Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ma
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #51  
Old 11-07-2012, 04:14 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 26

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXVI: Phần I

XÁC AI TRONG NGÀY CƯỚI


Một buổi sáng trời thật lạnh, ở xứ sở cao nguyên này là chuyện không lạ. Tuy nhiên, điều lạ lại nằm ở người phụ nữ trẻ đang rời khỏi ngôi biệt thự cổ để bước xuống dốc ra bờ hồ mà chỉ mặc chiếc áo phong phanh. Phải chăng cô nàng có tâm thần bất ổn?
Chưa hẳn đã như vậy, bởi sau khi xuống tới bờ hồ cô lại biết vẫy tay đón một chiếc xe ngựa, chỉ hướng về phía ngoại ô, tới nghĩa địa. Chiếc xe đầu tiên thà đậu ở đó chờ khách khác, chứ không chịu đi nghĩa địa lúc quá sớm. Phải chiếc thứ hai thì ông già mới chịu đi. Cuối cùng chiếc xe ngựa ấy được ra dấu cho ngừng trước cổng khu nghĩa trang lớn nhất thành phố Đà Lạt. Người đánh xe giờ mới buột miệng hỏi:
- Cô đi thăm mộ sớm quá. Vậy lát nữa cô có cần quay về không, tôi đợi?
Nàng chỉ nhẹ mỉm cười, rồi khóat tay từ chối, chứ không lên tiếng. Cô nàng đi thẳng vào nghĩa địa mà chẳng một ai khác để ý, vì vào giờ đó thì người quản trang vẫn chưa thức dậy.
Cô ta lại đi thẳng vào sâu trong khu nghĩa địa rộng lớn chiếm gần hết một bên sườn đồi thoai thoải. Cuối cùng cô dừng lại trước một ngôi mộ được xây bằng đá hoa cương rất bề thế, rồi đứng im, cúi đầu...
Vừa lúc ấy cô nàng rùng mình. Có lẽ bây giờ mới thấm lạnh! Mà cái lạnh buổi sáng sớm vào những hôm trời rét đậm như thế này một khi đã rùng mình mà không làm ấm kịp thời thì vướng bệnh là cái chắc!
Nhưng điều này sẽ không xảy ra, bởi vừa khi ấy thì cô ta chỉ nhẹ đưa tay lên đầu ngôi mộ thì đã có sẵn chiếc áo khóac của ai đã máng nơi đó và mặc vào một cách rất tự nhiên.
Khi đã đủ ấm, cô nàng từ từ ngồi xuống nơi đã có ai đặt sẵn một bó layơn màu vàng còn tươi. Bấy giờ tấm bia mộ mới lộ ra dòng chữ Dã Lan chi mộ.
Không khấn vái, cũng không đốt hương theo thông lệ người đi viếng mộ, cô nàng chỉ ngồi im rất lâu. Cuối cùng một tiếng nấc vang lên!
Buổi sáng âm u lạnh lẽo bao trùm khu nghĩa địa buồn...
Lúc ấy ở ngoài cổng chợt có một chiếc xe ô tô màu đen chạy nhanh tới đã dừng lại. Trên xe, người thanh niên bước nhanh xuống nhìn quanh một lượt rồi chép miệng:
- Đi đâu kìa?
Người đánh xe ngựa lúc nãy vẫn còn đậu lại để đốt thuốc hút, thấy vậy đã định lên tiếng hỏi, thì bỗng thanh niên lái xe hỏi trước:
- Nãy giờ chú có thấy cô gái trẻ vào trong này không?
Người đánh xe chỉ tay và đáp:
- Mới vào chừng năm phút!
Anh chàng nhanh chóng rời khỏi xe, sắp bước vào cổng nghĩa trang thì chợt dừng lại nói:
- Nếu chú còn đậu xe ở đây thì nếu cô ấy có trở ra làm ơn nhắn giùm là có Phước tới tìm! Cám ơn chú.
Anh chàng tên Phước đó đi như chạy qua hết lô mả này tới lô mả khác, cuối cùng dù không biết nơi cô gái đến, nhưng anh cũng dừng lại đúng ngôi mộ có tên Dã Lan. Đầu mộ chỉ còn bó hoa lay-ơn, ngoài ra chẳng có ai!
Đứng rất lâu trước ngôi mộ, rồi sau đó Phước lặng lẽ bước đi một vòng hầu như khắp khu nghĩa địa. Vẫn chẳng thấy bóng nàng đâu. Thất vọng, anh thở dài:
- Tìm ở nhà không có, ra đây cũng không... Vậy cô ấy đi đâu?
Gần một giờ sau Phước mới trở ra ngoài. Bác đánh xe ngựa vẫn còn đậu đó, bác tò mò hỏi:
- Cậu gặp cô ấy chưa?
Phước lắc đầu, bác ấy nói liền:
- Nghĩa địa này chỉ có một cổng ra này thôi, phía bên kia là đồi cao không leo lên được như vậy chắc chắn là cô ấy còn ở trong. Sợ dĩ tôi không bỏ về là có ý đợi cô ấy. Tội nghiệp, thấy cô ấy buồn và cô đơn quá.
Phước leo lên xe và không quên dặn lại lần nữa:
- Lát nữa nếu cô ấy có ra thì bác nói giùm là có Phước tìm, có chuyện gấp lắm! Nói là Phước đã nói chuyện điện thoại với cô ấy đêm qua. Bác nói vậy là cô ấy nhớ ra.
Thật ra Phước chỉ mới biết cô gái này qua cuộc điện thoại mà anh gọi vào ngôi biệt thự cổ để hỏi thuê trọ trong một tuần ở lại Đà Lạt. Anh gọi đến gặp chủ nhà, nhưng cô gái ấy lại nhấc máy lên nghe. Sau khi Phước hỏi còn phòng cho thuê không thì cô ấy bảo mình cũng là khách, nhưng nếu Phước muốn thuê nhà thì ngày mai cứ tới, bởi sáng sớm mai cô sẽ trả nhà. Lúc đó Phước đã hỏi vội rằng sau khi trả lại nhà thì cô đi đâu? Thì bất ngờ cô ấy đáp gọn lỏn: Đi về thế giới bên kia! Nói vậy rồi cô ta gác máy. Đến sáng nay khi tới ngôi nhà cổ thì bà chủ nhà báo là cô gái mới vừa trả nhà xong, hình như là đi luôn không trở lại... Nhớ tới câu nói không biết đùa hay thật của cô gái và sau đó hỏi bà chủ nhà, bà chỉ xuống hướng bờ hồ. Phước hỏi đúng người đánh xe ngựa đã từ chối chở cô gái, ông ta bảo cho Phước biết cô ấy đi về hướng nghĩa địa và Phước đã linh tính điều chẳng lành, anh tức tốc đi ra hướng ấy...
Không còn cách nào hơn, Phước lái xe trở về ngôi biệt thự cổ. Bà chủ nhà báo liền:
- Vừa rồi tôi nhận được một cuộc gọi điện thoại, nghe giọng biết là cô Hồng Hạnh, nhưng tôi vừa a lô thì bên kia cúp máy. Chẳng biết có phải cô ấy gọi không, mà sao...
- Cô gái ấy tên là Hồng Hạnh?
- Đúng rồi! Một cô gái hiền lành, dễ thương, nhưng tội nghiệp quá, chẳng hiểu sao lại cô đơn. Suốt mấy tháng ở đây chưa bao giờ tôi thấy có bạn bè gì tới thăm. Người đẹp đẽ như vậy mà...
- Chắc tại cô ấy khó tính cũng nên?
Bà chủ nhà bênh vực ngay:
- Không phải đâu! Cô ấy ăn nói mềm mỏng hòa nhã lắm. Có lẽ do có tâm sự gì đó...
Phước hỏi thẳng việc thuê phòng:
- Bà có chắc là cô ấy bỏ đi luôn không? Nếu chắc thì tôi xin thuê căn phòng ấy.
Sau vài giây suy nghĩ, bà đồng ý:
- Thật ra tôi cũng mong cô ấy đi đâu đó rồi trở lại ở tiếp. Nhưng thôi, sau này rồi hãy tính. Bây giờ có cậu là bạn cô ấy ở thì cũng được.
Phước định đính chính mình không phải là bạn, nhưng lại thôi, anh hỏi:
- Cháu đến ở ngay được không bác?
- Cũng được. Mà cậu tính ở bao lâu?
- Dạ, nếu xong việc sớm thì hai tháng, còn nếu việc kéo dài thì có thể lâu hơn. Được chứ bác?
- Được. Nhà tôi đơn chiếc, có người tới ở cho vui. Mà nói thật, cậu là bạn của cô Hồng Hạnh nên tôi mới dám cho ở, chứ tôi ngại cho thanh niên mướn nhà lắm.
Phước nghĩ bà ta ngại chuyện người thuê nhà dẫn gái về nhà, nên anh vội nói:
- Bà yên tâm, cháu cũng giống như cô Hồng Hạnh, ở chỉ một mình và sẽ không có bạn, nhất là bạn gái.
Bà chủ thanh minh ngay:
- Tôi không phải cấm chuyện bạn gái, bởi nhà đã mướn rồi là quyền của cậu. Tuy nhiên, tôi lại sợ người không đàng hoàng. Với cậu thì tôi yên tâm... Vậy đây, cậu cứ dọn vào mà ở, tiền bạc thì cô Hạnh sao cậu vậy.
Anh chỉ chiếc xe hơi:
- Cháu có chiếc xe này làm phương tiện đi lại, cháu đậu nó ở sân được chứ ạ?
Bà chủ nói vui:
- Có xe của cậu, thỉnh thoảng tôi có cần đi cấp cứu hay chuyện khẩn cấp gì chắc cũng tiện đây!
Thấy bà ta vui tính, Phước lân la hỏi thêm chuyện:
- Cô Hạnh ở đây và làm gì hả bác?
- Ủa, cô ấy chưa nói cho cậu nghe sao?
- Dạ chưa.
- Cô ấy nói đi tìm tung tích của thân nhân.
Phước hơi ngạc nhiên:
- Cô ấy tìm được?
- Tôi cũng không biết. Không hề nghe cô ấy nói.
Bất chợt Phước nhớ chuyện ở nghĩa địa, anh kêu lên:
- Ngôi mộ trong nghĩa địa!
Bà chủ nhà không hiểu, nên hỏi lại:
- Cậu nói mộ của ai?
- Bác có biết Hồng Hạnh có người thân chết chôn trong nghĩa trang thành phố này không?
Bà chủ nhà lắc đầu:
- Tôi không nghe nói. Nhưng sao... cậu gặp cô ấy đi vào nghĩa địa lúc nãy?
Phước trầm ngâm một lúc rồi lắc đầu:
- Dạ, cháu không gặp, nhưng có lẽ...
Phước tới ở chỉ gọn trong một va li quần áo, nên anh chỉ việc chuyển vào phòng là xong. Lúc vào phòng, anh vẫn còn ngửi được mùi thơm vốn có ở một phòng ngủ con gái. Quan sát khắp nơi thì chẳng còn vương lại chút gì khác của người ở trước, ngoại trừ khi mở tủ áo ra anh phát hiện có bộ đồ mặc trong nhà bằng lụa màu hồng phấn. Đúng là của cô nàng bỏ quên lại. Phước báo cho bà chủ nhà, nhưng bà lại bảo anh:
- Cậu cứ tạm để trong tủ đó đi, có lẽ hôm nào cô ấy sẽ trở lại lấy.
Tuy nghe theo, nhưng sau đó Phước cứ bị bộ quần áo ám ảnh mãi. Anh hết lấy ra ngắm, rồi lại đứng nhìn nó treo trong tủ, mà mỗi lần nhìn thì Phước lại tưởng tượng cảnh cô nàng lang thang trong nghĩa địa và tự dưng thấy lo lo. Phước cũng chẳng hiểu mình lo điều gì, và tại sao lại để tâm trí vào một người con gái hoàn toàn xa lạ như thế?
Cho đến hơn mười một giờ đêm hôm ấy Phước vẫn chưa thể nào ngủ được, anh bước đến mở cửa sổ nhìn ra ngoài. Có một khu vườn trồng hoa ở phía sau nhà. Trời đêm lạnh và có sương mù, hơi lạnh lùa vào khiến Phước rùng mình, anh vừa định đóng cửa lại thì chợt có một bóng người lướt nhanh qua cách tầm mắt anh không xa.
- Đêm như thế này mà ai đi ngoài trời lạnh như thế?
Phước tự hỏi và chưa kịp tìm được lời đáp thì bỗng anh lảo đảo, mắt hoa lên như bị trúng gió. Phải vịn vào thành cửa sổ Phước mới đứng vững được. Một lúc lâu sau Phước mới qua được cơn choáng đột ngột đó. Anh vội đóng ngay cửa lại và quay trở về giường. Nhưng khi nhìn vào cửa tủ đang mở mà lúc nãy Phước treo bộ quần áo lụa ở đó đã không còn thấy nữa! Đồng thời có một mùi hương thoảng nhẹ còn vương lại khắp phòng.
- Phải chăng...
Phước thừ người ra một lúc rồi mở toang cả hai cánh cửa tủ, anh hơi hoang mang, tự hỏi:
- Ai vào được phòng này?
Anh sợ lúc mình bị choáng có ai đó đã lọt vào phòng, nhưng khi xem lại cửa phòng thì chốt gài bên trong vẫn còn. Chỉ có cửa sổ...
- Không lẽ...
Phước nghĩ tới cái bóng người lướt qua lúc nãy. Tuy nhiên, từ cửa sổ anh ở là lầu một của ngôi nhà, cách mặt đất bên dưới khá xa, không thể nào...
Phải mất hơn một tiếng đồng hồ sau, Phước mới tìm lại được giấc ngủ, nhưng cũng vừa chợp mắt là như có ai đó thọc vào mạng sườn khá mạnh, khiến Phước phải choàng dậy định lên tiếng thì một phen nữa giật mình, bởi bàn tay anh chạm phải bộ đồ lụa đang nằm cạnh!
Mở đèn lên nhìn thì đúng đó là bộ quần áo lúc nãy! Phước chưa tin hẳn vào mắt mình nên phải cầm lên xem kỹ, và nhờ vậy anh phát hiện có một mảnh giấy đính kèm, rơi ra. Phước đọc được dòng chữ: Sao lại tơ tưởng đến cái không phải của mình!
Chẳng biết mấy chữ đó viết cho ai, nhưng Phước có cảm giác là nhắm vào mình. Anh chợt rùng mình khi nghĩ trong lúc anh ngủ đã có ai đó vào phòng và trả lại bộ đồ. Điều này là chắc chắn!
Anh mở cửa gọi bà chủ nhà. Bị đánh thức đột ngột, bà ta tỏ ra khó chịu nhưng sau khi nghe Phước thuật lại chuyện thì bà giật mình:
- Có chuyện đó sao?
Bà quả quyết với Phước:
- Từ nào đến giờ ở nhà này chưa từng xảy ra bất cứ chuyện gì như vậy. Mà nhà này cửa nẻo chắc chắn, không làm sao người ngoài lọt được vào. Hơn nữa còn có hai con chó nhốt ở ngoài vườn, chỉ cần một tiếng động nhỏ là nó sủa vang trời luôn. Mà lúc nãy tôi có nghe gì đâu...
Phước không muốn tranh luận nên anh lẳng lặng đóng cửa lại. Nhưng vừa lúc đó, bà chủ nhà lại gõ cửa và lên tiếng:
- Hay cậu đưa bộ đồ ấy cho tôi giữ có lẽ tốt hơn.
Phước thật tâm không muốn, nhưng chẳng lẽ lại giành, nên anh lấy bộ quần áo đưa cho bà ta. Anh thầm nghĩ, như thế có lẽ tốt hơn thật! Và Phước ngủ khá thẳng giấc ngay sau đó...
Tuy nhiên, mới vừa mờ sáng, Phước đã nghe bà chủ nhà vừa chạy sang vừa kêu lên:
- Lạ quá cậu Phước, bộ đồ... sao nó lại...
Nhìn bộ dạng bà ta, Phước chợt hỏi:
- Bộ đồ mất nữa rồi sao?
Bà chủ nhà sợ hãi:
- Mất rồi! Tôi khóa cửa lại cẩn thận mà...
***
Bà chủ nhà Ánh Hồng đã thật sự cần sự có mặt của Phước trong nhà sau sự cố đó. Bà mất ngủ luôn mấy hôm sau, cho đến khi Phước báo cho bà cái tin còn chấn động hơn:
- Bộ đồ đó hiện đang nằm trong va li của cháu!
Số là khi dọn vào ở, Phước đã lấy hết quần áo trong va li ra để mắc vào tủ áo, còn chiếc va li thì anh cho vào gầm giường. Sau chuyện mất bộ đồ của cô gái thì Phước cũng có kiếm tìm trong phòng, nhưng không bao giờ nghĩ là nó lại nằm trong đó. Cho đến sáng nay lúc chợt nhớ là mình còn để sót vài vật dụng linh tinh trong đó, Phước mới kéo va li ra và ngớ người khi thấy bộ đồ lụa nằm ngay ngắn trong đó. Anh gọi ngay cho bà chủ Ánh Hồng, bà run run giọng bảo Phước:
- Cậu liệu mà... bỏ bộ đồ ấy đi! Tôi không ngủ được vì nó, mà bây giờ lại như thế này nữa thì chắc tôi chết mất!
Phước chỉ ậm ừ:
- Được, để cháu tính...
Tuy nói vậy, nhưng Phước lại lén để bộ đồ trở lại trong va li và tự nhủ:
- Để xem...
Anh đi thật sớm, trở lại khu nghĩa địa. Suốt mấy hôm suy nghĩ, cuối cùng Phước quyết định phải trở lại nghĩa địa một lần nữa. Anh đi một vòng hầu như khắp nơi, cuối cùng anh lại tìm gặp ngôi mộ có tên Dã Lan bởi một dấu ấn dễ phát hiện: Ngay trước đầu mộ vẫn có một bó hoa lay-ơn tươi giống như hôm trước! Bó hoa này chắc chắn là mới được đặt sáng sớm nay hoặc có thể là tối qua, chứ không phải là bó hoa cũ mà anh thấy hôm trước. Phước đọc kỹ dòng chữ ghi trên mộ bia và lẩm bẩm:
- Cô ta là thế nào với người nằm dưới mộ?
Thắc mắc của Phước là về Hồng Hạnh, cô gái đang làm cho anh và bà chủ nhà Ánh Hồng điên đầu. Phước không nghĩ chính Hồng Hạnh là người gây ra những rối rắm vừa qua, mà có thể đó là người nằm dưới nấm mộ này.
Nhìn kỹ lại những chữ ghi trên mộ bia, thấy ngày sinh tử, Phước kêu lên:
- Chết rất trẻ!
Nếu tính ra thì cô này chết lúc chỉ mới mười tám tuổi! Bất giác, Phước cảm thán:
- Chết trẻ như vậy, thảo nào...
Phước dự tính khi về sẽ hỏi lại bà chủ nhà, có thể bà ta sẽ biết chút gì đó về cô gái tên Dã Lan này. Còn bây giờ, chẳng còn biết làm gì, Phước lại đi lang thang trong nghĩa trang một lúc nữa, rồi quay trở ra định về. Tuy nhiên, chẳng hiểu sao khi quay lại thì anh lại đi qua lô cũ, tức trở lại đúng ngôi mộ cô Dã Lan lúc nãy! Mà lần này khiến anh ngơ ngác, bởi bó hoa nằm ở đầu mộ không phải là bó lay-ơn màu vàng như lúc nãy, mà thay vào đó là một bó hoa hồng vàng tươi thắm!
Nghĩ chắc chắn có người mới vừa tới viếng mộ, Phước quay một vòng nhìn, khi không thấy bóng ai, anh thử hỏi lớn:
- Ai vào đây vậy? Ai vừa thăm mộ cô Dã Lan?
Không có ai đáp lời, Phước chợt nghĩ tới cô gái, anh thốt lên:
- Hồng Hạnh!
Lời anh vừa dứt thì chợt có một tiếng bật khóc gần đâu đó. Tiếng khóc của một cô gái! Phước nhìn lên và anh bắt gặp một bóng người đang thoắt chạy sau hàng mả phía bên kia. Không suy nghĩ thêm, Phước tốc chạy theo, vừa cất tiếng gọi lớn:
- Hồng Hạnh! Cô Hạnh!
Bóng người kia chạy rất nhanh, nên dù cố tăng tốc, vậy mà khi ra đến cổng thì mất bóng cô ta! Phước đang còn ngơ ngác thì chợt nghe tiếng xe hơi rồ mạnh cách đó không xa. Mở máy xe mình, Phước phóng vội theo, bởi anh nghĩ, chỉ cần bám được chiếc xe này thì mọi thắc mắc trong đầu anh sẽ được giải hết!
Tuy nhiên, chiếc xe kia chạy ra hướng ngoại ô và vẫn duy trì tốc độ rất nhanh mặc dù đi qua vùng dân cư đông đúc, khu vực Trại Hầm. Khó khăn lắm Phước mới bám đuổi kịp và tới một khúc ngoặt, Phước cố hết sức và vượt lên cặp sát được chiếc xe kia, rồi bằng một động tác bẻ lái rất chuyên nghiệp, Phước đã vượt qua được chiếc xe và vờ như bị sự cố, Phước cho xe dừng lại, bắt buộc chiếc xe nọ cũng phải dừng theo. Chỉ chờ có thế, Phước bước vội xuống xe và quan sát nhanh bên trong xe ấy biết thế nào cũng nhìn thấy cô gái lúc nãy.
Nhưng Phước đã lầm. Trong xe không có ai khác ngoài tài xế là một người lớn tuổi! Hơi ngượng, nên Phước tìm cách nói:
- Dạ, xin lỗi. Cháu chỉ... bị kẹt thắng, cháu muốn...
Ông tài xế lịch sự cười nhẹ với Phước rồi chậm rãi lách xe ra phía ngoài, đi thẳng. Phải mất hơn chục giây sau Phước mới bình tĩnh lại và cho xe đi theo. Nhưng lạ quá, xe anh vẫn nổ máy, mà khi sang số để chạy tới thì hầu như không thể chuyển động được!
Bị những người phía sau bóp còi inh ỏi để phản đối việc đậu xe chắn ngang lối đi, nhưng Phước vẫn chẳng làm thế nào cho xe chuyển động được. Sốt ruột và bực dọc, một tài xế phía sau nhảy xuống xe và đến tận xe của Phước, quát lớn:
- Xe bị gì vậy?
Phước đành phải nói:
- Xe tôi bị kẹt thắng!
Anh chàng kia nóng nảy đưa tay đẩy mạnh một cái, xe của Phước ào tới suýt nữa đã tông phải mấy người phía trước. Phước bị một phen hú vía, lại bị mấy tài xế kia vượt qua vừa chửi bới om sòm:
- Không biết lái xe mà cũng bày đặt lái!
Phước ráng nhịn để bám theo chiếc xe kia, bởi anh vẫn còn hoài nghi có thể vừa rồi mình nhìn chưa kỹ trong xe. Nhưng mất hơn năm phút sau, anh vẫn không tài nào tìm ra chiếc xe trước. Trong khi ấy thì ở một lối rẽ, chiếc xe đó dừng lại trước một ngôi nhà trồng nhiều hoa, người tài xế bước xuống xe và giở chiếc nón đội đầu xuống thì mớ tóc dài bung ra, xõa dài xuống tới tận thắt lưng. Đó là một cô gái...
Về phần Phước thì sau một vòng tìm kiếm vô vọng, anh đành phải lái xe trở về nhà trọ. Anh tìm ngay bà Ánh Hồng và hỏi:
- Có khi nào bà nghe cô Hồng Hạnh nói về ai đó tên Dã Lan không?
Bà chủ nhà lắc đầu:
- Chưa bao giờ nghe...
Phước thuật lại mọi chuyện mình vừa gặp và kết luận:
- Cô gái tên Hồng Hạnh này có mối quan hệ gì đó với một người đã chết tên Dã Lan, và chính cô Dã Lan này đã gây ra những chuyện kỳ lạ mà bà và cháu gặp mấy hôm nay.
Vốn đã sợ từ mấy hôm rồi, nay nghe Phước kể, bà Ánh Hồng càng sợ thêm. Bà hỏi khẽ:
- Bây giờ làm sao cậu Phước?
Phước chỉ biết lắc đầu. Bà ta chợt nói:
- Hay là bữa nay tôi làm mâm cơm cúng cô ấy xem sao?
- Bà cúng ai?
- Thì cái cô gì cậu vừa mới nói đó!
- Dã Lan!
- Ừ, thì cô ấy...
Phước không có ý kiến gì, trong lúc bà Ánh Hồng nhanh chóng đi chuẩn bị một lễ cúng. Khoảng một giờ sau thì lễ cúng được bày ra, bà gọi Phước lại:
- Cậu là người tìm thấy mộ cô ấy, cũng là người gặp oan hồn cô ấy đầu tiên, vậy cậu cũng phải cùng với tôi khấn vái cô ấy.
Bà đốt hai nén nhang, đưa cho Phước một nén. Phước miễn cưỡng khấn thành tiếng:
- Vong hồn cô Dã Lan sống khôn thác thiêng, xin chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Xin cô đừng quậy phá khiến chúng tôi sợ. Chúng tôi hứa sẽ cúng vái cô đều đặn, xin cô...
Lời của Phước chưa dứt thì con gà luộc và đĩa trái cây đang cúng bỗng bị hất tung lên, văng tung tóe trên sàn nhà! Bà chủ nhà hốt hoảng:
- Sao vậy cậu Phước?
Chính Phước cũng đang hoang mang. Anh định vái lần nữa, nhưng do quýnh quá nên anh khấn lầm tên:
- Vong hồn cô Hồng Hạnh có linh thiêng thì...
Lạ lùng thay, lời khấn chưa hết thì tất cả vật cúng đang nằm vương vãi ra đó bỗng hiện diện trở lại đầy đủ trong dĩa như lúc mới bắt đầu!
Phước và bà chủ nhà đều trợn tròn mắt kinh ngạc...
***
Cuối cùng thì Phước hiểu ra tại sao anh vái vong hồn của Dã Lan thì bị phản ứng mạnh như vậy. Bởi khi anh khấn lầm tên của Hồng Hạnh thì mọi việc đều yên.
Phước nói với bà Ánh Hồng:
- Một là giữa người chết và cô Hồng Hạnh có gì khúc mắc, hai là có thể... chính Hồng Hạnh là... hồn ma!
Bà chủ nhà kêu lên:
- Cậu nói vậy sao được! Cô Hạnh đã ở đây với tôi từ bao lâu nay, mọi việc đều bình thường, thì làm sao có chuyện đó!
Phước không muốn tranh luận thêm, nên suốt từ đó cho đến chiều tối, anh đóng cửa phòng ở một mình và còn dặn bà chủ nhà:
- Hôm nay cháu ăn sáng trễ, vậy tới bữa cơm bà đừng gọi. Chừng nào đói cháu sẽ tự ra ăn.
Không nằm nghỉ, Phước làm một việc mà mấy hôm tới đây anh muốn làm mà chưa có thì giờ, đó là dời chiếc tủ áo sang vách tường bên kia. Tuy một mình kéo chiếc tủ khá nặng là rất khó, tuy nhiên hì hục một lúc Phước cũng làm được. Lúc lấy chổi quét bụi chỗ vị trí cũ của chiếc tủ thì Phước phát hiện có một mảnh giấy nhỏ đã cũ, nằm kẹt sau lưng tủ. Định quét bỏ luôn, nhưng có mấy chữ ở mặt sau tờ giấy khiến Phước phải cúi xuống cầm lên xem ngay.
- Dã Lan!
Phước kêu lên và suýt đã đánh rơi tờ giấy xuống sàn! Tờ giấy đó là một danh thiếp của người tên Dã Lan, có ghi cả nghề nghiệp, địa chỉ rõ ràng. Đọc qua mấy dòng địa chỉ, Phước lẩm bẩm:
- Khu Trại Hầm...
Phước nhớ hôm qua lúc lái xe đuổi theo chiếc xe lạ, anh đã tới gần với địa chỉ này. Phải chăng...
Anh ra xe đi trước sự ngạc nhiên của bà chủ nhà:
- Dạ, cháu có chút việc...
Anh lái xe về hướng Trại Hầmm vừa nhẩm đọc số nhà theo địa chỉ trong danh thiếp. Lát sau anh đã tới nơi. Đúng ngôi nhà mà bữa trước cô tài xế lái chiếc xe mà Phước đã đuổi theo không kịp!
Đã biết trước là người tên Dã Lan đã chết, nhưng Phước vẫn hỏi khi thấy có một bà cụ từ trong nhà bước ra:
- Thưa bác, cháu muốn hỏi, đây có phải là nhà của cô Dã Lan?
Bà cụ nhìn sững vào Phước rồi nhẹ lắc đầu:
- Không có ở đây.
- Thưa bác, cháu muốn hỏi...
- Chết rồi!
Bà đáp gọn như vậy rồi quay bước đi vào. Phước gọi:
- Thưa bác, cháu không hỏi cô Dã Lan!
Lúc này bà cụ mới quay lại, hỏi với giọng bình thường:
- Cậu hỏi điều gì?
- Dạ... cháu là bạn của cô Hồng Hạnh, cô này là bạn của Dã Lan... Cháu muốn...
Vừa nghe tới tên Hồng Hạnh thì bà cụ đã trợn tròn mắt nhìn Phước, vừa lùi lại:
- Cậu là... là gì với Hồng Hạnh?
Phước đã bịa, nên phải bịa tiếp:
- Dạ, cháu là bạn...
Bỗng bà cụ mắt long lên giận dữ, bà rít qua kẽ răng:
- Đồ thối tha, đồ tàn ác! Mày... mày...
Bà dang thẳng cánh tay và bất thần tát mạnh vào mặt Phước. Anh chàng không phòng bị nên nhận đủ cái tát như trời giáng ấy!
- Kìa, sao bác đánh cháu. Cháu đâu có...
Bà ta nói như hét:
- Mày cút đi ngay. Mày đã giết nó rồi nay lại dám vác mặt tới nữa sao! Đồ...
Có lẽ bà tính tát thêm nữa, nhưng Phước đã lùi kịp và một lần nữa kêu lên:
- Sao bác làm vậy!
Bà cụ giờ mới ôm lấy mặt, gào lên trong nước mắt:
- Lan ơi, con chết rồi mà nào đã yên thân! Người ta lại tới nữa, họ còn muốn gì nữa đây, trời ơi!
Phước thấy cần phải nói rõ:
- Thưa bác, cháu chưa hề biết gì về cô Dã Lan này. Vừa rồi nhân vào trong nghĩa địa cháu tình cờ gặp ngôi mộ của cô ấy.
Bà cụ chưa tin hẳn lời giải thích của anh, nên ngẩng lên nhìn và hỏi:
- Cậu là gì của con Hồng Hạnh?
- Dạ... cháu chỉ là bạn bình thường...
Lúc này gương mặt của bà bớt căng thẳng, rồi sau khi nhìn Phước một lượt nữa, bà dịu hẳn giọng:
- Cậu hỏi con Dã Lan làm gì?
- Dạ... chẳng qua... cháu cũng muốn qua bác để tìm hiểu thêm về cô Hồng Hạnh?
Một lần nữa sau khi nghe nhắc tới Hồng Hạnh, bà cụ lồng lên:
- Con ác quỷ đó, cậu đừng nhắc nó trước mặt tôi!
Phước ngạc nhiên, nhưng cũng bắt đầu hiểu đôi chút sự việc. Anh lại phải bịa thêm:
- Dạ, cháu cũng là nạn nhân của Hồng Hạnh. Cho nên...
Quả như Phước nghĩ, bà cụ đổi giọng ngay:
- Cậu... bị nó làm gì? Đồ quỷ cái đó nó không chừa ai cả!
Bà kéo tay Phước vào nhà:
- Cậu vào đây rồi nói cho tôi nghe chuyện con quỷ đó làm gì cậu đi! Đúng là con đó nó chẳng chừa ai cả!
Phước phải miễn cưỡng bước theo. Khi vào phòng khách rồi anh mới giật mình khi nhìn thấy bức ảnh trên chiếc bàn thờ duy nhất trong phòng. Chân dung một cô gái thật đẹp.
- Đây là cô Dã Lan?
Bà cụ nhẹ gật đầu:
- Nó đó.
Rồi bà tiếp bằng giọng buồn buồn:
- Con nhỏ chỉ mới mười tám tuổi, mới vừa đậu đại học, chưa kịp học thì đã chết tức tưởi rồi. Mà phải chết do bệnh thì tôi không tức, đằng này lại chết do chuyện tình yêu, trời ạ!
Phước cố khai thác thêm chi tiết:
- Nhưng tại sao cô Hồng Hạnh lại dính líu tới chuyện này chứ?
Mỗi lần Phước nhắc tới Hồng Hạnh là bà cụ lại như điên tiết lên:
- Nó là đầu dây mối nhợ làm hại cháu tôi! Chính nó là đứa giành tình yêu của con nhỏ, khiến cho con Dã Lan phải chết, phải bị bức tử!
- Nhưng... cô Hồng Hạnh là thế nào với Dã Lan? Là bạn hay là...
- Nó...
Bà cụ vừa mở miệng định nói tiếp thì bất thần trợn ngược hai mắt và hầu như á khẩu luôn! Phước hốt hoảng:
- Kìa, bác!
Anh phải đưa tay đỡ bà cụ và dìu bà dựa vào chiếc ghế xô-pha. Bà cụ vẫn gần như mê man, khiến Phước phải gọi lớn vào trong nhà:
- Có ai ở sau không, giúp tôi với!
Chẳng nghe trả lời, có lẽ bà cụ sống một mình, hoặc là người nhà đi vắng. Cho nên Phước đánh bạo bước vào nhà trong với ý định tìm lọ dầu để cạo gió cho bà. Anh tìm một vòng ở ngoài không thấy nên sau khi nhìn trước sau, anh thấy một cánh cửa phòng mở hé thì quyết định bước vào. Bên trong tối thui, Phước mò bật được đèn sáng lên, chưa kịp tìm lọ dầu thì chợt giật mình khi nhìn thấy hai bức ảnh chân dung đặt cạnh nhau trên bàn. Một tấm giống y như ảnh chân dung ở bàn thờ bên ngoài, còn bức kia thì... chính là ảnh của anh!
Phước gần muốn đứng tim! Anh run rẩy nhưng hai chân gần như bất động, nên có muốn bước tới cũng không được, mà tháo lui cũng không xong.
Vừa khi ấy thì có tiếng rên ư ử của bà cụ ở nhà ngoài. Phước cố gượng chuyển dịch, nhưng vừa nghiêng người qua thì anh đã bị ngã nhoài về một bên...
Đến khi vừa tỉnh lại, Phước đã nghe có người hỏi anh bằng giọng ngạc nhiên:
- Sao cậu vào đây?
- Cậu có sao không?
Phước biết là cần giải thích, anh cố nói trong lúc đầu óc còn đờ đẫn:
- Cháu... cháu thấy bác bị ngất... nên cháu... đi tìm dầu...
Bà cụ hiểu ra, nên dịu giọng:
- Tôi tỉnh lại không thấy cậu đâu, vào đây lại thấy cậu đang nằm ngay cửa phòng của cháu tôi, nên tôi cứ tưởng...
Vừa lúc đó Phước nhớ tới hai bức ảnh hồi nãy, anh quay lại nhìn thì... trước mặt anh lúc ấy chỉ còn một ảnh của Dã Lan thôi!
- Kìa, sao lúc nãy cháu thấy...
- Cậu thấy gì? Phòng này vốn khóa cửa từ khi con Dã Lan chết, sao lúc nãy cậu mở ra được?
- Dạ cửa mở, chứ cháu làm sao mở được! Cửa mở ra và cháu nhìn thấy có hai bức ảnh trong đó, cháu ngạc nhiên quá...
Bà cụ đưa mắt nhìn vào và nói:
- Hai ảnh nào đâu? Chỉ có hình con Lan. Phòng này là phòng riêng của nó, từ ngày nó chết, tôi để nguyên không thay đổi gì hết, chỉ vài bữa vào quét bụi một lần.
Phước không tin vào mắt mình, anh nói:
- Vừa rồi cháu thấy rõ ràng có hai tấm ảnh chân dung...
Bà cụ vẫn cương quyết nói:
- Không có ảnh nào khác.
Bà tiện tay đóng cửa lại và nhắc khéo Phước:
- Cậu ra ngoài ngồi uống nước. Lúc nãy cám ơn cậu...
Bà rõ ràng không hài lòng việc Phước tự tiện vào nhà trong, nhất là nhìn vào căn phòng riêng của đứa cháu.
Phước phải một lần nữa giải thích:
- Lúc nãy cháu chỉ sốt ruột muốn tìm dầu, bởi thấy bà bị ngất...
Có lẽ sợ Phước hỏi thêm, nên bà cụ vội đứng dậy dợm bước đi. Phước đành phải cáo từ.


