng tã lót trên lưng nó rơi ra một mảnh giấy, Thái không để ý, nhưng một cách ngẫu nhiên, mảnh giấy ấy bị gió thổi tung lên, rồi bay đáp đúng vào giữa ngực của Tuyết Mai, tức nằm đúng tầm mắt Thái, anh đọc được rõ ràng:
- Hãy nuôi nấng nó chu đáo. Còn mạng sống của nó tức là còn mạng em!
Đang mang nặng, bỗng Thái dừng ngay lại, anh buông một tay ra và đưa lên mũi của nàng.
- Trời ơi, Tuyết Mai.
Thái phát hiện nàng không còn thở nữa!
- Chú Hai ơi, cô ấy đã chết rồi!
Đưa Mai vào trong nhà, xem kỹ lại thì đúng là nàng đã tắt thở, tim ngừng đập!
- Sao vậy chú Hai? Sao vậy Mai?
Thái cứ lặp lại câu hỏi mà chẳng ai trả lời cho anh. Hồi lâu ông Hai mới lên tiếng:
- Để tôi qua bên kia sông rước thầy về xem cô ấy bị bệnh gì.
Thái lắc đầu:
- Không cần đâu chú, cháu đã nghĩ ra rồi, cô ấy đã biết trước mình sẽ chết nên đã chuẩn bị rồi. Đứa bé này, mảnh giấy viết sẵn này.
Anh đưa cho ông Hai đọc tờ giấy. Ông già đồng tình:
- Cậu nói đúng. Nhưng phải tìm hiểu nguyên do nào khiến cô ấy làm điều này? Tự tử phải không cậu?
Thái quả quyết:
- Không phải. Hình như...
Thái nhớ lại từng cử chỉ, lời nói của Tuyết Mai suốt đêm qua. Mọi việc đã báo trước mà anh không để ý.
Anh quay sang ông chủ quán:
- Cháu sẽ mua ngay quán này. Cháu sẽ ở cùng cô ấy nơi đây.
Ông Hai buồn bã nói:
- Tôi cũng không nỡ lấy tiền cậu. Hay là...
Thái móc ngay số tiền đang có trong túi:
- Chú cứ cầm lấy trước số này, còn lại bao nhiêu một tuần nữa cháu sẽ đưa luôn.
Ông Hai đưa tiền lại cho Thái:
- Tôi chưa cần ngay, cậu cứ để lại đó lo cho cô ấy, chừng nào tiện tôi sẽ nói cậu đưa. Tôi cũng ở lại đây giúp cậu một tay cho xong việc rồi mới đi.
Nhờ ông nên việc hậu sự cho Tuyết Mai được chu tất. Ban đầu Thái muốn về báo cho cha mẹ Tuyết Mai hay, nhưng nhớ lại những cơn giận dữ điên cuồng của ông Tư Quang thì Thái bỏ ngay ý định. Anh phân trần với ông già Hai:
- Có bác làm chứng cho về cái chết của cô ấy, để sau này tránh người ta nghĩ là cháu.
Ông Hai hiểu ý:
- Cậu yên tâm, cứ mai táng cô ấy ở phần đất phía sau nhà này, đất đó của riêng cậu về sau, không ai tranh chấp cả.
Thái để xác của người yêu qua đến ngày hôm sau mới chôn. Lạ một điều là đã chết rồi mà sắc mặt của Tuyết Mai vẫn tươi nhuận, y như đang nằm ngủ! Thái lưỡng lự mãi rồi mới cho xuống huyệt. Tuy nhiên, trước giờ hạ huyệt thì đứa trẻ bỗng khóc thét lên như phản đối! Thái phải dừng tay, anh bảo ông già Hai:
- Chú Hai để ý xem, có phải đứa bé không muốn mình chôn xác cô ấy xuống mộ?
Thái thử một lần nữa, lần này anh đích thân ôm xác Mai ra, cho cỗ quan tài xuống trước, rồi mới đặt nàng trở lại. Vẫn tiếng khóc thét còn lớn hơn lúc nãy! Thái chưa biết phải làm sao thì bỗng một cơn gió thật mạnh thổi lên, rồi cát bụi bay mịt mù. Lúc lặng gió trở lại, bỗng Thái kêu lên thảng thốt:
- Tuyết Mai. Cô ấy...
Không còn thấy xác của Mai đâu, mà cỗ quan tài thì đã bị cát đất lấp kín lại, như vừa mai táng xong. Thái ngỡ ngàng một lúc rồi hỏi ý ông Hai:
- Mình có nên đào trở lên không chú?
Suy nghĩ một lúc, ông Hai nói:
- Nếu trời đất khiến không để cho cậu đích thân chôn cất thì cậu cũng không nên cãi lại. Thôi, dù gì thì cô ấy cũng đã ở dưới rồi, ai chôn cũng được.
Sau khi đắp mả cẩn thận, Thái trở vào nhà và anh muốn đứng tim khi nhìn thấy cái xác của Tuyết Mai đang nằm yên như đang ngủ trên giường.
- Tuyết Mai!
Thái kêu lên rồi đứng như trời trồng...
***
- Dô!
- Dô trăm phần trăm mày!
Tám Lành và Năm Sự đã cụng đến ly thứ năm, nên giọng điệu có phần chếnh choáng. Họ uống chưa hết ly rượu vừa cụng thì bỗng nghe tiếng ai sau lưng:
- Dô bằng ly đó mà cũng dô. Có ngon thì chơi mỗi lần một chén coi!
Ba Tàng mặt mày đỏ gay, chắc là đã nhậu lâu rồi, anh ta nhắc lại:
- Thằng nào dám chơi với ta hai chén không? Ai thua thì phải làm chuyện mình thách đố ngày hôm qua!
Tám Lành vốn không ưa tật châm chọc của Ba Tàng, nên trợn mắt nhìn anh ta:
- Mày có dám chắc là làm được không? Hay là thua rồi rút êm?
Ba Tàng tru môi:
- Thằng này chưa từng làm thỏ đế nghe! Chơi không?
Tám Lành quay vào trong quán gọi lớn:
- Cho mượn cái tô múc canh chủ quán!
Chủ quán Tư Son mang tô ra liền, mụ ta nói khẽ với anh chồng đang xớ rớ cạnh đó:
- Ba cái rượu ông mua về bán cho ai cũng chê, bữa nay có mấy thằng này thách đố, đem ra cho nó uống hết!
Thật ra sức của mấy tay này chỉ chịu nổi nửa tô là bò càng rồi! Ba Tàng la lớn:
- Mày thua rồi, Tám Lành! Mày...
Anh ta nói chưa dứt câu đã lăn kềnh ra, chẳng còn biết trời trăng gì nữa. Tám Lành cũng chẳng khá hơn, anh ta làm rơi tô rượu, tô vỡ tan tành, rồi cũng ngã nhào như cây chuối bị đốn!
Còn lại mình Năm Sự, anh ta ra vẻ ngon:
- Mấy thằng nhóc, tửu lượng bao nhiêu mà cũng bày đặt!
Ông già Hai nãy giờ ngồi im ở góc nhà giờ mới bắt đầu lên tiếng:
- Có phải tụi nó thách đố chuyện đứa nào dám qua quán của thằng Thái bên kia sông chứ gì?
Năm Sự vỗ ngực:
- Anh nó đây mà dám múa rìu qua mắt thợ à!
Ông già Hai dò hỏi:
- Vậy chú mày dám làm chuyện đó?
- Chuyện gì ông già?
- Thì chuyện đột nhập quán Bảy Thái!
- Dư sức qua cầu.
Chợt ông già phá lên cười:
- Tao thấy mắc cười tụi bay quá trời! Ai đời chuyện của người ta, chẳng mắc mớ gì mình, lại cá độ với nhau rồi uống đến chết lên chết xuống thế này, có phải ngu không!
Năm Sự tỏ ra rành chuyện:
- Sao lại không mắc mớ! Ông Hai không nhớ là cái quán cũ của ông, sau khi ông sang lại cho thằng trẻ tuổi đó nó dẫn về con vợ trẻ măng, để rồi con vợ lăn kềnh ra chết. Tưởng đâu vợ chết nó sẽ bỏ đi, để tụi này kiếm cái quán đó làm chỗ chứa cờ bạc ai dè nó vẫn bám trụ, ở lì. Mà còn gay go hơn nữa, hình như nó có vợ khác hay sao đó... Có người đồn đêm nào họ cũng nghe trong buồng nhà nó có tiếng rù rì thủ thỉ kỳ lạ lắm!
Ông già Hai nghe tên nọ nói thế thì có vẻ lo trong lòng, ông nghĩ hắn ta biết khá nhiều chuyện, như vậy Thái sẽ không ổn. Mà điều đó không làm sao yên tâm, nên tìm cách nói dạt ra:
- Tụi bay toàn nghĩ tào lao! Tao biết thằng đó, nó là học trò mới ra trường, có con vợ trẻ bị chết nên thua buồn ở lại đó để tưởng nhớ con vợ chớ có rước ai khác đâu, đừng nghĩ bậy!
Năm Sự vẫn không thôi:
- Người ta còn đồn là không thấy anh chàng ấy đi chợ bao giờ, nhưng bữa nào cũng ăn ngon, có người dọn ăn cho. Như vậy không rước đàn bà khác về thì ai làm?
Ông già Hai gắt giọng:
- Mà ví dụ nó có vợ khác đi nữa thì cũng đâu mắc mớ gì mình. Tụi bay rõ là kiếm chuyện.
Năm Sự cười hô hố:
- Ông Hai quên là tụi này đang muốn lấy hoặc mua lại rẻ căn nhà đó để chứa bài hay sao? Tôi nói thật, bằng mọi cách tụi này cũng làm cho thằng đó phải dọn nhà đi mới thôi!
Nghe giọng nói của hắn, ông già Hai ghét lắm, nhưng ông biết nói ra sự chống đối lúc này không có lợi, nên ông chỉ tìm cách lái câu chuyện đi hướng khác:
- Tụi bay không nghe đồn gì sao?
Là chuyên gia nghe ngóng những lời đồn thi, nên Năm Sự chú ý ngay:
- Chuyện gì ông Hai?
- Chuyện con heo quay của nhà Hương cả Thạnh thả trôi sông trưa nay!
Quả là tin quá hấp dẫn, Năm Sự hỏi tới:
- Sao tới bây giờ ông già mới nói, bây giờ là mấy giờ rồi?
- Sắp sửa thôi chớ chưa tới. Tụi bay mà đón ở cửa Hội đồng thì thế nào cũng lấy được. Tao nghe tụi thằng Sáu Lùn cũng quyết cướp con heo đó, nghe nói heo thật lớn, đến gần một tạ!
Năm Sự vỗ đùi:
- Tổ cha thằng Sáu Lùn cũng không ăn được con heo này nữa là nó! Nhưng mà...
Anh ta nhìn lại hai thằng bạn mình thì thất vọng:
- Chiến hữu mà như vậy thì còn làm ăn gì được nữa.
Chợt hắn ta búng tay nghe cái tróc và reo lên:
- Có cách rồi!
Hắn quay sang ông già Hai:
- Ông cho tôi mượn cái dây lưới giăng dài của ông đi!
Biết cho mượn thì coi như đi đời tay lưới kiếm cơm của mình, nhưng ông già Hai đành phải chiều lòng hắn:
- Lưới cơm của tao nghe mày, làm gì cũng phải giữ cho kỹ, đừng để rách nghe chưa.
Năm Sự nheo mắt:
- Trăm phần trăm ngon lành mà ông già!
Đã đoán biết là hắn mượn tay lưới dài để làm gì rồi, kiểu đó thì còn gì là lưới của ông, nhưng già Hai chỉ khẽ lắc đầu rồi đi lấy lưới ra đưa cho hắn.
Đợi cho Năm Sự đi rồi, ông già Hai gọi thằng con út ra:
- Con chèo xuồng qua sông liền, tìm gặp anh Thái mày, nói ba dặn như vậy... như vậy...
Thằng út Hơn rất khoái, mỗi lần sang chỗ Thái để được anh dạy cho vẽ hình, cho nên nó phấn khởi đi ngay.
Còn riêng Năm Sự, sau khi có được tay lưới, hắn trở ngay về nhà, lấy chiếc xuồng nhỏ, bơi ngược dòng sông về hướng nhà Hương cả Thạnh. Đi ngang qua khúc cua Hội đồng, hắn thoáng thấy lố nhố mấy bóng người đang tụ nhau dưới gốc cây bần, trong số đó có bọn thằng Sáu Lùn.
Năm Sự khéo léo mọp người khi đi ngang qua đó, và nhờ vậy hắn không bị bọn kia phát hiện. Hắn lên trên đó khoảng vài trăm bước, neo xuồng lại rồi cột một đầu lưới vào gốc cây dừa. Xong, hắn lặn xuống và băng qua sông, tránh không để ai phát hiện. Qua bờ bên kia, hắn trồi lên và cột một đầu lưới vào một gốc bần. Như vậy hắn đã có được một cái bẫy, mà bất cứ vật gì như chiếc bè chuối trôi ngang qua cũng sẽ bị vướng lại, và...
Tự cho là mình thông minh khi nghĩ ra cách này nên Năm Sự cười đắc ý, rồi nấp kỹ để chờ...
Quả nhiên, đúng ngọ thì một chiếc bè chuối thật lớn, cỡ như một chiếc xuồng ba lá từ trên trôi xuống. Năm Sự hồi hộp khi nghĩ tới con heo quay béo ngậy, vàng ươm đang nằm trên bè... Bữa nay sau khi tụi thằng Tám Lành, Ba Tàng tỉnh lại sẽ phải phục lăn hắn ta, và đêm nay bọn hắn sẽ tha hồ mà chè chén tới sáng luôn!
Bè chuối trôi mỗi lúc một gần hơn, và rõ ràng trên bè có một vật to như con heo trăm ký đang được phủ bằng mấy tàu lá chuối, trông hấp dẫn làm sao!
Và đúng như Năm Sự mong đợi, chiếc bè trôi tới rồi vướn vào dây lưới giăng ngang, dừng lại giữa dòng! Mắt Năm Sự sáng lên, hắn lao ra ngay và kéo chiếc bè vào bờ, lựa một chỗ khuất, vừa định giở lá chuối phủ con heo ra thì đã nghe giọng lè nhè cất lên:
- Thằng khỉ đột, định ăn một mình à!
Nhìn lên, thấy Tám Lành và Ba Tàng chân hươu chân nai vừa trờ tới. Năm Sự giục:
- Mau tiếp một tay coi, hai thằng quỷ, tụi bay còn dậy nổi sao?
Ba người kéo chiếc bè lên bãi bùn một cách dễ dàng và Năm Sự người lẹ tay nhất, tốc ngay tàu lá chuối lên.
- Trời ơi!
Tiếng thét lên của ba tên cùng lúc! Trước mặt chúng, không phải là con heo quay béo ngậy, mà đó lại là... một xác chết. Xác một cô gái!
Ba Tàng vẫn còn chưa tỉnh rượu, vậy mà lúc này hắn đã vùng đứng lên và co giò chạy. Tám Lành cũng làm theo. Chỉ còn Năm Sự, do hai chân đang bị lún sâu dưới bùn, chưa rút lên được nên đứng yên mà hai mắt trợn tròn, mồm há hốc và... tất cả ba tên chẳng hẹn mà cùng gục ngã tại chỗ.
Chiếc bè chuối lúc ấy tự dưng như được đẩy ra, trong phút chốc đã trôi ra giữa dòng và... vượt qua dây lưới một cách dễ dàng, để tiếp tục trôi về phía hạ lưu...


Quán Cầu Hồn - Phần 2


Khi mọi người hay tin bọn Ba Tàng, Năm Sự và Tám Lành bị nạn ngoài bãi bồi, họ chạy ra đưa được cả ba về thì ba tên đã ở trong tình trạng hầu như hôn mê. Sau khi được hơ lửa, thoa dầu thì may sao bọn họ hồi tỉnh.
Vừa mở mắt ra, Năm Sự đã thét lớn:
- Ma! Bớ người ta!
Hai tên kia cũng tình trạng như vậy, bọn chúng chưa hoàn hồn, nên nhìn chung quanh cứ ngỡ như chúng đang ở địa ngục. Tám Lành lắp bắp:
- Đừng... đừng bắt hồn tôi. Tôi không cố ý...
Ba Tàng còn tệ hơn, hắn tiểu tiện ra quần và bò càng trên đất, vừa la khóc, vừa van xin ai đó:
- Tha cho tôi, từ nay tôi xin chừa...
Có mặt ở đó, ông già Hai lên tiếng:
- Tụi bay đã được cứu sống rồi, còn làm gì vậy?
Vẫn chưa tin, Năm Sự đưa mắt nhìn ông già và hỏi với giọng thảng thốt:
- Cô... cô ta đâu... đâu rồi?
Ông già Hai hỏi lại:
- Cô nào?
Năm Sự líu cả lưỡi:
- Ở... ở trên... trên bè...
Ông già Hai cười lớn:
- Mấy thằng này chỉ giỏi tài ăn nhậu, quậy phá thiên hạ chứ không làm chuyện gì cho ra hồn! Chỉ cho đi lấy con heo quay mà cuối cùng cũng để cho tụi thằng Sáu Lùn xóm dưới nó lấy được. Thật là nhục cho tụi trai tráng xóm mình!
Vừa nghe đến điều đó, tỉnh hẳn người ra, hắn hỏi lớn:
- Thằng Sáu Lùn làm gì?
Chỉ tay về phía sân đình, ông già Hai nói nhanh:
- Ra đó mà coi tụi nó đang xẻ con heo quay ra chia phần cho mọi người, phần còn lại cả bọn gần hai chục đứa ăn nhậu đã đời cả buổi rồi mà vẫn chưa hết!
Tám Lành và Ba Tàng cũng đã nghe, bọn hắn đưa mắt nhìn nhau ngỡ ngàng, hồi lâu mới hỏi nhau:
- Sao kỳ vậy?
Năm Sự lắc đầu lẩm bẩm:
- Không thể có chuyện đó... Chính là tôi đã thấy...
Ông già Hai bỏ đi vừa nói với lại:
- Tụi bay có thèm heo quay thì ra mà chia phần với người ta!
Dù cảm thấy nhục nhưng bọn Năm Sự cũng nháy mắt cho nhau rồi cùng chạy ra sân đình. Trước mặt chúng, chiếc bè chuối được kéo nguyên chiếc lên để giữa sân, trên bè vẫn còn một phần ba con heo quay đang ăn dở dang. Bọn Sáu Lùn vừa nhác thấy mấy tên chạy tới đã reo lên:
- Các chiến hữu đi đâu mà tụi này kiếm cả buổi không thấy? Vào, vào đây làm tiếp đi, bọn này ăn không hết!
Năm Sự nổi máu du côn:
- Tụi bay có biết là chính tao đã vớt được con heo này không? Sao tụi bay...
Sáu Lùn đâu có vừa, đứng lên cười hềnh hệch:
- Có muốn ăn ké thì tụi này cho ăn, còn nói giọng đó thì coi chừng... ăn đòn đó!
Tám Lành kề miệng nói khẽ:
- Rõ ràng hồi nãy mình thấy... xác chết, mà sao bây giờ bọn chúng lại ăn ngon lành vậy? Hay là tại mình xỉn?
Tám Lành cãi:
- Chứ thằng Năm Sự có say đâu?
Năm Sự chỉ tay vào con heo quay:
- Mày coi lại coi, tụi bay đang ăn giống gì vậy?
Sáu Lùn điên tiết lên:
- Thằng này bữa nay tới số rồi chắc!
Hắn lao tới định thoi vào mặt Năm Sự, nhưng vừa đưa tay lên thì bụng quặn đau như bị ai cắt đứt, khiến hắn co quắp người lại. Bọn em út thấy vậy ngạc nhiên hỏi:
- Sao vậy anh Sáu?
Một người lớn tuổi đứng gần đó lên tiếng:
- Chắc là tại ăn nhiều quá chớ gì! Một mình hắn mà ăn hết cái đùi heo, hèn gì!
Vừa khi ấy, bỗng có người thét lên:
- Xác người!
Thì ra trước mặt họ, trên chiếc bè chuối lúc ấy là một nửa xác người!
Chưa bao giờ tưởng tượng nổi cảnh này, cho nên mọi người vừa nhìn thấy đã ù té chạy, một số thì đứng tại chỗ thi nhau nôn mửa liên hồi!
Năm Sự là người đã chứng kiến từ lúc nãy, nhưng giờ đây nhìn thấy lại cũng phải tối tăm mặt mày, lảo đảo muốn ngã khuỵu! Còn phần Sáu Lùn thì sau khi lăn lộn bởi cơn đau, đã nằm im không có dấu hiệu gì của sự sống.
Bọn đàn em của hắn đứa thì co giò chạy, đứa sợ quá kêu la khóc um sùm. Còn những người lúc nãy trót nhận phần chia thịt heo quay thì sợ đến gần chết ngất. Cũng may là hầu hết họ đều chưa có người nào ăn miếng nào! Tất cả không ai bảo ai, đã cùng nhau đem quăng bỏ số thịt ấy và rời khỏi sân đình tức khắc.
Tin tức loan truyền rất nhanh, chưa đầy một giờ sau thì hầu như chuyện bọn Sáu Lùn ăn xác chết đã rao khắp làng. Người sợ thì không dám tới sân đình để xem lại cảnh tượng hãi hùng lúc nãy. Nhưng còn những người không biết sợ và tò mò thì rủ nhau kéo tới nhìn cho tận mắt. Trong số này có người đã chứng kiến, giờ nghĩ lại, thấy cần phải coi lại cho chính xác, nên cũng tháp tùng theo nhóm người mới.
Nhưng khi họ kéo tới sân đình thì tất cả đều ngẩn người ra, bởi trên chiếc bè chuối vẫn là... gần nửa con heo quay ăn dang dở!
Mấy người mới tới bàn tán:
- Làm gì có chuyện ăn xác người! Có lẽ mấy người kia giành con heo quay nên tung tin nhảm. Mà cũng có thể là họ bị mờ con mắt bởi... ăn nhiều quá!
Mặc ai nói gì thì nói, nhưng bọn Sáu Lùn thì vẫn bị quằn quại rên la. Riêng Sáu Lùn sau một lúc mê man đã tỉnh lại, nhưng khi nhìn thấy mọi người thì bỗng quỳ và lạy bất kể ai. Anh ta vừa lạy vừa lùi như muốn chạy trốn mà chạy không được. Đến lúc anh ta lùi tới mé sông thì ngã nhào xuống đó và... mất hút!
Những người chứng kiến vội hô hoán lên rồi vài người nhảy theo mò, nhưng sau hơn một giờ tìm kiếm vẫn chẳng thấy xác của Sáu Lùn đâu.
Chính Năm Sự cũng lạnh sống lưng về chuyện này. Hắn ta nói riêng với Tám Lành:
- Tao nghĩ chuyện này có dính tới... ma quỷ gì đó phải không mày, Tám?
Tám Lành run giọng đáp:
- Chắc vậy quá.
Ba Tàng thì tỏ ra rành hơn:
- Hồi nãy tao để ý thấy lúc đầu cái xác chỉ còn lại một phần ba, nhưng bây giờ sau khi mọi người tới coi thì nó còn gần phân nửa mà lại là phần đầu, chớ không phải phần chân như lúc nãy!
Năm Sự cũng nhận ra điều đó:
- Đúng rồi.
Rồi cả bọn họ đều lẳng lặng rút lui khỏi nơi ấy. Một lúc sau, cũng chín Năm Sự hỏi bạn:
- Tụi bay còn giữ ý định qua thám thính nhà của thằng Bảy Thái không?
Hai tay kia đều tán thành:
- Sao lại không? Cũng tại mày tào lao dính vào vụ con heo cúng nên mình mới gặp rắc rối. Bây giờ mình lén qua sông đi.
Họ thực hiện ngay ý đồ, và hơn nửa giờ sau đã có mặt ở quán Thảo Mai. Vẫn ít khách như thường lệ, vẫn chỉ một mình anh chủ quán chứ không hề có ai phục vụ. Đã có chủ ý trước nên bọn Năm Sự đã hỏi ngay khi vừa ngồi xuống quán:
- Có gì nhậu không ông chủ? Mà sao chỉ một mình ông đứng bán, bà chủ đâu?
Bảy Thái chủ quán giờ đây đã già hơn nhiều so với ba năm trước, khi anh tới đây để sang lại quán này của ông già Hai, anh vẫn nụ cười hiền hòa, trả lời:
- Quán ế ẩm mà mướn người phụ việc làm gì cho tốn kém, còn bà chủ thì... có đâu mà chủ với tớ!
Thấy anh cũng biết nói đùa, nên bọn Năm Sự cũng dễ dò la:
- Không có bà xã sao anh về đây bao năm trời nay mà chịu nổi? Sao không kiếm bà nào về hủ hỉ cho vui lại đỡ đần công việc?
Thái không hứng thú trả lời chuyện này, nên anh quay trở vào trong. Hai Lành gọi giật lại:
- Chưa cho gọi thức uống mà ông chủ!
Thái quay lại hỏi:
- Quý anh dùng gì?
Ba Tàng lớn giọng:
- Cho một chai đế!
Thái lắc đầu:
- Quán tôi không bán rượu từ nào tới giờ, mong quý anh thông cảm uống thứ khác. Có cà phê mới đem từ chợ về, ngon lắm.
Hai Lành sừng sộ:
- Quán mà gọi cái gì cũng không có, vậy mở quán để làm gì?
Thái vẫn nhẹ giọng:
- Dạ, mở cho vui, bán vài thứ giải khát thôi còn rượu thì tuyệt đối không có.
Ba Tàng đứng dậy, hai tay chống nạnh, hất hàm hỏi:
- Chú mày biết bọn này là ai không mà dám nói giọng đó, hả?
Thái vẫn tỉnh bơ:
- Là ai thì cũng không có rượu. Bởi lẽ đơn giản là từ mấy năm nay tôi không hề có rượu trong nhà.
- Hỗn láo.
Hắn ta quát lên, vừa lao tới như muốn ăn thua đủ.
Chợt có tiếng của Năm Sự vang lên:
- Nóng nảy có ích gì đâu, đây cũng là chỗ quen biết mà. Mày phải thông cảm cho chú ấy, vợ chết còn đang buồn mà, làm sao nhìn thấy kẻ khác say sưa be bét trong nhà mình. Vả lại chú ấy còn để thì giờ để... rước bà nhỏ về nữa chớ!
Bị chạm chuyện riêng tư, Thái nghiêm giọng:
- Các anh tới uống nước thì tôi cám ơn, còn chuyện riêng tư thì xin các anh tôn trọng cho, đừng chạm tới.
Biết thế nào Ba Tàng cũng nổi điên, Năm Sự chặn lời ngay:
- Thôi, xin lỗi vậy. Bọn tôi không có ý đó, chẳng qua thấy ông chủ một mình cực khổ lại buôn bán ế ẩm, nên chỉ có ý là...
Hắn ta ngừng lại, có ý dò phản ứng của Thái trước khi tiếp lời:
- Hay là ông chủ sang lại quán này cho tụi tôi đi!
Đang mềm mỏng, bỗng Thái đổi ngay thái độ, gắt lên:
- Ai cho phép các anh vô cớ hỏi sang quán của người ta?
Hơi bất ngờ về thái độ của Thái, nhưng chỉ sau vài giây thì Năm Sự đã lên giọng:
- Hỏi sang quán thì có gì không phải. Bởi bọn này biết trước sau gì chú mày cũng phải bỏ của chạy lấy người thôi! Ở đây làm sao nổi khi một thân một mình mà tuổi đời thì còn quá trẻ.
Thái không còn chịu nổi trước thái độ khiếm nhã đó, anh thẳng thừng:
- Nếu không còn chuyện gì khác để nói nữa thì xin mời các anh đi cho!
Thái đi thẳng vào phòng trong, cứ ngỡ như vậy là bọn họ sẽ tự động bỏ đi. Nhưng anh đã lầm. Đã có ý đồ trước khi tới đây thì đời nào chúng chịu thua. Năm Sự ra dấu cho hai bạn hắn, cùng nhau rón rén theo chân Thái đi vào trong.
Không đề phòng nên Thái không phát hiện có người theo mình. Anh mở cửa phòng, rồi cứ để vậy không đóng lại bước tới bên giường, vừa đưa tay vặn ngọn đèn dầu đầu ở giường lên. Căn phòng sáng hẳn, đủ cho ba kẻ tò mò ngoài cửa nhìn vào và thấy một người đang nằm trên giường! Đó lại là một... phụ nữ!
Đầu tiên là Năm Sự, rồi Tám Lành và Ba Tàng, lần lượt cả ba tên đều quỵ xuống tại chỗ miệng như bị ai bóp cứng không kêu lên được tiếng nào. Rồi chẳng ai bảo ai, chúng cùng bò, lết, nhắm hướng ra ngoài mà thoát thân.
Gần 5 phút sau, cả bọn đã tới ngoài vườn. Lúc này Năm Sự mới có thể nói được, tuy giọng còn thất thần:
- Tụi bay có thấy... thấy gì không?
Ba Tàng đáp trong nỗi sợ hãi tột cùng:
- Xác... xác chết trên bè chuối!
Tám Lành thì vẫn chưa hoàn hồn:
- Ma... ma thật rồi!
Năm Sự bình tĩnh hơn:
- Xác chết thôi, chớ chưa chắc là ma. Nhưng tại sao mới lúc nãy nó ở trên kia sân đình mà bây giờ lại ở đây? Mà lại ở trong phòng của thằng này là sao?
- Hay là...
Ba Tàng vừa nghĩ ra điều gì đó, hắn định nói, nhưng Năm Sự đã cắt ngang:
- Theo tao thì tụi mình chạy nhanh cho rồi! Tao thấy vụ này có cái gì đó ghê ghê.
Bà Tàng nhún vai:
- Tao hiểu rồi, chính thằng cha già Hai có liên hệ với thằng chủ quán này! Có thể thằng cha già ấy nó bày ra vụ này chăng?
- Vụ gì?
- Thì cái xác con nhỏ kia!
Càng bàn thì lại càng rối thêm. Cuối cùng Năm Sự bảo:
- Tốt hơn hết là đừng dính tới vụ này nữa. Rút nhanh lên!
Hai tên kia vẫn còn chần chừ thì bỗng Ba Tàng cảm thấy lưng mình có vật gì đó lành lạnh luồn từ lưng quần đi lên, giống như con rắn chui vào áo hắn.
- Cứu... cứu tao?
Hắn chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi mắt gần như đứng tròng! Năm Sự và Tám Lành chẳng biết chuyện gì xảy ra, chúng hỏi:
- Mày sao vậy Ba Tàng?
Cũng vừa khi ấy vật làm cho Ba Tàng chết khiếp đó xuất hiện ngay từ ống quần của cả hai. Chúng nhận ra và chưa kịp kêu lên tiếng nào thì đã trợn trừng và... ngưng thở! Vật đang làm chúng khiếp sợ đó là... một cánh tay trần từ dưới đất nhô lên, như con rắn trườn.
***
Ông già Hai nhìn Thái với sự ái ngại:
- Tôi lo cho cậu. Vừa rồi nếu không có những chuyện kỳ lạ đó xảy ra thì e rằng bọn quỷ côn đồ ấy đã phát hiện ra chuyện riêng của cậu rồi.
Thái thắc mắc hỏi:
- Cháu vừa nhìn thấy họ đứng ở cửa phòng nhìn vào và thấy vợ cháu đang nằm, cháu lo quá chưa kịp phản ứng gì thì chẳng hiểu sao họ lại hoảng sợ bỏ chạy vậy chú Hai?
- Không phải tự nhiên đâu. Chính vì chúng nó thấy vợ cậu ở đây nên hoảng sợ đó. Bởi mới cách đó không lâu chúng đã nhìn thấy trên chiếc bè chuối.
Thái lại ngạc nhiên:
- Bè chuối gì nữa chú Hai?
Ông già Hai đem chuyện xác chết trên bè chuối kể cho Thái nghe. Anh càng rối thêm:
- Sao lại có chuyện đó chú Hai? Mà đó là xác của ai vậy?
Ông già Hai biết là Thái thật sự không rõ chuyện đã xảy ra, ông nói:
- Xác ấy là của cô Mai, vợ cậu!
Thái tròn mắt:
- Chú Hai nói gì cháu không hiểu?
- Ban đầu tôi cũng không hiểu. Nhưng sau khi chuyện xảy ra, tình cờ tôi nhìn thấy chính con bé Thu, con nuôi của cậu đã dìu cô Tuyết Mai lướt trên mặt sông!
Thái hoảng kinh:
- Con bé Thu! Nó... nó đã chết đuối cách đây trên một năm rồi, chú không nhớ sao?
Ông Hai gật đầu:
- Sao tôi lại quên, bởi chính tôi là người đã vớt nó và đem chôn ở sau vườn này. Nhưng rõ ràng tôi thấy nó.
Thái lẩm bẩm:
- Vậy là nó không bỏ đi như mình nghĩ.
- Nếu thật sự nó đi thì xác của cô Tuyết Mai đã rã từ lâu rồi, chứ đâu còn nguyên vẹn sau hơn ba năm lìa đời. Cậu không nhớ lời cô ấy dặn trong mảnh giấy để lại sau lưng con bé Thu ngày ấy sao?
Thái gật đầu, giọng buồn bã:
- Sao cháu lại không nhớ. Và đó là nỗi ray rứt của cháu cho đến bây giờ. Năm đó nếu cháu không mải lo ngày đêm ngồi bên xác người yêu cháu trong phòng, quên cả con bé, để cho nó bò ra bờ sông rồi chết đuối... Cháu tự trách mình, nhưng chỉ còn biết cầu nguyện vong linh Tuyết Mai tha thứ cho lỗi lầm đó của cháu.
Ông già Hai tỏ ra rành chuyện đến nỗi Thái phải ngạc nhiên:
- Nếu không có chuyện đó xảy ra thì những ngày cầu hồn của cậu không kéo dài quá ba năm như bây giờ đâu. Cậu không để ý những chi tiết về cái chết của bé Thu ngày đó sao, đâu phải tự nhiên mà con bé bò ra ngoài sông, nếu khi đó cô Tuyết Mai không dẫn đường cho nó đi. Cậu nhớ lần cậu hốt hoảng chạy đi tìm cô Mai lúc nửa đêm không?
Thái gật đầu:
- Khi cô ấy chết được gần một năm thì vào một đêm trời mưa, do quá buồn ngủ nên cháu đã ngủ quên bên cạnh giường nằm của cô ấy, lúc chợt giật mình thì không thấy Tuyết Mai đâu, cháu hoảng hốt chạy đi tìm thì gặp chú Hai từ dưới sông lên, trên tay ẵm bé Thu. Chú báo tin con bé bị chết đuối thì cháu không chú ý lắm, bởi cháu còn mải lo không biết Tuyết Mai đi đâu?
- Và thật ra cô ấy chẳng hề đi đâu phải không?
- Dạ đúng. Sau khi tìm một hồi, cháu trở vào phòng thì xác cô ấy vẫn còn nằm đó.
Ông Hai trầm ngâm một lúc rồi mới tiết lộ:
- Lúc ấy tôi cũng không biết chuyện gì đã xảy ra. Mãi sau này, khi vào nửa đêm bỗng tôi nghe tiếng cô Mai gọi cửa nhà, tôi ra mở cửa thì chẳng thấy cô ấy đâu, mà chỉ thấy con bé Thu nằm ngay ngạch cửa.
Thái ngơ ngác:
- Con bé đã chết và chính chú Hai chôn nó rồi mà?
- Điều đó thì đúng nhưng việc xác nó nằm ngay cửa nhà tôi lúc ấy cũng không sai! Bởi sau đó, chính cô Tuyết Mai báo mộng cho tôi hay, chính cô ấy đã cứu con bé, nhưng không dám đưa về nhà lần nữa vì giữa nó và cậu không hợp nhau, nếu để chung thì một là nó lại chết, hai là chính cậu sẽ chết! Nên cô ấy năn nỉ nhờ tôi giữ xác nó giùm, đợi đến khi nào cậu và cô Mai hết vận hạn sẽ tính. Tôi nghe chuyện và bắt đầu hiểu, chớ nói thật với cậu suốt thời gian dài trước đó tôi vẫn nghi hoặc chuyện của cậu, không tin một xác chết như cô Mai lại có thể không đem chôn nhiều năm mà vẫn không hề có chuyện gì xảy ra, vẫn ở bên cạnh cậu như một người nằm ngủ bình thường!
Lâu nay Thái giấu kín chuyện này, nhưng nay ông già Hai đã biết nhiều hơn anh nghĩ, nên Thái chỉ biết thở dài, rồi khẽ bảo ông:
- Chú Hai như cha cháu, nên việc này cháu không dám giấu nữa. Chú hãy đi theo cháu vào đây.
Thái đưa ông già Hai vào tận phòng riêng, anh chỉ xác của Tuyết Mai:
- Cô ấy vẫn nằm đó, thi thể vẫn còn ấm suốt hơn ba năm qua, bởi vậy cháu đâu dám đem chôn. Ngày đêm cháu chỉ biết cầu hồn cho cô ấy...
Ông Hai mỉm cười:
- Cô ấy còn giữ được như thế này là do những lời cầu hồn của cậu đó! Đúng ra là cô ấy đã chết thật vào cái đêm con bé Thu chết đuối, bởi bé Thu là oan hồn theo để chờ rước cô Tuyết Mai đi và lần đó là kỳ hạn cuối.
Thái chưa hiểu:
- Chú Hai nói vậy là sao? Chính Mai đã cứu bé Thu khi nó bị thả trôi trên bè chuối và dặn cháu nuôi dưỡng nó, vậy tại sao nó muốn bắt cô ấy đi.
- Tôi là người ngoài làm sao biết nhiều ơn cậu, nhưng qua chuyện tôi cứu con bé Thu từ bến sông lên, cô Tuyết Mai đã báo mộng cho tôi biết mọi chuyện. Sở dĩ cô ấy không báo cho cậu biết là bởi cô ấy phải tránh cho hồn ma bóng quế đang canh giữ ngày đêm quanh xác của cô. Chuyện nó như thế này...
Ông không dám nói, mà kéo Thái ra một góc nhà, nói thật khẽ chỉ đủ cho Thái nghe:
- Thật ra ngày đó, khi tôi vớt được cô Mai lên khỏi sông thì cô ấy chỉ còn là cái xác. Hồn phách đã lìa khỏi xác rồi, chỉ được cho sống lại trong thời gian ngắn để gặp gỡ cậu và sau đó đúng ra phải chết luôn lúc con bé trên bè chuối xuất hiện. Cậu biết không, con bé Thu chính là một hồn ma của một đứa trẻ bị chết oan cùng với mẹ nó ở khe sông này, mẹ nó thì tận số nên bị bắt đi luôn, riêng nó do bị chết oan nên vất vưởng theo dòng sông, hôm đó nó gặp cô Tuyết Mai nhảy sông tự tử nên nó bám lấy, tưởng đâu cô Mai là mẹ mình. Chính nhờ nó mà hồn phách cô Tuyết Mai không bị bắt đi hẳn, cậu nhớ chưa?
Thái nhớ lại, anh lẩm bẩm:
- Thảo nào cô ấy dặn cháu là phải giữ cho bằng được con bé, bởi nó mất thì cô ấy cũng mất!
Ông già Hai bảo:
- Suýt nữa thì cậu đã làm hại cả hai người. Bé Thu cũng đang chờ được hồi sinh như cô Mai vậy.
Thái Sốt ruột hỏi:
- Con bé bây giờ ở đâu, chú Hai?
Hồn phách nó thì tôi đang thờ ở nhà, còn xác nó thì vẫn ở nguyên chỗ tôi chôn lúc trước. Hồi nãy chính nó đã khiến cho lũ thằng Năm Sự một phen hết vía, để bọn ấy từ nay không còn dám léo hánh tới đây nữa.
Thái thật lòng hỏi ông già Hai:
- Giờ đây cháu phải làm gì nữa chú Hai? Nói thật với chú, nếu chỉ để được gần gũi với Tuyết Mai thì cháu có thể để cô ấy trong tình trạng này suốt đời cũng được. Cháu có thể sống với người vợ nằm ngủ yên như thế là đủ rồi. Nhưng còn bé Thu mà như lời chú vừa kể thì cháu chẳng biết phải làm sao.
Ông già Hai trấn an:
- Tôi biết rõ chuyện này nên hiểu rằng tấm lòng thành của cậu đã lay động được cõi âm hồn, cậu sẽ sớm được đền đáp. Mà lúc nào cô Tuyết Mai hồi sinh thì con bé Thu cũng được hưởng lây. Cậu cứ tiếp tục cầu đi, hồn phách của người cậu thương yêu không phụ cậu đâu.
Trước khi ra về, ông già Hai dặn lại:
- Bọn người xấu kia nhằm mục đích làm cho cậu nản lòng, bỏ đi, để chúng chiếm ngôi nhà này dùng làm chuyện phi pháp. Vậy cậu không được lung lay ý chí. Tôi hứa sẽ ngày đêm để mắt giúp cậu.
Thái cảm động xiết chặt tay ông ngầm cám ơn. Tiễn ông ra tận bờ sông, đến khi anh quay vào nhà thì không thể tin vào mắt mình nữa: Trước mặt anh, một cô gái đang đứng giữa nhà, nhoẻn miệng cười rất tươi hướng về anh!
- Tuyết Mai!
Đúng là một Tuyết Mai bằng xương bằng thịt đang đứng đó! Thái còn ngỡ ngàng chưa tin hẳn thì nàng đã bước tới ôm chầm lấy anh, thổn thức:
- Rồi mình cũng có ngày này mà.
Mai biết anh chàng vẫn còn hoang mang, nên kéo tay Thái vào tận phòng ngủ, chỉ lên giường:
- Anh nên đem đi mai táng. Đó là tất cả những gì còn lại của một Tuyết Mai vắn số. Nó là xác phàm của em do cha mẹ sinh thành, giờ thì trả em về cát bụi. Chỉ còn em ở đây, cũng là thân xác, nhưng lại do chính anh cầu nguyện mà thành. Em hồi sinh là do sự trì chí, lòng thành của anh thấu tận cõi hư vô, nên từ nay em hoàn toàn thuộc về anh!
Giọng nàng nói thật chân thành tha thiết. Âm điệu lời nói vẫn như xưa, tuy có điều bây giờ là một Tuyết Mai chững chạc, trưởng thành hơn.
Thái bước tới bên giường và giật mình khi nhìn thấy dưới lớp chăn đắp là một bộ xương khô! Tuyết Mai lặp lại để anh yên tâm:
- Như em vừa nói, ấy là thể xác của em phải trở về cát bụi. Anh hãy chôn ngay đi. Chôn bên cạnh mộ của bé Thu. Anh làm ngay đi, nếu không em có thể bị nhập trở lại đó!
Thái hốt hoảng làm theo lời. Anh một mình bế bộ xương khô ấy ra, đào một hố huyệt bên cạnh phần mộ không nấm đất của bé Thu mà ông già Hai đã chôn mấy năm trước.
Lạ lùng thay khi Thái vừa đặt bộ xương xuống, chưa kịp lấp đất thì tự nhiên đất chỗ đó liền lại và ở nấm mộ kế bên có một làn khói màu xanh bay lên, trong nháy mắt đã không còn thấy nữa.
Còn đang ngẩn ngơ thì từ trong nhà đã có tiếng trong trẻo của Tuyết Mai gọi vọng ra:
- Hôm nay em sẽ khao anh một bữa thịnh soạn. Anh vào sửa soạn đi, để còn đón chú Hai và bé Thu về nữa.
Tuyết Mai lau dọn nhà cửa thành thạo, quen thuộc như người từng sống trong nhà này từ lâu. Thấy Thái cứ nhìn mình lạ lẫm, nàng cười bảo:
- Có gì đâu mà anh phải ngạc nhiên, tuy em mới ngồi dậy được đây, nhưng hồn phách em đã ở trong ngôi nhà này từ ba năm nay. Em đâu còn lạ gì nữa.
Đến trưa đó thì ông già Hai lại sang. Ông dẫn theo một đứa bé gái cỡ ba bốn tuổi, nó vừa trông thấy Thái và Mai thì đã chạy ào tới, ôm chầm lấy và khóc nức nở:
- Tưởng là con không còn gặp lại mẹ cha nữa! Con là bé Thu đây.
Ông già Hai gật đầu:
- Nó vừa hồi sinh là bảo phải dẫn qua đây ngay!
Cuộc trùng phùng quá bất ngờ, nhưng không có sự ngỡ ngàng lâu, bởi trong đầu của ba người dường như thoáng hiện những kỷ niệm đã qua, dù là rất mơ hồ, nhưng họ hiểu đó là những gì mà họ từng có. Như một giấc chiêm bao, giờ biến thành sự thật.
Trước khi bữa tiệc gia đình bắt đầu với hai con gà luộc, Tuyết Mai nói với ông Hai:
- Cháu nhờ chú Hai lập giùm một cái miếu ngay cạnh hai ngôi mộ đất ngoài kia, chắc chú hiểu ý cháu?
Già Hai gật đầu:
- Cháu không nhờ thì chú cũng sẽ làm. Miếu tưởng niệm hai người được hồi sinh, chứ không phải thờ vong hồn như xưa nay người ta vẫn làm.
***
Người ngoài không hiểu chuyện, thấy tự dưng Thái có cô vợ trẻ đẹp và đứa con hơn ba tuổi, họ đồn nhau:
- Thằng cha chủ quán Thảo Mai coi vậy mà đào hoa. Vợ chết được mấy năm, nay lại vớ được một cô nàng thật là xinh xắn. Anh ta tốt số thật!
Có người thì bảo:
- Con riêng của vợ mà xem ra con bé kia lại quyến lyến, thương yêu cha vượng còn hơn con đẻ nữa, lạ thật!
Thái và vợ nghe những lời bàn tán ấy chẳng những không khó chịu mà còn xúc động, nhìn nhau cười.
Họ sống với nhau trong hạnh phúc dài lâu.. Đôi khi Thái tế nhị nhắc:
- Dẫu sao em cũng tìm cách về thăm lại cha mẹ chứ?
Lần nào Tuyết Mai cũng lắc đầu bảo:
- Em đã nói rồi, thân xác do cha mẹ sinh ra đã trả lại cát bụi rồi. Em bây giờ hoàn toàn là của hai đứa mình. Tuy nhiên, em vẫn cầu nguyện cho họ sống vui, sống khỏe. Đợi khi họ trăm tuổi già em sẽ là người thờ tự...


GIỌT MÁU CÒN LẠI


Mặc dù đã về hưu từ nhiều năm, nhưng quan tri phủ họ Hoàng, tục gọi Hoàng Nhân đại gia, vẫn được mọi người biết tiếng. Dù là tiếng ác, nhưng dẫu sao không một ai ở phủ Diên Sơn, vùng ven biển này lại không quen tên, thuộc nết ông ta. Họ Hoàng còn khá nổi tiếng ở khoảng dù giàu sang tột bậc, chức trọng quyền cao, cái gì cũng có, chỉ tiếc một đều là không có con! Đây là điều bất hạnh duy nhất mà vợ chồng ông ta mắc phải. Đến nỗi khi ngã bệnh nặng, dẫu thầy thuốc cấm đoán, nhưng suốt mấy tháng trời nằm trị bệnh, ông ta cũng bắt bà vợ trẻ hơn ông đến hơn chục tuổi phải ngày đêm ở bên cạnh. Một phần để hầu hạ, chăm sóc bệnh, nhưng mặt khác, quan trọng hơn là để giúp lão ta có con!
Với người khác thì chuyện có một vài đứa con nó dễ như ăn cơm, uống nước hằng ngày, vậy mà lão Hoàng lại cực khó, đúng hơn là nan giải vô cùng!
Biết chồng bệnh, nhưng vì thấy ông quá thiết tha, gần như là lời trối trăng mỗi khi yêu cầu bà cho lão một đứa con nối dõi. Hoàng phu nhân, tên tục là Nguyệt Ánh đã phải hứa để chồng yên tâm:
- Mình cứ ráng uống thuốc, nhất là thuốc bổ, em sẽ cố có kết quả kỳ này!
Và hình như trời không phụ lòng lão ta, một tuần trăng sau Hoàng phu nhân báo tin:
- Em đã... có dấu hiệu!
Đang rất yếu sức, vậy mà khi nghe tin ấy, lão Hoàng đã bật dậy ngay, hổn hển nói:
- Nếu đúng vậy... tôi... tôi tri ân bà. Tôi...
Lão chỉ nói được có vậy rồi ngã vật ra nằm thiêm thiếp. Đó là hậu quả của nhiều lần thức dậy nửa đêm (theo lời dặn của thầy thuốc) ráng sức lên đỉnh vu sơn đi tìm con!
Lão Hoàng qua đời chỉ sau đó một tuần. Bà Nguyệt Ánh thương khóc chồng thì ít mà lo cho cái thai mới tượng hình thì nhiều. Chẳng hiểu sao, kể từ khi bà cấn thai thì hầu như đêm nào cũng thấy ác mộng. Mà những cơn ác mộng đều giống nhau: bà thấy một đứa bé khôi ngô tuấn tú cứ đứng ngay trước mặt bà mà cười và đòi đánh!
Khi tỉnh dậy, bà thắp nhang khấn vái. Mỗi lần như vậy thì bà yên được vài giờ, rồi sau đó lại tiếp tục bị ác mộng hành hạ.
Chuyện tưởng chỉ có vậy. Nào ngờ khi cái thai được chín tháng mười ngày theo thông lệ thì bà Ánh chẳng có dấu hiệu gì của một cuộc chuyển dạ, chờ thêm chục ngày nữa vẫn chẳng có tín hiệu. Đi khám thai thì thầy thuốc sau khi xem mạch đã phán một câu gọn lỏn:
- Chưa có dấu hiệu sinh, ít nhất cũng một tháng nữa!
Bà Nguyệt Ánh cãi lại:
- Tôi tính ngày tháng rất kỹ, sao lại có chuyện trễ đến như vậy?
Vị lương y quả quyết:
- Đó là tôi nói sớm, chớ thật ra chẳng hề có một biểu hiện gì về sinh sản trong vòng một vài tháng tới cả!
Không tin ông thầy thuốc này, bà cho gia nhân đi rước những lương y nổi tiếng hơn về. Sau khi khám kỹ, họ cũng nói y như vậy:
- Chưa có dấu hiệu sinh!
Có đến mười thầy thuốc đã nói như vậy cho nên bà Ánh không còn nhờ ai nữa. Bà tự an ủi:
- Có lẽ do mình lớn tuổi rồi nên mang thai không như người bình thường. Thôi thì mặc, lúc nào sinh cũng được miễn không có biến chứng gì thì không cần lo.
Kết quả thật ngoài sức tưởng tượng: Bà Ánh mang thai đến tháng thứ mười bốn thì có triệu chứng thất thường.
Bà ta nghe đau bụng rồi kêu gào đau đớn. Cuộc chuyển dạ sinh kỳ lạ đã trải qua năm ngày ròng lăn lộn, kêu la mà bà ta vẫn chưa sinh được! Thật ra đó không phải là chuyển bụng sinh.
Một buổi chiều, trong lúc người nhà đi vắng thì có một vị đạo sĩ mặc đạo bào màu đen rất lạ, đột ngột ghé qua. Vừa bước vào tới cửa ông ta đã lên tiếng:
- Ở đây nghiệp chướng nặng quá, sao không giải nó đi?
Bà Ánh đang nằm kêu la trên ghế trường kỷ, nghe vậy ngẩng lên nhìn và khó chịu khi thấy người lạ. Tuy nhiên, lúc đó vị đạo sĩ lại lên tiếng:
- Nghiệp chướng nơi này nặng lắm, không khéo lại nguy đây!
Gợi tò mò, Nguyệt Ánh hỏi:
- Nghiệp chướng gì?
Ông ta chỉ thẳng vô bụng của bà Ánh, bảo:
- Ở đây!
Nghĩ lão ta điên, bà Ánh quát lớn:
- Ông ở đâu vào đây nói nhảm, đi đi!
Mặc cho bà ta đuổi, lão đạo sĩ vẫn trầm tĩnh nói tiếp:
- Tôi chẳng mắc mớ gì chuyện này, nhưng khi đi ngang qua đây phát hiện được, tôi chẳng thể làm ngơ. Bà sắp gặp tai nạn lớn, một là bà chết, hay là... đứa bé trong bụng phải chết!
Vừa nghe lão ta nói tới đó, bà Nguyệt Ánh đã thét lên:
- Nói bậy!
Rồi bà ta ôm lấy bụng của mình, như sợ bị xâm hại.
- Đây là đứa con mà chồng tôi lúc sắp chết cũng muốn có nó cho bằng được. Ông chẳng biết gì thì hãy đi ra đi!
Bà lớn tiếng, đáng lý phật ý, nhưng vị đạo sĩ vẫn không tỏ ra chút phiền lòng, ông tiếp tục nói:
- Mạng sống của bà tùy thuộc vào vật trong bụng mà bà đang mang.
- Ông im đi!
Bà Nguyệt Ánh cố đứng lên để đi vào trong, tránh phải nghe người khách lạ này nói nữa. Đứng nhìn theo bà, vị đạo sĩ khẽ lắc đầu:
- Nghiệp chướng khó trừ!
Nói xong, ông lặng lẽ bỏ đi. Khi ra tới ngoài rồi ông vẫn còn ray rứt nên quay vào nói, cố tình cho chủ nhà nghe:
- Vẫn còn chưa muộn! Nếu bà muốn sống thì chiều nay tìm tôi ở bến đò.
Ông ta đi rồi, lúc này trong nhà bà Ánh bỗng gào lên:
- Trời ơi!
Bà kêu được mấy tiếng đó rồi ngất đi.
Đến chiều, lúc vừa tỉnh lại thì bà nôn nóng đòi người nhà dẫn đi ra bến đò. Bà dặn:
- Phải tìm cho được lão đạo sĩ. Ông ta sẽ làm hại con tôi.
Lúc ra tới chỗ bến vắng, bà đã gặp ngay ông đạo sĩ mà không cần tìm. Vừa trông thấy bà, ông chỉ một chiếc xuồng nhỏ và bảo:
- Bà hãy xuống xuồng đi, nó sẽ giúp bà được toại nguyện. Vẫn còn kịp!
Bà Nguyệt Ánh nhìn thẳng vào ông ta, giọng giận dữ:
- Tôi tìm để hỏi tội ông, tại sao ông cứ muốn hại con tôi? Lúc hôn mê, tôi được nó báo là ông đang tìm cách giết nó. Vậy là sao?
Vị đạo sĩ nghiêm giọng:
- Chỉ bởi tôi muốn cứu bà. Bà đâu biết thứ bà mang trong người là mối họa lớn cho bà, cho cả sản nghiệp của bà nữa! Hãy làm theo lời tôi đi!
Ông nói dứt lời thì bất thần dùng tay đẩy nhẹ, khiến cho bà Ánh mất thăng bằng nhào ngay xuống chiếc xuồng đang không có người. Cũng may là dù ngã bất ngờ nhưng bà chẳng sao, kể cả cái thai trong bụng cũng không hề hấn gì.
Chiếc xuồng không ai bơi nhưng đã tự động rời bến, khiến bà Ánh phải la lên:
- Tôi không biết lội, không biết bơi xuồng, phải kéo tôi vào mau lên!
Vị đạo sĩ vẫn lờ đi, ông ngửa mặt lên trời, lẩm bẩm gì trong miệng mà người đứng gần cũng không nghe được.
Trời đang lặng gió, bỗng sóng nổi lên, rồi gió như lốc xoáy, khiến chiếc xuồng quay như chong chóng. Tiếng của bà Ánh lúc đầu còn la lớn, nhưng chỉ một lúc sau thì im bặt.
Khi gió ngừng thì chiếc xuồng đã tự động cập bến, Bà Ánh hầu như chẳng còn biết gì nữa. Lúc này ông đạo sĩ mới gọi lớn:
- Đưa bà ấy về, nhớ là không được để bà ấy một mình đi ra ngoài.
Dặn xong, ông vừa định bước đi thì bất ngờ ông nghe một tiếng khóc của trẻ con vang lên. Sững sờ giây lát, rồi ông nhẹ lắc đầu thở dài:
- Số kiếp cả thôi! Đành chịu.
Đứa hài nhi do bà Ánh sinh ra trong hoàn cảnh này đáng lý rất lo ngại, tuy nhiên nhìn nó chòi đạp và cất tiếng khóc thì có vẻ bình thường. Giây lát sau nó lại nín khóc và đưa tay quơ quơ như thèm sữa hay khát nước, ông đạo sĩ phải xua tay bảo mấy gia đinh của bà Ánh vừa có mặt kịp thời:
- Hãy mang bà ấy về. Mọi việc là do số trời cả!
Ông bước đi vừa lắc đầu chán nản...
***
Bà Nguyệt Ánh dù sinh nở bất thường, nhưng cuối cùng cũng có được một đứa con trai như bà hằng mong đợi. Thằng bé ra đời chậm hơn bình thường đến bốn tháng, nên sau khi sinh đã có những biểu hiện khác người. Nó biết đi khi vừa được sáu tháng tuổi và biết nói như một đứa trẻ lên năm khi mới tám tháng! Điều ấy là bất thường và kỳ lạ, nhưng vì quá thương con, quý trọng giọt máu duy nhất của chồng còn để lại, nên bà Ánh hầu như không quan tâm những gì khác, ngoài tình thương yêu dành cho con, ngày đêm nâng niu chăm sóc cho cậu quý tử của mình.
Khi thằng bé Bảo An đầy năm, bà Nguyệt Ánh chuẩn bị một lễ thôi nôi thật lớn, mời hầu như khắp mọi người trong vùng. Dẫu chồng không còn đương chức, nhất là ông đã chết, nhưng tiếng tăm của nhà họ Hoàng vẫn còn lớn, nên lời mời của bà vẫn được hưởng ứng tích cực.
Mới sáng sớm ngày lễ thôi nôi mà đã có mấy chục người từ những nơi rất xa kéo đến. Đến trưa, tức thời khắc chính thức khai tiệc thì hầu như cái khuôn viên rộng lớn của dinh thự Hoàng Nhân đã không còn một chỗ trống. Trong số khách dự có cả vị đạo sĩ áo đen lần trước. Ông lặng lẽ chen vào giữa đám đông như mọi người, rồi hầu như chẳng còn thấy bóng dáng nữa...
Một đứa bé ở tuổi thôi nôi thì thông thường đều do mẹ hoặc người nhà bế ra để chào khách dự tiệc, nhưng ở đây thì khác. Bởi cậu bé Bảo An đã lớn như một đứa bé lên năm tuổi nên chính nó tự đi ra và bất ngờ đứng lên bàn cất tiếng:
- Chào bà con! Bữa nay bà con xa gần đều có mặt, trong số này có người tốt cũng có kẻ xấu, nên tôi muốn nhìn mặt kẻ xấu trước. Vậy ai là kẻ xấu hãy bước ra!
Dĩ nhiên không ai chịu nhận mình là kẻ xấu, cho nên thằng bé kêu gọi tới lần thứ hai mà vẫn chưa một ai bước ra. Chẳng những thế, trong số khách mời có nhiều người tỏ ra bực bội, tự hỏi, tại sao lại để một đứa nhóc con như thế nói năng hỗn láo, phạm thượng!
- Tư cách gì mà thằng nhỏ này lại ăn nói như thế?
Người vừa lên tiếng chính là anh rể của lão Hoàng. Tuy ông nay đã khá lớn, nên khi giận phát âm có phần run và nghẹn. Ông ta vừa dứt lời thì thằng bé phá lên cười:
- Chờ hoài cuối cùng cũng chường mặt ra. Lão tính tới đây hôm nay là nhằm mục đích khác, chứ đâu chỉ đi dự đám thôi nôi, phải không?
Bị thằng nhóc nói đúng tim đen, nên lão già tên gọi là Sáu Hết quát luôn:
- Tao tới đây đòi món nợ mà ba mày còn nợ của tao ngày trước, mẹ con bay phải trả lại cho tao!
Lão vừa nói vừa bước ra, tới ngay trước mặt bà Nguyệt Ánh và thằng bé Bảo An đưa tay chỉ vào nó:
- Thím dạy con như vậy sao? Nó là con nít, sao đủ tư cách để hoạnh họe người lớn đáng tuổi cô bác nó? Kẻ xấu là sao mà người tốt là thế nào?
Bà Ánh chưa kịp đáp thì thằng bé đã hớt ngang:
- Tốt là không bòn rút nhà này, còn kẻ xấu là tìm cách chống lại nhà họ Hoàng và còn đi vu khống, nói xấu ba tôi nữa. Chính ông đã đi rêu rao là ba tôi ở ác, tham lam đủ điều, ông còn chối không?
Ông Sáu Hết giận đến run người:
- Thằng ranh con hỗn láo. Chính ba mày ngày còn làm quan đã lấy hết đất đai của tao đem bán, rồi còn vu cáo tao là phản tặc, khiến tao bị tù đày nhiều năm trời, gia đình ly tán, sản nghiệp tiêu tan, đây tay trắng lại mang bệnh sắp chết đây!
Chẳng những không nao núng, thằng bé còn ngửa mặt cười vang:
- Vui quá, lại có một thằng hề già ra làm trò! Còn ai là kẻ xấu nữa không, bước ra hết đi.
Noi gương lão Sáu Hết, có đến gần chục người nữa bước ra đứng dàn hàng ngang vừa lên lếng:
- Bữa nay chúng tôi tới đây là để đòi nợ, đòi sự công bằng. Nhà họ Hoàng phải trả ngay đất đai, tài sản cho chúng tôi!
- Còn ai nữa ra luôn!
Giọng thằng bé đầy thách thức, nó lại quay khắp hướng với nụ cười nửa miệng y như một người trưởng thành. Bỗng một người xuất hiện, người mà vừa trông thấy thì bà Ánh đang đứng cạnh con đã phải giật mình.
Đó là ông đạo sĩ mặc đạo bào đen. Bà lắp bắp:
- Ông... ông tới đây làm gì? Đâu có ai mời.
Lão vẫn bình tĩnh:
- Ở đây hôm nay chỉ có một số người được mời, còn lại là những người tới để đòi nợ như quý vị đây vừa nói. Tôi cũng đòi nợ như mọi người đây!
Thằng bé quen thói trịch thượng như nãy giờ, nó nhìn ông đạo sĩ vừa hất hàm:
- Ông bước lại gần đây coi!
Bà Nguyệt Ánh muốn ngăn con lại nhưng không còn kịp nữa, ông đạo sĩ đã bước tới và với giọng chậm rãi như thường lệ:
- Nghiệt súc quá ngông cuồng! Lần trước ta không cương quyết nên ngươi mới lọt ra đời được, còn bây giờ...
Lão đưa tay lên, từ trong tay áo rơi ra một tấm vải màu vàng, vừa chụp lấy lão vừa hô to:
- Nghiệt súc, biến!
Bị bất ngờ nên thằng bé chới với, đến khi thấy nguy nó chỉ còn biết thụp người xuống. Cũng may vừa khi ấy bà Nguyệt Ánh đã nhanh trí, lấy cả thân mình của bà đè lên con vừa bảo:
- Nằm yên!
Mọi người chỉ nghe một tiếng kêu thét lên sau đó và khi nhìn lại họ đều hốt hoảng, bởi bà Nguyệt Ánh đã nằm bất động, khóe miệng tuôn đầy máu! Trong khi thằng bé thì đã nhanh chân lủi trốn mất trong đám đông khách khứa.
Lão đạo sĩ một lần nữa thở dài:
- Trời hại nhà họ Hoàng này rồi!
Nhiều người chưa hiểu chuyện đã vây quanh ông, hỏi dồn:
- Chuyện gì đã xảy ra vậy? Liệu bà Hoàng có sao không?
Lão đạo sĩ sau khi đưa tay bắt mạch cho bà Ánh đã trấn an:
- Bà ấy không sao, chỉ bị nội thương nhẹ thôi, rồi sẽ tỉnh lại ngay mà.
Rồi lão giải thích thêm:
- Lúc nãy nếu bà ấy không che chở cho nó thì thằng con nghiệt súc kia đã phải tàn đời rồi. Tôi phải ra tay như vậy là chỉ để cứu cái nhà này khỏi họa diệt vong thôi. Nó là oan gia là kết tinh của bao nhiêu oan hồn uổng tử đầu thai về để hại dòng họ Hoàng này táng tận, tiêu vong!
Vài người trong thân tộc vốn không rõ chuyện ác của Hoàng đại nhân ngày trước, nên tỏ ra không đồng tình.
- Dù sao thằng bé cũng là giọt máu hiếm hoi còn lại của họ Hoàng, sao ông làm như vậy?
Lão đạo sĩ lắc đầu:
- Các vị không biết đó thôi, nó đâu phải là người! Không thấy sao, mới có một tuổi mà nói năng hành động như một người lớn và còn hỗn láo, trịch thượng nữa. Nếu để nó tồn tại thì cái nhà này không mấy chốc chẳng còn gì.
- Nhưng dẫu sao...
Vừa lúc đó bà Nguyệt Ánh tỉnh lại, bà quên cả đau đớn gào khóc, kêu gọi con trai:
- Bảo An ơi, chạy đi con! Hãy chạy và trốn đi, đừng để lão ta giết con!
Lão đạo sĩ nhẹ giọng:
- Tôi không giết nó, chỉ muốn thu nạp để tách nó ra khỏi đây. Nhưng tôi đành chịu thất bại, bởi ngoài có bà đỡ cho nó còn được lũ yêu tinh đồng bọn theo rất đông, lần này tôi không làm gì được thì lần sao khó mà thành công. Thôi, tùy bà, tôi xin cáo từ!
Ông đi nhanh ra cửa rồi mất dạng.
Bà Nguyệt Ánh hơi ngượng với mọi người, nên chống chế:
- Do nó là con cầu tự mà, nên tôi cưng chiều, khiến nó hỗn hào. Nhưng trẻ con mà, rồi mình sẽ uốn nắn nó từ từ...
Bà lủi thủi đi vào nhà, miệng cứ gào kêu tên con...
***
Bà Nguyệt Ánh không chết, nhưng từ hôm đó bà hầu như hôn mê. Bảo An bỏ đi đâu mất không thấy bóng.
Nhưng trong nhà lại xảy ra những chuyện khá ly kỳ: Bọn gia nhân báo rằng ở phòng ngủ của bà Ánh đêm nào cũng có bóng người ra vào!
Bà Ánh hôn mê có đến cả tuần sau. Rồi cuối cùng bà tỉnh lại trong trạng thái như người đau nặng lâu ngày. Người bà gầy rạc sụt cân đến không ngờ, trọng lượng mất đi gần phân nửa!
Người nhà kể chuyện về bóng người ra vào phòng bà mỗi đêm, bà Ánh nhẹ lắc đầu bảo:
- Đâu có ai ra vào. Tôi không ăn uống, cũng không dậy được thì làm sao tiếp xúc với ai.
Khi xem lại đồ đạc trong phòng, bà giật mình:
- Sao mất hết nhiều thứ?
Bà ráng dậy, lần tới chỗ tủ đựng nữ trang tiền bạc thì bàng hoàng:
- Trời ơi. Tiền bạc... nữ trang... không còn...
Bà chỉ nói được mấy tiếng rồi lại ngất. Tôi tớ trong nhà bị nghi là thủ phạm nên cùng tập trung lại, chờ bà hồi tỉnh họ cùng thề thốt:
- Tụi con ở với bà từ lâu nay, không hề dám tham lam gì, xin bà đừng nghi oan!
Bà Ánh dịu giọng hơn thường khi:
- Ta biết ai lấy rồi, các ngươi không phải lo.
Bà nói xong thì ôm mặt khóc nức nở. Đám gia nhân không hỏi, nhưng họ đều có chung nhận định như bà.
Vài người trong số họ nói với nhau:
- Thằng Bảo An chắc là ma quỷ, chứ người gì mà mới một tuổi đã lớn xác và khôn lanh như vậy? Chính nó đó chứ không ai, nó đã vào phòng bà chủ để lấy cắp tiền.
- Nhưng nó còn con nít thì lấy nhiều tiền để làm gì? Nếu có, chắc là cũng do ai đó xúi giục. Mà mấy hôm nay nó đi đâu không thấy về, hay là đã bị ông đạo sĩ bữa đó làm gì rồi?
Họ lo lắng cũng bằng thừa, bởi ngay chiều hôm đó Bảo An ra về. Nó khinh khỉnh với mọi người trong nhà, cũng chẳng lên phòng thăm mẹ, nó vào phòng riêng vốn là thư phòng của ông Hoàng ngày trước và đóng cửa lại. Khi họ đem chuyện báo lại cho bà Ánh nghe, chẳng những không rầy la, bà còn dặn mấy đứa phục vụ:
- Tụi bay phải canh xem cậu cần gì thì phục vụ cho cậu. Đừng nói gì chuyện mất đồ hết.
Vú em của Bảo An là Thị Hai nhận trách nhiệm chuyện đó. Chị lên phòng gõ cửa thì từ trong, Bảo An nạt lớn:
- Để tao yên!
Thị Hai lên tiếng:
- Tôi nè cậu Hai, nếu cậu cần gì thì cứ gọi, tôi nằm ngủ ở ngay ngoài này chờ phục vụ cậu!
Giọng của Bảo An dịu lại:
- Thị Hai hả, ừ được. Mày vào đây tao bảo.
Thị Hai đã là vú nuôi nó từ lúc mới lọt lòng, cả việc bú mớm chị cũng đích thân lo, bởi chị là gái một con, từng có sữa con so rất ngon, bởi đứa con mới sinh ra của chị đã phải bỏ do bạo bệnh.
Nghe giọng điệu không bình thường của Bảo An, chị có hơi lạ, nhưng không nghĩ gì khác, chị đẩy cửa bước vào phòng.
- Gài cửa lại...
- Dạ, cậu Hai.
Việc phải xưng dạ thưa với một thằng nhóc đã là kỳ, lại còn phải nghe nó kêu mình bằng mày này mày nọ nữa, Thị Hai bực lắm nhưng ráng chịu đựng bởi thân phận tôi đòi.
- Lại gần đây bóp chân cho tao coi, đi qua nay mỏi nhừ cả hai chân!
Thị Hai đẩy đưa:
- Bà kiếm cậu khắp nơi, bà khóc thương vì nhớ cậu đến phát bệnh nằm liệt giường mấy hôm nay.
Chợt nó hỏi:
- Bà ấy có hỏi gì tôi không?
- Dạ có, à mà không! Bà chỉ hỏi không biết cậu đi đâu.
- Vậy thôi sao? Còn chuyện tiền bạc...
Thị Hai ngạc nhiên:
- Cậu hỏi tiền bạc gì? Bộ cậu...
Bỗng nó phá lên cười:
- Hỏi chơi vậy chớ tôi biết bà ấy phát hiện ra vụ mất tiền, và bà ấy nghi cho tôi lấy! Mà haha... tôi lấy thì đã sao, bà ấy còn thiếu gì tiền ba tôi để lại nữa!
Thị Hai trố mắt:
- Cậu Hai lấy thật hả?
Thằng bé trợn mắt nhìn lại Thị Hai:
- Làm gì ngạc nhiên dữ vậy? Mày có muốn xài không tôi cho?
Thị Hai hốt hoảng:
- Cậu Hai đừng làm tôi sợ! Tôi không bao giờ dám...
Thằng bé bất thần vùng dậy, chụp lấy Thị Hai kéo về phía mình khiến chị ta không làm chủ được, phải ngã sấp lên người nó:
- Đừng làm vậy cậu Hai! Đừng...
Nhưng chị ta đã bị Bảo An chặn ngang miệng bằng sức mạnh đáng ngạc nhiên...
- Kêu lên là tao giết chết liền. Tao đâu phải là thằng bé con Bảo An đâu, cứ nhìn lại tao coi.
Lúc này Thị Hai không còn hồn vía nữa, nhưng cũng liếc nhanh về phía nó, rõ ràng người đang khống chế chị là một ai đó khác, chứ chẳng phải Bảo An!
Tuy nhiên, giọng vẫn là giọng của nó:
- Tao đi lang thang mấy ngày nay mà tới đâu người ta cũng từ chối không cho tao vào mặc dù đó là những kỹ viện, những lầu xanh. Họ nói tao còn con nít, cấm vào! Mà tao thì đang phát triển thành người lớn, tao muốn được cái mà người lớn có. Vậy thôi, mày chiều tao, lén lút giữa tao với mày thôi, mọi việc sẽ không ai hay... rồi tao cho tiền đời mày sẽ hết khổ, hết cơ cực. Nghe tao thì yên mà không nghe thì mày biết rồi, tao có thể giết chết bất cứ đứa nào mà tao muốn! Thế nào theo tao chứ? Hãy nói ừ đi trong khi tao còn năn nỉ...
Thị Hai chết điếng trong lòng, nói thuận thì quyết là không, mà chống cự lại thì chỉ có nước chết! Thằng tiểu quỷ này xưa nay muốn gì được nấy. Nay hình dáng nó hiện tại lại không phải là nó, mà với sức một đứa cường tráng như vậy làm sao chị chống lại được?
Đang còn lưỡng lự, bỗng có người gọi bên ngoài:
- Bà chủ kêu Hai ơi!
Chỉ chờ có thế, Thị Hai vùng ra định chạy đi, thì bất chợt thằng quỷ kéo mạnh lại, chị ta vô phương cựa quậy.
- Để tao!
Hắn nói vọng ra:
- Tao sai con Hai đi chợ rồi!
Có thể bên ngoài biết Thị Hai chưa đi đâu nhưng ai dám cãi lời. Họ lên báo cho bà chủ như vậy rồi nhìn nhau lắc đầu.
Bà Nguyệt Ánh thay vì rầy con, bà lại chỉ đăm chiêu một chút rồi im lặng. Từ đó, bà cũng chẳng nhắc tới số tiền bạc nữ trang bị mất.
Thằng con tiểu quỷ của bà thì đang làm một chuyện động trời ngay trong nhà mà hầu như bà không quan tâm, hay là có biết mà lờ đi...
Nửa đêm hôm đó, chính tên khốn kiếp ấy bước ra khỏi phòng rồi tỉnh như không, hô lớn:
- Con Hai chết rồi!
Khi mọi người chạy lên thì thấy Thị Hai nằm sóng sài dưới sàn, chết mà không kín thân thể! Lúc này, chính bà Ánh khi nhìn Bảo An trước mặt mình cũng phải kinh ngạc, bởi đó là một thanh niên lực lưỡng chứ không phải là đứa con bé bỏng của bà!
Trong khi mọi người hãi hùng thì Bảo An dửng dưng bước ra ngoài, buông lại một câu lạnh lùng:
- Đổi phòng khác cho tôi!
Bà Nguyệt Ánh cũng chiều theo:
- Đổi phòng cho cậu Hai.
Rồi bà cố bước theo con ra ngoài định nói gì đó nhưng Bảo An hình như biết mà vẫn tảng lờ, đi luôn. Người mẹ đau khổ chỉ biết nhìn theo rồi ôm mặt khóc.
***
Nhờ tiền bạc và cũng nhờ mối quan hệ cũ của ông Hoàng nên chuyện động trời về cái chết của cô hầu gái bị xếp hồ sơ, không truy cứu. Bà Ánh phải tốn khá bộn. Rõ ràng là bà muốn được yên thân và cũng muốn cho đứa con trai cầu tự của mình không bị tai tiếng.
Nhưng chừng như nghiệp chướng không giới hạn đó. Chỉ một tháng sau thì chuyện gì đến đã đến!
Một buổi sáng, khi bà Ánh còn đang nằm trong phòng riêng thì bên ngoài có tiếng người la hét vang. Lát sau mấy con hầu chạy vào báo tin dữ:
- Bà ơi, cậu Hai nguy rồi!
- Chuyện gì mà nguy?
- Người ta kéo tới đòi bắt cậu Hai vì tội... gian dâm với vợ và con người ta!
Bà Ánh vừa chạy ra đã nhìn thấy cả chục người đang ra sức xô đổ cổng rào. Cũng may, vừa khi ấy có mấy tay lính lệ của làng tới, họ chặn lại:
- Có chuyện gì thì ra nhà làng mà kiện cáo, sao lại phá nhà người ta?
Mấy người đang giận dữ đã gào lên:
- Làng xã các người bênh nhau, có thưa kiện cũng như không! Thằng tiểu yêu nhà này nó làm loạn xóm làng, gây tang tóc cho mọi người mà quân lính các người có ra tay không, hay là để yên cho nó làm tới?
Một lính lệ nói lớn:
- Sao không ra tay! Mới rồi làng đã bắt nó ra đóng gông ngoài sân làng rồi!
Anh ta quay sang bà Ánh:
- Thằng con nhà bà phạm tội tày trời, hãm hiếp giết cả nhà người ta, nên bị bắt sắp giải lên quan rồi!
- Trời ơi, con tôi!
Bà Ánh chỉ kêu được mấy tiếng rồi đứng như trời trồng. Lát sau, bà mới xua tay:
- Không. Không có chuyện đó! Con tôi còn nhỏ làm sao nó làm được chuyện tày đình ấy mà mấy người vu oan!
Khi mấy tên lính lệ dìu bà ra tận nhà làng thì rõ ràng trước mắt là Bảo An đang bị cùm tay chân. Vừa nhìn thấy mẹ, nó đã lồng lộn lên:
- Thả tao ra, không thì cả lũ bay phải chết hết!
Bà Ánh bất nhẫn khi nhìn con trong tình cảnh ấy, nhưng bà cũng đành phải chịu thôi. Ngay trưa hôm đó, người ta áp giải thằng tiểu quỷ lên quan huyện. Người này vốn là bạn đồng liêu với ông Hoàng ngày trước, cũng muốn nhẹ tay với Bảo An. Tuy nhiên, vừa gặp mặt ông thằng khốn kiếp đã chỉ thẳng vào ông hét lớn:
- Mày phải cứu tao ra, không thì tao sẽ giết hết cả nhà mày!
Trước thái độ quá đáng của nó, bà Ánh phải lên tiếng:
- Không được hỗn!
Bất ngờ, nó quay sang bà trợn mắt lên:
- Bà chết tới nơi mà còn chưa biết sao?
Huyện lệnh Đinh Liêm đập bàn quát lớn:
- Súc sinh!
Rồi ông ra lệnh cho lính lệ nọc hắn ra đánh hai chục hèo. Rất lạ là dù bị đánh tóe máu, nhưng hắn vẫn gào thét chửi bới chứ không kêu đau. Bà Ánh bất nhẫn quay mặt đi chỗ khác, hồi lâu khi quay lại thì người ta đã đưa Bảo An đi rồi. Hỏi thì bà được viên huyện lệnh đáp vắn tắt:
- Phải đưa ngay nó lên phủ, để người ta trị tội nó. Thằng bé này tuy tuổi còn trẻ con, nhưng hành động là người lớn nên không thể xem thườmg được.
***
Do Bảo An tuổi còn nhỏ nên không ghép tội hết được, mặc dù đó là trọng tội, phải chết. Khi đưa lên phủ, họ truyền giam vào nhà lao chờ lệnh. Huyện quan Đinh Liêm muốn làm tiền nhà họ Hoàng, nên cho người tâm phúc tìm tới nhà gặp bà Nguyệt Ánh. Nhưng khi họ tới nơi thì hay tin bà Ánh đã về thành phố để khiếu nại.
Tưởng bà ta cố ý lánh mặt, nên huyện quan ra lệnh hành quyết ngay, dù đó là một lệnh trái luật. Tuy nhiên, khi lính vào nhà lao để dẫn phạm nhân ra thì chỉ còn thấy cái xác của một đứa bé nằm đó, nhưng không phải là xác của Bảo An!
Chuyện báo lên quan huyện, lão Đinh Liêm hốt hoảng đến tận nơi xem thực hư. Và lão ta chết điếng khi nhìn thấy cái xác. Đó là đứa con trai lên ba của ông ta...
- Trời ơi!
Lão kêu lên và ngất tại chỗ.
Trong khi đó thì ở bến đò nơi bà Nguyệt Ánh trên đường đi khiếu kiện, đã bất ngờ gặp lại vị đạo sĩ. Bà hơi khó chịu nhưng không cách nào hơn là phải chào hỏi lấy lệ, rồi định xuống đò thì ông đạo sĩ đã lên tiếng:
- Bà đi làm gì cho mất công. Nó tới đây bây giờ.
Bà Ánh nhìn lại phía sau thì thấy một xe ngựa chạy nhanh tới và thả xuống một người.
- Con!
Bảo An không đáp, chạy nhanh xuống đò và đuổi hết những người cùng đi:
- Lên hết, để tôi đi!
Mấy người kia biết nó nên vừa thấy đã muốn tránh xa. Còn lại trên đò chỉ có hai mẹ con. Nhưng thằng khốn ấy không hề nhìn mẹ nó, lại tự tay chèo con đò ra giữa dòng.
Lão đạo sĩ kêu lớn:
- Bà hãy nhảy xuống sông lội vào bờ đi, nếu không muốn chết chung với thằng đó!
Bà Nguyệt Ánh đời nào chịu nghe, bà còn bước lại gần con hơn, cất giọng trìu mến:
- Làm sao con thoát ra được vậy? Mẹ lo cho con quá.
Bất ngờ tên khốn kiếp dùng tay gạt ngang, khiến cho bà Ánh lảo đảo và ngã xuống sông. Đã không ra tay cứu mẹ, mà hắn còn ngửa mặt lên trời cười như điên như dại! Nhanh như chớp, lão đạo sĩ phóng xuống và nhanh tay chụp được bà Ánh kéo lên.
Vừa lúc ấy, con đò mà Bảo An đang chèo chống bỗng chao đảo rồi quay tít như chong chóng. Tiếng la hét vang lên:
- Cứu tôi! Cứu!
Nhưng chẳng một ai nhảy xuống cứu. Khi con đò ngừng lại thì người ta chẳng còn thấy bóng dáng Bảo An đâu. Mặt nước chỗ gần con đò ấy có máu trào lên. Rồi mọi thứ trở lại bình yên...
Ông đạo sĩ thở dài:
- Đành thôi, chẳng còn cách nào hơn.
Bà Nguyệt Ánh chợt hiểu, bàng hoàng định kêu lên, nhưng vội ngừng lại ngay. Trong đầu bà sáng ra và hiểu rằng mình không nên làm gì.
Giọng lão đạo sĩ vẫn đều đều:
- Đáng lý nó đã chết trong ngục rồi, nhưng bọn bảo hộ cho nó là lũ oan hồn cứ cố tình giải thoát cho nó, còn giết hại thêm một mạng người nữa, để cho nó ra đây gặp bà, trừ nốt người mà nó cho là cản trở việc tiêu diệt nhà họ Hoàng. Cũng may tôi đã hay được. Giờ đây thì mọi việc qua rồi, đứa con nghiệp chướng đó đã vĩnh viễn không trở lại nữa. Nó chính là một giọt máu gần ngày sinh của một người đàn bà bị chồng bà giết hại khi chị ta cự tuyệt sự cưỡng bức của ông Hoàng. Nó đầu thai vào là để báo oán đó.
Bà Ánh không còn cố tình bênh vực cho con nữa, bà lẳng lặng nghe rồi ôm mặt khóc. Lão đạo sĩ phải an ủi:
- Bà may mắn thoát nạn rồi. Tuy rằng sau này bà sẽ chẳng còn gì cả. Nhưng ở đời đâu chỉ giàu sang mới sống được. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đó...
Ông nói xong lại bỏ đi.
Bà Nguyệt Ánh thẫn thờ một lúc rồi cũng trở về nhà.
Ngày hôm sau...
Toàn bộ gia sản của dòng họ Hoàng đều bị tịch biên bởi quan huyện Đinh Liêm. Chẳng biết có phải đó là từ trên hay không, chỉ biết là sau khi thực hiện được việc ấy thì ông ta vui lắm. Hình như đó là một việc trả thù riêng tư!
Bà Nguyệt Ánh trắng tay, khăn gói trở về quê cũ. Đáng lý thất vọng lắm, nhưng tự dưng lòng bà cảm thấy thanh thản không còn vướng bận bất cứ chuyện gì nữa...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #62  
Old 11-07-2012, 04:39 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 30

HỒN TIỂU QUYÊN


Chuyện ông bá hộ Tung hơn bảy mươi tuổi mà còn đòi lấy vợ trẻ chẳng những làm cho cả nhà sững sờ, mà ngay như người làng cũng ngơ ngác bảo nhau:
- Ông ta có hồi xuân không mà đòi lấy gái mười tám?
Có người lại nói:
- Mà có đứa ưng thuận mới là chuyện lạ! Chắc là ham tiền, chứ con gái mà đi lấy một ông già như thế?
Nói gì thì nói, việc đã thành sự thật. Hôm đó trong buổi họp mặt gia tộc, bá hộ Tung đã long trọng tuyên bố:
- Nhà này từ nay sẽ có chủ mới. Con gái của chủ nhà máy xay lúa Đồng Xanh ở cồn Cái Thia đã nhận lời và làm... má mấy đứa trong nhà này.
Người đầu tiên lên tiếng phản đối là con gái út của ông, cô Út Liên:
- Nghe nói con đó mới mười tám tuổi, như vậy còn nhỏ hơn tuổi con, sao làm... mẹ tụi này được.
Bá hộ Tung trợn mắt:
- Mày kêu ai bằng con này con nọ, con kia?
Út Liên không vừa:
- Ba mà cưới nó về thì đừng trách tụi con bỏ nhà đi hết cho ba ở với nó!
Người em gái thứ sáu của ông cũng ca:
- Bộ hết chỗ lấy sao anh lấy con này về làm vợ? Mà nghe đâu bên cánh đó cũng đâu có ưng, chỉ bởi anh ép họ...
Bá hộ Tung đập bàn quát tháo vang cả nhà:
- Đừng có bàn ra. Tao cưới vợ là cưới cho tao, chứ có cưới cho mấy người đâu. Nhà cửa này là của tao, sản nghiệp này cũng do tao tạo dựng, như vậy tao là chủ, tao có quyền quyết định chuyện riêng của tao!
Thấy ông anh của mình nói đến nước đó, nên cô Sáu quay sang nói với mấy đứa cháu:
- Ba bay đã nói như vậy rồi thì tốt hơn hết là tụi con qua nhà cô mà ở. Để nhà này cho ông ấy sống với vợ "nhí" đi!
Cả ba đứa con gái đều đồng tình. Trước khi đi chúng còn nói như trối:
- Chỉ khi nào ba chết tụi con mới về để tang, chứ không bao giờ tụi con đặt chân về nhà này!
Không ngờ con cái phản ứng dữ quá lão bá hộ đành xuống nước:
- Tụi con thương ba tuổi đã già, sống cô đơn buồn quá chắc là ba mau chết!
Em gái ông nói:
- Nếu vậy tôi làm mai cho anh con Tư Gấm năm nay nhỏ hơn tôi ba bốn tuổi. Nó là người đàng hoàng, từ nào đến giờ chưa lấy chồng, lại con nhà gia giáo nữa.
Ông bá hộ rùn vai, lè lưỡi:
- Cô cho tôi lạy, con vợ già mới chết, bây giờ cô lại bảo tôi đi kiếm một con... chằn cái khác về hả? Còn lâu!
Cô Sáu Nết nhún vai, lắc đầu:
- Anh hết thuốc chữa rồi!
Mấy cô cháu dắt tay nhau ra khỏi nhà. Lão bá hộ nhìn theo dửng dưng. Tuy nhiên, khi họ đi hết rồi thì ông chợt cảm thấy trống vắng. Kể từ ngày vợ chết cách ba năm trước, bề ngoài thì lão có vẻ là người chung tình, nhưng thật ra lão là người trăng hoa khó ai bì! Cho đến khi một sự tình cờ, lão được người mách cho cô gái tân tên là Tiểu Quyên. Đúng hơn là có người mai mối.
Một bà mai có cỡ. Chính bà ta tìm tới gặp riêng lão và tiếc lộ:
- Ông bá hộ bộ tính chết già trong cô độc hay sao vậy?
Bá hộ Tung ngao ngán lắc đầu:
- Nghe tới vợ con là phát ngán rồi! Sống một mình thấy khỏe hơn.
- Nhưng vợ là vợ già chứ còn... nàng hầu, đào "nhí" thì phải khác chứ!
Và ngay lập tức, mụ ta mách:
- Bá hộ biết chủ nhà máy xay lúa Đồng Xanh ở bên cồn Cái Thia không?
- Biết. Nhà máy xay lúa thuộc loại lớn nhất vùng này?
Mụ ta cười phá lên:
- Ai hỏi về sự lớn nhỏ của nó làm gì. Bởi có lớn, có giàu gì thì cũng chỉ bằng cái móng tay của ông mà thôi. Tôi hỏi là hỏi đứa con gái hoa nhường nguyệt thẹn của nhà đó kìa!
Bá hộ Tung ngạc nhiên:
- Thì cũng mắc mớ gì tôi? Hình như là nhà đó có đứa con gái năm rồi tính đưa đi dự thi sắc đẹp ở Tây đô thì phải.
Mụ mai vỗ tay:
- Đó đó. Cái đáng nói là ở đó đó!
Rồi mụ ta kề tai nói nhỏ:
- Ông có muốn có con nhỏ đó để hết cô đơn không?
Đúng là đưa mỡ đúng vào miệng mèo! Lão bá hộ có sụm chân đi nữa mà nghe giới thiệu món ngon như thế cũng phải ứa nước dãi:
- Nó chịu tôi sao?
Mụ ta nheo mắt:
- Chịu ngang xương thì đời nào nó chịu. Nhưng... phải có những cái khác thường thì mới gọi là bá hộ Tung chớ!
Vẫn thầm phục cái tài xúi người này, giục người kia của mụ ta, nên ông bá hộ hỏi khẽ:
- Có cách nào?
Lúc này mụ mới nói thẳng ra:
- Số là thằng cha chủ nhà máy xay lúa đó vừa bị vỡ nợ, thiếu nhà băng số tiền khá lớn, sắp bị xiết nợ mất cái nhà máy xay. Cho nên nó mới... bán đứa con gái mà trả nợ.
- Bán con gái? Có phải cái cô đi thi sắc đẹp không?
Mụ mai lại vỗ đùi:
- Còn ai vào đó nữa! Và chỉ có ông thôi...
Trong lúc bá hộ Tung còn chưa rõ thì mụ ta đã giải thích rành rọt như người trọng cuộc:
- Chỉ cần ngài bỏ ra nửa vạn bạc là xong. Đó là số tiền cha cô nàng thiếu nợ nhà băng!
Nghe tới số tiền quá lớn, lão bá hộ phát hoảng:
- Số tiền trị giá ba bốn trăm lượng vàng đâu phải chuyện chơi!
Mụ mai hạ thấp giọng ra vẻ quan trọng:
- Bởi vậy tôi mới nói chỉ có mình ông là tính được! Nhiều thì có nhiều, nhưng để có được người đẹp như tiên giáng trần đó thì... cũng đâu có quá mắc.
Lão bá hộ đã bắt đầu nao núng:
- Sao bà biết họ chịu đổi con?
Mụ mai đánh đòn quyết định:
- Được hay không là do tài của con Tư Thắm này mà, ông bá hộ!
Rồi mụ ta nói chi tiết hơn:
- Vừa rồi chính thằng chủ nhà máy chạy qua cậy nhờ tôi nói giùm ông bá hộ. Nếu ông đồng ý giải nguy cho ông ta bằng cách trả cho nhà băng số tiền nợ đó, thì đổi lại ông ta sẽ cho con gái về làm thứ thiếp cho ông. Nói thứ thiếp cho có vẻ, chứ đó là làm bà bá hộ nhí cho ông đó!
Mắt lão bá hộ sáng lên nhưng vẫn còn e dè:
- Biết cô ấy có thuận không?
- Miễn là ông chịu thì giá nào cũng xong!
- Nhưng mà...
Lão ta nhẩm tính và im lặng hồi lâu. Cuối cùng đã gật đầu. Thế là mụ mai Tư Thắm phấn khởi nói:
- Ông chờ đó, chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ là xong.
Mụ ta nói đúng. Bởi qua chiều hôm sau thì có tin tốt:
- Ông chuẩn bị tiền đi, xong rồi!
Một cuộc gặp mặt giữa bá hộ Tung và chủ nhà máy xay Mười Lực, với lời giao ước:
- Giải nợ nhà băng xong thì lập tức tổ chức đám cưới!
Bá hộ Tung muốn chắc ăn hơn, đã ra điều kiện:
- Phải cho tôi gặp mặt cô Tiểu Quyên trước, chỉ cần một lời hứa của cô ấy thôi thì bao nhiêu tôi cũng chi!
Dĩ nhiên Tiểu Quyên không chịu! Cô khóc òa lên khi nghe cha nói thẳng ra ý định và cương quyết nói:
- Nếu cha bắt ép con lấy lão ấy thì con sẽ cắn lưỡi chết ngay lập tức!
Biết con mình nói là làm, nên Mười Lực phải cầu viện tới bà mụ Tư Thắm, mụ này bày mưu:
- Tôi đã lường trước rồi. Phải như thế này thì mới xong...
Mụ ta bày trò như thế nào đó mà ngay ngày hôm sau, Mười Lực đã ngã bệnh nặng, đồng thời có một lũ đầu trâu mặt ngựa kéo tới đòi đốt nhà máy xay, nếu không trả nợ kịp thời.
Lúc đầu Tiểu Quyên không quan tâm chuyện gì đang xảy ra. Tuy nhiên, khi gia nhân báo tin cha bệnh nặng, rồi nhà máy bị hăm đốt, côn đồ kéo tới đông như kiến thì cô gái đáng thương phải rung động. Cô chạy đi tìm cha thì thấy ông nằm thoi thóp trong phòng, ông ra dấu cho con tới bên cạnh rồi nói như trối trăng:
- Nếu cùng lắm thì con hãy châm lửa trước, đốt nhà này, đốt luôn cả nhà máy, không để cho chúng nó chiếm lấy. Còn phần con thì hãy đi về quê nội tạm lánh thân, sau sẽ tính...
Ông nói trong hơi thở dồn dập khiến cho Tiểu Quyên hoảng sợ:
- Cha! Vậy cha hãy đi đi, con sẽ cho người mang cha ra khỏi nhà, phần con thì...
Cô muốn nói là sẽ ở lại tử thủ, dẫu cho có tự thiêu trong biển lửa cũng cam đành nhưng lời cô chưa dứt thì ông Mười Lực đã quát lớn:
- Hãy mau đi đi, tụi nó kéo tới đây bây giờ!
Vừa nói ông vừa tung mền ngồi dậy và lao thẳng vào tường như hành động tự sát!
Tiểu Quyên lao theo cha, gào lên:
- Đừng cha ơi! Con, con.. nghe theo cha. Con...
Rồi nàng ta ngất đi. Mọi việc trở lại bình thường ngay sau đó. Kể cả bọn đầu gấu hung hăng cũng tự động rút đi...
Thì ra đó là màn dàn cảnh của mụ Tư Thắm. Mười Lực cũng là con rối của mụ. Vậy mà kết quả lại vô cùng mỹ mãn.
Khi Tiểu Quyên tỉnh lại, chính cô đã nói với cha:
- Cha hãy gọi lão bá hộ tới đây. Con muốn nói chuyện với lão ta trước khi cử hành hôn lễ!
Không biết Tiểu Quyên đã nói gì, mà sau đó bá hộ Tung đã xuất ngay số tiền lớn để giải nợ nhà băng cho cha cô. Mọi việc xong xuôi rồi, cô mới bảo mọi người:
- Hãy chuẩn bị đám cưới!
***
Nguyên cái đám cưới giữa một ông bá hộ 75 tuổi với một cô hoa khôi 18 tuổi đã là một tin hấp dẫn, còn cộng thêm tin đồn là sẽ có biến cố ngay trong ngày cưới bởi một chàng trai, người yêu của cô dâu, sẽ xuất hiện phá đám cưới, nên trên quãng đường vài cây số, đã có hàng ngàn người đứng chật hai bên đường để chờ xe hoa đi qua.
Nhưng họ phải thất vọng, bởi xe đưa dâu được đưa từ Sài Gòn về, là loại xe mui kiếng bít bùng, cô dâu ngồi trong xe thì như tọa trong thành trì kiên cố, người ngoài nhìn vào không thấy. Và có lẽ đoán trước tình hình bất ổn, nên lão bá hộ đã mướn trên hai chục võ sĩ của các lò võ Thiếu lâm từ Chợ Lớn về hộ tống hai bên đoàn xe hoa. Bởi vậy đoàn xe đưa dâu đi qua yên lành chẳng hề có chuyện gì xảy ra.
Trên chiếc xe rước dâu, lão bá hộ diện nguyên bộ âu phục màu mỡ gà nên trông trẻ ra... vài tuổi. Ngồi bên cạnh là cô dâu, đầu trùm kín trong một vuông lụa màu đỏ giống như phong tục của người xưa.
Suốt quãng đường đi, cô dâu chú rể không hề nói với nhau lời nào. Khi đến nơi, trước khi bước xuống xe cô dâu mới lên tiếng, đủ cho bá hộ Tung nghe:
- Ông đã hứa với tôi rồi, phải ba tháng sau ngày cưới ông mới được phép bước vào phòng tôi. Có nghĩa là phải qua ba tháng tôi mới chính thức trở thành vợ ông! Vậy lát nữa đây, tôi sẽ vào luôn phòng riêng, không xuất hiện chào hai họ và cũng không dự tiệc cưới. Ông cứ nói là tôi bị bệnh bất ngờ cần nghỉ ngơi. Nhớ đó!
Nhìn thấy mọi người chờ đợi ở sân nhà quá đông, hình như họ muốn nhìn mặt cô dâu, khiến bá hộ Tung bối rối:
- Người ta đón đông quá như vậy làm sao? Hay là em cứ lên tiếng phía bên trong cái mạng che cũng được, cho họ một tiếng?
Nàng đáp cụt ngủn:
- Không!
Cũng may, vừa khi ấy thì có bà mai Tư Thắm xuất hiện. Bà ta rất nhanh trí, đã cho hai người đi kè bên cô dâu, vừa đi vừa hô lên:
- Cô dâu bị mệt, mau đi vào phòng trong nghỉ ngơi!
Nhờ vậy mà thoát được cảnh bẽ mặt trước đám đông. Và cũng nhờ vậy mà sau đó có cớ nói với bà con hai họ:
- Cô dâu bị bệnh bất ngờ, bây giờ phải nằm trong phòng chờ hồi phục sức khỏe!
Đích thân mụ Tư Thắm phải trổ tài miệng lưỡi thì mới qua được chuyện cô dâu làm thủ tục lạy gia tiên và chào hai họ. Thiên hạ bàn tán xôn xao nhưng cuối cùng cũng có người nói:
- Mấy đứa dâu trẻ nó làm bộ làm tịch như vậy đó, phải chịu thôi!
Lão bá hộ tức lắm, nhưng vì đã trót hứa rồi, nên cũng đành ráng chịu đựng. Lão ta dặn mấy tên gia đinh:
- Tụi bay canh kỹ bên ngoài, đừng để ai làm phiền giấc nghỉ ngơi của... bà!
Đám gia nhân đưa mắt nhìn nhau cười lén. Lão bá hộ biết thế nhưng có lẽ lúc này trong đầu lão chỉ nôn nao có một chuyện là làm thế nào được sớm gần người đẹp, cho nên lão không bắt lỗi bọn kia. Lão cũng quên cả việc uống rượu mừng mà khách khứa, bạn bè đang chờ ngoài nhà khách.
Đến khuya hôm đó, đích thân lão bưng cơm vào gõ cửa người đẹp:
- Mình ơi, dậy ăn chút rồi ngủ!
Tiếng xưng mình của lão khiến những gia nhân đứng chung quanh không thể nhịn được cười. Và hậu quả là lão ta nổi điên lên, đuổi cổ mấy tên đi khỏi chỗ đó. Còn lại một mình, lão ra sức kêu nhiều lần nữa mà bên trong vẫn không có tiếng đáp, cũng chẳng có động tĩnh gì, như là không có người trong đó!
Quá lo sợ, lão đập mạnh cửa! Vẫn im phăng phắc. Lão nói to, cố ý để cho bên trong nghe:
- Tụi bay lấy búa để tao phá cửa coi nàng có việc gì trong đó không!
Quả nhiên có tác dụng. Cửa nhẹ hé mở và một giọng nói yếu ớt phát ra:
- Có gì đưa vào đây.
Lão bá hộ mừng quá vừa đưa mâm cơm vào vừa nói:
- Mình có mệt không để ta đấm bóp cho!
Lão nhận ngay một tiếng xì dài rồi cửa phòng đóng sầm lại ngay! Vẫn không thất vọng lão nói với vào:
- Tôi ở ngoài này, có gì thì gọi!
Và đêm đó, lão bắc ghế dựa nằm ngay ngoài cửa phòng, mặc dù đã mệt nhừ sau một ngày tất bật. Do đám con cái đã tẩy chay bỏ nhà đi, nên sau khi khách khứa ra về hết, cả đám gia nhân cũng bị lão cho tạm về nhà mấy bữa. Chỉ còn lại trơ trọi một mình trong nhà, lúc ấy lão mới thấm thía nỗi cô đơn.
Đêm đầu tiên, lão biết thế nào là cảnh chú rể nằm chèo queo ngay trong đêm tân hôn!
Và qua đêm thứ hai...
Suốt ngày qua, dù lão nói cách gì người đẹp cũng không ra ngoài. Mâm cơm lão đưa vào hôm qua được đưa ra y nguyên, nàng không đụng đến miếng nào!
Lão bá hộ thật sự lo:
- Mình làm gì cũng phải ăn uống, chứ nhịn như thế này làm sao chịu nổi?
Nàng vẫn im lặng. Trưa hôm đó, lại một mâm cơm nữa được đưa vào rồi đẩy ra mà không hề đụng tới chút nào.
Qua ngày thứ ba...
Lúc này lão bá hộ phải xuống nước:
- Nàng muốn gì cũng được, kể cả việc ta để nhà này cho nàng ở một mình ta đi chỗ khác. Chỉ yêu cầu nàng ăn uống để mà sống!
Nàng vẫn im lặng. Lão không còn nhẫn nại được nữa, phải dùng sức tung cửa ra. Phải tung đến lần thứ ba thì cánh cửa mới bật mở, và... lão há hốc mồm kinh hãi! Bởi đang nằm trên giường không phải là Tiểu Quyên, mà lại là... Út Tiên, con gái của lão!
- Trời ơi, sao vậy nè?
Lão hô lên, nhưng do đám gia nhân tạm nghỉ việc hết, nên cuối cùng lão phải đích thân bế xốc con gái mình dậy trong tình trạng hầu như chỉ còn thở rất yếu.
Nửa giờ sau, nhờ sự tận tình cứu chữa của mấy người hàng xóm, Út Liên mới tỉnh lại. Cô nàng ngơ ngác khi nghe cha mình hỏi:
- Sao con lại ở trong phòng đó, còn... nàng đâu?
Liên chỉ biết cô đang ngủ nhà bà cô, không hề hay biết tại sao lại ở đây?
Còn lão bá hộ thì gần như điên tiết lên khi hỏi mà chẳng ai biết Tiểu Quyên ở đâu. Lão gầm lên:
- Nó trốn về nhà rồi!
Mặc dù lão biết trong căn phòng đó không làm cách nào nàng ta trốn đi đâu được, bởi không có cửa sổ cũng không có bất cứ lối đi nào khác, ngoài cửa phòng ra vào duy nhất. Lão nhất quyết chạy trở qua nhà cha mẹ Tiểu Quyên để tìm.
Nhưng vừa bước ra tới sân thì lão thấy một thanh niên lạ bước vào. Anh ta hất hàm hỏi trịch thượng:
- Tiểu Quyên đâu?
Đang căng thẳng vì lo, lão bực dọc quát:
- Mày là ai?
Chàng trai vẫn bình tĩnh bước thẳng vào nhà mà không đếm xỉa tới lão.
- Nè, thằng kia...
Lão vừa nói thì bỗng cảm giác như bị ai đó tát mạnh vào má mình hai cái liền! Lão ngơ ngác:
- Ai... ai vậy?
Quay một vòng không thấy ai, lúc đó thì chàng trai đã bước hẳn vào phòng khác. Lão phải chạy theo vừa lặp lại câu hỏi:
- Mày kiếm ai?
Anh chàng đáp cộc lốc:
- Tiểu Quyên.
- Mày là ai mà... mà...
Câu nói vừa phát ra thì cũng là lúc anh ta xông thẳng vào căn phòng đang mở toang cửa. Nhìn chẳng thấy ai, anh ta quắc mắt hỏi lớn khiến lão Tung phải giật mình:
- Cô ấy đâu? Tiểu Quyên đâu?
Lão Tung chưa kịp đáp thì đúng lúc ấy ngoài cổng có nhiều tiếng chân ngựa chạy rầm rập vào, cùng với tiếng hỏi lớn:
- Có nhà không ông bá hộ?
Người chạy vào đầu tiên là Mười Lực. Không để ý gì khác, ông hỏi dồn:
- Con gái tôi đâu?
Lão bá hộ quay sang chàng trai lúc nãy định chỉ anh ta thì vô cùng ngạc nhiên, bởi anh chàng đã... biến đi đâu từ lúc nào rồi!
Thấy lão có vẻ lúng túng, Mười Lực nghi hoặc:
- Ông đã làm gì con Tiểu Quyên nhà tôi rồi?
Không còn còn cách nào hơn, lão ta đành phải nói thật:
- Cô ấy ở trong phòng suốt hai hôm nay, rồi lúc nãy tôi mở cửa phòng ra thì chẳng thấy đâu mà thay vào đó là con gái tôi!
Mười Lực có linh tính điều chẳng lành nên run lên:
- Chết con tôi rồi!
Rồi ông ôm đầu rên rỉ:
- Phải biết như vậy thì tôi đâu có ép gả con mình! Tiểu Quyên ơi, vì ba mà con bây giờ chẳng biết ra sao, còn thằng Quân thì đã chết sau khi con lên xe hoa. Trời ơi!
Đang rối trí mà nghe Mười Lực nói. Lão bá hộ phải hỏi lại:
- Quân nào? Ông nói Quân nào?
Mười Lực không giấu giếm:
- Quân là người yêu của con gái tôi. Đáng lẽ tụi nó sẽ cưới nhau vào Tết này, nhưng do tôi ép Tiểu Quyên, nên chúng nó phải chia lìa nhau. Vừa rồi khi hay tin con Quyên đi lấy chồng, thằng ấy đã đập đầu vào vách nhà máy xay lúa mà chết rồi!
Lão bá hộ không tin vào tai mình:
- Quân! Nó... nó mới vừa ờ đây!
Mười Lực như bị điện giật:
- Cái gì? Ông nói sao? Thằng Quân...
- Nó mới vừa ở đây. Nó cũng nói là đi tìm Tiểu Quyên. Ông bước vào nó mới... biến mất!
Mười Lực nói như người bị tâm thần:
- Lạy trời... lạy trời xin đừng làm gì con gái tôi. Lạy trời...
Rồi ông lạng choạng bước ra cửa, vừa đi vừa cất tiếng gọi:
- Quyên ơi! Quyên!
Tiếng của ông chìm vào không gian đang lặng gió...
Bá hộ Tung gục xuống ôm đầu rên rỉ:
- Tôi đã làm gì thế này? Tôi gây ra chuyện gì đây?
Ông chợt nhớ tới con gái mình và bàng hoàng bật dậy lao đi:
- Liên ơi! Con ơi...
***
Những gì hiện ra trước mắt đã khiến cho bá hộ Tung càng bàng hoàng hơn. Xác của Quân vẫn còn nằm đó với cái đầu đầy máu. Điều này có nghĩa là...
Giọng của bà mẹ Quân như xé nát con tim lão bá hộ:
- Nó thương con Tiểu Quyên, nó muốn sống đời với con nhỏ, mà con nhỏ cũng thương nó, bất kể giàu nghèo. Vậy mà người ta đành đoạn chia lìa tụi nó ra, để bây giờ xảy ra thảm cảnh này. Trời ơi, Quân ơi!
Bà không biết mặt bá hộ Tung, nên đứng bên lão ta mà vẫn nói như lời kết tội của một quan tòa:
- Họ ỷ mình giàu nên làm những chuyện thường luân bại lý mà cũng làm được! Một thằng già đáng tuổi ông nội ông ngoại mà ép duyên một đứa con gái mới lớn, mà sao trời không có mắt, cứ để cho nó xảy ra, hả trời...
Một người đứng cạnh đó, lên tiếng:
- Thằng cha ruột của con Quyên còn đáng trách hơn. Lão Mười Lực này mắc nợ quá rồi hóa điên, không còn lý trí gì hết nỡ đem con mình đưa vào chỗ chết! Giờ đây chẳng biết đã sáng mắt chưa.
Trong khi đó, người ta phát hiện có một xác chết treo lơ lửng ở gốc cây đa ngoài đầu làng. Một người chạy về báo cho Mười Lực:
- Con Tiểu Quyên tự tử chết ngoài kia kìa.
Không có Mười Lực ở đó, lão bá hộ nghe vậy vội vã chạy đi, vừa hớt hải kêu lên.
- Tiểu Quyên. Tiểu Quyên ơi...
Nhưng lão ta đúng là không có duyên trùng phùng với Tiểu Quyên, nên khi lão vừa chạy tới thì hai người hàng xóm khiêng xác Quyên về tới. Cô gái đáng thương đã chết thật rồi, thi thể lạnh ngắt.
Đặt hai thi thể nằm sóng đôi nhau giữa nhà, khiến mọi người chứng kiến đều bất nhẫn, không cầm lòng được phải bật khóc. Nhất là bà mẹ của Quân, bà gào lên từng hồi:
- Con ơi, thương nhau mà khi sống người ta đã chia lìa tụi bay, phải đến khi chết mới được bên nhau như vậy, thê thảm quá trời ơi!
Có một người vừa ở bên nhà bá hộ Tung chạy về, họ báo tin:
- Con gái út của lão bá hộ cũng bị trời hại chết rồi!
Bá hộ Tung lúc ấy vừa trở lại, đang đứng ở ngoài, nghe tin đó đã rụng rời, phải cố lắm mới lê bước vào nhà được.
Út Liên không còn nằm ở đó nữa, lão bá hộ thẫn thờ một lúc rồi lại rời khỏi nhà, lão đã đoán nơi con mình được đưa đến.
Khi lão qua tới nhà của cô em gái thì quả thấy mọi người đang xôn xao trong nhà. Vừa trông thấy lão cô Sáu Nết đã kêu lên:
- Con gái anh nó ra nông nỗi này mà anh còn không biết sao?
Lão Tung nhào tới ôm xác con, gào lên:
- Con ơi!
Bất ngờ Út Liên mở mắt ra nhìn lên ngơ ngác. Cô Sáu đứng bên vừa mừng vừa sợ, la lên:
- Con Liên sống lại rồi!
Ngồi bật dậy như người sau một giấc ngủ say. Liên nhìn cha mình và bỗng sợ hãi lùi lại, hai tay ôm lấy ngực như một người thủ thế, sợ bị tấn công! Lão Tung phải lên tiếng trấn an:
- Ba đây con! Ba xin lỗi con, ba biết mình sai rồi, ba xin hứa...
Thái độ của ông có tác dụng phần nào giúp cho Liên lấy lại bình tĩnh, cô quay sang cô mình rồi ôm chầm lấy.
Cô Sáu lên tiếng:
- Có cô đây con. Ba con cũng biết lỗi rồi. Vả lại giờ đây thì con nhỏ đó cũng đã chết rồi. Mình không trách nó, chỉ tội nghiệp thôi. Để rồi cô sẽ qua tận nhà nó lo tang lễ cho đàng hoàng, như chuộc lỗi với người ta.
Lão bá hộ cũng nói:
- Tiền tôi bỏ ra trả nợ cho cha cô ấy coi như là món quà để chuộc tội. Tôi sẽ xin cô ấy...
Ông nghẹn lời không nói tiếp được. Liên chừng như hài lòng với cử chỉ đó, cô siết chặt tay cô Sáu và rồi quay sang nhẹ giọng với cha:
- Con hiểu, con không giận ba.
Thế là từ bi kịch đã chuyển thành niềm vui lớn của nhà bá hộ. Trong niềm vui tột cùng đó, không ai để ý thấy cái nhìn của Liên về phía cha mình có cái gì đó khang khác.
Lão Tung đề nghị:
- Bây giờ không còn gì để con và mấy chị con giận ba nữa, thôi ta về nhà chớ!
Út Liên nói khéo:
- Ba về trước, để con ở chơi với cô Sáu, chiều chúng con về.
Lão bá hộ ra về một mình trang tâm trạng buồn vui lẫn lộn. Trong trái tim thầm kín, lão vẫn nhớ và tiếc Tiểu Quyên.
***
Chỉ mới được giới thiệu qua một lần mà tự dưng lão Tung có cảm tình ngay với chàng trai lạ mà người bạn dẫn tới. Lão nhìn anh ta một lúc nữa rồi hỏi:
- Cháu nói là người ở đâu?
Tân, tên chàng trai lễ phép thưa:
- Dạ thưa bác, cháu ở Ô Môn, Cần Thơ.
- Cháu có bà con với ai ở xứ này?
Ba Kiệm, người bạn lâu năm của lão Tung phải trả lời thay:
- Nó là cháu ruột, kêu vợ tôi bằng cô. Nó vừa thi đậu bằng Diplomma chuẩn bị vào học trường Thông ngôn ở Sài Gòn.
Họ đang nói chuyện thì Út Liên từ nhà sau bước lên, chợt kêu lớn:
- Anh Tân! Sao anh biết đây mà tìm?
Hai người lớn còn đang ngơ ngác thì Liên đã giải thích:
- Lúc con học ở Cần Thơ đã quen với Tân.
Người mừng nhất có lẽ là lão Tung, lão nói thẳng ý của mình:
- Ngẫu nhiên mà hai đứa nó quen nhau vậy nếu cháu Tân đây chưa có mối nào thì...
Liên ngượng, nên chạy vào nhà, vừa nói:
- Ba này!
Ba Kiệm nhẹ giọng:
- Hôm nay tôi dẫn nó qua đây có ý để ra mắt cho anh biết mặt. Không ngờ tụi nó lại quen biết trước, thật đúng là duyên nợ.
Thế là chỉ một lời hứa, hai bên đã đồng ý với nhau sẽ tiến hành hợp tác cho Liên và Tân. Dĩ nhiên anh chàng Tân không thể nào từ chối chuyện này...
Một tháng sau...
Đám cưới của Liên và Tân được tổ chức trọng thể. Nhà bá hộ lo hết mọi việc. Do Tân mồ côi cha mẹ nên Ba Kiệm đứng ra lo bên họ đằng trai.
Nhưng có một biến cố thật bất ngờ, không ai nghĩ tới.
Ngay trong ngày cử hành hôn lễ thì lão bá hộ Tung bỗng lăn đùng ra chết mà không hề có bệnh tật gì.
Đám cưới cử hành được ba ngày thì hai người con gái lớn của ông bá hộ bỗng khăn gói chuẩn bị ra khỏi nhà.
Mỹ Dung cô chị cả vừa lo sợ vừa hấp tấp nói với cô em kế Kim Lan:
- Tối qua lại thấy nữa, không thể ở lại được đâu!
Kim Lan cũng nói:
- Vong hồn hai đứa nó cứ đòi mình phải bỏ nhà này, nếu ở lại thì nó giết chết! Mà nghĩ lại thì mình cũng nên qua bên cô Sáu mà ở cho rồi, bây giờ ba chết, đâu còn ai! Con Liên thì... sao kỳ kỳ... nó cứ phớt lờ mình đi!
Mỹ Dung giục em:
- Đi nhanh lên, cái nhà này bây giờ tao có cảm giác toàn là hồn ma không hà!
Họ ra đi mà không màng gì tới chuyện quyền lợi, tài sản. Và đó là một quyết định đúng. Bởi chỉ một buổi sau khi họ rời khỏi nhà thì Út Liên đột ngột phá bỏ bàn thờ bá hộ Tung đi. Cô ta nói với chồng:
- Mình không ác, nhưng dẫu sao dẹp hết chướng ngại vật này cũng là phải đạo. Thờ một kẻ đã hại đời mình trong nhà thì làm sao mình có thể an tâm mà sống.
Cô ta cho người gói tất cả lư hương, ảnh thờ của lão Tung, gửi sang nhà cô Sáu Nết với lời nhắn:
- Đừng bao giờ đem trở lại!
Từ hôm đó, cuộc sống của Liên và chồng trở nên cô lập với mọi người. Không bao giờ người ta thấy đôi vợ chồng trẻ này bước ra khỏi nhà. Họ cũng không thuê mướn người giúp việc. Bởi vậy có người tự hỏi, họ sống bằng gì hằng ngày khi không chợ búa, mua sắm.
Ba tháng sau...
Tình cờ, chị người làm cũ của nhà bá hộ, một hôm lẻn vào nhà để lấy một món đồ mà hồi trước khi thôi làm chị ta bỏ quên, nên đã mục kích một chuyện mà chị ta sững sờ: Anh chồng đã gọi Út Liên bằng Tiểu Quyên và cô này cũng gọi lại anh ta là Quân.
Chị này đem chuyện sang nhà cô Sáu Nết kể lại cho mọi người nghe thì ai nấy đều sửng sốt. Tuy nhiên, chị vừa kể xong thì hộc máu tại chỗ và trở thành người điên loạn từ đó!
Tìm hiểu cặn kẽ hơn người ta phát hiện một sự thật:
- Út Liên và chồng thật ra là vong hồn của Quân và Tiểu Quyên nhập vào. Họ đã trả thù và được toại nguyện...
Tuy biết vậy, nhưng do sợ họa lây, nên từ đó mọi người không ai dám hé răng kể lại với người khác...