Phần II


Phước trở về nhà trọ và gặp bà chủ nhà chờ ở cổng, báo tin:
- Cậu có khách.
Phước ngạc nhiên:
- Ủa, cháu đâu cho ai biết mình ở đây? Ai vậy bác?
Bà chủ nhà cười khó hiểu:
- Một người đẹp! Cậu này cũng dữ nghen, vậy mà tưởng hiền...
Phước chưa biết thế nào nên vội bước nhanh vào trong, không thấy ai ở phòng khách, anh hỏi:
- Ủa, khách của cháu đâu.
Bà chủ nhà chỉ tay vào nhà trong:
- Cô ấy xin vào phòng cậu để nghỉ, tôi cho...
Phước la lên:
- Sao bà cho người lạ vào phòng của cháu!
- Ai là người lạ đâu?
Câu nói đó của người vừa bước từ trong phòng của Phước ra. Vừa quay lại Phước đã kêu lên:
- Ngọc Trâm!
Bà chủ nhà cười bảo:
- Người này cậu còn cho là người lạ nữa không!
Phước bối rối:
- Nhưng... nhưng sao em biết anh ở đây?
Cô gái tên Ngọc Trâm bước tới gần, giải thích:
- Em phải mất cả buổi để tìm ra anh. Mà cũng chẳng có gì khó, bởi Đà Lạt tuy cũng rộng, nhưng nơi thường cho thuê nhà trọ cũng không nhiều, chịu khó hỏi dò là ra thôi.
Rồi cô quay sang bà chủ nhà phân trần:
- Bà chủ thấy không, đàn ông họ vô tình và thường chỉ nghĩ cho phần mình thôi, không hiểu thế nào là nỗi khổ của người khác!
Bà chủ nhà chen vào:
- Không phải tôi tự động cho cô ấy vào phòng cậu đâu. Khi cô ấy tới đây, hỏi đúng tên cậu thì tôi xác nhận là có, tôi mời cô ấy vào nhà, tính để ngồi ở phòng khách chờ cậu, nhưng khi thấy cô ấy đưa ra lá thư của cậu gửi khi mới tới Đà Lạt cho cô ấy thì tôi hiểu cô ấy và cậu là... vợ chồng sắp cưới, nên khi cô ấy than mệt tôi đã không ngại cho cô ấy vào phòng cậu nằm nghỉ để chờ...
Biết thế nào Phước cũng lên tiếng thanh minh gì đó, nên Ngọc Trâm chủ động nói:
- Em có đem cái này cho anh, vào đây em cho coi!
Lúc này Phước đành phải nói rõ, để việc anh và Trâm vào chung phòng được danh chính ngôn thuận:
- Trâm là người yêu của cháu. Vậy xin phép bác cho tụi cháu nói chuyện riêng một lát...
Bà Ánh Hồng vui vẻ:
- Không hề gì. Tưởng là bạn bè suông thì còn phải thắc mắc, chứ đã là người yêu, là vợ sắp cưới thì cô cậu cứ tự nhiên. Muốn ở bao lâu cũng được. Và nếu phòng đó chật, thì tôi đổi qua phòng trên lầu cho rộng hơn, biệt lập hơn.
Phước vội nói:
- Dạ, được rồi bác. Tụi cháu chỉ...
- Đừng có ngại. Tôi rất thông cảm cho những người trẻ, cứ tự nhiên đi!
Bà nói xong lảng đi vào phía sau, để cho Phước bị người yêu kéo tuột vào trong phòng. Vừa vào phòng, Ngọc Trâm chủ động đóng cửa lại ngay khiến Phước hốt hoảng:
- Làm vậy coi sao được!
Ngọc Trâm nheo mắt:
- Bà chủ đã cho phép rồi, còn ngại gì nữa!
Cô nàng ôm chầm lấy Phước hôn lấy hôn để, khiến Phước phát ngượng:
- Em làm gì vậy! Em... em để anh thở đã chứ!
Sau phút chào nhau theo kiểu của Trâm, bấy giờ Phước mới hỏi:
- Sao em ra khỏi nhà được mà đi tìm anh? Sao không nghe lời của ba má, bỏ anh để đi lấy chồng đi, cho tròn chữ hiếu?
Trâm dụi đầu vào ngực người yêu:
- Nghe cái giọng giận dỗi, mỉa mai thấy mà ghét! Xúi người ta đi lấy chồng phải không? Người ta nghe lời, làm y như vậy thì đừng có trách!
Phước vẫn còn dỗi:
- Trách thì cũng được gì đâu! Bởi vậy anh mới chọn giải pháp đầu hàng, bỏ đi và chịu đau khổ một mình!
Trâm bật dậy, nhìn thẳng vào mắt Phước nghiêm giọng:
- Một mình hay mấy mình? Một mình sao mới lên đây mấy ngày mà nghe bà chủ nhà nói ngày nào cũng đi từ sáng sớm tới chiều tối? Đi với ai?
Đã yêu nhau năm năm, nên đâu lạ gì nhau. Phước còn hiểu bề ngoài thoải mái của Trâm là cả một đợt sóng ngầm dữ dội bên trong. Việc cô nàng dám bỏ nhà theo anh lên tận đây đủ biết tình yêu nàng dành cho anh mạnh đến mức nào!
Phước dò hỏi:
- Chuyện nhà ra sao rồi?
Trâm xịu mặt:
- Anh tệ lắm, mới gặp trở ngại một chút đã giận dỗi bỏ đi rồi! Anh có biết không, khi hay tin anh đi em đã muốn bỏ đi ngay để tìm, mà chẳng biết làm sao. Phải đợi khi anh viết mấy chữ về báo là lên Đà Lạt thì em mới yên tâm. Còn chuyện ba mẹ em thì như anh biết đó, ý là của ông bà, chứ có phải của em đâu!
- Nhưng... em có từ chối được đâu?
Trâm nhìn thẳng vào mắt Phước:
- Vậy bây giờ em ở đây với anh không là lời khẳng định hay sao? Em yêu anh và chỉ biết có mỗi mình anh thôi. Được chưa!
Phước ôm chặt người yêu, anh bàn:
- Ngày mai mình sẽ đi tìm nơi khác ở cho tiện. Chứ ở đây e không tiện lắm.
Nhưng Trâm đã phản đối ngay:
- Em thích nơi này hơn. Em thấy bà chủ nhà y như mẹ mình, nên ở đây em sẽ đỡ nhớ nhà và không phải lo này khác nữa.
Thật tình Phước rất sợ Trâm lần dò ra được chuyện rắc rối của anh với Hồng Hạnh và cả với Dã Lan. Nhưng biết làm sao khi Trâm đã quyết như vậy.
Đêm hôm đó, trong lúc Phước còn ngượng ngùng dè dặt trong lần đầu gần gũi với người yêu, thì trái lại Trâm đã làm anh ngạc nhiên. Cô nàng chủ động tất cả việc phòng the và còn nói khẽ bên tai Phước:
- Em phải hiến trọn cho anh ngay đêm nay, để mọi việc đã rồi. Chúng ta đã là của nhau và em chắc chắn là anh không bỏ em mà đi nữa!
Phước như chàng ngố đang được tập tành làm người lớn, mặc dù người huấn luyện anh cũng chẳng phải là tay lão luyện gì!
Đến sáng hôm sau thì họ đã chính thức là... vợ chồng. Phước nói với bà chủ nhà:
- Cháu muốn xin với bác là cho cháu mướn ở đây lâu dài. Coi như bây giờ cháu không chỉ một mình...
Bà Ánh Hồng cảm thông:
- Tôi biết rồi, nên đã chuẩn bị căn phòng trên lầu rộng rãi hơn để hôm nay cô cậu dọn lên.
Nhưng Ngọc Trâm lại phản đối:
- Con muốn được ở căn phòng hiện tại thôi. Nó ấm cúng và... hay hay thế nào ấy!
Phước xua tay:
- Thôi, phải chuyển lên lầu. Mình tới hai đứa chứ phải độc thân như cô ấy...
Anh lỡ lời, khiến Trâm ngơ ngác:
- Cô nào?
Bà chủ nhà phải đỡ giùm:
- À, phòng này hồi trước tôi có cho một cô độc thân mướn, trước khi cậu Phước tới.
- Anh biết cô ta?
Phước chối ngay:
- Làm gì biết. Cô ấy đã dọn đi từ lâu anh mới tới. Chỉ nghe bà chủ nói lại thôi.
Trâm liếc một cái sắc như dao cạo, và sau đó thì thầm vào tai Phước:
- Liệu hồn nghe, đừng có léng phéng!
Bà chủ nhà tinh ý nên nhận ra tính ghen của Trâm. Lúc sau khi đứng gần Phước, bà bảo khẽ:
- Cậu liệu mà giấu kín chuyện, không khéo thì mệt đó!
Trong lúc Phước đang nói chuyện với bà chủ nhà thì Trâm dọn dẹp trong phòng. Bỗng cô nàng hỏi vọng ra:
- Cái va-li của anh sao không để trong tủ mà lại để dưới gầm giường?
Vừa nghe nhắc tới chiếc rương, Phước hốt hoảng chạy vào ngay và la lớn:
- Em đừng đụng tới cái rương đó!
Nhưng lời Phước đã trễ, lúc đó Trâm đang bật nắp va-li ra. Phước điếng hồn, bởi trong đó còn bộ đồ ngủ của Hồng Hạnh!
Tuy nhiên... khi nhìn vào trong va-li thì... trống không! Phước thở phào, khiến Trâm ngạc nhiên:
- Anh sao vậy? Bộ giấu gì trong này sao?
Đã yên tâm rồi, nên Phước mạnh miệng:
- Thì xem kỹ coi có gì trong đó! Người ta sợ cái rương dơ, bẩn tay em, nên...
Trâm vừa lau chiếc rương vừa nói:
- Tưởng giấu thư tình trong này thì chết với... tôi!
Trong lúc Trâm đem cất va-li vào tủ thì Phước tự hỏi:
- Bộ đồ mình để trong đó rõ ràng mà?
Lúc này Phước thấy mình cần phải cương quyết, nếu không muốn sẽ gặp thêm những rắc rối khác nữa:
- Anh tính kỹ rồi em ơi, phòng này anh ngủ mấy đêm rồi, có đêm nghe côn trùng kêu ngoài cửa sổ, khó ngủ lắm. Chi bằng nhân tiện ta dọn hẳn lên lầu cho rồi, trên kia biệt lập hơn và tránh được những tiếng ồn nữa.
Anh chủ động gặp bà chủ nhà:
- Cháu dọn lên lầu thôi!
Bà Ánh Hồng nhìn Phước với một thoáng ngạc nhiên, nhưng cũng chấp nhận ngay:
- Tùy cậu thôi.
Ngọc Trâm tuy không ưng lắm, nhưng nghe Phước nói cũng có lý, nên cô phải nghe theo. Cũng may, quả đúng là căn phòng trên lầu rộng rãi hơn, thoáng hơn và cửa sổ không quay ra vườn sau như căn phòng bên dưới. Được nước, Phước bảo:
- Phòng này có phải là hay hơn nhiều không!
Cảm giác như vừa thoát được gánh nặng, Phước thở phào một hơi rồi giục Trâm:
- Mình ra ngoài ăn sáng đi em. Rồi mình đi chơi đây đó một vòng. Từ bữa lên đây đến giờ anh chưa đi đâu cả.
Trâm trề môi:
- Xạo! Bà chủ nhà nói bữa nào anh cũng đi. Vậy không đi đây đó chứ đi đâu?
- Thì... đi công việc khác với đi chơi chứ! Anh chỉ tới nhà vài người quen thôi...
Trâm vốn đa nghi nên hỏi tới:
- Nhà người quen ở đâu, sao không dẫn em tới đó với? Em cũng muốn làm quen với họ.
Phước phải tìm cách nói lảng ra:
- Anh tìm đã hai ngày rồi mà không gặp ai hết. Địa chỉ họ cho hình như không chính xác.
- Địa chỉ đâu đưa em xem nào. Em tìm nhà hay hơn anh nhiều!
Vừa nói, một tay Trâm thọc vào túi quần của Phước, nơi cô biết anh thường để mọi thứ trong đó. Và cô bắt gặp tấm danh thiếp trong đó. Phước điếng hồn, anh đưa tay chặn lại vừa lắp bắp nói:
- Cái... cái này là của một người bạn...
Trâm càng nghi ngờ, cố rút tay ra thật nhanh, kéo theo tấm danh thiếp. Cô đưa lên xem ngay và ngạc nhiên:
- Có địa chỉ ai đâu?
Phước chụp lấy ngay mà tim như muốn ngừng đập! Nhưng... anh còn ngạc nhiên hơn khi tấm danh thiếp trắng tinh, không có dòng chữ nào hết! Rõ ràng, đây chính là danh thiếp tên và địa chỉ nhà của Dã Lan mà!
- Danh thiếp trắng mà anh để trong túi chi vậy?
Phước một lần nữa thở phào. Anh còn chưa thể nghĩ ra tại sao lại như vậy thì Trâm đã tiếp:
- May đó, nếu gặp danh thiếp cô nào thì... biết tay tôi!
Cô nựng yêu mà Phước thót tim. Anh tự hỏi:
- Sao kỳ vậy?
Anh kiếm cớ vào nhà vệ sinh và lấy tấm danh thiếp ra xem lại. Lần này anh điếng hồn, bởi trên giấy hiện rõ rành rành những dòng chữ cũ: Dã Lan...
- Kỳ vậy?
Không chần chừ, Phước xé nát tấm danh thiếp rồi bỏ ngay vào bồn cầu, giật nước cho nó trôi đi! Làm xong việc rồi mà tim Phước vẫn còn loạn nhịp. Anh bước ra và giục Trâm:
- Đi nhanh kẻo trưa rồi em.
Sau mấy lượt "kiểm tra" mà Phước đều vượt qua trót lọt, Trâm càng yêu anh hơn, nên vừa ra đường là cô ghì chặt lấy anh, như sợ anh chàng chạy theo người khác!
Phước thầm kêu khổ, bởi như thế này thì việc dò tìm những gì về Hồng Hạnh, Dã Lan coi như cực khó...
Anh đề nghị:
- Mình ghé Thủy Tạ ngồi uống cà phê, ăn sáng đi. Sáng sớm mà ngồi đó nhìn ra mặt hồ thì thú vị lắm!
Suốt buổi sáng ngồi ở Thủy Tạ hầu như là cuộc độc thoại của Trâm khi cô nàng cứ giành nói:
- Em tính rồi, lần này mình ở luôn đây, cần gì phải đi nơi nào khác. Em thích khí hậu Đà Lạt hơn.
Phước chỉ ậm ừ:
- Cũng được. Nhưng anh lại thích Nha Trang hơn. Nơi đó có biển, có các hải đảo...
Ngồi chờ tới khi mặt trời lên cao, hai người kêu tính tiền để đi bộ lên Đồi Cù. Nhưng khi Phước cho tay vào túi quần để lấy tiền trả thì anh giật mình, bởi trong túi anh lại có tấm danh thiếp còn nguyên!
- Hồi nãy mình đã xé rồi kia mà?
Phước tự nhủ và chắc chắn trong túi không phải là tấm danh thiếp đó, tuy nhiên anh không dám móc ra.
Thấy anh lưỡng lự, Trâm hỏi:
- Anh quên đem theo tiền hả?
Phước đành phải nói dối:
- Anh quên...
Trâm lấy tiền trong túi mình để trả và không quên đùa:
- Đi với em thì em còn trả cho, nếu đi với cô nào khác thì có phải quê không?
Phước nói cho qua:
- Tại hôm qua xài hết tiền mà sáng nay anh quên không lấy thêm.
Thật ra trong túi nằm chung với tấm danh thiếp có tiền, nhưng Phước cứ sợ rút ra lỡ kéo luôn cả hai thứ ra thì rắc rối!
Trước khi rời quán, Phước lại tìm cách vào nhà vệ sinh:
- Anh hơi bị đau bụng, em chờ anh một lát.
Vào trong nhà vệ sinh, sau khi gài cửa lại Phước móc tấm danh thiếp ra xem ngay và tái mặt, bởi đúng là tấm danh thiếp của Dã Lan!
Đứng ngẩn ngơ một lúc rồi một lần nữa Phước xé vụn tờ giấy ra, anh không kịp bỏ xuống bồn cầu thì bên ngoài đã nghe tiếng gõ cửa và giọng của Trâm rất khẽ:
- Em cũng đau bụng, mau lên cho em vào.
Phước đành phải ném mẩu giấy vụn trong tay qua ô cửa sổ thông hơi ra ngoài mà anh biết đó là mặt hồ.
Mở cửa ra trong dáng điệu lúng túng, cũng may là lúc ấy Trâm đang vội, bước ra hẳn ngoài sân rồi Phước mới trấn tĩnh lại. Anh lẩm bẩm:
- Sao lại có chuyện lạ thế này? Hay là...
Tự dưng anh toát mồ hôi, nỗi sợ hãi len vào chẳng khác nào như anh đang đối mặt với một hồn ma ghê gớm trước mắt! Phải đến khi Trâm bước ra thì Phước mới cố lấy lại bình tĩnh, anh kéo cô đi ngay:
- Mình về em. Anh cảm thấy khó chịu quá...
Quả lúc ấy sắc mặt Phước xanh xao, phờ phạc. Trâm phải lên tiếng:
- Anh có cần đi bệnh viện không? Nhìn anh kìa...
Phước xua tay:
- Không cần. Mình về đi em!
Phước lái xe lảo đảo như người say rượu, phải khó khăn lắm hai người mới về tới nhà. Nhưng vừa bước vào cửa thì bà chủ nhà đã nói:
- Có người nào đó ở Sài Gòn lên, nói là tìm cô Ngọc Trâm. Phải cô là Ngọc Trâm không? Tôi không nhớ rõ lắm nên bảo họ chờ, nhưng họ nói vội quá nên đưa cái địa chỉ này bảo cô về thì tới ngay, họ cần gặp gấp lắm!
Cầm tờ giấy lên, Trâm đọc cho Phước cùng nghe:
- Đường liên xã Đông, Trại Hầm.
Vừa nghe đến đó Phước đã không dừng được, kêu lên:
- Sao lại là Trại Hầm?
Bỗng dưng Trâm cũng sợ hãi cuống cuồng lên:
- Em phải đi ngay!
Phước hốt hoảng:
- Để anh cùng đi với.
Nhưng Trâm đã nghiêm giọng:
- Anh đang bệnh không đi được. Để em tự lái xe, chuyện này cần lắm.
Cô không chờ Phước đồng ý, đã giằng lấy chìa khóa xe rồi ra nổ máy vọt đi rất nhanh. Khi ra đến ngoài rồi Trâm mới bình tâm lại, cô hơi mất tự chủ, lẩm bẩm:
- Tại sao mình lại đi? Ai ở địa chỉ này vậy?
Thật ra Trâm không hề quen ai ở địa chỉ đó cả. Mà cuối thư cũng không ký tên... vậy mà vừa đọc thư xong Trâm đã quýnh lên, như bị ai thôi thúc, ép buộc!
Do không biết đường nên Trâm phải hỏi ba bốn lượt, cuối cùng mới tìm được hướng về Trại Hầm.
Địa chỉ mà Trâm tìm được lại đúng là ngôi nhà của... Dã Lan! Nhưng khi cô xuống kêu cửa thì không phải bà cụ hôm qua đón Phước, mà là một cô gái rất đẹp. Vừa trông thấy Trâm cô ta đã reo lên:
- Cô rất đúng hẹn!
Trâm được mời vào trong nhà và cô gái chủ động tự giới thiệu:
- Tôi là Dã Lan. Còn cô là Ngọc Trâm?
Trâm ngạc nhiên:
- Sao cô biết tôi? Và lý do mời tôi tới đây là gì?
- Cô không ngại tôi nói thật?
- Ủa, chưa biết sự thật mà cô nói sẽ ra sao thì việc gì phải ngại? Cô muốn nói về cái gì mới được?
Cô nàng tự xưng là Dã Lan nói rõ từng tiếng một:
- Tôi muốn cô đến gặp một người. Người đó hiện nay chồng cô đang đau đầu vì cô ta, mà không khéo anh chàng Phước đó sẽ là nạn nhân tiếp theo! Tôi và cô tuy chưa quen biết nhau nhưng biết cô sắp gặp nguy nên ra tay cứu. Cô tin lời tôi không?
Trâm hơi giật mình, nhưng vốn tính ngang bướng, không thích bị hù dọa, cho nên cô hỏi lại:
- Cô nói tôi đang gặp nguy? Mà cụ thể thế nào?
Cô ta lấy từ cái túi vải bên cạnh một túi nhỏ, đưa ra cho Trâm xem:
- Cô xem bộ đồ này có đẹp không?
Nhìn bộ đồ ngủ bằng lụa của phụ nữ, Trâm ngạc nhiên:
- Đồ của ai vậy? Mà tại sao cô lại đưa cho tôi xem làm gì?
- Tôi không nói ra đồ này là của ai, vì người nói cho cô biết sẽ không phải là tôi.
- Vậy là ai?
Nàng ta cười khó hiểu:
- Rồi cô sẽ biết.
Trâm thấy thái độ úp mở của cô ta thì bực dọc, đứng lên ngay:
- Tôi tưởng cô là người quen thật sự của tôi, kêu tôi tới đây bởi chuyện gì quan trọng, thì ra là một việc tào lao! Vậy tôi xin kiếu!
Trâm dợm bước ra thì chợt nghe câu nói:
- Tôi muốn cô gặp một người tên là Hồng Hạnh, một cô gái dang đe dọa tới hạnh phúc giữa cô và người cô đang yêu!
Trâm quay lại, tròn mắt kinh ngạc:
- Cô muốn nói... chồng tôi và cô gái ấy?
Nàng ta cười khẩy:
- Điều đó chính cô gặp rồi nhận xét thì chính xác hơn là nghe tôi nói! Cô cứ giữ lấy bộ đồ này đem về đưa cho chồng cô xem và hỏi nó là của ai, lúc ấy cô sẽ nghe anh ta nói! Đó, sau khi anh ta xác nhận rồi chính anh ta sẽ chỉ cho cô nơi nào để cô gặp tình địch của mình.
Dứt lời ấy, cô nàng bước trở vào nhà trong và thật lâu sau chẳng thấy trở ra. Đợi mãi, Trâm sốt ruột, lúc này cô mới đảo mắt quan sát một vòng ngôi nhà.
Đến khi mắt chạm vào tủ thờ, nhìn thấy bức ảnh chân dung trên đó thì tim cô muốn nhảy ra ngoài!
- Cô... cô ta... là...
Giữa người thật bên ngoài vừa rồi và người trong ảnh chỉ là một! Vậy ra...
Trâm muốn kêu lên, nhưng hầu như cô không còn đủ lực để làm. Toàn thân cô lúc này mồ hôi toát ra như giữa trưa hè ở một vùng oi bức, dù bây giờ là mùa thu của Đà Lạt sương mù!
Lâu lắm sau đó Trâm mới lên tiếng được:
- Cô ơi!
Nhưng cũng chỉ kêu được mấy tiếng đó rồi thôi. Trâm cố lắm rồi ôm bộ đồ và chạy biến ra ngoài cổng...
Lái xe trong trạng thái còn tệ hơn Phước lúc sáng, Trâm về được tới nhà thì quá đỗi ngạc nhiên khi nghe bà chủ nhà bảo:
- Cậu Phước vừa đón xe đi ra ngoài, nói là đi tìm cô!
Trâm mệt lả người nhưng vừa nghe thế, cô đã la lớn:
- Nguy rồi, anh tới đó sẽ chết mất!
Bà chủ nhà không hiểu chuyện gì, hỏi lại:
- Cô nói ai chết?
- Anh Phước của cháu! Bác ơi, cháu mệt quá không thể trở lại đó, vậy bác giúp cháu, đi kêu Phước về liền! Không thì...
Trâm chỉ nói được bấy nhiêu đó rồi đổ người xuống sàn nhà. Bà Ánh Hồng hốt hoảng đỡ cô lên định vực vào phòng thì Trâm kịp tỉnh lại, cô nói qua hơi thở gấp:
- Đó là... là ma!
Bà Ánh Hồng tưởng Trâm mê sảng nên nói càn, bà hỏi lại:
- Cô nói cái gì?
- Ma! Cô ấy là ma!
- Cô nào?
- Dã Lan!
Nói xong câu ấy thì hầu như Trâm chẳng còn biết gì nữa. Bà Ánh Hồng làm nhiều cách mà Trâm cũng không tỉnh lại, nên bà ta đành đỡ cô lên ghế dài nằm để chờ Phước về. Bất chợt nhìn thấy trong tay của Trâm đang ôm bộ quần áo lụa, bà ta khiếp hãi kêu lên:
- Bộ đồ của Hồng Hạnh!
Đang lịm người đi, vậy mà vừa nghe tiếng Hồng Hạnh tức thì Trâm chồm dậy ngay, cô ngơ ngác hỏi:
- Hồng Hạnh ở đâu?
Bà Ánh Hồng ngạc nhiên:
- Cô cũng biết cô Hồng Hạnh?
- Hồng Hạnh! Tìm cho tôi Hồng Hạnh!
Gào lên to quá nên Trâm bị mệt, lại rơi vào trạng thái nửa mê nửa tỉnh như lúc nãy. Lúc này bà Ánh Hồng cầm bộ đồ lên xem, bà run thấy rõ, lắp bắp một mình:
- Bộ đồ này... thứ này chỉ hại thôi! Mà sao bảo cậu Phước vứt đi rồi mà giờ nó lại ở đây? Tại sao cô này lại có nó?
Bà nhớ lần rắc rối trước nên sợ bộ đồ đó lắm, nhìn nó như thấy ma! Thuận tay, bà ném mạnh nó ra cửa sổ. Nhưng đột nhiên có một tiếng kêu thét lên bên ngoài, hướng bộ quần áo vừa bị ném! Lúc bà nhìn ra thì hốt hoảng, bởi con chó già vốn thường xuyên nằm ngủ ở gốc cây mận đã bị bộ đồ rơi trúng và... nó đã vỡ óc ra chết tại chỗ, chẳng khác bị vật nặng trăm cân đè phải!
Thất thần, bà Ánh Hồng vừa chạy lui vào nhà, vừa run rẩy:
- Trời ơi! Cậu... cậu Phước ơi!
Bà chạy được tới ngang cửa phòng thì ngã sấp ở đó...
***
Phước về tới nhà thì trời đã tối hẳn, Anh bước vào phòng khách thì vô cùng ngạc nhiên khi chẳng thấy đèn đóm gì cả, mà cửa nẻo lại mở toang. Khi bật đèn lên thì anh hốt hoảng khi thấy Trâm nằm trên ghế dài, bất động!
- Trâm! Em sao vậy?
Phước lay mãi mà Trâm vẫn không tỉnh, anh vội bế cô lên phòng riêng. Mở được cửa phòng trong lúc phải bế nặng trên tay, nên Phước không kịp bật đèn, anh đã đưa thẳng Trâm tới giường.
Đặt Trâm nằm xong, Phước mới trở ra bật đèn sáng lên. Và...
- Kìa!
Lúc này trên giường không phải mỗi Trâm, mà còn có thêm một người nữa! Một cô gái lạ cực kỳ xinh đẹp, đang nằm thoải mái như trong phòng riêng của cô ta!
- Cô là...
- Là ai phải không? Người tới để đòi lại bộ quần áo bỏ quên!
Phước thót tim:
- Hồng Hạnh!
Người đang nằm trên giường bật ngồi dậy, vừa chỉ tay vào Trâm:
- Cô người yêu của anh đang tìm tôi để hại đó? Tôi cứ tưởng anh là người tốt nên mới rủ tới ở đây, và còn chỉ cho mộ của một người mà tôi đang có mối bận tâm... Nào ngờ lại nuôi ong tay áo, anh rước cô nàng này tới để cô ta nhận lời kẻ khác, rắp tâm hại tôi!
Phước ngơ ngác:
- Cô nói chuyện gì tôi không hiểu?
- Vậy bộ đồ của tôi đâu?
Phước lúng túng:
- Tôi... tôi để trong phòng, rồi...
- Rồi đem giao cho con Dã Lan phải không? Bởi vậy nên cả hai người đều tới lui nhà con đó thường xuyên!
- Không! Tôi chỉ...
- Có! Đừng chối!
Tiếng nàng ta quát quá lớn, khiến Trâm bừng tỉnh. Cô ngơ ngác:
- Anh nói chuyện với ai vậy?
Phước điếng hồn, anh lắp bắp:
- Anh... anh chỉ...
Nhưng nhìn lại thì chẳng còn thấy cô gái lạ đâu? Cũng vừa lúc Trâm bật ngồi dậy, cô nhìn quanh và la lên:
- Anh dẫn ai vào phòng này phải không? Rõ ràng còn mùi thơm phụ nữ ở đây nè... mùi thơm này em thấy quen lắm... Đúng rồi, đây là mùi của bộ quần áo lụa mà em đem về!
Phước càng sợ hãi thêm:
- Em... em đem bộ quần áo gì?
Câu hỏi của Phước vừa dứt thì đột nhiên từ ngoài cửa sổ một vật bay vào, rơi ngay trước mặt hai người. Nhìn lại, Phước kêu lên:
- Bộ quần áo!
Thì ra đó là bộ đồ mà bà Ánh Hồng mới vứt ra ngoài lúc nãy. Vừa thấy nó, Phước đã định nhào tới chụp lấy, nhưng đã bị Trâm ngăn lại:
- Bởi vậy cô ấy mới nói là cứ đem nó về đây thì biết nó là của ai. Thì ra là của anh!
- Không! Anh chỉ...
Biết máu ghen của Trâm cỡ nào rồi, nên Phước vội kể liền mọi chuyện. Tuy vậy xem ra Trâm vẫn chưa tin. Cô gặng hỏi lại:
- Không biết gì về cô ấy sao anh theo dõi làm gì?
Phước thành thật:
- Anh cũng chẳng hiểu sao lại như vậy? Hình như anh bị ai sai khiến hay sao đó... Kể cả việc anh mạo hiểm vào nghĩa trang cũng không do tự anh...
Trâm đâu biết chuyện bộ đồ gây ra cái chết của con chó lúc nãy, nên cô chụp nó lên và gí vào mũi của Phước:
- Anh xem, có phải mùi thơm của nó giống như mùi vừa rồi không?
Phước đành phải thú thật:
- Thì cô ấy vừa mới ở trong này!
Trâm ngơ ngác:
- Là sao? Anh nhân lúc em bị ngất rồi đưa cô ta vào phòng phải không? Trời ơi!
Phước hốt hoảng:
- Làm gì có! Cô ta... hiện ra!
Trâm giật mình:
- Cô... cô ta là... ma?
Tuy không rõ lắm, nhưng Phước vẫn gật đầu:
- Chắc là vậy!
Lời Phước vừa dứt thì từ ngoài cửa sổ vang lên giọng của cô gái:
- Đã cầm bộ đồ đó mà không mặc vào thì không khỏi mạng vong!
Trâm ngang bướng:
- Ai thèm mặc đồ của người khác!
Hai tiếng bốp chát vang lên trước sau, trong lúc Phước giật mình thì Trâm lảo đảo, ôm lấy mặt và rú lên! Dòng máu từ trong khoé miệng cô tuôn ra. Phước hốt hoảng:
- Sao vậy?
Trâm tru tréo:
- Sao anh đánh em?
Phước lắc đầu nguầy nguậy:
- Làm gì có! Anh có đánh em đâu?
Lại hai cái tát tiếp theo khiến Trâm ngã chúi xuống giường, lần này thì cô tin là không phải do Phước gây ra. Và cũng là lúc cô thất sắc:
- Vậy là... là ai đó đã đánh em!
Phước đoán được sự việc, anh lớn tiếng khấn:
- Tôi xin lỗi các cô, vợ tôi có lỡ lời, nhưng cô ấy không ác ý. Xin hãy tha cho...
- Mặc vào đi!
Trâm trở nên ngoan ngoãn lạ thường, cô thay đồ ngay trước mặt Phước mà không thấy ngượng. Lạ hơn nữa là bộ quần áo của Hồng Hạnh mà Trâm mặc vào lại vừa y. Phước phải buột miệng khen:
- Đẹp lắm!
Thấy ở túi áo có vật gì phồng lên, Trâm đưa tay rút ra một chiếc khăn tay trắng, trên đó có viết một dòng chữ bằng mực đỏ: Tới ngay địa chỉ này và làm đúng những gì người ta yêu cầu!
- Đưa anh xem, cái gì vậy?
Phước giằng lấy, nhưng khi anh cầm trên tay nhìn thì chẳng thấy chữ gì trên đó! Chính Trâm cũng ngạc nhiên:
- Chữ mới còn đây mà?
Cả hai nhìn nhau và tự dưng thấy rùng mình. Trâm run giọng:
- Em sợ quá... chắc là em không đi đâu!
Lời cô vừa dứt thì lại bị ngay hai cái tát nữa đau điếng! Nỗi sợ hãi đã lên tới cực điểm, Trâm nói gần như van lạy:
- Tha cho tôi, tôi sẽ làm theo...
Cô đưa mắt nhìn Phước như cầu cứu. Phước cũng chỉ biết nói:
- Em nhớ địa chỉ không, anh sẽ đưa em tới đó.


Phần III


Dò theo địa chỉ ghi trong khăn tay, Phước lái xe vòng mấy lượt mà vẫn chưa tìm ra. Sau cùng anh phải dừng xe lại hỏi một bác đánh xe ngựa:
- Bác làm ơn chỉ giúp cháu đường Đợi Chờ là ở đâu?
Nghe Phước hỏi, ông lão đánh xe phá lên cười:
- Ai cho cậu cái địa chỉ này đúng là muốn thử trí thông minh của cậu rồi. Bởi ở thành phố này làm gì có tên đường đó!
Trâm buột miệng:
- Vậy chẳng lẽ địa chỉ ma sao?
Ông lão đáp:
- Địa chỉ không ma, nhưng đó là nơi ở... của ma!
Ông lão lại phá lên cười rồi mới nói tiếp:
- Địa chỉ thì đúng, nhưng cái tên đường thì người ta muốn đánh đố cô cậu. Vậy cô cậu có muốn tới đó không?
Trâm mau miệng:
- Dạ muốn, cháu phải tới!
Ông già nghiêm giọng:
- Đó là nghĩa địa thành phố. Nơi đó còn được người ta gọi vui là "Thành phố đợi chờ", cô cậu hiểu rồi chứ!
Đáp xong, ông ra roi cho ngựa chạy nhanh, Phước nhìn Trâm vừa lẩm bẩm:
- Anh đã tới đó rồi. Nơi đó có mộ cô Dã Lan...
Lát sau, Phước dừng xe trước cổng vào nghĩa địa, anh nhìn địa chỉ ghi ở cổng thì quả đúng như ông đánh xe ngựa vừa rồi nói. Lưỡng lự một lát, chính Trâm đã giục:
- Mình vào trong coi!
Phước miễn cưỡng bước theo với đầu óc hoang mang. Trâm hình như có người dẫn đường, cô đi thật nhanh và thỉnh thoảng còn quay lại giục:
- Anh đi nhanh lên!
Đã mấy lượt đi vòng nghĩa trang này nên Phước không khó để đi theo, nhưng việc Trâm đi sâu vào tận cùng khu vực có những dãy mộ làm cho anh phải lên tiếng:
- Em đi chi sâu quá vào đây vậy?
- Tìm chỗ của cô Hồng Hạnh!
Lúc này từ phía sau nhìn tới, thấy Trâm trong bộ đồ lụa của Hồng Hạnh tự dưng Phước có cảm giác đó chính là Hạnh chứ không phải Trâm! Cho đến khi Trâm đứng lại trước một ngôi mộ thì Phước mới giật mình:
- Mộ này là...
Anh chưa hỏi hết câu thì Trâm đã tránh sang một bên để Phước nhìn rõ được chữ trên mộ bia: Nguyễn Thị Hồng Hạnh, tử ngày...
Phước kêu lên:
- Cô ấy được chôn ở đây!
Trâm vẫn thản nhiên như đã biết rồi:
- Chỉ có anh là tin cô ấy còn sống thôi. Bây giờ anh giúp em đi.
Phước ngạc nhiên:
- Làm gì?
Trâm đột ngột quỳ xuống trước mộ. Thấy Phước còn đứng, cô giục:
- Nhanh lên!
Phước ngạc nhiên:
- Sao phải quỳ?
Bỗng như có ai cầm cây đánh mạnh vào khủy chân, khiến cho Phước không muốn cũng phải quỳ xuống thật nhanh! Trâm nhìn sang anh rồi gật đầu:
- Như vậy là được đó!
Giọng của cô nàng bỗng dưng rất lạ, Phước phải lên tiếng hỏi:
- Sao giọng em không như... em vậy?
- Là sao? Vậy em giống ai?
Phước cố nhớ xem mình đã từng nghe giọng này của ai? Cuối cùng anh nhớ ra:
- Hồng Hạnh!
- Người nằm dưới mộ bây giờ là... Ngọc Trâm của anh đó! Hãy khấn cô ấy vài tiếng, xin phép để chúng ta được thành thân từ hôm nay. Nhanh lên đi kẻo không kịp!
Phước còn chưa biết tính sao thì như có ai xúi giục, anh lên tiếng như con vẹt:
- Chúng tôi xin thề là ăn đời ở kiếp với nhau, có chết cũng không chia lìa!
Nàng quay sang mỉm cười:
- Vậy là được rồi!
Nàng cũng nói:
- Cám ơn. Trâm đã giúp tôi thoát được nạn tai này. Từ bây giờ tôi mượn xác của cô để hoàn dương và sẽ thay cô để chăm sóc cho anh chàng người yêu của cô chu đáo. Bảo đảm là ngày trước anh ta mê cô bao nhiêu thì với tôi, anh ta sẽ có mê hơn chứ không kém.
Nói xong, nàng ta ngả đầu sang Phước, rồi như cái xác không hồn, cô ta nằm luôn trên tay Phước. Hốt hoảng, Phước kêu lên:
- Trâm! Em sao vậy?
Nàng vẫn bất động, sờ vào da thì lạnh như băng! Phước quýnh lên, bế xốc nàng lên tay chạy thẳng ra ngoài cổng. Nhưng khi ngang qua ngôi nhà quản trang thì anh nghe có tiếng gọi của ai đó:
- Cậu đưa cô ấy vào trong này, chậm một chút là nguy!
Phước đành phải đưa Trâm vào trong. Ngôi nhà của ông quản trang nhỏ, nhưng cũng có một chiếc giường nằm ở bên trong. Khi Phước đặt Trâm nằm xong rồi, ông già quản trang mới gọi anh ra ngoài, ông nói:
- Sao cậu dám đưa người yêu vào đó. Cậu không biết đó là mộ của ai sao?
Phước vờ như không biết:
- Dạ, tụi cháu chỉ tình cờ đi thăm mộ người quen, rồi đi ngang qua...
- Mộ đó là của cô gái từng dính vào một vụ thảm sát trên đồi thông cách đây chưa lâu, cậu không nghe?
Phước lắc đầu:
- Dạ, cháu ở xa tới nên không biết gì.
- Đó là cô Hồng Hạnh, một trong hai cô do hiềm khích riêng nên đã dẫn nhau lên đồi thông ở gần hồ Tuyền Lâm rồi quần thảo, cho đến khi say máu, ôm cứng lấy nhau và cùng lăn xuống vực sâu, cùng chết!
Ngừng kể một lúc, rồi ông lại tiếp:
- Khi ấy tôi đi đốn cây ở đó, tình cờ tôi phát hiện ra vụ việc, tôi cố leo xuống vực để cứu họ, nhưng khi xuống tới nơi thì đã muộn, cả hai đã chết! Sau đó tôi theo giấy tờ tùy thân của cả hai, tìm cách đi báo cho gia đình họ biết để đến lấy xác. Nhưng chỉ có mỗi cô kia, tức cô Dã Lan, thì có người nhà ở Trại Hầm là tới nhận xác con rồi đưa về làm lễ an táng. Cô còn lại tuy có giấy tờ tên Hồng Hạnh, nhưng khi tôi tới địa chỉ ghi trong giấy thì người ta nói cả nhà cô ấy đã dọn đi từ lâu rồi! Bí quá nên sau đó tôi đưa về nghĩa trang và chôn bên cạnh ngôi mộ của cô Dã Lan vừa mới chôn, nghĩ là làm như vậy sẽ ổn, bởi đã chết cùng nhau thì nằm cạnh nhau là phải. Nào ngờ đó lại là một rắc rối lớn, khiến tôi phải mất ăn mất ngủ nhiều ngày!
Ông ta kể mà cứ rùng mình hoài, Phước phải hỏi:
- Có chuyện gì sao?
- Nửa đêm khi tôi đang ngủ thì nghe tiếng quần thảo nhau tưng bừng bên ngoài! Tôi mở cửa nhìn ra thì thấy hai cô gái đang nắm tóc nhau đánh đấm không nương tay! Nhìn kỹ tôi ngạc nhiên quá đỗi, bởi họ chính là hai cái xác chết mà tôi thấy bữa trước! Có nghĩa là họ đã đội mồ dậy đánh nhau tiếp.
Ông ta lại phải ngừng kể để thở, bởi hình như kể chuyện ấy làm cho ông căng thẳng, phát mệt. Phải một lúc sau ông mới tiếp được:
- Mà không phải chỉ một lần đó. Cứ vài đêm thì lại diễn ra một trận như vậy. Hình như giữa họ đã có sự hiềm thù gì đó dữ dội lắm, cho nên khi đã chết rồi mà vong hồn vẫn không từ bỏ chuyện hằn thù! Không để chuyện ấy cứ tiếp diễn, cho nên tôi mới quyết định theo cảm tính, bằng cách bốc một trong hai ngôi mộ đó, đem chôn ở một lô khác. Tôi nghĩ, không cho họ gần nhau nữa thì họ sẽ thôi, không gặp nhau, có nghĩa là thôi không còn đánh nhau! Không ngờ ý nghĩ chủ quan của tôi mà lại đúng. Bởi từ hôm dời mộ cô tên Dã Lan đi thì không còn cuộc đánh nhau nào nữa. Tuy nhiên, vong hồn cô tên Hồng Hạnh ấy dữ lắm, cô ta không chịu yên, cứ đêm đêm thì hiện ra rú vang cả nghĩa địa này như còn ấm ức, uất hận lắm! Bởi vậy cả mấy năm nay rồi, tối nào tôi cũng đặt trước mộ cô ta một bó hoa tươi để cúng! Nhờ vậy mà cô ấy đỡ quậy phá hơn. Nhưng được cô này thì lại chọc giận cô kia! Vong của cô Dã Lan lại hiện về đòi tôi phải cho cô ta một bó hoa lay-ơn màu vàng, tôi đành phải làm theo...
Phước buột miệng:
- Thảo nào trên mộ cô ấy ngày nào cũng có một bó lay-ơn vàng tươi thắm!
- Trên mộ cô Hồng Hạnh cũng có một bó hoa hồng vàng, nhưng chẳng hiểu sao bó hoa trên đầu mộ cô tên Hạnh thì vừa để là bị mất! Tới nay tôi còn thắc mắc...
Ông quản trang vừa nói tới đây thì bỗng Trâm trở người, kêu ú ớ gì đó trong miệng, khiến Phước phải kề tai sát lại, vừa hỏi:
- Em tỉnh rồi phải không?
Giọng không phải của Trâm rót vào tai Phước:
- Tìm cách giữ chân ông ta ở đây, còn anh chạy nhanh ra chỗ mộ của Dã Lan, lấy bó hoa ở đó qua đặt trên đầu mộ của em. Làm ngay đi thì mới hy vọng em còn được ở bên anh, bằng không...
Cô nói tới đó thì có vẻ gấp gáp và sợ hãi lắm, khiến cho Phước phải hành động ngay. Anh giả vờ bảo với ông già:
- Cháu bỏ quên món đồ ngoài mộ, bác làm ơn giữ cô ấy giùm, đừng để cô ấy tỉnh lại và chạy đi.
Anh không đợi ông quản trang đồng ý đã vụt chạy đi. Anh đã biết mộ của Dã Lan, nên chạy ngay tới đó một cách dễ dàng. Trên mộ quả có một bó lay-ơn như thường lệ. Anh cầm lấy ngay và vòng qua phần mộ của Hồng Hạnh lúc nãy. Vừa đặt bó hoa xuống, bỗng Phước nghe về phía ngôi mộ của Dã Lan có một tiếng rú nghe thê lương lắm!
Không dám chần chừ, Phước chạy trở về liền chỗ nhà của người quản trang. Vừa thấy anh, ông ta đã nói liền:
- Cô bạn của cậu tỉnh lại rồi, cô ấy đòi đi mà tôi chưa cho!
Phước bước vào và đứng khựng lại! Bởi trước mặt anh lúc đó không phải là Trâm nữa, mà là... Hồng Hạnh!
- Em... Cô...
Cô nàng lấy tay che mặt rồi ra dấu cho Phước đi ngay.
Phước phải tìm cách nói:
- Tụi cháu cám ơn bác giúp đỡ và xin phép bác.
Anh dìu một bên nàng đi nhanh ra cổng nghĩa trang. Họ lên xe chạy đi một quãng khá xa rồi Phước mới thở phào nhẹ nhõm. Anh quay sang nàng, lo lắng hỏi:
- Như vậy tôi biết phải nói với bà chủ nhà sao đây?
Cô nàng vẫn bình thản:
- Có sao đâu! Anh không nhớ là trước đây tôi đã ở trọ đó nhiều tháng mà! Bà chủ đâu có biết tôi là một hồn ma mà lo...
- Nhưng... còn người yêu của tôi? Làm sao tôi giải thích với bà ta, cũng như với mọi người...
Nàng bỗng phá lên cười:
- Khéo lo xa quá! Như thế này được chưa?
Nàng nói xong thì Phước đã một phen nữa há hốc mồm:
- Cô là...
Nàng lại cười:
- Vẫn gọi bằng cô sao?
Trước mặt Phước lúc này lại là... Ngọc Trâm! Chỉ có giọng là khác. Cô ta dặn:
- Em thoát được tai kiếp rồi, nên từ nay có thể sống với anh, lúc thì em là Hồng Hạnh, còn khi cần thì em vẫn là Ngọc Trâm của anh!
Phước chỉ len lén nhìn, nhưng anh thấy cô nàng không chút gì khác với Ngọc Trâm. Anh yên tâm nên nói:
- Mình về nhà đi. Rồi mai tìm cách dọn đi nơi khác.
Nàng ta vẫn giữ ý ban đầu:
- Em vẫn thích ở chỗ đó. Chính nơi ấy em đã cải trang ở đó chờ anh và đã quen rồi.
Phước trố mắt:
- Cô chờ tôi là sao?
- Thì em đoán thế nào anh cũng tới, nên mai phục để chờ. Người cõi âm biết trước hết mọi sự việc tương lai. Em còn biết số cô gái tên Ngọc Trâm đã tận, nên mới khiến cô ấy đi tìm anh, để rồi nhờ vậy mà em mới có cơ hội dùng hồn cô ấy mà qua mặt được kẻ thù của em!
- Dã Lan phải không? Cô và cô ấy sao lại hận thù sâu nặng như vậy?
Cô nàng không đáp mà chỉ tay về bên trái, bảo:
- Anh chạy về hướng này đi, mọi việc sẽ rõ thôi.
Phước còn đang lưỡng lự thì nàng đã cầm tay lái bẻ ngoặt sang hướng vừa chỉ. Chiếc xe rẽ đột ngột suýt đâm vào lề, nhưng cũng chính cô nàng đã nhẹ nhàng điều chỉnh lại một cách dễ dàng, và cuối cùng chiếc xe đi về hướng đường mòn đến hồ Tuyền Lâm.
Tới trước một ngôi nhà nằm khuất sâu trong một vườn cây trĩu quả, nàng nói như ra lệnh:
- Anh cho xe vào trong rồi đậu lại.
Phước làm theo và sau khi tắt máy xe, anh lại nghe nàng bảo:
- Anh vào nhà đi.
Nàng đi trước và biến vào nhà thật nhanh Phước lững thững theo sau. Khi vào tới trong thì không thấy cô nàng đâu, chỉ thấy một phòng khách nhỏ, bày biện đơn sơ nhưng tươm tất. Và ngay hình ảnh đầu tiên đã làm cho Phước sửng sốt:
- Hồng Hạnh!
Một ảnh chân dung của Hồng Hạnh đặt trên bàn thờ ở giữa nhà khiến Phước sững sờ, anh quay lại tìm Hồng Hạnh thì chẳng thấy đâu, mà gọi thì cũng chẳng nghe cô ta trả lời.
Trong lúc còn đang hoang mang thì từ phía sau lưng Phước đã có người lên tiếng:
- Nó đi rồi, đâu còn mà tìm!
Phước quay lại và ngỡ ngàng khi thấy một người đàn bà lớn tuổi, bà ta chỉ lên bàn thờ, nói tiếp:
- Cậu biết rồi, nó đã chết và người đi với cậu vừa rồi chỉ là cái vong của nó trong thân xác một người khác. Mà điều đó thì chỉ xảy ra bên ngoài, chứ ở đây là nhà của nó thì làm sao thân xác ấy hiện hữu được.
Bà cụ tuy lớn tuổi, có vẻ lụ khụ, nhưng nói năng lưu loát và sắc sảo. Phước hơi lúng túng:
- Dạ, cháu mới cùng cô ấy tới đây. Cô ấy vừa bước vào nhà...
- Nó đi ngay rồi. Bây giờ cậu ngồi xuống đi. Điều nó muốn cậu biết là ở đây, tôi sẽ giúp cậu.
- Thưa bác, bác là...
- Tôi là mẹ nó. Nó là con gái út của tôi.
- Dạ, cháu xin chào bác, cháu là Phước. Thật ra cháu không phải là bạn trai của cô Hạnh, mà là...
Bà cụ chặn lời:
- Cậu không nói thì tôi cũng đã biết. Con gái tôi tuy chết rồi, nhưng vẫn như sống, nó sống để báo thù!
Phước đã nghe Hồng Hạnh nói, nên anh chen vào:
- Nếu vậy thì mọi việc đã xong rồi! Cô ấy đã làm được việc mà lâu nay vẫn chưa làm. Cô Dã Lan đã bị...
Bà cụ giật mình:
- Cậu biết cả chuyện đó? Vậy mà lúc nãy nó không nói gì với tôi cả đã bỏ đi.
Rồi bà như được dịp trút nỗi niềm bấy lâu nay giữ trong lòng:
- Nó đang tuổi thanh xuân, lại còn đang yêu nữa, vậy mà bị chết tức tưởi, chết oan ức bởi giành nhau một người tình! Mà đứa giành với nó lại là chị em cùng cha khác mẹ của nó mới oái oăm chứ!
Lần đầu được nghe chuyện này, và mặc dù không muốn can dự vào mối thâm thù giữa họ, nhưng anh cũng tò mò:
- Bác nói vậy thì ra Hồng Hạnh và Dã Lan là hai chị em ruột?
Bà già giọng vẫn gay gắt:
- Tuy mang tiếng là chị em, nhưng tụi nó chỉ mới biết nhau chưa đầy một tháng thì xảy ra chuyện, mà là chuyện động trời nữa! Tội cho con Hạnh nhà tôi, nó từ nào chưa từng yêu ai, chỉ mới gặp và yêu thằng ấy là lần đầu, vậy mà lại gặp bất hạnh ngay!
Thấy bà có vẻ cởi mở muốn trút nỗi niềm, nên Phước khơi gợi:
- Người yêu cô Hạnh ở đâu, làm nghề gì thưa bác? Anh ta là ai?
Bà cụ nhẹ lắc đầu:
- Tôi cũng chưa gặp mặt lần nào, mới chỉ nghe nó nói lại. Nhưng tôi biết nó yêu thằng ấy say đắm. Thằng ấy là kiến trúc sư, nghe nói đẹp trai lắm, có lẽ cỡ như cậu đây. Người ở Sài Gòn lên đây... Nó tên là... Đức. Tên đầy đủ là Phước Đức!
Bà vừa nói tới đây thì Phước như giẫm phải lửa:
- Bà nói gì? Phước Đức ư!
Bà già đột nhiên đứng dậy và bước vào phòng trong, lát sau trở ra trên tay cầm một tấm ảnh bán thân, đưa cho Phước:
- Hình này là người yêu con Hồng Hạnh. Mà sao... giống cậu quá!
Phước cầm lấy bức ảnh, vừa nhìn anh đã bàng hoàng kêu lên:
- Anh Đức!
Rồi cả người Phước run lên như bị trúng gió! Khiến bà già cũng phải sửng sốt:
- Cậu làm sao vậy?
Phước nói như mê sảng:
- Sao lại là anh? Sao anh có trong chuyện này?
Lúc này bà già mới nhìn kỹ Phước hơn, bà cũng giật mình kêu lên:
- Đúng là thằng này rồi!
Bà giật lại tấm ảnh trên tay Phước, bước tới đặt nó lên bàn thờ Hồng Hạnh, vừa khấn:
- Con sống khôn thác thiêng về đây chứng kiến, hôm nay đứa gây ra tội đã tới nhà ta để đền mạng! Con hãy nói cho mẹ biết, mẹ phải làm gì đây?
Phước cũng nhào tới chỗ bàn thờ, anh sụp xuống lạy liền mấy lượt vừa tha thiết:
- Cả nhà khổ sở vì mất anh. Đi tìm anh khắp nơi cúng vái đủ thầy mà không có hiệu quả gì, nào ngờ anh lại ở đây! Sao anh không về anh Hai?
Phước vừa dập đầu lần thứ nhất thì đã nghe văng vẳng bên tai một giọng nói thật quen thuộc cất lên:
- Họ tưởng anh là người tên Đức nên mới kéo anh vào vụ này. Họ giành người yêu là anh Đức của anh đó. Bây giờ và mãi mãi về sau, anh sẽ ở đây, làm rể nhà này và đâu còn nhớ gì tới em nữa, hả Phước!
Giọng nói đó là của Ngọc Trâm! Ngỡ nàng đứng bên cạnh mình, Phước quay lại nhìn, nhưng không hề thấy ai. Mà hình như những lời nói vừa rồi cũng chỉ đủ mình anh nghe thôi. Bà cụ vẫn bình thản đứng im, không có phản ứng gì.
- Trâm!
Bất giác Phước kêu to lên! Và điều đó khiến cho anh bị bật ngửa ra sau, cùng lúc có một tiếng khóc thét lên và câu nói trong tuyệt vọng của Trâm:
- Hãy cưới em đi! Chỉ có vậy chúng ta mới được bên nhau. Anh sống mà em cũng được sống! Hãy làm ngay đi...
Rồi im bặt. Hình như trong cõi vô hình Ngọc Trâm đang bị ai đó lôi tuột đi. Tiếng nấc của nàng xa dần... xa dần...
***
Người đánh xe ngựa dừng lại trước nhà bà Ánh Hồng, ông gọi vào trong:
- Bà chủ ơi, ra mà nhận người đây!
Bà Ánh Hồng đang tưới cây ở sân, vội bước ra cổng, và giật mình khi thấy trên xe có một người nằm, mà người đó lại là Phước!
- Kìa, cậu Phước!
Ông lão đánh xe nói:
- Tôi đi ngang qua khu nghĩa địa cũ phía tây thành phố bỗng gặp cậu này nằm bên vệ đường. Tôi dừng xe lại thì chỉ nghe cậu ta thều thào mấy tiếng, nói địa chỉ nhà bà, rồi sau đó anh ta ngất lịm luôn. Tôi chở thẳng về đây xem bà có nhận anh ta không?
Bà Ánh Hồng hốt hoảng:
- Nhận chứ. Cậu ấy ngụ ở đây mà. Anh tiếp đưa giùm cậu ta vào nhà đi. Trời ơi, sao ra nông nỗi này!
Ông lão đánh xe ngựa vừa tiếp đưa Phước vào nhà, vừa nói:
- Cái nghĩa địa này bây giờ không chôn người mới chết nữa, toàn là những mồ mả cũ nhưng nhiều ma lắm, cứ ra nhát thiên hạ hoài. Chẳng hiểu sao cậu này lại tới đó làm gì cho đến nông nổi này!
Bà Ánh Hồng hoảng sợ:
- Cậu ta tới nghĩa địa đó sao?
Ông lão lắc đầu tiếp lời:
- Tôi không tận mắt thấy cậu ấy vào nghĩa địa, nhưng vùng đó đâu có nhà ai, mà nằm trước cổng nghĩa địa thì không vào đó chứ đi đâu?
Rồi ông kể lể:
- Mà sao lúc này mấy người trẻ sao thích vào nghĩa địa quá. Mới mấy bữa trước đây có một cô gái cũng kêu tôi chở tới nghĩa địa mới bên phía đông, nơi người ta gọi là Thành phố Đợi Chờ, chẳng biết để làm gì mà tới thật sớm rồi vào đó mãi chẳng trở ra!
Bà Ánh Hồng than thở:
- Cậu này mướn nhà ở đây cùng với người yêu, sáng nay hai người đi ra ngoài và đi biệt. Tôi chờ hoài không thấy về. Bây giờ ra nông nỗi này, rồi cô người yêu ở đâu, ra sao chẳng biết?
Thấy để Phước nằm giữa phòng khách hơi kỳ, bà nhờ ông đánh xe:
- Đã giúp thì anh giúp cho trót rồi tôi trả tiền công cho luôn, anh làm ơn đỡ cậu ấy lên phòng riêng giùm.
Họ đưa Phước lên phòng trên lầu. Vừa mở cửa phòng ra thì bà Ánh Hồng đã hoảng hốt kêu lên:
- Kìa, cô Trâm!
Thì ra Ngọc Trâm đang nằm yên trên giường như đang ngủ. Vừa nghe kêu lớn, cô bật dậy ngơ ngác:
- Ủa, chuyện gì vậy bà chủ?
Chợt nhìn thấy Phước, cô thảng thốt:
- Kìa, anh!
Đang mê man, bỗng Phước choàng tỉnh, anh mở mắt ra và không nói năng gì, chỉ ôm chầm lấy Trâm, không muốn rời ra. Bà Ánh Hồng lên tiếng:
- Cô cậu đi đâu mà mỗi người một nơi! Trong lúc cậu đang lạc ở nghĩa địa, còn cô thì về đây lúc nào tôi không hay?
Nỗi bàng hoàng vẫn còn nơi nét mặt của Trâm, nhưng được hơi ấm từ vòng tay của người yêu, cô dần trấn tỉnh lại, lẩm bẩm:
- Qua rồi... qua cơn ác mộng rồi...
Bà Ánh Hồng nghe không rõ nên hỏi lại:
- Cô nói gì?
Trâm siết chặt Phước vào lòng, như sợ anh biến mất:
- Con cứ ngỡ anh ấy mất luôn rồi! Trời Phật còn thương chúng con...
Lúc này Phước mới lên tiếng:
- Có phải là... em đây không, Ngọc Trâm?
- Là em. Chính em đây!
Đúng là giọng nói của Trâm, chứ không phải xác nàng mà hồn Hồng Hạnh như trước. Phước mừng quá:
- Đúng là em rồi! Thôi, chúng ta mau rời khỏi chỗ này đi em!
Trâm nói rất khẽ đủ cho anh nghe:
- Chưa đi được. Bởi hiện nay tuy thoát được về cùng anh, nhưng em vẫn còn bị nhốt ở cõi âm. Em chưa tới số chết, nên dẫu có bị bắt hồn, em vẫn còn cơ hội đoàn tụ cùng anh, nếu anh cưới em ngay bây giờ! Hãy làm lễ cưới em đi, như vậy họ sẽ không bắt hồn em đi luôn. Hãy thực hiện đi anh!
- Nhưng họ là ai?
Nàng đáp nhanh như sợ có người nghe:
- Hai cô gái đó, anh không nhớ sao?
- Dã Lan và Hồng Hạnh.
- Đúng là họ rồi. Họ là hai chị em cùng cha khác mẹ, tình cờ yêu chung một người con trai mà người đó lại là người anh ruột lưu lạc của anh. Sau khi sát hại lẫn nhau, họ vẫn tiếp tục tranh giành người yêu. Họ gặp anh tưởng anh là người con trai ấy nên họ muốn thủ tiêu để độc quyền chiếm đoạt anh. Một trong hai người họ sắp thực hiện được tham vọng của mình, nhưng cũng may anh nhìn được bức ảnh của người anh, anh nói ra sự thật, lúc đó cô Hồng Hạnh mới hoang mang, điên tiết lên, cô ấy đánh đập vong hồn em, đuổi em đi, nhờ vậy mà em mới thoát ra được! Hãy cưới em ngay đi, có như thế họ mới để cho chúng ta yên bên nhau. Em biết chắc như vậy...
Phước quay sang năn nỉ bà chủ nhà:
- Bác giúp tụi cháu với! Bác đứng ra làm chủ hôn cho đám cưới tụi cháu, bác nhé!
Bà Ánh Hồng nhẹ gật đầu:
- Được rồi! Gì chứ chuyện này thì tôi sẵn sàng.
***
Phước và Trâm cứ nghĩ là đám cưới vội của mình chỉ là hình thức để che mắt người cõi âm và tổ chức đơn sơ thôi, nào ngờ bà Ánh Hồng đã làm thật rình rang! Ngoài một số khách riêng của bà chủ nhà lại còn có nhiều người từ Sài Gòn lên!
Hỏi họ làm sao biết chuyện mà có mặt thì hầu hết đều đáp như nhau:
- Có người điện thoại báo tin là bọn này kéo lên ngay!
Giữa buổi lễ bỗng xuất hiện hai người phụ nữ lớn tuổi mà vừa trông thấy họ, Trâm và Phước đã hốt hoảng:
- Sao... sao họ cũng có mặt!
Hai người đó là bà mẹ của Dã Lan và bà mẹ Hồng Hạnh! Họ chẳng những xuất hiện một lượt mà còn tay nắm tay, cùng bước tới trước mặt cô dâu chú rể để cùng lên tiếng:
- Chúc mừng cho hai cháu!
Phước lắp bắp:
- Sao... sao hai bác...
Bà mẹ Hồng Hạnh lên tiếng trước:
- Tụi tôi tới để đem con mình về. Bởi hai đứa nó đã hiểu, mà chúng tôi cũng hiểu: Hạnh phúc chỉ tới đúng người đáng được hưởng nó. Con chúng tôi đã yêu lầm và đưa tới một kết cục bi thảm thì phải gánh chịu. Việc lôi kéo cô cậu vào vụ này là xằng bậy, không thể được! Bởi vậy chúng nó đã quyết định từ nay trả lại những gì cô cậu vốn có. Chúng nó sẽ đi tìm người con trai kia, anh của cậu...
Phước buột miệng:
- Anh cháu đã mất tích từ lâu. Có thể cũng đã chết. Như vậy các cô ấy tìm trong thế giới cõi âm của mình ắt gặp!
Hai bà mẹ nói một câu mà cả bà chủ nhà và cô dâu chú rể đều giật mình:
- Cho chúng tôi lên đưa xác con chúng tôi về!
Họ nói xong thì đi thẳng lên lầu, vào phòng riêng của Phước và Trâm. Cả hai hốt hoảng chạy theo, cả bà chủ nhà nữa. Khi mở cửa phòng ra thì họ đều sửng sốt, bởi có hai xác chết nằm sóng đôi giữa phòng. Cả Trâm và Phước đồng kêu lên:
- Hồng Hạnh! Dã Lan!
Hai xác chết là của hai người con gái mà suốt mấy ngày qua đã gây bao phiền phức cho họ, nên giờ đây nhìn thấy sự hiện diện của họ trong phòng mình, cả hai đã hốt hoảng và quýnh lên:
- Làm sao bây giờ bà chủ?
Nhưng hai bà mẹ đã rất bình tĩnh lên tiếng:
- Không sao cả. Chúng tôi tới đây là để mang chúng về. Chúng cùng xuất hiện như vậy là chứng tỏ chúng thôi thù hận nữa rồi. Bởi dẫu sao chúng cũng là chị em ruột thịt với nhau...
Họ nói xong thì đưa tay chạm vào hai thi thể. Bỗng dưng hai cái xác vụt tan biến và chỉ còn lại trên tay mỗi bà mẹ một đóa hồng vàng và một đóa lay-ơn màu hoàng anh!
Lẳng lặng rời lễ cưới, hai bà quay lại chúc:
- Chúc cô cậu trăm năm hạnh phúc!
Rồi như sương khói, họ tan biến vào không trung...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #52  
Old 11-07-2012, 04:17 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 26