HẬN TÌNH


Vừa nhìn thấy cô giáo bước vào nhà thì bà Phán Sử đã hài lòng ngay, bà khều con dâu nói khẽ:
- Con nhỏ này được đó con, coi bộ thùy mị, kín đáo, chứ không như mấy con trước đây cứ ăn mặc như sắp đi hẹn hò với trai vậy,
Liên Hương cũng đồng tình:
- Cô này thấy tướng đi cũng biết con nhà có giáo dục. Cô mặc chiếc áo dài kín đáo mà đẹp quá. Không phải là con nhà giàu mà tướng quý phái ghê!
Bà Phán hỏi đùa:
- Con học làm thầy bói bao giờ mà vừa nhìn người đã biết là giàu nghèo rồi?
Liên Hương cười:
- Dễ thôi má, nếu con nhà giàu, thì ai chịu khó đi dạy thêm!
- Ờ há.
Mẹ con bà vừa nói xong thì cô gái đã dẫn xe đạp vào tới thềm nhà, nhìn thấy hai người cô lễ phép cúi đầu chào:
- Dạ, cháu chào bác, chào chị.
- Chào cô giáo. Có phải cô là người mà bên nhà thầy Tú giới thiệu không?
- Dạ phải. Cháu là Cẩm Hà, cháu tới để...
Liên Hương có cảm tình ngay với cô ta, nên đứng dậy đon đả nói:
- Mời cô giáo vào nhà rồi nói chuyện. Nghe bác Tú nói nhưng tôi không tin là cô còn quá trẻ như vậy. Chắc là cô...
Có lẽ sợ bị chê ngay từ phút đầu gặp gỡ, nên Cẩm Hà đã vội lên tiếng:
- Em đã hai mươi mốt tuổi rồi ạ.
Bà Phán cười vui:
- Hai mươi mốt mà đã già lắm sao? Mới bằng tuổi con gái út tôi. Phải chi nó...
Bà đang nói tới đó thì chợt ngừng lại và như nghẹn lại, Liên Hương phải chen ngang vào:
- Má lại nhắc tới cô út rồi, để con lấy nước má uống.
Sau khi rót nước cho bà mẹ chồng xong, Liên Hương quay sang bảo cô giáo:
- Cô theo tôi lên lầu, các cháu có phòng riêng trên đó.
Quay lại bà Phán, Cẩm Hà lễ phép:
- Cháu xin phép bác.
Bà Phán đang cố nén cơn xúc động đang chợt trào dâng, nghe cô gái chào, bà ngẩng lên và bỗng giật mình khi nhìn thấy cô từ phía sau, bà kêu lên khẽ:
- Sao giống con Thu Hường như đúc vậy?
Thu Hường là cô con gái út mà bà vừa chợt nhắc và phát xúc động. Cô gái đã chết!
Vô tình Cẩm Hà đâu có biết, cô bước đi chầm chậm theo sau Liên Hương lên lầu và mỗi bước đi của cô lại càng khiến cho bà Phán Sử tưởng chừng như nhìn thấy con gái mình tái sinh!
Mãi đến lúc Cẩm Hà đã khuất trên cầu thang rồi mà bà vẫn còn ngẩn ngơ nhìn theo. Tuy gương mặt giống ít có lẽ do Thu Hường là con nhà giàu ăn sung mặc sướng, trắng da dài tóc, còn cô gái này con nhà nghèo, da hơi đen, nhưng sao có người lại có dáng đi giống con gái bà đến như vậy! Bà lẩm bẩm:
- Phải chi nó còn sống...
Bà lại khóc!
Lúc Liên Hương trở xuống, cô khoe với mẹ chồng:
- Cô giáo đồng ý dạy luôn bữa nay đó má. Và có điều này nữa con có ý này thì đúng hơn, con muốn mời cô ấy ở lại đây luôn để tiện việc dạy tụi nhỏ. Cô ấy đang đi học Văn khoa, má thấy có tiện không?
Bà Phán reo lên:
- Ôi, còn gì bằng! Nhà đơn chiếc quá, có thêm được người như cô tới ở thì má con tôi vui lắm! Vậy ý cô giáo thế nào?
Cẩm Hà hơi ngập ngừng:
- Vừa rồi chị Liên Hương có ngỏ ý, cháu...
Bà Phán giục:
- Nhận lời đi cô! Tôi nói thật đó, ý con dâu tôi cũng là ý của tôi mà.
Cẩm Hà có phần xiêu lòng:
- Dạ, cháu sẽ tính. Còn ngay lúc này, cháu sẽ chờ các em dậy và sẽ bắt đầu luôn.
Không giữ ý, bà kéo tay Cẩm Hà ngồi xuống bên cạnh, giọng trìu mến:
- Nói thật với cô, kể từ khi con gái tôi mất...
Liên Hương sợ bà lại xúc động nên lại xen vào:
- Má đừng có...
Nhưng bà đã bình tĩnh xua tay:
- Má không sao đâu, để má nói chuyện với cô giáo.
Cuộc trò chuyện giữa một già một trẻ chẳng mấy chốc đã trở nên thân thiết, cảm thông. Cuối cùng chính Cẩm Hà đã vui vẻ nhận lời:
- Cháu cám ơn bác và chị Liên Hương. Vâng, ngày mai cháu sẽ dọn tới đây.
Rồi câu chuyện lại xoay qua riêng tư. Bà Phán nhìn Cẩm Hà một lúc và hỏi thẳng:
- Cháu là người ở xứ nào?
- Dạ, cháu ở Châu Đốc.
Bà Phán giật mình:
- Châu Đốc mà miệt nào, huyện thị nào?
- Dạ, cháu ở Châu Phú.
- Trời đất! Bác cũng ở Châu Phú đây.
Lại thêm một lần ngẫu nhiên mà họ có chung bản quán với nhau, khiến cho tình cảm đậm đà hơn. Bà nắm chặt tay Cẩm Hà, nói:
- Nếu con không chê, bác xin nhận con là... con nuôi, cháu thấy có tiện không?
Cẩm Hà vui hẳn:
- Thưa bác, cháu đang cần...
Cô đang vui, bỗng ngậm ngùi:
- Cháu không còn ai...
Liên Hương nói thêm:
- Vừa rồi cô ấy kể cho con nghe, cô mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhiều năm trước.
Bà Phán thương tâm:
- Tội nghiệp con tôi! Vậy cha mẹ con là ai ở xứ đó?
- Dạ, ba con cũng có chút tiếng tăm ở vùng đó. Hồi ấy con còn nhớ, người ta gọi ông là ông Huyện Phò...
Câu nói của Cẩm Hà chưa dứt thì đã nghe bà Phán kêu lên:
- Trời ơi!
Rồi chẳng hiểu sao bà như á khẩu, người lạnh ngắt.
Liên Hương hốt hoảng:
- Má! Má sao vậy.
Cô cùng với Cẩm Hà phải phụ nhau đưa bà vào phòng riêng. Trong lúc hiểm nguy đó mà bàn tay của bà vẫn cố nắm chặt tay của Cẩm Hà. Miệng cứ mấp máy nhiều lần như muốn nói điều gì đó mà không nói được.
***
Có tiền sử bệnh huyết áp cao, lại bị nhiều chuyện dồn nén từ khi hai đứa con của bà chết cùng lúc, nên tâm thần bà Phán luôn trong trạng thái bất an. Việc bà bị sốc đột ngột khi đang nói chuyện với Cẩm Hà đã khiến cả Liên Hương và Cẩm Hà đều thắc mắc không hiểu sao, nhưng mấy ngày sau cũng chưa giải tỏ được, bởi bà Phán từ lúc ấy hầu như chỉ tỉnh lại sau vài lần. Tuy bác sĩ đã trấn an là tình trạng sức khỏe bà không sao, chỉ ở tình trạng đó hơi lâu, chứ không nguy hiểm. Tuy nhiên Liên Hương lo lắng vô cùng, bởi trong nhà bây giờ không còn có ai, nếu bà mẹ chồng mà có mệnh hệ nào thì chẳng biết phải làm sao. Cô đành phải trông cậy vào Cẩm Hà:
- Từ lúc này em phải giúp chị lo cho má. Chứ chị thì cũng không còn nhiều sức nữa. Nlư em thấy đó, chỉ mấy đứa con chị, nó cũng... mồ côi cha...
Cẩm Hà đã hiểu điều đó ngay từ bữa đầu tiên, nhưng chưa kịp tìm hiểu, nay cô mới nhân cơ hội biết thêm:
- Em muốn hỏi, chồng chị mất trong trường hợp nào?
Chỉ lên bàn thờ có hai ảnh, một của chồng và một của cô em chồng:
- Hai anh em họ đi chung xe rồi bị tai nạn một lượt! Hôm ấy chị ở lại nhà giờ chót nên còn sống.
Cẩm Hà thốt lên:
- Hèn chi!
Cô định hỏi thêm, nhưng thấy không tiện nên thôi.
Liên Hương hình như cũng không muốn khơi gợi lại nỗi đau đang gậm nhấm trong lòng, nên nói sang chuyện khác:
- Em ngủ trên phòng đó có tiện không?
Cẩm Hà thấy hài lòng:
- Tốt lắm rồi chị. Ở chỗ em trọ đâu tiện nghi bằng.
Liên Hương cũng nói thật:
- Từ hôm có em tới ở chung, chị an tâm lắm. Nhất là gặp lúc má bệnh như thế này, nếu không có em tiếp thì chắc chị cũng nằm theo má quá!
Đã hai đêm liền vừa thức học bài, vừa phải lo chăm sóc bà Phán, nên tối nay Cẩm Hà cảm thấy mệt. Cô chưa kịp nói thì Liên Hương cũng đã thấy, cô nói:
- Em phải ngủ sớm tối nay đi. Để chị thức với bà già. Em phải ngủ đủ giấc sáng mai chị em mình cùng dậy ăn sáng chung, chị có món quà này cho em.
Cẩm Hà chỉ chờ có thế, cô lên phòng riêng trên lầu, chỉ kịp tắm qua thì đi ngủ liền, chứ không đọc mấy trang sách như lệ thường...
Được cái là nơi này khá yên tĩnh, nhà lại ít người, nên rất dễ dỗ giấc ngủ. Chỉ hơn mười phút sau Cẩm Hà đã ngủ sâu...
- Nè, sao vào nhà tôi mà ngủ vậy?
Câu nói lặp lại có lẽ đến lần thứ ba thì Cẩm Hà mới giật mình tỉnh dậy. Lúc đầu cô vẫn còn nằm yên, nhưng khi đã nghe rõ câu nói đó là dành cho mình, cô mới bật dậy. Tuy nhiên cả người Cẩm Hà như bị đè bởi một khối đá nặng, nên cô không thể nào cử động, đồng thời lồng ngực bị nén đến sắp nghẹt thở.
Vùng vẫy đến mấy lượt, sau cùng Cẩm Hà cũng thoát ra được. Cô mở ngay ngọn đèn trên đầu nằm và có cảm giác như chỗ nệm bên cạnh nơi cô nằm vẫn còn hơi nóng!
Có tiếng của Liên Hương từ bên ngoài:
- Em bị sao vậy Cẩm Hà?
Cẩm Hà định kể lại chuyện mình vừa bị, nhưng kịp nghĩ nên ậm ừ:
- Dạ... em bị chiêm bao.
- Chị đang ngủ nghe em la lớn nên tưởng có chuyện gì.
- Dạ, không có gì.
- Niệm Phật rồi ngủ yên thôi.
Liên Hương trở về phòng của mình chỉ được một lát thì lại nghe tiếng Cẩm Hà thét lớn:
- Chị Liên Hương ơi!
Chạy trở sang, Liên Hương ngạc nhiên hơn khi thấy Cẩm Hà đang nằm lăn dưới sàn ở bên ngoài cửa phòng!
- Sao vậy em?
Không thể giấu được nữa, Cẩm Hà phải nói thật:
- Em chưa kịp ngủ thì như có ai đó quăng em ra đây!
Liên Hương quá đỗi ngạc nhiên bước thẳng vào phòng tìm khắp nơi, cả dưới gầm giường. Chẳng thấy ai, cô hỏi:
- Lúc nãy em có đóng cửa phòng không?
- Dạ có, em còn cẩn thận cài chốt bên trong nữa!
- Nhưng nhà này đâu có ai khác ngoài mấy người mình. Chị thì ngủ bên kia, còn má thì nằm liệt giường trong phòng tầng dưới, đi còn không được, nói gì ôm em ném ra ngoài. Không lẽ thằng nào lẻn vào đây?
Cẩm Hà nói khẽ, như sợ có người nghe:
- Không phải đàn ông, mà là.. con gái!
- Nhưng mà...
Liên Hương vừa nói tới đó thì chợt nhìn thấy vật gì đó nằm dưới sàn, cô cúi xuống nhặt lên, bỗng kêu lớn:
- Cô út!
Cẩm Hà kinh ngạc:
- Cô út nào?
Giọng Liên Hương chùn hẳn xuống.
- Cô út nhà này. Cái trâm cài này là của cô ấy. Không lẽ nào...
Cẩm Hà cũng vừa hiểu, cô lặp lại câu nói nửa chừng của Liên Hương:
- Không lẽ chị ấy vào phòng em? Mà cũng có thể lắm...
Cô thuật lại câu nói lúc đầu:
- Đầu tiên em nghe có người đuổi em, hỏi sao dám vào nhà này. Giọng có vẻ hằn hộc lắm, em đâu ngờ là chị út?
Liên Hương lặng người đi một lúc, cô tự hỏi:
- Không lẽ có chuyện này?
Cô không tin chuyện ma quỷ, nên càng không nghĩ cô em chồng của mình hiện hồn về. Tuy nhiên nhớ lại lúc liệm xác Thu Hường, chính mắt cô nhìn thấy vật này vẫn còn đính trên tóc của cô ấy mà! Mà chiếc trâm cài này lại do chính cô mua tặng cô ấy lúc mới về nhà chồng nữa nên không thể nào có chuyện nhìn lầm.
- Hay là vô tình vật của chị ấy để sót lại mà em không thấy, để nó rơi nên bị quở chăng?
Không muốn làm cho Cẩm Hà sợ nên Liên Hương nói cho qua:
- Có lẽ vậy.
Nói thế, nhưng sau khi đã về phòng rồi, chính Liên Hương phải trằn trọc rất lâu để suy nghĩ về chiếc trâm.
Nếu bà Phán còn tỉnh cô đã sang hỏi cho ra lẽ.
Nhìn sang hai đứa bé ngủ say, Liên Hương sợ con thức giấc nên không dám mở đèn sáng, mặc dù lúc ấy cô rất muốn mở tủ, xem lại một số đồ vật. Trong số đó có chiếc trâm thứ hai, mà lúc mua cô đã mua một cặp, tặng cho Thu Hường một cái, còn cái kia thì cô dùng cho đến khi chồng chết cô mới thôi không cài tóc nữa, đem cất trong tủ.
Nằm mãi vẫn không ngủ được, cuối cùng Liên Hương cũng phải nhè nhẹ bước tới tủ áo, kéo nhẹ ngăn tủ nữ trang bên trong ra. Tuy qua ánh đèn ngủ không nhìn rõ chi tiết, nhưng Liên Hương vẫn phát hiện chiếc trâm của cô không còn trong hộp nữ trang nữa.
- Kỳ vậy?
Liên Hương hỏi hơi lớn, nên một trong hai đứa con cô, thằng Hải giật mình hỏi:
- Mẹ bị sao vậy?
Liên Hương nhìn lại đã thấy Hải đứng bên cạnh rồi, cô xoa đầu con:
- Không có gì đâu con, ngủ đi.
- Sao mẹ không ngủ?
- Ờ, mẹ...
- Mẹ ngủ với con đi.
Chìu con, Liên Hương đành phải đóng tủ, trở lại giường nằm dỗ con. Thằng bé vô tình nói:
- Đêm qua khi ngủ con thấy cô út đó mẹ.
Liên Hương giật mình:
- Cô út sao, cô làm gì con?
Thằng Hải rút đầu vào ngực mẹ:
- Đâu có sao. Con thấy cô út kêu con, bảo con là cô thương con nhưng không thương mẹ!
Liên Hương lay vai con:
- Đúng là cô út nói vậy sao?
- Dạ đúng. Mà lần thứ hai rồi đó! Lần trước lúc con bệnh tháng rồi, khi ngủ con cũng nghe cô út nói vậy.
- Sao con không nói lại cho mẹ nghe?
Thằng bé ngây thơ:
- Con biết là chiêm bao, cô út nói dối, nên con không nói lại cho mẹ nghe!
Biết là lời trẻ con nói, vả lại đã là chiêm bao. Tuy nhiên khi hồi tưởng lại, điều thằng bé nói không sai lắm. Lúc mới về nhà chồng, người đối xử với cô tệ nhất chính là cô em út Thu Hường này. Ban đầu Liên Hương nghĩ có lẽ do ganh tỵ của cô em chồng, nên Liên Hương cố ăn ở cho đúng phép, đem tình thương đổi lại sự ganh ghét ấy để dần lấy lòng cô em. Vậy mà nhiều năm sau Thu Hường vẫn có cái gì đó mà mỗi khi đối diện vẫn khiến cả hai khó chịu. Tuy có lòng bao dung, không cố chấp, nhưng thật tình mà nói, mãi cho đến lúc anh em họ chết, Liên Hương vẫn thấy khó chịu khi đối với cô lạnh nhạt bao nhiêu, thì đối với Tú, chồng Liên Hương, thì cô em gái đôi khi thân mật quá mức, hầu như muốn độc quyền thương yêu ông anh mình!
- Má, ngủ đi!
Thằng Hải nhìn như không muốn mẹ mình suy nghĩ, nó giục thêm lần nữa. Buộc lòng Liên Hương phải tắt cả đèn ngủ để cố nhắm mắt lại, tìm giấc ngủ.
Nhưng chỉ được một lát thì bên phòng của Cẩm Hà lại vang lên tiếng kêu của cô giáo. Và chỉ chút xíu sau đã nghe tiếng chân Cẩm Hà chạy bên ngoài, cô gọi cửa:
- Cho em qua ngủ với chị Liên Hương! Em sợ...
Mở cửa ra thấy Cẩm Hà ôm quần áo mền gối trong trạng thái hoảng loạn, Liên Hương không kịp suy nghĩ gì:
- Vào đi em!
Hai đứa bé thấy cô giáo vào ngủ chung thì mừng lắm, cứ huyên thuyên hỏi đủ chuyện. Sợ con nghe Cẩm Hà kể chuyện ma quỷ, nên Liên Hương ra dấu cho Cẩm Hà im lặng, cô nói khẽ:
- Để chút nữa tụi nhỏ ngủ lại, em nói chị nghe.
Cẩm Hà nghe lời, nhưng nghe cách cô thở gấp Liên Hương hiểu là cô đang sợ hãi và muốn nói gì đó, không thể chậm trễ, cô liền tìm cách bảo Cẩm Hà:
- Em bị bệnh thì theo chị sang đây chị cạo gió cho.
Liên Hương dặn hai đứa con:
- Hai đứa nằm lại đây và mau dỗ giấc ngủ, sáng mai cô Cẩm Hà sẽ đưa đi chơi sở thú!
Nghe được đi chơi, hai đứa trẻ reo lên:
- A, được đi chơi rồi!
Kéo Cẩm Hà xuống hẳn phòng khách, mở đèn sáng lên, Liên Hương hỏi:
- Em nói chị nghe coi, chuyện gì vừa xảy ra?
Cẩm Hà chưa hết run, cô không đáp mà lấy một gói giấy nhỏ đưa ra. Liên Hương tiếp lấy vừa mở ra xem đã giật mình:
- Ở đâu em có cái này?
Lúc bấy giờ Cẩm Hà mới lên tiếng:
- Cô ấy đưa cho em.
- Cô nào?
- Cô út.
Liên Hương chết lặng đi bởi vật trên tay và cũng bởi tin mà Cẩm Hà vừa tiết lộ.
- Đúng là... cô út?
Cẩm Hà thuật rõ:
- Lúc nãy khi chị vừa về phòng thì em nghe có hơi thở lạ của ai đó rất gần, em kịp bật đèn ngủ lên thì thấy một người con gái đứng cạnh giường, em chưa kịp kêu thì cô ấy đã nói rõ từng tiếng một bảo em phải rời khỏi phòng ngay, nếu không thì sẽ biết thế nào là tội chiếm nhà người khác! Trước khi bước đi, cô ấy còn xưng tên mình là Thu Hường!
Đưa vật đang cầm trên tay ra, Liên Hương chưa kịp hỏi thì Cẩm Hà đã nói:
- Trước khi biến mất sau cửa sổ, cô ấy còn ném vật ấy lại cho em và dặn: Đưa cho Liên Hương, bảo với nó rằng Thu Hường và nó tình đoạn, nghĩa tuyệt.
Trên tay của Liên Hương là chiếc trâm cài tóc, mà vừa nhìn thấy là cô biết ngay là của mình, vật mà lúc nãy xem trong hộp nữ trang cô biết là bị mất.
- Em ngạc nhiên hơn khi thấy cô ấy có vẻ hằn hộc khi nói tới chị. Ngoài ra cô ấy còn ném lại thêm cái này nữa.
Nhìn vật Cẩm Hà vừa đưa, một lần nữa Liên Hương chết điếng:
- Trời ơi!
Cô chỉ kêu được hai tiếng rồi thừ người ra, mặt biến sắc và để rơi vật trên tay. Một chiếc chìa khóa bình thường thôi.
- Chìa khóa này của phòng nào vậy chị?
Cẩm Hà cố tình hỏi. Liên Hương đáp như cái máy:
- Phòng không được phép mở trong nhà này!
Rồi không đợi Cẩm Hà hỏi thêm gì, Liên Hương bất thần đứng dậy và bước thẳng lên lầu. Cẩm Hà chạy theo, nhưng vừa tới chân cầu thang thì Liên Hương nói:
- Đây là chuyện riêng trong mà, em cứ về phòng chị ngủ với hai đứa nhỏ, lát chị sẽ xuống.
Liên Hương đi thẳng lên lầu trên nữa, nơi mà khi ba chồng cô còn sống đã nhiều lần nghiêm cấm: Đây là nơi lưu giữ riêng những gì của dòng họ này, ngoại trừ ta với má tụi con ra không người nào được bước vào. Có quy định nghiêm ngặt ghi ở cửa, nếu vi phạm thì coi như không còn đủ tư cách làm thành viên trong nhà này nữa.
Tám năm về làm dâu nhà này, chưa bao giờ Liên Hương vi phạm và thâm tâm cô luôn nghĩ rằng cái gì người khác không muốn thì mình đừng bao giờ làm. Mặc dù cô biết chiếc chìa khóa màu vàng này dùng để mở căn phòng đó, nó luôn móc trên lưng quần của bà Phán và có lần bà cũng tiết lộ rằng nó dùng để mở căn phòng mà bà gọi là dòng họ Đỗ.
Nay thì sự thôi thúc trong lòng đến độ Liên Hương không còn kiềm chế nổi. Nhất là khi cô biết ý của Thu Hường muốn cô khám phá căn phòng ấy, Liên Hương tự nhủ, mình không thể không biết!
Tuy quyết tâm, nhưng khi tra chìa khóa vào, vừa xoay một vòng là Liên Hương chùn tay. Phải lấy hết can đảm, cuối cùng cô cũng mở được và khựng lại ngay khi nhìn một chữ viết bằng Hán tự thật lớn trên tường trước mặt. Vốn thuở nhỏ có học tiếng Hán, nên Liên Hương hiểu nghĩa của chữ này, đó là chữ Hận! Phía bên dưới, chỗ chân tường có một cái rương cũ, ngoài ra không hề có một vật gì khác trong phòng!
Như vầy sao gọi là phòng bí mật của dòng họ Liên Hương tự hỏi và một lần nữa nhìn chăm chú vào chữ Hận trên tường. Phải chăng bí mật là từ chữ này. Mà tại sao lại hận, ai hận ai trong nhà này?
Trong lúc quan sát, tình cờ Liên Hương phát hiện có một ảnh chân dung nhỏ của ai đó đặt ở cạnh chiếc rương.
- Ảnh của bà Phán?
Tuy ảnh chụp khi còn khá trẻ, nhưng nhìn nét mặt, nhất là cái nốt ruồi trên môi của người trong ảnh, Liên Hương đoán ngay đó là bà mẹ chồng mình thời trẻ.
Quả nhiên khi cầm bức ảnh lên Liên Hương đọc được, hai chữ sau ảnh: Ngọc Nga. Mà Ngọc Nga chính là tên của bà Phán Sử...
- Hận người này ư?
Một lần nữa Liên Hương tự hỏi và không tìm được câu trả lời. Phải đến khi cô mở nhẹ chiếc rương ra. Vật đập vào mắt Liên Hương đầu tiên trong rương là ảnh hai đứa trẻ mới sinh, hai bé gái. Lật phía sau bức hình thấy có ghi dòng chữ: Ngày... Thu Hường và Cẩm Hà được bảy ngày sinh!
Liên Hương kêu lên:
- Thu Hường và... Cẩm Hà!
Liên Hương bắt đầu run tay, suýt nữa đã để rơi tấm ảnh xuống sàn. Nhưng chưa hết, còn một dòng chữ viết bằng mực đỏ, qua thời gian nó hơi mờ đi so với dòng chữ màu xanh bên trên: Hận tình này làm sao trả được đây?
Hai dòng chữ tuy cùng trên một tấm ảnh nhưng lại do hai người viết. Dòng trên có thể là bà Phán viết, còn dòng dưới là nét chữ rắn rỏi của đàn ông.
- Sao lại là Cẩm Hà? Cô Cẩm Hà gia sư của hai con mình phải chăng chỉ là trùng tên ngẫu nhiên.
Liên Hương tự hỏi và một lần nữa thêm vào mớ bòng bong thắc mắc chưa có lời giải. Cô lại tiếp tục giở từng vật trong rương ra. Tiếp theo là một phong thư đã vàng úa. Trong phong bì có một lá thư dài mà ngay dòng đầu tiên đã gây chú ý cho Liên Hương: Ngọc Nga yêu dấu...
Chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ lý do cho Liên Hương ngồi xuống và đọc ngấu nghiến lá thư:
"Ngọc Nga yêu dấu!
Khi em đọc được những dòng chữ này thì người viết đã ra đi rất xa rồi! Anh ra đi vì nỗi hối hận không nguôi, nỗi ray rứt khiến cho một con người mang tiếng là hung ác, cường quyền bậc nhất ở xứ này phải bỏ ăn, mất ngủ kể từ khi vừa sinh con xong đã bỏ bệnh viện mà đi và vội vã đến nỗi chỉ mang theo được một đứa con trong hai đứa song sinh! Em có biết là khi hay tin, anh đã tới bệnh viện ẵm đứa bé còn lại về nhà mà lòng tan nát, dày vò dữ dội. Anh biết mình không xứng đáng để được em ở lại, bởi dù sao anh cũng là kẻ dùng cường quyền ép em lấy trong lúc em đã có người yêu. Anh cũng biết em yêu Phán Sử hơn và dành trọn tình yêu cho hắn ta, nhưng thử hỏi em, anh cũng đâu thua gì hắn về khoản yêu em say đắm? Chỉ vì anh đã lỡ có vợ rồi, em là kẻ đến sau. Nhưng đúng ra, chính chúng ta là những người yêu nhau trước mà. Chúng ta yêu nhau khi Phán Sử chưa yêu em và Ngọc Diệp chưa làm vợ của Huyện Thời này!
Vậy mà chúng ta đành phải lìa xa nhau, để anh phải mang tiếng là lừa em trong cơn say để chiếm đoạt và khiến em mang thai, sinh đôi và phải đứt ruột trốn đi, còn anh bị mang tiếng là kẻ cưỡng đoạt con gái nhà nghèo! Anh nói mà đâu ai tin, trong đó chắc có cả em nữa! Bởi vậy, anh chỉ biết âm thầm chịu đựng và cố nuôi cho con Cẩm Hà khôn lớn... anh giấu con về tông tích mẹ nó và nó cũng không hề nghi ngờ gì. Khi anh sắp chết, anh đã sắp đặt gởi nó về nội nuôi, trước khi lìa đời anh nhớ nó có hỏi anh là mẹ nó đâu, anh bảo dối con là em đã chết, nên chắc từ đó nó luôn nghĩ rằng nó mồ côi trên cõi đời này. Tội nghiệp con. Anh mong em có ngày nào đó thuận tiện hãy về tìm nó. Nó vẫn tên Cẩm Hà, bên vai trái có 2 nốt ruồi son để em dễ nhận.
Điều ray rứt thứ 2 mà đến khi chết anh vẫn chưa thể làm được, đó là xin em bức ảnh mà em đã nhờ thợ ảnh chụp hai đứa nhỏ lúc còn trong bảo sinh viện. Em còn giữ nó phải không? Anh rất muốn nhìn lại con Thu Hường 1 lần, nhưng có lẽ không kịp nữa rồi...
Vĩnh biệt!"
Cuối thư không có chữ ký, mà chỉ một chữ viết tên Thời hơi run và xấu... có vẻ người viết đã chết ngay sau khi viết tới đây!
Buông lá thư xuống Liên Hương lại thắc mắc:
- Má sinh hai cô con gái này rồi mới về với ba, vậy tại sao anh Tú cũng là con của hai người, lại là anh cả?
Bao nhiêu điều chưa rõ đó lại càng khiến cho Liên Hương muốn tiếp tục khám phá số đồ vật trong rương còn lại. Vật tiếp theo lại cũng là một lá thư khác, không phong bì, dạng như là một đoạn nhật ký được trích ra.
Nét chữ hình như là của bà Phán:
"Mình cố giấu mọi chuyện với Sử khi mình bảo với anh ấy rằng con Thu Hường là kết quả của những ngày vụng trộm của hai đứa, mình trốn anh ấy, trốn gia đình đi sinh xong mới ẵm con theo anh ấy lên Sài Gòn. Ban đầu anh ấy tin là thật và rất thương con Thu Hường. Nhưng cũng vì một sơ xuất nhỏ, tức là bức thư của Huyện Thời nhờ người mang đến trong lúc mình vắng nhà, Sử đã đọc và hiểu hết! Anh ấy điên lên khi biết mình bị phản bội và Thu Hường không phải là dòng máu của anh!
Để trả thù mình, Sử đã lao vào các cuộc trác táng, nhậu nhẹt bê tha và cả mèo mỡ lung tung, đến phải nhận hậu quả là căn bệnh giang mai quái ác. Chính căn bệnh ấy mà Sử mắc chứng vô sinh. Anh ấy không thể có được giọt máu chính thức với mình! Điều ấy càng làm cho Sử hận đời hơn, anh lại dấn sâu vào các cuộc bài bạc rượu chè. Cho đến một hôm, anh ấy tự tay mang về 1 đứa trẻ lớn hơn con Thu Hường ba bốn tuổi. Ban đầu mình ngỡ đó là giọt máu rơi của anh ấy, nhưng sau hỏi kỹ lại thì mới biết do quá ham có được đứa con, nên Sử đã nhờ một người bạn xin giùm một đứa trẻ mồ côi về làm con nuôi. Đứa trẻ ấy là thằng Thanh Tú. Nó lớn hơn con Hường nên đương nhiên là anh, đẩy con Thu Hường xuống là em. Đó cũng là ý Sử, anh ấy không muốn con của tình địch lại là con trưởng trong nhà! Mình cũng phải chấp nhận và cũng hết lòng yêu thương thằng Tú, để làm vui lòng chồng..."
Đọc đến đây Liên Hương thừ người ra, cô thốt lên:
- Thì ra là vậy. Thảo nào...
Nhớ lại những cử chỉ thân mật, những cách đối xử với nhau lúc cả hai còn sống, Liên Hương bất giác thốt lên:
- Có điều gì đó!
Cô bất chợt nhìn thấy một mẩu giấy khắc nằm bên dưới. Mẩu giấy với chữ viết của bà Phán!
"Sử vừa mất thì mình lại nhận được tin khác khiến lòng mình đau như cắt. Con Thu Hường và thằng Thanh Tú yêu nhau. Trời ơi, sao lại có chuyện đó được, trong khi mình đã cưới vợ cho thằng Tú rồi mà!
Thằng Tú làm chuyện này rồi làm sao với vợ nó đây! Khi mình kêu hỏi nó thì thằng Tú nói thật nó và con Thu Hường đã yêu nhau ngay từ khi con Thu Hường được mười lăm tuổi. Đó là kết quả của những ngày chung sống trong cùng một nhà.
Dù hai đứa nó không phải là ruột thịt, máu mủ gì của nhau nhưng mình làm sao chấp nhận cho được chuyện đó? Mình phản đối quyết liệt và hăm đuổi Tú ra khỏi nhà nếu nó không chấm dứt hành động ấy! Nó lặng lẽ bỏ đi khỏi nhà suốt mấy ngày liền, trong khi con vợ nó, Liên Hương thì không biết gì, cứ tưởng chồng mình có việc gì đó vắng nhà. Để rồi... trời ơi, chuyện không ai ngờ đã xảy ra! Tụi nó âm thầm hẹn nhau đi chơi và... cùng lao xuống vực sâu! Chúng nó tự tử vì tình, trong lúc những kẻ đau khổ lại chính là mẹ và vợ con của chúng!"
- Trời ơi!
Lần này là tiếng kêu thảng thốt của Liên Hương! Cô bủn rủn tay chân, người lảo đảo sắp ngã. Trời đất như sụp đổ trước mắt người vợ suốt đời chỉ biết thương chồng, chung thủy với chồng cho đến phút cuối cùng.
Tú ngoại tình, với anh thì còn có thể tin được, nhưng sao lại là Thu Hường? Điều khó tin nhất trên đời lại là sự thật!
- Thảo nào...
Liên Hương cứ vân vê những tờ giấy trong tay mà không biết phải làm gì. Cuối cùng cô xếp nắp rương lại, bước ra khỏi phòng mà trong lòng trống rỗng, xót xa...
- Mẹ ơi! Cô giáo...
Cả hai đứa con của Liên Hương đều chạy lên, chúng hớt hãi nói không tròn câu:
- Cô giáo... Cô giáo đã...
Liên Hương hốt hoảng:
- Cô giáo sao rồi?
Thằng Hải bình tĩnh hơn đáp:
- Cô giáo bị cô út dẫn đi rồi!
- Trời ơi!
Liên Hương vừa chạy vừa hỏi:
- Đi hướng nào?
Thằng bé Sơn chỉ tay ra ngoài sân sau:
- Hướng này.
Liên Hương chỉ kịp bảo hai đứa:
- Hai con trở về phòng đóng cửa lại, để mẹ đi tìm cô giáo.
Cô chạy ra vườn vừa nghĩ đến khu mộ hai cái chôn gần nhau của Tú và Thu Hường. Quả nhiên khi gần tới nơi cô nghe giọng của Thu Hường cất lên:
- Tao đã mất người yêu về tay một đứa con gái lạ, bây giờ gặp bất cứ đứa lạ nào vào nhà thì thà tao diệt nó trước, hơn là phải hối hận về sau!
Không nghe tiếng trả lời, nhưng từ xa nhìn thấy một người nằm dài dưới đất, Liên Hương đoán ra ngay đó là Cẩm Hà. Bước tới gần hơn thì người đang đứng nói giọng của Thu Hường chỉ là một cái bóng xõa tóc, phất phơ theo gió đêm!
- Hồn ma Thu Hường!
Giọng cô ả lại cất lên:
- Ta yêu suốt năm năm nhưng chưa hưởng được một giây của cuộc sống vợ chồng, vậy mà đứa lạ vào đây cướp mất người yêu của tao, rồi còn sinh ra hai đứa con cho anh ta nữa! Cũng vì hai đứa trẻ này mà tao không ra tay báo thù kẻ cướp tình yêu của mình được, tao hận thấu xương và tao quyết giết bất cứ đứa con gái nào xuất hiện trong nhà. Mày là đứa tao ra tay đầu tiên, vậy hãy khóc cho đã đời đi rồi nhận cái chết!
Cô ta vừa nói vừa giơ thẳng cánh tay lên như sắp giáng xuống. Liên Hương thu hết can đảm nói lớn:
- Cô út, hãy dừng tay!
Nghe tiếng Liên Hương, Thu Hường gầm lên:
- Ước gì tao giết được con tiện nhân này!
Rồi cô ả quay phắt người lại, lúc này Liên Hương mới nhìn thấy được gương mặt xanh như tàu lá cùng với hai chiếc răng nanh nhô ra hai bên khóe miệng.
- Mày muốn cứu con này hả, còn lâu!
Chẳng còn cách nào hơn, Liên Hương liền đưa ra những trang giấy mình cầm trên tay và ném mạnh về phía cô ả, vừa nói to:
- Người đó là chị em ruột của cô đó!
Lạ thay, những tờ giấy vừa nằm trong tay cô ta tức thời cháy bùng lên như có ai đốt! Thu Hường không nao núng, vẫn giữ lấy vật đang cháy, gương mặt vẫn tỉnh táo như không...
Những tờ giấy vừa cháy xong thì cũng là lúc Thu Hường nhảy lùi một bước, lần này ả kêu lên:
- Sao lại có chuyện này?
Liên Hương chợt hiểu, đối với hồn ma thì cách đọc thư là phải đốt cháy, giống như khi cúng vái giấy tiền vàng bạc vậy! Vừa rồi nàng ta đã làm cho những tờ giấy gồm thư của ông Phán, nhật ký của bà Phán... và cô ta đã hiểu mọi chuyện!
- Trời ơi!
Tiếng kêu trời của một hồn ma nghe là lạ, khiến Liên Hương hơi yên tâm, cô giải thích thêm:
- Đây là đứa chị em song sinh của cô út. Cô ấy hoàn toàn không hay biết chuyện của má với ông Huyện Thời ba ruột của cô. Cũng như tôi, làm sao tôi biết chuyện cô và anh Thanh Tú yêu nhau, chứ nếu biết thế thì tôi đời nào chen vào làm chi cho khổ cả ba người. Dẫu sao thì tôi cũng cám ơn cô đã tha cho mạng sống để tôi nuôi mấy đứa con, chúng nó đâu có tội tình gì.
Thu Hường ngã gục xuống như tàu lá rụng. Trong lúc đó thì Cẩm Hà vừa mới tỉnh lại, cô ngơ ngác hỏi:
- Em... em bị sao vậy chị Liên Hương?
Nhìn bên cạnh thấy một đống quần áo nằm sóng soài, cô càng ngạc nhiên hơn:
- Cái gì đây chị...
Liên Hương biết có nói thì Cẩm Hà cũng không tin, cô liền nắm tay lôi đi, và bảo:
- Đi vào gặp má. Em sẽ nghe chính má kể lại tất cả mọi chuyện.
Vùa bước đi Cẩm Hà vừa nhìn lại sau lưng, chợt cô ngạc nhiên kêu lên:
- Chị Liên Hương xem kìa!
Trước mắt họ, ngay chỗ ngôi mộ của Thu Hường, có một đống lửa đang bùng cháy dữ dội! Liên Hương lẩm bẩm:
- Không lẽ cô ấy đã...
Liên Hương nghĩ tới chuyện hồn ma từ giã cõi trần. Người ta thường nói khi một oan hồn ra đi thường bốc cháy thành khói hoặc biến thành hơi sương. Phải chăng từ nay Thu Hường sẽ siêu thoát?
Nắm chặt tay Cẩm Hà cô nói khẽ:
- Oan hồn của Thu Hường lúc nãy đòi giết em phải không nào?
Cẩm Hà dè dặt gật:
- Dạ, đúng rồi, em sợ lắm, chẳng hiểu sao cô ấy lại cứ theo đòi giết em hoài?
- Chỉ vì cô ấy tưởng em vào nhà này để cướp người yêu của cô ta lần nữa!
Cẩm Hà ngạc nhiên hơn:
- Người yêu nào?
- Đó chính là chồng của chị, là anh của Thu Hường. Được rồi, để chị kể sơ lượt cho em nghe trước khi đi gặp má.
Cô kể lại mọi chuyên. Nghe xong Cẩm Hà ngơ ngác:
- Sao lại có chuyện đó? À mà cũng có lý...
Cuối cùng Cẩm Hà nhận ra:
- Em nhớ rồi, ba em từng nói rằng ông có một mối tình tội lỗi. Nhưng em không ngờ em lại rơi vào mối tình ấy.
Cô khóc rấm rức...
***
Bà Phán chợt tỉnh. Đây là lần tỉnh đầu tiên của bà sau gần một tuần lễ. Việc đầu tiên sau khi mở mắt ra bà hỏi ngay:
- Con Cẩm Hà đâu?
Cẩm Hà đã ngồi bên cạnh, vội lên tiếng:
- Dạ, con đây.
Quay lại nắm chặt tay Cẩm Hà, bà òa lên khóc! Liên Hương vội ngăn lại:
- Má đừng quá xúc động. Con đã nói sơ với Cẩm Hà rồi, cô ấy hiểu và chờ má nói đó.
Bà Phán kéo Cẩm Hà vào lòng, giọng trìu mến:
- Má xin lỗi con, vì hoàn cảnh ngày đó má ra đi mà không kịp đem con theo để con phải mang tiếng mồ côi từ nào đến giờ. Mà phải chỉ có con cùng với con Thu Hường thì chắc nó...
Bà lại sắp khóc, nên Liên Hương lại phải chen vào:
- Vừa rồi Cẩm Hà và cô út cũng đã gặp nhau rồi. Má không cần phải lo nữa, họ đã thông hiểu nhau rồi!
Bà Phán mừng vô kể:
- Cả đời má vẫn nơm nốp sợ chuyện hai chị em nó không biết nhau vô tình sinh hận thù nhau. Bây giờ trong cái rủi còn có cái may. Tuy con Thu Hường chết rồi nhưng trời còn thương má, cho con Cẩm Hà trở về!
Rồi bà nói thêm:
- Lúc mới gặp con má đã giật mình rồi, không phải cái tên mà bởi tướng đi, dáng vóc, nó giống y con Thu Hường!
Rồi bà lại ôm cứng con gái, như sợ Cẩm Hà thoát ra.
Cẩm Hà cũng khóc, hai mẹ con thi nhau khóc vì niềm vui đoàn tụ. Lát sau bà Phán tiếp lời:
- Để má kể lại chuyện tại sao ông Phán Sử suốt đời hận cha con con Cẩm Hà...
Liên Hương nói nhanh:
- Dạ, con mạng phép má, con đã đọc hết những gì trong phòng cấm trên lầu. Và cũng nhờ vậy mà vừa rồi con đã cứu được cô út Cẩm Hà đó!
Kể sơ lại cho bà nghe, bà Phán gật đầu:
- Má không trách gì con hết. Căn phòng đó vì tôn trọng ông ấy nên từ khi ông ấy qua đời má vẫn giữ lại, mặc dù má rất sợ khi phải lên đó.
Bà đứng lên, kéo tay Cẩm Hà và con dâu:
- Đi, mình ra ngoài một chút.
Liên Hương tính ngăn, nhưng nghĩ sao cô lại thôi, dìu một bên cùng mẹ chồng ra ngoài vườn. Cẩm Hà xúc động lắm, cô vừa đi vừa đưa tay lau nước mắt...
Khi đứng trước ngôi mộ bà bỗng trố mắt nhìn cảnh cháy đen và hốt hoảng:
- Sao vậy? Ai đốt vậy?
Liên Hương thuật lại, cô kết luận:
- Có thể hồn phách của cô út và cả anh Tú nữa đã ra đi vĩnh viễn rồi.
Sau gần nửa giờ đứng đó, cả ba trở vào nhà. Bà Phán yêu cầu dẫn bà lên lầu, chỉ cái phòng cấm, bà nói:
- Má muốn lên đó lạy ông Phán ba lạy, má xin lỗi ông ấy.
Nhưng khi đứng trước bức tường, chính bà và Liên Hương cùng kêu lên:
- Ủa, đâu mất rồi?
Chữ "Hận" cực lớn trên tường đã biến mất không để lại một dấu vết gì! Cả chiếc rương gỗ cũng không cánh mà bay!
Bà Phán lắp bắp:
- Hay là... hay là...
Liên Hương nói thầm:
- Chắc là họ rút khỏi nhà này rồi.
Bà Phán đứng lâm râm khấn một lúc rồi bà lặng lẽ bước một mình xuống lầu, không cho ai kè. Có lẽ bà thấy nhẹ người, khỏe khoắn lại như lúc bình thường.


XÁC AI TRONG PHÒNG?


Lưỡng lự khá lâu trước khi quyết định, Hóa bảo người quản lý nhà nghỉ:
- Anh cho tôi chọn khu nhà trên đường lên Liang Biang.
Người quản lý nhìn Hóa khá chăm chú, cuối cùng đưa anh xâu chìa khóa:
- Như đã nói với anh, nơi đó khá vắng vẻ, chỉ dành cho những du khách nghỉ vào mùa hè. Hiện nay chỉ có một cặp đang ở, nhưng đến trưa mai thì họ sẽ trả phòng, chưa có khách nào mới ngoài anh. Mà anh nói sẽ ở trong bao lâu?
- Một tuần và cũng có thể hơn.
- Được rồi, anh cứ cầm chìa khóa đi theo người hướng dẫn lên đó trước, sau đó người mang thức ăn trữ tủ lạnh sẽ lên sau. Ở đó không có hàng quán ăn nên anh sẽ phải dùng thức ăn trữ sẵn. Hằng ngày sẽ có người mang điểm tâm, cơm trưa, chiều cho anh. Nếu đêm anh muốn ăn gì thì gọi điện thoại. Mà điện thoại cũng chỉ gọi được nội bộ thôi, không gọi đường dài được.
Hóa thừa biết những điều đó nên không chú ý lắm, vội cầm xâu chìa khóa rồi leo lên chiếc xe Mobylette cà tàng của anh nhân viên hướng dẫn. Dọc đường, anh còn hỏi Hóa:
- Sao ở trung tâm tiện nghi hơn mà anh không ở, lên chi chỗ khu này buồn thấy mồ luôn, lại thiếu mọi tiện nghi nữa?
Hóa cười:
- Tại tôi thích khung cảnh thiên nhiên, thích yên bình và tránh sự quấy nhiễu.
Anh chàng kia lại nói:
- Nếu cần không khí trong lành, yên tĩnh thì hằng ngày anh cũng có thể lên núi mà chơi, chiều về khách sạn trung tâm để nghỉ ngơi. Việc gì phải...
- Nhưng sao bằng ta ở ngay nơi đó!
Khi lên tới nơi, Hóa chợt nhớ ra, anh nhờ:
- Có thể nào mỗi ngày anh mua giúp tôi một tờ báo ngày, rồi gởi người mang điểm tâm lên, được không? Đây, tôi đưa trước anh tiền đủ mua 1 tuần.
Anh chàng lắc đầu:
- Năm nay là 1960 rồi, nhưng ở Đà Lạt này anh muốn coi nhật trình của Sài Gòn thì phải đợi đến buổi chiều mới có! Vậy làm sao mua cho anh được.
Hóa cười:
- Mua báo buổi chiều cũng được, sáng gửi lên cũng không sao, miễn là có báo để đọc. Tôi vốn ghiền đọc báo mà, mới cũ gì cũng tốt.
Khi anh chàng hướng dẫn tên Tâm đi rồi, Hóa mới bước vào nhận phòng của mình. Nói chung là cũng tạm được. Tuy không khang trang, hiện đại bằng các khách sạn ở trung tâm thành phố, nhưng cũng giường nệm, máy nước nóng tuy cổ lỗ sĩ, nhưng còn hoạt động tốt. Hóa đặc biệt hài lòng với cửa sổ phòng ở hướng ra đỉnh đồi phía sau. Từ đó, anh có thể phóng tầm mắt suốt một quãng dài. Xa tận rừng sâu. Cái thú đam mê cháy bỏng đó đã khiến Hóa chọn khung cảnh sống này.
Tắm rửa vừa xong thì chị nhân viên mang thức ăn cũng vừa tới. Có khá đủ lương thực, chị ta chỉ từng thứ:
- Nếu tối đến, cậu có thích và tự tay làm được thì vài món này có thể có được nồi cháo nóng. Tôi mang cho cậu mấy chai rượu vang và cả chai rượu mạnh nữa đây. Cái tủ lạnh chỉ để trữ thức ăn, chứ không làm đá được, hay đúng hơn là làm rất lâu đặc. Mà cũng đâu cần đá, xứ lạnh mà.
Hóa cám ơn chị ta rồi bảo:
- Chiều nay chị không cần phải mang cơm lên, tôi sẽ ăn nhẹ rồi đi ngủ cũng được.
Nhưng chị ta đã chỉ một "gà mên" để riêng:
- Sao lại không ăn cơm. Xứ lạnh mau đói bụng lắm. Tôi đã mang cho cậu bữa chiều, cậu dùng ngay cho còn nóng.
Đợi chị ta đi rồi, Hóa mới ngả lưng xuống giường đến lúc này anh mới cảm thấy mỏi nhừ cả lưng và vai. Gần suốt ngày ngồi xe lửa Sài Còn, Tháp Chàm, rồi ba bốn tiếng ngồi ôtô - ray leo dốc lên tới Đà Lạt, quả là có sức chịu đựng thì mới kham nổi. Hóa giờ khoái ngủ một giấc hơn là ăn. Và anh đã nằm và ngủ ngon lành, gà mên cơm vẫn còn y nguyên đó...
Nửa đêm...
Hóa choàng tỉnh thì vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên bàn có một mâm cơm đã dọn sẵn.
- Ai vào đây?
Hóa bước xuống nhìn thì rõ ràng gà mên cơm đã được bày ra hết trên bàn. Và còn hơn thế nữa, có cả một đĩa trái cây tráng miệng đã gọt sẵn, đặc biệt là chai rượu vang đã khui, chỉ chờ rót là uống.
- Ai mà chu đáo thế này?
Vốn tính cẩn thận, Hóa lên tiếng hỏi:
- Có ai vào nhà không?
Không ai đáp, chung quanh im phăng phắc. Từ cửa sổ nhìn ra cũng không thấy gì bởi màn đêm dày đặc. Hóa cảm thấy đói bụng, anh đắn đo một chút rồi ngồi xuống ăn ngon lành, anh tự nhủ:
- Chắc là chị đưa cơm trở lại, thấy mình ngủ nên không gọi dậy.
Ăn xong người khỏe khoắn, nhìn đồng hồ thì thấy chỉ mới 10 giờ, anh quyết định thử bước ra ngoài xem ban đêm có gì hay, đồng thời hít thở khí trời mát lạnh mà từ lâu anh đã thèm khát.
Lúc này Hóa mới để ý thấy trong dãy nhà còn có một căn phòng sáng đèn. Chắc là phòng của cặp đôi mà người quản lý khách sạn nói lúc chiều. Thì ra đâu chỉ có mình anh trong chốn tịch liêu này.
- Bớ! Giết... giết người!
Tiếng kêu thật lớn, thật rõ ràng phát ra từ dãy nhà!
Hóa giật mình, cố định hướng xem chính xác tiếng là đó là từ phòng nào.
- Cứu... cứu!
Tiếng kêu lúc này nhỏ hơn, chừng như người bị hại đang nguy hiểm, có thể là sắp tắt thở! Hóa tốc chạy về phía căn phòng có đèn sáng. Đến gần thì đúng là âm thanh kêu cứu đang phát ra từ đó.
- Cứ... ư…
Âm thanh cuối lịm dần... Quên cả hiểm nguy, Hóa cũng không kịp vòng ra phía cửa trước, đã tung mạnh vào cánh cửa sổ đang khép hờ, cửa bật ra. Vừa kịp lúc Hóa nhìn thấy một bóng người to lớn, đang vác trên vai một người khác nhỏ hơn, tóc người đó xõa dài xuống tận sàn nhà.
- Anh ta giết người rồi tẩu thoát đây!
Do dãy nhà khá dài, nên Hóa phải chạy sang mất đến hơn một phút mới ra được phía cạnh mặt tiền. Hoàn toàn vắng lặng, không có bóng ai. Khựng lại một chút, Hóa bước lần về phía cửa phòng của căn hộ còn sáng đèn. Cửa phòng mở toang, đúng là vừa rồi vác xác chết chạy anh ta đã không kịp đóng cửa!
- Không thể để anh ta thoát được!
Hóa vừa lẩm bẩm vừa đuổi theo hướng mà anh đoán là anh chàng nào đó đã chạy. Xuống dốc đến hơn trăm thước mà cũng chẳng phát hiện được dấu vết gì.
- Khuya và tối thế này...
Hóa hơi chán nản quay trở lại, anh nghĩ sẽ điện thoại về trung tâm báo cho họ biết để may ra...
Vừa bước vào phòng, Hóa tá hoả khi nhìn thấy một người con gái nằm xõa tóc trên giường của mình!
Vừa định lên tiếng hỏi thì Hóa phát hiện trên lưng áo cô gái có vết máu loang, anh hốt hoảng:
- Trời ơi, án mạng!
Muốn bước tới điện thoại đặt gần xác chết thì Hóa lại ngại, anh chỉ còn biết la to:
- Bớ người ta, giết người!
Anh la đến khàn cả cổ mà vẫn chẳng ai nghe. Mà thực tế thì lúc ấy ngoài Hóa ra, đâu còn ai ở đó. Làm sao bây giờ?
Quyết định thật nhanh Hóa tức tốc chạy trở lại con đường đã đuổi theo lúc nãy. Anh nhớ lúc chiều đi qua nửa đoạn đường lên đây anh có thấy một đồn công an nhỏ, phải báo ngay cho họ.
Phải mất hơn mười lăm phút sau, Hóa mới xuống tới đồn. Viên cảnh sát trực đang ngủ gật trên bàn, Hóa phải gõ ba lần vào cửa anh ta mới giật mình tỉnh dậy. Vừa thấy Hóa thở hổn hển anh ta hỏi:
- Bị cướp hay gặp thú dữ?
Hóa đưa tay ôm ngực, phải vài giây sau mới nói thành lời:
- Gi...ế... t ng...ư... ờ... i!
- Ai giết?
- Ở trên kia!
Một cảnh sát thứ hai thức giấc, họ cùng hỏi kỹ và phải nửa phút sau Hóa mới bình tĩnh thuật lại cho họ nghe mọi việc và yêu cầu:
- Xin các anh hãy mau lên đó thủ phạm chạy chưa xa!
Hai người cảnh sát đem theo cả súng cùng đi theo Hóa. Một người rành khu này nên nói:
- Vùng này vắng, không có đường xe hơi chạy, nên dẫu có thoát xuống dưới kia thì cũng không chạy xa được. Để tôi gọi bộ đàm cho trạm canh phía dưới, họ sẽ chặn được hắn ta thôi!
Phải mất gần nửa giờ, họ mới lên tới nơi. Hóa chỉ và phòng mình và bảo:
- Xác chết đang ở trong đó. Phòng là phòng của tôi, nhưng trong lúc tôi ra ngoài thì hắn vác xác bỏ vào đó, rồi chạy mất.
Hóa mở cửa phòng ra và...
Hóa hốc mồm nhìn vào, cả sáu con mắt căng ra mà chẳng hề thấy gì trong đó! Một viên cảnh sát hỏi:
- Xác chết nào đâu?
Hóa lúng túng:
- Mới... mới đây thôi mà! Một cô gái tóc dài, bị đâm trên lưng.
Người cảnh sát còn lại làu bàu:
- Cha này bị mộng du rồi!
Tức quá Hóa vào xem kỹ giường ngủ của mình mong thấy một dấu vết gì đó để chứng minh, nhưng tuyệt nhiên không, ra nệm vẫn trắng tinh!
- Kỳ cục quá... !
Chợt nhớ ra Hóa nói:
- Qua phòng của họ!
Anh dẫn hai người cảnh sát sang phòng sáng đèn của cặp đôi kia. Bên trong đèn sáng, nhưng cửa đóng kín. Một anh cảnh sát gõ cửa mấy tiếng. Có người lê dép đi ra vừa làu bàu:
- Nửa đêm mà cũng gọi...
Một cô gái tóc dài tận lưng, bước ra trong trang phục dùng cho phòng ngủ, vừa trông thấy, một cảnh sát đã khoát tay:
- Được rồi, cô khỏi ra, cho tôi hỏi, nãy giờ cô có nghe chuyện gì xảy ra không?
Cô ta lắc đầu:
- Đâu có nghe gì!
Rồi cô ta quay vào, đóng cửa lại. Hóa thẫn thờ nhìn theo. Hai nhân viên cảnh sát cằn nhằn:
- Cha này có tâm thần hay mộng du thì đi nơi khác mà làm phiền. Nửa đêm nửa hôm.
Họ bỏ đi, trong khi Hóa thừ người ra rất lâu mà chưa cất bước về phòng mình được...
***
Sau khi nghe kể lại chuyện, chị người làm hơi biến sắc. Chị kề tai Hóa nói khẽ:
- Hôm qua tôi tính nói mà sợ cậu không tin, ở đây người ta vẫn thường xuyên gặp chuyện như vậy. Hồi trước nghe đâu có một cặp tới ở rồi xảy ra ghen tuông thế nào đó, anh chàng giết cô nàng chết, sau đó tự tử chết theo? Bây giờ thỉnh thoảng hay hiện về phá phách những người một mình. Theo tôi, tốt hơn hết là cậu nên trả phòng đi...
Hóa bướng bỉnh không muốn nghe lời. Tuy nhiên, sau khi suy nghĩ, anh lặng lẽ trả phòng, ra đi với bao thắc mắc trong lòng....
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #63  
Old 11-07-2012, 05:17 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 31

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXXI: Hồn ma Đòi Chồng - Phần 1


Đã hai lần bị thức giấc đột ngột, Huyền hơi bồn chồn trong dạ nên bật dậy định uống một ly nước rồi dỗ lại giấc ngủ. Nhưng khi nhìn đồng hồ trên tường thì cô giật mình. Mới có 12 giờ.
Mọi đêm vào giờ này Huyền đang ngủ rất say, bởi công việc suốt ngày quần quật, mãi đến hơn mười giờ mới buông ra được, có đêm chưa kịp ăn cơm là Huyền đã nhướng mắt hết lên và thường ngủ thay ăn! Và đêm nay, mãi đến hơn 1415 giờ mới chợp mắt, vậy mà cứ vừa đi vào giấc ngủ thì y như là có ai đó chạm vào người, làm cô bé thức giấc. Hai lần rồi mà khi thức dậy Huyền chẳng hề thấy ai bên cạnh.
Hay là tại vắng Hoa...
Có thể lắm. Hai chị em từ nhỏ đến giờ, nhất là từ khi mồ côi mẹ lúc chưa đầy mười tuổi đến nay, không lúc nào ngủ xa nhau. Chiều nay ba bảo chị Hoa đi cùng ba ra vườn ngoài Long Thành mà xe không còn dư chỗ nên Huyền mới chịu ở nhà. Nghĩ Hoa sẽ trở về nhà kịp bữa cơm tối, vậy mà đến 10 giờ Dì Ngọc mới báo là ba về không kịp, phải ngủ đêm ở vườn, và đây là lần đầu hai chị em không ngủ cùng nhau.
Tự cho đó là nguyên nhân khiến mình mất ngủ nên Huyền vừa uống xong ly nước đã trở lại giường và tin rằng mình sẽ ngủ say ngay... tuy nhiên lại một lần nữa, khi Huyền vừa nhắm mắt thì dường như có ai đó nắm lấy bàn chân mình kéo thật mạnh! Huyền bật dậy hỏi lớn:
- Ai vậy?
Bật đèn phòng lên, toàn bộ căn phòng nhỏ hiện ra, nhìn rõ mọi vật, nhưng tuyệt nhiên không có ai, cửa phòng vẫn đóng kín, cài chốt bên trong. Huyền hơi chột dạ, mặc dù xưa nay cô vốn là người không bao giờ biết sợ vu vơ.
Bước tới cửa sổ, bấy giờ Huyền mới phát hiện ra tuy hai cánh cửa vẫn đóng kín, nhưng chốt không gài và ở một cánh khi khép đã kẹt lại một mảnh vải màu xanh lá. Cầm lên xem thì ra đó là một chiếc băng đô cài đầu mà thoạt trông Huyền đã có cảm giác quen quen... Hình như là của ai đó mà cô đã nhìn thấy đôi ba lần. Nhất thời chưa đoán ra là của ai nên thuận tay Huyền bung luôn cánh cửa ra và... cô há hốc mồm khi thấy đứng cách cửa sổ chưa quá mười bước chân là một người phụ nữ xõa tóc, đang đứng quay mặt đi chỗ khác, nhưng nhìn từ sau lưng Huyền đã phải kêu lên:
- Mẹ!
Phải, cái bóng đứng kia trông giống hệt như mẹ, khiến Huyền không chút lo sợ, kêu lần nữa:
- Mẹ! Phải mẹ không?
Rồi như bị một lực hút vô hình, Huyền bung cửa phòng, theo hướng sau nhà, chạy bay ra nơi cô vừa nhìn thấy bóng người kia. Không còn thấy ai nữa, nhưng Huyền vẫn cắm đầu chạy theo hướng trước mặt, vừa chạy Huyền vừa cất tiếng gọi:
- Mẹ ơi! Con là Huyền đây!
Một lát sau Huyền đã ra tới hàng rào kẽm gai phía sau vườn, nơi ngăn khu nhà rộng với bên ngoài. Thường khi, Huyền chỉ đứng bên trong rào nhìn ra rặng cây ở bên kia sườn đồi mà chưa một lần dám bước ra, bởi lệnh cấm của cha, mà cũng bởi sợ một điều gì đó mà lâu lắm rồi Huyền chưa lý giải được.
Lần này thì bằng cách nào cũng phải ra cho bằng được! Huyền nói thầm và cúi người tìm cách chui qua hàng rào kẽm gai khá kiên cố.
- Mất công thôi!
Một giọng nói thật quen thuộc, đồng thời một bàn tay mát lạnh của ai đó đặt lên vai Huyền. Chưa kịp nhìn lại thì toàn thân Huyền đã đờ ra, đầu óc lờ mờ...
***
Mở mắt ra, Huyền suýt kêu lên khi nhìn ra gian phòng bên ngoài, nếu không có bàn tay của ai đó bụm ngang miệng cô lại. Chừng như ai đó không muốn cho Huyền bị lộ diện, nên cô giữ im lặng và nhìn kỹ hơn những gì đang diễn ra trước mắt. Giữa gian phòng lớn đang có bốn người, hai người ngồi quay lưng lại phía Huyền, họ đang chụm đầu vào nhau thì thầm điều gì đó nghe không rõ, nhưng nhìn trên tay họ Huyền lờ mờ đoán ra: Họ đang cầu hồn!
Sở dĩ Huyền đoán được bởi có hôm, vô tình cô đã nhặt được một quyển sách chép tay ở bếp nhà mình, mà tựa đề quyển sách đã nói lên nội dung của nó: Cầu hồn - nói chuyện với vong linh người chết. Quyển sách sau đó bị bà dì ghẻ đòi lại và còn mắng cho Huyền một trận, bởi hình như sách đó là thứ mà bà ta đang nghiên cứu, không muốn để cho ai khác đọc. Trong sách có nói và vẽ cả hình minh họa cảnh lễ cầu hồn, nó giống như những gì Huyền đang nhìn thấy trước mắt!
Lạ lùng hơn, một trong hai người đang ngồi cầu hồn kia là hai người phụ nữ đầu trùm kín bằng chiếc khăn đen! Và khi nhìn kỹ hai người nữa đang nằm im trước mặt họ, lại là cha và chị Hoa!
Huyền hốt hoảng định kêu lên, nhưng lúc này cô như bị điểm huyệt, không há miệng ra được. Người nào đó nãy giờ đứng bên cạnh Huyền cũng đi đâu mất.
Lúc này chợt Huyền nghe người ngồi bên trái lên tiếng:
- Cái vong hồn này lạ lắm, hình như đã được che chở bởi thế lực nào đó mạnh hơn quyền lực của ta, nên nhất thời không trục nó về được!
Mụ bên phải tức tối:
- Đã tốn bao công sức mới gài cho cha con nó đi cùng nhau ra vườn, hầu thực hiện buổi hôm nay. Như vầy có nghĩa là bó tay sao, công cốc sao?
Mụ kia cũng không còn bình tĩnh:
- Tôi có thể nhìn suốt cõi vô hình, muốn trục cái hồn nào về thì phải về, nhưng người này thì đã hai tiếng đồng hồ rồi, sức tôi sắp kiệt rồi đây, mà vẫn chưa làm sao gọi nó về được!
Nhìn lại hai người đang nằm, mụ bên trái ngao ngán:
- Bây giờ biết giải quyết hai của nợ này sao đây?
Mụ kia thu dọn vài thứ linh tinh của mình xong, vừa đứng lên vừa nói:
- Đã là của nợ thì khử nó đi cho rảnh việc!
Mụ bên trái trợn tròn mắt:
- Bộ bà quên là tụi nó còn cần cho tôi đến cỡ nào hay sao! Cho đến khi nào...
Mụ ta kề tai nói khẽ gì đó, rồi họ nhìn trước sau, mụ ta nói:
- Nơi này vắng, ngôi nhà này vốn bỏ hoang từ mấy năm rồi, có lẽ ta bỏ họ ở đây, dù họ tỉnh lại thì cũng chẳng ai hay biết.
Mụ kia hỏi lại:
- Lúc làm cho họ mê man để đưa về đây có để họ nghi ngờ gì không?
Mụ nọ lắc đầu:
- Tôi nhờ thằng tài xế ruột, cho nó số tiền bằng ba tháng lương thì có cạy miệng nó cũng không nói. Nếu có bị hạch hỏi thì nó cũng biết phải trả lời thế nào rồi.
Hai mụ đàn bà nhìn quanh một lượt rồi tắt đèn, rời khỏi phòng. Đợi cho họ đi xa rồi Huyền mới bước ra, bật điện lên và chạy đến bên cha và chị. Huyền càng lo lắng thêm khi hai người vẫn còn bất động.
- Ba ơi! Chị Hoa ơi! Tỉnh dậy...
Gọi đến lần thứ ba thì ông Thiện mới hơi khẽ động đậy hai tay, sau đó từ từ mở mắt ra.
- Đây là...
Huyền mừng rỡ:
- Ba! Ba không sao chứ!
Nhìn thấy con gái, ông Thiện hỏi ngay:
- Hoa đâu?
Lúc này Hoa cũng đã tỉnh, cô ngơ ngác:
- Sao mình ở đây ba? Sao có cả Huyền nữa?
Huyền ngại ở lại không tiện, nên giục:
- Mình rời khỏi đây ngay, nguy hiểm lắm!
Không biết là chuyện gì nhưng thấy thái độ của Huyền, ông Thiện và Hoa cũng phải nghe theo. Khi ra đến ngoài ông Thiện mới nhận ra nơi mình đang đứng:
- Đây là ngôi nhà hoang mà!
Hoa cũng nói:
- Lâu đài ma!
Huyền kéo mọi người đi thật nhanh rời khỏi nơi ấy, đến một nơi an toàn, rồi cô mới hỏi:
- Tại sao ba và chị Hoa nói là đi ra trang trại, sao trở về nơi này?
Ông Thiện bình tâm lại một lúc rồi đáp trong trạng thái mệt mỏi:
- Ba chỉ nhớ lúc sắp rời trang trại ra về thì tự dưng ba xây xẩm đầu óc, rồi sau đó không còn biết gì hết...
Hoa kể lại:
- Khi ba ngất chị đã là người phát hiện. Chị gọi chú Ba tài xế ra phụ khiêng ba lên xe, mãi đến khi xe chạy được một quãng thì chị cũng bị tình trạng như ba vậy!
Huyền kể lại những gì mình vừa nghe được:
- Chú tài xế đã bị người ta mua chuộc để làm chuyện này. Họ là đồng bọn với nhau đó.
Ông Thiện vẫn không tin:
- Ai thì ba còn nghi ngờ, chớ chú Ba ấy thì không thể nào... Bởi chú ấy là người đã làm việc cho ba từ thời ba mới khởi nghiệp.
- Chính tai con nghe hai người cầu hồn nói rõ như vậy. Bây giờ về nhà tìm gặp chú tài xế và hỏi thì rõ thôi. Mà nè ba, sao con thấy cái dáng của một trong hai người cầu hồn quen quen sao đó... giống như bà Ngọc vậy đó!
Ông Thiện nhắc:
- Con quên là bà ấy đã đi du lịch Hồng Kông hai ngày rồi sao. Tuần tới mới về.
Hoa chợt hỏi:
- Huyền nói em gặp mẹ?
Huyền kể mà vẫn còn nguyên vẻ xúc động:
- Em thấy rõ ràng. Chính mẹ đưa em tới ngôi nhà hoang đó, chớ em làm sao biết nơi ấy. Và cũng chính mẹ đã giúp đặt em vào chỗ kín đáo để mục kích được chuyện vừa rồi và kịp cứu chị và ba ra.
Ông Thiện lâu nay vẫn bị hai con oán về việc bước đi bước nữa sau khi mẹ chúng mất, nên rất lúng túng mỗi khi nhắc tới bà vợ trước của mình. Tuy nhiên lúc này ông vẫn lên tiếng:
- Có thể đúng là bà ấy.
Hoa tiếc nuối:
- Phải chi chị có mặt ở nhà để gặp mẹ!
Huyền đưa bàn tay lên sờ quanh miệng mình, nhớ lại:
- Em còn nguyên cảm giác bàn tay mẹ bụm miệng không cho em lên tiếng. Hơi ấm lòng bàn tay y như của một người còn sống. Chớ không như người ta mô tả người cõi âm tay lạnh như băng. Ba nói cho tụi con nghe về cái chết của mẹ đi. Có đúng là mẹ chết sau một cơn bạo bệnh không?
Ông Thiện hơi lúng túng:
- Chuyện đó... lâu rồi... Nhưng mà nhắc làm gì cho thêm buồn.
Nhưng Huyền cương quyết:
- Ba không nói thì có lúc tụi con cũng sẽ rõ. Dì út Hạnh có lần đã nói...
Ông Thiện chặn lại ngay:
- Các con không được nghe dì Hạnh. Giữa dì ấy và bà Ngọc bây giờ vốn có nhiều mâu thuẫn với nhau từ lâu, làm sao dì ấy nói tốt cho bà Ngọc được.
Hoa sẵng giọng:
- Lúc nào ba cũng bênh bà ta!
Biết nói về bà vợ kế thì thế nào cũng rắc rối, nên ông Thiện lái sang chuyện khác:
- Tụi con có muốn biết tại sao người ta gọi ngôi nhà hoang lúc nãy là nhà ma không?
Đúng là bị chạm vào sự tò mò, nên Hoa quên ngay chuyện căng thẳng vừa rồi, cô hỏi ngay:
- Nghe nói đó cũng là sản nghiệp nhà mình?
- Đúng, ngôi nhà ấy hiện vẫn còn là sở hữu của dòng họ mình. Hồi thời Pháp thuộc ông nội các con vừa xây xong ngôi nhà đó thì xảy ra chuyện rồi thì bỏ luôn, không dám ở từ đó đến nay đã trên bốn chục năm rồi!
Huyền hỏi:
- Nhà bỏ hoang nhưng lúc nãy con thấy khu vườn rộng chung quanh khá quang đãng?
- Chỉ có nhà là không người ở, còn khu vườn thì ba cho một người bà con khai thác, nên họ có lui tới dọn dẹp, trồng trọt.
Hoa vẫn thắc mắc:
- Ba nói ngày xưa từng xảy ra chuyện gì?
- Ba không trực tiếp gặp, nhưng nghe ông nội con kể thì lúc nhà vừa xây xong thì vào ban đêm người ta thấy có những bóng người chạy rầm rập trong đó, đèn đuốc sáng choang, nhưng đến khi lại gần quan sát thì chẳng thấy gì! Về sau ông nội con đã nhờ người tìm hiểu nguyên do thì phát hiện nhà xây trên một nền đất vốn trước kia là một nghĩa địa hoang, nơi đó nhiều người bị giết và xác bị chôn giấu một cách bí mật! Ngoài ra người ta còn nói rằng hiện vẫn còn mấy nấm mồ nằm ngay phía dưới phòng khách của ngôi nhà!
Hoa tính nhút nhát nên nghe nói tới ma đã rùng mình:
- Vậy thì phá luôn ngôi nhà cho rồi, để làm gì, vậy mà hồi nãy con với ba nằm trong đó...
Cô lay vai Huyền:
- Còn em nữa, một mình mà lại dám...
Huyền cười hồn nhiên:
- Còn có mẹ nữa chớ bộ!
Nghe nhắc tới người vợ quá cố, một lần nữa ông Thiện lại cố tình nói sang chuyện khác:
- Ba cảm thấy trong người ớn lạnh, ta nên về nhà ngay thôi.
Huyền lo lắng:
- Ba nằm dưới đất chắc là lâu lắm, coi chừng nhập thổ. Đó là chưa nói, còn có thể bị mấy mụ kia làm bùa phép gì đó nữa...
Ông Thiện tự tin:
- Chắc là không có chuyện đó.
Nhưng Hoa thì lo:
- Cũng có thể lắm. Như Huyền kể, họ muốn dùng ba với con để cầu hồn cầu vong của ai đó... Sao kỳ vậy ba?
Ông Thiện chưa đáp thì Huyền đã nói:
- Rõ ràng là họ muốn hại ba, để thực hiện ý đồ gì đó? Nãy giờ con suy nghĩ hoài, họ là ai mà tính chuyện ác như thế chớ?
Họ gọi tắc xi về nhà. Hoa bàn:
- Bữa nay chỉ có cha con mình ở nhà, ta nên làm một buổi liên hoan, coi như mừng thoát nạn và cũng nhân tiện cúng vong hồn mẹ.
Bấy giờ ông Thiện mới dám nói một câu liên quan đến vợ:
- Phải nói là cúng vong mẹ các con trước, sau đó mình liên hoan luôn!
Huyền nhìn cha cảm thông:
- Ba nói phải. Vậy để con đi mua thức ăn, chị Hoa ở nhà lo dọn bàn thờ mẹ.
Nhớ tới chuyện Huyền kể đang ngủ bị kéo chân, Hoa xua tay:
- Thôi để chị đi chợ cho, Huyền lo ở nhà đi!
Hiểu ý chị nên Huyền cũng không tranh cãi, cô chỉ dặn:
- Chị nhớ mua mấy thứ mẹ thích, nhất là món bánh patê chaud.
Nghe các con bàn với nhau làm cho lòng ông Thiện quặn đau. Đã lâu rồi, mỗi khi nhớ đến người vợ quá cố, muốn cúng bà thứ gì ông không dám nhắc các con, mà âm thầm mua về đặt lên bàn thờ rồi âm thầm khấn vái và tránh đi ngay. Có lần Huyền nhìn thấy đĩa bánh paté chaud, cô hỏi của ai thì ông chỉ im lặng rồi quay đi...
***
Vừa bước lên gác lửng nơi đặt bàn thờ mẹ, Huyền đã kêu lên:
- Ba ơi, sao kỳ vậy nè!
Nghe kêu, cả ông Thiện và Hoa đều chạy lên. Họ vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy bát nhang trên bàn thờ đang bốc cháy dữ dội! Hoảng hốt, ông Thiện chạy tới dùng tay kéo vội những chân nhang đang cháy ra, sợ nó cháy lan sang những thứ khác. Nhưng khi nhúm chân nhang vừa được kéo lên thì những giọt nước màu đỏ như máu từ đó chảy ra, rơi loang đỏ cả nền nhà!
Hoa thảng thốt:
- Trời ơi, gì vậy?
Huyền bình tĩnh hơn, bước tới gần, nhìn rồi nói:
- Giống như là máu!
Bảo con bật đèn lên, ông Thiện cúi xuống nhìn thật kỹ rồi cũng xác nhận:
- Giống như máu vậy.
Mà quả là vậy. Bởi thứ nước màu đỏ ấy sau một lúc đã gần như đông đặc lại. Lúc này Hoa càng hốt hoảng:
- Máu... máu của ai vậy?
Huyền tự dưng nhớ tới mẹ, cô la lên:
- Mẹ nguy rồi!
Không ai hiểu Huyền muốn nói gì, cô bé đã vùng chạy xuống nhà dưới, vừa đi vừa gọi Hoa:
- Chị Hoa theo em!
Ông Thiện lo sợ:
- Con đi đâu vậy Huyền?
- Con đi tìm mẹ!
Hoa tức tốc chạy theo. Hai chị em bằng phương tiện xe gắn máy đã chạy hướng ra ngoại ô. Hoa hỏi:
- Mình đi đâu?
- Chị khắc biết!
Lát sau khi đến nghĩa trang thì Hoa mới hiểu:
- Vô chỗ mộ mẹ!
Họ gởi xe và đi bộ tới dãy mộ bên trong. Vừa tới cách mấy chục bước Huyền đã kêu lên:
- Chuyện gì vậy, chị Hoa!
Ngôi mộ xây đã bị ai đó đập phá một phần, dấu vết còn mới.
- Thảo nào...
Huyền lặng người đi một lúc, rồi bảo chị:
- Em nghĩ nó có liên quan tới vụ cầu hồn đêm qua. Họ muốn hồn mẹ phải về với mục đích gì đó, trong khi mẹ thì không khuất phục. Đúng là quân dã man!
- Em nói ai!
- Thì bọn bắt chị và ba hôm qua đó, chớ còn ai nữa!
Một mặt nhờ người bảo vệ nghĩa trang thuê người sửa chữa lại ngôi mộ, một mặt Huyền bảo chị mình:
- Ta đi tìm chú Ba tài xế.
Lúc này Hoa mới chợt nhớ:
- Ờ, nhắc chị mới nhớ, sao lúc về nhà mình không thấy chú ấy đâu?
Huyền kéo tay chị đi, vừa nói:
- Ông ấy đã bị mua chuộc rồi!
- Ai mua chuộc?
Huyền không trả lời, cắm đầu chạy một mạch tới khu lao động bên kia cầu bắt qua con kinh nước đen. Đứng trước một ngôi nhà cửa đóng then cài, Huyền gọi đến ba bốn lượt mà chẳng có ai lên tiếng. Lát sau một người ở nhà bên cạnh thò đầu ra bảo:
- Người ở nhà đó đã trả lại nhà, dọn đi từ hôm qua rồi.
- Họ dọn đi đâu dì có biết không?
Bà nọ lắc đầu:
- Tôi không biết.
Huyền thất vọng quay xe ra, Hoa nói:
- Chị còn biết nhà bà chị của chú ấy ở khu Bàn Cờ nữa, hay ta qua đó xem.
Tuy nhiên lại một lần nữa họ thất vọng. Bởi nhà đóng cửa mà lối xóm chẳng biết là đi đâu.
Huyền quả quyết:
- Tìm ra ông ta thì mọi việc sẽ sáng tỏ.
Hoa chưa rõ lắm nên hỏi:
- Em nghi ông ta đào mộ mẹ? Nhưng nó có liên quan gì tới hiện tượng chảy máu ở bàn thờ lúc nãy?
- Em chỉ suy đoán thôi, nhưng nó đã đúng khi nó trùng với việc mộ mẹ bị đào xới lên. Mà chị không nhớ là việc chôn mẹ, đi làm cỏ mộ hằng năm đều do một tay chú Ba tài xế hay sao?
- Vậy ông ta đào mộ để lấy cắp đồ?
Huyền lắc đầu:
- Em không nghĩ vậy, mà quan trọng và nguy hiểm hơn. Họ muốn hại cả nhà chúng ta nữa!
Hoa là người chân chất, nên tuy là chị nhưng không sâu sắc bằng cô em, vẫn nghĩ đơn giản:
- Xưa nay người ta chỉ đào mộ để lấy cắp vàng bạc, nữ trang mang theo người chết, chớ chị đâu có nghe chuyện đào mộ để làm gì khác?
Biết có nói thêm thì chị mình cũng không hiểu, bởi Hoa là người rất lười đọc sách và cũng không thích tìm hiểu chuyện huyền bí, nên Huyền quay về. Ông Thiện vừa trông thấy con đã nói ngay:
- Có những hiện tượng kỳ lắm. Lúc hai đứa đi rồi nhà mình lại bị cháy lần nữa! Mà lần này tại ở chỗ khác...
Nghe mùi khét còn lại, Huyền hốt hoảng:
- Cháy ở đâu vậy ba?
Chỉ lên lầu hai, ông Thiện nói mà giọng vẫn còn mất bình tĩnh:
- Ở phòng tụng kinh của bà Ngọc.
Chị em Huyền chạy lên thì căn phòng vẫn còn mùi khét và khói. Nhìn mấy bát nhang trên bàn cúng đều bị cháy lụi, tự dưng Huyền buột miệng:
- Đáng đời!
Căn phòng này trước đây là của mẹ, nhưng kể từ khi mẹ mất, nhất là từ lúc mụ "phù thủy" đó chuyển về sống hẳn trong nhà này thì mụ ta chiếm luôn làm nơi hằng ngày tụng kinh gõ mõ, với trang thờ Phật bà cực to mà lúc nào cũng nhang đèn rực rỡ. Không dám xúc phạm thánh thần, nhưng mỗi lần nghe tiếng tụng niệm của mụ ta thì Huyền là người ghét hơn ai hết. Bởi Huyền luôn có ấn tượng mụ ấy tụng kinh mà lòng dạ độc ác, kiểu khẩu Phật tâm xà!
- Huyền có thấy gì không?
Hoa đứng sau lưng vừa hỏi, Huyền nhận ra ngay:
- Bát nhang bàn thờ Phật bà còn nguyên, chỉ những trang thờ khác mới bị cháy!
- Sao lạ vậy?
Huyền kéo tay chị mình xuống dưới nhà, nói cho cha cùng nghe:
- Con tin là mẹ đã làm chuyện này!
Ông Thiện nhìn con gái rồi nhẹ lắc đầu, không nói gì. Hoa lên tiếng:
- Nhưng sao mẹ lại cũng làm cháy bát nhang ở bàn thờ của chính mẹ?
Huyền không đáp, cô giục chị mình:
- Mình lo đi chợ nhanh để còn kịp cúng nữa. Em muốn cúng mẹ thật long trọng. Em đang có cảm giác như mẹ đang hiện diện trong nhà lúc này.
Do không có mặt bà mẹ ghẻ ở nhà, nên chị em Huyền thoải mái hơn, họ làm bữa cúng khá nhanh. Đến giữa trưa thì thức ăn được dọn cúng khá thịnh soạn. Bát nhang bị cháy lúc sáng đã được thay tro mới và khi đốt lên đã cháy bình thường.
Ông Thiện lần đầu tiên, do không có mặt vợ kế, nên đã có vẻ thoải mái khi cúng vái. Ông đứng rất lâu trước bàn thờ, khấn rất thành khẩn và nếu tinh ý sẽ thấy ông đang rơm rớm nước mắt.
Bỗng nhiên Hoa kêu lên:
- Coi kìa, ba!
Cả ông Thiện và Huyền cùng nhìn theo hướng tay chỉ của Hoa và đều sững sờ khi thấy di ảnh của bà Thiện đang có hai giọt lệ màu đỏ như máu chảy xuống!
Huyền là người nhạy cảm, nên nói ngay:
- Mẹ về báo điều bất lành với chúng ta đó, ba!
Ông Thiện lên tiếng, hướng về di ảnh:
- Bà có điều gì phải không? Làm sao cha con tôi nói và nghe được từ bà đây, Ngọc Lệ?
Lần đầu tiên kể từ khi vợ mất, ông Thiện mới gọi tên vợ một cách thoải mái như thế. Điều mà khi có mặt bà vợ kế Kim Ngọc ở nhà ông luôn khép nép, né tránh, kể cả không dám thắp nhang trên bàn thờ vợ lớn.
- Ba ơi, mẹ chớp mắt!
Huyền kêu lên vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Hoa cũng phụ họa:
- Con cũng thấy nữa.
Huyền khấn qua màn nước mắt:
- Mẹ ơi, nếu mẹ hiển linh về đây thì xin mẹ nói hoặc làm gì đi, cả nhà đang có mặt bên mẹ đây nè!
Hai dòng máu từ hai khóe mắt di ảnh càng lúc càng lan rộng ra, khiến ông Thiện phải giục con:
- Lấy khăn sạch đến lau đi con!
Hoa chạy lấy chiếc khăn mặt từ phòng tắm, nhưng vốn nhát gan nên lại đưa cho Huyền:
- Em lau cho mẹ đi!
Huyền chẳng chút sợ hãi, đã bước tới lau di ảnh mẹ.
Chợt cô kêu lên:
- Ba tới coi nè!
Ông Thiện bước tới, nhìn thấy một dòng chữ hiện trên mặt bàn thờ, do vệt máu chảy tới đâu tạo ra đến đó: Tới chỗ ngôi mộ, lấy lên gói giấy mà họ mới bỏ xuống. Hãy cứu mẹ với!
Ông Thiện chưa hiểu hết chuyện nên đưa mắt nhìn Huyền. Cô bé mau mắn:
- Con nghĩ không sai mà, người ta đang muốn hại mẹ!
Huyền lôi tay cha:
- Ba đi với con!
Hoa trông nhà, ông Thiện và Huyền đi nhanh tới nghĩa trang. Những người thợ do Huyền thuê lúc sáng đã hoàn tất phần sửa chữa ngôi mộ. Vừa thấy Huyền tới, họ báo ngay:
- Chuyện lạ lắm! Tụi tui lấy xi măng vá lại chỗ bị đập vỡ kia nhưng làm cả chục lần vẫn không được. Hầu như bao nhiêu xi măng đều rơi tuột vào trong hết. Cuối cùng tui phải dùng một miếng nhôm ốp bên ngoài mới tạm trám được chỗ bị thủng. Nhưng xem ra không chắc chắn lắm.
Ông ta nói vừa dứt lời thì nguyên mảng xi măng mới lại bong hết ra, để lộ một chỗ khá to. Huyền bước tới và không hề sợ sệt, vội cho tay vào lôi ra một gói giấy được cột rất kỹ. Cô quay sang hỏi mấy người thợ:
- Các chú có thấy ai cho cái này vào mộ không?
Mấy người thợ lắc đầu:
- Nãy giờ chỉ có bọn này ở đây, đâu có ai tới. Mà có ai tới tụi tui cũng không cho làm chuyện bậy bạ đó. Mà cái gì vậy cô?
Huyền đưa mắt nhìn cha, rồi nhanh tay mở dây. Qua nhiều lớp giấy, cuối cùng lộ ra một hình nhân bằng vải, có dạng một phụ nữ, cùng với mấy tờ giấy màu vàng có ghi chữ ngoằn ngoèo, kỳ dị.
Trong lúc Huyền chưa biết phải làm gì thì một trong số mấy người thợ tỏ ra rành chuyện, đã nói:
- Đây là hình nhân và bùa ếm của ai đó ếm người trong mộ, may mà cô lấy ra kịp. Bây giờ để hóa giải, cô phải đốt nó ngay đi!
Ông Thiện cũng từng nghe nói chuyện này, nên ông đích thân cầm lấy mấy thứ kia và mượn bật lửa của một người thợ, rồi đốt cháy ngay tức khắc.
Ngọn lửa cháy cũng lạ, nó không phải màu đỏ hay vàng như thường thấy, mà phát ra một thứ ánh sáng xanh lặc lè rất quái dị. Lửa tàn rất nhanh trong tiếng thở phào của Huyền. Cô giục mấy người thợ:
- Mấy chú trám lại giùm chỗ bị vỡ đó đi!
Mấy người thợ vô cùng ngạc nhiên khi việc làm của họ diễn ra khá dễ dàng, chỉ một lúc sau họ đã trám xong lỗ vá khá lớn. Một người nói:
- Chẳng bù với lúc nãy. Có lẽ do cái vật quỷ quái kia cũng nên!
Họ chẳng hẹn mà cùng nhau quỳ xuống trước mộ, lạy một cách thành kính. Huyền cũng khấn:
- Mẹ ơi, nếu muốn gì mẹ cứ hiện về như vừa rồi, con sẽ cùng mẹ...
Lúc này hai mắt ông Thiện đỏ hoe và ông cũng không giấu giếm sự xúc động của mình trước mặt con nữa...
- Mình về ba.
Hai cha con nắm tay nhau rời khỏi nghĩa trang. Lúc đó trời đã xế bóng...
Có điều họ không hay biết, khi họ vừa bước đi thì ở ngôi mộ bà Ngọc Lệ đột ngột xuất hiện một bóng người, chập chờn như sương khói, thoắt ẩn thoắt hiện rồi sau cùng như một vệt khói bay theo hướng cha con ông Thiện.
Đang đi trên đường, chợt Huyền rùng mình liền mấy lần, cô ngạc nhiên nói với cha:
- Tự dưng con cảm thấy lạnh và như có ai vừa hôn má mình, ba ạ!
Ông Thiện cũng vừa có cảm giác như có bàn tay ai đó chạm vào vai mình, lành lạnh... Ông bảo:
- Ba cũng thấy như có cái gì đó...
Khi họ về đến nhà thì lại ngạc nhiên hơn khi nghe Hoa kể lại:
- Lúc ba và Huyền đi chừng một giờ, khi con đang ngồi dưới nhà thì nghe như có tiếng ai bước đi trên lầu, con sợ quá chưa biết phải làm sao thì bỗng có tiếng chuông điện thoại reo. Con bước tới nghe mà mắt vẫn không rời khỏi cầu thang, bên kia đầu dây chỉ có tiếng thở dài mà không ai lên tiếng! Con hỏi thì cũng vẫn nhận được tiếng thở dài đó... Hơi bực mình, con đặt ống nghe xuống thì chuông lại reo. Nhấc ống nghe lên thì vẫn tiếng thở dài. Con hỏi lớn: “Ai vậy?” Thì bên kia chợt có tiếng nói, thật ngắn, nghe như vọng về từ cõi nào: "Hoa hả con?".
Hoa kể tới đây thì cảm giác lạnh cả người, Huyền hỏi:
- Có phải mẹ không?
Hoa lắc đầu:
- Chị sợ quá không dám hỏi và run tay làm rơi ống nghe xuống!
Nghe chị mình nói Huyền tiếc nuối:
- Gặp mẹ mà chị không nói chuyện! Phải chi...
Ông Thiện nhẹ giọng:
- Nếu mẹ đã về thì thế nào bà ấy cũng về nữa. Cứ chờ đi con...
Huyền chạy lên lầu và từ trên đó cô gọi to xuống nhà:
- Đúng là mẹ rồi ba ơi!
Ông Thiện và Hoa chạy lên, họ ngạc nhiên khi thấy Huyền đang ôm bức di ảnh của mẹ trong lồng ngực, bức ảnh sáng rỡ, không có dấu vết gì của những giọt máu lúc sáng. Huyền nói:
- Cả trên bàn thờ, chỗ những chữ máu hồi sáng cũng đã biến mất hết.
Ba cha con nhìn nhau nghẹn ngào...


Bà Kim Ngọc cẩn thận đóng kín cửa sổ, gài chốt bên trong trước khi lên giường ngủ. Bà cảm thấy mệt và buồn ngủ đến nỗi hai mí mắt như bị trì kéo xuống. Sở dĩ bà cẩn thận như thế, bởi lúc chiều khi lên lầu thượng đốt nhang bà đã nhìn thấy bát nhang bị cháy và một vài hiện tượng khác thường. Linh tính báo cho bà một điều gì đó...
Kể cả bộ mặt của mấy đứa con riêng cũng làm cho bà khó chịu. Khi thấy bà trở về chúng chẳng những không chào mà còn vênh lên như thách thức và còn xầm xì những gì đó rất khả nghi... Bà Ngọc vốn là cây gai trong nhà, bà biết thế, nhưng với bà, bọn nhóc đó mới chính là những cây gai cần phải nhổ đi!
Trước khi nhắm mắt tìm giấc ngủ bà ta còn lẩm bẩm:
- Trước sau gì thì cũng phải đến...
Hơn mười hai giờ đêm...
Cả nhà im ắng, lặng như tờ. Bà Kim Ngọc cũng vừa đi vào giấc ngủ ngon. Chợt có âm thanh từ ngoài vọng vào, qua khe cửa sổ. Thứ âm thanh rất lạ, ban đầu nhỏ, rồi rõ dần... đó là tiếng khóc của một người phụ nữ.
Lúc đầu có lẽ chẳng ai trong nhà nghe được âm thanh đó, nhưng chỉ nửa phút sau thì người đầu tiên nghe được chính là bà Kim Ngọc! Bà ta vừa trở mình thì giật mình mở mắt ra ngơ ngác. Ai khóc?
Tiếng khóc càng lúc càng gần và hình như nhắm thẳng vào cửa sổ, nơi sát chiếc giường bà ta đang nằm.
Lúc này bà Ngọc mới hối hận là lúc chiều đã chọc giận ông Thiện, để ông ta sang phòng riêng ngủ. Nếu có ông ta thì dẫu sao bà cũng đỡ sợ hơn.
- Ông Thiện ơi!
Bà ta lên tiếng gọi đại để tự trấn an, chớ biết chắc là ông chồng không thể nghe được. Tuy nhiên tiếng khóc hình như không hề nao núng với sự lên tiếng của bà, mà trái lại, vừa khi ấy chợt có một tiếng động lạ và... giống như có ai vừa nhảy vào phòng!
Do có thói quen ngủ không để đèn, nên lúc này thuận tay bà Ngọc mới bật công tắc lên. Lúc ấy bà ta há hốc mồm chớ không còn kêu được nữa. Trước mắt là một bóng người đứng giữa phòng trong tư thế yên lặng, mặt quay đi hướng khác, nhưng vừa thoạt trông thấy dáng đứng đã làm cho bà Ngọc sửng sốt, run lẩy bẩy:
- Bà... bà là...
Lúc này bóng người kia mới từ từ quay mặt lại. Một phụ nữ với bộ mặt đầy máu tươi đang chảy xuống làm ướt đẫm cả bộ quần áo màu trắng đang mặc. Bà ta vẫn im lặng...
- Ông... ông...
Bà Ngọc cố gọi to hơn, nhưng chỉ được mấy tiếng rồi thì cổ họng như bị ai chận ngang, cảm giác đang nghẹt thở, sắp chết!
- Ô... n... g...
Bóng người kia từ từ bước đến gần giường hơn, hai bàn tay của bà ta vẫn bất động, nhưng càng lúc bà Ngọc cảm thấy như cổ bị siết mạnh và trước mắt tối dần, đầu óc quay cuồng...
Bà ta ngất đi chẳng biết là bao lâu, cho đến khi từ bên ngoài có tiếng bước chân dồn dập chạy rồi tiếng hỏi to của ông Thiện:
- Bà Ngọc ơi!
Gọi không nghe trả lời, ông vặn nắm cửa thì cửa khóa trong. Gọi lần nữa vẫn im lặng. Cuối cùng ông phải chạy về phòng riêng lấy xâu chìa khóa dự phòng sang mở. Vừa đẩy cửa phòng bước vào ông Thiện đã hoảng hốt khi thấy bà Ngọc nằm bất động trên giường mà chung quanh toàn là máu!
- Trời ơi!
Cứ ngỡ bà ta bị giết, nên ông Thiện không dám lại gần, ông kêu to cho hai con gái:
- Hoa ơi, Huyền ơi?
Hai cô gái đang ngủ ở tầng dưới vội chạy lên ngay và họ cũng khựng lại, ngơ ngác đứng nhìn từ ngoài chớ không dám bước vô. ông Thiện sợ hãi:
- Hình như bà ấy bị đâm chết!
Trước sự việc kinh khủng đó, ông Thiện phải điện báo cho cảnh sát. Đến khi xe cảnh sát tới, họ bước vào khám hiện trường thì lúc ấy mọi người mới vô cùng ngạc nhiên, bởi bà Ngọc không hề chết! Bà ta bò dậy, nhìn mọi người đến khi nhìn lại thân thể mình thì bà thét lên, rồi có lẽ vì quá sợ hãi, bà ngất đi lần nữa!
Cảnh sát định chuyển bà ta đi bệnh viện thì bà tỉnh lại, hỏi bằng sự hoảng loạn:
- Bà ta đâu rồi?
Bà ta quay khắp nơi tìm kiếm, cuối cùng chỉ tay về phía cửa sổ, lắp bắp:
- Nó... nó chui qua...
Một cảnh sát tới cửa sổ quan sát rồi nói ngay:
- Cửa sổ cài chốt bên trong thì làm gì có người đột nhập vào qua chỗ đó.
Ông Thiện cũng nói:
- Lúc tôi mở cửa cái vào thì chốt bên trong cũng còn khóa nguyên. Như vậy...
Họ đưa mắt nhìn với sự hoài nghi. Nhất là khi sau đó họ phát hiện ra khắp thân thể bà Ngọc không hề có vết thương nào. Một người hỏi:
- Bà bày ra việc này nhằm mục đích gì?
Bà Ngọc ngơ ngác:
- Cái gì bày ra? Mấy người không thấy tui bị như thế này sao?
- Chỉ có máu vấy khắp giường chứ bà có thương tích gì đâu?
Quay sang ông Thiện, một cảnh sát hỏi:
- Bà ấy có bị tâm thần không?
Ông Thiện lắc đầu:
- Không, bà ấy vẫn bình thường.
Nhưng Huyền thì la lên:
- Bà ấy bị lên cơn đó!
Do bị nghi ngờ dựng chuyện nên bà Ngọc bị hạch hỏi đủ thứ và cuối cùng một viên cảnh sát đã cảnh cáo:
- Nếu bà còn giỡn mặt như thế này nữa thì chúng tôi không để yên đâu!
Mặc cho bà ta lớn tiếng thanh minh, nhưng các viên cảnh sát vẫn không tin. Đến lúc họ về rồi, bà ta lại trút giận lên chị em Huyền:
- Lúc nãy đứa nào nói gì?
Ông Thiện thì không muốn rầy rà trong nhà nên nói xuôi:
- Đã không có chuyện gì thì thôi, bà đi thay đồ đi.
Khác với trước kia lúc nào cũng lép vế, sợ sệt, lúc này tự dưng Huyền tự tin hẳn lên, cô trả treo ngay:
- Tôi nói bà lên cơn đó!
Từ ngày về nhà này bà ta là xếp, chưa từng nghe những lời lẽ chướng tai như vậy, nên bà ta trừng mắt nhìn Huyền:
- Con kia, mày vừa nói gì, nói lại tao nghe coi!
Huyền cũng quắc mắt:
- Từ nay tui miễn có sợ bà đi, tui nói...
Mụ ta quen thói đanh đá, không đợi Huyền nói dứt lời, đã nhào tới định chụp lấy cô bé. Tuy nhiên, bỗng dưng mụ khuỵu xuống và kêu thét lên như vừa bị ai đánh té! Từ khóe miệng bà ta trào ra hai dòng máu.
Phản ứng tự nhiên, ông Thiện kêu lên:
- Bà sao vậy?
Ông bước tới vừa định đỡ bà ta lên thì chợt kinh ngạc:
- Ai viết chữ gì trên ngực bà thế này?
Lúc này nhìn kỹ mọi người mới thấy ngay giữa ngực áo bà Ngọc có một dòng chữ rất sắc nét: "Hãy trả lại những gì đã cướp!".
Ông Thiện còn chưa lên tiếng thì Huyền đã reo lên:
- Đúng là mẹ rồi! Mẹ ơi, trả thù đi mẹ!
Cô bé quá kích động nên vừa chạy xuống lầu vừa la toáng lên:
- Ông trời có mắt bà con ơi! Bớ mọi người, hãy tới coi mẹ con trả thù mụ phù thủy nè!
Trái với thường khi, lúc ấy tuy vẫn còn tỉnh táo, nhưng mụ Ngọc vẫn không phản ứng gì trước những lời của Huyền. Trái lại, mụ ta lại co rúm người lại, vẻ sợ hãi tột độ!
Không muốn làm kinh động lối xóm, nên ông Thiện xuống nhà khuyên nhủ Huyền:
- Rồi bà ta sẽ trả giá, nhưng con làm quá lại không hay.
Hoa cũng nói:
- Coi bộ mụ ta phải một phen kinh hãi lắm rồi, kệ mụ.
Huyền vẫn còn phấn khích:
- Con đoán là vừa rồi mụ ta đã bị mẹ về trị cho một trận nên thân rồi, chứ không phải tự nhiên đâu. Ba có thấy dòng chữ trên ngực mụ ta không, nó giống hệt tuồng chữ của mẹ!
Ông Thiện cũng ngầm hiểu như vậy, nhưng không nói ra. Chỉ có Hoa là thắc mắc:
- Máu vấy đỏ trên giường và quanh người mụ ta là gì vậy, có đúng là máu không? Mà sao mụ ta không bị thương? Hay là...
Câu nói của Hoa làm cho Huyền giật mình:
- Không lẽ máu đó là của...
Hoa hoảng hốt:
- Mẹ bị bà ta làm bị thương?
Huyền vụt chạy bay lên lầu, cô tông cửa vào phòng bà Ngọc, định sẽ truy xem bà ta đã làm gì mẹ mình. Nhưng khi cửa phòng vừa bật mở ra thì cô đứng sựng lại, trố mắt nhìn một cảnh tượng lạ thường trước mắt: Trên bốn vách tường quanh phòng đều có những dòng chữ đỏ như máu, giống hệt dòng chữ trên ngực bà ta: "Hãy trả lại những gì đã cướp của tao!".
Mụ Ngọc thì vẫn nằm yên dưới nền gạch...
***
Bà Mai bước thật nhanh sau khi phát hiện có người cứ đi theo sau mình hoài. Nhưng bà ta càng đi nhanh thì người phía sau lại càng bước nhanh hơn. Qua khỏi đoạn đường ngắn là tới một con hẻm dài hơn dẫn về nhà, bà Mai hơi yên tâm, bởi đây là xóm quen, có gì bà ta chỉ cần la lên một tiếng là có người tiếp cứu ngay. Nhưng tại sao bà ta lại sợ một người cũng là phụ nữ và cũng cỡ tuổi như mình?
Có lẽ do thói quen thôi. Đến khi cách nhà chừng vài chục mét thì bà Mai thở phào, bà bước nhanh, vừa ngoái đầu nhìn lại sau. Người kia không còn theo nữa.
- Có lẽ mình lo xa...
Bà Mai vừa lẩm bẩm vừa tra chìa khóa mở cửa. Đèn vừa bật sáng thì bà ta cũng kêu lên:
- Bà... tại sao...?
Trước mặt bà có một người phụ nữ ngồi sẵn ở ghế phòng khách. Trông bà ta giống y như người vừa đi theo ngoài đường, khiến bà Mai biến sắc:
- Bà... vừa rồi...
Người kia nhếch mép cười:
- Bà buộc tôi phải theo hơi mỏi chân. Hình như bà cố tình tránh mặt, trong lúc tôi chỉ muốn hỏi bà vài câu rồi thôi. Đành vậy...
- Bà là ai? Sao lại vô nhà tôi được?
Đó là chưa kể, chỉ mới thấy đó, sao bà ta lại đi quá nhanh và lọt được vào nhà trước cả chủ nhà! Bà Mai hơi run.
- Khách đến nhà sao không mời được ly nước sao?
Đáng lý phải hỏi cho ra khách là ai, nhưng tự dưng bà Mai lại dịu giọng:
- Tôi xin lỗi...
Bà bước vào phòng riêng với ý định dùng điện thoại riêng gọi ra ngoài báo tin cho ai đó. Nhưng ý định chưa thực hiện được thì đã nghe từ bên ngoài nói vọng vào:
- Báo tin cũng vô ích thôi. Tốt nhất là bà hãy ra nói chuyện với tôi vài câu. Tôi sẽ không ở đây lâu. Mời bà.
Giọng nói lịch sự của bà ta càng làm cho bà Mai rợn người hơn. Bà riu ríu bước ra như bị sai khiến.
- Bà ngồi đi cho. Ai lại tiếp khách mà đứng bao giờ.
Bà Mai cóng cả tay chân, phải vịn vào thành ghế mới ngồi xuống được. Trong giọng nói của người khách như có một ma lực gì đó ghê gớm, khiến cho người đối diện chẳng những không dám nhìn thẳng, mà thậm chí còn không chịu nổi âm thanh từ giọng nói của bà ta.
- Bà là tác giả của những thứ này?
Vừa nói người khách vừa ném ra trước mặt bà Mai một gói nhỏ toàn những tờ bùa chú màu vàng. Thoạt nhìn thấy bà Mai đã há hốc mồm, run rẩy:
- Tôi... tôi...
Bà khách cười khẩy:
- Hỏi bà vậy thôi, chớ khi tôi đã tới đây tức là đã xác định chính bà là tác giả của các thứ này rồi, phải không bà Mai Liên, Miên Lai!
Bà ta còn biết cả biệt danh của mình. Bà Mai càng run hơn:
- Tôi... tôi chỉ... chỉ làm chơi thôi.
Vị khách nghiêm giọng, gắt lên:
- Làm chơi mà để hại người, triệt linh hồn không cho người ta siêu thoát, ngăn không cho người ta bảo vệ con cái người thân yêu của mình sao!
Bà ta nói tới đó thì vụt kéo phăng mái tóc đang xõa trước trán xuống, hỏi to:
- Làm chơi mà suýt đâm thủng hai con mắt người ta như vầy sao!
Lộ ra hai lỗ thủng khá sâu ngay trên chân mày hai bên mắt của bà ta. Giọng bà càng trở nên dễ sợ hơn:
- Nếu không ngăn kịp thời thì giờ này bà và con mụ kia đã thực hiện được ý đồ lấy trọn gói tài sản của một người đã chết. Hành vi tội ác đó làm sao che mắt được ai, hả!
Rồi bà lại rít lên:
- Cái đêm ở ngôi nhà hoang đó, nếu bà và con mụ ác nhân kia thành công thì giờ này còn gì là cái gia đình vốn đã bị nát tan vì lòng dạ con mụ kia...
Bà ta nói tới đó bỗng vụt khóc òa lên, giọng nghe sắc lạnh và thê lương lạ thường! Bà Mai phát sợ, định bước lùi ra thì chợt bị bàn tay vươn ra chụp lấy. Như bị điểm huyệt, bà ta đờ người ra, trước khi bà khách ngừng khóc và hỏi:
- Ai bày cho mấy người cái trò ma quỷ hại người này? Có phải lão tài xế nhà ông Thiện không?
Bà Mai lắp bắp:
- Tôi... tôi không...
- Khỏi chối. Trước khi tới đây tôi đã ghé thăm lão ấy ở Cát Lái, nơi mà bọn các người có cái am tu tiên giả hiệu, lừa bịp thiên hạ! Chỉ tội cho lão Thiện, chỉ vì khờ khạo, tin người mà bị bán đứng, suýt mất mạng!
Bị điểm đúng tim đen, mụ Mai chỉ còn biết ngớ người ra, chờ đợi điều tồi tệ nhất xảy ra. Tuy nhiên, chợt bà khách đứng lên:
- Màn chưa hạ ở đây đâu, bởi mưu ma chước quỷ của bọn các người đâu chỉ đơn giản thế này. Gieo bao nhiêu thì gặt bấy nhiêu, nhớ như vậy!
Bà ta nói xong bước thẳng ra cửa. Thoắt cái đã không còn thấy bóng. Mọi việc diễn ra quá nhanh khiến cho mụ Mai không kịp phản ứng gì...
- Có chuyện gì vậy?
Người hỏi và vừa bước vô là bà Kim Ngọc. Mụ Mai cứ tưởng người khách lúc nãy trở lại nên suýt kêu lên, chừng nhận ra người quen, bà ta dồn dập:
- Bà không tới sớm một chút, cùng tôi...
Bà Kim Ngọc hỏi:
- Chuyện gì sao bà gọi điện cho tôi rồi im lặng không nói gì hết, làm tôi lo quá nên chạy qua đây. Có chuyện gì vậy?
Phải định thần lại một lúc bà ta mới thuật lại mọi chuyện. Vừa nghe xong bà Ngọc hốt hoảng:
- Bà nói... người đó vừa mới ở đây ra?
- Chưa đầy một phút.
- Đúng là nó rồi.
- Bà nói nó là ai?
Bà Ngọc buông người xuống ghế, thất thần:
- Điều không mong đợi đã tới rồi!
Rồi nhìn không thấy ai khác trong nhà, mụ Ngọc vạch ngực áo ra chỉ vào đó:
- Bà xem thì biết!
Dòng chữ màu đỏ như máu, hiện trên da ngực rất rõ ràng: "Hãy trả lại những gì đã cướp của tao!", vừa nhìn thấy bà Mai đã sợ sệt ngồi lùi ra:
- Cái này...
Tự dưng bà ta cảm thấy ngứa ở ngực, vội đưa tay chụp lên đó và bằng đôi tay run run, kéo áo ra... và lần này mụ Ngọc kêu lên:
- Bà cũng có như tui!
Trên ngực người đàn bà này hiện lên dòng chữ: "Phải trả giá cho những gì đã làm!".
Hoảng quá mụ đưa tay chà lên dòng chữ hy vọng sẽ tẩy xóa chúng. Nhưng chỉ hoài công, bởi những chữ ấy chừng như đã nổi lên từ trong da thịt, càng tẩy thì nó càng rõ hơn và còn gây rát bỏng thêm!
Mụ Ngọc chép miệng:
- Tôi đã thử xóa rồi, nó như một vết xăm, không tài nào xóa được.
- Nhưng mụ ấy đâu có đụng vào ngực tôi, mà sao...
Chợt nhớ ra, bà ta kêu lên:
- Phải rồi, chắc là lúc con mụ ấy nắm tay tôi!
Bà Ngọc cũng thuật lại chuyện xảy ra ở nhà mình. Nghe xong mụ Mai sợ hãi, nhìn trước nhìn sau rồi nói rất khẽ:
- Chắc là phải chuyển chỗ ở ngay thôi, ở đây không yên rồi...
Mụ Ngọc thất vọng:
- Tôi đang tính qua ở tạm với bà, mà kiểu này thì không ổn rồi. Bà còn chỗ nào khác không?
Bà Mai suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu:
- Kể cả cái am tu tiên của tôi bên Cát Lái cũng bị phát hiện rồi, còn biết nơi nào là an toàn nữa!
Hai mụ đàn bà đầy mưu mẹo, vậy mà giờ đây đang lâm vào thế bất an. Họ bàn mãi, cuối cùng với bản chất gian xảo của mình, mụ Ngọc kề tai mụ kia nói gì đó một lúc. Cả hai tỏ ra đắc ý:
- Mình phải ra tay trước thôi!
Trước khi ra về, mụ Ngọc dặn kỹ:
- Bà đừng liên lạc với tôi tại nhà. Chuyện đó để cho Ba tài xế lo.
- Mà nè, mụ ta đã biết rõ chuyện làm của Ba tài xế rồi, không êm đâu.
- Vậy tôi sẽ có cách khác, bà cứ yên tâm.
Mụ Ngọc hấp tấp ra về. Bà ta cẩn thận nhìn trước nhìn sau rất kỹ trước khi đi vào con hẻm nhỏ, mãi đến khi ra tới đường lớn mới thở phào nhẹ nhõm. Chiếc xích lô chở mụ ta tới lúc nãy vẫn còn đậu chờ. Mụ hất hàm bảo:
- Chạy về ngay nhà tôi!
- Bà không đi chùa như đã dặn lúc nãy?
- Thôi, tôi có chuyện này gấp hơn.
Mụ quá căng thẳng, nên xe vừa chạy một quãng đã nhắm mắt lại dưỡng thần. Lát sau khi mở mắt ra mụ ngạc nhiên hỏi:
- Chú chạy đi đâu vậy? Ở đây giống như...
Người phu xe không trả lời, có thể là không nghe, bởi lúc đó xe cộ chung quanh rất đông. Bà Ngọc phải lặp lại:
- Đây đâu phải đường về nhà!
Vẫn không nghe anh ta đáp, mà xe thì như được tăng tốc độ, vượt qua mặt nhiều xe khác. Cuối cùng rẽ vào một con đường nhỏ hơn, vắng vẻ. Lúc này mụ Ngọc mới nhận ra, mụ kêu lên:
- Vô khu nghĩa trang này làm gì?
Tay phu xe lúc này mới lên tiếng, giọng hơi lạ:
- Tới đây thăm người quen!
- Kìa, dừng lại!
Nhưng không còn kịp nữa. Chiếc xích lô phom phom chạy thẳng vào cổng nghĩa trang. Cho đến khi ngừng lại thì mụ Ngọc mới ngớ ra, bởi trước mặt mụ ta là hằng hà những ngôi mộ, chẳng biết đâu là đâu.
Rồi chẳng cần ai nhắc nhở, mụ ta bước thẳng tới trước, đi giữa dãy mồ mả. Đến một ngôi mộ xây, có tấm bia đề dòng chữ: Mộ phần của Ngọc Lệ. Lúc này mụ ta mới hốt hoảng:
- Mộ của...của...
- Của người đã bị mụ hại chết!
Mụ Ngọc ngẩng lên nhìn thì thấy người vừa nói chính là bác phu xe. Giọng bác trở nên sắc lạnh:
- Những toan tính xấu xa sẽ phải trả giá, càng để lâu cái giá sẽ càng đắt!
Mụ Ngọc muốn nói gì đó, nhưng hình như mụ ta không còn khả năng ứng khẩu. Rồi như một thân cây đổ, mụ ta khuỵu chân xuống, theo thế quỳ gối, đôi mắt nhìn thẳng vào tấm bia, mà hình như lúc ấy di ảnh của bà Ngọc Lệ đang long lên, đầy căm thù!
Người phu xe đã bỏ đi mất, nhưng mụ Ngọc vẫn quỳ đó, không dám nhúc nhích, cũng không hé môi lấy nửa lời...
Nghĩa địa giờ này vắng lặng như tờ, không có bóng ai khác, nhưng văng vẳng như có tiếng thì thầm của ai đó... Âm thanh càng lúc càng rõ hơn, lát sau chính mụ Ngọc điếng hồn khi nhận ra tiếng ấy phát ra từ dưới mồ!
Âm thanh không thành câu, nhưng những gì rót vào tai mụ Ngọc hầu như mụ ta hiểu hết, nên cứ thỉnh thoảng lại gật đầu và chốc chốc lại nói một mình:
- Tôi biết tội mình. Tôi biết...
- Chỉ vì lòng tham, chỉ vì ích kỷ muốn chiếm đoạt nên tôi...
Không nghe lời chất vấn, nhưng hết câu trả lời này đến câu khác, mụ Ngọc như tự thú:
- Tôi muốn chiếm đoạt cái tài sản đó. Tôi muốn giết chết hết họ bằng nhiều cách... mà cách tốt nhất là một cuộc lật xe có chủ tâm.
Mặt trời lúc ấy đã lên trên đỉnh đầu, nắng như đổ lửa, vậy mà mụ đàn bà ấy vẫn quỳ bất động, miệng thì không ngớt nói và nói...
Cho đến khi xế bóng thì cũng là lúc người bảo vệ nghĩa trang bước tới. Ông ta lên tiếng gọi:
- Bà ơi!
Gọi đến lần thứ ba chẳng nghe đáp, lúc ấy ông ta mới đưa tay lay nhẹ mụ Ngọc. Và, như một khúc gỗ, mụ ta ngã sõng soài trên đất.
Vừa định đỡ mụ ta dậy thì ngay sau lưng ông ta đã có người lên tiếng:
- Để tôi, bà ấy do tôi chở đến, có lẽ do bị huyết áp.
Người phu xe nhẹ nhàng bế xốc mụ ta lên, đi ra chiếc xích lô đậu sẵn. Và cũng như lúc nãy, lão ta cứ đạp thẳng một mạch về hướng mà chắc lúc tỉnh mụ Ngọc cũng không ngờ tới.
Khi ngừng lại trước ngôi nhà hoang phế thì người phu xe lại bế mụ Ngọc vào trong. Đặt mụ ta xuống giữa gian phòng ngập trong bóng tối, lúc ấy lão mới thở hắt ra, chừng như vừa trút được gánh nặng, mà cũng có thể là do đã ráng quá sức. Bởi vừa lúc ấy lão cũng đã giở chiếc nón rộng vành xuống, để lộ ra một khuôn mặt đàn bà, với mái tóc dài vừa buông xuống quá lưng!
Đúng lúc ấy, ở ngoài sân cũng vừa có một chiếc xe hơi ngừng lại. Lát sau một người đàn ông có tuổi, nhưng dáng vẻ khỏe mạnh, hai bên vai vác hai cái bao tải cột kín miệng, bước vào.
Người đàn ông đặt hai cái bao xuống vừa nhìn quanh và tỏ vẻ hài lòng khi thấy mọi bề yên ắng. Ông ta nhanh chóng mở miệng hai bao tải ra và nói một mình, nhưng đủ lớn, bởi không sợ ai nghe thấy:
- Yên tâm mà nằm đây đi, hai con quỷ cái, chỉ lát nữa thôi thì chúng mày tiêu ma luôn!
Thì ra trong hai bao tải là hai cô gái nằm bất động, nhưng thân thể còn mềm mại, chứng tỏ là chỉ ngất đi chứ chưa chết.
Lại nhìn trước sau lần nữa, xong xuôi lão ta quay ra, khóa chặt cửa bên ngoài. Cẩn thận hơn, lão ta đi một vòng quanh nhà, quan sát trước sau, thấy tất cả cửa nẻo đều được khóa cẩn thận.
Lúc ấy lão ta mới yên tâm lên xe, rồ máy chạy từ từ ra khỏi nơi đó. Để lại sau lưng những điều kỳ lạ mà chính lão ta cũng không ngờ tới...
***
Từ trong bóng tối của gian phòng ẩm thấp, mụ Ngọc choàng tỉnh dậy. Mụ ta ngơ ngác định lên tiếng thì chợt tay phải sờ đụng một thân thể của ai đó. Người bị sờ cũng bật dậy và hỏi:
- Ai vậy?
Nghe giọng quen quen, mụ Ngọc hỏi khẽ:
- Chị Mai hả?
- Ủa, bà hả Ngọc?
Họ còn định hỏi thêm, nhưng chợt bà Ngọc nghe bên trái mình có một tiếng động, đưa tay sờ thì hoảng hốt suýt kêu lên. Bởi cạnh bà chẳng biết tự lúc nào đã có sự hiện diện của một người đàn ông!
- Ai?
Cả hai mụ đều không hỏi thêm được tiếng nào thì đã nghe giọng rất khẽ:
- Tôi đây, Thầy Tám...
Mụ Mai ngạc nhiên:
- Sao ông ở đây?
- Tui cũng đâu có biết... Còn hai bà, sao lại...
Hai mụ đưa tay chận lại, không cho lão pháp sư trụ trì am tu tiên ở Cát Lái nói. Bởi vừa lúc ấy họ đã nhìn thấy ở phòng bên ngoài có khá đông người đang ngồi vây chung quanh một phụ nữ mặc toàn trắng, mà vừa trông thấy là cả hai đã điếng hồn.
- Là bà ta!
Vây quanh người phụ nữ vận đồ trắng gồm có ông Thiện, chị em Hoa, Huyền và nếu mụ Ngọc bình tâm có thể nhớ ra, đó là ông bảo vệ nghĩa trang. Ông ta hướng về người phụ nữ ngồi giữa nói một cách kính cẩn:
- Lúc đầu tui không để ý, nhưng qua lần sau thì tôi thấy có một chiếc xe hơi, giống hệt chiếc mà ông Thiện đây đi, do một người đàn ông lớn tuổi, khỏe mạnh lái, đậu phía ngoài cổng nghĩa trang, rồi tài xế đi thẳng vào đây. Ông ta đi thẳng vô chỗ ngôi mộ của bà Ngọc Lệ, sau khi quan sát không thấy ai thì bắt đầu dùng cưa máy loại nhỏ, thứ cưa có thể cắt đứt sắt, cưa đứt một góc ngôi mộ. Tôi là người duy nhất nhìn thấy nhờ đứng ở một nơi khuất, tôi định chạy tới hỏi, nhưng sau đó thấy ông không lấy gì trong mộ ra, mà lại nhét thứ gì đó vô trong mộ. Tôi còn đang ngạc nhiên, chưa biết phải làm gì thì lúc đó có cô đây chạy tới, trong khi người lái xe hơi vừa đi ra nên không hay biết. Chính tôi là người nhận giúp thuê thợ trám lại một chỗ bị vỡ cho cô đây.
Lão vừa nói vừa chỉ sang Huyền. Huyền gật đầu:
- Lúc ấy cháu cũng không biết bác là bảo vệ nghĩa trang, nên đã không kịp xin phép bác để đốt những thứ lấy ra từ trong mộ.
- Tôi nhìn thấy hết và cũng đã mục kích việc bức di ảnh của bà đây chảy máu mắt. Thú thiệt, đã từ lâu, đêm đêm tôi thường nghe tiếng khóc từ ngôi mộ đó. Tôi đoán là người chết có nỗi oan ức gì đó, tôi muốn tìm cách báo tin cho gia đình biết, nhưng ngặt nỗi là không biết họ ở đâu.
Ông ngừng nói, đưa mắt nhìn người phụ nữ trùm kín mặt nãy giờ vẫn ngồi im lặng. Vẫn chẳng có tín hiệu gì từ bà, trong lúc ông Thiện lên tiếng:
- Anh chờ một chút, người này tới rồi anh nhận diện xem có đúng là kẻ đã đào mộ không?
Khoảng 5 phút sau, có tiếng xe ngừng ngoài sân và liền đó một người đàn ông cao lớn bước vào. Huyền kêu lên:
- Chú Ba tài xế!
Hoa nói khẽ:
- Chính chú đã vác tụi mình trong bao tải tới đây. Lúc ấy chị còn tỉnh, nhưng không dám kêu.
Nhìn thấy cảnh trước mắt, Ba tài xế muốn tháo lui, nhưng bỗng chân như bị ai níu lại, rồi như bị một lực hút mạnh, lão lao nhanh tới và quỳ xuống ngay trước mặt người phụ nữ? Vẫn không nghe người đó lên tiếng, nhưng tự động lão tài xế thành khẩn như thú tội:
- Dạ, xin bà chủ tha thứ cho thằng Ba dại dột này. Chính tôi đã cấu kết với con mụ Ngọc để hại bà. Ngay từ lúc bà và Ngọc còn là bạn thân thiết của nhau, khi lui tới nhà chơi mụ ta đã ngầm móc nối với tôi để tìm cách lừa bà vô một âm mưu đê tiện...
Nghe tới đó Huyền đã sôi máu, cô định lên tiếng thì lão Ba đã tiếp lời:
- Lúc bà bị bệnh nằm liệt cả tháng trời cũng là lúc tôi nghe theo sự sai khiến của mụ Ngọc, mỗi ngày khi đưa rước bác sĩ tới nhà khám bệnh, cho thuốc, tôi đã lén tráo thuốc, cho bà chủ uống những loại thuốc lấy từ lão pháp sư ở am tu tiên bên Cát Lái, do mụ Mai chủ mưu. Những loại thuốc bà chủ uống là độc dược, chỉ uống trong vài ngày là bị xuất huyết nội, dẫn đến cái chết không phương thuốc nào chữa khỏi! Bởi vậy bà chủ đã chết khi hai cô Hoa và Huyền đây chỉ mới bảy tám tuổi. Khi bà chủ chết được vài tháng là mụ Mai thực hiện ngay ý đồ, mụ ta tìm cách chèo kéo ông chủ, một bữa gài bẫy để ông chủ mắc mưu tới dự một tiệc rượu ở một khách sạn, khi ông chủ bị say do bị bỏ thuốc mê trong rượu thì mụ ta nhờ tôi dìu ông lên phòng và... ông đã vô tình ăn nằm với mụ ta. Khi ông chủ tỉnh lại thì mụ ta bù lu bù loa lên, nói mình bị làm nhục và buộc ông chủ phải có trách nhiệm với mình. Do không biết bị lừa, nên ông chủ đã chấp nhận cho mụ ta quan hệ và từ đó mụ dần dần thay thế vai trò bà chủ...
Lão ta ngừng nói, lần này nhìn sang ông Thiện, rồi tiếp:
- Sau khi đã thực hiện thành công âm mưu ban đầu, mụ Ngọc vẫn chưa hả dạ, mụ còn muốn tiến hành bước thứ hai là loại bỏ hai cô Hoa và Huyền, bởi sự có mặt của hai cô trong nhà khác nào cái gai trước mắt mụ. Đã ba lần mụ sai tôi chở ông và hai cô đi ra trang trại, xúi tôi tìm cách lái xe lao xuống vực, rồi nhảy ra khỏi xe, bỏ mặc cho ba cha con. Nhưng tôi chưa làm được. Rồi lần cuối cùng, mụ nghe theo mụ Mai và lão pháp sư Tám, định cho mấy cha con uống bùa điên, sau đó ếm cho vong của bà chủ không về báo oán được. Tôi cũng là người đứng ra thực hiện... Tôi đáng tội chết!
Huyền không kiềm chế được, đã nhảy tới chụp lấy lão tài xế, vừa đánh vừa gào thét:
- Quân dã man! Đồ giết người!
Ông Thiện thì trầm tĩnh hơn, ông chỉ chua xót nhìn người tài xế bao nhiêu năm của mình, thở dài:
- Tôi có bao giờ xử tệ với chú đâu, vậy mà...
Ba tài xế rên rỉ:
- Tôi vì tham tiền mà tối con mắt, tôi lạy ông chủ.
Ông ta lạy sâu nhiều lần, mặc cho Huyền liên tục đấm đá. Ông Thiện không đành lòng, liền nói:
- Thôi con, mọi việc có trời. Vả lại...
Ông định nói tới người phụ nữ ngồi trước mặt, nhưng hơi ngượng, nên thôi. Trong lúc Hoa nhỏ nhẹ lên tiếng:
- Mẹ, làm sao bây giờ?
Người mà Hoa gọi là mẹ vẫn yên lặng. Một làn gió nhẹ thổi qua lay động vạt áo của bà, lúc này những người đối diện mới nhận ra thân thể bà hầu như không có, giống như con bù nhìn khoác áo bên ngoài! Hoa kêu lên:
- Mẹ!
Huyền nghe gọi quay lại và cô òa lên khóc:
- Mẹ, sao mẹ như thế này!
Lúc đó thân thể bà vụt đứng lên và chẳng khác gì một bộ quần áo không người mặc, bay lơ lửng giữa không trung!
Ông Thiện giờ mới dám nói với bà:
- Tôi xin lỗi. Bà muốn xử sao tôi cũng chịu.
Nhưng cái bóng như sương khói kia đã từ từ biến vào khoảng không ngoài vườn. Tuy nhiên, trước khi biến mất bà còn nói vọng vào phía trong:
- Ra đi!
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, từ trong phòng tối ba người lần lượt xuất hiện: Mụ Ngọc, Mai và lão pháp sư Tám - Họ khúm núm không dám ngẩng mặt lên và tới quỳ bên cạnh tên tài xế.
Không nói lời nào, bởi lúc ấy dù có muốn nói thì cả lũ họ cũng chẳng thể nào cất tiếng được, bởi nếu nhìn kỹ lúc ấy mới thấy họ đã mất lưỡi!
Mụ Ngọc đổ gục xuống trước, mụ há to miệng như để cho mọi người thấy cái miệng đầy máu, vô cùng ghê rợn của mụ ta!
Hai người kia lần lượt cũng làm như vậy. Nhìn cảnh tượng ấy, dù có phẫn uất tột độ, nhưng chị em Huyền cũng không thể lên tiếng. Ông Thiện quá đỗi kinh hãi, lùi lại định bảo vệ hai con, bỗng vấp phải cái chân của Ba tài xế, khiến ông suýt ngã và cũng nhờ thế đã phát hiện ra lúc ấy gã tài xế đang nằm bất động, miệng trào máu tươi lênh láng.
Hoa yếu bóng vía nên vừa run vừa bám chặt vào em gái. Huyền thì mím chặt môi, nhìn lũ người kia không chớp mắt, theo dõi mọi động tĩnh của họ. Nhưng thật ra lúc ấy cả bọn họ đâu còn gì nữa để mà dõi theo. Lão pháp sư Tám thường khi lắm trò, bày ra lắm thứ hại người, vậy mà bây giờ như một mớ giẻ rách, nằm lăn lộn, rên la.
Sợ Huyền manh động nên ông Thiện kéo tay hai con đi:
- Mình không cần làm gì hết, họ đã đền tội rồi còn gì.
Huyền lúc này mới nhớ đến mẹ:
- Không biết tại sao mẹ lại bỏ đi?
Hoa nhắc:
- Em không nhớ khi cùng chúng ta tới đây mẹ đã nói là mẹ luôn luôn ở bên cạnh mình. Chắc chắn mẹ không bỏ đi đâu.
Ông Thiện cũng nói:
- Mẹ con sắp đặt hết mọi chuyện này, nên có lẽ bà ấy biết phải làm gì. Ba nghĩ lúc này mình nên trở về nhà thì hơn.
***
Có bốn con người biến mất khỏi thế gian mà chẳng ai biết họ đi đâu. Đó là mụ Ngọc, mụ Mai, lão pháp sư Tám và tài xế Ba. Có rất nhiều tin đồn quanh họ. Một trong những tin đó là họ đi chung trong một chuyến hành hương rồi xe bị rơi xuống vực ở một đoạn đèo miền Trung, xe cháy mất xác.
Người nhà họ có đi kiếm tìm, cuối cùng đành phải chấp nhận giả thuyết trên.
Trong khi đó, thật sự họ đang có mặt ở ngôi nhà hoang. Không biết là họ còn sống hay đã chết, nhưng cả bốn người họ như những bóng ma, ban ngày biến mất trong ngôi nhà huyền bí thâm u đó, chỉ ban đêm mới thấy thấp thoáng bóng hình của họ. Nhiều người chung quanh đồn rằng đó là những hồn ma, nên càng ngày càng thêu dệt thêm nhiều chuyện ly kỳ.
Có điều chắc chắn họ là những người câm, tâm thần bấn loạn và thỉnh thoảng lúc nửa đêm thường cất tiếng kêu như chó tru.
Ngôi nhà hoang từ ấy hầu như không còn ai dám lui tới.
Trong khi đó...
Tại nhà ông Thiện mọi việc lại hoàn toàn trái ngược. Nếu mấy năm qua không khí trong nhà luôn căng thẳng giữa hai cô con gái với bà mẹ ghẻ, thì giờ đây một hoạt cảnh gia đình đầy ắp tiếng cười. Hai cô con gái luôn quấn quít bên cha và lúc nào họ cũng ngồi quanh bàn thờ của người mẹ quá cố. Huyền quả quyết:
- Mẹ không sống lại bằng xương bằng thịt được, nhưng mẹ đang có mặt trong ngôi nhà này. Mẹ sẽ về bất cứ lúc nào nhà này gọi mẹ!
Điều đó người ngoài không thể biết được và cũng khó tin, nhưng đang là sự thật! Hằng ngày đích thân Huyền nấu những món mà khi sinh tiền mẹ thích ăn, hoặc cúng những trái cây mà cha kể là mẹ khoái khẩu. Lúc còn con gái... Hầu như tất cả những món đồ cúng trên bàn thờ đều được ăn hết!
Do có những hiện tượng lạ như thế, nên nhà ông Thiện từ đó không thuê người ngoài vào giúp việc. Không một ai hay biết chuyện ấy...
Nếu tinh ý, vào những đêm nhà có yến tiệc, thường tổ chức trên lầu, thì từ dưới đường nhìn lên có thể thấy được vây quanh bàn tiệc luôn có bốn người: Ba cha con ông Thiện và một bóng người phụ nữ luôn ngồi giữa họ.
Có một người phụ nữ ở cõi âm đã đòi được chồng sống ở dương thế...