HAI NẤM MỒ TRONG NGÔI NHÀ CỔ - Phần I


Nhận được tin chú mình mất đã hơn hai tháng mà Hoàng chưa thể về được, do kẹt kỳ thi tốt nghiệp, đồng thời do đường sá quá xa xôi. Cho đến hôm nay mới leo lên máy bay về nước, Hoàng bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm với ông chú ruột mà Hoàng thương như cha. Bởi cha mất sớm, nên suốt quãng đời thơ ấu của Hoàng hầu như gắn bó với chú và sự lớn lên của anh, cũng như xuất ngoại du học cũng là một tay ông chú này. Bởi vậy khi hay tin ông mất mà mình về không được Hoàng đã ray rứt suốt cả tháng trời sau đó.
Hơn năm tiếng đồng hồ ngồi máy bay, vậy mà vừa xuống ở phi trường, Hoàng đã thuê xe về ngay quê nhà, nơi cách thành phố đến hơn trăm cây số. Người tài xế cũng ái ngại giùm Hoàng:
- Bây giờ đã hơn 8 giờ tối rồi, sao cậu không nghỉ ở khách sạn rồi mai hãy về sớm?
Hoàng cười nhẹ:
- Tôi có việc gấp.
Anh tranh thủ ngả lưng ra băng ghế, cố chợp mắt một lát. Nhưng chỉ được vài mươi phút thì chợt giật mình, bởi chiếc xe thắng gấp, kèm tiếng càu nhàu của người tài xế.
- Bộ điên chắc!
Hoàng mở mắt ra hỏi:
- Có chuyện gì vậy anh?
Chỉ tay về phía lề đường, bác tài xế đáp:
- Tôi không thắng kịp thì cô ta đi đời rồi?
Thoáng thấy một bóng người mặc chiếc áo dài trắng đứng bơ vơ bên vệ đường, Hoàng ngạc nhiên:
- Cô gái đó?
- Cô ta từ trong lề đã bất thần lao ra chặn trước đầu xe mình, nếu tôi thắng không kịp thì không biết chuyện gì đã xảy ra!
Hoàng chưa kịp có ý kiến gì thì đã thấy cô gái tiến đến gần bên xe, nói gì đó lí nhí mà trong xe Hoàng không nghe rõ. Anh hỏi:
- Cô ấy nói gì vậy?
Bác tài có vẻ không hài lòng:
- Cô ấy xin quá giang xe.
Nhìn ra thấy cô gái đang xách trên tay chiếc va-li lớn, có vẻ nặng, Hoàng tỏ ra thương cảm:
- Chắc cô ta về xa mà đón không được xe hay gì đó...
Bác tài lắc đầu nguầy nguậy:
- Thời buổi này hơi sức đâu mà tin mấy cô này cậu ơi! Bọn lừa đảo nhiều chiêu lắm...
Nhưng Hoàng đã đột nhiên quyết định:
- Anh cứ hỏi xem cô ta về đâu?
Và không đợi bác tài xế hỏi, Hoàng đã kéo kính gió xuống, ló đầu ra hỏi:
- Cô muốn đi nhờ?
Cô gái mừng rỡ:
- Dạ, em về Vĩnh Long, mà giờ này không còn xe. Em đón hoài không ai cho quá giang. Em thân gái không biết phải làm sao...
Hoàng nhìn cô nàng, mặc dù trời tối, nhưng cũng nhận ra nét duyên dáng, trong sáng của một nữ sinh, anh nói liền:
- Tôi cũng về Vĩnh Long, vậy cô cứ lên đi, xe còn rộng.
Hoàng quay sang nói với bác tài:
- Cứ cho cô ấy quá giang, mình giúp đỡ nhau mà.
Bác tài vẫn làu bàu:
- Cậu rước phiền phức cho coi...
Nhưng Hoàng cương quyết:
- Tôi không ngại, anh cứ chở.
Đích thân Hoàng bước xuống mở cửa xe và mời:
- Cô lên ngồi phía sau với tôi. Mình là đồng hương mà.
Cô gái hơi ngượng khi phải ngồi chung với người lạ, nhưng Hoàng đã trấn an:
- Tôi đi du học mới về, tôi quen cách xử sự của phương Tây, nên cô đừng ngại. Ngồi chung mà hồn riêng thì đâu việc gì phải sợ!
Thấy Hoàng vui vẻ nên cô gái cũng bước lên ngồi bên trong. Hoàng bảo tài xế:
- Anh cho va-li cô ấy ra thùng xe cho gọn.
Lúc đầu bác tài không có cảm tình với cô nàng, nhưng khi đã nhìn rõ mặt cô ta thì anh chàng lái xe hơi giật mình, cô ta đẹp và hiền quá, nên anh lại có cảm tình.
Sau khi cho va-li vào thùng xe xong, anh tài xế còn hỏi:
- Cô đón xe bao lâu rồi?
- Dạ, hơn một tiếng đồng hồ mà chiếc xe nào cũng từ chối! Mà nào em có quá giang không đâu...
Không hiểu ý cô nàng, Hoàng hỏi lại:
- Cô nói thế là sao?
Anh tài xế phải giải thích giúp:
- Cô ấy nói mình quá giang có trả tiền đàng hoàng!
Hoàng nhìn sang cô ta và giật mình trước nhan sắc mà anh không ngờ! Anh buột miệng:
- Cô... cô là...
- Em là Ngọc Hà. Em đi học ở Sài Gòn, nay nghỉ hè về quê.
- Vừa rồi cô nói là quá giang xe có trả tiền, vậy nếu tôi nói tôi không muốn người đi chung mà trả tiền cho người cho mình quá giang thì cô nghĩ sao?
Cô nàng vẫn bình tĩnh chớ không chút gì lúng túng:
- Đó là em nói với những người từ chối cho mình quá giang, chớ còn... như xe này thì có cho vàng em cũng không dám nghĩ vậy!
Cách ăn nói dạn dĩ của cô gái đã khiến Hoàng cảm thấy gần gũi hơn, anh hỏi:
- Em nói ở Vĩnh Long mà cụ thể là ở đâu?
- Dạ, ở ngay thị xã, cách chừng hơn cây số.
Hoàng reo lên:
- Gần vườn nhãn Thầy Tiêu không?
Cô gái ngạc nhiên:
- Anh cũng biết nơi đó?
Hoàng cười:
- Bởi vườn nhãn Thầy Tiêu là đất nhà tôi!
Lần này đến phiên cô gái reo lên:
- Vậy liền nhà nhau rồi!
Hỏi ra thì mới biết cô gái có nhà ở sát bên đất vườn nhà của Hoàng. Tuy đi học xa lâu ngày mới về một lần, nhưng Hoàng cũng còn nhớ có lần anh nhìn thấy ngôi nhà ngói lớn bên cạnh, thì ra là nhà cô gái này:
- Đúng là quả đất tròn rồi! Mà sao lâu nay tôi chưa từng gặp cô lần nào?
- Em cũng thỉnh thoảng mới về.
Câu chuyện của họ càng lúc càng thân tình, sôi nổi. Hoàng tỏ ra hào hứng khi nghĩ kỳ nghỉ hè này sẽ có được một người bạn mới ngay cạnh nhà. Anh đề nghị:
- Tuần này Ngọc Hà có rảnh không? Mình tổ chức một chuyến đi dọc sông Cổ Chiên, qua bên kia cồn chơi cho vui?
Cô nàng có vẻ tư lự:
- Chuyện này... để em tính đã. Em sẽ trả lời anh Hoàng ngay ngày mai thôi. Bởi em về còn có một ít việc...
- Cũng được, mình còn tới mấy tháng hè mà.
Xe vừa qua bắc Mỹ Thuận thì cô gái xin xuống:
- Em ghé nhà ngoại em rồi chiều mới về nhà. Nhà ngoại em ở cầu Trường An đây, xin chú tài xế làm ơn ngừng ở đây.
Cô xuống xe rồi mà Hoàng vẫn còn nhìn theo, cho đến khi bóng cô ta khuất sau hàng cây ven đường. Bác tài xế hình như thông cảm với vị khách của mình:
- Cô ấy đẹp quá hả thầy!
Hoàng cũng buột miệng:
- Đẹp thật!
- Thầy đúng là có số hên!
Hoàng ngạc nhiên:
- Số hên gì anh?
- Thì hên nên mới cho người quá giang đẹp cỡ đó.
Nhìn sang băng ghế bên cạnh phát hiện chiếc áo khoác cô nàng bỏ quên, Hoàng kêu lên:
- Cô ấy quên cái áo rồi!
Bác tài rất rành tâm lý nên nói:
- Con gái mà quên đồ khi ngồi với trai, một là do quá hồi hộp, lúng túng, hay là cố ý... mà như vậy thì thầy Hai có cớ để gặp lại cô ta chứ!
Xe về đến nhà đã khá khuya, nhưng Hoàng vẫn bảo người tài xế dừng lại trước ngôi nhà của Ngọc Hà để quan sát khá kỹ. Tuy là sát ranh nhau, nhưng cổng ra vào nhà này lại ở hướng khác, nên từ nhà chú Hoàng mà muốn sang đây phải đi vòng một quãng đủ mỏi chân.
- Nhà cô ấy đó!
Hoàng nói đột ngột nên người tài xế nghe không hiểu, anh ta hỏi lại:
- Vào nhà này hả thầy?
Hoàng chỉ tay tới trước:
- Nhà kia.
Việc Hoàng về lúc nửa khuya làm cả nhà anh vừa mừng vừa ngạc nhiên. Thím Ba Hoàng trách:
- Sao về nước mà con không đánh điện về báo trước, để cả nhà lên Sài Gòn đón!
Hoàng chỉ tay sang người tài xế:
- Có chú này đón là đủ rồi!
Rồi anh bảo:
- Đã quá khuya rồi, anh ngủ lại rồi sáng về sớm.
Bác tài khoái thác:
- Mới hơn mười giờ mà ăn thua gì, tôi quen chạy xe đêm rồi nên về giờ này mát. Vả lại sáng mai tôi còn có mối đi Vũng Tàu gấp. Thôi, xin cám ơn thầy Hai và xin kiếu.
Anh ta vừa lùi xe ra cổng bỗng chợt nhớ ra, kêu lên:
- Còn chiếc va-li của cô ấy!
Hoàng hốt hoảng:
- Ờ, lúc nãy cô ấy xuống xe mình quên nhắc!
Bà thím Ba Hoàng ngạc nhiên:
- Có cô nào vậy con?
Hoàng vừa tiếp nhận chiếc va-li do anh tài xế mở thùng xe đưa cho, vừa ngượng nghịu đáp:
- Dạ... một cô quá giang dọc đường.
Một cách vô tình, người tài xế nói:
- Cô ấy nhà ở cạnh đây mà lo gì, ngày mai thế nào cô ấy chẳng qua lấy.
Bà thím càng thắc mắc thêm:
- Ai mà ở cạnh nhà con?
Hoàng đành phải nói thật:
- Cô gái ở nhà cạnh đất mình đây, gặp con ở dọc đường, cô ấy quá giang xe...
Bà thím tròn xoe mắt:
- Con nói... đứa nào? Ở nhà nào?
- Dạ, ngôi nhà ngói lớn sát ranh đất mình đây!
- Nhà Huyện Thời?
- Dạ, con không rõ, nhưng cô ấy nói ngôi nhà sát đất mình, mà ở cạnh đây thì chỉ có đúng ngôi nhà ngói này thôi. Cô ấy tên Ngọc Hà!
Bà thím run thấy rõ:
- Trời ơi... sao lại có chuyện này? Sao lại...
Bà kêu với vào trong nhà:
- Con Ngọc đâu, ra má bảo!
Ngọc là con gái lớn của chú thím Hoàng, tuy gọi Hoàng bằng anh, nhưng tuổi thì lớn gần gấp đôi. Từ trong bước ra, cô mừng khi thấy Hoàng:
- Anh Hoàng về nãy giờ mà em bị bệnh không ra được. Có chuyện gì vậy anh Hoàng?
Bà thím hỏi liền:
- Con còn nhớ con Ngọc Hà con Huyện Thời nhà ở cạnh mình không?
Ngọc đáp ngay:
- Sao không nhớ má, dẫu nó chết cách đây gần chục năm rồi, nhưng thời con gái con với nó chơi thân nhau mà!
Hoàng cười lớn:
- Cô em lớn xác của tôi ơi, không phải cô Hà đó đâu! Cô này chỉ khoảng mười tám đôi mươi thôi?
Ngọc gân cổ cãi:
- Nếu là con ông Huyện Thời thì chỉ có mỗi con Hà đó, nó bằng tuổi em mà!
Trong lúc Hoàng còn đang ngơ ngác thì bà thím Ba tiếp bằng giọng run run:
- Con lâu về đây nên không biết, ông Huyện Thời chỉ có đứa con gái duy nhất tên là Ngọc Hà, con nhỏ xinh đẹp nhất vùng này nên nhiều người theo đuổi, nhưng nó chưa chịu lấy ai thì bỗng lăn đùng ra chết khi mới vừa học xong tú tài! Nó chết rồi nhà ông Huyện tuyệt nòi luôn, bởi chỉ sau đó hai năm thì cả vợ chồng ông Huyện cũng đua buồn mà chết theo. Thế rồi...
Bà xúc động không kể tiếp được, Ngọc phải bổ sung:
- Còn hai người anh của Ngọc Hà nữa, nhưng ảnh làm ăn ở Sài Gòn, nghe nói chơi bời trác táng lắm nên không bao giờ về quê, do vậy ngôi nhà lớn của ông bà Huyện từ đó hầu như bỏ hoang luôn. Lâu rồi chẳng thấy có ai léo hánh nên xứ này người ta hầu như quên bẵng nó.
Hoàng vẫn chưa tin đó là sự thật:
- Để sáng mai tôi đi hỏi kỹ lại coi quanh đây còn ngôi nhà ngói nào nữa hay không. Có thể có và cũng có một cô Ngọc Hà khác nữa...
Ngọc cười, lắc đầu:
- Nguyên cả vùng này chỉ có nhà mình và nhà Huyện Thời là nhà ngói thôi. Anh có kiếm đỏ con mắt giờ cũng chẳng ra ngôi nhà thứ ba!
Hoàng bí quá phải đưa chiếc áo khoác ra nói:
- Đây là áo của cô ấy bỏ quên trên xe của anh. Còn đây nữa, chiếc va-li này cũng của cô ấy.
Lúc này Hoàng mới để ý trên chiếc va-li có đính theo một cái thẻ, trên thẻ có ghi họ tên và địa chỉ. Cúi xuống đọc xong Hoàng kêu lên:
- Nè, em đọc coi có phải rành rành tên, địa chỉ của "Lê Thị Ngọc Hà, xóm Thị, xã Hàng Thái (biệt thự Huyện Thời)"
Cả Ngọc và thím Ba đều ngơ ngác:
- Sao có chuyện này được!
Thím Ba còn nói thêm:
- Hồi đám tang con Ngọc Hà thím có dự nữa mà. Mồ mả dòng họ đó vẫn còn chôn trong đất nhà, sát ranh mình đây, nếu cần thì mai mốt con qua đó mà coi!
Ngọc nhận xét:
- Em nghi đứa con gái nào đó nó thấy anh đi xe hơi, tướng tá bảnh bao nên bày trò gạt anh đó!
Hoàng ngẩn người ra một lúc rồi lẩm bẩm:
- Không thể...
Anh đem chiếc va-li về chỗ ngủ của mình mà vẫn luôn nghe lời bình phẩm phía sau lưng của Ngọc:
- Mấy chàng công tử dáng đẹp trai, con nhà giàu, lúc nào cũng bị con gái bám theo!
Hoàng muốn cãi nhưng lại thôi. Với anh, cách tốt nhất là trực tiếp điều tra sẽ hay hơn... Ngọc còn nói với theo lúc Hoàng bước vào căn phòng dành cho anh:
- Căn phòng đó cửa sổ nhìn thẳng qua bên mấy cái mả của nhà ông Huyện Thời, trời sáng trăng có thể nhìn thấy dễ dàng!
Hoàng không hứng thú gì chuyện đó, nhưng những lời của Ngọc cũng khiến anh không tài nào ngủ được. Anh cũng không thể nào không tò mò với chiếc va-li của cô nàng. Sau vài phút lưỡng lự, Hoàng thử bấm chốt khóa và mở được liền. Va-li không khóa.
Những gì bên trong khiến Hoàng ngẩn người ra. Toàn quần áo mặc trong nhà. Tất cả hầu như còn mới và chỉ một màu trắng tinh khiết. Hương thơm dịu nhẹ nhưng sức lan tỏa thì vô cùng... Hoàng như bị ngất ngây với mùi hương kỳ lạ đó...
***
Cuối cùng thì Hoàng cũng toại nguyện. Anh đã đột nhập được vào ngôi nhà cổ bên cạnh. Đây là ngày thứ ba anh về đây, và phải khó khăn lắm trước sự dặn dò và theo dõi của bà thím anh cũng như cô em quá tò mò. Họ lúc nào cũng nhắc đi nhắc lại:
- Đừng bao giờ dại dột tìm cách vào ngôi nhà hoang đó nghe chưa!
Tuy tỏ vẻ nghe theo, nhưng đã hai ngày qua, lúc nào Hoàng cũng tìm cách để tiếp cận cho được ngôi nhà. Thật sự Hoàng không hề nghi ngờ gì về cô gái tên Ngọc Hà. Với anh, những chuyện có tính cách ma quái, hoang đường ấy chẳng qua kể để nghe cho vui. Chứ những gì anh đã thấy, đã gặp mới đáng tin. Nhất là cái va-li quần áo, nó là bằng chứng sống cho thấy người mặc những quần áo đó không thể nghi ngờ gì, cô ta là một cô gái bằng xương bằng thịt bình thường như mọi người! Điều này chính linh tính nhạy bén của Hoàng đã cho anh biết như vậy.
Sáng nay, Hoàng phải tìm cách nói với bà thím là anh đi qua làng bên cạnh thăm mấy người bạn cũ, phải chiều mới về. Nhờ vậy anh mới rời khỏi nhà mà không có sự tò mò của Ngọc. Hoàng phải thật sự đi một quãng đường trên năm sáu cây số, rồi lén quay lại bằng đường tắt, để rồi lẻn vào ngôi nhà qua cổng phía sau, tức cách xa ranh đất của nhà chú thím Ba.
Nghĩ là nhà không có ai ở, nên Hoàng cứ đủng đỉnh đi từ phía bên này sang bên kia và sau cùng đi thẳng vào nhà lớn. Phải công nhận là ngôi nhà còn lớn rộng và bề thế hơn nhà của chú Ba. Tuy đã cũ và lâu không có người ở, nhưng toàn bộ ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn và bên trong không có vẻ gì là hoang phế.
Bước tới đâu Hoàng cũng tỏ ra tiếc rẻ, anh thầm nghĩ, một ngôi nhà như thế này mà không có người ở thật là uổng. Đặc biệt là khi đến trước một căn phòng để hé cửa, Hoàng đã phải dừng lại, bởi có hương thơm nhẹ nhàng từ trong tỏa ra, khiến Hoàng phải buột miệng:
- Hương thơm này!
Anh thấy nó giống y như mùi thơm từ quần áo trong rương của cô gái!
- Cô Ngọc Hà ơi!
Hoàng bật lên tiếng kêu mà không kịp suy nghĩ. Vì anh, chắc chắn người mang mùi hương đó là Ngọc Hà!
Cánh cửa bỗng mở rộng ra mà chẳng thấy ai mở. Vừa khi ấy, có một giọng nói vừa đủ nghe phát ra từ bên trong:
- Ai tới thì bước vào, chứ tôi không thể ra ngoài được...
Giọng nói có vẻ mệt nhọc và hụt hơi. Hoàng hơi sửng sốt nhưng chỉ thoáng qua, rồi anh lấy lại sự gan lì cố hữu, bước hẳn vào phòng.
Đến lúc này thì Hoàng sững sờ trước căn phòng bài trí hài hòa, ấm cúng. Một căn phòng của người sống đang ở, Hoàng nghĩ như vậy!
- Đóng cửa lại, bởi tôi đang bệnh không chịu được tiếng ồn bên ngoài. Tôi cũng sợ ánh sáng nữa.
Lúc này Hoàng mới đánh bạo hỏi:
- Bà là chủ ngôi nhà này? Tại sao bên ngoài hoang phế mà trong này lại...
Một tiếng thở dài tuy nhỏ nhưng Hoàng vẫn nghe. Tiếp theo là giọng nói lúc nãy lại cất lên:
- Cậu đi tìm một cô gái phải không?
Hoàng đáp nhanh:
- Dạ đúng. Bà đây là...
- Tôi thì không quan trọng. Con gái tôi mới đáng nói...
- Vậy ra cô Ngọc Hà là con gái của bà?
Một tiếng reo khẽ:
- Đúng là cậu rồi! Con Hà nó dặn phải là người biết được tên nó thì mới cho vào đây. Mà sao tới bữa nay cậu mới sang?
- Ngọc Hà đâu rồi bác?
- Nó chờ cậu hai ba ngày rồi, bữa nào cũng ngồi trong phòng này chờ cho tới chiều tối...
Hoàng sốt ruột:
- Cô ấy biết nhà cháu mà, sao không qua bên đó hỏi. Cháu cũng chờ...
- Nó có qua hai ba lần, nhưng người ta không cho gặp, khiến cho con nhỏ về ngồi than vắn thở dài, bởi bao nhiêu quần áo nó để quên trong va-li, làm hai hôm nay phải mặc quần áo giặt đi giặt lại.
Hoàng hốt hoảng:
- Vậy để cháu về lấy đem qua ngay!
- Khoan đã. Nó đi qua ngoại nó rồi, chiều mới về.
- Bên Trường An?
Hoàng vẫn muốn chạy về lấy chiếc va-li, nhưng người đàn bà trong phòng vẫn cố giữ anh ở lại:
- Cậu đã sang rồi thì hãy ngồi lại đây, tôi cần nói chuyện với cậu.
Và không đợi Hoàng hỏi thêm, bà ta đã chủ động nói tiếp:
- Cậu muốn hỏi sao mẹ con tôi lại ở trong ngôi nhà hoang này chứ gì?
- Dạ...
- Nhưng cậu vào đây có thấy nó có đúng là nhà bỏ hoang không?
- Dạ không. Cháu đang thắc mắc điều đó...
Một tiếng thở dài nữa, lần này nghe rõ hơn, hình như bà ta đến gần hơn với tấm màn che ngang căn phòng mà người bên ngoài không nhìn thấy bên trong. Giọng hơi khó nghe hơn, nhưng vẫn đủ cho Hoàng hiểu được những gì bà đang nói:
- Mẹ con tôi là hai người cuối cùng còn lại của dòng họ danh giá và cũng lắm tai tiếng này. Chỉ bởi...
Bà ngừng lại một lúc khá lâu rồi mới tiếp:
- Chỉ bởi tôi mắc chứng bệnh nan y...
Hoàng bật kêu lên:
- Thì ra...
- Nhưng cậu đừng lo. Bệnh tôi nan y, nhưng không lây, do vậy...
Hoàng cải chính liền:
- Dạ ý cháu không phải vậy. Cháu chỉ muốn biết có phải vì chuyện này mà bác giấu tông tích mình với mọi người không?
- Gần như vậy. Nhờ thế mà lâu nay tôi được ở yên. Chỉ phiền là mỗi lần con tôi về thăm là nó phải trốn tránh mọi người, không dám ra ngoài.
Bà lại ngừng nói, mất thêm mấy chục giây nữa, rồi tiếp bằng giọng trách móc:
- Tôi chẳng hiểu giữa cậu với con gái tôi quen thân thế nào mà nó lại chỉ cho cậu nơi ở này. Đây đâu phải là nơi người như cậu tới. Nhất là cậu lại là con của người bên cạnh nhà... Cậu là thế nào với cô Ngọc bên đó?
- Bác biết em họ cháu?
Bỗng người bên trong tấm màn thảng thốt kêu lên:
- Cậu là con của... Biện lý Vĩnh?
Nghe bà ta gọi đúng tên cha mình, Hoàng quá đỗi ngạc nhiên:
- Ba cháu chết lâu rồi, sao bác biết ba cháu?
- Trời ơi...
Một tiếng kêu thảng thốt từ bên trong khiến cho Hoàng hốt hoảng, suýt nữa anh đã vén màn chạy vào rồi.
Cũng may người kia ngăn kịp:
- Cậu không được vào đây! Tôi hỏi lại, có đúng cậu là con của Hai Vĩnh không?
- Dạ đúng. Cháu là đứa con duy nhất của ba cháu. Ông ấy chết lúc cháu mới lên hai tuổi, nên cháu được chú Ba cháu nuôi cho ăn học. Cháu đi học xa nên ít khi về quê, do đó ít quen biết ai ở đây. Cháu cũng chỉ quen Ngọc Hà mới đây thôi, trong lúc cô ấy quá giang xe cháu.
- Vừa rồi cậu nói gì? Ba cậu...
- Dạ, ba cháu mất cách đây đã bảy tám năm rồi, mất ở bên Pháp.
- Cái gì, Hai Vĩnh đi Pháp hồi nào?
- Dạ, ba cháu đi một lượt với cháu. Qua Pháp được hai năm thì ông ấy mất trong một tai nạn giao thông. Chôn ở bên Pháp.
- Trời ơi!
Lần này tiếng kêu trời nghe não lòng hơn, rồi sau đó là tiếng bật khóc và nấc lên từng hồi. Hoàng hoang mang quá, anh chờ một lúc rồi mới dám lên tiếng hỏi:
- Bác làm sao vậy? Có cần...
Giọng bà ta tỏ ra khá mệt:
- Cậu về đi Nếu tiện thì lúc nào đó cậu mang giùm cái va-li của Hà qua đây. Cậu cứ để ngoài cửa cũng được không cần vào. Tôi cám ơn cậu...
Sau câu nói đó hầu như Hoàng không còn nghe bất cứ động tĩnh nào bên trong, cánh cửa phòng ngoài nãy do tự anh đóng lại, bỗng nhiên mở ra từ từ như người mở. Hoàng giật mình nhìn lại thì chẳng thấy ai ở cửa, anh lên tiếng trước khi bước lùi ra:
- Cháu xin phép về. Rồi cháu sẽ mang va-li qua ngay.
Vẫn không nghe trả lời. Khi Hoàng vừa bước ra khỏi cửa thì cánh cửa tự động khép lại. Ngôi nhà trở lại vẻ u tịch vốn có của nó. Hoàng ra về bằng cửa lúc vào, nhưng anh hơi bất ngờ khi cánh cổng đó đã bị ai khóa lại rồi! Loay hoay mãi, cuối cùng Hoàng mới tìm được một lối ra khác, mà khi lọt được ra ngoài rồi anh vô cùng ngạc nhiên, bởi chắn ngang lối ra là một nghĩa địa gia tộc, mà từ đó Hoàng có thể nhìn thấy nhà chú thím mình chỉ cách một hàng rào tre! Đúng như Ngọc đã nói đêm trước, đây là nơi chôn cất nhà Huyện Thời. Trong số năm ngôi mộ có một ngôi mà vừa nhìn thấy Hoàng đã buột miệng kêu lên:
- Ngọc Hà!
Nếu không được nghe Ngọc nói trước thì chắc là Hoàng đã sửng sốt đứng tim!
Anh cúi xuống nhìn kỹ và đọc được dòng ghi ngày tử: 14 tháng 4 năm Ất Sửu...
Nhẩm tính xong, Hoàng lẩm bẩm:
- Như vậy là đã hơn năm năm rồi... Không thể nào!
Hoàng còn đang ngẩn ngơ nhìn ngôi mộ thì từ bên kia hàng rào tre có tiếng gọi lớn:
- Anh Hoàng, sao anh ở bên đó?
Hoàng nhìn lên thì thấy Ngọc và thím mình đang tròn xoe mắt nhìn sang. Anh lúng túng:
- Con... con sang...
Ngọc gọi giật:
- Anh về nhà liền đi, có khách ở Sài Gòn ngồi chờ bên nhà nè!
Hoàng ngạc nhiên:
- Khách nào? Anh đâu có quen ai ở Sài Gòn đâu?
Thím Ba cũng giục:
- Người ta chờ hơn nửa tiếng rồi, con mau về đi!
Hình như họ sợ hãi lắm khi thấy Hoàng đứng giữa mấy ngôi mộ. Ngọc bảo:
- Hay anh vạch rào đi tắt về cho nhanh!
Hoàng không muốn kinh động trong nhà, nên anh chấp nhận sự đi tắt không đàng hoàng đó. Khi anh về được bên nhà mình thì Ngọc nói:
- Lối đó là của mấy con chó chạy qua lại lâu ngày thành đường đi, nhưng đâu ai dám qua bên đó!
Thím Ba trách:
- Sao con qua đó một mình làm gì?
Hoàng đành phải nói:
- Con tính kiếm cô gái ấy để trả lại chiếc va-li. Cũng may là gặp...
Cả thím Ba và Ngọc đều sửng sốt:
- Gặp ai?
Hoàng chợt nhớ là mình chưa tiện nói ra những gì vừa gặp, anh nói lảng sang chuyện khác:
- Ai đợi vậy?
Ngọc chỉ tay vào nhà:
- Một cô gái, nói là bạn của anh, cổ ngồi đợi lâu lắm rồi, em có nói là chưa biết lúc nào anh về thì cô ấy bảo đợi tới giờ nào cũng được!
Hoàng bước nhanh vào nhà, nhờ vậy tránh được câu trả lời cho thím Ba. Vừa bước vào tới phòng khách, anh đã phải kêu lên:
- Kìa, Ngọc Hà!


Phần II


Người khách đang ngồi đó chính là cô gái quá giang xe, là Ngọc Hà! Cũng may là lúc đó không có thím Ba và Ngọc sau lưng, nên sự sửng sốt của Hoàng và câu nói của cô gái không ai nghe được:
- Anh đừng gọi em là Ngọc Hà, em chỉ nói là bạn ở Sài Gòn về, anh cứ gọi em là Thủy, Ngọc Thủy. Em muốn gặp anh có chút chuyện rồi đi ngay, không phải bận tâm.
Không kịp hỏi nguyên do thì Ngọc đã bước ra, cô mau miệng nói:
- May cho cô, chứ ông anh của em mà đi thì như chim trời cá nước, đâu biết giờ về! Thôi, hai người cứ ngồi nói chuyện, để em đi làm cơm đãi khách.
Cô gái vội xua tay:
- Dạ, xin cám ơn, em có việc phải đi ngay. Em ghé chỉ để lấy cái va-li bỏ quên hôm trước, không kịp ăn cơm đâu.
Ngọc tròn mắt ngạc nhiên:
- Sao bữa trước anh Hoàng nói va-li này là của... cô Ngọc Hà nào đó?
Cô gái gỡ bí cho Hoàng:
- Có lẽ anh Hoàng nhớ lộn, va-li này là của em. Anh Hoàng anh cho em lấy va-li đi, xe đang đợi em ở ngoài lộ cái.
Hoàng nhìn cái nháy mắt kín đáo của cô nàng, anh không nói gì thêm, đi vào phòng lấy chiếc va-li. Nhận xong, nàng ta cáo từ đi ngay. Lúc này Hoàng buộc phải chạy theo, nhưng nàng ta đi thật nhanh, mới đó mà đã biến mất sau lùm cây. Cố chạy theo một đoạn thì màu áo trắng của cô hình như lẩn khuất vào vòng rào nhà Huyện Thời...
Hoàng ngẩn người ra khá lâu, mãi đến khi nghe tiếng Ngọc sau lưng:
- Cô ấy đẹp quá trời luôn! Sao anh không ga lăng, chạy theo xách nặng giùm cho người ta!
Hoàng cười gượng:
- Nàng ta đi nhanh quá tôi chạy theo còn không kịp nữa là...
Tuy cố tránh mà cũng không khỏi sự tò mò của Ngọc:
- Cô ấy là ai mà sao anh không giới thiệu gì hết. Người đẹp và dễ thương cỡ đó xứ mình may ra mới chỉ có con Ngọc Hà ngày xưa...
Hoàng nhìn sững Ngọc:
- Cô nói Hà nào?
- Thì Ngọc Hà con gái ông Huyện Thời, bạn của em ngày xưa. Hồng nhan bạc phận, chứ nếu không thì...
Khi sắp vào tới nhà, Ngọc chợt kéo Hoàng đứng lại:
- Chắc anh không biết chuyện giữa ba anh với cô Ngọc Hà đó?
Hoàng như bị điện giật, anh lay vai Ngọc:
- Cô nói gì, nói lại tôi nghe coi nào?
- Chuyện này má không cho nói, nhưng thấy anh quan tâm đến bên nhà Huyện Thời nên em nói riêng cho anh nghe. Ngày xưa, lúc bác Hai, tức ba anh còn đây thì giữa hai người có mối quan hệ...
- Hai người nào?
- Thì... bác Hai với con Ngọc Hà!
Chợt nhớ lại mấy tiếng kêu trời lúc nãy của người đàn bà giấu mặt trong ngôi nhà cổ, Hoàng sững sờ:
- Có... có chuyện ấy sao?
Ngọc vẫn tiếp tục kể:
- Bác Hai lớn hơn cô ấy đến gần ba chục tuổi, lại người đã có vợ con, cho nên rắc rối mới xảy ra. Cuối cùng bác Hai phải bỏ lên Sài Gòn, rồi ở đây Ngọc Hà thất tình, phát điên và...
Ngọc còn đang kể dở dang thì từ trong nhà thím Ba gọi vọng ra:
- Cơm khét hết rồi, con khỉ này đâu rồi?
Ngọc vụt chạy vào nhà, nói với lại:
- Để chiều em kể tiếp cho nghe!
Hoàng vẫn còn bàng hoàng:
- Sao lại có chuyện này? Sao lại...
Hoàng không thể nào quên tiếng kêu thảng thốt của người đàn bà trong ngôi nhà hoang kia. Bất giác anh thốt lên:
- Không lẽ bà ấy là...
Rồi trước sự ngạc nhiên của Ngọc, Hoàng chạy một mạch về hướng ngôi nhà cổ...
Anh tìm ra lối vào không khó như lúc đầu, nhưng do quá nóng lòng nên Hoàng có cảm giác là bước chân mình còn quá chậm... Cuối cùng, Hoàng cũng lọt được vào trong.
Khác với lần đột nhập lúc nãy, lần trở qua này Hoàng tìm mãi không ra căn phòng mà anh đã vào và gặp người đàn bà giấu mặt kia. Có đến bốn năm gian phòng, cái nào cũng giống nhau và đều khóa kín cửa, Hoàng có muốn gõ cửa gọi thì cũng không dám. Anh tần ngần khá lâu rồi quyết định gõ đại vào cửa một căn phòng mà anh nhớ mang máng là phòng lúc nãy. Nhưng không có ai lên tiếng. Chợt anh giật mình quay lại nhìn, bởi đâu đó còn phảng phất mùi hương như mùi quần áo trong chiếc va-li...
Không lẽ gõ hết cả mấy căn phòng? Hoàng đi lần về cuối nhà, bỗng anh nghe bên trong căn phòng bên tay phải có một âm thanh gì đó lọt ra ngoài...
- Tiếng khóc!
Rõ ràng là bên trong có tiếng khóc rất khẽ vọng ra. Mà không phải là một, hình như có đến hai người cùng khóc! Hoàng không dám thở mạnh, anh áp sát tai vào để cố nghe cho rõ hơn. Đến khi xác định là bên trong có người đang khóc thì Hoàng cố nghe cho được những gì họ nói. Nhưng tuyệt nhiên không có tiếng nói nào khác ngoài tiếng nức nở...
Chờ một lúc lâu bỗng có một tiếng thét từ bên trong:
- Má!
Rồi thôi, không có gì tiếp theo, lúc này Hoàng không còn kiên nhẫn nữa, anh tông mạnh cửa vào, cánh cửa bật ra. Và... đúng là căn phòng hồi nãy, nhưng bây giờ tấm màn ngăn ngang đã được kéo qua, để lộ ra hai cái mộ xây nằm song song nhau, và bên thành một ngôi mộ đang mở nắp có một cô gái đang phủ phục, vừa cất tiếng khóc, cả thân người run run...
- Ngọc Hà!
Tiếng tông cửa chưa làm cho cô gái bật dậy, nhưng khi Hoàng gọi tên Ngọc Hà thì cô gái đã hốt hoảng xoay người lại và mất thăng bằng suýt ngã vào trong mộ huyệt! Cô đúng là cô gái vừa nói chuyện với Hoàng xong. Bên cạnh cô còn chiếc va-li đang nằm dưới chân.
- Ngọc Hà!
Hoàng lặp lại vừa bước tới gần, có lẽ anh sợ cô bị ngã. Nhưng cô nàng đã đưa tay ngăn lại:
- Anh không nên tới đây làm gì, má em đang...
Bỗng nhiên nàng lảo đảo, lần này không còn gượng được và ngã vào trong hố huyệt đang mở nắp. Hoàng nhanh hơn, đã lao tới và chụp được cánh tay đang chới với của Hà, anh kéo lại và giữ được cô trong vòng tay.
Nhưng chưa kịp đưa cô lại chỗ dựa thì bỗng mắt Hoàng chạm vào bên trong hố huyệt. Trong đó có một thi thể còn nguyên vẹn đang nằm im!
Hoảng chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi đờ người ra...
Lần đầu tiên Hoàng biết thế nào là cảm giác sợ. Anh không sợ ma, mà chỉ bất ngờ về một xác chết nằm trong cũng vừa khi ấy cô gái tỉnh lại, cô đưa tay đóng nắp quan tài vừa giải thích:
- Người trong đó là mẹ em. Bà ấy chết đã lâu rồi...
Hoàng ngạc nhiên:
- Chết đã lâu rồi mà sao thi thể còn nguyên và không...
- Đó là một bí mật mà chỉ em và mẹ em biết...
Bất chợt Hoàng hỏi:
- Phải bà là Ngọc Hà?
Kinh ngạc bởi câu hỏi của Hoàng, cô gái hỏi lại:
- Sao anh biết?
Không trả lời, Hoàng lại hỏi ngược:
- Cô có biết một người tên là Vĩnh, Hai Vĩnh không?
Lần này thì cô gái trợn tròn đôi mắt, kinh ngạc tột độ:
- Sao anh biết ông ấy?
- Bởi người đó là cha ruột của tôi!
Câu nói của Hoàng như một tiếng sét đánh vào tai cô gái, cô chỉ tay vào ngôi mộ bên cạnh, vừa run run hỏi:
- Anh nói... người này.
Lúc này Hoàng mới kịp nhìn xuống đầu ngôi mộ và đến lượt anh sửng sốt:
- Sao... sao lại là... là mộ của ba tôi?
Trên mộ bia ghi rõ mấy chữ: Nơi đây Nguyễn Hữu Vĩnh, biện lý Vĩnh đền tội!
Hoàng không tin vào mắt mình:
- Ba tôi chôn bên Pháp, sao lại có mộ ở đây? Sao ba tôi lại đền tội?
Bất chợt cô gái quay qua cái mộ vừa đóng nắp, cô gào thét lên:
- Sao lại như vậy mẹ? Tại sao mẹ bảo con làm chuyện này khi biết anh ấy là anh của con?
Hoàng ngơ ngác:
- Cô nói gì? Cô là...
Rồi anh chợt nhớ lời Ngọc nói... Hoàng kêu lên:
- Ba tôi và bà Ngọc Hà, mẹ cô là...
Cả hai nhìn nhau và im lặng kéo dài...
***
Giở từng trang giấy cũ trong chiếc rương chứa toàn thư từ, sổ sách, Ngọc Hà vừa kể:
- Mẹ em vừa sinh em ra chưa đầy tháng thì bà bỗng phát căn bệnh lạ. Chẳng ai biết bà bệnh gì, chỉ thấy tự mẹ rút vào phòng riêng rồi cấm mọi người không được vào. Lúc ấy ông bà ngoại em còn sống, họ là gia đình giàu có bậc nhất ở xứ này, nên đâu có thầy bà, thuốc thang gì mà họ lo không nổi. Vậy mà mẹ nhất định không cho chữa trị, mẹ dọa mọi người là nếu không để cho bà yên thì bà sẽ tự tử! Ông bà ngoại sợ quá nên chiều theo ý mẹ, ngày ngày lo cơm nước đưa vào cho mẹ. Chuyện ấy kéo dài được mấy năm… Lúc ấy em còn nhỏ đâu biết gì và được gửi đi một nơi khác nuôi dưỡng. Đến khi em được mười tuổi thì mới lần đầu tiên được trở về nhà và được vào gặp mẹ. Đúng ra thì em lén tìm gặp bà, chứ ông bà ngoại không cho, sợ em bị lây bệnh của mẹ! Và đó cũng là lần đầu em biết mẹ mình với hình hài chỉ còn da bọc xương! Bởi vì, suốt trong những năm mẹ cáo bệnh rút vào phòng kín, tách biệt với thế giới bên ngoài, để cho mọi người ngỡ mẹ bệnh nan y, thật ra khi ấy mẹ đã chuẩn bị cho mình một cái chết, nên bà chỉ ăn uống cầm chừng, chứ bà không hề bị bệnh gì hết! Lần đó khi gặp em, mẹ đã ôm em vào lòng khóc suốt một buổi, không cho em ra ngoài. Để rồi mẹ lấy hết những gì đã viết trong những năm sống biệt lập, đưa cho em, dặn là chỉ mình em đọc mà thôi, và mẹ cũng bắt em phải hứa là thay mẹ trả thù một người đàn ông. Dặn xong thì mẹ chết trên tay em!
Hoàng nghe tới đó thì chặn lời:
- Người mà mẹ em bảo trả thù có phải là ba anh không?
Cô gái gật đầu:
- Đúng. Mẹ bảo cả cuộc đời mẹ đã giao trọn cho người đàn ông đó, nhưng ông ấy đã phản bội mẹ, sau khi hay tin mẹ có thai thì ông ấy đã cao chạy xa bay, không đoái hoài gì tới bà đang đau khổ! Lúc ấy em còn quá nhỏ để hiểu những chuyện ấy, em chỉ biết đau khổ vì mất mẹ thôi, nên tính đem chuyện mẹ dặn nói lại với ông bà ngoại. Nhưng em chưa kịp nói gì thì ngay khi ấy mẹ đã hiện hồn về gào khóc, ngăn không cho em nói ra chuyện riêng của mẹ! Cũng từ đó, đêm nào hồn mẹ cũng hiện về, mẹ nói sẽ ở bên em cho đến khi nào nhìn thấy em trả thù được người đàn ông đó! Lúc em lớn và hiểu biết, em có phân tích cho mẹ nghe dẫu sao người ấy cũng là cha ruột của em. Nhưng mẹ nhất quyết không nghe, bà nói người đàn ông đó là kẻ bạc tình, vô trách nhiệm thì không xứng đáng được gọi là cha! Mẹ cứ gieo vào đầu em mỗi ngày như vậy, cho nên em cũng nhiễm hận thù và chính em đã xây hai ngôi mộ trong phòng riêng của mẹ khi ông bà ngoại vừa mất, ý của mẹ là hai ngôi mộ ấy một dành cho mẹ nằm, còn cái kia để dành cho…ông ấy!
- Bà đã hiểu lầm ba. Bà nghĩ ông đã phản bội bà để chạy theo bóng hình khác. Chứ bà đâu có biết rằng chính do ông ngoại em sau khi phát hiện ra mối tình vụng trộm của ba anh với mẹ em, ông ấy đã âm thầm vận động, đút lót tiền với một viên chức người Pháp, đẩy ba anh đi một chỗ thật xa, để ngăn không cho ông liên hệ với mẹ em nữa. Đó là nguyên nhân khiến ba anh đứt liên lạc với mẹ em. Cho đến ngày ba anh vì quá phẫn chí, đã quyết định bỏ xứ ra đi. Trong những ngày ở Pháp ông đã từng nói với anh là đã bị một người đàn bà phản bội, đã có những ngày sâu nặng với ông mà còn bỏ đi lấy chồng khác có quyền thế hơn! Ngày đó anh không hiểu gì nên cũng có ý trách người đàn bà kia, nhưng khi về đây và nhất là vừa rồi gặp được mẹ em thì anh bắt đầu hiểu, có lẽ tất cả là do ông ngoại bày ra để nhằm chia cắt hẳn cha mẹ chúng ta.
Ngọc Hà cũng gật đầu:
- Em hiểu hết rồi, và mẹ cũng hiểu. Bằng chứng là mấy chữ mẹ vừa viết lên vách huyệt đã cho thấy mẹ hối hận, mẹ bảo trong đời mẹ chỉ sai lầm có một lần, mà là sai lầm tệ hại nhất, đó là…đã hiểu sai về ba!
Ngọc Hà nhìn Hoàng với ánh mắt chờ sự cảm thông:
- Cả mẹ và em cũng đều hiểu không đúng về ba, mong anh đừng giận. Em cũng sẽ khẩn cầu vong hồn ba hãy tha thứ cho mẹ, cho em.
Hoàng chặn lời:
- Anh nghĩ ba không còn giận đâu. Anh hứa, lần này trở về Pháp anh sẽ tìm cách đem hài cốt của ba về đây, và nếu em đồng ý thì anh xin được mai táng ba ngay bên cạnh mộ phần của mẹ.
Nhưng chợt nhớ ra, Hoàng hỏi:
- Tại sao xác mẹ em nằm đây mà ngoài vườn lại có một ngôi mộ đề tên mẹ nữa?
- Đó là ý của mẹ và do em làm. Mẹ không muốn ai biết cái thế giới riêng của mẹ trong phòng này cả!
- Rồi còn cái tên nữa, sao mẹ là Ngọc Hà, mà em cũng tên đó?
- Cũng là ý của mẹ. Lúc sinh ra em có tên là Thanh Thủy, nhưng sau này mẹ đổi lại cho em mang đúng tên của mẹ. Mẹ bảo, cái tên Ngọc Hà chỉ chết một lần vì ngu dại, cả tin, còn Ngọc Hà còn lại trên thế gian thì phải làm ngược lại, phải khiến cho đàn ông ngu dại, cả tin và trả thù họ! Em thú thật, chính mẹ đã mách cho em biết lần trở về này của anh, bảo em phải tìm cách tiếp cận anh, đưa anh về đây gặp mẹ. Chứ em đâu có ngờ anh lại là…
Hoàng cười, vỗ vai cô nàng:
- Đâu có ngờ suýt nữa em đã hại chết người anh cùng cha khác mẹ của mình phải không!
Nhìn xuống chiếc va-li Hoàng thắc mắc:
- Anh có tò mò và biết trong va-li của em quần áo chỉ toàn một màu trắng, vậy là sao, chẳng lẽ em không bao giờ mặc quần áo màu khác?
Ngọc Hà lặng người đi một lúc, rồi đột nhiên cô bật khóc! Hoàng hoảng hốt:
- Em sao vậy Hà? Bây giờ mọi việc đã rõ rang rồi, chúng ta sẽ cùng lo cho nhau. Anh hứa sẽ bù lại những gì ba đã làm cho em thiệt thòi. Anh em mình sẽ cùng thờ phụng cha mẹ mà…
Đột nhiên Ngọc Hà chụp lấy vai Hoàng, khóc nức nở:
- Suýt nữa thì em đã hại anh rồi! Anh biết không, nghe lời mẹ, em tính sau khi hại anh chết thì em sẽ vào trong này, cùng nằm chết với mẹ. Những quần áo màu trắng này là em tự lo để tẩm liệm cho mình!
Hoàng vỗ về em gái:
- Mọi việc qua rồi em. Bây giờ là lúc mình phải vui lên chứ! Anh không trách gì em cả, mà trái lại anh thương em nhiều và anh thấy trách nhiệm của mình càng nặng nề hơn. Nhưng anh hứa, anh sẽ dành mọi sự tốt đẹp nhất cho em gái mình!
Anh em họ cùng siết chặt tay nhau. Suốt buổi chiều hôm đó, họ ở miết trong căn phòng với hai ngôi mộ và tối hôm đó, Hoàng quyết định đưa Ngọc Hà về nhà chú Ba để giới thiệu rõ.
Hai anh em thức nói chuyện gần cả đêm. Bên nồi cháo gà do Ngọc nấu chiêu đãi, Ngọc Hà đã vui miệng kể:
- Mẹ là một hồn ma, nhưng từ khi mẹ hiện về bên em, chưa bao giờ em nghe mẹ nói sẽ hại ai bao giờ. Có lẽ mẹ là một oan hồn duy nhất hiền lành như vậy.
Ngọc chen vào nói:
- Má của chị ngày trước cũng hiền lành, dễ thương lắm. Em chơi lâu nên biết mà…
Ngọc Hà nghe Ngọc gọi mình như vậy thì vội xua tay:
- Sao… sao cô gọi cháu như vậy? Cháu là con gái của mẹ, bạn cô mà!
Ngọc cười:
- Một đằng là con của bạn, nhưng trong huyết thống thì… chị là vai chị của em đó. Chị là con gái của bác Hai mà, chị chỉ nhỏ hơn anh Hoàng thôi, chứ với em thì chị là chị của em mà!
Đêm đó cả nhà thức đến sáng với niềm vui khôn tả…