Phần 2


Ở vùng kinh xáng này không nơi nào đông khách bằng nhà Huyện Hỉ, bởi vậy chuyện một vài chiếc ghe bầu sang trọng ghé vào bến cùng lúc không phải là chuyện lạ. Tuy nhiên, lần này có đến bốn chiếc ghe sơn phết sặc sỡ, rèm sáo treo đẹp mắt ghé một lượt đã làm cho đám gia nhân nhốn nháo cả lên. Mà người đứng ngồi không yên lại là cô con gái rượu của nhà Huyện Hỉ. Đã suốt từ sáng sớm, lúc nào cô Hai Tuyết cũng hỏi thăm con Năm Nở, đứa tớ gái riêng của mình:
- Có thấy khách nào tới chưa?
Biết cô chủ mình đang nóng lòng đợi một ai đó, nên Năm Nở trấn an:
- Cô cứ để con canh chừng cho, hễ có khách tới là con chạy vô báo tin ngay!
Đến lúc thấy đoàn ghe bầu vừa cặp bến, con Nở đã ba chân bốn cẳng chạy bay vào phòng riêng của chủ thông báo liền:
- Tới rồi cô Hai ơi!
Hai Tuyết quýnh lên:
- Đông người không?
- Dạ, tới bốn ghe lận, có đến vài chục người!
Dù đã chuẩn bị sẵn, nhưng Tuyết vẫn không bình tĩnh khi hết chụp món này lại chụp sang món khác, một lúc vẫn chưa chọn được cái áo nào để mặc vào. Con Nở lanh lợi, biết tâm trạng chủ nên nó nói ngay:
- Cô Hai nên bận cái áo màu hồng, đẹp hơn màu xanh lục kia.
Lời nhắc của con Nở đã khiến cho Tuyết nhớ ra là đã cả chục lần cô mặc thử chiếc áo dài màu cánh sen mà lần nào nhìn vô kính cũng thấy hài lòng. Vậy thì tại sao phải đổi màu khác...
Con Nở nhanh nhẩu chạy trở ra, nó nói với lại:
- Khi nào ông bà gọi, con sẽ chạy vô cho cô hay!
Khách từ trên bốn chiếc ghe bầu bước xuống quả là đông như lời mô tả của con Nở. Mà người nào cũng ăn mặc sang trọng, quần lãnh áo lụa đủ sắc màu. Lại có những người bưng mâm quả nữa, giống như một đám hỏi.
Con Nở đứng nhìn mà không chớp mắt, nó tự hỏi:
- Hổng lẽ bữa nay đám hỏi cô Hai Tuyết?
Chuyện trọng đại này sao nó không nghe cô chủ nói? Bởi nhất nhất chuyện gì cô chủ cũng thường thổ lộ với nó, vì cô là người sống khép kín, ít đi lại, không có bạn cũng không se sua, đỏng đảnh như hầu hết các cô tiểu thơ nhà giàu khác.
Khi đoàn khách kéo hết vào nhà, được đích thân ông bà Huyện đón tiếp, thì Nở đã nhanh chân chạy đi báo ngay:
- Đúng là đám hỏi cô ơi! Có đủ lễ bộ, mâm trầu cau, ngũ quả và con còn nghe bên kia nói bữa nay là ngày lành tháng tốt nữa...
Hai Tuyết hơi ngạc nhiên:
- Làm gì có đám hỏi gì ở đây? Bữa nay tao đang chờ gia đình anh Ba Thông qua để...
Con Nở mau miệng:
- Con đâu có thấy thầy ký Thông! Đây toàn là những người lạ không hà.
Tuyết lẩm bẩm:
- Ba má đã đồng ý mời người ta qua mà. Sao lại có khách nào nữa?
Chính ngày hôm qua Tuyết còn nhắc lại chuyện ba má mình chịu cho mời cha mẹ thầy ký Thông sang chơi và cũng chính Tuyết đã cho gia nhân tức tốc đưa ghe sang đó rước họ. Đáng lẽ giờ này họ cũng đã về tới...
- Thưa cô Hai, ông bà cho mời cô Hai ra tiếp khách.
Tiếng của con Sáu Lý, đứa tớ hầu hạ bà Huyện nói vọng ngoài cửa phòng. Hai Tuyết bước vội ra hỏi nó:
- Khách nào vậy?
Con Lý lắc đầu:
- Dạ, con cũng hổng biết. Bà dặn cô sửa soạn quần áo cho chỉnh tề.
Nói xong nó bước trở ra ngay. Tuyết bảo con Nở:
- Mày ra coi kỹ lại coi khách tới làm gì, nói gì rồi vô đây báo ngay cho cô!
Con Nở chạy ra vừa lúc nghe bên khách nói:
- Thưa anh chị Huyện, được sự cho phép của anh chị, vợ chồng tui đã nhờ người coi tuổi rất kỹ, may quá tuổi thằng Tư nhà tui và tuổi cô Hai nhà này hạp nhau vô cùng! Thầy bói nói hai tuổi này mà ăn ở với nhau sẽ sinh quý tử, dựng nên nghiệp lớn sau này!
Họ còn nói nhiều nữa, nhưng nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm cho con Nở điếng hồn, nó chạy bay vô, báo tin mà không giữ nổi bình tĩnh:
- Không... không xong rồi... cô Hai. Họ... họ đi... cưới... cưới cô!
- Ai cưới?
- Cưới cô Hai! Họ đang bàn chuyện...
Vừa lúc ấy con Lý lại trở vô:
- Thưa cô Hai, bà hối cô ra liền, nếu không bà vô đó!
Tuyết giục con Nở:
- Mày ra nghe kỹ lại coi!
Con Nở vừa bước ra thì đã thấy bà Huyện bước nhanh vào:
- Sao kêu cả buổi mà không chịu ra vậy, Tuyết! Còn con này nữa, biểu mày kêu mà sao còn ở đây?
Con Nở lúng túng:
- Dạ con... con...
Tuyết bước ra, hỏi mẹ:
- Khách nào vậy má?
Bà Huyện nghiêm giọng:
- Vợ chồng Bá Hộ Tòng bên Cái Tàu. Bữa nay họ qua... coi mắt con.
Tuyết trố mắt nhìn mẹ:
- Má... con đã nói rồi, bữa nay bên nhà thầy ký Thông...
Bà Huyện chặn ngang:
- Ai qua cứ qua, còn đám này ba má đã hẹn trước. Người ta lại mang lễ vật...
Bà ta biết là hố lời nên dừng lại, nhưng Tuyết đã hiểu, cô lớn tiếng:
- Có phải ba má hứa gả con cho họ không?
- Thì... con cứ ra chào người ta đã. Còn gả hay không là quyền của mình, chớ phải lấy ngay đâu mà sợ!
Bà nói xong thì trở ra nhà ngay, nhưng trước khi đi đã không quên thòng một câu:
- Ra ngay, chớ để ba mày vô thì có chuyện lớn đó!
Tuyết buông mình xuống giường, cơn phẫn nộ trào dâng, nhưng nguồn cơn sự việc lại bắt đầu từ cha mẹ, nên cô đâu thể nào trút ra sự thịnh nộ. Bởi vậy chỉ có khóc là hữu hiệu nhất. Tuy nhiên con Nở đã nhắc:
- Cô Hai đừng khóc, son phấn trên mặt hư hết, ông lại nổi giận...
Nó ôm chầm lấy cô chủ, an ủi:
- Không sao đâu cô Hai. Cô cứ ra chào khách, rồi chút nữa khi khách của cô tới thì ắt họ sẽ hiểu. Làm vậy đi cô.
Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng sự khôn dại thì con Nở còn tỏ ra hơn hẳn cô chủ của mình. Cho nên sau khi nghe nó phân tích, Tuyết đã quẹt nước mắt, dặm lại son phấn rồi miễn cưỡng bước ra chào khách.
Người đứng bật dậy trước tiên khi thấy Tuyết xuất hiện là một chàng trai tuổi trên hai mươi, đầu tóc láng bóng, ra dáng công tử nhà giàu. Khi Tuyết cúi chào thì người phụ nữ lớn tuổi bên phía khách lên tiếng ngay:
- Con Hai nhà anh chị quả là đẹp người đẹp nết, xứng đôi với thằng Tư nhà chúng tôi phải biết!
Thấy dáng vẻ miễn cưỡng của con gái, bà Huyện phải lên tiếng trước:
- Bữa nay cháu nó không khỏe trong người, nên ra chào rồi xin phép cho nó vô nghỉ ngơi.
Người phụ nữ lớn tuổi bên khách đúng là bà bá hộ Tòng, bà ta đứng lên nhanh, vừa chụp lấy tay Tuyết vuốt ve.
- Bác không ngờ cháu lại trắng và đẹp đến như vầy! Cũng may, bác đã lường trước nên cũng không phải thiếu chu đáo...
Bà lấy ngay ra từ trong giỏ xách một chiếc hộp bọc nhung đỏ và nói ngay:
- Cườm tay trắng ngần này mà đeo vòng cẩm thạch thì thua gì Tây Thi!
Bà ta vừa nói, vừa nhanh nhẹn tròng vào cổ tay của Tuyết chiếc vòng cẩm thạch khá to:
- Vòng này tui gởi mua từ bên Hồng Kông, chỉ để tặng cho... con dâu tương lai thôi!
Bà là tay khá sành sõi chuyện đeo vòng, nên chỉ loáng một cái, chiếc vòng đã nằm gọn ở cổ tay của Tuyết. Khiến cho Tuyết có muốn phản đối cũng không kịp, cô chỉ lí nhí:
- Con không... không quen đeo...
Quay sang bà Huyện, bà bá hộ nói nhanh:
- Đây là quà riêng tui cho con nó, không nằm trong lễ vật, anh chị cho phép.
Một cách bướng bỉnh, Tuyết tìm cách tháo chiếc vòng ra, nhưng không tài nào làm được. Nhìn thấy, bà Huyện vội lên tiếng:
- Con tới đứng bên má đây một chút rồi xin phép vô nghỉ.
Đôi mắt cú vọ của anh chàng con trai nhà bá hộ cứ nhìn thẳng vào phía Tuyết. Con Nở núp trong màn nhìn ra cũng thấy chướng, nó thầm nghĩ: "Đàn ông con trai gì thấy con gái là nhìn muốn... muốn rớt... luôn!".
Lát sau bà Huyện đích thân đưa Tuyết vô, bà dặn khẽ:
- Không được tháo chiếc vòng ra, nghe chưa!
Khi trở về phòng rồi, Tuyết mới òa lên khóc. Cô khóc nức nở làm nhòe cả son phấn trên má, khiến cho con Nở lo lắng:
- Cô bình tĩnh, chớ có...
Tuyết giục:
- Em ra bến đợi coi, chừng nào thấy có ghe ghé lại thì vô báo ngay.
Nở đi chưa tới bến thì đã gặp Bảy Nô, anh chàng được Tuyết sai đi rước nhà ký Thông. Nó ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, sao chú về một mình?
Bảy Nô tỏ vẻ sợ sệt:
- Tui... tui đâu có rước cậu ký.
- Sao vậy? Cô Hai đang chờ mà?
Bảy Nô ghé sát tai Nở, thì thầm:
- Hồi sáng khi tui đi được một đoạn thì bà Huyện sai người chạy ghe máy theo kêu lại, biểu khỏi phải rước. Rồi còn cho tui mấy đồng ra chợ ăn hủ tiếu từ sáng tới giờ nữa!
Con Nở thốt lên:
- Hèn chi!
Nó định chạy vô báo cho Tuyết biết chuyện, nhưng Bảy Nô đã kéo lại:
- Mày mà nói cho cô Hai biết là bà Huyện đuổi cổ mày ra khỏi nhà đó!
Nở mím chặt môi, nó đứng thẫn thờ hồi lâu, rồi giả bộ đi về phía nhà kho, đợi cho Bảy Nô không để ý, nó chạy vụt vào phòng của Tuyết, cuống quýt:
- Cô ơi... không... không xong rồi! Cậu Ký... cậu Ký...
Tuyết hốt hoảng:
- Có chuyện gì?
Mãi hồi lâu Nở mới nói thành lời:
- Cậu Ký không... có qua!
Tuyết ngạc nhiên:
- Sao em biết?
- Bảy... Bảy Nô...
Nó thuật lại đầu đuôi lời Bảy Nô, rồi còn dặn:
- Nếu cô mà nói ra vụ này thì Bảy Nô và con sẽ bị đuổi lập tức!
Tuyết mím chặt môi, hai tay nắm lại để kiềm chế cơn uất nghẹn trong lòng. Trước mắt cô bầu trời như tối sầm lại...
Lát sau, khi đã trấn tĩnh lại, Tuyết bảo khẽ con Nở:
- Em lén lấy chiếc xuồng nhỏ, bơi trước ra vàm và đợi cô ở đó, cô sẽ ra sau. Nhớ đem theo mấy bộ đồ.
Con Nở tròn mắt nhìn cô chủ. Nhưng nó không nỡ ngăn cản hay chối từ. Bởi lúc ấy nó nhìn thấy hai dòng lệ đang lăn dài trên má Tuyết...
***
Thấy con trai cứ đứng ngồi không yên, mà suốt mấy ngày liền không đi làm, vợ chồng Tám Thảnh đều lên tiếng hỏi:
- Sao con không đi làm việc, bữa nay là thứ Hai mà?
Thông đáp nhẹ hều:
- Con nghỉ...
Thím Tám ngạc nhiên:
- Nghỉ phép hay sao?
- Dạ nghỉ luôn...
Đến phiên chú Tám tròn xoe mắt:
- Con nói vậy là sao? Bộ bị ông Huyện cho thôi việc hả?
- Dạ.
Thím Tám lo lắng:
- Bộ con làm điều gì không hay phải không? Chớ có lý nào xưa nay ông bà Huyện thương con, giúp đỡ cho vào làm ở công sở, mà còn...
Bà muốn nhắc tới chuyện bà Huyện có lần còn nói xa nói gần việc tác hợp cho con gái họ với Thông, nhưng thấy chồng lừ mắt nên thôi. Thông lấy ra một bao thư lớn, đưa cho cha mẹ:
- Hồi sáng nay ông bà Huyện gửi cái này cho con. Ba má coi thì sẽ rõ.
Ông Thảnh mở bao thơ ra và ngạc nhiên vô cùng khi thấy ngoài một lá thư còn có khá nhiều tiền!
- Tiền gì nhiều dữ vậy?
Trong lúc thím Tám hỏi thì chú đọc nội dung lá thư. Đọc xong, chú thẫn thờ:
- Người ta cám ơn về sự nhiệt tình bấy lâu nay của thằng Thông, nhưng nay vì nhu cầu công việc, cần người khác thích hợp hơn, nên quyết định cho thằng Thông nghỉ. Để đền bù công lao của nó, ông bà Huyện gửi cho một số tiền khá lớn...
Thím Tám cầm xấp tiền đếm kỹ, rồi kêu lên:
- Tiền này mua được mấy chiếc ghe lớn cũng chưa hết!
Thông thở dài:
- Con đâu có ham tiền bạc này. Cái mà con cần là...
Chú Tám chặn lời con:
- Người ta đã nói vậy rồi và cũng đã biết điều cho mình số tiền lớn, thôi thì mình lo kiếm chuyện khác mà làm.
Thím Tám mau miệng:
- Có số tiền này mình mở một vựa gạo ở chợ, thằng Thông giỏi tính toán thì ở nhà làm chủ mua bán, còn tui với ông lấy tiền mua thêm chiếc ghe đi thu mua lúa gạo về cung cấp cho cửa hàng. Cái nghề này mau khá lắm đó nghen!
Trong lúc cha mẹ say sưa bàn tán chuyện làm ăn thì Thông lặng lẽ bước ra trước sân nhà, nhìn ra sông mà nghe lòng tê tái. Chỉ mới hôm thứ bảy đây thôi lúc về nghỉ cuối tuần Thông còn dệt bao nhiêu là mộng đẹp, khi chính anh đã được Tuyết thỏ thẻ khi tiễn anh lên ghe:
- Ba má đã chịu cho tụi mình tính chuyện cưới hỏi rồi đó. Có thể sáng mai em sẽ cho người qua đón ba má và anh qua gặp mặt ba má em để người lớn nói chuyện.
Vậy mà...
- Làm gì mà thừ người ra vậy?
Giọng nói phía sau lưng làm cho Thông giật mình, quay lại và... há hốc mồm kêu lên:
- Tuyết!
Nhìn Tuyết bằng xương bằng thịt đứng trước mắt mà Thông cứ tưởng như mơ! Tuyết phải nhắc:
- Không xách tiếp người ta chiếc va-li nặng nữa sao!
Thông lúng túng đỡ lấy chiếc va-li lớn, lắp bắp nói:
- Em... em qua đây... với ai?
Nhìn lại trước sau cũng chỉ mình Tuyết nên Thông càng nhạc nhiên hơn:
- Em đi một mình?
Tuyết gật đầu:
- Đi một mình, chắc là không được thầy ký tiếp đón phải không?
Hai người đang nói chuyện thì thím Tám từ trong nhà bước ra, kinh ngạc:
- Ai vậy con?
Thông quay về phía mẹ:
- Đây là cô Hai Tuyết, con gái ông bà Huyện.
Hồi nào đến giờ chỉ nghe con nói, chớ chưa gặp mặt Tuyết bao giờ, nên thím Tám Thảnh ngoài sự bất ngờ về sự xuất hiện đột ngột của khách, thím còn sững sờ trước tấm nhan sắc của cô con gái quyền quý!
- Kìa má, khách tới nhà mà má không mời vô, còn đứng đó...
- Ờ, ờ... mời cô vô nhà. Mèng ơi, rồng mà tới nhà tôm, làm cho tui hết hồn!
Tuyết cười dịu dàng:
- Con tới xin cơm hai bác và anh Thông, chớ khách khứa gì.
Thông là người tinh ý, anh nhìn chiếc va-li thì hơi thắc mắc, phải đợi khi Tuyết nói câu đó anh mới hỏi khẽ:
- Em đi đâu mà đem đồ đạc nhiều vậy?
- Qua đây ở luôn!
Câu trả lời khiến Thông ngơ ngác:
- Em...em...
Tuyết tế nhị nói đủ cho Thông nghe:
- Lát vô nhà em sẽ nói sau.
Chú Tám nghe có khách thì cũng bước ra. Đã từng qua thăm nhà ông bà Huyện Hỉ, và đã từng gặp mặt Tuyết, nên chú ngạc nhiên quá đỗi khi thấy sự hiện diện của cô ở đây:
- Cô Hai... đi với ai?
Tuyết cúi chào và lễ phép đáp:
- Dạ, con đi một mình.
Vừa vào trong bỗng Tuyết vòng tay trước mặt chú thím Tám:
- Con xin phép hai bác, cho con được tá túc và cũng xin hai bác tác hợp cho chúng con.
Đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác nên chú thím Tám nhất thời chưa biết phản ứng ra sao. Trong lúc Thông thì lúng túng:
- Em... sao em... như vậy? Hay là...
- Em trốn khỏi nhà!
Câu trả lời của Tuyết làm cho mọi người như đang mơ! Thím Tám kêu lên:
- Chuyện này rắc rối lắm đây!
Chú Tám thì đăm chiêu. Lúc này chỉ có Thông là còn tỉnh táo, anh hỏi kỹ lại:
- Có chuyện gì bên nhà?
Tuyết không giấu giếm, đem chuyện nhà kể ra hết. Rồi cô tha thiết:
- Con hết đường tính rồi, nên mới làm liều thế này. Xin hai bác thương tình, cho con ở tạm ít bữa, rồi con với anh Thông sẽ tính.
Trước tình cảnh đó, không còn cách nào khác, nên vợ chồng Tám Thảnh đành phải chấp nhận. Thím Tám bảo Thông:
- Con dọn phòng đã làm sẵn chờ ngày con cưới vợ cho cô Hai đây nghỉ. Con ra ngoài này ngủ ở bộ ngựa gõ.
Không ngờ Tuyết đã quỳ ngay xuống:
- Hôm nay con xin phép được kêu hai bác là ba má! Bởi dẫu gì thì con đã quyết là vợ anh Thông rồi, nếu bữa nay mà không đặt ba má con trước sự đã rồi thì không hy vọng gì sau này được sự đồng ý.
Quá bất ngờ nên đôi vợ chồng chân chất chỉ biết lặng thinh. Còn Thông thì chỉ biết nắm chặt tay Tuyết trong tay mình, lí nhí gì đó không ai nghe rõ...
Tuyết không đợi sự đồng ý của cha mẹ Thông, đã kéo tay Thông vô trong, rồi nói nhanh:
- Nếu ta không thành chồng vợ ngay bữa nay thì ba má em sẽ tìm và bắt em về, lúc đó có hối cũng không kịp!
Tội nghiệp Thông, vốn xưa nay chỉ biết nghe lời, có dám cãi ai đâu, nhất là với cô con gái rượu của ông Huyện Hỉ, người là chủ và là người ơn của mình. Bởi vậy, lời nào Tuyết nói ra anh chàng cũng chỉ biết gật đầu rồi làm theo...
Đêm đó lễ động phòng bất đắc dĩ của Thông và Tuyết đã khiến cho đôi vợ chồng già phải mất ngủ cả đêm. Đến gần sáng thì thím Tám bàn với chồng:
- Bề gì thì tui với ông cũng phải qua bên nhà ông bà Huyện để thưa cho rõ chuyện này. Con gái người ta là cành vàng lá ngọc, tuy nó quá thương con mình mà làm liều như vậy, nhưng dễ gì họ để yên...
Chú Tám cũng đồng ý:
- Tui với bà lấy cớ đi công chuyện, đừng cho tụi nó biết, rồi đi luôn qua bên đó ngay sáng nay.
Mặt trời đã lên cao nhưng Thông và Tuyết vẫn chưa dậy, chú Tám Thảnh sau khi hội ý với vợ, đã đứng ngoài nhà nói vọng vào:
- Ba má có chuyện đi qua bên Cồn, tới chiều mới về. Hai đứa ở nhà cứ ăn cơm trước, đừng đợi.
Họ xuống xuồng và bơi nhanh về hướng Phụng Hiệp. Trên đường đi, chú Tám cẩn thận bàn trước những cách đối đáp khi giáp mặt ông bà Huyện:
- Người ta là nhà quan, bởi vậy có nói chuyện thì bà cũng phải tính toán, đừng nói lung tung. Cứ những gì tui dặn hồi hôm mà nói.
- Tui lại sợ ông, khi được mời vài ly rượu thì ruột gan gì cũng móc ra phơi bày hết, không khéo lại hư bột hư đường!
Mãi bàn đủ thứ chuyện nên quãng đường mấy chục cây số không mấy chốc đã tới nơi. Từ xa nhìn cơ ngơi đồ sộ của nhà Huyện Hỉ, đôi vợ chồng già thấy tủi thân:
- Sui gia nhà người ta như vầy, còn mình thế kia, thiệt khó hết sức...
Nhưng khi xuồng tấp vô bến thì thím Tám ngạc nhiên hỏi chồng:
- Ông nghe in là tiếng trống, tiếng kèn... đám ma, đúng không?
- Chắc là ở gần đâu đây.
Nhưng lúc bước lên bờ thì chính chú Tám phải sững sờ khi nhìn cảnh nhộn nhịp đang diễn ra đúng ở nhà của ông Huyện! Bảy Nô là người từng đôi lần sang nhà chơi, nên vừa trông thấy vợ chồng Tám Thảnh đã ngạc nhiên kêu lên:
- Kìa, sao hai ông bà biết tin mà sang đây? Còn thầy ký Thông đâu?
Thím Tám linh tính nhạy hơn, đã hỏi ngay:
- Đám... của ai vậy?
Bảy Nô chép miệng:
- Thì của cô Hai Tuyết chớ ai!
- Hả? Cái... cái gì?
Ngỡ là họ quá xúc động, nên Bảy Nô lập lại:
- Cô hai nhà này mới mất hồi trưa hôm kia. Cô ấy đi xuồng với đứa tớ gái, khi qua sông lớn đã bị gió thổi lật xuồng. Cả hai đều không biết lội nên chìm luôn. Mới vớt xác được sáng qua.
- Ông ơi...
Thím Tám nắm chặt tay ông, miệng muốn nói mà chẳng làm sao thốt nên lời. Chú Tám bình tĩnh hơn, hỏi lại:
- Chắc là vậy không?
Bảy Nô cả quyết:
- Chính tui lặn mò được xác cô ấy mà. Tội nghiệp cũng chỉ vì...
Do đám tang có quá đông người, nên sự hiện diện của vợ chồng Tám Thảnh chẳng ai hay biết, ngoài Bảy Nô.
Khi thím Tám ngỏ ý muốn vô chào ông bà Huyện và nói lời chia buồn, cũng như muốn kể về chuyện lạ đang ở nhà mình, thì Bảy Nô đã ngăn lại:
- Theo tui thì anh chị không nên vô bây giờ. Họ đang giận thầy ký Thông lắm, bởi cũng chỉ vì cô Tuyết đi tìm thầy ký mà ra cớ sự.
Bảy Nô đem mọi chuyện kể lại, rồi kết luận:
- Chỉ bởi ông bà Huyện muốn ngăn không cho thầy ký và cô Hai Tuyết yêu thương nhau, nên mới nhận lời đám bá hộ Tòng, mà lòng dạ cô Hai Tuyết thì chỉ thương có thầy ký thôi.
Lòng bán tin bán nghi, nên cuối cùng chú Tám bàn với vợ:
- Mình quay ngay về nhà xem sao. Nếu đúng là con Tuyết còn bên đó thì mình trở qua cho họ hay, để họ mừng!
***
Trở về tới nhà thì trời đã tối. Vợ chồng Tám Thảnh hấp tấp lên nhà và gọi ngay khi còn ngoài sân:
- Thông ơi!
Không nghe tiếng đáp, thím Tám cằn nhằn:
- Thằng này mới có hơi đàn bà đã sinh ra lười nhác rồi.
Thím đẩy cửa đi thẳng vào trong, vỗ vô vách ván, kêu lớn:
- Thông ơi, kêu Hai Tuyết ra má biểu coi.
Vẫn im phăng phắc. Chú Tám hơi ngạc nhiên:
- Tụi nó đi đâu giờ này?
Thấy trời sắp tối mà đèn đóm trong nhà chưa đốt, lại vắng tanh một cách không bình thường, khiến Thím Tám sinh nghi: Thím đẩy cửa phòng và gọi lần nữa:
- Thông ơi!
Lần này thím nghe có tiếng ú ớ... Thím giục chồng:
- Ông đốt cho tui cây đèn coi!
Ngọn đèn dầu được đốt lên, vừa lúc thím Tám kêu lớn:
- Thằng Thông! Sao vầy nè con?
Nhìn thấy Thông nằm trên giường, một tay ôm cứng cái va-li, còn tay kia thì đưa lên như cố vẫy vẫy...
- Chuyện gì vậy con?
Chú Tám nhào tới đỡ con dậy, thì phát hiện thân thể Thông lạnh ngắt, mắt nhắm nghiền, nhưng miệng thì nói lí nhí:
- Tu... y... ết...
- Không xong rồi ông ơi!
Thím Tám chạy đi lấy dầu xoa cho con, còn chú thì đốt bếp lửa than lên, hơ khắp thân thể cho Thông. Lát sau Thông tỉnh lại. Anh vẫn cố ôm chặt cái va-li, vừa khóc vừa nói:
- Con không để mất Tuyết đâu ba má ơi!
Hỏi sự tình thì Thông kể:
- Tối qua con với Tuyết ngủ với nhau bình thường cho đến quá nửa đêm... Sau đó tụi con mệt quá nên ngủ một giấc. Ba má đi hồi nào con cũng không hay. Đến gần chiều con mới giật mình tỉnh dậy thì chẳng thấy Tuyết đâu. Con gọi và muốn bật dậy đi tìm, nhưng người mất hết sinh lực không làm sao đứng dậy được. Cuối cùng con sờ đụng vật này trên giường, ngay bên cạnh chỗ con nằm.
Thông mở va-li ra, bên trong không hề có quần áo gì, chỉ có duy nhất một miếng như miếng vải, rất lạ, mà khi Thông trải rộng nó ra trên giường thì cả chú thím Tám đều ồ lên, giật mình. Bởi đó là... một bộ da người!
- Hai... Tuyết!
Tuy chỉ là bộ da mỏng tanh, nhưng nguyên vẹn hình hài của Tuyết, sinh động như một người sống!
Thông vừa khóc vừa nói:
- Con hiểu ra rồi, khi Tuyết tới đây là cô ấy đã chết. Chẳng biết chuyện gì đã xảy ra cho cô ấy? Con phải sang bên nhà...
Thím Tám buông tiếng thở dài:
- Nó đã chết thật rồi!
Họ thuật lại cho Thông nghe mọi việc. Anh chàng gào lên:
- Trời ơi! Tôi đã giết cô ấy...
***
Từ đó...
Một năm... Rồi hai năm sau...
Người ta thấy thầy ký Thông vẫn không lấy vợ, nhưng cuộc sống của anh chàng càng ngày càng vui vẻ, hạnh phúc, còn hơn những người lập gia đình sinh con đẻ cái.
Đúng như ý nguyện của cha mẹ, Thông lập một vựa gạo ở chợ và trực tiếp quản lý. Vợ chồng Tám Thảnh do già yếu nên không ra phụ giúp gì được cho con trai. Tuy nhiên nếu có ai để ý họ sẽ ngạc nhiên khi nhà cửa một người độc thân như Thông lại vô cùng ngăn nắp, chẳng khác gì có bàn tay đàn bà!
Đã có nhiều cô gái giới bình dân có, mà con nhà khá giả cũng nhiều, để ý thương Thông, nhưng trước sau gì Thông cũng nói thẳng với họ:
- Tôi đã có vợ con đang đợi ở quê nhà!
Và từ chối tất cả lời mời mọc.
Chẳng ai hiểu vì sao. Người ta chỉ đoán do quá thương Hai Tuyết, nên Thông thề không bao giờ lấy vợ. Tuy nhiên, có một bí mật mà người ngoài không thể biết được: Trong phòng riêng của Thông lúc nào chiếc va-li của Tuyết cũng được Thông đặt ngay bên cạnh gối của mình. Trong va-li dĩ nhiên là có bộ da người. Và chính bộ da người ấy là nguyên nhân của việc mãi mãi không lấy vợ của Thông. Bởi cứ đêm đến, hoặc những lúc Thông đi đâu về và khóa cửa ngoài, thì bộ da người đó không còn là vật vô tri giác nữa. Nó trở thành một Tuyết bằng xương bằng thịt!
Cuộc sống lạ thường đó kéo dài và cả hai vô cùng mãn nguyện với thực tại đó...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #64  
Old 11-07-2012, 05:19 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 31

Phần 3


Nhận ca trực lúc nửa đêm, nhưng suốt hơn một tiếng đồng hồ mà không có ca cấp cứu nào. Cả ê-kíp trực đều ngạc nhiên, quay sang chàng bác sĩ trưởng kíp trực, một cô y tá trêu chọc:
- Con bệnh sợ bác sĩ Tuấn quá nên chẳng dám vô!
Bấy giờ bác sĩ Tuấn mới ngẩng đầu khỏi tờ báo đang đọc, nhẹ cười rồi bước vô phòng riêng. Y tá Liên là người quan tâm đặc biệt tới chàng bác sĩ trẻ tài hoa này, nên khi cô vừa đứng lên liền bị các đồng nghiệp nói liền:
- Pha cho chàng một ly cà phê nóng đi!
Liên đang có ý định ấy, nhưng sợ bị trêu chọc, nên giả bộ:
- Biết ảnh có uống không mà pha...
Ngọc nheo mắt:
- Dẫu pha cà phê không đường mà do Liên mang vào chàng cũng uống nữa là...
Liên bước tới chỗ đặt phích nước, thì cũng vừa lúc có chiếc xe cấp cứu ngừng gấp ở ngay cửa phòng cấp cứu. Tiếng huyên náo vang lên và tiếng chân người chạy rầm rập như thường lệ. Một ca cấp cứu có vẻ khẩn cấp.
Người ta đẩy vào một bệnh nhân máu me đầy người và bác sĩ Tuấn đã có mặt kịp thời. Anh giục các y tá:
- Cho lau sạch các chỗ chảy máu, nhanh lên!
Nạn nhân nữ mặc nguyên bộ áo dài màu vàng nhạt, mà máu thì hầu như loang khắp người, đặc biệt là khuôn mặt hầu như khó thể nhận ra, bởi vết thương nơi đó là nặng nhất.
Trong lúc Tuấn đo mạch, xem một lượt vết thương trên mặt thì các y tá lấy mẫu máu đi phân tích nhóm máu và vài người khác như thông lệ đã cởi bỏ hết y phục của nạn nhân để tìm thêm thương tích. Còn có một vết thương khá sâu ở bụng và một bên nơi xương sườn bị gãy.
Nạn nhân còn thở rất yếu và hầu như hôn mê, không biết gì. Tuấn giục:
- Lấy ngay kết quả phân tích nhóm máu và truyền máu ngay, kẻo không kịp!
Tất cả ê-kíp trực đều làm việc khẩn trương với tinh thần trách nhiệm cao. Nhưng Tuấn vẫn chưa hài lòng, anh lại giục:
- Tôi đã chích thuốc cầm máu rồi, hãy chuẩn bị tiếp máu ngay, nạn nhân mất máu quá nhiều.
Bỗng đôi mắt Tuấn như muốn nổ tung khi anh lướt qua ngực bệnh nhân! Từ đầu vú bên này chạy thẳng sang đầu vú bên kia rải đều ba nốt ruồi màu đen tuyền! Hình ảnh này...
Quên sự hiện diện của cả kíp trực, Tuấn chụp lấy miếng gạc và lau nhanh những vết máu còn lại trên vùng ngực căng tròn của nạn nhân. Liên hồi hộp theo dõi hành động của Tuấn, chợt thấy anh khựng lại, rồi thảng thốt kêu lên:
- Tuyết Ngân!
Hai tay của Tuấn run lên, có lẽ anh đang xúc động mạnh. Liên nhận ra điều bất thường đó trước tiên, cô bước lại gần, hỏi khẽ:
- Gì vậy bác sĩ?
Tuấn như kẻ mộng du:
- Đúng là cô ấy đúng là...
Tuấn đã từng nhiều lần nhìn vùng ngực căng tròn đó và anh đã từng gọi ba nốt ruồi giăng ngang độc đáo ấy là ba giọt nước mắt của thiên thần! Và anh đam mê, thương yêu ba giọt lệ ấy vô cùng... Bởi người có ba giọt lệ rơi trên ngực ấy chính là Tuyết Ngân, là người yêu đã xa cách anh ngót ba năm rồi!
Giờ đây...
- Bác sĩ sao vậy?
Nghe Liên hỏi mà Tuấn ngỡ như trong cơn mơ, anh lẩm bẩm:
- Tuyết Ngân... sao lại thế này?
- Có kết quả phân tích máu rồi đây, nhóm máu O, mình đang có sẵn loại máu này.
Các nhân viên kíp trực đã quá quen thuộc với công việc nên chỉ nửa phút sau thì cuộc cấp cứu đã diễn ra suôn sẻ. Tuy nhiên, sau mười lăm phút, thì vị trợ lý theo dõi mạch đã buồn bã báo tin:
- Không xong rồi, tim đã ngừng đập.
Đích thân Tuấn dùng tay ấn mạnh lồng ngực bệnh nhân mà không đợi mấy người y tá nam như lệ thường. Nhưng sau cả chục lần làm hô hấp không hiệu quả, một y tá lấy máy kích động tim, can thiệp tiếp. Cũng vô vọng.
- Cô ấy đã chết do vết thương trên đầu quá nặng.
Tuấn đứng buông thõng hai tay, hồn phách như bay mất đi đâu... Tuyết Ngân của anh đã vĩnh viễn rời xa anh rồi! Điều mà ngót ba năm nay lúc nào Tuấn cũng nghĩ thế nào rồi nàng cũng quay trở về...
- Chỉ còn mấy ca cấp cứu nhỏ, anh tranh thủ ngủ một chút đi, coi bộ bác sĩ đã quá mệt rồi!
Y tá Liên bưng tách cà phê bốc khói đứng ngay cửa phòng, nhìn Tuấn trìu mến. Nhưng tâm trí của Tuấn đâu còn để ý đến ai. Kể từ lúc người ta chuyển xác của Tuyết Ngân xuống nhà xác thì Tuấn hầu như suy sụp hoàn toàn.
Tiếp tách cà phê, Tuấn nốc một hơi hết sạch, rồi đột ngột hỏi:
- Xác cô ấy đâu rồi?
Liên nhìn anh, ngạc nhiên nhưng vẫn lễ phép đáp:
- Dạ, đã đưa xuống nhà xác rồi.
- Cô dặn khi có người nhà vào nhận xác thì phải báo cho tôi ngay!
- Dạ. Nhưng để làm gì ạ?
Tuấn đứng bật dậy:
- Mà thôi, để tôi lo.
Anh dặn lại Liên:
- Nếu có ca nào nữa thì nhờ bác sĩ Thuần lo giùm. Tôi ra ngoài một chút.
Tuấn đi thẳng xuống khu nhà xác. Anh dặn thật kỹ người phụ trách phòng lưu xác:
- Xác của một nạn nhân nữ mới chuyển xuống, anh làm ơn bảo quản cẩn thận giùm. Khi nào có thân nhân tới nhận thì liên lạc với tôi ngay.
Người phụ trách hỏi ngay:
- Phải một người nữ không? Trên phòng cấp cứu mới đưa xuống nhưng vẫn chưa có tên tuổi, nghe nói trong người nạn nhân không có giấy tờ tùy thân.
Tuấn bảo:
- Cô ấy là Tuyết Ngân, là... người nhà của tôi.
Người phụ trách nhà xác ghi vội tên họ do Tuấn vừa cung cấp vào một tờ phiếu, vừa nói:
- Biết được tên ngay còn may, có người chết cả tuần vẫn chưa có ai nhận, bởi không có bất kỳ thứ giấy tờ gì.
Theo yêu cầu của Tuấn, người bảo vệ đồng ý để cho anh vào tận phòng lưu xác, kéo tấm vải lên, nhìn vào một lần nữa ba "giọt nước mắt" trên bộ ngực vẫn còn căng tròn...
***
Phải đợi đến ba ngày sau, khi chẳng một ai khác đến nhận xác, thì Tuấn được phép làm thủ tục đưa xác cô gái tên Tuyết Ngân về. Do nhà Tuấn ở là một ngôi nhà biệt lập, thuộc khu ngoại ô khá vắng vẻ, nên việc xe của bệnh viện đưa xác về đã không gây sự chú ý nào của người chung quanh.
Được một tuần nghỉ phép, Tuấn dành trọn cho việc "ma chay". Sở dĩ Tuấn quyết định đưa nàng Tuyết Ngân của mình về nhà là do trong đầu anh đã có một quyết định táo bạo: Tuấn sẽ giữ mãi thân thể của nàng bên cạnh, dù chỉ là một xác chết!
Vốn có hiểu biết về phương pháp ướp xác, do đã từng học ở nước ngoài nhiều năm, nên Tuấn thực hiện ý định không khó. Đầu tiên anh đặt mua một quan tài bằng thủy tinh khá đắt tiền, sau đó là các hương liệu để ướp. Công đoạn khôi phục lại gương mặt bị biến dạng do va đập của nàng mất khá nhiều thì giờ mà vẫn không làm cho Tuấn ưng ý. Bởi sau nhiều lần cố gắng anh vẫn không làm sao giúp cho khuôn mặt ấy dễ nhìn hơn, nên sau cùng Tuấn quyết định dùng vải tẩm keo đặc chế quấn quanh khuôn mặt, giống như các xác ướp Ai Cập trong các lăng mộ xưa. Chỉ có phần thân thể là để nguyên.
Phải mất ba ngày Tuấn mới hoàn thành được công việc khá công phu và nhiều cảm xúc này. Nhiều cảm xúc là bởi trong suốt thời gian tiếp xúc với xác người yêu, con tim Tuấn vừa thương cảm vừa nhói đau. Tuấn khóc gần cạn nước mắt khi công việc hoàn tất.
Trong khu vườn nhà Tuấn có một gian nhà vốn được anh dùng làm phòng thí nghiệm hóa sinh mini lúc còn đi học y, nên giờ đây khá thuận tiện cho việc anh biến nó thành một nhà mồ với chiếc quan tài thủy tinh Tuyết Ngân đặt giữa nhà. Tuấn bật máy điều hòa suốt ngày đêm để duy trì xác dài lâu. Mỗi ngày, cứ lúc nào rỗi là Tuấn lại vào ngồi trong đó rất lâu, bên quan tài, giống như anh ngồi nhìn người yêu đang ngủ say...
Những việc lạ thường đó tất nhiên chỉ mình Tuấn biết. Bất cứ ai, dù quen thân tới đâu Tuấn cũng không cho vào ngôi nhà để xác.
Cuộc sống của Tuấn có một chút thay đổi, nhưng ít ai để ý. Đó là từ khi ấy Tuấn luôn đi làm về đúng giờ, thay vì đi cà phê hay nhậu nhẹt với bạn bè. Sinh hoạt của một bác sĩ độc thân như Tuấn là điều không bình thường lắm, nhưng cũng nhờ trước đó anh luôn là anh chàng độc thân không "linh tinh" như đa phần các người đồng cảnh ngộ khác, nên cũng không gây sự thắc mắc cho bạn bè.
Tuấn thầm cám ơn Trời Phật đã giúp cho anh có được những giây phút tuyệt vời này. Anh thầm nhủ: "Chỉ cần như thế này, mình sẽ không bao giờ lấy vợ!".
Người thất vọng nhất trong việc này có lẽ là cô y tá Liên, người lúc nào cũng dành cho bác sĩ Tuấn thứ tình cảm sâu nặng. Từ ngày ấy Tuấn lúc nào cũng về ngay sau khi hết ca trực, khiến cho Liên lỡ mất mấy lần đón anh ở căn tin và mỗi lần như vậy cô phải mang về mấy thứ mà cô đã chuẩn bị sẵn để biếu Tuấn. Những món ăn nấu sẵn mà Liên biết Tuấn rất thích!
Bữa nay nhất định phải khác! Liên thầm hạ quyết tâm như vậy khi đứng đợi ngay đầu ngõ dẫn vô nhà Tuấn. Khi thấy Tuấn từ xa, Liên đã bước ra giữa đường đưa tay vẫy:
- Anh Tuấn!
Đang chạy ngon trớn, đầu óc lại đang nghĩ chuyện gì đó, sự xuất hiện đột ngột của Liên khiến cho Tuấn phải thắng gấp xe chao sang một bên. Anh ngạc nhiên:
- Cô làm gì vậy Liên?
Cô y tá khá dễ thương hơi lúng túng:
- Dạ em... em chờ anh.
Tuấn cau mày:
- Sao lại chờ tôi là thế nào?
Bao nhiêu ý tứ sắp xếp trong đầu trước khi tới đây giờ phút ấy tự dưng bay đi mất hết, Liên lí nhí:
- Dạ... dạ em... có cái này.
Cô đưa cái túi nhựa ra trước mặt:
- Em mang cái này cho anh.
Rồi sợ Tuấn vặn vẹo, Liên nói một hơi:
- Mấy lần chờ anh ở căn tin không được, em phải mang về và ăn gần bị trúng thực luôn!
Thấy cử chỉ lời nói của cô y tá mà mình hằng quý mến như một cộng sự thật thà, Tuấn nói một câu dễ nghe:
- Một thân một mình như tôi ăn gì chẳng được, cô Liên bận tâm chi cho mất công. Vả lại...
Liên không để cho Tuấn nói:
- Bữa nay là món mà em biết bác sĩ thích nhất, món gì đoán coi?
Tuấn đành phải nói đại:
- Mực ống dồn thịt!
Liên reo lên:
- Y chang!
Và cô nàng liếng thoắng:
- Món ăn còn nóng, bởi em mới làm và mang đến đây ngay. Em muốn thực khách phải thưởng thức ngay!
Đã từng đôi ba lần được Liên tặng cho món ăn nấu sẵn, Tuấn đã ăn và công nhận là ngon và rất hợp khẩu vị nhưng anh vẫn ái ngại:
- Cô Liên làm cho tôi ngại quá. Vả lại chiều nay tôi có cái hẹn ăn cơm với mấy người bạn ở ngoài.
Vẻ mặt Liên xìu xuống thấy rõ, cô lẩm bẩm:
- Em buồn chết được...
Thật ra Tuấn chỉ tìm cách thoái thác, nhưng trước thái độ của Liên, anh lại không đành:
- Hay là thế này vậy...
Liên chỉ chờ có thế, cô reo lên:
- Anh bỏ bữa ăn ngoài nhé! Em sẽ cùng về nhà, nấu cho anh ăn nhe!
Tuấn hốt hoảng:
- Không được đâu!
Liên tiu nghỉu:
- Sao vậy? Em đã từng tới nhà anh rồi mà...
Tuấn giờ lại là người lúng túng:
- Nhưng mà... lần trước Liên tới với các bạn. Còn bây giờ...
Liên bạo dạn hơn:
- Em làm chung với anh, em tới là mang thức ăn cho anh, chớ có phải gì đâu mà anh ngại.
- Nhưng... tôi ở một mình, Liên là phụ nữ, như thế không tiện...
Thật ra Tuấn ngại là vì chuyện khác. Anh đỡ lấy túi thức ăn, định tìm cách từ chối khéo việc mời Liên vào nhà:
- Thôi tôi nhận và sẽ ăn ngay.
- Nhưng em muốn hâm nó lại và nêm nếm thêm một chút. Vả lại phải có rau ăn kèm thì mới ngon. Em có mang theo túi rau, chưa lặt và rửa, để em vào nhà làm. Anh không phải ngại đâu, anh ăn xong là em về ngay mà.
Tuấn rất khó xử trước tấm lòng của Liên, nên cuối cùng anh đành phải chấp nhận:
- Xin lỗi Liên, chẳng phải tôi mất lịch sự không mời cô vào nhà. Tuy nhiên, mong cô hiểu cho...
Liên nghĩ đơn giản nên nói:
- Đàn ông độc thân luôn sợ phụ nữ tới nhà đột xuất chớ gì! Không sao, em hiểu bác sĩ mà...
Và thật bất ngờ, Liên nhảy lên phía sau xe của Tuấn và giục:
- Anh chạy lẹ lên, có người nhìn kìa!
Anh chàng bác sĩ độc thân quả là không rành mánh của phụ nữ, nên rồ ga chạy tới, trong khi Liên nở nụ cười mãn nguyện.
Vừa dựng xe ở sân, chợt Tuấn giật mình bởi những tiếng va đập mạnh trong nhà. Liên cũng ngạc nhiên:
- Có ai ở nhà nữa vậy bác sĩ?
- Làm gì có.
Tuấn đáp mà không yên tâm, bởi anh nghĩ có thể khi đi làm anh đã quên khóa cửa sau. Tuy nhiên, khi mở cửa vào thì cửa nẻo vẫn còn nguyên. Vật ngã đổ vừa rồi là chiếc bình hoa lớn đặt trên bàn cạnh cửa sổ. Tuấn hơi lạ, bởi bình hoa đầy nước, lại đặt vững chắc ở giữa bàn, mà nhà lại không nuôi mèo. Vậy tại sao chiếc bình bị rơi xuống và vỡ toang?
Liên giải tỏa giúp Tuấn sự khó xử bằng cách nhanh chóng đi dọn dẹp những mảnh vỡ và lau sạch nước đổ tràn cả phòng khách.
Nhưng chuyện đó chưa làm cho Tuấn kinh ngạc bằng khi bước xuống bếp. Cảnh tượng bày ra trước mắt là một cuộc hỗn chiến! Hầu như tất cả đồ dùng nhà bếp đều bị dập nát, bẹp giúm!
Ai đã làm chuyện này khi cửa nhà đang khóa kín?
Tuấn đứng yên khá lâu, trong khi Liên thì ngoan ngoãn dọn dẹp. Khi mọi việc đã tạm xong thì lại có chuyện khác tiếp theo. Ngay cửa sổ nhà bếp thông ra vườn, dù cửa vẫn cài chốt bên trong, nhưng lại có một nửa vạt áo phụ nữ kẹt ở khe cửa.
Cầm mảnh vải trên tay, bỗng Tuấn nhớ lại đã có lần anh đã nhìn thấy nó.
- Của Tuyết Ngân!
Đúng là lần cuối cùng Tuyết Ngân gặp anh rồi ra đi biền biệt là lần cô mặc chiếc áo lụa màu cánh sen này. Cái màu đặc trưng mà ít người con gái trẻ nào thích mặc.
Liên thấy Tuấn đứng ngẩn ngơ liền hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Tuấn giấu mảnh vải vào túi quần:
- Không có gì, mà này, cô Liên, có lẽ cô nên về. Lúc này tôi đang có chuyện rồi, không còn lòng dạ đâu để ăn. Lúc khác gặp lại cô nhé.
Tuấn nói xong bỏ ra ngoài sân, biểu lộ ý muốn đuổi khách. Liên hơi phật ý nhưng cũng lặng lẽ bước ra ngoài đón xích lô. Đợi khách về rồi, Tuấn mới bước ra chỗ nhà mồ. Anh đẩy cửa vào và một lần nữa trố mắt nhìn một mảnh vải khác, cũng giống như mảnh vải lúc nãy, nằm gần bên nắp quan tài thủy tinh!
- Tuyết Ngân!
Anh kêu lên, vừa ngồi xuống bên quan tài. Tuấn nghĩ ngay tới hồn phách của người chết vừa xuất hiện, anh gọi khẽ:
- Tuyết Ngân! Có phải em vừa mới về?
Thân thể cô gái trong quan tài vẫn không có gì thay đổi, chỉ có điều hơi lạ là ánh sáng chiếu từ nắp quan tài xuống cái xác, vốn từ khi mai táng, Tuấn đã cố ý dùng màu hồng để giúp màu xác lúc nào cũng hồng hào, y như người sống, còn bây giờ, ánh sáng đó lại là màu xanh lục!
- Hay là...
Tuấn nghĩ hay là có trục trặc gì đó từ hệ thống ánh sáng, nên ngồi xuống, nhìn vào bên trong.
Bỗng nhiên đèn trong phòng tắt ngấm. Tuấn đang ngồi chợt như có ai đẩy mạnh làm bật ngửa ra sau. Rồi như có một luồng hơi lạnh khác thường từ trong quan tài bay ra, chạm vào cơ thể Tuấn, khiến anh rùng mình rồi tứ chi hầu như tê liệt.
Loáng thoáng bên tai Tuấn hình như có tiếng ai đó thở dài...
***
Vừa dẫn xe ra khỏi cổng bệnh viện, Tuấn đã nghe tiếng ai đó gọi mình từ bên kia đường. Do xe quá đông nên khi Tuấn nhìn kỹ lại thì đã thấy người gọi anh đã băng qua đường, vừa đưa tay vẫy.
Cứ tưởng mình bị hoa mắt, nên Tuấn phải dụi mắt mấy lần rồi mới nhìn kỹ lại. Và lần này anh phải buột miệng kêu lên:
- Tuyết Ngân!
Rõ ràng người bên đường đang vẫy tay với anh là Tuyết Ngân! Tuấn đứng sựng lại như trời trồng, khiến mấy người đi xe phía sau phải la lên:
- Sao ngơ ngáo giữa đường vậy cha nội!
Bị la nhưng Tuấn vẫn không chớp mắt, nhìn Tuyết Ngân đang mỗi lúc tiến gần về phía anh hơn.
- Anh làm gì nhìn em dữ vậy, bộ không nhận ra sao?
Tuấn lắp bắp:
- Tôi... tôi...
Nàng bước sát bên và chụp lấy tay Tuấn, khiến lúc ấy anh mới hoàn hồn.
- Bộ em lạ lắm sao mà anh nhìn như mất hồn vậy?
- Em... em là... là Tuyết Ngân?
- Thì em đây chớ ai! Mới xa có mấy năm mà đã quên rồi, tệ thiệt.
Tuấn không thể nào tin nổi vào mắt mình, nên để cho Tuyết Ngân nói một lúc, anh mới hỏi lại:
- Em... có phải là em... hiện về không?
Tuyết Ngân trố mắt nhìn Tuấn:
- Anh nói gì giống như đang nằm mơ vậy? Anh có làm sao không vậy Tuấn?
Lúc ấy từ bên kia đường có một người đàn ông dẫn xe đi đến gần, Tuyết Ngân quay lại gọi:
- Tới đây, Thành!
Người này đi tới, vừa cúi chào Tuấn:
- Chào anh, tôi là Thành, đã được nghe vợ tôi nhắc về anh lâu nay, giờ mới hân hạnh gặp.
Trong lúc Tuấn còn ngơ ngác, thì Tuyết đã nói thêm:
- Đây là chồng em. Vừa rồi đi qua đây tình cờ trông thấy anh từ trong đi ra nên em gọi.
Như từ trên trời rơi xuống, Tuấn hết nhìn Tuyết Ngân rồi nhìn sang anh chàng kia. Rồi hình ảnh người nằm trong quan tài thủy tinh như đang nhảy múa trước mặt, khiến Tuấn hoa mắt, anh lảo đảo...
- Kìa, sao vậy anh Tuấn?
Tuấn buông chiếc xe ra, hình như có người đỡ và cả anh nữa, Tuấn có cảm giác như mình ngã xuống và rơi vào vòng tay của ai đó...
Đến khi tỉnh lại, Tuấn ngơ ngác khi thấy mình nằm trong bệnh viện. Bên cạnh là Liên và cả Tuyết Ngân nữa!
- Sao lại...
Tuấn chưa nói hết câu thì đã nghe Liên nói:
- Em đang sửa soạn ra về thì thấy chị này đưa anh trở vô, nên em ở lại. Em đã đo huyết áp rồi, anh bị hạ áp khá thấp.
Tuyết Ngân dịu dàng:
- Anh Thành cùng đưa anh vào, rồi em bảo anh ấy về nhà trước để lo cho mấy đứa con, còn em ở lại.
Tuấn bật dậy ngay, vừa lay tay Ngân:
- Em giải thích cho anh biết, tại sao?
Ý câu hỏi của Tuấn bao gồm luôn cả nguyên nhân... đội mồ sống dậy của Tuyết Ngân, nhưng cô nàng thì chỉ hiểu đơn giản anh muốn biết tại sao Ngân đi lấy chồng? Nên sau vài giây đắn đo, cô đáp:
- Chuyện cũng đơn giản thôi. Khi xa anh là em trở về quê, khi đó mẹ đang hấp hối. Nhà em đơn chiếc như có lần em nói với anh, em chỉ còn hai mẹ con, ngoài ra không còn thân nhân nào nữa. Lúc em về thì mẹ phải cấp cứu ở bệnh viện suốt hơn một tháng bởi căn bệnh hiểm nghèo. Em không còn tiền lo cho mẹ nên định ôm mẹ rồi hai mẹ con cùng chết, may nhờ có Thành. Anh ấy nuôi bệnh ở giường bên cạnh, thấy hoàn cảnh em, anh ấy cảm thông, giúp mẹ con em vượt qua cơn hoạn nạn. Ban đầu em không hề có ý nghĩ gì khác ngoài lòng biết ơn một người đã có tấm lòng như Thành. Nhưng sau một thời gian khá dài, khi em phải ở lại nhà nuôi mẹ thì từ chỗ ân nghĩa, giữa em và Thành đã nảy sinh tình cảm lúc nào em cũng không biết. Phụ anh thì em không muốn bởi chúng ta đã có với nhau mấy năm trời bên nhau, nhưng thực tế đã giục em phải quyết định khác. Trong quá trình lo cho mẹ, em đã nợ Thành số tiền quá lớn, đồng thời mẹ cũng muốn em phải đền đáp lại tấm lòng của người ta. Thế là em chấp nhận lấy Thành. Em biệt tăm luôn là vì nguyên nhân ấy. Lần này vào đây mục đích chính của em là tìm gặp anh để nói rõ và xin lỗi.
Tuấn lại lắc tay Ngân lần nữa:
- Nhưng em... sao lại ra khỏi mồ?
Câu hỏi của Tuấn khiến Tuyết Ngân kinh ngạc:
- Kìa, anh nói gì vậy Tuấn?
Nghĩ Tuấn có vấn đề về tâm thần, nên Ngân quay sang tìm y tá Liên để hỏi, nhưng lúc ấy Liên đã bước ra ngoài.
- Tuấn, anh hãy nhìn em nè. Em xin lỗi đã làm anh thất vọng. Nhưng em vẫn còn sống bằng xương bằng thịt trước mắt anh đây. Em có chết đâu mà ở dưới mồ!
Tuấn vụt bật dậy, nhảy xuống giường bệnh, người chưa vững vàng, nhưng cũng thoát chạy nhanh ra hành lang.
- Tuấn!
Tuyết Ngân định đuổi theo, nhưng chân cô vướng phải vật gì đó, ngã sõng soài ở cửa phòng.
Tuấn chạy bộ ra ngoài và không đợi đón xe, anh cứ cắm đầu nhắm hướng nhà mình chạy như đuổi theo ai đó...
Đến khi chợt có ai đó gọi lớn tên mình, Tuấn nghe nhưng không còn tỉnh táo để nhìn xem đó là ai, anh cứ chạy.
Và khi qua một góc đường Tuấn lảo đảo, rồi ngã xuống...
***
Lúc tỉnh lại thì Tuấn nhận ra đang nằm trong phòng khách nhà mình. Ngồi bên cạnh là một người đàn ông râu tóc xồm xoàm, trông hơi quen quen, nhưng nhất thời anh chưa nhớ rõ là ai.
- Cậu tỉnh rồi, may quá.
- Tôi... tôi...
Ông ta chặn lời:
- Cậu cứ nằm nghỉ. Vừa rồi khi đi tới góc phố kia tôi chợt thấy cậu chạy như điên, tưởng bị ai đuổi nên tôi vòng xe chạy theo. Đến chỗ ngã tư thì cậu bị ngã, tôi kịp cứu đưa cậu về nhà. Tôi lấy chìa khóa trong túi cậu mở cửa đưa cậu vô. Cậu không nhớ tôi sao, đã có lần cách đây mấy tháng, tôi tặng cho cậu quyển sách viết về tâm linh, quyển "Những bí ẩn của thế giới tâm linh". Tôi ở ngay cạnh nhà cậu đây mà.
Lúc này thì Tuấn đã nhớ ra và đầu óc anh cũng quân bình trở lại, anh nhẹ giọng:
- Dạ, cám ơn chú.
- Nói tôi nghe xem, có chuyện gì mà chạy thục mạng vậy?
Tuấn chợt vùng dậy, anh không để ý đang có mặt của khách, đã thoát chạy bay ra sau vườn. Nhằm hướng ngôi nhà mồ.
Vừa đẩy cửa vào Tuấn đã khựng lại. Bởi trước mặt anh, trong quan tài thủy tinh, cô gái mà anh nghĩ là Tuyết Ngân vẫn còn nằm im đó. Ánh sáng trong quan tài giờ đã trở lại màu hồng như trước.
- Như thế này là sao?
Tuấn tự hỏi và không tự trả lời được, nên cứ đứng lặng người, nhìn vào quan tài...
- Cậu gặp rắc rối gì phải không?
Vị khách đã đứng sau lưng Tuấn. Khi chợt nhìn thấy quang cảnh trước mắt, ông hiểu một phần, nên nhẹ giọng:
- Thi thể của người yêu phải không?
Tuấn nhớ đọc trong sách của ông viết, cũng có kể vài chuyện về ướp xác người yêu. Anh quay sang ông, hỏi như để giải tỏa gút mắc trong lòng:
- Làm sao bây giờ chú?
Anh kéo ông ra ngoài, kể lại đầu đuôi chuyện lầm lẫn tai hại của mình và chuyện đem xác cô gái lạ về đây ướp trong quan tài thủy tinh... Nghe xong vị khách già chép miệng:
- Người chết vẫn còn linh hồn cậu ạ. Việc cậu mang xác cô gái này về đây và ướp cẩn thận, giữ gìn chu đáo như thế là việc làm tốt. Nhưng chính lòng tốt ấy sẽ khiến cậu gặp rắc rối.
- Thế nghĩa là...
- Tôi đã nghiên cứu hàng ngàn trường hợp và rút ra kết luận rằng, trường hợp như cậu đây thì chắc chắn người con gái trong quan tài kia sẽ đeo theo ám cậu cho mà coi!
Tuấn bắt đầu lo:
- Giờ cháu phải làm sao chú Tùng Linh?
Nhà viết sách tâm linh trầm ngâm một lúc:
- Nhất thời, tôi cũng chưa thể nói cụ thể cậu phải làm gì có lẽ cậu vào nhà, giở cuốn sách của tôi, xem lại bài viết về "Sự giao hoà giữa hai thế giới", nó sẽ có ích trong trường hợp này.
Khi vị khách ra về rồi Tuấn mới tìm lại quyển sách để đọc. Anh tìm gặp bài viết mà ông khách vừa nói một cách dễ dàng. Đọc xong anh thất vọng, thở dài:
- Làm gì tìm được như trong sách.
Trong sách kể chuyện một anh chàng cũng vì quá thương người yêu, nên sau khi người yêu chết mất xác trong một vụ đắm tàu, anh ta đã cố công tìm và ăn cắp xác của một cô gái trong nhà xác bệnh viện, mà anh ta cho là giống với người mình yêu, đem về ướp và để trong phòng riêng. Sau này linh hồn của xác chết hiện về và đeo dính anh chàng đó, khiến anh ta gần như suốt đời không lấy vợ được. Mãi cho đến khi có sự xuất hiện tình cờ của một cô gái khác, mà cô ấy lại chính là em song sinh của xác chết. Kỳ lạ thay, kể từ khi có sự xuất hiện đó thì xác chết không quấy phá gì anh chàng kia nữa! Các nhà nghiên cứu cho rằng do linh hồn người chết lầm tưởng người em song sinh kia tới là để thay thế cho cô ta, sống bên cạnh anh chàng. Oan hồn bỏ đi...
Tuấn đọc hết đoạn sách, vừa thất vọng vừa mệt mỏi, anh ngả đầu trên ghế nệm ngủ một giấc...
- Ngủ mà để cửa ngõ thế này, có ngày mất luôn cả chủ nhà!
Tuấn choàng tỉnh. Anh ngạc nhiên khi thấy Tuyết Ngân xuất hiện. Cô giải thích ngay:
- Lúc anh bỏ chạy em đuổi theo không kịp, cũng may có cô Liên, cô ấy đã cho em địa chỉ để lần tới đây.
Thấy vẻ mệt mỏi của Tuấn, Tuyết Ngân hỏi ngay:
- Anh bị sao vậy Tuấn, hay là anh giận em?
Tuấn nhẹ lắc đầu:
- Không...
Rồi anh bật dậy, kéo tay Tuyết Ngân ra sau vườn:
- Em xem cái này sẽ hiểu.
Anh muốn Ngân nhìn tận mắt cô gái nằm trong quan tài, nên mở cửa nhà mồ ra, dẫn Ngân vào.
- Cái gì đây, Tuấn?
Tuấn đành phải kể hết mọi chuyện. Nghe xong Tuyết Ngân lặng người đi, đôi dòng lệ lăn dài... Nhưng bỗng cô chạy đến sát chỗ quan tài, cúi xuống nhìn vào ngực xác chết và kêu lớn:
- Tuyết Nhi. Trời ơi, chính là nó rồi!
Tuấn ngơ ngác:
- Em nói gì, Ngân?
Ngồi xuống ôm lấy quan tài, Tuyết Ngân khóc nức nở:
- Tuyết Nhi là em sinh đôi với em. Nó bị thất lạc từ nhỏ, nhưng mẹ em nói chỉ cần nhìn thấy ba nốt ruồi trên ngực nó là chắc chắn đó là nó, không sai! Nó cũng giống như em vậy, cũng có...
- Cũng có "ba giọt nước mắt thiên thần" như em. Bởi vậy anh mới lầm!
Tuyết Ngân không muốn rời quan tài, Tuấn phải kéo cô ra:
- Mọi việc như thế rồi, cũng may là có sự trùng hợp này nên mình sẽ mai táng cô ấy với chiếc quan tài thủy tinh này luôn.
Họ vừa ra đến ngoài sân, thì bỗng trong nhà vang lên những tiếng đổ vỡ mạnh, như có ai đập phá nhà. Tuấn hốt hoảng chạy trở vô và kêu lên:
- Trời ơi!
Trước mắt anh là chiếc quan tài thủy tinh đã bị đập vỡ tan tành, còn cái xác thì... không còn thấy đâu nữa!
Tuyết Ngân gào lên:
- Tuyết Nhi!
Tuấn còn đang ngẩn ngơ thì đã có người nói sau lưng:
- Linh hồn người chết đã siêu thoát rồi đó. Có lẽ cậu gặp may.
Tuấn nhìn sang Tuyết Ngân, giới thiệu:
- Đây là chị ruột của... xác chết!
Ông Tùng Linh kêu lên:
- Đúng rồi, y như trong sách!
Tuấn không biết mình đang buồn hay vui. Chỉ có cảm giác là người nhẹ nhõm...
***
Ba tháng sau, cả bệnh viện ngạc nhiên khi nhận được tin báo lễ đính hôn giữa bác sĩ Tuấn và y tá Liên!
Sáu tháng sau nữa thì lễ cưới diễn ra. Sau ngày cưới, trong bữa nấu ăn đầu tiên phục vụ chồng, Liên vô tư lo o bế các món ăn cho ngon lành, trong lúc đó Tuấn hồi hộp theo dõi, cho đến khi Liên hoàn thành các món ăn, dọn lên xong thì anh mới thở phào. Tuấn cứ bị ám ảnh bởi lần cả nhà bếp bị đập phá tan tành khi Liên mang thức ăn tới. Nhà nghiên cứu tâm linh đã quả quyết: Đó là hành động ghen tuông của hồn người chết. Chính cô gái trong quan tài đã phản ứng khi có người phụ nữ khác xuất hiện trong nhà?
Bây giờ thì hết rồi. Oan hồn đã rời đi. Từ nay Tuấn có thể sống hạnh phúc bên cô y tá ngoan hiền của mình. Trong ngày cưới anh có mời cả vợ chồng Tuyết Ngân đến dự...


Phần 4


Thuần thắc mắc mãi về một đoạn trong lá thư của bạn mình gửi từ Huế vào: "... Cô nàng rất hiền, ngoan và rất đẹp. Nhưng có điều là tính hơi khó gần. Tuy nhiên mình vẫn muốn cậu nên làm quen. Mình đã kể về cậu cho cô ấy nghe và hình như cô ấy rất muốn được tiếp cận cậu. Mình nói sơ qua về tính cách cô ấy cho cậu nghe: Đó là người chuộng sự thật thà, không ưa dối trá, không thích mẫu đàn ông sống lãng mạn... nhưng cô ấy lại sống bằng nội tâm nhiều, ưa đọc truyện Bồ Tùng Linh, Hồn Bướm Mơ Tiên v.v... Cô ấy mới vào sống ở cùng thành phố với cậu, không có bạn bè, nên sự lui tới của cậu sẽ giúp cho cô đỡ cô đơn nơi đất lạ. Cậu nhớ kỹ, chỉ mình cậu quen cô ta thôi, tuyệt đối không được giới thiệu với người khác...".
Từ lúc nhận được thư của bạn, đến nay đã qua một tuần rồi mà Thuần vẫn chưa có ý định liên lạc với người đẹp bạn định môi giới cho mình. Ngoài việc còn thắc mắc về cá tính của cô gái, Thuần còn chưa tìm được lý do để tiếp cận. Chẳng lẽ tìm tới và bảo: Bạn tôi tên là Phú, giục tôi tới gặp cô, xin được làm quen... Mà điều ấy Thuần không quen làm.
Mãi cho đến sáng nay, chủ nhật, một cơ hội ngàn vàng đã tới một cách thật bất ngờ: Thuần nhận được một lá thư của ai đó gửi tới địa chỉ: 18 A cư xá Hồng Hà, quận TĐ, nhưng bưu điện lại nhầm với địa chỉ 18 A cư xá Hoàng Hà, nơi ở của Thuần. Có lẽ người ta nhầm giữa quận TĐ với TB và Hồng Hà với Hoàng Hà! Thuần cầm lá thư tới nhầm địa chỉ kia xem qua và chợt reo lên:
- Cư xá Hồng Hà ở TĐ ư? Đúng là nơi đây rồi!
Lấy lá thư của bạn ra, lúc này Thuần càng kinh ngạc hơn khi địa chỉ mà Phú ghi cho và giục Thuần đi tìm cũng chính là cư xá Hồng Hà này. Và còn lạ lùng hơn, số nhà và đường trong cư xá cũng trùng y nguyên như nhà của Thuần: 18 A đường Hoa Hướng Dương!
Lúc này thay vì trách cứ đơn vị xây cư xá đã lấy trùng tên đường giữa hai nơi khác nhau, để gây ra sự nhầm lẫm này, Thuần lại thầm cám ơn họ, bởi nhờ có sự trùng hợp này nên sẽ có cớ cho Thuần tìm tới đây với lý do đầy thuyết phục: Trả lại bức thư bị phát nhầm!
Sau hơn nửa giờ đắn đo, cuối cùng Thuần đã cầm lá thư và quyết định đi tìm chủ nhân thật của nó.
Việc tìm ra cư xá Hồng Hà không khó. Nhưng khi hỏi đường Hoa Hướng Dương thì mọi người trong cư xá đều lắc đầu:
- Cư xá này chỉ có các con đường nội bộ từ số 1 đến số 18, chứ làm gì có tên Hoa Hướng Dương!
Thuần thất vọng vô cùng, vừa định trở ra thì chợt có một người đàn ông chạy ô tô ngang qua, chị chủ nhà đang trả lời Thuần chỉ và nói:
- Ông đó là phó giám đốc xây dựng cư xá này, đâu hỏi thử coi.
Bà ta vẫy tay gọi ông ta giúp Thuần, rồi lên tiếng hỏi:
- Cậu này tìm địa chỉ trong cư xá này mà hỏi đường Hoa Hướng Dương, cư xá mình làm gì có tên đó, phải không ông phó giám đốc!
Không ngờ người kia đáp ngay:
- Có chứ! Cư xá này lúc xây xong chúng tôi đã từng đặt cho những cái tên toàn các loài hoa. Tên Hoa Hướng Dương là con đường số 8, phía dãy sau của nhà này. Sau đó nghĩ lại, chúng tôi mới đổi thành chữ số, cho dễ nhớ hơn.
Thuần nghe nói mừng quýnh. Anh cám ơn họ rồi chạy vòng ra dãy nhà phía sau. Anh tìm được số nhà không khó. Bấm chuông và đứng đợi chỉ vài chục giây thì có một người phụ nữ trung niên bước ra. Bà ta nhìn qua Thuần và hỏi:
- Cậu tìm ai?
- Dạ, cho tôi hỏi, có phải đây là nhà của cô Yến Vĩ?
Chỉ tay vào trong, người phụ nữ đáp:
- Cô chủ có ở nhà, nhưng đang có tiệc. Cậu có phải là người được mời tới dự tiệc thì vào. Còn nếu không thì có lẽ... nên về, bữa khác tới.
Thuần hơi lúng túng:
- Tôi... tôi không phải tới dự tiệc. Số là...
Anh chợt nhớ lá thư nằm trong túi, nên lấy ra và mạnh dạn lên:
- Có một lá thư gửi cho cô Yến Vĩ ở nhà này, nhưng bưu điện lại phát nhầm địa chỉ của tôi ở tận trung tâm thành phố. Tôi đem đến trả. Đồng thời...
Anh chưa nói dứt lời thì từ trong nhà có tiếng vọng ra:
- Sao không mời khách vào nhà nói chuyện, dì Hai?
Người phụ nữ trung niên nói vọng vào trong:
- Thưa cô, đây là khách lạ, chỉ tới để trả lá thư thôi.
- Người ta là ân nhân của mình, sao gọi là khách lạ. Mời khách vào đi.
Thuần được mời vào trong. Vừa bước tới phòng khách, Thuần đã đứng sựng lại ngay. Bởi trước mặt anh là một cô gái tuổi khoảng mười tám đôi mươi, mà sắc đẹp thì làm lóa mắt bất cứ ai thoạt nhìn!
- Mời cậu vào.
Bà giúp việc phải nhắc lại khi thấy Thuần cứ ngẩn ngơ nhìn. Lúc này Thuần mới tỉnh lại, anh vụng về đưa phong thư tới trước, vừa nói:
- Tôi nhận một lá thư phát nhầm. Tôi có thể gửi trả lại qua đường bưu điện, nhưng lại sợ nó bị lạc, nên nhân tiện tôi tìm tới đưa trực tiếp cho người nhận. Chẳng hay có phải cô là... Yến Vĩ?
Cô gái đẹp như tiên nga cười rất tươi với Thuần:
- Đúng là em.
Bà người làm vội lên tiếng:
- Kìa, cô Hạnh. Cô đâu phải là...
Cô gái phá lên cười thành tiếng, trong trẻo:
- Dì Hai nói kiểu đó, không khéo con lại mang tiếng là mạo nhận thì khốn? Tên Yến Vĩ là tên lúc còn đi học bạn bè đặt cho, ở nhà ít người gọi.
Thuần buột miệng:
- Đúng rồi, bạn tôi cũng nói như vậy!
Cô gái ngạc nhiên:
- Bạn anh biết em?
Thuần kể lại một phần câu chuyện của Phú. Vừa nghe nhắc đến Phú, cô gái tên Hạnh đã reo lên:
- Em có quen anh Phú. Khi ở Huế tụi em nhiều lần tới ăn ở quán cơm Âm Phủ ngoài đó. Em và Phú khá thân, cho đến khi...
Cô nàng bỏ lửng câu nói, giúp Thuần dễ diễn đạt ý của mình hơn:
- Phú có giới thiệu tôi gặp cô. Tôi cũng sống xa nhà, nên cũng cần có những người bạn đồng hương...
Nàng phá lên cười hồn nhiên:
- Anh ấy thì lúc nào cũng thế. Luôn luôn muốn bạn bè mình hạnh phúc, còn bản thân mình thì muôn năm đi tìm sự cô đơn.
Câu chuyện giữa họ trở nên gần gũi và thân mật hơn, cho đến lúc Thuần chợt nhớ, anh đứng lên cáo từ:
- Tôi quên là nhà đang có tiệc, xin lỗi Hạnh, để dịp khác chúng ta có thời giờ ôn lại chuyện quê nhà hơn.
Bỗng từ nhà sau bước ra hai cô gái nữa, mà thoạt nhìn Thuần đã sững sờ! Cả ba người họ giống nhau đến đỗi Thuần không thể nào phân biệt được ai mới là cô Hạnh vừa nói chuyện với mình! Một cô lên tiếng:
- Đã là khách đồng hương sao lại khách sáo như vậy!
Cô còn lại cũng nói:
- Bọn em ở trong nhà nãy giờ đã nghe hết rồi. Đã là bạn của anh Phú thì cũng là bạn của tụi này. Bữa nay chỉ là tiệc gia đình giữa ba đứa tụi em với nhau thôi, tại sao anh Thuần không là khách riêng, để tụi này có dịp thử tửu lượng!
Cả ba cùng reo lên:
- Phải vậy thôi!
Họ rất tự nhiên kéo tay Thuần vào nhà trong. Lúc này Thuần mới biết là tiệc đang được bày ở sân sau ngôi nhà, nơi có một mảnh vườn nhỏ, xinh xắn.
Mải mê lo ngắm cảnh vật, đến khi quay lại thì Thuần không còn phân biệt được ai là Hạnh nữa. Anh hơi lúng túng thì cũng may, một cô gái đã nói:
- Em Tư, là khách của em, hãy mời một ly đi chớ!
Thuần cố để ý dấu vết riêng của từng người, nhất là Hạnh, nhưng trong nhất thời chưa thể tìm ra, mà cả ba người họ lại mặc cùng màu quần áo, một kiểu may, tóc lại chải cùng cách với nhau, nên càng trông càng hoa mắt. Có lẽ hiểu được sự lúng túng của Thuần nên cô Tư quay sang chỉ từng người giới thiệu:
- Đây là chị Hai, gọi là Hạnh nhất nương, còn đây là Hạnh nhị nương...
Nhất nương mau mắn:
- Người đang nói là cô Tư, tức Hạnh tứ nương. Tuy là út nhưng lanh nhất nhà, nên được bầu làm thủ lĩnh!
Thuần e dè hỏi:
- Thế còn... tam nương?
Giọng họ chùn xuống:
- Bữa tiệc hôm nay là giành cho Hạnh tam nương. Cô ấy đã ra đi trước chúng tôi rồi!
- Xin lỗi. Tôi vô tình...
Hạnh tứ nương lanh trí đúng như lời hai chị giới thiệu:
- Người không biết thì không có lỗi!
Họ nói chuyện giống như trong các phim võ hiệp Trung Hoa, khiến Thuần cũng thấy thích thú, anh pha trò:
- Tại hạ không đa lễ nữa, nào ta cụng ly!
- Trăm phần trăm đi huynh đài!
Họ uống ngọt đến không ngờ! Và sau khi cạn ly, chính tứ nương đã nói:
- Nếu huynh không chê đám gái quê này thì bữa tiệc này coi như lễ kết giao được không? Bọn này gọi là đại huynh nhé!
Đã vô một ly nên Thuần mạnh dạn hơn:
- Xin tuân lệnh.
Lại một ly nữa. Thuần mới hai ly đã hơi nóng mặt, còn họ có lẽ đã uống với nhau trước khá nhiều, vậy mà lúc này trông họ vẫn không chút gì biểu lộ sự chuếnh choáng. Hơi men khiến cho hai má của ba chị em hồng lên, đẹp đến mê mẫn tâm thần người nhìn. Thuần không đừng được, đã buột miệng:
- Khác nào Từ Thức lạc Thiên Thai!
Cô chị lớn cũng pha trò:
- Coi chừng nghen khi trở về dương thế Từ Thức râu tóc bạc phơ đó nghen!
Họ lại phá lên cười. Thuần hứng chí quá, tự động rót một ly đưa tới trước mặt nhất nương:
- Xin được uống với chị cả!
Cô nàng chỉ tay sang Hạnh tứ nương:
- Là khách thì phải uống riêng với người ấy, rồi mới tới bọn này!
Không hổ danh là thủ lĩnh, tứ nương cũng rót đầy một ly, hưởng ứng ngay:
- Tiếp đại huynh!
Sau ly đó, đến lượt hai cô chị, họ uống xong và tấm tắc khen Thuần:
- Quả xứng danh đại huynh của bọn này, bội phục, bội phục!
Trước sau Thuần uống đã chục ly, tuy chưa say, nhưng người đã bắt đầu lâng lâng. Uống thêm ly nữa, anh chàng hứng chí đứng lên, như muốn nói gì đó, nhưng vừa định nói thì lảo đảo và suýt nữa đã đổ nhào vào người bên cạnh, ba cô gái cũng trong tình trạng như vậy, họ đồng thanh nói:
- Đừng để huynh ấy té!
Tuy miệng nói vậy, nhưng cuối cùng cả ba người họ lại cùng ngã nhào lên người của Thuần lúc ấy đã nằm sóng soài trên bàn tiệc!
***
Trời tối dần...
Bà giúp việc lúc ban ngày hầu như không thấy bóng từ lâu. Cả bốn người họ vừa tỉnh giấc. Thuần bật dậy đầu tiên, anh chàng sửng sốt khi nhìn thấy ba cô nàng đều trong tình trạng trang phục xốc xếch như vừa bị ai đó cưỡng bức! Khi nhìn lại mình, Thuần hốt hoảng kêu lên:
- Sao thế này?
Anh thấy mình cũng trong tình trạng như vậy. Thậm chí còn lạc mất chiếc quần dài!
- Trời ơi! Chị...
Một cô kêu lên, rồi cả ba đều thảng thốt kêu và đều bật dậy, tay chụp lấy ngực và giương mắt nhìn Thuần đang ngơ ngác.
- Anh... anh đã...
Lúc này Thuần hoàn toàn không nhận ra ai là chị ai là em, nhưng nghe một cô lớn tiếng hỏi, anh đoán đó là cô chị lớn:
- Anh đã làm gì chị em chúng tôi?
- Tôi không... tôi cũng...
Cả ba cô gái đồng loạt khóc nức nở, khiến Thuần càng hoảng hốt hơn:
- Các cô hiểu lầm rồi, tôi cũng vừa mới tỉnh lại, tôi đâu có biết gì, tôi không hề...
Mặc cho lời biện bạch của Thuần, ba cô cứ khóc và quên hẳn việc phải xốc lại xiêm y. Cũng may lúc ấy chung quanh họ là màn đêm và không có một ai khác.
Thuần đưa mắt nhìn quanh và bất chợt nhìn thấy chiếc quần dài của mình máng trên cành cây gần đó. Anh rón rén đứng dậy, định lấy quần mặc vào thì đã nghe một tiếng quát:
- Anh tính chạy làng phải không!
Vừa kêu họ vừa đồng loạt kéo Thuần trở lại. Thuần bị té sấp lên họ và chẳng biết tại sao anh lại như mê đi... Bên tai Thuần nghe văng vẳng tiếng nói của họ. Một người bảo:
- Xử anh ta sao đây?
- Gây ra cái gì thì phải lấy cái đó mà trả!
- Anh ta đã làm nhục em chưa?
Không nghe câu trả lời. Lại giọng nói ấy lên tiếng:
- Mấy chị thế nào cũng được, chỉ sợ em tư thôi.
Một giọng nũng nịu:
- Sao cứ gọi là tư này tư nọ, người ta được gọi là tứ nương, quên rồi sao?
- Ờ thì Tứ Nương. Hạnh tứ nương!
- Như vậy có phải nghe hay hơn không!
- Thôi được rồi. Giờ nhường cho em xử lý hắn ta.
- Nhớ phải mạnh tay đấy nhé!
Một tràng cười khoái trá:
- Muội muội sẽ không làm các tỷ thất vọng đâu!
Dường như có hai bóng người đứng lên, rời nơi ấy. Chỉ còn Thuần và cô út. Tuy đầu óc vẫn còn nhận biết, nhưng hầu như cơ thể Thuần đã bất động. Anh cảm thấy nhột từ bàn chân trở lên và rồi như bị cù vào chỗ nhạy cảm, anh gồng mình lên để chịu đựng, nhưng càng lúc cảm giác nhột, khó chịu càng tăng thêm. Đến một lúc không còn chịu nổi nữa, Thuần cố thét thật to. Tuy nhiên mọi phản ứng lúc đó đều vô hiệu. Anh chàng mềm như bún, lã đi, nhưng vẫn còn cảm giác, đi từ chỗ nhột đến không thể chịu được, chuyển sang một cảm giác lạ lùng, khó tả...
Đến khi Thuần có cảm giác như có ai đó lay gọi mình. Anh từ từ mở mắt ra...
- Anh ta tỉnh lại rồi!
Ai đó reo lên, cùng lúc Thuần mở mắt và ngơ ngác khi thấy trước mặt mình có khá đông người!
- Sao... thế này?
Một người lớn tuổi đứng cạnh lên tiếng:
- Chú em chắc tối qua xỉn quá nên quên trời đất, hả!
Thuần ngước lên nhìn, khi thấy có nhiều người nhìn chăm chú vào mình, anh vội bật dậy và phát hiện chỗ mình nằm là một bãi cỏ ven đường!
- Sao tôi...
Ông lão bên cạnh lại lên tiếng:
- Vừa rồi chính tôi đi tập thể dục sớm ngang qua đây, phát hiện cậu nằm ngủ say chỗ này nên hoảng hốt, tưởng cậu bị tai nạn, đến khi lay cậu mới biết cậu còn sống. Sao cậu liều quá xe cộ cứ bỏ mặc đó, nằm ngủ ngon lành ở đây.
Lúc này Thuần mới nhớ lại chiếc xe gắn máy của mình, anh kêu lên:
- Xe của tôi!
Cụ già chỉ tay phía gần đó, bảo:
- Sợ kẻ xấu lấy, nên tôi cho dẫn tới để chỗ kia. Cậu xem lại coi có mất cái gì nữa không?
Thuần sờ vào túi quần, áo, thấy mọi thứ vẫn còn nguyên. Anh hỏi:
- Đây là đâu vậy bác?
Chỉ tay về phía trước mặt, ông cụ đáp:
- Đây là nghĩa địa là chỗ ban đêm không ai dám vào nên cậu mới may mắn không bị mất xe. Nhưng sao cậu lại vào chốn này?
Nhớ lại mọi việc, Thuần kêu lên:
- Chị em họ!
Ông cụ ngạc nhiên:
- Ngoài cậu ra còn có ai đi cùng nữa sao?
- Dạ không... Nhưng mà...
Anh nhìn quanh thấy toàn là mồ mả, hoảng hốt:
- Thế nhà họ đâu?
- Nhà ai?
- Họ có ba chị em. Họ...
Thấy mọi người không hiểu, Thuần sau một phút lưỡng lự, đã đột ngột hỏi:
- Cư xá Hồng Hà ở đâu?
Ai cũng ngơ ngác:
- Ở đây làm gì có cư xá đó.
Thuần nhớ như in mọi chuyện đêm qua, kể cả cái cảm giác lâng lâng vẫn còn trong người. Anh chẳng nói thêm lời nào, chạy thẳng tới chỗ chiếc xe của mình, rồ ga chạy một mạch. Mấy người đứng đó lắc đầu ngao ngán:
- Thằng này chắc là tâm thần rồi!
Thuần chạy quanh đó nhiều vòng, anh cố tìm lại cư xá và số nhà... Nhưng chẳng hề có nơi nào như anh đã gặp hôm qua. Hỏi thăm thì có người bảo:
- Ở đây gần nghĩa địa, coi chừng gặp ma đó!
Thuần thẫn thờ đứng ở góc đường như một kẻ tâm thần thật sự...
***
Rời khỏi sân bay Phú Bài trong tâm trạng nôn nóng, nên Thuần gọi ngay chiếc xe ôm đi về Gia Hội. Vừa tới trước cổng nhà Phú anh đã cất tiếng gọi to:
- Có nhà không Phú ơi!
Phải gọi lần thứ hai thì mới có người ra mở cổng. Đó là bà Lụa, mẹ Phú. Nhác trông thấy Thuần bà đã òa lên khóc! Thuần ngơ ngác:
- Kìa bác! Bác sao vậy?
Bà Lụa không trả lời càng khóc lớn hơn. Thuần phải tự đẩy cổng vào, anh cầm tay người mà xưa nay anh vẫn coi là mẹ thứ hai của mình:
- Có chuyện gì vậy bác Tư? Còn thằng Phú đâu?
Lúc này bà mới nói được mấy tiếng:
- Thằng Phú... bỏ đi rồi!
- Đi đâu? Thằng Phú...
Bỗng bà đấm mạnh vào vai của Thuần:
- Mày ác lắm! Mày ở lại mà không cho nó cùng ở, để nó bỏ đi mất, đi biệt rồi!
Thuần hoảng hốt:
- Mà nó đi đâu?
- Phải rồi, đến ngày đi chôn nó mà mày cũng không về, nên làm sao mày cứu nó ở lại được!
Như nghe một tiếng sét đánh mang tai, Thuần kêu to:
- Bác nói gì, ai chết?
Thuần tốc chạy thẳng vào nhà và khựng lại khi thấy trên bàn thờ mới là bức ảnh chân dung của Phú!
- Trời ơi!
Giọng bà Lụa lạc đi:
- Nó chết đã mấy tháng nay rồi, tại sao mày không hay?
Thuần hỏi lại:
- Bác nói sao? Phú chết bao giờ?
- Còn hai ngày nữa là đủ bốn mươi chín ngày.
Thuần lẩm nhẩm tính rồi kêu lên lần nữa:
- Không thể nào! Chính con mới vừa nhận thư của nó cách nay mấy ngày...
Anh móc cái thư trong túi nhìn lại cả dấu bưu điện đi và đến rồi đưa cho bà Lụa xem:
- Ngày gửi chỉ cách đây mười ngày, còn ngày nhận thì ba bữa trước. Như vậy sao bác nói Phú chết gần hai tháng?
Nghe Thuần nhắc, bà Lụa mới nín khóc, bà cầm lấy lá thư nhìn thật kỹ, có lẽ nhằm kiểm tra lại nét chữ, xem có nhầm lẫn gì không. Nhưng hoàn toàn đúng nét chữ của Phú khó mà lẫn lộn với ai, dẫu cho có viết tháo hay cách nào thì thoạt trông qua bà mẹ đã nhận ra ngay.
Khi cơn xúc động hạ bớt, bà Lụa kể cho Thuần nghe mọi chuyện, mà trong đó có một chi tiết vừa nghe qua Thuần đã kêu lên ngay:
- Bác nói Phú đi cùng với ba cô gái rồi bị nạn?
Bà Lụa gật đầu:
- Trước hôm mất, có một cô gái tên là Hạnh nói là từ Sài Gòn ra thăm nó, thằng Phú dẫn vô giới thiệu với bác và còn mời ở lại ăn cơm nữa. Nhưng cô gái ấy từ chối, nói là phải về nhà người quen ngay, bởi đang có hai người chị đang đợi cơm. Thế rồi thằng Phú lấy xe đưa cô ấy về, nghe nói là ở gần Lăng Cô. Và hôm sau bác hay tin nó chết ở chỗ đó!
- Lăng Cô?
Thuần lẩm nhẩm trong miệng hai từ đó vài lần, hình như anh đang cố nhớ ra điều gì đó... Rồi chợt Thuần reo lên:
- Đúng rồi!
Bà Lụa ngạc nhiên:
- Con nói cái gì đúng?
- Lúc con ra đây hồi năm rồi, chính Phú đã kể cho con nghe, nó có quen một cô gái ở Lăng Cô, nhưng cô ấy đã chết cách đó mấy năm.
Bà Lụa xác nhận:
- Đúng, đó là con Hoa Lê, người yêu của nó. Chính cái chết của con nhỏ này mà khiến cho thằng Phú mất ăn mất ngủ cả năm trời. Nhưng chuyện đó với chuyện cái chết của nó có gì liên quan nhau đâu?
Thuần thừ người ra một lúc, rồi chợt nói:
- Con ngờ ngợ chuyện này... Mà bác nói Phú chết khi đi chung xe với mấy cô gái rồi xe bị rơi xuống vực lúc qua đèo Hải Vân?
- Bác nghe dân quanh đó nói vậy. Nhưng khi tìm xác thì chỉ thấy mỗi mình thằng Phú, bác chẳng thấy dấu vết gì của bạn nó.
- Bác biết nhà của cô Hoa Lê ở đâu không?
Bà Lụa nhẹ lắc đầu:
- Bác có nghe nói là ở ngay cuối làng chài, nhưng do già cả rồi nên bác đâu có dịp tới đó.
- Hoa Lê... nhất định con sẽ tìm ra!
Thuần vừa nói vừa vụt đứng lên định đi. Bà Lụa ngạc nhiên:
- Con mới ra, sao không ở lại với nó, mà tính đi đâu?
- Dạ, con đi tìm nhà cô Hoa Lê!
- Để làm gì?
- Con ngờ ngợ thế nào ấy...
Muốn tìm cách ngăn, nhưng trước sự cương quyết của Thuần, bà Lụa chỉ lắc đầu nhìn theo bóng của anh ta khuất ở ngoài cổng.
Thuần gọi một chiếc xe ôm, bảo chở về hướng đèo Hải Vân. Khi đến khúc quanh nhìn xuống Lăng Cô, anh bảo:
- Nếu có thể được thì anh đợi tôi trên này, tôi ra thăm một người quen bên Lăng, chừng hơn tiếng đồng hồ. Lúc về tôi sẽ trả cả tiền đợi cho anh.
Người chạy xe ôm vui vẻ:
- Cậu cứ đi, tôi ngồi ở quán nước ven đường kia uống cà phê đợi. Chứ giờ này xách xe không chạy về Huế thì cũng phí mà lát nữa khi cậu về cũng khó mà đón xe ở đoạn này.
Thuần một mình qua làng chài Lăng Cô. Anh lần mò hỏi thăm nhà Hoa Lê thì thật bất ngờ, hầu như ai cũng biết. Một bà già chỉ hướng cho Thuần:
- Cậu đi theo lối này, qua hết hơn chục cột phơi lưới thì thấy căn nhà sơn màu xanh nằm cheo leo gần bờ biển, đó là nhà của con Hoa Lê. Nhưng cậu kiếm nó làm gì, khi con bé đã chết lâu rồi?
Thuần lúng túng:
- Dạ... cháu muốn... tìm người nhà cô ấy.
Bà cụ thở dài:
- Có còn ai đâu mà tìm!
Thuần trố mắt nhìn:
- Sao vậy bác? Thế cha mẹ, anh em cô ấy?
- Nhà đó chỉ có hai mẹ con. Sau khi Hoa Lê chết được một năm thì do đau buồn nên bà mẹ cũng ngã bệnh nặng, bỏ vào chân đèo ở một mình. Từ đó căn nhà này bỏ hoang, không ai ở. Mãi cho đến khi cách đây gần hai tháng thì bỗng có ba cô gái lạ, từ Sài Gòn ra, họ cũng tìm tới ngôi nhà của Hoa Lê, nói là bạn thân, do không biết tin Hoa Lê chết nên ra thăm. Họ cũng gặp tôi, nhờ tôi cho vào ở nhờ nhà không chủ đó, do lỡ độ đường. Tôi thấy không có gì trở ngại nên để cho họ vào ở. Không ngờ...
Ngừng lại một lúc, rồi bà tiếp lời, làm cho Thuần giật bắn người:
- Ngày hôm sau một trong ba cô gái đó đi đâu trở về, có dẫn theo một chàng trai. Họ vào nhà một lúc rồi cùng kéo nhau đi. Nghe nói họ cùng lên một chiếc xe hơi đậu chờ sẵn trên đèo. Thế rồi chỉ nửa tiếng sau, tôi nghe tin cả bọn họ đều tử nạn, do xe lạc tay lái, rơi xuống vực!
Bà cụ kể trong nước mắt, khiến Thuần cũng rưng rưng. Rồi bà tiếp lời:
- Hình như mấy người con gái lạ đó còn để nguyên hành lý trong nhà con Hoa Lê.
Không đợi nghe thêm, Thuần vội chạy tới chỗ ngôi nhà. Cổng chỉ chốt chớ không khóa, cửa bên trong cũng thế. Nên Thuần vô nhà khá dễ. Anh cũng tìm được ngay một chiếc xách tay khá lớn nằm ở góc nhà. Trong giỏ xách ngoài một số quần áo nữ, còn có một quyển sổ xinh xắn, ngoài bìa có ghi mấy chữ khá nắn nót: Hạnh tứ nương.
- Đúng là họ rồi!
Thuần lặng người đi một lúc rồi mới cầm quyển sổ đó bước ra ngoài. Bà cụ vẫn còn đứng đó, bà hỏi ngay:
- Cậu có tìm thấy gì không?
Thuần đưa quyển sổ và nói:
- Đây là kỷ vật của bạn cháu. Xin phép bác, cháu muốn được cầm về.
Bà cụ mau mắn:
- Còn quần áo, đồ đạc gì đó cậu cứ mang đi, bởi từ lúc tai nạn xảy ra tôi cứ chờ hoài mà chẳng thấy thân nhân họ ra đây tìm, nên những gì trong ngôi nhà đó vẫn còn nguyên.
- Dạ, cháu chỉ xin lấy quyển sổ này thôi.
Điều Thuần nôn nóng nhất muốn hiểu thêm là dòng địa chỉ ghi dưới trang đầu của quyển sổ. Địa chỉ khác của Hạnh Tứ Nương.
***
Dòng địa chỉ 128 đường Hoa Hướng Dương khiến cho Thuần mất toi hai ngày để tìm mà cuối cùng vẫn phải bó tay. Cư xá Hồng Hà đã là một nơi ảo, ngoài ra chẳng nơi nào có tên như vậy. Chạy xe lòng vòng mất bốn bình xăng mà vẫn tìm chưa ra, Thuần hơi nản, định ra về thì đến phiên chiếc xe trở chứng, chết máy khi chạy tới một đoạn vắng có nhiều xe container đậu nối đuôi nhau.
Vừa dẫn xe Thuần vừa càu nhàu, bỗng có ai đó gọi anh từ sau lưng:
- Cậu ơi!
Quay lại nhìn, Thuần quá bất ngờ khi gặp bà giúp việc nhà của chị em Hạnh hôm trước!
- Bà... bà là...
- Tôi là người làm của các cô Hạnh, cậu gọi tôi là Dì Tư. Cậu đi tìm các cô ấy phải không?
Không ngờ buồn ngủ lại gặp chiếu manh, Thuần mừng quá, quên cả cơn mệt trong người:
- Dạ, cháu tìm mấy ngày rồi, mà cái địa chỉ này...
Dì Tư lặng lẽ bước đi trước, bảo khẽ:
- Cậu theo tôi ắt gặp.
Dẫn xe đi không xa lắm, đến cuối hàng xe tải đậu, họ quẹo vào một con đường mòn nhỏ, lúc này Thuần mới lờ mờ nhận ra có cái gì đó quen quen trước mắt... Khi qua khỏi một hàng me tây tàng lá rậm rạp, Thuần chợt nhận ra, anh kêu lên:
- Chỗ này rồi!
Thì ra từ chỗ Thuần đang dừng xe, nhìn xuyên qua một hàng rào gỗ cao là khu vườn mà hôm trước anh đã cùng ba cô gái ngồi nhậu với nhau! Không thể lầm được, bởi bộ bàn ghế đá màu trắng bên cạnh giàn hoa hướng dương cao gần ngang ngực.
Thấy Thuần còn ngơ ngác đứng nhìn, bà Dì Tư giục:
- Cậu vào đi, tới nhà rồi đó.
- Cháu nhớ ra rồi. - Thuần nói.
Lúc mở cửa cho Thuần vào trong rồi, bà người làm mới bảo:
- Đây là cổng sau, bữa trước ngồi trong vườn chắc cậu nhìn ra đây rồi phải không? Còn cổng trước là cư xá, hôm cậu đi vô, nhưng ngay chiều hôm đó do người ta đào hệ thống cống nên đã chận ngang không cho vào lối đó.
- Nhưng sao cháu hỏi, không ai biết cư xá Hồng Hà?
- Cậu không biết, chứ ở đây người ta kỵ cái tên đó. Bởi trước kia khu đất này nguyên là nghĩa địa Hồng Hà, bây giờ thành khu dân cư rồi, không ai còn muốn nhắc tới cái tên cũ, nên hễ nghe ai hỏi tên Hồng Hà thì người ta không chỉ.
Hình như đã đoán biết việc Thuần trở lại đây nên bà Tư nhìn anh một lúc rồi ngập ngừng:
- Cậu đã biết chuyện về ba cô Hạnh?
Thuần nhìn quanh một lượt, rồi nhìn thẳng vào mắt bà:
- Có đúng là cả ba cô đều đã... chết?
Bà Tư thở dài:
- Tội nghiệp họ. Đúng là hồng nhan bạc phận!
- Nhưng họ chết ở đèo Hải Vân, sao lại hiện ra ở chỗ này?
Giọng bà thật buồn:
- Tôi đã đưa họ về đây và tôi đã nguyện là sẽ sống cùng họ suốt đời...
Bà nói xong thì khóc nức nở, khiến Thuần cũng xót xa trong lòng. Hồi lâu anh mới hỏi:
- Bác là thế nào với ba cô ấy?
Bà hỏi ngược lại:
- Cậu biết nhà Hoa Lê ở Lăng Cô chưa?
- Dạ biết. Cháu mới về chỗ ấy xong.
- Tôi là mẹ của Hoa Lê.
Nhớ lại lời kể của bà hàng xóm ở làng chài, Thuần hỏi:
- Có phải sau khi Hoa Lê mất, bác đã bỏ vào chân đèo ở và không trở về nhà nữa?
Lại một lần nữa bà thở dài:
- Không phải tôi tự vào đó ở, mà là con Hoa Lê cứ giục mãi. Nó muốn tôi vào đó, nơi căn lều kiểm lâm trước kia của cha nó. Lúc đầu tôi không biết để làm gì, cho đến khi vụ tai nạn xảy ra, cả chiếc xe rơi xuống vực, trong đó có ba cô con gái và một anh chàng, thì tôi hiểu, bởi trước đó đêm nào vong linh con Hoa Lê cũng về báo cho tôi biết, sắp có bạn nó đi tìm nó và dặn tôi là sau khi tiếp nhận họ thì tôi phải mang xác họ ra khỏi nơi đó, không để ai biết tung tích họ ở đâu!
Thuần buột miệng:
- Thảo nào chẳng ai tìm thấy xác họ đâu!
Lát sau bà Tư tuần tự kể lại câu chuyện mà Thuần đang muốn biết:
- Con Hoa Lê nhà tôi vốn cùng với ba cô gái tên Hạnh trong một buổi lễ cầu hồn đã kết bạn với nhau. Nó không liên hệ huyết thống gì với họ, nhưng lại nhận mình là chị em, mang tên là Hạnh Tam Nương...
Thuần chợt kêu lên:
- Hạnh tam nương! Nhân vật vắng mặt hôm bữa tiệc?
Lời giải thích của bà khiến Thuần lạnh cả người:
- Hồn con tôi bị một cái vong trong buổi cầu hồn ám nên dẫn dụ ba cô gái sinh ba tên Hạnh cùng chết theo mình và cùng kết bạn thành nhóm Tứ Nương. Nhưng từ khi về đây lập ra cái vườn Âm Hồn này thì con tôi bỏ đi, theo người yêu nó.
- Theo Phú?
Bà gật đầu:
- Đúng là Phú. Chính nó đã bắt Phú đi theo. Tôi buồn lắm vì chuyện đó. Bị nó làm cậu Phú chết oan. Nhưng biết làm sao, khi luật của cõi âm là như vậy, khi oan hồn yêu ai thì muốn người yêu ở dương thế đi theo...
Chợt quay sang Thuần, bà nói:
- Cậu may mắn nên giờ này còn ngồi đây.
- Bác nói vậy là sao? - Thuần ngạc nhiên.
- Khi cậu tìm tới đây hôm đó là do mấy cái oan hồn này muốn cậu tới. Có phải cậu tới sau khi nhận được tin của bạn cháu?
- Phải, cháu nhận được thư của bạn cháu.
- Trong lúc cậu Phú đã chết trước đó lâu rồi!
- Dạ...
Bà lại thở dài:
- Tôi đã can ngăn mãi mà chúng không nghe. Nhất là con Hạnh tứ nương, nó cứ nằng nặc đòi chiêu dụ cho bằng được một người con trai, để nó được siêu thoát khỏi kiếp oan hồn! Trong cõi âm, những cô gái chết oan nếu muốn thoát kiếp thì cần có một người con trai tới, để cùng đi với họ. Cậu đáng lẽ đã chết ngay sau bữa tiệc ở khu vườn này đêm hôm đó, nếu không có cuộc cãi nhau rồi sinh huyết chiến giữa con Hoa Lê nhà tôi với ba cô Hạnh đó... chính người bạn tên Phú của cậu, đã cùng với con Hoa Lê chống lại ba chị em họ, giải thoát cho cậu khỏi bị bắt hồn. Và cũng từ đó những oan hồn tụ họp ở đây cũng vĩnh viễn ra đi. Tôi cũng không muốn lưu lại đây làm gì, bởi nhiệm vụ không cưỡng lại được trước đây, nay đã được giải thoát. Nhưng nghĩ đến cậu, nên tôi nán lại, gặp cậu lần nữa, nói cho cậu hiểu mọi chuyện, để cậu đừng đi tìm chị em nhà ấy nữa, họ là hồn ma cả đó...
Nghe kể tới đâu Thuần lạnh người đến đó. Anh xót xa:
- Dẫu sao cũng tội nghiệp họ.
Bà Tư cũng đồng tình:
- Chính vì thương họ nên tôi mới chịu đựng sự khống chế của họ, để giúp họ sống yên trong khu vườn này thôi, không ra ngoài phá phách thiên hạ.
Bà ra dấu bảo Thuần đi theo. Dẫn anh vào trong nhà, bà chỉ bàn thờ có năm bát nhang:
- Tôi thờ hết bọn họ ở đây, kể cả bạn cậu. Cậu cũng nên thắp cho chúng nó một nén nhang. Cậu yên tâm, từ nay chúng đã siêu thoát cả rồi, không hiện về nữa đâu.
Đốt nén nhang, Thuần khấn rất thành khẩn và đứng rất lâu trước bàn thờ họ...
Khi ra về, đi ngang qua khu vườn "Âm Hồn", tự nhiên Thuần bắt rùng mình...


Phần 5


Gánh hát đến đây hơn bốn ngày rồi mà trời thì mưa suốt do có một cơn bão lớn ngoài biển Đông, trời đất ủ dột, mây đen che phủ bầu trời, gió giông tơi tả những cành cây còi cọc. Chung quanh là núi, núi hiện ra với màu sắc lạ lẫm, nhăn nhó trong các ánh chớp lòe. Anh em nghệ sĩ đói meo.
Ở trong ngôi chợ chật hẹp, mưa lại dột tứ bề nên Minh Kim tự ý dọn vào một ngôi nhà vô chủ cách đó vài trăm thước và ở đó một mình. Nhà hoang nhưng vẫn còn mái che tốt, vách bốn bên chưa rách lắm nên Minh Kim có thể an ổn tránh được những cơn mưa làm nản lòng người. Tuy ở một mình có buồn thật nhưng Minh Kim vẫn thích thú khi nghĩ mình mới là người khôn ngoan, trong khi chờ đợi ngày đẹp trời đoàn sẽ có một ngày khua chiêng gõ trống để có một chút lương còm thì thà nằm bẹp dí ở đây còn hơn là cứ ngồi ủ rũ ở giữa chợ huyện bốn bề mưa tạt.
Theo Minh Kim, anh đã đi lưu diễn khắp bốn phương trời rồi nhưng chưa đâu có cảnh mưa lại buồn như ở đây. Gió mưa cứ phủ mờ trời đất. Xa xa là những dãy núi đen thẫm, mịt mờ trong bóng mưa trắng xóa.
Ngay đêm đầu tiên Minh Kim dọn ra ngôi nhà này nhiều nghệ sĩ đã dọa: "Mày có biết cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận chưa? Coi chừng!". Xếp đồ đạc vào một góc xong. Minh Kim ôm mền gối leo lên chiếc chõng tre ngồi đốt thuốc nhìn cảnh mưa giông lạnh lẽo đang xao động bên ngoài. Thấy lạnh anh chàng lại nhảy xuống mò vào bếp ăn cũ, may sao còn một số củi than. Loay hoay một hồi Minh Kim cũng gầy được lò than cháy đỏ tỏa hơi ấm.
Minh Kim thích thú ca mấy câu "xàng xê" rồi nằm dài trên giường đợi chờ giấc ngủ.
Mưa vẫn xối xả bên ngoài. Minh Kim cứ nằm đó trằn trọc mãi. Tâm trí chàng ta thả trôi đâu đâu, có lúc thấy như mình vẫn thức. Có lúc lại thấy như đang mơ...
Nửa khuya hình như cơn bão hơi tan mưa chỉ còn những hạt nhẹ. Bỗng dưng trong lúc nửa thức, nửa ngủ Minh Kim nghe có tiếng giọng nói của một phụ nữ:
- Anh kia ở đâu sao dám ngủ ở giường ta?
- Tôi là nghệ sĩ lang thang, xin cho tôi ở tạm đôi ngày rồi đi. - Minh Kim nói trong vô thức.
- Phải đi ngay. - Tiếng cười xa xăm.
- Trời mưa gió làm sao đi được? Thôi xin cho tôi được ngủ qua đêm rồi mai tôi sẽ dọn đi. - Minh Kim năn nỉ.
Một giọng cười nhạt:
- Ai tin nổi bọn đàn ông các người.
Minh Kim muốn trở dậy nhưng hai mắt cứ ríu lại. Rồi đột nhiên trong cảnh mông lung nửa hư, nửa thật Minh Kim thấy một khuôn mặt một người con gái với hai mắt sâu thẳm, đôi chân mày lá liễu với chiếc mũi dài thanh tú hiện ra. Đôi môi con gái đỏ mấp máy:
- Lâu rồi ta chẳng có đàn ông, chắc chàng là duyên số. Ta ở dưới này đã năm mươi năm rồi, ta lạnh lắm. Ta mong có ai ôm ấp ta.
- Dưới này là đâu?
Minh Kim lắp bắp hỏi. Cái miệng với đôi môi đỏ như máu thổi một hơi dài vào lò than sắp tắt. Lửa lại lóe sáng lên, ánh lửa tí tách nổ và bóng tối hòa trộn thành một thứ ánh sáng chập chờn có màu huyền bí kỳ dị. Và giữa làn ánh sáng ma quái ấy toàn thân người con gái dần dần hiện ra giống như pho tượng khỏa thân mà Minh Kim đã có lần nhìn thấy bên một ngôi tháp cổ. Song tất cả tấm thân gợi cảm ấy hình như được quấn quanh bởi một làn sương trắng lay động mờ ảo.
Người Minh Kim nổi gai ốc, tóc dựng đứng. Đây là ma quái yêu tinh rồi! Minh Kim quấn chặt tấm chăn lùi vào sát vách. Con mắt màu xanh chợt chớp lóe giống mắt con rắn lục thôi miên. Cái miệng mở ra tối tăm một nụ cười.
- Chàng định chạy trốn ta ư? Chàng đã đến đây rồi, ta yêu chàng thì chàng chạy đâu cho thoát? Thế giới của loài ma đâu có không gian, dù chàng có chạy xa ngàn dặm chỉ chớp mắt là ta vẫn ở bên chàng. Không sao đâu người yêu dấu, ta đâu có làm hại người.
Minh Kim líu ríu van xin:
- Cô ơi hãy tha cho tôi, tôi chỉ vô tình mạo phạm vào đây. Xin cho tôi được đi ngay!
Khuôn mặt xanh mét từ từ di chuyển đến sát mặt Minh Kim:
- Đi đâu hỡi chàng kép đẹp. Ở đây đêm khuya thanh vắng chỉ có ta và chàng, sao lại nỡ bỏ khoảnh khắc ngàn vàng này?
Tự nhiên chiếc chăn quấn quanh người Minh Kim như có ai kéo ra khỏi người anh ta và bay là đà lên trần nhà. Rồi cả áo quần Minh Kim cũng tự nhiên bung ra và bay vút lên cao. Một thân người con gái trắng nà như sương khói từ từ quấn lấy Minh Kim.
Một bàn tay nhẹ như làn gió thoảng đẩy chàng ta ngã xuống tấm chõng tre nứa. Minh Kim nghe tiếng thở dồn dập nhưng anh không rõ đó là tiếng thở của mình hay của ai. Hình như trời đất đang đảo lộn, hình như giữa mây và mưa đang quấn vào nhau trong một cơn bão lặng yên ma quái.
***
Buổi sáng Minh Kim thức dậy thấy mình trần truồng trong tấm chăn mỏng. Anh nghe người bải hoải như thể suốt đêm qua mình không ngủ được. Câu chuyện đêm qua hiện về Minh Kim chẳng biết chuyện đó là chuyện thật hay chỉ là giấc mơ ma quái? Đầu Minh Kim nặng trĩu, hai mắt mở không muốn lên.
Thấy đói, Minh Kim định đi ra chợ với đoàn hát song hai chân anh nặng trịch, người lảo đảo. Bỗng dưng Minh Kim thấy trên chiếc bàn tre xiêu vẹo có một rá cơm và mấy miếng khô rừng. Không nghĩ ngợi, Minh Kim ngấu nghiến ăn, hạt cơm thơm giống như cơm lam, còn mấy miếng khô rừng thì béo ngậy, rất hợp khẩu vị.
Đang ăn Minh Kim thấy mấy người bạn trong gánh hát đang đi tìm mình chỉ cách nhau có vài mét nhưng hình như họ không thấy anh. Minh Kim lên tiếng gọi họ nhưng tiếng anh lạc đâu vào một chốn xa xôi nào đó khiến chẳng ai nghe thấy. Dường như giữa anh và họ có một bức tường vô hình ngăn cách. Minh Kim thất vọng nằm xuống. Bất chợt anh nghe đâu từ ở dưới lưng anh sâu dưới lòng đất có một tiếng cười giòn tan sảng khoái:
- Đừng gọi họ vô ích chàng ơi! Bây giờ chàng là của em rồi, như vậy hai ta đã là của nhau. Chàng sẽ mãi mãi ở đây cùng thiếp.
Tiếng cười, tiếng nói như mơ hồ, văng vẳng chợt xa, chợt gần mà chẳng biết xuất phát từ nơi đâu.
Cơn bão vẫn chưa tan. Mới nắng ráo được một chút thì mây đen lại bao phủ, sấm chớp đầy trời. Rồi chỉ mươi phút sau cả bầu trời trở thành biển nước ào ào đổ xuống. Chung quanh là một làn mưa trắng xóa. Căn nhà hoang chìm trong một thứ ánh sáng lờ mờ lạnh lẽo. Chợt dưới ánh sáng của một tia chớp Minh Kim lại thấy cô gái ban đêm xuất hiện. Cô gái ngồi trên chiếc ghế tre, đôi mắt buồn bã. Hình như từ hồi có cô gái xuất hiện đến giờ ngôi nhà không còn lắc lư dù mưa gió bên ngoài đang gào thét dữ dội.
Minh Kim lo lắng nhìn cô thiếu nữ ma:
- Em ơi, em tên gì và từ đâu đến? Hôm nay sao người tôi bải hoải như sắp đau.
- Tại anh đêm rồi quá ham mê tửu sắc. Không sao đâu em có sẵn cái này cho anh uống. Uống xong sẽ khỏe ngay thôi. - Thiếu nữ hơi mỉm cười.
Rồi cô nàng vẩy tay, một cái chén màu lục từ từ bay về phía Minh Kim, một mùi hương như mùi hoa lài tỏa ra thơm ngát, sẵn đang khát, Minh Kim bưng lấy uống một hơi. Chỉ nửa khắc, chàng nghệ sĩ tha hương nghe một hơi nóng từ vùng đan điền dâng lên ngùn ngụt, đồng thời chàng cũng thấy một sự thèm muốn bốc cháy. Đôi mắt xanh màu rắn lục cũng lao về phía Minh Kim và họ quấn lấy nhau giữa tiếng gió mưa sấm chớp...
Sau một giấc ngủ ngắn nhưng Minh Kim lại ngỡ như mình đã thiếp đi lâu lắm, trời bắt đầu ngớt tạnh. Người con gái vẫn còn ở trong chăn với anh, Minh Kim nghe hương hoa lài sực nức bao trùm giữa hai người. Minh Kim mân mê ôm hôn cô gái:
- Hôm qua đến giờ chúng mình đã chung chăn gối với nhau mà em vẫn chưa cho biết tên em?
Tiếng cười giòn tan:
- Hai ngày qua em thấy chàng hạnh phúc quá nên tạm chưa nói đó thôi. Em là Sami mới tròn hai mươi lăm tuổi.
- Sao em nói em đã ở dưới ba, bốn chục năm rồi?
- Vâng đúng thế. Lúc chết em mới vừa hai mươi lăm tuổi. Nhưng chết cách nay đã ba bốn mươi năm rồi.
- Anh không tin em là ma đâu. Anh đang ôm em trong vòng tay đây này. Da em mịn màng, tóc thơm mùi hoa lài. Em phải là một tiên nữ mới đúng. Tiên nữ Sami ơi, đừng có dối anh. - Minh Kim cười sặc.
Sami cục cựa trong vòng tay của Minh Kim:
- Không, ma đấy...
Bất chợt trong chăn có tiếng gì đó lục cục và Minh Kim thấy như thể mình đang ôm một bộ xương người lạnh cóng. Minh Kim kinh hoàng định tung chăn bỏ chạy, song tiếng Sami lại ở bên tai Minh Kim:
- Anh làm gì thế, em đây mà.
Minh Kim sờ lại, vẫn là Sami với da thịt căng tròn và mùi hương lài nồng nặc bên mũi.
Sami vuốt ve nhè nhẹ sống lưng Minh Kim vỗ về:
- Anh ơi, đừng sợ, em sẽ kể cho anh nghe về cuộc đời bất hạnh của em. Em không phải là tiên nữ như anh bảo đâu. Xưa kia em chỉ là một cô gái chăn bò thuê nhưng có chút nhan sắc thế thôi. Em với đàn bò có khi cả mấy tháng ròng rong ruổi trong các thung lũng bên rừng, trong núi. Bò của em luôn mập khỏe hơn bò của đám bạn đồng nghiệp bởi vì chỉ có em mới biết mùa nào, tháng nào cỏ ở đâu ngon nhất. Tuy là con gái song em như con trai, chẳng sợ gì cả, luôn một mình trong rừng sâu núi thẳm với bầy bò rất khôn ngoan. Anh chưa biết đâu, đi chăn bò như em thú vị lắm. Đêm một mình trong núi mới thấy cái đẹp của vầng trăng, mới thấy rõ từng vì sao di chuyển trên bầu trời trong vắt...
- Ôi em kể chuyện nghe hay quá!
Một bàn tay trong chăn đè lên miệng Minh Kim.
- Đừng ngắt lời em. Hồi đó em mới đôi mươi thôi, tuổi con gái dậy thì mà, như hoa đồng cỏ dại trong rừng. Có những đêm trăng em nằm thao thức mãi với những ước mơ cháy bỏng trong đầu, không ai biết đâu, em từng mơ có đêm nào đó có một chàng hoàng tử từ một tinh cầu nào đó đi lạc đến chỗ em, chàng ấy sẽ gọi em là cô công chúa của rừng xanh và rồi chàng sẽ cúi xuống ôm hôn em. Và em đã chuẩn bị sẵn trong đầu những tư thế để mời gọi chàng ban cho em những cơn mưa tình ái. Thật vậy, còn gì sung sướng và hạnh phúc bằng khi người ta được tự do yêu đương, ân ái với nhau giữa cảnh rừng sâu núi thẳm? Trên trời có trăng sao vằng vặc, dưới lưng là nệm cỏ khô êm ái, bốn bề chỉ nghe cây rừng xào xạc trong gió thì đời người có mấy ai có những cuộc yêu đương huy hoàng tráng lệ như thế?
- Rồi có lần nào em gặp một hoàng tử như thế không?
Bàn tay trong chăn vả nhẹ má Minh Kim:
- Em đã bảo là đừng ngắt lời em mà. Vâng, giữa núi rừng hoang sơ, một cô gái tuổi dậy thì căng tràn sức sống làm sao lại chẳng mơ có được một người yêu tràn đầy sinh lực như thế đến với mình? Chắc chắn em sẽ không e dè, e lệ mà sẽ sẵn sàng nồng nhiệt buông thả. Và hình như trời đất không phụ em, chẳng những chỉ một hoàng tử mà có đến cả chục hoàng tử như thế. Đó là bọn vô công rỗi nghề dắt nhau đi đào vàng, kể cả đào mả mồ lâu đời mà chúng nghi có vàng ở dưới.
Mưa lại càng to, sấm chớp liên hồi. Trong chiếc chăn trùm kín hai người, Minh Kim nghe Sami run lẩy bẩy song cô nàng ma quái này vẫn thủ thỉ kể:
- Bọn đào vàng phát hiện ra em nên hôm nào chúng cũng lượn lờ chung quanh chiếc lều của em nằm bên chân núi giữa đàn bò. Có một tên mặt mày bậm trợn đến tán tỉnh em. Hắn hứa hẹn nếu đào được nhiều vàng thì hắn sẽ cưới em làm vợ. Và em tin hắn, ai ngờ hắn lừa đưa em lên núi để cả bọn cưỡng hiếp em. Rồi sợ em tố cáo bọn chúng đã giết em giấu xác dưới kia. Từ đó em là con ma lạc lõng giữa nơi này.
Tuy giọng nói nghe như sầu như thảm nhưng chỉ một lúc sau Sami vẫn tìm cách rủ rê Minh Kim vào chuyện mây mưa.
***
Từ đó Minh Kim như một người tù bị giam lỏng, mỗi ngày khi sáng thức dậy đều có một mâm cơm để sẵn đó, Minh Kim ăn xong rồi chỉ có nằm, sức khỏe ngày một yếu, Minh Kim nghĩ mình sẽ chết nếu chẳng tìm cách trốn đi. Có một buổi sáng trời quang đãng khi thấy con ma Sami không xuất hiện, Minh Kim tìm cách bò ra ngoài. May sao có người đi qua anh năn nỉ người ta chở anh về đoàn hát.
Bạn bè đồng nghiệp thấy anh thân tàn ma dại vội đưa anh đến một trạm xá huyện nhờ cứu chữa. Ai cũng cho rằng Minh Kim do ham mê chơi bời nên vướng nhằm bệnh hiểm. "Vậy mà đêm ấy..." Minh Kim bồi hồi kể lại:
- Đêm ấy tôi nằm nơi trạm xá, trời trong trăng tỏ, giường tôi nằm ở kế bên cửa sổ nên có thể nhìn ra bên ngoài. Chỉ có mấy ngày đêm ân ái với Sami mà tôi thấy như tôi đã già thêm chục tuổi. Tay chân nhấc không lên, hai mắt trỏm lơ vô hồn mặc dù người ta có vô cho tôi mấy chai nước biển. Tôi nghĩ mình sắp chết đến nơi rồi, nước mắt chảy dài khi tự hỏi mình còn được mấy lần nhìn con trăng nơi đất khách quê người này nữa? Vào khoảng một giờ đêm tôi nghe tiếng cú rúc ở phía đầu hồi trạm xá. Vầng trăng đang tròn sáng bất chợt có một đám mây đen như tấm áo choàng của những tay phù thủy từ từ bay tới che khuất. Ngay lúc đó một giọng cười đanh như đang giận dữ nổi lên:
- Chàng định bỏ trốn thiếp phải chăng? Mà ai có thể trốn được bạch cốt Sami này chứ? Ta lại về tổ ấm thôi chàng ạ, ta cần chàng, ta đang thèm chàng.
Môi Minh Kim run run xúc động, khuôn mặt như tái đi khi anh hồi tưởng lại chuyện xưa:
- Rồi tự nhiên tôi thấy người tôi nhẹ hẫng như đang từ từ bay qua khung cửa sổ. Gió bên tai nhè nhẹ thổi, người tôi chông chênh như con thuyền trên sóng hay như một bóng mây bay bồng bềnh trên không. Thời gian có lẽ chưa uống cạn tuần trà tôi bỗng thấy người mình rơi mạnh xuống. Toàn thân đau nhức. Mở mắt ra tôi lại thấy mình nằm trên chiếc chõng tre của căn nhà hoang. Sami đã ngồi ở đó hồi nào, đầu đội chiếc khăn trắng, hai mắt xanh màu lục, chiếc mũi hếch lên cười lạnh lẽo:
- Thấy chưa, anh lại về đây rồi. Bây giờ hãy uống một chút thuốc tiên cho cường dương bổ thận nhé.
Tôi biết cô ta muốn gì nên cắn chặt hai hàm răng lại. Nhưng cánh tay cứng như thép của Sami đã bóp mạnh vào quai hàm tôi và tôi nghe có một thứ nước thơm mùi hoa lài chảy tọt vào mồm. Thôi chết rồi, lại cái thứ nước làm cho con người mê sảng trong thú vui nhục cảm. Quả vậy, chất nước đó mới tràn vào đến bụng của tôi chưa đến một phút đã thấy một làn hơi ấm nóng dâng lên, cả người tôi đột nhiên phấn chấn ham muốn. Tấm áo choàng màu đen của Sami chợt từ từ rơi xuống để lộ tấm thân nõn nà và trắng như sương tuyết. Và như bị ma ám, quỷ giục tôi lao vào cô ấy như thể mình chưa hề bệnh hoạn. Cả đêm như thế đã mấy lần Sami đổ thuốc và tôi đã mấy lần đắm đuối trong vòng tay siết chặt của Sami mặc dù trong thâm tâm của tôi vẫn hiểu rằng, càng ân ái với Sami bao nhiêu thì tôi sẽ đi gần đến cái chết bấy nhiêu.
***
Con ma Sami đã ba đêm liền hành hạ Minh Kim như thế, song đến ngày thứ tư chẳng biết vì sao nó lại không đến. Ráng chút sức tàn Minh Kim bò lết ra đường rồi nằm vật ra dưới bóng một góc cây.
Đang lúc thoi thóp chợt Minh Kim nghe có bàn tay ai đó đặt lên bụng mình và một giọng nói thảng thốt cất lên:
- Chú em này đã bị ma quỷ ám nặng rồi. Nếu không gặp ta thì chẳng còn ai cứu nổi.
Minh Kim mở mắt và trông thấy một cụ già quắc thước mình mặc áo chàm lưng mang một bầu rượu. Ông lấy chiếc bầu vạch miệng đổ cho Minh Kim một chất rượu màu hồng hồng thơm thơm mùi quế. Uống xong độ nửa khắc Minh Kim nghe người tỉnh táo lại, đầu óc có sáng hơn. Ông cụ hỏi nguyên do, Minh Kim thật tình kể lại đuôi đầu câu chuyện.
Ông cụ lấy bàn tay xoa xoa vào trán Minh Kim rồi bảo:
- Nếu không có ta, chỉ đêm mai là người phải chết. Hồn ma con Sami đã biến thành quỷ rồi. Nó chết không phải do ai cưỡng hiếp mà là do bị hổ vồ, loại ma này là ma trành, luôn dẫn dụ nạn nhân khác đến để cho hổ tinh vồ tiếp để thay cho hồn nó. Nhưng con ma trành này đã thành tinh rồi nên nó quyến dụ người để hút lấy tinh khí. Nếu hút đủ trăm người nó sẽ hóa thành yêu quái.
Minh Kim kể rằng sau đó ông cụ mang anh ta về ở trong cái am của mình bên chân núi và dặn anh không được bước chân ra ngoài. Mười ngày sau ông đeo cho Minh Kim một lá bùa rồi dẫn về ngôi nhà hoang cũ. Ông đóng từ trên chiếc chõng tre xuống sâu mặt đất một cây sắt nhọn và dài rồi bắt anh ngồi sau lưng, còn ông thì lâm râm đọc một bài kinh kệ gì đó rất lâu.
Minh Kim lơ mơ ngồi im nghe tiếng tụng niệm mơ màng của ông cụ già khi như gần lúc như xa.
Độ ba giờ mấy khắc, chợt thấy mây đen kéo tới chớp giật đầy trời. Rồi bất ngờ một luồng sét sáng xanh đánh xuống thanh sắt vang lên một tiếng nổ long trời lở đất. Sau đó mây tan gió ngừng. Ông cụ kéo chàng đứng dậy.
- Xong rồi, con ma đã bị thiên lôi đánh chết, con đã được an toàn rồi.
Minh Kim kể rằng, khi ông cụ đưa anh đến chỗ ngôi nhà hoang, căn nhà đã cháy, chỉ còn lại một đống tro than âm ỉ. Chung quanh ngôi nhà vung vãi những mảnh xương trắng hếu. Một chiếc đầu lâu nằm lăn lóc, hàm mở hoác ra như đang cười.
Ông cụ mặc áo chàm mắt lộ hào quang, khều một mảnh xương rồi nói với Minh Kim:
- Con xem đây, xương của nó nhờ hấp thu sinh khí của những người đàn ông mà có những vân máu đây. Nếu như xương nó mà hoàn toàn hấp thu đủ một trăm người đàn ông thì nó sẽ hóa màu hồng, chừng đó con ma trành này sẽ biến thành yêu tinh, khó ai trừ nổi.
***
Năm nay người nghệ sĩ già Minh Kim đã giải nghệ. Anh nói tuy không còn dám đi đâu ở những vùng rừng núi, tuy nhiên lâu lâu trong những giấc mơ anh vẫn còn trông thấy Sami với đôi mắt xanh màu rắn lục vẫn nhìn anh chằm chằm như hờn oán rồi chỉ phút giây sau là tan biến.
Nhắc lại chuyện xưa mà khuôn mặt Minh Kim vẫn còn tái xanh vì sợ, song anh lại thở dài sườn sượt:
- Sau mỗi giấc mơ dù sợ hãi vì những ám ảnh khó quên, song tôi vẫn còn những hoài niệm về cô gái ma tên Sami, hoài niệm về những đêm yêu đương ma quái của một thời trai trẻ lang bạt kỳ hồ đã qua...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #65  
Old 11-07-2012, 05:21 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 32

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXXII: Tình Ma - Phần I


Bà giáo Nhơn ngăn không cho cô con gái lớn gọi Thiện dậy:
- Hãy để cho nó ngủ nướng thêm chút nữa. Có mấy khi về nhà nghỉ hè mà bắt thức sớm như dân nhà quê tụi mình, tội nghiệp tụi nó.
Thoa, cô chị lớn chỉ mâm thức ăn đã dọn sẵn:
- Thức ăn nguội hết rồi kìa má. Thằng Thiện khoái ăn món trứng chiên với củ cải mặn, dặn con hễ sáng dậy là cho nó ăn liền. Má quên là tối qua tụi nó nhậu suốt, có ăn uống gì đâu.
- Ừ, thì để năm mười phút nữa.
Vừa chợt có tiếng của Thiện sau lưng:
- Nói xấu gì con đó!
Anh vươn vai sà lại chỗ mẹ, nhõng nhẽo:
- Phải cho con trai má ăn ngon à nghen, chị Hai!
Kim Thoa ganh tị:
- Má cưng con trai, cái gì cũng để cho thằng Thiện, dành cho thằng Thiện! Đúng là con trai rượu không bằng!
Thiện cười lớn:
- Người ta nói con gái rượu, chứ thuở đời làm gì có con trai rượu?
Thoa được dịp kể lể:
- Vậy mà bà già coi mày còn hơn là con trai rượu nữa! Bữa kia chính má nói với vợ chồng ông Cả Thì là má còn thằng con trai rượu, ai kêu gả con cách mấy cũng chưa nhận lời?
Thiện cười càng to hơn:
- Như vậy phen này thằng con trai má sẽ uống rượu mệt nghỉ, ai rắp ranh thì hãy nhào vô, rượu khui tràn bàn mới mong nói chuyện cưới xin nghe chưa!
Kim Thoa xỉ xỉ vào mặt em:
- Chưa gì đã lớn lối rồi, coi chừng ế dài ra đó nghe không cưng!
Cả nhà đúng là ai cũng cưng chiều, thương yêu Thiện, bởi anh là con trai độc nhất trong số năm người con của ông bà giáo Nhơn. Mà cũng phải thôi, bởi Thiện là người duy nhất của dòng họ, nếu không muốn nói là độc nhất của làng này có được bằng cấp tú tài, lại đang học tại Sài Gòn nữa. Khỏi phải nói cũng hiểu là Thiện được cả làng chú ý. Đã nhiều nhà ngắm nghía anh để nhằm gả con gái họ!
- Thằng Thiện chơi xấu bác ơi, hứa kêu tụi cháu dậy sớm ăn điểm tâm mà không kêu!
Hai người bạn của Thiện cùng về chơi kỳ hè này, họ là Bảo và Trung. Bảo còn nói:
- Bữa nay Thiện còn hứa dẫn tụi con đi chơi khắp vùng này nữa đó bác!
Bà giáo cười hiền hoà:
- Ở đây là vùng quê nghèo, sợ e tụi con mới đi một chút đã chán rồi!
Trung ra chiều thích thú:
- Ngoài ra, Thiện còn hứa là sẽ làm mai cho tụi con mấy cô nữa đó bác!
Kim Thoa nguýt yêu em trai mình:
- Thân nó còn chưa xong, làm tài lanh hứa hẹn với người khác!
Trung mau miệng:
- Nó đã có rồi, còn giấu đó chị Hai.
Thấy bạn tài lanh, Thiện lừ mắt:
- Ai mượn mày vậy, thằng khỉ gió!
Kim Thoa đâu chịu yên:
- Thật vậy hả Trung? Quá cỡ thằng này rồi má ơi, nó có bồ mà giấu!
Bà giáo cũng nhìn con, hỏi nghiêm túc:
- Phải không con?
Thiện xua tay lia lịa:
- Nó nói xàm mà má cũng tin! Cái thằng...
Thiện đuổi Trung chạy vòng vòng, cho đến khi Kim Thoa nhắc:
- Vào ăn đi kẻo thức ăn nguội hết kìa!
Món trứng chiên với củ cải mặn là đặc sản của nhà này, nó lạ miệng nên ba chàng trai ăn một hơi đã hết dĩa thức ăn lớn, mà còn đòi thêm:
- Còn không chị Hai, ngon quá!
Kim Thoa đã chuẩn bị sẵn một chảo nữa, nên đáp ứng được ngay cho ba cái tàu há mồm. Họ vừa ăn vừa hứng chí bàn chuyện bao đồng:
- Phải chi có mấy cô quen xứ này mình rủ cùng chơi cho vui há!
Trung bảo:
- Gái xứ này thì phải hỏi thằng Thiện.
Kim Thoa che miệng cười:
- Nó dám quen đứa nào tao cùi liền!
Bảo ngạc nhiên:
- Sao vậy chị Hai? Thằng Thiện nổi tiếng trong trường là đào hoa, cua gái bá phát bá trúng đó!
Bà giáo cười vui, thêm vào:
- Vậy mà về đây nó im re, không dám nói chuyện với đứa con gái nào hết!
- Tại vì nó có...
Bảo định nói, nhưng kịp ngừng lại với cái nhìn sắc như dao cạo của Thiện. Lần này chính bà giáo lên tiếng hỏi:
- Chuyện gì vậy con?
Thiện hơi ngập ngừng:
- Dạ... đâu có gì đâu má...
Chừng như để tránh lôi thôi, Thiện ngừng ngang bữa ăn, giục hai bạn:
- Mình đi cho sớm!
Cả ba chỉ mang theo mỗi người một chiếc nón rồi chạy bay ra ngoài. Kim Thoa phải gọi giật lại:
- Đem theo bình nước mà uống, ngoài đồng nước mặn, không uống được đâu!
Bảo nói với lại:
- Tụi con sẽ ghé nhà mấy cô gái uống nhờ!
- Không có nhà nào ngoài đó hết!
Thiện cũng biết vậy nên trở lại nhờ chị mình lấy cho bình nước mang theo. Kim Thoa dặn:
- Đi chơi nhớ trưa về ăn cơm.
Bà giáo cũng bảo:
- Ăn uống dọc đường nên coi chừng, bụng dạ con không tốt...
Thiện vừa chạy đi vừa nói với lại:
- Con má đã lớn rồi mà, có còn là thằng Thiện con nít nữa đâu.
Thoát ra khỏi nhà vừa hơn trăm bước thì Thiện đã nghe có người gọi tên mình:
- Thiện ơi, về hồi nào mà không báo cho anh em gì hết.
Quay lại, Thiện reo lên:
- Ô Tùng, Sanh, tụi bay lớn như người lớn rồi!
Hai người bạn quê của Thiện tuy bằng tuổi, nhưng do là nông dân nên tướng tá bặm trợn, to lớn. Họ nhìn mấy người bạn của Thiện có vẻ ngưỡng mộ. Thiện giới thiệu:
- Đây là Bảo và Trung, hai người bạn trên Sài Gòn của mình.
Sanh và Tùng hơi rụt rè khi bắt tay. Thiện phải phá tan sự e dè đó:
- Tụi bay có rảnh không, dẫn tụi này đi chơi xuồng với?
Sanh hào hứng ngay:
- Được liền! Tụi này cũng đang ra đồng, sẵn mình đi theo luôn!
Thích thú nhất là Bảo và Trung. Hai anh chàng lần đầu được về quê và đi xuồng len lỏi qua những rừng dừa nước, tha hồ nhìn ngắm những con cá lội tung tăng, những con chim dạn dĩ bay lượn ngay trước mũi xuồng.
Tùng đề nghị:
- Mình bơi xuồng qua bên cồn ông Hội đồng chơi. Bên đó có nhiều trứng rùa, mình đào trứng luộc ăn chơi!
Bảo nghe là khoái liền:
- Vụ này nghe đã à nghen!
Thiện hỏi:
- Bên đó vẫn còn cái nghĩa trang chớ?
Sanh nói:
- Thì cái cồn đó nằm trong đất của ông Hội Đồng nên ổng lấy nguyên cái cù lao rộng bằng chục cái sân banh làm nghĩa địa riêng cho dòng họ mình. Nghĩa trang nhà giàu nên cái mả nào cũng lát đá cẩm thạch láng bóng, ngôi mộ nào cũng khang trang, bề thế, chẳng khác nào nhà xây cho người sống ở!
Chỉ một lúc sau, họ đã có mặt ở cồn ông Hội đồng. Quả đúng như lời của bọn Sanh, Tùng kể, khung cảnh cồn thật thú vị, nó biệt lập và yên tĩnh một cách đáng ngạc nhiên. Khu nghĩa trang nhà ông Hội đồng đúng nghĩa trang của nhà giàu. Dù nhiều ngôi mộ đã chôn khá lâu, nhưng xem ra ngôi nào cũng mới và bóng như gương đến đỗi Trung phải buột miệng:
- Nghĩa trang này còn sạch hơn là khu nhà ở của tao nữa?
Sau khi đi một vòng giáp chung quanh cồn, chính Thiện đề nghị:
- Mình dọn sạch chỗ kia, ngồi nghỉ chân chơi!
Chỗ Thiện chọn là một khoảnh đất trống nằm dưới tàn một cây cổ thụ, mà vừa nhìn lên thấy có nhiều trái!
Bảo đã reo lên:
- Ồ, trái đầy hết, để tao leo lên hái xuống ăn!
Tùng nói:
- Đây là cây sabôchê lâu đời, trái ăn rất ngọt, nhưng có lẽ nằm hẻo lánh bên này nên hầu như chẳng ai hái trái. Nhưng...
Anh ta muốn ngăn không cho hái, tuy nhiên vừa lúc ấy Bảo đã nhanh chân phóng lên ôm chặt thân cây to.
Anh chàng còn khoe:
- Tôi là vô địch về leo cây mà!
Nhìn anh chàng thoăn thoắt leo lên, đến Sanh cũng phải khen:
- Anh bạn leo hay thật!
Nhưng lời khen chưa dứt thì đã thấy tự dưng Bảo buông tay rơi từ khoảng trên ba mét xuống! Thiện hốt hoảng, vừa nhảy tới đón ngay nơi Bảo rơi vừa la lớn:
- Trời ơi, Bảo!
Cũng may là Thiện lao tới kịp thời, cả thân người anh làm tấm đệm lót cho Bảo rơi xuống. Cả hai cùng ngã, nhưng xem ra Thiện bị đau hơn!
Cả bọn chạy ùa tới, lo lắng hỏi:
- Có sao không?
Bảo nhăn nhó bò dậy, trong lúc Thiện phải được đỡ lên. Anh càu nhàu:
- Thằng Bảo này nặng thấy cha luôn, chắc tao gãy mấy cái xương sườn rồi!
Nhưng cũng may, cả hai đều không hề hấn gì. Lúc ấy Bảo mới kể lại:
- Tôi đang leo ngon lành, bỗng như có ai dùng chân đạp mạnh vào mặt làm tôi đau điếng, phải buông tay ra ngay!
Sanh nói như vừa phát hiện ra điều gì:
- Phải rồi, giống y như năm ngoái thằng Tửng con chú Hía cũng bị như vậy, phải nằm nhà thương mấy tháng đó!
Thiện quan tâm, hỏi:
- Mày nói nghe coi, nó bị sao vậy?
- Thì nó cũng leo cây giống bạn này, lên tới nửa cây thì như bị ai xô, ngã nhào xuống, cắm đầu xuống đất bùn. Cũng may là đất mềm nên không chết, chứ độ cao đó thì khó mà sống được!
Thiện trách:
- Đã từng có chuyện như vậy sao lúc nãy mày không nói, để nó...
Tùng chêm vào:
- Thằng Tửng sau đó thuật lại rằng, nó đang leo thì có cảm giác như có ai đó dùng tay kéo nó. Mà bàn tay đó như tay con gái, vừa mềm vừa lạnh như băng!
Một dịp để cả bọn tán hươu tán vượn quanh chuyện đó. Trung là người luôn quan trọng hóa mọi chuyện, anh chàng bảo:
- Người ta nói những cây trồng trong nghĩa địa thường bị các hồn ma nhập, nên không dễ cho người ngoài leo lên!
Thiện đùa nhằm làm dịu đi câu chuyện đang đi vào huyền bí:
- Thay vì hái trái phá phách, bây giờ ta đem đồ ăn ra, trước khi ăn ta cúng vái thì chắc sẽ không ai quở trách gì...
Anh có mang theo mấy bịch bánh ngọt liền bày ra tờ giấy báo rồi bảo Sanh:
- Cậu coi có ngôi mộ nào còn sót lại nhang cúng không?
Thường thì người đi cúng mộ hay bỏ lại số nhang cúng thừa. Và quả Sanh tìm được hơn nửa ốp nhang, luôn cả cái hộp quẹt:
- Có sẵn đây!
Đích thân Thiện đốt nhang vái khá dài, nhưng không ai nghe được lời vái của anh. Bảo phải lên tiếng:
- Tao không biết vái, mày phải vái lớn lên để tao còn bắt chước nữa chứ!
Tùng chen vào:
- Một người đại diện cúng vái được rồi!
Một cách tự nhiên, sau cuộc cúng vái đó, không khí cuộc vui hơi chùng xuống. Bảo cứ thắc mắc mãi chuyện mình bị ngã, anh nói:
- Tôi leo cây từ lúc sáu tuổi, chưa bao giờ bị ngã, dẫu có nhiều cây còn cao và khó leo hơn cây này nhiều. Tôi có cảm giác như là...
Mặc dù không muốn nhắc lại hiện tượng huyền bí, nhưng đó là đề tài hấp dẫn, nên không hẹn mà mọi ý nghĩ đều tập trung vào một ý:
- Oan hồn thường bám trên cây lắm!
Đó là nhận xét của Tùng. Anh ta còn nói thêm:
- Sau vụ ngã của thằng Tửng năm ngoái, hầu như chẳng ai dám leo lên cây ở đây nữa. Mấy bồ không thấy người ta còn lập cái miếu thờ ở gốc cây bên kia sao?
Tùng đưa tay chỉ sang một gốc cây gần đó. Lúc này Bảo mới chợt rùng mình, anh nói khẽ với Thiện:
- Sao tao muốn nằm ngủ quá!
- Sao vậy?
- Chẳng sao hết, chỉ thấy buồn ngủ thôi có lẽ tại tối qua thằng Trung ngáy quá làm tao ngủ không được.
Rồi không đợi ai có ý kiến gì, Bảo đã xách một tờ báo chạy đi tìm một nơi mát mẻ, bằng phẳng, trải tờ báo và nằm ngủ một cách ngon lành! Thiện nói:
- Kệ nó, thằng ấy dễ ngủ như vậy đó. Cứ để mặc cho nó ngủ một lát. Còn tụi mình bỏ chuyện kia đi, ta hát hò cho không khí vui lên.
Sanh nảy ra một ý:
- Sao ta không kiếm chút gì cay cay cho vui?
Thiện lắc đầu:
- Tụi này không đem theo rượu. Vả lại...
Nhưng Sanh đã đứng lên nói:
- Mấy bồ ở đây, tôi bơi xuồng về bên nhà lấy chai rượu sang, có cả chùm khô sặt nữa, chơi hết ý nghen!
Dĩ nhiên không ai phản đối ý kiến đó, nên Sanh thực hiện ngay. Chỉ chưa đầy hai mươi phút sau, Sanh đã trở lại với chùm khô sặt rằn và chai rượu đế trên tay. Anh chàng còn khoe thêm:
- Có cả mấy trái xoài sống, tao lấy theo luôn!
Thế là đủ bộ ăn chi! Thiện phải nói:
- Lỡ rồi mình chơi luôn, chứ má tao mà biết mình uống rượu bả chửi chết!
Có rượu vào, không khí xôm tụ lên ngay. Tùng nhắc:
- Sao không kêu anh bạn kia dậy, chơi cho vui!
Chợt nhớ tới Bảo, Trung vừa định chạy đi kêu thì đã thấy Bảo vừa chạy về vừa hớt hải:
- Kỳ... kỳ quá tụi bay ơi! Tao... tao...
Mọi người ngạc nhiên:
- Gì nữa vậy?
Bảo lắp bắp:
- Tao đang ngủ thì... có... có ai đè lên tao!
Bọn họ cười rộ lên:
- Bị ma đè rồi!
Bảo nghiêm giọng:
- Tao bị đè thật. Người đè tao còn muốn bóp cổ tao nữa!
Tùng nhận xét:
- Đó là bị bóng đè thôi! Thường thì khi ngủ ở những nơi không bình thường hay chỗ lạ, người ta hay bị bóng đè, bóng có thể là ma hay cũng có thể là cái vía của mình yếu.
Mặc dù cách giải thích của Tùng không thuyết phục lắm, nhưng để cho Bảo bớt hoang mang, Thiện đã nói:
- Tại thằng Bảo hay mơ thấy người đẹp nên bây giờ người đẹp tìm nó đó!
Mọi người cùng phá lên cười, khiến Bảo đổ quạu:
- Tao nói thật mà tụi bay không tin, để chừng tụi bay bị thì biết!
Lít rượu đế chẳng mấy chốc đã cạn, hầu hết đều đã ngà say, ngoại trừ Bảo do bần thần trong người nên không uống và còn tỉnh, nhưng chỉ ngồi dựa gốc cây mà lim dim chớ không còn hoạt bát như lúc đầu. Riêng Thiện thì tuy có bừng bừng hơi men, nhưng anh vẫn còn tỉnh hơn các bạn, anh rủ Bảo:
- Mình đi một vòng quanh đây chơi đi.
Bảo xua tay:
- Tao chỉ muốn ngủ thôi.
Anh chàng lại như muốn ngủ, còn các bạn kia thì mạnh ai nấy nguẹo đầu vào nhau mà hát nhừa nhựa như dĩa hát bị rè. Thiện đứng dậy thả bộ về phía trước mặt.
Thật ra, anh đang đi sâu vào bên trong khu nghĩa địa không rộng lắm.
Dừng chân lại bên một ngôi mộ màu trắng toát, khác với những mộ chung quanh, Thiện đưa mắt nhìn lên mộ bia và giật mình, lẩm bẩm:
- Đẹp quá!
Anh đọc được dòng chữ ghi bên dưới bức chân dung cô gái thật đẹp: Lê Thị Anh Đào. Một lần nữa, Thiện lại buột miệng khen:
- Người đẹp mà cái tên cũng đẹp!
Có lẽ trong đời Thiện, đây là lần đầu anh nhìn thấy một cô gái có khuôn mặt vừa đẹp lại vừa phúc hậu như cô gái có ảnh chân dung trên ngôi mộ này! Nhìn ngắm có hơn mười phút, nhưng vừa định bỏ đi thì hai chân Thiện cứ như bị chôn chặt, anh lại tiếp tục nhìn. Đôi lúc Thiện có cảm giác như bức ảnh có sức hút gì kỳ lạ lắm!
- Thiện ơi, về thôi, trời sắp mưa rồi đó!
Tiếng kêu của Tùng khiến Thiện giật mình, anh phải đưa tay dụi mắt mấy lượt thì người mới tỉnh lại. Anh có cảm giác như mình vừa trong cơn mơ...
Quay bước đi mà Thiện không cưỡng được, cứ ngoắt lại nhìn...
- Về đi cha ơi, bộ khoái cảnh nghĩa địa sao chứ!
Sanh chạy tới chỉ vài ngôi mộ chung quanh nói:
- Mộ này ngôi nào cũng xây cách đây hơn chục năm. Chỉ có vài ngôi trong kia là mới.
Thiện hỏi đột ngột:
- Mộ đó là của ai vậy?
Sanh ngơ ngác:
- Mộ nào?
Chỉ tay vào trong, Thiện nói:
- Ngôi mộ trắng của cô gì đó.
Sanh tỏ ra rành rẽ:
- Đó là mộ cô con gái út ông Hội đồng, mới chết cách đây hơn ba năm.
- Có phải tên là Anh Đào không?
- Mày biết?
- Sao không biết. Hồi đó tao còn học chung với nó nữa. Con nhỏ đẹp hết ý luôn vậy mà yểu mạng.
Thiện lại càng tò mò thêm:
- Năm nay nếu còn sống thì cô ấy bao nhiêu tuổi?
Sanh không cần suy nghĩ, đáp liền:
- Thì cỡ tuổi tụi mình. Mày không nhớ, chứ hồi tao, mày, Anh Đào có chơi chung với nhau.
Thiện cố nhớ nhưng lắc đầu:
- Lâu quá rồi tao không nhớ...
Sanh reo lên:
- Tao nhớ rồi, hồi tụi mình học lớp Tư, có bữa đứa con gái chơi chuyền chuyền thảy trái banh lên, mày đi ngang chụp lấy rồi đem giấu làm con nhỏ mất banh khóc mù trời. Mày nhớ sau đó mày phải đem trái trả rồi còn phải xin lỗi nó, và còn phải đưa cái khăn của mày cho nó lau nước mắt...
Thiện cũng leo lên:
- Đúng rồi! Sau đó tao đi lên Sài Gòn học luôn không kịp lấy lại cái khăn tay!
- Rồi, mày nhớ ra rồi. Con nhỏ đó đó. Hồi nhỏ cũng bình thường, nhưng càng lớn càng đẹp. Đẹp não nùng luôn, làm cho bao nhiêu trai tráng xứ này phải hồn lạc phách xiêu vì nó! Vậy mà con nhỏ không thèm tới ai cả, thế mới lạ!
- Chắc tại cô ấy có người nào khác...
Sanh quả quyết:
- Chắc chắn là không! Tao dám nói chắc như vậy vì ngày nó chết không có ai tới đưa tiễn cả!
Thiện nhớ lại gương mặt như tiên nga trong bức ảnh, anh lẩm bẩm:
- Hồng nhan bạc phận!
Sanh nghe không rõ, hỏi lại:
- Mày nói ai?
- Cô Anh Đào! Một người đẹp như thế mà lại chết trẻ, có phải trời bất công lắm không?
Nghe giọng điệu hơi lạ của bạn, Sanh ngạc nhiên nhưng không hỏi lại, anh ta giục:
- Thôi, mau về đi, trời sắp mưa rồi!
Đi được vài bước, Sanh bỗng hỏi:
- Mày có vợ chưa Thiện?
Thiện cười, nhún vai:
- Học trò nghèo như tao thì làm sao lấy được vợ như ý trong thời buổi này!
Sanh kề tai bạn nói nhỏ:
- Phải mày còn ở xứ này mấy năm trước thì dám tụi bay là cặp đôi của nhau lắm à.
- Mày nói cặp đôi với ai?
- Thì con Anh Đào! Con nhỏ con nhà giàu mà lại không thích đám công tử con nhà quyền quý. Đã có biết bao nhiêu đám tới dạm hỏi mà đều bị nó khước từ. Thậm chí nó nói thẳng là chỉ ai học giỏi nó mới ưng! Mà học giỏi thì xứ này e rằng chỉ có mày thôi!
Suốt gần hai mươi phút ngồi xuồng trở về, hầu như lúc nào trong đầu Thiện cũng ẩn hiện gương mặt thanh tú ấy. Có lúc mải mê theo đuổi ý nghĩ riêng tư mà Thiện quên cả trả lời câu hỏi của mấy người bạn. Bảo phải lên tiếng:
- Mày sao vậy Thiện?
Thiện giật mình quay lại, đáp chẳng ăn nhập gì câu hỏi của bạn:
- Trời đêm nay mưa lớn phải biết!
Trung phải cảnh báo:
- Hết thằng Bảo rồi lại tới thằng Thiện tụi bay giống mấy đứa bị ma bắt hồn quá!
Sanh và Tùng đều cười và phụ họa:
- Coi chừng tụi nó ma nữ về nhập hồn cũng không chừng! Ai bảo tụi bay đẹp trai lại học giỏi làm chi!
Bảo nhún vai:
- Ma không dám bắt được hồn tao đâu, chỉ có tao đi tìm hồn chúng để bắt đấy!
Thiện lừ mắt nhìn bạn:
- Mày giỏi tài nói tào lao!
Cả bọn về tới nhà đã bị một trận rầy nên thân. Bà giáo nhìn thấy Thiện và hai người bạn đều ngà ngà say nên càng la dữ:
- Từ ngày mai tao cấm mấy đứa đi chơi mà uống rượu nghe chưa!
Thiện biết lỗi nên sau khi tắm rửa đã rút vô phòng nằm im re.
Nửa đêm hôm đó, bỗng nghe Kim Thoa la to:
- Thằng Thiện sao vậy má ơi!
Bà giáo chạy vào phòng thì thấy Thíện nằm im, người sốt thật cao! Tri hô lên, nhiều người chạy tới thì hầu như Thiện không còn biết gì nữa...
***
Một cô gái lạ vừa xuống xe đò ở ngã ba Thầy Cai thì đã gây chú ý tới mọi người. Bởi cách ăn mặc của cô nàng nổi bật giữa mọi người bình dị xứ này. Cô chưa lên tiếng hỏi thì một anh chàng đạp xe lôi đã lên tiếng hỏi ngay:
- Cô Hai về đâu vậy?
- Xóm nhà máy xay.
- Đi bộ thì hơi xa, còn nếu cô Hai lên xe tôi sẽ đạp chỉ hai hơi là tới liền! Mà cô Hai kiếm nhà ai ở đó?
Cô gái phải lật cuốn sổ tay ra thì mới hỏi đúng người cần tìm:
- Nhà bà giáo Nhơn, anh biết không?
Anh chàng đạp xe reo lên:
- Tưởng ai chứ nhà bà giáo thì tôi rành sáu câu! Nhà đó có cậu con trai đi học Sài Gòn mới về phải không?
Cô gái mừng vui ra mặt:
- Vậy là đúng rồi! Anh làm ơn đưa tới đó giùm.
Được đạp xe cho người đẹp nên anh chàng có vẻ hứng chí lắm, vừa đạp nhanh vừa huýt sáo vang đường. Vừa qua khỏi ngã ba thì có người đi ngược chiều hỏi lớn:
- Mày có đi vào xóm nhà máy xay thì lượt về chở người trong nhà bà giáo Nhơn ra bến xe, họ chờ nãy giờ mà chưa có xe đó.
Nghe tới tên bà giáo Nhơn, cô gái hỏi liền:
- Có phải bà giáo mà tôi vừa hỏi anh không?
Anh chàng đáp ngay:
- Đúng rồi, ở đây chỉ có mỗi bà giáo Nhơn đó chẳng hiểu sao nhà đó từ hôm qua đến nay có khách liên tục, giống như sắp đám cưới vậy!
Cô gái như bị điện giật:
- Đám cưới? Mà cưới ai vậy?
- Tôi cũng không rõ. Nhà đó chỉ có hai người con một là cô Thoa con gái lớn năm nay đã lỡ thời rồi, chắc là không phải cưới cô ấy. Chỉ còn cậu con trai, cậu Thiện học Sài Gòn, nghe nói được nhiều con gái xứ này mê lắm. Không chừng là đám cưới cậu ta cũng nên!
Cô gái thấp thỏm không yên:
- Anh đạp nhanh nhanh giùm!
Anh chàng đạp xe vốn nhiều chuyện, thích tò mò nên hỏi:
- Cô quen với nhà bà giáo sao vậy? Về việc đám cưới phải không?
Đang sốt ruột, lại bị hỏi lung tung, cô gái đâm quạu:
- Anh đạp nhanh giùm, hỏi hoài tôi mệt quá!
Bị cụt hứng, anh chàng chẳng những không giận mà trái lại còn muốn chọc quê:
- Nghĩ làm con trai học giỏi, đẹp trai cũng sướng, hết con gái quê thương lại tới con gái thành thị. Gặp tôi, tôi quơ hết.
Không nghe cô gái nói gì, anh chàng lại thêm:
- Mà coi bộ anh chàng Thiện đó không ngon lành gì đâu nghen, bữa mới về đi chơi với đám bạn bè rồi bị sao đó phải gọi thầy thuốc tới cấp cứu!
Quả anh ta đánh đúng sự quan tâm của cô gái:
- Anh ấy bây giờ sao rồi?
- Mà cô là gì của anh chàng Thiện đó mới được?
- Là... là gì... mà anh hỏi chi vậy. Tôi chỉ...
Cũng may, lúc đó đã tới nơi. Tấp vào lề trước ngôi nhà ngói xưa, anh chàng nói nịnh câu cuối cùng:
- Nghĩ cũng lạ, cùng tạng người, chắc là cùng cân lượng, nhưng chở người đẹp thì đạp xe nhẹ tênh. Mình cứ mong được đạp hoài thì lại mau tới!
Nở cho anh ta một nụ cười, cô gái đưa tờ giấy bạc chẵn mà không cần thối lại. Vừa bước vào cổng, cô ta lên tiếng ngay:
- Bác giáo ơi, cháu là Mỹ Lan, bạn anh Thiện từ Sài Gòn về...
Từ trong nhà, Kim Thoa bước ra, chào cô gái rồi quay vào trong gọi lớn:
- Có bạn thằng Thiện về nè má!
Rồi cô quay sang anh chàng đạp xe bảo:
- Sẵn cậu đạp xe đưa ông thầy thuốc ra bến xe giùm!
Ông thầy thuốc khá già, vừa leo lên xe vừa dặn lại:
- Nhớ cho cậu ấy uống đủ mấy thang thuốc tôi để lại nếu bớt thì cứ ra nhà thuốc mà hốt thêm, còn nếu...
Ông nói chưa hết lời thì anh chàng đạp xe đã ấn bàn đạp, vừa chen vào:
- Không hết thì lo hậu sự!
May là anh ta nói không để chủ nhà nghe. Trong khi ấy thì bà giáo Nhơn đang ra đón người khách mới. Bà ngỡ ngàng trước cô gái:
- Cháu đây là...
- Dạ cháu là Mỹ Lan, bạn gái của anh Thiện.
- Cháu từ Sài Gòn về ?
- Dạ!
Kim Thoa xen vào hỏi:
- Em nghe tin thằng Thiện nên về hay sao?
Mỹ Lan ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy chị? Chẳng lẽ ảnh... cưới vợ?
Bà giáo bỗng òa khóc khiến Mỹ Lan càng hốt hoảng:
- Kìa bác, anh Thiện sao vậy?
Cả Thoa cũng khóc. Trong nhà lúc ấy còn có vài người nữa xem chừng là bà con, một người nói:
- Bệnh nó càng lúc càng nặng hơn, có lẽ phải chở đi bệnh viện thôi.
Bà giáo nức nở:
- Gần chục ông thầy rồi mà có thấy bớt chút nào đâu!
Kim Thoa quay sang Mỹ Lan:
- Thằng Thiện bị sốt rồi mê man suốt ba ngày nay, thuốc thang đủ hết mà không thấy bớt.
Mỹ Lan nói liền:
- Em học trường y, em có mang theo dụng cụ khám, để em vào xem anh ấy bị gì.
Vừa trông thấy Thiện nằm thoi thóp, Mỹ Lan chạnh lòng, cô gọi khẽ:
- Thiện, em đây. Mỹ Lan đây?
Nhưng Thiện vẫn mê man không biết gì. Sờ tay lên trán, Mỹ Lan phải giật mình rụt tay về. Nhiệt độ trong người của Thiện khiến cho tay người sờ vào cảm giác như muốn phỏng! Mỹ Lan lo lắng:
- Nhiệt độ như thế này là nguy lắm! Chuyển đi bệnh viện lúc này e cũng không kịp.
Câu nói của cô nàng làm cho bà giáo càng khóc lớn. Bà nắm tay Mỹ Lan lắc mạnh:
- Làm cách nào cứu nó cháu ơi!
Mỹ Lan đo mạch xong thì lại càng ngạc nhiên:
- Sốt cao như vậy mà mạch lại bình thường, kỳ lạ thật!
Cô cầm lòng bàn tay của Thiện và thật bất ngờ, bàn tay Thiện siết chặt lại. Bàn tay lạnh như băng!
Mỹ Lan hốt hoảng:
- Kỳ lạ lắm bác ơi!
Sự nóng lạnh khác thường giữa trán và lòng bàn tay như trường hợp này là lần đầu tiên Mỹ Lan gặp được trong nghề y.
- Anh Đào!
Tiếng phát ra từ miệng của Thiện tuy nhỏ nhưng Mỹ Lan vẫn nghe rất rõ. Cô quá đỗi ngạc nhiên:
- Thiện, anh gọi ai?
Bà giáo thấy con mình lên tiếng được thì mừng lắm, bà nhào tới liền, chụp lấy con:
- Thiện, con tỉnh rồi phải không?
- Anh Đào! Anh Đào...
Giọng của Thiện lạc hẳn đi, nhưng hai tiếng Anh Đào anh gọi vẫn rõ...
Kim Thoa đứng bên cạnh chợt lên tiếng:
- Hai hôm trước nó cũng kêu mấy tiếng như vậy rồi mê luôn tới bữa nay!
Bà giáo cũng ngạc nhiên:
- Anh Đào là ai? Có phải cháu không?
Bà quay sang Mỹ Lan hỏi, cô nàng giãy nảy:
- Con là Mỹ Lan mà.
Trung và Bảo từ ngoài bước vào, Trung lên tiếng:
- Anh Đào là tên của...
Bảo đứng bên bạn vội thúc cùi chỏ vào hông Trung:
- Nói tầm phào!
Nhưng Mỹ Lan đâu để yên:
- Là ai anh Trung?
Giữa Mỹ Lan và hai người vốn đã quen nhau, nên Trung sau một lúc lúng túng, đã phải nói ra:
- Anh Đào là tên cô gái có hình trên mộ bia ngoài nghĩa địa!
Sự hoảng hốt của bà giáo lên tới tột độ:
- Thánh thần ơi, con trai tôi...
Bà lảo đảo suýt ngã, Kim Thoa phải đỡ mẹ mình lại, cô hỏi Trung:
- Sao thằng Thiện có liên quan gì tới cô Anh Đào đó?
Bảo đáp thay bạn:
- Bữa hôm trước tụi này đi chơi qua cồn ông Hội đồng, ngồi nhậu ở đó, rồi thằng Thiện tình cờ đi vào nghĩa địa và gặp.
Thoa la lên:
- Vậy mà mấy bữa nay không nói! Trời ơi, thằng Thiện gặp tà ma rồi má ơi!
Bà giáo Nhơn thất thần:
- Con ơi là con!
Mỹ Lan lay tay Thiện:
- Anh Thiện, em Mỹ Lan đây! Anh tỉnh lại đi, chỉ có Mỹ Lan thôi!
Bảo bước đến gần Kim Thoa, nói khẽ:
- Mỹ Lan là người yêu của thằng Thiện ở Sài Gòn. Bữa trước em giấu chị!
Bỗng Mỹ Lan kêu lên:
- Bây giờ bàn tay của anh ấy lại nóng!
Cô sờ lên trán thì một lần nữa hốt hoảng:
- Trán bây giờ lạnh như bàn tay lúc nãy!
Trong lúc miệng của Thiện vẫn mấp máy:
- Anh Đào! Anh....
Lúc ấy có một người bước vào, Trung leo lên:
- Anh này rành chuyện cô Anh Đào lắm!
Sanh và Tùng đâu lạ gì gia đình Thiện, nên vừa thấy mặt họ Kim Thoa đã lên tiếng:
- Tụi bay dẫn nó đi đâu mà ra nông nỗi như thế này hả Sanh, Tùng?
Bảo hỏi Sanh:
- Anh biết về cô Anh Đào thì nói cho mọi người biết đi chứ!
Sanh nhìn sang Mỹ Lan rồi nói:
- Cô ấy còn đẹp hơn cô này nữa!
Kim Thoa quá sốt ruột:
- Nhưng nó là đứa nào?
- Là con gái út ông Hội đồng, chị Thoa quên rồi sao?
- Con nhỏ chết năm kia hả?
- Đúng rồi. Chết trẻ nên linh lắm...
- Nhưng sao lại liên quan tới thằng Thiện? Lúc Thiện đi học Sài Gòn nhiều năm liền về đây đâu có gặp con ấy. Vả lại, có thời gian nhiều năm nó theo mẹ qua sống ở Cần Thơ, vậy sao Thiện biết nó?
- Thằng Thiện chỉ mới biết con Anh Đào cách đây hơn mấy ngày!
Bà giáo đang khóc cũng phải ngừng lại, ngẩng lên hỏi:
- Mày nói gặp là sao? Chẳng lẽ con ấy hiện hồn về.
Tùng phải nói chen vào:
- Dạ không phải. Chẳng là thằng Thiện cùng bọn cháu qua cồn Hội đồng chơi, Thiện vô tình nhìn thấy ảnh của con Anh Đào trên mộ bia, rồi chẳng hiểu sao nó lại như vậy.
Kim Thoa là người rất nhạy cảm với chuyện này, cô run giọng nói:
- Không xong rồi. Thằng Thiện nó bị...
Cô không dám nói tiếp, nhưng Mỹ Lan đã giục:
- Chị nói xem, anh Thiện bị sao?
Sanh là dân quê mùa, nên ăn nói đâu biết giữ ý:
- Chị nói nó bị ma nhập hả? Mà cũng lạ, nó với con Anh Đào đâu có quan hệ gì...?
Chợt Tùng kêu lên:
- Đúng rồi mày ơi, con Anh Đào vốn chỉ thích những người học giỏi như thằng Thiện thôi!
Mỹ Lan không nhịn được, phải lên tiếng:
- Thích gì khi người ta đã có... người yêu rồi!
Bà giáo Nhơn giục Thoa:
- Mày đi mua liền cho má nải chuối và một con gà, rồi ghé rước ông thầy Tám qua đây cúng cho nó.
Mỹ Lan nãy giờ đã rất khó chịu khi nghe chuyện Thiện để ý tới một cô gái khác, dù đó là người trong mộ, giờ nghe bà giáo và Thoa sắp cúng tà ma, cô lên tiếng:
- Theo con thì bác và chị không nên rước thầy bà cúng vái chi cho mất công. Chuyện này có lẽ anh Thiện bị ám ảnh, cộng với bị khí hậu ẩm thấp nơi nghĩa địa làm cho cảm gió thôi, để con cho toa ra chợ mua thuốc về uống ắt khỏi thôi!
Rồi cô quay sang mấy thanh niên đứng gần đó, nói như cố tình muốn cho họ nghe:
- Ma quỷ, oan hồn là chuyện xưa rồi, sao có người còn tin cũng lạ!
Bà giáo Nhơn nghe thì phật ý, nhưng do mới biết Mỹ Lan, nên bà im lặng không nói gì, bà ra dấu cho Bảo bước ra nhà sau, hỏi:
- Con nhỏ này là thế nào với thằng Thiện?
- Thì cô ta vừa xưng đó, là bạn gái của Thiện. Cô ta tấn công Thiện, muốn lấy Thiện từ mấy năm trước mà thằng Thiện còn lưỡng lự...
Bà giáo trề môi:
- Con tôi muốn cưới hỏi phải có ý kiến của tôi chứ! Đồ con gái...
Bà định nói nặng, nhưng kịp nghĩ nên dừng lại. Bà nói với Bảo:
- Cháu tìm cách rủ nó ra nhà bên chơi đi, chỉ cho nó căn phòng còn trống, bảo ở tạm đó, chờ coi bệnh tình thằng Thiện...
Bà lại ngừng nói vì Mỹ Lan đã bước ra, cô chủ động nói trước ý của mình:
- Cháu xin phép bác để đưa anh Thiện lên Sài Gòn. Cháu sẽ bao nguyên một chiếc xe vào tận đây.
Bà giáo phản đối liền:
- Không được! Bệnh tà ma này mà đi khác nào giết con tôi.
Mỹ Lan rất cực đoan:
- Cháu không thể chiều theo ý bác đâu. Cháu phải...
Bà giáo không còn nể nang nữa, bà gắt lên:
- Cô là mẹ nó hay là tôi?
Lúc này Mỹ Lan mới xuống giọng:
- Con năn nỉ bác, hãy vì tính mạng của Thiện, bác hãy để cháu đưa anh ấy đi, kẻo không còn kịp nữa.
Bà giáo vẫn cương quyết:
- Không bao giờ có chuyện đó! Cô là bạn nó, đã đến đây rồi thì cứ ở đó chơi, cầu mong cho nó mau bình phục là tốt rồi. Mọi việc để tôi lo.
Biết có nói cách mấy cũng không thuyết phục được bà già. Mỹ Lan tranh thủ nói với Trung ở nhà ngoài:
- Sao anh không giải thích với bà già, nếu cứ để tin bùa chú thì không sớm thì muộn cũng...
Vừa khi ấy, bỗng phía sau lưng họ có tiếng chân chạy rất nhanh và một tiếng quát khá quen thuộc:
- Anh Đào, chờ với!
Họ quay lại thì thấy Thiện với quần áo xốc xếch đang chạy bay tới! Mỹ Lan chưa kịp có phản ứng gì đã bị Thiện ôm chầm lấy:
- Anh Đào!
Mỹ Lan cảm nhận nhiệt độ cơ thể của Thiện lúc ấy bình thường như mọi người, chỉ có sắc mặt thì đờ ra, hai mắt long lên rất khác thường! Cô phải nhẹ giọng gí sát vào tai người yêu:
- Em là Mỹ Lan nè! Em về tìm anh...
Nhưng Thiện hầu như không nhận ra, vẫn luôn mồm gọi:
- Anh Đào, hãy đợi với!
Rồi anh vùng chạy nhanh ra cửa. Cũng may là Trung đứng gần đó đã chụp lại kịp. Có thêm Mỹ Lan và cả Bảo cũng chạy vào hợp sức mới giữ Thiện lại được. Lúc này Thiện gần như kiệt sức, anh ngả đầu vào vòng tay của Mỹ Lan, da mặt xanh ngắt khiến bà giáo nhìn thấy đã phát hoảng:
- Thiện ơi, con làm cho má sợ quá? Tỉnh lại đi con.
Bà giằng Thiện ra khỏi tay Mỹ Lan, vừa gọi liên hồi. Cũng may là sau đó thì Thiện có vẻ tỉnh lại, anh mở mắt nhìn mẹ, hình như nhận ra, nhưng không nói gì. Tuyệt nhiên anh không chút cảm nhận gì khi Mỹ Lan đến gần. Trái lại, mỗi khi Mỹ Lan lên tiếng thì anh lại nhắm nghiền đôi mắt lại, như cố tình ngủ thiếp đi...
Mỹ Lan nghe đau nhói trong lòng trước thái độ của bà mẹ và cả Thiện nữa. Là thầy thuốc nhưng trước bệnh trạng của Thiện cô cũng có chút gì đó ngờ ngợ...
- Chị Thoa rước thầy về kìa!
Mỹ Lan nhìn ra cửa, thấy Thoa đi vào với một ông thầy mà vừa thoạt trông điệu bộ cô đã phát sợ. Biết mình có lên tiếng can thiệp thì trong nhà cũng chẳng ai nghe, mà ở lại chứng kiến cảnh làm bùa phép thì Lan không thể, nên cô đứng lên ra dấu cho Bảo bước ra theo. Cô hỏi Bảo:
- Anh ngủ ở đâu?
Bảo chỉ tay vào căn phòng trống mà gia đình dành cho khách:
- Mẹ Thiện muốn Lan ngủ ở đây. Theo mình thì Lan cũng đừng can thiệp vào việc nhà của họ, tình hình này chắc là Thiện không sao, để mai rồi hẵng hay.
Mỹ Lan lẳng lặng đi theo Bảo vào phòng được dành cho khách. Tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng tạm thư giãn đầu óc. Đến lúc này cô mới thấm mệt, thấy cần một giấc ngủ vô cùng.
Lúc đầu lắng tai nghe động tĩnh bên ngoài, nhưng chỉ một lát sau thì cơn buồn ngủ đã khiến Lan hầu như không còn nghe thấy gì nữa. Cô tiểu thư chốn thị thành đã đi vào giấc ngủ một cách ngon lành...


Phần II


Có lẽ đã khá khuya thì Mỹ Lan choàng tỉnh dậy. Cô nhìn đồng hồ tay và giật mình:
- 12 giờ rồi sao?
Thì ra cô nàng đã ngủ một giấc đến hơn 6 giờ liền! Bên ngoài lúc ấy đã im lìm, hình như mọi người cũng đã đi ngủ.
Thấy một cây đèn dầu ai đó đốt và đặt ở đầu bàn, Mỹ Lan đoán là lúc mình ngủ chắc chị của Thiện đã vào đây. Lại có cả một mâm cơm dọn sẵn, đậy lồng bàn để cạnh ngọn đèn. Bước lại xem thấy cơm còn hơi nóng, sẵn bụng đói Mỹ Lan định ngồi xuống ăn đại, nhưng kịp nghĩ, cô bước ra cửa và đảo mắt tìm ai đó trong nhà, ít ra cũng nói với họ một tiếng về lý do ngủ quên của mình.
Nhưng đi thẳng lên nhà trên, trở xuống nhà dưới cũng chẳng thấy một ai. Trong phòng của Thiện đèn còn sáng, nhưng im phăng phắc. Sau khi lưỡng lự một vài giây, Mỹ Lan bước trở về phòng của mình. Và cô khựng lại!
Trước mặt cô mâm cơm còn nguyên lúc nãy giờ đã hết sạch, giống như ai đó vừa ăn!
- Ai vậy?
Vừa tự hỏi, Mỹ Lan vừa nhìn chung quanh, không thấy ai, cô nghĩ tới con chó hay mèo gì đó nhân lúc cô đi ra ngoài đã ăn vụng. Tuy nhiên, khi nhìn kỹ lại thì cách ăn là của con người chớ không phải con vật. Đũa, chén không hề xô lệch và phần thức ăn thừa đã được tém gọn gàng chớ không vung vãi như chó mèo ăn!
Dẫu chưa từng biết sợ chuyện ma quỷ, nhưng trước hiện tượng kỳ lạ này tự dưng Mỹ Lan bắt rùng mình! Cô ngồi thừ người ra một lúc rồi đành để bụng đói, trở lại giường tiếp tục ngủ. Vừa đặt mình nằm xuống, bàn tay trái của Mỹ Lan đã chạm vào một người nằm sẵn trên giường!
Trong bóng tối không nhìn thấy rõ, nhưng qua cảm nhận Lan biết chắc người nằm đó là một phụ nữ! Bởi làn da mát mịn và quần áo mặc của người ấy là loại lụa mỏng, láng.
Có muốn kêu lên thì lúc ấy Lan cũng không làm được. Mà người nọ cũng không nói gì, từ từ siết chặt lấy tay của Mỹ Lan và nhẹ người quay sang đưa tay còn lại đặt lên miệng Lan, như muốn ra lệnh không được kêu la!
Rồi chậm rãi hơn, người ấy bật ngồi dậy và nhẹ nhàng cởi bỏ y phục của Mỹ Lan!
Trong đời, có lẽ đây là giây phút mà Mỹ Lan kinh hoàng nhất, nhưng cô không làm sao phản ứng được gì bởi tay chân và miệng hầu như bị tê liệt.
Chỉ một lúc sau thì toàn thân Mỹ Lan không còn một mảnh vải, cô run rẩy chờ cơn ác mộng ập tới! Tuy nhiên xem ra người nọ không hề muốn xâm phạm tới Lan, mà lại nhẹ nhàng bước khỏi giường.
Khoảng hơn năm phút sau thì Mỹ Lan mới cử động được, cô thử kêu lên:
- Bớ...
Thì mới biết là mình đã hoàn toàn thoát khỏi trạng thái lúc nãy. Cô định kêu rõ hơn để cầu cứu, nhưng chợt nhớ là mình còn đang tênh hênh nên vội sờ bên cạnh để tìm y phục.
- Trời ơi!
Lan kêu khẽ với sự kinh ngạc. Bởi quần áo bị cởi ra của cô đã không còn ở đó.
Theo bản năng, Mỹ Lan cố sức tìm kiếm, nhưng đúng là con người lúc nãy đã cố tình lấy đi hết quần áo, mà lúc này dù cho Lan có muốn lấy quần áo khác để mặc cũng không có, bởi lúc chiều khi vào phòng vội, cô chưa kịp lấy giỏ quần áo để ở phòng khách!
Nhìn ra bên ngoài thấy trời bắt đầu rạng sáng, Mỹ Lan càng run hơn, cô quơ vội chiếc mền bên cạnh quấn vào người rồi thu hết can đảm la lên:
- Bảo ơi. Trung ơi, giúp mình với!
Phòng của hai người ở gần bên, nên chỉ gọi lần thứ hai là đã nghe tiếng chân chạy sang. Tiếng của Trung:
- Gì vậy Lan?
- Mình... mình...
Lại có tiếng của Bảo:
- Lan, sao lại…
Lúc ấy Mỹ Lan nghe rõ bên ngoài là cuộc đối thoại giữa Bảo và Trung:
- Mày cầm quần áo của ai vậy?
Câu hỏi của Trung và Bảo đáp khá lúng túng:
- Là... là của... Mỹ Lan.
- Sao mày giữ quần áo của cô ấy? Bộ đồ này tao thấy cô ấy mặc lúc tới đây mà?
Bảo lại càng lúng túng hơn:
- Tao... tao thấy nó... ở trong phòng.
Trung la lớn:
- Mày với Mỹ Lan! Thật vậy sao Bảo?
Bảo gần như líu lưỡi lại:
- Bậy... bậy nè! Tao... tao chỉ...
Vừa lúc ấy, có cả tiếng của Kim Thoa:
- Chuyện gì ồn ào vậy hai cậu?
Bảo nhanh trí hơn, anh chàng gọi nhanh vào phòng:
- Bị sao vậy Lan?
Mỹ Lan cũng ứng phó khá nhạy:
- Mình bị... trúng gió! Làm ơn lấy cái giỏ mình để ở ngoài phòng khách đưa vào đây giùm!
Trung chạy đi rất nhanh, vừa đưa mắt ra hiệu cho Bảo. Anh chàng bị hàm oan này hiểu ý nên vội ném bộ đồ trên tay vào phòng, vừa nói:
- Quần áo đó, còn cái giỏ thì chờ thằng Trung một chút!
Ngay lúc đó, có giọng hớt hải của Trung:
- Đâu có thấy giỏ nào đâu?
Bên trong Mỹ Lan đã mặc lại đồ, cô nói vọng ra:
- Em để ở góc phòng khách, chỗ gần cái bàn lớn đó!
- Không thấy!
Mỹ Lan bước ra nét mặt vẫn còn sợ hãi nhưng trước mặt Kim Thoa cô phải làm ra vẻ tỉnh táo:
- Để em đi lấy.
Đi ngang qua chỗ Kim Thoa đứng, Lan lễ phép nói:
- Em cám ơn chị về mâm cơm tối qua.
Kim Thoa ngạc nhiên:
- Mâm cơm gì? Chị thức chờ em dậy để dọn cơm cho ăn mà thấy em vẫn ngủ say rồi nên chị cũng ngủ quên luôn.
Mỹ Lan khựng lại trố mắt nhìn, vừa lẩm bẩm:
- Vậy thì ai đã...
Cô nghĩ có thể là bà mẹ của Thiện hoặc người làm trong nhà, nhưng vừa khi ấy Kim Thoa lại nói rõ:
- Má chị bị bệnh nằm liệt từ chiều qua, còn đứa em bà con thì đã về quê từ mấy hôm rồi, nên nhà không có ai cả...
Mỹ Lan muốn thuật lại chuyện đêm qua nhưng kịp nghĩ lại nên thôi, lẳng lặng đi tìm giỏ đồ của mình. Tuy nhiên, chỉ một lúc sau cô đã chạy trở lại, hốt hoảng:
- Cái giỏ đồ của tôi...
Kim Thoa lên tiếng ngay:
- Sao mất được? Nhà này không có ai khác ngoài chúng tôi nên không thể có chuyện mất đồ đạc trong nhà! Cô xem lại đi.
Thoa có vẻ giận dỗi, cô quay bước bỏ đi khiến cho Mỹ Lan không kịp đính chính lời nói không khéo của mình. Nhưng cô vẫn quay sang Bảo và Trung, hỏi:
- Hai anh có thấy giỏ đồ của em không?
Trung chỉ sang Bảo:
- Nó chỉ có giữ mỗi bộ đồ của em mặc hôm qua, có lẽ lúc em qua phòng nó...
Bảo lao tới bụm ngay miệng của Trung lại:
- Đừng có nói bậy? Tao với Mỹ Lan đâu có.
Mỹ Lan nhớ lại bộ đồ lúc nãy, liền hỏi:
- Sao anh có được bộ đồ này? Em bị mất nó bởi...
- Anh cũng không biết, lúc ngủ dậy đã thấy nó ở đầu giường. Anh tưởng em...
Mỹ Lan ngượng đỏ mặt:
- Em làm sao dám làm chuyện ấy! Vả lại, anh và anh Trung ngủ chung mà!
Trung nói nghiêm túc:
- Nãy giờ đùa vậy thôi, mình cũng đang tự hỏi sao bộ đồ của Lan lại ở bên phòng của bọn mình. Việc này ắt có điều gì đó.
Định giấu luôn chuyện xảy ra đêm qua, nhưng nghe Trung hỏi vậy, Mỹ Lan phải kể lại đầu đuôi. Kể xong, cô hỏi:
- Phải chăng đó là ma?
Bảo nhớ lại chuyện mình bị bóng đè hôm ngủ ngoài nghĩa địa, liền nói:
- Giống y như mình bữa đó! Cũng là con ma nữ...
Trung có tính hay bông đùa nên pha trò:
- Thằng Bảo là nam thì thấy bóng ma nữ dè, còn Mỹ Lan thì đáng lý ra phải là ma nam chứ!
- Em cảm nhận rất rõ, đó là một cô gái. Tuy không thấy mặt, nhưng em có thể tưởng tượng rằng đó là một người rất đẹp, ăn mặc sang trọng nữa...
Tự dưng Bảo buột miệng:
- Anh Đào!
Mỹ Lan nghe lạnh sống lưng:
- Cô ấy linh đến như vậy sao?
Bảo tiết lộ điều mà từ hôm đó tới nay chưa nói với ai:
- Đêm hôm đó, khi từ nghĩa địa về mình còn thấy cô ấy một lần nữa! Cô ta đòi mình phải làm rể phụ trong lễ cưới của cô ta!
Mỹ Lan nghe rung động tinh thần:
- Cưới ai?
Bảo lắc đầu:
- Cô ấy không nói lễ cưới ai, nhưng sao mình có cảm giác như là...
Bảo bỏ lửng câu nói càng làm cho Mỹ Lan tò mò thêm:
- Anh nói xem, ai vậy?
- Mình không dám chắc, nhưng người đó giống như Thiện!
Tiếng kêu của Mỹ Lan cũng vừa lúc từ phòng bên kia có một tiếng thét thật to:
- Anh Đào!
Tiếp theo là giọng thảng thốt của bà giáo Nhơn:
- Thiện, má đây con! Đừng làm má sợ.
Khi Mỹ Lan và mấy người bạn chạy sang thì ngạc nhiên vô cùng khi thấy Thiện đang ôm một bộ áo cưới trong lòng. Anh nói trong niềm hoan lạc:
- Tối nay là ngày con cưới vợ, sao má chưa sửa soạn nhà cửa cho đẹp? Phải kết hoa, giăng đèn chớ!
Mỹ Lan kêu lên:
- Thiện! Em đây mà...
Nhưng Thiện chừng như không nhận ra, anh nói theo ý của mình:
- Cô và anh bạn này là phụ dâu, phụ rể. Phải mặc quần áo đẹp nhé!
Rồi anh lại ôm bộ áo cưới và hát nghêu ngao bài tình ca mà trong các lễ cưới người ta hay hát. Bảo đưa mắt nhìn Mỹ Lan, ái ngại:
- Nó nói giống như trong giấc mơ mà mình thấy. Cũng chiếc áo cưới này.
Bà giáo ngạc nhiên hỏi:
- Con mơ thấy gì?
- Dạ, thấy Anh Đào!
Bà giáo thất thần:
- Lại con Anh Đào đó nữa! Vậy mà ông thầy Tám nói là đã trục được nó đi rồi!
Bà đang nói thì con Luyến, đứa bé thường bưng bánh bông lan đi bán dạo quanh xóm, nó từ ngoài cửa chạy vào và la lớn:
- Ông thầy Tám bị hộc máu chết rồi bà giáo ơi!
Mọí người sững sờ, riêng Kim Thoa thì chạy thẳng ra cửa. Lát sau cô về và thất thần nói:
- Ông thầy Tám chết chật rồi. Ông ấy từ nhà mình về thì bị sốt cao, có lúc lạnh toàn thân, nằm ngủ từ tối hôm qua không dậy, lúc đó người nhà vào coi thì thấy ông đã chết trong vũng máu. Hộc máu tươi ra một đống!
Bảo là người nhạy cảm với câu chuyện vừa nghe hơn ai hết, anh lẩm bẩm:
- Lại là Anh Đào...
Rồi như con thú bị thương, Bảo rút vào một góc ngồi im, vừa run rẩy...
Trong khi đó, Thiện vẫn nghêu ngao hát và hầu như chẳng chú ý đến ai chung quanh. Mỹ Lan gần muốn phát khóc trước cảnh đó. Cô mím chặt môi, đứng lặng người đi một lúc lâu, rồi thất thểu trở về phòng của mình.
Nhưng vừa bước vào phòng thì đã phải khựng lại và rụng rời tay chân. Trước mắt cô, ở giữa phòng là một người phụ nữ toàn thân nguyên vẹn, chỉ có cái mặt là trơ xương. Một chiếc đầu lâu trên thân người!
Như thân cây bị đốn ngã. Mỹ Lan ngã sấp ngay dưới chân bóng ma...
***
Rầu rĩ chuyện con trai lâm vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh nên bà giáo Nhơn năng đi chùa. Ngoài mục đích cầu nguyện cho bệnh trạng của con, bà còn van vái vong hồn của Anh Đào, mong cô đừng quấy phá...
Ngôi chùa Thiện An có vị hòa thượng Chơn Tánh là người lâu nay bà giáo rất sùng bái. Nhân việc này, bà tới viếng và trình bày với ông mọi chuyện đang xảy ra trong nhà mình.
Nghe xong, ông chau mày một lúc rồi gọi chú tiểu vào trai phòng lấy ra một chiếc hộp gỗ nhỏ. Mở hộp ra, ông lấy đưa cho bà giáo xem một xâu chuỗi hạt huyền, vừa bảo:
- Đây là vật mà người đem ký gửi cho bần tăng đã nói rằng của chính con gái bà ấy. Tôi thấy xâu chuỗi đẹp nên hỏi bà ấy mua ở đâu, thì bà cho biết là không hề mua, mà chính con gái bà trước khi chết đã nhặt được nó trong một chuyến đi chơi. Xâu chuỗi đen tuyền, đúng là bằng hạt huyền nguyên chất, nhưng càng quý hơn là trên mỗi hạt đều nổi lên chữ Thiện rõ như cầm bút viết. Bần đạo đã nhìn thật kỹ, chữ Thiện này không phải do bàn tay con người tạo nên. Nó tự nhiên mà có!
Bà giáo nhìn kỹ và dù không biết chữ Hán, nhưng cũng thấy được trên mỗi hạt huyền đều hiện lên một chữ giống nhau, khi ẩn khi hiện. Bà giật mình nói:
- Sao nó giống với chỗ mỏ ác của thằng con nhà này, lúc nó vừa sinh ra thì ở mỏ ác cũng nổi lên một chữ giống như vậy. Ba nó thấy vậy nên đặt cho nó tên là Thiện, ổng nói tên ấy trùng với chữ trên mỏ ác!
Sư Chơn Tánh cũng ngạc nhiên:
- Sao lại có chuyện trùng hợp lạ kỳ như thế này? Người đem gửi xâu chuỗi này cũng kể chuyện gần giống như vậy. Bà ấy bảo rằng trên mỏ ác con gái bà lúc mới sinh ra cũng có một chữ Thiện như thế!
Bà giáo chưa thể tin có chuyện trùng hợp như thế, nên hỏi lại:
- Người đem gửi xâu chuỗi là ai vậy, thưa thầy?
Nhà sư không giấu:
- Là bà Hội đồng ở làng mình.
Bà giáo kinh hãi kêu lên:
- Con gái đã chết của bà là Anh Đào!
- Thì ra bà cũng biết mẹ con họ. Tội nghiệp, cô con gái còn trẻ quá mà đã yểu mạng. Nhưng có chuyện này.
Ông lấy ra một quyển sách cũ, lật vài trang rồi ngẩng lên bảo:
- Theo sách thì trên đời này nếu hai người có cùng đặc điểm giống nhau thì sẽ không cùng gần nhau được. Cũng may giữa con trai bà và cô gái cùng làng này không có quan hệ gì với nhau, nên...
Vừa nói tới đó, ông chợt nhớ ra, nên vội bảo:
- Mà không phải, giữa họ có dính tới nhau đấy chứ? Theo lời bà kể thì hiện cô Anh Đào và cậu con bà gặp nhau...
Ông suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp:
- Theo sách thần toán thì nếu một cặp giống đặc điểm với nhau mà một trong họ chết thì mọi việc coi như đã được hóa giải. Ở đây người nữ đã thác rồi...
Bà giáo thở dài:
- Vậy mà vong hồn của con nhỏ đang ám thằng con nhà này. Thầy xem có cách nào chỉ giúp con với.
Sư Chơn Tánh bộc bạch:
- Người tu hành không tin tà ma, cũng không đối đầu với chúng. Nhưng trong chuyện này, do tình cờ bần tăng được ký thác xâu chuỗi có liên quan tới vong linh người nữ tên Anh Đào, cho nên bần tăng cứ tạm gửi cho bà xâu chuỗi. Bà thử đem xâu chuỗi này về, đưa cho cậu nhà giữ trong mình coi có tác dụng gì không?
Bà giáo phấn khởi hẳn lên:
- Xin tạ ơn thầy, ngàn lần tạ ơn thầy!
Bà lấy xâu chuỗi và bọc nó trong chiếc khăn đội đầu một cách cẩn thận, chẳng khác gì giữ một báu vật. Sư Chơn Tánh còn dặn:
- Thầy cũng không dám chắc có kết quả gì, nhưng sau khi thử để cậu nhà giữ trong ba hôm, thì đem lên đây trả lại cho ta.
- Dạ, con xin hứa!
Bà rời khỏi chùa một đoạn thì chợt có người gọi phía sau:
- Bác ơi!
Quay lại thì bà giáo vô cùng ngạc nhiên khi thấy Mỹ Lan với gương mặt tiều tụy, thất thểu bước một mình.
- Cháu đi đâu vậy?
Lan bỗng khóc oà:
- Con khổ quá bác ơi. Anh Thiện vừa rồi đuổi con đi, anh ấy nói con không thể ở trong nhà được, bởi tối nay anh ấy cưới vợ!
Vẫn không ưa cô gái này, tuy nhiên khi thấy tình cảnh Mỹ Lan như vậy, bà giáo cũng phải an ủi:
- Cháu cứ về với bác, mọi việc rồi để bác lo.
Mỹ Lan lắc đầu:
- Cảm ơn bác. Cháu muốn vào chùa một chút, bác cứ về trước.
Với xâu chuỗi hạt huyền trong tay, bà giáo cũng không không muốn giữ Lan lại, bà bước đi nhanh, bỏ lại cô gái ở đó. Mỹ Lan lững thững bước vào chùa.
Đang đi, bỗng có ai đó nắm tay Lan kéo lại. Bực mình, vừa định lên tiếng thì chợt một giọng nói vừa đủ cho cô nghe:
- Cô đang "dơ mình" thì làm sao vào chùa được!
Mỹ Lan giật mình khi bị nói đúng tình trạng cơ thể mình, cô quay lại nhìn thì suýt kêu thét lên, bởi đang đứng trước mặt cô lúc ấy là... cô gái với cái đầu lâu hôm trước!
- Cô... cô...
Hôm đó ở trong phòng khi vừa nhìn thấy con người này, Mỹ Lan đã ngất xỉu. Hôm nay có lẽ do đã gặp một lần, nên Lan chỉ run rẩy, định bước lùi lại, thì đã nghe một giọng nói tuy nhẹ nhàng, nhưng hàm ý như ra lệnh:
- Bước ra góc sân kia vắng vẻ, dễ nói chuyện hơn.
Như bị thôi miên, Mỹ Lan bước theo. Cô gái kia đi nhẹ nhàng, nhưng lại bước rất nhanh. Dẫu cố gắng, nhưng Lan không tài nào theo kịp. Khi bước tới cuối sân chùa phía sau, thì đã thấy cô nàng nọ ngồi sẵn trên một ghế đá, quay lưng lại như chờ đợi.
Bước tới sát bên, nhưng Mỹ Lan không dám ngồi xuống, phải đợi nhắc:
- Ngồi xuống đi!
Mỹ Lan vừa ngồi xuống thì bất thần người ấy quay lại. Lần này Mỹ Lan không sửng sốt nữa, mà đúng hơn là sững sờ trước gương mặt đẹp như tranh vẽ của cô ta!
- Cô... cô...
Cô gái cười rất tươi:
- Sao cô Mỹ Lan có vẻ ngạc nhiên vậy? Vẫn là tôi đây thôi. Cô có muốn biết tên tôi không? Tôi là...
Chẳng hiểu ai xúi giục mà Mỹ Lan đã buột miệng:
- Anh Đào!
Một tiếng cười trong trẻo phát ra từ đôi môi Anh Đào:
- Cô khá thông minh. Bởi vậy sự quan tâm của tôi với cô không phải là chuyện thừa.
Mỹ Lan muốn nhìn thẳng vào mặt người đối diện, nhưng mỗi khi liếc mắt nhìn thì cô có cảm giác như ánh mắt ấy đang muốn nuốt chửng mình, bởi vậy cô vừa cúi mặt vừa nói:
- Vừa rồi cô...
Ý Mỹ Lan muốn nhắc tới gương mặt ghê sợ lúc nãy, nhưng chưa kịp nói thì đã bị chặn ngang:
- Cô muốn tôi với gương mặt quỷ ấy lắm sao? Tôi vốn là người như thế này và bây giờ tôi vẫn như vậy, ngoại trừ...
Nàng vừa nói vừa đứng lên, và bất thần vung tay lên cao. Khi hạ tay xuống thì nàng ta vụt biến mất!
Mỹ Lan rung động thật sự, cô lắp bắp:
- Tôi... tôi...
Lần đầu tiên biết chắc mình đang gặp ma, nên phải mất mấy chục giây sau cô mới hoàn hồn. Tuy nhiên, phải một lúc lâu sau Mỹ Lan mới có thể đứng dậy và lảo đảo bước đi.
Chợt có ai đó nói một cách vô tình ngay phía sau:
- Mới rồi tôi nhìn thấy đứa con gái nào ngồi ở băng đá kia giống hệt như con Anh Đào con ông Hội đồng!
Một người khác nói thêm:
- Con nhỏ chết trẻ, lại bất đắc kỳ tử nên linh lắm, nghe nói nó cứ hiện hồn về hoài. Mày lạng quạng mà gặp phải nó thì có mà toi mạng!
Hai người nọ đi rồi mà Mỹ Lan vẫn còn bàng hoàng. Cô nhìn lại cánh tay mình, nơi cô vừa bị Anh Đào nắm, dường như cảm giác lạnh và tê rần đang lan ra... Nỗi sợ hãi càng lúc càng lớn, cuối cùng thay vì trở lại nhà của Thiện, Mỹ Lan quyết định đi luôn ra bến xe đò. Cách tốt nhất lúc này đối với Lan là phải rời khỏi chốn này. Mất Thiện dẫu đau lòng, nhưng mạng sống của mình, Mỹ Lan nghĩ, không thể để mất trong tay một hồn ma được!
Mỹ Lan bước lên xe đò lúc ấy là hai giờ chiều...
***
Chiếc xe nhà ngừng ngay cửa khiến cho bà giáo ngạc nhiên nhìn ra. Do mắc kém nên chưa nhận ra ai, bà bảo Kim Thoa:
- Con ra coi ai vậy?
Thoa vừa bước ra đã quay trở vào liền, giọng hớt hải:
- Bà Hội đồng má ơi!
Từ nào đến giờ tuy là ở chung làng, nhà cũng không cách nhau xa lắm, nhưng bà giáo Nhơn chưa một lần gặp gỡ với con người mang tiếng là giàu có và quyền uy nhất vùng này. Bởi vậy nghe bà ta ghé lại nhà mình thì bà giáo ngạc nhiên, chưa biết phải làm sao. Vừa khi Kim Thoa nhắc:
- Bà ấy là má con Anh Đào đó!
Chi tiết này làm bà giáo nhớ lại chuyện thực tại của con trai mình, bà vội đứng lên. Nhưng bà chưa kịp ra cửa đón khách, thì khách đã bước vào phòng ngoài rồi.
Chính cô con gái lớn bà Hội đồng là Vân Anh dìu mẹ mình đi. Thay vì thái độ hách dịch như xưa kia nhưng bây giờ bà Hội đồng rất dịu dàng, bà lên tiếng:
- Tôi muốn gặp bà giáo Nhơn.
Bà giáo mau mắn:
- Dạ, tôi là vợ giáo Nhơn đây.
Bà Hội đồng chụp ngay tay chủ nhà và siết chặt như người thân lâu năm mới gặp lại, bà ríu rít:
- May mắn cho tôi. Cứ tưởng không gặp được bà!
Rồi không đợi chủ nhà mời, bà đã ngồi ngay xuống ghế trường kỷ, dúi nhanh vào tay bà giáo một gói bọc nhung đỏ, vừa nói nhanh:
- Bà cứ giữ lấy, coi như đây là của hồi môn tôi cho tụi nó làm ăn!
Bà giáo ngơ ngác:
- Chuyện gì vậy bà Hội đồng?
Kim Thoa phải bước tới giúp mẹ mình mở bọc nhung ra, cả hai mẹ con đều sững sờ trước nhiều món nữ trang sáng lóa!
- Cái... cái này...
Trong lúc bà giáo lúng túng thì bà Hội đồng đã bình tĩnh nói:
- Con gái tôi nó bắt phải đem qua đây cho bằng được. Nó bảo rằng nhà chồng nó không có sẵn, mà đám cưới thì phải có nữ trang để mẹ chồng trao cho cô dâu trong lễ lạy xuất giá. Đây là chút thành ý của gia đình chúng tôi, cũng là ý nguyện của con gái tôi nữa, xin chị đừng từ chối. Bởi nếu không...
Vân Anh bây giờ mới lên tiếng:
- Suốt đêm qua, con Anh Đào hiện hồn về cứ đòi má tôi phải đi qua đây ngay, má tôi bảo để sáng tính lại thì nó quậy tưng bừng, làm cả nhà không ai ngủ nghê gì được! Con nhỏ này ngang bướng, nó mà muốn chuyện gì thì đố ai cản được. Bởi vậy, bác và chị đây nên làm theo ý nó.
Bà Hội đồng nói thêm:
- Vong của nó về bảo rằng nó có duyên với thằng Thiện nhà này, duyên tiền kiếp chứ không phải mới đây, nên bằng giá nào chúng cũng phải lấy nhau.
Bà giáo ngập ngừng:
- Nhưng mà... tụi nó làm sao ăn ở với nhau được?
Vân Anh quả quyết:
- Anh Đào đoan chắc là nếu chúng ta cử hành hôn lễ cho đúng với nghi thức thì nhất định hai đứa nó sẽ ăn đời ở kiếp với nhau được!
Kim Thoa nói nhỏ bên tai mẹ:
- Thì cũng giống như thằng Thiện, nó cũng nói vậy...
Bà giáo dịu giọng:
- Tôi cũng đâu biết làm sao khác...
Bà Hội đồng mừng rỡ:
- Như vậy được rồi! Chúng ta tiến hành hôn lễ cho chúng nó ngay đi. Chính con Anh Đào chọn ngày, tối hôm nay là lễ đưa dâu...
Kim Thoa buột miệng:
- Sao được! Ai lại rước dâu vào ban đêm?
Vân Anh giải thích:
- Nó là hồn ma thì làm sao đi ban ngày được. Vả lại hôm nay là ngày giờ tốt, con Anh Đào bảo ở cõi âm chuyện ngày giờ là quan trọng lắm, không thể làm khác được.
- Đón dâu ngay tối nay được chứ sao không, má.
Câu nói bất ngờ khiến mọi người quay lại. Thiện bước ra với chiếc áo cưới trong tay. Trông anh tỉnh táo hơn mấy ngày qua. Bà Hội đồng vừa trông thấy đã reo lên:
- Con ơi, giúp má với.
Thiện hầu như đã trở lại bình thường, anh nhìn mẹ và nói:
- Đây là duyên nợ của tụi con má à, má nên làm theo ý má vợ con. Đó cũng là ý của Anh Đào...
Thấy con mình đã bình thường, bà giáo mừng lắm, nhưng còn rất khó xử với chuyện cưới xin, bà nhìn sang con gái như nhờ sự góp ý thì Kim Thoa lại gật đầu:
- Cứ làm thế đi má.
Thiện đưa lại cho bà Hội đồng cái hộp gỗ đựng xâu chuỗi huyền:
- Con tạm giữ vật này, gởi trả lại cho má, để má đưa cho Anh Đào. Cũng chính nhờ nó mà con trở lại bình thường. Con cảm ơn má, cảm ơn Anh Đào.
Kim Thoa cũng mừng khôn xiết:
- Thằng Thiện đâu còn gì phải lo nữa má! Hay là...
Hiểu ý chị mình, chính Thiện nói liền:
- Với Anh Đào thì một là một, không cãi lời cô ấy được đâu. Mà tại sao lại làm khác, khi con và cô ấy có duyên nợ với nhau.
Hai mẹ con bà giáo im lặng. Trong lúc bà Hội đồng lại giục:
- Không còn thì giờ nữa đâu, bây giờ tôi phải trở về lo chuyện hôn lễ.
Bà giáo vẫn còn lúng túng:
- Nhưng... nhà cửa tôi như vậy, làm sao đây?
Thiện trấn an:
- Đâu phải đám cưới bình thường đâu mà má phải lo. Cứ để con.
Anh đứng lên đi về phía góc nhà, rồi xách tới một chiếc vali mà vừa nhìn thấy Kim Thoa đã reo lên:
- Vali quần áo của con Mỹ Lan, nó bị mất...
Thiện mở vali ra trước sự kinh ngạc của mọi người. Trong đó chứa một bộ áo dài khăn đóng của nam và một bộ áo gối thêu rồng phượng bằng lụa rất đẹp!
Vân Anh là người lên tiếng đầu tiên:
- Hôm qua mấy thứ này còn bên nhà, ai đem qua đây hồi nào vậy?
Rồi cô kể:
- Chính bởi những vật này mà ba năm trước con Anh Đào tự tử! Nó phản đối cuộc hôn nhân do ba má tôi ép nó. Khi nó chết rồi, tôi tiếc của nên xếp mấy thứ này vào tủ cất, hôm nay tự nhiên thấy nó xuất hiện trên giường Anh Đào, rồi bây giờ lại ở đây.
Thiện nói một cách tự nhiên:
- Mọi vật đều có chủ, mà phải đúng là chủ nó thì mới hưởng được lâu bền. Cái này là dành cho em.
Anh ướm thử bộ đồ và reo lên:
- Đồ này sắm là để cho con đây chứ!
Nhìn con mình trong bộ đồ lễ, bà giáo xúc động nói:
- Con tôi!
Bộ đồ vừa vặn đến kinh ngạc! Đến Vân Anh cũng phải kêu lên:
- Như đo cắt cho cậu Thiện vậy!
Kim Thoa thấy bên dưới bộ đồ cưới còn có vài thứ nữa, nhìn kỹ cô kêu lên mà quên sự có mặt của hai người khách:
- Quần áo của Mỹ Lan!
Quả đúng như vậy. Đây rõ ràng là vali của Mỹ Lan bị mất hôm qua.
- Chị Hai giúp em đem cất vali này vào phòng.
Nhớ chuyện mình giận Mỹ Lan về chuyện mất chiếc vali này, Kim Thoa hơi hối hận. Lúc này cô mới chợt nhớ ra là Mỹ Lan đã không có ở nhà từ trưa hôm qua đến giờ. Cô gọi Bảo và Trung hỏi:
- Mấy đứa có thấy Mỹ Lan đâu không?
Bảo đưa ra mảnh giấy nhỏ:
- Lan về Sài Gòn rồi. Giấy này em cũng không phải nhận trực tiếp từ cô ấy, mà do thằng Sanh bạn của Thiện đưa lại.
Thoa lẩm bẩm:
- Cũng tại chị...
Trong đầu Thoa đang hiện lên một hình ảnh rắc rối mới. Chuyện tình cảm của Thiện và Mỹ Lan sẽ ra sao đây khi Thiện làm đám cưới, mặc dù là đám cưới với... hồn ma. Xem ra Mỹ Lan yêu Thiện thật lòng và chắc bây giờ cô ta đau khổ lắm...
Trung chép miệng:
- Yêu đương làm gì cho rắc rối!
Bảo chống nạnh nhìn bạn:
- Để rồi coi.
Rồi anh ta hỏi khẽ Kim Thoa:
- Bộ để cho thằng Thiện lấy... hồn ma thật hả chị?
Thoa nhẹ thở dài:
- Chứ biết sao bây giờ. Hai đứa không thấy sao, nếu không cho nó cưới thì bệnh tình thằng Thiện biết chữa thế nào đây?
Bảo rùng mình:
- Chắc em không dám ở lại dự lễ cưới này quá!
Trung trừng mắt nhìn bạn:
- Bạn bè vậy đó hả?
- Ngoài ra còn Mỹ Lan nữa...
Ý Bảo muốn nói rằng dẫu sao giữa họ và Mỹ Lan là bạn lâu năm, giờ đây chẳng lẽ đứng nhìn bạn mình phản bội?
Hiểu ý, nên Kim Thoa nhẹ giọng bảo:
- Hai đứa cũng không nhất thiết phải ở lại...
Tuy nhiên Trung đã quyết định:
- Bọn này sẽ ở lại. Và cũng chính bọn này sẽ về giải thích lại cho Lan hiểu.
Lúc này đã xế chiều. Mẹ con bà Hội đồng cũng đã lên xe về. Còn lại toàn người nhà, bà giáo mới lo lắng hỏi Thiện:
- Con chấp nhận lấy con Anh Đào, con không nhớ nó là...?
Thiện hào hứng:
- Con không thấy có gì trở ngại cả! Mấy ngày qua trong cơn mê con đã biết thế nào là sống với một người cõi âm, nên con có cảm giác như giữa chúng con không có gì khác biệt. Vả lại, Anh Đào nói với con rằng cô ấy sẽ dành cho con một sự ngạc nhiên lớn. Con tin cô ấy.
Bà Hội đồng chỉ biết lắc đầu, thở dài...
***
Chiếc xe hơi quen thuộc của bà Hội đang đi trước, theo sau là hai chiếc nữa. Họ lặng lẽ ngừng ngay trước cổng nhà. Trong này, bà giáo Nhơn cũng đã chuẩn bị sẵn, nên giục Kim Thoa:
- Đưa má ra ngoài đón người ta!
Vừa bước ra tới cửa, mẹ con bà giáo đã sững sờ đứng khựng lại! Trước mặt họ là bà Hội đồng đi cùng cô con gái lớn và bốn năm người lớn tuổi nữa, có lẽ là trong thân tộc. Đặc biệt hơn là... có cả cô dâu đi kèm!
Kim Thoa bắt đầu run:
- Sao... sao hồn ma mà cũng... cũng hiện hình giữa ban ngày được?
Bà giáo cũng không hơn gì, giọng bà run còn hơn con gái:
- Vịn giùm má, má thấy chóng mặt...
Nhóm người nhà bà Hội đồng bước thẳng vào nhà một cách rất tự nhiên. Vân Anh là người đại diện cho nhà gái, lên tiếng:
- Thưa bác giáo, giữ đúng lời giao ước, nay giờ lành, ngày lành tháng tốt, má con và bà con họ nhà gái, xin đưa dâu về nhà chồng. Đúng ra lẽ này phải khác đi, nhưng bác giáo thông cảm cho, hoàn cảnh không cho phép, nên tạm cử hành như thế này. Mời chú rể ra đón cô dâu vào nhà để lạy gia tiên luôn!
Thiện từ trong bước ra, anh hơi khựng lại một chút khi nhìn thấy cô dâu đang trùm kín mặt. Rồi anh cũng tiến tới cúi chào nhà gái, xong đưa tay nắm lấy bàn tay cô dâu. Họ sóng đôi bước vào nhà trong. Tuy nhà không trang hoàng gì, nhưng do mới sơn phết hồi Tết, tường còn mới, lại được tăng cường đốt mấy ngọn đèn manchon nên cũng rực rỡ, sáng choang.
Trước khi bắt đầu lạy bàn thờ, một người trong thân tộc nhà gái nhắc:
- Cô dâu phải giở khăn trùm ra rồi hãy lạy!
Chiếc khăn được chính Thiện giở ra từ từ... Và anh sững sờ khi gương mặt cô dâu hiện ra! Đó là... Mỹ Lan?
- Hả!
Thiện hơi lùi lại nửa bước, nhưng liền lúc đó anh nghe một giọng nói thật khẽ, chỉ đủ cho mình anh nghe:
- Bình tĩnh. Cứ làm như những gì em đã dặn!
Giọng nói không phải là của Mỹ Lan! Giọng này Thiện đã nghe quen trong suốt mấy ngày hôn mê... Đó là giọng của Anh Đào!
Buổi lễ gia tiên diễn ra êm thấm trước con mắt kinh ngạc của mẹ con bà giáo và cả hai người bạn của Thiện đứng ngoài cửa! Bảo nói khẽ với Trung:
- Tao không thể hiểu nổi...
Trung cũng lắc đầu:
- Để lát nữa gặp Mỹ Lan tao hỏi xem.
Khi cuộc lễ chấm dứt thì Thiện xin phép hai bà mẹ được đưa vợ vào phòng riêng. Vừa vào tới trong, anh nhận được một câu nói rót vào tai:
- Ban ngày anh sẽ sống với em bằng gương mặt này, còn ban đêm thì em sẽ là Anh Đào trọn vẹn!
Trong lúc quyện chặt lấy nhau trên giường, giọng nàng tha thiết hơn:
- Em đã thương lượng với Mỹ Lan rồi, cô ấy cũng đồng tình với cuộc sống này. Bọn em phải hy sinh nhiều lắm đó. Chỉ có anh là sướng thôi, được một lúc đến... hai vợ!
Thiện có lẽ quá bất ngờ nên nhất thời anh không thốt được thành lời. Mà cần gì phải nói, khi trong tay anh đã có được một cuộc tình không thể có trường hợp thứ hai trong cõi đời này!
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #66  
Old 11-07-2012, 05:23 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 32