CẨU NHI - Phần I


Thời Pháp thuộc...
Từ Rạch Giá đi Hà Tiên chỉ hơn sáu chục cây số, nhưng việc đi lại phải mất gần một ngày, dẫu là đi bằng xe hơi nhà. Bởi vậy mới tờ mờ sáng đã thấy anh tài xế Tư Xê lo chuẩn bị nổ máy chiếc Traction. Lúc cô chủ Nguyệt Ánh vừa leo lên xe thì đồng hồ chỉ đúng con số 6.
Vừa rồ máy xe, Tư Xê báo ngay với chủ:
- Đi sớm như vậy thì hy vọng tới Kiên Lương kịp dự lễ.
Cô chủ Nguyệt Ánh cau mày:
- Không cách nào sớm hơn sao?
- Dạ, đường không xa, nhưng xấu và gặp mùa mưa này, em không dám chạy nhanh. Vả lại, có cô ngồi xe thì làm sao em dám chạy quá ba chục cây số giờ.
- Sáu chục cây số thì chạy chậm cũng chỉ hai tiếng, sao đến nửa ngày mới tới, còn hơn là đi Sài Gòn, chán chết!
- Dạ, tại cô chưa đi đoạn đường này nên chưa biết, chứ so với đường Sài Gòn thì nó xấu hơn nhiều, lại còn phải qua hơn chục cây cầu sắt bắc tạm, đâu dám chạy mà chỉ bò thôi. Nói thật, đi ca nô còn nhanh hơn!
Nguyệt Ánh chẩu miệng ra:
- Vậy sao không lấy ca nô đi?
Tư Xê biết chiều ý cô chủ khó tính:
- Em cũng muốn vậy, nhưng hôm qua em vừa đưa ý kiến đó ra thì bị ông chủ rầy liền, ông nói cô Ba không biết lội sao đi đường sông nước được.
Nguyệt Ánh tuy sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước Rạch Giá, nhưng vốn con nhà giàu, chỉ biết lên xe xuống ngựa nên làm sao có dịp lội sông bơi xuồng, do vậy cô chẳng hề biết lội như bao cô gái khác. Hơn nữa, cô có tiếng là đẹp và sống cao sang, nên dẫu có muốn thử đi sông cũng chẳng bao giờ dám nhảy xuống nước sông có màu đục như bị ô nhiễm, mặc dù ai cũng biết nước sông vùng đồng bằng có tiếng là sạch.
- Dạ, cô cần ghé đâu ăn điểm tâm hay chạy luôn.
- Anh chạy luôn đi, chừng nào đói ghé nhà hàng dọc đường ăn cũng được.
Tư Xê cười:
- Dạ, đường này không có quán xá, nhà hàng dọc đường như Sài Gòn đâu. Một là ăn ở chợ này, hai là đi thẳng tới nơi ăn trưa luôn!
Nguyệt Ánh bực bội:
- Xứ sở gì mà thiếu đủ mọi thứ, vậy mà ông bà già đày tôi tới đó làm gì cho khổ thân! Thôi, không đi nữa!
Biết là cô ta làm nư, nhưng Tư Xê cũng phải xuống nước, bởi đây cũng là nhiệm vụ mà anh ta được ông chủ Thuận Thành giao:
- Cô Ba ráng một chút, chứ đúng ra mình phải đi vào chiều hôm qua, nhưng thấy trời tối lại mưa gió trơn trợt, nên phải để sáng nay. Thôi, cứ ngồi trên xe, để em ghé Tài Ký bảo nó làm bánh mì xíu mại và bánh bao đưa lên xe cho cô vừa đi vừa ăn cho khỏi mất thì giờ.
Chẳng biết nghĩ sao, cô nàng vụt nói:
- Thôi được rồi, cứ ghé Tài Ký cho tôi. Tôi có chút việc ở đó tiện giải quyết luôn.
Tư Xê cho xe chạy tới quán ăn nổi tiếng Tài Ký, ngừng ngay cửa, chưa kịp xuống xe mở cửa như lệ thường thì Nguyệt Ánh đã tự bước xuống. Rồi thay vì đi vào tiệm ăn, cô nàng lại bước qua bên kia đường, đi thẳng vào ngôi nhà lầu ba tầng mới cất lộng lẫy, nguy nga.
- Nhà của nghiệp chủ Thuận Lợi mà! Sao cô ấy lại ghé vào chỗ này?
Sở dĩ Tư Xê ngạc nhiên, bởi anh lái xe cho nhà ông chủ Thuận Thành đã gần chục năm, mọi khách hàng, bè bạn gì của ông bà chủ anh đều rành, mà riêng nghiệp chủ Thuận Lợi này thì anh ta còn biết rành hơn nữa, bởi đã nhiều lần ông chủ Thuận Thành từng dặn:
- Làm ăn, giao dịch gì với ai cũng được, nhưng tao tuyệt đối cấm tụi bay không được giao du với cánh của Thuận Lợi nghe chưa!
Mặc dù Nguyệt Ánh đi học và sống ở Sài Gòn lâu ngày, nhưng chắc chắn cô ta phải biết sự nghiêm cấm đó.
Vậy tại sao cô ta lại tới nhà này trong thời khắc mà cả gia đình cô đang chờ ở Kiên Lương để cử hành hôn lễ cho cô?
Trong lúc Tư Xê còn đang thắc mắc, hoang mang, thì chợt anh nghe có vị khách nào đó đang ngồi ăn trong quán Tài Ký nói vọng ra:
- Con nhỏ tiểu thư con nhà Thuận Thành tới thăm thằng bồ nó là con trai út Thuận Lợi đó tụi bay!
Một giọng khác, có lẽ là ngồi chung bàn lên tiếng:
- Con nhỏ kiêu nhất xứ này, con nhà giàu, học giỏi lại đẹp gái như vậy mà lại mê thằng Út Thông của Thuận Lợi, vừa hư đốn, chơi bời trác táng lại mang tật đi mây về gió nữa!
Một người khác hỏi:
- Đi mây về gió là gì mày?
- Là bắn khỉ! Là hút á phiện, hít nàng tiên nâu đó!
Tư Xê quay lại nhìn thì bắt gặp bàn có bốn năm người, họ đang chỉ trỏ sang bên kia và bàn tán. Chợt nhớ ra cái tên Út Thông, Tư Xê kêu lên:
- Đúng rồi, chính là người mà hôm qua cự nự với Nguyệt Ánh khi anh ra đón ở bến tàu! Do không biết mặt hắn trước đó, nên từ hôm qua tới nay Tư Xê cứ thắc mắc hoài, sao ở xứ này lại có người dám cự cãi ngang cơ với cô chủ nhỏ nhà Thuận Thành như vậy! Hôm qua anh nghe có người kêu tên anh chàng đó là Út Thông...
Phải mất gần nửa giờ sau thì Nguyệt Ánh mới trở ra, thần sắc cô nàng không được tươi tỉnh như lúc vào. Vừa lên xe, cô đã giục:
- Đi nhanh lên!
Biết tính cô nàng nên Tư Xê không dám hỏi gì, mãi đến khi qua khỏi Sóc Xoài thì cô nàng lên tiếng trước:
- Đói bụng quá, kiếm cái gì ăn đại cũng được!
Tư Xê chạy một lúc nữa, anh nhìn thấy một quán cóc bên đường có treo lủng lẳng mấy cái bánh dừa, bánh tét, anh rà xe lại, ngập ngừng nói:
- Ở đây đâu có bán gì ngoài mấy thứ này. Sợ e cô Ba ăn không được...
Nhưng thật bất ngờ, cô nàng quay kính xe xuống và nói với ra:
- Cho bốn cái bánh dừa!
Mua xong, nàng ta lại giục:
- Đi nhanh lên!
Đưa cho Xê hai cái, còn phần mình hai cái, cô nàng lột ra ăn ngon lành và còn khen:
- Bánh ngon thật!
Tư Xê cười thầm trong bụng về điều ngược đời này. Bình thường ở nhà, cô ta kén ăn và chê ỏng chê eo những món bình dân, vậy mà hôm nay khi đói thì ăn thứ thường nhất vẫn khen ngon! Xê vừa lái xe vừa lột một cái ăn và cười bảo:
- Cô ít ăn, chứ còn em thì sáng nào cũng ăn thứ này hoặc xôi, ăn riết rồi cảm thấy nó ngon hơn cả bánh bao, hủ tiếu!
Không biết là anh ta nói kháy mình, Nguyệt Ánh lại trầm trồ:
- Bánh nhân đậu ở đây gói ngon hơn Sài Gòn. Phải biết, lúc nãy mua thêm đem về nhà tối ăn!
Lúc này Tư Xê mới nhắc:
- Tối nay cô còn phải dự lễ cưới nữa đó.
Nguyệt Ánh xì một hơi dài:
- Cưới với hỏi gì, mệt quá!
Tư Xê đưa ra tấm thiệp hồng, nhắc:
- Ông chủ bảo em đưa cho cô xấp thiệp này, để cô mời mấy người bạn thân, nhưng do mãi đến chiều hôm qua cô mới về tới nên em không kịp đưa. Liệu có cách nào báo cho họ biết để đi dự không?
Nguyệt Ánh cầm xấp thiệp định vứt ra ngoài xe nhưng Tư Xê đã kịp ngăn lại:
- Dẫu cô không muốn giữ, nhưng thiệp cưới có ghi tên cô, tên chú rể mà đem bỏ đường bỏ chợ không nên đâu!
Nguyệt Ánh cầm xấp thiệp vứt xuống sàn xe, càu nhàu:
- Nếu không chiều ý ba má tôi thì miễn có vụ cưới hỏi này đi! Chán chết được!
Rồi bất ngờ cô ta hỏi:
- Anh biết Út Thông con nhà Thuận Lợi không?
- Dạ... chỉ biết sơ thôi, cậu công tử đó giàu lắm, nghe nói làm gì ở Sài Gòn phải không cô?
- Phải. Tôi cấm anh không được nói lôi thôi về việc tôi có liên hệ với nhà đó. Nhất là với ba tôi...
- Cô yên tâm, thằng Tư Xê này biết đạo lý ăn cây nào rào cây nấy mà! Vả lại, từ nào đến giờ em chưa bao giờ thóc mách bất cứ chuyện gì. Bởi vậy ngay như chuyện ông có...
Anh ta kịp dừng lại, nhưng Nguyệt Ánh thì đâu có chịu dừng:
- Anh mới nói cái gì? Ba tôi có gì?
- Dạ... đâu có.
- Nói! Anh mà không nói thì đừng có trách tôi sao ác. Tôi dư sức đuổi việc anh ngay ngày mai mà ba tôi cũng chịu thôi!
Tư Xê tự trách mình lỡ lời, nên đành phải hé lộ:
- Ông chủ... đi chơi khi lên Sài Gòn. Ông dặn em đừng nói lại...
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Dạ, chỉ có vậy...
- Tha cho đó. Từ rày có chuyện gì nói tôi nghe, tôi cho tiền xài.
Nói xong, cô nàng móc ra tờ năm đồng đưa cho:
- Anh cầm uống cà phê!
Tư Xê ngầm hiểu, đó không phải là tiền thưởng công tiết lộ chuyện ông chủ, mà thật ra đó là hối lộ để không lộ chuyện cô ả ghé nhà Út Thông.
- Anh lái nhanh nhanh một chút, tôi nằm ngủ, chừng nào tới nơi thì gọi.
Lúc này Tư Xê vừa lái xe vừa nghĩ tới chuyện rối rắm của cánh nhà giàu. Cụ thể là chuyện của cô ả Nguyệt Ánh này. Cô ta đang đỏng đảnh ở Sài Gòn, ăn chơi nhiều hơn học hành, giao du với nhiều người, trong đó có Út Thông, vậy mà đùng một cái, ông già cô ta gọi điện lên bảo về đi lấy chồng là cô ta riu ríu nghe theo, về liền! Trong chuyện này Tư Xê chỉ hiểu bề nổi, chứ mặt chìm thì anh còn mù mờ. Bề nổi là sui gia đằng trai có một thế lực lớn ở Hà Tiên, giàu gấp năm bảy lần công ty vận tải thủy bộ Thuận Thành. Vụ cưới hỏi này chắc không ngoài mục đích trao đổi, gả bán để dựa dẫm nhau giữa hai bên trọc phú. Trong đó ông chủ Thuận Thành đang cần một thế lực như bên thông gia kia, cho nên ông ta mới hy sinh cô con gái cưng của mình! Phần Nguyệt Ánh, theo Tư Xê hiểu, chắc chắn cô ta kẹt điều gì đó, nên mới chấp nhận lấy người mà cô ả không hề biết mặt, không hề yêu thương. Bởi vậy thái độ bất cần biết lễ cưới chiều hôm nay của cô nàng, cho thấy trong lòng cô ta đã có sẵn một dự tính gì đó...
Đột nhiên cô nàng hỏi:
- Anh có biết tại sao đám cưới tôi mà không làm ở Rạch Giá, mà đem lên nhà nội tôi làm không?
Tư Xê nếu có biết cũng không dám nói, anh ta chỉ ậm ừ:
- Dạ, chắc là tại... tại cô...
Nguyệt Ánh bỗng vỗ lên vai anh ta:
- Ví dụ bây giờ anh nhận tôi làm vợ thì anh nghĩ sao?
Dẫu là tay lái cừ khôi, từng lái xe hơn chục năm, nhưng với cú vỗ vai kèm câu nói đó đã khiến Tư Xê chao đảo tay lái, suýt nữa đã đâm xe xuống ruộng! Anh ta lắp bắp:
- Cô... cô Ba để... em sống với!
Nguyệt Ánh chợt cười to lên:
- Chưa chi đã sợ thì làm sao làm thật!
Tư Xê lần này đâm xe vào lề thật, chui hẳn vào một lùm cây lớn, um tùm. Anh ta đã kịp thắng và quay lại chắp tay xá dài:
- Xin cô Ba để cho tôi sống nuôi mẹ già! Ông chủ mà đuổi tôi thì có nước đi ăn mày cô ơi!
Nhưng giọng Nguyệt Ánh trở nên nghiêm túc:
- Tôi nói thật. Anh có dám nhận làm chồng tôi không?
Rồi không đợi cho Tư Xê trả lời, cô nàng chủ động nói luôn:
- Chỉ làm chồng giả thôi. Ví dụ như tôi nói anh đã lỡ với tôi... có thai, để tôi hủy cái đám cưới chiều nay. Để rồi anh cứ bỏ việc, tôi cho anh một số tiền lớn, đủ sống cả đời, anh chịu không?
Tư Xê tưởng mình nghe lầm, anh lắp bắp hỏi lại:
- Cô Ba nói... nói...
Nghĩ anh ta đã nghe lời, Nguyệt Ánh nói cụ thể ra:
- Nói thật với anh, tôi lỡ... có thai với Út Thông, mà hồi nãy tôi ghé bảo anh ta cứu tôi để ngăn cái đám cưới này lại thì anh ta đã giở giọng chó má, chối phăng trách nhiệm. Rồi tôi sẽ cho anh ta biết tay, nhưng bây giờ việc cấp bách là tôi phải có cách để tháo chạy khỏi cái vụ cưới hỏi này đã! Chỉ có anh nhận lời ăn nằm với tôi thì chắc chắn mọi việc sẽ ổn hết!
Tư Xê toát mồ hôi, người anh phát run lên:
- Em xin cô Ba, nhà em nghèo, nhưng em đâu táng tận lương tâm làm chuyện đó... Hãy để cho em sống với!
Thấy không thể làm cho anh ta nghe theo, Nguyệt Ánh phải rít lên:
- Anh mà từ chối thì coi như anh đã... cưỡng bức tôi rồi!
Vừa nói cô ả vội tuột phăng áo ngoài ra, để lộ nguyên phần trên thân thể vừa tru tréo:
- Anh mà từ chối thì tôi la lên, nói anh lợi dụng đường vắng cưỡng hiếp tôi! Anh tưởng tôi không dám làm hả?
Nguyệt Ánh vừa cất tiếng thì Tư Xê đã đưa tay chụp miệng cô ả lại, hốt hoảng:
- Kìa, cô Ba!
Rồi anh ta tắc tị, không nói thêm được lời nào nữa, bởi khi ấy anh ta đã bị đôi môi mọng kia áp lên chỗ có thể phát ra lời. Người Tư Xê như tê dại hẳn đi...
Chỉ còn giọng nhỏ xíu của Nguyệt Ánh:
- Anh hãy trở về nhà của Út Thông, lên lầu gặp anh ta, nói tôi gửi cái này, rồi sau đó đi ngay, khỏi cần hỏi gì nữa.
Cô ả đưa cho Tư Xê một phong thư dán kín...
***
Lái xe đến cách Kiên Lương khoảng vài cây số, Tư Xê tấp xe sát lề theo lệnh của Nguyệt Ánh, rồi cô ả bảo:
- Anh kiếm chỗ nào đó ở đỡ đi, rồi sáng mai đón xe đò lên Sài Gòn chờ tôi. Đây, anh cầm trước số tiền này mà xoay sở, rồi tôi sẽ cho thêm gấp đôi nữa!
Tư Xê cầm tiền mà lòng dạ rối bời. Như vậy thì coi như anh ta đã tự đập bể nồi cơm của mình, tự cắt đứt đường về để làm người lương thiện!
Thấy anh ta còn lững thững ở vệ đường, Nguyệt Ánh lại giục:
- Kiếm chỗ nào ẩn mặt đi, để thiên hạ thấy thì hư chuyện hết! Mọi thứ khác để tôi lo.
Cô ả ngồi vào tay lái và vù xe đi đầy tự tin.
Tư Xê như kẻ mất hồn, anh ta chưa kịp nhét số tiền lớn vào túi thì đã nghe ai đó gọi bên đường:
- Vào đây nghỉ chân đi anh Hai!
Nghĩ chắc ai đó thấy anh cầm tiền lại vừa trên xe hơi bước xuống, nên Tư Xê mau chân bước nhanh vừa nhét số tiền vào túi cẩn thận. Tuy nhiên, có một thiếu niên chạy xe đạp đuổi theo vừa gọi giật ngược:
- Có người quen của chú kêu đằng kia kìa!
Tư Xê nhìn lại thì giật mình, bởi người đang bước ra khỏi quán cóc bên đường có gương mặt quen quen... mà sau vài giây suy nghĩ, Tư Xê đã kêu lên thảng thốt:
- Út Thông!
Tuy chưa quen anh ta, nhưng đã một lần thấy mặt, hôm anh ta cãi nhau với Nguyệt Ánh, nên vừa nhìn thấy Tư Xê đã nhận ra. Nhưng tại sao anh ta lại ở đây? Không phải vừa rồi Nguyệt Ánh nói là gặp anh ta ở nhà hay sao?
Không còn cách nào hơn, Tư Xê đành phải quay lại. Đúng là Thông đang ngồi một mình trong quán lá, anh ta kéo vội Tư Xê vào và nói ngay:
- Tôi chờ anh ở đây đã lâu rồi!
- Nhưng... không phải cậu đang ở Rạch Giá sao?
Út Thông nhìn trước nhìn sau rồi mới nói nhanh:
- Tôi đã ở Kiên Lương này từ chiều hôm qua và ra ngồi đây từ sớm!
- Vậy mà cô Ba Ánh nói mới gặp cậu ở hiệu buôn Thuận Lợi. Hồi nãy chính tôi đã chở cô ấy tới đó, vào gặp cậu mà...
Út Thông rít lên:
- Con khốn nạn bày trò đó! Tôi... tôi làm sao còn ở đó được...
Anh ta định nói gì đó, nhưng kịp dừng lại và đổi giọng:
- Tôi đến gặp anh để nhờ anh một việc, chẳng biết anh có bằng lòng giúp?
Tư Xê ngạc nhiên:
- Tôi giúp gì được cho cậu?
- Được! Chỉ có anh là giúp được cho tôi lúc này thôi. Anh tới chỗ đám cưới chiều nay tìm cách... phá không cho họ cưới nhau!
Tư Xê nhìn sững anh ta:
- Sao cậu không làm mà nhờ tôi?
- Bởi tôi mới chết, hồn chưa thể hiện ra được, phải nhờ qua anh để hành động!
Tư Xê đang ngồi trên ghế mà nghe câu nói đó anh ta ngã ngửa ra sau, kêu lên:
- Cậu... cậu nói... nói gì?
- Tôi giờ là một hồn ma, do tôi mới chết nên chưa thể ra tay làm theo ý mình được. Tôi nhờ anh, tôi biết anh là người tốt, mong anh giúp tôi đòi lại sự công bằng! Anh biết không, con Nguyệt Ánh nó yêu tôi, lấy tôi và có thai được ba tháng rồi, bây giờ nó với ông già nó ham tiền, nên bỏ tôi đi lấy thằng con ông triệu phú ở Kiên Lương này, nó đành lòng, nhẫn tâm giết tôi chết chẳng khác giết một con gà con vịt!
Tư Xê kêu lên:
- Không thể có chuyện đó! Bởi hồi sáng tôi thấy cô ấy lên nhà cậu chỉ khoảng nửa tiếng thì trở xuống, cô ấy còn nói cậu phụ tình cô ấy, chối từ đứa con trong bụng cô ấy khi được cô ấy báo tin!
Út Thông dúi vào tay Tư Xê một nắm tiền:
- Anh lấy số tiền này, rồi làm một việc hợp với lương tâm, giúp người bị nạn. Anh coi đây là tiền công cũng được, hoặc là món tiền tôi cho anh để nghỉ làm cho nhà Thuận Thành cũng được!
Thấy Tư Xê vẫn còn nhìn mình với ánh mắt hoài nghi, Út Thông nói như van lơn:
- Anh hãy giúp giùm tôi đi, tôi chết mà vong hồn ở chín suối vẫn luôn nhớ ơn anh! Anh còn chưa tin phải không, đây nè, anh hãy nhìn cần cổ của tôi xem, có phải nó phù to ra không? Đó là hậu quả của hành động đổ xái á phiện đang nấu sôi vào miệng tôi của Nguyệt Ánh. Lúc sáng khi cô nàng lên lầu gặp tôi đang hút á phiện, cô ta giả vờ ngồi xuống châm thuốc cho tôi, rồi bất ngờ lấy nguyên lọ thuốc phiện đang nấu trên ngọn đèn dầu phộng đổ vào miệng tôi, làm tôi sặc thuốc và tử vong ngay! Cách giết người này chỉ có Nguyệt Ánh mới biết vì có lần tôi kể cho cô ả nghe. Ả rắp tâm làm vậy là để dễ dàng đi lấy chồng khác! Anh xem đây...
Vừa dứt lời thì... đã chẳng còn thấy anh ta đâu nữa! Tư Xê ngơ ngác:
- Cậu Út!
Chỉ nghe văng vẳng tiếng anh ta bên tai:
- Tôi sẽ mượn hình hài anh mà tới chỗ đám cưới, xong việc thì anh trở về nguyên vẹn, chẳng ai hại gì anh, đừng sợ!
Rồi anh ta đã như sương khói, biến mất không để lại dấu vết gì...
Đây là cách anh ta chứng minh cho Tư Xê thấy những gì anh ta nói là đúng sự thật! Và điều đó có nghĩa là...
Tư Xê ngẩn ngơ một hồi lâu rồi đưa tay sờ hai túi quần, cả hai xấp tiền còn nằm đó, anh ta tự hỏi:
- Nghe ai đây?
Dẫu chưa biết phải làm theo lời ai, nhưng cuối cùng Tư Xê vẫn quyết định đi ngược về hướng Kiên Lương. Lúc đầu đi bộ, sau anh gọi một chiếc xe lôi và chỉ về hướng thị trấn...
***
Giả làm người dọn bàn cho tiệc cưới. Tư Xê đã qua mắt được mọi người. Kể cả ông chủ Thuận Thành ngày ngày ngồi xe cho Tư Xê lái cũng không nhận ra anh tài xế của mình, Tư Xê khá yên tâm lẫn vào trong đám đông tham dự tiệc.
Bữa tiệc sáu giờ mới bắt đầu vậy mà mới năm giờ quan khách đã tới gần như đủ mặt. Vợ chồng ông Thuận Thành suốt sáng đã đứng ngồi không yên bởi sự vắng mặt của cô con gái, nhân vật chính của buổi lễ, bà cứ cằn nhằn ông chồng:
- Tôi đã nói rồi, cứ chờ nó về rồi đi luôn mà ông không chịu, cứ đòi lên đây trước. Rồi bây giờ không biết nó tới đâu rồi? Lỡ... nó nổi chứng, không về thì chẳng biết lấy cô dâu đâu mà giao cho người ta đây!
Cũng may là tới giữa trưa thì Nguyệt Ánh về tới. Bà Thuận Thành là người duy nhất trong nhà biết chuyện cái thai oan nghiệt của con gái, nên bà trách nhẹ con:
- Bụng dạ như vậy mà còn đi đứng hấp tấp, bộ không sợ nó động cái thai sao! Mà nè, đã nai nịt cẩn thận chưa, đừng để khi mặc áo cô dâu mà cái bụng "thè lè" ra đó thì có nước... độn thổ!
Nguyệt Ánh vẫn tỉnh như không:
- Chuyện đâu còn có đó, lo làm gì cho mệt!
Biết tính ngang bướng, ẩu tả của con, nên bà Thành xẵng giọng:
- Mày mà làm hư bột hư đường là ông giết chết liền đó, chẳng phải chơi đâu!
- Chết là cùng chứ gì!
Bà Thành hạ thấp giọng hỏi:
- Mày dàn xếp vụ thằng Thông chưa? Nó có chịu im tiếng để mày lo cho xong vụ này chưa?
Vẫn giọng tưng tửng, cô ả đáp:
- Xong hết rồi! Chẳng những im qua vụ này, mà còn im vĩnh viễn nữa!
Bà Thành tròn mắt nhìn con:
- Mày nói sao? Vĩnh viễn là gì?
- Là không bao giờ còn làm phiền người khác nữa!
Cô ả nói xong thì đứng lên đi thẳng vào phòng riêng. Đây tuy là nhà của bà nội, nhưng vốn là con gái cưng, đứa cháu rượu của bà nội, cho nên Nguyệt Ánh được dành cho mọi đặc quyền, thậm chí bà nội còn tuyên bố là về sau này nếu cô ả muốn thì cả gia sản, cơ ngơi này sẽ là của cô ta? Bởi vậy đám cưới của cô được tổ chức ở đây thay vì ngoài Rạch Giá cũng là điều tự nhiên, chẳng ai thắc mắc gì.
Bà Thành vẫn chưa yên tâm, bà chạy theo con vào tận phòng riêng, thấy Nguyệt Ánh có vẻ mệt, bà gọi ra ngoài:
- Đứa nào nói bếp dọn cơm lên cho cô Ba ăn nghe chưa. Dọn thẳng vào phòng này luôn!
Cô ả không muốn ăn, nhưng do bụng đói cồn cào, bởi từ sáng đến lúc này chỉ có hai cái bánh dừa trong bụng, nên cũng muốn ăn cho no rồi còn tính tiếp chuyện chiều nay. Hình như đoán được ý con, bà hỏi khẽ:
- Mày tính gì vậy Nguyệt Ánh? Nói cho má nghe coi, đừng có làm bậy...
Cô ả không nói, cứ để nguyên đồ nằm lăn ra ngủ. Bà Thành phải dỗ mãi cô nàng mới chịu hé lộ:
- Chiều nay con đợi cho họ nhà trai trao cho ba má cái giấy nợ xong rồi thì con tuyên bố trước mọi người là con... đã có thai với người khác, hãy hủy đám cưới ngay!
Bà Thành hoảng hốt:
- Đừng! Đừng làm vậy con ơi! Con có biết nếu con mà làm vậy thì ba con đứng tim chết liền. Bà nội con cũng không sống nổi nữa! Dẫu gì thì con cũng đã hy sinh rồi thì cứ hy sinh cho trót. Thằng này cũng đâu phải cùi đui sứt mẻ gì đâu mà con chê. Nó vẫn còn hơn thằng Út Thông về cả tư cách lẫn sự giàu có. Hơn nữa theo má biết thì nó hiền lành, khờ khạo lắm, sẽ không biết chuyện con có thai trước mấy tháng đâu. Khi đã cưới nhau rồi má sẽ có cách giúp con ém nhẹm vụ cái thai, đừng lo.
Nguyệt Ánh đang mệt mà cứ nghe lải nhải hoài, cô ta nói như hét lên:
- Thôi, má đừng nói nữa! Con biết phải làm gì rồi. Xong vụ này chẳng những con thoát khỏi mối này, mà cả vụ thằng Út Thông con cũng thoát luôn. Cái chết của hắn cũng có người đứng ra gánh chịu giùm con rồi! Chỉ hai hôm nữa là con trở lên Sài Gòn, tiếp tục cuộc sống tự do của mình và từ nay ba má đừng bận tâm gì tới con hết.
Bà Thành hỏi lại:
- Ai gánh vụ thằng Thông? Mà con nói sao, thằng Út Thông... chết rồi hả?
Nguyệt Ánh đáp tỉnh queo:
- Nó bỏ mặc con với hậu quả đã gây ra thì phải trả giá thôi! Chỉ tội nghiệp cho thằng Tư Xê, nó vì khờ khạo nên bị con gạt, nó sẽ ghé nhà thằng Út Thông đưa thư, trong thư con viết rằng bởi con lỡ yêu thằng tài xế, nên hắn thông cảm, đừng tìm kiếm con nữa! Thật ra đó chỉ là những lời giả, chỉ để khi người ta khám phá ra cái chết của hắn thì cứ tưởng là Tư Xê tới tìm và giết Út Thông do ghen!
Bà Thành vốn cũng là người lắm mưu nhiều mẹo, vậy mà vừa nghe kể đã phải le lưỡi, rùn vai:
- Mày ác quá Ánh ơi! Thằng Tư Xê nó nghèo, còn mẹ già mà sao mày nỡ hại nó chi vậy!
Nguyệt Ánh vẫn bình thản:
- Sống chết đều có số cả. Mà số phận đã đẩy đưa hắn dính vào vụ này. Thôi, dẫu sao hắn cũng có được một số tiền lớn trước khi ở tù, lo gì!
Mọi lời nói của ả ta ngoài bà mẹ nghe ra, còn có một người nữa! Mà người đó không ai xa lạ, chính là... Tư Xê!
Trong vai giả làm người phục vụ tiệc, Tư Xê đã xung phong bưng cơm vào phòng của cô chủ và khi tới cửa, anh ta đã vô tình nghe hết cuộc đối thoại bên trong!
Và lời của Nguyệt Ánh vừa dứt thì ngoài này mâm cơm trên tay Tư Xê cũng vừa rơi xuống sàn! Anh ta bỗng ngã lăn ra, hình như có một cái bóng của ai vừa trong cơ thể anh thoát ra ngoài!
Khi bà Thành và Nguyệt Ánh mở cửa ra thì chỉ nghe anh ta thét lên vừa chỉ tay về phía cửa sổ:
- Út Thông! Út...
Nguyệt Ánh hốt hoảng:
- Sao... sao anh còn ở đây?
Vẫn chỉ tay và lắp bắp:
- Út... Út... Thông!
Rồi anh ta gục xuống, miệng sùi bọt mép...
Nguyệt Ánh thất thần, miệng lẩm bẩm trong sợ hãi:
- Hắn... hắn chết rồi mà...
Chỉ nói được có thế, rồi cô ả lảo đảo, vừa ôm bụng kêu đau! Bà Thuận Thành kinh hãi kêu to, đám gia nhân trong nhà cùng chạy tới, một mặt khiêng Nguyệt Ánh trở vào phòng còn Tư Xê thì được đưa ra nhà ngang, chỗ gia nhân cư ngụ. Từ đó đến khi lễ cưới diễn ra, anh ta cứ thỉnh thoảng lại kêu lên khe khẽ:
- Cậu Út... cậu Út... tôi không làm được...
Trong lúc đó thì giờ hành lễ đã đến, đằng trai tới đúng giờ và theo nghi thức thì cô dâu phải ăn mặc lễ phục ra chào và cùng lễ gia tiên. Nhưng do tình thế đột xuất như vậy nên sau khi bàn bạc với nhà trai, họ cũng đồng ý thông qua, lo cứu chữa cho cô dâu xong mới cử hành lễ. Thậm chí nếu Nguyệt Ánh không tỉnh lại, hai bên cũng không buộc cô dâu có mặt trong lễ lạy bàn thờ. Ông sui trai còn nói:
- Do thằng con tôi ở rể, nên thay vì đưa con vợ nó về bên nhà lạy gia tiên xong rồi trở lại đây ở luôn, nhưng nay như vậy thì chuyện về lạy bàn thờ bên nhà để lúc nó tỉnh lại đã, không sao!
Thế là lễ cưới diễn ra suôn sẻ...
Việc chỉ mới lấy chồng được năm tháng mà Nguyệt Ánh chuyển bụng sinh đã làm cho tôi tớ trong nhà quá đỗi ngạc nhiên. Họ bàn tán với nhau:
- Bộ sinh non hay sao mà mới năm tháng đã sinh?
Người kia thì nói:
- Chuyện của nhà giàu mình hơi đâu mà bàn cho mệt!
- Bộ nhà giàu rồi có thai chỉ mấy tháng là sinh sao? Họ khác người nghèo chúng ta hả?
Người nọ bật cười:
- Không khác, nhưng lúc nào thích thì họ sinh, ai làm gì họ!
Cuộc bàn tán chấm dứt ngang, bởi khi đó cậu chủ Năm Hòa từ trong bước ra, anh ta hất hàm hỏi:
- Sao không làm việc mà ngồi "tán dóc"?
Ba gia nhân hoảng sợ tản ra mỗi người một hướng. Đối với họ thì cậu chủ này không phải người khó, nhưng do thường nói lén sau lưng cậu ta nhiều, nên vừa rồi ba người mới bỏ đi. Nhưng chỉ được một lát sau thì cả ba đã tìm cách tụm lại, tiếp tục câu chuyện:
- Tội nghiệp cậu Hòa, làm chồng, làm cha mà chẳng có quyền gì hết, suốt ngày cứ quanh quẩn quanh "bà chằn" kia để bị bà ấy sai chạy có cờ!
Người vừa nói là Tám Son, người làm cho nhà bà nội Hai lâu đời nhất. Chị ta lại tiếp:
- Ông này nhà giàu mà chấp nhận ở rể, chỉ vì ông ta thương cô Nguyệt Ánh quá. Vậy mà "bà chằn" Ánh lúc nào cũng lấn lướt, ăn hiếp chồng, thấy mà ứa gan.
Người thứ hai là Ba Thắm, vội chen vào:
- Mấy đứa con gái nhà giàu thường hay ăn hiếp chồng. Phải chi gặp cỡ thằng chồng tao thì nó đánh cho mỗi ngày tám chục bận, cho hết thở luôn!
Người cuối cùng là Tư Sương, vốn ôn hòa nhất trong đám gia nhân, vội gạt ngang:
- Chuyện của người ta thì kệ họ, nói tới nói lui lọt tai bà chủ nhỏ đó thì có nước về mò cua bắt ốc!
Tám Son không chịu thôi:
- Mò cua còn hơn là ở đây suốt ngày nhìn con đó đỏng đảnh, đanh đá, thấy chướng mắt quá chừng!
Rồi chị ta kề tai các bạn, nói khẽ:
- Tôi nghe đồn là con Nguyệt Ánh trước đây "cặp" với thằng con trai Út ông chủ hãng vận tải Thuận Lợi. Dám đứa con trong bụng con nhỏ Ánh là con của thằng công tử kia lắm!
Tư Sương xua tay:
- Đừng nói mò kiểu đó, lọt tai cậu Năm Hòa thì tội nghiệp cậu ấy!
Ba Thắm tỏ ra rành chuyện hơn:
- Mấy bà nhớ anh tài xế Tư Xê không? Tội nghiệp anh chàng này... chẳng hiểu sao tự nhiên phát điên phát khùng rồi không còn lái xe được nữa! Người ta đồn chính anh ta có dính líu tới cô Ba Nguyệt Ánh nữa, chứ chẳng phải riêng gì Út Thông đâu.
Tám Son còn rành chuyện hơn, chị ta kể vanh vách:
- Tư Xê khi nào hết điên trong giây lát đã kể chuyện động trời mà chỉ có tôi là được nghe thôi! Mấy bà có nghe không?
Hai người kia đời nào bỏ qua chuyện lạ:
- Bà kể coi, Tư Xê nói gì?
- Một bữa tôi đang nằm ngủ trưa sau nhà thì Tư Xê lại gần. Nhìn thấy anh ta tóc tai rũ rượi, tôi sợ quá định bỏ chạy thì anh ta van lơn tôi, xin hãy để cho anh ta nói điều uẩn khúc trong lòng bấy lâu nay... tôi nghe giọng nói của anh ta không có vẻ gì là xằng bậy cho nên đã ngồi lại nghe anh ta kể. Tư Xê nói rất thật rằng anh ta đã được con Ánh cởi áo cho xem và còn dụ cho lấy làm vợ nữa! Tôi nghe mà dựng tóc gáy luôn!
Hai người kia kêu lên:
- Có chuyện đó sao? Vậy Tư Xê có phải là tác giả cái thai kia không?
Tám Son vừa mở miệng định nói thì bỗng nhiên thét lên một tiếng rồi ngã lăn ra, hộc máu như vừa bị thọc huyết! Tư Sương hốt hoảng la lên:
- Thôi, đừng nói nữa, lo cứu bà ấy đi!
Nhờ có chuyện đó mà mấy gia nhân thôi không bàn tán nữa. Cũng vừa khi ấy bỗng trong nhà có tiếng kêu to:
- Mợ Ba chuyển bụng rồi, đóng cửa lại không cho ai vào nhà hết!
Nguyệt Ánh thật ra đã chuyển dạ từ sáng sớm, đã rước đến ba bà mụ về, nhưng không bà nào giúp được cô ả sinh con, nên chỉ biết đứng xớ rớ bên ngoài để chờ... Bây giờ nghe cô hầu thân tín báo tin vậy cả ba bà mụ đều chạy vào một lượt. Nhưng cả ba đã phải khựng lại ngay cửa phòng, bởi trước mắt họ đang có một cảnh mà họ không tin vào mắt mình: Nguyệt Ánh đã sinh xong, có lẽ kiệt sức nên nằm thiêm thiếp, còn bên cạnh cô ả là một hài nhi thân thể đỏ như máu, đang rúc vào nách mẹ như đang tìm sữa bú.
Phải mất vài giây, ba bà mụ mới kêu lên:
- Đỡ cho mợ ấy đi!
Họ cùng lao vào và cùng kêu thét lên một lượt khi hài nhi quay mặt ra:
- Trời ơi!
Trước mắt họ là một quái vật thì đúng hơn! Đứa bé có gương mặt chẳng khác gì một con chó, chứ chẳng giống một con người! Nó thấy ba bà mụ thì bỗng ngửa mặt lên trời rú lên một tiếng dài như tiếng chó tru!
- Trời ơi!
Bà mụ thứ nhất bước vào sau nên khi bước lui thì chạy được trước. Nhưng bà vừa cất bước thì ngã nhoài người. Rồi bà thứ hai cũng xoay người và ngã chồng lên bà trước. Cuối cùng thì cả ba bà đều nằm chồng lên nhau.
Trong khi đó thì tiếng tru của đứa bé hầu như không dứt... Cho đến khi Năm Hòa bước trở vào. Anh nhìn cảnh tượng đó thay vì sợ như những người kia thì lại hết sức bình tĩnh và còn trách mọi người:
- Sao để con tôi như thế này!
Anh ta còn bước tới ôm con vào lòng, bế lên tay và đặt nhẹ nhàng vào lòng Nguyệt Ánh. Đứa bé thôi không kêu la tru tréo nữa, mà trái lại rất ngoan ngoãn...
Hòa còn ngồi xuống bên vợ con, âu yếm một cách bình thường:
- Mình thấy thế nào, có mệt lắm không?
Nguyệt Ánh hơi động đậy thân thể, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền, miệng thì thào gì đó mà Năm Hòa bật dậy ngay. Anh gọi to ra ngoài:
- Mấy người khiêng giùm mấy bà mụ này đi đi!
Đám gia nhân tuy sợ điếng hồn, nhưng không dám cãi, phải vừa khiêng mà vừa run. Trong khi đó còn lại trong phòng sinh với vợ, Năm Hòa kiêm luôn công việc của bà mụ. Anh tắm rửa cho đứa bé, quấn tã cho nó một cách nhẹ nhàng, đầy tình thương yêu...
Mà chẳng riêng gì hôm đó. Những ngày sau Năm Hòa cũng làm y như vậy. Hình như anh ta đã chấp nhận việc ấy. Mà cũng lạ, cô ả Nguyệt Ánh vốn xưa nay đỏng đảnh, vậy mà sinh con quái thai như vậy nhưng cô ta vẫn âm thầm chịu đựng, ở miết trong phòng cùng chồng lo cho con! Họ còn nghiêm cấm không ai được bước vào phòng riêng đó. Hằng ngày những đám tôi tớ chỉ được phép mang thức ăn, pha sữa đem vào tới cửa, đặt trước chiếc bàn con rồi đi ra. Vợ chồng con cái họ hầu như chỉ sống trong bốn bức tường đó...
Riêng ba bà mụ sau khi bị ngất đi và được đưa về cứu chữa, sau đó cả ba đều phát điên. Nhất là mỗi khi nghe ai nhắc tới chuyện cái quái thai thì đều kêu thét lên và bỏ chạy! Kể cả những ai tò mò, thóc mách nhiều chuyện, hay bàn tán vụ quái thai đó thì đều bị hành xác như đau bụng, nhức đầu, thậm chí còn bị hộc máu không nguyên cớ. Do vậy sau này chẳng còn ai dám bàn tán nữa.