OAN HỒN NÀNG HẠNH


Người tài xế chỉ hướng và bảo:
- Cậu đi theo hướng này khoảng ba trăm mét thì nhìn thấy một ngôi nhà ngói xưa bên tay trái, cậu rẽ vào đó nếu gặp người thì hỏi nhà ông Trùm đạo Hoàng Bửu, nếu không gặp ai thì cứ đi thẳng vào trong ắt sẽ gặp người cần hỏi.
Thuận cám ơn bác tài rồi xách vali đi theo hướng được chỉ. Khi nhìn thấy ngôi nhà, Thuận khá bất ngờ bởi sự to lớn của nó. Trong hình dung của Thuận thì nhà sẽ nhỏ hơn, bình thường như những ngôi nhà ngói xưa đơn sơ của vùng quê. Nhưng ngôi nhà này thì đồ sộ chẳng khác một dinh thự của các mệnh quan triều đình xưa.
- Thì ra nhà của ông Trùm Bửu là thế!
Trùm Bửu là tên ông nội của một người bạn thân, mà việc anh ta giới thiệu Thuận về đây cũng đầy bí ẩn, anh ta nói trước ngày Thuận lên đường:
- Nếu cần tìm hiểu về nghệ thuật cổ thì không nơi đâu tốt bằng nhà ông nội mình. Ngoài những tác phẩm cổ còn lưu giữ, nơi đó còn có những tài liệu bằng giấy mà chính mình cũng chưa biết hết giá trị của chúng.
- Cậu là Thuận?
Việc người quản gia già bước ra và hỏi đúng tên của mình đã khiến Thuận ngạc nhiên. Anh đáp:
- Dạ, đúng. Nhưng sao bác biết tên cháu?
Ông già cười hiền hòa:
- Có gì lạ đâu, lúc sáng nay tôi nhận được cái điện tín, báo là có người tên là Thuận sẽ tới ở lại nhà một thời gian. Do chữ trong điện tín không có dấu, nên tôi đã đoán già đoán non cả buổi mới quyết định gọi cậu là Thuận thay vì là Thuần hay Thuẫn, không ngờ lại đúng!
Thấy ông ta vui vẻ, Thuận cũng mừng, anh nói luôn:
- Cháu được anh Châu giới thiệu. Mục đích của cháu là ở lại đây một thời gian ngắn...
Ông quản gia cũng tự giới thiệu mình:
- Tôi là ông già Hai, còn có tên là Hai Bình, làm quản gia nhà này đã hai mươi năm rồi, kể từ thời cụ Trùm còn sống. Mà vừa rồi cậu nói do cậu Châu giới thiệu, nhưng sao điện tín gởi ra lại ký tên cô Hạnh. Mà nhà này sao lại còn có Hạnh nào nữa?
Thuận cau mày:
- Cháu đâu quen ai là Hạnh?
Chợt ông già Hai kêu lên:
- Phải rồi, đó là cô ba nhà này? Mà cô ấy đã... đi cách đây cả chục năm rồi làm sao đánh điện được! À, hay là cậu Châu đùa với cậu rồi...
Thuận thoáng thắc mắc, nhưng do phải vào nhà chào hỏi, rồi đi xem chỗ mới, nên sau đó ít phút thì hầu như anh quên bẵng chuyện cái điện tín.
Ông già Hai sau khi dẫn Thuận đi một vòng, ông chỉ dãy phòng trên lầu và bảo:
- Nguyên dãy này, có sáu phòng, đều đang bỏ trống, từ lâu không ai ở, mặc dù lâu lâu tôi có đến quét dọn, nhưng chắc khi cậu chọn phòng nào ở thì phải dọn cả buổi mới tươm tất được. Theo tôi thì cậu nên chọn cái phòng gần cầu thang này để dễ lên xuống, mà trong phòng ấy còn có sẵn giường còn mới và bộ ghế sa lông nữa, cậu có thể tiếp khách ngay trong phòng.
Thuận cười:
- Cháu lên đây là để tránh phải tiếp bạn bè một thời gian, nên chuyện tiếp khách chắc là không có rồi.
- Biết đâu. Cậu còn ở đây lâu mà. Có cậu tôi thích lắm, bởi lâu nay muốn kiếm một người để nói chuyện cũng không có, nhiều khi tôi cứ sợ vài năm nữa mình quên tiếng người quá!
Thuận bật cười với ông. Cuối cùng nghe ông, anh chọn căn phòng sát lối cầu thang. Quả là đầy đủ tiện nghi, còn vượt quá mong đợi của Thuận nữa!
Ông già Hai đi xuống dưới nhà lúc sau trở lên dặn:
- Trong phòng có cái tủ áo quần ngủ, ngày xưa khi ông thân sinh cậu Châu còn sống thì căn phòng này dành để đón khách xa tới ở lại, nên có sẵn một tủ quần áo mát mặc trong nhà, từ lâu khóa tủ để đó, không có ai rớ tới, chắc là còn nguyên, nếu cần thì cậu cứ lấy mà mặc. Mặc xong cứ bỏ vào giỏ để ngoài hành lang, tôi sẽ nhờ người giặt cho. Cả quần áo của cậu cũng vậy.
Ông đưa cả chìa khóa tủ. Thuận không có ý định mặc những loại quần áo đó, tuy nhiên lát sau anh lại có nhu cầu mang mấy bộ quần áo, nên nghĩ tận dụng tủ ấy cũng tốt và anh mở ra xem.
Trong tủ không hề có bộ đồ mát nào như ông già nói, có lẽ ông ta lộn với cái tủ ở phòng khác. Mà trong tủ lại toàn là giấy tờ, sổ sách và khung hình chất cả chục cái.
Một trong đống khung ảnh đó có một cái khi Thuận vô tình chạm vào đã rơi ra, đè lên chân của anh. Sợ nó vỡ, Thuận nhẹ tay cầm lên và giật mình khi thấy chân dung một cô gái, mà Thuận phải buột miệng khen:
- Đẹp!
Cô gái trong ảnh còn rất trẻ, tuy ăn mặc theo phong cách xưa, nhưng gương mặt trái xoan, đôi mắt sáng ngời, đặc biệt là cặp môi chúm chím cực kỳ xinh xắn, mà bất cứ ai nhìn cũng phải tấm tắc!
Điều khiến cho Thuận càng kinh ngạc hơn là bên dưới cùng của bức hình có dòng chữ viết tay khá nắn nót:
- Ngọc Hạnh, năm mười tám tuổi.
- Hạnh? Đây là cô Hạnh?
Thuận kinh ngạc là bởi cái tên Hạnh trong bức điện tín mà ông già Hai vừa nói.
- Cô ta đã...
Không đợi đến chiều, sau đó vài phút Thuận đã cầm bức ảnh đi thẳng xuống nhà, tìm ông quản gia. Đưa cho ông xem bức ảnh, Thuận hỏi:
- Phải đây là cô Hạnh mà bác nói không?
Thấy bức ảnh, ông già Hai kêu lên:
- Cậu lấy đâu ra ảnh ấy?
- Dạ, cháu gặp trong phòng.
- Ủa, sao trong phòng đó lại có...
Rồi chợt nhớ ra, ông vỗ trán nói:
- Tôi lộn rồi, phòng cậu ở trước đây là của... cô Ba Hạnh. Lâu quá rồi nên tôi không nhớ.
- Bác nói cô ấy đã đi xa, mà đi đâu vậy?
- Lâu rồi. Năm đó cô ấy mới mười tám tuổi. Hình đó chụp trước lúc cô ấy đi vài tháng. Bây giờ đã ngót mười năm rồi!
Thuận trầm ngâm một lúc rồi quay lại phòng, ông già Hai nói với theo:
- Hay là cậu ngại thì đổi sang phòng khác.
Thuận xua tay:
- Dạ không cần.
Anh trở về phòng và đặt bức ảnh trở lại chỗ cũ. Như vậy là không có tủ để máng quần áo rồi. Đổi sang phòng khác thì Thuận lại không muốn. Cũng chẳng hiểu tại sao nữa...
Buổi cơm chiều chỉ có Thuận và ông già Hai ăn với nhau. Anh ái ngại nói:
- Để bác phải lo cơm nước cháu ngại quá. Hay là mai để cháu lo...
Ông già Hai chỉ mâm cơm:
- Cậu thấy tài nấu nướng của tôi chưa, chỉ có vài thứ mà tôi chế biến thành bốn món ăn, đâu thua gì mấy bà nội trợ giỏi!
Rồi ông nói thêm:
- Ngày trước khi ông Trùm còn sống tôi vốn là đầu bếp của ông, sau tới ông cụ bố cậu Châu thì tôi mới chuyển qua làm quản gia. Nghề cũ đâu dễ gì quên cậu!
Thuận phải tấm tắc khen:
- Bác nấu ăn ngon thật! Nhất là món sườn ram này, hương vị như nhà hàng Tàu!
Được dịp khoe, ông già gân cổ lên:
- Hồi trước anh em nhà cậu Châu người nào cũng khoái mấy món này! Có bữa cậu Châu ăn đến năm chén cơm chỉ với nửa dĩa sườn ram đó!
- Cô Hạnh gì đó có thích món này không?
Thuận cố tình nhắc tới người tên Hạnh, như chờ một sự tiết lộ thêm. Nhưng hình như ông già Hai có điều gì đó muốn tránh, ông vội nói lảng sang chuyện khác:
- Ngày mai tôi sẽ cho cậu ăn một món khác, ngon hơn!
Sau bữa cơm, Thuận tỏ ý muốn đi ra sau vườn thì ông già Hai khuyến khích một cách thật tình:
- Cậu nên đi lại để thư giãn. Đây là đất riêng của nhà mình bên ngoài không ai vào được. Tuy nhiên trời đêm xứ này khá lạnh, cậu không nên ở lâu bên ngoài nếu không mang theo áo ấm.
Thuận chỉ định đi một vòng ngắn rồi quay trở vào. Nhưng càng đi sâu vào khu vườn rộng, anh càng bị cuốn hút và cứ muốn đi nữa. Chung quanh anh có nhiều loại hoa rất lạ, có lẽ được trồng khá lâu và được cắt tỉa công phu, nên dù là ban đêm, Thuận cũng có thể thấy được cái đẹp của nó và phải buột miệng khen:
- Đẹp quá!
Qua hết con đường có nhiều luống hoa đẹp lại tới một khu chất những tảng đá lạ mắt, một cách rất mỹ thuật giống như những khu vườn Nhật mà Thuận đã từng thấy trên phim ảnh, sách báo. Anh thầm khen chủ nhân ngôi nhà, mà thì nghĩ có thể nó đã có từ thời ông nội của Châu.
Ngôi nhà đã rộng mà khu vườn còn rộng gấp nhiều lần, nên Thuận đã đi ngót nửa tiếng mà chỉ mới được một nửa. Anh vừa định đi tiếp nữa thì chợt nghe có một tiếng kêu rất lạ, cách đó không xa. Lắng nghe một lúc, Thuận nhận ra tiếng ấy là của một loài chim đêm.
Bước theo hướng có âm thanh ấy, bỗng Thuận giật mình khựng lại. Trước mặt anh là một con chó mực khá lớn đang hụt đầu xuống một ngôi mộ đá bị moi một lỗ to.
Thấy sự xuất hiện của Thuận, con chó mực quay lại nhìn, đôi mắt của nó tròn và sáng như hai ngọn đèn pha, khiến cho Thuận suýt kêu lên. Anh không dám lùi, bởi thường nghe nói gặp chó mà lùi thì nó sẽ tấn công!
Quả như vậy, con chó thấy Thuận nhìn chăm chú vào, nó không sủa, mà từ từ quay đi và bất thần bỏ chạy!
Nhìn kỹ chỗ nó vừa đào lên, Thuận kêu khẽ:
- Một cái sọ người!
Thì ra con chó đang đào mộ, lôi lên hài cốt của người chết! Chẳng Iẽ là người mới chôn?
Thuận liếc nhìn vào mộ bia, do trời tối nên nửa phần trên chỗ có tên người đã bị che khuất không thể đọc được, chỉ thấy dòng ghi ngày tháng tử: 14-4-1918
- Chết đã mười năm rồi!
Có nghĩa cái sọ kia đã là sọ khô lâu năm, chẳng hiểu sao con chó lại đào lên làm gì. Nó đâu có ăn được?
Tự dưng Thuận nghe bần thần, anh cứ đăm đăm nhìn cái sọ, trong lòng như muốn có một hành động gì đó như cầm nó lên hay chôn nó trở xuống huyệt!
Cảm giác đó chợt đến mà Thuận cũng chẳng hiểu sao mình lại bị cuốn hút vào đó như thế! Anh cảm thấy khó xử nên cứ đứng tần ngần ở đó hơn một phút. Chợt trời gầm to, sấm chớp liên hồi và có vài giọt mưa rơi xuống!
Lúc này Thuận như được ai đó tiếp thêm sức mạnh, anh cúi xuống nhặt cái sọ người lên, rồi chẳng cần suy nghĩ, đã nhẹ tay đặt nó xuống cái lỗ mà con chó vừa bươi lên lúc nãy. Anh lấp đất lại rất nhanh và còn cẩn thận lấy thêm hai tảng đá gần đó đè lên chỗ mới lấp!
Làm xong Thuận cảm thấy nhẹ nhõm, anh xoa tay đứng nhìn ra vẻ đắc ý. Trước khi bỏ đi anh còn chấp tay xá liền mấy cái.
Anh đi được chưa hơn chục bước thì con chó mực lúc nãy quay trở lại. Lần này nó không bươi đất nữa, mà chui tọt xuống mồ rồi mất dạng luôn!
***
Trong bóng tối như mực, Thuận quờ tay đụng một người nằm bên cạnh mình và chỉ cảm nhận được giới tính của người đó qua da thịt của họ, anh kêu lên thật khẽ:
- Một phụ nữ!
Bàn tay Thuận chạm vào cánh tay của nàng ta và giật mình bởi nó lạnh và quần áo hình như đang ướt đẫm.
Lần này Thuận lên tiếng rõ ràng:
- Ai đây?
Một ngón tay của nàng ta đưa lên đúng vào miệng của Thuận:
- Đừng nói lớn, em đang trốn!
- Cô là...
- Gấp lắm, xin cho em nương náu đỡ một lúc, em đang bị người ta đuổi bắt. Họ mà tóm được thì chắc là em chết mất! Em lạy người...
Giọng nàng ta tha thiết khiến Thuận cũng không nỡ, anh hỏi khẽ:
- Cô làm gì trong nhà này?
- Em... em ở xa lắm. Em tới đây do tình cờ và em bị người ta đuổi. Họ cho em là trộm, mà nào em có làm được chuyện đó đâu.
Thuận định ngồi dậy mở đèn thì nàng hoảng hốt ngăn lại:
- Đừng! Đừng! Nếu mở đèn lên thì thà giao em cho họ còn hơn!
- Nhưng... có ai trong nhà này ngoài ông quản gia và tôi? Cô bị ông quản gia truy đuổi hả, để tôi nói giúp cho.
Nàng ta tỏ ra sợ hãi hơn:
- Đừng! Ông ấy... à mà không, tôi bị... con chó mực!
Nghĩ tới con chó mực ở đầu mộ lúc đầu hôm, Thuận ngạc nhiên hỏi:
- Cô làm gì ở ngoài mộ mà bị con chó...
Anh ngừng ngang câu hỏi vì nguyên bàn tay cô nàng đã che kín miệng, giọng nàng như van lơn:
- Xin anh đừng hỏi nữa, em sợ lắm!
Bấy giờ Thuận mới cảm nhận được cái ướt từ thân thể nàng ta lan sang mình, anh hỏi:
- Sao người cô ướt hết thế này?
- Tại vì...
Nàng ta đáp chưa hết câu thì từ bên ngoài ông già Hai lên tiếng:
- Ngủ chưa cậu Thuận?
- Dạ...
Anh lại bị chận tay ngang miệng, nên tiếng vừa rồi chỉ đủ hai người trong phòng nghe. Bên ngoài ông già Hai không nghe đáp nên đã bỏ đi.
- Cám ơn anh.
Rất nhanh, cô nàng phóng khỏi giường, hình như tới ngồi ở ghế. Thuận muốn bước xuống theo thì nàng ngăn lại:
- Anh không nên lại đây. Tốt nhất là có bộ quần áo nào còn sạch thì làm ơn cho tôi mượn mặc đỡ. Tôi đang bị lạnh.
Đúng là nàng ta lạnh lắm, Thuận nghĩ vậy nên bước lần qua chỗ chiếc rương còn nguyên chưa mở từ khi tới đây. Anh bảo:
- Cô phải bật đèn lên giùm thì tôi mới lấy quần áo cho được chứ, tối quá.
Nhưng nàng cương quyết:
- Anh mò và lấy đại, quần áo gì cũng được, miễn là...
Nửa phút sau Thuận cũng lấy ra được một bộ pyjama, định bước tới đưa thì như đoán được ý của anh, cô nàng lại lên tiếng:
- Anh cứ ném nó sang đây, tôi đang ngồi ở bàn viết.
- Rồi anh ở yên đó, để tôi thay đồ!
Lâm vào hoàn cảnh toàn để phụ nữ sai bảo như thế này là lần đầu Thuận gặp phải, tuy nhiên anh lại cảm thấy thích thú, nên răm rắp nghe theo. Chỉ nghe tiếng xột xoạt của quần áo ướt bị cởi ra, vài phút sau nàng lên tiếng:
- Xong rồi đó, anh có thể mở đèn lên. Nhưng em nói trước, đã giúp em thì phải giúp cho trót, có ai hỏi thì anh không được nói có em trong này!
- Rồi, yên tâm.
Thuận bước tới bật công tắc điện lên, đèn sáng choang và...
- Ủa, cô ta đâu?
Ở bàn viết không có ai ngồi, chỉ trên đáy ghế có bộ đồ ướt vất ở đó thôi...
- Cô ơi!
Thuận kêu lên khẽ và bước khắp phòng tìm. Chốt cửa vẫn còn cài bên trong, như vậy chắc chắn nàng ta không ra bằng cửa ấy được. Mà cửa sổ thì vẫn đóng kín. Nghĩ là cô ta muốn đùa với mình, anh nhẹ bước tới gần tủ áo và bất thần kéo mạnh nó ra! Tủ trống không. Đứng thừ người một lúc Thuận mới có phản ứng. Anh chạy ra cửa gọi lớn:
- Bác Hai ơi!
Ông già quản gia ở nhà dưới, nghe gọi lên tiếng ngay:
- Gì đó cậu Thuận?
Thuận đã chạy bay xuống nhà, trên tay còn cầm bộ quần áo ướt, anh hớt hải nói:
- Cháu đang ngủ thì có ai đó vào phòng, cháu không thấy mặt, chỉ nghe tiếng nói, cô ấy mượn cháu bộ đồ thay rồi... biến mất, bỏ lại bộ đồ ướt này!
Vừa cầm bộ quần áo xem, ông già Hai đã kêu lên:
- Bộ đồ này hình như là của... của...
Ông định nói nhưng kịp dừng lại. Thuận hỏi dồn:
- Của ai vậy?
Ông già nhẹ lắc đầu bảo:
- Thôi, không sao đâu, chắc là ai chạy trốn...
Thuận nói liền:
- Đúng là cô ta đang chạy trốn ai đó. Hình như trốn con chó mực!
Ông già Hai lại một lần nữa giật mình:
- Cậu thấy con chó?
Thuận lắc đầu:
- Chỉ nghe cô ta nói.
Ông già lặp lại rất khẽ:
- Con chó Mi Nô, con mực ngày xưa...
- Bác biết con chó mực?
Không đáp thẳng, ông quay đi, giọng buồn bã:
- Nó vẫn còn bên cô ấy...
Thuận quá tò mò, anh hỏi:
- Bác biết cô ấy?
- Biết... Nhưng mà...
Ông đáp chưa dứt lời đã vội bước ra ngoài. Thuận định đuổi theo thì ông già xua tay ngăn lại:
- Cậu chờ tôi một lát.
Ông ta đi khoảng mười lăm phút thì trở lại, vẻ mặt bớt căng thẳng:
- Đêm qua cậu ngủ không được?
- Dạ không, cháu ngủ rất say, ngoại trừ lúc cô ấy vào giường cháu nằm và cháu giật mình!
Ông già chỉ thở dài, không nói. Từ phút đó dù Thuận có hỏi mấy ông ta cũng không nói lại chuyện liên quan đến cô gái có bộ đồ ướt. Trong suốt bữa ăn sáng ông toàn nói chuyện bâng quơ.
- Hôm nay cậu có cần đi đâu không, tôi thuê cho một người dẫn đường.
Thuận bật cười:
- Ở đây có chút xíu, cháu tự đi được rồi, đâu phải đi rừng đi suối gì mà cần hướng dẫn bác. Chỉ xin bác cho cháu mượn cây roi da mà cháu thấy treo ở phòng khách.
Ông già cười:
- Roi đó là của ông Trùm, ngày xưa nhiều người sợ chết khiếp mỗi khi thấy cây roi ấy. Bộ cậu cũng muốn làm... trùm sao?
Thuận vô tình nói:
- Cháu mượn cầm đi trong vườn thôi, phòng khi con chó mực.
Bỗng ông già sa sầm ngay nét mặt:
- Không được phép!
Thuận ngạc nhiên:
- Bác nói cháu không được phép mà phép gì ạ?
- Không được chạm đến con chó!
Ông vừa đáp xong đã bật đứng dậy ngay, nét mặt giận dữ! Thuận ngơ ngác chẳng hiểu tại sao. Cho mãi đến chiều tối hôm đó ông quản gia hầu như tránh mặt Thuận. Đến bữa cơm ông chỉ dọn để đó chứ không cùng ăn như hai bữa trước. Thuận áy náy lắm, nhưng cũng không chủ động tìm ông già để hỏi cho ra lẽ. Tối đó buồn tình nên anh đi ngủ sớm. Nhưng vừa đặt lưng xuống anh đã nghe tiếng ông già Hai ngoài cửa phòng:
- Tôi gặp cậu một chút, cậu Thuận!
Thuận ra mở cửa thì bắt gặp một ông già Hai say khước, đứng không muốn vững, anh phải dìu vào trong, vừa hỏi:
- Bác uống ở đâu mà say quá vậy, bác Hai?
- Ừ, tôi say... mà không say thì làm sao nói chuyện được với cậu! Cậu cho tôi nói không cậu Thuận?
Thuận đỡ ông nằm xuống giường, nhưng ông ta lại bật ngay dậy, bất ngờ ôm chầm lấy Thuận và oà lên khóc!
Quá bất ngờ trước hành động của ông, Thuận hơi lúng túng:
- Bác... bác sao vậy?
Ông già Hai cố trấn tỉnh, nhưng giọng ông cứ bị nghẹn lại. Phải mất hơn nửa phút sau thì ông mới nói được trọn vẹn ý của mình:
- Cậu có muốn nghe tôi nói không?
- Bác cứ nói, cháu sẵn sàng nghe. Nhưng trước khi kể bác để cháu lấy viên thuốc cho bác uống, nó sẽ giã rượu.
Ông già Hai kéo ghì Thuận lại:
- Khỏi, tôi đâu có say. Tôi chỉ buồn thôi...
Ông chỉ vào trong tủ áo:
- Cậu hãy lấy hết những khung ảnh trong đó ra đây, tôi sẽ chỉ cho cậu thấy...
Thuận ôm khệ nệ cả chục khung ảnh, có cái có ảnh cái không. Dĩ nhiên trong đó có ảnh chân dung của người mà ông già Hai nói là cô Ba Hạnh. Vẫn cầm riêng bức ảnh đó, ông già đưa trước mặt Thuận:
- Cậu gặp nó rồi phải không?
Thuận lắc đầu:
- Dạ chưa.
- Gặp rồi! Cậu gặp ngoài nghĩa địa và gặp cả ở đây. Bộ đồ ướt hôm qua là của cô ấy!
Thuận thảng thốt:
- Bác nói đó là cô Hạnh?
Giọng ông trầm hẳn xuống:
- Chính là cô ấy. Và cả con chó nữa, nó chính là...
Ông nói tới đó thì đột nhiên đôi mắt trợn trừng và ngã xuống sàn trước sự kinh ngạc của Thuận!
- Kìa bác!
Anh đỡ ông lên thì thấy hai dòng máu ứa ra ở hai khóe miệng. Đầu ông ta ngoẹo sang một bên. Thuận kêu lên:
- Bác Hai!
Nhưng ông ta đã không còn thở nữa.
Thuận không biết phải làm gì trước sự việc quá đỗi bất ngờ này, nên cứ ngây người ra. Phải một lúc sau anh mới chạy qua nhà lân cận cách đó hơn trăm mét. Những người này cùng chạy qua xem và lắc đầu nói:
- Ổng tuổi già, trước đây có tiền sử bệnh tim, từng mấy lần đi bệnh viện. Lâu nay bỏ rượu nên đỡ, sao bây giờ lại uống rượu lại. Tội nghiệp thân già không con cái, không gia đình riêng...
Họ làm chứng cho Thuận nên sau đó anh không gặp rắc rối gì về cái chết lạ lùng này. Thuận đứng ra lo ma chay cho ông và buộc lòng phải lưu lại ngôi nhà, bởi ngoài anh thì giờ đây không có ai khác.
Thuận dự trù ngày mai sẽ đánh điện tín cho Châu báo mọi việc rồi chờ Châu lên, lúc ấy anh mới về Sài Gòn.
***
Châu lên và chỉ ở lại đúng một ngày và anh ta đã năn nỉ Thuận hết lời, xin anh hãy tiếp tục ở lại. Châu nói:
- Ngôi nhà này là kỷ niệm cuối cùng của dòng họ tôi. Nghe nói trong các phòng trên lầu còn lưu giữ nhiều cổ vật quý giá, đáng lý tôi phải trực tiếp lên đây canh giữ hoặc tính toán cách bảo quản nó, tuy nhiên công việc kinh doanh của tôi dưới đó hiện đang rối rắm, tôi mà bỏ đi là loạn ngay. Cậu là bạn thân của tớ, vậy hãy giúp tớ trong lúc nguy ngập này. Nếu cần, mình sẽ tìm thuê cho cậu một người giúp việc. Cậu ráng ở chừng một tháng, được không?
Thuận đành phải chìu theo ý bạn. Anh cũng không hỏi gì về những điều kỳ lạ đã chứng kiến, bởi theo Thuận thì Châu chẳng hề biết gì chuyện ở ngôi nhà này, có hỏi cũng vô ích.
Châu về được nửa buổi thì Thuận khám phá một điều mà anh tiếc là nếu còn bạn mình ở lại chắc là phải ngạc nhiên! Số là trong số khung ảnh và tập vở cũ kia, Thuận tình cờ nhặt được một bức ảnh của Châu chụp chung với một cô gái nhỏ hơn anh chỉ vài tuổi, mặt cô gái này giống hệch như cô Hạnh trong ảnh kia.
- Chắc là anh em họ.
Nhưng khi lật phía sau ảnh thì Thuận giật mình! Có dòng chữ ghi: Không phải anh em mà sống như anh em, liệu rồi đây hai đứa sẽ ra sao khi phải chia lìa nhau.
Chữ viết là của một người có vẻ lớn tuổi. Hơi giống nét của một phụ nữ, phải chăng là của thân sinh ra Châu hoặc Hạnh? Mà tại sao họ không là anh em ruột? ảnh cô gái này có đúng là Hạnh hay là của một người khác? Biết hỏi ai bây giờ, khi mà ông già Hai và cả Châu đều không có mặt ở đây.
Khi xem tới một tập giấy bìa cứng, dạng nhật ký thì Thuận phải bàng hoàng kêu lên:
- Có chuyện này sao?
Trong quyển vở đó ghi vắn tắt mấy dòng: Tội nghiệp con Hạnh! Làm sao con nhỏ yếu đuối như thế mà chịu nổi trận đòn chí tử của lão Trùm. Lão ta sau khi hay biết việc Hai Bình cố tình gán ghép con gái mình cho thằng Châu thì đã nổi điên, nhốt thằng Châu vô hầm kín, còn con Hạnh thì bị trói vào cột dừa chịu liên tiếp nhiều trận đòn. Cây roi da ngày trước lão trùm dùng tra tấn nô lệ thì nay lại đùng để hành hạ đứa con gái liễu yếu, hỏi làm sao nó chịu cho nổi! Nếu không có con mực thì chắc con nhỏ đã chết ngay từ trận đòn đầu tiên!
Những dòng chữ chấm dứt ở đó. Nhưng cũng đủ cho Thuận bắt đầu hiểu sự việc. Anh lẩm bẩm:
- Thảo nào ông ấy cấm mình không được động tới con chó!
Thuận dọn dẹp hết những vật dụng vào tủ, chỉ chừa lại mấy bức ảnh của Hạnh và ảnh chụp Hạnh và Châu.
Đêm đó anh ngủ một giấc khá ngon. Cho mãi đến lúc gần sáng... lúc ấy bỗng Thuận nghe có tiếng động bất thường từ dưới dãy phòng mà ông già Hai ở. Tò mò, Thuận cầm đèn soi đi xuống. Tới gần anh mới giật mình vì có tiếng khóc phát ra từ đó.
- Trong phòng của ông già Hai!
Từ hôm ông ta chết thì căn phòng riêng của ông được đích thân Thuận khóa lại. Vậy mà lúc này cửa phòng mở và bên trong có ánh sáng và tiếng khóc của ai đó!
- Bà là...
Thuận cất tiếng hỏi khi nhìn thấy một người phụ nữ tuổi trung niên đang ngồi xếp bằng dưới sàn, trước di ảnh của ông già Hai. Nghe hỏi, người đàn bà không nhìn lại, mà cất tiếng hỏi:
- Cậu là Thuận phải không?
- Sao bà biết tôi?
- Tôi biết cậu nên mới ngồi đây chờ cậu tới. Biết cậu nên mới để lão già này chết thay cho cậu!
Câu nói làm cho Thuận tròn mắt kinh ngạc:
- Bà vừa nói gì? Tại sao ông già Hai chết thay tôi?
Lúc này người phụ nữ mới quay hẳn lại, nhìn thẳng vào Thuận. Anh ngạc nhiên bởi nhan sắc khác thường của bà ta! Tuổi tác thì rõ ràng không còn trẻ nữa, nhưng sắc đẹp thì vẫn quyến rũ, chẳng khác những cô gái mười tám đôi mươi.
Thấy Thuận bàng hoàng khi nhìn thấy mình, người phụ nữ vội lên tiếng:
- Chỉ có cậu mới dám nhìn tôi lâu như vậy. Và cậu cũng là người đầu tiên nhìn thấy tôi mà không ngã ra hộc máu!
- Vậy bà là...
Bà ta nhắc:
- Cậu chưa quên cái chết của lão quản gia. Hôm đó cậu có mặt lúc lão ta chết, phải không?
- Đúng, tôi có chứng kiến...
- Vậy cậu có biết tại sao ông ta chết không?
Thuận ngập ngừng:
- Điều đó thì...
Bất ngờ, bà ta vung mạnh tay một cái, có một vật thể màu đen lao vút từ ngoài cửa sổ vào và đứng trụ ngay trước mặt.
- Con chó mực!
Thì ra vật vừa lao vào ấy là con chó mực to có đôi mắt sáng như hai ngọn đèn pha. Nó chiếu thẳng ánh hung quang vào Thuận như chực ăn tươi nuốt sống, khiến anh hơi nao núng.
- Cậu đừng sợ. Nếu hại cậu thì nó đã làm ngay từ hôm đầu tiên khi cậu nhìn thấy nó với chiếc đầu lâu ở sau vườn rồi! Chính vì hành động của cậu hôm đó, nên nó mới để cậu yên. Cậu nhớ khi cậu chôn chiếc đầu lâu không, đó là cậu đã cứu mạng con Hạnh lần thứ hai đó!
Thuận ngơ ngác:
- Chuyện ấy... là sao ạ?
Người phụ nữ trở nên dịu dàng hơn:
- Hôm ấy nếu không có cậu tới kịp thì lão đã thực hiện được ý đồ rồi và như vậy thì oan hồn con gái tôi đã vĩnh viễn bị bơ vơ, không nơi nương tựa, phải sống kiếp lưu đày trong cõi âm ty!
Thuận càng nghe càng không hiểu, phải đợi bà ta giải thích rõ:
- Cậu đã đọc những trang viết về thân thế của Hạnh rồi phải không? Cậu hiểu nó là con của lão già quản gia chứ gì?
Thuận gật đầu:
- Dạ, hình như là vậy, theo những gì trong nhật ký viết. Có phải bà là người viết những dòng ấy?
Bà ta gật đầu:
- Không sai. Nhưng là viết theo lệnh của lão ta.
- Ai ạ?
Bà ta rít lên.
- Lão quản gia chứ còn ai nữa!
Thuận thì ngơ ngác chuyển thành sửng sốt.
- Sao lại có chuyện đó?
- Vậy mà có đó cậu! Tôi là mẹ đẻ của Hạnh, là nàng hầu của ông Trùm nhà này. Cậu từng nghe nói về ông Trùm?
- Dạ, có nghe. Nhưng sao...
Thuận muốn hỏi về tuổi tác, bà ta tiếp liền:
- Cậu thắc mắc cũng phải, bởi khi làm hầu thiếp cho ông Trùm thì tuổi tôi chỉ mới có mười tám, mà ông ấy đã trên tám mươi! Bởi vậy mới xảy ra điều tệ hại...
Thuận bạo gan hỏi:
- Với người con trai ông trùm, tức cha của Châu...?
Bà ta lắc đầu:
- Anh ấy không hề để ý đến tôi, vả lại ba của Châu không ở chung. Người gây rắc rối cho tôi lại là... lão quản gia!
- Lão già Hai?
Bà ta gật đầu, ngừng một lát rồi kể tiếp:
- Cũng có nguyên nhân thế này, thuở mới tám tuổi tôi đã được cha mẹ vì nghèo nên đem ký thác cho nhà ông Trùm. Lúc ấy lão quản gia Hai Bình đã mười sáu tuổi, lão ta làm đầu bếp trong ngôi nhà này. Lão bắt đầu để ý tôi mà tôi không hề hay biết, cho đến một hôm khi tôi mười sáu tuổi, trong một buổi tối nằm ngủ trong phòng một mình tôi đã bị lão ấy cưỡng bức! Khi tỉnh lại tôi định la lên thì bị lão ta đe dọa, nếu la lão ta sẽ giết chết! Tôi bị làm nhục, đang có ý định tự tử thì may nhờ ông Trùm ra tay giúp đỡ cứu sống. Ông ấy ban đầu chỉ đơn thuần là cứu tôi thôi, nhưng chính tôi đã chủ động hiến dâng cho ông ta, chỉ nhằm mục đích trả thù kẻ đã lấy mất tiết trinh của mình! Lão Hai Bình sau khi biết ý định của tôi đã tìm cách hăm dọa rằng nếu tôi tố cáo thì lão sẽ giết cả nhà tôi chứ không riêng gì tôi! Tôi đành ngậm miệng trong uất hận, chờ ngày sinh đứa con đầu. Đứa con ấy chính là Hạnh. Dòng máu của...
Thuận không dừng được, phải hỏi liền:
- Giọt máu của lão quản gia?
Người phụ nữ nhẹ lắc đầu:
- Không. Nó là của... ông Trùm!
- Sao lại...?
- Chính lão Hai Bình cũng nghĩ đó là giọt máu của mình, bởi lão ta chiếm đoạt tôi trước. Nhưng chính tôi mới hiểu rõ, khi lão ta cưỡng hiếp tôi thì đúng vào chu kỳ thường lệ của người phụ nữ, làm sao mang thai được? Tôi có học làm y tá do ông Trùm buột phải học để chăm sóc sức khỏe trong nhà, nên tôi hiểu về chu kỳ thụ thai, sinh nở. Tôi có thai với ông Trùm, sau khi sinh con tôi đã một lần nói rõ với Hai Bình, để lão không còn vọng tưởng nữa, nhưng lão ta cứ quả quyết đó là con mình và một hôm lão ta viết một lá thư nặc danh gửi cho ông Trùm tố cáo rằng tôi đã ngoại tình với ai đó! Tính của ông Trùm thì cả nhà ai cũng biết, nóng như lửa, không thể chấp nhận bất cứ ai phản bội mình, bởi vậy khi hay tin ấy đã ra lệnh trói tôi vào gốc cây trong vườn, bỏ đói khát trong hai ngày liền, cấm không cho ai tới gần để cứu giúp. Tôi bị chết trong lần đó, trong khi con Hạnh mới có năm tuổi!
Bà quá xúc động lúc kể tới đó, phải ngừng lại để lấy bình tĩnh rồi mới tiếp:
- Con Hạnh lớn lên trong nỗi khổ tâm vì bị ông Trùm ghét bỏ bởi sự gieo rắc nghi kỵ của Hai Bình. Khi nó được mười sáu tuổi thì lộ rõ ý đồ của lão ta, khi lão ta dùng thủ đoạn đê tiện, giả chữ viết của tôi, ghi vào sau bức ảnh chụp chung của Hạnh và cậu Châu, khiến ai đọc vào cũng nghĩ đó là người không phải cùng huyết thống.
- Mục đích là gì cậu biết không?
- Là để... hai người sau này lấy nhau và... Lão ta nhắm vào cái tài sản khổng lồ này sau khi ông Trùm và cả bố của Châu mất đi! Lão ta nghĩ rằng khi để Hạnh lấy Châu thì lão sẽ danh chánh ngôn thuận làm chủ cơ ngơi này, vì lúc ấy lão là cha vợ của Châu rồi.
Thuận buột miệng kêu lên:
- Nếu đúng lời bà kể thì làm sao để xảy ra chuyện ấy được!
Bà ta thở dài, chép miệng:
- Đúng là như vậy! Về huyết thống thì chính thức Hạnh vai cô của Châu, làm sao để chúng phạm tội tày trời được. Bởi vậy lúc ấy tôi mới nhờ đến con mực Mi Nô giúp ngăn chặn lão ta!
- Con chó mực.
- Đúng. Khi ấy do hồn phách tôi chưa thể hiện về để hành động, nên chỉ còn cách mượn con chó mà lúc sinh thời tôi nuôi và Hạnh cũng cưng yêu nó. Con chó rất khôn, nó có được linh cảm giữa hồn người chết và kẻ dương gian, nên ngày đêm nó theo sát con Hạnh, không để lão Hai ấy ra tay. Nó luôn gầm gừ và xua đuổi mỗi khi lão ta tạo cơ hội cho Châu tiếp cận với con Hạnh. Và nó đã thành công. Một lần kia, chính lão Hai Bình đã dàn cảnh để Châu vào phòng của Hạnh trên tầng lầu thượng, trong khi nhà đi vắng hết. Lão còn cho Châu uống rượu có hạ thuốc kích dục, quyết để Châu chiếm đoạt Hạnh cho bằng được, Hạnh bị Châu tấn công, suýt mất đời con gái thì bất thần con chó mực xuất hiện, nó lao vào cắn Châu để lôi ra. Trong lúc dằn co thì Châu trượt chân, sắp ngã ra ngoài lan can của lầu thượng, Hạnh cũng chới với ngã theo! Lão Hai nhào tới chụp lại, nhưng chỉ chụp được Châu, còn Hạnh thì rơi từ trên cao đó xuống đất, chết liền tại chỗ!
Bà ngừng kể, khóc sướt mướt như chuyện ấy vừa mới xảy ra. Hồi lâu sau mới tiếp lời được:
- Tội nghiệp con chó mực, thấy chủ bị như vậy nó lao từ trên cao xuống theo, và cũng mạng vong theo Hạnh. Hai Bình không ngờ sự thể tồi tệ như vậy nên chỉ biết ôm đầu rên rỉ. Trong lúc Châu thì hoảng sợ, tỉnh cả rượu. Cậu ta bỏ trốn khỏi nhà ngay sau đó. Và đó cũng là nguyên do khiến về sau này Châu không bao giờ dám ở trong nhà này lâu. Việc Châu khiến cậu về đây hình như là có ý muốn nhờ cậu khám phá chuyện bí ẩn trong dòng họ nhà mình. Và cậu đã làm được điều ấy.
Thuận vẫn chưa hiểu:
- Cháu đâu làm gì?
- Có! Chuyện cậu chôn cái sọ trở xuống huyệt và việc cậu khám phá những trang viết, những bức ảnh trong phòng đã giúp giảm nỗi nghi ngờ từ lâu. Chính hành động đó của cậu đã khiến vong hồn tôi bấy lâu bị giam kín ở đáy mộ, được trở về đây hôm nay và có dịp nói lên hết sự thật!
Thuận ngỡ ngàng:
- Thì ra là như vậy...
Anh hơi ái ngại đưa mắt nhìn người đàn bà. Hiểu ý, bà ta nhẹ giọng nói:
- Có những oan hồn chỉ hiện ra để làm việc minh oan như tôi. Chứ không phải hồn ma nào cũng dữ, cũng ác. Mẹ con tôi xin cám ơn cậu nhiều và từ nay mong cậu hãy ở lại đây cùng chúng tôi.
Thuận hơi yên tâm, anh nói thật lòng:
- Xin phép bà, tôi chỉ ở lại một thời gian ngắn giúp cho Châu thôi. Nơi này không thuộc về tôi.
- Không, bây giờ nó đã thuộc về cậu rồi. Tôi và Hạnh nguyện sẽ ủng hộ cậu, giúp cậu định cư an lành chốn này. Không phải cậu cần một nơi để làm chỗ đón tiếp bạn bè, các nhà khoa học chuyên về khảo cổ sao? Nhất là cậu sắp phải đón cô người yêu thích phong cảnh thiên nhiên trở về từ nước ngoài sao? Cô ấy đang muốn cậu cưới ngay và tìm một chỗ ở yên tĩnh như thế này, đúng không?
Thuận quá đỗi ngạc nhiên:
- Sao bà biết?
Bà ta cười hiền hòa:
- Người cõi âm biết được nhiều chuyện trước người sống mà. Cậu tin lời tôi đi, nội nhật ngày hôm nay cô Ái Vân đó sẽ tìm tới tận đây cho coi!
Nói tới đó đột nhiên bà ta biến mất. Cả con chó cũng không còn...
***
Việc ngoài dự kiến của Thuận. Quả đúng như lời người đàn bà nói, chiều hôm đó Ái Vân xuất hiện khiến Thuận kinh ngạc! Cô giải thích chuyện mình tới được chốn này:
- Liên tiếp mấy đêm qua em đều mơ thấy một người con gái trẻ, rồi một phụ nữ lớn tuổi báo cho biết em phải tới ngay ngôi nhà này, kẻo chậm chân thì có nguy cơ sẽ mất anh! Lúc đầu em không tin, cho rằng chỉ là mộng mị, nhưng sáng qua, lúc em đang ngủ thì có người gõ cửa phòng, em ra mở cửa thì chẳng thấy ai, chỉ nhận được một mảnh giấy ghi rõ địa chỉ ngôi nhà này cùng lời ghi vắn tắt: Hồn ma không biết nói dối. Nếu cô không tới thì người con gái tên Hạnh sẽ về sống với Thuận như cuộc tình âm dương! Nghe và hoảng quá nên em lên máy bay về nước liền. Từ phi trường em đi thẳng lên đây!
Thuận ngồi thừ người ra, khiến Ái Vân phải sốt ruột:
- Có chuyện anh sẽ... lấy cô Hạnh nào đó không? Cô ta là ai vậy?
Thuận phải kể lại đầu đuôi câu chuyện dài cho Vân nghe và cuối cùng đề nghị:
- Anh với em ra mộ cô ấy thắp nén hương. Cô ta là một oan hồn tốt, một con người đáng kính trọng.
Tuy ngại, nhưng nghe theo Thuận, Ái Vân theo ra sau vườn. Chính Thuận phải ngạc nhiên khi thấy con chó mực đang nằm phục trước mộ, nó đưa mắt nhìn hai người khách. Thuận sợ, nên đứng áng ngang trước Ái Vân, vừa chấp tay vái:
- Xin bác và cô Hạnh chứng giám cho chúng tôi. Ái Vân tới đây theo sự cho phép của bác và chúng cháu...
Con chó mực đột nhiên phóng về phía sau ngôi mộ và biến mất trước sự ngạc nhiên của hai người. Thuận giải thích:
- Nó là con vật trung thành với chủ, nó chết theo và bây giờ là vật bảo vệ họ.
Chỉ một lúc sau bỗng con chó trở lại. Nó ngậm một chùm hoa thật đẹp, đặt ngay trước mặt Thuận và Ái Vân.
Trong lúc Ái Vân chưa hiểu gì thì Thuận reo lên:
- Nó tặng hoa cưới cho chúng ta!
Lời của Thuận vừa dứt thì con chó cũng nhảy vụt đi và biến mất bóng! Thuận nói một mình:
- Cám ơn cô Hạnh.
Ái Vân cũng nói theo:
- Mong cô giúp chúng tôi. Chúng tôi nguyện sẽ là những người nhang khói mãi mãi cho các vị.
Thuận và Ái Vân chia hai bó hoa, đặt trước hai ngôi mộ và khấn:
- Đây là lòng thành của chúng cháu. Xin bác và cô Hạnh hãy nhận.
Nắng chiều sắp tắt, đột nhiên mặt trời nhô ra từ đám mây và le lói ánh thái dương chiếu xuống. Ái Vân buột miệng khen:
- Trời hoàng hôn đẹp quá!
Họ vái thêm mấy lạy nữa rồi nắm tay nhau song bước vào nhà...
***
Họ sống trong ngôi nhà mà tưởng chừng như là cơn ác mộng, nay trở nên yên ắng, bình an. Thuận dọn khỏi căn phòng đang ở, chuyển xuống bên dưới nhà. Còn căn phòng đó anh cho đặt một tủ thờ, lấy ảnh của Hạnh cùng một bức ảnh khá cũ anh tìm được trong đống khung ảnh cũ mà anh cho là ảnh của mẹ Hạnh. Đặt hai ảnh lên tủ thờ và ngày ngày nhang khói.
Không hề có bất cứ hiện tượng ma quái nào xảy ra kể từ sau đó...


THỦY TÁNG


Trận mưa dữ dội kéo sang ngày thứ ba mà vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt. Nước trên cánh đồng cỏ năng đã tràn như mặt biển mênh mông. Từ chỗ neo xuồng, Tứ đưa mắt nhìn ra chẳng khác nào đang lênh đênh giữa đại dương ngàn trùng...
Ôm xác người vợ trẻ chết từ nửa đêm hôm qua mà lòng Tứ nát như tương. Anh đã khóc cạn nước mắt và van vái cho trời ngừng mưa, để anh còn có thể kéo chiếc xuồng bể nát, không còn khả năng chèo chống, hầu đưa xác vợ vào nơi nào đó khô ráo để an táng. Vậy mà ước nguyện đó tới giờ này Tứ vẫn chưa thể thực hiện được. Mà xem ra khó mà làm theo ý, bởi nước càng lúc càng dâng cao, từng cơn sóng cao hơn nửa thước cứ đánh ập tới theo cơn gió rít từng hồi.
Tứ đâu lạ gì mùa nước lũ vùng Đồng Tháp Mười này, nhưng đây là lần đầu tiên anh kẹt giữa muôn trùng biển nước, mà lại trong hoàn cảnh ngặt nghèo này. Kim Lệ, cô vợ vừa cưới chưa được một năm của anh nhè giữa trời mưa lũ lại lâm bạo bệnh và chết chỉ sau nửa giờ vật lộn với cơn đau lạ. Kẹt giữa biển nước, trong lúc chiếc xuồng ba lá của anh lại vướng phải cọc bể mũi, không thể chèo chống được, và Tứ chỉ còn biết neo lại gốc cây gáo nằm trơ trọi giữa đồng mà chịu trận.
Lạy trời cho mưa ngừng lại, cho có ai đó đi qua đây. Tứ đã van vái cả trăm lần mà vẫn chưa có hiệu quả gì. Mưa vẫn nặng hạt, bóng dáng các xuồng ghe khác thì hầu như không thể có, bởi chẳng ai dám đi giữa biển nước như thế này, nếu không muốn vong mạng.
- Đành thôi!
Tuy nhiên, khi nhìn lại xác vợ đã bắt đầu tái nhợt, lòng Tứ lại nhói đau. Nàng đã vong mạng rồi mà còn phải chịu đựng nằm trơ ra như thế này đến bao giờ nữa? Đã nghĩ tới cách táng bằng cột xác treo lên cháng ba cây, đợi khi nước rút thì đem xuống mai táng lại. Nhưng ngặt nỗi chung quanh Tứ bây giờ một sợi dây cũng không có, chỉ có chiếc mền duy nhất thì làm sao thực hiện được việc treo xác vợ lên cây.
Nghĩ nát óc, cuối cùng Tứ đành phải ôm chặt vợ vào lòng, khóc rống lên cho nỗi thống khổ vơi bớt và cũng để có sức mà chống chọi lại với cái lạnh đã bắt đầu thấm vào thịt da chàng trai cường tráng như Tứ. Lần đầu tiên sau ba ngày đêm chịu trận, Tứ mới cảm thấy lạnh và kiệt sức. Trong một thoáng bi quan, Tứ lẩm bẩm:
- Thôi thì đành chết theo cô ấy cho xong.
Anh dụi đầu vào xác vợ, lịm đi...
***
- Nè, cậu kia, người đã bớt sốt rồi, tỉnh chưa?
Tứ nghe văng vẳng ai gọi mình mà không tài nào mở mắt ra được. Tiếng gọi kia lặp lại:
- Cậu kia...!
Lần này thì Tứ choàng tỉnh. Anh vừa mở mắt ra đã thảng thốt kêu lên:
- Kim Lệ!
Tứ không thấy xác vợ bên cạnh nên hốt hoảng. Chợt nhìn thấy người đàn ông lạ đang chăm chú nhìn mình, Tứ hỏi liền:
- Vợ tôi đâu?
Người đàn ông lớn tuổi, mình trần, đầu tóc dài, da sạm nắng, nhẹ lắc đầu:
- Tôi tới đây chỉ còn kịp nhìn thấy cậu đang chới với giữa sóng nước, còn chiếc xuồng thì lật úp, tôi kéo cậu được thì một cơn gió lớn ập tới, mọi thứ chẳng còn lại gì!
Tứ gào lên:
- Trời ơi, vợ tôi!
Anh bất kể sức mình đang yếu, đã nhào đại xuống nước, quơ tay mò tìm xác vợ. Ông lão quát lớn:
- Cậu muốn chết phải không!
Vừa nói, ông vừa phóng theo và bằng một động tác thành thạo, đã chụp được tay Tứ, xốc anh từ phía sau, kéo trở lại cây gáo to, nơi mà mấy ngày rồi Tứ đã bám víu. Tứ vẫn vùng vẫy và gào to hơn:
- Mình ơi! Lệ ơi!
Ông già trấn an:
- Dẫu sao thì cô ấy cũng đã mất tích rồi. Nước lũ mênh mông như thế này thì làm sao mà kiếm tìm cho được lúc này. Chỉ cầu trời cho cô ấy bám víu được vật gì đó để sống sót...
Tứ gào lên thê lương hơn:
- Cô ấy đã chết rồi, còn bám víu nơi đâu nữa mà bám, trời ơi!
Ông già im bặt, đưa mắt nhìn Tứ, rồi nhẹ lắc đầu:
- Thì ra là vậy...
Một lúc nữa, khi thấy Tứ im lặng, ông lại tiếp:
- Mùa lũ này mà gặp cảnh như cậu thì ai cũng chịu bó tay thôi. Cầu trời cho xác cô ấy trôi tấp vào đâu đó, rồi một là có người chôn giúp, còn không thì đợi trời êm một chút, tôi sẽ giúp cậu đi tìm. Tôi rành vùng này lắm, phía dưới gió kia là cánh đồng tràm dày đặc, mọi thứ đều có thể bị vướng lại khi trôi dạt vào đó.
Tứ reo lên:
- Đúng vậy phải không? Nơi đó có xa không chú?
Ông già gật đầu:
- Chừng năm cây số thôi, nhưng do nước tràn đồng nên giờ đây ta không nhìn thấy gì. Đợi mưa tạnh bớt đã...
Lúc này ông già mới hỏi kỹ và Tứ thuật lại mọi chuyện. Nghe xong ông nói:
- Cư dân sống trong vùng này vẫn thường gặp cảnh như cậu, và người ta có một cách để mai táng người chứ không chỉ riêng treo xác trên cây đâu. Cậu đã nghe nói cách đào huyệt ngay khi nước ngập quá đầu chưa?
Tứ lắc đầu:
- Dạ chưa.
- Đó gọi là thủy táng. Tức chôn trong nước, chôn giữa khi nước còn tràn đồng.
Rồi ông giải thích cặn kẽ hơn:
- Cách không táng, tức treo xác trên cành cây chờ nước rút sẽ chôn lại thì tuy có khô ráo, tiện lợi, nhưng đâu phải người nào cũng có điều kiện để làm, vì nó đòi hỏi phải có ván làm quan tài cho kỹ, rồi phải biết cách và có dây cột chặt, để treo, để giữ cho quan tài không rớt, không bốc mùi hôi. Đó là chưa nói lũ quạ diều quái quỷ xứ này, chúng hung hăng, dữ dằn, có thể cả ngàn con bâu tới mổ thủng ván quan tài để moi xác chết! Cho nên người ta nghĩ tới và chọn cách thủy táng nhiều hơn.
- Nhưng nước ngập quá đầu thế này làm sao đào huyệt mà chôn?
- Vậy mà có cách!
Ông già còn kể vài cách nữa, như bó xác trong lá chuối, bẹ chuối ràng buộc thật chặt, giống như người gói bánh tét rồi thả trôi theo xuồng, kéo về chỗ đất liền...
Nghe đến đâu Tứ đau lòng đến đó, bởi nếu biết trước thì anh có thể làm theo và chắc chắn là không để mất xác vợ như thế này.
Trời tối dần. Lúc này ông già mới kể chuyện mình:
- Tôi đi lấy củi bên Mộc Hóa rồi gặp mưa bão, chiếc ghe chở củi hơn 5 tấn đã bị gió thổi bạt vào rừng vỡ ra từng mảnh. Tôi bơi lội giỏi, nhưng cũng chịu được có nửa ngày rồi may bám được một cây chuối, và mặc cho nó trôi. Hơn một ngày đêm như vậy, cho đến khi vô tình tấp vô đây, vừa lúc tôi thấy cậu đang chới với sắp chìm, tôi kéo được cậu và cây chuối cũng vướng lại, và... tôi chịu chung số phận với cậu như giờ đây.
Nhờ có kinh nghiệm nên ông ta bày cho Tứ cách bám thân cây, mỗi người một cháng ba, đu ngang như cách mấy con khỉ, vượn ngủ trên cành. Ông dặn:
- Mình không thể thức mãi khi còn kẹt lại đây, nhưng phải biết cách quàng tay thế nào để lỡ có ngủ quên thì không bị ngã xuống nước. Cậu biết rồi đó, với nước chảy cuồn cuộn thế này, chỉ cần rơi xuống thì vài chục giây sau mình đã bị đẩy đi cả trăm, cả ngàn thước rồi!
Tứ đâu còn thiết gì sự sống lúc này, nhưng sợ nói ra sẽ bị ông già chê trách, nên anh chỉ im lặng và ứa nước mắt khi nhớ tới cô vợ trẻ mình giờ đây thân xác đang bập bềnh trên sóng nước, chẳng biết trôi về đâu?
- Cậu lại khóc đó sao? Chuyện đã lỡ rồi, phải bình tĩnh để còn nghĩ cách đi tìm xác vợ nữa chứ! Nhắm mắt lại ngủ một giấc đi, để tôi thức canh cho. Ngoài ra tôi còn đang nghĩ cách để bắt con chuột, con rắn gì đó ăn cầm hơi. Cậu biết làm sao mình bắt mấy con đó không.
Dẫu đang nẫu ruột, nhưng nghe ông ta hỏi vậy, Tứ cũng tò mò:
- Không còn chỗ nào thì làm sao bắt được chúng?
- Vậy mà có đó. Cậu đừng động đậy, tôi sẽ bắt con rắn đang ở ngay sau lưng cậu cho coi!
Ông ta vừa dứt lời thì cánh tay đã vươn nhanh về phía cành cây sau đầu của Tứ, vừa reo lên:
- Có thứ để cầm hơi rồi!
Ông ta nắm trong tay một con rắn to bằng ngón chân cái nó đang ra sức vùng vẫy để thoát thân, nhưng do bị chộp ngang cổ nên sau một lúc cựa quậy đã phải nằm yên. Ông già bảo:
- Đây là rắn hổ đất, để nó cắn thì chỉ vài phút sau là vong mạng liền! Cũng may, con này nó lên cây trước ta và cũng đang mất cảnh giác, chứ nếu không thì lúc nãy cậu đã bị nó mổ rồi! Bây giờ cậu há miệng ra, hút ít máu của nó, rồi sau đó tôi lấy mật, đầu lòng của nó ra chia nhau mà ăn. Còn thịt thì ăn sau. Nó sẽ giúp ta qua cơn đói đêm nay. Chắc là cậu đói lắm rồi!
Đúng là Tứ đã đói quá, bởi mấy hôm rồi anh có ăn uống gì đâu, nhưng nghe ông ta nói cách ăn thịt rắn như thế tự dưng Tứ muốn lợm giọng, anh lắc đầu:
- Cháu không ăn được.
Ông già cười ngất:
- Không được cũng ráng mà ăn! Lúc này có bất cứ cái gì bỏ vào bụng đều tốt cả. Nào, há miệng ra!
Bằng động tác thuần thục. Ông ta dùng móng tay bấm ngang đuôi con rắn, phần đuôi gần đứt lìa ra, máu từ trong đó vọt ra. Và nhanh ngoài sức tưởng tượng của Tứ, ông cho ngay tia máu đó vào miệng đang há to ra vì ngạc nhiên của Tứ, anh chàng bị tia máu bắn vào và nuốt ực một cái!
Hớp đầu tiên Tứ muốn nôn ra ngay, nhưng liền đó thì như có ai bơm vào, anh nuốt gần không kịp!
- Xong rồi đó, phần tim gan, mật của nó để tôi!
Ông ta dùng tay moi mấy thứ đó ra và cho vào miệng nuốt một cách ngon lành mà không cần nhai!
Tứ cảm giác như huyết quản mình cuộn lên bởi có thêm máu rắn, trong vài giây, anh suýt nôn ra, nhưng ngay lập tức cảm giác ấy chấm dứt, cùng lúc anh thiếp đi...
***
Cũng không biết là bao lâu...
Khi Tứ bừng tỉnh lại thì thấy ở chân trời phía xa một màu hồng lóe lên. Cùng lúc là tiếng kêu của ông già:
- Hết mưa rồi!
Tuy là hết mưa, nhưng nước vẫn còn chảy cuồn cuộn, gió vẫn mạnh, tạo ra những đợt sóng cao vỗ vào gốc cây chỗ Tứ và ông già đang bám, khiến thân cây rung lên từng hồi. Tứ chống tay vừa định ngồi dậy trên cháng ba cây thì ông già đưa tay lên miệng, ra dấu cho anh không được cử động. Đoán là có một con rắn nữa, nên Tứ trân người không dám nhúc nhích. Ông già lại một lần nữa vươn tay ra, và... có tiếng kêu chí chóe. Ông ta cười khoái chí:
- Lão tý này nộp mạng hơi muộn đây!
Một con chuột cống nhum thật to, có lẽ đã bò lên cây trong lúc hai người ngủ say. Ông già thích thú:
- Con rắn mình phơi khô chưa ăn tới thì lại có thêm lương thực dự trữ nữa, lo gì đói!
Có lẽ do mải nói nên ông ta hơi lơi tay, con chuột thật nhanh, nó vùng thoát và nhảy ngay xuống nước! Tứ kêu lên:
- Nó chạy mất rồi!
Cũng vừa khi ấy, bỗng mắt Tứ dán chặt vào một vật gì đó khá lớn đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước, bị vướng vào gốc cây gáo.
- Xác người!
Ông già cũng đã nhìn thấy, ông bảo:
- Một phụ nữ!
Tứ như mũi tên, lao ngược từ trên xuống, nhanh đến nỗi ông già không kịp có phản ứng gì. Tiếng reo như bắt được vàng của Tứ:
- Vợ tôi!
Bất kể hiểm nguy, Tứ nhảy ngay xuống nước và ôm chặt lấy cái xác đang lềnh bềnh kia. Đúng là Kim Lệ!
- Trời còn thương con mà!
Từ trên cây, ông già nhanh nhảu tuột xuống và bảo:
- Cậu giữ một tay, còn tay kia thì bám vào thân cây kẻo sóng vỗ bung ra ngoài bây giờ!
Nhờ được nhắc nên Tứ giữ được xác vợ, đồng thời cũng không bị dòng nước cuốn đi. Nhưng anh vẫn lo:
- Làm sao đem xác vợ cháu lên cây hả chú?
- Cậu cố giữ lấy đi, để tôi bẻ mấy cành cây dài, mình cắm xuống đất để giữ xác lại.
Ông già rất nhanh, leo lên ngọn cây và kéo mạnh mấy cái, lần lượt bốn cành cây dài trên hai thước được bẻ gãy.
Nhờ trời tạnh mưa, nên ông già thực hiện cắm bốn nhánh cây xuống nước, rào một vòng quanh gốc cây gáo được dễ dàng. Rồi ông giục Tứ:
- Cậu phải dứt khoát không được chần chừ, phải nghĩ việc giữ được xác cô ấy ở lại đây là chính, chớ đừng ngại việc cô ấy có bị ngâm nước hay không. Cậu chấp nhận thủy táng?
Tìm lại được xác vợ là niềm vui mừng lớn đối với Tứ, nên anh chịu liền:
- Sao cũng được!
Ông già hình như đã quen với việc chôn người trong hoàn cảnh như vậy, nên ông vừa lặn xuống cắm cọc vừa luôn miệng nói:
- Tấm lòng của cậu đã đánh động cõi âm phủ, nên mới khiến xác cô nhà quay trở lại đây. Một việc mà hầu như là không tưởng!
Sau khi cắm được bốn cành cây tạm thời giữ cái xác không để sóng cuốn đi, ông già vừa đeo vào gốc cây vừa khấn:
- Linh hồn cô... Kim Lệ sống khôn thác thiêng, phù hộ cho tôi và anh bạn này đây mai táng cho cô tại gốc cây này. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo này, thì xin cô hãy vui lòng chấp nhận ở tạm dưới nước. Đợi đến khi nước rút thì cậu ấy sẽ đưa cô lên, cải táng đến một nơi đàng hoàng hơn.
Tứ cũng khấn:
- Nếu thương anh thì em hãy ráng chịu lạnh, Lệ ơi! Nếu cần thì anh cũng ở lại đây mãi mãi với em...
Ông già nghiêm giọng:
- Giờ phút này cậu không được bi quan, nói càn. Cứ chôn xác cho cô ấy đã.
Cuộc thủy táng diễn ra suôn sẻ. Nhờ có kinh nghiệm, nên chỉ sau một giờ, ông già đã giúp Tứ đào được ngay dưới gốc cây gáo một hố huyệt khá sâu, ước chừng đã vừa cái xác ông bảo Tứ:
- Cậu vái lần nữa, xin cô ấy giúp cho mình chôn được dễ dàng đi!
Tứ với hai hàng nước mắt ôm xác vợ mếu máo:
- Xin em cho anh được gửi em lại đây! Mong em hãy...
Lời Tứ nói chưa dứt thì thật bất ngờ, cái xác như bị ai kéo ghì xuống, nó chìm từ từ... Tứ hốt hoảng:
- Chú Hai ơi!
Ông già giục:
- Cậu giữ cái đầu cô ấy, tôi giữ hai chân!
Cái xác chìm nhẹ nhàng xuống và thật kỳ diệu, nhắm đúng cái lỗ huyệt mới đào dưới nước và... nằm gọn trong đó! Ông già làm các động tác thật nhanh, chỉ một lúc sau thì những đất bùn được đào lên đã lấp trở lại. Đồng thời, ông dùng bốn cành cây to kia, hợp với Tứ cắm chéo góc, gài trên phần mộ, không cho xác trôi lên. Công việc không dễ, nhưng cuối cùng họ cũng làm được. Công việc vừa xong thì mặt trời đã lên ngay đỉnh đầu. Ông già bảo:
- Bây giờ cậu có thể nghỉ ngơi, và đợi xem nếu có vật gì trôi ngang đây mình có thể bám vào và rời đi được rồi. Tôi đã làm dấu thân cây gáo này, đợi khi nước rút mình trở lại tìm cũng không khó.
Tứ cương quyết:
- Cháu sẽ ở lại đây.
Ông già biết có nói thêm gì thì cũng khó lòng thuyết phục được anh ta, nên chỉ khẽ lắc đầu rồi im lặng. Trên khóe mắt ông, hai hàng lệ lần đầu tiên tuôn chảy...
Phải hơn một tháng sau thì nước mới rút hết. Hai tuần trước khi nước rút thì Tứ lại ngã bệnh, sốt cao, suýt chết ngay trên cháng ba cây gáo, nếu không có ông già Hai thì Tứ đã không còn. Số là trước đó hơn một tuần, vào một đêm tối trời, chẳng hiểu sao khi đang cùng nằm ngủ với Tứ trên cây, lão già Hai bỗng bị rơi xuống nước và mất tích! Điều này cũng hơi lạ, bởi ông già là dân thiện nghệ, đâu dễ bị một tai nạn như thế.
Sau cú sốc đó, nếu là người khác thì Tứ đã bỏ cuộc, không còn bám lại thân cây để chịu trận nữa, tuy nhiên chẳng hiểu nhờ sức mạnh vô hình nào thúc đẩy, anh chàng vẫn tiếp tục tồn tại, với chỉ hai thức ăn lặp đi lặp lại khá quen thuộc đó là những con rắn và chuột. Nhờ bắt chước được ông già Hai nên chuyện bắt rắn độc đối với Tứ trở nên quá dễ dàng. Mà những con vật này cũng lạ, cứ cách một đêm thì một con lại bò lên cây và... chờ được Tứ hóa kiếp! Có thể nói, việc ăn thịt sống của Tứ đã thành bình thường, mà nếu không có nó thì anh đã theo vợ từ mấy tuần qua rồi!
Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người cũng có giới hạn, mà với Tứ thì bấy nhiêu thời gian ấy đã là quá nhiều. Hai tuần sau khi nước bắt đầu rút thì vào một đêm, Tứ hôn mê do cơn sốt dữ.
Khi tỉnh lại thì Tứ thấy mình nằm ở một trạm xá, chung quanh toàn những người lạ. Hỏi ra thì một người nằm gần giường cho Tứ biết rằng anh được một cô gái đưa vào đây trong tình trạng hầu như không còn sự sống. Cơ thể suy nhược, người nóng sốt cao độ và hôn mê sâu. Người ta đã tính chuyển anh lên bệnh viện tuyến trên, nhưng chẳng hiểu sao, khi cô gái kia cho anh uống một thứ nước nấu từ củ mài thì bỗng nhiên Tứ tỉnh lại.
Tứ quá đỗi ngạc nhiên, hỏi thăm cô gái:
- Cô ấy đâu rồi?
Người nằm cạnh giường Tứ bảo:
- Sáng sớm nay còn thấy cô ấy ở đây. Nhưng hồi nãy, trước khi cậu tỉnh lại thì cô ấy ôm mấy bộ quần áo rồi bước ra ngoài, mất biệt luôn. Chắc là về nhà rồi. Đó là vợ cậu hay ai mà tận tình quá, ở đây suốt. Nếu không có cô ta thì cậu khó lòng qua khỏi!
Tứ bận tâm tìm hiểu xem cô gái ấy là ai thì ít, mà đầu óc mãi quay cuồng nhớ lại coi cây gáo giữa đồng mà anh đã bám suốt tháng trời kia là ở đâu?
- Đồng Tháp Mười có bao nhiêu cây gáo?
Tứ hỏi một bệnh nhân gần bên thì được anh ta cười, lắc đầu:
- Ông nội tôi nhớ cũng không hết nữa! Tháp Mười là rừng tràm, nhưng chen lẫn là các loại cây khác như gáo, dừa cũng không phải ít. Biết đâu mà nói!
Tứ lẩm bẩm:
- Ông già Hai có làm dấu, chắc là kiếm được...
- Nhưng lỡ cây bị trốc gốc, nước cuốn đi mất thì sao?
Câu nói bất ngờ của ai đó khiến Tứ giật mình quay lại, và anh mừng rú lên:
- Kìa, chú Hai!
Ông già Hai xuất hiện thật đột ngột, và còn lạ hơn khi đi theo sau ông là một cô gái, mà vừa nhìn thấy cô, anh chàng bệnh nhân giường bên cạnh đã reo lên:
- Cô này đó!
Cô gái không lộ chút gì là quen biết những người trong phòng bệnh, mà trái lại, cô còn đứng nép sau lưng ông già với sự e ấp... Ông già Hai phải lên tiếng giải thích:
- Đây là đứa cháu tôi, chính nó đã đưa tôi tới đây và gặp cậu.
Anh bệnh nhân bên cạnh ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, cô này ở đây mấy hôm nay mà?
Ông già Hai nhìn đứa cháu gái của mình rồi nói:
- Có thể quý vị đã nhìn lầm. Người ở đây mấy hôm nay là đứa em song sinh của nó. Chúng là cháu gọi tôi bằng ông ngoại.
Rồi ông quay sang Tứ, kể:
- Tôi phải bỏ đi trong khi nước chưa rút là để định hướng chính xác cây gáo đó. Bởi khi nước rút rồi thì từ bờ kinh vào đó rất xa, lại khó lòng tìm được. Chị em Mai Linh, Mai Lý này là người đi tìm chỗ của cậu, bởi khi ấy tôi bị trọng bệnh không đi được. Chính nhờ nó mà cậu mới được cứu thoát. Nó ở đây nuôi cậu theo ý của tôi đó. Bây giờ tới phiên con em. Mai Lý, nó sẽ ở lại đây cho đến lúc cậu khỏe, có thể đi được thì sẽ cùng với nó trở lại chỗ chôn xác vợ cậu. Cứ yên tâm mà dưỡng bệnh đi, sắp gặp lại vợ rồi!
Lời nói của ông già Hai khiến Tứ mừng khôn xiết, anh hỏi dồn:
- Ngay chiều nay đi được không chú Hai?
Ông già lắc đầu:
- Nước mới rút, đồng ruộng còn bùn sình nhiều, xuồng ghe đi không được, mà lội bộ thì cũng không xong. Phải đợi vài tuần nữa. Vả lại, lúc này cậu còn quá yếu mà đi cái nỗi gì!
Ông dặn cô cháu gái:
- Mỗi ngày ba lần, con mang cơm vào cho cậu Tứ đây. Hỏi không được thì ra dấu, hỏi coi cậu ấy thích món gì, cần dặn điều gì, nhớ làm theo cho đúng nghe chưa!
Rồi ông giải thích:
- Con nhỏ bị câm điếc bẩm sinh, nhưng được cái là rất nhạy, chỉ cần ra dấu là nó hiểu mình muốn nói gì. Nó tên là Mai Lý.
Ông già còn bày ra vô số thức ăn và vài món đồ dùng cá nhân dành cho Tứ, ông bảo:
- Biết cậu thiếu thốn mấy thứ này, nên tôi đem vào. Cậu nhớ cái này không?
Ông đưa cho Tứ cây lược sừng mà vừa nhìn là Tứ đã kêu lên:
- Của vợ cháu!
- Tôi đoán là vậy, bởi hôm rồi trên đường trở lại tìm cậu, tình cờ tôi gặp một chiếc xuồng ba lá vỡ đôi nằm trên một gò đất cao, trong xuồng không có vật gì quý, chỉ có cây lược này nằm kẹt dưới khoang xuồng, bên cạnh còn có một cái quần xà lỏn màu nâu, có vá một miếng vải sọc mà vừa nhìn cách vá và màu vải, tôi nghĩ ngay tới cậu. Bởi cậu cũng có một cái quần vá y kiểu đó. Đúng không?
Tứ gật đầu:
- Dạ, chính vợ cháu đã vá hai cái quần đó bằng vải vạt áo của cô ấy. Vừa vá xong lúc trên xuồng, trước lúc cô ấy chết chỉ nửa buổi!
- Tội nghiệp...
Ông già buông tiếng thở dài rồi quay đi chỗ khác như tránh không cho Tứ thấy hai giọt nước mắt của mình.
Những người bệnh cùng phòng sau khi biết chuyện đã không ngớt lời ca ngợi lòng tốt của ông già Hai. Họ bảo rằng giữa thời buổi này khó mà kiếm được một người có lương tâm như ông ta.
Tuy nhiên, cũng có người xầm xì:
- Biết đâu được. Lão ta có đến hai cô cháu gái chưa chồng, một cô lại tật nguyền, nay thấy chàng trai chết vợ như Tứ thì chắc là có ý muốn kiếm cháu rể đây!
Tuy nói vậy, nhưng trong mấy ngày sau đó, ai cũng phải công nhận rằng cô gái câm cháu ngoại ông già Hai là một người siêng năng, tính tình ôn hòa và rất tử tế. Cô nàng làm đúng những gì ông dặn, ngày ba lần đưa cơm vào bệnh viện rồi thì đi về, ai hỏi gì cũng không quan tâm. Chính Tứ cũng ngạc nhiên và áy náy. Anh ngỏ ý qua ra dấu rằng muốn gặp ông già Hai, thì cô ta chỉ xua tay từ chối.
Cho đến một buổi sáng, khi ấy có một người lạ xách cặp lồng cơm đưa vào cho Tứ và nói:
- Cô Mai Lý đưa cơm thường ngày vừa bị nạn, cô ấy bước từ dưới xuồng lên chẳng may hụt chân, ngã xuống và va đầu vào cọc nhọn, máu chảy ra nhiều và chìm lỉm luôn, mọi người ra sức mò tìm mà chưa được! Tôi là người đi chung xuồng với cô ấy từ trong kinh ra, nên biết cô đưa cơm vào cho bệnh nhân, tôi đem tới giùm.
Nói xong người ấy đi mất, khiến cho Tứ hốt hoảng, nhảy đại xuống giường và chạy bay đi ra bến chợ. Tuy nhiên, gần nửa buổi sau đó, Tứ đã hỏi khắp khu vực đó về tai nạn như người nọ đã nói thì chẳng một ai biết. Họ còn ngạc nhiên hỏi lại:
- Sao anh không bảo người báo tin dẫn ra đây chỉ coi tai nạn ở chỗ nào?
Vừa lo lắng, vừa thất vọng, Tứ đành thất thểu quay về bệnh viện. Tới nơi, anh càng ngạc nhiên hơn khi nghe mấy người chung phòng kể lại:
- Cô gái câm mới vừa ở đây đi ra, có chết chóc gì đâu.
Tứ định chạy theo tìm, thì một người đưa cho anh gói giấy nhỏ và bảo:
- Cô ấy không nói được, nhưng qua cử chỉ tụi tôi biết cô ta muốn nhờ đưa cho anh cái này.
Tứ mở ra xem thì kinh ngạc:
- Bộ quần áo của vợ tôi!
Anh nhớ hôm xảy ra cái chết cho Kim Lệ thì cô đang mặc bộ đồ này, vậy sao bây giờ nó lại ở đây? Không hỏi thêm gì nữa, cầm bộ quần áo đó Tứ chạy bừa ra cửa. Vừa chạy anh vừa gọi to:
- Cô Mai Lý! Cô ở đâu?
Trở ra bến đò, còn đang ngơ ngác tìm thì chợt Tứ thấy một chiếc xuồng nhỏ đậu ở bên, trên xuồng có một người ngồi như chờ khách. Anh hỏi lớn:
- Xuồng này là xuồng chở khách phải không?
Người đội nón lá che kín khuôn mặt đáp vừa đủ cho Tứ nghe:
- Phải.
Tứ nhảy xuống xuồng và bảo:
- Làm ơn đưa tôi dọc theo sông này, đi mấy vòng bến chợ để tôi tìm người quen. Tôi sẽ trả tiền như một chuyến đi xa!
Người nọ lẳng lặng đẩy xuồng ra giữa dòng, lúc ấy mới cất tiếng nói:
- Không có tiền trong túi mà dám bao đò, kể cũng gan thật!
Tứ hơi giật mình. Đúng là trong túi anh lúc ấy chẳng có đồng xu dính túi. Mấy tháng bị nạn, rồi nằm bệnh viện đều nhờ người khác, Tứ làm gì có tiền!
- Tôi...
Người chèo đò bỗng cất tiếng cười giòn:
- Tôi sẽ chở anh đi miễn phí, miễn là anh trả lời tôi câu hỏi này. Bằng không tôi cho anh lội sông mà trở vô bờ.
Giọng cô ta không phải đùa. Tứ cũng nghiêm giọng:
- Tôi không quịt, chỉ vì không sẵn tiền thôi. Nhưng rồi tôi sẽ trả công đàng hoàng. Chị hỏi gì?
- Anh đi kiếm con gái hay tìm vợ?
Câu hỏi bất ngờ, nhưng trong lòng của Tứ đã định sẵn ý tứ rồi, anh đáp không do dự:
- Tìm vợ, nhưng âm dương cách trở biết làm sao tìm? Nhưng tìm người lấy cắp mấy thứ của vợ thì đúng là tôi đang đi tìm họ!
Câu trả lời của Tứ quả là khó hiểu với người lạ, nhưng chẳng ngờ người chèo đò lại hiểu:
- Nói đúng, không dối trá. Vậy tôi tặng luôn cho chiếc xuồng, cứ đi thẳng phía trước mặt, thế nào cũng gặp!
Vừa dứt lời thì chợt như một làn khói vút lên, phút chốc Tứ không còn nhìn thấy nàng ta đâu...!
- Kìa, chị!
Chiếc xuồng không có người bơi nên quay tròn theo dòng nước. Tứ phải bước ra sau cầm cây dầm và điều khiển cho nó xuôi dòng. Vô tình anh đi đúng theo hướng người ấy chỉ. Nước xuôi nên chẳng mấy chốc, xuồng của Tứ đi khá xa xuống phía hạ lưu.
Nhìn thấy cái cồn lớn phía trước và con sông chia làm hai ngả, Tứ chưa biết phải rẽ về ngả nào, thì chợt có người từ bên kia cồn đưa tay ngoắt và gọi ơi ới. Ngỡ gọi ai, nhưng sau đó thấy họ cứ nhằm vào mình mà vẫy tay nên Tứ hỏi lớn:
- Hỏi tôi phải không?
Đúng là họ gọi anh, nên sau vài giây lưỡng lự, Tứ chèo xuồng hướng qua đó. Đến gần, anh mới nghe người phụ nữ lớn tuổi lên tiếng hỏi:
- Cậu đi tìm cô gái câm phải không?
Tứ giật mình:
- Tôi... đúng là tôi...
- Người ta đang đợi anh tới.
Nói xong, bà ta quay bước và mất hút sau đám lau sậy. Dẫu không muốn, nhưng chẳng hiểu sao Tứ vẫn cột xuồng lại rồi nhảy lên bờ, men theo con đường có lát đá thẳng tắp, đi lên một ngôi nhà ngói xưa khá lớn. Không thấy bóng người nào, Tứ khựng lại, nhưng từ trong đã có tiếng nói vọng ra:
- Muốn gặp vợ mà không vào đây thì làm sao gặp?
Tứ như đang mơ, anh không chút suy nghĩ, đã chạy rất nhanh vào nhà. Nhưng khi vừa bước lên bậc thềm anh đã phải khựng lại. Bởi trước mặt anh là một cỗ quan tài nằm án ngữ giữ nhà, nhưng có ai chung quanh!
Căng mắt nhìn khắp nơi, vẫn chẳng có bóng người, Tứ cất tiếng hỏi:
- Ai trong nhà vậy?
Không ai đáp, Tứ không dám bước tới, thì vừa lúc anh thấy một bóng người xuất hiện phía sau cỗ quan tài.
- Cô Mai Lý!
Đúng là cô gái câm Mai Lý. Cô ta chỉ nhìn thoáng qua rồi đi thẳng tới bên quan tài, và thật bất ngờ, đưa tay đẩy nắp quan tài sang một bên, Tứ nhìn vào và không khỏi rùng mình khi thấy trong đó hai bộ xương người nằm sóng đôi.
Tứ bước lùi một bước, chưa kịp hỏi thì đã nghe một giọng thật quen vang lên:
- Nếu còn thương vợ thì chọn đúng hài cốt của cô ấy. Chọn sai tức là cậu không còn duyên nợ với người ta nữa, mà điều đó cũng có nghĩa là bao nhiêu công sức của tôi cũng bỏ sông bỏ biển cả.
Tứ quay lại và kêu lên:
- Chú Hai!
Người vừa tới chính là ông già Hai. Ông ta bước tránh khỏi chỗ đó vừa giục:
- Cậu cứ chạm tay vào hài cốt nào thì số phận cậu nằm ở đó. Trong số hai hài cốt có một cái là vợ cậu.
Tứ ngơ ngác:
- Sao vợ tôi lại ở đây?
Ông già kéo ghế ngồi xuống gần đó, lạnh lùng nói tiếp:
- Lúc này cậu cần làm hơn là hỏi. Nhanh lên, kẻo không còn kịp nữa!
Tứ còn chần chừ thì đột nhiên như có ai đó xô từ sau, và... hai tay anh ngẫu nhiên chụp lên bộ xương người nằm bên trái.
- Trời ơi!
Tiếng kêu đó là của ông già Hai. Tứ linh tính như có điều gì đó, anh bật dậy thật nhanh, nhưng cũng không còn kịp nữa, khi anh quay lại nhìn thì ông già đã bật ngửa ra sau và... hộc máu, nằm bất động!
- Chú Hai!
Trước sự kinh ngạc của Tứ, thân xác ông già Hai từ từ tan biến và chỉ trong phút chốc, chỉ còn lại bộ xương.
Tứ còn chưa kịp phản ứng gì thì đã nghe có tiếng động từ sau lưng. Vừa quay lại thì cỗ quan tài chẳng còn thấy nữa, thay vào đó là chiếc xuồng ba lá bể làm đôi.
- Xuồng của mình...?
Nhìn kỹ lại thì đó chính là chiếc xuồng mà vợ chồng Tứ đã đi và gặp bão lũ. Trên xuồng vẫn còn nguyên cái túi mà trong đó có mấy bộ quần áo của Kim Lệ. Và dĩ nhiên, có cả bộ xương khô lúc nãy nữa!
- Chuyện gì thế này?
Mặc dù không tin đây là sự thật, nhưng trước những bằng chứng đó, Tứ cũng không thể nào bỏ qua, anh ngồi xuống vịn vào chiếc xuồng và mắt thì cứ nhìn chằm chằm vào bộ xương. Không còn ông già Hai thì lấy ai để anh hỏi rõ ngọn nguồn? Phải chăng chính ông đã đào hài cốt Kim Lệ đem về đây?
Bao nhiêu câu hỏi mà Tứ không làm sao giải được. Anh đành ngồi giữa ngôi nhà hoang đó với nỗi hoang mang...
Trời tối dần..
Chợt nhớ tới cô gái câm, Tứ tức tốc chạy ra nhà sau tìm và lại một phen ngẩn người ra khi nhìn thấy cỗ quan tài thứ hai đang nằm ở gian nhà sau!
Nãy giờ Tứ bình tĩnh bao nhiêu thì giờ đây anh cảm thấy run bấy nhiêu. Anh không sợ ma, nhưng lại nghĩ mình đang lọt vào một mưu đồ gì đó mà với sức mình Tứ không thể nào đương cự lại nổi. Anh nói như cố ý nói với ai đó chung quanh:
- Tôi chỉ có cái tội duy nhất là mất vợ, tôi thương vợ tôi nên đi tìm. Vậy nếu ai đó thương thì để cho tôi tìm được vợ, bằng không thì tôi xin chết tại đây cũng được, tôi xin chấp nhận!
Anh nói xong thì ngồi bệt xuống đất, nhắm nghiền mắt lại, chờ...
***
- Oan nghiệt! Đúng là oan nghiệt mà!
Giọng nói đó khiến cho Tứ giật mình mở mắt ra, và anh há hốc mồm:
- Bà ngoại!
Tứ tưởng mình còn trong mơ, anh lúng túng:
- Ngoại, sao ngoại...
Bà ngoại anh ôm chầm lấy cháu, mắt vẫn không rời khung cảnh trước mắt. Bà lặp lại lời nói:
- Đúng là oan nghiệt mà!
Tứ ngạc nhiên:
- Ngoại nói gì?
- Con biết đây là đâu không?
Rồi không đợi cháu trả lời, bà nói luôn:
- Đây chính là nhà chồng của má con, tức là nhà ông nội con đó!
Tứ ngơ ngác:
- Sao kỳ vậy ngoại? Từ nào đến giờ con nghe ngoại nói nhà nội con ở xa lắm mà...?
Bà Tám Trầu thở dài:
- Ngoại giấu con. Chỉ vì bên nội con đâu có nhận mẹ con và con đâu mà con cần biết.
Tứ chỉ những cỗ quan tài:
- Tại sao nhà này toàn là áo quan không vậy ngoại?
Bà không đáp, mà lên tiếng thay bà là một người lạ khác, chính là người phụ nữ đứng vẫy tay ra dấu cho Tứ lúc ở ngoài bờ sông. Bà ta bước ra từ nhà bếp, lại gần bên bà Tám Trầu, nhẹ giọng:
- Chị để tôi kể cho nó nghe.
Rồi bà quay sang Tứ:
- Ta là cô út của con. Chính ta mà ra cớ sự như thế này!
Bà nhìn bà Tám như chờ sự cảm thông, và bà được lời động viên:
- Cô cứ nói hết cho nó nghe đi.
Út Chanh vốn người xưa nay lắm mồm mép vậy mà giờ đây cô ta cũng tỏ ra ấp úng:
- Nhà này kể cả má con là năm. Ngày xưa đông vui nhất trong làng này. Nhưng chỉ có một đêm thôi thì mọi thứ ra nông nỗi này và chấm dứt hết!
Bà ta nói tới đó thì oà lên khóc ngất, khiến cho Tứ càng thêm khó hiểu:
- Con không hiểu gì hết!
Giọng bà ta trở nên thê lương khôn tả:
- Chỉ có những người nằm trong các quan tài này mới có thể hiểu thôi. Nhưng khi họ thành xác chết thì họ lại không nói gì, mặc dù ta đã van lơn họ, yêu cầu họ về nói cho ta biết ta phải làm sao...
Biết là cứ để bà ta tiếp tục nói kiểu đó thì Tứ thêm rối trí mà thôi, nên bà Tám Trầu chặn lời:
- Để ngoại nói. Đúng ra chuyện này ngoại hoàn toàn không biết. Cho mãi tới ngày hôm kia, má con về báo mộng, nói rõ đầu đuôi thì ngoại mới bàng hoàng! Thì ra từ gần mười năm nay, ngoại cứ ngỡ là má con đi buôn xa rồi chết mất tích khi băng xuồng qua sông cái, ngờ đâu lại chết ngay trong nhà này. Mà người gây ra những cái chết đó lại là người này, cô út của con!
Bà cô già của Tứ ngừng khóc, nhưng giọng thì vẫn còn run:
- Đầu tiên là ông bà nội con. Họ chết đột ngột sau khi ăn bữa cơm do má con nấu, với mấy món ăn má con mua được và muốn đãi cha mẹ chồng. Ta vốn ganh ghét má con kể từ ngày bà về làm dâu nhà này, không muốn chị ấy càng ngày càng được lòng cha mẹ ta, nên ta đã lén bỏ thêm vào thức ăn một thứ thuốc mà ông thầy bán cho ta bảo rằng chỉ có tác dụng làm cho đi tiêu chảy. Mục đích của ta là chỉ làm cho cha mẹ ta chửi chị dâu một trận cho bõ ghét! Nào ngờ do ta bỏ quá liều nên thuốc tiêu chảy trở thành thuốc độc. Cho nên sau một đêm, cả cha mẹ ta đều chết hết!
Bà ngừng lại một lúc rồi tiếp:
- Mặc cảm tội lỗi càng khiến cho ta thêm thù ghét má con, ta cho rằng má con vào nhà này chỉ toàn đem đến điều rủi, vận xui, nên thay vì hối hận, ta lại quay sang quyết tâm phải loại trừ luôn má con ra khỏi nhà này. Và rồi ngay sáng hôm đó, trong lúc cả nhà đang bận lo tang lễ, ta đã âm thầm bảo cặp rằn Hai chèo ghe đưa má con đi xuống kinh Thầy Cai ở Đồng Tháp Mười với nhiệm vụ thu lúa ruộng. Thật ra chuyện ấy có thể để sau đám tang làm cũng được, nhưng ta có ý đồ, nên giục thằng Hai cặp rằn đi gấp. Con có biết tại sao không? Bởi ta biết Hai cặp rằng vốn đem lòng thương má con mà không dám thổ lộ, nên dịp đó là lửa gần rơm, giữa cảnh đồng vắng người thưa, chắc chắn sẽ xảy ra chuyện. Và chuyện đã xảy ra thật... Nhưng lại không chỉ xảy ra cho mình má con...
Bà ta lại ôm mặt khóc. Lần này sự xúc động đã không cho bà ta tiếp tục nói được nữa. Bà ngoại của Tứ phải chen vào:
- Kể từ khi má con lấy chồng nhà giàu thì ít khi về nhà. Do nhà chồng khó, mà ngoại cũng không đi thăm được, bởi không lần nào ngoại xách giỏ tới thăm mà được gặp má con. Bởi con người này. Cô út con đây là người nắm quyền trong nhà, muốn quyết cái gì thì mọi người phải nghe theo, kể cả việc cho chị dâu mình được quyền tiếp thân nhân hay không! Bởi vậy, lâu ngày rồi ngoại cũng chán, nghĩ thôi, miễn con gái mình có chỗ nương thân, còn sống khỏe là được rồi... Cho đến một đêm, khi ngoại đang ngủ thì nghe có tiếng ai kêu lên dưới bến sông, ngoại giật mình chạy xuống thì thấy có một chiếc xuồng nhỏ tấp vào bờ, trên xuồng có một đứa trẻ chừng vài tháng tuổi đang nằm khóc oe oe! Ngoại chưa biết là con ai thì chợt nhìn thấy trên chiếc khăn quấn ngang mình của đứa bé có viết dòng chữ: "Nó là cháu ngoại của má, hãy giữ và nuôi nó lớn khôn. Đừng nói cho nó biết gì về bên nội nó cả. Nếu má không làm được như vậy thì con chết không nhắm mắt!"
Bà Tám lại phải ngừng kể do nước mắt ràn rụa, mãi một lúc bà mới tiếp:
- Con đã về với ngoại như vậy đó. Rồi từ đó, bà cháu mình không hề biết thêm gì về tin tức của má con nữa. Chỉ nghe nói má con chết trong một chuyến đi buôn xa, thế thôi...
Tứ đưa mắt nhìn sang bà cô già. Út Chanh bằng một động tác bất ngờ, đã quỳ sụp xuống dưới chân hai bà cháu Tứ:
- Cho tôi tạ tội!
Bà Tám đỡ chị ta dậy:
- Mười năm nay tôi chưa nghe má thằng Tứ nói cụ thể về cái chết của nó. Tôi nghĩ có lẽ do nó chết dưới sông nước nên ắt đường về. Bỗng mới đây, nó về trong đêm và báo cho tôi biết là phải tìm tới đây để cứu vợ chồng thằng Tứ! Nó bảo người cô già ích kỷ của thằng Tứ lại tiếp tục muốn diệt tận gốc rễ giọt máu cuối cùng là thằng Tứ và vợ nó. Tôi già cả nên chậm chân, mãi tới bữa nay mới mò tới được đây. Chỉ may còn gặp cháu ngoại mình, chứ con vợ nó...
Bà nói tới đó thì hốt hoảng nhìn quanh:
- Vợ con đâu, Tứ?
Tứ đau buồn:
- Không kịp rồi ngoại ơi, vợ con đã chết trong mưa bão rồi! Đến trời cũng không thương dòng họ nhà mình nữa mà...
Bất chợt, bà cô già của Tứ nói:
- Không phải do trời đâu, mà là do người đó.
Tứ nhíu mày:
- Bà nói vậy là sao?
Chỉ mấy cỗ quan tài, bà ta nói:
- Tôi mù quáng, nghe theo lời một tay thầy số, hắn ta xúi tôi gom hết xác chết của dòng họ, kể cả dâu rể, sau đó đem phân tán mỗi người một nơi để chôn, chứ không được chôn trong đất nhà. Bởi vậy mới có chuyện mả ba má tôi thì chôn trên đất giồng cách đây mấy chục cây số, còn mả anh Hai tôi thì lại chôn ở đất chùa bên Trà Vinh. Còn mả của...
Bà ta ngừng lại, đưa mắt nhìn Tứ và bà Tám, một lúc lâu mới nói tiếp:
- Mộ của má thằng Tứ thì chôn ở... cây gáo trong đồng. Tứ vừa nghe tới đó thì hốt hoảng:
- Cây gáo trong đồng nào?
Út Chanh nói mà như khóc:
- Tôi cũng không nhớ rõ là ở đồng hào. Chỉ biết là thằng Hai cặp rằn nó giết rồi vùi xác ở đó.
Tứ hỏi lại:
- Hai cặp rằn là ai?
Út Chanh chỉ lên nhà trên:
- Già Hai mới vừa hộc máu chết đó.
Tứ kêu lên:
- Chính ông ta sao.
Anh đứng bật dậy định chạy đi, nhưng bà ngoại anh đã kêu lại, nói:
- Má mày đã về nói hết với ngoại rồi. Nó bảo ngày trước Hai cặp rằn nghe theo lời xúi của Út Chanh đây, còn dọc đường đã cưỡng bức má con, dĩ nhiên là nó không chịu, chống cự quyết liệt và cuối cùng đã cắn lưỡi tự tử chết. Xác nó được Hai cặp rằn chôn dưới gốc cây gáo.
Tứ bàng hoàng:
- Gốc cây gáo, phải chăng đúng là cây gáo đó? Như vậy thì...
Út Chanh lại chỉ tay về phía một trong hai cỗ quan tài:
- Một cái là của má cậu, còn cái kia chính là... của vợ cậu đó!
Tưởng mình nghe lầm nên Tứ hỏi lại:
- Bà nói thật chứ?
- Người sắp chết không dám nói dối!
Bà ta nói xong đứng dậy liền. Lúc này Tứ mới để ý thấy dáng đi của bà ta không được vững vàng lắm. Và thay vì đi trở lên nhà trên, bà ta lại thẳng ra phía sau, nơi có một khoảng vườn rộng, cây cối um tùm. Vừa đi bà ta vừa nói to, cốt cho bà cháu của Tứ nghe:
- Trước đây tôi không cho chôn ai cùng dòng họ trong đất nhà, chỉ sợ họ làm chủ vĩnh viễn mảnh đất này. Nhưng tôi đã lầm, đâu cần phải bám giữ nó thì nó mới thuộc về mình. Như má cậu, dẫu chôn tận ngoài đồng hoang, vậy mà cuối cùng cũng lại về đây. Tôi xin thua và xin vĩnh biệt!
Bà ta đi nhanh và biến mất trong vòm cây...
Tứ muốn chạy theo để hỏi thêm, nhưng vừa khi ấy thì cô gái câm xuất hiện, khiến cho Tứ lại một lần nữa kinh ngạc. Anh kinh ngạc bởi lúc này cô ta không ra dấu, mà lại lên tiếng:
- Bà ấy đáng lẽ phải có ngày này từ lâu rồi mới phải! Nhưng chậm cũng không phải là không tới.
Thấy Tứ nhìn mình, cô gái nói thêm:
- Em là đứa con gái câm, mồ côi cha mẹ, bà Út Chanh tiếng là nuôi làm con, nhưng thật ra em ở đợ trong nhà này để trừ nợ lúa cho ba má em từ mấy chục năm trước. Em không nghĩ mình sẽ có ngày nói được nhưng chẳng hiểu sao kể từ khi em theo ông già Hai vào chỗ cây gáo để đào hai bó hài cốt đem về đây thì bỗng hết câm!
Tứ quá đỗi ngạc nhiên:
- Cô đào hài cốt của ai?
- Thì của hai người thân mà anh đang trông đợi! Mẹ và vợ anh đó!
Trong lúc Tứ và bà ngoại anh đang ngơ ngác thì cô gái nói thêm:
- Em tin người chết đã giúp em có được điều kỳ diệu này! Mà cụ thể là vợ anh. Hôm đào xuống gốc cây gáo, chính em đã gặp được chiếc lược của chị ấy, vừa khi cầm chiếc lược ấy lên thì tự nhiên em bật thành tiếng reo, là tiếng đầu tiên trong đời! Em cám ơn chị ấy...
Cô ta lại nói ra điều mà ai nấy đều sửng sốt:
- Mụ Út Chanh nghe theo lời ông thầy tướng số, bảo phải gom hết hài cốt những người từng bị mụ ta hại về, để lão ta làm phép trừ hậu họa. Nhưng lạ lùng làm sao, kể từ khi hai bộ hài cốt mà em lấy lên từ gốc cây gáo đem về thì không đêm nào mụ ta ngủ được yên. Đêm nào cũng nghe mụ ấy khóc van và có lúc kêu thét lên vì sợ! Em đã rình coi và thấy mụ ấy quỳ lạy hai người đàn bà mà em đoán đó là mẹ và vợ anh! Mụ ta đi đến kết cuộc như lúc này có lẽ do ý của hai người ấy. Em tin là oan hồn đã báo được thù rồi.
***
Vậy là vụ tai nạn ở gốc cây gáo giữa Đồng Tháp Mười đã có hồi kết. Mà cũng không phải vô tình mà Tứ bị mất vợ và kẹt hơn nửa tháng ở giữa vùng nước lũ đó. Tất cả là định mệnh. Tứ đã tìm lại được hài cốt của mẹ mình sau ngót mười năm thất lạc, và cái xác trôi sông của Kim Lệ lại là cánh cửa mở toang màn bí ẩn chung quanh một nghi án, mà nếu không có sự huyền bí đó thì xem như vĩnh viễn chìm vào quên lãng...
Bà Tám Trầu nói với Tứ:
- Ngoại không biết gì chuyện tâm linh, nhưng qua vụ này, ngoại có thể quả quyết với con rằng đời sống con người ta không chỉ có kiếp sống hiện thời. Nó còn có một kiếp nữa. Bởi vậy, ngoại muốn con hãy lấy đó mà tự răn mình. Có luân hồi hay không ngoại không biết, nhưng quả báo thì có. Nhất định có...


HỒN MA LIÊN CHI


Thấy đò đã rời khỏi bến khá lâu rồi mà anh chàng vẫn còn ngồi mãi bên ly nước có một mình, bà Sáu chủ quán cất tiếng hỏi:
- Ủa, sao cậu không về chuyến đò vừa rồi? Đó là chuyến cuối về Tân Thành, cậu không đi thì chẳng còn chuyến nào nữa. Trời sắp tối rồi đó.
Anh chàng bấy giờ mới ngẩng lên cười gượng:
- Dạ, cháu chờ...
Bà chủ quán đang lúc rảnh việc, nên bước tới kéo ghế ngồi gần và hỏi, vẻ tò mò:
- Cậu chờ ai khi chẳng còn chuyến đò nào?
- Nhưng, có thể người ta cũng tới ngồi chờ như cháu.
Bà chủ quán cười ngất trước sự ngây ngô của anh chàng ra dáng học trò này:
- Cậu đi học ngoài tỉnh phải không? Vậy nhà ở đâu bên kia sông, hay ở làng nào phía dưới?
Anh chàng lắc đầu:
- Dạ không. Nhà cháu không ở vùng này.
Bà Sáu ngạc nhiên:
- Cậu không ở vùng này mà còn ngồi đây khi trời sắp tối, bộ có nhà quen ở gần sao?
Anh ta lại lắc đầu:
- Dạ, cũng không.
Tưởng anh ta đùa, bà Sáu trợn mắt:
- Tôi hỏi thật mà cậu cứ đùa! Quán tôi cũng sắp dẹp rồi, không còn chỗ đâu mà cà kê đó.
Chàng trai bây giờ mới đứng lên, móc tiền trả và nói:
- Tưởng dì còn bán thì cháu đợi bạn, còn không thì cháu xin đi.
Thấy cậu ta có vẻ thật thà, bà Sáu không nỡ:
- Nói vậy chứ tới hơn sáu giờ tôi mới dẹp tiệm. Mà tôi hỏi thật, cậu đợi ai vậy?
- Con gái ông Cả Dư.
Lời anh chàng vừa dứt thì bà Sáu há hốc mồm, vừa bước lùi mấy bước. Giọng run như lên cơn sốt rét:
- Cậu... cậu là...
- Cháu là bạn học của cô ấy hồi mấy năm trước. Vừa rồi gặp lại, cô ấy có hẹn với cháu ở bến đò này.
- Cô ấy tên Liên Chi phải không?
- Dạ đúng.
Thật ra bà Sáu hỏi cũng bằng thừa, bởi nhà ông Cả Dư chỉ có cô con gái duy nhất, đâu có người thứ hai.
- Cậu... cậu gặp cô ấy lâu chưa?
- Dạ, mới tuần rồi.
Câu trả lời của cậu ta không ngờ lại khiến cho bà chủ quán tái mặt! Bà nhìn vị khách trẻ mà như nhìn một con quái vật. Phải vài mươi giây sau, bà mới lùi được hẳn vào quầy hàng và bất thần nói:
- Tôi dọn hàng, nghỉ bán!
Bất ngờ trước thái độ của bà ta, nhưng chàng trai vẫn lịch sự trả tiền xong, cúi chào và bước ra khỏi quán. Thay vì đi trở lại là con đường anh ta tới lúc nãy, đàng này anh chàng lại bước thẳng xuống bờ sông, nơi con đò đã rời bến, bỏ lại bến nước vắng lặng, đìu hiu...
Trước khi đi khuất, anh chàng còn quay lại dặn với:
- Nếu lát nữa có cô ấy tới và hỏi Thành Tâm, thì dì làm ơn nói cháu đi ngắm cảnh ở bờ sông một lát.
Anh chàng không để ý, lúc ấy bà chủ quán vừa dẹp hàng vừa run rẩy. Miệng bà ta cứ lẩm bẩm:
- Con Liên Chi... con Cả Dư! Liên Chi...
Chỉ vài phút sau thì quán đã được đóng cửa. Chẳng ai hiểu vì sao bà chủ quán lại hấp tấp rời quán và đi rất nhanh như chạy trốn chỗ đó...
Khi ấy trời chưa tối. Và hình như bà chủ quán nhớ lầm. Thật ra còn một chuyến đò nữa mới là chuyến cuối. Bởi lúc bà ta vừa rời quán, chừng mười phút sau thì từ bên kia sông, con đò đã trở lại. Trên đò chỉ duy nhất một người khách.
Vừa bước lên bờ, vị khách nữ duy nhất đó quay khắp nơi tìm, và tỏ ra thất vọng khi thấy quán đóng cửa. Cô lẩm bẩm:
- Sao hẹn mà không tới?
Chợt nhìn ra bờ sông, cô reo lên:
- Kia rồi!
Cô bước ngay ra đó và bắt gặp người đang đợi mình ngồi ngắm sông nước.
- Sao lại ngồi đây?
Thành Tâm quay lại và reo lên:
- Cứ tưởng là tối nay phải ngủ bờ ngủ bụi rồi chứ!
Họ nắm tay nhau mừng khôn xiết kể, và anh chàng sôi nổi như trẻ con:
- Nào, để anh ngắm Liên Chi xem, có gì thay đổi không?
Cô gái ấy chính là Liên Chi. Cô chỉ xuống xuồng rồi bảo:
- Chúng ta đi ngay, kẻo mưa tới.
Con đò chợt quay trở lại. Liên Chi giải thích:
- Đúng ra là hết đò rồi. Đây là ghe nhà, em đặc biệt ra đón anh. Ta đi nhanh về kẻo không kịp.
- Bộ nhà xa lắm sao?
Đưa tay chỉ về phía hạ nguồn:
- Ở cách đây ba cây số.
Chiếc đò lại đi ngược về phía thượng nguồn, Tâm ngạc nhiên hỏi:
- Ủa, sao mình lại đi về hướng này?
Con đò cứ băng băng tiến lên phía nước ngược. Nghe Tâm hỏi, nhưng Liên Chi vẫn không nói gì, mãi lát sau cô mới lên tiếng:
- Mình tìm chỗ riêng tư chứ về nhà toàn người lớn không, làm sao mình vui chơi thoải mái được!
Nghe có lý nên cho dù con đò có đi hơn nửa tiếng lên phía nước ngược, Tâm vẫn bình thản chờ. Mãi đến khi thấy trời bắt đầu tối, anh mới lo lắng hỏi:
- Sắp tới chưa?
Bàn tay mát rượi của Liên Chi đặt lên vai Tâm, giọng nàng nhẹ như hơi thở:
- Không sợ phải ngủ bờ bụi đâu. Tới nơi rồi!
Chiếc xuồng tấp vào một nơi mà chưa kịp nhìn lên, Tâm đã biết là rất vui. Bởi tiếng nhạc réo rắt từ trên vọng xuống cho Tâm biết là có một cuộc vui đang diễn ra nơi ấy.
- Bộ đông người lắm sao?
- Có ai đâu mà đông?
- Sao tiếng nhạc rộn rã quá, chắc là đông người đang vui đó?
Liên Chi xua tay:
- Không có ai ngoài chúng mình ra. Đây là ngôi nhà mát của ba Liên Chi. Hầu như không có ai ở. Kể cả ông quản gia già chuyên lo chuyện nhà mình cũng vừa cho nghỉ. Chỉ có chúng ta thôi, và Tâm sẽ là người phục vụ cho Liên Chi đấy nhé!
Anh chàng vui ra mặt:
- Có làm hầu phòng hay đầy tớ sai vặt cũng được miễn phục vụ cho nàng công chúa là kẻ này xin tình nguyện!
Liên Chi nắm tay Tâm chạy thẳng lên bờ, mãi đến khi đến trước một ngôi nhà lớn, Tâm mới chợt nhớ và hỏi:
- Người chèo đò lúc nãy đâu?
Liên Chi nhéo anh một cái đau điếng:
- Cứ lo người chèo đò mà không để ý gì tới người ta cả! Nãy giờ chưa thấy hỏi thăm một tiếng.
Tâm chợt nhớ, anh cười gượng:
- Mình nghĩ đã gặp nhau rồi, hỏi cũng bằng thừa...
Anh siết chặt tay người yêu và bất chợt kêu lên:
- Sao em lạnh quá vậy?
Nàng cười khúc khích:
- Tại vì... nhớ!
- Xạo.
Họ đuổi bắt nhau trong ngôi nhà rộng thênh thang mà chẳng gặp ai khác. Đúng như cô nàng nói, có lẽ người nhà không có mặt. Liên Chi chỉ lên lầu bảo:
- Ngày trước cả nhà em ở đây, sau mới chuyển về dưới kia, nên trên lầu em còn căn phòng với đầy đủ tiện nghi. Nếu cần, sau này khi có chồng em dùng làm nơi... động phòng hoa chúc!
Nàng nói chơi mà như thật, vừa liếc mắt sang Tâm, khiến anh chàng nghe rộn lên trong lòng niềm vui khó tả.
- Lên đây!
Nắm tay Tâm, nàng kéo đi khá tự nhiên, như hai người yêu nhau từ lâu. Mặc dù cả hai chỉ mới gặp lại nhau vài tuần trước đây, sau hơn năm năm xa cách, kể từ khi học lên trung học đệ nhất cấp.
- Đây là phòng ngày trước của mẹ. Còn kia là phòng của dì út, phòng của dì Năm, còn phòng này là của... em.
Căn phòng được nàng giới thiệu là phòng của mình, khi vừa mở cửa bước vào Tâm đã hốt hoảng kêu lên:
- Có cái gì!
Một bầy dơi quạ từ trong bay ra khiến Tâm phải né sang bên, bởi chúng quá đông!
- Sao chúng vào được vậy?
Trong lúc Tâm chú ý đàn dơi thì Liên Chi lại bình thản, cô còn xua chúng ra nhanh, rồi quay sang bảo Tâm:
- Nhà không người ở mà...
Cô nàng định đóng cửa lại ngay thì chợt Tâm nhìn thấy gì đó bên trong phòng, anh ngăn lại:
- Có cái gì kìa!
Theo đà đẩy của Tâm, cánh cửa phòng được mở hẳn ra và... để lộ một bộ xương người còn nguyện vẹn chân tay, đầu cổ!
- Trời ơi!
Tâm kêu lên và lùi lại mấy bước. Liên Chi chỉ khựng lại rồi mím chặt đôi môi. Tưởng nàng sợ, Tâm vội nói:
- Em đóng cửa lại và ta báo động cho mọi người!
Nhưng thật bất ngờ, nàng lại lắc đầu:
- Không cần. Thôi, ta xuống dưới nhà!
Nàng lại kéo tay Tâm đi nhanh như lúc lên. Xuống tới dưới rồi vẫn chẳng nghe nàng nhắc tới chuyện bộ xương người, Tâm dò xét:
- Bộ lâu lắm rồi em không tới đây sao?
Nàng nhẹ lắc đầu, rồi nói lảng sang chuyện khác:
- Làm hết cả tiếng nhạc, mất vui!
Tâm nhớ ra tiếng nhạc lúc đầu mà nãy giờ im bặt, anh hỏi:
- Ờ, sao không còn nghe tiếng nhạc như lúc mình mới tới?
- Bay hết rồi còn đâu!
Tâm ngạc nhiên:
- Cái gì bay?
- Mấy con dơi!
Nàng trả lời xong có lẽ thấy chưa rõ, nên lại tiếp:
- Chính mấy con dơi hòa tấu đã tạo ra âm thanh mà thoạt nghe ai cũng tưởng đó là tiếng nhạc!
Đây là lần đầu tiên Tâm nghe lý giải như vậy, anh tỏ ra hoài nghi:
- Xưa nay anh chưa từng nghe chuyện lạ này. Thì ra những con dơi ở đây khác thường...
Anh còn định hỏi nữa thì bỗng Liên Chi tỏ ra bồn chồn và nói:
- Anh đợi em ở đây, em hơi khó ở, cần vào trong một lát...
Khi cô nàng đi rồi Tâm mới để ý quan sát kỹ chung quanh. Ngôi nhà nói là ít người ở, nhưng tường và trần nhà, sàn nhà đều sạch bóng, không có lấy một chút bụi hay mạng nhện nào.
Mười phút...
Hai mươi phút trôi qua...
Tâm bắt đầu sốt ruột khi chưa thấy Liên Chi trở lại. Chờ đến nửa giờ, Tâm bước ra sau nhà thì cũng chẳng thấy ai và cũng chẳng có phòng vệ sinh riêng ở đó.
- Liên Chi đi đâu?
Sự tò mò cộng với một động lực vô hình thúc đẩy, Tâm lại bước trở lên lầu. Anh nhẹ bước tới chỗ căn phòng phát hiện ra bộ xương lúc nãy, và từ từ đẩy cửa vào...
- Trời ơi!
Hình ảnh trước mắt làm cho Tâm kinh hãi lùi lại. Liên Chi đang dùng dao chém xối xả vào bộ xương người nằm dưới sàn! Và quái lạ làm sao, máu từ trong hài cốt kia lại tuôn chảy ra có vòi!
Liên Chi hình như quá say sưa, nên không để ý thấy Tâm. Nhờ vậy, anh chàng mới ba chân bốn cẳng chạy xuống lầu, rồi bất kể bên ngoài trời tối, anh phóng đại xuống sông, mặc dù không hề biết lội!
Tâm rơi xuống một đáy nước và lạnh buốt, anh nhắm mắt lại khi nghĩ tới cái chết. Nhưng như thế này còn sướng hơn là chứng kiến hình ảnh người con gái anh thương đang vung dao chém loạn xạ như thế.
Tâm nghe văng vẳng như có ai gọi mình, nhưng giây phút đó anh lại nghĩ tới chuyện kinh hoàng kia, nên không hề cho rằng có ai đó gọi với thiện ý...
Có lẽ đêm đã khuya...
***
Bà chủ quán phải gọi lại đến lần thứ mười:
- Cậu gì ơi! Cậu...
Lần này thì may mắn, Tâm mở mắt ra. Anh nhìn quanh, thấy trời vừa mờ sáng và có mấy người đứng cạnh mình thì lại hốt hoảng la lên:
- Ma!
Giọng bà Sáu trầm ấm:
- Tôi đây chứ ma cỏ gì. Cậu nhớ tôi không, chủ quán ở bến đò nè!
Tâm bắt đầu trấn tĩnh lại, anh cố nhìn thật kỹ và reo lên:
- Đúng là dì rồi! Nhưng sao...
Bà đưa tay ngăn không để Tâm nói tiếp:
- Cậu còn mệt lắm, để lát nữa hãy nói. Tôi giải thích cho cậu hiểu, hồi hôm này, nếu tôi và mấy người nữa tới không kịp thì cậu không chết đuối cũng chết vì... ngôi nhà đó!
Tâm lần nhớ lại chuyện đêm qua, anh chợt hỏi:
- Liên Chi đâu?
Bà Sáu lắc đầu:
- Hôm qua vừa nghe cậu nhắc tới tên con nhỏ đó là tôi sợ thất thần rồi! Vậy mà cuối cùng cậu cũng bị lọt vào tay nó. Nó là...
Một người đàn ông tên Chín Lành, chồng của bà chủ quán vội lên tiếng:
- Vợ tôi bán quán ở đó đã chứng kiến cả chục trường hợp giống như cậu. Nhưng chưa có người nào lọt được tới ngôi nhà hoang ấy, bởi vậy khi nghe bà ấy về báo lại tôi đã đoán ắt có chuyện chẳng lành, nên gọi thêm mấy người nữa đi theo cậu tới nơi ấy. May quá...
Tâm vẫn còn nhớ lờ mờ, hỏi:
- Vậy ngôi nhà đó có gì? Mà cô Liên Chi ấy là con của một bá hộ vùng này mà?
- Điều đó thì đúng, nhưng là đúng cách đây gần sáu năm, chứ bây giờ cô ta là... là...
Bà Sáu chen ngang vào:
- Là ma!
Tâm ngơ ngác:
- Sao lại là ma?
- Cậu vào nhà đó không gặp điều gì sao?
Muốn giấu chuyện về Liên Chi, nhưng Tâm đã được nghe chính bà Sáu kể thêm:
- Nó là con gái độc nhất của ông Cả Dư trong làng này. Ngôi nhà đó được xây lên cách đây năm năm và vừa mừng tân gia thì xảy ra chuyện động trời, khiến nó bị bỏ hoang cho đến nay!
- Nhưng cô ấy... tôi mới gặp lại mấy tuần nay mà?
- Cô ta đã chết cách đây năm năm rồi, chết trong vụ thảm sát nhà Cả Dư lần đó!
Những người chung quanh đó đều nói y như vậy, nhưng Tâm có vẻ còn ngờ ngợ... cho nên cuối cùng ông Chín Lành bảo:
- Được rồi, tôi sẽ đưa cậu tới tận nhà Cả Dư bên Tân Thành, rồi cậu sẽ nghe hết mọi chuyện.
Trước khi đi, Tâm cũng kể cho họ nghe chuyện quan hệ giữa anh và Liên Chi:
- Ngày trước chúng tôi học chung với nhau ở trường tỉnh. Khi lên trung học thì chuyển lên Sài Gòn nên cả hai không còn học chung nữa. Bỗng cách đây ít lâu tôi nhận được tin qua một người bạn, họ nói rằng Liên Chi muốn gặp tôi để gửi trả lại một kỷ vật thuở học trò. Ngày trước tôi và Liên Chi vốn có tình ý với nhau, nên khi nghe tin nhắn như thế, tôi đã tìm gặp cô ấy và nhận được lời cô ấy mời về đây chơi nhân dịp nghỉ hè.
Bà chủ quán thở dài:
- Con trai nào cũng được cô ấy mời như vậy cả. Tôi đã ngăn chặn được bốn, năm trường hợp rồi, chỉ có duy nhất một cậu trước đây mà tôi sợ cậu cũng giống như cậu ta...
Tâm nhớ lại bộ xương trong phòng Liên Chi, anh kêu lên:
- Phải chăng chính là anh ta?
Rồi Tâm giục:
- Chú đưa cháu tới nhà cô ấy xem sao?
***
Một ngôi nhà ngói còn đồ sộ hơn là ngôi nhà đêm qua, Tâm phải buột miệng khen:
- Nhà lớn quá!
Chín Lành chép miệng:
- Vậy mà cũng bỏ hoang từ lâu rồi đó cậu!
Tâm ngỏ ý muốn vào nhà, Chín Lành lưỡng lự một lúc rồi cũng đồng ý:
- Tôi vào với cậu, nếu có ai gặp thì cậu nói giùm một tiếng là mình vào chỉ để xem, chứ không hề có ý trộm đồ đạc gì trong đó.
Ở gian giữa nhà có một bàn thờ lớn, trên đó có bốn bức ảnh chân dung đặt song hàng nhau. Vừa nhìn thấy, Chín Lành nói ngay:
- Hai người lớn là ông bà cả, con người kế bên thì cậu biết rồi, đó là cô Liên Chi, người con trai bên bìa trái đó chính là... kẻ gây ra tai họa cho nhà họ!
Tâm ngơ ngác:
- Kẻ gây ra họa sao lại được thờ chung?
- Đó mới là chuyện để cả làng này bàn tán.
Sau khi xem qua hết ngôi nhà, dẫn Tâm ra ngoài. Chín Lành kể:
- Tôi trước đây là quản gia cả hai ngôi nhà, bởi vậy tôi biết rành về nó. Ông bà Cả chỉ có mỗi cô con gái cưng là Liên Chi, nên khi có người tới dạm hỏi là hứa gả liền. Anh chàng kia chính là chàng rể tương lai của họ. Tuy nhiên, trong lúc hôn lễ chưa cử hành thì vào một đêm tiệc tùng ở ngôi nhà mới xây, đã xảy ra một thảm kịch kinh hoàng!
Chính chàng rể tương lai đó trong cơn say xỉn đã lộ nguyên hình là một tay đào mỏ. Anh ta lớn tiếng cự cãi với ông bà Cả, đòi phải hứa chia cho anh ta toàn bộ tài sản thì anh ta mới chịu tiến hành lễ cưới! Còn không thì anh ta sẽ bỏ, không cưới! Trong khi đó thì cô Liên Chi đã lỡ ăn nằm với anh ta rồi, mà hình như cũng đang có thai nữa...
Chín Lành ngừng lại một chút rồi kể tiếp, giọng bùi ngùi nói:
- Khi bị ông bà Cả từ chối, rồi bị Liên Chi vạch mặt thì anh chàng đó nổi điên, cầm dao chém chết hết cả nhà rồi sau đó tự sát theo. Tôi là người đưa hài cốt nhà ấy về thờ ở đây, ban đầu chỉ có ba người thôi. Nhưng tay hung thần kia đã thành quỷ thành tinh, cứ hiện về đòi phải đặt ảnh của anh ta lên chung bàn thờ mới chịu!
Ông ngừng lại, thêm một lần thở dài:
- Anh ta thành tinh thành quỷ nên cả làng này ai cũng sợ, cô Liên Chi bị anh ta điều khiển, nên mấy năm nay cứ dụ các chàng trai quen biết về, để rồi sau đó hạ sát. Theo tôi biết thì cô ta làm như vậy là bởi anh chàng kia ghen, không muốn ai lui tới nhà này. Cách đây gần một năm, có một chàng trai nghe nói trước đây cũng là bạn học, theo Liên Chi về ngôi nhà đó, để rồi chẳng bao giờ thấy trở ra...
Tâm buột miệng:
- Anh ta đã thành bộ xương khô trong đó rồi.
- Đáng lẽ đã tới phiên cậu ngày hôm qua! Theo tôi dự đoán, sở dĩ cậu thoát chết được có lẽ nhờ đàn dơi quạ bay ra lúc cậu vào nhà!
Tâm ngạc nhiên:
- Đúng là có đàn dơi quạ! Nhưng tại sao chúng lại cứu cháu?
- Tôi đã chứng kiến nhiều lần, hễ ai chưa tới số chết thì khi mở cửa căn phòng có bộ xương ra thì cả đàn dơi sẽ bay hết ra ngoài, điều đó có nghĩa là người ấy thoát nạn!
Tâm ngẩn người ra rất lâu. Những gì anh đã chứng kiến, cùng với lời kể của Chín Lành đã làm cho Tâm cảm giác lạnh cả người…
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #67  
Old 11-07-2012, 05:25 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 33

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXXIII: Phần I

TRĂNG LẠNH NHÀ MỒ


Chuyến xe đò rời bến Sài Gòn vào 5 giờ sáng. Vậy mà mãi tới hơn 3 giờ chiều mới tới bên này Bắc Bassac (Bắc Cần Thơ sau này - TG). Tất cả hành khách đều mệt lả người sau hơn mười tiếng đồng hồ ngồi nêm cứng trên xe. Mà người mệt nhất có lẽ là cô gái ngồi cạnh Đức, bởi suốt lộ trình cô nàng ói liên tục và hầu như không ăn uống gì dọc đường, dẫu Đức đã rất lịch sự mua thức ăn mang lên mời.
Một bà ngồi băng trước quay lại bảo Đức:
- Cậu nên xuống mua ly sữa đem lên cho vợ cậu uống, chứ nhịn đói mà lại ói suốt như vậy chịu sao nổi.
Đức hốt hoảng lên tiếng liền:
- Dạ, không phải đâu! Tôi... tôi chỉ...
Anh muốn đính chính về cách ghép đôi như vậy của bà nọ, nhưng anh chưa kịp nói hết lời thì lơ xe đã la lớn, cắt ngang lời anh:
- Tất cả xuống xe qua phà! Không được ai ở lại!
Đức chưa kịp đứng dậy thì cô gái lại ói lần nữa. Đã biết ý rồi, lần này Đức dùng ngay chiếc khăn mà lúc nãy anh lấy ra sẵn, hứng nước ói của cô gái và dùng một đầu lau cho cô nàng. Cô gái hầu như không còn tự chủ được, cô ói xong thì cứ dựa đại vào vai Đức mà chịu trận.
Bà ngồi trước nói với lơ xe:
- Để cho vợ chồng cậu này ở đây. Cậu ấy phải săn sóc cho vợ, cô ấy ói quá trời xuống sao được!
Rồi bà vừa rời xe vừa nói:
- Cậu cứ ngồi đó đi, để tôi mua giùm sữa cho.
Đức chẳng còn hơi sức đâu mà đính chính, anh móc tiền ra đưa cho bà ta, nhưng bà này xua tay:
- Tiền bạc gì cậu ơi!
Rồi bà ta đi thẳng vào một quán nước phía bên trong lề. Lát sau trở ra với một lon sữa đầy còn nóng hổi bảo Đức:
- Cậu ngồi lại đó cố đút cho cô ấy uống được muỗng nào hay muỗng nấy. Có ít muỗng sữa sẽ đỡ hơn.
Rồi bà vừa lắc đầu vừa cười vui với Đức:
- Thấy cậu chăm sóc cho vợ mà phát chán với ông chồng tôi ở nhà, đời nào ông ấy đút cho tôi được muỗng sữa nào dù đã sống với nhau đã hơn hai chục năm rồi!
- Tôi không phải...
Nhưng bà ta đã bỏ đi, đâu cần nghe lời trần tình của Đức. Hành khách trên xe đã xuống hết, trên xe chỉ còn lại Đức và cô nàng. Lúc này anh có ý muốn đẩy cô ta ra khỏi vai mình, nhưng vô vọng, bởi nàng ta hầu như chẳng biết gì nữa. Nhìn cảnh đó ai mà không nghĩ như bà hành khách nọ. Trông Đức khác nào một anh chồng trẻ với cô vợ mới ốm đau đang cần sự che chở!
Lâm vào cảnh dở khóc dở cười này, Đức đành phải chấp nhận và càng lúc anh càng tỏ ra có trách nhiệm thật, chứ không phải là người đóng vai bất đắc dĩ. Thậm chí người tài xế cũng phải lên tiếng:
- Cậu đóng cửa lại để cô đỡ phải gió và cứ ngồi yên đó để lát nữa tôi cho xe xuống phà. Chà, vợ trẻ mà yếu dữ a!
Đức muốn đính chính, nhưng nhìn cô nàng hầu như chẳng nghe thấy gì, nên anh cũng lờ luôn. Thấy lon sữa trên tay đã bắt đầu nguội, Đức múc từng muỗng nhỏ rồi nhẹ nhàng đưa vào miệng cô nàng, chỉ hy vọng cô nàng không gạt tay ra làm đổ văng tung tóe, chứ không mong gì đút được muỗng nào. Vậy mà lại có kết quả ngoài mong đợi. Cô nàng chép chép mấy cái rồi ngoan ngoãn nuốt từng hớp nhỏ như một đứa trẻ!
Đức vốn khéo tay trong việc chăm sóc trẻ con và đã từng được mấy đứa cháu con của anh chị mình thích thú mỗi lần được anh chăm sóc, nên bây giờ anh có làm cho cô nàng hài lòng cũng không phải lạ. Một lúc sau, sau khi uống được hơn chục muỗng sữa thì cô nàng đã có vẻ tỉnh táo nhưng khi vừa mở mắt ra thì lại hốt hoảng kêu lên:
- Anh... anh... sao anh?
Đức bước hẳn xuống xe, chợt cô ta kêu lên:
- Anh đi đâu vậy?
- Cô hết bệnh rồi thì tôi phải xuống xe, kẻo bị người ta đuổi xuống!
- Vậy tôi còn bệnh thì sao?
- Thì...
Đức chưa kịp trả lời thì lúc ấy người tài xế từ xa đang chạy ngược lại, la lên:
- Anh lên xe ngồi với chị đi, xe xuống phà ngay đây!
Đức lại phải miễn cưỡng leo trở lên xe và anh nhận được một nụ cười khó hiểu của cô nàng. Và rõ ràng là nàng ta cố ý lại ngả đầu vào vai Đức như lúc nãy kèm câu nói:
- Dẫu sao được dựa đầu thế này cũng đỡ chóng mặt hơn, như vậy chắc là sẽ hết ói!
Rõ ràng là cô ta biết những việc mình gây ra từ sáng đến giờ, vậy mà nói tỉnh như không! Đức hỏi gặng lại:
- Cô không ói nữa thật chứ?
- Cũng còn tùy... tùy anh có cho mượn vai nữa không!
Đức nhổm người dậy, định đẩy cô nàng ra, nhưng cô ta đã nói khẽ vào tai:
- Ông tài xế nhìn thấy đuổi cả hai xuống bây giờ!
Đức đưa lon sữa cho cô ta:
- Cô uống cho hết đi, để chắc ăn không ói nữa.
Nàng lại cười cười:
- Nuôi bệnh dở ẹt vậy mà cũng được khen!
Dù nói vậy nhưng nàng ta vẫn cầm lấy lon sữa và uống một hơi cạn! Bây giờ Đức mới đùa:
- Giống thuốc tiên quá!
- Thuốc tiên cũng không bằng tay tiên! Nếu không nhờ bàn tay đút sữa điệu nghệ của anh thì chắc em không thể nuốt trôi giọt nào!
Nàng ta đổi sang gọi Đức bằng anh xưng em ngọt xớt khiến anh phải dịu giọng:
- Cô khỏe hẳn rồi phải không?
Bỗng cô nàng nói nhanh:
- Chúng ta phải biết tên nhau và xưng hô cho đúng cách, kẻo lát nữa mọi người lên xe biết chúng ta đóng kịch thì họ cười cho!
- Cười cô chứ đâu phải cười tôi!
Tuy nói vậy chứ Đức cũng tự giới thiệu:
- Tôi tên Đức, nhà ở Ô Môn.
Nàng reo lên:
- Em cũng ở gần đó, ở Thốt Nốt! Em là Oanh, Kiều Oanh đây.
Phà cập bến, xe di chuyển lên bờ, thấy hành khách sắp sửa leo trở lên xe, nàng tranh thủ nói nhanh:
- Hồi nãy họ nói chúng ta là... vợ chồng, anh chưa kịp đính chính phải không? Vậy thì... đừng đính chính nữa, người ta không tin đâu!
- Nhưng mà...
Nàng lại cười:
- Người mắc cỡ, đính chính phải là em kia! Nhưng thôi kệ... chỉ chút nữa là xuống xe rồi mà!
Nghe nàng ta nói có lý, nên Đức im lặng cho đến lúc hành khách lên xe đầy đủ. Lúc ấy bà khách ngồi băng trên quay lại nhìn Oanh và reo lên:
- Cô tươi tỉnh lại rồi kìa, may quá!
Rồi bà ta nói tiếp đủ cho hai người nghe:
- Có hơi vợ chồng nó kỳ diệu vậy đó!
Đức ngượng chín người, anh lại định lên tiếng thì Oanh đã kịp nói thay:
- Dạ, con cám ơn dì. Nhờ có dì nên con mới...
- Có gì đâu, đi đường xa giúp nhau khi qua khi lại mà.
Chỉ mười phút sau thì đã tới bến xe. Lúc này cô nàng mới hỏi Đức:
- Anh về luôn nhà hay có cần ở lại đây sáng mai về sớm? Em có nhà quen, có thể ngụ lại được.
Đức vội xua tay nói:
- Không được, tôi phải về ngay, ngày mai...
Đức định nói ngày mai là lễ hỏi của mình, mọi người đang chờ ở nhà nhưng kịp dừng lại.
Kiều Oanh cũng nói:
- Ngày mai em cũng có việc ở nhà, nhưng sáng về sớm có sao đâu!
Đức định gọi chiếc xe lôi thì cô nàng chỉ tay về phía bên trái:
- Về Ô Môn thì phải đi xe đó, chứ xe lôi chạy sao nổi?
Đức lại chỉ tay về hướng bến đò sông:
- Ra bến đò đi về, chứ quê ở tận trong xa, xe đâu chạy tới mà đi!
Nàng tỏ ra giật mình:
- Anh ở tận đâu lận?
- Kênh Ô Môn, gần ngọn cùn.
- Vậy ra...
Nàng định hỏi gì đó nhưng kịp ngừng lại, cho đến lúc Đức đã leo lên xe lôi rồi, cô mới nói với theo:
- Em biết chỗ đó!
Nhưng hình như Đức không nghe...
***
Vợ chồng ông Phán Hòa vẫn chưa thông chuyện bà mai nói. Bà ấm ức nói:
- Hồi họ hứa với mình thì ngon ngọt lắm, sao bây giờ lại đổi ý, gây khó khăn vậy?
Ông Phán cũng nói chen vào:
- Tôi nhớ chính bà ấy nói với tôi lúc lễ coi mắt là bỏ hết mọi nghi lễ rườm rà, chế luôn cho chuyện phải có đôi bông hột xoàn 6 li như đòi hỏi ban đầu, vậy mà nay lại bắt phải có đủ. Gấp gáp quá làm sao xoay cho ra!
Bà mai Lệ là người luôn linh hoạt trong mọi chuyện:
- Họ làm khó vì chuyện xảy ra ngay hôm nay, mới hồi trưa này thôi.
Bà Phán chau mày:
- Chuyện gì?
- Bà Cả có người quen bắt gặp cậu Đức cặp kè với gái ở trên xe đò!
Bà Phán Hòa như giẫm phải lửa:
- Thánh thần ơi, có chuyện đó sao? Đức, con vào đây xem sao?
Đang ở ngoài sân sửa sang lại bàn ghế, Đức vội bước vào lễ phép hỏi:
- Má cho kêu con?
Ông Phán mau miệng:
- Bữa nay mày đi với con nào?
Bà cũng hỏi dồn:
- Người ta nói con cặp kè với con nào đó trên xe đò, có hông?
Đức cười xòa:
- Tưởng chuyện gì. Có một cô...
Bà Phán gần muốn líu cả lưỡi:
- Mày...mày... vậy hả Đức?
Đức vẫn bình tĩnh:
- Có gì đâu má. Cô ấy là khách đi chung, cô ấy bị ói, mệt lả người, nên con giúp, chứ cặp kè gì đâu!
Bà mai Lệ nói rành rẽ:
- Có người thấy rõ ràng cậu với cô gái đó vai kề vai, mà còn tình tứ lắm trên xe đò, họ về mách lại với...
Bà Phan Hòa nhanh trí:
- Chắc là nói lại với chị phải không, rồi chị đi học lại cho bên kia họ biết chứ gì?
Bị bắt đúng thóp, bà ta lúng túng:
- Thì... thì tôi sợ cậu Đức đây bậy bạ làm hư việc nên có nói chút đỉnh... nhưng nói vậy thôi chứ bên kia người ta cũng đâu có bắt bẻ gì.
Ông Phán nổi giận:
- Không bắt bẻ mà thay đổi đòi hỏi. Bữa trước nói không cần đôi bông, nay lại đòi! Mà đòi gấp như vậy thì lấy đâu sáng mai có để đem qua? Có phải là chị hại nhà này không!
Bà mai cứng họng. Cũng may là Đức đã lên tiếng:
- Không hề gì, con có sẵn đôi bông tai sắm hồi năm ngoái, tính để dành...
Ông Phán Hòa nói nhỏ bên tai bà:
- Hồi đó nó yêu con Lan Ngọc ở Sài Gòn, đáng lẽ hai đứa lấy nhau, kế con nhỏ nghe lời cha mẹ đi lấy mối khác. Tưởng nó đã chán đời đem bán đôi bông rồi, ai ngờ còn...
Bà Phán bấy giờ mới cười:
- Dữ hóa lành, nhờ ơn trời đó con! Thôi, đi nghỉ sớm để mai còn đi. Phải đi thật sớm thì tới mười giờ mới tới được bên Thốt Nốt.
Nghe nhắc Thốt Nốt làm Đức chợt nhớ tới cô gái trên xe đò, cô ta nói nhà cũng ở bên đó... và trong suốt giấc ngủ, hầu như Đức cứ bị ám ảnh mãi hình ảnh cô nàng dựa đầu trên vai mình ngủ ngon lành.
***
Có lẽ ảnh hưởng của chuyến đi mười mấy tiếng đồng hồ nên vừa nằm xuống là Đức ngủ say. Ngoài những hình ảnh về cô gái ám ảnh, Đức hầu như không nhớ gì khác, mãi cho đến lúc anh choàng tỉnh dậy do có tiếng ai đó gọi bên ngoài cửa sổ!
- Lạnh quá... giúp tôi với!
Ban đầu Đức cứ tưởng là mình chiêm bao, nhưng sau khi nhìn kỹ anh giật mình, bởi bên ngoài kia có một người đang ôm bụng, đứng không vững. Lại là một cô gái!
- Kìa, cô...
Đức quên hết mọi cảnh giác, anh bước tới bên cửa sổ và nhìn rõ hơn, đó là một cô gái còn rất trẻ, toàn thân ướt đẫm.
- Em lạnh... em chết...
Cô ta vừa nói tới đó thì ngã lăn ra và bất động. Đức hốt hoảng, anh tung cửa chạy ra. Đến nơi, anh cúi xuống nhìn và giật mình kêu khẽ:
- Quế Anh!
Quế Anh là người vợ chưa cưới của Đức, người mà ngày mai anh sẽ đưa sính lễ sang để làm lễ hỏi!
- Tại sao như thế này?
Đức đưa tay định đỡ cô lên thì bỗng anh như bị điện giật, người bị bắn ra đến hơn một thước!
Đến khi bò dậy được thì chẳng còn thấy cô nàng đâu? Ở chỗ nàng nằm vừa rồi còn lại một cái khăn quàng cổ mà vừa cầm lên, Đức đã nhận ra ngay đó chính là khăn mà trước đây mấy tháng chính anh đã mua tặng.
- Quế Anh!
Đức gọi quá lớn làm cho ba má anh đều giật mình tỉnh giấc. Ông Phán hỏi vọng ra:
- Gì vậy con?
Giọng Đức vẫn còn run:
- Dạ... con... con thấy...
Anh kịp ngừng lại, không tiện nói ra. Lát sau nói lảng ra chuyện khác:
- Dạ, con nghe có tiếng động gì lạ ngoài này nên ra. Nhưng không thấy gì...
Bà phán hỏi thêm:
- Má nghe con kêu tên Quế Anh?
- Dạ, con đâu có...
Đức chạy nhanh về phía sau khu vườn cam của cha mình, trăng lúc này đang sáng nên có thể nhìn rõ mọi vật. Chẳng hề thấy bóng dáng của nàng đâu!
- Kỳ lạ!
Anh tìm kiếm một lúc thì chán nản quay vào. Nghĩ có lẽ mình còn chưa tỉnh, ảo giác cũng nên...
Nhìn đồng hồ tay thấy mới một giờ sáng, Đức vội lên giường ngủ tiếp. Nhưng chưa kịp chợp mắt thì anh chợt nghe có tiếng của một ai đó ngay trong phòng mình!
- Ai vậy? Ba hả?
Anh bật dậy định tìm xem ai thì bỗng cảm giác một bên tay của mình tê rần và lạnh buốt! Một giọng nói sát mang tai:
- Hãy rời xa nàng ta ngay, nếu không muốn chết!
Trong bóng tối, nhưng Đức cũng nhìn thấy, thấy đôi mắt của người ấy sáng như hai đốm lửa màu xanh! Và hơi lạnh từ bàn tay anh ta truyền sang Đức càng lúc càng lạnh buốt, khiến anh suýt phải kêu lên đau đớn! Cũng may vừa lúc đó có tiếng của ông Phán Hòa bên ngoài:
- Ngủ chưa con?
Người đó buông tay ra. Đức ngã nhào trở lại giường cũng vừa lúc ông Phán đẩy cửa vào.
- Có chuyện gì phải không con?
Đức hoàn hồn, đáp:
- Dạ, có... có người ở trong này...
Ông Phán đưa cây đèn dầu lớn vào phòng, căn phòng sáng lên vừa hỏi:
- Ai đâu?
Đức nhìn khắp nơi, anh vẫn chưa hết run:
- Một người đàn ông. Anh ta nắm tay con...
Lúc này bà Phán cũng đã chạy sang. Bà đích thân cúi xuống tìm dưới gầm giường, trong kẹt tủ, không nơi nào là không lục tung lên. Bà ngạc nhiên hỏi:
- Có thấy gì đâu con?
Đức nhìn ra cửa sổ, anh cảm giác như còn có hơi thở của ai đó rất gần bên... Anh đột ngột nói lớn:
- Ai đã dám tới thì có gan ra mặt đi!
Không có ai trả lời, bà Phán giờ mới hơi run:
- Bộ có người vào phòng con thật hả? Coi chừng ăn trộm đó...
Bà đi xem lại đồ đạc, nhưng Đức đã nói:
- Không phải ăn trộm đâu má. Đây là... người cõi âm hay sao đó, tay chân của họ lạnh ngắt, họ chụp con chỗ này này...
Anh đưa tay lên xem và hốt hoảng kêu lên:
- Má coi nè!
Trên cổ tay của Đức hằn lên những vết bầm tím khác thường. Ông Phán Hòa lo lắng:
- Con coi có đau đớn gì không?
Đức sờ thử thì chẳng có cảm giác đau, anh lắc đầu:
- Không đau.
Anh thuật lại đầu đuôi chuyện vừa rồi, nhưng không nói ra chuyện mình gặp Quế Anh. Anh chỉ hỏi:
- Mấy hôm nay bên nhà Quế Anh có ai qua nhà mình không?
- Họ không ai qua, nhưng bà mai ngày nào không tới lui. Nghe nói con Quế Anh cũng mới từ Cần Thơ về hôm qua. Con nhỏ năm nay thi đậu bằng thành chung, giỏi thật!
Bà còn nói thêm:
- Nhà bên đó má không ưa ai, chỉ mình con Quế Anh là được! Mà con nhỏ cũng kỳ, nó nhắn với bà mai là nếu nó không làm dâu được nhà này thì nó... thà chết còn hơn!
Đức sửng sốt:
- Cô ấy nhắn lúc nào?
- Thì mới mấy bữa trước. Má nghe nói gở như thế nên tính bữa nào gặp, má sẽ rầy nó. Hay là tại nó nghi kỵ con điều gì đó?
Đức lắc đầu:
- Con có làm gì đâu mà nghi với kỵ.
- Thì chuyện con với đứa nào trên xe đó!
- Đó là chuyện mới xảy ra hồi trưa hôm qua.
Chợt Đức nhớ lại lời nói của con người kỳ dị lúc nãy, anh kêu khẽ:
- Phải chăng...
Bà Phán ngạc nhiên:
- Con nói phải cái gì?
- Dạ... à mà không có gì!
Ông Phán nhận xét:
- Ba coi mòi con nhỏ thương con lắm, tuy có phần kín đáo giữ ý. Như cách đây mấy tuần, nó có gửi về cho con vật này mà ba quên chưa đưa lại cho con.
Ông trở về phòng lấy ra một cái hộp giấy nhỏ:
- Ba chưa coi nên không biết cái gì trong này. Con mở ra xem.
Đức mở ra và hết sức ngạc nhiên khi thấy đó là một chiếc khăn quàng cổ giống y chiếc khăn anh vừa nhặt được ngoài vườn. Bà Phán nói liền:
- Hôm rồi nó đi Đà Lạt, chắc là mua trên đó rồi gửi tặng con, vậy mà ba con lại không đưa.
Đức nói làm cho cha mẹ anh đều ngạc nhiên:
- Đây là chiếc khăn chính con tặng cho cô ấy! Chẳng hiểu sao...
Anh chạy vào phòng tìm chiếc khăn lượm được lúc nãy, nhưng quá đỗi ngạc nhiên khi không còn thấy trong phòng nữa!
- Ủa ba lấy khăn này ở đâu vậy?
- Thì ba giữ từ bữa đó đến giờ.
- Nhưng... mới hồi nãy...
Anh đành phải kể lại chuyện gặp Quế Anh lúc nãy cho cha mẹ nghe. Vừa nghe xong, họ đều hốt hoảng:
- Không xong rồi!
Họ lặng người đi rất lâu với bao nỗi hoang mang trong lòng...
***
Khi đoàn nhà trai tới thì Quế Anh đã mất tích hơn nửa ngày rồi. Lúc đầu, trong nhà cứ ngỡ cô nàng bỏ đi đâu đó rồi về, nhưng khi có người báo tin thì mọi người mới tá hỏa:
- Đôi hài cô Quế Anh mang còn nằm trên xuồng, mà chẳng thấy cô ấy đâu.
Chuyện Quế Anh tuy là người ở vùng sông nước mà chỉ biết bơi lõm bõm là điều ai trong nhà cũng hiểu, bởi vậy bà Cả lo sốt vó:
- Tụi bay chia nhau đi tìm kiếm nó coi! Trời ơi, tôi đã nói rồi, phải để mắt tới nó trong mấy bữa này mà...
Bà định nói gì đó nhưng thấy nhiều người quá nên thôi, đợi một lúc khi đã kéo ông chồng ra ngoài rồi, bà mới nói:
- Hay là ông rầy la gì nó nữa?
Ông Cả trợn mắt nhìn bà:
- Có bà ép nó vụ con trai chủ nhà máy xay lúa thì có! Tôi đã nói rồi, hôm nay thì bên cánh Phán Hòa qua tới và lễ hỏi cử hành rồi, còn nói tới lui nỗi gì nữa, bà cứ không nghe...
Bà lừ mắt nhìn ông:
- Chưa nhận sính lễ thì đâu có gì phải lo! Vả lại tôi cũng phân tích lợi hại cho nó nghe thôi, chứ có ép uổng gì đâu!
- Cái giọng điệu chì chiết của bà thì còn hơn là ép uổng. Mà hỏi thật, con trai thằng chệt Tỷ thì có gì hay ho đâu mà bà ham vậy chứ? Bà cũng thừa biết là con Quế Anh nhà mình nó ghét cay ghét đắng loại người đó nên mỗi lần bà nhắc tới là nó tìm cách bỏ đi, vậy mà chiều hôm qua bà vẫn còn oang oang cái miệng! Bây giờ bà có khóc thì cũng trễ rồi, xuống hà bá mà tìm nó!
Ông nói xong bỏ đi thẳng xuống bến rồi mất dạng luôn. Bà Cả vừa lo lắng vừa rối trong lòng. Khi vợ chồng Phán Hòa và Đức bước vào nhà thì bà mai Lệ mới thay mặt giải thích:
- Chẳng biết cô Quế Anh đi đâu mà từ đầu hôm qua tới giờ chưa về?
Bà Phán Hòa nói liền:
- Hay là nó bị như mình thấy?
Nghe bà nói vậy bà Cả hỏi dồn:
- Chị thấy nó ở đâu?
Đức phải đỡ lời cho mẹ:
- Dạ... tối qua má con chiêm bao thấy Quế Anh, chứ đâu phải...
Nãy giờ không để ý, giờ nghe Đức lên tiếng, bà Cả quay sang anh:
- Hôm qua nó một hai nói đi tìm con, đúng vậy không?
Đức ngơ ngác:
- Đâu có bác! Nhưng mà...
Nhớ lại chuyện đêm rồi, Đức kêu lên:
- Đúng rồi, người của Quế Anh đẫm nước, cô ấy ngã xuống sông rồi!
Bà Cả càng quýnh hơn:
- Sao nãy giờ con không nói!
Hầu như mọi người dự lễ hỏi đều chia nhau đi tìm Quế Anh. Đức ngồi riêng một xuồng nhỏ, anh vừa bơi dọc con sông vừa khấn:
- Xin cho tôi tìm được cô ấy, rồi muốn chuyện gì tôi cũng chịu!
Lời anh vừa dứt thì bất chợt ngay phía sau lưng anh có người lên tiếng:
- Người chung tình như vậy, thảo nào người ta không chết mê chết mệt!
Quay nhanh lại, Đức sửng sốt kêu lên:
- Kìa, cô!
Đang ngồi chung xuồng với Đức lúc ấy là... Kiều Oanh, cô gái bị ói trên xe đò! Cô nàng cười rất tự nhiên và giải thích sự có mặt của mình:
- Người ta xuống xuồng mà không hay biết gì hết! Đúng là lúc lòng dạ đang nghĩ và lo lắng cho ai đó thì đâu còn chú ý gì nữa chung quanh!
Đức chống chế:
- Lúc lui xuồng ra đâu thấy cô?
- Cái đầu anh bận nghĩ tới cô Quế Anh thì đâu cần gì thấy ai khác! Mà sao mọi người mãi đi tìm ở dọc con sông này, lỡ cô ấy không ở đây thì sao?
Đức nhìn sững cô nàng:
- Sao cô biết Quế Anh?
Cô nàng vẫn giữ nụ cười bí hiểm trên môi:
- Xứ Thốt Nốt này nhỏ xíu, mà vợ chưa cưới của anh lại đẹp và nổi tiếng khắp vùng, ai mà chẳng biết! Với lại anh quên là tôi cũng là người xứ này sao?
- Tôi quên...
Anh chưa kịp hỏi thêm là tại sao cô nàng leo lên xuồng mình, thì Kiều Oanh đã chỉ tay về bên trái và nói:
- Anh rẽ về phía này đi.
- Chi vậy?
Nàng ta nghiêm giọng:
- Anh có muốn tìm vợ chưa cưới của mình không?
Đức còn đang ngơ ngác thì cô nàng đã giằng cây dầm, tự bơi vừa nói:
- Anh cứ ngồi đó rồi sẽ biết.
Thái độ của cô nàng khiến Đức quá đỗi ngạc nhiên. Hình như Kiều Oanh biết hết chuyện của anh, thậm chí chuyện Quế Anh mất tích?
- Sao cô biết tôi và Quế Anh...?
Nàng cười thành tiếng:
- Nhà em ở đối diện nhà Quế Anh, chỉ cách con sông nhỏ. Hôm qua về tới đây em đã nghe nói chuyện Quế Anh sắp đám hỏi mà chưa biết lấy ai, cho đến khi thấy anh đi ghe có mâm quả tới thì em đã giật mình, không ngờ chú rể lại là anh! Đúng là suýt nữa em đã...
Nàng nói tới đó thì ngừng ngang, không phải ngại mà chừng như sợ điều gì đó, mặt tự dưng biến sắc! Đức ngạc nhiên:
- Cô sao vậy?
Kiều Oanh càng cố bơi nhanh, cuối cùng đến một khúc cua của con sông, mà phía bên tay phải có một cái miếu lớn, cô chỉ lên và nói:
- Anh mau lên đó thì rõ!
Đức còn đang lừng khừng thì tự dưng có ai đó xô mạnh một cái khiến anh chúi nhủi suýt ngã. Quay lại tính cự, nhưng thấy cô nàng vẫn ngồi ở lái xuồng, tay đang giữ dầm, không có vẻ gì là vừa mới xô anh.
- Sao cô xô mạnh vậy?
Kiều Oanh gắt lên:
- Không ai xô anh cả. Anh mau lên trên đó đi kẻo không kịp!
Đức đành phải bước lên chỗ cái miếu. Từ xa nhìn thì nghĩ đây là một miếu hoang, khi lên tới gần mới thấy là nhang khói tỏa hương thơm lừng. Chứng tỏ miếu đang có người thờ cúng. Tuy nhiên khi nhìn kỹ thì ngoài mấy bát hương đang cháy và hai mâm trái cây tươi thì không có ai ở đó.
Nhìn lên bệ thờ, bỗng Đức kêu lên:
- Quế Anh!
Rõ ràng là Quế Anh đang ngồi xếp bằng trên bệ thờ, mắt nhắm nghiền, vẻ mặt đờ đẫn khác thường...
- Quế Anh!
Đức kêu một tiếng lớn, Quế Anh mở mắt ra, rồi như thân cây đổ, cô nàng ngã ngang qua, nằm dài trên bệ thờ!
- Quế Anh!
Đức phải nhảy bổ vào đỡ lấy cô nàng, bởi lúc ngã thì thân người nàng nằm trên bát nhang đang cháy! Bế xốc Quế Anh lên, Đức chạy ngay xuống xuồng vừa định gọi Kiều Oanh tiếp một tay, nhưng nhìn chẳng thấy cô nàng đâu?
- Cô Kiều Oanh ơi!
Kêu mãi chẳng nghe trả lời, mà nhìn Quế Anh trong tình trạng đó Đức không thể chần chừ được, anh vội đẩy xuồng lui ra và bơi nhanh về nhà ông bà Cả.
Vừa nhìn thấy anh chở con gái về, bà Cả gào lên:
- Con ơi là con!
Bà ôm chầm lấy con gái, thấy lạnh ngắt thì càng gào to hơn:
- Con ơi, con có mệnh hệ nào thì má...
Ông Cả nạt ngang:
- Để yên cho người ta cứu nó coi!
Đức giải thích sơ qua cho mọi người nghe rồi giục:
- Mau thoa dầu làm ấm cho cô ấy đi!
Mẹ anh hỏi nhỏ con:
- Con gặp nó ở miếu mà mình mẩy có ướt không?
Đức lắc đầu:
- Không! Con thấy quần áo vẫn bình thường mà, chỉ có điều...
Bà Phán nói bằng giọng lo lắng:
- Mấy chiếc xuồng chài quả quyết là họ nhìn thấy Quế Anh lao mình xuống sông rồi mất tích luôn! Chuyện ấy xảy ra tối hôm qua lận, giống với thời điểm mà con nói gặp nó lạnh run trong vườn nhà mình đó!
Đức ngẩn ngơ một lúc rồi nhẹ lắc đầu:
- Không tin được những chuyện lạ lùng như vậy! Có thể là một điềm báo thì đúng hơn...
Họ không có thì giờ để bàn thêm, vì lúc đó Quế Anh khi được thoa dầu thì có dấu hiệu hồi tỉnh. Cô nói ú ớ gì đó trong miệng không nghe rõ, nhưng mấy tiếng cuối cùng thì hình như có tên của Đức!
Bà Cả gọi Đức:
- Con hỏi nó coi, nói gì?
Đức ghé sát vào Quế Anh hỏi đủ cho nàng nghe:
- Em có nghe được anh nói gì không? Có phải em muốn nói gì với anh không, Quế Anh? Anh là Đức đây.
Quế Anh chớp mắt mấy cái, nhưng vẫn im lặng...
Nửa giờ sau vẫn như vậy. Quá sốt ruột nên bà Cả phải nhờ Đức:
- Nó chưa tỉnh, nhưng xem ra chỉ có con là có thể giúp cho nó thôi. Má nhờ con ở lại đây đêm nay.
Trong lúc nguy cấp này bà mới chịu dịu ngọt với Đức. Thật ra trong lòng Đức cũng không đành lòng nhìn Quế Anh như vậy, nên anh nhận lời ngay:
- Con sẽ ở lại. Xin phép má để cho con ngồi đây một mình với em nó. Hình như Quế Anh không thích có đông người.
Tối đó chỉ mình Đức ngồi bên cạnh canh cho Quế Anh ngủ. Thỉnh thoảng anh nghe cô ấy gọi khe khẽ tên mình và hai dòng lệ chảy dài hai khóe mắt. Không thấy ai bên cạnh nên Đức đưa tay nắm lấy nàng như một cách truyền hơi ấm. Đột nhiên Đức phát hiện trong lòng bàn tay của Quế Anh có một vật gì đó giống như đạo bùa chú bằng vải màu vàng.
- Cái gì vậy?
Đức hỏi khẽ và tất nhiên là không ai trả lời. Anh tiện tay lấy vật ấy đưa xem và giật mình! Bởi đó thật sự là một loại bùa chú gì đó rất lạ. Anh không suy nghĩ gì thêm, vội cầm vật lạ ấy thuận tay ném thẳng nó vào đĩa đèn dầu đang cháy. Một ánh lửa xanh bùng lên, cùng lúc với một tiếng thét thật to của Quế Anh!
Vợ chồng ông Cả đang ở nhà trong vội chạy ra hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Dĩa đèn dầu sau khi bùng cháy đã tắt tối đen, ông Cả giục gia nhân:
- Tụi bay đốt đèn lên coi!
Bà Cả thì hỏi lần nữa:
- Chuyện gì vậy Đức?
Chẳng nghe Đức lên tiếng, bà hoảng hốt:
- Có chuyện rồi ông ơi!
Khi đèn đốt sáng trở lại thì cả hai Quế Anh và Đức không còn đó nữa!
- Trời ơi!
Bà Cả chỉ kêu được mấy tiếng rồi ngất xỉu...