CẨU NHI - Phần II


Ba năm sau...
Cũng may là càng lớn lên thì thằng bé càng có gương mặt trông dễ coi hơn lúc mới sinh. Do vậy cha mẹ nó cho nó ra ngoài. Năm Hòa đặt tên con là Thuận Tâm để cho gần giống với tên cha là Thuận Hòa, nhưng mỗi lần kêu tên đó thì thằng bé lại khóc, hình như không chịu! Cuối cùng chính nó khi biết nói đã xưng tên mình là Thông!
Vừa nghe con nói tên đó ra thì Nguyệt Ánh bàng hoàng, cô ngăn con lại:
- Không được đâu!
Nhưng đứa bé đã nói rành rẽ:
- Con thích cái tên đó hơn. Con là con của người này đây mà!
May là khi thằng bé nói điều ấy ra thì không có mặt Năm Hòa ở đó. Do vậy, Nguyệt Ánh dặn con:
- Con tên Thông cũng được, nhưng đừng nói với ba con chuyện con là con của ai nghe chưa!
Thằng bé chỉ cười chứ không trả lời. Năm Hòa thì vẫn vô tư và vẫn hết mực thương con... Và có một điều lạ là lúc mới sinh thì hầu như ai trong nhà cũng sợ đứa bé, nhưng khi nó lớn lên thì người ta lại thương mến nó nhiều hơn. Bởi hình như thằng bé biết tình cảnh của mình, nên nó tỏ ra ngoan hiền và thân thiện với mọi người trong nhà, nhất là với những gia nhân.
Nhờ vậy mà khi được sáu tuổi, tới tuổi đến trường, trong lúc Năm Hòa định rước gia sư về nhà dạy, thì Chín Lài, cô người làm kiêm vú em đã tình nguyện đưa đón thằng bé đi học:
- Cô cậu cứ để cho em đưa đón cháu hằng ngày. Cho nó tới trường học thì tốt hơn ở nhà.
Nghe vậy thì vợ chồng Năm Hòa cũng nghe theo. Và thật bất ngờ, ngoài sự lo ngại của họ, Thông vào trường là gây được cảm tình ngay với bạn bè, thầy cô giáo. Tuy ngoại hình nó không còn xấu như lúc mới sinh, nhưng dẫu sao gương mặt vẫn còn nét của một con chó... dễ thương. Và chẳng hiểu sao mọi học sinh khác đều không bao giờ chế giễu gì nó cả.
Đặc biệt là Thông học hành rất giỏi, vượt xa các bạn cùng lớp! Có lẽ đó cũng là nguyên nhân các bạn thích nó, trong đó có sự nể phục nữa!
Mọi việc diễn ra thuận lợi như vậy nên Nguyệt Ánh và chồng không còn phải bận tâm đến "cục nợ" mà họ cứ tưởng mình phải ôm suốt đời! Nhất là Nguyệt Ánh, cô nàng được rảnh tay nên lại trở về với nếp sống cũ, thường đi về Rạch Giá, Sài Gòn, nói là đi giao thiệp làm ăn, nhưng thật ra là để nối lại những cuộc vui thời con gái mà sáu bảy năm nay bị gián đoạn! Chỉ tội nghiệp cho Năm Hòa, kể từ ngày lấy vợ anh ta trở thành một anh chồng hờ đúng nghĩa cứ sống theo sự lèo lái của vợ và chấp nhận vô điều kiện như vậy...
Anh ta tự an ủi mình bằng cách lao vào công việc kinh doanh. Từ khi về ở rể nhà Thuận Thành, Năm Hòa được cha mẹ ruột dặn là phải quản lý số tài sản lớn mà ông bà giao cho: Một là số nợ mà ông bà Thuận Thành thiếu, được trừ cấn khi làm đám cưới, được chuyển sang làm vốn cho vợ chồng Hòa qua số xe cộ chạy đưa khách mang tên công ty của cha mẹ vợ, được ông bà Thành hứa sẽ chuyển về cho vợ chồng Hòa quản lý sau ba năm họ chung sống. Hai là số tiền cũng khá lớn được cha mẹ cho trực tiếp Hòa và Nguyệt Ánh để lập một công ty xuất cảng hải sản do Năm Hòa đứng tên làm chủ.
Với ngần ấy công việc nên Hòa làm còn không xuể, nói gì chuyện đi đây đi đó cùng vợ. Nên Nguyệt Ánh mặc sức mà kiếm chuyện để vắng nhà.
Lại một tấn bi kịch nữa xuất phát từ đây...
Vào một buổi sáng... Sau khi đi Sài Gòn suốt một tuần, hôm đó Nguyệt Ánh về nhà lúc nửa khuya. Lại đi với một người đàn ông lạ. Hình như họ vừa uống rượu ở đâu, nên người nồng nặc hơi men...
- Mình đi đâu mà mãi tới giờ này mới về tới? Đường sá xa xôi, lại khó đi mà sao không về cho sớm sớm một chút...
Năm Hòa chỉ nói có bấy nhiêu đó vậy mà Nguyệt Ánh đã sừng sộ:
- Bộ muốn nhốt người ta ở nhà như con chó giữ nhà sao! Đi đâu, về giờ nào là quyền của tôi, việc gì tới mấy người!
Ả ta sau khi nói vào mặt chồng một hơi, liền quay sang người đàn ông đi cùng, dịu giọng:
- Mông-xừ Lý cứ tự nhiên, nhà này vậy đó, không như vậy không được.
Tay đàn ông được gọi là mông-xừ Lý tuy có ké né một chút với Năm Hòa, nhưng thấy Nguyệt Ánh bất cần như vậy, cho nên ông ta cũng mạnh dạn hơn, bước theo vào phòng khách.
Nguyệt Ánh gọi lớn vào nhà sau:
- Có khách mà sao không ra lo nước nôi gì hết vậy? Tụi bay đâu?
Năm Hòa vẫn nhẹ giọng:
- Tụi nó đã đi công việc hết rồi, bữa nay phải huy động hết người trong nhà lo cho lô hàng xuất cảng kịp chuyến tàu.
- Thì anh lấy giùm mấy ly nước uống không được sao!
Năm Hòa nhìn khách cười gượng:
- Mời anh ngồi nghỉ, tôi sẽ lo nước nôi cho. Nhà quê, lại làm công việc lu bu nên như vậy đó, anh thông cảm...
Lý cũng thấy ái ngại:
- Không phải bận tâm đâu, thưa anh...
Lúc này Nguyệt Ánh mới quay sang giới thiệu:
- Đây là Năm Hòa, ba sắp nhỏ. Còn đây là luật sư Lý, người đang lo công việc cho tôi!
Lý bắt tay Hòa, lịch sự:
- Bông-rua mông-xừ Hòa. Rất hân hạnh được biết ông. Tôi được cô Ánh...
Nguyệt Ánh chặn lại không để khách nói hết:
- Tôi có việc phải làm, cần tới luật sư nên nhờ mông-xừ Lý đây về lo giúp.
- Nhưng mà... nhà mình đâu có việc gì nhờ tới luật sư?
Năm Hòa thật thà hỏi, không ngờ Nguyệt Ánh lại sừng sộ:
- Có tôi mới nhờ chứ! Đừng có nói lôi thôi nữa, cứ đi lo nước mời khách đi!
Năm Hòa vốn quen nhịn vợ từ lâu, nhưng trước sự quá quắt của cô ả trước mặt khách lạ, thêm nữa là việc cô ả nói nhờ luật sư về làm gì đó khiến Hòa hơi bất bình. Anh vẫn đi lấy nước mời khách, nhưng khi trở ra thì không thể im lặng được nữa:
- Mình nói nhờ luật sư đây làm chuyện gì?
Nguyệt Ánh không trả lời mà đứng dậy đi thẳng vào phòng ngủ, lát sau mang ra một xấp giấy tờ đưa cho Lý:
- Anh xem những thứ này đủ chưa?
Vừa nhìn thấy xấp giấy tờ, Năm Hòa đã kêu lên:
- Giấy tờ nhà và điền sản, mình đưa luật sư làm gì?
Lúc này Nguyệt Ánh mới hét toáng lên:
- Lại xía vào chuyện làm ăn của tôi nữa sao! Ừ, nhà của tôi, tôi đem bán đó, ai làm gì tôi?
Trước thái độ quá quắt của vợ, dẫu là thánh cũng không nhịn được, nên Năm Hòa quay sang luật sư Lý nói thẳng:
- Cái gì thì được chứ ba cái giấy tờ này thì không! Anh đưa lại cho tôi.
Anh ta vừa đưa tay định lấy lại thì Nguyệt Ánh đã chụp giữ và xỉa xói:
- Anh có quyền gì mà cản tôi? Anh có biết đây là số tài sản cha mẹ tôi, cha mẹ anh cho riêng tôi để anh cưới được tôi không? Đã là của tôi thì tôi có quyền muốn làm gì thì làm!
- Nhưng không có nghĩa là mình đem đi cầm cố! Có phải cầm cố không luật sư?
Luật sư Lý không chuẩn bị trước tình huống này, nên lúng túng:
- Dạ, cái này do cô nhà... tôi chỉ...
Nguyệt Ánh vẫn đanh đá:
- Không việc gì anh nói chuyện với anh ta! Đấy là nhà do tôi đứng tên, tôi có quyền.
Rồi ả kéo tay luật sư Lý đi thẳng vào căn phòng dành cho khách bên trái ngôi nhà, vừa nói trống không:
- Tôi làm việc bên này với luật sư, cứ ngủ một mình với thằng Thông đi!
Năm Hòa đành nhìn theo bóng vợ sóng đôi với tay luật sư khuất vào phòng kia...
Chán nản, Năm Hòa lặng lẽ quay về phòng mình. Anh bắt gặp thằng Thông đứng ở cửa phòng, sợ nó hiểu chuyện người lớn, nên Hòa bảo con:
- Thôi, mình vào ngủ đi con.
Nhưng thằng Thông vùng vằng:
- Ba để con coi họ làm gì. Ba thật là... Sao ba lại để vậy?
Không ngờ con mình lại để ý chuyện đó, Năm Hòa vội gạt ngang:
- Con đừng để ý chuyện người lớn. Má con có khách cần làm việc, nên...
Thông ứng xử như người lớn, nó nhìn cha rồi nhẹ lắc đầu buông một câu:
- Ba sẽ nhận hậu quả thôi!
Nói xong nó bỏ đi ra ngoài, Năm Hòa gọi giật ngược:
- Khuya rồi con không vào ngủ còn đi đâu?
Nhưng thằng bé đã bỏ đi luôn. Cái tuổi mười một của nó hình như đã hiểu chuyện gì đang xảy ra trong nhà...
Đau cho Năm Hòa là gần như suốt đêm đó, Nguyệt Ánh cùng với tay luật sư ở miết trong phòng, không hề ra. Và nếu tinh ý một chút, Năm Hòa sẽ thấy họ làm việc gì mà đèn trong phòng tắt ngóm...
***
Cái tin động trời loan ra làm cả xóm bàng hoàng:
- Một người đàn ông chết trong phòng của Nguyệt Ánh.
Khi nhà chức trách tới thì thấy một người đàn ông nằm chết trên giường trong tư thế lõa lồ, còn bên cạnh đó thì quần áo của ông ta và cả đồ của chủ nhà Nguyệt Ánh! Năm Hòa thất thần chạy đi tìm vợ thì chẳng thấy đâu mãi về sau chính thằng Thông chỉ cho ba nó:
- Má trốn ngoài bụi tre sau nhà!
Khi Năm Hòa ra đó thì thấy Nguyệt Ánh cũng trong tình trạng không mảnh vải che thân, ngồi co ro trong bụi vừa run rẩy vừa kêu cứu:
- Làm ơn cho tôi ra với!
Năm Hòa phải kêu người làm lấy ra cái mền trùm cho vợ và đưa vào nhà. Nhưng vừa vào tới trong thì cô ả đã thét lên:
- Cho tôi ra! Đừng để hắn ta trong nhà!
Tưởng ý thị nói tay luật sư, Năm Hòa bảo:
- Người ta đem xác anh ta về bệnh viện để khám nghiệm tử thi rồi, đâu còn ai nữa!
Nhưng Nguyệt Ánh vẫn sợ hãi:
- Còn! Anh ta còn kia kìa! Anh ta sẽ giết tôi mất!
Nhìn lại chỉ có thằng Thông đứng đó, Năm Hòa bảo:
- Con tiếp ba đưa má vào trong đi.
Nhưng thằng bé lặng lẽ quay đi vừa lẩm bẩm:
- Con đi đây...
Từ khi thằng Thông đi rồi thì Nguyệt Ánh không còn sợ nữa, cô ả để cho chồng mặc quần áo vào và ở miết trong phòng riêng. Đến trưa hôm đó, nhà chức trách tới mời cả hai vợ chồng về trụ sở cảnh sát để điều tra vụ án xảy ra trong nhà họ. Bước đầu, người ta đã kết luận sơ bộ:
- Nạn nhân tên Lý, làm nghề luật sư, chết do ngạt thở bởi một chất gây nghiện, nghi là thuốc phiện nguyên chất!
Sau khi lấy lời khai đầy đủ cả hai vợ chồng Hòa, người ta đã cho Năm Hòa về, còn Nguyệt Ánh thì bị giữ lại. Một trong những điều tra viên sau khi nghe kết luận đã lên tiếng:
- Tôi còn nhớ cách đây hơn chục năm, lúc tôi còn ở ty cảnh sát Rạch Giá, tôi đã chứng kiến một vụ chết người cũng giống như trường hợp này! Nạn nhân lúc đó là Út Thông, con trai của nghiệp chủ Thuận Lợi, anh ta cũng chết khi đang hút á phiện rồi bị sặc mà chết, cũng y như vậy. Chỉ khác là Út Thông đang hút thì bị sặc, còn người này thì không hút mà trong miệng, trong phổi lại đầy những thuốc phiện, kỳ lạ thật...
Sau khi tạm giam Nguyệt Ánh vào khám rồi, anh chàng này mới nói riêng với các đồng nghiệp:
- Theo tôi biết thì Út Thông ngày xưa là bồ của cô Nguyệt Ánh này. Chẳng hiểu hai cái chết có liên quan gì với nhau không mà cả hai có quan hệ cùng một người đàn bà?
Tuy vậy, Nguyệt Ánh chỉ bị giam có một đêm, hôm sau thị được thả ra, có lẽ do Năm Hòa chạy tiền.
Kể từ khi về nhà, cô ả cứ nhìn ai cũng chỉ tay và la:
- Anh ta kìa!
Trưa hôm đó thì có một xe hơi từ Sài Gòn đỗ ngay cửa, ba người đàn ông bước xuống xe đi thẳng vào nhà. Năm Hòa ra tiếp, sau khi hỏi thân thế anh, một trong ba người đàn ông trịnh trọng nói:
- Tôi là thừa phát lại Lê Văn Tý, chúng tôi thừa án lệnh của tòa sơ thẩm Sài Gòn, được sự phối hợp của lục sự tòa Rạch Giá, cho phép tôi được đọc lệnh tịch biên gia sản của cô Lâm Nguyệt Ánh, nghiệp chủ, chủ nhân gia sản này và bốn cơ ngơi khác có danh sách kèm theo đây. Lý do: Cô Nguyệt Ánh cầm cố tài sản này cho ông Trần Ngươn, người có đi theo đây đây từ trên một năm nay, đã quá hạn trả nợ mà không có khả năng chi trả, nên trong phiên xử ngày... vừa qua, tòa đã tuyên án tịch thu số tài sản này để sung vào công quỹ, sau đó làm thủ tục trả nợ cho ông Trần Ngươn. Yêu cầu ông cho mời bà Nguyệt Ánh ra ký biên bản để chúng tôi tiến hành làm nhiệm vụ.
Năm Hòa hốt hoảng:
- Vụ này để cho tôi xem lại! Tôi là chồng cô ấy, tôi đâu biết gì?
Vị thừa phát lại nghiêm giọng:
- Đây là án lệnh của tòa, mong ông chấp hành cho.
- Nhưng vợ tôi hiện đang bị bệnh nặng không thể ra đây được. Vậy có cách nào tôi xin hoãn thi hành án lại một thời gian không?
Vị thừa phát lại lắc đầu:
- Chúng tôi chỉ là cấp thừa hành. Ông cứ tuân thủ đi, rồi có khiếu nại gì đó thì gửi đơn lên tòa sau.
Giữa lúc Năm Hòa còn đang lúng túng chưa biết phải làm sao thì chợt anh nghe giọng của con trai. Thằng Thông bất ngờ xuất hiện và nói lớn:
- Má tôi đang nằm liệt giường, còn ba tôi thì chẳng biết gì vụ này, sao các ông nỡ làm như vậy?
Thấy thằng bé tuổi thiếu niên mà ăn nói lý sự như vậy, vị thừa phát lại nạt một tiếng:
- Con nít biết gì mà chen vào chuyện của pháp luật!
Chẳng những không sợ mà thằng Thông còn hất mặt:
- Mấy ông nói có án lệnh của tòa, mà án lệnh đâu, cái gì chứng minh là các ông thi hành pháp luật?
Thừa phát lại giận run, nhưng cũng đưa cao tờ giấy lên, dõng dạc:
- Đây là án lệnh của tòa!
Thằng Thông ngửa mặt cười dài:
- Ông làm như ở đây mù hết rồi vậy! Cái đó mà là án lệnh sao?
Thừa phát lại giật mình nhìn tờ án lệnh mà chính ông giữ từ Sài Gòn xuống đây, xem và... kêu lên:
- Sao vậy nè trời?
Trên tay ông ta lúc đó chỉ là một tờ giấy trắng, chẳng có chữ nào!
- Sao kỳ vậy?
Thông cười to:
- Có gì đâu mà kỳ! Các ông lợi dụng chức quyền, muốn dọa nạt người lương thiện hả? Mấy ông đưa án lệnh ra đây, bằng không thì yêu cầu bước ra khỏi nhà, nếu không...
Vị thừa phát lại lục trong cặp mấy lượt cũng chẳng thấy gì, ông ta còn quay sang hỏi vị lục sự tòa Rạch Giá:
- Lúc sáng khi tôi đưa cho anh coi, anh có đưa lại cho tôi chưa?
Vị lục sự cự lại liền:
- Sao lại chưa đưa. Nếu tôi không đưa lại thì vừa rồi anh lấy đâu ra để đọc cho chủ nhà nghe?
Thừa phát lại chợt nhớ ra, ông trố mắt:
- Đúng rồi, cái tôi vừa đọc là án lệnh, mà sao bây giờ...
Ông ta xem lại cả hai mặt tờ giấy trắng rồi vỗ trán kêu trời:
- Trời hại tôi rồi mà! Sao có chuyện kỳ vậy nè?
Ông ta bứt đầu bứt tai một lúc rồi đành quay sang Năm Hòa xin lỗi:
- Chúng tôi xin lỗi ông chủ. Đây là một sơ suất ngoài ý muốn. Tuy nhiên, chúng tôi trở về Sài Gòn và sẽ trở xuống với đầy đủ thủ tục hơn.
Chờ họ ra về rồi, lúc đó thằng Thông mới ôm bụng cười rũ rượi, Năm Hòa ngạc nhiên hỏi:
- Sao kỳ vậy con? Sao con biết ông ta không có án lệnh trong tay?
Thông móc từ trong túi áo mình ra một tờ giấy:
- Nó đang ở đây thì làm gì ông ta có trong tay được!
Năm Hòa cầm tờ giấy xem và kinh ngạc:
- Sao con có cái này?
Thông ỡm ờ:
- Thì con... lượm được. Mà mặc kệ ông ta, miễn là bữa nay ông ta không tịch thu nhà mình là được rồi! Bộ ba không muốn sao?
Năm Hòa thở dài:
- Má con đã gây ra cớ sự, bây giờ họ không tịch thu được thì vài bữa họ làm thôi! Trước sau gì mình cũng mất trắng, cũng phải ra đường mà ở thôi! Chẳng hiểu má con đã làm gì đến nông nỗi này?
Thông nhìn vào phòng mẹ, rồi nhìn cha và nhẹ lắc đầu, không nói gì...
Năm Hòa hỏi nhỏ con trai:
- Có phải con... cứu mẹ con không?
Thông trợn trừng mắt nhìn cha:
- Sao con lại phải cứu người bán đứng cha con mình chứ? Con... con...
Nó định nói gì đó, nhưng kịp dừng lại...
Năm Hòa muốn hỏi thêm, nhưng thằng Thông đã bước ra ngoài rồi mất dạng. Còn lại một mình chẳng biết làm gì, Năm Hòa cầm tờ án lệnh bước vào phòng vợ định cho Nguyệt Ánh xem và hỏi đôi điều. Nhưng Hòa quá đỗi ngạc nhiên khi nhìn thấy trên giường trống không.
- Mới nằm thiêm thiếp đây mà?
Chạy ra ngoài tìm cũng không thấy. Sau đó hỏi thì đám gia nhân báo:
- Tụi con thấy lúc khách tới nhà thì mợ đã ra xe một mình lái về hướng Rạch Giá rồi.
Nghĩ là vợ ngại phải đối mặt với pháp luật nên lánh mặt, Năm Hòa cũng không đi tìm. Anh ngồi xem lại hết các giấy tờ về nhà cửa, sản nghiệp. Lúc này anh mới tá hỏa, bởi hầu hết giấy tờ còn lại chỉ là bản sao đánh máy có công chứng, còn các bản chính thì đâu mất hết! Thì ra đã từ lâu Nguyệt Ánh lần lượt đem giấy tờ sở hữu tài sản đi cầm cố mà Hòa không hay. Mà cầm cố để làm gì trong khi vợ chồng họ là những người làm ăn phát đạt bậc nhất ở địa phương này, đâu có thiếu hụt gì!
Trong một tờ giấy nhỏ nằm lẫn trong mớ giấy tờ, Năm Hòa đọc được những con số mà sau một hồi suy nghĩ, anh mới chợt nhận ra đó là tổng số nợ mà Nguyệt Ánh đã nợ trên một chục người, con số nợ mà vừa nhẩm tính xong, Hòa đã kêu lên:
- Thánh thần ơi!
Tổng số nợ lên tới trên một ngàn lượng vàng!
Năm Hòa ngồi bật ra, thất thần, bủn rủn tay chân. Như vậy là coi như hết! Công sức anh làm chục năm nay, cộng với số vốn hai bên cha mẹ cho, phút chốc đã ra tro bụi!
- Trời hại tôi rồi!
- Người hại chứ trời nào hại!
Năm Hòa giật mình với câu nói của ai đó. Anh nhìn lên thì ra thằng Thông. Nó đứng trước mặt cha, trên tay cầm một xấp giấy gì đó, nó đưa cho Năm Hòa và nói:
- Đây là con báo đáp lại những gì cha đã lo cho con từ khi con ra đời!
Năm Hòa nhìn lại xấp giấy tờ và giật mình:
- Giấy nợ! Ở đâu con có những thứ này? Cái này là nợ hai trăm lượng vàng, thế chấp nhà máy xay lúa trong kinh xáng. Còn đây là giấy nợ mượn một trăm năm chục lượng thế chấp đội tàu đánh cá mười chiếc. Đây là...
Không can đảm đọc hết, Năm Hòa run giọng hỏi lại:
- Sao con có những thứ này?
Thông nói như người lớn:
- Má đem những thứ này cầm cố cho người ta, nay đã quá hạn và hồi nãy thừa phát lại tới tịch thu gia sản là để bán trả nợ cho người ta đó!
Năm Hòa lo lắng:
- Con lấy những thứ này ở đâu, ăn cắp của người ta phải không? Không làm chuyện đó được đâu con. Đã vay thì phải trả, ba còn cái gì sẽ trả cái đó, chút nào hay chút nấy, để trả cho người ta. Ba sẽ năn nỉ, lạy lục họ xin cho mình hẹn lại...
Thông nói lớn:
- Con đã trả hết nợ rồi!
- Cái gì? Giữa lúc này mà con còn nói giỡn được sao?
Tưởng con đùa, nhưng khi nhìn lại mặt con thì nó nói thật nghiêm túc:
- Con nói thật. Trả rồi thì người ta mới cho lấy lại giấy nợ chứ!
- Nhưng mà...
Thằng Thông bất chợt quay ra ngoài nói lớn:
- Chú Tư đem bà ấy vào đi!
Một người đàn ông bế một người trên tay từ ngoài cửa bước vào. Năm Hòa vừa nhìn thấy đã kêu lên:
- Tư Xê! Anh bồng ai vậy?
Vừa khi ấy, Hòa nhìn kỹ và thét lên:
- Nguyệt Ánh!
Trên tay của Tư Xê là Nguyệt Ánh đang rũ rượi như một xác chết!
Đoán biết thế nào Năm Hòa cũng hỏi, Tư Xê chủ động nói trước:
- Tôi gặp cô ấy lái xe định đâm xuống sông tự vẫn, cho nên tôi đã kịp cứu cô đem về đây. Mà việc này tôi làm được là nhờ cậu Út Thông đây...
Nghe nhắc tới Út Thông. Năm Hòa giật mình quay lại nhìn. Chẳng thấy ai khác ngoài thằng Thông đang đứng đó.
- Anh Tư vừa nói...
- Út Thông đã báo tin kịp thời nên tôi mới tới cứu kịp. Anh nên cám ơn anh ấy đi.
Vừa khi ấy, Năm Hòa kinh ngạc kêu lên:
- Kìa, Thông, con đi đâu vậy?
Thông chẳng nói chẳng rằng, lẳng lặng bước ra ngoài rồi mất dạng.
Tư Xê bảo:
- Nó là Út Thông đó. Sao anh Năm không cám ơn anh ấy đi. Chính nhờ anh ấy mà bao nhiêu giấy nợ của anh mới được lấy về. Anh ấy đã trả hết nợ cho người ta rồi!
Hòa tưởng như mình đang mơ:
- Anh Út Thông đã... đã chết lâu rồi mà?
Tư Xê nói tỉnh táo:
- Thì phải là hồn ma mới làm được chuyện này!
***
Trầm ngâm khá lâu Tư Xê mới bắt đầu kể:
- Ngày đám cưới của anh, tôi được hồn ma của Út Thông đón đường, cho tôi một số tiền bảo tới phá đám cưới của hai người. Tôi nghe lời, nhưng khi tới nơi, nghe lén được lời thú nhận của Nguyệt Ánh với mẹ cô ấy thì tôi sững sờ, mà cả vong hồn của Út Thông cũng bàng hoàng trước tiết lộ ấy cho nên sau đó chúng tôi vẫn để cho đám cưới của anh được diễn ra trọn vẹn. Sau này cứ thỉnh thoảng Út Thông hiện về báo cho tôi biết là anh ta đã chuyển hướng phá, không ngăn cản hai người ăn ở với nhau nữa, mà lại cho anh và Nguyệt Ánh tiếp tục gắn bó với nhau, để sau đó sẽ nhận những hậu quả ghê gớm hơn. Anh có biết cái quái thai mà Nguyệt Ánh sinh ra đó là do Út Thông đầu thai không? Anh ta quyết tâm phá tới cùng, bằng cách độc địa hơn, đó là dùng cái quái thai hình cẩu đó để cho vợ chồng anh đau khổ, rồi khi lớn lên chính thằng bé hình chó ấy sẽ phá nát gia can anh, tiêu tán hết sản nghiệp nhà anh!
Nghe tới đó, Năm Hòa hốt hoảng kêu lên:
- Trời ơi, con tôi có sao không? Nó là hồn ma của Út Thông, như vậy nó có còn là con của tôi không?
Tư Xê thở dài:
- Tội nghiệp cho con người đó! Tính toán là vậy nhưng khi đầu thai làm con của anh rồi, trong suốt những năm sống trong nhà này nó đã chứng kiến cảnh anh bị vợ ăn hiếp, chứng kiến lòng dạ nhân hậu của anh và sự chí thú, cần mẫn làm ăn của anh, cho nên từ thù hóa ra bạn. Út Thônh không còn muốn phá anh nữa, mà trái lại anh ấy đã giúp cho anh nhiều. Như vụ Nguyệt Ánh cầm cố tài sản vừa rồi...
Hòa ngơ ngác:
- Vụ đó sao?
- Người hủy tờ án lệnh chính là Út Thông! Mà người đem những tờ giấy nợ về cho anh cũng là Út Thông! Trong cái vỏ là con trai anh, Út Thông biết hết mọi việc trong nhà này...
Năm Hòa nhớ tới con mình, anh gào lên:
- Thằng Thông, con tôi đâu rồi?
Tư Xê thở dài:
- Ở đời hễ được cái này thường mất cái kia. Thằng Thông vốn chỉ là oan hồn của Út Thông về báo oán Nguyệt Ánh và anh, nay mọi việc đã không như vậy rồi thì hồn Út Thông biến đi, dĩ nhiên con anh cũng không thể tồn tại.
Hòa vẫn gào to:
- Con tôi, trời ơi!
Tư Xê dịu giọng:
- Theo lời Út Thông nói với tôi thì sau vụ này Nguyệt Ánh đã thay đổi hoàn toàn rồi, cô ấy không còn chút gì là con người cũ nữa, có lẽ anh cũng không nên chấp nhất làm gì, hãy cho cô ấy một cơ hội làm lại cuộc đời. Và cũng theo lời Út Thông thì rồi anh sẽ sớm có một quý tử để thay thế cháu Thông vắn số!
Năm Hòa lặng người đi khá lâu...
Đến khi có tiếng kêu khe khẽ từ trong buồng vọng ra, Tư Xê nói:
- Cô Nguyệt Ánh tỉnh lại rồi đó, anh hãy vào với cô ấy đi. Tôi xin kiếu.
Tư Xê bước nhanh ra ngoài. Năm Hòa chạy nhanh vào phòng. Nguyệt Ánh vừa tỉnh lại. Gương mặt nhợt nhạt, giọng nói thều thào, nhưng cô nàng vẫn cố nói cho bằng được:
- Em xin lỗi mình...
Năm Hòa sa nước mắt:
- Mình tỉnh lại là tôi mừng rồi, đừng nghĩ ngợi nữa.
- Con chúng ta...
Năm Hòa nói trong màn nước mắt:
- Nó đã đi rồi! Nó...
Nguyệt Ánh siết chặt tay chồng, giọng nghẹn ngào:
- Em biết. Em tạ tội cùng anh. Anh hãy đuổi em ra khỏi nhà này em không xứng đáng được anh coi là vợ!
Cô nàng cố ngồi dậy và định bước xuống giường bỏ đi. Nhưng Năm Hòa đã giữ chặt lại, giọng đầy vị tha:
- Mình bỏ hết những gì đã qua. Coi như một tai nạn. Mà thật ra đó là tai nạn, em và anh cùng bị oan hồn ám. Còn bây giờ chúng ta mới thật sự sống cho mình.
Anh cúi xuống hôn lên đôi má nhăn nheo của vợ, nói khẽ vào tai nàng:
- Rồi chúng ta sẽ có một quý tử nữa!
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #53  
Old 11-07-2012, 04:19 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 27

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXVII: PHẦN I

XIN CHO EM KIẾP NGƯỜI


Lâu lắm mới có dịp hội ngộ cùng bạn bè cũ ở cùng quê, nên Phong đã phải nhậu suốt từ lúc trời đứng bóng, cho đến lúc hơn bốn giờ mới chợt nhớ là mình còn phải trở về. Anh luýnh quýnh chuẩn bị hành lý, khiến mấy người bạn cười trêu chọc:
- Cái thằng, trai chưa vợ mà giống như sợ bà chằn nào ở nhà ăn thịt vậy! Sao không ở lại đây ngủ thêm đêm nữa xem sao!
Phong xua tay:
- Mình còn phải đi thăm ông bác đau nặng ở bên kia cù lao, nếu đi trễ thì sẽ không còn đò sang sông.
Một người nữa bàn ra:
- Đây sang đó chỉ hơn chục cây số, đi xe ngựa chỉ mất nửa giờ, vội gì!
Nhưng Phong vẫn cương quyết, anh chào bạn bè, rồi còn hẹn:
- Nếu ông bác tôi lành bệnh, lượt về thế nào cũng ghé lại chơi một tuần liền!
Mấy người bạn phấn khởi:
- Hứa là phải nhớ đó nhé! Thôi được rồi, đi đi. Mà chúng tôi đã dặn sẵn chiếc xe ngựa chạy tốt để đưa cậu đi rồi. Hẹn gặp lại!
Phong vừa ra xe thì anh chàng đánh xe đã giục:
- Trời đang chuyển mưa đó cậu, ta phải đi tới bến đò trước khi trời mưa thì đò mới dám sang sông. Bây giờ trễ lắm rồi đó!
Phong cũng vội, nên vừa lên xe anh đã dồn hành lý sang một bên, tranh thủ nằm xuống sàn xe, nhằm để cản gió, như thế xe sẽ chạy được nhanh hơn. Anh chàng phu xe tên Lý đã nhanh nhảu lên tiếng:
- Nếu mệt thì cậu Hai cứ nằm ngủ một chút đi, khi nào tới em sẽ gọi.
Phong hơi mệt do men rượu nặng, nhưng chẳng hiểu sao anh lại không muốn ngủ. Có lẽ anh muốn nhìn ngắm phong cảnh hai bên đường hơn.
Xe qua khỏi một đoạn đường gập ghềnh, Lý bảo:
- Đường phẳng rồi, em sẽ chạy vượt tốc độ luôn!
Phong phải ngăn anh ta lại:
- Không nên chạy nhanh quá! Tôi cũng muốn chầm chậm một chút để còn ngắm cảnh. Lâu quá không về đây, cảnh trí bây giờ khác nhiều quá...
Phong là người quê quán ở nơi này, nhưng theo cha mẹ ra tỉnh thành học từ lâu, lần trở lại này là sau hơn năm năm. Do đó, có những nơi tuy biết từ ấu thơ, nhưng nay nhìn lại anh không khỏi ngỡ ngàng.
Xe chạy được hơn mười phút nữa thì trời tối mịt mù, mây đen kéo đầy một góc trời. Lý tắc lưỡi:
- Mưa tới rồi!
Phong lo lắng hỏi:
- Liệu mình tới bến đò kịp không?
- Kịp thì kịp giờ, nhưng mưa thì tới ngay bây giờ, e rằng...
Anh ta nói chưa hết câu thì chợt Phong nhìn thấy bên đường cách gần trăm thước, có một bóng người đưa tay vẫy vẫy. Anh hỏi:
- Họ quá giang xe phải không?
Lý chạy xe thường ngày nên rành, đáp:
- Quá giang đó, nhưng trời mưa gió, mình lại gấp thế này, ai mà rước cho được!
Nói xong, anh ta ra roi liền mấy cái con ngựa tung vó chạy rất nhanh. Chẳng mấy chốc, xe đã vượt qua chỗ người đứng đón xe. Phong nhận ra đó là một phụ nữ đứng co ro, có vẻ đang bệnh hoạn. Anh kêu lên:
- Ngừng lại!
Anh chàng đánh xe cũng nói to:
- Cậu không phải bận tâm với mấy người quá giang giữa đường này đâu. Ở đây nếu cho quá giang thì chục chiếc xe này cũng chở không hết!
Phong vẫn cương quyết:
- Tôi bảo anh cứ dừng lại. Nếu cần thì tôi trả thêm tiền công.
Lý phân trần:
- Không phải em không muốn cho quá giang, nhưng đoạn đường này vắng, trời lại sắp mưa lớn, ngộ lỡ...
- Anh không thấy người ta là phụ nữ, lại hình như đang bệnh hoạn chi đó nữa. Làm phước thì được phước, lo gì.
Không cãi được, Lý đành phải gò cương lại. Tuy nhiên, xe cũng đã chạy lố đến cả trăm thước. Phong nhảy xuống ngay, anh chạy đến gần và hiểu rằng mình đã quyết định đúng, bởi lúc ấy cô gái đang run rẩy, mặt, môi tái nhợt.
- Cô nương cần về đâu?
Cô gái tuổi trên dưới hai mươi, lắp bắp:
- Dạ... dạ em cần về... bến đò.
Phong mau mắn:
- Tôi cũng đang đi tới đó. Vậy cô mau lên xe đi!
Anh định quay lưng đi, nhưng thấy cô gái lảo đảo thì chụp vội lấy cánh tay và giục:
- Để tôi dìu cô đi, nhanh lên kẻo trời mưa!
Được dìu nên cô gái đi được đến bên xe, nhưng tới đó thì cô lả người đi, khiến Phong phải bế xốc cô ta lên xe, nhường hẳn phần rộng cho cô ta nằm, còn anh thì thu mình lại co ro. Anh giục:
- Chạy nhanh đi anh Lý!
Anh chàng Lý khẽ lắc đầu, hình như muốn nói gì đó nhưng ngại. Chẳng mấy chốc thì đã đến gần bến đò. Chợt cô gái choàng dậy và kêu khẽ:
- Suýt nữa đã đi lố, cho em xuống đây.
- Nhà cô ở chỗ nào, để xe ngừng ngay nhà.
Chỉ tay về phía ngõ nhỏ đằng xa:
- Nhà em ở mãi trong kia, xe vào không tiện. Xin cảm ơn quý ân nhân, nếu không có ngài thì vừa rồi có thể em sẽ ngã ở bên đường. Em bị cảm gió bất ngờ...
Cô ta không đợi Phong dìu, đã tự bước xuống xe, một lần nữa cúi đầu lễ phép:
- Xin đa tạ. Em tên là Hạnh Hoa, nhà ở xóm Cây Trâm, ngay trên Gò Trúc.
Cô ta vừa dứt lời tức thì bước đi rất nhanh, khác với vẻ yếu đuối bệnh hoạn lúc nãy. Đi được gần chục bước, chợt nhớ điều gì, cô ta quay lại nói:
- Khi nào có đi qua đây mời ngài ghé qua tệ xá, tiện nữ xin mời ly nước trả ơn!
Phong ngẩn ngơ nhìn theo, còn Lý thì lên tiếng:
- Loại con gái này phải dè chừng.
Phong tức giận:
- Tôi không muốn nghe anh nói về khách của tôi như vậy!
Bị chỉnh, Lý nín thinh, nhưng xem ra không hài lòng. Anh ta ra roi cho xe chạy nhanh tới bến đò. Tới nơi, cũng may chuyến đò cuối cùng sắp rời bến. Phong bước xuống đò xong, nhắc Lý:
- Cậu quay về ngay đi, nói tôi cám ơn các bạn, hẹn sẽ gặp lại.
Lý chỉ chờ có thế, anh ta giục ngựa đi ngay, trước khi trời đổ mưa.
Con thuyền vừa rời bến đã phải dừng lại, người chèo đò nhìn trời rồi quyết định:
- Mưa lớn lắm, không thể qua sông lớn trong thời tiết này. Vậy ta phải chờ tới sáng mai thôi.
Nhiều người phản đối, đúng ra Phong cũng không đồng tình, bởi anh cần đi thăm ông bác gấp lắm. Nhưng chẳng hiểu sao cho đến lúc thuyền quay lại bến rồi mà Phong vẫn không nói tiếng nào...
Hầu hết khách đã rời đò, người thì trở về nhà, vài người nhà xa thì cũng đi tìm nhà quen để tá túc qua đêm. Đến lúc này Phong mới bừng tỉnh, anh hỏi thăm chỗ trọ thì người ta chỉ:
- Ở cách đây nửa dặm mới có một khách điếm nhỏ, nhưng xem ra với lượng người lỡ đò đông như vừa rồi thì khách điếm ấy e rằng sẽ không còn phòng nào.
Phong lo lắng:
- Mình chẳng quen ai ở đây cả, biết làm sao đây?
Anh lững thững đi dọc theo bờ sông, chợt có một người đi vượt qua mặt và nói một câu trống không:
- Sao không đi tìm cô gái quen lúc chiều?
Phong sáng mắt lên, reo khẽ:
- Vậy mà mình cũng không nhớ ra!
Anh định chạy theo người vừa nói câu nói kia, nhưng họ đã vụt mất bóng. Phong tự hỏi: Ai mà biết chuyện cô gái?
Nhưng lúc đó trời bắt đầu đổ mưa, nên Phong chẳng còn kịp nghĩ ngợi gì thêm, anh quay lại, nhắm hướng đã đi qua lúc chiều. Nhờ ít hành lý nên Phong cũng không khó lắm để vác đi bộ. Anh tìm hỏi một người qua đường:
- Ông biết xóm Cây Trâm còn gần không?
Ngước nhìn Phong với vẻ tò mò, ông ta đáp cộc lốc:
- Sắp tới rồi!
Phong đi chưa đầy trăm bước, đã nghe ai đó bên đường nói lớn:
- Xóm Cây Trâm đây rồi, còn tìm đâu nữa!
Phong quay nhìn thì chẳng thấy một ai, bởi đó là một xóm vắng. Đúng hơn là một xóm hoang, không có lấy một nóc nhà.
- Ủa...
Phong chậm bước lại, định đợi có người đi tới để hỏi thăm. Tuy nhiên, anh đợi ngót một khắc mà chẳng thấy ai. Còn đang tiến thoái lưỡng nan thì chợt nhìn thấy có ánh đèn trước, Phong mừng khôn xiết, vội bước thật nhanh về hướng đó.
Nhưng đi mãi mà vẫn chưa tới gần được ánh đèn. Mà chừng như Phong càng đi thì nó càng xa hơn.
- Chẳng lẽ...
Một ý nghĩ vừa thoáng qua đầu, Phong vội xua nó ra ngay. Vừa lúc có ai đó nói phía trước mặt:
- Không kiên nhẫn gì hết, mưa to rồi đó!
- Kìa, cho tôi hỏi...
Nhưng người vừa nói cũng giống như mấy lần trước, chẳng đáp lời. Phong phải lặp lại câu hỏi:
- Ai đó, cho tôi hỏi thăm!
Hoàn toàn im lặng. Phong đã bắt đầu chồn chân, hoa mắt... Bỗng anh cảm thấy túi hành lý trên vai mình như bị ai đó lấy đi một cách nhẹ nhàng. Anh chỉ kịp kêu khẽ:
- Ai?
Túi hành lý đã bị lấy mất mà chẳng biết ai là thủ phạm. Phong nhìn qua lại một lượt nữa, rồi cố hết sức, vụt chạy thẳng về phía có ánh đèn. Vừa chạy anh vừa kêu to:
- Cô Hạnh Hoa! Cô Hạnh Hoa!
Tiếng gọi của Phong vang vọng trong đêm, nghe như đang lạc vào một chốn hoang vu, rừng núi nào đó. Từ nào đến giờ Phong vốn là người lì lợm, gan dạ, chưa từng biết sợ chuyện quỷ ma, nhưng giờ phút này anh nghe lạnh cả người, tay chân đã bắt đầu mất kiểm soát.
Bước đi được vài bước nữa thì đột nhiên Phong bị ngã xuống. Trong lúc đầu óc lơ mơ, Phong có cảm giác như mình nhìn thấy một khuôn mặt rất quen, tuy nhiên anh không làm sao lên tiếng gọi được, cũng không đưa tay vẫy hay chụp nắm, cầu cứu...
Vừa khi ấy, Phong mơ hồ nghe như có người hỏi câu gì đó, rồi một bàn tay ai đó chụp lấy tay anh, kéo lên...
***
- Cậu ấy tỉnh lại rồi!
Phong vừa mở mắt ra đã giật mình. Trước mặt anh là hai người lớn tuổi hoàn toàn xa lạ. Người đàn bà đứng lên rất nhanh, mang ra một bát gì đó nghi ngút khói:
- Cậu ấy đói lắm rồi, đã qua một đêm, một ngày rồi còn gì...
Ông cụ râu tóc bạc phơ, có vẻ trầm tĩnh hơn, đưa tay ngăn lại:
- Khoan đã, để cậu ta uống một ly nước đã. Bây giờ nước cần hơn thức ăn.
Bà lão nghe lời, mang đến ly nước và tự tay đưa cho Phong. Đúng là Phong đang khát khô cả họng, gặp nước là uống một hơi hết nửa ly. Ông lão lại ngăn không cho uống tiếp, đích thân ông dùng muỗng múc mấy muỗng nước cháo cho vào miệng người bệnh. Quả nhiên sau đó Phong cảm thấy tỉnh người, mở mắt lớn hơn, quan sát kỹ và lên tiếng rất khẽ:
- Tôi đang ở đâu?
Bà cụ reo lên:
- Cậu ta tỉnh hẳn rồi ông ơi!
Ông cụ gật đầu:
- Tốt rồi. Cậu ấy không sao rồi.
Phong lặp lại câu hỏi:
- Tôi đang ở đâu đây?
Bấy giờ ông cụ mới trả lời:
- Đây là nhà của vợ chồng lão. Cứ gọi là lão Tam. Còn tại sao cậu lại ở đây thì từ từ nhớ lại đi...
Phong không cần cố gắng cũng nhớ lại rất nhanh những chi tiết vừa qua, anh thảng thốt bật dậy. Nhưng do sức quá yếu, nên vừa bật lên, anh đã ngã trở xuống. Ông lão nhẹ giọng bảo:
- Cậu cứ nằm đó, rồi tôi nói cho cậu nghe mọi chuyện.
Phong lại nhìn họ, thấy hai người già trước mặt mình vẻ mặt phúc hậu thì có hơi yên dạ. Ông lão bắt đầu kể:
- Đêm hôm trước, lúc đi soi ếch ngoài nghĩa trang thì tôi gặp cậu nằm ngất ngoài đó. Lúc đưa cậu về đây thì cậu hoàn toàn không biết gì, người lạnh ngắt như cái xác chết. Bà lão nhà tôi sợ quá định chạy đi báo động, nhưng cũng may, sau đó nhờ uống vài viên thuốc gia truyền của tôi, cậu ấm lại, nhưng vẫn còn mê man. Tôi yên tâm, bởi như vậy là cậu chưa chết...
Bà cụ chen vào:
- Lúc mê sảng, cậu cứ kêu tên người nào đó nên tôi đoán chắc là cậu bị lạc mất họ...
Phong hốt hoảng:
- Cháu gọi tên ai?
- Hạnh Hoa!
Đó là câu đáp của ông cụ. Phong lần này cố gắng và bật dậy được. Anh bật kêu lên liền:
- Hạnh Hoa!
- Đó là ai mà cậu kêu không ngớt?
- Dạ...
Anh kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vợ chồng ông lão nghe xong đều lắc đầu thở dài:
- Không xong rồi...
Phong ngạc nhiên:
- Sao lại không xong?
Ông lão không đáp, ông đứng lên đi ra ngoài, để cho bà vợ nói chuyện với khách. Phong sốt ruột hỏi tới:
- Sao hai bác lại có vẻ như... hay là...
Bà cụ thở dài:
- Ông nhà tôi không muốn nói cho cậu nghe, sợ cậu bệnh lại...
Phong quả quyết:
- Đâu có sao, bác cứ nói đi!
- Cái tên Hạnh Hoa đâu có ở xóm này. Mà chỉ có... ở ngoài nghĩa địa!
- Kìa bác!
Phong cho rằng những người này đã già nên lẩm cẩm, anh đứng lên và quyết định đi ngay. Bà cụ lo lắng:
- Kìa, cậu còn chưa khoẻ mà.
Nhưng Phong vẫn bước ra ngoài, anh bước đi chỉ vài chục bước thì ngơ ngác nhìn quanh, bởi khắp nơi là bãi tha ma, chớ chẳng có nhà cửa của ai! Thì ra...
Nhìn lại sau lưng Phong càng kinh ngạc hơn, bởi ngôi nhà mà anh vừa đi ra cũng chẳng còn thấy đâu!
- Ủa, sao lạ vậy...
Vừa lúc đó, Phong thấy có một người xách chiếc giỏ câu đi tới, anh mừng rỡ:
- Dạ thưa chú, cháu muốn hỏi thăm...
Người đàn ông chất phác nhìn qua Phong rồi hỏi:
- Cậu tìm mồ mả ai trong này phải không?
- Dạ không. Cháu muốn hỏi nhà của lão Tam...
Người đàn ông cau mày:
- Lão Tam nào? Có phải lão già đi soi ếch không? Lão ta được kêu là Ba ếch chớ ít ai gọi lão Tam. Nếu đúng lão ta thì mộ ở đằng kia.
Lão đưa tay chỉ đúng vào hướng ngôi nhà mà Phong vừa đi ra. Phong ngơ ngác:
- Không... lão ấy còn sống. Mới đây lão vừa mới...
Lão đi câu trợn tròn mắt nhìn Phong:
- Cậu... cậu bị... ma rồi!
Nói xong ông ta mau bước đi thẳng, khiến Phong hốt hoảng gọi với theo:
- Bác ơi... cháu hỏi nhà cô Hạnh Hoa?
Ông lão càng đi nhanh hơn, giống như bị ma đuổi. Phong bực dọc, vừa lầm bầm vừa giậm chân. Bỗng ngay trước mặt anh lúc ấy có một ngôi mộ đất đã lâu năm, cỏ mọc um tùm, hiện ra một mộ bia mà vừa thoáng nhìn qua Phong đã xanh mặt: Hạnh Hoa!
- Sao... sao lại...
Phong chợt cảm thấy xây xẩm và lảo đảo... Rồi không còn kiềm chế được, anh chàng ngả người xuống, ngất đi lần nữa...
***
Tỉnh lại trong nhà ông bác mình, điều đó làm cho Phong không thể nào tin được. Anh hỏi người nhà:
- Sao tôi lại ở đây?
Người anh họ của Phong kể lại:
- Nửa đêm hôm qua, lúc mọi người đang ngủ say thì có tiếng gõ cửa. Chính tôi ra mở cổng thì bắt gặp chú nằm ngay lối ra vào, trên ngực chú có một mảnh giấy viết mấy chữ, tuồng chữ giống như của con gái...
Phong sốt ruột:
- Trong giấy viết gì?
Anh ta móc túi lấy ra mảnh giấy xếp đôi:
- Chú đọc đi, chắc biết là chữ của ai.
Trên giấy chỉ ghi vắn tắt: Hãy tĩnh dưỡng rồi gặp lại sau!
Người anh họ hỏi với nụ cười nghi kỵ:
- Ai mà có vẻ thần bí vậy?
Bỗng dưng Phong kêu lên:
- Hạnh Hoa!
Ai nấy trong nhà đều ngơ ngác:
- Ai là Hạnh Hoa?
Lúc này Phong mới quả quyết:
- Chắc là nàng ấy đưa tôi về đây!
Rồi anh thuật lại chuyện ở bến đò, nghe xong không ai tin đó là sự thật:
- Chắc là Phong nó bị ảo tưởng hay sao rồi? Làm gì có chuyện như thế!
Bác gái của Phong suy nghĩ cẩn trọng hơn, bà nói:
- Cứ để cho nó nghỉ ngơi rồi sẽ hỏi lại sau.
Nhưng Phong thì không yên, anh hỏi ông anh mình:
- Đường từ đây về bến đò Lợi Giang bao xa và ngoài đường sông, còn có đường bộ không?
Người anh lắc đầu:
- Ngoài đường sông, không còn cách nào về đó. Nơi ấy cách đây hơn bốn mươi dặm, mỗi ngày chỉ có hai lần đò đưa. Hôm qua chú về đây giờ đó cũng hơi lạ, bởi không có chuyến đò nào đi trễ như vậy.
Bà bác của Phong cũng nói:
- Chắc là người nào đó đem cháu về nhà họ rồi mới đưa về đây nên tới vào lúc nửa đêm. Cháu có quen ai ở xóm này?
- Dạ đâu có. Mấy năm con mới về đây một lần, đường đi còn không nhớ, làm sao có người quen.
- Còn cô Hạnh Hoa nào đó?
- Thì con đã nói rồi, đó là cô gái con mới quen ở bến đò. Con nghi là cô ấy đưa con về đây thôi, chớ đâu đã chắc.
Người anh họ quả quyết:
- Không cô Hạnh Hoa thì cô nào khác thôi. Chữ viết của con gái rõ ràng. Chú nhớ lại xem, còn có cô nào nữa?
Bị chất vấn lôi thôi, Phong đâm bực:
- Làm gì có ai!
Anh dùng dằng tính bỏ đi, nhưng chợt nhớ bệnh tình của ông bác, nên quay vào nhà trong, hỏi:
- Bác ra sao rồi?
Bác gái anh vui mừng nói:
- Ổng đang bệnh nặng lắm, thầy thuốc xứ này đã chạy hết nên mới nhắn con về gấp. Nhưng chẳng hiểu sao tự dưng từ trưa hôm qua đến giờ ông ấy lại hết bệnh! Đang ở ngoài sân sau tỉa cây.
Phong đi ngay ra sân sau, anh ngạc nhiên thấy bác mình khoẻ như chẳng hề bệnh hoạn gì.
- Sao nghe bác bệnh nặng, con lo quá...
Viên ngoại họ Từ cười tươi với cháu:
- Bác khoẻ còn hơn lúc chưa bệnh nữa!
- Bác uống thuốc gì vậy?
Từ viên ngoại kéo Phong lại gần:
- Bác chỉ nói riêng cho con nghe thôi, đừng để tới tai bác gái con thì phiền... Bác chẳng có thuốc men gì cả, đêm hôm trước khi bác đang ngủ thì bỗng mơ thấy một cô gái thật lạ đẹp, đứng bên giường bác và cất tiếng hỏi: Có phải ông là bác của Mã Phong ở làng Hoài Sơn không? Bác còn chưa kịp trả lời thì cô ta đã tiến lại gần bác, đưa tay chạm vào vai bác hai lần, rồi đi... Vậy mà khi tỉnh lại thì bác chẳng còn thấy bệnh tật gì! Bác mừng quá, nhưng không dám nói cho bác gái con nghe, tính bả hay ghen tuông bậy bạ, sợ lại nghĩ bác mơ tưởng gái liêu trai này nọ...
Phong ngạc nhiên quá đỗi:
- Bác có nhớ mặt cô gái đó không?
- Chẳng những nhớ mà bác còn được cô ấy nói cho biết tên nữa. Tên là Hạnh Hoa.
Phong kêu lên:
- Hạnh Hoa!
Tiếng kêu của anh quá lớn, khiến bà viên ngoại từ nhà trước phải chạy vào:
- Có chuyện gì vậy?
Từ viên ngoại có vẻ lúng túng, còn Phong thì nhanh trí đáp:
- Dạ, con mừng bác con hết bệnh, con không ngờ!
Bà Từ quay vào mà vẫn lẩm bẩm:
- Ông này bệnh giống như bệnh tà vậy...
Chiều hôm đó, Từ viên ngoại cho làm tiệc linh đình để thết đãi cả nhà, đồng thời cũng mừng cậu cháu trai về thăm. Ông bảo Phong:
- Không mấy khi về chơi, kỳ này con phải ở lại đây chơi vài tháng mới được đi!
Phong do dự:
- Con còn nhiều việc. E là...
Phong nghĩ ngay tới việc mình phải trở lại bến đò tìm Hạnh Hoa, nên dù sau đó ông bác có ép lắm, anh cũng chỉ ậm ừ cho qua. Trong bụng Phong thì tính chỉ ở lại vài ngày thôi...