Phần II


Kiều Oanh lúc mê lúc tỉnh suốt cả đêm khiến cả nhà lo lắng, sợ hãi. Vào nửa đêm khi vừa tỉnh lại, cô đã chỉ tay qua bên kia sông mà la lên:
- Đừng hại người ta, họ có làm gì đâu mà ác với họ quá lắm vậy!
Ông bà Hai Tâm chẳng hiểu chuyện gì nên vội hỏi:
- Con nói ai, Kiều Oanh?
Nhưng cô nàng không trả lời, mà lại nằm xuống và rơi vào hôn mê như trước đó. Khoảng nửa giờ sau Kiều Oanh lại tỉnh lần nữa. Nhưng lần này thì giọng điệu khác hẳn:
- Họ đã chết chưa? Sao không ai qua bên đó xem hai đứa nó ra sao rồi?
Ông Hai Tâm hỏi:
- Con nói họ là ai?
Kiều Oanh chỉ tay qua chỗ ngôi nhà có đèn sáng bên kia sông:
- Nhà đó đó!
Bà Hai giật mình nói:
- Đó là nhà ông Cả Sử, sao con lại...
Kiều Oanh nghiến răng:
- Phải để họ chết hết đi!
Nói xong cô ta lại ngã ra và hầu như không biết gì nữa! Vợ chồng Hai Tâm lo lắng quá đỗi, bà nhớ lại chuyện tối qua, mà càng sợ thêm:
- Chiều qua đang ăn cơm bỗng nó bỏ đi xuống bến rồi đi đâu chẳng hiểu, đến đêm mới về mình mẩy ướt đẫm, người lạnh cóng rồi sau đó thì mê man luôn! Đây là lần đầu tiên nó bị như vậy.
Ông Hai thêm:
- Ngay bữa ở Sài Gòn về nó đã có biểu hiện kỳ kỳ rồi... Cứ hỏi là có thấy thằng Hiếu tới thăm không? Mà thằng Hiếu thì đã chết mấy năm rồi...
Bà Hai cũng nhớ lại:
- Nó hầu như không nhớ gì chuyện thằng Hiếu đã chết, mà cứ sợ thằng ấy tới nhà tìm! Hình như nó bị cái gì đó ám hay sao mà tính tình thay đổi, chứ từ nào nó có như vậy đâu?
Vừa khi ấy từ ngoài sân có người bước vào nhanh và hỏi oang oang:
- Có chuyện gì vậy anh chị?
Nhìn ra thì bà Hai reo lên:
- Cô Tiên! Trời ơi, sao lại bất ngờ vậy?
Ông Tâm cũng ngạc nhiên không kém:
- Nghe nói cô ở bên Tây, về hồi nào vậy?
- Mới về hôm qua. Sáng nay phải hỏi thăm mãi mới nhớ đường qua đây thăm anh chị. Bây giờ xứ mình thay đổi nhiều quá!
Rồi bà ôm chầm lấy bà Tâm, ràn rụa nước mắt:
- Sui gia hụt của em đây mà! Phải chi năm đó bên Pháp em không bị bệnh liệt giường và kịp về để lo đám cưới cho thằng Hiếu thì nó đâu có chết oan uổng như vậy!
Bà Tâm chỉ tay lên bộ ván gỗ nơi Kiều Oanh đang nằm thiêm thiếp, nói:
- Cũng từ khi thằng Hiếu chết đột ngột thì con nhỏ tôi cũng như người mất hồn, bỏ đi và ở biệt trên Sài Gòn, ít khi về đây.
Người đàn bà mẹ của chàng trai tên Hiếu nhìn sang, chị thấy Oanh nằm quay mặt vào vách nên nói:
- Từ ngày thằng Hiếu báo tin là ba nó tìm được cô gái nó ưng ý thì tôi chưa một lần gặp mặt con dâu tương lai, nghe nói con gái chị dễ thương và hiền hậu lắm phải không?
Bà Tâm chép miệng:
- Phải chi nó dậy được thì cô sẽ thấy...
- Cháu nó bệnh gì vậy?
- Có bệnh hoạn gì đâu. Tối hôm qua...
Bà do dự một chút rồi kể lại mọi chuyện cho vị khách nghe. Nghe xong, bà ta tắc lưỡi:
- Tội nghiệp không! Dẫu nó không trở thành con dâu của tôi, nhưng vẫn là người mà con trai tôi thương, nên tôi tính chuyến này về qua gặp anh chị để xin cho nó đi theo tôi qua Pháp. Tôi ở bên đó với đứa con gái đầu, bây giờ nó lấy chồng xa nên tôi ở một mình buồn quá. Con Kiều Oanh này mà chịu theo tôi thì qua bên đó sẽ có nhà giàu cưới nó ngay!
Bà ta vừa dứt lời thì thật bất ngờ. Kiều Oanh bật dậy la lớn:
- Đừng nói chuyện đó!
Vị khách chợt nhìn thấy Oanh, bà ta kinh ngạc:
- Thì ra là... là cô sao? Là... là...
Vợ chồng Hai Tâm ngạc nhiên:
- Cô Sáu biết con Oanh?
Kiều Oanh cũng vùa nhận ra vị khách:
- Bà... bà là người trên xe đò?
Bà khách kêu lên:
- Hôm qua tôi về cùng chuyến xe với nó mà đâu có biết! Trời ơi, mẹ chồng gặp nàng dâu mà nhìn như người lạ, tức cười chưa!
Nhưng chợt bà khựng lại, lắp bắp hỏi:
- Con... con lấy chồng hồi nào?
Trong lúc Kiều Oanh còn ngơ ngác thì mẹ cô hỏi liền:
- Cô nói gì vậy cô Sáu? Con gái tôi kể từ khi thằng Hiếu của cô chết, nó có ai đâu!
- Có... Tôi mới gặp...
Lời bà chưa dứt thì một lần nữa, Kiều Oanh lại ngã vật ra rồi trở lại trạng thái trước đó. Bà Tâm hốt hoảng:
- Con! Con!
Rồi bà quay sang trách:
- Cô Sáu nói gì để nó mới tỉnh đã lại như vậy rồi!
Bà mẹ của Hiếu ngập ngừng một lúc mới nói thẳng:
- Hôm qua tôi về cùng chuyến xe với nó, nó ngồi băng sau kế tôi với... thằng chồng nó nữa. Giữa đường nó ói tới mật xanh mật vàng, cũng may là có thằng ấy nó lo. Thằng coi bộ được à, hiền hậu, đẹp trai và biết thương vợ nữa!
Ông Tâm nãy giờ không nói, giờ phải chen vào:
- Nhà tôi đã nói rồi cô Sáu, con Kiều Oanh chưa có gia đình!
- Nhưng...
Bà định nói tiếp thì bỗng ôm lấy đầu rồi phải ngồi xuống ghế mới không bị ngã. Bà ngạc nhiên:
- Sao khi không tôi lại bị...
Phải một lúc khá lâu, bà ta mới trở lại bình thường, nhưng lại tỏ ra sợ sệt điều gì đó. Bà kiếu từ:
- Thôi, để bữa nào tôi trở qua thăm. Bữa nay tôi... tôi...
Bà vừa nói vừa bước nhanh ra ngoài trước sự ngạc nhiên của vợ chồng Hai Tâm, bà hỏi chồng:
- Bà ta nói gì hồi nãy vậy? Nói con Kiều Oanh nhà mình đi với ai trên xe?
Ông Tâm nhìn lại chỗ con gái nằm và thở dài:
- Ai mà biết...
Lời ông chưa dứt thì bỗng Kiều Oanh thét to lên:
- Anh Hiếu, đừng làm vậy!
Rồi cô từ trên bộ ngựa gỗ nhảy gọn xuống và chẳng nói thêm gì, cắm đầu chạy một mạch ra ngoài! Bà Tâm gào lên:
- Oanh! Con đi đâu vậy?
Bà quay sang giục chồng:
- Ông làm ơn chạy theo bắt nó lại coi, con nhỏ đang bị bệnh mà!
Hai Tâm chạy khá nhanh, nhưng cũng không kịp, bởi Kiều Oanh đã nhảy xuống xuồng và bơi rất mau hướng qua sông. Chính ông Tâm nhìn theo thấy rõ ràng, con gái ông ngồi yên không hề chèo xuồng, vậy mà chiếc xuồng vẫn băng băng lướt tới như có ai đó đẩy hay kéo!
- Oanh ơi, đừng đi, con mới biết lội, nguy hiểm lắm!
Ông cũng nhảy xuống một chiếc xuồng khác bơi theo. Nhưng khi qua tới bờ bên kia thì không còn nhìn thấy xuồng của con gái nữa. Mà sông nước vùng này mênh mông, nhiều rạch, kênh chia nhiều hướng, biết đi theo đường nào? Cuối cùng ông cũng bơi đại theo con kênh phía tay phải.
Trong khi đó thì chiếc xuồng chở Kiều Oanh đang phăng phăng tiến về gần cuối con sông nhỏ, nơi có ngôi miếu thổ thần bữa trước. Lần trước chính Kiều Oanh đã đưa Đức tới đây, nhưng cũng giống như lần này, cô không hề chủ động, cho nên khi nhìn lại cảnh cũ mà cô vẫn tỉnh như không. Cho đến khi cô chậm bước lên nhìn vào trong miếu lúc ấy chợt cô như hoàn hồn, kêu lên:
- Trời ơi, đừng hại người ta!
Trước mắt cô là hai người đang nằm dài trong miếu. Đó là Đức và Quế Anh! Cả hai trong tình trạng như say ngủ.
- Đừng! Em nói đừng mà. Họ vô tội mà!
Lúc ấy Kiều Oanh như đang giằng co với ai đó. Mặc dù cô đứng đó một mình. Phải đến khi cô lên tiếng rõ hơn:
- Em lạy anh Hiếu ơi, người con trai này chỉ giúp em lúc em bị ói trên xe đò thôi, chứ anh ta nào phải là bồ hay chồng của em đâu! Anh hiểu lầm rồi...
Cô nói chưa dứt lời thì đã nghe một cái tát mạnh vào má, Kiều Oanh lảo đảo rồi ngã sấp vào chỗ bày nhang đèn cúng trước miếu. Cô gào lên:
- Anh quá đáng, chết rồi mà vẫn còn ghen tuông vô lý như vậy, bảo người ta chung tình với anh sao được!
Lời nói này có tác dụng ngay, bởi liền lúc đó bỗng có tiếng rú lên của một người đàn ông và tiếp theo là tất cả những vật dụng, cây cối chung quanh đó đều bị ném tung lên, ngã đổ ngổn ngang. Nhưng tuyệt nhiên không thấy người gây ra chuyện ấy!
Giữa lúc Kiều Oanh còn chưa kịp ngồi dậy thì có một bóng đen lao vút tới như một cơn giông bão! Chẳng kịp suy nghĩ, thuận tay Oanh chụp ngay chiếc bình bằng sành dùng cắm hoa quơ lên thật mạnh.
Bốp!
Một tiếng va đập thật mạnh vang lên, cùng lúc đó một tiếng rú kéo dài... Tiếng rú hình như là của một người đàn ông! Cùng lúc có một vật thật to ngã xuống. Đó là... một người toàn thân đầy máu!
Kiều Oanh bật dậy và cô cũng kịp kêu lên:
- Hiếu!
Người đầy máu kia sau tiếng gọi tên của Kiều Oanh đã từ từ tan biến giống như một khối nước đá để giữa trời nắng! Chỉ nửa phút sau thì nơi đó chỉ còn lại một vũng nước sền sệt, đen ngòm...
- Hiếu!
Oanh lại gọi tên Hiếu một lần nữa với nỗi ân hận dữ dội, cô chỉ muốn chạy theo hướng mà cô đoán là Hiếu vừa rời khỏi. Nhưng vừa kịp lúc, nhìn lại, thấy hai người vẫn đang nằm im đó thì Oanh lại la lớn:
- Hai người hãy đi ngay đi, anh ta có thể trở lại bất cứ lúc nào! Hãy xuống xuồng về ngay nhà đi, mọi việc ở đây để tôi lo!
Lời cô vừa dứt thì Đức và Quế Anh cũng vừa tỉnh lại. Họ ngơ ngác nhìn quanh, đến khi thấy Kiều Oanh thì Đức hốt hoảng:
- Cô là... người hay ma? Hôm trước cô đã...
Kiều Oanh nói nhanh:
- Đừng hỏi lôi thôi nữa, hay dẫn cô ấy trốn đi. Đúng là hôm trước tôi đã bị Hiếu sai khiến để dẫn dụ anh tới đây và hôm nay cũng thế, chính người yêu tôi vì ghen nên đã khiến tôi cùng tới đây để ra tay sát hại hai người, nhưng tôi không đành như vậy nên vừa rồi tôi đã làm tổn thương anh ấy, để anh ấy đi mà không biết đi đâu. Tuy nhiên, lúc này hai anh chị hãy đi đi, về nhà và lập tức cử hành ngay hôn lễ, động phòng hoa chúc ngay tối nay, như vậy mới có cơ may sống sót! Chứ người yêu tôi, anh Hiếu là một hồn ma ghen dữ dội, sẵn sàng giết cả hai người nếu còn cho anh chị chưa là vợ chồng với nhau. Mau đi đi, anh ta sẽ trở lại đây ngay bây giờ!
Đức nhìn Quế Anh rồi không chần chừ, anh bế thốc người yêu lên, chạy nhanh xuống chiếc xuồng mà Kiều Oanh vừa mang tới. Ra sức bơi rất nhanh ra giữa dòng...
Ở trong miếu một mình. Kiều Oanh bất thần chụp lấy mảnh sành bị vỡ lúc nãy và đâm thẳng vào hai mắt của mình, trước khi gục ngã xuống...
***
Việc Đức và Quế Anh trở về đột ngột trong đêm đã là một bất ngờ của đôi bên cha mẹ hai người. Nhưng họ chưa bất ngờ bằng lời yêu cầu của chính Quế Anh:
- Ba má cho tụi con làm lễ cưới ngay trong đêm nay đi, nếu không cả hai đứa con đều phải chết!
Bà Cả trợn tròn mắt:
- Con nói gì vậy Quế Anh? Lễ hỏi còn chưa cử hành, làm sao có thể...
Đức vội giải thích:
- Tụi con vừa bị nhốt ở miếu thổ địa, suýt chết bởi hồn ma, nếu không nhờ cô gái ấy cứu thì không toàn mạng về đây. Tụi con bị một hồn ma ghen dữ dằn, sẵn sàng giết chết nếu con và Quế Anh không thành vợ chồng trong đêm nay!
Bà Phán Hòa nghe cũng không xuôi tai, bà hỏi lại:
- Sao có chuyện kỳ lạ vậy? Mình đâu thể chiều theo...
Bỗng Quế Anh sụp xuống, cô lạy cả hai bên cha mẹ:
- Con xin cha mẹ hai bên, hãy cứu tụi con kẻo không kịp! Con lạy ba má...
Đức cũng sụp xuống lạy y như vậy làm cho bốn ông bà già sững sờ đưa mắt nhìn nhau. Trong lúc họ còn đang lưỡng lự thì Quế Anh sắp sửa trở lại trạng thái cũ, cô co rúm người như sắp hôn mê.
Ông Cả hốt hoảng:
- Không xong rồi bà ơi! Mau... mau cho tụi nó...
Sau khi hội ý chớp nhoáng, hai bên cha mẹ đồng ý cho làm lễ lạy gia tiên ngay trong đêm và âm thầm khấn vái:
- Ở thế chẳng đặng đừng nên buộc lòng chúng con phải chấp nhận cho tụi nó làm chuyện này... Kể từ bây giờ tụi nó được là vợ chồng của nhau, xin ơn trên độ trì cho mọi điều tốt đẹp...
Sau khi lễ lạy gia tiên xong, chính Quế Anh giục Đức rất khẽ:
- Mau đi...
Nửa đêm hôm đó, có lẽ lúc ấy chuyện động phòng của hai người đã qua, bất chợt ở phía sau vườn có một tiếng gầm rú chẳng khác con mãnh thú bị thương nặng!
Quế Anh là người run sợ hơn ai hết, cô rúc vào lòng Đức vừa thều thào:
- Lại nữa rồi!
Đức cũng hiểu đó là oan hồn, giống như anh và vợ đã gặp lúc ở miếu thổ thần. Nhưng chẳng còn cách nào hơn, anh cố trấn an:
- Không sao, nếu chết thì cùng chết!
Nhưng họ chờ rất lâu mà chẳng có việc gì xảy ra... Tiếng hú cũng không vang lên nữa. Cho đến gần sáng, trong lúc mọi người đang ngủ say thì chỉ mình Đức nghe được một tiếng khóc bên ngoài cửa sổ vọng vào.
- Ai?
Đức sợ làm cho Quế Anh tỉnh giấc nên anh nhẹ bước một mình, bước đến gần cửa sổ nhìn ra.
- Kiều Oanh!
Rõ ràng Kiều Oanh đang ôm ngang đôi mắt đầy máu, nói vọng vào vừa đủ cho Đức nghe:
- Anh cầm lấy vật này và cùng với quần áo hai người mặc ban chiều hãy đốt ngay, bởi tất cả đã bị ma nhập, mặc vào lại sẽ vong mạng ngay!
Đức đón lấy vật mà cô gái vừa ném vào, anh nhận ra đó là chiếc lược cài tóc của Quế Anh. Anh chưa kịp hỏi thì nàng ta đã tiếp lời:
- Trước đây cô Quế Anh làm rơi chiếc khăn quàng và lọt vào tay Hiếu, anh ấy đã dùng vật ấy để khống chế, sai khiến cô Quế Anh, suýt nữa cô ấy đã thành ma rồi! Bây giờ phải giữ kỹ mọi thứ, chờ đến khi nào tôi tới nơi đã, lúc đó mới yên...
Nàng ta nói dứt lời thì cắm đầu chạy rất nhanh về phía bờ sông, Đức hiểu là cô nàng còn sống, nên quên cả hiểm nguy, vội đuổi theo.
***
Đức rất bất ngờ khi nhìn thấy trước mặt mình là một ngôi nhà khá lớn, nơi mà Kiều Oanh đã chạy vào mấy giây trước đó. Nhà của ai? Đó là câu hỏi mà Đức đang hoang mang và chưa có câu trả lời, bởi với anh thì nơi này hoàn toàn xa lạ...
Anh không định đột nhập vào trong, nhưng nhìn thấy Kiều Oanh ôm mặt đầy máu chạy vào đó trong trạng thái gần như không thấy đường đi, Đức tức tốc đuổi theo nhanh hơn. Anh lọt vào phía sau ngôi nhà lớn như cái dinh thự mà không gặp bất cứ trở ngại nào. Cho đến khi...
- Thưa bà, những gì bà dặn lâu nay con luôn làm đúng. Ngôi nhà này dẫu không ai ở, nhưng con vẫn hằng ngày quét dọn tươm tất, các phòng ngủ của bà, của các cô cậu ngày trước con vẫn chăm sóc như trước đây. Đặc biệt là phòng cậu Hiếu, mỗi ngày con đều thay bình hoa mới, thay áo gối, thay drap nệm hai ngày một lần. Nhưng lạ quá bà ơi...
Đó là những lời của Ba Tiền, người quản gia lâu năm của gia đình Phủ Xuân, chủ nhân ngôi nhà đồ sộ này, anh ta nói với một người phụ nữ mà vừa thoạt nhìn thấy Đức đã suýt kêu lên, bởi đó chính là người đàn bà đã mua cho Kiều Oanh lon sữa lúc ở trên xe đò! Nhờ đứng trong bóng tối, nên Đức không bị phát hiện và nhờ vậy anh tiếp tục nghe được câu chuyện giữa hai người.
Ba Tiền hạ thấp giọng như sợ người ngoài nghe:
- Từ ngày cậu Hiếu chết, đêm nào con cũng nghe có tiếng hát và thổi kèn Tây từ phòng cậu vọng ra! Rồi áo gối, hay drap trải giường, cứ hai ngày con thay theo lời bà dặn thì đều thấy gối bị dơ, drap nhăn nheo và... có mùi mồ hôi! Riêng cơm nước bà dặn con dọn cho cậu mỗi ngày ở ngoài nhà mồ, con đã làm y như vậy và... hầu như bữa nào cậu ấy cũng ăn sạch!
Lúc này bà Sáu Anna, tên người phụ nữ, kinh ngạc:
- Có phải chú quá sợ nên không dám vào nhà mồ rồi để cho chó mèo gì lẻn vào ăn hết chứ gì?
Ba Tiền cãi liền:
- Dạ không phải đâu bà? Nhà mồ kín như bưng, một khi đóng cửa lại thì con gián, con ruồi vào cũng không được, làm gì có mèo chó! Chính cậu Hiếu ăn đó bà!
Tuy Hiếu là con của bà, nhưng bà Sáu Anna nghe nói vậy cũng bắt rùng mình! Bà nhìn sững Ba Tiền rồi run run giọng hỏi lại:
- Ngoài ra nó có phá phách gì không?
- Dạ có! Nhất là cách đây mấy ngày, đúng vào lúc bà về đây thì ngày nào cậu ấy cũng... nhậu nhẹt say khướt rồi đập phá nhà mồ lung tung! Con muốn báo cho bà hay nhưng e bà sợ nên chưa dám nói...
Rồi anh ta lại hạ thấp giọng hơn:
- Mà hình như cậu ấy ghen hay sao đó! Con nghe cậu cứ kêu tên người con gái nào đó là Kiều Oanh rồi gầm thét dữ dội! Tối nay, lúc con bưng mâm cơm xuống thì cũng vừa lúc cậu ấy tung cửa chạy ra, suýt nữa đã xô con ngã! Không biết giờ này đã về chưa nữa...
Bà Sáu Anna hơi chùn bước, vừa nói:
- Lâu ngày tao không về thăm nó, chẳng biết nó còn nhớ không? Lỡ nó lên cơn điên như vậy có sao không?
Ba Tiền trấn an bà:
- Bà là mẹ cậu ấy mà, làm sao cậu ấy dám làm gì!
Nhờ được khích lệ nên bà Anna mới dám theo Ba Tiền bước vào nhà mồ. Anh ta giải thích thêm cho bà nghe về ngôi nhà mồ này:
- Bà biết không, lúc cậu Hiếu chết thì ông nhà cũng còn khỏe, nên ông quyết định đứng ra tự trông coi việc xây ngôi nhà mồ này! Mà chẳng hiểu sao ông lại cho xây đến hai cái huyệt trong này? Một cái thì đã dành chôn cậu ấy rồi, cái còn lại con có mạo muội hỏi thì ông đã nói một câu rất khó hiểu là "để chôn con vợ nó!", mà làm gì cậu Hiếu có vợ?
Bà Anna bỗng kêu lên:
- Con Kiều Oanh!
Ba Tiền ngơ ngác:
- Bà nói Kiều Oanh là ai? Sao trùng với cái tên mà cậu Hiếu cứ gọi hoài mấy hôm nay?
- Con nhỏ đó... thật tội nghiệp!
- Bà nói ai?
Bà Anna gạt ngang:
- Mày không hiểu đâu, đừng hỏi!
Lúc này hai người đã mở cửa nhà mồ bước hẳn vào trong. Tối đen như mực, cho đến khi Ba Tiền bật đèn pin lên, anh ta nói khẽ:
- Có cây đèn măng-sông ở chỗ kia, để con đốt lên.
Đây là lần đầu tiên bà Anna bước vào đây, và mặc dù biết đây là nơi chôn con trai mình nhưng bà cũng nghe lạnh người, đứng yên một chỗ không dám bước tới. Khi đèn măng-sông cháy sáng lên thì Ba Tiền giục:
- Bà bước vào đây, mộ của cậu Hiếu kia!
Anh ta vừa dứt lời thì bỗng thét lên một tiếng, suýt nữa đã làm rơi cây đèn đang cầm trên tay! Trước mắt anh, có một người con gái đang ngồi trong cái huyệt trống.
- Bà... bà...
Bà Anna cũng đã thấy, bà chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi ngã người trên sàn! Lúc ấy cô gái tuy không thấy được người chung quanh, nhưng cô vẫn còn tỉnh táo để lên tiếng:
- Con là Kiều Oanh đây! Con tới với anh Hiếu để cho anh ấy thấy là con không phản bội anh ấy, con vẫn mãi mãi ở bên anh ấy! Con là vợ của anh ấy mà...
Bà Anna bừng tỉnh, bà kêu lên:
- Kiều Oanh! Sao... sao cháu như vậy?
Lúc ấy, bà đã nhìn rõ hai hốc mắt đầy máu của Oanh!
- Con phải lấy đi đôi mắt của mình trước khi chết theo anh Hiếu, để anh ấy thấy rằng ngoài anh ấy ra con chẳng muốn nhìn một ai nữa! Hãy nói với Hiếu, Kiều Oanh này không bao giờ một dạ hai lòng...
Lời vừa dứt thì nắp huyệt cũng vừa đóng sập xuống, nhốt trong đó một cô gái tuổi thanh xuân! Cũng đồng thời lúc ấy, bà Anna và Ba Tiền như bị ai đó nhấc bổng lên và ném nhanh ra ngoài. Khi họ chưa kịp bò dậy thì đã nghe rầm một tiếng, nhìn lại đã thấy cánh cửa nặng nề của ngôi nhà mồ bị đóng chặt lại!
- Trời ơi, Hiếu!
Bà Anna gào lên, cố gắng dậy và chạy tới nắm chốt cửa kéo ra, nhưng vô vọng, cửa đã bị khóa chặt bên trong!
Lúc đó đêm đã dần khuya. Vầng trăng trên đỉnh đầu bắt đầu ngả về hướng tây, lạnh lùng soi ánh sáng mê ảo xuống khu nhà mồ, tạo thành một khung cảnh nửa hư nửa thực, khiến cho Ba Tiền vốn lâu nay đã quá quen thuộc với hình ảnh này cũng phải bắt rùng mình! Anh run run giọng hỏi bà chủ:
- Rồi mình phải làm sao với cô Kiều Oanh đây bà?
Bà Anna chỉ biết buông một tiếng thở dài và im lặng...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #68  
Old 11-07-2012, 05:28 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 33

YÊU NGƯỜI CÕI CHẾT


Lần thứ hai, khi sợi dây câu chùng xuống thì Phi đã rút kinh nghiệm không giật lên ngay như lần trước, mà để cho đầu cần câu nặng hơn rồi mới giật mạnh! Sức trì rất mạnh, Phi phải lấy lại tư thế để không bị mất thăng bằng, anh buột miệng:
- Con này to hơn!
Lúc nãy anh đã bị sẩy một con khi đã giật lên khỏi mặt nước, nên lúc này Phi quyết không để bị hụt lần nữa, anh cố ghì chặt tay một chỗ để cho lưỡi câu bám sâu vào mép con cá.
Mặc dù vậy, hình như con cá bị mắc câu cũng đáo để lắm, nó kéo sợi dây câu chạy vòng vòng dưới mặt nước. Sức mạnh của nó khiến Phi đôi lần tưởng chừng không giữ nổi con cá. Anh ghì mạnh thêm một chút, và lúc ấy con cá từ dưới mặt nước vọt thẳng lên cao làm cho Phi phải kêu lên:
- Trời ơi, lớn quá!
Con cá dính câu lớn đến ngoài sức tưởng tượng của Phi và cả những người đậu ghe gần đó. Họ la lên:
- Quấn cần câu vào gốc cây chịu nó lại!
Phi chưa kịp làm thì một lần nữa con cá lại vọt lên như chọc tức anh và rồi... dây câu nhẹ tênh!
- Sẩy rồi!
Phi kéo vội sợi dây câu lên và chán nản lầm bầm:
- Đứt dây rồi!
Sợi dây câu bị đứt ngang, mất luôn lưỡi câu! Phi vứt luôn cần câu, đứng ngay dậy trước sự tiếc rẻ của mấy người chung quanh, họ bảo:
- Cậu sát cá lắm, nối lưỡi câu câu tiếp đi! Nói thật, tụi tôi ở xứ này mà câu cả chục năm nay chưa từng có được con cá cắn câu nào lớn đến như vậy! Chỉ tại dây câu nhỏ quá thôi. Hay là cậu đổi dây câu lớn của tôi đây mà câu...
Nhưng Phi vẫn lắc đầu:
- Không đến quá tam ba bận đâu, thôi tôi về đây!
Anh lên xe đạp đi thẳng. Tiếc thì có tiếc hai con cá câu hụt, nhưng đã xác định đi câu chỉ để giết thì giờ, nên vài phút sau thì Phi đã quên chuyện câu cá và ghé vào quán nước ven sông mà từ hôm về đây tới nay ngày nào anh cũng ghé qua. Không phải bởi thức uống ngon hay khung cảnh nên thơ, mà chỉ vì cô chủ quán...
Sống ở thành phố lâu năm, quen nhiều cô gái đẹp, nhưng phải công nhận là chưa bao giờ Phi nhìn thấy một cô gái nào xinh xắn và quyến rũ đến lạ thường như cô gái này!
Vừa dừng xe lại thì Phi đã nghe từ trong quán có tiếng nói vọng ra:
- Cậu làm cho người đẹp giận rồi!
Phi bước vào quán và hỏi ngay:
- Mỹ Lan đâu?
Chị chủ quán nghiêm giọng:
- Nó giận cậu nên từ sáng tới giờ không ra bán. Giận thật đó!
Phi ngạc nhiên:
- Em đâu có làm gì mà giận?
- Chuyện cậu đi câu cá! Hôm qua cậu nói sáng nay đi câu cá là nó giận liền, bỏ bán luôn cả buổi tối!
Phi phân trần:
- Đi câu là thú vui của em mà, cô ấy cũng biết, sao lại giận...
- Nhưng tôi nghe cậu hứa với nó là bỏ câu, nên hôm qua nghe cậu quyết đi câu bữa nay, nó đùng đùng bỏ về luôn, cho tới giờ này vẫn không ra! Con nhỏ này tính khí nó vậy đó, hễ ai làm không vừa lòng là bỏ luôn không nói chuyện nữa. Đặc biệt là cậu...
Bà chủ quán biết giữa vị khách trẻ này và cô gái phụ bán với mình có cảm tình đặc biệt với nhau, mà ý bà cũng tán đồng chuyện đó, nên ngầm vun vén cho họ. Mỹ Lan là cô gái hiền lành, đẹp người, đẹp nết nên hầu như khách khứa tới quán đều mến mộ cô nàng, trong số đó có không ít những tay chơi, những tay hiếu sắc, nên khi thấy Lan và Phi thích nhau thì bà ngầm hài lòng. Bà thương Mỹ Lan như con nên muốn được một người như anh chàng Phi này để gọi là cháu rể!
Đã thất vọng vụ con cá, giờ lại thêm nỗi thất vọng lớn hơn, nên Phi không buồn ngồi lâu, anh vừa sửa soạn đứng lên thì bà chủ quán ghé tai nói nhỏ:
- Cậu đi vòng ra cửa sau, con Mỹ Lan nằm dưỡng bệnh trong đó!
Phi giật mình:
- Cô ấy bị sao vậy?
- Nó bảo giấu, nhưng với cậu thì tôi nói, nó bị ngã dập cái môi hơi nặng!
Không đợi bà ta nói thêm, Phi đã bỏ xe đạp đó, chạy một mạch vòng ra cửa sau cách đó không xa. Đây là nhà riêng của bà chủ quán nên ngoài bà thì không còn ai, ngoại trừ một người mà bà cho biết đang nằm trong đó.
- Mỹ Lan ơi!
Một tiếng thảng thốt từ bên trong:
- Đừng vào!
Nhưng Phi đã bước nhanh vào nhà, vừa kịp nhìn thấy Mỹ Lan mới quay mặt vào trong, tay còn che miệng:
- Em bị sao vậy?
- Đừng... đừng nhìn!
Cô nói xong thì bước hẳn vào trong, nói với ra:
- Anh về đi, để em nghỉ ngơi!
- Nhưng mà...
Giọng nàng gắt lên:
- Anh về đi kiếm mấy con cá của anh đi!
Cửa phòng bên trong đóng sầm lại. Phi không còn cách nào khác, anh lững thững bước ra. Anh gặp bà chủ quán ở bên ngoài, bà nói khẽ với Phi:
- Cậu yên tâm về đi, để rồi chị tìm cách nói cho. Con nhỏ coi bộ "kết" cậu lắm rồi đó, vậy liệu mà tính tới đi... Đồng ý không, chị ủng hộ!
Phi cười nửa muốn gật đầu, nhưng nửa còn ngượng... Hiểu ý, bà chủ quán bảo:
- Cậu về đi rồi nếu tối nay có rảnh thì mua mấy hộp sữa tới cho con nhỏ bồi dưỡng, nó bỏ ăn từ sáng đến giờ!
Phi đạp xe về chỗ trọ mà lòng cứ lo lo... Chẳng hiểu Mỹ Lan bị thương tích thế nào mà cô nàng có vẻ khó chịu bẳn gắt?
Khi về tới nhà rồi, anh nghe người chủ nhà trọ bảo:
- Lúc nãy có một cô gái trẻ lắm tới đây, cô ấy bảo tôi đưa cậu cái này rồi đi liền.
Phi tiếp nhận gói giấy và mở ra xem ngay. Anh giật mình kêu lên:
- Trời ơi!
Ông chủ nhà ngạc nhiên:
- Gì vậy cậu?
- Dạ... dạ không. Mà cô gái đó đi lâu chưa?
- Lâu rồi. Tôi có để ý xem cô ta đi hướng nào, nhưng bước ra thì cô ta đã biến đâu mất!
Phi nắm chặt vật trên tay, anh sững sờ. Bởi đó là chiếc lưỡi câu anh vừa bị đứt lúc giật con cá lên! Sao nó lại ở đây?
Không để lão chủ nhà nhìn thấy, Phi bước hẳn vào phòng mình rồi mới lấy chiếc lưỡi câu còn dính một khúc dây câu ra xem lại. Không thể lầm được, chiếc lưỡi câu do chính Phi giũa lại lưỡi cho nhọn hơn, đúng là chiếc này!
- Kỳ lạ...
Phi cứ lầm bầm mãi, cho đến khi trời vừa chập choạng tối thì anh lại đạp xe ra ngoài. Mua năm hộp sữa, một chục trứng gà, Phi mang tới quán ven sông. Nhưng chưa kịp vòng ra sau nhà thì bà chủ quán đã chặn anh lại và bảo:
- Không biết đi đâu mà nó ra ngoài từ khi trời còn nắng. Đi về hướng chỗ cậu câu cá hồi sáng...
Phi gửi trứng và sữa ở đó, rồi đạp nhanh theo hướng bà ta chỉ. Chỗ bờ sông mà buổi sáng dân câu cá hay ngồi câu bây giờ vắng lặng, không một bóng người, không một tàu ghe nào neo đậu. Phi vừa muốn trở về thì bất chợt anh nhìn thấy mộc bóng người từ dưới sông bước lên, cái bóng quen quen...
- Ai mà giờ này...
Phi có chủ ý nên bám theo mà không gây tiếng động. Người kia sau khi bước từ mé nước lên đã đi thẳng lên bờ và dừng lại giũ quần áo cho khô, trước khi bước đi rất nhanh. Phi bám sát theo và anh thảng thốt kêu lên:
- Mỹ Lan!
Tiếng kêu của Phi không lớn lắm, nhưng hình như cô nàng nghe được, bởi vậy rất nhanh, cô ta đi như chạy và chỉ phút chốc là đã biến mất ở phía cuối đường.
Phi tức tốc đuổi theo và mặc dù anh cố đạp xe khá nhanh, nhưng vẫn không làm sao thấy được nàng ta đi hướng nào? Anh phải quay trở lại quán. Nghe kể lại thì bà chủ quán sau một lúc suy nghĩ đã bảo:
- Hay là cậu thử đi tìm nhà ba mẹ của nó coi.
- Ở đâu vậy chị?
Bà chủ quán lắc đầu:
- Từ lúc tới quán làm nó chỉ nói là trú ngụ ở làng chài ven biển phía Gò Công, biển Tân Thành thì phải, còn cụ thể thế nào tôi cũng không rõ. Cậu chờ đến mai xem sao rồi hãy đi.
Không thể chờ qua một đêm, nên ngay tối hôm đó Phi đã ra bến xe đò mua vé đi Gò Công. Xứ này có lần anh đã tới, nên dù trời mới mờ sáng Phi cũng đi ngay ra phía biển...
Dò hỏi mãi, cuối cùng Phi cũng tới được làng chài ven biển Tân Thành. Chỉ vài trăm nóc nhà, nhưng việc đi hỏi tên một cô gái mà mình mới quen, đã rời xứ đi tha hương là một việc vô cùng khó khăn. Phi đã hỏi trên một chục nơi, nhưng ai cũng lắc đầu bảo:
- Ở đây đâu có ai tên Mỹ Lan mà cỡ tuổi đó!
Phi vẫn kiên nhẫn lần dò hỏi thêm, và trời cũng còn thương anh khi một bà lớn tuổi xác nhận:
- Ở xóm trên có một đứa con gái tuổi đôi mươi tên đó, nhưng hình như không có ở nhà.
Phi mừng quá hỏi tới:
- Nhà chỗ nào bác? Ba má cô ấy tên gì?
Bà lão tốt bụng, sốt sắng chỉ:
- Cậu đi lên xóm chài phía trên, hỏi nhà Tám Ri làm nghề cào nghêu, đó là nhà cha mẹ con nhỏ tên Mỹ Lan.
Mừng quýnh, Phi đi nhanh tới đó và gặp ngay một người đàn ông có gương mặt khắc khổ đang đứng trước nhà, anh hỏi:
- Bác cho cháu hỏi, đây có phải nhà bác Tám Ri không?
- Tôi là Tám Ri đây. Cậu là ai mà biết tôi?
- Dạ, may quá, cháu đã đi tìm nhà bác từ sáng tới giờ! Bác cho cháu hỏi thăm, chẳng hay cô Mỹ Lan có về đây không?
Người đàn ông nhìn sững Phi, môi ông ta mấp máy:
- Cậu... cậu kiếm... Mỹ Lan?
- Dạ, cháu là bạn của cô ấy, cháu...
- Cậu biết nó lâu chưa?
- Dạ mới đây...
Ông chụp lấy vai Phi lắc mạnh:
- Cậu gặp nó ở đâu? Nó còn sống phải không?
Thấy ông hỏi dồn dập, Phi phải nói rõ ràng hơn:
- Dạ, chỉ mới hôm qua thôi, cô ấy còn gặp cháu.
Ông già reo lên:
- Trời Phật còn thương tôi rồi! Mỹ Lan ơi, ba cứ tưởng...
Ông chợt kéo tay Phi lôi tuột vào nhà, chỉ tay lên bàn thờ giữa nhà:
- Tôi thờ nó đó!
Phi sửng sốt:
- Sao lại thế này?
Kéo ghế mời Phi ngồi, giọng ông chủ nhà đầy xúc động:
- Cách đây gần hai năm, trong lần ngồi xuồng đi cào nghêu với tôi, con Mỹ Lan bị sóng vỗ làm lật xuồng, nó rớt xuống sông rồi mất tích luôn! Sau bao ngày tìm kiếm mà không thấy xác con, tôi cứ nghĩ là nó đã chết chìm và xác đã giạt ra biển, nên về nhà làm lễ cầu siêu cho nó và thờ cho đến nay. Trời ơi, đúng là cậu mang tin lành đến cho gia đình chúng tôi! Vậy cậu hãy nói cho tôi biết, nó đang ở đâu?
Phi cũng vui lây với ông già, anh bảo:
- Ở bên Hàm Luông.
- Bến Tre hả? Đúng rồi, nó rớt xuống nước rồi trôi giạt qua bên đó mà tôi không nghĩ ra, cứ tưởng nó trôi ra biển mất xác!
Rồi ông chỉ lên tấm ảnh thờ lần nữa và nói:
- Sinh nó ra được có nửa tháng thì má nó bệnh sản hậu mà chết. Tôi đã ẵm đi cho bú nhờ mà nuôi nó tới khôn lớn. Không ngờ con nhà nghèo mà con nhỏ càng lớn càng đẹp ra, đẹp đến nỗi tôi phải lo... Cậu có nghe người ta nói hồng nhan bạc phận không? Thấy nó đẹp bất thường nên nhiều người trong làng này đã đôi lần quở, sợ e nó khó sống thọ! Tôi thương con nên rất ghét ai nói như vậy, tuy nhiên cũng cứ phập phồng lo sợ hoài. Cho đến khi xảy ra vụ chìm xuồng đó thì tôi lại càng nghĩ thiên hạ nói đúng, tôi khóc hết nước mắt luôn!
Nhìn ảnh chân dung trên bàn thờ Phi bất giác nói:
- Chưa chết mà đã được lên đó ngồi rồi, Mỹ Lan sẽ bất tử cho bác coi!
Ông già cũng vui lây:
- Chết hụt thì khó mà chết nữa lắm! Cám ơn trời Phật.
Ông mau mắn bước ra cửa vừa bảo Phi:
- Cậu ngồi chơi đợi tôi một lát, tôi chạy đi bắt con gà làm thịt mình ăn mừng!
Tính cản, nhưng trước niềm vui lớn của ông già, Phi phải chấp nhận. Lát sau, khi đã ngồi vào bàn ăn rồi anh mới nói thật:
- Tuy cháu mới gặp Mỹ Lan hôm trước, nhưng do cô ấy giận cháu nên bỏ nhà trọ đi đâu chưa rõ...
Ông già vẫn lạc quan:
- Cũng chẳng đi đâu mà lo. Con gái mà, giận đi quanh quẩn đâu đó rồi sẽ quay về thôi!
Sẵn đang vui trong lòng, ông buông đũa và bước vào nhà trong lấy ra một cuốn sổ bìa dày, đưa cho Phi xem:
- Cậu coi, con nhà nghèo, học chỉ mới đệ thất rồi nghỉ, vậy mà nó viết chữ đẹp còn hơn là mấy đứa học tú tài nữa!
Phi giở từng trang sổ ra, anh thấy tiêu đề là lưu bút thì khá thích thú, bởi ít ra anh cũng hiểu được đôi chút về cô gái này. Anh lật tiếp trang kế và lần này kêu lên:
- Sao kỳ vậy bác?
- Chuyện gì vậy cậu?
Phi ngỡ mắt mình đọc lầm, nên đọc lại lần nữa dòng chữ viết nắn nót: "Nếu người đó có duyên ắt sẽ biết đường mà tới nhà mình! Hãy tới đi Phi ơi!".
Phi đưa cho ông già xem và hỏi nhanh:
- Lúc còn đi học cô ấy có quen ai tên Phi không?
Ông già Tám lắc đầu đáp ngay:
- Không bao giờ! Con gái tôi từ nhỏ tới lớn, đến chết, chưa bao giờ quen với đứa con trai nào cả!
- Vậy tại sao...
Anh đưa cuốn lưu bút cho ông già xem và nói:
- Cháu cũng tên Phi. Nhưng quyển lưu bút này viết cách đây mấy năm. Lúc đó cháu và Mỹ Lan nào có quen biết nhau?
Ông Tám vừa nhìn thấy dòng chữ cũng kêu lên kinh ngạc:
- Sao kỳ lạ vậy?
Ông lại nhìn Phi và hỏi gặng:
- Đúng là cậu mới quen với con Mỹ Lan gần đây hả?
- Dạ đúng, chính xác là chỉ mới gần một tháng nay thôi. Vậy tại sao có chuyện trùng hợp lạ lùng thế này? Bác nhớ kỹ lại coi, trong đám bạn của Mỹ Lan ngày xưa có ai tên Phi không?
Ông Tám vẫn quả quyết:
- Hoàn toàn không!
Phi đánh bạo đề nghị:
- Bây giờ biết chắc là Mỹ Lan còn sống, vậy có thể nào bác cho con mượn tấm ảnh thờ này được không? Con chỉ mượn thôi, rồi sẽ đem trả lại bác sau này...
Tám Ri cũng có cảm tình với chàng trai này, nên ông gật đầu ngay:
- Được, cháu cứ lấy đi. Bây giờ ăn xong mình đi qua Hàm Luông liền. Tôi sẽ lấy ghe đi cho tiện.
Phi ôm bức ảnh trong lòng mà lâng lâng nhiều cảm xúc...
***
Bà chủ quán lắc đầu nói:
- Từ hôm cậu đi tới nay tôi không thấy con Mỹ Lan trở về.
Phi chỉ sang ông Tám, giới thiệu:
- Đây là bác Tám, cha ruột của Mỹ Lan.
Bà chủ quán chỉ vào phòng phía trong vừa nói:
- Mỹ Lan ở đây, được tôi coi như con, nên mặc dù là làm công, nhưng nó muốn làm lúc nào thì làm, nghỉ lúc nào cũng được. Mà con nhỏ dễ thương lắm, được khách hàng thương mến, nên hai bữa nay vắng mặt nó làm cho tôi điên đầu vì khách đòi bỏ đi quán khác.
Bà đích thân đưa ông Tám vào phòng, coi nơi ăn ngủ của con gái, Phi cũng bước theo. Khi vào trong phòng, vừa nhìn qua mấy món để trên bàn, anh chợt kêu lên:
- Cuốn sổ y như cuốn ở nhà bác đây, bác Tám!
Ông Tám Ri cũng vô cùng ngạc nhiên khi thấy đúng quyển sổ lưu bút đang nằm ở đây! Ông cầm lên và xác nhận:
- Quyển sổ này đây rồi!
Phi lật ra xem và càng kinh ngạc hơn:
- Quyển sổ đó, không sai bác Tám ơi!
Anh lật ra trang có dòng chữ: "Nếu người đó có duyên ắt biết đường mà tới nhà mình. Hãy tới đi Phi ơi!" Phi đưa cho ông già xem:
- Bác coi, đúng dòng chữ này!
Họ thuật cho bà chủ quán nghe, bà ta lắc đầu:
- Từ hôm qua đến giờ nó không trở về đây. Không có Mỹ Lan ở nhà thì tôi luôn khóa cửa sau này lại. Như vậy...
Ông Tám thừ người ra một lúc rồi bảo Phi:
- Làm gì thì bác cũng ở lại đây chờ nó...
Được sự đồng ý của bà chủ quán, tối đó ông Tám và Phi đều ngủ lại đúng trong phòng của Mỹ Lan. Phi trằn trọc mãi không ngủ được, vì mỗi lần nhắm mắt lại thì anh lại thấy hình ảnh của Mỹ Lan từ dưới sông leo lên...
Bất chợt vào lúc nửa đêm, Phi bật dậy và nói như trong cơn mơ:
- Đúng rồi! Đúng là Mỹ Lan bị thương ở miệng, cô ấy...
Bất kể sự có mặt của ông Tám và bà chủ quán đang ở nhà trong, Phi tốc chạy ra ngoài, vừa chạy vừa kêu to:
- Mỹ Lan!
Phi chạy một mạch ra bờ sông, chỗ anh câu cá, cũng là nơi anh đã nhìn thấy Mỹ Lan đi từ dưới nước lên, ngồi thấp xuống chỗ bờ kè, ẩn mình trong bóng tối, Phi chờ và hy vọng những gì mình nghĩ trong đầu là đúng...
Có hơn nửa giờ trôi qua... và cuối cùng điều chờ đợi của Phi không hề hoài công. Anh reo lên khẽ khi người đó từ dưới sông vừa ngoi lên:
- Mỹ Lan!
Không sai. Người đi lên bờ trong bộ quần áo ướt đẫm kia chính là Mỹ Lan! Cô không biết là có người theo dõi mình, nên sau khi giũ quần áo cho bớt ướt, cô bước thẳng về phía trước. Phi bám theo và chưa vội ra tay.
Đợi cho cô nàng bước tới một chỗ tối và vắng thì bất ngờ Phi xuất hiện. Anh chụp ngay cánh tay của nàng, nói đủ nghe:
- Anh sẽ không để mọi người thấy, nhưng em phải ở lại đây để nghe anh hỏi.
Mỹ Lan hốt hoảng thấy rõ, nhưng quá bất ngờ, nên cô chỉ quay mặt đi chỗ khác để giấu vết thương trên môi.
Phi đột ngột hỏi:
- Có phải miệng em vướng phải lưỡi câu không?
Câu hỏi đó khiến cho cô co rúm người lại, may mà có tay kéo lại của Phi, chứ nếu không thì cô nàng đã ngã quỵ xuống.
- Anh đã về nhà em, gặp ba em và đã đọc trang lưu bút do em viết. Như vậy em cần gì phải giấu anh nữa. Chỉ có điều...
Phi nhìn thẳng vào mắt Mỹ Lan và anh chợt sững sờ, bởi đôi mắt ấy đang đẫm đầy nước mắt và như đang lạc thần, đờ dại như mắt loài cá bị bắt lên khỏi nước!
- Kìa, em không nên...
Trong lúc lo nói, anh đã lơi tay ra và chỉ chờ có thế, Mỹ Lan rút tay ra và biến rất nhanh vào trong bóng tối! Phi gọi theo:
- Ba đang ở quán chờ em! Em phải về thăm ba, anh sẽ không nói gì chuyện của em cả!
Trong bóng tối vang lên giọng của Mỹ Lan:
- Em sẽ về đó, nhưng anh phải tới nơi mà em lưu địa chỉ lại trên bàn tay anh đó, nếu còn muốn gặp em!
Phi bật diêm lên và đọc được mấy chữ nổi rõ trong lòng bàn tay: Gần nhà máy xay lúa An Hòa, Bình Đại.
Những chữ này có lẽ nàng đã để lại lúc Phi nắm tay nàng siết chặt. Nó không phải viết bằng mực, nhưng hằn rõ và sắc nét.
Nhưng khi Phi đọc vừa xong thì nhìn lại tất cả chữ đã biến mất! Anh bất chợt rùng mình...
***
Nhà máy An Hòa...
Vừa bước vào nhà bên cạnh nhà máy xay lúa, Phi phải khựng lại, bởi ở giữa nhà có một bàn thờ khói hương nghi ngút và có hai ông bà già đang ngồi khóc. Chưa biết phải chào hỏi ra sao thì bỗng bà già đã reo lên:
- Nó tới kìa! Con là Phi phải không?
Ngạc nhiên quá đỗi, Phi ngập ngừng hỏi lại:
- Cháu là Phi... nhưng sao bác lại biết cháu?
Bà mừng rú lên:
- Vậy là nó nói đúng ông ơi! Con Ngọc Liên nhà mình đã có chồng rồi. Có chồng rồi!
Phi nghe bà la hoảng như vậy thì giật mình, nhìn quanh cố tìm xem có ai đứng sau lưng mình không. Nhưng tuyệt nhiên không, chỉ có mỗi mình anh đứng đó. Như vậy có nghĩa là bà ấy đang nói... mình! Phi lúng túng:
- Dạ... dạ cháu...
Bấy giờ ông già mới lên tiếng:
- Bà nhà tôi đang mừng cậu đó! Nói để cậu bớt thắc mắc, vợ chồng tôi đang đứng đây để đợi cậu tới. Bởi đêm qua con Ngọc Liên về báo là bữa nay cậu thế nào cũng tới đây! Ngọc Liên là con gái tôi, nó chết đã hơn tuần nay rồi mà đêm nào cũng về kêu khóc, bảo tụi tôi đi tìm xác nó! Nhưng tôi đã tìm khắp vùng này rồi mà chẳng thấy đâu...
Bà già nói chen vào:
- Tối qua nó nói rõ, muốn kiếm được xác nó thì chỉ có cậu thôi. Phải tìm cho ra cậu...
Nhìn lên bàn thờ, Phi giật mình, bởi ảnh thờ đúng là ảnh của... Mỹ Lan!
- Sao lại...
Biết ý của Phi, ông già giải thích:
- Chính vì cái hình này mà vợ chồng tôi khóc hết nước mắt từ nửa khuya đến giờ! Hình của con gái tôi đâu phải hình này, vậy mà tự nhiên khi thức dậy tôi đã thấy sự thể như vậy rồi! Nhà tôi lấy hình này xuống, để ảnh con gái tôi lên, thì chẳng hiểu sao lần nào ảnh con tôi cũng bị giật văng ra, thay ảnh này vào! Đó, cậu nhìn xem, ảnh con gái tôi đằng kia...
Ông bước tới lấy tấm ảnh rộng khung kính đàng hoàng, chân dung một cô gái tuy cũng đẹp, nhưng không sắc sảo bằng Mỹ Lan. Phi lẩm bẩm:
- Ảnh kia là Mỹ Lan mà!
- Cậu biết cô gái đó?
Phi thật lòng:
- Dạ biết. Cô ấy chính là bạn gái của cháu! Chính cô ấy xui cháu tới đây tìm...
Thật ra thì Mỹ Lan chỉ cho anh địa chỉ và bảo tới tìm mà không biết tìm ai và để làm gì... Bởi vậy Phi còn ngập ngừng.
Bà già lại reo lên:
- Đúng rồi! Con Ngọc Liên có nói, nó và cô Mỹ Lan nào đó đang yêu một người tên Phi. Đúng là cậu rồi!
- Dạ... nhưng mà cháu đâu biết gì về con gái hai bác. Tại sao cô ấy lại như thế này?
Câu hỏi chạm tới nỗi đau của họ, nên bà già khóc nức nở vừa nghẹn ngào:
- Con gái tôi nó bơi xuồng qua bên Hàm Luông thăm thân nhân, nửa đường bị gió bão chìm xuồng và mất tích cả tuần nay.
Phi chợt buột miệng:
- Lại cũng chết chìm!
- Cậu nói gì?
Ông già thấy Phi lẩm bẩm thì hỏi. Phi nhẹ lắc đầu:
- Dạ, không có gì...
Phi bước tới gần bàn thờ, nhìn bức ảnh anh chợt kêu lên:
- Tấm ảnh này ở nhà cháu mà?
Ở góc tấm ảnh của Mỹ Lan mà Phi mượn từ nhà của cô ấy, lúc cầm về khi ngồi trên ghe chính Phi đã dùng bút ký tên lên đó như biểu tỏ quyền sở hữu. Mà bức ảnh đang thờ này lại y như vậy!
Phi lặp lại lần nữa:
- Ảnh này của cháu.
Anh tiện tay lấy bức ảnh xuống và ôm trong lòng. Bà già thấy vậy liền cầm ảnh con gái mình đặt thay vào chỗ trống và hai vợ chồng mừng quá đỗi:
- Nó ở yên rồi!
Phi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Chuyện này có nhiều uẩn khúc, mà theo cháu nghĩ thì hồn con gái bác và người bạn của cháu đây đang gặp nhau. Cô bạn cháu cũng chết dưới sông...
Bà già chợt nhắc lại chuyện hồi nãy:
- Tôi không hiểu tại sao nó hoàn toàn xa lạ với cậu mà lại nói cậu sẽ là... chồng nó?
Phi kinh ngạc:
- Bác nói ai?
- Con Ngọc Liên, con gái tôi!
Phi xua tay:
- Không đâu bác! Cháu làm sao có thể.
Anh định nói thẳng ý mình là từ chối, nhưng lúc ấy bỗng mắt anh chạm vào ánh mắt từ bức ảnh chân dung của cô gái trên bàn thờ, Phi chợt rùng mình! Đôi mắt của cô nàng hình như là đang long lên, như muốn nói thành lời!
- Dạ thưa hai bác...
Phi định nói lời kiếu từ nhưng bỗng bụng anh nhói đau dữ dội! Người lảo đảo như muốn ngã, khiến ông già hốt hoảng:
- Cậu làm sao vậy?
Phi tối tăm mặt mũi, vịn vào thành ghế rồi hầu như không còn sức nữa, anh ngã khuỵu xuống đất. Trong mơ hồ, anh nghe như có tiếng kêu thảng thốt của chủ nhà, rồi hình như mọi người dìu anh lên...
***
Có lẽ khá lâu Phi mới tỉnh lại. Trời tối đen chung quanh và qua khung cửa sổ, anh có thể nhìn ra bên ngoài và nhận biết trời đang mưa rất lớn.
- Mình đang ở đâu?
Nhớ lại dần mọi việc. Phi sửng sốt kêu khẽ:
- Nhà cô gái ấy!
Quơ tay sang bên thì chạm vào cái khung ảnh, Phi cầm lên xem, trong bóng tối lờ mờ nhưng anh vẫn nhận ra trong ảnh là Mỹ Lan. Yên tâm phần nào. Phi định bước xuống giường, nhưng người anh như bị đóng đinh xuống giường, không tài nào xoay sở được.
Vừa khi ấy, ở tay bên này của Phi như có ai vừa đặt vào đó một khung hình thứ hai. Hai tay hai khung ảnh và Phi chợt hiểu, anh thầm kêu lên:
- Ảnh hai người!
Khi nhảy được xuống giường, Phi đốt đèn lên thì rõ ràng hai khung hình của Mỹ Lan và Ngọc Liên đều nằm trên giường anh! Lúc anh còn đang ngơ ngác thì ba má Ngọc Liên đã bước vào, họ hỏi bằng giọng ngạc nhiên:
- Cậu có hẹn với người nào tới đây không?
Phi lắc đầu:
- Dạ đâu có.
- Cậu ra ngoài coi, có người đang đợi cậu từ nãy giờ.
Phi hấp tấp bước theo họ ra nhà ngoài thì phải kêu lên:
- Mỹ Lan!
Cô gái tên Mỹ Lan đã ngồi ở phòng khách từ lúc nào rồi. Khi thấy Phi bước ra, cô vẫn bình thản đưa tay chỉ về phía bàn thờ:
- Trên bàn thờ phải thờ đủ hai người chứ sao chỉ có một người?
Phi nhìn lên thì không còn ảnh của Ngọc Liên, anh nhớ tới hai tấm ảnh đều trong phòng mình thì muốn nói, nhưng đã chậm hơn so với cô nàng. Cô quay sang ông bà già:
- Ba má cứ để cho anh ấy thờ cả hai ảnh trên bàn thờ, như vậy anh ấy mới yên lòng mà nghe lời ba má.
Bà già kêu lên:
- Kìa, sao cô lại kêu tụi tôi bằng ba má? Tôi đâu có...
Mỹ Lan bỗng sụp xuống lạy dài hai người:
- Con lạy ba má, hãy để cho anh ấy làm rể nhà này, thì cả hai đứa con mới được cùng nhau. Bằng không thì...
Cô quay sang Phi, nói với anh:
- Sao không lạy ba má đi!
Phi còn đang chưa biết phải làm sao thì tự dưng đôi chân anh tự động khuỵu xuống trong tư thế quỳ! Chẳng hẹn mà anh và Mỹ Lan cùng quỳ trước ông bà già Ngọc Liên, mà cũng là trước bàn thờ còn khói hương nghi ngút!
Ba má Ngọc Liên cũng chẳng biết sao, họ đành phải nói:
- Hai đứa đứng lên đi.
Đó như một lời công nhận, lúc đó Mỹ Lan mới kéo Phi đứng lên và nói:
- Con là Ngọc Liên đây, ba má làm như vậy là giải khó cho tụi con rồi! Con xin nói để ba má rõ, con đã chết chìm, hồn con sắp lạc vào mê cung địa phủ thì gặp được người con gái cùng cảnh ngộ với con cũng đang vật vờ sau khi trôi giạt từ xa đến. Cái số ở cõi âm của tụi con là như vậy, kẻ mất xác, người mất hồn, cuối cùng chỉ còn lại một mà thôi. Hồn con đây, trong xác của chị Mỹ Lan và hai chúng con đều có duyên với chỉ một người... này!
Nói xong, cô chỉ tay về phía Phi. Anh giật mình:
- Là tôi?
Mỹ Lan không trả lời, cô rất tự nhiên đi vào phòng nơi Phi vừa ngủ, khi trở ra trên tay cầm hai khung ảnh. Trịnh trọng đặt cả hai khung ảnh lên bàn thờ, vừa nói:
- Coi như ba má có hai đứa con gái. Cả hai tuy đã chết, nhưng thực tế thì ngày ngày vẫn sống với ba má tại đây. Còn bây giờ để tụi con, còn phải về thăm cha con bên kia nữa!
Cô kéo tay Phi:
- Đi anh, ba đang đợi ở quán bên Hàm Luông!
Họ đi ra trước sự thảng thốt của hai ông bà:
- Kìa, rồi ba má làm sao đây?
Họ vẫn đi thẳng như không có chuyện gì xảy ra. Khi ra tới ngoài rồi Phi mới hỏi:
- Có phải em là...
Mỹ Lan đáp tỉnh queo:
- Là hồn ma!
Khi đã xuống chiếc xuồng đậu sẵn ở bờ sông rồi, nàng mới nói tiếp:
- Một hồn ma không biết hại người. Mà trái lại còn bị người hại, suýt chết!
Nàng đưa tay lên sờ vết thương trên môi vẫn còn chưa lành:
- Cái lưỡi câu đó nếu em không thoát ra được, không chết vì đau thì cũng chết vì lên bờ không có nước thở!
Nhớ lại bữa câu cá đó, Phi hỏi:
- Em là hồn ma sao dính câu được?
Bấy giờ nàng mới cười:
- Cái nợ tình nó buộc em phải dính đó thôi. Em nói thật tại cái số của em phải trở thành vợ anh, cho nên anh câu hai lần em đều dính câu và phải đến kết cuộc này...
Đẩy xuồng ra giữa dòng, chợt Mỹ Lan nói tiếp:
- Anh về nhanh đi, để ông già đợi ở quán. Còn em...
Cô vừa dứt lời thì lao nhanh xuống nước.
- Kìa, Mỹ Lan!
Phi muốn phóng theo, nhưng chợt khựng lại. Anh lẩm bẩm:
- Cô ấy trở về với thế giới của mình!
***
Ông Tám Ri đã sốt ruột chờ đợi suốt ba ngày rồi mà vẫn chưa thấy con gái mình trở về. Ông cũng thắc mắc về sự vắng mặt của Phi. Phi chỉ nói với ông là đi có việc riêng và sẽ trở về ngay, vậy mà anh ta vẫn bặt vô âm tín.
Chiều hôm đó, chị chủ quán trấn an ông Tám:
- Chú Tám cứ ở đây nghỉ ngơi, thế nào rồi Mỹ Lan cũng trở về thôi. Mấy tháng làm ở đây chưa bao giờ nó đi lâu. Lần này có lẽ có chút chuyện gì đó...
Ông Tám không an tâm:
- Tối qua tôi cứ nhắm mắt lại là thấy nó ngồi khóc trên xuồng, miệng nó đầy máu. Tôi lo quá.
Thật ra chị chủ quán Tư Quắn cũng lo không kém. Chính chị cũng chiêm bao thấy giống như vậy. Chị còn nhìn thấy Mỹ Lan hụp lặn dưới nước mà mỗi khi trồi lên thì mặt cô cũng đầy máu? Chị không dám nói ra điều này sợ làm ông Tám lo thêm...
Đến bữa cơm chiều, mời đến lần thứ ba thì ông Tám Ri mới chịu ngồi vào bàn ăn, ông chưa kịp gắp thức ăn thì đã thấy trong chén mình có nửa miếng cá rô kho nằm sẵn. Ông ngạc nhiên hỏi:
- Cô Tư gắp cho tôi hả?
Tư Quắn lúc đó mới ngồi xuống ghế, cô trả lời:
- Dạ, đâu có. Con mới vào ngồi mà.
- Vậy sao...
Ông Tám nhìn nửa con cá toàn nạc, không lẫn miếng xương, vừa ngạc nhiên vừa thích thú:
- Tôi vốn rất sợ mắc xương, mà miếng cá này thì rất giống với những miếng cá mà thường ngày con Mỹ Lan vẫn thường hay gắp cho tôi mỗi khi ăn món cá!
Tuy ngạc nhiên, thắc mắc, nhưng ông Tám vẫn ăn. Ông còn nói:
- Con Mỹ Lan thích nhất là đọt lang chấm nước cá kho. Bữa nào dẫu trời mưa gió tầm tã nó vẫn đi hái đem về luộc để cha con ăn. Mà đọt lang luộc chấm nước cá kho ăn ngon miệng lắm, cô Tư đã ăn thử chưa?
Tư Quắn giở chiếc lồng bàn để cạnh bàn ra và nói:
- Không có đọt lang, cháu luộc đọt bí đây, chú dùng đỡ.
Nhưng khi chiếc lồng bàn giở ra thì Tư Quắn quá đỗi ngạc nhiên:
- Ủa, sao như thế này?
Thay vì dĩa đọt bí, trong đó lại là dĩa... đọt lang! Tư Quắn không tin vào mắt mình, chị cầm lên xem kỹ rồi lẩm bẩm:
- Chính tôi hái và luộc mà. Sao lại...
Ông Tám có ngạc nhiên, nhưng lại thích thú:
- Đúng là hai thứ mà con gái tôi thích.
Dẫu vẫn ăn, nhưng Tư Quắn vẫn không hết thắc mắc:
- Bữa nay lạ quá, chẳng khác nào như Mỹ Lan trực tiếp làm bữa cơm hôm nay.
Ông Tám cũng có cảm giác ấy nhưng ông vốn không nghĩ gì khác mà vẫn cứ ăn ngon lành. Lúc bữa ăn gần chấm dứt thì bỗng ở sau nhà bếp có tiếng va chạm mạnh, khiến Tư Quắn phải buông đũa và chạy xuống xem. Chị quá đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chén chè đậu xanh ai đó đã múc sẵn còn bốc khói để trên chiếc mâm.
Lúc này Tư Quắn không còn bình tĩnh nữa, chị hỏi:
- Ai trong này vậy?
Chị quay tìm khắp nơi mà không thấy ai. Lúc ấy ông Tám cũng bước xuống, ông reo lên khi thấy mấy chén chè:
- Chè đậu xanh là món cha con tôi ưa thích đây mà.
Tư Quắn nghe tim mình đập liên hồi, chị đang nghĩ tới Mỹ Lan. Linh tính hình như cho chị biết có điều gì đó. Tuy nhiên nhất thời chị chưa dám nói thẳng ý mình ra...
Ăn xong bữa cơm, ông Tám có vẻ hài lòng:
- Lâu lắm rồi tôi mới được ăn một bữa giống như nhà mình. Đúng hơn là giống như cách nấu của con Mỹ Lan. Cô Tư nấu ăn khéo thật!
Tối đó thì Phi về tới. Vừa thấy anh, ông Tám đã hỏi:
- Con Mỹ Lan đâu?
Phi đã suy tính kỹ trên đường về, nên không giấu giếm:
- Dạ thưa bác, Mỹ Lan chẳng may...
Anh chưa kịp nói hết lời thì từ trong nhà bếp, một giọng nói quen thuộc đã vang lên:
- Dạ, con đây ba!
Mỹ Lan xuất hiện giữa sự ngạc nhiên chẳng riêng gì ông Tám và chủ quán, mà cả Phi cũng tròn mắt:
- Em... em...
Từ lúc Mỹ Lan nhào xuống sông thì Phi không nghĩ cô sẽ trở về gặp cha. Nhưng bây giờ cô đã có mặt, khiến Phi lúng túng. Cũng may là anh chỉ mới nói còn chưa rõ ràng và ông Tám cũng không kịp thắc mắc, mà chỉ vui mừng khôn xiết:
- Ba đã đợi con từ mấy bữa rồi! Mỹ Lan, con nói cho ba nghe coi, hôm con bị chìm xuồng rồi làm sao sống sót và trôi giạt qua tận đây?
- Dạ... con nhờ người ta cứu.
Cô hình như muốn né tránh kể lại sự việc, nhưng lúc này ông Tám bị niềm vui trong lòng lấn át cả mọi sự hoài nghi, ông phấn khởi nên nói huyên thuyên:
- Con đi ăn cơm đi, có cá rô kho tiêu, có cả chè đậu xanh nữa. Cô Tư đây nấu giống y như con vậy, ngon lắm!
Bất ngờ Mỹ Lan nhăn mặt:
- Cá rô hả? Con sợ món cá này, ăn dễ mắc xương! Còn chè đậu hả, đó là món con ghét nhất!
Câu nói làm cho ông Tám quá đỗi ngạc nhiên. Ông không ngờ chỉ một thời gian ngắn xa nhà mà cô con gái cưng của ông đã thay đổi tính tình quá nhiều như vậy.
Ông trách:
- Con mới đi có mấy tháng mà sao không còn giống con chút nào hết vậy Lan?
Chỉ có Phi là hiểu nguyên nhân. Anh không còn muốn nói ra sự thật nữa, nên tìm cách khỏa lấp:
- Con nghĩ có lẽ xa nhà lâu nên Mỹ Lan có nhiều thay đổi. Hơn nữa, cô ấy mới vừa trải qua một cơn bệnh, cho nên...
Anh tìm cách kéo Lan vào nhà sau, dặn khẽ:
- Em bây giờ chỉ có cái xác là của Mỹ Lan, còn phần hồn là Ngọc Liên, do vậy mọi thứ đều sẽ không hợp với ông già. Tốt hơn hết là hãy tìm cách tránh tiếp xúc với ông ấy.
Phi chủ động bàn với ông Tám:
- Bác Tám đã gặp được Mỹ Lan rồi, nhưng hiện nay cô ấy đang có giao ước làm việc với người ta dài hạn. Vậy bác ở chơi đây ít hôm rồi về bên nhà. Lâu lâu, khi nào rảnh Lan sẽ về thăm bác. Con sẽ...
Ông Tám bất ngờ nói:
- Ta có ý này... hay là ta gả con Mỹ Lan cho cậu! Có như vậy thì việc nó xa nhà ta mới yên tâm. Cậu chịu không?
Phi tuy đã có ý đó, nhưng anh vẫn làm ra vẻ:
- Dạ... chỉ sợ e...
Ông Tám gọi Mỹ Lan ra:
- Đây, có trước mặt cả cô Tư, ba quyết định gả con cho cậu Phi này, con ưng không?
Mỹ Lan cúi đầu e thẹn. Tư Quắn nói thêm vào:
- Ông Tám quyết định như vậy là hợp ý tụi nó rồi. Cậu Phi đây tuy nhà ở xa tới đây trọ, nhưng tôi biết chắc cậu ấy chưa vợ con gì. Mà lâu nay lui tới đây cậu ấy với Mỹ Lan cũng đã vừa ý nhau, hai đứa lại xứng lứa vừa đôi nữa, còn gì hơn!
Ông Tám lại có một quyết định gây ngạc nhiên hơn:
- Không cần lễ tiệc chi cho rườm rà. Ngay sáng mai nhờ cô Tư nấu cho ít món, mời một ít khách quen với cô, quen với con Mỹ Lan và bạn bè cậu Phi đây tới dự, tôi sẽ cho tổ chức một lễ cưới cho hai đứa nó!
Phi liếc mắt nhìn Mỹ Lan, anh muốn nói gì đó nhưng kịp dừng lại...
Sáng hôm sau, lễ cưới theo đúng ý ông Tám đã diễn ra.
Qua ngày hôm sau thì ông Tám được Phi mướn người ngồi cùng ghe đưa về tận nhà.
Chị chủ quán không hiểu sự tình, nên đề nghị:
- Hay là tôi nhường phần sau nhà này cho cô cậu ở, tôi dọn ra phần trước ở coi quán luôn?
Phi tế nhị từ chối:
- Cám ơn dì Tư, có lẽ để tụi này mướn một chỗ ở riêng cho yên tĩnh. Bởi... cô ấy đã có thai, cần nghỉ ngơi!
Tư Quắn trố mắt kinh ngạc:
- Thật vậy sao?
Trong khi đó thì Mỹ Lan lánh vào trong rất nhanh. Chờ cho Phi bước vào, cô trách:
- Sao anh ẩu vậy, em có thai hồi nào?
Phi cười:
- Phải nói như vậy bà ấy mới cho em nghỉ làm chứ. Bằng không thì làm sao giải thích...
Mỹ Lan hiểu thực trạng của mình nên nín thinh. Nhờ vậy mọi việc được giữ kín...
***
Chuyện của Mỹ Lan và Phi được giấu kín, không một ai nghi ngờ gì. Bởi họ mướn một căn nhà ở rất xa, nên cũng chẳng mấy ai lui tới thăm viếng. Thực tế thì Phi sống một mình suốt ngày. Chỉ vào ban đêm thì Mỹ Lan mới xuất hiện.
Một hôm nàng nói:
- Anh phải về bên nhà ba má em gấp, ông bà sắp hết số rồi. Về đứng ra làm đám cho đúng lễ.
Phi tưởng mình phải về Gò Công, anh đang chuẩn bị đi thì nàng nhắc:
- Em nói ba má tức ba má em ở Bình Đại, anh quên rồi sao!
Lúc này Phi mới nhớ là mình đang làm rể đến hai nhà. Anh ngượng nghịu nói:
- Ờ, anh biết rồi...
Từ đó về sau, cứ lâu lâu Phi lại về nhà, khi thì Gò Công, lúc thì Bình Đại. Anh đóng vai chàng rể... ảo một cách đáng khen.
Một năm sau...
Bỗng một đêm Mỹ Lan về, cô ẵm về một đứa bé còn trong tháng và nói:
- Anh hãy nuôi cho kỹ, con chúng ta đó!
Phi tưởng mình đang mơ:
- Thật... hả?
- Sao lại không thật, đã sống với nhau, dẫu là với hồn ma, cũng có con như thường chứ!
Phi một mình nuôi con rất chu đáo. Nếu có ai cắc cớ hỏi mẹ đứa bé đâu, nó sẽ vô tư trả lời:
- Hai mẹ của con đi làm ăn xa!


PHO TƯỢNG ĐỒNG BÁO OÁN


Lần mò cả buổi, cuối cùng Sinh mới mở được chiếc két sắt cũ của cha mình ra. Anh thở phào và tự cho mình cái quyền ngả người ra ghế sofa nghỉ lưng một lúc.
Sở dĩ Sinh quyết phải mở cho bằng được cái két sắt này là do lá thư để lại của cha, ông căn dặn rất kỹ: "Bằng giá nào con cũng phải giữ cho được cái tủ sắt trong phòng của ba. Nó không chứa tiền bạc gì hết, mà trong đó chỉ có một thứ mà ba muốn trao tận tay con. Nó sẽ do con sở hữu và quyết định làm gì với nó thì làm, miễn ba được ngậm cười nơi chín suối là đủ! Ba kỳ vọng ở con...”
Từ ngày cha mất, Sinh hầu như quán xuyến hết mọi công việc vốn trước đây thuộc về ông Thanh Long, cha mình. Kể cả những công việc mà anh rất ghét như trông coi việc kinh doanh các cửa hàng, điều hành các công ty. Là con người có bản lĩnh, phóng khoáng, thích hoạt động, tự do nên khi được cha gọi về và ấn vào tay tờ di chúc, Sinh đã phát hoảng với trách nhiệm trước mắt! Anh muốn từ chối, nhưng ngay sau đó thì cha anh mất. Mà trong nhà thì Sinh là người nối dõi duy nhất còn lại.
Sau một lúc nghỉ mệt, Sinh bật dậy và bắt đầu mở hẳn chiếc tủ ra theo khóa số. Cánh cửa tủ sắt vừa bật ra thì Sinh hơi bất ngờ trước pho tượng đồng duy nhất nằm bên trong!
Đã biết trước là bên trong không có tiền, nhưng Sinh lại bất ngờ về pho tượng cũ kỹ này. Là người không sành về đồ cổ, nên khi cầm pho tượng lên, nhìn trên dưới mấy lượt Sinh vẫn không hiểu nó thuộc niên đại nào, gốc ở đâu. Cuối cùng anh đặt nó lại trong tủ, định đóng cửa tủ lại và để đó...
Tuy nhiên, khi dùng sức xê dịch chiếc tủ sát vào tường thì chợt Sinh nghe một âm thanh phát ra từ bên trong, giống như một tiếng thở dài!
- Gì vậy?
Nghĩ mình nghe lầm, nên Sinh lại đẩy tủ thêm lần nữa và lần này cũng thế, Sinh lại nghe kèm theo tiếng thở dài là một tiếng nấc!
- Ai?
Sinh lại tưởng ai đó nấp trong phòng hay từ ngoài cửa sổ! Nhưng khi nhìn kỹ thì chẳng phát hiện gì, anh còn đang hoang mang thì cánh cửa tủ sắt nặng nề bỗng mở ra, giống như có người kéo!
Và tiếng thở dài lần nữa phát ra từ trong ấy! Sinh nhìn thấy pho tượng đồng đang nằm trong tư thế ngã nghiêng, đầu chạm vào vách tủ, chẳng khác một người bị ngã va đầu vào tường!
- Phải chăng...
Sinh nghĩ ngay tới sự linh thiêng của những pho tượng cổ mà lâu nay anh đã từng nghe kể, anh bước tới và nhẹ nhàng đỡ pho tượng cho ngay ngắn lại và đóng cửa két sắt lại một cách nhẹ nhàng.
Sau đó thì không còn nghe âm thanh kỳ lạ kia nữa!
Sinh cố hiểu ý nghĩa bức thư của cha, nhưng nghĩ mãi mà vẫn chưa thể nào hiểu nổi. Tại sao cha lại căn dặn anh kỹ như vậy với một pho tượng đồng cổ. Hay là chúng có giá trị lớn đến đỗi dược cất giữ cẩn thận đến vậy?
Không tìm được câu trả lời thỏa đáng, Sinh cứ để nguyên đồ như vậy nằm lim dim, tính lát sau sẽ đi thay quần áo và ăn cơm chiều. Nhưng chỉ được một lúc thì cơn buồn ngủ kéo đến... Sinh ngủ một cách ngon lành.
***
Khi Sinh giật mình tỉnh giấc thì lại vô cùng sửng sốt khi thấy ngồi giữa phòng mình là một người phụ nữ mặc bộ áo choàng màu đen!
- Ai?
Sinh hỏi vừa dứt thì người đó từ từ quay mặt lại. Một gương mặt quen thuộc, khiến Sinh kêu lên:
- Mẹ!
Đúng! Trước mặt anh là bà mẹ đã quá cố từ hơn mười năm trước!
Sinh chồm lên, nhưng anh bị dội ngược trở lại như bị ai đó kéo ghì rất mạnh. Vẫn không rời mắt khỏi mẹ mình, Sinh lại gọi:
- Mẹ! Mẹ về thăm con phải không?
Bà mẹ anh không lên tiếng mà ở hai khóe mắt bà có hai dòng lệ tuôn ra. Gương mặt bà cực kỳ đau khổ khiến cho Sinh nhìn thấy phải đau lòng theo. Anh lại lên tiếng:
- Mẹ có điều gì dạy con phải không?
Bà vẫn im lặng không nói gì, nhưng lần này lại đứng lên, đi về phía chiếc két sắt và định đưa tay thò vào tủ. Bỗng bà bị bật trở ra, người lảo đảo...
- Mẹ! Mẹ có sao không?
Tiếng kêu của Sinh hơi lớn, đồng thời anh bước tới và vô tình chạm phải chiếc ghế làm nó ngã ngang, gây ra một tiếng động khác. Khi Sinh nhìn lại thì mẹ anh không còn ở đó nữa!
- Mẹ!
Không có chút dấu vết nào để lại. Sinh bàng hoàng đứng thừ ra một lúc rồi thở dài... Anh bước lại chỗ tủ sắt và càng kinh ngạc hơn khi pho tượng đồng không còn ở trong tủ!
Lúc này Sinh mới thật sự lo. Ai đã lấy pho tượng đi? Mẹ anh đột ngột hiện về liệu có liên quan gì tới chuyện này?
Trong nhà còn có mấy người giúp việc và chú Mười, tài xế, nhưng không muốn họ biết gì về chuyện này, nên Sinh không gọi họ dậy. Anh cứ chong đèn như vậy đến sáng, không hề chợp mắt thêm chút nào...
Vừa mờ sáng...
- Cậu Hai ơi, cậu thức dậy chưa?
Tiếng chú Mười lái xe bên ngoài, Sinh hỏi vọng ra:
- Có gì không chú Mười? Bữa nay chú có thể nghỉ ngơi, tôi không đi...
- Có chuyện này cậu ơi, cậu bước ra coi.
Sinh vừa mở cửa ra thì chú tài xế chỉ tay ra sân, giọng lo lắng:
- Hồi tối này khi đi ngủ tôi đã cho xe vào ga-ra cẩn thận, khóa cả cửa ga-ra nữa, vậy mà vừa mới đây tôi thức dậy đã thấy chiếc xe nằm ở ngoài sân kìa. Máy xe còn nóng như mới chạy về, tôi muốn hỏi cậu coi hồi đêm có đi xe không?
- Đâu có! Tối qua đến giờ tôi đâu có ra ngoài.
- Vậy tại sao...
Sinh bước hẳn ra chỗ chiếc xe, anh quan sát kỹ và công nhận lời nói của chú tài xế là đúng, chiếc xe mới vừa ngừng máy, còn nóng. Anh mở cửa xe và càng ngạc nhiên hơn khi bắt gặp ở ghế lái còn để lại một chiếc lắc tay của phụ nữ và cạnh đó còn có một chiếc khăn tay thêu chữ Hồ Điệp với con bướm màu. Chìa khóa xe còn gắn ở công tắc.
- Chiếc chìa khóa!
Chú Mười chạy vào trong nhà lấy ra xâu chìa khóa đưa cho Sinh coi:
- Chìa khóa tôi giữ còn nguyên ở đây!
Sinh cầm cái xắc tay lên xem, anh kêu khẽ:
- Của mẹ!
Năm năm trước khi mất, mẹ anh còn xài cái xắc này. Nó còn là món quà sinh nhật mà cha anh đã tặng cho mẹ. Mà Sinh nhớ không lầm thì ngày tẩm liệm mẹ, chính cha anh đã đem cái xắc này theo, ông còn nói với Sinh:
- Đây là vật mẹ con thích nhất, ba đem theo cho bà ấy!
Hai năm sau khi bà mất thì cha cũng qua đời. Ngày tẩm liệm cho cha, chính Sinh đã phát hiện ra trong tay ông còn nắm chặt một vật mà anh biết chắc chắn đó không phải là của mẹ. Đó là chiếc khăn tay thêu mấy chữ Hồ Điệp với con bướm nhiều màu sắc! Sở dĩ Sinh biết chắc đó không phải là chiếc khăn của mẹ là bởi mẹ không bao giờ xài khăn tay, mẹ cũng không phải tên là Hồ Điệp.
Hai vật chôn theo cha và mẹ khác huyệt nhau, cách xa thời điểm với nhau, sao giờ này lại ở chung trên xe là sao?
Sinh hỏi lại chú lái xe:
- Chú chắc chắn là cổng ngoài vẫn còn khóa chứ?
- Dạ còn. Tôi mới coi lại đây cậu. Tôi cũng hỏi mấy người làm khác, họ quả quyết là không hề mở cửa.
Suy nghĩ rất nhanh, Sinh dặn:
- Không được bàn tán gì chuyện này. Để tôi âm thầm xác minh lại.
Anh cầm lấy cái xắc tay và chiếc khăn đi trở về phòng ngủ. Nhìn chiếc khăn tay còn mới nguyên, không ai nghĩ nó là vật từng khâm liệm vào quan tài và nằm dưới lòng huyệt mộ mấy năm trời? Cũng như chiếc xắc tay này, nó được chôn còn lâu hơn nữa, vậy mà vẫn còn y như đang được sử dụng!
Tò mò, Sinh mở luôn cái xắc ra, bên trong trống rỗng, chỉ có duy nhất một mảnh giấy nhỏ ghi dòng chữ: Hồ Điệp, cây số 5, tỉnh lộ 25.
Bất chợt Sinh hiểu ra, anh kêu lên:
- Mẹ!
Rồi như nghe lửa cháy, Sinh phóng ra sân, vừa gọi chú tài xế:
- Chú Mười, lấy chìa khóa xe cho tôi!
Chú Mười ngơ ngác:
- Cậu đi đâu vậy cậu Hai, để tôi lái cho...
Nhưng Sinh đã gạt ngang:
- Không, để tôi tự lái. Chú ở nhà giữ nhà. Có ai hỏi thì nói mai tôi mới về.
Anh rồ máy phóng đi như bị ma đuổi. Hình ảnh gương mặt đau khổ của mẹ đang hiện ra trong tâm trí Sinh, chốc chốc lại nhòe đi bởi ánh mắt long lên như giận dữ của bà khiến Sinh đâm lo. Và mối lo đó lại xoáy vào cái tên Hồ Điệp mà cho tới lúc này Sinh chỉ mới nghe chứ chưa hề biết đó là ai...
***
Tiếp Sinh trong ngôi nhà rộng lớn, không khí vắng lạnh, là một người đàn ông tuổi trung niên. Ông nhìn Sinh có vẻ dò xét một lúc rồi mới hỏi thẳng:
- Cậu tìm người tên Hồ Điệp với mục đích gì? Và cậu biết gì về chị tôi?
Sinh ngạc nhiên:
- Hồ Điệp là chị của chú? Vậy bà ấy bây giờ ra sao?
- Ý cậu muốn hỏi chị tôi còn sống hay đã chết chứ gì?
- Dạ, đó là điều cháu muốn biết.
Người đàn ông dựa người ra sau thành ghế salon, vài giây sau mới nói, giọng hơi chùng xuống:
- Chưa chết!
Sinh mừng rỡ:
- May quá! Vậy có thể cháu xin gặp được không?
- Cậu chưa nói rõ với tôi cậu gặp để làm gì? Và cậu là ai mới được?
- Dạ, cháu là... con trai ông Thanh Long, người chủ đồn điền cà phê trước kia ở huyện này.
Vừa nghe Sinh nói, ông ta bật thẳng người lên, nhìn sững Sinh một lúc rồi chợt thở dài:
- Đúng là oan gia! Điều này không ngoài dự đoán của tôi rồi...
Sinh ngạc nhiên:
- Ông muốn nói...
Sợ ông ta chưa tin hẳn, nên Sinh móc trong túi lấy ra chiếc khăn tay có thêu hình con bướm:
- Đây là bằng chứng của bà Hồ Điệp.
Không cần nhìn vào vật chứng, người đàn ông lại thở dài:
- Chuyện đời bất cứ điều gì càng muốn lãng quên đi thì nó luôn bị khơi lại. Đã hơn năm năm rồi còn gì...
Ông ta lặng lẽ đứng lên và đi thẳng ra nhà sau. Sinh ngồi đó chờ...
Anh chờ rất lâu vẫn chưa thấy chủ nhà trở ra, mà trời bên ngoài thì đang tối dần. Một lúc, quá sốt ruột. Sinh đứng lên và cất tiếng gọi:
- Chú ơi, chú!
Không nghe tiếng trả lời. Nghĩ là nhà quá rộng, có thể người ta chưa nghe, nên Sinh lại gọi lớn hơn:
- Chú ơi!
Lần này đáp lại Sinh là một điệu kèn kỳ lạ, mà vừa nghe Sinh đã phát rùng mình! Nghe qua một đoạn nữa chợt anh kêu lên khẽ:
- Bản nhạc ma!
Lời thốt của Sinh tuy rất nhỏ, nhưng hình như có người đã nghe, nên một giọng lạnh lùng vang lên:
- Sao gọi là nhạc ma khi người chơi còn sống?
Sinh quay nhìn bốn phía vẫn không thấy người vừa lên tiếng, anh phải hỏi:
- Ai vậy?
Điệu nhạc lại vang lên, lần này rất gần, như ngay phía sau lưng của Sinh. Anh còn có cảm giác như có tiếng động của ai đó... Nhưng tuyệt nhiên không thấy bóng. Ngôi nhà lúc đó đã hoàn toàn chìm trong bóng tối. Càng nghe tiếng kèn Sinh càng nhớ tới cha, bởi đã nhiều lần khi đang ngủ, ông vội thức giấc và bàng hoàng hỏi Sinh:
- Con có nghe tiếng nhạc kia không? Của ma đó!
Do vậy, Sinh cứ bị ám ảnh với loại kèn này... Và nó chỉ chấm dứt từ khi cha anh chết. Mà sao bây giờ nó lại vang lên ở đây? Bất giác anh gọi lớn:
- Ba!
Không ngờ lại có tiếng hồi âm:
- Cuối cùng thì con cũng đã tới!
Ngoài sức tưởng tượng của Sinh, nên phải gần nửa giây anh mới thảng thốt kêu lên:
- Ba! Sao ba lại...
- Sao ba lại ở đây phải không? Con hỏi mà không nhớ rằng, chính con đã đưa ba tới đây!
Từ trong bóng tối, một chiếc xe lăn từ từ nhô ra, tiến đến gần bên Sinh. Anh nghe cả hơi thở quen thuộc:
- Ba!
Anh định chụp lấy vai người ngồi trên xe lăn, nhưng đã bị ngăn lại:
- Ba đã là người cõi khác. Một hồn ma già nua, không đủ sức hồi sinh, con chạm vào sẽ lập tức làm tan biến chút tồn tại mong manh mà thôi! Hãy nghe ba nói...
- Sao ba lại ở đây?
- Ba không ở đây, mà ba theo chiếc khăn tay con vừa mang tới. Chính người chủ chiếc khăn mới là người sẽ cho con biết tại sao con phải tới chốn này.
- Nhưng...
Sinh nghe một tiếng thở dài trong bóng tối:
- Ba hiện giờ cũng như con thôi, khó lòng mà gặp được người ấy...
Sinh hơi lớn tiếng:
- Ba đang bị người trong nhà khống chế phải không?
- Chẳng ai khống chế ba ở đây cả. Mà người khống chế chính là...
Ông vừa nói tới đó thì nghe vang lên một tiếng lớn, hình như chiếc xe lăn bị ngã đổ. Sinh hốt hoảng:
- Kìa, ba!
Anh lao tới và đỡ chiếc xe đang lăn kềnh lên. Chiếc xe trống không!
- Ba! Ba đâu rồi?
Chợt ánh sáng bừng lên sáng choang cả gian phòng. Người đàn ông lúc đầu xuất hiện đúng lúc với chiếc đèn măng-sông trên tay. Ông ta lạnh lùng bảo Sinh:
- Ba cậu nói rồi, ông ấy mỏng manh như sương khói. Thương cậu nên ông mới hiện về, nhưng bây giờ người ta không cho nữa, nên ông lại trở về với cát bụi rồi...
- Không, ba tôi!
Người đàn ông đưa tay chỉ về phía chiếc xe lăn:
- Cậu xem, hình như trên xe có vật gì kìa!
Sinh thấy trên đó là chiếc khăn tay mà lúc nãy anh đưa cho chủ nhà xem chưa kịp lấy lại, anh chưa kịp hỏi sao nó lại nằm trên xe lăn của ba anh thì anh đã vội cầm lên xem. Có mấy chữ hiện ra trên chiếc khăn: Con đã để mất vật mà ba cố ý để lại cho con rồi, làm sao con có thể giúp gì cho ba! Rồi con cũng sẽ chẳng còn gì... Hãy tìm lại cho được!
Bất giác Sinh kêu lên:
- Pho tượng đồng!
Người đàn ông chủ nhà không hiểu Sinh nói gì, nhưng không hỏi lại, mà một lần nữa bỏ vào trong, sau khi để lại chiếc đèn.
Sinh đọc lại lần nữa những chữ trên chiếc khăn, anh nhận ra đó là nét chữ của cha mình. Chẳng hiểu ông viết lúc nào mà nét mực còn mới nguyên.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, chợt Sinh hiểu ra, anh nói:
- Mẹ! Chính mẹ!
Anh nhớ đêm hôm đó mẹ xuất hiện trong phòng, rồi khi bà đi thì pho tượng cũng biến mất theo. Mà trong việc này thì lờ mờ, hình như hiện ra bóng dáng của mẹ ngày càng rõ...
Phải chăng...
Sinh không dám nghĩ tiếp, nhưng trong đầu anh biết phải làm gì. Anh nói với vào trong:
- Cháu không cản nữa, xin phép chú, cháu đi đây!
Anh vừa bước ra cửa thì từ trong lại vọng ra tiếng kèn kỳ lạ lúc nãy. Chừng như giữa người thổi kèn với cha anh không phải là một. Hay đúng ra, theo Sinh nghĩ, người nào đó cố ý trỗi lên tiếng kèn đó là để cho anh và cha anh nghe!
Nghĩ vậy nên Sinh dừng lại lắng nghe. Hình như người thổi kèn biết được có người đang lắng nghe thì hứng khởi lên, càng thổi càng da diết, càng như ru lòng người...
Không thể không hỏi, nên dù không nhìn thấy ai trong nhà lúc đó, nhưng Sinh vẫn hỏi vọng vào:
- Tôi muốn nghe nữa vào một hôm nào đó, vậy có được không?
Anh nói xong thì bước đi mà không cần nghe câu trả lời. Lúc ấy ánh sáng trong ngôi nhà bỗng vụt tắt, trả nó về với bóng tối cố hữu...
***
Đã khá lâu rồi kể từ ngày đi du học trở về, Sinh chưa về thăm ngôi nhà cũ, nơi có phần mộ cha mẹ. Vừa thấy anh thì bà xẩm già Lý Anh đã reo lên:
- Cậu Hai về kịp lúc quá, tôi chờ cậu Hai quá trời!
Bà Lý là người Tàu, nhưng đã sống lâu đời với gia đình anh, nên bà hầu như nói tiếng Việt rành không thua bất cứ người bản xứ nào. Bà cũng chính là người đã từng chăm sóc anh, nuôi nấng từ miếng sữa, miếng cơm thuở anh còn nhỏ. Thời ấy mẹ anh luôn đi đây đi đó lo kinh doanh, nên mọi việc nhà đều do một tay bà Lý.
- Sao cậu không về qua nhà?
Câu hỏi cũng là lời trách, nên Sinh nhẹ giọng:
- Dạ, con xin lỗi vú, do con bận quá.
- Bận gì thì cũng về thăm mồ mả ông bà chứ. Chỉ vì vắng cậu mà xảy ra bao nhiêu chuyện, già này làm sao lo cho kham!
Sinh ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy vú?
Bà thở dài:
- Liên tục xảy ra chuyện. Hết bà rồi lại tới ông. Người nào cũng quấy động lên không ai chịu nổi! Nhất là bà, chẳng hiểu sao từ mấy hôm nay bà lồng lộn lên dữ quá, cứ cúng vái bao nhiêu trên bàn thờ bà đều quăng xuống hết và hồi nửa đêm qua còn ném luôn cả những thứ thờ trên bàn thờ ông nữa! Mà tôi biết chắc việc ném đồ thờ trên chỗ thờ của ông không phải do ông làm, mà là... do bà. Cậu biết tính nộ khí xung thiên của bà lúc còn sống mà, khi giận lên thì bà bất kể trời đất!
Sinh bước vào coi thì quả như mô tả của bà. Đặc biệt là ở phần mộ của ông đàng sau vườn, hầu như những chữ trên mộ bia đều bị xóa be bét! Vừa xem qua thì Sinh đã phần nào hiểu, anh lắc đầu ngán ngẩm:
- Con người ta một khi máu ghen nổi lên thì còn kể gì nữa!
Bà Lý ngạc nhiên:
- Cậu nói gì vậy, ai ghen?
- Thì mẹ con chứ còn ai.
- Nhưng, bà chết rồi, mà ông cũng đã mất, vậy ghen với ai?
Sinh đột nhiên hỏi:
- Vú biết có ai quen với ba con tên là Hồ Điệp không?
Bà Lý giật mình:
- Cậu cũng biết sao?
- Vú biết?
Bà Lý bỗng hạ thấp giọng, như sợ có người nghe được:
- Người ấy là người tình của ông từ mười năm trước!
- Vú biết bà ấy bây giờ ở đâu không?
- Ở gần đồn điền cũ của ông. Lâu quá rồi tôi không nghe tin. Bà ấy trẻ hơn mẹ cậu nhiều tuổi, nguyên là hoa khôi một trường đầm ở Đà Lạt thời ấy!
Nghe bà tiết lộ những điều chứng tỏ bà biết khá nhiều về người đàn bà kia, Sinh kéo bà ra một chỗ vắng, hỏi tới:
- Vú biết gì nữa, nói hết cho con nghe đi!
Bà Lý sau một lúc trầm ngâm, đã kể tiếp:
- Thời bà còn sống, lúc cậu đi du học thì đã nhiều lần bà từng làm dữ lên vì chuyện này! Bà ghen ông với cô đó, và nếu không ngăn kịp thì có lần bà đã tạt acid vào mặt cô ấy rồi! Nghe nói lần đó chính ông đã hứng trọn một lon acid vào lưng thay cho cô gái kia!
Sinh bất giác kêu lên:
- Trời ơi!
Bà Lý giọng đầy xúc động:
- Ngày đó giữa ông và bà căng thẳng lắm. Ông bị acid làm phỏng nguyên cái lưng, phải nằm bệnh viện khá lâu, vậy mà ở nhà bà vẫn không để yên, vẫn tiếp tục...
Bà kể tới đó thì ngừng lại như ngại... Bỗng Sinh tiếp lời bà:
- Vẫn không buông tha người phụ nữ kia sao? Rồi người ấy thế nào?
Bà Lý nhẹ lắc đầu:
- Tôi không dám biết tiếp câu chuyện... Hơn nữa, thời ấy tôi còn phải lo cho bệnh tình của ông ở bệnh viện. Tôi tính gửi thư qua cho cậu, nhưng ông chủ nhất quyết không cho, còn dặn là phải giấu biệt luôn, đừng bao giờ kể cho cậu nghe câu chuyện này!
- Sao cách đây ba năm con về mà đâu có nghe ba con nói gì chuyện ấy? Lúc đó mẹ con mới vừa chết. Mà sao lúc mẹ con mất ba con không cho con hay, mà đợi khi làm tuần 49 ngày con mới được báo tin?
Bà Lý lại lắc đầu:
- Chuyện đó là do ông. Theo ý ông thì không muốn cậu phải phân tâm, bởi năm đó là năm cậu thi tốt nghiệp.
Bà ngừng nói, như vẫn còn sợ điều gì đó... Sinh phải gắt lên:
- Vú giấu con nhiều lắm. Chuyện vú không nói thật thì con không hỏi vú nữa, tại sao mẹ con chết?
Đúng là gây khó cho bà vú, bà phải ngập ngừng một lúc rồi mới nói lơ lửng:
- Gieo gì thì gặt nấy thôi!
- Vú nói vậy là sao? Ai gieo, ai gặt?
Bà Lý bất ngờ hỏi:
- Theo cậu thì ai là người gieo trong vụ này?
Sinh nhìn vào bà rồi một lúc mới trả lời:
- Mẹ con là người gieo quả!
Bà Lý đáp thật nhỏ:
- Cậu nói không sai. Chính bà đã tiếp tục gieo tội, dẫu lần trước đã gây ra thương tật lớn cho ông chủ, vậy mà khi ông chủ còn nằm trong bệnh viện bà lại tiếp tục đi lên đồn điền, và... hậu quả là...
Bà nói tới đây thì có lẽ quá xúc động đã nghẹn ngào... Sinh phải lay vai bà hỏi:
- Hậu quả thế nào?
Giọng của bà Lý đẫm trong nước mắt:
- Cô tên Hồ Điệp đó nhận trọn một ca acid!
- Trời ơi!
Lần này tiếng kêu của Sinh vừa thảng thốt vừa đau đớn! Anh lặng đi một lúc, mới run run giọng nói:
- Ác giả ác báo mà!
Bà Lý nói tiếp:
- Tôi nói gieo gì gặt nấy là thế này: sau khi gây ra vụ việc tày trời đó được gần một năm, thì ông chủ xuất viện về nhà và hay tin! Giữa ông bà đã nổ ra một trận cãi long trời lở đất và cả hai đều bỏ nhà đi. Đến hai ngày sau thì tin dữ dội về, bà chủ trong lúc trở lại nhà cô Hồ Điệp để "đào mồ cuốc mả" cô ấy thì chẳng may, trong lúc giận quá mất khôn, bà đã tự lái xe và lao xuống vực!
Phi lại lặng người đi khá lâu. Hồi sau, anh buông một câu:
- Chuyện nhà con rối rắm quá!
Anh tiếp tay với bà Lý dọn dẹp lại hai bàn thờ. Trong lúc dọn, anh giật mình khi nhìn thấy pho tượng đồng mà anh bị mất mấy hôm trước!
- Vú, vật này sao ở đây?
Bà Lý ngạc nhiên:
- Vật gì?
Khi Sinh lấy pho tượng đưa lên thì bà lại càng kinh ngạc hơn:
- Vật này... cách đây trên ba năm, khi ông chủ còn sống thì tôi thấy... hình như tôi thấy... nó nằm trong phòng riêng của bà chủ! À mà phải rồi, lúc ông bà cãi vã nhau dữ dội thì cũng xoay quanh pho tượng này! Khi bà chết rồi thì nó biến đâu mất tiêu, bây giờ lại thấy ở đây. Mà mấy hôm nay ngày nào cũng đốt nhang cho ông bà, mà tôi có nhìn thấy nó đâu?
- Nó ở chỗ của con!
Câu nói của Sinh khiến bà Lý tròn mắt nhìn anh:
- Nó bị ai lấy mang về đây sao? Tôi không có à...
Sinh nói khẽ đủ cho bà vú nghe:
- Mẹ con lấy!
Rồi anh đột ngột hỏi:
- Vú có biết gì nữa về pho tượng này không?
- Nhiều thì không biết, nhưng tôi biết nó từ một ông thầy tướng số người Hoa, tên Lưu Tường.
Sinh sáng mắt lên:
- Ông ta là thế nào với ba mẹ con?
Bà Lý im bặt, sắc mặt bà hơi biến đổi và Sinh nhìn thấy ngay:
- Có chuyện gì sao vú?
- Có...
Bà im lặng thêm một lúc nữa, rồi đột nhiên hạ giọng:
- Người đó là đầu mối của mọi rắc rối! Chính ông ta đã bán tượng ấy đầu tiên cho bà chủ, rồi sau lại chuyển cho ông chủ...
Sinh cau mày:
- Đây là pho tượng cổ quý giá lắm sao?
Bà Lý lắc đầu:
- Tôi không biết có quý hay không, nhưng... hình như nó được làm phép hay yểm bùa sao đó!
Sinh ngạc nhiên:
- Làm phép là sao?
- Điều này tôi cũng không rõ. Nhưng có lúc bà giữ nó kỹ lắm, rồi khi qua tay ông nó cũng được ông giữ như báu vật! Nhưng từ khi ông chết thì tôi không còn thấy nó đâu, chẳng biết ông cất chỗ nào. Thì ra là ở chỗ cậu.
- Vú biết nhà lão Lưu Tường gì đó không?
Bà Lý lại tỏ ra căng thẳng, rồi đột nhiên bà nói:
- Chắc cậu biết mẹ cậu vốn là người gốc Hoa chứ?
Sinh gật đầu:
- Dạ biết. Nhưng có liên quan gì tới vụ này sao?
- Có. Ông Lưu Tường là một người Hoa, từng là... người yêu cũ của mẹ cậu lúc bà chưa lấy chồng!
Lời tiết lộ này không khiến Sinh sửng sốt. Anh chỉ im lặng rồi vụt đứng lên, tay giữ khư khư pho tượng. Bà Lý hỏi:
- Cậu tính sao?
Sinh vẫn không nói gì, anh hỏi lại:
- Vú có chìa khóa phòng riêng của mẹ con không?
Bà Lý đích thân mở cửa phòng nhưng không vào, bà vội nói:
- Từ nào đến giờ tôi không có vào trong. Nói thật, tôi sợ...
Sinh không sợ, nhưng anh cũng có hơi e dè. Căn phòng đúng là từ lâu không được quét dọn, tuy nhiên cũng không đến nỗi bề bộn, luộm thuộm lắm. Một vật khiến Sinh chú ý đầu tiên lại là... một pho tượng đồng khác, đang nằm trên bàn phấn!
- Sao lại...?
Sinh hết nhìn pho tượng trên tay anh rồi đến pho tượng kia. Cả hai giống nhau như đúc cùng khuôn!
Vừa đưa tay chạm vào thì có một tiếng kêu thét lên, như tiếng của ai đó kêu cứu! Mà giọng đó lại giống như của cha... Sinh thảng thốt kêu lên:
- Ba!
***
Anh chàng tuổi cỡ trên dưới ba mươi bước ra tiếp Sinh, khiến anh hơi thất vọng, anh hỏi liền:
- Tôi muốn gặp ông Lưu Tường?
Chàng trai kia trố mắt nhìn Sinh:
- Có chuyện gì?
- Đây là nhà ông Lưu Tường, ông thầy tướng...?
Anh ta mở rộng cửa ra mời Sinh vào. Khi đã bước vào nhà rồi Sinh mới xác định là mình tìm đúng chỗ, bởi khắp phòng hầu như chỗ nào cũng bày đầy những trang thờ cùng những hình vẽ quái dị. Không khí căn phòng đầy huyền bí, âm u...
Anh chàng kia không đợi Sinh hỏi thêm, đã nói ngay:
- Ba tôi đã mất rồi. Tôi là con trai ông ấy.
Sinh hơi thất vọng:
- Ông Lưu Tường mất lâu chưa?
Chỉ về phía bàn thờ đặt sát tường, lẫn vào những bệ thờ khác, anh ta bình thản nói:
- Chỉ mới đây thôi. Xin hỏi, anh tìm ba tôi có việc gì?
Sinh hơi ngập ngừng:
- Chẳng là thế này... Tôi là con của một người bạn của ông Lưu. Có một vài việc...
Anh chàng kia đột nhiên hỏi thẳng:
- Anh là con của bà Lan Vi?
Nghe anh ta hỏi đúng tên mẹ mình, Sinh ngạc nhiên:
- Anh... biết mẹ tôi?
Anh chàng thở dài thườn thượt:
- Thảo nào...
Anh ta đứng lên, đi về phía bàn thờ và lấy một phong thư còn mới, đưa cho Sinh:
- Anh đọc đi.
Sinh lắc đầu:
- Tôi không đọc được tiếng Hoa.
- Không, ba tôi viết bằng tiếng Việt.
"Gửi ông Thanh Long,
Phải đến bây giờ, sau gần mười năm, tôi mới viết những dòng này cho ông. Chắc ông biết tôi là ai rồi, người mà ông luôn cho rằng đã gây ra xào xáo hạnh phúc gia đình ông bấy lâu nay! Và điều mà tôi sắp nói đây có liên quan đến cái hạnh phúc đó!
Tôi không chối bỏ tôi chính là người yêu của Lan Vi, vợ ông! Là một kẻ mất vợ sắp cưới vào tay ông, một thương gia giàu có và là kẻ nuôi trong lòng mối uất hận mười năm! Và chính vì lẽ đó mà suốt hơn mười năm qua, tôi đúng là người luôn chen vào để phá tan cái hạnh phúc gia đình mà ông vốn có! Tôi đã làm được với đủ mọi cách. Từ ly gián giữa ông với Lan Vi, đến dùng bùa chú để can thiệp vào, cho đến phá luôn cả mối tình vụng trộm giữa ông và cô người yêu bé nhỏ của ông ở Đơn Dương, cô Hồ Điệp gì đó...
Tôi hầu như sắp đạt mục đích cuối cùng là loại ông ra khỏi cuộc tranh chấp tình cảm này để chiếm lại Lan Vi của tôi. Nhưng tôi không ngờ số mạng lại trớ trêu, người chết trong cuộc trả thù của tôi không là ông mà lại là Lan Vi! Chính tôi đã biến Lan Vi đem pho tượng đồng đã bị yểm bùa để đặt vào nhà cô Hồ Điệp, nơi mà tôi biết sau khi rời bệnh viện thế nào ông cũng mò về đó, để ông phải bị bùa mà điên cuồng, rồi chính tay ông sẽ giết hại người yêu của mình và vì vậy mà bị kết án sẽ rục xương trong nhà tù! Nhưng người tính không bằng trời tính, nên Lan Vi chưa làm được chuyện ấy thì cô ấy lại lao xe xuống vực mà chết!
Tôi hận ông thấu xương, nên thay vì Lan Vi chết rồi, tôi phải bỏ mọi ý định trả thù, đằng này tôi vẫn tiếp tục cuộc truy đuổi ông. Những pho tượng đồng báo oán vẫn bám sát gia đình ông, đã khiến được ông chết bởi cơn bệnh dai dẳng hành hạ, và rồi điều đó sẽ lặp lại với chính đứa con trai duy nhất đang nối nghiệp ông!
Nhưng, chuyện đời đâu phải cái gì mình muốn cũng theo đúng ý mình đâu! Vừa rồi, trong lúc tôi sắp đạt được mục đích cuối cùng, khi thằng con trai ông nó đã bắt đầu chạm vào pho tượng thiêng đó, thì một bất ngờ đã xảy ra, điều mà chính tôi cũng không ngờ tới! Ông biết ai đã phá hỏng hết mọi cố gắng của tôi không? Đó chính là... Lan Vi! Chính cô đã lấy hai pho tượng, một do ông cất giữ, một của cô ấy, đem về tận nhà tôi, rồi trước sự bất ngờ của tôi, cô ấy ném cả hai vật ấy vào nơi ô uế, khiến cho mọi phép thiêng yểm trong đó đều tiêu tan hết! Tôi đã hỏi tại sao cô ấy làm như vậy thì cô ấy chỉ khóc mà không nói, rồi biến mất luôn. Oan hồn cô đã vĩnh viễn không bao giờ trở lại đây nữa... Và tôi cũng đã đoán ra tại sao cô ấy lại hành động như vậy. Chỉ bởi lương tâm làm mẹ của cô ấy thức tỉnh kịp thời trong cõi âm hồn, và cô ấy biết là mình không thể hại con ruột của mình được! Cô ấy đã và thà chấp nhận oan hồn mình vĩnh viễn tiêu tan, chứ không làm ác thêm lần nữa...
Với tôi như vậy thì còn gì để theo đuổi cuộc trả thù điên cuồng của mình nữa! Tôi đã hiểu ra, mọi thù hằn rồi cũng chỉ hằn thù triền miên mà thôi. Bởi dẫu tôi có hại nốt giọt máu cuối cùng của ông, thì rồi tôi vẫn còn có đứa con trai của mình. Lấy gì bảo đảm là vong hồn ông, vong hồn con trai ông nó sẽ không tìm cách trả hận chúng tôi.
Lan Vi đã không còn tin tôi nữa, vậy thử hỏi tôi còn sống mà làm gì! Tôi viết những dòng này, biết là ông không còn trên thế gian này để đọc, nhưng tôi mong con trai ông nó sẽ đọc, và sau đó đem đốt để ở suối vàng ông cũng đọc được và tha thứ cho tôi...
Lưu Tường.”
Buông lá thư xuống, Sinh nhìn chàng trai kia, chưa kịp nói gì thì anh ta đã lên tiếng:
- Ba tôi chết bởi tự mình kết liễu cuộc đời. Tôi tuy không rõ lắm về chuyện rắc rối giữa ông với cha mẹ anh, nhưng qua lá thư này tôi cũng hiểu ra là mọi việc đã kết thúc. Phần anh thì sao, anh có hận thù gì tôi không?
Sinh gượng cười và bắt tay anh ta:
- Chuyện ấy đã là quá khứ. Những gì ba anh nói đã quá đủ để chúng ta khép lại mọi việc.
Họ siết chặt tay nhau trong niềm cảm thông.
Sinh xách trên tay hai pho tượng đồng nặng gần mười ký lô trong giỏ xách, mà lúc tới anh kỳ vọng sẽ buộc ông Lưu Tường làm cho ra lẽ, nhưng giờ này nó trở thành một gánh nặng thật sự. Anh muốn bỏ nó ở giữa đường, nhưng suy nghĩ lại, anh mang nó về nhà.
Anh đốt nhang bàn thờ cha mẹ, rồi dặn bà Lý:
- Vú làm một mâm cơm để trưa nay cúng giùm con.
Bà Lý ngạc nhiên:
- Sao cậu còn sửa soạn đi đâu nữa?
- Con có chút việc phải đi ngay. Khi về con sẽ nói với vú nhiều việc.
Lúc Sinh cất hai pho tượng vào tủ, anh có cảm giác như những pho tượng ấy giờ chỉ còn là hai khối đồng nặng nề mà thôi, mọi điều thần bí không còn nữa... Bằng chứng là trong lúc sắp xếp, Sinh vô tình làm rơi một pho tượng xuống sàn, chỉ một tiếng vang khô khan rồi thôi, không có một biểu hiện gì khác thường!
Bỗng một ý nghĩ lóe lên trong đầu, Sinh tự nhủ:
- Tại sao mình lại không đặt tượng lên đầu mộ của từng người?
Anh đem hai pho tượng ra ngoài mộ, thay vì bỏ vào tủ cất. Và tuần tự, Sinh đặt trước đầu mộ từng cái một. Vừa đặt xong thì thật bất ngờ, pho tượng bên mộ cha anh vụt chuyển động, rồi chỉ trong chớp mắt, nó chuyển dịch nhanh và đổi vị trí sang đầu mộ của mẹ. Riêng pho tượng của mẹ anh thì vẫn đứng yên.
Sinh chợt hiểu ra, anh thử lấy pho tượng vốn đặt mộ mẹ trước đó, chuyển sang mộ của cha, thì nó đứng yên! Để thử lại xem suy nghĩ của mình có đúng không, Sinh lại chuyển pho tượng mới bị dịch chuyển từ mộ cha sang, để nó trở lại cạnh pho tượng kia, ngay đầu mộ của cha. Lập tức pho tượng đó bị hất tung. Trong lúc pho tượng kia thì vẫn đứng yên!
Sinh chắp tay trước mộ cha, khấn:
- Con xin ba, giờ thì mọi việc đã đổi thay rồi. Mẹ đã biết lỗi và đã vĩnh viễn tan biến vào hư không rồi. Xin cha hãy rộng lượng, bỏ qua...
Nói xong, anh lấy bức thư của ông Lưu Tường, bật diêm quẹt đốt liền. Rồi anh lại khấn thêm:
- Bây giờ con sẽ thay ba đi làm một việc cuối cùng. Ba cứ yên lòng nhắm mắt...
Anh đốt thêm hai nén nhang nữa và chờ cho lá thư cháy hết rồi mới quay lưng đi.
Ở phía sau Sinh, làn khói xanh từ lá thư đang đốt bỗng hóa thành màu đỏ, bay là đà quanh hai ngôi mộ. Cuối cùng, làn khói ấy sà xuống sát ngôi mộ của bà Lan Vi rồi tỏa ra lớn dần, lớn dần, sau cùng nó như một đám mây óng ánh sắc màu chụp xuống ngôi mộ!
***
Người đàn ông hôm trước đón sự trở lại của Sinh khác lần đầu. Ông nở nụ cười thân thiện:
- Cậu trở lại đây sớm hơn tôi dự kiến.
Sinh lễ phép:
- Thưa chú, chú không khó chịu vì sự hiện diện của cháu chứ?
- Trái lại là khác. Cứ gọi tôi là Ba Vĩnh, tôi là em ruột của Hồ Điệp. Tôi đã được người ta báo trước là cậu sẽ trở lại đây, nhưng nghĩ ít ra cũng năm ba ngày nữa...
- Cháu đi xe đêm để kịp tới đây sáng nay. Bởi hôm nay là sinh nhật thứ 42 của bà Hồ Điệp, phải không ạ?
Anh vừa nói vừa đặt xuống một lẵng hoa tươi, không ra dáng hoa tang, mà cũng chẳng ra hoa cưới, vì trên đầu lẵng hoa có gắn một dòng chữ khá to: Ngàn lần tạ tội! Thay mặt gia đình Thanh Long. Hoàng Sinh.
Vừa lúc đó, Sinh quỳ xuống trước sự ngỡ ngàng của ông Ba Vĩnh:
- Kìa, sao cậu lại...
Nhưng rồi ông chợt hiểu:
- Đêm qua ba cậu đã về đây báo cho biết cậu sẽ tới để tạ lỗi. Ba cậu cũng đã nói hết mọi chuyện về hành vi của mẹ cậu và ông thầy tướng số nào đó... Nhưng cậu không phải làm như vậy. Bởi mọi việc đã qua rồi, dẫu sao thì chị tôi cũng đã nhận hết mọi khổ đau rồi, còn hận ai làm gì...
Ông đỡ Sinh đứng lên, rồi nói:
- Cậu theo tôi ra sau này.
Ông đưa Sinh ra phía sau nhà, nơi có một khu vườn trồng những cây ăn trái sum sê. Đến một ngôi nhà nhỏ biệt lập với nhà lớn phía ngoài, từ bên trong vọng ra điệu kèn kỳ bí hôm trước! Sinh thảng thốt:
- Đây là...
Ba Vĩnh bảo:
- Chị tôi thổi đó. Chị ấy từ nhỏ đã mê loại kèn này và tập thổi cho đến khi chơi được nhiều bản nhạc, nhưng chỉ duy nhất có bản này thì hầu như năm bảy năm nay chị ấy chỉ chơi có một. Cậu biết bài nhạc này?
- Bài "Rose de Chine".
- Đúng, đây là bản nhạc định mệnh của chị ấy. Bởi thiếu gì bài hay mà chị ấy không thổi, lại chỉ chơi có mỗi bài này. Tôi có hỏi thì chị bảo, bởi vì đấy là bài Cánh Hồng Trung Hoa mà anh Thanh Long thích nhất! Đó, tình yêu nó làm cho người ta lãng mạn và bảo thủ như thế đó!
- Cô ấy thổi hay quá, cháu cũng phát mê!
- Vậy mà...
Ba Vĩnh định nói gì đó nhưng lại thôi. Ông cất tiếng gọi vào trong:
- Chị Hai ơi, có cậu ấy tới!
Hình như việc Sinh tới đây đã được người trong kia hay biết trước, nên có một giọng yếu ớt và hơi run vọng ra:
- Mời cậu ấy vào phòng khách.
Ba Vĩnh mời Sinh vào nhà, vừa giải thích thêm:
- Từ ngày bị nạn chị tôi không tiếp ai ở đây cả, ngoại trừ cậu.
Căn phòng chìm trong bóng tối, do tất cả cửa nẻo đều đóng kín. Ngăn giữa phòng khách và phòng bên trong chỉ bằng một tấm màn che màu sậm. Giọng từ bên trong lại vọng ra:
- Cậu là Sinh?
- Dạ, con là Sinh. Con xin cúi đầu trước cô để nhận tội cho má con!
Anh lại bất thần quỳ xuống và mọp đầu sát sàn nhà. Bên trong, giọng nói vẫn từ tốn:
- Cậu không phải làm vậy đâu. Mọi việc đã qua rồi mà hôm nay được nghe cậu nói tôi đã mãn nguyện lắm, tôi không mong gì hơn...
Bà nấc lên thành tiếng! Ba Vĩnh hốt hoảng:
- Kìa, chị Hai! Chị làm khổ con tim của chị nữa rồi.
Giọng nói vẫn vang ra:
- Không sao. Cậu Ba có thể bước ra ngoài, để tôi nói với cậu đây mấy lời không?
- Dạ... nhưng chị Hai đừng để ảnh hưởng sức khỏe.
Ba Vĩnh lui ra thì tấm màn lay động nhẹ, rồi Sinh có cảm giác như có tiếng xe lăn chuyển động và... giọng nói gần sát bên:
- Cậu là người duy nhất được nhìn thấy dung nhan tôi, trong khi kể cả em trai tôi, nó nuôi tôi từ bao nhiêu năm nay cũng chưa từng nhìn thấy! Tôi chào cậu.
Sinh vừa ngước nhìn và suýt nữa anh đã kêu rú lên, bởi con người ngồi trên xe lăn đang ở trước mặt anh có một bộ mặt chẳng khác gì một ác quỷ!
- Bà là... bà Hồ Điệp?
Một tiếng cười giống như tiếng khóc cất lên:
- Cậu cũng nhận ra tôi rồi! Cám ơn cậu, dù sao thì dưới bộ mặt quỷ tôi vẫn còn có cái tên! Tôi đang đợi cậu tới đây để nói với cậu câu này...
Bà dừng lại, hình như để lấy hơi, rồi mới tiếp:
- Tôi chỉ mong ước một điều duy nhất trước khi nhắm mắt, mà chỉ có cậu mới quyết được: Tôi muốn được chôn cạnh ba cậu!
Sinh phản ứng ngay:
- Sao được! Mẹ tôi...
Người phụ nữ trên xe lăn chợt thở dài...
Riêng Sinh, sau câu nói dở dang, anh chợt nhận ra, vội tiếp liền:
- À, mà không sao! Được, được cô ạ! Nhưng, con muốn phụng dưỡng cô dài lâu. Cô đừng chết...
Người phụ nữ long lanh ánh mắt trên khuôn mặt sần sùi, nhăn nheo giọng bà như reo lên:
- Cô cám ơn con! Cám ơn Phật trời...
Sau câu nói, bà đẩy nhanh chiếc xe lăn trở vào sau bức màn che, và... bà khóc nức nở từ trong đó.
Sinh cố lên tiếng xin nói chuyện, nhưng bà không trả lời. Tuy vậy, Sinh thoáng hiểu tiếng nấc kia là niềm vui chứ không phải nỗi thống khổ như từ bao lâu nay...
Anh lặng lẽ bước ra ngoài và quyết định sẽ ở lại đó vài hôm...
Và quyết định đó rất đúng. Bởi ngay sáng hôm sau thì Ba Vĩnh, em trai bà đã phát hiện Hồ Điệp nằm chết trên giường với tư thế thanh thản. Hình như bà tự tìm lấy sự ra đi...
Thể theo ý nguyện của bà, Sinh và Ba Vĩnh đã đưa thi thể bà về chôn trong vườn nhà, nằm bên cạnh mộ của cha mẹ anh. Sau khi mai táng, Sinh chờ đợi xem có phản ứng gì không từ mẹ. Nhưng tuyệt nhiên không có gì...