PHẦN II


Đêm hôm đó, trằn trọc mãi mà Phong vẫn chưa ngủ được. Anh nằm xuống, ngồi lên năm ba lượt, rồi cuối cùng quyết định mở cửa sau đi ra sân vườn. Khu vườn lúc trưa Phong đã đứng rất lâu với ông bác, nhưng so với lúc này thì nó khác xa. Vườn vắng lúc nửa đêm có cái gì đó khác lạ, với Phong điều này lại là sự thú vị. Anh đang muốn tìm một chút thư giãn đầu óc hơn là sự yên ắng bình thường... Và chừng như ước gì được nấy, vừa khi ấy Phong ngửi được thứ hương thơm rất lạ, mà thoạt tiên anh ngỡ đó là hoa trong vườn. Nhưng nhìn quanh không thấy có khóm hoa nào, mà ngửi kỹ thì đấy không phải là hương từ những cánh hoa tươi...
Chợt một mảnh giấy nhỏ rơi ngay trước mặt, Phong nhặt lên xem và giật mình, bởi mấy chữ trong giấy là gửi cho anh!
"Chào anh Phong. Lâu lắm rồi anh mới trở lại, không thể đi ngay được đâu!".
- Ai vậy?
Phong ngơ ngác nhìn quanh và cảm giác như có ai đó đang đứng rình. Nhưng tuyệt nhiên không có ai cả. Một tiếng động cũng không.
- Ai có ý trêu chọc thì xin ra đây, Phong rất muốn được gặp!
Anh lặp lại câu nói đến lần thứ hai, vẫn im lặng. Chẳng nghĩ ngợi thêm, Phong bước nhanh về phía trước và mừng thầm, bởi càng đi thì hương thơm như gần hơn, chứng tỏ anh theo đúng hướng.
Nhưng khi đến cuối vườn thì Phong hơi thất vọng. Bởi trước mặt anh là bức tường rêu phong cao ngất, không có lối đi nữa. Nhìn chung quanh là cây cối um tùm, bóng đêm dày đặc. Phong tiu nghỉu quay trở lại, thì giẫm phải một mảnh giấy nữa. Nhặt lên và cũng như lần trước, có mấy chữ quen thuộc: "Trở về phòng sẽ gặp!".
Phong cố tìm một lúc, vẫn không thấy gì lạ, anh đành bước nhanh trở về. Vừa bước vào phòng anh đã ngửi được hương thơm giống như nãy giờ ngoài vườn!
- Ai đó?
Anh thắp sáng ngọn đèn lên thì thất vọng, bởi căn phòng vẫn trống không!
- Chắc chắn nàng ta vừa mới ở đây!
Thật ra nàng nào Phong đâu có biết. Vả lại nếu có nàng nào thật thì sự xuất hiện đột ngột vào giữa đêm như thế này đâu phải là điều lành! Tuy nhiên, chẳng hiểu sao Phong nôn nóng muốn diện kiến cho bằng được. Bởi vậy anh cúi xuống gầm giường, mở bung cánh cửa tủ quần áo để tìm xem nàng ta có trốn trong đó? Khi đã biết chắc là không thì đôi mắt Phong lại sáng lên khi nhìn thấy một mảnh giấy đặt trên gối.
"Tắt đèn, đi nằm. Và nhớ, chỉ được chạm vào người bên cạnh khi nào được phép. Tuyệt đối không được nói chuyện, không được mở đèn. Làm ngược lại thì sẽ ân hận!".
Tính tình vốn bướng, nhưng lúc này anh chàng Phong lại ngoan ngoãn. Có lẽ sự thôi thúc gặp người đẹp đã khiến anh quên hết...
Tắt đèn và leo lên giường nằm trong thế chờ đợi... Chỉ vài chục giây sau thì Phong có cảm giác có thân người ai đó đặt lưng xuống bên cạnh anh, rồi hơi thở nhẹ nhàng phả vào mặt, khiến Phong ngất ngây. Rồi bất chợt một bàn tay ai đó đặt lên tay anh và kéo nó nhè nhẹ sang bên. Nơi tay Phong vừa đặt xuống không cần nhìn thấy anh cũng hiểu là mình đặt ở đâu. Mềm và mát lạ thường!
Quên lời dặn, Phong vừa định lên tiếng thì chợt miệng anh như bị bàn tay ai đó chặn lại. Người ấy cũng không nói gì... mà chỉ hành động.
Nếu ai hỏi Phong, anh đang bị khiến làm gì thì có lẽ Phong cũng không tiện nói ra. Có những việc không cần nói mà ai cũng hiểu...
Thời gian qua thật chậm...
Đến khi Phong nghe tiếng gà gáy rộ thì cũng là lúc thân thể anh bị đẩy mạnh ra, khiến anh suýt ngã xuống giường! Lúc định thần lại, đưa tay sờ bên cạnh thì không còn thấy ai. Anh kêu lên:
- Cô!
Không nghe tiếng đáp, Phong nhảy xuống giường, đốt sáng ngọn đèn và lần này cũng bắt gặp một mảnh giấy với dòng chữ: "Đã là phu quân của người ta, cấm không được tơ tưởng đến người khác. Làm trái lại thì hậu quả sẽ khôn lường!".
Nhớ lại những điều diễn ra trong đêm, tự dưng Phong rùng mình. Cảm giác đê mê thì còn nguyên, nhưng một cái gì đó rờn rợn cũng đang len lỏi trong người anh...
- Dậy chưa Phong?
Tiếng gọi của bà bác. Phong lên tiếng:
- Dạ, con dậy từ nãy giờ.
- Sửa soạn rồi đi với hai bác sang nhà của bác Cả Sanh. Sáng sớm nay họ mời.
- Dạ.
Tuy dạ nhưng Phong không hề muốn đi. Bởi anh chưa biết mục đích của chuyến đi, vả lại chuyện về đây để đi thăm viếng người này người nọ là điều Phong không nghĩ tới.
Bà Từ lại nói vọng vào:
- Mình đi sớm, bởi họ đã mời điểm tâm.
Lại có cả chuyện đó. Phong nản quá, nhưng anh không dám cãi, bởi từ khi cha mẹ mất rồi thì người bác này chẳng khác là cha. Bà Từ lại rất thương Phong nữa.
Không đầy nửa giờ sau thì vợ chồng Từ viên ngoại đã chờ sẵn ngoài sân. Khi Phong bước ra thì ông Từ đã lên tiếng ngay:
- Ngày xưa bác đi coi mặt vợ mà được mời đón như vậy thì sướng biết mấy! Nghĩ mà ghen tị với con.
Phong ngơ ngác:
- Bác nói... coi vợ cho ai?
Bà Từ lừ mắt nhìn ông:
- Tật lanh chanh của ông cũng không chừa!
Rồi bà quay sang Phong, giục:
- Lên xe lẹ lên con!
Bước lên chiếc xe ngựa khiến Phong chợt nhớ chuyến xe tới bến đò hôm trước, bất giác anh nói:
- Có lẽ ngày mai hai bác cho con về. Con có nhiều việc...
Bà Từ nghiêm giọng:
- Làm sao về được! Con nên nhớ...
Bà kịp dừng lại trước khi nói ra điều bà chưa muốn nói. Và bà chuyển sang chuyện khác:
- Con năm nay bao nhiêu tuổi rồi, Phong?
- Dạ tuổi Thìn, hai mươi.
Ông Từ chen vào nói:
- Con rồng thì bay bổng, bay cao dữ lắm. Thường đàn ông tuổi rồng hay đào hoa...
Bỗng bà trừng mắt:
- Vậy ông cũng đâu có ngoại lệ!
Biết mình lỡ lời, nhưng không còn kịp nữa, ông Từ lắp bắp:
- Tôi... tôi thì khác...
Cái máu sư tử Hà Đông của bà thì ông Từ còn lạ gì, nên sau câu nói hớ ấy, ông ta im như thóc. Phong phải phá tan không khí căng thẳng:
- Bữa nay sao bên bác Cả Sanh lại mời mình qua sớm vậy bác? Mà sao họ biết cháu về?
- Ờ... người ta đợi con về ngày đêm. Họ...
Nhà Cả Sanh cách đây không xa lắm, nhưng xe ngựa chạy chậm, nên phải mất một giờ sau họ mới tới nơi. Vợ chồng Cả Sanh đã ra tận cổng đón khách, và chừng như họ chỉ chú ý một mình Phong. Cho nên khi vừa thấy mặt, đích thân Cả Sanh đã ôm chầm lấy anh và nói một câu mà Phong ngỡ ngàng:
- Có được chàng rể như vậy mới xứng đáng!
Có lẽ sợ Phong thắc mắc, nên bà Từ vội nói:
- Xin lỗi để anh chị Cả đợi lâu. Bởi ông nhà tôi mới hết bệnh, xe không dám chạy nhanh.
Ông Cả Sanh nắm tay Phong đưa vào nhà và quay vào trong gọi lớn:
- Nói cô Hai bay chuẩn bị ra chào khách đi!
Một tiếng dạ như trong tuồng hát, giọng một nữ nhân vừa nhão vừa kéo dài. Bà Cả có vẻ hãnh diện khoe:
- Con Hai nhà tôi tính tình vui vẻ, cả làng này ai cũng thương mến. Để cháu nó ra chào anh chị và... cậu Phong đây.
Rồi bà nói riêng với Phong:
- Trong lúc người lớn nói chuyện với nhau, bác cho phép con dẫn Mỹ Dung ra vườn ngắm cảnh, chuyện trò.
Nội nghe giọng dạ nhão nhẹt vừa rồi Phong đã nản, giờ lại sắp phải diện kiến con người này nữa, Phong bắt đầu chán, anh ước sao giờ này mình được nằm ngủ trong phòng, để tiếp tục được hưởng cái dư vị lạ thường kia...
- Dạ, con xin chào hai bác. Em xin chào... chào...
Bà Cả phải đỡ lời con gái:
- Đây là Phong, cháu hai bác Từ viên ngoại. Con cứ gọi bằng anh cho quen.
Phong không buồn nhìn lên, tuy nhiên khi nghe bà Từ nhắc khẽ, anh mới ngẩng lên. Và...
- Ủa, Hạnh... Hạnh Hoa!
Bà Từ ngạc nhiên:
- Con gọi ai là Hạnh Hoa?
Bà Cả phải nhắc:
- Con gái bác tên là Mỹ Dung.
Nhưng Phong đã quả quyết:
- Đúng là Hạnh Hoa rồi! Hạnh Hoa, cô không nhớ tôi sao? Tôi là người cho cô quá giang xe ngựa tới bến đò chiều mưa hôm đó. Tôi là...
Bà Cả phải lên tiếng:
- Vậy ra hai đứa đã từng quen nhau! Thảo nào...
Bà Từ hỏi:
- Có phải cô gái mà mấy bữa nay con nhắc tới hoài đây không?
- Dạ đúng rồi. Vậy mà con cứ tưởng...
Tuy nhiên, lúc ấy Phong nhớ lại giọng nói nhão nhẹt của cô gái này vừa rồi thì khựng lại. Thấy Phong nhìn con gái mình, bà Cả lại tưởng anh chàng bị sắc đẹp của Mỹ Dung hớp hồn, nên hài lòng lắm:
- Hai con có thể ra ngoài chơi, chờ chút xíu vào ăn điểm tâm.
Phong hầu như không còn e dè nữa, anh nhìn cô gái, hỏi dồn:
- Cô Hạnh Hoa thật sự không nhớ tôi sao?
Cô gái tên Mỹ Dung ngơ ngác:
- Anh hỏi ai? Hạnh Hoa nào?
Phong lặp lại:
- Hạnh Hoa, nhà cô ở Gò Trúc, thôn Cây Trâm. Đêm hôm đó...
Phong định nhắc lại chuyện cũ, nhưng nhìn thấy có nhiều người nên thôi. Trong lúc anh còn đang lúng túng thì cô gái đã chủ động rủ:
- Ta đi ra ngoài chơi đi!
Nghĩ đó là dịp may, nên Phong đi theo. Ra tới chỗ vắng, anh vừa định lên tiếng thì cô nàng đã nói trước:
- Đã thành thân với người ta rồi, bây giờ còn nhắc tới ai nữa? Còn nhớ anh đã được dặn những gì không?
Phong giật mình, tròn mắt nhìn cô nàng. Thì ra "tai nạn xảy đến là với cô nàng này?" Anh bước lùi một bước, vừa lúc cô nàng phá lên cười:
- Coi anh chàng tính tháo chạy kìa!
Bị chạm tự ái, Phong nghiêm giọng:
- Trượng phu đứng giữa trời đất, có làm có chịu, xin cô nương đừng...
- Vậy ta hỏi ngươi, vừa rồi ngươi nhắc tới cô Hạnh Hoa nào, và phải chăng muốn chạy đi tìm cô ta?
Bấy giờ Phong mới giải thích đầu đuôi:
- Tôi quả có người bạn gái tên Hạnh Hoa, tuy chưa mặn nồng, nhưng chỉ một lần gặp gỡ cũng đủ để tôi lưu luyến. Tôi có ý định đi tìm nàng ấy, nhưng không phải lúc này.
Cách trả lời khăng khái của Phong khiến cô nàng dịu giọng lại:
- Khẩu khí nghe cũng khá. Nhưng dẫu sao ngươi cũng đã phạm vào điều ta cấm. Ngươi tính sao đây?
- Tôi... tôi...
Nàng bất ngờ nói:
- Cử hành hôn lễ ngay với tôi!
Phong thất thần:
- Sao được? Cô nương nên nhớ là...
Nàng ta đanh giọng lại:
- Nếu làm trái lại thì khăn gói mà đi chầu Diêm Vương!
Nàng ta nói xong quày quả bỏ đi, Phong lặng người khá lâu... trước khi có tiếng gọi từ trong nhà:
- Hai đứa vào ăn sáng!
Bà Cả vừa bước ra. Không thấy con gái, bà ngạc nhiên:
- Con Mỹ Dung đâu?
Bà phải hỏi lại lần thứ hai thì Phong mới nghe, anh lắp bắp:
- Dạ... cô ấy mới ở đây, rồi...
Đã biết tính con, bà Cả cười nói:
- Chắc là nó chạy đâu đó rồi. Con nhỏ lớn xác mà còn con nít lắm, mai này về chắc là cháu phải mệt với nó!
Phong kêu lên:
- Kìa bác!
Bà Cả chừng như không để cho Phong nói thêm nên quay bước vào trong. Phong đành phải bước theo vào nhà. Mọi người đã tề tựu đông đủ, cả cô gái vừa rồi! Phong khựng lại, thấy vậy ông Cả Sanh giục:
- Ngồi vào đi cháu. Đến ngồi bên con Mỹ Dung đây, hai bác cho phép!
Bà Từ cũng đưa mắt ngầm bảo Phong làm theo lời. Chẳng biết làm sao hơn, anh chàng đành phải rụt rè bước tới ngồi xuống chỗ trống duy nhất. Mỹ Dung không còn thái độ như lúc nãy, cô ta lịch sự lấy đũa chén cho Phong, và còn bạo dạn gắp thức ăn mời:
- Ăn đi chớ, mọi người chỉ còn đợi anh thôi.
Lạ quá, giọng cô nàng lúc này khác hẳn lúc nãy, cả âm thanh lẫn cung cách. Phong thu hết can đảm đưa mắt nhìn sang, và... anh há hốc mồm, không tin vào mắt mình nữa. Cô nàng ngồi đây tuy có giống với Hạnh Hoa, nhưng như có cái gì đó xa lạ, không hề có cái nét quen thuộc của một Hạnh Hoa mà Phong đã quen!
- Cô...
Cô nàng quay sang phân bua với mẹ:
- Má coi, ảnh cứ nhìn con hoài, ai mà ăn được!
Phong ngượng quá, anh phải nói lảng:
- Tôi... tôi nhìn con chim lạ ngoài cửa sổ...
Suốt bữa ăn, Phong cứ thấp thỏm không yên, anh muốn hỏi chuyện nhưng lại không dám nhìn sang cô nàng. Ông bà Cả thì nghĩ là cứ để cho đôi trẻ tự tìm hiểu nhau. Đến gần xong bữa ăn, bà Cả mới nhắc lại chuyện chính yếu của ngày gặp mặt hôm nay:
- Giữa hai nhà chúng ta thì không cần phải rào đón gì nữa. Sẵn hôm nay có mặt đông đủ, hai bác công bố chuyện trọng đại này: Hai nhà đã đồng ý kết thông gia, rằm tháng này sẽ tiến hành lễ hỏi, rồi ba tháng sau thì hôn lễ sẽ được tổ chức ở hai nhà. Kể từ hôm nay, hai bên cha mẹ cho phép hai đứa được qua lại, chuyện trò thân mật với nhau. Cháu Phong có thể gọi là cha mẹ cho quen.
Biết Phong sẽ có phản ứng, nên bà Từ nói chặn ngang:
- Mọi chuyện người lớn đã bàn xong hết rồi. Các con không phải lo gì hết. Phong cần bàn gì thêm thì về nhà mình nói chuyện.
Đột nhiên Mỹ Dung vụt đứng dậy, cô nàng bỏ chạy bay vào nhà trong. Bà Cả nhìn theo lắc đầu:
- Con gái đứa nào cũng giống như nhau. Mắc cỡ vậy chớ còn...
Còn lại một mình, Phong cũng tìm cách đứng lên, anh thoái thác:
- Con no rồi, xin phép...
Bước trở ra sân sau lúc nãy, chợt Phong nhìn thấy một bóng người giống hệt cô gái có khuôn mặt như Hạnh Hoa. Cô ta bước đi thật nhanh như cố tránh mặt Phong.
- Nhà này có tới hai người con gái?
Không kịp suy nghĩ thêm, Phong bước thật nhanh theo cô gái vừa khuất sau lùm cây. Trong lúc bước vội, Phong giẫm phải một vật, đến khi cúi xuống nhìn anh mới giật mình, bởi vật mà anh vừa giẫm lên chính là chiếc áo màu thiên thanh mà cô gái mới mặc!
Còn đang ngơ ngác thì Phong nghe một giọng nói từ phía sau:
- Anh lại vi phạm lời hứa rồi! Bây giờ cũng giống như chiếc áo đó, anh phải cởi hết quần áo ra, coi như hình phạt đầu tiên. Hãy làm đi!
Phong chưa kịp có phản ứng gì thì như bị ai đó giật phăng chiếc áo ra khỏi người! Cú giật thật gọn và nhanh, khiến Phong chỉ kêu lên một tiếng khẽ thì thân đã trần trụi!
- Kìa, tôi... tôi...
Anh đoán thế nào cũng tới phần dưới thân thể, nên dùng cả hai tay ôm lấy lưng quần, vừa cố lý giải:
- Tôi có làm gì sai đâu. Tôi chỉ vô tình bị người ta gán ghép cho điều mà tôi hoàn toàn không muốn...
Mặc cho anh nói, lại một cú giật phăng nữa và lần này thì Phong chỉ còn biết xấu hổ ôm lấy mặt. Anh nghe gió thổi mát cả thân thể, điều đó có nghĩa là anh đang...
Phong hiểu là mình phải làm gì, anh vội lăn thật nhanh vào bụi rậm gần đó, trong lúc tay vẫn ôm lấy mặt!
Một lúc khá lâu, không nghe động tĩnh gì, Phong từ từ mở tay ra khỏi mắt và... phát hiện chung quanh mình chẳng có ai. Thân thể không còn mảnh vải che thân, nên dù vắng người, nhưng Phong vẫn phải nằm yên đó...
Một lúc sau, Phong nghe có tiếng của bà Từ và bà Cả, họ đang nói về anh:
- Thằng coi vậy mà cũng không vừa. Mới đó mà đã lẻn vô phòng con nhỏ. Chuyện này nếu lúc bình thường thì không dễ chịu với ông Cả nhà tôi đâu! Nhưng nay thì có thể...
Giọng bà Từ:
- Chị Cả thứ lỗi cho sự trẻ lòng non dạ của lũ trẻ. Dẫu sao thì chuyện cũng lỡ rồi. Nhưng tôi cũng chẳng hiểu sao, chỉ trong thời gian ngắn vậy mà thằng Phong nhà tôi lại đủ sức để làm được chuyện ấy...
Bà Cả hơi lớn tiếng:
- Bộ quần áo nó bỏ lại trong phòng con Mỹ Dung đã nói lên hết mọi chuyện rồi, chối cãi gì nữa! Nhưng mà thôi, tôi vừa nói lúc nãy, nhà tôi sẽ chẳng bắt lỗi nó, miễn là chúng ta tính cho gọn chuyện này!
Nằm trong bụi, khi nghe nói đến đó Phong đã hiểu! Thì ra bộ quần áo của anh vừa bị lột đi, đã... nằm gọn trong phòng cô con gái ông bà Cả. Có nghĩa là Phong đã vừa làm chuyện đồi bại với con gái cưng của người ta. Bị oan, nhưng lúc ấy Phong chẳng có cách nào lên tiếng để thanh minh.
Lúc ấy, hai người đàn bà lại dừng rất gần chỗ Phong nằm trốn và tiếp tục câu chuyện. Giọng bà Cả:
- Tôi tính như thế này, ta nên cử hành hôn lễ cho tụi nó sớm hơn dự kiến.
Bà Từ giọng yếu xìu:
- Tùy chị thôi...
- Tôi tính bỏ luôn lễ hỏi, làm lễ cưới ngay tuần sau!
Bà Từ vẫn không phản ứng gì:
- Tùy chị...
Bà Cả có vẻ phấn khởi lắm:
- Tôi vui là chị cũng hiểu chuyện và muốn cho nó tốt lành. Thôi được rồi, mình không cần phải đi tìm thằng Phong nữa, rồi tự khắc nó sẽ biết mà về. Vợ chồng tôi cũng không nhắc tới nữa.
Họ quay trở vào nhà. Phong quá bức xúc, anh không dằn được, đã kêu lên:
- Không được!
Nhưng vừa khi ấy, cổ họng của anh như bị ai đó bóp chặt, không để tiếng nói phát ra...
***
Việc mình đột ngột bỏ nhà đi chắc chắn là sẽ gây nhiều lo lắng và phiền toái cho gia đình bác lắm, nhưng Phong vẫn nhất quyết đi. Bởi anh hiểu, nếu để tới ngày mai thì mọi việc đã quá trễ. Khi ấy hôn lễ sẽ cử hành!
Điểm tìm đến của Phong không ngoài xóm Cây Trâm. Anh không tin những gì mình chứng kiến lần trước...
Và quả đúng như vậy. Khi Phong bước tới đầu xóm anh đã vô cùng vui sướng khi nhìn thấy một xóm nhà nằm yên bình dưới rặng cây xanh tươi. Gặp ngay một người phụ nữ lớn tuổi, Phong dè dặt hỏi:
- Thưa cô, đây là xóm Cây Trâm?
Người đàn bà vui vẻ đáp:
- Chính là đây rồi. Cậu hỏi nhà ai?
- Dạ... nhà cô Hạnh Hoa?
Cứ sợ như lần trước, nên sau câu hỏi Phong giương mắt nhìn và cầu mong cho câu trả lời thuận lợi. Và quả như vậy:
- Hạnh Hoa hả? Phải con nhỏ xinh đẹp, có cái nốt ruồi duyên ở môi trên không?
Phong mừng rỡ:
- Dạ đúng rồi! Đúng là có cô ấy hả cô?
Người phụ nữ đưa tay chỉ về căn nhà ở cuối xóm:
- Nhà nó đó. Xóm này chỉ có mình nó tên là Hạnh Hoa, nên cậu khỏi phải tìm thêm. Tôi thấy nó có nhà đó.
Bà ta đáp xong thì đi ngay, không đợi cho Phong cám ơn. Phong thì mừng đến nỗi bước đi gần vấp phải đá. Tuy ngôi nhà còn cách khoảng vài trăm thước nhưng do quá mừng nên Phong đi rất nhanh, phút chốc đã đứng ngay trước cổng nhà. Anh cất tiếng gọi mà không cần giữ ý:
- Hạnh Hoa ơi!
- Tới nhà rồi mà còn la lớn quá, không sợ thiên hạ hay biết sao?
Phong giật mình quay lại thì trố mắt kinh ngạc, bởi đang đứng trước anh chính là một Hạnh Hoa bằng xương bằng thịt hẳn hoi!
- Tôi... tôi không lầm chớ?
- Anh lầm cái gì?
Phong hơi ngập ngừng:
- Cô là... Hạnh Hoa thật chớ? Có phải...
Nàng cười thật tươi:
- Người đã được quá giang xe trong buổi chiều mưa đó. Mấy ngày nay người ta đợi dài cổ ra mà vẫn biền biệt. Cứ tưởng cái xóm nghèo này không hân hạnh được đón chàng công tử hào hoa kia...
Phong mau mắn:
- Đâu có, tôi đã trở lại đây rồi...
Nàng chặn lời:
- Thôi, đã tới là được rồi. Anh vào nhà đi, em đã làm cơm sẵn đợi cả buổi rồi.
Phong ngạc nhiên:
- Cô biết tôi sẽ tới sao? Tôi không báo...
Cô nàng nhí nhảnh, đáng yêu hơn là Phong tưởng. Anh không tiện hỏi thêm, theo nàng ta vào nhà. Ngôi nhà tuy nhỏ và đơn sơ, nhưng mọi thứ đều ngăn nắp sạch sẽ và thoang thoảng hương thơm... Chính mùi hương này đã khiến Phong phải kêu lên:
- Đúng mùi hương này rồi!
Hạnh Hoa như không hiểu, hỏi lại:
- Anh nói đúng cái gì?
- Hương thơm này!
Nàng lại cười:
- Em có dùng nước hoa bao giờ đâu. Mọi thứ đều tự nhiên mà.
Phong nhớ rõ mùi hương mà anh đã ngửi được suốt mấy đêm liền, nhất là mùi hương phả ra từ thân thể cô nàng đêm ân ái... Anh quả quyết:
- Chính là em rồi, Hạnh Hoa!
Bất chợt Phong chụp lấy tay nàng, và... kinh hãi bỏ ra ngay, bởi cảm giác lạnh đến tê buốt cả người khiến cho Phong tròn mắt nhìn.
- Em... em...
Hạnh Hoa chợt run lên như người phát bệnh. Phong hốt hoảng:
- Hạnh Hoa, em sao vậy?
Nàng vụt quay người chạy vụt đi. Phong nghe rõ một tiếng khóc từ nàng. Chẳng hiểu mình phạm lỗi lầm gì, Phong nói với theo:
- Cho anh xin lỗi!
Nàng đã khuất ở nhà trong. Phong không tiện tiến sâu vào nhà, nên chỉ cất tiếng:
- Nếu anh có làm điều gì thất thố thì xin tha cho anh, anh không cố ý.
Không có ai đáp lời, Phong đành phải ngồi ở phòng ngoài chờ. Lúc này anh mới để ý giữa phòng khách có đặt một tủ thờ, bên trên không có ảnh hay bài vị, mà chỉ có một tấm lụa màu trắng, cùng một bát nhang.
Ngồi đợi khá lâu, sức chịu đựng sắp hết giới hạn thì cô nàng từ trong đi ra, trên tay bưng mâm có để một phong nhang, một dải lụa màu đỏ, một con dao và một cái chén. Lạ hơn nữa là lần này nàng đã thay bằng một đồ tang, trên đầu vấn khăn tang đã cũ! Không nói lời nào, nàng quỳ xuống trước bàn thờ, hai tay dâng mâm lên và im lặng...
Chẳng ai bảo, Phong cũng tự động quỳ xuống ngay phía sau lưng nàng. Lúc này chợt nàng cất tiếng:
- Đời con gái đã bị xúc phạm thì đâu còn gì để dám nhìn mặt tổ tiên! Nay xin cho con được chọn một trong ba hình thức...
Nàng bất ngờ đặt chiếc mâm xuống, lúc này Phong mới nhìn rõ trong cái chén có chứa một chất nước màu đen, và... anh chợt hiểu!
Nhưng Phong chưa kịp kêu lên thì nàng đã tiếp lời:
- Cái nhục của người con gái chỉ có thể rửa bằng một nhát dao, một dải lụa treo cổ hoặc một chén thuốc độc, con sẽ chọn một trong ba...
Nàng thật nhanh tay, chụp lấy chén thuốc! Lúc này, Phong hiểu anh chỉ chậm một giây là mọi chuyện hỏng bét hết, nên bằng hết sức mình, anh lao nhanh tới và đưa tay đổ ngay chén thuốc. Một tiếng rơi vỡ, cùng lúc với tiếng thét của nàng:
- Để tôi chết!
Phong tiện tay hất tung cả chiếc mâm. Trong lúc rối loạn ấy, may mắn sao Phong lại chụp được phong nhang. Và cũng thật nhanh, anh chàng lao tới bàn thờ, sẵn cây đèn dầu đang cháy, Phong đưa cả bó nhang vào, đốt một lúc!
Mùi thơm của nhang tỏa ra, vừa lúc Hạnh Hoa bật khóc thành tiếng! Chẳng biết làm gì với nguyên bó nhang đang cháy trên tay, Phong quỳ đại xuống ngay bên cạnh nàng, cất tiếng mà cảm giác như không phải do mình nói:
- Con xin chuộc lỗi bằng cách... được cưới nàng làm vợ!
Câu nói của Phong thật bất ngờ, nhưng xem ra cô nàng vẫn không ngạc nhiên, vẫn tiếp tục khóc và gục đầu xuống... Phong tưởng mình nói chưa đủ thuyết phục, nên lại tiếp lời:
- Con, Từ Thanh Phong, năm nay hai mươi tuổi, đã gặp và đem lòng yêu người con gái tên Hạnh Hoa này. Trong thời gian qua, nếu con có làm điều chi không phải thì nay con xin chuộc lỗi bằng cách nhận nàng làm vợ. Con xin hứa...
Bỗng dưng nàng quay sang giật phăng bó nhang trên tay Phong và ném nó tung bay lên không trung! Hành động quá bất ngờ đó khiến Phong chỉ biết ngơ ngác nhìn... Tuy nhiên, khi những cây nhang rơi xuống thì thật lạ lùng, nó biến thành những mảnh giấy nhỏ, chẳng khác hoa trong ngày cưới!
Phong đang lo lắng, bỗng hoá ra tươi tỉnh, anh nói to:
- Được chứng cho rồi!
Anh mừng quá nhảy cẫng lên, đến khi nhìn xuống thì chẳng thấy Hạnh Hoa đâu!
- Hạnh Hoa!
Nơi nàng vừa quỳ chỉ còn lại bộ đồ tang.
- Hãy trở lại đi, Hạnh Hoa! Anh nói thật lòng mà. Anh đã thề trước tổ tiên thì quyết không thay lòng đổi dạ!
Mặc cho Phong nói rát cả họng, cô nàng vẫn biệt tăm. Lát sau, không dằn lòng được, Phong xông đại vào nhà trong. Nhưng anh càng thất vọng hơn, khi phòng duy nhất của ngôi nhà trống không. Ngoài ra, ngôi nhà này không có chỗ nào để trốn lánh được.
Đến khi ra tới cửa sau thì bất chợt Phong nhìn thấy một mảnh giấy của ai treo ngay cửa ra vào.
"Hãy về ngay nhà bác, nếu chậm thì không bao giờ gặp được em!" - Hạnh Hoa.


PHẦN III


Bà Cả Sanh đứng ngồi không yên từ mấy bữa nay, và lại càng như đứng trên lửa từ sáng đến giờ. Bởi giờ ngọ hôm nay là giờ bên đằng trai sang rước dâu, mà cô dâu thì... ngủ mê man từ hai hôm rồi, vẫn chưa tỉnh!
Đã cho người đi rước lương y mà cũng chưa thấy tăm hơi. Lại bị ông chồng khó tính trách móc:
- Cũng tại bà, ai bảo định ngày cưới chi cho gấp gáp quá, để rồi giờ đây quýnh lên.
Bà Cả nổi nóng, giờ có chỗ để xì ra:
- Nếu nghe theo lời ông thì con gái nhà mình chỉ có nước theo đầu bếp mà phơi khô, chớ ai mà dám tới cưới! Cũng tại con gái tuổi dần cao số, đã hơn cả chục nơi dạm hỏi rồi, mà cuối cùng bỏ chạy hết, vì ai cũng ngán con cọp cái!
Ông Cả bỗng cười vang:
- Vậy ra chỉ có tôi là đui mù, điếc không sợ súng, nên mới đi rước con cọp cái về nhà!
Chợt nhớ mình cũng tuổi dần, nên bà Cả dịu giọng:
- Nhưng... đâu phải cọp cái nào cũng... ăn thịt cọp đực đâu! Bằng chứng là hơn ba chục năm sống với ông tôi nào phải là cọp hay chằn gì đâu!
Ông chắp tay xá vào không khí mấy cái liền:
- Lạy trời, nếu như vậy mà không phải cọp hay chằn, thì chẳng hiểu hai thứ đó còn dữ đến mức nào nữa!
Bà bí thế, xoay qua dùng ngón đòn cũ rích, nhưng luôn luôn hiệu quả, đó là lồng lên:
- Bây giờ ông ngồi đây đôi co, ăn thua đủ với tôi phải không? Ông nói đi, để rồi tôi còn tính...
Luôn luôn ở thế đang mạnh thành yếu, nên đến lúc đó ông Cả tiu nghỉu đáp:
- Ờ nói vậy chớ... bà vẫn là vợ yêu quý mà! Có gì đâu...
Bà hất hàm:
- Bây giờ ông tính sao? Lỡ lát nữa người ta tới đón dâu thì lấy con gái đâu giao cho họ? Không lẽ khiêng cô dâu ra xe về nhà chồng như khiêng heo!
Ông Cả chợt nảy ra một ý:
- Hay là ta cứ cho kiệu hoa vào tận phòng con gái mình, khiêng nó lên rồi đưa trở ra, có ai mà biết được!
Bà nguýt ngang:
- Nói vậy mà cũng nói được! Rồi lấy ai lạy gia tiên, lấy ai làm lễ tơ hồng?
Họ còn đang bối rối, thì bỗng có người nhà về báo:
- Không xong rồi ông bà ơi!
- Chuyện gì vậy, con Chín Hoa này?
Chín Hoa bô bô cái miệng:
- Con vừa ở bên nhà ông bà Từ viên ngoại về đây. Cậu Phong đi đâu mất từ mấy hôm nay đâu đã về!
Vợ chồng Cả Sanh hốt hoảng:
- Nó đi đâu?
- Thì từ hôm ở đây, cậu ấy đi luôn. Nhưng bên đó nói dối là cậu ta trở về rồi. Thật ra cho đến lúc con trở về đây thì cậu ấy vẫn bặt vô âm tín!
Bà Cả buông thõng người xuống ghế, ôm đầu rên rỉ:
- Làm sao đây hở trời! Lát nữa bà con họ hàng kéo tới để đón nhà trai và đưa dâu, mình phải ăn nói sao đây?
Ông thì tỉnh táo hơn:
- Họ cũng đang rối còn hơn mình nữa. Sao không nhân chuyện này mà tuyên bố hoãn đám cưới lại, đổ thừa tại bên đằng trai có ông già hay bà già gì đó bệnh ngặt sắp qua đời!
Tuy ít khi nghe theo ý của ông chồng, nhưng giờ này đang thế bí, nên bà Cả đành phải nói theo:
- Đành phải vậy thôi...
Bỗng lúc đó có một giọng nói vọng ra từ bên trong:
- Ai cho hoãn đám cưới?
Bà Cả ngạc nhiên:
- Con... Mỹ Dung ông ơi!
Mỹ Dung từ trong buồng bước ra, vẻ mặt tươi tỉnh. Cô ta nhìn một lượt khắp nhà rồi gắt toáng lên:
- Sao đèn đóm phía bên này chưa thắp sáng lên?
Bà Cả vẫn chưa tin:
- Kìa con... sức khoẻ con sao rồi?
Cô nàng dửng dưng như không:
- Thêm hoa ở chỗ kia nữa. Bỏ mấy thứ hoa dùng để cúng kia đi, đám cưới mà chưng hoa như đám tang vậy!
Nói xong, đích thân cô nàng đi nhổ từng cành hoa không vừa ý trong các bình hoa đã được bà Cả cho cắm, vứt tung toé khắp nơi, vừa hét đám gia nhân:
- Sao không quét dọn cho sạch đi!
Xưa nay, đám gia nhân ít bị cô tiểu thư nhà này chửi bới, nay nghe hơi lạ, lúc đầu họ còn ngớ người lại, sau thấy ánh mắt lộ hung quang của cô ta, đám kia răm rắp làm theo.
Vợ chồng Cả Sanh cũng nhận thấy điều bất thường này, nhưng quá đột ngột nên họ còn ngây người ra đó, chưa nói được tiếng nào...
- Đem hết những đồ đạc này ném xuống sông cho tôi!
Mấy thứ mà cô nàng vừa bảo ném đó chính là những món mà thường ngày Mỹ Dung chưng bày ở phòng khách, có thứ là vật ưa thích nhất của cô nữa... Lúc này bà Cả không dừng được, phải lên tiếng:
- Những thứ ấy là của con mà Dung. Chính con mua về, có cái do chính ba má tặng cho, còn mới nguyên sao lại đem bỏ?
Bỗng cô nàng trừng mắt:
- Bây giờ vứt bỏ hay để tự tay tôi làm?
Ông Cả hạ thấp giọng:
- Tụi bay đem bỏ theo lệnh cô bay đi...
Chưa thôi, cô nàng còn chỉ tay vào phòng riêng:
- Đem hết mùng màn chiếu gối trong đó bỏ đi hết. Lấy đồ mới ngoài kia đem vào thay!
Lúc ấy, mọi người mới để ý thấy cả một đống mùng màn để sẵn ngoài hiên nhà.
Bà Cả định cản lại, bởi tất cả mùng màn chiếu gối trong phòng là đích thân bà đi mua sắm, chuẩn bị cho đám cưới. Bà chỉ còn biết quay sang nói khẽ với chồng:
- Sao nó kỳ quá, giống như... chằn lửa vậy?
Ông định nói "nó giống bà" chớ ai, nhưng kịp dừng lại. Lúc đó, đám gia nhân rối rít làm theo. Một lát sau thì mọi việc đâu vào đó. Với vẻ hài lòng, lúc này cô nàng mới quay sang cha mẹ:
- Con gái đã sẵn sàng về nhà chồng rồi!
Bà Cả run giọng hỏi lại:
- Con... có phải con là Mỹ Dung không?
Giọng cô nàng trở nên khác hơn vừa rồi:
- Chớ má muốn con là ai? Vậy con đi nhé!
Bà Cả hốt hoảng:
- Khoan đã con! Bởi... vừa rồi con làm má lo quá.
Bấy giờ cô nàng mới phá lên cười:
- Con tập làm bà chủ, để chuẩn bị cho vai trò này sau khi lấy chồng. Con cũng muốn là má bây giờ chớ!
Bà thích thú quá, lay mạnh vai ông:
- Ông nghe thấy chưa, đâu phải mình tôi bị ông gọi là cọp cái hay chằn lửa đâu!
Ông Cả rùng mình, định đứng dậy bỏ đi thì Mỹ Dung đã nhắc:
- Bên đằng trai sắp tới rồi đó!
Bà Cả nói khẽ:
- Nghe nói thằng Phong bỏ đi chưa về?
Cô ta chỉ tay về phía con đường trước nhà:
- Ra mà đón họ đi!
Vừa khi ấy, họ nghe có tiếng xe ngựa dừng lại ở cửa, có đến trên mười chiếc. Chiếc xe rước dâu đi đầu, với hai ngựa kéo, phủ rèm đỏ kín mít, giống như bất cứ lễ rước dâu nào.
Ông bà viên ngoại trịnh trọng bước xuống trước, nhưng theo sau họ không phải là Phong, mà là một người phù rể. Ông bà Cả vừa định lên tiếng hỏi, thì bà Từ đã bước tới, giọng buồn bã:
- Thằng Phong... nó... nó...
Thay vì đúng vai trò của cô dâu là phải che mặt, ở trong phòng kín, đến giờ mới bước ra; đằng này vừa khi ấy Mỹ Dung đã bước ra lên tiếng làm mọi người ngạc nhiên:
- Đâu có gì phải lo lắng. Anh Phong vốn ngủ ở nhà con từ hôm ấy. Chúng con cùng ngủ với nhau, chuẩn bị sức khoẻ cho ngày trọng đại hôm nay!
Lời cô ta vừa dứt, thì bỗng cả hai họ đều trố mắt ngạc nhiên khi thấy Phong trong lễ phục chú rể, từ từ bước ra, đứng sóng đôi với Mỹ Dung!
Bà Từ như vừa tỉnh cơn mơ, bà kêu rú lên:
- Phong! Vậy mà con làm cho hai bác mất ăn mất ngủ. Trời ơi, thằng khỉ gió!
Phong chừng như không để ý đến thái độ của mọi người, anh rất tự nhiên đưa tay choàng qua hông của Mỹ Dung, rồi cũng rất thản nhiên dìu nhau tới trước mặt hai bên cha mẹ, khẽ cúi đầu chào. Sau đó cả hai không ai bảo ai, cùng bước tới bàn thờ làm lễ một cách rành rẽ, không đợi ai nhắc. Khiến cho vai trò chủ hôn hai bên trai gái đều trở nên thừa.
Có lẽ quá mừng nên cả hai ông bà sui gia đều muốn cho buổi lễ diễn ra chóng vánh, tránh những bàn tán của bà con hai họ. Buổi tiệc mặn do đó diễn ra rất nhanh. Đến cuối giờ ngọ thì đằng trai đã xin phép ra về.
Nếu có ai nhìn được sắc diện vui mừng khó tả của cô dâu sau tấm mạng che, khác hẳn khuôn mặt u sầu, lưu luyến của hầu hết các cô dâu khác thì chắc là sẽ ngạc nhiên lắm. Ngược lại, gương mặt của Phong sau khi ra vẻ tươi vui chào mọi ngươi, thì giờ đây lại ưu tư khác thường. Anh bước ra kiệu hoa mà như lê chân về nơi đầy ải nào đó...
Khi ngồi lên kiệu rồi, cô nàng mới ghé sát tai chàng nói rất khẽ:
- Mọi việc sẽ đâu vào đó thôi. Không sợ phạm phải lời đe của cô ta đâu!
Phong cũng đáp khẽ hơn:
- Tôi chỉ còn biết liều thôi, nhưng lòng dạ tôi thì trước sau gì cũng chỉ có Hạnh Hoa mà thôi!
Một cú nhéo đau thấu xương, nhưng Phong ráng chịu. Anh nghe nàng nói rất khó hiểu:
- Rồi biết cái tội chung tình sẽ ra sao!
Xe chạy được một lúc, chẳng hiểu khi ấy nàng ghé sát chàng nói thêm câu gì đó, mà nghe Phong kêu lên:
- Em là Hạnh Hoa!
Người đánh xe giật mình định gò cương lại, nhưng một cánh tay của cô gái đã thò ra và thúc mạnh vào mông ngựa, chúng phóng như bay hay đúng hơn là... như ma đuổi!
***
Gả được con gái là điều mà vợ chồng Cả Sanh mừng khôn xiết. Tuy nhiên, sau đám cưới một ngày thì nỗi buồn xa cách đang làm cho người đàn bà đanh đá trở nên vào ngẩn ra ngơ. Dẫu sao thì lâu nay mẹ con có nhau sớm tối, nay rứt ruột giao về nhà người ta thì làm sao không buồn.
Đợi cho ông Cả đi đánh cờ ở nhà người bạn, bà Cả mở cửa vào phòng Mỹ Dung. Bà muốn sắp xếp những gì còn lại của con, nhất là giữ một vài thứ, phòng khi có nhớ thì lấy ra mà nhìn ngắm... Nhưng vừa mở cửa ra, bà Cả đã phải khựng lại, giương tròn mắt nhìn lên giường. Trên đó có một người đang nằm!
- Ai... ai?
Bà vừa mở miệng hỏi thì đôi chân như có ai đẩy tới, nên bà tiến sát lại bên giường. Người nằm đó chính là Mỹ Dung!
- Trời ơi, bớ!
Bà Cả gào lên, nhưng tiếng của bà hình như bị nghẹn lại ở cổ, bỗng bà nghe có tiếng nói khẽ:
- Má nằm xuống đây!
Rõ ràng là con gái đang nói với bà. Nó còn đưa tay kéo bà xuống nữa. Thân thể bà Cả không gượng được, đã ngã dài trên giường, nằm sát bên con gái.
- Sao... sao con còn ở đây?
Giọng Mỹ Dung yếu ớt:
- Má nhìn không thấy sao, con đâu... còn sống!
- Hả? Con nói...
Bà định bật dậy, nhưng Mỹ Dung đã kéo tay bà đặt lên người cô ta. Thịt da lạnh ngắt!
- Trời ơi, con!
Giọng Mỹ Dung yếu dần, rất khó nghe:
- Con phải trả... những gì ba má đã vay... của người ta...
Bà Cả ngơ ngác:
- Vay trả gì của ai?
- Má không nhớ sao? Ngày trước, lúc con chưa ra đời thì ba có một người đàn bà khác. Chính má, vì muốn chiếm hữu riêng cho mình, nên má đã không ngại mướn người thủ tiêu cô gái tên là Hạnh Nương. Cô ấy bị dìm chết ở một cánh đồng, khi trong bụng cô đã có thai gần ngày sinh...
Mỹ Dung vừa kể đến đó thì bỗng bà Cả ôm mặt gào lên:
- Đừng kể nữa!
Nhưng Mỹ Dung phải nói cho hết, bởi cô biết mình sẽ chẳng còn dịp để nói nữa:
- Sau khi giết tình địch rồi, má độc chiếm người đàn ông tên Sanh, để rồi một năm sau thì sinh ra con. Má giấu được nhiều người về chuyện đó, nhưng với một người thì má không thể giấu được, chắc má biết là ai rồi...
- Con, má van con. Con đừng...
- Không được rồi má ơi! Người đó đã trở về và... đòi mạng! Mà con là người phải trả mạng cho người ta... Người ấy là chị Hạnh Hoa. Chị ấy là đứa con bảy tháng tuổi trong bụng cô Hạnh Nương. Khi cô ấy chết thì đứa bé đã được đặt tên sẵn là Hạnh Hoa cũng chết theo, nhưng vì oan uổng, nên hồn phách chị ấy mãi vật vờ rày đây mai đó. Cho đến khi gặp được anh chàng Phong. Theo duyên số thì con và Phong phải là vợ chồng với nhau, bởi trước đó ba má đã hứa với hai bác của Phong. Nhưng cô Hạnh Nương bắt chị Hạnh Hoa phải giành lại cho bằng được anh ấy. Và thế là con phải trả, mà trả cũng có nghĩa là phải trả luôn kiếp người cho họ!
Bà Cả lại gào lên:
- Không được? Thứ hồn ma bóng quế đó đâu đủ tư cách làm người! Con không phải trả cho ai hết, họ có giỏi thì về đòi nợ má đây!
Bà ôm chầm lấy con, nhưng bỗng cả thân xác của Mỹ Dung đã tan biến mất. Chỉ còn nghe giọng như gió thoảng của cô mà thôi:
- Giờ đây cái xác thật sự của con đã giao lại cho Hạnh Hoa rồi, chị ấy trở lại kiếp người và đang sống hạnh phúc bên anh Phong.
Bà Cả oà lên khóc:
- Má sẽ đi đòi lại!
- Đừng làm điều đó, không được gì đâu! Dẫu sao thì từ nay về sau cũng chẳng ai biết được chuyện này ngoài má. Con khuyên má nên giữ kín, bởi nếu nói ra thì ngay cả hồn phách của con cũng không còn được ở bên má nữa. Từ nay, chị Hạnh Hoa sẽ đóng vai con, chị ấy cũng sẽ tốt với ba má, sẽ chăm lo cho ba má còn hơn cả con nữa. Theo con thì kể cả ba, má cũng đừng nói cho ba biết. Má nhớ lời con không?
Bà Cả nghẹn ngào phản đối, nhưng trước những lời của con gái, cuối cùng bà phải hứa:
- Má hứa, má sẽ im lặng.
- Còn một việc nữa, ngày hôm nay má mướn người đi sang thôn Cây Trâm, tìm đúng chỗ Gò Trúc, có một ngôi mộ hoang ở đó, chính là mộ của cô Hạnh Nương. Má cho người bốc mộ, lấy cốt đưa vào ngôi chùa gần đó để cho cô ấy yên nghỉ. Làm được điều đó rồi thì từ nay coi như mọi chuyện thù hằn giữa má và cô Hạnh Nương, chị Hạnh Hoa sẽ đều biến mất. Má làm ngay đi!
Im lặng hoàn toàn...
Bà Cả kêu to lên:
- Mỹ Dung!
Nhưng dường như cô nàng đã tan biến vào không gian rồi...
***
Nửa năm sau, tình cờ hôm đó nhân đi ngang bến đò, Phong tạt qua thôn Cây Trâm. Có lẽ anh muốn nhìn lại một chút kỷ niệm.
Tuy nhiên, anh lại ngơ ngác khi không còn thấy thôn xóm nữa, mà nơi đó đúng là một nghĩa địa hoang vắng.
Phong cố ý tìm lại ngôi mộ ngày trước thì không hề có. Mà khi hỏi về những gì anh đã chứng kiến ngày trước cũng chẳng một ai biết...
Khi trở về thuật chuyện cho Hạnh Hoa nghe, nàng nghiêm giọng bảo:
- Em đã nói rồi, đó là chuyện của quá khứ. Em bây giờ đã là vợ của anh, và anh chỉ nên biết có thế. Nếu anh còn nhớ tới chuyện ngày trước nữa thì Hạnh Hoa bằng xương bằng thịt bây giờ sẽ trở về cát bụi cho coi!
Phong hốt hoảng:
- Không, anh đâu muốn...
Anh ôm chầm lấy cô vợ yêu quý. Lúc ấy nàng mới nói thật khẽ:
- Báo cho anh một tin mừng... em đã có thai hai tháng!
Trong lúc Phong vui mừng khôn xiết thì nàng hạ thấp giọng:
- Cho đến giờ phút này em mới tin chắc là mình... chính thức được trở lại làm người. Em xin cảm ơn cô Mỹ Dung và... bà Cả Sanh nữa.
Những câu nói này Phong không hiểu hết ý, nhưng vốn tin tưởng và yêu quý vợ mình, nên Phong không hỏi thêm lời nào nữa...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #54  
Old 11-07-2012, 04:21 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 27

HỒNG NƯƠNG - Phần 1


Ở thị trấn Gia Thành này, cứ mỗi năm đến mùa mưa là hầu như mọi việc buôn bán đều như dừng lại. Bởi có tiếp tục mở cửa bán thì hàng hoá cũng chỉ bày ra cho nắng mưa làm phai màu, mất giá mà thôi.
Cửa hàng của Tiêu Sơn cũng nằm trong hoàn cảnh đó. Ngay khi mùa mưa bắt đầu, anh chàng lái buôn độc thân này đã tính chuyện đóng cửa rồi đi chơi đâu đó, chờ qua hết tháng tám mới trở về.
Sáng hôm đó, sau khi thức dậy, chỉ ăn sáng qua loa, Sơn đã xách va-li đi ra. Trong lúc anh còn loay hoay khoá cửa thì chợt có tiếng người hỏi sau lưng:
- Sao giờ này mà hiệu buôn lại khoá cửa?
Quay lại, Sơn cau mày khi nhìn thấy một người đàn ông lạ, không có vẻ gì là cư dân địa phương.
- Phiền ông, hôm nay cửa hàng tôi nghỉ bán.
Người đàn ông lạ vẫn lịch sự:
- Tôi tới đây không phải mua hàng mà để bán hàng.
Sơn nhún vai, vẻ ngán ngẩm:
- Hàng đã không bán thì mua vào làm gì! Anh tới nhầm chỗ rồi. Mời anh đi cho.
Tiêu Sơn xách va-li bước nhanh đi, nhưng người đàn ông kia đã gọi giật lại:
- Ông cần mở cửa ra để nhận những thứ này.
Ông ta chỉ ra phía sau lưng mình, nơi có nhiều thùng đồ niêm phong:
- Những thứ này thuộc về ông. Ông cần cất giữ nó, rồi sau đó đi cũng được.
Sơn vốn tính ngay thẳng, anh hơi cáu:
- Ông cho rằng tôi sẽ chứa chấp bất cứ thứ gì không phải của mình trong nhà hay sao?
Người đàn ông vẫn kiên trì:
- Thứ hàng này không phải của tôi, mà là của một người quen với anh gửi, nhờ tôi chuyển giùm. Anh xem người ta ghi ngoài thùng kìa.
Lúc này, Sơn mới để ý nhìn mấy dòng chữ ghi ngoài thùng. Đúng là gửi cho anh, và người gửi chính là người bạn thân ở ngoài tỉnh lỵ. Sơn mừng lắm:
- Lâu lắm rồi không được tin người bạn thân này, không ngờ nay anh ta lại giở trò gửi quà cáp gì nữa đây!
Người đàn ông lạ lại nói:
- Người gửi quà cho anh có dặn tôi là phải giúp anh đưa nó vào nhà rồi mới được đi. Vậy anh nên mở cửa cho tôi chớ.
Không còn cách nào hơn, Sơn đành phải mở cửa và giúp anh ta chuyển bốn thùng hàng vào nhà. Khi các thùng hàng được mở ra thì Sơn vô cùng ngạc nhiên khi thấy trong cả bốn thùng ấy đều là hàng tơ lụa đắt tiền, những thứ mà từ mấy tháng qua cửa hàng của Sơn đã bán sạch, mà việc mua lại nó thì không thể, bởi nó hiếm và giá cả quá mắc, vượt khả năng của Sơn. Vậy mà nay...
Người đàn ông lạ giải thích thêm:
- Người bạn tên Phú của anh còn căn dặn tôi rằng nên ở lại giúp cho anh vượt qua giai đoạn buôn bán ế ẩm này. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ thì người giúp anh tốt nhất là một người khác, chớ không phải tôi.
Anh ta vừa nói xong đã quay ra ngoài vỗ tay liền ba cái. Từ ngoài cửa, có một người lao vụt vào nhà trong tư thế đang che kín mặt mày.
- Người này sẽ ở lại đây giúp anh mọi việc.
Lúc ấy, người trùm mặt kia mới bỏ tấm mạng che mặt ra, lộ diện là một cô gái tuyệt đẹp! Người đàn ông lạ giải thích:
- Người này cũng không phải của tôi, mà là của cậu Phú, bạn cậu. Chính cậu Phú bảo tôi đem số hàng này và cô gái tới đây gửi cho cậu. Có một lá thư gửi cho cậu nữa...
Ông ta đưa cho Sơn lá thư ngắn, trong đó Phú giải thích sự việc:
"Mình có việc phải ra nước ngoài một thời gian dài, là hàng hoá và công việc buôn bán không kịp thu xếp. Vậy nếu còn nghĩ tới người bạn thân này thì Sơn hãy nhận số hàng tơ lụa và cứ toàn quyền bán buôn nó theo ý thích, tiền thu được thì cứ giữ lấy, dùng nó làm vốn tái tạo lại việc kinh doanh, khi về anh em mình sẽ tính lại với nhau. Riêng người con gái này, vốn là em gái nuôi của tôi, cô ấy hiền ngoan và tốt bụng, lại giỏi giang, tôi gửi cho cậu, xin hãy vì tôi mà cho cô ấy ở nhờ, bù lại cô ấy sẽ giúp cậu việc buôn bán. Cô ấy còn độc thân, nên Sơn không phải ngại gì cả..."
Đọc xong lá thư, Sơn vẫn chưa thể hiểu hết ý, anh hỏi lại:
- Phú còn ở nhà nó không? Tôi phải gặp ngay nó, bởi tôi không thể lo việc này.
Người đàn ông bảo:
- Cậu Phú đã lên máy bay rồi, nghe nói lâu lắm mới về. Tôi là người làm công lâu năm của cậu ấy, mà nay cũng bị yêu cầu tìm chỗ mà ở. May mà tôi còn có người bà con. Vậy thôi nhé, mọi thứ anh cứ làm theo lời dặn. Tôi đi đây.
Sơn muốn giữ ông ta lại, nhưng lúc đó người đàn ông kia đã biến mất ngoài cửa. Thất vọng, Sơn định lên tiếng thì cô gái đứng bên cạnh chợt nói:
- Hàng hoá này anh không nên để trong thùng quá lâu. Vả lại có nhiều khách hàng sắp tới mua, anh nên bày nó ra.
Sơn nhìn cô ta ngạc nhiên:
- Cô... cô...
Nàng ta nhắc lại:
- Khách đến mua hàng đông lắm, anh phải bày hàng và mở cửa ra kẻo không kịp.
- Cô biết gì chuyện bán hàng ở đây mà can thiệp. Mùa này chờ ba ngày cũng không có một người khách, chứ đừng nói...
Lời Sơn chưa dứt thì đằng trước đã có nhiều tiếng huyên náo, rồi có người gọi to:
- Ông chủ ơi, khách chờ mua hàng đông lắm, hãy mở cửa ra mau!
Trong lúc Sơn còn đang ngạc nhiên thì cô gái lại giục:
- Sao không mở cửa hàng ra đi!
Rồi không đợi Sơn, cô ta đã nhanh tay mở các kiện hàng tơ lụa ra, bày trên các kệ. Việc làm cực kỳ nhanh gọn trước sự ngạc nhiên, thán phục của Sơn.
- Sao anh còn chưa mở cửa ra?
Khi Sơn mở cửa ra thì cũng là lúc cô nàng nhanh chân lẩn vào bên trong nhà. Sơn phát hiện ra, định hỏi, nhưng lúc ấy khách tràn vào khá đông nên anh cũng chẳng còn hơi sức đâu mà lo chuyện nào khác bằng bán hàng. Khách hàng thích thú với những hàng hoá lạ, nên người này mua lại í ới gọi người khác tới cùng mua.
Chỉ nội buổi sáng mà Sơn đã bán hết một kiện hàng lớn. Điều ấy khiến các hiệu buôn cùng ngành hàng với Sơn kinh ngạc, họ chạy tới chứng kiến và bảo nhau:
- Thằng cha này gặp thời hay sao, chớ mùa này ai lại ùn ùn đi mua hàng tơ lụa như vậy!
Mà chỉ riêng cửa hàng của Tiêu Sơn thôi, các nơi khác hầu như khách không buồn đưa mắt nhìn, dẫu có vài nơi hàng hoá cũng phong phú không kém!
Đến giờ cơm trưa hôm ấy, ngồi tính sổ sơ sơ, Sơn thấy mình đã có doanh thu bằng cả một tháng bán buôn trước đây... Lúc này anh mới chợt nhớ tới cô gái, nên đóng cửa trước, ra nhà sau tìm.
Lại một lần nữa Sơn ngạc nhiên, khi thấy trên bàn ăn đã có một mâm cơm nóng hổi đã dọn sẵn!
- Ủa, ai đã...
Cô gái bây giờ đã thay đổi xiêm y, suýt nữa Sơn nhận không ra, anh lúng túng:
- Cô... cô là...
Cô gái cười thật tươi:
- Em đây mà. Cứ gọi em là Tuyết Hồng.
Sơn không quen lắm việc tiếp xúc với mỹ nhân, nên anh khá vụng về:
- Cô... cô Tuyết...
Nàng lại chủ động:
- Người ta hay gọi em là Hồng Nương. Em thích được gọi như vậy.
- Cô Hồng... Hồng Nương, tại sao lúc nãy cô...
Hồng Nương nói năng khá tự nhiên:
- Lúc ấy em bỗng bị đau mắt không chịu nổi. Vả lại... em cũng không quen... em không muốn gặp mặt người lạ. Mong anh tha lỗi cho.
Sơn xua tay:
- Không sao đâu! Tôi cũng không dám bắt cô Hồng phải nhúng tay vào công việc như vậy!
Nàng chỉ mâm cơm:
- Như việc này thì anh không cấm chớ? Em sẽ tình nguyện hằng ngày được nấu cơm hầu anh. Em ái ngại quá khi thấy bếp núc lạnh tanh, hầu như anh chẳng bao giờ nấu nướng gì?
Sơn lại lúng túng:
- Tôi... có một mình, lại lo buôn bán, nên... gặp đâu ăn đó, lúc nào nhớ thì ăn.
- Không được. Từ nay anh phải ăn uống đúng giờ.
Sơn khoe chuyện buôn bán đắt hàng và tỏ ý lo lắng:
- Hàng bán thì ham quá, nhưng theo đà này thì chỉ vài tuần là hết số hàng đang có, biết tìm mua ở đâu, bởi hàng hoá xứ này không được như thế.
Hồng Nương vô tư:
- Anh cũng chẳng phải lo. Em có một mối chạy hàng giỏi lắm. Người này vẫn thường xuyên lo cung cấp hàng hoá cho anh Phú. Để em nhắn tin, rồi cứ mỗi lần cần hàng ta cứ chờ họ mang tới đây giùm.
Sơn mừng lắm:
- Ồ, được vậy thì còn gì bằng! Đây, bao nhiêu tiền bán được tôi đưa hết cho cô giữ, khi nào cần mua hàng thì cô toàn quyền gửi họ mua. Nhưng tôi vẫn lo, liệu cô còn xa lạ nơi này, vậy làm sao cô đi đứng, giao thiệp cho tiện?
- Ồ, anh không phải lo chuyện ấy đâu. Em có cách của mình để nhờ người quen lo giùm. Tiền này em chỉ giữ tạm thôi, mua hàng hết bao nhiêu, sau đó em sẽ cất vào tủ của anh cho chắc.
- Ồ không, tiền này cô có quyền...
Cô nàng nghiêm giọng:
- Anh Phú đã dặn rồi, số hàng hoá đó là thuộc toàn quyền sử dụng của anh. Mọi tiền bạc thu được từ đó dĩ nhiên là của anh, chớ em thì không can dự gì. Nếu anh tin thì em giúp cho một phần việc đặt hàng, chớ nặng trách nhiệm hơn thì em nhất định không dám nhận!
Sơn đành phải chấp nhận như vậy. Anh mạnh dạn ngồi xuống ăn bữa cơm thật ngon lành. Nhưng đang ăn, anh ngạc nhiên hỏi:
- Nhà không có thức ăn, mà chẳng thấy cô đi chợ, vậy lấy đâu ra những thịt cá tươi ngon như mấy món này?
Nàng lại cười:
- Đó là bí quyết riêng của phụ nữ chúng em, anh cho phép em không nói được không?
Tuy không hỏi nữa, nhưng cho đến khi xong bữa ăn, Sơn vẫn còn thắc mắc. Ăn xong, anh vừa định dọn dẹp thì cô nàng đã mau mắn nói:
- Đây là công việc của đàn bà. Đã có đàn bà trong nhà này thì nhất định anh không được làm.
Cũng chẳng còn cách giải quyết nào khác hơn, nên tối đó Sơn phải đưa ra giải pháp:
- Nhà có hai phòng, nhưng vì phòng kia đã lâu không dùng đến nên bụi bặm, hôi mốc. Vậy tối nay cô cứ vào phòng tôi mà ngủ, tôi sẽ ngủ ngoài chỗ bán hàng, vừa trông coi hàng hoá luôn.
Cô nàng đưa tay chỉ vào trong phòng gần bếp:
- Anh thử vào xem, dọn dẹp như vậy được chưa?
Sơn vào ngắm căn phòng và rất đỗi ngạc nhiên:
- Sạch gấp đôi phòng của tôi! Nhưng... thời gian đâu mà cô làm được việc này?
Nàng vừa dọn bếp vừa đáp:
- Việc nhỏ của đàn bà mà.
Đêm đó, Sơn nằm trằn trọc mãi, bởi trong đầu cứ suy nghĩ về sự hiện diện của một cô gái trong nhà mình. Ở lại trong một hai ngày thì được, nhưng lâu dài thì sao? Sẽ giải thích với người quen như thế nào cho hợp lý?
Còn đang mải mê suy nghĩ, bỗng có tiếng gõ nhẹ cửa phòng, Sơn bước ra mở cửa thì không thấy ai, chỉ thấy có mảnh giấy nhỏ nhét ở ổ khoá:
"Anh đừng bận tâm về sự hiện diện của em. Từ nay em sẽ không bao giờ bước ra khỏi cửa một bước. Kể cả chỗ bán hàng, em cũng không có mặt. Phạm vi của em là phòng riêng và nhà bếp, chỉ yêu cầu anh đừng cho người lạ vào khu vực bên trong đó. Cám ơn anh. Hồng Nương."
Nhìn sang phòng nàng thì vừa thấy bóng Hồng Nương mới khuất vào trong. Sơn thở phào, như vừa trút được gánh nặng. Đúng là nàng đã hiểu thấu ruột gan của Sơn!
Nhờ vậy mà sau đó Sơn đã ngủ được một giấc thật say...
Do hơi mệt vì bán hàng bữa trước, nên sáng hôm sau Sơn dậy rất muộn. Lúc anh thức giấc thì nắng đã xuyên qua cửa sổ vào phòng. Hốt hoảng, anh bật dậy và lo việc không ai mở cửa bán hàng. Nhưng Hồng Nhung đã nói vọng vào:
- Em ra sớm, lúc chưa có ai để niêm yết giờ mở cửa. Vậy anh còn hơn mười lăm phút nữa mới tới giờ bán hàng. Thôi, vào ăn sáng rồi còn ra tiếp khách đi, ông chủ!
Một mâm thức ăn đã dọn sẵn, và lại là món điểm tâm Sơn đặc biệt ưa thích!
- Cô... cô lấy đâu ra mấy món này? Đây là hủ tiếu tim gan, sườn non của tiệm Hải Vị cuối khu chợ mà?
- Đúng là thức ăn của tiệm đó. Anh cứ ăn đi cho nóng. Đừng thắc mắc việc làm cách nào em mua được. Bảo đảm với anh, không ai thấy em từ trong nhà này đi ra, cũng không thể thấy em đi vào.
Sơn ái ngại:
- Vì ý thích của tôi mà cô phải nhọc công như vậy, tôi không muốn đâu. Từ mai cứ còn cơm nguội bữa trước, cô chiên giúp lại, tôi ăn thế quen rồi.
Nàng lắc đầu:
- Không có em ở đây thì anh muốn ăn uống thế nào tuỳ ý. Nhưng có em rồi thì trách nhiệm của em là phải thế này, việc thức khuya dậy sớm, nếu không cho em làm vậy thì em bệnh, anh lại mất công tốn tiền thuốc!
Lại một lần nữa, Sơn phải nhượng bộ. Và đúng là nhờ thay đổi thức ăn nên anh ăn rất ngon miệng. Ăn vừa xong thì ngoài cửa đã có tiếng lao xao của khách hàng.
Lúc Sơn mở cửa thì cả chục người tràn vào. Họ hết lời khen ngợi anh:
- Trong lúc chợ búa ế ẩm mà ông chủ Sơn lại có hàng mới bày bán, đáp đúng thị hiếu người mua, thật là giỏi!
Sơn cám ơn mọi người thì có một bà nói:
- Ông chủ trẻ tuổi, tài giỏi như vậy mà không có người quán xuyến việc nhà, thật là tiếc! Có cần không, tôi làm mai cho?
Một người khác lên tiếng liền:
- Bà ta gả con gái cho cậu đó, chớ cần gì làm mai cho ai!
- Con gái bà ta đẹp thì có đẹp, nhưng cái miệng ăn hàng núi cũng sập chớ đừng nói là cửa hàng này!
Bị chọc quê, bà xỉa xói mấy người kia một lúc, trước khi về còn nói với lại:
- Con gái tôi tên Trà My, bữa nào ông chủ Sơn ghé nhà chơi, nhà tôi ở đầu xóm Đông.
Đợi bà ta đi rồi, một bà nói với Sơn:
- Bà đó là trùm ở xóm chợ này đó, nhà bà ta giàu có lắm, cỡ cậu mà lọt vào làm rể bà ta thì hốt trọn ổ đó!
- Ổ quạ hay ổ cú!
Một người nào đó chen vào nói rồi mọi người cùng cười to. Không khí cửa hàng của Sơn lúc nào cũng vui vẻ, nhộn nhịp như vậy.
Đến trưa, trong giờ cơm Sơn phải nói:
- Kiểu này thì chỉ vài ngày nữa là hết hàng để bán. Liệu có cách nào mua hàng về kịp không?
Hồng Nương bình tĩnh đáp:
- Anh khỏi phải lo, nội chiều mai sẽ có một chuyến hàng mang tới.
Sơn kinh ngạc:
- Sao mà nhanh vậy?
- Thì mình đặt hàng, họ mang tới chớ sao?
- Đặt hàng? Cô đặt hồi nào?
Nàng cười tươi:
- Hôm qua khi anh nói và sẵn tiền, em đã nhắn với người quen, họ báo tin là ngày mai sẽ giao tới.
Sơn tính lại số tiền bán được và càng ngạc nhiên hơn, bởi tuy số lượng bán ra ngang bằng hôm qua, nhưng số tiền lại nhiều hơn. Anh chưa hiểu tại sao thì Hồng Nương giải thích:
- Số hàng hôm nay thuộc thùng hàng lụa loại cao giá, anh bán mà không để ý sao?
Sơn chợt nhớ ra, anh gật đầu:
- Đúng rồi, lúc nãy tôi căn cứ theo giá ghi ở đầu cây vải để bán mà quên so với giá hàng hôm qua. Tôi cũng không ngờ là Phú đã gửi cho những loại hàng cao giá như vậy.
Hồng Nương tiết lộ:
- Các thứ hàng hoá này suốt trong nhiều tháng anh Phú đã không bán ra, nói là để dành cho mùa Tết. Cho đến lúc nghe tin mình sắp phải đi nước ngoài thì đã quyết định dành toàn bộ số hàng quý gửi tới cho anh. Có thể nói đây gần như là toàn bộ tài sản của Phú.
Buổi chiều hôm đó, quả nhiên có một xe chở hàng tới giao tận nơi. Người giao hàng chỉ biết giao xong rồi đi, Sơn có hỏi thêm vài chi tiết, nhưng anh ta hầu như không nói gì, lên xe đi thẳng.
Vào nhà hỏi lại Hồng Nương thì cô chỉ cười bảo:
- Em cũng chẳng biết. Có lẽ người quen của em giao cho họ chở tới mà không dặn gì khác.
Sơn xem lại hàng và phải công nhận số hàng lần này còn tốt hơn đợt vừa rồi đặc biệt là đáp ứng đúng màu sắc mà trong mấy ngày vừa qua nhiều người đã yêu cầu. Điều này khiến Sơn không khỏi ngạc nhiên, bởi khi bán hàng thì Hồng Nương không có mặt, không nghe được sở thích của khách hàng, mà khi vào nhà ăn cơm Sơn cũng chưa nói ra yêu cầu của khách. Vậy mà cô đã đặt hàng chính xác đến không ngờ!
Hỏi thì Hồng Nương cười đáp:
- Có lẽ do kinh nghiệm của phụ nữ. Ở đây là vùng thôn quê, màu sắc phải thích nghi với hoàn cảnh, khí hậu và bản tính con người.
Sơn thầm phục kiến thức đó của cô ta, anh nói lịch sự:
- Tôi phải cám ơn cô Hồng vạn lần. Lần này thành công là có phần đóng góp rất lớn của cô!
Hồng Nương khiêm nhường:
- Chuyện đó đâu đáng gì mà anh phải quan tâm. Việc anh cho em nương nhờ mới là ơn lớn mà em phải đền đáp.
Sơn cảm thấy bạo dạn hơn:
- Nhưng xem ra ơn của cô lớn hơn. Cô biết không, nếu mấy hôm trước không có cô tới với số hàng quan trọng này, thì tôi đã đóng cửa hiệu đi du lịch rồi. Mùa mưa ở chợ này bán được nửa thước vải đã là khó, chớ đừng nói là cả mấy thùng như hai hôm nay!
Nghe anh nhắc tới chuyện đi, Hồng Nương hỏi:
- Anh định đi với ai mà hôm đó sửa soạn kỹ dữ vậy?
- Đâu có gì mà kỹ, tôi chỉ...
Hồng Nương kể ra vanh vách:
- Ngoài quần áo cá nhân của anh, còn có bốn đoạn gấm dành cho con gái nữa!
Sơn ngạc nhiên:
- Sao cô biết rõ vậy?
Hồng Nương cười:
- Mạn phép anh, em đã lấy đồ đạc trong va-li ra định giặt, nên mới rõ. Anh có rầy thì em chịu, chớ em không thể thấy đồ đạc để trong rương lâu, nó sẽ hôi mốc.
Đúng là Sơn không hài lòng lắm về việc người khác soạn đồ đạc riêng của mình. Tuy nhiên, với Hồng Nương thì anh lại dè dặt. Đúng hơn, nếu cô nàng có làm hơn thế nữa thì Sơn cũng không nỡ chê trách.
Đưa hàng hoá vô nhà xong thì trời đã tối. Để mừng việc buôn bán thành công và mừng có chuyến hàng mới, Sơn ngỏ ý với người khách nữ thân thiết của mình:
- Tối nay tôi muốn được mời cô Hồng một chén rượu.
Hồng Nương nhận lời ngay:
- Em cũng đã làm sẵn một ít món nhắm rồi đây!
Họ bày tiệc rồi cùng nhau uống đến gần nửa khuya. Sơn vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra tửu lượng của cô nàng khá cao. Anh thật lòng khâm phục:
- Hồng Nương tửu lượng ăn đứt tôi rồi, có lẽ tôi phải xin hàng thôi!
Hồng Nương cũng đã ngà ngà, giọng cô hơi lè nhè:
- Chưa bao giờ em uống đến như thế này...
Nàng vừa nói vừa đưa tay chụp đại lên bàn, vô tình nắm phải bàn tay của Sơn. Anh chàng để yên, mắt vẫn nhắm nghiền. Tay hai người cùng trong tay khá lâu...
Và có lẽ họ cùng say và đi vào giấc ngủ...
Chẳng biết bao lâu. Cho đến khi Sơn mở mắt ra thì anh chẳng còn thấy cô nàng đâu. Sơn cũng đứng lên về phòng mình. Tuy nhiên, khi đi ngang qua phòng của Hồng Nương, Sơn ngạc nhiên khi không có nàng trong đó.
Bước ra phòng ngoài cũng chẳng thấy cô nàng, Sơn thật sự lo, anh gọi:
- Hồng Nương!
Anh lo nàng quá say rồi ngã ở đâu đó, nên đi tìm kỹ mọi ngõ ngách. Chẳng hề thấy. Mà cửa nẻo vẫn đóng kín.
- Cô Hồng!
Sơn gọi đến cả chục lần, thậm chí mở cửa bước ra ngoài tìm mà vẫn không thấy gì. Giờ đó đã quá khuya, có lẽ gần sáng, nên đường sá vắng tanh.
Người vẫn còn hơi men, nên chỉ đứng ngoài được một lúc, Sơn phải quay vào nhà. Anh cố cưỡng lại cơn mệt, thức đến sáng, chờ đợi trong tâm trạng nôn nao, lo lắng như chưa bao giờ như thế...
Lúc này Sơn mới có thời gian soát lại lòng mình. Anh không thể chối rằng trong con tim trống rỗng xưa nay của mình đã bắt đầu có chút gì đó làm xao động...
Bởi vậy, sự lo lắng trong anh lại càng tăng thêm. Nếu có thể được, Sơn đã chạy đi tìm coi nàng đang ở đâu?
Gà bắt đầu gáy thưa thớt ở đầu thôn. Cũng là lúc Sơn mòn mỏi ngủ thiếp đi...
- Này, dậy ăn chút cháo nóng cho khoẻ. Coi chừng anh bệnh rồi đó!
Sơn choàng tỉnh dậy, anh giật mình và mừng rỡ khi nhìn thấy Hồng Nương đang cúi xuống trước mặt mình:
- Cô... cô về lúc nào?
Hồng Nương ngạc nhiên:
- Em có đi đâu mà về?
Sơn quả quyết:
- Tôi đã đi tìm khắp nơi, cả trong phòng cô nữa mà chẳng thấy. Cô đi đâu làm tôi lo quá...
Chỉ tay ra chỗ để các thùng hàng:
- Hàng quý mới về, em sợ kẻ trộm nên ra ngủ giữa hai kiện hàng. Một phần cũng do say...
- Ủa, lúc nãy tôi có tìm ở đó mà...
- Chắc là anh chỉ tìm ở ngoài nên làm sao thấy, trong khi em nằm ở tận bên trong.
Sơn thở phào nhẹ nhõm và anh không cần ăn chén cháo mà nàng bưng ra, đã vội đi về phòng ngủ tiếp... Do vậy, anh không để ý thấy Hồng Nương vừa đem giấu một bộ đồ nguỵ trang. Có lẽ dùng để đi ra ngoài lúc đêm...


Phần 2


Năm năm sau...
Từ một hiệu buôn ế ẩm, ít hàng, thưa khách, sắp đóng cửa, cho đến nay hiệu Tiêu Sơn đã trở thành một hiệu buôn bề thế nhất của chợ thị xã này.
Không thể phủ nhận, mọi việc đều bắt nguồn từ số hàng hoá của người bạn tên Phú gửi tới. Sơn hiểu điều đó nên cứ thỉnh thoảng vài tháng một lần, anh đều cho người về tỉnh thăm chừng xem Phú xuất ngoại đã trở về chưa. Nhưng đã qua năm năm, Phú vẫn bặt tăm hơi, kể cả một lá thư cũng không gửi về.
Đã mấy lần Sơn hỏi, nhưng Hồng Nương chỉ biết lắc đầu. Có lần cô bảo:
- Anh Phú tính tình kín đáo, ít chịu nói điều gì anh ấy không muốn. Chuyện anh ấy ra đi cũng hoàn toàn bí mật với mọi người và cả em, mặc dù ảnh thương em như em ruột.
Sơn băn khoăn chuyện bặt vô âm tín của Phú một phần là nhớ bạn, nhưng điều làm anh áy náy nhất là đồng vốn mà anh đang chiếm dụng, chẳng biết tính sao? Sơn đã tích luỹ có thừa số vốn của bốn kiện hàng do Phú gửi giúp, định sẽ trả đủ cho bạn khi gặp lại. Chẳng những thế, Sơn còn dành đến hơn phân nửa số tiền lời từ năm năm qua cho bạn. Anh chỉ dành cho mình một số vừa phải để phát triển cơ ngơi và cho... hai thành viên nữa trong nhà. Hai thành viên?
Điều này nếu Phú về, anh ta sẽ vô cùng ngạc nhiên và có thể là rầy rà nữa, nhưng Sơn chẳng còn cách nào khác hơn. Chung đụng nhau, giúp đỡ nhau khi tối lửa tắt đèn rồi bén duyên lúc nào không hay, và đến một ngày, cũng trong một cơn say, hai người họ đã trở thành của nhau. Hồng Nương không tỏ ra hối tiếc gì, cũng không lo bị Phú rầy, mà chỉ lo chuyện đứa con ra đời. Lúc có thai, nhiều lần nàng ưu tư, Sơn hỏi mãi nàng mới thổ lộ:
- Em lo, không biết con chúng ta sẽ có hình hài ra sao nữa?
Sơn ngạc nhiên hỏi lại thì nàng giải thích thêm:
- Là bởi... trước đây có lần em bị bệnh sốt rét rừng, chẳng hiểu sinh con có ảnh hưởng gì không?
Sơn trấn an:
- Em yên tâm, anh là giống tốt, sống đàng hoàng, nên con anh nhất định là phải đẹp trai và thông minh!
Mà quả vậy, cậu bé Tiểu Minh khi ra đời đã kháu khỉnh, lanh lợi và cực kỳ thông minh. Đến lúc ấy, Hồng Nương mới an tâm. Tuy nhiên, nếu để ý sẽ thấy thỉnh thoảng nàng thường lén nhìn con rồi lại ôm con vào lòng, như sợ nó rời xa mình! Điều này nàng không biểu lộ cho Sơn biết, và anh chàng do quá lo làm ăn, nên cũng không để ý.
Thằng bé Tiểu Minh nay đã trên ba tuổi, và thường quấn quít theo cha ở ngoài cửa hàng, và chính nó có lần đã nói với cha:
- Sao không bao giờ mẹ chịu ra ngoài này vậy cha?
Sơn cười:
- Tại mẹ sợ bị người đàn ông khác nhìn rồi người ta... bắt cóc mẹ đi!
Thằng bé kêu lên:
- Còn ba đây và con nữa, ai dám bắt mẹ được!
Sơn xoa đầu con:
- Cha chỉ nói đùa thôi, chớ từ lâu nay mẹ không quen buôn bán, nên mẹ không tiện ra ngoài này. Mẹ con không thích tiếp xúc với người ngoài.
Thằng bé ngây thơ nói:
- Sao hôm trước mẹ dẫn con đi gặp tới mấy người lận! Họ cũng là người buôn bán...
Sơn kinh ngạc:
- Con nói gì vậy Tiểu Minh?
- Thật đó, buổi tối mẹ thường đi gặp mấy người kia. Con thấy những người đó không phải là bạn của cha.
Từ lâu nay, Sơn tin tưởng vợ tuyệt đối, bởi chưa bao giờ thấy Hồng Nương ra khỏi nhà nửa bước, vậy mà nay...
Anh nghiêm giọng nói con:
- Con còn nhỏ, không được nói bậy nghe chưa! Mẹ con sao lại...
Thằng bé rất hồn nhiên:
- Mẹ dặn con đừng nói lại với cha. Mà con thấy mẹ và những người kia cũng không có làm gì. Lần nào cũng bàn chuyện hàng hoá gì đó...
Chợt nhớ ra, Sơn reo lên:
- Đúng rồi! Mẹ con mua hàng cho cha. Những người kia là thương buôn.
Tiểu Minh vẫn thắc mắc:
- Thương buôn sao không tới ban ngày gặp luôn cha, mà chỉ tới vào ban đêm? Mà lại gặp nhau ngoài đồng vắng nữa!
Những điều tiết lộ là hoàn toàn mới mẻ với Sơn, anh sợ Hồng Nương nghe được, nên kéo con ra ngoài cửa căn dặn:
- Con chỉ được nói chuyện này với cha thôi, không được nói với ai nghe chưa!
- Dạ...
Thấy sắc mặt của cha, Tiểu Minh có vẻ ngại... Nó nói sang chuyện khác:
- Tối qua con thấy mẹ khóc.
Sơn hốt hoảng:
- Hồi nào?
- Lúc ba tính sổ sách ngoài này. Mẹ ngồi trong phòng ôm con vào lòng rồi khóc. Con có hỏi thì mẹ chỉ nói do mẹ quá thương con. Nhưng thương con sao mẹ lại khóc, hả cha?
Sơn hơi lúng túng:
- À, có lẽ... Mà thương quá cũng khóc chớ sao. Khóc sung sướng mà!
Sơn còn định giải thích thêm, nhưng lúc đó có mấy khách bước vào nên anh xoa đầu con rồi bảo:
- Con vào trong nhà với mẹ đi, lát cha vào rồi mình ăn cơm!
Chợt Tiểu Minh nhìn ra rồi reo lên:
- Con nhớ rồi, cái ông mang cái giỏ lớn đi phía sau kia là bạn của mẹ đó!
Sơn giật mình, anh nhìn kỹ thì rõ ràng đây là những người khách lạ, chưa từng đến đây bao giờ. Họ gồm bốn người, toàn là đàn ông. Sợ Tiểu Minh ở đó nói lôi thôi, nên anh giục con:
- Con vào trong đi, cũng đừng nói với mẹ về mấy người khách này, để đây cha tiếp họ.
Tiểu Minh dùng dằng một lúc rồi mới chịu đi. Vừa lúc đó, bốn người khách bước vào. Họ nói giọng miền khác:
- Ở đây có thu mua tơ?
Sơn lịch sự đáp:
- Dạ có chớ. Miễn là hàng đẹp và giá cả phải chăng.
Một người nói:
- Hàng chắc chắn là ông chủ vừa ý rồi, còn giá cả thì chẳng khác gì giá mà lâu nay ông chủ vẫn thu mua.
- Vậy thì mấy ông cho coi thử hàng?
Người đàn ông mà lúc nãy Tiểu Minh nói là quen với Hồng Nương, lên tiếng:
- Bà vợ ông đã từng mua của chúng tôi mà. Chính những hàng hoá ông bán ở đây cũng là do chúng tôi mang tới cả...
- À, thì ra các ông là khách buôn lâu nay vợ tôi thường nhắc. Vậy mời ngồi. Ta ngồi rồi nói chuyện. Thật vinh hạnh quá!
Người nọ nói với giọng thiếu thân thiện:
- Chúng tôi muốn gặp ngay vợ ông, chứ không có thì giờ nói chuyện! Hàng hoá này là chúng tôi mang tới giao cho cô ấy.
- Vậy thì các ông cứ giao cho tôi cũng được. Cô ấy mua giá nào, tôi sẽ trả giá đó.
Người kia gắt lên:
- Không được. Phải kêu Tiểu Tuyết ra đây!
- Tiểu Tuyết nào? Ở đây làm gì có Tiểu Tuyết?
- Chính con vợ của ông đó!
- Nàng còn có tên là Tiểu Tuyết ư? Nhưng... nhưng nàng đang bận...
- Bận gì cũng kêu ra đây!
Thấy thái độ kỳ lạ của họ, Sơn nghĩ là do buôn bán tiền nong không sòng phẳng sao đó, nên anh nói:
- Nếu nàng còn nợ nần gì các ông thì đưa sổ ra, tôi sẽ trả tất cả!
Một gã khác nói to:
- Nợ này không phải bằng tiền, mà là... mạng sống của con đó!
Trong lúc Sơn trố mắt ngạc nhiên thì một người khác trong bọn có vẻ trầm tĩnh hơn, ông ta nói:
- Cô vợ ông thường đặt hàng chúng tôi, nhưng hai tuần nay lại đổi sang mối khác, khiến chúng tôi bị kẹt hàng, lỗ vốn nặng. Bây giờ ông hãy gọi cô ta ra đây bồi thường thiệt hại cho chúng tôi, có như vậy chúng tôi mới để cô ta yên. Bằng không...
- Nhưng... tôi đâu biết chuyện này. Vả lại lâu nay vẫn một người mang hàng tới giao, tôi thấy có sự thay đổi gì đâu?
Người hung dữ nhất trong bọn đã gắt lên:
- Gọi ngay Tiểu Tuyết ra đây!
Vừa khi ấy, Tiểu Minh chạy ra gọi cha:
- Cha vào trong mẹ cần nói chuyện!
Sơn cũng cần gặp vợ, anh để khách đứng đó, chạy vào phòng. Anh giật mình khi thấy Hồng Nương nằm co ro, sắc mặt tím tái, giọng yếu ớt:
- Mau đuổi họ đi. Em... em sẽ gặp nguy, nếu... nếu họ còn ở đó...
Sơn hốt hoảng:
- Họ hung dữ lắm, làm sao anh đuổi đi được?
Hồng Nương cố sức nói:
- Hãy... hãy bắt con mèo mun ra... ném vào họ...
Sơn còn lưỡng lự thì Tiểu Minh đã nhanh chân chạy đi tìm con mèo mun đang nằm ngủ ở cửa buồng, rồi nó chạy bay ra bất thần ném mèo vào chỗ bọn người kia.
Bỗng có những tiếng gầm rú ghê rợn vang lên, khiến cho Sơn vừa chạy ra tới cũng phải sững lại, kinh hãi nhìn bốn cái bóng phóng vút ra cửa!
Những người chung quanh đó kinh hoàng gào thét:
- Hổ! Hổ bà con ơi!
Thì ra bốn cái bóng vừa phóng khỏi cửa hiệu của Sơn chính là bốn con hổ vàng thật to. Nhưng hình như chúng cũng đang kinh hoảng, nên trên đường chạy đã không chạm đến ai. Tuy vậy, cả thị trấn đã phải một phen hú vía!
Lúc mọi người hoàn hồn chạy tới hỏi thăm thì Sơn đã ngất đi giữa tiệm. Chỉ có Tiểu Minh là còn đứng đó, thằng bé chẳng những không sợ mà còn bình tĩnh cúi xuống lay gọi cha dậy. Rồi khi thấy người bâu tới đông quá nó lại nói:
- Bà con về đi, cha con không sao, chỉ bất tỉnh thôi.
Khi mọi người đi hết rồi nó mới cố kéo cha vào trong. Sau đó ra đóng cửa lại cẩn thận. Vào trong rồi, nó gọi mẹ:
- Chúng nó chạy hết rồi, mẹ không cần sợ nữa.
Sau đó ít giây thì Sơn tỉnh lại, anh lo lắng nhìn vợ:
- Em có sao không?
Hồng Nương đã đỡ hơn lúc nãy, cô ôm con vào lòng, giọng run run:
- Lạy trời, con và anh không sao.
- Họ là ai vậy? Tại sao họ mới là người đó lại hoá thành hổ?
Tiểu Minh nhớ ra, nó nói:
- Con thấy cả bốn con hổ đều chỉ còn lại ba chân! Chúng là cọp què mà, sợ gì!
Hồng Nương siết chặt con hơn:
- Không đâu con... Chúng là hổ tinh, nên dù còn mấy chân chúng cũng giết chúng ta trong nháy mắt thôi!
Sơn thấy trong giọng nói của vợ có gì đó không bình thường, nên gạn hỏi:
- Em nói cho anh nghe coi, sao bọn đó lại tìm em? Giữa em với chúng có gì...
Có lẽ biết không thể giấu mãi được, nên nàng vừa sụt sùi khóc vừa kể:
- Bọn chúng là bầy hổ dữ ở rừng Dương Lâm, ở phía bắc tỉnh thành. Trong nhiều năm, chúng đã ăn thịt vài chục người đi qua rừng. Trong số đó có những người buôn tơ lụa. Một hôm, trong nhóm người buôn tơ có một người thạo bắn cung tên và giỏi nghề săn thú dữ, đã đụng độ với bầy ác thú đó. Kết quả là người kia lùa cả bốn con hổ vào một hang đá sau khi bắn chúng trọng thương, mỗi con đều mất một chân sau. Khi hổ đã vào hang rồi, người ấy bịt miệng hang, chất củi đốt hang! Ai cũng ngỡ là bốn con hổ bị diệt, chẳng ngờ hơn một giờ sau đó, từ trong hang có tiếng gầm rú, rồi bốn con hổ đồng loạt phóng ra nhắm thẳng vào chỗ người kia mà tấn công. Người ấy bị giết chết tức khắc, xác bị hổ xé nát, hình như là để hả cơn hận thù! Mà chưa hết, sau khi giết kẻ thù rồi, bốn con hổ còn lao tới chỗ chiếc lều, nơi có người vợ và cô con gái nhỏ của ông lái buôn kia, và giết luôn bà vợ. Cô con gái nhỏ...
Kể tới đây dường như quá kiệt sức, nên Hồng Nương phải ngừng lại để lấy hơi. Sơn có linh tính, nên hỏi chặn ngang:
- Cô gái nhỏ đó phải chăng là...
Nàng gật đầu:
- Người đó là em. Đúng ra em cũng đã chết, nhưng nhờ có một người đi săn tới kịp, người đó nổ súng liền mấy phát. Bầy hổ phát hoảng nên bỏ em lại đó, chạy mất. Người cứu em hôm đó chính là anh Phú, bạn anh.
Sơn reo lên:
- Phú có tài bắn súng mà!
- Phú đưa em về chữa trị vết thương, nhưng chữa hoài vẫn không khỏi, bởi người ta cho biết hổ khi nó đã thành tinh, vết thương do chúng chạm vào ai thì sẽ không bao giờ lành được. Ngoại trừ...
Sơn ôm lấy vợ:
- Nhưng em quá may mắn, nên đã lành lặn như ngày hôm nay. Đó là trời ban lộc cho anh!
Nàng không vui mà lại bật khóc. Sơn an ủi:
- Chuyện qua rồi, em không phải lo nữa...
Nàng vẫn khóc, và bất thần cố sức ôm gọn hai cha con Sơn vào lòng như sợ họ biến mất:
- Đừng bỏ em!
- Kìa, sao em nói nhảm gì vậy? Anh và con vẫn bên em đây mà!
Nàng càng khóc to hơn:
- Không còn kịp nữa rồi! Chúng đã tới đây rồi thì còn mong gì sống sót nữa. Hai người hãy mau đi đi, kẻo chúng trở lại mà không còn đường sống!
Sơn vụt nhớ tới Phú, anh đứng lên và nói:
- Để anh ra tỉnh nhờ Phú xem. Có thể Phú đã về rồi. Phú là người bắn súng giỏi, có anh ta trong nhà sẽ giúp mình nhiều.
Hồng Nương càng khóc to hơn:
- Phú đã chết năm năm trước rồi! Ngày em tỵ nạn tới anh là ngày Phú bị lũ hổ tinh đó tới tấn công trả thù, chúng đã xé xác Phú ra làm nhiều mảnh rồi tha vào rừng.
- Trời ơi!
Sơn rụng rời tay chân, anh ngồi bệt xuống như người mất hồn, trong khi Hồng Nương vẫn tiếp tục kể:
- Em nhờ cải trang, đi theo các kiện hàng nên mới tới được đây. Em cứ ngỡ...
Nàng ngừng kể, cơn xúc động làm cho hơi thở nàng đứt quãng, khó khăn... Thằng bé Tiểu Minh ghì lấy mẹ, nói như hét lên:
- Không ai được làm hại mẹ. Họ tới đây con sẽ bắt con mèo mun, thật nhiều con mèo mun để đuổi họ!
Hồng Nương nhẹ lắc đầu:
- Không ăn thua gì đâu con! Hai cha con phải chạy trốn ngay thôi, bởi họ tới đây chỉ để tìm mẹ mà mẹ thì cũng không còn có thể sống nữa rồi, số mẹ đã tận con à...
Nàng càng nói thì giọng càng yếu đi. Quay sang Sơn, nàng thì thầm:
- Em sắp bị họ rước đi rồi...
Sơn hốt hoảng:
- Không đâu! Em đừng nói nhảm, có anh đây mà...
Lúc đó trời đang tối dần... Nhìn ra cửa sổ, Hồng Nương sợ hãi:
- Không xong rồi, họ lại tới nữa đó!
Sơn nghe ngóng rồi nói:
- Anh có nghe động tĩnh gì đâu. Mình đóng hết cửa nẻo lại thì làm sao ai vào được!
Anh bước tới đóng cửa sổ thì vừa lúc đó có một giọng nói vang lên từ nhà bếp:
- Chậm mất rồi ông chủ Sơn ơi!
Đúng lúc đó, bốn người đàn ông lúc sáng lại xuất hiện, ngoài ra còn có một người đàn bà mặt mày đầy son phấn đi cùng. Mụ này mới là người lên tiếng tiếp theo:
- Tưởng là thoát được tao hả, con tiểu yêu kia!
Hồng Nương vừa nhìn thấy mụ ta thì đã run lẩy bẩy, vừa ghì chặt lấy Sơn hơn. Mụ kia quát lớn:
- Lôi cổ nó ra cho tao trị tội!
Bốn gã kia định nhào tới thì Tiểu Minh nhanh trí chụp lấy con mèo đưa ra dọa:
- Ai nhảy vào thì tôi tặng cho con này!
Thật là hiệu quả. Cả bốn tên đều khựng lại, chưa dám nhào tới. Mụ đó lồng lên:
- Đồ chết nhát, để tao!
Mụ ta như con hổ dữ lao thẳng về phía vợ chồng Hồng Nương. Nhưng thật bất ngờ, Tiểu Minh cũng lao theo, rồi bất thần thằng bé ngoạm lấy một bên cổ tay của mụ ta cắn chặt!
- A... a... a!
Tiếng thét của mụ khiến cho bốn tên đều muốn nhảy vào tiếp cứu, nhưng lúc ấy con mèo mun như đồng tình với chủ, nó giương cặp mắt xanh màu ve chai trừng trừng nhìn, nên bốn tên không dám nhúc nhích.
Còn Tiểu Minh thì dù mụ kia có ra sức cào cấu, đánh đập, nó vẫn ngoạm chặt, nhất định không nhả ra. Một dòng máu từ cánh tay của mụ ác chảy xuống, rơi đúng vào đỉnh đầu của Hồng Nương, và... nàng lả người đi. Cùng lúc, mụ kia cũng khuỵ xuống, chụp lên thân thể vợ chồng họ.
Máu từ cánh tay mụ ta tiếp tục chảy... Phút chốc đã ướt đẫm cả đầu, cổ và thân mình Hồng Nương. Cho đến lúc, tự dưng thân xác mụ ác bỗng teo tóp đi như chiếc bong bóng xì hơi. Và... cuối cùng chỉ còn lại một bộ da hổ màu trắng!
Bất thần Hồng Nương bật dậy, nàng kéo chồng con lên, reo to:
- Thoát rồi!
Sơn ngơ ngác:
- Em không sao chớ?
Hồng Nương quay sang con, Tiểu Minh miệng còn dính đầy máu, nhưng nó vẫn cười vui:
- Con hạ được nó rồi!
Lúc họ nhìn lại thì cả bốn tên kia cũng biến đâu mất. Nhìn kỹ xuống sàn nhà thì chỉ còn thấy bốn bộ da hổ sần sùi. Hồng Nương thật sự mừng:
- Mình thoát rồi! Nhờ Tiểu Minh dám liều mạng cắn vào tay mụ hổ bạch đó, rồi máu từ thân thể mụ chảy ra rơi trên đầu em, nhờ máu hổ tinh đó mà em đã thật sự hoàn toàn trở lại kiếp người!
Sơn vẫn chưa hết bàng hoàng:
- Em nói gì anh chưa hiểu? Tại sao chỉ bấy nhiêu máu đó mà cả năm người họ đều tan biến hết?
Giọng Hồng Nương phấn chấn hẳn lên:
- Bây giờ em mới nói thật, khi tới đây em đã là hồn ma! Là sứ giả của lũ hổ tinh kia. Sau khi giết chết anh Phú và em xong, hồn em bị lũ hổ tinh đó khống chế, bắt em giả làm người để tiếp tục hại người hầu thoả mãn hận thù của lũ chúng nó. Việc em tới đây, đem hàng hoá tới giúp anh cũng là do bọn chúng dàn cảnh. Bọn nó biết anh là bạn thân của Phú, thế nào anh cũng trả thù, nên chúng tìm cách ra tay trước, để tận diệt mầm mống nguy hiểm. Tuy nhiên, khi tới đây sống với anh rồi, bắt đầu nảy sinh tình cảm nên em giấu thân phận, định kéo dài cuộc tình này. Bởi vậy nhiều lúc em nhìn Tiểu Minh cứ sa nước mắt là vì thế! Em chỉ sợ mất con và anh. Nhưng giờ thì hết rồi, thoát rồi!
Biết cha con họ không hiểu, Hồng Nương nói thêm:
- Không ai làm ma hổ chảy máu được. Nhưng may mắn sao, Tiểu Minh làm liều mà mụ hổ già độc ác kia đã bị chảy máu, và chảy cho đến cạn kiệt. Máu đó mà rơi xuống một oan hồn khác thì oan hồn ấy lập tức được trở lại kiếp người! Quả là trời còn thương em!
Đúng như lời của Hồng Nương, kể từ phút ấy nàng hầu như không còn sợ sệt, lén lút nữa. Mà hằng ngày đã công khai xuất hiện cùng chồng ở cửa hàng. Sơn hãnh diện giới thiệu vợ mình với mọi người. Ai cũng khen Hồng Nương đẹp và phúc hậu.
Thằng bé Tiểu Minh thì lúc nào cũng quấn quít bên cha mẹ. Nó ngầm hãnh diện vì đã cứu được mạng mẹ nó...
Cửa hiệu của Tiêu Sơn càng lúc càng phát đạt. Chẳng mấy chốc, anh trở thành người giàu nhất vùng!