LỜI THỀ ĐỘC


Hưng không hứng thú gì khi theo mẹ vào chùa. Nhưng bà Thái thì lại phấn khởi lắm, cứ hối hoài:
- Con đi nhanh lên, sư cụ chỉ có thời giờ ít thôi, ông còn phải đi dự trai đàn ở xa mà cố gắng đợi mẹ con mình đó!
Hưng càu nhàu:
- Con nói rồi, chuyện cầu xin làm chi cho mất công, bề nào cũng...
Anh muốn nói điều gì đó, nhưng kịp ngừng lại. Bà Thái không để ý lắm, bà chỉ gấp gáp thôi:
- Nhanh chút nữa con!
Từ ngoài đường cái vào tuy là quãng đường đất khá xa, vậy mà chỉ mất chưa đầy năm phút là hai mẹ con vào tới nơi. Ngửi được mùi hương nhang từ trong tỏa ra, bà Thái vui hẳn lên:
- Sư cụ còn chờ mình trong đó!
Bà vừa dứt lời thì từ trong chánh điện đã có tiếng vọng ra:
- Mời bà và cậu vào trong này.
Bà Thái nói nhanh với con:
- Nhớ là phải lễ phép với sư cụ đó, không được hỏi lôi thôi!
Hưng bỏ giày ra rồi theo mẹ bước tới sau lưng vị sư già đang ngồi xếp bằng trước bàn thờ Phật.
- A di đà Phật, con kính lễ thầy!
Hưng cũng chấp tay xá theo chứ không nói được như mẹ. Lúc này vị sư già mới ngẩng mặt lên, quay lại. Ông cất tiếng hiền từ:
- Thầy tưởng phải chờ lâu.
Bà Thái mau mắn:
- Dạ, đã được thầy cho phép thì đệ tử đâu dám chần chừ.
- Không phải bà, mà là cậu đây...
Hưng giật mình, anh lí nhí:
- Dạ... con... con...
Nhà sư vẫn giữ nụ cười hiền hòa, ông vừa đứng lên vừa đưa tay chỉ ra sau:
- Mình ra ngoài nói chuyện cho thoáng mát.
Theo ông ra hoa viên phía sau chùa và không đợi bà Thái lên tiếng, sư cụ Chơn Phước đã chủ động nói:
- Sao, có chuyện gì hai vị cứ nói tự nhiên, thầy nghe.
Bà Thái nói liền:
- Bạch thầy, như đệ tử thưa với thầy hôm qua, thằng con trai của con nó có vấn đề...
Không để bà nói hết, nhà sư đã nói:
- Chuyện cái tâm không được an trước ngày lấy vợ phải không?
Bà Thái giật mình:
- Sao thầy biết?
Nhà sư nói mà không nhìn Hưng:
- Sắc diện cậu đây đã nói hết điều trong lòng. Cậu không hài lòng điều gì ở người con dâu mà mẹ cậu chọn?
Bà Thái định nói thay con, nhưng sư Chơn Phước đã chận lời:
- Thầy muốn nghe chính cậu đây nói thôi.
Bấy giờ Hưng mói thật sự lúng túng:
- Dạ... bạch thầy, con...
Bà Thái khuyến khích:
- Thầy đã hỏi thì con nói thật hết cho thầy nghe.
- Cậu không phải nói hết. Chỉ trả lời thầy tại sao cậu không thích người mẹ cậu chọn?
- Dạ... không phải con không thích. Nhưng... không dám thích thì đúng hơn!
Câu trả lời của Hưng làm cho bà Thái ngạc nhiên, trái lại nhà sư thì không, ông gật gù nói:
- Đây là lời thật lòng của cậu. Vậy điều gì khiến cho cậu sợ?
- Dạ...
Bà Thái lại chen vào:
- Con sợ cái gì? Con nhỏ này là con nhà gia giáo, nó lại nết na đằm thắm mà chính con cũng nhiều lần khen. Hơn nữa con và nó từng quen biết nhau nhiều năm, từng hẹn ước nữa...
Hưng chừng như không muốn mẹ mình nói ra những điều đó, anh hơi xẵng giọng:
- Chuyện đó là của con...
Nhà sư nghiêm giọng:
- Chuyện này không đơn giản đâu.
Nghe ông nói thế, bà Thái lo lắng:
- Có gì nghiêm trọng sao thầy?
Nhà sư lại nhìn Hưng:
- Thầy nói không đơn giản không phải về phía cô gái, cũng không phải từ đôi bên cha mẹ, cũng không phải do bản thân cậu. Mà do một nguyên nhân khác...
Hơi giật mình bởi câu nói, Hưng lần đầu tiên dám nhìn thẳng vào mắt nhà sư, nhưng mới vừa nhìn anh đã vội tránh đi ngay, bởi hình như trong ánh mắt ấy như có cái gì đó khiến Hưng phát sợ!
Thấy sự lúng túng của Hưng, sư Chơn Phước nhắc:
- Hơn lúc nào hết, giờ đây cậu cần phải bình tĩnh. Bởi việc cậu sợ có liên quan tới tâm linh, nên thái độ của cậu sẽ quyết định cả cuộc đời cậu!
Vừa nghe tới đó bà Thái đã kêu lên:
- Có gì nghiêm trọng sao thầy? Trời ơi, con tôi...
Nhà sư dịu giọng:
- Chuyện này chỉ có mình cậu đây giải quyết được thôi, xin bà cứ bình tĩnh. Mà thôi, để cho dễ cả hai mẹ con, xin bà tạm ra hậu điện ngồi uống nước. Thầy cần nói thêm với cậu đây vài câu...
Bà Thái đành phải tránh đi, nhưng vẫn hướng mắt đầy lo lắng về phía con trai. Trong khi đó sư Chơn Phước chỉ nhìn về phía Hưng, không nói gì, nhưng hình như đang khuyến khích anh nói. Và Hưng nói rất thật lòng:
- Con sợ một cái gì đó vô hình! Cụ thể là mỗi khi con có ý định tới gặp Diệu Hương, người mà mẹ con định cưới cho con thì y như là con bị cái gì đó hành xác con dữ lắm, đến nỗi có lần con đang ngồi trên xe mà bị rớt xuống đất lúc nào không hay! Mà không phải một lần, nó cứ xảy ra hoài mỗi lần con gặp hay nghĩ tới cô gái ấy. Lúc đầu con tưởng mình bị bệnh, nhưng sau này ngẫm lại con mới hiểu, nếu con không nghĩ tới ai khác phái thì không có chuyện gì... Con đã đi khám bệnh tâm thần, thầy thuốc không phát hiện bất cứ bệnh tật gì ở con. Con hoang mang quá, mà ngày mẹ con muốn con cưới vợ cũng không còn xa nữa. Vậy con phải làm sao?
Nhà sư trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Thầy không rành chuyện thần bí đó, nhưng nhìn khí sắc con ta đoán chắc con bị một ám ảnh gì đó lớn lắm. Ta hỏi thật, từ nào đến giờ con đã từng qua đời vợ nào chưa?
Hưng đáp ngay:
- Dạ chưa! Từ nào đến giờ con ở nhà cha mẹ, con đi học, rồi bây giờ mẹ con bắt đi lấy vợ. Con chưa hề...
Nhà sư lại thêm một phút trầm ngâm:
- Ta có nghiên cứu quẻ dịch, cho nên khi mẹ cậu và cậu chưa tới đây ta đã có bói một quẻ, ta lấy làm lạ là sao... cậu còn trẻ như vầy mà đã vướng chuyện tình trường?
Hưng lại chối bai bải:
- Không có đâu thầy! Năm nay con mới có mười tám, mà mấy năm trước con chỉ biết lo học hành...
Nhưng chợt anh khựng lại, bởi trong đầu Hưng dường như đang có một tiếng khóc nức nở của ai đó, lúc thì như vọng lại từ bên ngoài, lúc lại như đang ở trong đầu... đủ khiến cho Hưng vừa sợ hãi lại vừa như tò mò...
- Cậu sao vậy? Có phải...
Hưng đành thú thật:
- Con đang nghe ai đó khóc! Mà điều này cũng thường xảy ra! Người ta chỉ khóc văng vẳng thôi, vậy mà con nghe như triệu triệu lời trách móc, đay nghiến... Con làm sao bây giờ đây thầy?
Nhà sư đột ngột đặt tay lên giữa trán của Hưng trong vài giây rồi nói nhanh:
- Cậu mắc nợ ai đó một lời thề hay một lời hứa gì đó quan trọng lắm!
Hưng chợt thoát ra khỏi trạng thái đang mắc phải sau câu nói của nhà sư. Nhưng anh vẫn không thừa nhận:
- Con không hề có điều gì với ai hết! Hay là...
Trong đầu anh lại tiếp tục nghe những âm thanh như lúc nãy, điều này khiến Hưng hiểu rằng hễ anh chối bỏ điều như nhà sư nói thì anh bị... ai đó làm cho rơi vào tình trạng khó chịu này!
Sư Chơn Phước bỗng đứng dậy, ông nói dứt khoát:
- Cậu về suy nghĩ kỹ lại coi, mình có phạm điều gì như thầy vừa nói không? Phải tìm ra căn nguyên thì mới hy vọng giúp cậu thoát qua trạng thái này.
Ông ra ngoài báo cho bà Thái:
- Bà đưa cậu ấy về đi, không có gì đáng lo cả. Nhưng theo thầy thì bà nên hoãn chuyện tính cưới vợ cho cậu ấy, cho đến khi nào tự cậu ấy thấy cần.
Bà Thái lo lắng định hỏi thêm, nhưng nhà sư đã lặng lẽ bước về chánh điện, bắt đầu buổi kinh sáng như thường lệ. Mà một buổi cầu kinh của thầy thì kéo dài đến giữa trưa, không gì làm cho ông bỏ dở buổi kinh...
Hưng giục mẹ mình:
- Mình về thôi, má!
Suốt trên quãng đường về dù bà cố dò hỏi, nhưng Hưng không hé răng nửa lời về buổi trò chuyện với nhà sư. Chỉ khi về đến gần nhà Hưng mới đột nhiên nói:
- Con muốn đi qua bà nội!
Bà Thái ngạc nhiên:
- Qua bên đó làm gì con, để bữa khác đi cho sớm, bây giờ gần giữa trưa rồi, đây qua đó đến hơn trăm cây số.
Nhưng Hưng vẫn cương quyết:
- Con có việc này cần lắm, con phải đi!
Chưa bao giờ bà Thái thấy con như vậy! Bà nghĩ có lẽ nhà sư đã nói gì đó nên Hưng mới gấp đi như thế. Bà đành phải chấp thuận, nhưng căn dặn:
- Nếu liệu không về sớm được thì con ở bên đó ngủ với nội, bữa sau về cũng được.
Hưng đáp gọn lỏn:
- Vài bữa con mới về!
***
Thấy cháu nội về bất ngờ, bà nội Năm đã ngạc nhiên, mà bà còn ngạc nhiên hơn khi Hưng hỏi:
- Nội nhớ ông giáo Luận không nội?
- Giáo Luận nào, phải ông giáo ngày trước dạy con và mấy đứa trong nhà rồi chết bất đắc kỳ tử đó không?
- Dạ, đúng rồi nội. Ông giáo chẳng biết tại sao chết, nhưng nội cấm tụi con không đứa nào được qua nhà đó nữa từ sau khi ông ấy chết!
Bà nội Năm gục gật đầu:
- Nhớ chứ. Mà sao tự nhiên con hỏi thăm nhà đó làm gì?
- Dạ... con muốn biết coi bây giờ còn ở chỗ cũ không?
- Còn. Nhưng con không nhớ lời nội dặn sao, nhà đó... có vong, không nên tới!
Hưng ngơ ngác:
- Có vong là sao nội?
- Là có người chết bởi... âm hồn, nên âm khí nơi đó nặng nề lắm!
- Thì ra chỉ vì chuyện ấy mà ngày trước nội cấm không cho tụi con qua đó, đến nỗi bây giờ con muốn quên đường qua nhà của thầy luôn. Mà nè nội, sao nội tin làm gì chuyện vong hồn gì đó. Thầy Luận là người tốt, thầy được học sinh kính yêu, rồi thầy chẳng may chết sớm, vậy có gì đâu gọi là vong với âm hồn?
Bà nội Năm hạ thấp giọng như sợ có người nghe:
- Chính vì ông giáo chết bất đắc nên người ta mới nói... Mà thôi, chuyện nhà đó đã lâu rồi không qua lại, con còn nhắc tới làm gì. Mà chuyến này con về là để lo việc gì, sao má mày đâu không về?
Hưng đáp khiến bà nội giật mình:
- Con về chỉ vì chuyện nhà ông giáo!
Bà nội trố mắt:
- Chuyện gì?
Hưng gấp gáp đứng lên:
- Để con đi xong việc rồi về chơi mấy bữa.
Anh đi thẳng ra cửa trước sự lo lắng của nội:
- Mà con đi đâu?
- Việc riêng của con mà!
Nơi Hưng tìm tới đúng là ngôi nhà của ông giáo Luận. Lâu ngày không ghé qua, quả là có nhiều thay đổi, nên Hưng phải hỏi mấy lượt người ta mới chỉ cho:
- Nhà thầy giáo Luận từ khi ông ấy mất thì có nhiều thay đổi. Hồi xưa đường vào nhà thầy là đi bên cạnh đình làng, nhưng những năm trước người ta bít con đường đó, mở con đường mới đi từ bến sông lên gần hơn. Bây giờ cậu cứ theo lộ xe đây, đi tới chỗ bến đò, thấy có cái cổng xi măng đề mấy chữ: Từ đường ông Hội Đồng, cậu cứ theo đó mà đi chừng vài trăm mét, hỏi nhà giáo Luận ai cũng biết.
Hưng còn nhớ thời anh còn nhỏ đã từng đi qua ngõ này, nhà hội đồng Kinh lớn nhất vùng, có nuôi nhiều chó dữ, nên tuy con đường qua lại đã có từ lâu, nhưng bọn trẻ như anh không thích đi, bởi sợ chó. Mà người thường nhắc Hưng không nên đi lối này lại là một cô gái, bạn học với Hưng, mà lúc này Hưng đang chợt nhớ tới, Lan Huệ!
Chuyện Hưng trở về đây đột ngột là cũng bởi Lan Huệ. Cô bạn học này ngày xưa suýt nữa đã cùng với Hưng lên Sài Gòn học tiếp bằng Tú Tài, nếu không vì cái chết đột ngột của ông giáo. Rồi từ đó Hưng không còn liên lạc gì, dẫu khi học ở Sài Gòn trong mấy năm đầu anh cũng đã có gửi về năm sáu lá thư mà không thấy hồi âm...
- Cậu tìm nhà ai?
Thấy Hưng ăn mặc ra dáng công tử nên một chị gánh hàng rong lên tiếng hỏi. Hưng đã nhớ lối vào nhà thầy Luận, nên chỉ tay và đáp:
- Nhà thầy giáo Luận.
Chị đó buông gánh hàng xuống, nhìn Hưng một lượt rồi nói:
- Chắc lâu lắm cậu không tới đây phải không?
- Dạ đúng. Tôi học ở Sài Gòn...
- Thảo nào...
Hưng ngạc nhiên:
- Có gì vậy chị?
- Cậu biết ông giáo đã chết?
- Dạ biết. Hồi ông giáo chết tôi còn ở xứ này.
- Nhưng... những cái chết sau đó cậu có biết?
- Ai chết? Những cái chết nào?
Chị bán hàng chưa kịp nói thì bỗng Hưng vụt chạy về hướng ngôi nhà mà anh đang đi tìm. Trong đầu anh dường như đang có một linh tính gì đó...
Lúc đẩy cánh cổng cây đã mục nát Hưng mới chợt nhận ra sự hoang vắng của ngôi nhà. Ngoài cánh cổng mục, cái sân rộng cũng mọc đầy cỏ um tùm. Khi Hưng bước vào cửa trong thì đã hiểu ngôi nhà không có người ở từ lâu. Cửa đóng kín, khóa bên ngoài bằng một ống khóa to đã rỉ sét.
- Sao kỳ vậy?
Hưng đang tự hỏi thì chợt anh nghe tiếng bước chân từ phía bên hông nhà, cùng lúc có người cất tiếng gọi:
- Cậu tìm gì trong này?
Hưng quay lại bắt gặp một người đàn ông lớn tuổi, ăn mặc kiểu một nông dân vừa đi đồng về, trên tay ông còn cầm cây cuốc đầy bùn.
- Dạ, cháu muốn tìm nhà thầy Luận. Tìm... cô Lan Huệ?
Bỗng người nọ kêu lên:
- Cậu là cậu Hưng cháu bà nội Năm phải không?
Hưng ngơ ngác:
- Chú đây là...
Vị lão nông lột chiếc nón lá đang đội trên đầu xuống, lộ ra một khuôn mặt khá quen thuộc với Hưng:
- Cậu Sáu!
Thì ra người đang đứng trước mặt Hưng là cậu thứ Sáu trong nhà này, tức em vợ thầy Luận, mà hồi trước khi còn qua đây chơi, Hưng thường được cậu hái ổi cho ăn.
- Thằng bây giờ lớn đại! Mà sao tới bây giờ con mới về hả Hưng?
Trong câu hỏi dường như có sự trách móc. Hưng cũng cố ngượng:
- Dạ, do con đi học ở Sài Gòn, con có viết thư về cho Lan Huệ, mà không thấy trả lời.
Cậu Sáu nhẹ thở dài, rồi chỉ tay ra sau bảo Hưng:
- Bây giờ cậu ở ngôi nhà phía sau vườn. Hồi xưa nó là phía sau, nhưng bây giờ trở thành cửa trước, bởi nhà không còn ai nên cậu đóng cửa trước này lại, chỉ ra vào cửa sau thôi. Qua nhà đi rồi cậu kể chuyện cho nghe.
Ông đi trước dẫn đường, đến khi lọt vào phía vườn sau, Hưng mới nhớ ra, hồi đó ở sau vườn này anh và Lan Huệ đã từng chơi đùa, hái trái và đôi khi còn tắm sông.
Ngõ sau này đúng là còn có một lối đi thông ra phía đình làng.
- Sao cậu ở một mình?
Không trả lời Hưng, chờ khi vào nhà rồi ông mới nói:
- Cậu bây giờ sống ở đây một mình để hương khói cho cả nhà.
Hưng hốt hoảng:
- Cả nhà nào?
Chỉ tay về tủ thờ lớn, cậu Sáu đáp, giọng buồn hiu:
- Cả nhà anh chị tôi đều chết hết cách nay hơn ba năm rồi!
- Trời ơi!
Hưng nhìn lên tủ thờ, anh còn sửng sốt hơn khi thấy có ảnh của Lan Huệ:
- Huệ... Huệ cũng... chết rồi sao cậu?
Giọng cậu Sáu chùn xuống:
- Sau khi ba nó chết đột ngột thì hơn một năm sau thì bỗng nửa đêm đến phiên chị tôi cũng chết theo. Tôi cứ tưởng là chuyện bình thường, nhưng vừa chôn cất chị tôi được vài tuần thì bỗng con Lan Huệ cũng lăn đùng ra chết mà chẳng có bệnh hoạn gì! Mà nào có hết, hai đứa chị của nó đi dạy học xa cũng bị tai nạn chết cùng lúc, sau đó chỉ mấy tháng!
Hưng không còn giữ được bình tĩnh, anh thảng thốt kêu lên:
- Trời ơi!
Cậu Sáu có lẽ lâu lắm không được kể với ai về chuyện nhà, một bi kịch mà vì nó hầu như cả làng này không còn ai dám lui tới nhà ông nữa:
- Đúng là những cái chết không bình thường. Một bi kịch mà không hiểu ông trời có ghét bỏ gì nhà này không mà lại rơi xuống thảm khốc như vậy! Từ đó nhà này tiêu điều luôn, tôi nhiều lần rao bán nhà nhưng chẳng ai dám mua, mà càng ngày càng xa lánh nữa. Tôi đành phải thui thủi sống một mình để nhang khói cho họ.
- Nhưng tại sao lại có chuyện bi thảm vậy, cậu Sáu?
Cậu đứng lên, đi lấy ra một hộp giấy nhỏ, trong đó chứa nhiều thư từ, giấy tờ cũ. Trong số này có cả mấy lá thư của Hưng, còn nguyên chưa được xé ra. Hưng hiểu ra, anh chép miệng:
- Thảo nào con chờ hồi âm mãi mà không có.
Cậu Sáu còn lấy ra một tờ giấy cũ khác đưa cho Hưng:
- Con có đọc được chữ này không?
Hưng cầm lấy xem qua rồi lắc đầu:
- Đây giống như chữ Cao Miên, con không đọc được.
- Đúng đây là chữ Miên. Tờ giấy này do một đạo sĩ người Miên, trong lễ an táng anh giáo Luận thì ông này ghé lại đốt nén hương trước quan tài và xin giấy bút, viết một hơi và bảo người nhà đi tìm người đọc và làm theo. Sau khi an táng anh rể tôi rồi do lu bu, vả lại xứ này có ai biết đọc chữ Miên, nên tờ giấy này phải hơn một năm sau mới được dịch nghĩa ra và... bi kịch đã xảy ra rồi!
Hưng giật mình:
- Trong giấy nói gì vậy?
- Đó là lời của vị đạo sĩ giỏi về bắt vong gọi hồn, ông ấy biết trước sự việc sẽ xảy ra sau cái chết của giáo Luận và khuyên người nhà nên cúng vái, ngăn ngừa... Nhưng do không đọc được tờ giấy này nên thảm họa đã xảy ra!
- Trong đó nói gì?
- Ông ta nói giáo Luận chết vì đúng giờ trùng, lại gặp đúng hung tinh tác động, nên từ một cái chết sẽ kéo theo nhiều cái chết nữa của người trong nhà, nếu không kịp ngăn ngừa!
- Nhưng ngăn bằng cách nào?
Ông nhìn thẳng vào mặt Hưng, giọng đầy lo lắng:
- Bất cứ ai có liên hệ đến người chết đều có thể bị nguy. Anh rể tôi chết vào giờ trùng, gặp hung tinh Bạch Hổ, nên vợ rồi con đều phải liên lụy, trong số những đứa con của anh chị tôi có con Lan Huệ, nó ẩn tuổi cha, lại cùng mạng hỏa với cha nó, nên khả năng gây họa của nó cao hơn hết trong nhà! Bởi vậy kể từ khi nó chết tôi đã rà soát trong nhà coi có ai có thể bị ảnh hưởng bởi sao xấu của nó không mà chưa thấy. Nghe nói, nếu khi còn sống mà con Lan Huệ có quan hệ tình cảm với ai thì người đó sẽ không yên.
Ông nói xong cầm mấy lá thư của Hưng trả lại cho anh ta:
- May là những lá thư này nó chưa đọc, chứ nếu không thì...
Bỗng ông giật mình kêu lên:
- Mà không xong rồi! Cậu có tên trong sổ lưu bút của nó, lại đứng đầu sổ nữa.
Ông chạy đi lấy ra quyển sổ lưu bút đã cũ, đưa cho Hưng xem:
- Đây nè, cậu xem!
Hưng nhớ ngay quyển lưu bút này. Hồi đó chính Lan Huệ đã đưa cho anh và còn nói:
- Trong sổ này em chỉ muốn anh và hai người bạn nữa viết thôi, em không thích cho nhiều người viết. Anh là bạn thân duy nhất của Huệ, còn hai người kia là anh họ xa, đều là những người thân thiết nhất của Huệ!
Hưng vừa nhìn vào và kêu lên sửng sốt:
- Anh Hòa, thằng Lương, cả hai người cũng lên Sài Gòn học với con và... cả hai đã chết hết rồi!
Cậu Sáu không kìm chế được đã run run thốt lên:
- Chỉ còn mình con...
Hưng lặng người đi. Anh đang nhớ tới những tiếng khóc kỳ lạ trong đầu, rồi những lần anh bị cản trở trong khi nghĩ tới người con gái nào đó, anh đứng bật dậy, trên tay vẫn còn cầm quyển lưu bút, anh chạy bay ra cửa. Cậu Sáu kêu theo:
- Con phải cẩn thận!
***
Kể hết mọi chuyện cho sư Chơn Phước nghe, rồi Hưng đặt quyển lưu bút xuống trước mặt ông, nói tiếp:
- Con nghĩ điều thầy nói con có quan hệ tình cảm với ai đó rồi bị người ta bám theo phá, có lẽ là người này.
Nhà sư nhẹ lắc đầu:
- Chuyện tà ma thì không có trong cửa Phật, nhưng tà ma ở chung quanh ta cũng không thể nào biết hết được. Tuy nhiên chuyện của con ta nghĩ cũng không quá nghiêm trọng, theo suy đoán của ta thì cô gái này tuy vậy vẫn còn lòng tin nơi con, nên những gì cô ấy báo ứng cho con thấy đủ biết là cô ấy không muốn hại con như những người khác.
- Vậy con phải làm sao bây giờ đây thầy?
Đưa trả lại quyển lưu bút cho Hưng, nhà sư bảo:
- Con thử đem đốt quyển sổ này xem, có thể nó có tác dụng gì đó...
Hưng lo lắng:
- Nhưng trong đó có ảnh của con. Có phải gỡ ảnh ra không sư thầy?
- Không cần. Con nên đốt luôn thử xem.
Ông còn nói thêm:
- Con nên thực hiện việc này ngoài khuôn viên chùa.
Hưng nghe lời, anh cầm quyển lưu bút đem ra bờ sông cách chùa hơn nửa cây số và châm lửa đốt.
Một làn khói xanh bay lên không trung và cứ quyện mãi theo gió, lâu lắm mới tan...
Không biết chuyện gì đã xảy ra. Chỉ biết rằng sau đó Hưng không còn thấy những hiện tượng kỳ lạ nữa. Cũng không còn nghe tiếng khóc mơ hồ kia nữa...
Sáu tháng sau thì cái tin Hưng cưới vợ chẳng những cha mẹ anh mừng, mà ngay như nhà sư Chơn Phước cũng vui trong lòng. Ít ra thì ông cũng đã giúp được một kiếp nạn được hóa giải...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #69  
Old 11-07-2012, 06:08 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 34

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXXIV: Phấn 1

GIỌT LỆ HOÀN HỒN


Vừa thả người khách cuối cùng xuống xong, Sáu Lập lột chiếc nón lá xuống quạt lia lịa mà vẫn không xua hết cái nóng đang hừng hực.
- Trời nóng kiểu này chiều nay thế nào cũng mưa, liệu mà về sớm thôi, Sáu ơi!
Chú Tư Thôi vừa vươn vai ngáp dài vừa ra roi cho con ngựa kéo chiếc xe rời bến. Lập nhìn theo và nói với:
- Tui cũng về thôi, ế ẩm quá trời, ở đây mà làm gì cho cực, về nhà ngủ sướng hơn!
Là tay đánh xe thổ mộ trẻ tuổi nhất ở bến Long Điền, Đất Đỏ này. Nhưng cũng là người nổi tiếng nhất vùng, bởi tính gan lì và tinh thần trọng nghĩa. Hỏi bất cứ ai về Lập đánh xe thổ mộ, người trong vùng sẽ nói vanh vách:
- Sáu Lập một mình diệt bốn tên cướp có hung khí, cứu cả nhà ông bá hộ trong làng. Nếu không có cậu Lập đó là cả nhà ấy đều chầu Diêm Vương cả rồi!
Còn độc thân, nhưng Sáu Lập sống chân chất hiền lành, không rượu chè, bài bạc hay tụ tập đàn đúm như đa số con trai khác trong làng.
Hỏi Lập sao chưa kiếm mối nào đó để có người bầu bạn, thì luôn nhận được ở anh cái rùn vai, lắc đầu:
- Đàn bà hả? Đem nó về để nó trèo lên đầu, cưỡi lên cổ mình sao?
Có người hiểu chuyện thì nói về Lập rằng:
- Thằng này bị chuyện của cha nó ám ảnh, nên chắc suốt đời nó sẽ không dám gần đàn bà!
Nguyên cha của Lập trước đây cũng làm nghề đánh xe thổ mộ, nhưng có lẽ là số đào hoa, nên sau đó vớ được một cô vợ đẹp như tiên và giàu có nữa. Nhưng đó cũng là nỗi bất hạnh!
Thiên hạ nói lơ lửng như vậy, ai muốn biết thêm hỏi Lập thì anh chàng lại nổi quạu ngay. Hình như chuyện gia đình anh, nhất là những gì liên quan đến mẹ là một bi kịch, nên lúc nào Lập cũng né tránh.
Có lẽ vì vậy nên càng ngày Lập càng lầm lì, ít nói và lại càng ít giao du với mọi người. Ngày nào cũng vậy, hễ hết giờ chạy xe thì y như rằng Sáu Lập đem xe về nhà cất rồi đi ngủ thật sớm. Kiểu sống như vậy, chuyện ế vợ là lẽ đương nhiên thôi!
- Về đi Lập ơi!
Năm Vệ, người đánh xe cần cù nhất cũng vừa cho xe rời bến. Lập vừa ra roi vừa nói một mình:
- Thì về chớ ở lại làm gì!
Nhà Lập ở xóm giữa, nên chỉ ra khỏi chợ một đỗi là anh cho xe rẽ vào con đường đất rộng để về nhà. Qua đoạn có hàng cây cổ thụ, nơi thường ngày bọn xe phu như Lập vẫn thường dừng xe nghỉ tránh nắng, thấy có người đưa tay vẫy, Lập xua tay nói lớn:
- Về nghỉ, không chở khách nữa!
Lập nghe người đón xe bên đường nhìn sau xe anh vừa lầm bầm:
- Xe gì người chở người không!
Lập đã quen với chín người mười ý của khách hàng nên không để ý tới câu nói, cứ thả xe chạy tới. Bỗng có một tiếng cười khẽ phía sau lưng, Lập giật mình quay lại. Và… anh ngớ người ra, bởi đang ngồi phía sau là một cô gái lạ, có vẻ là người thành thị qua cách ăn mặc sang trọng, đẹp mắt.
- Cô… cô là? Sao lại ở trên xe tôi?
Cô nàng nhoẻn miệng cười rất xinh, vô tư đáp:
- Xe chở khách đang trống, người ta leo lên đi không phản đối, sao giờ lại hỏi cô là ai là sao?
Lập lúng túng:
- Tôi... xe tôi nghỉ, đâu có chở khách. Mà cô lên lúc nào vậy?
Vẫn không tỏ vẻ bực bội, cô nàng đáp:
- Lên ở bến ra. Anh đi về Bến Cỏ phải không?
- Phải rồi. Nhà tôi ở đó.
- Tôi cũng đi về gần đó. Thế là tiện quá rồi. Hay là anh muốn bỏ khách xuống dọc đường?
- À, không. Tôi chỉ...
Lập đang cố nhớ lại xem cô ta lên xe lúc nào? Bởi khi rời bến anh còn nhìn lại phía sau và đâu có thấy ai. Vả lại, hơn năm năm chạy xe đã cho Lập những kinh nghiệm mà không cần ngoái nhìn lại anh cũng có thể biết người hay vật vừa đặt lên xe là nặng bao nhiêu ký. Kể cả khách vừa bước lên là nam hay nữ nữa! Khách nam bước lên xe nhanh, gọn và ít làm sàn xe dao động, trái lại phụ nữ dù nhẹ ký hơn, nhưng mỗi lần leo lên xe thế nào cũng làm xe rung lên, con ngựa luôn có phản ứng.
- Sao, anh vẫn cho tôi đi tiếp chớ?
Lập đành phải nói xuôi:
- Thì phải chở chớ sao. Vậy cô về tới đâu?
- Thì tôi đã nói rồi, hướng Bến Cỏ.
Bây giờ Lập mới tò mò:
- Cô ở xóm đó, mà bà con nhà ai vậy?
- Nhà Hai Mạnh.
Lập kêu lên:
- Hai Mạnh? Cô là... gì của ba tui?
Hai Mạnh là cha của Lập. Có nghĩa là cô ta đang tới nhà của anh! Vốn ít nói nhưng không phải nhát gái, vậy mà lúc này Lập quá đỗi lúng túng:
- Cô… cô là gì với ba tui?
Cô gái không hề ngạc nhiên khi biết Lập là con Hai Mạnh, cô ta vẫn giữ nụ cười trên môi:
- Giờ thì chắc anh không còn muốn đuổi tôi xuống xe nữa rồi chớ?
- Tui... tui có đuổi hồi nào đâu. Mà cô là sao với ba tui?
- Bà con. Anh thật tệ, đến bà con mình mà cũng không biết.
Do phải nhìn đường phía trước để đánh xe nên Lập không dám quay lại nhìn, nhưng anh vẫn nhớ gương mặt trắng trẻo, xinh đẹp của cô nàng. Tự dưng tim Lập đập mạnh... Hồi lâu, anh mới hỏi thêm được một câu:
- Cô là bà con với ba tui, mà bà con thế nào? Cô con của ai?
Cô nàng cười trong trẻo:
- Dữ hôn! Bây giờ mới nghe anh nói được một câu suôn sẻ. Anh muốn biết tôi bà con sao phải không, tôi nói đây chỉ sợ anh không biết thôi. Tôi là con của cô Tám Xuân, em ruột của ba anh. Có nghĩa là tôi vai em, gọi anh bằng anh. Chịu chưa!
Từ nào đến giờ ít nghe cha nhắc tới cô em gái có tên như vậy. Nhưng trước cách nói rành rẽ của cô nàng, Lập không thể không tin, anh đáp:
- Vậy là bà con ruột rồi!
Tới một ngã ba, chợt cô gái chỉ tay và nói:
- Tuy chưa về đây lần nào, nhưng tôi biết đây là ngã ba Cây Sung nè! Đường này có một ngôi nhà lớn lắm!
- Đúng rồi! Đó là đường Cây Sung và ngôi nhà cô nói là nhà ông hội đồng Thiệp. Nhà đó bây giờ...
Lập lúc này mới quay nhìn lại. Nhưng… Anh không tin vào mắt mình nữa, cô gái không còn ngồi sau nữa, mặc dù cô ta vừa mới nói huyên thuyên…
- Cô... cô…
Lập vừa gọi vừa nhìn quanh. Chẳng lẽ cô ta nhảy xuống xe được? Đang còn ngơ ngác thì chợt có ai đó hỏi:
- Mày mắc bệnh sao mà vừa đánh xe mà lẩm bẩm nói một mình vậy Lập?
Nhìn lại thấy chú Tư Thôi, một đồng nghiệp đánh xe đang kè xe bên cạnh.
- Dạ... dạ...
Thấy Lập bối rối, Tư Thôi chợt cười lớn:
- Tao đậu xe nghỉ bên đường thấy mày chạy ngang mà miệng nói liên hồi, nhìn trên xe chẳng thấy có khách nào, tao tưởng mày điên nên vụt phóng xe theo. Hay là mày tương tư, phát cuồng vì con nào hả Lập?
Lập không đáp mà hỏi lại:
- Nãy giờ chú Tư có thấy ai nhảy xuống xe không?
Đến lượt Tư Thôi ngạc nhiên:
- Đúng là đầu óc mày có chuyện rồi Sáu Lập! Xe mày ngựa chạy bon bon thì ai nhảy được! Vả lại theo sau mày hơn cây số tao có thấy ai trên xe mày đâu!
Lập dừng hẳn xe lại, lẩm bẩm:
- Sao lạ vậy... không thể nào...
Rồi có lẽ sợ Tư Thôi hỏi thêm, nên Lập vờ nói cho qua:
- Không có gì… có lẽ tại trời nóng quá!
Anh ta ra roi cho con ngựa tiếp tục chạy.
Về đến nhà, việc đầu tiên của Lập là tìm cha mình. Ông Hai Mạnh lâu nay không được khỏe nên chỉ làm việc vặt ở nhà. Hôm nay ông nghe bứt rứt trong người nên mới giờ đó đã đi tắm, ra pha ấm trà ngồi nhâm nhi một mình. Lập vừa trông thấy cha đã hỏi ngay:
- Ba có người em gái tên Xuân không?
Ông Hai ngẩng lên, nhìn con với vẻ hơi ngạc nhiên:
- Sao con biết?
- Vậy là ba có cô em...
Ông Hai gật đầu:
- Đó là người em thứ tám của ba. Tám Xuân.
- Vậy sao nào giờ có khi nào con nghe ba nhắc tới đâu? Cô ấy bây giờ ở đâu ba?
Lại nhìn sửng con lần nữa, ông Hai nhẹ giọng đáp:
- Nó chết hồi còn con gái.
- Vậy…. sao con cái cổ từ nào giờ sao không thấy về đây?
Ông Hai lắc đầu:
- Khi chết nó chưa có chồng thì làm gì có con!
Lập há hốc mồm một lúc rồi run giọng nói:
- Chẳng lẽ... chẳng lẽ...
Ông Hai gạn hỏi:
- Chuyện gì vậy?
Phải một lúc sau Lập mới bình tĩnh lại, anh ta kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vừa nghe xong, ông Hai như người gặp ác mộng, kêu lên:
- Ngôi nhà đường Cây Sung!
Lập hỏi lại:
- Nhà ở đường Cây Sung là nhà ai?
Ông Hai gần như thất thần:
- Nhà đó… nhà đó...
Ông hầu như không còn nói được nữa. Mặt ông tái xanh, người run rẩy lạ thường...
- Ba! Ba sao vậy?
Hai Mạnh không còn tỉnh nữa, người ông lạnh như băng. Lập hốt hoảng tri hô lên:
- Có ai ở nhà không, ba bị... bị...
Lập gọi cũng bằng thừa, bởi trong nhà ngoài cha con Lập ra thì đâu còn ai nữa. Mồ côi mẹ từ khi lên mười đến giờ, chỉ có người chị thì cũng đã đi lấy chồng xa từ mấy năm rồi. Còn lại những anh chị em khác thì khó nuôi, nên đã chết hoặc sẩy thai ngay từ nhỏ. Chỉ có một bà cô họ xa, nhưng mắc chứng nghễnh ngãng nên lúc ở lúc đi, chẳng khi nào thấy mặt.
Cũng may, ông Hai chỉ bị choáng một lúc, sau đó tỉnh lại ông nhìn con hỏi trong nỗi sợ sệt:
- Nó... nó đâu?
Lập ngạc nhiên:
- Nó nào ba?
- Con nhỏ đi nhờ xe con?
- Thì con kể rồi, khi tới ngã ba Cây Sung thì bỗng cô ấy biến mất... y như là ma vậy! Con nghĩ chắc cô ta sợ con đòi tiền xe nên nhảy nhanh xuống.
Ông Hai nhẹ thở dài:
- Không phải vậy đâu. Tai họa đó...
Lập tưởng cha mình mệt nên nói sảng, anh hỏi lại:
- Ba nói tai họa gì?
Ông Hai đứng lên, lảo đảo bước khiến Lập hốt hoảng:
- Ba! Ba ngồi nghỉ đã.
Nhưng ông Hai Mạnh xua tay:
- Để ba...
Ông suýt ngã mấy lượt rồi mới lần về tới phòng mình. Vừa vào phòng thì ông đóng sầm cửa lại trước sự lo lắng của Lập. Anh muốn gõ cửa, nhưng biết cha mình sẽ không mở, nên chỉ biết đứng tần ngần một lúc rồi bước ra sân.
Từ ngoài, bà cô Tư Lượm của Lập chạy nhanh vào, vừa chỉ tay ra hàng rào râm bụt vừa nói nhỏ như sợ ai đó nghe thấy:
- Có… có cô gái... cô gái đẹp lắm, kiếm mày đó Lập!
Vừa nghe nói Lập đã giật mình:
- Cô gái đẹp? Cô ta đâu?
Anh chạy đi ngay mà không cần câu trả lời của bà cô họ nghễnh ngãng. Ra ngoài nhìn hướng trên, hướng dưới không thấy ai, Lập lẩm bẩm:
- Có ai đâu?
Thoang thoảng mùi thơm đưa lại, Lập phát hiện có một chiếc khăn choàng vướng ở cổng rào.
- Khăn của cô ta!
Đúng là chiếc khăn mà Lập nhìn thấy cô gái lạ choàng trên cổ khi ngồi xe.
- Cô ta chăng?
Lập bất kể, cắm đầu chạy một mạch về hướng ngã ba Cây Sung, nơi cô gái biến mất lúc trưa.
Đường Cây Sung tuy chỉ cách nhà anh chưa đầy hai cây số, nhưng đã lâu lắm Lập chưa đi qua. Phần vì nơi đó đường hư khó chạy xe, ngựa hay bị sụp ổ trâu què chân, nên cánh xe thổ mộ như Lập luôn tránh đưa khách qua đó. Người trong xóm Cây Sung muốn đi xe ra chợ thường phải lội bộ qua ngã ba.
Đứng ngay ngã ba quan sát một lúc, cuối cùng Lập quyết định men theo con đường đất đi vào. Cách chừng năm trăm thước thì trước mắt Lập hiện ra ngôi nhà ngói ba gian xây theo lối cổ, cất trên nền cao, nổi bật giữa khu vườn trồng nhiều loại hoa mà trong đó chắc là nhiều bông lài, nên hương thơm tỏa ra tận ngoài ngõ.
- Cậu tìm ai?
Ai đó hỏi phía sau, Lập quay lại thì thấy một cụ già đang quan sát mình rất kỹ, anh phải lên tiếng giải thích:
- Dạ, cháu tìm một người quen, cứ nghĩ là cô ấy ở trong nhà này…
Cụ già tắc lưỡi:
- Nhà này bỏ hoang từ lâu rồi, có ai ở đâu mà kiếm tìm!
- Dạ, cháu không biết...
Lập cúi chào cụ già, rồi bước sang ngôi nhà khác. Nhưng con đường có đến hàng trăm ngôi nhà, phần nhiều nhỏ hơn, nhưng hầu như giống nhau, không làm sao tìm ra dấu vết. Anh lại phải dừng chân hỏi thăm một chị tuổi trung niên:
- Ở xóm này chị có biết một cô gái ăn mặc theo người thành thị…
Lập hỏi chưa hết câu thì chị kia đã nói nhanh:
- Có phải cô bận áo dài màu hồng, đi giày cao gót không? Cô ta mới vào trong ngôi nhà hoang của ông hội đồng Thiệp. Có lẽ tính mua nhà đó hay sao mà mấy hôm nay đã thấy có mấy người tới lui...
Lập mừng rơn:
- Dạ, cám ơn chị!
Chạy trở lại ngôi nhà lớn, cổng vẫn khóa chặt, tuy nhiên có hương thơm thoang thoảng. Mà hương thơm này không phải là hương lài từ trong vườn. Hương rất quen thuộc…
- Cô ta!
Lập nhớ ra chính mùi hương này là của cô gái. Anh cho tay vào túi áo định lấy ra chiếc khăn choàng lụa, nhưng... nó không còn trong đó! Không thể được, lúc nãy chính Lập đã xếp gọn cất kỹ trong túi mà...
Còn đang loay hoay tìm thì chợt mắt Lập sáng lên! Chiếc khăn choàng đã rơi nằm trên lối đi bên trong cổng nhà!
Đoán chắc cô nàng đang ở trong đó, nhưng làm cách nào để vào được, Lập nghĩ mãi… Cuối cùng anh định cất tiếng gọi, nhưng một lần nữa nghe giọng của cụ già:
- Đã nói với cậu rồi, nhà này bỏ hoang.
Lập đưa tay chỉ chiếc khăn choàng:
- Có người quen của tôi trong đó, chiếc khăn này là của cô ấy.
Ông già vẫn lắc đầu:
- Tôi dám nói chắc là không có ai. Tôi ở đối diện nhà này từ nào đến giờ, chưa từng thấy có ai ra vào kể từ ngày ông hội đồng bỏ đi về Sài Gòn sống.
Lập vẫn cố cãi:
- Nhưng, người ta là người tới xem nhà để mua.
Cụ già thấy Lập ngoan cố, ông ta phải nói thẳng:
- Cậu không chịu nhìn gì cả. Có tấm bảng lớn treo bên cột nhà đó, cậu đi đi!
Bấy giờ Lập mới nhìn kỹ và quả thấy có tấm bảng ghi: Nhà này không bán...
Cụ già giải thích thêm:
- Tôi trước đây vốn là quản gia của ngôi nhà này. Đến khi ông hội đồng quyết định dọn đi thì tôi cũng ra ngoài ở. Nhà tôi ở đối diện đây, nên tuy không còn làm nữa, nhưng tôi vẫn để mắt dòm ngó.
Lập vẫn thắc mắc:
- Vậy tại sao chiếc khăn này lại ở bên trong?
Cụ già đáp:
- Có thể của ai rơi bên ngoài rồi gió thổi bay vào trong đó.
Lập muốn cãi nhưng nghĩ lại, anh vội cám ơn cụ già rồi đi nhanh trở ra. Mục đích của Lập là tránh sự theo dõi của ông ta để tìm cách khác tiếp cận ngôi nhà. Chính hành tung bí ẩn của cô gái đó thôi thúc Lập cương quyết hơn.
May cho Lập, vòng rào ngôi nhà khá rộng, ngoài cổng chính ở bên hông trái còn có một hẻm nhỏ có thể đưa vào cổng sau. Quả như vậy, phía bên hông còn có một cổng phụ nữa. Nơi đây hoàn toàn khuất nên sau khi nhìn trước sau, Lập nhanh tay đu lên tường và leo vào trong. Leo trèo là nghề của Lập từ nhỏ nên không khó lắm, chỉ nửa phút sau anh chàng đã lọt vào bên trong khu vườn hoang phế.
Trời lúc đó cũng tối dần, nên càng thuận tiện cho cuộc đột nhập của Lập. Anh chàng tiếc là không có đèn soi đường, tuy nhiên vốn gan dạ, và quen lần theo bóng tối bằng những chuyến đi soi ếch, bắt cá đêm, nên Lập cũng không khó lắm để đến gần ngôi nhà lớn.
Quả thật ngôi nhà quá lớn, đúng là của một tay trọc phú một thời ở xứ này. Ngày xưa nghe nói người làng khi đi ngang qua cửa còn không dám nhìn vào nhà nữa. Phần thì lũ chó dữ năm bảy con sủa nồ như đe dọa thiên hạ, mà đám lâu la trong nhà còn cậy thế chủ gia, hay bắt nạt, hành hung bất cứ ai tò mò dòm ngó.
Tất cả cửa nẻo đều đóng kín, duy nhất có một cửa sổ phía sau là mở hé. Có một chút ánh sáng phát ra từ đó.
Lập bước tới gần, anh len lén nhìn vào.
- Trời ơi!
Lập kêu khẽ nhưng suýt nữa đã làm cho người bên trong phát hiện. Trước mặt anh, trong phòng có một bộ xương người treo cổ, thòng từ trên xuống, còn có một người nữa là người sống thì đang quỳ bên dưới. Người quỳ đó chính là cô gái đi xe ngựa!
Cô gái đang khóc. Tiếng khóc nhỏ, nhưng cũng đủ cho Lập nghe rõ. Càng lúc tiếng khóc càng rõ hơn và trong âm thanh có từng cơn uất nghẹn. Chứng tỏ tâm trạng cô nàng lúc ấy đau đớn, bi thương lắm.
Tự dưng Lập nghe tim mình nhói đau. Anh nhớ lại thái độ vô tư, hồn nhiên của cô nàng lúc trưa và so sánh với hiện tại, nó có sự khác biệt rõ ràng. Chứng tỏ cô ấy chỉ mới về đây là lần đầu, và mới gặp con người còn lại bộ xương khô kia.
Vừa lúc đó, có lẽ quá xúc động nên cô gái đang khóc thì gục xuống. Lập quên cả hiểm nguy, anh bung cửa sổ ra, nhón người định đu lên trèo vào trong. Nhưng vừa lúc đó có một bàn tay của ai đặt lên vai Lập kéo lại. Bàn tay thô và lạnh. Họ không đánh, không bóp mạnh, vậy mà chẳng hiểu sao Lập hầu như tê liệt, mềm nhũn ra, rồi không còn biết gì nữa…
***
Lập mở mắt ra và vô cùng ngạc nhiên khi thấy ông cụ ban chiều. Ông ta vẫn giữ bộ mặt lạnh lùng, đưa mắt nhìn Lập và lên tiếng trước:
- Cậu vậy là không sao rồi?
Quay nhìn một lượt, ông ta nói tiếp:
- Cậu không nhận ra sao? Đây là ngôi nhà mà cậu vừa muốn đột nhập.
Nhớ lại chuyện trước khi bị ngất. Lập lo lắng:
- Cô ấy... sao rồi?
Vờ như không biết, ông lão hỏi lại:
- Cậu hỏi cô nào?
- Cô gái ở trong phòng với bộ xương người!
Ông già nhẹ lắc đầu, chép miệng:
- Tốt hơn hết là cậu không nên biết những gì không cần thiết. Cậu đâu có liên quan gì đến ngôi nhà này, vậy cớ gì...
- Thưa ông…
- Lúc nãy nếu tôi tới không kịp thì cậu đã bị nhập thổ mà chết rồi. Lúc ấy cậu đang nằm sấp trên mặt đất ẩm.
Lập lúng túng:
- Dạ... lúc ấy cháu đang... thì bị ai đó chụp lên vai. Cháu không kịp có phản ứng gì thì đã ngất đi.
Ông lão giải thích:
- Tôi thỉnh thoảng vẫn sang đây để trông chừng. Lúc đó tôi nghe có tiếng động giống như tiếng chân người chạy, nên tôi đi nhanh vào. Không gặp ai khác ngoài một người nằm dưới đất là cậu.
- Vậy còn... cô ấy?
- Cô nào?
- Rõ ràng con thấy cô ấy quỳ gối và khóc trong phòng cùng với một bộ xương.
Ông lão bước tới mở cửa sổ căn phòng ra vừa nói:
- Đây chính là gian phòng mà lúc nãy tôi bắt gặp cậu nằm bên ngoài. Cậu xem, có gì đâu…
Trong lúc Lập bật dậy quan sát, thì ông tiếp lời:
- Tôi thấy cửa sổ phòng này mở nên kéo cậu vào đây. Nhờ có chiếc thang tre ngoài kia nên tôi mới đưa cậu vào được, chớ còn cửa chính thì đã đóng chặt bằng thanh gỗ lớn, không làm sao mà mở ra được.
Lập nhìn kỹ, quả nhiên cửa chính của gian phòng được gài chắc từ lâu, chứng tỏ không có người ra vào.
Anh lẩm bẩm:
- Rõ ràng cháu thấy...
Ông lão lại lắc đầu:
- Cũng có người từng ảo giác như cậu. Nhà này tuy bỏ hoang từ lâu nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện gì.
Lập nhìn kỹ lên rầm nhà, xem có lưu lại dấu vết gì của sợi dây treo cổ không. Anh thất vọng.
Ông lão hỏi lại:
- Sao cậu tò mò về ngôi nhà này và cô gái nào đó vậy?
- Dạ... hồi trưa...
Tính là không nói, nhưng ở thế chẳng đặng đừng, nên Lập đành thuật lại:
- Con làm nghề đánh xe ngựa, nhà ở bên xóm Bến Cỏ. Hồi sáng này con đang cho xe chạy về nhà thì bất ngờ có một cô lên ngồi trên xe mà con không hay biết. Đến khi quay lại thì cô ấy nói xin đi về cùng xóm với cháu. Nhưng khi đến ngang ngã ba Cây Sung thì tự dưng cô ta biến mất, trong lúc xe con còn đang bon bon chạy!
Nghe đến đó, ông cụ cười ngất:
- Nghe cậu kể sao giống chuyện Liêu Trai của ông Bồ Tùng Linh quá! Vậy sao cậu lại nghĩ là cô ấy ở đây?
Lập lại phải kể chuyện cô gái xuất hiện trước nhà mình, bỏ quên lại chiếc khăn choàng, rồi khiến anh tìm tới đây.
Ông lão nhẹ lắc đầu:
- Lúc chiều cậu nói có chiếc khăn choàng nằm trong sân nhà này, nhưng hồi nãy tôi mở cửa vào đây mà có thấy gì đâu!
Lập vẫn còn hoang mang. Anh muốn leo ra ngoài cửa sổ thì ông già cảnh báo:
- Nhà này bỏ hoang nhưng còn một cặp chó rất dữ. Bình thường chúng ngủ yên trong nhà kho, nhưng có động hoặc hơi người lạ thì khó lường được sự hung hãn của nó. Cậu nên ở lại đây chờ đến sáng, hoặc đi ra cùng với tôi thì tốt hơn.
Thấy Lập lưỡng lự, ông nói cương quyết:
- Theo tôi thì cậu nên ở lại đây. Gian phòng tuy bỏ lâu không ai ở, nhưng mọi tiện nghi vẫn còn đủ. Nếu cậu thấy đói thì tôi về bên nhà đem cơm qua cho cậu ăn.
Lập lắc đầu:
- Cám ơn ông, con cần về nhà, ba con đợi.
Đích thân ông lão đưa Lập ra bằng cổng trước. Khi ra ngoài rồi ông mới xưng tên:
- Cậu kêu tôi là Ba Hưng.
Lập từ giã mà cứ ngoái lại nhìn ngôi nhà mãi. Anh không thể nào quên được hình ảnh cô gái ngồi khóc dưới bộ xương khô được. Anh biết chắc là mình không bị ảo giác, nhưng tại sao lúc ở trong phòng thì không thấy dấu vết gì cả? Chẳng lẽ đó là… ma?
Mang tâm trạng nặng trĩu đó, Lập về tới nhà lúc nào không hay. Vừa vào tới bên trong thì Lập đã nghe bà cô anh la lớn:
- Mày đi đâu cả đêm, bỏ ba mày nằm chết trong đó, vào mà coi!
Lập hốt hoảng chạy bay vào phòng của cha. Cửa phòng mở toang, nhưng trên giường không có cha, mà thay vào đó là một… bộ xương khô!
- Bộ xương này...
Lập nhớ lại bộ xương treo lủng lẳng trong ngôi nhà hoang, anh kêu lên:
- Ba đâu rồi?
Không thấy bóng dáng cha đâu, Lập hỏi bà cô:
- Tại sao thế này?
Bà cô nhìn thấy bộ xương khô thì trợn trừng đôi mắt và ngã xuống ngất đi. Lập quýnh lên, vừa đỡ bà cô dậy lo cứu tỉnh lại vừa dõi theo bộ xương trong phòng. Thoang thoảng đâu đó Lập ngửi được hương thơm quen thuộc.
- Cô ta?
Lập quay tìm mọi nơi trong nhà vì nghĩ là cô gái đang có mặt. Nhưng tuyệt nhiên không thấy gì khác. Đưa bà cô xuống phòng riêng của bà, lát sau bà tỉnh lại và vẫn còn sợ hãi:
- Ba...ba mày... sao lại thành ma?
Lập chạy trở lên nhà trên, và lần này anh thật sự bàng hoàng khi... bộ xương không còn nằm chỗ cũ! Trên giường bây giờ chỉ có chiếc khăn choàng!
- Trời ơi!
Nghĩ tới tình huống chẳng lành xảy ra, Lập cuống cuồng mãi mà chưa biết phải làm sao. Anh ôm mặt đứng yên đó hồi lâu...
Bỗng ngoài ngõ có người gọi. Lập bước ra thì Tư Thôi, anh ta chỉ về phía chợ bảo:
- Chú Hai đi đâu mà chạy như ma đuổi về phía đường Cây Sung, tui kêu quá trời mà chú không thèm nghe!
Lập hốt hoảng:
- Chạy về hướng đường Cây Sung?
Linh tính báo điềm chẳng lành, Lập tức tốc chạy ra khỏi nhà và một lần nữa anh nhằm hướng ngôi nhà ông hội đồng Thiệp.
Trước đó hơn nửa giờ, ông Hai Mạnh đã đi thẳng vào nhà đó như vào chính nhà của mình. Đến khi Lập vào theo thì mọi sự đều khác. Nhà hoang vắng, im ắng như tự bao giờ...
Lập bước tới gian phòng cũ thì chẳng thấy gì. Chỉ có tiếng vài con dơi bay ra từ một phòng ở hướng tây. Đang định bước ra thì chợt nhìn thấy một đôi dép đàn ông dính đầy bùn đất, Lập hốt hoảng:
- Ba!
Đó là đôi dép của ông Hai Mạnh thường mang mỗi ngày. Điều đó chứng tỏ ông đã tới đây!
- Ba ơi!
Quên cả giữ ý, Lập gọi to đến mấy lần. Nhiều con dơi lại bay ra gây những tiếng động bất thường, như báo có điều gì đó đang xảy ra. Vốn tính gan lì, lại đang sốt ruột cho mạng sống của cha, Lập phóng vội ra cửa sổ, hướng anh tìm không khó để tới căn phòng đó. Đêm qua Lập thấy cửa sổ đóng, nhưng giờ đây một cánh đang mở hé. Ghé sát mặt và nhìn vào trong, trước mắt Lập là cha anh đang ôm một chiếc đầu lâu, vừa khóc không thành tiếng, nhưng qua đôi vai run lên từng hồi, đủ thấy là ông đang bị kích động dữ dội!
- Ba!
Tiếng gọi của Lập khiến có thêm vài con dơi nữa bay ra, riêng ông Mạnh thì hầu như không nghe thấy gì, vẫn tiếp tục nấc lên từng hồi. Bỗng Lập sững sờ khi nhìn thấy trên bàn thờ có bức ảnh chân dung, anh kêu lên:
- Má!
Bức ảnh này giống hệt như ảnh thờ ở nhà Lập.
- Ba ơi, chuyện này là sao?
Lúc này ông Hai Mạnh mới ngước lên. Nhưng ánh mắt của ông như đờ đẫn, không nhìn thấy gì trước mắt. Lập phải gọi lần nữa lớn hơn:
- Ba, con là Lập nè!
Ông Hai Mạnh để rơi chiếc đầu lâu xuống sàn nhà và ông hốt hoảng nhào theo chụp lại. Rồi thật bất ngờ, ông quay sang con trai quát lớn:
- Tránh ra! Đụng tới người này tao sẽ giết mày!
Biết cha đang mê sảng, nên Lập vội im lặng tránh sang một bên. Ông Mạnh nhặt chiếc sọ lên, và một cách trịnh trọng ông đặt nó trở lại bàn thờ. Ông đứng im như pho tượng, hai tay chắp lại, miệng lâm râm những gì mà Lập chỉ đứng cách chưa đầy ba thước cũng không nghe được.
- Tại sao người ta thờ má ở đây? Vậy mà lâu nay ba chỉ nói là má mất trong âm thầm lặng lẽ, không một thân nhân nào bên ngoại tới viếng lần cuối...
Lập không biết phải làm gì cho đúng lúc này. Anh rất lo cho cha mình, trông dáng đứng và đôi chân run run của ông chứng tỏ ông không khỏe, có nguy cơ ngã nhào bất cứ lúc nào. Bệnh đột quỵ bất thần cũng là căn bệnh lâu nay của cha...
Đột nhiên, bên tai Lập vang lên một giọng ai đó khóc thật thê lương! Tiếng khóc không phải của một người bình thường! Thoạt nghe Lập cứ ngỡ nó ở đâu bên ngoài, nhưng nghe kỹ thì rõ ràng âm thanh phát ra từ bàn thờ có bức ảnh của mẹ!
Lập run lên. Đây là lần đầu tiên anh nghe được tiếng khóc của mẹ, bởi khi bà mất thì Lập mới mười tuổi, nào biết gì…
Cha Lập lại khóc theo. Hai âm thanh hòa vào nhau, tạo thành một thứ tiếng nghe đến rợn người! Cũng may đây là giữa ngôi nhà hoang nên chắc người bên ngoài không ai nghe thấy.
Và quả đúng như sự lo ngại của Lập, ông Hai Mạnh chỉ đứng được vài chục giây, rồi đột nhiên ngã sóng soài trên nền gạch.
- Ba!
Bất kể, Lập lao qua cửa sổ nhào tới chụp lấy thân thể cha mình. Đột nhiên có một vật từ trên bàn thờ rơi xuống trúng ngay vào ngực ông Mạnh. Lập nhìn thấy bức ảnh bán thân của mẹ thì hốt hoảng:
- Ba!
Ông Mạnh đưa đôi bàn tay gầy gò choàng qua ôm cái khung ảnh, giọng ông thều thào:
- Bà... như vậy bà đã... tha cho tôi rồi...
Ông nở nụ cười héo hắt trên môi rồi đưa mắt nhìn lên Lập. Hình như ông muốn nói gì đó mà không nói được…
- Ba!
Không còn kịp nữa rồi. Ông Hai Mạnh đã ngừng thở...
***
Đám tang ông Hai Mạnh vừa xong thì đột nhiên bà cô của Lập lên cơn đồng bóng rất lạ. Lâu nay bà vốn có tính nghễnh ngãng nên lúc đầu Lập không để ý những lời nói kỳ lạ của bà, nhưng sau đó vào lúc nửa đêm, bà bỗng khóc ré lên, rồi chỉ vào mặt Lập mà nói:
- Thằng con bất hiếu. Mày có biết là tại vì mày mà ba mày phải mất mạng không?
Lập ngơ ngác:
- Cô! Sao cô nói vậy?
Bà hầu như đối với Lập là người xa lạ:
- Mày tránh xa tao ra! Chính mày đã đưa cha mày tới hang ổ của tụi nó. Nơi mà từ lâu nay cha mày đã tránh được. Đồ con bất hiếu!
- Kìa, cô!
Lập vừa bước tới thì bất thần bị một sức mạnh vô hình nào đó đẩy ngã ngửa. Bà cô thì vẫn lớn tiếng quát:
- Đi tìm nó mà báo thù cho cha mày!
Bà quát xong thì tự dưng bật ra, người run lên như bị kinh phong. Lập phải gọi mấy lượt bà mới tỉnh lại. Lúc này lại hoàn toàn khác với lúc nãy, bà nhìn Lập có vẻ thân thiện hơn:
- Cô đang làm gì đây con?
Từ lâu, bà cô họ chưa bao giờ nói với Lập hay người trong nhà được một câu ra đầu ra đuôi và đầy tình cảm như vậy. Đó là chưa nói nó trái ngược với những câu khó nghe cách mấy phút trước. Phải chăng sau cơn co giật vừa rồi đã khiến bà thay đổi?
Lập muốn hỏi nhưng chưa kịp thì bà cô đã lên tiếng:
- Hồi nãy chút xíu nữa thì ta đã bị nó hại. Cũng nhờ ba con tới kịp nên cô mới thoát. Tội nghiệp ba con...
Lập trố mắt:
- Cô vừa nói gì? Ba con...
- Ba con còn ở đây. Đang ở trong phòng kia kìa!
Bà nói y như thật khiến cho Lập không tin không được. Anh chạy lên nhà. Nhưng chưa bước vào phòng thì anh đã khựng lại trước trang thờ mới lập.
Bức ảnh thờ của ba anh đang bốc cháy!
Hốt hoảng, Lập chạy tới ra sức dập tắt ngọn lửa. Tay anh vừa chạm vào cạnh tủ thờ thì phải rụt ngay lại bởi bị nóng như thọc vào lửa, dù nơi đó không hề bị cháy!
Chỉ trong nháy mắt, bức ảnh chân dung của ông Hai Mạnh đã bị cháy thành tro.
Cố gắng lắm Lập mới dập tắt được ngọn lửa. Tuy nhiên, hầu như tất cả những gì có trên bàn thờ đều bị hủy hoại. Không quan tâm tới điều đó lắm, Lập lại chạy thẳng vào phòng riêng của cha.
Lúc này không phải bộ xương khô như lần trước, mà nằm trên giường là một cái tráp bằng gỗ được đặt ngay trên gối nằm. Chiếc tráp này chưa bao giờ Lập nhìn thấy, nên anh hơi lưỡng lự trước khi mở nắp ra.
Bên trong chỉ duy nhất một quyển tập học trò khá dày, đã cũ, bìa sờn bốn góc, chứng tỏ đã được sử dụng nhiều năm. Dòng chữ đập ngay vào mắt Lập.
“Nỗi lòng Hai Mạnh”.
Việc cha mình là người hay chữ, từng là một công chức thời trai trẻ thì Lập biết, nhưng việc ông viết nhật ký hay hồi ký là điều Lập không bao giờ ngờ tới.
Dẫu vậy, Lập vẫn cẩn thận giở từng trang và đọc rất kỹ. Lần đầu tiên, Lập như sống trong tâm trạng của một người khác. Những điều riêng tư của cha mình, anh tưởng chừng như là của một ai đó...


Phấn 2


Vừa thấy anh mình về tới, Tám Xuân mừng như bắt được vàng:
- Dữ hôn, tưởng ở luôn ngoài dinh quận rồi chớ! Người ta đợi dài cổ ra luôn...
Nhìn cô em gái út của mình, Hai Mạnh nghiêm giọng:
- Con gái con lứa gì mà nhảy cẫng lên vậy! Anh mày đi làm chứ phải má đi chợ đâu mà trông như em bé trông sữa vậy!
Tám Xuân đưa tay lên miệng ra dấu im lặng:
- Có khách ở nhà!
Hai Mạnh ngạc nhiên:
- Khách nào vậy?
- Bí mật. Anh đừng thay đồ, chờ tiếp khách rồi biết là ai liền!
Vốn sống khép kín nên Hai Mạnh ít tiếp xúc với người lạ, đặc biệt là hầu như chưa tiếp khách ở nhà. Không để ý lắm tới lời dặn của em gái, Mạnh vẫn vô nhà xong, định đi về phòng riêng thì Tám Xuân gọi giật ngược:
- Anh Hai, có khách!
Chưa kịp quay lại, Mạnh đã nghe có tiếng người lạ sau lưng:
- Thầy ký Mạnh làm việc cần mẫn quá, thảo nào chẳng thăng tiến đều đều. Một tập sự chưa đầy một năm mà nay đã chính ngạch rồi!
Hai Mạnh quay lại và giật mình khi nhận ra một cô gái ăn mặc sang trọng, sắc đẹp kiêu sa, đang nhoẻn miệng cười rất tươi với mình.
- Cô... cô... là…
Tám Xuân nói chen vào:
- Anh Hai hổng nhớ cô Thể Loan sao? Cô Loan con gái ông bà hội đồng...
Lúc này Hai Mạnh mới nhớ ra, tuy không quen, nhưng đã đôi lần đi đường anh có nhìn thấy cô ta ngồi xe mui kiếng chạy ngang. Thật tình Mạnh không ưa loại con gái nhà giàu ngồi xe hơi vênh vênh cái mặt như cô này.
Nhưng chẳng hiểu sao bây giờ cô ta lại ở trong nhà mình?
- Xuân, em với cô đây...
Chặn ngay lời Mạnh, cô nàng rất dạn dĩ:
- Định dùng quyền làm anh hạch hỏi em gái hay sao thầy ký? Cô Tám nhân hôm nay từ thị xã về, em cho quá giang xe rồi kết làm chị em, mình tuy không ở cùng xóm nhưng chung làng, mà lâu nay chẳng hề qua lại với nhau.
Tám Xuân mau miệng nói:
- Đúng vậy anh Hai. Nào giờ em chỉ biết mặt chỉ thôi, hổng ngờ chỉ biết em. Đang chạy xe chỉ ngừng lại khi em từ chợ về đang đợi xe thổ mộ. Chỉ một hai mời em lên xe rồi chở về đây luôn. Chỉ biết rành anh Hai lắm đó.
- Thầy ký Mạnh tự cao nhất dinh quận Đất Đỏ này ai mà không biết!
Hai Mạnh ậm ừ cho qua chuyện:
- Tự cao tự thấp gì. Chẳng qua mình phận thấp hèn, tài mọn nên lầm lũi mà làm việc chớ nào có dám lên mặt lên mày gì với ai đâu! Thôi, cô ngồi chơi với em gái tôi.
Định bỏ đi thì Tám Xuân lần nữa đã gọi giật:
- Anh Hai. Chị Thể Loan có việc muốn nhờ...
Thể Loan nhẹ giọng:
- Cái này không phải em nhờ, mà chính ba em bảo. Số là em đang làm hồ sơ thi Diplomme mà có mấy khoản chưa rõ, không biết nhờ ai, vì người biết thì ở tận Sài Gòn. Sáng nay ba em bảo ghé anh quận gặp anh mà nhờ, nhưng chưa kịp ghé thì đã gặp cô Tám đây.
Hai Mạnh nói thẳng:
- Tôi phải thi hai lần mới đậu được Diplomme, cô chưa thi nổi tú tài đây, tài cán gì…
Cô nàng xịu mặt trông rất tội nghiệp:
- Em biết mà, hạng dốt như em mà mong gì nhờ được anh. Vậy mà ba em cứ một hai nói rằng thầy ký Mạnh giỏi giang, tốt bụng, hiền lành, dân ở đây nhờ bất cứ việc gì thầy đều làm giúp không nề hà. Em cứ tưởng...
Tám Xuân nói thêm:
- Anh Hai! Nãy giờ chị ấy chờ chỉ có bấy nhiêu đó.
Thể Loan vẻ giận dỗi:
- Thôi đi Xuân, chị đành phải đi Sài Gòn thôi. Thầy Mạnh vẫn coi thường chị mà!
Mạnh bị chạm tự ái, anh phải nói:
- Cô đừng hiểu lầm, chẳng qua…
- Thôi, cám ơn anh. Em phải đi ngay cho kịp giờ. Độ này cướp đường hơi nhiều, mà từ đây về Sài Gòn phải qua nhiều đoạn vắng vẻ.
Cô ta quay qua Xuân, chưa kịp chào thì đã nghe Hai Mạnh nói:
- Thôi được, vậy cô nhờ gì?
Thể Loan chỉ chờ có thế:
- Hồ sơ em để ở nhà. Để em về nhà lấy.
Tám Xuân chen vào:
- Vậy sao mình không tới nhà chị Loan một thể. Vừa giúp chị ấy, vừa cho biết nhà.
Hai Mạnh nạt ngang:
- Không được.
Thể Loan giọng ngọt lịm:
- Với thầy ký Mạnh thì phải để chị mời cho đúng phép may ra thầy mới nể tình. Em xin mời anh sẵn xe, mình về nhà em. Hôm nay ba má em đi Sài Gòn vắng nhà, mình vui với nhau một bữa, chẳng hay anh Hai nghĩ sao? Có cho đứa em mới này được hân hạnh đón tiếp không?
Kiểu mời mọc khéo léo đó, nên dẫu tính khí lạnh lùng Hai Mạnh cũng thấy xiêu lòng:
- Tôi e bất tiện, bởi xưa nay...
- Xưa nay anh ít tới nhà người lạ, nhưng bây giờ em có còn là người lạ nữa đâu, Em và Tám Xuân đã kết làm chị em rồi, còn gì!
Tám Xuân xem ra rất muốn tới nhà Thể Loan, nên dù biết anh mình khó tính cũng cố nài nỉ:
- Đi đi anh Hai. Vả lại chiều nay em đâu có nấu cơm, anh ở nhà cũng đâu có gì ăn!
Thể Loan tấn công dứt điểm:
- Nhà em có sẵn thức ăn dự trữ, để em trổ tài làm bếp đãi hai anh em!
Hai Mạnh đành phải thuận theo:
- Thôi cũng được. Nhưng tôi phải chạy xe đạp theo để lát nữa còn về sớm.
- Coi kìa, chê xe hơi của em à?
Tám Xuân bảo khẽ:
- Kệ ảnh, miễn trục ảnh đi là được rồi!
Họ rời nhà, lúc đó khoảng hơn sáu giờ chiều...
Lần đầu tiên, Hai Mạnh tới ngôi dinh thự “nhà giàu”, nơi mà lâu nay anh luôn có thành kiến. Cũng may là không có vợ chồng hội đồng Thiệp ở nhà nên Mạnh cũng đỡ lúng túng.
Tám Xuân thì có vẻ thích thú với ngôi nhà quá sang trọng nên cô cứ hết nhìn ngắm rồi lại tấm tắc khen khiến cho Mạnh phải đôi lần ra hiệu cho tốp bớt.
Anh hỏi ngay:
- Đâu, có tài liệu gì cô Loan đem ra tôi xem?
Thể Loan khá tự nhiên khi ở trong nhà mình:
- Tụi em mỗi người một phòng riêng. Em ở góc bên trái, hay là mời anh Mạnh qua bên đó. Trong phòng em có sẵn tủ lạnh, em sẽ mời anh uống nước, rồi vừa chỉ giúp em. Riêng Xuân, nếu thích thì có thể đi lên lầu, trên ấy có cái sân thượng trồng nhiều hoa đẹp lắm, tha hồ ngắm, thích thì có thể hái bao nhiêu cũng được.
Tám Xuân thích quá reo lên:
- Hay quá, em sẽ lên đó!
Cô ta chạy đi ngay, Hai Mạnh gọi theo:
- Xuân!
Nhưng anh không ngăn được cô em gái. Thể Loan giục:
- Mình vào đây anh. Nhà không có ai mà.
Cô nàng quá sức tự nhiên, nắm lấy tay Hai Mạnh kéo đi. Đây là lần đầu tiên Hai Mạnh được tiếp xúc với da thịt phụ nữ, nên qua cái nắm tay đó đã khiến cho anh vừa bước đi vừa rùng mình.
Khi bước vào căn phòng sang trọng cách bài trí giống như trong phim ảnh, Mạnh hơi rụt rè, tuy nhiên, Thể Loan đã giúp anh đỡ bối rối, bằng cách mở tủ lạnh lấy nước cam:
- Anh cứ ngồi xuống đây, chờ em vào lấy tài liệu. Anh uống nước đi, em mới pha đá lạnh.
Cô ta lướt qua mặt Hai Mạnh, hình như cố tình đi sát và khiến mùi thơm cơ thể phả vào mũi, Mạnh lại phát rùng mình lần nữa!
Năm phút sau, cô ta lại xuất hiện với bộ đồ mát mặc trong nhà, mà vừa chạm mắt vào Hai Mạnh đã phát đỏ mặt và run! Bộ đồ bằng lụa bóng màu mỡ gà gần như giới thiệu hết những gì kín đáo của phụ nữ ra!
- Coi kìa, sao lại đỏ mặt lên vậy… thầy ký? Em đây mà, chứ phải người lạ đâu...
Bất thần, trong lúc Mạnh còn đang lúng túng thì Thể Loan đã sà xuống ngay cạnh và bằng một động tác nhanh và thuần thục, cô ta kéo ngửa Mạnh ra.
Bị bất ngờ nên Hai Mạnh không kịp có phản ứng gì thì tiếp theo đó, lại bị cô nàng nằm đè lên người.
Một vài giây bị đờ người vì mất cảnh giác, rồi Hai Mạnh cũng lấy lại được tự chủ, anh vụng về đẩy nàng ta ra. Nhưng sao lạ quá, hai tay Mạnh vừa đưa lên thì như bị mất hết lực, cố lắm cũng không thể đẩy nổi cơ thể mềm mại đó ra.
Trong khi ấy thì Thể Loan càng lúc càng tấn công Mạnh thêm. Những gì đáng ra là do đàn ông chủ động, thì lúc này cô ta đã làm thay. Hai Mạnh biết hết, chỉ có điều không còn sức để phản ứng lại. Anh lờ mờ hiểu có lẽ do uống ly nước cam lúc nãy mà ra cớ sự này. Có nghĩa là trong nước cam có thuốc ngủ hay cái gì đó...
***
Hai Mạnh tỉnh lại thì hoảng hồn khi nhận ra những người đang đứng trước mặt mình gồm vợ chồng hội đồng Thiệp và hai tay bộ hạ lực lưỡng!
Bà hội đồng lên tiếng:
- Thằng khốn nạn đã chịu tỉnh lại rồi kìa!
Hai Mạnh định bật dậy nhưng phát hiện tay chân mình đang bị trói và còn tệ hại hơn, toàn thân anh đang trong tình trạng trần truồng như nhộng!
- Trời ơi!
Lúc này cố vùng vẫy, Mạnh mới hiểu là nãy giờ mình đã bị đánh nên cơ thể đau nhức dữ dội. Anh gào lên:
- Mấy người làm gì tôi?
Ông hội đồng Thiệp quát to:
- Nó còn già mồm thì đánh gãy răng nó cho tao.
Hai tên bộ hạ xông tới, thì bà Hội lên tiếng:
- Đánh nó chết thì lấy ai bắt đền trinh tiết con gái mình? Cứ trói nó vậy rồi chờ mình coi sức khỏe con Thể Loan thế nào đã.
Lúc ấy có tiếng khóc tức tưởi từ phía cửa sổ, rồi giọng nói của Thể Loan:
- Đời con đã tan nát hết rồi vì thằng khốn nạn này, bây giờ giết nó thì cũng đâu cứu vãn được gì. Con bắt nó phải chịu trách nhiệm!
Ông hội đồng quát lớn hơn:
- Thằng chó chết này mà xứng đáng lấy con gái tao sao?
Bà vợ hạ thấp giọng:
- Để rồi tính...
Bà quay sang hai tên bộ hạ:
- Tụi bay tạm thời lui ra ngoài kia đợi.
Bọn chúng đi rồi, bà mới nói với chồng:
- Ý con Thể Loan là đúng. Nếu bây giờ mà làm um sùm ra thì cả nhà mình bị nhục, mà con Thể Loan đâu còn mặt mũi nào sống trên đời này. Thôi, thà cắn răng mà chịu đi.
Bà quay sang con gái:
- Con nghĩ kỹ chưa?
Thể Loan vừa khóc vừa đáp:
- Vậy còn hơn.
Ông hội đồng dịu giọng:
- Tao muối mặt mà tha cho bay lần này. Con ơi là con, đồ oan gia mà!
Trước khi ra khỏi phòng, ông lớn tiếng ra lệnh:
- Bắt nó lăn tay, ký tên vào bản thú tội rồi thả nó ra. Bắt nó phải làm đám cưới con Thể Loan nội trong tuần này!
Mạnh như con thuyền đắm giữa dòng. Anh có cố cách nào thì càng lúc càng chìm nghỉm sâu hơn. Đến lúc đầu óc chẳng còn chút phản xạ nào thì anh nhớ mơ hồ rằng mình đặt mấy ngón tay vào một tờ giấy và cầm lấy cây bút…
***
Ngày đám cưới của Hai Mạnh cũng là ngày anh vô cùng tuyệt vọng khi mấy người do anh nhờ đi tìm đã lắc đầu báo tin:
- Chẳng biết cô Tám Xuân đi đâu mà chúng tôi kiếm tìm hầu như không sót chỗ nào mà chẳng thấy!
Tám Xuân đã biến mất từ sau cái đêm “tày trời” đó. Mạnh nghĩ rằng em gái mình chắc là sau khi hay tin anh trai mình bị bắt tại trận đang ân ái cùng Thể Loan trong phòng, đã quá xấu hổ mà bỏ đi. Chờ đến gần chục ngày vẫn không thấy tin tức gì của em gái, lại quá đau đầu chuyện bản thân mình bị bắt ép phải cưới cô vợ mà mình bị quy cho tội “hiếp dâm” cô ta. Cho nên Hai Mạnh ngã bệnh liệt giường suốt cả tháng trời.
Mà cũng lạ, sau lễ cưới chưa đầy một buổi thì Thể Loan một mình lái xe hơi về Sài Gòn, như chẳng có gì xảy ra! Cô ta ở Sài Gòn chẳng biết làm gì mà cả một tuần sau mới về. Khi về tới nhà thì cô ta vào phòng riêng đóng cửa ở miết trong đó, không đếm xỉa gì tới Hai Mạnh. Lúc đó Hai Mạnh theo lệnh ông hội đồng phải tới làm việc tại nhà ông ta, nghỉ việc ở dinh quận.
Dù không muốn, nhưng ở thế kẹt nên Hai Mạnh như cái xác không hồn, phải ngày ngày tới đó. Đêm anh ta về nhà mình thì mọi chuyện sẽ chẳng có gì rắc rối, bởi giữa Hai Mạnh và Thể Loan đã có một bức tường ngăn cách ngay những phút giây đầu tiên chung sống. Những cuộc đi về Sài Gòn bất thường, khó hiểu của cô vợ, cũng như những đêm sống riêng, lặng lẽ một bóng của anh chồng hờ. Cho đến một tối kia, 28 ngày sau lễ cưới, đã xảy ra một sự cố.
Số là khi vừa lái xe về, sau chuyến đi bốn năm ngày mà chẳng biết là đi đâu, Thể Loan bước từ trên xe xuống thì bỗng ôm bụng kêu đau rồi ngã lăn ra đất. Nhìn kỹ lại thì nửa thân dưới của cô nàng nhuộm đầy máu.
Hai Mạnh lúc đó đang lên xe đạp về nhà ngủ như thường lệ, đã chứng kiến cảnh vợ bị ngã ngay từ đầu vội chạy tới đỡ cô nàng lên, lúc này dù đang đau đớn, nhưng Thể Loan vẫn tỏ ra đanh đá:
- Không ai mượn anh, đi đi!
Dù trong thâm tâm không muốn dính tới cô vợ hờ này, nhưng trước tình cảnh này chỉ vì lòng nhân đạo, nên Mạnh vẫn xốc Thể Loan dậy đưa vào phòng riêng.
Gia đình hội đồng Thiệp giàu có nên đã sẵn bác sĩ riêng ở thị xã, trong đó một người chuyên khoa phụ nữ được tới ngay sau đó chưa đầy hai mươi phút.
Sau khi khám xong, bà chích thuốc cầm máu rồi quay tìm người nhà. Lúc ấy vợ chồng hội đồng Thiệp dự tiệc cưới chưa về nên chỉ có mỗi Mạnh, bà ta hỏi:
- Thầy là chồng cô Ba đây phải không?
Hai Mạnh miễn cưỡng gật đầu. Bà ta nói, giọng đầy lo lắng:
- Cô nhà có thai đã trên năm tháng mà sao không dưỡng thai cho kỹ. Để bây giờ có dấu hiệu sẩy thai và đang có biến chứng nặng rất nguy hiểm, phải đưa ngay ra nhà thương tỉnh thì may ra.
Hai Mạnh kinh hoảng:
- Thai... thai mấy tháng?
- Trên năm tháng. Hồi tháng sáu, khi cô ấy ghé khám chỗ tôi thì thai đã được gần ba tháng rồi, nay là giữa tháng chín rồi. Thai bị động không chỉ vì chấn động mà còn vì lý do khác, bởi…
Bà vừa nói tới đó thì Thể Loan ụa lên một tiếng lớn, rồi lăn người qua, nôn một hơi đầy cả giường. Mùi hôi tanh, đặc biệt là mùi rượu nồng nặc, khiến cho bà bác sĩ phải hốt hoảng:
- Trời ơi, cô ấy uống nhiều rượu! Bộ thầy không biết sao mà để…
Hai Mạnh không để ý câu hỏi, mà chỉ một mình lặp lại câu hỏi:
- Cái thai hơn năm tháng?
Vừa lẩm bẩm, Mạnh vừa bước ra ngoài:
- Vậy là họ lừa mình. Thiên hạ ăn ốc mình thì đổ vỏ nè trời!
Cái thai trong bụng Thể Loan chắc chắn không phải là của Hai Mạnh rồi. Và như vậy vụ “hiếp dâm” mà họ dàn cảnh đêm đó là để gài bẫy cho Mạnh phải lãnh đủ!
- Trời ơi!
Vừa kêu lên, Hai Mạnh vừa cắm đầu chạy bay ra dường như bị ma đuổi...
***
Sáng hôm sau thì có tin Thể Loan chết khi chưa kịp đưa đi bệnh viện tỉnh. Lúc vợ chồng hội đồng Thiệp về tới thì chính bà bác sĩ sản khoa xác nhận:
- Trong việc này mọi lỗi lầm là do người chồng của cô Ba cả. Khi tôi tới đây thì đã thấy cô Ba người đầy máu, có mặt cả thầy Hai Mạnh, vậy mà thầy ấy tắc trách, bỏ mặc vợ trong tình trạng ngặt nghèo, chạy đi một mình.
Ông hội đồng gầm lên:
- Thằng chó đẻ đó trả thù con gái tôi đây mà!
Bà hội đồng cũng tru tréo lên:
- Nó giết con tôi rồi! Phải gô đầu nó lại bắt đền mạng!
Họ hô hào bộ hạ chạy đi tìm bắt Hai Mạnh. Khi Mạnh bị bắt dẫn tới thì vẫn còn nghe bà hội đồng vô tình nói mà Mạnh nghe rất rõ:
- Cũng tại cha con ông cả. Bắt ép nó làm gì để nó trả thù như vậy? Nhất là thằng con trai cả của ông nữa. Đã khùng điên nhốt trong phòng kín rồi mà còn bắt con gái người ta vào đó nhốt và làm càn làm bậy suốt tháng trời, vậy mà ông cũng để vậy. Ông biết con nhỏ bị nó lôi vào phòng nhốt lại đó là ai không? Đó là con em gái thằng Hai Mạnh!
- Tám Xuân!
Đang bị hai tên lực lưỡng canh giữ, nhưng vừa nghe bà hội đồng nói tới đó, Hai Mạnh đã vùng ra, rồi trước sự sững sờ của mọi người, anh chạy bay lên lầu!
Lầu có bốn phòng, Mạnh tung cửa từng phòng một đến phòng thứ ba thì anh khựng lại! Trong phòng, từ trần nhà có một thân thể lõa lồ của một phụ nữ treo lơ lửng.
- Tám Xuân!
Rõ ràng người treo cổ là Tám Xuân! Và còn một gã đàn ông đang ôm chân cái xác, vừa cười nham nhở. Gã là con trai cả của hội đồng Thiệp!
- Trời ơi.
Trong cơn phẫn uất tột cùng, Hai Mạnh lao vào chụp lấy cổ tên công tử nọ và siết... siết thật mạnh!
Đến khi mấy tên bộ hạ nhà ông hội đồng kịp chạy lên thì tên tâm thần cũng vừa hết cử động. Có tiếng la thất thanh của mụ hội đồng:
- Nó giết thằng Hai rồi ông ơi!
Hai Mạnh không biết rõ chuyện xảy ra sau đó, chỉ mơ hồ cảm giác mình bị đánh dữ dội, đau đớn và gục xuống...
***
Lập buông tập giấy viết tay của cha xuống. Hai khóe mắt anh đỏ hoe. Sự việc không ngờ lại tồi tệ đến như thế này! Thảo nào cách đây trên hai chục năm, khi cha mãn hạn tù gặp mẹ anh, một người phụ nữ bình thường trong làng và hai người chấp thuận ở với nhau, liên tiếp mẹ anh sinh đến lần thứ năm thì mới nuôi được con. Bởi vậy tuy là thứ sáu, Sáu Lập, nhưng anh lại là con một. Ông Hai Mạnh từ đó không hề nhắc tới việc tại sao ông đi tù. Khi Lập lớn lên, có lần anh hỏi thì cha anh chỉ thở dài và nói:
- Ở đời có những chuyện mình không nên biết làm gì.
Bây giờ thì anh đã hiểu, do sự cố đó, người ta bắt cha anh và kêu án mười năm tù. Thì ra cha anh đã giết người vì phẫn uất khi nhìn thấy cô Tám Xuân bị giết một cách dã man. Mười năm ở trong tù đã biến cha anh thành một con người lầm lì, ít nói và yếm thế. Khi nuôi Lập khôn lớn, ông Hai Mạnh luôn căn dặn anh chỉ một điều:
- Đừng bao giờ chơi với con gái nhà giàu!
Có lẽ vì vậy mà ông không cho Lập học đến nơi đến chốn. Chỉ học hết tiểu học thì Lập đã phải nghỉ để làm nghề đánh xe thổ mộ.
- Đem đốt quyển tập ấy đi!
Lập giật mình quay lại thì thấy bà cô họ đang đứng ở cửa phòng. Sắc mặt bà khác hẳn ngày thường. Tỉnh táo và nghiêm nghị hơn.
- Nhưng đây là bút tích của ba con.
- Bút tích ấy là mối họa cho cha con. Những chuyện kể về một đoạn đời khốn nạn, ô nhục ấy mà đáng gì! Chính vong hồn ba con bảo cô lấy nó ra cho con xem. Coi xong rồi thì đốt bỏ. Mọi chuyện đã thuộc về quá khứ rồi.
Lập vẫn chưa yên tâm:
- Nhưng con vẫn còn thắc mắc. Tại sao có cô gái nào đó xưng là con của cô Tám Xuân? Và tại sao có chuyện hai lần con thấy bộ xương khô và cô gái khóc bên bộ hài cốt.
Bà cô kéo ghế ngồi xuống, giọng bà trầm hẳn:
- Cô Tám con chết do bị thằng con trai điên của hội đồng Thiệp hãm hiếp, cô ấy xấu hổ, phẫn uất nên treo cổ.
Lập chặn ngang:
- Như vậy lúc ấy cô Tám con còn con gái, đâu có con?
- Thì đúng là như vậy.
- Vậy sao cô gái nào đó xưng là con của cô ấy?
Bà cô đưa tay chỉ ra ngoài:
- Con nói cô gái này phải không?
Vừa khi cô gái bước vào.
- Đúng là cô ta!
Cô gái lần này nghiêm sắc mặt, cúi chào Lập:
- Dạ, chào anh.
- Hôm trước cô đi xe tôi, giữa đường rồi biến mất?
- Dạ đúng.
- Rồi cũng chính cô quỳ dưới bộ xương khô?
- Dạ đúng.
Lập la lên:
- Cái gì cô cũng trả lời đúng. Vậy cô là gì? Cô là...
Cô gái cười nhẹ:
- Là Ánh Xuân. Người chớ không phải ma!
- Nhưng tại sao cô có mặt trong ngôi nhà của hội đồng Thiệp?
Cô gái lặng đi một lúc rồi tiếp, giọng buồn bã:
- Em vốn là con người bạn tù của ba anh. Khi ở trong tù ba anh thường tâm sự chuyện bi kịch của cuộc đời và khi ba anh ra tù chẳng biết vô tình hay cố ý đã bỏ quên quyển hồi ký ghi lại mọi chuyện. Ba em ra tù sau, do thương cảm hoàn cảnh của ba anh, nên một hôm ông đích thân mang quyển tập ghi chép này tìm tới tận nơi đây. Ba em không gặp ba anh, mà lại tới ngôi mộ thấy vong hồn của một người tự xưng là cô Tám Xuân, cô ấy nhờ ba em bằng cách nào đó đưa ba anh và anh tới ngôi nhà, đúng chỗ căn phòng cô ấy bị giết chết để cứu oan hồn cô ấy ra khỏi nơi đó, chớ nếu không thì vĩnh viễn cô ấy sẽ không đầu thai được.
Lập kêu lên:
- Do đó, cô đã nói gạt tôi cô là con của cô Tám Xuân?
Cô gái gật đầu:
- Ba em thương hoàn cảnh của ba anh, thương vong linh người thác oan nên sai em sang đây tìm cách để đưa cho bằng được bác Hai và anh tới đó. Em đã thành công, nhưng cái giá trả thì quá đắt. Bác Hai đã…
Bà cô giờ mới lại lên tiếng:
- Thật ra anh Hai tôi chết để giải cái nghiệp đã vay. Một mạng người dù gì cũng là vợ và cả cái bào thai. Dẫu anh Hai tôi không giết họ, nhưng chính hành động bỏ mặc họ đêm hôm đó đã gián tiếp giết họ. Cô Thể Loan chết là đáng kiếp, nhưng…
Lập không đồng tình:
- Ba con trước sau chỉ là nạn nhân của cái nhà đó!
Cô gái tán thành:
- Khi nghe lệnh ba em tới đây, em không ngờ lại được vong linh của cô Tám anh giúp, để em lọt được vào ngôi nhà đó một cách dễ dàng, từ đó em khám phá ra chẳng phải riêng cha anh, cô Tám Xuân, mà còn nhiều người khác đã là nạn nhân của họ. Hội đồng Thiệp bỏ nhà ra đi bởi ông ta sợ bị báo oán bởi hậu quả tội ác ông ta và con cái gây ra!
Nói xong, cô đứng dậy cầm lấy cuốn sổ, nói dứt khoát:
- Theo em nghĩ nếu anh Lập không muốn giữ bút tích này, thì em sẽ đưa về cho ba em giữ. Nó là bằng chứng của một tội ác, để người đời còn biết bộ mặt thật của bọn cường hào ác bá!
Bà cô muốn ngăn, nhưng Lập đã nói:
- Cám ơn lòng tốt của cô. Tôi sẽ đích thân giữ bút tích của ba tôi. Tôi sẽ ghi nhớ lời ông. Không bao giờ quan hệ với con gái nhà giàu!
Cô gái cười hồn nhiên:
- Nhưng em không phải con gái nhà giàu đâu! Em chỉ đóng giả vai thôi…
Lập hơi ngượng:
- Ờ, nếu vậy thì...
Cô gái chặn lời:
- Anh cứ gọi tôi là Ánh Xuân. Tôi làm nghề bán hàng hóa nhỏ, lẻ ở ngoài thị xã, chớ chẳng hề là con gái nhà giàu đâu!
Lập dịu giọng:
- Vậy thì tôi xin lỗi.
Ánh Xuân đột ngột hỏi:
- Anh có muốn tới nhà tôi không? Ba tôi là bạn tù của ba anh, ông đang muốn gặp anh…
Lập quyết định cũng đột ngột:
- Cũng được. Vậy để tôi đánh xe đưa cô đi!
Nhìn hai người bước ra, bà cô nhẹ mỉm cười...
***
Ông Ba Thới, cha của Ánh Xuân tuy mới gặp Lập lần đầu nhưng đã tỏ ra thân thiện, ông bảo:
- Từ hôm ba cháu mất, chú muốn vào thăm cháu mà chưa tiện, bởi chú bây giờ đôi chân hơi yếu.
Rồi ông chỉ lên tủ thờ:
- Cháu biết hình thờ đó là ai không?
Lập nhìn người con gái còn rất trẻ, cỡ tuổi của Ánh Xuân, anh lắc đầu:
- Dạ, con không biết...
Ông Thới nói mà Lập tưởng mình nghe lầm:
- Đó là cô Tám Xuân của con!
- Bác nói...
- Tấm ảnh này chỉ mình bác có. Bởi hồi còn con gái Tám Xuân nhút nhát, không chịu chụp hình, lần đó chú rình chụp được và giấu không cho cô ấy biết...
Lập quá đỗi ngạc nhiên:
- Chú biết cô Tám con?
Trầm ngâm một lúc, ông Thới gật đầu nói:
- Chẳng những biết mà còn… biết nhiều nữa kìa!
Rồi không đợi Lập thắc mắc thêm, ông tiếp:
- Không giấu gì cháu, chú đây chính là người yêu của cô Tám con trước lúc cô ấy chết. Bởi vậy khi hay tin cô Tám bị nhà hội đồng Thiệp hại chết, nhất là khi biết ba cháu bị họ bắt bỏ tù, chú đã tới tận đó nổi loạn và cũng bị họ tống giam luôn. Vào tù chú gặp ba con, hai bên đồng cảm nhau, thương yêu giúp đỡ nhau trong suốt những ngày hoạn nạn. Khi ra tù, trong lúc ba cháu muốn quên hết chuyện cũ, còn chú thì vẫn sôi sục chuyện trả thù. Chính chú đã tìm tới tận ngôi nhà hoang đó, tìm hiểu được oan hồn cô Tám bị giam hãm không siêu thoát được nên mới xui con Ánh Xuân này tới khiến cho ba cháu và cháu tìm tới ngôi nhà hoang và giải thoát được cho cô ấy…
Lập ngạc nhiên:
- Giải thoát... là sao?
Ông Thới lại nhìn lên bàn thờ rồi hỏi Lập:
- Con có nhớ hôm con nhìn thấy cha con ôm cái đầu lâu mà khóc trong ngôi nhà hoang không?
- Dạ nhớ. Và hôm đó ba cháu quá xúc động nên ba cháu đã chết.
- Ba cháu thì chết rồi, nhưng cô Tám con thì được hoàn hồn!
- Chú nói…?
- Chính nhờ giọt lệ của ba con nhỏ xuống nên Tám Xuân được hoàn hồn. Tuy không sống lại được như người nhưng từ hôm đó, hồn phách cô ấy luôn hiện hữu. Chú đưa cô ấy về đây thờ là vì vậy.
Lập ngẩn ngơ như lạc vào cõi nào đó. Hồi lâu sau, anh nói khẽ:
- Con cám ơn chú.
Ông Thới nhẹ giọng:
- Nhờ trời chúng ta có được kết cuộc này. Nhân đây chú cũng nói cho cháu biết, con Ánh Xuân đây không phải là con ruột của chú, mà chỉ là con nuôi kể từ khi Tám Xuân chết. Cháu có thể cùng với Xuân...
Ông bỏ lửng câu nói, nhìn sang Ánh Xuân nhẹ mỉm cười. Cô gái cũng cười thật tươi và liếc sang Lập…
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #70  
Old 11-07-2012, 06:11 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 34

NÀNG HOA


Suốt mấy đêm liền, hễ chợp mắt là Trọng mơ thấy có người gọi tên mình. Lần nào cũng vậy, khi tỉnh giấc thì Trọng lại nghe văng vẳng bên tai những âm thanh kỳ bí. Thứ âm thanh mà dường như Trọng đã nghe ở đâu đó...
Ngày thứ ba, khi vừa mờ sáng thì Trọng lên đường tham dự một chuyến du lịch xa với gia đình. Trước khi lên đường, người anh rể của Trọng hơi lo lắng cho sắc diện kém tươi của anh:
- Đi chơi xa mà sao em giống như người mất hồn vậy? Đau bệnh gì hay sao?
Trọng cười gượng:
- Dạ đâu có.
Vừa đáp xong anh lại ngáp dài một hơi. Anh Hậu lắc đầu:
- Trai tráng như cậu thật là chán! Ai lại ngáp dài ngáp ngắn như thế?
Lúc lên xe, Trọng chọn băng ghế sau cùng, anh giải thích rằng:
- Đường xa, thủ sẵn một chỗ ngả lưng chắc ăn hơn!
Và quả đúng như vậy, xe chạy chưa tới hai chục cây số thì Trọng đã ngủ khì. Người nhà thông cảm nên cũng không chọc phá, cứ để cho Trọng ngủ một giấc dài.
Chuyến đi xa tới trên ba trăm cây số, nên dọc đường xe phải dừng lại nghỉ để ăn uống. Thấy gọi hoài không được nên mọi người lại để mặc. Mãi cho đến khi gần tới nơi thì thật bất ngờ, Trọng ngồi bật dậy và hỏi một câu làm ai nấy đều ngạc nhiên:
- Nàng ta đâu?
Bà chị thứ tư của Trọng, chị Lan lắc đầu ngao ngán:
- Hết chịu nổi thằng này luôn. Hết ngủ rồi lại gái! Có mấy nàng trên xe đây, còn nàng nào nữa!
Trọng vẫn ra vẻ nghiêm trọng:
- Tôi hỏi thật mà, nàng ấy đâu?
Lan gắt lên:
- Nàng nào?
- Nàng Hoa!
Trọng đáp ngắn gọn, ra vẻ như mới vừa nhìn thấy nàng Hoa nào đó!
Anh Hậu ôm bụng cười:
- Con trai tới tuổi lấy vợ thường hay mơ đủ thứ như vậy lắm!
Lan trợn mắt nhìn chồng:
- Anh chắc cũng mơ nhiều người rồi chớ gì?
Trọng cắt ngang sự cãi vã của hai người:
- Nàng ta đang gặp nguy, hãy cứu nàng ta với!
Bà Diệp ngồi băng trước quay lại nói:
- Tụi bay sờ đầu nó coi có bị sốt không?
Trọng bực tức la lớn:
- Thôi, mọi người im đi! Nói gì cũng không tin, đợi người ta chết rồi mới thương tiếc, muộn rồi.
Những lời nói không đầu không đuôi càng khiến cho mọi người trên xe càng thêm khó hiểu và bực mình. Chỉ duy có ông Diệp là dịu giọng:
- Để nghe nó kể chuyện đầu đuôi coi sao đã. Bộ con ngủ thấy gì phải không Trọng?
Trọng trầm ngâm một chút rồi nói với cha mình:
- Hễ con nhắm mắt lại là thấy người ta trói nàng ta rồi nhấn chìm xuống nước. Nàng ấy không chống cự được, chỉ biết kêu ú ớ, tội nghiệp lắm!
Ông Diệp ra dấu cho mọi người không nên châm chọc Trọng nữa, rồi ông lại ngọt ngào với con:
- Được rồi, con hãy bình tĩnh lại, chờ tới nơi đã. Nhưng nàng đó ở đâu?
Trọng lắc đầu:
- Con cũng không biết. Chỉ mỗi khi con nhắm mắt ngủ thì nghe tiếng kêu thảm thiết của nàng ấy!
Rót cho Trọng ly cà phê trong bình, ông Diệp giục:
- Con uống chút cà phê cho tỉnh người đi.
Sau khi uống hết cốc cà phê, Trọng có vẻ bình tĩnh lại, anh lại lim dim như muốn ngủ tiếp. Nhìn thấy con như vậy bà Diệp hơi lo, bà hỏi nhỏ chồng:
- Nó có sao không ông?
Ông Diệp rất tâm lý, dặn khẽ mấy đứa con:
- Không có chuyện gì đâu. Cứ để yên cho nó...
Hơn nửa giờ sau thì tới nơi. Xe vừa rẽ vào khu đồn điền rộng mênh mông thì mấy cô con gái nhà ông bà Diệp đã reo lên:
- Ồ, đẹp quá!
Những đồi thông thẳng tắp chạy dài tới tận chân núi xa xa, khí hậu mát dịu và trong lành, khiến ngay cả bà Diệp cũng phải buột miệng khen:
- Hổm rày nghe nói tui chưa nghĩ là nó đẹp cỡ này. Được đó, mình sẽ ra đây thường xuyên để đổi gió!
Đây là khu đồn điền mà ông Diệp mới mua chưa lâu, và hôm nay là lần đầu tiên ông cho cả nhà tới thăm lần đầu. Để động viên Trọng, ông vỗ vai con:
- Con thích cưỡi ngựa thì nơi đây có ngựa. Thích câu cá thì có nhiều hồ, suối. Kể cả thích đi săn thú ban đêm cũng có.
Nghe chuyện săn thú, bà Diệp phản đối ngay:
- Thôi đi! Không được chơi cái trò đó!
Trọng thì reo lên:
- Con khoái câu cá!
Thấy con hết tình trạng lờ đờ lúc nãy, ông Diệp phấn khởi:
- Mấy người thấy không, ra tới đây với không khí này thì lừ đừ như thằng Trọng cũng phải linh hoạt ngay thôi!
Ngôi nhà gỗ khang trang đã được ông Diệp cho xây vài tháng trước với mấy người giúp việc vốn là cư dân địa phương. Họ đón chủ mới với sự trọng thị đúng mực.
Trong số gia nhân bốn người, có người đàn ông đứng tuổi đã từng giúp việc cho gia đình một người Pháp trước kia nên rất biết phép tắc:
- Dạ, kính chào ông bà chủ và các cô cậu. Tôi là Phan Hiếu, tên dân tộc là Y Phang. Còn hai đứa con và bà vợ nữa, nhưng chúng đang bận đi đám tang một người quen mới mất sáng nay ở thôn gần bên.
Bà Diệp hỏi:
- Có nhiều nhà cửa quanh đây không?
- Dạ có nhiều, nhưng đều ở ngoài phạm vi đồn điền của ta cả.
Chẳng hiểu tại sao Trọng lại quan tâm đến đám tang, anh hỏi dồn:
- Đám tang của ai vậy chú?
Ông Phan Hiếu thở dài vừa đáp:
- Tội nghiệp, con nhỏ mới mười tám tuổi mà đã chết thảm!
Trọng như không thể chờ được:
- Chú nói xem đó là ai vậy?
- A Hoa. Mà người ta quen gọi là nàng Hoa!
- Trời ơi!
Tự dưng Trọng kêu thét lên một tiếng rồi ngã lăn ra bất tỉnh. Ông bà Diệp hốt hoảng giục các con:
- Mau lên, đỡ nó dậy!
Họ đưa Trọng vào nhà, cũng vừa lúc anh tỉnh lại và thảng thốt kêu lên:
- Tôi đã giết nàng rồi!
Phan Hiếu cũng phải ngạc nhiên:
- Cậu ấy nói gì vậy?
Ông Diệp phải giải thích:
- Thằng con tôi bị ám ảnh bởi cái chết của cô gái nào đó, nên hễ nghe nói cô gái nào chết… là như vậy đó.
Ông cố tình kéo Trọng vào nhà, ông nghiêm giọng nhắc:
- Con đừng có như vậy!
Trọng im lặng, nhưng trong lòng anh như có cái gì đó thôi thúc không yên. Đến một lúc, khi ông Diệp gọi rủ Trọng đi câu cá thì chẳng thấy anh chàng đâu!
Ông hỏi Hậu:
- Con thấy thằng Trọng đâu không?
Hậu lắc đầu:
- Dạ không. Con tưởng cậu ấy ngủ trong phòng.
Khi hỏi Phan Hiếu thì ông này thú thật:
- Lúc nãy cậu gì đó hỏi tôi nhà của nàng Hoa. Tôi chỉ nhà và cậu ấy chắc là đi qua đó.
- Ở đâu?
Ông ta chỉ tay về phía bên kia hồ nước:
- Bên bản Lia, cũng không xa lắm.
Ông Diệp lo lắng bảo Hậu:
- Hay là con đi với chú Hiếu tìm nó xem.
Nhưng Phan Hiếu xua tay:
- Ông chủ đừng lo. Bên đó là bản làng chân chất lắm. Họ nổi tiếng là nơi hiếu khách nhất vùng này. Ai lạ, nhất là các chàng trai tới sẽ được tiếp đãi đàng hoàng. Cậu Út nhà ông chủ vừa đẹp trai, lại có lòng như vậy chắc chắn sẽ là thượng khách bên đó cho coi!
Lan chen vào nói đùa:
- Để nó qua bên đó kiếm được một cô sơn nữ nào đó rồi đem về, không chừng lại bớt hâm!
Bà Diệp cũng nói:
- Thằng này từ nào đến giờ nhát con gái lắm. Không biết kỳ này ông ứng bà hành gì lại chiêm bao thấy cô nào đó. Mà nè chú Hiếu, cô gái mới chết tên là gì mà vừa nghe thằng con tôi đã ngây người ra vậy?
- Dạ là A Hoa, còn gọi là nàng Hoa.
- Là con cái nhà ai vậy? Mà sao lại chết?
Phan Hiếu hạ thấp giọng, chừng như sợ lời nói của mình bị người khác nghe được:
- Cô ta đẹp lắm, mà bị chết do bị dìm dưới nước!
Bà Diệp lè lưỡi:
- Trời đất ơi, ai mà ác dữ vậy.
- Chính thầy mo trong làng làm chuyện đó! Cũng do tục lệ lâu đời. Người ta nghi cô ấy bị ma lai nhập, cho nên...
Ông Diệp gật đầu:
- Tôi có nghe người ta kể nhiều chuyện hủ tục ở các bản làng. Như chôn sống cô gái hay đứa con mà cô ta lỡ sinh ra mà không có cha. Nhưng việc trấn nước vì nghi ma lai nhập thì mới nghe đây.
Ngọc Lan chen vào:
- Hồi nãy trên xe ba má không nghe thằng Trọng kêu lên là hãy cứu cô gái nào đó, đừng để người ta dìm dưới nước sao?
Bà Diệp nhớ lại:
- Đúng rồi, tôi còn nghe nó kêu tên là nàng Hoa nữa!
Ông Diệp nghe lạnh cả người:
- Sao lại có chuyện lạ lùng thế này?
Phan Hiếu nói thêm:
- Sáng sớm hôm nay, trước khi mặt trời lên, dân làng đều tụ tập gần hồ để chứng kiến cảnh “trừng phạt” đó. A Hoa đã bị dìm cho đến chết chỉ vì cách đây một tuần, nó đã đang đêm đi ra ngoài rừng, vừa đi vừa cất tiếng gọi ai đó tên là Trong hay Trọng gì đó. Dân trong bản nhìn thấy, người ta báo thầy mo và ông ta quả quyết A Hoa bị ma lai bắt hồn!
Bà Diệp kinh hãi:
- Trời ơi. Đúng là... đúng là có dính tới thằng con mình rồi ông ơi!
Linh tính chẳng lành, ông Diệp kéo tay Phan Hiếu và cả chàng rể:
- Đi cứu nó mau!
Họ băng rừng vượt suối, phải mất hơn một giờ sau mới tới được phía bên kia hồ. Nhưng lúc ấy thì mọi việc đã xong rồi, chỉ còn lại bên bờ hồ một quang cảnh tiêu điều: nhiều cành hoa rừng vứt tứ tung, cây cỏ ở vạt đất bị giẫm đạp rạp xuống. Và ở phía xa xa, trên mặt nước có những bông hoa dại trôi lững lờ.
Hình như ai đó đã thả hoa để tiễn đưa người chết, hoặc cũng có thể là để tống khứ một hồn ma... Không thấy bóng dáng Trọng ở đâu…
***
Trọng phải nép mình ở bụi rậm chờ khá lâu thì mọi người mới từ từ rút đi hết. Anh sốt ruột từ nãy giờ, bởi từ khi có mặt ở đây, anh cố giương mắt tìm mà vẫn không thấy bóng dáng của “nạn nhân” đâu. Mà theo lời ông Phan Hiếu nói thì sáng nay thầy mo đã dìm chết nàng Hoa dưới dòng nước, họ chờ mặt trời đứng bóng như lúc này thì đem xác nạn nhân lên đốt thành tro rồi rải tro đó xuống hồ, coi như tống khứ được yêu ma ra khỏi làng.
Nhưng khi nãy rất đông dân làng tiến hành buổi lễ gì đó, họ nhảy múa, ca hát và cả cầu nguyện nữa, nhưng tuyệt nhiên không có một ai bị xử tội, có nghĩa là nàng Hoa không có mặt! Trọng vái thầm:
- Lạy trời cho nàng đừng bị...
Vừa nghĩ đến đó thì Trọng nhìn thấy cha mình và hai người nữa chạy tới. Anh không muốn đối mặt với họ khi chưa biết tin tức mà mình cần biết, nên cố nín thở trốn thêm một lúc nữa. Đến khi ông Phan Hiếu giải thích gì đó với cha, ông Diệp đồng ý rút lui thì Trọng mới thở phào nhẹ nhõm. Anh nhìn trước sau không còn thấy ai thì mới dám mò ra tận bờ hồ. Nhìn thấy một thân chuối trôi cùng những bông hoa rừng, Trọng liên tưởng đến một xác người bị cột theo đó, anh kêu khẽ:
- Trời ơi!
Và chẳng cần nghĩ ngợi thêm, Trọng nhảy thẳng xuống nước, nhắm chỗ cây chuối đang trôi mà bơi tới. Tuy nhiên, đó chỉ là một thân chuối trơ trọi, không mang theo vật gì khác.
Thất vọng, Trọng bơi vào bờ và cứ để nguyên quần áo ướt như vậy, nằm vật ra trên bãi cỏ. Bên tai anh lại văng vẳng cái âm thanh mà từ ba bốn bữa nay cứ vọng về!
- Nàng Hoa!
Trọng chồm dậy, cứ ngỡ cô gái tên Hoa đang đứng gần đâu đó, nên đảo mắt nhìn. Tuyệt nhiên không. Chỉ có cây rừng và gió rít từng cơn.
- Hay là...
Trọng đang nghĩ tới chuyện có thể cô gái chưa bị chết? Có thể lắm, bởi nếu chết thì lúc nãy anh đã thấy xác. Người ta còn phải đem xác đi thiêu kia mà!
- Đúng rồi!
Trọng lại nghĩ, có thể lúc anh tới thì đã quá trễ, có thể họ đã đưa xác nàng Hoa đi đến giàn hỏa. Vừa lúc ấy, Trọng nhìn thấy một cột khói khá gần.
- Trời ơi, trễ rồi!
Bất kể hiểm nguy, Trọng cứ theo hướng cột khói mà lao tới. Anh chàng có thể bị mất mạng bởi bẫy chông người dân bản bẫy thú dữ, nhưng cũng may, sau hơn nửa giờ Trọng đã tới gần chỗ cột khói đang bốc lên.
Nhưng một lần nữa, Trọng bị trễ. Cột khói vừa tàn, ông thầy mo và bốn năm người đàn ông đang gom nhặt những gì còn lại sau đám cháy, cho vào một cái hũ.
- Tro cốt của nàng Hoa!
Trọng định lao tới cướp lấy, nhưng kịp nghĩ lại, nếu xuất hiện lúc này sẽ biến thành mồi ngon của bọn người kia thôi. Anh cố nén, trốn kỹ vào bụi rậm.
Bọn người kia sau khi gom đủ những mảnh vụn, họ dùng một chiếc khăn đỏ bịt kín miệng hũ lại rồi đem đặt ở mộ đá rất gần với chỗ Trọng nấp. Chúng chỉ trỏ và nói với nhau bằng thổ ngữ, Trọng không rõ, nhưng cũng có thể đoán được là chúng chờ cho mặt trời xế bóng thì đem trở lại hồ để “hóa sinh”.
Đúng là dịp may trời cho! Trọng nín thở, chờ cho hai tên nọ quay đi hơi xa, bèn nhoài người lên ôm gọn chiếc hũ vào lòng, bò đi một đoạn rồi chạy thật nhanh.
Lúc nãy trên đường tới đây Trọng đi phải mất cả giờ, nhưng khi chạy về anh chỉ cần nửa tiếng. Lúc thấy bóng Trọng ngoài ngõ, cả nhà reo lên:
- Trọng!
Ông Phan Hiếu nói vui:
- Tui nói rồi mà, cậu này đâu có sao!
Bà Diệp mừng quá mắng yêu con:
- Thằng quỷ, làm mọi người hết hồn!
Trọng không quan tâm tới ai hết, chỉ khư khư giữ chiếc hũ, lúc này ông Diệp mới để ý:
- Cái gì vậy con?
Trọng không đáp mà đi thẳng vào phòng riêng. Phan Hiếu thì hiểu chuyện, nói khẽ với ông chủ:
- Cái hũ đó người ta đựng tro cốt của người chết. Có thể là của con A Hoa!
Nghe vậy, bà Diệp ré lên:
- Trời ơi, mày điên rồi sao Trọng!
Trọng không đáp lại, rút mãi trong phòng. Lát sau anh bước ra, vẫn ôm chặt chiếc hũ:
- Ba cho con về ngay Sài Gòn!
Hình như đoán được ý của Trọng, ông Phan Hiếu chen vào nói:
- Có phải cậu đánh cắp tro cốt của A Hoa không? Có ai đuổi theo cậu về đây không?
Trọng lắc đầu chứ không nói, Phan Hiếu hạ thấp giọng:
- Nếu không ai đuổi theo thì cậu đừng sợ. Cậu ở trong nhà này cũng an toàn như về Sài Gòn vậy.
Ông Diệp thấy con có vẻ căng thẳng, nên bước tới trấn an:
- Ba đã hiểu chuyện của con rồi. Giữa con và cô gái ấy có thần giao cách cảm nên mới khiến cho hai người chưa hề quen biết nhau, lại ở xa ba bốn trăm dặm báo mộng cho nhau như vậy. Và bây giờ chuyện đã dĩ lỡ rồi, cô gái ấy vì con mà bị chết thảm. Vậy con cần làm cái gì đó để vong linh cô ấy đỡ khổ chốn suối vàng?
Nghe cha hỏi Trọng cảm động. Anh gục đầu vào vai cha khóc nức nở:
- Con có tội cha à! Nếu con tới sớm hơn một chút thì nàng đâu ra nông nỗi này.
Phan Hiếu cũng nói:
- Người ta mới xử A Hoa hồi sáng sớm nay. Nếu hôm qua cậu Út này tới thì mọi sự đã khác.
Ngọc Lan đứng gần đó nói chen vào:
- Xuất hiện sớm thì họ giết luôn chớ khác gì!
Phan Hiếu giải thích:
- Phong tục ở đây nếu chàng trai mà A Hoa mơ thấy xuất hiện kịp thời thì họ sẽ không bắt tội, mà trái lại còn tác hợp cho hai người nữa!
Ngọc Lan cười phá lên:
- Không lẽ cưới con nhỏ người thiểu số đó về làm dâu!
Trọng trừng mắt nhìn chị mình:
- Tôi cấm không cho chị nói cô ấy bằng giọng đó! Còn một lần nữa là hết tình chị em đó!
Không ngờ Trọng phản ứng dữ quá, Lan hơi sượng. Ông Diệp phải lên tiếng:
- Con Lan đừng can thiệp chuyện của em. Để đó ba giải quyết.
Bà Diệp thấy Trọng như vậy cũng không còn lớn tiếng như lúc nãy, mà chỉ nói riêng với chồng:
- Ông tính sao, chớ ai lại để nó giữ cái... cái của nợ đó trong nhà.
Bà nói rất khẽ, không ngờ Trọng cũng nghe được:
- Nếu gọi đây là của nợ thì con trai ba má sẽ đưa của nợ này đi liền bây giờ!
Ông Diệp phải gắt lên:
- Tôi bảo không ai được xía vào chuyện của thằng Trọng hết.
Khi mọi người đã im lặng, lúc này ông Diệp mới kéo con trai lại gần rồi ôn tồn hỏi:
- Con thuật rõ cho ba nghe coi, trong giấc mơ con thấy gì?
Trọng chừng như cần tuôn ra những điều còn giấu trong lòng:
- Con nghe có những âm thanh kỳ lạ lắm trong giấc ngủ. Ban đầu con không phân biệt được là gì. Mãi đến khi tới đây rồi con mới hiểu được âm thanh đó là tiếng gió rừng rít từng cơn. Và chen vào đó là tiếng khóc của người con gái. Con nghe đến như vậy mà vẫn không biết là nàng ở đâu và làm sao để tới được! Có phải tại con quá chậm trễ không ba?
Ông Diệp chép miệng:
- Cũng tại ba một phần. Phải chi chiều hôm qua ba không bận ký hợp đồng thì mình đã kịp lên tới đây từ tối hôm qua rồi.
Phan Hiếu vội nói:
- Nếu tối qua cậu Út có mặt thì còn kịp! Nghe nói suốt tối qua con A Hoa còn chạy ra rừng gọi tên Trọng ơi Trọng hỡi, cho đến khi bị thầy mo vây bắt, tội nghiệp con nhỏ nó khóc chết lên chết xuống. Nó thề là trong giấc mơ nó thấy, người con trai đó mà theo nó thì chính người ấy là duyên nợ của nó!
Lan không nhịn được, lại nói:
- Người ta đã nói như vậy rồi mà còn trị tội là sao? Đúng là hủ tục!
Ông Phan Hiếu thở dài:
- Người thiểu số còn nhiều hủ tục lắm. Đặc biệt là người con gái một khi bị nghi dính tới ma lai thì một là bỏ làng ra đi, hai là phải chết?
Ông Diệp ra dấu cho Lan không nói nữa, vừa kéo Trọng trở vào phòng:
- Con cứ ở lại đây. Trong nhà mình, đất rừng thì không ai có thể làm gì được.
Trọng có vẻ yên tâm. Anh nhịn bữa cơm chiều, mặc dù đích thân bà Diệp dọn và mời gọi đến mấy lần. Cửa phòng đóng kín nên không ai có thể nhìn tận mắt Trọng trân trọng với cái hũ đựng tro cốt đến mức nào. Có ai nhìn thì Trọng chắc cũng không ngượng khi vẫn ôm chặt hũ tro cốt, kể cả khi đã ngủ say.
Đêm hôm đó trái với Trọng, ông Diệp lại là người mất ngủ. Ông không tài nào chợp mắt được, bởi vừa mơ màng thì ông lại nghe tiếng khóc của ai đó vọng lại từ bên ngoài.
Ông cứ lén nhìn từ cửa sổ mà không thấy gì ngoài bóng tối. Ông cũng không báo cho vợ biết, sợ bà lo lắng. Tuy nhiên sau đó thì cả nhà đều hay.
Bà Diệp bàn với chồng:
- Hay là ông để tôi đốt nhang van vái, chớ kiểu này tôi nghi là... oan hồn uổng tử chi đây!
Tuy nhiên, do nhà mới, lại ở vùng rừng núi nên tìm hoài cũng không có nhang đèn. Ông Diệp đành phải nói:
- Mình cứ khấn nguyện là được rồi.
Ngọc Lan là người không tin chuyện ma quỷ, nhưng sau khi nghe tiếng khóc một lúc cũng phải nói:
- Tiếng khóc này là của phụ nữ. Hay là...
Ý nghĩ của cô trùng khớp với mẹ, nên hai mẹ con cùng hốt hoảng:
- Nàng... Nàng Hoa!
Không ai bảo ai, họ nghe lạnh khắp người và cùng ôm nhau rút vào một góc.
Hai năm sau...
Nỗi buồn lớn nhất của vợ chồng ông Diệp là tình trạng của Trọng. Kể từ khi xảy ra vụ “nàng Hoa” thì anh chàng như cái bóng của chính mình. Suốt ngày rút trong phòng riêng, cắt hết mọi giao tiếp với bạn bè.
Trọng là người con trai duy nhất trong nhà, tuổi cũng đã gần ba mươi, nên tình hình đó lại càng làm cho ông bà Diệp lo lắng, bồn chồn. Cơ ngơi của họ rồi lấy ai cáng đáng, bởi ông Diệp đã bắt đầu có dấu hiệu bệnh hoạn, chậm chạp. Mộng ước duy nhất của ông về cậu con trai hầu như chỉ còn là sự thất vọng.
Hôm nay, cũng giống như mọi ngày từ hai năm nay, ông Diệp lặng lẽ ngồi ở trường kỷ, nhâm nhi chén trà sen mà buồn cho gia thế. Chợt có tiếng dép lê tới gần một cách hấp tấp, rồi giọng phấn khởi của bà vợ:
- Có chuyện này hay lắm ông ơi!
Không buồn nhìn lên, giọng ông đầy chán nản:
- Có gì đâu mà hay…
Bà Diệp ngồi xuống, giọng sôi nổi:
- Cưới vợ cho thằng Trọng đi ông!
Buông tràng cười đầy chua chát, ông Diệp lúc này mới ngẩng lên:
- Bà ấm đầu hay nằm mơ vậy?
Bà Diệp vẫn với giọng lạc quan:
- Tôi mới được mách mối này hay lắm, mà tôi tin thằng Trọng nhà mình sẽ không thể chê được!
Bà chỉ cho chồng xem tấm ảnh cô gái có gương mặt thùy mị, nhan sắc mặn mà trong tờ lịch treo trên tường:
- Giống y con nhỏ này nè! Mà lạ quá, sao lại có hai người trùng tên nhau?
- Tên gì?
- A Hoa! Đúng như cái tên của con nhỏ mà thằng Trọng đam mê, tơ tưởng.
Bây giờ ông Diệp mới thật sự chú ý. Nhìn ảnh cô gái, ông phải nhận là đẹp và vừa ý. Tuy nhiên, ông vẫn nói:
- Nếu là người thiểu số thì việc trùng tên là chuyện thường. A Hoa, A Lan, A Miện là cái tên phổ biến của bản làng người thượng.
Bà Diệp không chịu thua:
- Nếu chỉ có vậy thì tôi đâu có nói làm gì. Có chuyện này hay lắm...
Bà lại hạ thấp giọng hơn:
- Nó đang ở đây nè!
Ông Diệp giật mình:
- Ở đây là ở đâu?
Bà chỉ tay ra phía trước nhà:
- Ngay ở cửa nhà mình!
Ông Diệp như người trên trời rớt xuống:
- Bà nói chuyện gì tôi không hiểu?
- Thì ông ra ngoài này xem sẽ biết.
Bà nắm tay ông dẫn ra ngoài. Ngay ở tường rào cổng nhà ông có vợ chồng người thiểu số và một cô con gái tuổi đôi mươi đang ngồi bán các loại lá, cây thuốc và một số sản phẩm của vùng rừng núi. Bà Diệp nói:
- Con nhỏ con gái đó tên là A Hoa. Lúc nãy tôi hỏi và nghe nó trả lời tôi giật mình! Tôi cứ tưởng hồn con A Hoa, nàng Hoa gì đó của thằng Trọng hiện về chớ!
Ông Diệp lén nhìn kỹ cô gái ăn mặc quần áo người Thượng ngồi ngoài kia và phải tấm tấc khen:
- Sao lại có đứa con gái Thượng đẹp còn hơn cả người Kinh nữa!
Bà Diệp nói khẽ hơn:
- Để tôi ra kêu nó vào nhà, mình hỏi chuyện nó xem.
Bà bước ra và bỏ tiền mua một lúc hết cả đống cây cỏ và cả mấy cái răng nanh heo rừng nữa. Bà nói gì đó với hai vợ chồng người Thượng mà đứng bên trong ông Diệp không nghe rõ.
Lát sau, ông ngạc nhiên khi thấy họ cùng bước vào nhà. Bà hí hửng khoe:
- Họ chịu vào nhà nói chuyện rồi ông!
Khi ngồi ghế rồi, người đàn ông thượng mới lên tiếng giọng Kinh tuy lơ lớ nhưng khá rành:
- Tui ở Madagui xuống đây hoài để bán thuốc. Bữa nay có dẫn theo con nhỏ này, nó ở chung bản, có bụng muốn kiếm chỗ làm. Nhà nghèo quá mà. Thấy nhà ông bà lớn quá, có cần người làm không?
Bà Diệp mừng quá không nén được:
- Có! Có!
Ông Diệp ra dấu bằng mắt cho bà, rồi ôn tồn hỏi:
- Cô này biết nói tiếng Kinh không?
- Biết. Biết nhiều nữa! Nó từng đi làm đồn điền ở trên đó mấy năm rồi! Nói chuyện đi A Hoa.
Cô gái bấy giờ mới lên tiếng:
- Cháu từng đi làm ở đồn điền trà. Cháu biết nhiều tiếng Kinh. Cháu cũng thích người Kinh nữa.
Bà Diệp chen lời:
- Cha mẹ, nhà của cháu ở đâu?
- Dạ, ở Madagui. Mà chết hết rồi.
Người đàn ông Thượng nói vào:
- Nó mất cha mẹ hồi ba tuổi, khi đó người bản tôi vớt được nó trên một bè chuối trôi theo dòng suối. Người ta nói nó ra đời bởi mẹ nó quan hệ với ma lai, nên người ta xử mẹ nó, rồi thả nó trôi sông cho chết luôn! Nhưng nó còn sống nhăn tới bây giờ, có phải là ma gì đâu!
Ông Diệp ngẩn người ra:
- Sao lại trùng khớp như vậy?
Người đàn ông Thượng không hiểu, hỏi lại:
- Trùng khớp gì?
- Ý tôi muốn nói là... sao người Thượng thường xảy ra chuyện ma lai gì đó quá. Có thật không?
Người đàn ông thật thà đáp:
- Có. Nhưng đâu phải cái nào cũng đúng. Như con nhỏ này, tui nuôi nó từ nhỏ tới giờ, đâu có gì là ma đâu? Nó là đứa giỏi làm, ngoan ngoãn nữa. Ai mà được nó làm cho là được ông trời thương đó!
Hài lòng về cô gái, nhưng nghe dính tới ma quỷ thì ông Diệp lại ngại:
- Nhưng mà...
Trái lại, bà thì quyết ngay:
- Thôi được. Tụi tôi sẽ nhận cho con nhỏ ở đây làm, với điều kiện anh và vợ phải viết giấy cam kết.
Người đàn ông cười trơ ra hàng nướu răng:
- Tui đâu có biết chữ Kinh. Tôi chỉ biết thề thôi!
Ông Diệp thấy vợ thích thì cũng chiều, ông nói:
- Vậy tôi sẽ viết và đọc lại, hai vợ chồng nếu thuận thì lăn tay vào.
- Được! Được!
Cô gái xen vào:
- Con biết tiếng Kinh. Để con viết rồi ba má con lăn tay.
Thủ tục làm xong ngay sau đó. Cô gái đọc lại cho cha mẹ mình nghe rồi ký tên trước một bên. Ông Diệp đi lấy hộp mực đóng dấu cho vợ chồng người Thượng lăn tay vào.
Xong, bà Diệp phấn khởi lắm:
- Nó đã được ở đây rồi, mỗi lần ông bà xuống bán thuốc có thể ghé thăm nó.
Khi mọi việc xong xuôi, tiễn khách về, lúc quay vào ông bà Diệp ngây người kinh ngạc khi thấy Trọng đã xuất hiện từ lúc nào rồi và đang đứng nhìn đắm đuối cô gái thiểu số!
- Kìa, Trọng...
Bà Diệp kêu lên, nhưng Trọng hầu như không nghe, cứ dán mắt vào người trước mặt. Cô gái tên A Hoa cũng lạ, cứ nhìn sững Trọng rồi đờ ra.
- Trọng, con sao vậy?
- Cô gái này?
- Đây là người từ nay sẽ ở lại nhà mình! Cô ấy cũng là người thiểu số. Cũng có tên là...
Bà nói còn dang dở thì Trọng đã tiếp ngay:
- Tên là A Hoa!
Ông Diệp kinh ngạc:
- Sao con biết?
Trọng đưa tay chỉ vào phòng mình, nói:
- Vong linh của nàng Hoa mách cho con biết. Tối qua nàng đã về, dặn con sáng nay chuẩn bị để đón... vợ!
Cả hai ông bà đều ngơ ngác:
- Vợ? Ai là...
Trọng đưa tay chỉ cô gái:
- Đây.
Cô gái chỉ cúi đầu thẹn thùng chớ không phản đối gì. Trọng lại nói:
- Duyên nợ không phải tìm mà được. Tự nó sẽ tới. Nàng Hoa nói với con rồi.
Nhất nhất chuyện gì Trọng cũng đưa nàng Hoa ra. Nhưng thay vì phật ý như trước đây, ông bà Diệp lại đồng tình:
- Được rồi, nếu nàng ấy muốn thì con cứ làm theo.
Hình như hai ông bà được sự tác động siêu hình nào đó xúi giục, nên trong cách nói cũng khác đi.
Trọng thì vẫn say sưa nói theo ý của mình:
- Đêm qua con được vong linh của nàng Hoa đồng ý để con lấy vợ. Người con gái này có chung số phận như nàng, nên nàng cảm thông. Hoa nói nàng sẽ sống lại qua cô gái này.
Trọng nói xong, rất tự nhiên bước tới nắm tay cô gái:
- Ba má chấp thuận cho chúng con thành hôn. Như vậy là ba má cứu cả hai mạng người, con và nàng Hoa!
Từ chỗ kinh ngạc đến ngỡ ngàng, ông bà Diệp chỉ biết đưa mắt nhìn nhau. Rồi cuối cùng ông nói:
- Tùy con.
Nắm tay vợ bước về phòng riêng, lúc này ông mới bảo khẽ:
- Thôi, kệ tụi nó. Âu cũng là số trời.
Bà Diệp có vẻ âu lo, nhưng rồi cũng gật đầu:
- Cũng được.
Đám cưới của Trọng thật quá bất ngờ với mọi người. Ngay cả chị em trong nhà như Lan và Hậu cũng không thể ngờ. Lan hỏi chồng:
- Thằng Trọng tìm đâu ra một con nhỏ người Thượng như vậy?
Hậu lắc đầu:
- Ai mà biết. Mà phải công nhận số cậu Út hên thật!
- Hên cái gì?
Hậu hơi lúng túng:
- Thì... thì hên ở chỗ có... người con gái đẹp, một bông hoa rừng!
Lan nhéo chồng một cái đau điếng.
- Cấm từ nay không được khen gái trước mặt tui nghe chưa!
- Kỳ cục! Ai mà...
Từ ngày cưới vợ thì tính tình Trọng thay đổi hẳn. Không còn mơ mộng vẩn vơ nữa. Anh cũng chứng tỏ là một cậu con trai nối nghiệp có bản lĩnh: Mọi công việc được cha giao Trọng đều hoàn thành thật tốt.
Cô gái tên A Hoa cũng hòa nhập thật hoàn hảo với nhà chồng. Ăn ở thảo kính với cha mẹ chồng, đối xử khéo léo với chị em chồng trong nhà, nên ai nấy đều yêu mến.
Lạ một điều nữa mà ít người biết: Thường ngày, trong những lúc riêng tư với nhau, Trọng thường gọi vợ bằng... nàng Hoa! Và cô nàng cũng dạ thưa ngọt xớt!
Duyên tiền định chăng?


KIẾP PHÙ DUNG


Vốn thích ăn xôi nếp vào mỗi sáng, nên kể cả lúc còn đi làm chức trưởng phòng một sở ở tỉnh lỵ, ông Quan cũng chỉ thích mỗi sáng ngồi ăn xôi nóng muối mè cùng với vợ trước khi đi làm. Nay đã về hưu, ông Quan lại càng có thì giờ ngồi điểm tâm với bà vợ vốn chăm chỉ, hiền lành và khéo tay nội trợ.
Sáng hôm đó, lúc đang ăn thì ông nheo mắt hỏi vợ:
- Mới sáng sớm mà có ai tới nhà mình vậy? Mà là một cô gái nữa. Coi tướng đi quen quen... con nhà ai coi đẹp và sang quá!
Lời ông nói chưa dứt thì bà vợ đã phá lên cười:
- Thánh thần thiên địa ơi, coi ổng kìa! Con gái ổng mà ổng khen cô nào đẹp quá trời!
Lúc này cô gái cũng vừa bước tới, cô cất tiếng hỏi:
- Ba má nói gì con vậy?
Ông Quan ngớ người ra:
- Ủa, con Dung hả? Trời đất ơi...
Bà Quan vẫn còn ôm bụng cười:
- Mày coi đó Dung, ba mày tưởng là cô nào tới tìm nên ngẩn ngơ, khen đẹp!
Dung thẹn đỏ mặt:
- Ba má chọc con hoài!
Bà Quan nhìn con gái rồi cũng tấm tắc:
- Mà ba mày lầm cũng phải. Mày bận đồ mới này có khác gì tiểu thư đâu!
Ông Quan lâu nay ít quan tâm tới con cái, nay sau khi nhìn kỹ lại Dung, ông phải tắc lưỡi:
- Con nhỏ trổ mã rồi!
Quả nhiên với tuổi mười sáu, nhưng Ngọc Dung lại phát triển, nở nang như mười tám, đôi mươi. Mà đặc biệt gương mặt đẹp như vầng trăng, nước da trắng ngần như trứng gà bóc, khó ai có thể nghĩ Dung là con nhà bình dân.
Ngọc Dung thấy cha mẹ quan tâm, cô phải giải thích:
- Bên cô Chín mời con qua phụ dâu giùm cho con Lý đi lấy chồng. Bộ đồ này má mua cho từ hôm Tết mà con đâu có mặc, tới hôm nay sợ chật nên mới...
Bà Quan xoa đầu con:
- Con mặc đẹp thì tốt chớ sao. Chỉ bởi con đẹp quá ba má không ngờ.
Dung lại thẹn thùng:
- Má chọc con hoài!
Nói xong cô ù té chạy vào trong nhà. Nhìn theo con, bỗng ông Quan thở dài:
- Thấy con gái mình mau lớn, lại quá đẹp mà tôi phát lo.
Bà hình như cũng có ý nghĩ như chồng nên phụ họa:
- Nhan sắc nó phát tiết sớm quá, tôi cũng lo. Ở xứ này đâu có đứa con gái đẹp nào mà được yên ổn đâu!
Lời bà như một tiếng than, nên ông cũng lo lắng:
- Nào giờ cứ ngỡ con nó còn nhỏ nên mình không để ý. Vả lại con nhỏ có chịu ăn diện với ai đâu, bây giờ phát hiện nhan sắc của nó, tôi thêm lo.
Trầm ngâm một lúc, chợt ông nói:
- Bà vào nói con Dung không được đi đám cưới bên đó. Nhất là không được làm phù dâu!
Bà chưa hiểu ý nên hỏi lại:
- Sao vậy ông?
Ông Quan hạ thấp giọng:
- Cái nhan sắc đó mà đem khoe ra thì có nước đút mồi cho sói dữ thôi! Bà không nhớ cánh bên Chín Hường toàn là dân làm quan làm tá tướng. Những người đang có quyền thế và... hung hiểm nổi tiếng à!
Bà vẫn vô tư:
- Là chỗ bà con, họ hung ác hay làm gì đó là với người ngoài, chớ với mình thì...
Ông cắt ngang:
- Tôi nói không cho đi!
Vốn ngán tính nóng như lửa của chồng, nên bà Quan đành ngồi im. Hồi lâu bà mới nhẹ bước vào phòng riêng của con gái. Bà sững người khi không còn thấy Ngọc Dung trong phòng. Nhìn bóng mặt trời, bà hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ngọc Dung có lẽ nghe rõ lời cha, nên đã lặng lẽ trốn khỏi nhà.
Bà Quan than thầm:
- Rồi đây rắc rối cho coi!
Chưa hình dung được chuyện gì, nhưng những lời của chồng vừa rồi bà nghĩ là không sai. Và lại càng đúng hơn khi hình dung lại nhan sắc của con gái mình mà xuất hiện giữa lũ người kia thì khác nào con cừu lạc giữa bầy sói dữ!
***
Điều lo sợ của vợ chồng ông Quan đã tới nhanh hơn là họ nghĩ. Một tuần sau…
Khi vừa bước từ nhà ra sân định chăm sóc mấy cây kiểng thì ông Quan chợt nghe có tiếng đằng hắng. Ngẩng nhìn lên, ông kinh ngạc không thể ngờ được trước mặt ông là ngài quận trưởng Hoàng Quy!
- Dạ… dạ thưa ngài…
Thấy điệu bộ lúng túng của ông, ngài quận trưởng lên tiếng ngay:
- Chào ông chủ sự. Không ngờ ông chủ sự cũng có vườn kiểng nhiều và đẹp còn hơn vườn nhà tôi nữa!
Ông Quan càng lúng túng hơn:
- Dạ, đâu dám. Sao bì được vườn kiểng quý của nhà ngài. Chẳng hay hôm nay rồng đến nhà tôm có việc gì dạy bảo? Thật là không phải, do không biết trước nên không kịp ra nghênh đón. Xin ngài thứ lỗi cho.
Quận trưởng cười lớn:
- Quả thật không hổ danh hổ phụ sinh hổ tử. Hổ tử ở đây tuy không có tài ăn nói khéo bậc nhất huyện này, nhưng lại có ưu điểm vượt trội khác!
Chưa hiểu ý ông ta nói gì thì đã nghe tiếp:
- Cha hay chữ đẻ con nhan sắc, thật là quý vô song!
Ông Quan giật mình! Cái gì có nhan sắc ở đây?
- Thưa ngài…
Quận trưởng vỗ vai chủ nhà, kéo vô nhà:
- Bữa nay thật ra tôi cũng không rảnh để đi thăm viếng. Chẳng qua là có chuyện này...
Rồi ông ta hạ thấp giọng:
- Mỹ nhân đâu rồi?
- Mỹ nhân nào?
Thấy ông Quan ngơ ngác, quận Quy cười khành khạch:
- Giỏi giấu lắm ông Quan! Cái tội lớn của ông là ở chỗ này. Nếu ông không giấu như mèo giấu cứt thì đâu đến nỗi bông hoa thơm tho này lọt vào tay người ở xa dữ vậy!
Rồi để cho chủ nhà hiểu nhanh hơn, quận Quy búng hai ngón tay vào nhau, bảo:
- Gọi con gái rượu Ngọc Dung của ông ra đây!
Đến lúc này thì ông Quan đã hiểu lờ mờ. Ông vờ hỏi lại:
- Quan hỏi con gái nhỏ của vợ chồng tui để làm gì?
Quận Quy phá ra cười:
- Bậy, lớn rồi còn nhỏ nỗi gì! Tui thấy mà còn mê nữa là...
Ông ta ngừng ngay câu nói, có lẽ thấy lời mình lộ liễu quá. Nhưng ngay sau đó thì tiếp ngay:
- Ông có bông hoa quý mà cứ giấu kỹ, uổng quá! Nhưng mà không sao, dẫu gì đi nữa không dưới thì trên.
Những câu nói lấp lửng đó càng khiến ông Quan thêm sốt ruột, khó chịu, nhưng sợ cái uy của quận trưởng nên ông nhẹ giọng hỏi lại:
- Ngài nói con gái tôi mà chẳng hay nó có đắc tội gì không? Tôi xin nghe ngài dạy bảo.
Giọng quận Quy trở nên dứt khoát:
- Chưa đắc tội gì. Nhưng nếu ông lắc đầu một cái thì chắc chắn là nó có tội!
- Thưa ngài...
Lão ta giở giọng ân nghĩa:
- Nào giờ tôi chỉ có giúp ông thôi, chứ chưa nhờ việc gì. Hôm nay thì vừa nhờ vừa ra lệnh. Ông kêu cô Ngọc Dung ra đây!
Mặc dù biết Dung ở nhà trong, nhưng ông Quan vẫn nói trớ đi:
- Con gái tôi sáng sớm có việc đem đồ ra nhà ngoại nó, chiều mới về.
Quận Quy quắc mắt:
- Ông đùa với tôi phải không? Lúc nãy trước khi vào đây tôi đã đứng ngoài cổng cả buổi, có thấy đứa nào ra khỏi nhà đâu. Mà cho dù nó có đi đâu thì ông phải cho người đi kêu về ngay. Tôi cần gặp!
Nghe tiếng ồn ở nhà trước, bà Quan bước ra thì khựng lại khi thấy bóng quận Quy. Bà ấp úng:
- Dạ... dạ chào quan quận.
Quận Quy quắc mắt:
- Bà vào dẫn cô con gái bữa trước ra đây mau!
- Dạ... dạ...
Thấy bà lúng túng, quận Quy càng hét lớn:
- Hai vợ chồng đều giấu giếm! Giấu đầu lòi đuôi thì có!
Ông ta còn định nặng lời hơn thì Ngọc Dung xuất hiện từ ngoài cửa đi vào:
- Dạ chào quận trưởng... Sao ngài không tin lời người ngài hỏi? Con đi công chuyện cũng may là về kịp.
Quận Quy có vẻ sượng, nhưng ông ta vẫn giọng kẻ cả:
- Con nhỏ đó vào đây!
Ngọc Dung ăn mặc lam lũ như thường khi ở nhà, nhưng nhan sắc của cô gái mười sáu này quả là như đóa hàm tiếu, khó thể che mắt được ai, dù nấp dưới bộ cánh nào. Ông Quan thoáng nghĩ và biết ngay là tai họa khó mà thoát cho được!
Ngọc Dung đến đứng sau lưng mẹ như sẵn sàng chờ đợi. Quận Quy hất hàm:
- Ngồi xuống đó!
Dung tỏ ra bản lĩnh:
- Dạ, ngài tha tội cho. Nhà con xưa nay ba má con có dạy, trong lúc ba má ngồi tiếp khách thì con cái không được ngồi ngang hàng.
- Nhưng tao... ta bảo...
- Không lẽ quan quận bảo con làm chuyện vô lễ sao?
Bị bắt bí, nên quận Quy hầm hừ:
- Hừm! Thôi kệ... kệ mày!
Thừa lúc lão ta đang lúng túng, bà Quan hỏi khẽ con:
- Lúc nãy má còn thấy con ở nhà bếp mà?
- Dạ, con đi vòng cửa rào phía sau, thì con nghe ba má nói con đi công chuyện sớm mà!
Quận Quy không để cho họ có cơ hội nói chuyện:
- Bây giờ đã có đủ mặt rồi, nghe tôi nói đây. Cô Ngọc Dung này mau chuẩn bị để mười hai giờ trưa nay cùng đi với tôi lên tỉnh, quan đầu tỉnh có lệnh triệu tập hết thảy con gái tuổi mười sáu trở lên ra tỉnh để tham dự hội chợ. Không ai được từ chối!
Ông Quan hốt hoảng:
- Con gái tôi còn nhỏ, từ nào đến giờ chưa từng xa nhà. Nó làm sao đi một mình được!
Quận Quy móc trong túi ra tờ giấy có đóng dấu ký tên, gí vào mặt chủ nhà hỏi lớn:
- Ông có thấy chữ ký và con dấu của cơ quan đầu tỉnh không? Ông muốn cãi phải không? Hay là ông muốn tôi kêu xe bít bùng tới chở ông cùng đi!
Biết xe bít bùng là xe chở tù, nên bà Quan kêu lên:
- Đừng! Nhà tôi đâu làm nên tội gì...
Ngọc Dung vội lên tiếng:
- Đã là triệu tập thì phải từ từ để người ta lo và chuẩn bị đi chớ, đâu phải lệnh bắt đâu mà ngài hăm he quát nạt dữ vậy? Được rồi, tôi sẽ đi.
Bà Quan chụp tay con:
- Kìa con! Sao con...
Dung tỉnh táo:
- Con biết rồi, bữa đám cưới bọn họ đã tính toán cả. Chẳng riêng mình con đâu, má đừng sợ.
Quận Quy đứng lên ra lệnh:
- Cô này theo tôi ngay!
Dung trợn mắt:
- Bây giờ mới bảy giờ sáng, mà mười hai giờ xe mới đi, tôi còn phải ở nhà sửa soạn đồ đạc đã, miễn sao đến giờ đó tôi có mặt trước dinh quận là được rồi!
- Không được, lỡ tụi bay trốn hết thì sao?
Ông ta định bước tới kéo tay Dung, nhưng cô bé đã khôn ngoan lách qua chỗ của cha và nghiêm giọng:
- Nếu ngài bắt ép quá đáng thì tôi sẽ la làng lên cho mọi người tới để chứng kiến cảnh ngài định cưỡng bức tôi, rồi sau đó tôi cắn lưỡi tự tử cho ngài coi!
Quan Quy hơi chột dạ, nhưng vốn là người nham hiểm, nhiều thủ đoạn, nên nhất thời ông ta dịu giọng:
- Thôi, cũng được.
Ông ta bước ra ngoài nói gì đó với vài tên bộ hạ và đi thẳng ra xe về mà không căn dặn gì thêm. Vợ chồng ông Quan và Ngọc Dung biết lão ta còn giở thủ đoạn nữa, nhưng chưa biết là gì nên chỉ ngồi ôm nhau mà khóc…
Ông Quan giận lắm, chuyện Dung cãi lời đi dự đám cưới để rồi bị bọn quan nha nhìn thấy và nảy ý đồ đen tối. Nếu bình thường thì ông đã rầy, thậm chí đánh đòn nữa. Nhưng nay trong tình cảnh này ông chỉ thở dài, rồi bàn tính chuyện cứu vãn tình thế...
Ngọc Dung đã sa bẫy mà không ngờ. Sau khi quận Quy về rồi Dung bàn tính kỹ với cha mẹ, một mình lẻn ra cổng sau với ý định đi sang nhà bà ngoại ở cách đó hơn chục cây số, rồi từ đó sẽ liệu đường trốn đi. Bởi ông Quan đã quyết rằng nếu nghe lời quận Quy thì khó lòng thoát khỏi móng vuốt của tên quan đầu tỉnh tây lai rất háo sắc. Đã bao nhiêu gái tân được triệu tập đi như vậy, mà có cô nào về an lành đâu!
Nhưng khi Dung vừa bước ra khỏi cổng sau thì đã bị ngay mấy tên lính bảo an to như hộ pháp chụp bao bố lên đầu, rồi đẩy lên xe bít bùng đậu sẵn, chở ngay về dinh quận.
Lúc tỉnh lại thì Dung đã thấy mình ngồi trên xe bị phủ kín, cách ly với bên ngoài. Cùng với Dung còn có bốn năm cô khác cũng trạc tuổi cô. Họ chỉ biết ôm nhau khóc chớ còn biết làm gì hơn...
Quả đúng như lo sợ của họ. Khi đến tỉnh lỵ, cả năm cô gái tội nghiệp bị nhốt cách ly mỗi người một nơi. Họ không hề được cho đi làm tiếp tân hội chợ như lời hứa của quận Quy gì cả. Suốt ngày hôm đó, họ chỉ được ăn cơm tại phòng riêng, gần nửa đêm thì có người tới đưa cho mỗi cô một tờ giấy ghi toàn bằng chữ Pháp và buộc phải ký tên vào, Viên thông ngôn giải thích:
- Đây là bản cam kết làm việc cho ngài tỉnh trưởng. Các cô ký tên xong thì được tự do. Làm việc có ăn lương, được cho chỗ ở, cấp cho quần áo đẹp. Sướng quá rồi, còn gì hơn!
Riêng Ngọc Dung thì không chịu ký. Cô lồng lên:
- Thả tôi ra ngay, nếu không tôi cắn lưỡi chết liền cho mấy người coi!
Viên thông ngôn nghĩ là Dung chỉ cứng đầu nói bừa, nên thách thức:
- Cô giỏi thì cứ làm, ởđây chưa ai dám cãi lại mệnh lệnh cả!
Nói xong, anh ta đặt tờ giấy cùng cây bút ở đó, vừa đe dọa:
- Khi tôi trở lại thì tờ giấy phải được ký xong!
Anh ta đi rồi nên không nghe được tiếng gào khóc dữ dội của Ngọc Dung. Và anh ta cũng đâu có ngờ, tuy gái nhà quê, nhưng Ngọc Dung vốn là con của ông Quan một chủ sự phòng làm việc cho Tây nhiều năm, tiếng Pháp rất khá, vả lại bản thân Dung còn được học tiếng Pháp ngay từ tiểu học, nên khi tốt nghiệp cô đã có thể đọc và hiểu được nội dung tờ giấy mà tên thông ngôn để lại. Đó chỉ là tờ giấy thuận tình làm nhân viên phục vụ mua vui cho một câu lạc bộ giải trí cho lính Pháp. Đó là một hình thức ngụy trang của một loại hình bán dâm cho lính viễn chinh Pháp!
Dung đã xé nát tờ giấy đó và đóng chặt cửa phòng, khóa lại bên trong. Cô tuy nhỏ, nhưng lòng dạ thì sắt đá hơn người. Trong đầu cô vừa lóe lên một ý định táo bạo.
Trước khi thực hiện Dung đã xõa tóc, ngồi chắp tay lạy về hướng nhà mình nhiều lạy và khóc...
Nhận tin con chết chưa đầy một buổi thì bà Quan cũng trút hơi thở cuối cùng do suy tim cấp. Đúng ra Ngọc Dung đã chết trước đó cả nửa tháng, ngay đêm đầu tiên cô tới dinh tỉnh trưởng. Cô đã cắn lưỡi tự vẫn ngay trong phòng giam kín cửa. Nhưng bọn thuộc hạ của tên tỉnh trưởng phát hiện đã giấu nhẹm.
Mãi sau chúng mới truy tìm Dung chết khi cố tình ăn cắp đồ trong dinh, định leo tường trốn đi rồi bị ngã mà chết.
Sau hai tuần, chúng mới báo tin về nhà và còn de dọa vợ chồng ông Quan:
- Con gái mấy người làm chuyện gian trá đó, đúng ra cả hai người cũng bị tội, nhưng quan chủ tỉnh thương tình tha cho. Cấm không được khiếu nại, yêu sách gì.
Ngay lúc nhận được tin thì bà Quan đã ngã ra ngất xỉu. Và sau đó chưa đầy nửa ngày bà tắt thở luôn. Ông Quan thì như người mất trí, cứ ngồi một mình gào khóc, gọi tên vợ, tên con gái!
Thậm chí xác của Ngọc Dung còn không được đưa về nhà. Người ta nói:
- Do nạn nhân phạm tội, chết trong đồn binh Pháp, nên xác còn phải để lại đó, chờ quyết định sau. Mà cũng có thể sẽ cho mai táng trong nghĩa địa công cộng được chỉ định.
Hai tháng sau thì ông Quan cũng lâm trọng bệnh rồi qua đời. Do không có đứa con nào ngoài Ngọc Dung, nên một người họ hàng của ông đứng ra cai quản ngôi nhà. Rồi theo lời trăng trối của ông, người bà con đem căn nhà bán đi, một phần tiền phân chia cho thân nhân, phần còn lại đem cúng chùa.
Thế là chỉ trong tích tắc, một gia đình đang bình yên bỗng bị xóa sổ!
Treo bảng bán nhà được hai ngày thì có một thanh niên lạ mặt đến hỏi. Chú Tám, em họ ông Quan tiếp khách và hết sức ngạc nhiên khi nghe thanh niên hỏi:
- Đây có phải là nhà của cô Ngọc Dung?
Tám Tân hỏi:
- Anh là gì của Ngọc Dung?
Chàng trai có vẻ thật thà:
- Dạ, cháu chưa quen cô Ngọc Dung, nhưng tình cờ cháu nằm mơ thấy cô ấy nên cháu muốn gặp.
Cha mẹ của chàng trai đi cùng đã lên tiếng giải thích:
- Thằng con tôi vốn bị câm bẩm sinh từ nhỏ, bỗng nhiên ba hôm trước nó phát lên nói được! Người đầu tiên được nó gọi chẳng phải là ba nó hay tôi, mà là cô Ngọc Dung nào đó! Rồi nó hối thúc vợ chồng tôi tới đây liền, nói Ngọc Dung chính là vợ của nó! Chúng tôi phải hỏi thăm đường khá lâu mới tới được đây…
Tám Tân buồn bã lắc đầu:
- Đúng đây là nhà Ngọc Dung. Nhưng cháu tôi đâu còn nữa mà tìm.
Chàng trai vẫn tỉnh khô, nói với cha mẹ mình:
- Nhân nhà này bán, mình mua luôn đi.
Khi mua xong nhà, chàng trai thắp nhang lên bàn thờ với ảnh chân dung của Ngọc Dung do Tám Tân tặng lại, và khấn rất chân thành:
- Anh tới đây tìm em mà không gặp, nhưng anh vẫn tin chắc là thế nào cũng gặp được em.
Bà mẹ anh can:
- Thôi con à, bây giờ con đã hết bệnh rồi, muốn lấy vợ thì để ba má kiếm cho, thiếu gì.
Chàng trai gay gắt:
- Má còn nói vậy thì con tức mà trở bệnh, hết nói được bây giờ. Con chỉ có mỗi Ngọc Dung là vợ thôi!
Rồi anh dịu giọng phân trần, để mẹ anh an tâm:
- Thời gian con bệnh như sống trong thế giới khác. Thế rồi tình cờ con gặp được nàng, chính nàng đã cứu con. Như vậy làm sao con có thể rời xa nàng được. Số con với nàng là do trời định, nên bây giờ có âm dương cách trở con cũng quyết ở đây cùng nàng.
Nghe con nói vậy, ông bà Hữu Châu đành nghe theo. Bà chỉ ngại:
- Xưa nay con chỉ ở nhà và được má lo cho, bây giờ ở riêng như vậy làm sao được? Con nên để má ở lại đây, được không Hữu Phước?
Hữu Phước là tên của chàng trai, chàng trấn an mẹ:
- Con đã ngót ba chục tuổi đầu rồi, có còn con nít nữa đâu, má đừng lo. Má còn phải lo cho ba và mấy đứa em nữa, ba má cứ về đi, khi nào ổn định thì con sẽ về báo tin vui cho ba má!
Ông Châu cười buồn:
- Ba má lo mất ăn mất ngủ chứ vui nỗi gì!
Phước lại phải trấn an:
- Ba đừng lo. Con bây giờ khác với thằng Phước câm, Phước khùng như trước đây rồi!
Ngôi nhà sau khi mua xong, thay vì phải sửa chữa như lệ thường khi đổi chủ, nhưng Phước vẫn giữ nguyên. Và ngạc nhiên hơn nữa là anh ta lại cho giữ nguyên bàn thờ ông bà Quan trong nhà. Anh giải thích với cha mẹ:
- Tuy chưa là con rể, nhưng con vẫn coi mình là người của gia đình này rồi, vậy con xin được phép thờ phụng ông bà ấy.
Chiều lòng con nên ông bà Châu ra về, lần đầu tiên để đứa con trai tật nguyền ở lại một mình. Nhưng trái với sự lo lắng của cha mẹ, Hữu Phước sống một mình trong ngôi nhà đó như sống ở chính nhà mình! Anh sinh hoạt hằng ngày một cách khá tự nhiên đến đỗi những người láng giềng có cảm giác anh chính là con rể của ông bà Quan, chứ không phải kẻ mua nhà.
Vào một buổi sáng, khi thấy có xe hơi của quận Quy ngừng trước cửa thì người hàng xóm hốt hoảng chạy sang gọi Phước:
- Nguy rồi cậu Phước ơi.
Phước đã nhìn thấy xe quan, nhưng anh vẫn tỉnh như không:
- Có gì mà phải sợ?
Người kia hạ thấp giọng:
- Lão ta là người đã bắt con Ngọc Dung đi ngày trước đó. Lão ác ôn khét tiếng xứ này!
Phước đứng chống nạnh, hất hàm về phía quận Quy bảo:
- Cần gì thì vào đây!
Quận Quy không còn vênh mặt hung hăng như mấy tháng trước, mà trái lại khi thấy mặt Phước thì dịu giọng ngay:
- Dạ, tôi... tôi là quận trưởng Quy. Tôi tới theo lệnh của… của…
Lão ta nói mà khúm núm như đang đứng trước cấp trên. Bà hàng xóm tròn xoe mắt nhìn, không tin vào mắt và tai mình nữa. Vừa khi ấy, Phước cất tiếng dõng dạc:
- Vào đây!
Đúng là trời đất sắp đảo lộn tới nơi rồi! Bà hàng xóm sợ quá tìm cách rút lui, bởi sợ lão quận nổi trận lôi đình. Nhưng trái với suy nghĩ của bà, quận Quy riu ríu bước vào sân, có cả hai tên lính hầu đi theo. Chúng đang khệ nệ khiêng vật gì đó...
- Đặt lên đây!
Phước ra lệnh cho đặt chiếc hộp gỗ sơn son thếp vàng lên bàn thờ có ảnh chân dung của Ngọc Dung. Hai tên lính răm rắp làm theo. Sau đó chúng lùi ra ngoài, không dám nhìn lại. Chỉ còn lại Phước và quận Quy. Phước nói như quát:
- Quỳ xuống!
Chuyện khó tin mà có thật. Quận Quy quỳ xuống trước hai bàn thờ. Mặt lão ta như không còn thần sắc! Và càng bất ngờ hơn, ngay sau đó lão ta dập đầu lạy một cách nghiêm túc và thành kính!
Phước thì đứng khoanh tay nhìn, như giám sát hành động đó. Lát sau, anh mới lên tiếng:
- Chưa xong đâu!
Lời của anh vừa dứt thì lập tức quận Quy đặt ngay bàn tay trái của hắn xuống nền nhà, tay kia lấy con dao thủ sẵn trong áo ra và nhanh như chớp, phập mạnh xuống!
Nguyên bàn tay của hắn đứt lìa, văng ra cả thước! Lão quận lúc đó bật ngửa ra đau đớn, nhưng không dám cất tiếng kêu!
Phước quay ra ngoài sân, quát lớn:
- Đưa nó về!
Hai tên lính hầu răm rắp tuân lời. Chúng kè tên quận trưởng ra xe và vù đi một nước, không dám nhìn lại! Lúc này Phước mới bước tới mở chiếc hộp gỗ trên bàn thờ ra. Trong đó đựng tro cốt của Ngọc Dung!
Một tuần sau, lại có xe hơi tới đậu trước cổng. Lần này có người hàng xóm khác nhận diện đó là xe của tên tỉnh trưởng!
Cũng hai tên lính hầu mang vào nhà một chiếc hộp gỗ. Chúng kính cẩn nói với Phước:
- Quan tôi trả nợ cho ngài!
Phước mở ngay hộp ra, trong đó có một lọ thủy tinh chứa đầy nước trong suốt, giữa lọ có một vật gì đó dài gần gang tay, giống hình quả chuối. Vừa trông thấy, Phước phá lên cười:
- Phải vậy chớ!
Khi hai tên lính trở ra rồi, Phước mới lấy một lọ thủy tinh khác đặt sẵn dưới gầm bàn thờ. Trong lọ có một bàn tay người tím tái!
Phước rất hài lòng. Anh khấn trước bàn thờ Ngọc Dung:
- Nợ anh đã đòi cho em rồi. Từ nay em có thể yên ổn ở cõi u linh đó. Mừng cho em!
Ngày hôm sau, cả tỉnh lỵ đều xôn xao trước tin quan đầu tỉnh bỗng dưng bị nạn. Mà tai nạn lại xảy ra đúng lúc ông ta đang ngủ mới lạ! Một tay thân tín tiết lộ bí mật:
- Nửa đêm, bỗng người nhà nghe lão ta thét lên một tiếng. Khi mọi người chạy vào thì thấy trên tay lão ta còn cầm con dao, mà hạ bộ thì đã bị cắt lìa! Chẳng ai biết nguyên nhân. Hỏi thì lão ta chỉ im lặng như sợ hãi điều gì đó...
Có một đạo sĩ lạ, xuất hiện trước cổng nhà của Hữu Phước. Ông ta nói vang vào trong:
- Như thế là đủ rồi. Oán thù nên mở chứ không nên buộc. Việc đã xong thì nhà này cũng nên trả lại cho họ.
Nói xong, lão biến đi rất nhanh.
Từ trong nhà Phước nhìn ra, im lặng không nói gì. Sau đó, anh bước tới ôm hũ tro cốt của Ngọc Dung rồi lặng lẽ rời khỏi nhà...
Phước trở về nhà cha mẹ ruột. Lần này anh lại trở thành một người khác: Sống khép kín, không nói gì với ai.
Mẹ anh hỏi nhiều điều về Ngọc Dung thì anh chỉ đáp gọn:
- Kiếp nàng như đóa phù dung. Sớm nở tối tàn. Con sẽ đợi ở kiếp khác...


CHUYỆN CON MA “TRƯỜNG NHŨ”


Từ chiều đến giờ, Tư Miên đã lai rai đến gần hai xị đế. Nếu ai biết tửu lượng của Miên thì biết là uống tới đó anh ta đã bắt đầu gục ngã. Nhưng lạ quá, bữa nay sao uống hoài Miên thấy càng uống càng tỉnh, và miệng như mỗi lúc một khát thêm cái vị cay xé lưỡi này.
- Cho xị nữa đi chị Tám.
Chị Tám Hà vốn có cảm tình với con người cô độc dễ thương này, nên có vẻ ái ngại:
- Uống nhiều quá rồi anh Tư. Hay là ăn tô mì cho chắc bụng đã?
Tư Miên cười nửa miệng:
- Cái bụng tôi bây giờ mà cho ba cái thứ đó vào nó làm sao thì biết bắt đền ai đây!
Tám Hà nheo mắt:
- Thiếu gì người muốn được bắt đền!
- Cho cái thằng tù không ra tù, tội không ra tội như tôi hả?
Tám Hà liếc dài:
- Anh cứ cái giọng đó hoài, bởi vậy ra tù đã gần ba năm rồi mà vẫn chưa chịu làm lại cuộc đời. Tù đày thì có gì đâu mà nhớ hoài vậy chớ!
Tư Miên chợt phá lên cười, tiếng cười rất khó hiểu. Rồi sau đó hạ thấp giọng:
- Không nhớ sao được khi một nửa cuộc đời mình đã gửi lại trong đó!
Cười xong anh lại bật khóc! Anh ta là như vậy đó, nếu không cười không biết đâu mà lường. Ở khu mỏ đá này ai mà không biết. Nhưng hôm nay thì lạ hơn. Sau khi cười và khóc thì anh ta lại nhìn chị chủ quán rồi đột ngột hỏi:
- Cô Tám có yêu bao giờ chưa?
Câu hỏi này đúng ra phải là: “Cô đang yêu ai vậy?” thì Tám Hà dễ trả lời hơn. Tuy vậy, cô vẫn đáp:
- Yêu thì có, nhưng có mấy ai hiểu mình đâu!
Giọng Tư Miên gay gắt:
- Sao lại không hiểu một người như Tám?
Tám Hà khuấy cà phê, ngẩng lên nhìn Tư Miên:
- Chính anh đó!
Câu nói Miên nghe trong lúc đầu óc đang say túy lúy, vậy mà anh vẫn kinh ngạc:
- Cô Tám nói... tui?
- Thì anh chớ ai! Bởi vậy, tối ngày cứ ôm chai rượu hoài thì còn biết tới ai nữa?
Có lẽ lâu lắm rồi Miên mới nghe được một người nói yêu mình, nên phải mất cả phút thẫn thờ, anh mới nói được:
- Có đáng gì cái thằng tôi mà yêu với đương. Tha cho tôi đi cô Tám ơi!
Bị chạm vào tự ái, Tám Hà ngừng hẳn công việc, bước tới kéo ghế ngồi ngay trước mặt Tư Miên:
- Tôi biết anh tên thật là Mến, nhưng bởi cái tính lang bang, liên miên, không đâu ra đâu nên mới chết danh với tên Tư Miên như ngày nay. Mà tui nói thật, nhằm nhò gì cái án tù ba năm của anh, chỉ bởi anh làm ăn bị bể hụi, người ta giật tiền anh, rồi anh mới giật nợ thiên hạ. Xấu xa gì cho cam!
Bất chợt, chị cầm tay Tư Miên siết mạnh:
- Về ở với em đi. Mình xây dựng lại từ đầu. Em có ít vốn liếng, anh phụ em phát triển cái quán này. Hoặc anh muốn làm ăn gì đó, em cũng chịu.
Rồi chị nói thêm:
- Em biết anh đã đứt gánh với người vợ trước, trước khi đi tù. Con cái cũng không có thì có gì đâu mà bận tâm.
Tư Miên thật sự cảm động với tấm chân tình của người phụ nữ này. Tuy nhiên, anh bất ngờ hỏi:
- Tôi không dám phụ tấm lòng của cô Tám, nhưng tôi hỏi thật nếu cô biết, chính vì tôi mà một người đàn bà đã chết trong tù, cô có còn thương tôi không?
Câu hỏi bất ngờ của Miên làm cho Tám Hà sửng sốt:
- Có chuyện đó sao?
Tư Miên trầm ngâm một lúc lâu rồi nhẹ giọng kể:
- Chuyện này đúng ra tôi giấu kín trong lòng, để cho nó gặm nhấm tan nác lòng tôi, cho đến khi nào tôi đi theo cô ấy. Nhưng mà thôi, kể làm gì chuyện đau lòng này.
Tám Hà tha thiết:
- Em muốn nghe, kể đi anh Tư!
Tư Miên lại suy tư... Cuối cùng, khi nhìn vào đôi mắt rưng rưng lệ của Tám Hà, anh cầm lòng không được, nên nhẹ gật đầu:
- Tôi kể. Nhưng cô phải hứa với tôi một điều...
Tám Hà gật đầu rất nhanh:
- Em hứa!
Tư Miên tỏ ra hài lòng:
- Được rồi...
Chuyện tình trong tù.
Thế là Tư Miên lãnh án ba năm tù giam! Khi nghe tòa tuyên án, Miên không chút dao động, bởi anh biết trước thế nào rồi cũng sẽ tới nước này. Nhưng tim anh bỗng đau nhói khi tầm mắt anh chạm phải hình ảnh ở cuối hàng ghế của phòng xử án: vợ anh cặp tay người đàn ông nhỏ hơn cô ấy đến gần chục tuổi! Họ có vẻ nhẹ nhõm khi nghe tòa tuyên án. Như vậy có nghĩa ít nhất là ba năm liên tiếp, họ sẽ được thảnh thơi!
Trước hôm đó, Tư Miên đã nghe phong phanh về mối tình bất chính của vợ với người tài xế giao hàng cho anh, nhưng mải mê lo làm ăn nên Miên chưa có thì giờ theo dõi. Cho đến khi bị vỡ hụi và ra tòa...
Lên xe bít bùng về trại giam mà lòng Tư Miên nặng trĩu bởi sự chán chường. Đã hai hôm rồi anh bị mất ngủ, giờ đây cộng với nỗi chán chường, nên xe chỉ chạy một đoạn ngắn thì cơn buồn ngủ đã kéo đến.
Đến một ngã tư, xe đang chạy bỗng thắng gấp, khiến cho mấy tù nhân trong xe ngã dồn vào nhau. Tư Miên choàng tỉnh và... anh ngỡ ngàng khi thấy mình đang dụi đầu vào một phụ nữ!
Cái ngã người đó đúng là cú ngã định mệnh. Bởi người nữ tù đó cũng bị kêu án bảy năm tù, loại tù thường phạm như Tư Miên.
Ngay sau đó, hai người biết tên nhau. Tư Miên nói tên mình cho nàng. Và được biết nàng tên là Hạnh.
Trong nhà giam, tù nam và nữ bị giam riêng, ở hai khu nhà khác nhau, có rào ngăn cách. Tuy nhiên bệnh xá thì chung.
Nửa tháng sau...
Hôm đó do bất cẩn trong lúc lao động, Tư Miên bị một vết cắt khá sâu ở bàn tay nên được đưa tới trạm xá. Sau khi băng bó và lãnh thuốc, vừa định ra về thì anh nghe cô y tá trực lo lắng nói với bác sĩ phụ trách về trường hợp một bệnh nhân bị xuất huyết nặng, cần phải tiếp máu ngay, mà bệnh xá lại không có loại máu O khá hiếm!
Thật ra Tư Miên có thể bỏ đi mà không cần quan tâm trường hợp đó, nếu cô y tá không nói tên bệnh nhân:
- Nữ phạm nhân Nguyễn Thị Hạnh này đã hai lần bị băng huyết, mà lần này nặng hơn, do xảy ra vào lúc nửa đêm, người chung phòng không hay nên đưa tới bệnh xá quá trễ, máu bị mất quá nhiều, sợ e...
Chị ta bỏ lửng câu nói, trong lúc vị bác sĩ cũng chỉ biết đứng nhìn và nhẹ lắc đầu. Nhà tù này ở xa trung tâm thành phố, lại không có xe cấp cứu, mỗi lần cần đưa bệnh nhân đi phải báo cho trung tâm và chờ đợi khá lâu. Tư Miên quyết định rất nhanh. Anh bước tới chặn cô y tá:
- Cô nói bệnh nhân cần tiếp máu O?
- Đúng vậy. Anh biết trong số phạm nhân ở đây có ai thuộc nhóm máu đó không?
- Tôi.
Nhìn Tư Miên từ đầu đến chân một lượt, cô ta quay về phía bác sĩ nói lớn:
- Có anh này thuộc nhóm máu O nè, bác sĩ ơi!
Thế là Tư Miên được làm “ân nhân” với người phụ nữ gặp tình cờ sau phiên tòa. Lúc tỉnh dậy sau khi được tiếp máu, cô phạm nhân tên Hạnh đó đã hỏi ngay ân nhân của mình. Khi được biết đó cũng là một bạn tù thì cô nàng đã tha thiết xin được diện kiến để cám ơn. Đúng ra nội quy của trại giam không cho phép như vậy, tuy nhiên vị bác sĩ đã phá lệ và dặn:
- Chị chỉ được gặp ở ngay giường bệnh và cũng không được tiếp xúc lâu. Tôi sẽ đề nghị cho người đó tới đây ngay.
Khi Tư Miên tới thì Hạnh ngỡ ngàng:
- Là anh sao?
Họ mừng vui, trò chuyện và cảm thông ngay hoàn cảnh của nhau. Trước khi Tư Miên bị đưa trở lại trại giam, anh nghe Hạnh nói nhanh:
- Mỗi tháng em được tái khám một lần ở đây. Có cách nào gặp anh không?
Tư Miên đáp rất nhanh:
- Có. Em tái khám định kỳ vào những ngày nào?
- Thứ hai tuần đầu tiên của tháng. Em quen thân với cô y tá tên An đó, nếu lần nào em không gặp được anh thì em nhờ chị ấy nhắn.
Thế là họ đều đặn gặp nhau hằng tháng. Nửa năm như vậy...
Mỗi lần gặp, họ chỉ nói vài câu chào hỏi ngắn, nhưng họ nghĩ ra cách để trao đổi với nhau nhiều lời bằng cách viết những lá thư dài và trao vội cho nhau mỗi khi gặp. Hoặc lần nào không gặp được thì cô y tá An là chiếc cầu nối.
Hoàn cảnh của Hạnh cũng rất đáng thương. Cô có chồng và có hai con, vợ chồng chia cách nhau, người chồng bỏ đi lấy vợ khác. Quá uất hận đâm quẫn trí, nên một ngày kia nhân lúc anh chồng bội bạc trở về thăm con và đòi bán căn nhà duy nhất mà Hạnh đang ở để nuôi nấng con cái, Hạnh đã giết chết tên chồng xấu xa đó bằng can xăng. Lửa cháy bùng lên ngoài dự liệu của Hạnh, chẳng những giết chết tên khốn kiếp mà còn thiêu cháy luôn cả hai đứa con đang ngủ, trong đó có một đứa còn nằm nôi!
Điên loạn, Hạnh đã lao vào lửa tự tử. Nhưng rủi thay, Hạnh không thể chết, bởi có người cứu kịp. Sống trong hoàn cảnh đó thì khác nào chết, bởi vậy đã nhiều lần Hạnh tìm cách chết nữa mà không xong. Cho đến ngày ra tòa lãnh án. Ở trong tù, Hạnh là người tù nổi tiếng, bởi suốt ngày đêm lúc nào chị cũng khóc gào, kêu tên hai đứa con! Từ đó sinh ra bệnh và bệnh ngày càng nặng thêm... Cũng may, khi gặp Tư Miên thì Hạnh như được hồi sinh! Chị thường nói với y tá An là chẳng hiểu sao chị có cảm giác là đã tìm lại được tình yêu đích thực, chị muốn nói với Miên, nếu anh có mãn tù trước thì hãy đợi chị ra, hai người sẽ xây dựng gia đình chung! An đã nhiều lần tìm cách nói chuyện với Tư Miên và tìm cách xin cho Miên chuyển tới làm tạp dịch tại trạm xá để dễ bề liên lạc với Hạnh.
Chuyện tưởng sẽ êm đẹp như vậy, cho tới ngày Tư Miên sắp mãn hạn tù. Tối hôm đó, y tá An báo tin vui:
- Tối nay Hạnh được nằm lại bệnh xá do tôi tạo ra bệnh án giả, để hai người có dịp gần nhau. Tối nay anh cũng được ở lại đây để giúp khiêng xác hai phạm nhân vừa chết. Xong việc, hai người có thể vào phòng riêng của tôi mà tâm sự, tôi ở ngoài canh cho.
Đêm đó thật bất ngờ, Hạnh đề nghị một việc mà vừa nghe Tư Miên đã giật mình:
- Em muốn có con? Chính xác hơn là em muốn tìm lại hai giọt máu của mình! Mấy hôm nay tối nào em cũng nằm mơ thấy anh là người cho em được ước mơ đó! Hãy cho em đứa con đi!
Không người đàn ông nào có thể chối từ lời đề nghị hấp dẫn như vậy, dù đang là phạm nhân. Nhưng Tư Miên đã lưỡng lự...
Lý do Miên làm như vậy là bởi anh bị ám ảnh sâu nặng về hành động phản bội của người vợ trước! Cô ta cũng tha thiết đến với anh từ ngày hai người còn nghèo, còn cơ cực... Vậy mà khi đã bắt đầu có của đã sinh tâm...
Với Hạnh thì khác. Bắt đầu hiểu cô, nhận ra cô có nhiều điểm nổi trội hơn vợ mình, nhất là tính cách. Nhưng dù sao lý trí của Tư Miên lúc ấy nó mạnh hơn là tình cảm. Đặc biệt, nếu lúc ấy có ai hỏi anh có nghĩ ngợi gì về cái chết của chồng con Hạnh hay không thì chắc chắn Miên đáp là không! Tuy nhiên, trong tận tiềm thức của anh, làm sao tránh khỏi những gợn sóng hoang mang...
Vậy là suốt ba giờ ôm nhau trong phòng của y tá An, Tư Miên đã rất khó khăn, nhưng cuối cùng cũng đã nói:
- Anh thương em nhiều, thông cảm hoàn cảnh của em... Tuy nhiên, dẫu sao thì trong lòng anh vẫn còn bị ám ảnh bởi sự bội phản của người phụ nữ đầu ấp tay gối với anh ngày trước. Vết thương lòng mà bà ấy gây ra cho anh đến bây giờ vẫn còn đau nhức...
Tư Miên nói thật lòng và vẫn xiết chặt Hạnh vào lòng như bảo đảm cho cô ấy rằng cuộc đời này mãi mãi họ sẽ chẳng chia lìa nhau!
Nhưng chẳng hiểu sao, bỗng dưng Hạnh im lặng và nhẹ thở dài khi y tá An ra hiệu, Miên đi ra và còn không quên dặn:
- Chỉ còn hai tháng nữa anh mãn hạn tù, lúc ra ngoài anh hứa chắc chắn là chạy tìm luật sư thật giỏi để gỡ tội cho em.
Hạnh vẫn chẳng nói lời nào, ngoài nụ cười khó hiểu trong bóng tối…
Như bị sét đánh mang tai! Sáng hôm sau, cả bệnh xá bàng hoàng khi hay tin có một nữ bệnh nhân treo cổ tự tử trong nhà vệ sinh! Nạn nhân chính là Hạnh!
Tư Miên lúc ấy còn ở đó, đang phụ việc ở nhà xác. Nghe tin dữ, anh chạy tới và chỉ kịp gào lên trước cái xác tím tái của Hạnh:
- Trời ơi, Hạnh ơi!
Y tá An nghi ngờ đưa mắt nhìn Miên. Cô có quyền nghĩ nguyên nhân cái chết kia là sự góp phần của Tư Miên.
Anh chỉ lặng lẽ lắc đầu. Lát sau đó anh nói thật lòng với An:
- Chị có thể nghĩ thế nào về tôi cũng được, nhưng tôi xin nói bằng danh dự của mình rằng tôi yêu Hạnh, tôn trọng Hạnh, chỉ muốn Hạnh được hạnh phúc.
Đêm đó về trại giam, Tư Miên đã suy nghĩ về cái chết của Hạnh. Bởi thái độ hững hờ của anh với lời đề nghị muốn có con mà Hạnh tha thiết đưa ra? Hay còn nguyên nhân nào khác? Không tìm ra ngay lý giải, Tư Miên thức gần trắng đêm. Mãi gần sáng mới chợp mắt được.
Đang chập chờn, bỗng Tư Miên có cảm giác như có bàn tay của ai đó chạm vào má mình. Anh choàng mở mắt thì nhận ra toàn phòng giam rộng, có đến trên ba chục phạm nhân ngủ chung, không một ai thức. Phần nhiều phạm nhân suốt ngày phải lao động cực nhọc, nên đêm đến họ ngủ rất say, phải tới năm giờ rưỡi mới dậy theo tiếng keng. Bây giờ mới có ba giờ...
Tư Miên cố ngủ lại để lấy sức.
Nhưng vừa mơ màng thì anh nghe rất rõ có ai đó nói bên tai, giọng nghe rất quen:
- Nằm sang chỗ khác, hoặc là lấy mền đắp lại giả như đang ngủ, rồi đi vào nhà vệ sinh mà ngồi. Một lát hãy ra!
Tư Miên mở mắt ra, anh kêu khẽ:
- Tiếng nói của Hạnh!
Anh nhìn quanh, không thấy động tĩnh gì, nhưng nhớ lời dặn vừa rồi, anh nhẹ nhàng lăn đi chỗ khác, sau khi thực hiện y như lời dặn. Thời khắc trôi qua thật chậm…
Bỗng lúc ấy từ đầu phòng giam, phía sau lưng tên gác ngục đang ngủ gà ngủ gật, có hai cái bóng đen nhẹ nhàng bước vào. Bọn chúng chừng như đã khá quen thuộc với phòng giam, nên di chuyển trong bóng tối không chút khó khăn.
Nằm cách đó khoảng vài mét, Tư Miên quan sát rất rõ. Bọn chúng trên tay cầm vật gì đó như cái lọ thủy tinh, chúng bước thẳng tới chỗ nằm lúc nãy của Miên. Nhanh nhẹn và thuần thục, một trong hai tên đổ nhanh cái lọ thủy tinh xuống đúng vào phần mặt của người ngủ, đồng thời tên còn lại đổ bồi thêm một lọ như vậy nữa vào phần dưới. Không nghe tiếng động, chỉ thấy có khói bốc lên từ chiếc mền và mùi khét!
Xong, cả hai đi nhanh ra ngoài mà không gặp trở ngại gì. Tư Miên biết chắc là có người trong phòng nhìn thấy, nhưng có lẽ do sợ nên họ không dám lên tiếng.
Bỗng sát bên chỗ Miên nấp, có người nói rất khẽ:
- Bọn này là đàn em của cai tù. Chúng chuyên thực hiện các vụ thanh toán trong trại giam khi được ai đó thuê!
Người nói là Sáu Khả, một bạn tù tốt bụng. Tư Miên thẫn thờ, tim đập nhanh. Anh vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, nếu không nhờ Hạnh báo tin.
Sáng hôm sau, nhờ sự tố cáo của Sáu Khả nên người tù tìm ra ngay thủ phạm thanh toán hụt bằng acid đó. Chính là băng đâm thuê chém mướn Tư Rỗ. Bọn chúng được thuê để thanh toán Tư Miên trước khi anh được thả ra! Ai là người đứng sau vụ đó không khó để biết, chính là người vợ phản bội của Miên và thằng nhân tình của ả!
Để bảo vệ tính mạng cho Tư Miên, quản lý trại giam đã chuyển anh sang khu vực gần với các nhân viên an ninh. Chỗ này chỉ cách khu giam giữ nữ một hàng rào kẽm gai. Đêm nằm có thể nhìn qua ô cửa nhỏ, thấy sân bên khu nữ. Tư Miên càng ngậm ngùi khi nhớ về Hạnh.
Đêm đó anh cũng thức rất khuya, mắt cứ nhìn qua bên kia sân... Bỗng anh thấy một bóng người đi lướt qua sân rất nhanh, rồi dừng lại cách ô cửa sổ chỉ vài thước.
- Hạnh!
Tư Miên kêu lên khi nhìn rõ mặt người đang đứng đó, nhờ ánh trăng chiếu xuống. Chỉ lạ một điều là Hạnh lại không mặc áo. Ngực để trần, lộ ra bộ ngực… dài lòng thòng!
- Trời ơi, chuyện gì thế này?
Miên kêu khẽ, cũng vừa lúc đó có tiếng kẻng đánh liên hồi bên dãy trại giam nữ. Rồi lát sau lan sang tận dãy trại nam.
Đèn trại giam bật sáng. Có nhiều tiếng huyên náo. Lát sau, Tư Miên nghe từ phía bên kia có người la lớn:
- Có con ma vú dài chạy khắp các phòng bên này!
Bên dãy nam cũng nghe có người nói:
- Hồi nãy trong lúc đang ngủ chúng tôi thấy có một người đàn bà để ngực trần, chạy tới từng chỗ nằm của nhiều người cất tiếng hỏi: Con tôi đâu? Trả con tôi đây, để tôi cho nó bú! Người đó nắm đôi vú của mình lên, như chuẩn bị cho con bú!
Sáng ra, các chị bên nhà giam nữ thuật rõ hơn:
- Có một hồn ma vào nửa đêm cất tiếng khóc, sau đó vừa chạy vừa gào lên đòi con! Nhìn kỹ lại thì người đó giống như cô Hạnh vừa mới chết!
Nhiều người không tin chuyện dị thường đó. Riêng Tư Miên thì hoàn toàn tin. Anh còn tự nhủ:
- Cô ấy thật sự muốn đi tìm con của mình.
Từ hôm đó, chuyện về hồn ma vú dài, hay nói tránh đi là “con ma trường nhũ” đã loan truyền rất nhanh. Riêng Tư Miên hầu như đêm nào anh cũng thấy cái bóng của Hạnh đứng cạnh chỗ mình nằm. Có hôm nàng còn ngồi xuống bên cạnh, nhiều lần lặp lại câu hỏi:
- Sao không cho em có con?
Y tá An còn kể với Miên:
- Hai đêm rồi, Hạnh đều về đây, ngồi trong phòng tôi khóc than, nói rằng chỉ có một nguyện vọng duy nhất mà cũng không được đáp ứng! Nhưng nó nói, nó không trách gì anh cả, chỉ buồn cho số phận mình thôi. Cô ấy nói rằng dẫu bao nhiêu năm cũng vẫn muốn được cùng anh giữ mãi tình cảm. Phần anh thì tùy, cô ấy không ép...
Kể xong, y tá An buồn bã thở dài...
Tư Miên lặng người đi rất lâu…
***
Tư Miên ngừng kể. Tám Hà len lén nhìn anh và giật mình khi nhìn thấy hai hàng nước mắt đang chảy dài trên đôi má đen sạm của người đàn ông. Chị muốn lên tiếng hỏi mà không dám...
Một hồi rất lâu, câu nói của Tư Miên kèm theo một tiếng thở dài:
- Chính tôi đã giết nàng. Con ma vú dài mà bây giờ người ta đang bàn tán đó là do tội lỗi của tôi. Tôi đã từ chối lời đề nghị muôn phần đúng của nàng, để rồi...
Tám Hà chợt òa lên khóc. Thái độ của chị khiến Tư Miên ngẩng lên nhìn:
- Cô Tám sao vậy?
Tám Hà bỗng ôm mặt chạy thẳng vào bên trong. Tiếng khóc của chị vọng ra từng hồi.Tư Miên bất nhẫn than:
- Chỉ mình tôi mà làm khổ bao nhiêu người. Lại là một cái tội nữa đây!
Anh cầm nguyên chai rượu tu một hơi hết sạch. Rồi trong cơn túy lúy hơi men, nỗi thống khổ dồn lên, khiến Miên như một anh kép độc diễn trên sân khấu:
- Hạnh ơi, anh đi theo em đây!
Anh không còn biết phương hướng, nhưng lại đi thẳng vào phía trong, nơi Tám Hà đang nằm khóc.
- Chuyện gì đã xảy ra?
Bất ngờ, ngay sau đó! Từ trong, Tám Hà dìu Tư Miên ra, trong tình trạng Miên hầu như đã mê man. Vừa khi ấy có người bưu tá phát thư dừng lại trước:
- Có cô Tám Hà, Lê Thị Hà ở đây không?
Tám Hà nhìn ra, đáp rất gọn:
- Chị Hà không có nhà. Có gì tôi nhận thay cũng được.
Chị nhận một phong thư ghi gửi chị Lê Thị Hà mà như thư của ai chớ không phải của mình!
Lúc đó có một khách quen tới mua hàng:
- Cho mười xu đá chị Tám.
Tám Hà gắt lên:
- Đã nói là Tám Hà không có nhà mà!
Khách vọt xe đi lẩm bẩm:
- Mẹ Tám Hà bữa nay điên rồi chắc.
Thật ra anh ta không nhìn thấy lúc ấy Tư Miên đang nắm chặt tay Hà mà miệng thì gọi:
- Hạnh ơi, cho anh xin lỗi!
Tám Hà nhẹ giọng, trìu mến:
- Em không giận anh nên mới theo về đấy! Bây giờ em chỉ có thể cùng anh trong lốt như thế này thôi. Em sẽ mãi mãi ở lại đây...
Câu chuyện khó tin mà có thật! Thân xác của Tám Hà, chị chủ quán nhỏ, giờ lúc nào cũng ở bên Tư Miên và mỗi khi xưng hô với nhau người ta nghe thấy:
- Hạnh ơi, cho anh ly cà phê!
- Mình ơi, cho em đứa con, sớm sớm chút!
Lúc đầu thiên hạ đồn ầm cả lên chuyện quái dị của hai người. Nhưng dần dần họ hiểu ra. Chính oan hồn của Hạnh, người nổi danh “con ma vú dài” trong trại giam đã nhập vào Tám Hà. Và Tư Miên vừa tạ lỗi với Hạnh, vừa yêu nàng và yêu cả thể xác của bà chủ quán tốt bụng.
Chuyện của cõi âm thì đâu bình thường như dương thế…


CHUÔNG GỌI HỒN


Đã ba lần chuông điện thoại đổ vang trong đêm, cả ba lần Vọng đều bật dậy cầm ống nghe hỏi nhỏ nhẹ:
- Alô, ai ở đầu dây.
Nhưng cả ba lần bên kia đều im lặng. Nhưng ống nghe bên đó vẫn chưa chịu gác máy. Vọng dù rất kiên nhẫn, đến lần thứ tư thì anh phải gắt lên:
- Này, phép lịch sự tối thiểu của người gọi là phải lên tiếng nhé! Mà bây giờ có biết là mấy giờ không?
Đặt ống nghe xuống lúc ấy Vọng mới nhìn đồng hồ tay hai giờ sáng. Anh lẩm bẩm:
- Kỳ cục!
Bấy giờ Vọng mới soát lại trí nhớ. Rõ ràng số điện thoại nhà riêng của anh hầu như không cho ai ngoài vài người bạn thân. Mà những người ấy thì họ đâu rảnh để gọi điện giờ này, mà gọi rồi không nói nữa… Chắc chắn là có sự nhầm lẫn nào đó... nhưng nếu có gọi nhầm số thì chỉ một hai lần thôi, chớ đâu đến lần thứ tư như vầy…
Re... eng... re... cưng!
Lần thứ năm chuông reo. Vọng định không nhấc ống nghe. Nhưng chuông cứ reo liên tục không ngừng.
Quá bực, Vọng cầm ống nghe lên vừa quát:
- Có điên không! Giờ này...
Nhưng anh khựng lại ngay, bởi bên kia đầu dây giọng của đứa em gái anh:
- Anh Hai, sao anh la em!
Vọng chưa hết bực:
- Mầy gọi hoài như vậy ai không bực!
- Ủa em mới gọi một lần mà! Có chuyện gấp em mới gọi chớ…
Vọng ngạc nhiên:
- Chớ nãy giờ ai gọi?
- Em đâu biết.
Rồi cô nói nhanh:
- Má trở bệnh nặng, em vừa đưa vô bệnh viện, anh tới ngay!
Vọng hốt hoảng:
- Sao không báo liền trước lúc chở má đi!
Hằng giận dỗi:
- Mới gọi đã bị anh chửi rồi, gọi sớm hơn để bị anh...
Cô gác máy. Vọng chợt nhớ là mình chưa hỏi bệnh viện nào, nên gọi về nhà. Bên kia đầu dây chuông reo mà chẳng có ai trả lời. Có lẽ cả nhà đã vào bệnh viện hết. Bây giờ biết tìm ở đâu trong cả chục bệnh viện?
Còn đang lúng túng thì chuông điện thoại lại reo. Vọng mừng vì ngỡ là Hằng gọi lại, anh lên tiếng ngay:
- Má nằm ở đâu?
Bên kia đầu dây một giọng rất lạ cất lên:
- Bệnh viện lần trước đã nằm!
- Biết rồi. Nhưng... cô là ai?
Máy cúp. Vọng suy nghĩ mãi mà vẫn không biết ai vừa trả lời thay cho Hằng. Cho đến khi vào tới bệnh viện, gặp Hằng ở cửa phòng, anh hỏi ngay:
- Hồi nãy ai thay em gọi điện về nhà chỉ bệnh viện má đang nằm vậy?
Hằng ngơ ngác:
- Có ai đâu. Em vừa mới chợt nhớ là lúc nãy chưa chỉ cho anh, nên tính ra phòng trực gọi đây nè!
Vọng biết Hằng không phải là người thích đùa, anh vừa bước vào phòng bệnh vừa lẩm bẩm:
- Điên đầu thật!
Bà Muôn, mẹ của Vọng trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh, nhưng vẫn nói được dù là không rõ ràng:
- Nó... cô ấy nói... đã báo tin rồi. Cô ấy đang chờ rước má đi...
- Kìa, má. Má nói nhảm gì vậy? Con, Vọng đây!
Bà Muôn hầu như không nhận ra Vọng, bà vẫn liên tục lảm nhảm:
- Cô đừng gấp… hãy chờ đó... chờ tôi với...
Nói dứt câu đó thì bà đi vào hôn mê như ban đầu. Hằng lo lắng:
- Suốt từ chiều đến giờ má cứ nói nhảm như vậy. Nhất là từ khi má nghe điện thoại của ai đó gọi.
Vọng không giữ được bình tĩnh:
- Điện thoại?
- Có đến gần chục cú điện thoại gọi tới vào lúc đầu hôm. Lúc ấy em bận học bài nên để má nghe. Lúc nghe xong mấy lần đầu em hỏi ai gọi thì má tỏ ra bực dọc, càu nhàu. Mãi đến mấy lần sau thì bỗng nhiên má đổi thái độ, mặt biến sắc khi buông ống nghe xuống.
- Ai gọi đến vậy?
Hằng lắc đầu:
- Em hỏi nhưng má không nói. Rồi bỗng nhiên lúc đang ngồi ăn cơm thì má gục đầu lên bàn. Lúc ấy có chuông điện thoại reo. Em bận lo cho má nên không nghe, nên chẳng biết là ai đã gọi.
Vọng thất thần:
- Điều này không lẽ lại trùng hợp?
Thấy thái độ của anh, Hằng càng ngạc nhiên:
- Cái gì trùng hợp? Bộ anh cũng nghe điện thoại như vậy sao? Đó là ai?
Vọng không đáp. Anh thừ người một lúc lâu, quên cả mẹ đang co giật tay chân lúc ấy. Hằng gọi giật:
- Anh Vọng, coi mẹ bị sao kìa.
Vọng gọi y tá. Lát sau rất đông bác sĩ, y tá chạy vào. Họ yêu cầu thân nhân ra hết. Hơn mười lăm phút sau một cô y tá bước ra thông báo:
- Bà cụ có triệu chứng liệt não, cần phải chuyển sang phòng phẫu thuật ngay.
Hằng cuống cuồng lên:
- Anh Hai, má có sao không?
Vọng trấn an em, nhưng thật ra trong lòng anh cũng đang rối như tơ vò. Khi các cô y tá cho xe đẩy bà Muôn ra thì bà nhắm nghiền đôi mắt. Chẳng khác một người đã chết. Hằng bật khóc, Vọng phải giữ em gái lại, trong lúc người ta đẩy mẹ vào phòng phẫu thuật. Một y tá đến bên Vọng:
- Anh là con lớn của bà cụ phải không? Mời anh vào phòng trực để ký tờ cam kết phẫu thuật.
Vọng làm theo như người vô thức. Anh thẫn thờ khi bước ra, ngồi ở băng ghế đợi với Hằng. Bây giờ cơn sợ hãi bắt đầu trùm lên họ. Nếu lúc này có ai hỏi nguyên nhân bệnh của mẹ, cả hai anh em đều mù tịt. Lúc ấy đã bốn giờ sáng...
Bỗng cánh cửa phòng mổ xịt mở, người ta đẩy chiếc xe chở bệnh nhân ra. Hằng nhìn thấy trước, cô lay Vọng:
- Sao… sao họ đẩy má trở ra kìa!
Vọng bật dậy, anh phải chạy tới gần để nhìn và… kêu lên:
- Má!
Bà Muôn lúc ấy mở mắt, tỉnh táo như bình thường:
- Tao có bệnh hoạn gì đâu, sao tụi bây đưa tao vô đây chi vậy?
Vị bác sĩ đứng tuổi đưa mắt nhìn Vọng:
- Bà cụ có bao giờ bị như vậy chưa?
- Bị thế nào bác sĩ?
- Vừa mê đã tỉnh như chẳng có chuyện gì xảy ra!
Hằng mừng quá, quên cả câu hỏi của bác sĩ, cô nhào tới ôm chầm lấy mẹ. Bà Muôn như để chứng minh lời nói của bác sĩ, đã ngồi bật dậy ngay trên chiếc giường đẩy.
Vọng kêu lên:
- Kìa, mẹ!
Vị bác sĩ lắc đầu nói:
- Hơn hai mươi năm làm nghề, tôi mới gặp đây là trường hợp đầu tiên!
Nói xong ông bỏ đi về phòng trực. Vọng hỏi với theo:
- Má tôi có cần mổ nữa không, bác sĩ?
Bà Muôn trả lời bằng cách nhảy xuống khỏi xe đẩy. Bà giục:
- Đi về chớ còn ở đó làm gì!
Hai cô y tá đẩy xe cũng lắc đầu nói:
- Bà cụ này thật lạ. Đang hôn mê sâu, mạch trụy đến đo không được, vậy mà vừa vào đến phòng mổ bà đã tỉnh lại và phản đối việc mổ mình!
Bà Muôn tự đi thẳng tới thang máy, khiến cho anh em Vọng phải chạy theo. Quên cả lấy hành lý trong phòng bệnh. Xuống tới dưới nhà, bà Muôn lại cằn nhằn:
- Mấy đứa bây quá hồ đồ, đưa tao vô đây làm chút nữa thì họ bổ sọ tao ra rồi!
Bà đi nhanh ra cửa bệnh viện như sợ bị bắt lại. Vọng bảo Hằng:
- Em trở lên lấy đồ rồi về sau. Anh đưa má về nhà.
Trong lúc ngồi trên xe taxi, bà Muôn bất ngờ hỏi:
- Nó gọi điện cho con chưa?
Vọng ngạc nhiên:
- Ai gọi?
Bà Muôn tỏ vẻ hằn học:
- Mầy học thói vô tình lúc nào vậy?
Rồi bà bất thần bảo tài xế:
- Ngừng cho tôi xuống đây!
Vọng hốt hoảng:
- Chưa tới nhà mà má!
Nhưng bà vẫn cương quyết:
- Cho tôi xuống chỗ này, ngay ngã tư đó!
Mặc cho Vọng ngăn cản, bà Muôn vẫn mở cửa xe, rồi bằng động tác nhanh nhẹn như một người trẻ, bà bước nhanh lẫn vào dòng người trên vỉa hè. Vọng phải dặn người tài xế:
- Anh làm ơn đợi ở đây!
Rồi lao theo hướng bà Muôn vừa đi. Nhưng chẳng còn thấy bóng dáng bà đâu nữa...
Còn đang lúng túng ở góc đường thì chợt có một phụ nữ ăn xin bồng đứa bé trên tay, bước lại gần nói vừa đủ cho Vọng nghe:
- Gieo gì thì gặt nấy thôi!
Bà ta bước thẳng đi, nên Vọng không hiểu có phải nói với mình không. Tuy nhiên khi nhìn lại thì quanh anh không có ai khác.
Vọng định chạy theo, nhưng đôi chân như bị ai đó kéo ghì lại. Nên anh chỉ biết hỏi theo:
- Chị vừa nói gì?
Đến khi Vọng nhấc được chân lên thì đã không còn thấy người kia nữa. Anh chán nản trở lại xe taxi và giục:
- Anh chạy nhanh cho tôi về nhà.
Khi Vọng mở cổng rào mới giật mình, bởi cổng chỉ khép chứ không khóa. Cả cửa nhà trong cũng thế, anh vừa đẩy cửa đã mở toang. Có hai người ngồi ở ghế salông mà vừa nhìn thấy Vọng đã vô cùng ngạc nhiên.
- Má.
Bà Muôn đang ngồi yên, ngắm nhìn người trước mặt. Mà người đó chính là… phụ nữ ăn mày lúc nãy.
- Kìa, má! Con đi tìm má, sao má không đi taxi mà lại về đây?
Bà Muôn chỉ về phía khách:
- Tao đi tìm người này. Sao mầy không chào người ơn của mầy đi, thằng bất hiếu kia!
Vọng ngơ ngác:
- Kìa má! Sao lại…
Bà Muôn chợt ra dấu:
- Giao con cho nó!
Người phụ nữ ăn mày chẳng nói chẳng rằng, thật nhanh tay chuyền đứa bé đang bế trên tay sang cho Vọng. Bà ta vừa đưa sang đã buông tay ra, mà nếu Vọng không đỡ lấy thì đứa trẻ sẽ rơi xuống đất. Bắt buộc phải nhận, Vọng bế gọn đứa nhỏ trong lòng, vừa lúc bà Muôn nói:
- Con cái mầy đem bỏ rơi, người ta nuôi nấng giùm, chớ nếu không thì quạ tha, hổ xé mất rồi! Sao còn đực mặt ra đó, không cảm ơn người ta đi!
Trong lúc Vọng còn bối rối thì người phụ nữ ăn xin đã đứng lên, vừa bước ra cửa vừa lẩm bẩm:
- Gieo gì sẽ gặt nấy thôi!
Khi chị ta ra khỏi cửa rồi Vọng mới lúng túng hỏi mẹ:
- Má, tại sao chị ta bỏ con ở đây?
Bà Muôn lạnh lùng nói:
- Nó giao con lại cho mầy đó!
Vọng hốt hoảng:
- Con gì?
- Thì đứa con còn trong bụng mẹ, mới bảy tháng tuổi mầy đã bỏ mẹ con nó, còn hỏi!
- Kìa, má!
Vọng bây giờ mới nhìn thẳng vào mặt đứa trẻ trên tay mình. Anh giật mình, bởi đứa bé có nét giống anh như khuôn đúc! Nhất là đôi lông mày rậm và gần giao nhau ở trán.
- Con... con gì của con?
Bà Muôn quay mặt đi chỗ khác, giọng bà chùn xuống.
- Của con Bảo Ngọc!
Câu nói ngắn của bà đủ làm cho Vọng thất thần, suýt nữa anh đã để rơi đứa bé khỏi tay.
- Má nói gì?
Bà Muôn phải la lên:
- Coi chừng nó té!
Vọng đờ người ra, miệng lảm nhảm:
- Bảo Ngọc... tại sao lại là... Bảo Ngọc! Trời ơi...
Anh ta lảo đảo, suýt té ngang qua ghế. Bà Muôn phải đỡ lấy đứa bé.
- Gieo gì gặt nấy, họ đã nói vậy mà...
Hai mẹ con lặng im. Không khí nặng nề. Vừa lúc ấy đứa bé cất tiếng khóc ré lên…
***
Hằng từ trong bệnh viện bước ra thì gặp ngay chiếc xích lô trờ tới. Cô không định đi xích lô, bởi đang vội, nhưng người đạp xe không nói không rằng, đã hạ càng xe xuống, như một cử chỉ mời đi xe.
Không đành từ chối nên Hằng bước lên và giục:
- Đi nhanh lên!
Hằng đang rất sốt ruột, chẳng biết mẹ mình về nhà, rồi có trở bệnh gì nữa không. Bởi vị bác sĩ điều trị khi gặp Hằng trước lúc ra về, đã dè dặt nói:
- Bà cụ tuy tỉnh táo lại, nhưng mạch bất thường lắm. Có lúc huyết áp tăng lên 18-19, có lúc lại tuột dưới 10. Tôi chưa thấy ai như vậy mà còn tỉnh táo cả. Cô nên theo dõi sát sức khỏe bà cụ.
Biết Vọng là người vô tâm, nhất là từ khi chuyện hôn nhân anh đỗ vỡ, khiến Vọng đôi khi như người cõi trên. Chuyện Vọng chuyển ra ở riêng cũng là một vấn đề. Giữa Vọng và mẹ có gì đó lấn cấn nhau...
Mãi nghĩ ngợi, lúc nhìn lên Hằng giật mình:
- Ủa đi đâu vậy?
Lúc ấy xe đang hướng về con đường ngoại ô. Người đạp xe lên tiếng:
- Hồi nãy cô không nói là đi đâu, tôi tưởng hướng này...
Hằng càng ngạc nhiên hơn:
- Chị là... phụ nữ?
Người đạp xe cười:
- Chị tức là phụ nữ rồi!
- Nhưng mà ý tôi muốn hỏi sao đàn bà mà đạp xích lô?
- Đàn bà cũng phải ăn như đàn ông, nên cái gì đàn ông làm được thì đàn bà cũng làm được!
Hằng làu bàu:
- Phải biết vậy hồi nãy...
- Cô hối tiếc vì đã đi xe do đàn bà đạp phải không? Vậy cô có cần xuống đi xe khác?
Hằng bực bội:
- Chị nói nhiều quá. Quay lại đi về khu Xã Tây.
Xích lô rẽ tay trái, nhưng lại bất ngờ tấp vào lề, rồi phóng thẳng vào một cổng nhà lớn đang mở cửa.
- Đi đâu vậy?
Lúc này người đàn bà đạp xe không đáp, cứ lao vút xe vào sân, rồi ngừng lại nói như ra lệnh:
- Xuống đi!
Hằng gắt lên:
- Sao lại xuống đây?
Nhưng người này không trả lời, lại đi thẳng vào trong. Lúc này Hằng mới nhìn kỹ, cô thấy trên vách phía tay mặt có dòng chữ vừa Hoa vừa Việt: Tang Nghi Quán.
Cô hốt hoảng:
- Sao lại là đây?
Vừa khi ấy người phụ nữ trở lại, trên tay xách một chiếc giỏ cũ, đưa cho Hằng:
- Cô đem về đưa cho thằng anh của cô. Thằng Vọng đó!
- Cái này là…
Hằng nhìn chiếc giỏ xách thấy quen, thì kịp lúc cô được giải thích:
- Của chị dâu cô đó, nhớ chưa!
Lúc này Hằng mới kêu lên:
- Của chị Bảo Ngọc? Đúng rồi, cái giỏ này...
- Cô có trí nhớ tốt hơn mẹ và thằng anh vô tâm của cô nhiều. Đúng, đây là quần áo và tư trang của người ấy, được mang vào đây trước khi chết.
Hằng cảm giác lạnh khắp người, cô nhìn người đạp xe:
- Sao... sao chị biết chuyện nhà của tôi?
Chị ta lại cười rất khó hiểu:
- Chuyện tùm lum ra đó, ai mà không biết. Cô còn nhớ lần cuối cùng cô chị dâu cô rời khỏi nhà bao lâu rồi không?
Hằng hơi run.
- Chuyện... chuyện đó cả năm rồi. Chị Bảo Ngọc đi sinh, mà sinh khó nữa. Hôm đó anh tôi đưa chị đi mà, vào chiều tối…
Bất ngờ chỉ tay lên tường, người phụ nữ hỏi:
- Cô đọc được dòng chữ kia không?
- Tang Nghi Quán. Nó là…
- Là nhà xác của người Hoa. Nơi đây những người quản xác người chết để chuẩn bị mai táng. Gọi là nhà tang lễ theo người Việt.
- Vậy sao dính tới chị dâu tôi?
Người phụ nữ cười khẩy:
- Vậy mới có chuyện để nói! Cô nói ngày đó anh trai cô đưa vợ mình đi nhà bảo sinh chứ gì? Vậy sao lại đưa vào đây?
Hằng cãi:
- Làm sao có chuyện ấy! Chị dâu tôi chết do sinh khó, ở nhà bảo sinh mà.
- Vậy sao hành lý mang theo lại nằm ở đây?
Hằng lắp bắp:
- Có lẽ… có lẽ…
Giọng người kia đanh lại:
- Anh ta cùng với bà ấy đã đẩy một người chưa chết vô đây rồi bỏ mặc hai ba ngày đêm!
Câu nói của chị ta khiến Hằng lùng bùng lỗ tai, cô phải hỏi lại:
- Chị... chị nói ai đẩy ai?
Chẳng đáp, chị ta đẩy xe trở ra, lặng im đạp đi. Hằng hỏi dồn:
- Chị vừa nói chuyện nhảm nhí gì đó? Thật ra chị là ai?
- Tôi là ai chị không cần thiết biết. Điều cần là bây giờ cô cứ đem cái giỏ hành lý này về. Người nhà cô ắt sẽ cho cô biết tôi là ai.
- Nhưng mà...
Chợt chị ta thắng gấp làm chiếc xe suýt lộn mèo tới trước. Hằng bực tức la lên:
- Chạy xe kiểu gì vậy?
Khi lấy lại bình tĩnh thì Hằng vô cùng ngạc nhiên khi thấy chiếc xe xích lô chở mình đang đậu giữa tim đường, mà bên tay phải chính là nhà của mình!
Nhìn ra sau thì Hằng càng ngạc nhiên hơn, bởi người phụ nữ đạp xe đã biến đi đàng nào rồi!
- Chị... chị…
Ở phía sau nhiều tiếng còi xe thúc giục inh ỏi, khiến Hằng quýnh lên, cô nhảy đại xuống xe và chạy một mạch vào nhà.
Vừa bước vô phòng khách Hằng đã nghe mẹ mình hỏi vọng ra:
- Có lấy đồ đạc về cho nó không?
- Má hỏi...
Nhìn thấy cái giỏ trên tay Hằng, bà Muôn mừng rỡ:
- Ừ, đúng là nó rồi!
Bà chụp lấy chiếc giỏ và mở tung ra liền. Trong giỏ có ba bộ quần áo phụ nữ và một số khá nhiều tã lót, quần áo trẻ sơ sinh. Cái nào cũng còn sạch sẽ. Lúc ấy Vọng mới ngước lên nhìn, anh ta hơi bị kích động khi thấy mấy vật kia. Hằng lên tiếng hỏi:
- Sao má biết con mang mấy thứ này về đây?
- Chớ không phải người ta chở mầy vô đó lấy về sao?
- Vậy ra... má thuê bà ta đi đón con?
Bà Muôn đáp tỉnh queo:
- Má đâu có biết gì! Họ mới báo qua điện thoại cho tao.
Hằng lay vai Vọng hỏi:
- Người đó nói giỏ đồ này là của chị Bảo Ngọc xách đi hôm anh đưa đi nhà bảo sinh, nhưng tại sao nó lại nằm trong nhà tang lễ người Hoa?
Đột nhiên Vọng quát to:
- Đừng hỏi tao chuyện đó!
Anh ta ôm mặt, như không muốn đối mặt với những người thân của mình. Vừa khi ấy có tiếng trẻ khóc ré lên. Bà Muôn bực bội:
- Khó khăn lắm mới dỗ nó ngủ được, giờ thì thức nữa rồi!
Hằng ngạc nhiên:
- Con nít nhà ai vậy má?
Bà chỉ sang Vọng:
- Con của nó!
Vọng không còn chịu đựng nổi nữa, anh ta vụt bật dậy rồi cắm đầu chạy thẳng ra ngoài. Tiếng của bà Muôn:
- Mày để của nợ đó lại cho ai, thằng quỷ kia!
Nhưng Vọng đã biến mất ngoài đường...
***
Vọng hơi mất tự tin, nên dù đã bàn cả giờ rồi mà anh ta vẫn còn lưỡng lự:
- Liệu có ổn không?
Ông thầy Ma-chu-yang tự tin gật đầu:
- Tôi hứa là phải xong. Qua xem thần sắc, tướng tinh của cậu, tôi đoán chắc hiện nay cậu bị một cái vong nữ đeo bám và quyết hại cậu. Chuyện này nặng lắm chớ không chỉ dọa suôn như vừa qua đâu... Nếu cậu không cương quyết thì hậu quả khôn lường.
- Nhưng... liệu có ngăn chặn được không?
Chu-yang quả quyết:
- Chắc chắn là được.
Vọng xiêu lòng:
- Vậy bây giờ tôi phải làm sao?
Chu-yang xoa hai tay của lão vào nhau, chà một lúc rồi bất ngờ chụp lấy tay Vọng. Sức nóng do ma sát từ bàn tay lão ta khiến Vọng suýt phải kêu lên vì nóng. Giọng lão như có ma thuật:
- Hãy kể hết đầu đuôi cho ta nghe! Kể hết, không được giấu. Chỉ có như vậy thì ta mới có thể gỡ mọi rắc rối mà anh đã gây ra. Ta đang lắng nghe...
Vọng khó khăn lắm, cuối cùng đành phải tiết lộ điều mà gần ba năm qua anh cố giấu kín:
“Hôm đó tôi đi làm về thì má tôi gọi vô phòng riêng, nói cho tôi nghe một chuyện động trời: Vợ tôi ngoại tình!
Khác nào bị sét đánh, tôi hỏi lại:
- Bằng chứng đâu má nói vậy?
Ném tới trước mặt tôi một xấp ảnh mới toanh, bà hằn học:
- Như vầy đã đủ chưa? Chỉ có đui mù như mày mới không hay không biết thôi!
Tôi cầm xấp ảnh lên xem và tái mặt! Bởi trong ảnh là Bảo Ngọc, vợ tôi đang lõa lồ cùng với một người đàn ông khác!
- Làm sao má có những tấm ảnh này?
Má tôi cười khẩy:
- Chịu khó theo dõi là có thôi. Vậy mày còn nói con vợ mày đoan chính, chung tình nữa thôi?
Tôi hầu như suy sụp hoàn toàn:
- Nhưng mà… nhưng mà Bảo Ngọc đang… đang có bầu gần ngày sinh mà?
Má tôi nói như thét vào mặt tôi:
- Con cái gì của mày mà mày khéo tin! Mày có biết nó cắm sừng mày đã trên một năm nay rồi không! Coi cái ngày trên lịch tường của mấy tấm ảnh thì biết!
Lúc này tôi mới để ý tờ lịch trong các bức ảnh. Mỗi ảnh có ngày khác nhau, rõ ràng là cách hơn một năm trước. Tôi buông thõng xấp hình xuống gào lên:
- Khốn nạn! Quân chó chết!
Má tôi đã sắp xếp cho tôi gặp một người, mà chính người này gợi ý:
- Tôi sẽ lo đầu đến đuôi, xin ông mười triệu!
- Lo là lo làm sao? Có ổn không?
Má tôi chen vào:
- Đã nói cậu đây là chuyên nghiệp mà! Cứ để người ta làm.
Rồi như sợ tôi hối hận, má tôi trấn an:
- Mình sẽ nhờ cậu ấy giúp trục cái thai của con Bảo Ngọc ra rồi sau đó giấu biệt đi mình phải trừ hậu họa, chứ nếu để nó sinh ra thì càng nhục cho dòng họ mình hơn nữa!
Tôi lo lắng:
- Nhưng liệu cái thai lớn quá rồi, lấy ra có nguy hiểm không? Sao mình không đợi cho nó sinh xong rồi đem cho đứa nhỏ đi, đỡ nguy hiểm hơn?
Má tôi cương quyết:
- Một khi để người phụ nữ sinh đứa nhỏ ra họ sẽ không đành lòng vứt bỏ nó. Mà mình đem giấu nó thì cả đời con Ngọc sẽ chẳng bao giờ quên con được! Má muốn nó xem như mình bị hư thai thôi…
Tôi đành phải nghe theo mẹ mình. Hôm đó, sau khi cho Bảo Ngọc uống ly sữa mà trong đó má tôi lén bỏ chất gì đó vào, Ngọc kêu đau bụng, tôi vội giục cô ấy đi nhà bảo sinh. Tôi làm như đưa đi sinh thật, nhưng khi ra tới bên ngoài, gã lưu manh mà má tôi thuê đã chờ sẵn, hắn thay tôi đón Bảo Ngọc và đưa đi.
Hắn hứa với tôi:
- Nội buổi chiều sẽ đưa cô ấy về yên ổn!
Tôi tin như vậy. Nhưng qua một đêm, đến ngày hôm sau vẫn chưa thấy Bảo Ngọc trở về. Hỏi má tôi thì bà có vẻ lúng túng. Đoán có chuyện chẳng lành, tôi truy hỏi thì cuối cùng má tôi thú nhận:
- Tụi kia phá thai cho con Bảo Ngọc, làm quá tay nên con nhỏ đã… chết! Xác được đưa đi và xử lý gọn gàng rồi. Ai cũng biết là ca sinh khó…
Tôi điên lên, nhưng má tôi đã trấn an:
- Cũng tốt thôi con. Nó mà còn sống liệu con có lòng dạ nào sống đời sống kiếp với nó không?
Tôi lặng người đi, vừa hối hận vừa đau khổ...
Nhưng chỉ một tuần sau thì tôi phát hiện một sự thật hoàn toàn khác hẳn! Má tôi tiếp một đôi vợ chồng lạ và gọi tôi ra cùng nói chuyện. Bà giới thiệu:
- Đây là hai bác chủ đồn điền ở Đà Lạt. Hai bác đang giúp gia đình ta đủ mọi thứ. Và còn tốt hơn nữa, hai bác ấy còn có ý định gả con gái mình cho con.
Tôi phản đối ngay, nhưng mẹ tôi đã gọi tôi ra ngoài, nói rất cương quyết:
- Má đang nợ họ số tiền rất lớn. Má có bán hết sản nghiệp mình cũng không trả hết được. Nay hai bác ấy hứa, nếu hai nhà làm thông gia với nhau thì sẽ đồng ý xóa hết nợ nần, lại còn giao sản nghiệp lớn nữa! Hãy nghe lời má, thương má...
Tôi chợt hiểu! Thì ra vì muốn tôi bỏ vợ đi lấy con gái ông bà chủ đồn điền nên má tôi đã bằng mọi giá loại Bảo Ngọc ra khỏi cuộc đời tôi! Và vô tình, tôi đã góp tay vào tội ác! Còn chuyện những tấm ảnh, đến lúc đó tôi mới hiểu, đó chỉ là ảnh ghép!”.
Ông thầy Chu - yang chăm chú nghe Vọng kể. Ông có vẻ xúc động, nhưng chừng như cố nén lòng.
Trước khi chia tay, ông ta nói một câu làm Vọng phải suy nghĩ:
- Ở đời, bất cứ hành động nào đều cũng có cái giá của nó. Cậu phạm vào tội ác tày trời, nhưng dẫu sao cũng chỉ là con rối. Hình phạt nặng nề nhất của cậu bây giờ là lương tâm!
Thật bất ngờ, Vọng và bà Muôn nhận được trát hầu tòa! Lý do ghi trong trát tòa là liên quan đến vụ án Bảo Ngọc!
Bà Muôn hoảng lên:
- Ai thưa mình chuyện này?
Vọng sững sờ:
- Con không rõ.
Và càng bất ngờ hơn, lúc ngồi chờ phiên tòa, Vọng thấy ông thầy Tàu Chu - Yang! Ông ta lại trong vai trò một luật sư phía nguyên cáo. Mà nguyên cáo không ai khác ngoài cha mẹ của Bảo Ngọc!
Bà Muôn thất thần, ngất ngay tại phiên tòa. Tuy nhiên tòa vẫn tiếp tục xét xử, sau khi bộ phận y tế giúp làm hồi tỉnh bà Muôn.
Ông Ma - chu - yang đứng lên trình bày khi tòa hỏi:
- Đóng giả vai một ông thầy tướng số nhờ thế tôi mới phăng ra ánh sáng vụ giết người dã man này. Tuy một trong hai người bị cáo là anh Nguyễn Vọng chỉ hành động theo xếp đặt của người mẹ, nhưng qua vụ này cho thấy rằng một con người ích kỷ, cố chấp và mềm yếu như Vọng đã vô tình đẩy vợ mình vào chỗ chết!
Khi được tòa cho phép nói, Vọng đã cúi đầu nhận hết tội về mình.
- Luật sư bên nguyên cáo nói đúng. Tôi là thằng chồng hèn, là con người ích kỷ, nhu nhược. Tôi đã ngu muội tin lời mẹ tôi để giết chết vợ con mình. Tuy nhiên mẹ tôi đã già, lại cạn nghĩ, cho nên tôi xin tòa cho nhận hết tội thay cho mẹ. Tôi mới là người đáng chết!
Nhiều người có mặt tại phiên tòa đều cảm thông cho Vọng và đều hướng về bà Muôn buông ra những lời xỉa xói mắng mỏ. Nhưng lúc ấy một bảo vệ phiên tòa đã kêu lên:
- Bà ta tắt thở rồi!
Vọng nhìn lại, anh hiểu đúng là mẹ mình đã chết.
Tòa sau khi nghị án đã tuyên bố tha bổng Vọng. Còn thủ phạm chính đã chết nên không còn bị truy cứu trách nhiệm nữa…
Mọi chuyện được sáng tỏ. Nhưng có những điều sau đó vẫn còn là bí ẩn. Nó thuộc về tâm linh.
Khi Vọng trở về nhà sau lễ an táng mẹ mình, anh vẫn tiếp tục nhận được những cú điện thoại y như lúc trước. Đầu dây bên kia vẫn không có người lên tiếng, mà chỉ có tiếng thở dài. Có hôm Vọng còn nghe cả tiếng khóc nữa! Giọng khóc rất quen…
- Bảo Ngọc!
Hiện tượng đó cứ tiếp diễn, khiến cho Vọng ngày càng bơ phờ do mất ngủ và lo lắng.
Cho đến một hôm Hằng phát hiện anh trai mình chạy ngoài đường, lảm nhảm kêu tên vợ rồi một cách ngẫu nhiên, anh ta đi thẳng tới chỗ Tang Nghi Quán bữa trước. Vọng quỳ ở đó đến lúc ngất xỉu.
Từ đó Vọng thành người mất trí. Suốt ngày cứ ngồi trước máy điện thoại. Nhưng nghe tiếng điện thoại reo là anh ta lại hốt hoảng la hét om sòm!
Người ta bảo rằng, Vọng đã bị những hồi chuông điện thoại hớp mất hồn rồi. Và anh ta sẽ mãi mãi như vậy. Bởi có trong trạng thái như thế anh ta mới nghĩ là mình đang ở bên Bảo Ngọc...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 01:18 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.