HỒN NGƯỜI XÁC AI?


Nghe bà mối Chín Lệ nói huyên thuyên về gia đình nhà gái, chính bà Dương cũng chịu không nổi, nói gì ông giáo già Dương Phu. Do đó, vừa thấy bà Chín sắp nói sang đề tài mới thì ông đã đứng dậy, bỏ vào trong. Vẫn không nản, bà mối hạ thấp giọng ra điều quan trọng lắm:
- Tôi không nói ngoa, nhà này tuy là giàu nứt đố vách, nhưng lại dễ chịu, chớ không như nhiều phú gia khác. Chính họ đã gợi ý cho tôi đi tìm con trai con nhà bình dân lao động để làm mai cho con gái họ. Tôi nói thật đó.
Bà Dương vẫn không hào hứng lắm:
- Thì nghe bà nói vậy, chớ vợ chồng tôi vẫn muốn tìm mối nào nghèo cũng được, miễn là hợp với hoàn cảnh nhà này.
Bỗng nghe giọng nói của cậu con trai Dương Thanh:
- Còn phải hợp với con nữa chớ!
Bà Chín Lệ chụp ngay lấy đối tượng chính mà bà cần phải thuyết phục:
- Ờ, cậu Thanh đây rồi. Tôi nói cho cậu nghe, mối này gặp là cậu chịu liền. Con gái họ vừa đẹp vừa hiền, lại là người gia giáo, biết phép tắc...
Bà còn muốn khoe nữa, nhưng Thanh đã chặn lời bà:
- Ngon lành vậy sao lại ế, phải nhờ người mai mối?
Mụ Chín hơi bị quê:
- Chẳng qua... họ tự trọng... họ không thích gả con cho những đám giàu có hợm hĩnh khác...
Thanh cười to:
- Hóa ra nhà nghèo như mình bây giờ cũng có giá. Mà đã có giá thì ta làm cao, làm chảnh chơi. Không chịu!
Bà Dương phải dịu giọng:
- Nói năng cho đàng hoàng con. Dẫu sao mình cũng cám ơn bà Chín. Thôi, đã vậy thì để tôi tính lại, rồi nội ngày mai sẽ báo cho bà biết.
Tiễn bà mối về rồi, bà quay sang nói với con trai:
- Theo má thì con cũng nên chọn mối này cho rồi. Ba con nay đau mai yếu, còn má thì căn bệnh cũ cứ tái phát hoài, khó mà ở đời với chị em con. Mà ước nguyện lớn nhất của ba má là nhìn thấy được đứa cháu nội trước khi nhắm mắt.
Bà nói xong, thở dài buồn bã. Dương Thanh tuy ngang bướng, không ưa chuyện vợ con, nhưng lại là người rất hiếu thảo. Anh luôn sợ cha mẹ buồn:
- Con đâu phải không muốn... Nhưng má nghĩ coi, cưới vợ chớ đâu phải đi chợ lựa con cá, mớ rau mà phải cần người rao hàng, bày hàng...
Bà Dương hiểu con đã có chiều dao động, nên tiếp tục bộ mặt buồn. Quả nhiên, Thanh đột ngột nói:
- Thôi được, má nói bà Chín dẫn mình sang nhà họ đi!
- Má không ép...
Dương Thanh dứt khoát:
- Con thật sự muốn như vậy, má đừng lo. Thôi, con đi có việc, chừng nào đi má nhắn con về.
Tính tình con là như vậy, bà Dương hiểu, nên bà trầm ngâm một lúc rồi vào nhà trong nói với ông:
- Sáng mai mình sang bên nhà gái. Tôi đi nhắn bà Chín.
Ông có vẻ lo:
- Liệu thằng Thanh...
- Thì ông vừa nghe nó mới nói đó thôi.
***
Bước đi một cách uể oải, Thanh theo sau cha mẹ và bà mối Chín Lệ, khiến người ngoài nhìn vào ắt nghĩ rằng anh chàng đi thú phạt nhà vợ chớ không phải đi coi mắt vợ! Thanh miễn cưỡng đến nỗi bà mẹ cũng coi không được:
- Con làm bộ mặt đó thì mù họ cũng nhìn thấy!
Dương Thanh vẫn cái kiểu nói tưng tửng:
- Nhiều khi con gái họ lại chịu mới lạ!
Bà Dương trề môi:
- Có quỷ ma mới chịu nổi mày!
Dương Thanh chỉ cười chớ không nói gì thêm. Cũng may, vừa lúc ấy thì đã tới Đoàn gia trang. Gọi là Đoàn gia trang cũng đúng, bởi ngôi nhà của họ Đoàn này thuộc loại lớn nhất ở huyện Long Mỹ này. Chủ nhân là Đoàn Minh Thiện, ngày trước vốn làm chức quan lớn trong triều đình, trước khi triều đình phong kiến suy vong thì ông ta đã kịp tậu cơ ngơi đồ sộ này.
- Dạ, ông bà chủ nhà con kính mời quý khách vào nhà ạ!
Một người ra dáng là quản gia đã đợi sẵn nơi cổng, vừa thấy khách tới đã cúi chào lịch sự. Ông Dương vốn khó tính mà nhìn kiểu cách họ đón khách cũng hài lòng, ông lên tiếng liền:
- Anh vào bẩm với Đoàn gia là có chúng tôi, thôn dân ở làng Hòa Lạc tới yết kiến.
Người quản gia vẫn một mực lễ phép:
- Dạ, Đoàn chủ nhân của tôi đã biết ạ, vậy kính mời ngài, phu nhân và công tử đáo gia!
Theo kiểu cách nói của quản gia thì còn ảnh hưởng nặng nề phong kiến, chứng tỏ đã phục vụ nhà này từ khá lâu. Dương Thanh quay mặt đi chỗ khác cười, khiến bà Dương nhìn thấy phải nhắc khẽ:
- Không được cười nhạo người ta!
Vừa bước vào tới đại sảnh thì đã thấy một vị râu tóc bạc phơ, tướng mạo phi phàm, bước ra nghênh tiếp:
- Chân tôi hơi yếu, đi đứng khó khăn nên không ra ngoài nghênh tiếp, xin ông bà thứ lỗi!
Dương Phu phấn khởi:
- Được ngài cho phép tới như thế này đã là vinh dự cho gia đình chúng tôi lắm rồi...
Dương Thanh không nhịn được, đã lên tiếng:
- Bên nào cũng vinh hạnh hết thì thành đại vinh hạnh mất!
Không tỏ ra bực mình, Đoàn chủ gia lại quay sang Thanh, giọng vui vẻ:
- Có phải Dương công tử đây chăng? Ồ, quả là tuấn tú, khôi ngô và có cá tính!
Buộc lòng Thanh phải cúi chào, nhưng vừa nhìn xuống thấy đôi ủng xưa của chủ gia, anh ta liền reo lên:
- Con ngưỡng mộ và ước ao bấy lâu có được một đôi như thế này, lạ và đẹp quá!
Lại một lần nữa tỏ ra không phiền, mà họ Đoàn còn cười ha hả:
- Công tử quả là ăn nói bộc trực, có duyên!
Bà Dương lên tiếng:
- Dạ, ngài bỏ qua cho, thằng con tôi tính tình...
Ông Đoàn chặn lời:
- Phu nhân đừng quá lo, cậu nhà có tính tình như vậy rất hợp ý tôi. Đàn ông phải nói năng có cá tính như vậy, chớ dạ dạ vâng vâng quá cũng không hay.
Rồi ông nói riêng với Thanh:
- Để tối bác tặng cho con một đôi. Đây là những gì còn lại của thời xưa. Ngày nay được lớp trẻ như con thích là điều mà người già hết thời như ta vui lắm!
Thấy lời lẽ chân thành của ông ta thì Dương Phu có cảm tình lắm, ông nghiêm giọng bảo Thanh:
- Con không được làm phiền Đoàn gia nữa.
Trong nhà, Dương Thanh chỉ ngán có mỗi mình cha, nên sau câu nhắc nhở đó, anh chàng nín thinh không tưng tửng nữa.
Khi đã an vị rồi, không để bà mối lên tiếng, Đoàn chủ gia đã chủ động nói:
- Ý của tôi thì chắc hai vị đã được nghe rồi. Tôi chẳng may phu nhân vắnsố, để lại ba đứa con gái phải nuôi. Cũng may là ngày nay chúng đã khôn lớn. Nhưng con gái khôn lớn, đến tuổi cập kê thì làm cha mẹ ai cũng phải lo. Nỗi lo thứ nhất là bề gia thất của chúng, nỗi lo thứ hai là chọn ai để cho con cái mình nương tựa về sau. Tôi thú thật, tuy là quen biết nhiều, mối mai cũng lắm, nhưng vì qua kinh nghiệm tình đời, quá chán ngán nhân tình thế thái, nên tôi cứ ngay ngáy lo ngày đêm...
Bà mai Chín Lệ ngứa miệng nghề nghiệp chen vào:
- Đoàn lão gia đây thương con, không muốn cho con lấy phải người không xứng về nhân cách, bọn hám của, ngu dốt...
Biết bà ta nói thêm sẽ nói lung tung, nên họ Đoàn phải chặn ngang:
- Cô Chín đây là người quen, có giới thiệu ông bà và cậu đây. Nói thật, nếu là người khác thì họ sẽ vì sĩ diện, không hạ mình. Nhưng tôi thì khác, tôi đi tìm người tốt, cũng giống như tuyển nhân tài, nghe nhân tài ở đâu thì người tìm phải tìm tới, chớ không để họ tìm tới mình, như thế mới gọi là tầm nhân.
Ông Dương xúc động thật sự:
- Lâu lắm rồi tôi mới nghe được những lời chí tình của một người như Đoàn huynh. Tôi xin nghiêng đầu bái phục!
Ông vòng tay ra trước, biểu lộ sự tôn trọng. Ông Đoàn vội xua tay:
- Không có chi, không có chi! Được đón tiếp người đạo đức như nhị vị đây, lòng tôi mãn nguyện lắm. Đây phải nói là vinh hạnh cho tôi chớ không phải...
Ông ngừng câu nói, nhìn sang Thanh. Lúc này sau khi bị cha nhắc nhở nên Dương Thanh không bộp chộp chen lời nữa. Anh ta thấy chủ nhà nhìn mình thì cũng bắt chước cha vòng tay thi lễ. Đoàn gia có vẻ hài lòng lắm:
- Cháu đây giỏi lắm, còn trẻ tuổi mà biết phép tắc như thế này là hiếm trong thời buổi bây giờ.
Rồi ông quay vào trong gọi:
- Các con ra chào khách!
Cùng lúc, ba cô gái thật xinh đẹp bước ra. Người nào cũng xinh như hoa mới nở, mặt hoa da phấn tự nhiên, không tô vẽ, nhưng trông họ lộng lẫy khác thường. Anh chàng ngang tàng như Dương Thanh mà cũng phải ngẩng lên nhìn và... thót tim!
- Dạ, kính chào hai bác. Chào... công tử ạ!
Họ đồng loạt lên tiếng giống nhau, cùng giọng điệu, chẳng khác một dàn đồng ca! Bà Dương thích thú nói liền không giữ ý:
- Ba cô nương nhà đại quan xuất sắc quá đi thôi!
Nghe khen, cả ba cô gái đồng loạt cúi đầu:
- Dạ, chúng con cám ơn Dương mẫu!
Họ gọi Dương mẫu một cách ngọt xớt, khiến bà Dương càng thêm phấn khích, bà líu lo:
- Cám ơn! Cám ơn các con!
Ông Dương phải ngầm đá chân vợ thì bà ta mới kịp dừng lại. Ông phải lên tiếng khỏa lấp:
- Dạ, có tận mắt thấy mới hiểu thế nào là nề nếp gia phong của nhà Đoàn huynh. Cả ba tiểu thư đây thật quả xứng đáng...
Nghe khen, ba cô con gái bỗng chạy nhanh vào trong, vừa chạy vừa thẹn đỏ mặt. Ông Đoàn phải nói chữa:
- Chúng nó còn con nít lắm, xin quý vị tha lỗi cho.
Rồi quay sang Dương Thanh, ông hỏi:
- Cậu thấy thế nào? Chúng nó...
Thanh phải lễ phép đáp:
- Dạ thưa bác, cháu ngưỡng mộ ạ…
- Một đứa là Thanh Thủy, một đứa là Kiều Nương, còn đứa út là Thúy Thúy. Chúng sinh cách nhau chỉ một năm, nên trông như sinh ba vậy. Ta hỏi thật, trong ba đứa, cháu thích đứa nào? Đừng ngại, lòng dạ nghĩ sao cứ nói thẳng.
Dương Thanh cũng không ngờ mình lại buột miệng nói ngay:
- Cháu ấn tượng với cái tên Thúy Thúy!
Ông Đoàn cười ha hả:
- Quả là có nhãn quan tinh đời! Tuy ba chị em đều xinh đẹp như nhau, nhưng con út đó dễ thương nhất. Tuy tính tình có hơi ngang bướng một chút...
Bà Dương một lần nữa không dằn lòng được:
- Thì thằng con nhà này cũng vậy. Nó cũng...
Ông Đoàn quay sang Thanh:
- Cho phép cháu được ra vườn sau chơi với tụi nó.
Thấy Thanh còn lưỡng lự, ông khuyến khích:
- Cần tiếp xúc để tìm hiểu thêm. Và cũng để cháu tự khám phá xem đứa nào là con út. Nhớ, phải là phát hiện đầu tiên nhé, chớ nếu dò hỏi mới lần ra thì ta sẽ không gả cho đâu nhé!
Dương Thanh thấy trò chơi lý thú, nên anh phấn khởi chạy ngay ra vườn sau. Nơi đó, anh đã thấy ba cô con gái đang chơi đùa. Một cô lên tiếng ngay:
- Đuổi tụi em đi nào! Đuổi theo người nào sau cùng thì chính người đó là...
Dương Thanh vui lây cái vui của họ nên lao ngay vào cuộc chơi. Thật tình anh cũng chưa biết ai là Thúy Thúy, tức cô gái út, nhưng trong tâm thức của Thanh nó khiến anh cứ nhắm theo cô gái mặc áo màu vàng anh mà đuổi. Mải miết chạy, đến khi nhìn lại Thanh ngạc nhiên thấy hai cô kia đã đi đâu mất! Lúc ấy, cô nàng áo vàng cười dòn tan:
- Đuổi nữa đi chớ, anh chàng ngang bướng!
Dương Thanh đâu phải trai khờ, anh hiểu ngay:
- Tôi đã bắt đúng người rồi phải không! Vậy thì liệu mà trốn đi, tôi mà tóm được thì... coi chừng!
Nhưng anh chàng lầm, càng đuổi nàng càng chạy nhanh hơn. Thanh đuổi hơn chục vòng thì gần muốn đứt hơi mà cô nàng phía trước vẫn cười nói như không! Cuối cùng, Thanh đành phải lên tiếng:
- Xin chịu thua!
Cô nàng quay lại, nói gọn hơ:
- Đã không bắt được vợ thì đừng hòng lấy vợ!
Dương Thanh vẫn có tài vặt, vờ như mệt đứng không vững, chờ cho cô nàng bước lại gần, bất thần anh đưa tay chụp lấy bàn tay xinh xắn và reo lên:
- Ai thua thì biết!
Bỗng nàng xịu mặt:
- Anh không được phép làm vậy! Ai cho anh cái quyền nắm tay người con gái khi người ta chưa thuộc về anh. Cũng may...
Nàng nói từ cũng may thì đỏ mặt, quay đi chỗ khác. Dương Thanh tỏ ra hối tiếc:
- Cho tôi xin lỗi, tôi không hề cố ý xúc phạm. Chẳng qua là...
Cô nàng dịu giọng:
- Thôi bỏ qua. Thế nào, đã thở được chưa?
Dương Thanh trở lại bản tính ngang bướng cũ:
- Thở thì còn yếu, nhưng ôm người đẹp thì thừa sức.
Không ngờ nàng đanh mặt lại:
- Nếu anh còn ăn nói kiểu đó thì em đi đây!
Nàng giận dỗi bỏ đi, Dương Thanh phải xuống giọng:
- Xin lỗi. Anh hứa là không nói bừa bãi nữa.
Lúc này nàng đổi thái độ:
- Cũng khá khen cho người biết thích nghi hoàn cảnh. Em xin ra mắt Dương huynh!
Thanh cười vui:
- Giọng điệu hơi giống truyện Tàu! Nhưng như thế lại hay. Dương huynh này xin chào... Thúy tiểu muội!
Nàng cười giòn:
- Sao biết em là Thúy Thúy mà đuổi theo? Lỡ hồi nãy đuổi nhầm hai chị thì sao?
Thanh nghiêm túc:
- Chắc là duyên số quá!
- Anh tin duyên số?
- Thế em không tin à?
Nàng hơi ngập ngừng:
- Tin... nhưng mà...
Cuộc gặp gỡ của họ không ngờ lại suôn sẻ, bởi vậy ở trong nhà hai bên nói chuyện mà thỉnh thoảng cứ ngóng ra ngoài sân sau. Nhất là Đoàn lão, hình như không thấy Dương Thanh quay vào khiến cho ông yên tâm. Ông bảo:
- Tụi nó tìm đúng nhau rồi!
Ông thú thật:
- Bảo thằng con anh chị ra đó chơi, chớ thật ra tôi thử xem nó có tìm đúng đứa mà nó thích hay không. Số là vậy, cách đây ít lâu, tôi mộng thấy Nguyệt Lão dạy rằng, hễ chàng trai nào tìm ra đúng người thì đó là nhân duyên. Nhất là con út. Tôi không giấu là trong ba đứa, Thúy Thúy là đứa tôi muốn nó lấy chồng trước.
Biết là họ sẽ hỏi nguyên do, ông Đoàn nói ngay:
- Theo số của tôi, hễ đứa con út mà lấy được chồng thì hai đứa kia dễ lấy chồng hơn. Cá tính con út ngang bướng, nên rất khó tìm được người... Cũng may cậu nhà cũng không khác...
Ông Dương phụ theo:
- Tôi không sợ con gái ngang tính, mà chỉ sợ đứa nào quá hiền sẽ không trị được thằng con ngang ngạnh của tôi. Hồi nãy tuy mới nhìn con nhỏ lần đầu, nhưng tôi tin là chúng nó hợp nhau.
Đoàn lão hài lòng:
- Nếu anh đã nói vậy thì tôi không còn lo nữa. Tôi nói luôn, nếu anh chị muốn thì tôi gả con Thúy cho cậu Thanh. Chẳng cần lễ vật gì cả. Đám cưới đơn sơ cũng được, không cần phải phô trương!
Bà Dương mừng trong lòng. Thú thật là bà cũng đã ưng, chưa nói ra mà thôi. Nay nghe nói vậy, bà lên tiếng liền:
- Được ngài cho phép thì vợ chồng tôi xin đội ơn và về lo liền lễ vật. Ngài nói thế, chớ về phía chúng tôi cũng phải lo cho ra lễ. Vậy ngài xem, hôn lễ bọn chúng có thể cho cử hành lúc nào?
Đoàn lão không cần suy nghĩ:
- Ngay trong tháng này cũng được. Miễn là hai đứa không có ý gì khác...
Vừa lúc ấy cả hai bước vào. Thúy Thúy đã bạo miệng lên tiếng:
- Con có ý kiến khác ạ!
Ông Đoàn trố mắt nhìn con:
- Lại gây chuyện gì nữa đây con ngựa chứng?
Nàng quay sang Dương Thanh nháy mắt:
- Anh nói đi chớ, xúi không dám làm phải không?
Dương Thanh hơi ngập ngừng:
- Con cũng... có ý... giống như Thúy Thúy vậy.
Ông Đoàn cười to:
- Chưa gì mà chúng nó đã đồng tâm hợp lực ép bọn già mình rồi đây!
Ông Dương nhìn con, hỏi:
- Con muốn nói gì?
Dương Thanh lại nhìn sang Thúy. Cô nàng không dừng được nữa:
- Tụi con muốn... đám cưới nhanh nhanh hơn nữa!
Nói xong, cô nàng quay bước bỏ chạy mất. Thanh ngơ ngác định chạy theo thì Đoàn lão đã ngăn lại:
- Con mà chạy theo nó thì có mà rụng giò. Trong nhà này mấy chị nó thường gọi nó là con ngựa.
Ông nói tới đó chợt khựng lại, mặt hơi tái đi. Bà Dương ngồi đối diện nhìn thấy liền kêu lên:
- Anh sao vậy anh... sui?
Ông Dương cũng lo lắng:
- Anh bị chứng gì hay sao? Để tôi gọi người nhà...
Đoàn lão xua tay:
- Không hề gì. Tôi chỉ bị xây xẩm một chút. Bệnh già ấy mà...
Ông dần dần lấy lại khí sắc. Rồi ra lệnh cho gia nhân:
- Lo bắt đầu tiệc đi!
Tiệc đã bày sẵn, chỉ mời nhau rồi bắt đầu nhập tiệc. Trong bữa tiệc, họ thỏa thuận với nhau rất nhanh. Đoàn lão nói:
- Mười sáu này là ngày tốt cho tuổi hai đứa nó. Chắc cũng tiện cho anh chị phải không?
Vợ chồng họ Dương nhanh chóng gật đầu:
- Dạ, ngày ấy thuận tiện lắm!
- Tôi tính như thế này, ngay ngày mốt ta tiến hành lễ hỏi, rồi ngày mười sáu thì cưới. Nhà tôi rộng nên nhân dịp này tôi sẽ mời tất cả bà con. Tôi có ý này, chẳng biết anh chị có phiền gì không... Tôi muốn đãi cả hai họ một lượt cho tiện, anh chị thấy sao?
Ông bà Dương lưỡng lự:
- E rằng...
Hiểu ý, Đoàn lão nói luôn:
- Sẵn tôi đặt tửu lầu nấu món ăn, nhân đó tôi đặt luôn cho bên anh chị. Ta đãi ở đây một ngày, bữa sau bên này cùng kéo qua bên kia dự tiệc lần nữa! Được không?
Thỏa thuận với nhau xong thì trời đổ mưa lớn. Cơn mưa kéo dài mãi cho tới chiều tối chưa ngớt. Đoàn lão ngỏ ý:
- Nhà đã chuẩn bị mọi thứ rồi, nhân trời mưa đây, tôi mời anh chị và cháu Thanh ở lại ngủ một đêm. Có thêm thì giờ chúng ta bàn kỹ hơn về ngày lễ của chúng nó!
Dù không muốn, nhưng cũng không còn cách nào hơn, ông bà Dương đành phải chấp nhận. Chừng như Dương Thanh có vẻ hài lòng…
***
Đã hai ba lần, hễ nhắm mắt lại ngủ thì y như Dương Thanh bị ai đó nhéo vào người đau điếng! Lần đầu thì anh chàng còn giật mình, ngơ ngác tìm xem ai phá mình. Nhưng đến mấy lần sau thì Thanh ráng nhịn đau, đang nhắm mắt bất chợt ngồi bật dậy định bắt quả tang. Nhưng không lần nào Thanh thấy ai.
Bực bội, Dương Thanh nhảy phóc xuống giường, bước ra cửa sổ nhìn về phía sau, nơi lúc chiều anh và Thúy Thúy đuổi bắt nhau. Nhưng lạ quá...
- Sao lại là cảnh này?
Trước mắt Dương Thanh lúc này là một dải đất rộng, chớ không phải là khu vườn rộng với đầy những cây cảnh nữa. Nghĩ mình mới thức dậy còn hoa mắt, nhưng sau hai lần dụi mắt, vẫn thấy đúng như thế. Thanh cứ trố mắt nhìn, quên cả trời lúc đó khá lạnh, khiến anh phải rùng mình mấy lượt.
- Lạ quá...
Vừa định leo cửa sổ nhảy ra ngoài, thì chợt Thanh khựng lại, bởi trước mặt anh lúc đó, cách chừng chục bước, có một cô gái trông quen quen, đang cưỡi một con ngựa bạch. Thanh nhìn kỹ và kêu lên:
- Thúy Thúy!
Tiếng kêu của Thanh suýt làm cho cô gái ngồi trên lưng ngựa nghe thấy, khiến Thanh phải đứng lùi vào một bước để tránh. Khi ấy nàng quay mặt lại hướng mình, nên Thanh không thể nhìn lầm, nàng ta chính là Thúy!
Quá đỗi ngạc nhiên, Dương Thanh rón rén lần theo cửa sổ ra ngoài. Để tránh bị phát hiện, Thanh đi rất nhẹ và vòng ra phía sau lưng cô gái. Lúc ấy không phải chỉ một mình Thúy Thúy mà phía sau lưng nàng còn có hai cô chị của mình!
Nếu lúc chiều họ mặc quần áo khác màu nhau, thì giờ đây họ cùng mặc một loại trang phục giống nhau, toàn một màu trắng như tuyết! Trong ba người, lúc này trông Thúy Thúy có vẻ như là một nữ tướng, hay một nữ chủ nhân, mà hai cô chị đi theo hầu. Cả ba lúc ấy đang hướng về nhau, dùng tay ra hiệu, như một cuộc tập trận! Tay của Thúy Thúy đưa lên cao, rồi hạ xuống, mỗi lần như vậy hai cô chị lại nhảy xuống ngựa, rồi leo lên... và sau cùng cùng hét lên một tiếng lớn, rồi cùng lao xuống một lúc.
Dương Thanh còn đang ngơ ngác chưa hiểu gì, thì chợt nghe có tiếng người kêu lên thất thanh:
- Có người rình, không xong rồi!
Cả ba đứng ngay dậy, hướng về phía Dương Thanh, sợ hãi như bị bắt quả tang đang làm chuyện gì đó không lương thiện. Thúy Thúy cất giọng run run:
- Em xin lỗi...
Dương Thanh còn chưa biết phải ứng xử ra sao thì chợt có vài tia sáng lóe lên, khiến anh phải lấy tay che mắt lại. Khi mở mắt ra thì... không còn khung cảnh cũ nữa!
- Thế này là sao?
Thúy bất thần đổ gục xuống, Dương Thanh hoảng hốt:
- Kìa, Thúy!
Anh lao tới, nhưng nàng đưa tay xua ra:
- Đừng! Đừng chạm vào người em...
Sắc diện nàng trở nên xanh tái rất đáng ngại, nhưng vẫn tỉnh táo nói năng:
- Em muốn anh nghe chuyện này...
Ra dấu cho Dương Thanh ngồi xuống, nàng nói khẽ:
- Em chưa định nói, nhưng anh đã lỡ nhìn thấy rồi thì em nói hết. Lúc nãy là em đang tập lại tư thế mà chúng em phải làm, nếu muốn còn sống sót...
Thanh ngơ ngác:
- Có chuyện gì sao?
- Anh nhìn kỹ em xem, thấy gì?
Dương Thanh chợt kêu lên:
- Sao... kỳ vậy?
Trên lưng nàng có một bờm lông màu trắng rất lạ! Thanh vừa mở miệng hỏi thì như hiểu ý, nàng lên tiếng trước:
- Em không giấu anh nữa, em không phải người dương thế mà!
Câu nói của nàng khiến cho Dương Thanh tưởng chừng như mình vừa từ trên trời rơi xuống, chàng há hốc mồm, hồi lâu mới lắp bắp:
- Em... em nói...
- Em là một oan hồn!
Nói vừa dứt thì cũng là lúc nàng bật ngửa ra sau. Tình hình có vẻ không ổn. Thanh định bế xốc nàng dậy thì Thúy lại xua tay:
- Lúc này anh chưa thể chạm vào người em được, phải để qua giờ tý, lúc ấy...
Dương Thanh đành ngồi đó nhìn, lòng dạ anh ngổn ngang trăm câu hỏi. Tại sao có hoàn cảnh này? Hay là mình đang mơ? Đêm đã khuya lắm, sương xuống lạnh làm Thanh rùng mình, nhưng lo nhất là Thúy Thúy nàng hình như đang phải chịu sự hành hạ của cái lạnh còn ghê gớm hơn một người thường nhiều. Người nàng vừa run lên lại vừa co rúm lại. Nhưng không nghe nàng phát ra tiếng rên la nào hết...
Trời bỗng tối sầm lại hơn, và bấy giờ mới nghe tiếng kêu khẽ của Thúy:
- Anh không sợ thì hãy ôm chặt em đi! Ôm thật chặt!
Thanh không một chút sợ hãi, ôm chầm lấy nàng và lúc ấy mới giật bắn người, bởi anh có cảm giác như mình đang ôm một tảng băng trong lòng! Nhưng đã lỡ rồi, có muốn buông ra thì cũng không buông được.
Một luồng gió mạnh thổi qua, trong hơi gió Dương Thanh ngửi được một mùi tanh tưởi gần ngạt thở, khiến anh vô cùng ngạc nhiên. Nhưng cũng không lâu, sau đó thì trời hình như sáng tỏ hơn, gió lặng và... mùi tanh cũng hết!
Lúc ấy, giọng của Thúy mạnh mẽ hơn:
- Cám ơn anh, vậy là em thoát rồi!
Nàng ngồi bật dậy, giọng nói lại liến thoắng thường lệ:
- Sao còn chưa chịu buông ra?
Dương Thanh chợt nhận ra là nàng đã đứng lên mà anh vẫn còn ôm chặt, chẳng khác đôi sam dưới biển!
- Anh... anh xin lỗi!
Giọng nàng nghiêm túc hẳn lại:
- Người xin lỗi phải là em. Suýt nữa em đã làm cho anh gặp nguy. Anh có biết vừa rồi chỉ trong nháy mắt, có thể là cả em và anh đều vong mạng rồi đó!
Nàng ôm vai Thanh, chẳng khác nào đôi tình nhân yêu nhau thắm thiết. Giọng nàng thì thầm:
- Có hối tiếc khi phải hy sinh vì em không?
Khác với một Dương Thanh ngổ ngáo thường ngày, anh chàng lại siết chặt tay nàng, giọng chắc nịch:
- Hy sinh cho tình yêu là điều có gì mà hối tiếc! Nhưng em chưa nói rõ...
- Ta ngồi xuống đây...
Nàng dìu Thanh tới ngồi xuống chiếc ghế đá. Chỉ lên nền trời vừa rạng sáng, nàng hỏi:
- Anh đoán bây giờ là giờ nào rồi?
- Chắc là hơn hai giờ sáng.
- Quả đúng như vậy. Vừa qua giờ tý được một chút. Phút giây định mệnh của em cũng vừa qua. Hồi nãy anh có nhớ em nói em là gì không?
Thanh ngập ngừng:
- Em nói mình là... là...
- Là một oan hồn! Em xin lặp lại, em không phải người dương thế. Em là...
Nàng chờ phản ứng của Thanh, và lúc ấy anh chàng càng siết chặt nàng hơn, chàng thì thầm:
- Anh không cần biết, miễn là...
- Em yêu anh là đương nhiên rồi. Và bởi vậy mà vừa rồi họ đến để bắt em đi. Họ không muốn em vướng chuyện trần gian...
- Em nói rõ hơn xem?
Thúy Thúy như đã chuẩn bị trước, nàng kể khúc chiết:
- Em và hai chị vốn là một cô chủ và hai nàng hầu. Em là chủ. Nhà em không phải nơi này, mà ở vùng biên giới xa xôi. Cha em là một lãnh binh, một hôm ông bị bọn thuộc hạ làm phản, giết chết và còn truy sát cả nhà em nữa. Mẹ em bị hại khi cùng bọn em chạy nạn. Thân con gái từ nào chưa từng nếm trải cực khổ, vậy mà em và hai con hầu cũng ráng chạy được một đoạn đường rất xa, tới nơi này. Chính là nơi này...
Nàng nghẹn ngào khi kể tới đây, có lẽ cơn xúc động dữ dội đang bùng phát. Phải khó khăn lắm nàng mới tiếp lời được:
- Trong lúc dừng chân lại bãi đất hoang thì ba con ngựa chở bọn em bỗng dưng nổi chứng, chúng lồng lên dữ dội như muốn giẫm đạp chết bọn em! Lúc ấy, chợt con hầu tên Thanh Thủy của em phát hiện ra, nó la lên: “Lũ ngựa bị lên cơn ghiền thuốc phiện!” Phát hiện này của Thanh Thủy làm em nhớ lại khi đóng doanh trại ở vùng biên giới, trong số ngựa chiến của cha, có một số con được cho uống nước có pha chất á phiện để chúng nghiện và dễ sai khiến chúng. Bởi mỗi khi cơn ghiền của chúng nổi lên, chúng có xu hướng tìm về nơi chúng xuất phát, nhằm tìm thuốc để thỏa cơn ghiền!
Nàng khóc ngất sau câu nói đó. Dương Thanh để cho nàng khóc, bởi anh nghĩ chỉ có khóc cho thỏa thì nỗi khổ đau trong lòng sẽ vơi đi. Mà quả vậy, sau một lúc nàng ngẩng lên, tiếp lời:
- Thanh Thủy và Kiều Nương đã chết không toàn thây dưới sự giẫm đạp của hai con ngựa do chính các chị ấy cưỡi. Còn em, tuy không chết như vậy, nhưng sau đó không lâu cũng hồn lìa khỏi xác. Anh có biết em chết thế nào không?
Nàng ngẩng cổ lên, đưa hai cái lỗ sâu đã thành thẹo cho Thanh xem:
- Con ngựa của em cưỡi đã... cắn cổ em, hút cho hết máu rồi cùng ngã lăn ra chết!
Dương Thanh chưa kịp hỏi thì nàng đã tiếp:
- Nguyên khi trước, ngày nào em cũng đích thân đốt ống tẩu thuốc phiện cho cha hút, nên mỗi ngày em hít phải khói thuốc đó vào phổi, lâu ngày thành nhiễm. Trong máu của em đầy độc chất của thuốc, nên khi con ngựa đói thuốc, nó lồng lên điên cuồng và trong một giây, nó chợt đánh hơi được mùi máu có hơi thuốc của em, nó cắn cổ em là vì thế! Nhưng sau khi hút hết máu em vào người nó, thì chính con ngựa cũng chết luôn vì ngộ độc!
Nàng ngừng nói đã lâu rồi mà Dương Thanh vẫn còn ngẩn ngơ. Anh không tin mình vừa nghe một câu chuyện thật. Cho đến khi nàng lại tiếp:
- Khi hồn đã lìa khỏi xác rồi thì em chợt nhận ra con ngựa đang phủ phục trước mặt. Nó khóc vì hối hận! Đó là con ngựa trung thành mà cha em đã nuôi từ bé, nó là một con chiến mã, vừa khỏe, lanh lẹ lại vừa trung nghĩa giống như người. Nó đã từng cứu cha em nhiều lần, khi mang cha em bị thương nằm rạp trên lưng nó về tận doanh trại. Có lẽ sau phút điên cuồng vì thuốc, nó đã bừng tỉnh, nhưng lúc ấy thì đã muộn, cả em và nó đã ở âm cảnh nên nó phủ phục mãi, như chờ em tỏ thái độ... Nhưng em còn lòng dạ đâu để trách móc nó. Vong hồn em vất vưởng đi tìm cha mẹ, nhưng một khi đã chết rồi thì mỗi người một số phận, đâu làm sao ai tìm được ai. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn, bỗng em gặp hai người hầu. Thanh Thủy và Kiều Nương được chở trên lưng một con ngựa bạch, mà chỉ thoạt nhìn em đã nhận ra ngay, đó chính là con ngựa em cưỡi, con ngựa đã hút máu mình! Trong khi em còn đang lo sợ thì con bạch mã đã lên tiếng giải thích rằng, do lỡ làm em thác oan, nó đã chuộc lỗi bằng cách giấu hồn phách tụi em vào thế giới vong hồn của loài vật, không chung đụng với hồn phách loài người. Mục đích của việc ấy là để tìm cơ hội hồi sinh cho em.
Dương Thanh reo lên:
- Em có thể hồi sinh?
Nàng đưa tay chặn lại:
- Anh không được nói to. Nửa đêm vừa rồi, bọn phán quan đã phát hiện chuyện dối trá của em và con bạch mã, nên họ truy đuổi, em và hai con hầu đang tập cưỡi lại ngựa, định tẩu thoát thì anh xuất hiện, và suýt nữa thì phán quan bắt được cả bọn em và cả anh cũng bị vạ lây!
Thanh không chờ đợi lâu. Nàng đã kết luận:
- Một lần nữa con bạch mã đã cứu em! Chính nó lúc đó đã đột ngột xuất hiện, đánh lạc hướng phán quan bằng cách xuất hiện và chạy về hướng khác, các phán quan đuổi theo và bắt được nó, nhưng bạch mã thà chết lần nữa chớ không dẫn phán quan đi tìm bọn em. Do vậy, hiện nay phán quan tưởng bọn em thoát được về trần gian nên đã gạt tên tụi em ra khỏi danh sách chết. Có nghĩa là...
Thanh mừng khôn xiết:
- Em đã hồi sinh?
Nàng gật đầu:
- Đúng. Nhưng có điều...
Nàng ngừng nói, đưa mắt chỉ tay về phía cuối vườn, nơi có một con ngựa bạch nằm chết. Họ cùng tiến về phía đó, Thanh nhìn kỹ hơn và kêu to:
- Đoàn lão gia!
Thúy Thúy gật đầu:
- Đúng. Đây chính là Đoàn lão, người mà em gọi là cha. Nhưng thật ra...
Dương Thanh cũng ngạc nhiên:
- Thật ra thế nào?
- Như anh thấy đó, lão vốn là ngựa bạch, tức là tác nhân gây ra cái chết của em, cũng là con tuấn mã trung thành từng phục vụ nhà em suốt mấy chục năm! Sau khi gây họa và cứu em khỏi về âm phủ đã đưa em và hai cô hầu về vùng đất này, lập ra cơ ngơi riêng, biến dạng thành người và đóng vai cha của ba đứa con gái. Sở dĩ ông bày ra cuộc kén rể là bởi muốn cho bọn em vĩnh viễn trở lại kiếp người, do ông biết trong quy định của cõi âm có một khoản hở, hễ người nào hồn chưa bị đày mà tìm được người đàn ông tương hợp, người có số cao... như anh chẳng hạn, thì sẽ được hồi sinh! Chính vì vậy mà Đoàn lão đã cất công đi tìm và cuối cùng gặp được anh. Nhưng cũng chính vì việc coi mặt của anh và gia đình đã gây kinh động, khiến phán quan biết chuyện. Rồi như anh chứng kiến đó...
Đến lúc này thì niềm vui trong lòng Dương Thanh đã gần như trọn vẹn, anh hỏi khẽ:
- Em có thể hoàn toàn thuộc về anh chưa?
Nàng gật đầu:
- Em giao cuộc đời em cho anh!
- Còn... Thanh Thủy và Kiều Nương?
Nhéo Thanh một cái đau điếng:
- Hỏi với ý gì vậy?
Thanh phải đính chính ngay:
- Đâu có! Anh chỉ tội nghiệp cho hai cô ấy. Và để... nếu có ai đó thích hợp, sẽ giới thiệu cho họ.
- Ừ. Tưởng có ý lộn xộn thì coi chừng đó! Bây giờ em đã là một người trần rồi, mọi tính cách của một người vợ dương gian em đều có.
Họ ngả đầu vào nhau trong niềm vui vô tận...
Tuy nhiên, ngay lúc ấy có tiếng la thất thanh của hai cô gái kia:
- Không xong rồi! Không xong rồi!
Thanh Thủy và Kiều Nương người nhễ nhại mồ hôi, hơi thở gấp gáp, vừa chạy tới đã gục ngã ngay trước mặt, Thúy Thúy hốt hoảng:
- Chuyện gì vậy?
- Phán... phán quan!
Họ chỉ tay về phía sau, chỉ có một cụm mây đen, nhưng cũng làm cho Thúy hãi hùng, lùi lại mấy bước:
- Anh... anh chạy đi! Chạy nhanh đi! Họ chỉ tìm em thôi, hãy đi đi kẻo muộn!
Dương Thanh bất thần lao tới, ôm chặt lấy Thúy trong động thái sợ mất nàng:
- Không! Anh sẽ cùng với em!
Chợt một tràng cười to vang lên. Trong thanh âm của giọng cười không có gì là hung ác cả. Rồi một giọng nói vang lên:
- Ta tới không phải để bắt các ngươi đi, mà để chính thức báo tin, các ngươi được sống ở dương trần!
Cả ba cô gái đều tưởng mình nghe lầm:
- Đúng vậy không?
Họ định hỏi lại lần nữa, thì chợt cụm mây xa dần, kèm theo lời dặn:
- Với điều kiện là tất cả phải có chồng, và năm sau nếu ta trở lại mà chưa thấy có... con, thì lúc đó mọi lời hứa đều bị hủy bỏ!
Đám mây đen tan hết rồi mà cả bốn người vẫn còn tần ngần đứng đó... Phải một lúc lâu sau, Thúy Thúy mới reo lên:
- Sống rồi!
Bỗng hai cô kia quỳ xuống, giọng buồn thiu:
- Tụi này biết làm sao đây, cô chủ!
Dương Thanh nói thay cho vợ:
- Chuyện đó để tôi lo!
Thúy Thúy trừng mắt:
- Lại tính giở trò phải không?
Thanh phải nói rõ:
- Anh sẽ làm mai! Anh có hai thằng bạn tốt, còn độc thân!
Nàng cười hiền hậu:
- Thế thì được...
Kiều Nương mừng rỡ:
- Cám ơn anh rể! Cám ơn ân nhân!
Dương Thanh định nói chuyện thêm với họ, nhưng liếc thấy Thúy đang nhìn nên tìm cách lảng ra, lẩm bẩm đủ mình nghe:
- Lấy vợ là... như thế này sao?
Nhưng liền lúc đó, khi quay sang Thúy thì hồn vía Dương Thanh hầu như biến mất. Anh chàng nhũn đến ngạc nhiên:
- Anh... anh chỉ biết có em thôi!
Hai cô gái kia che miệng cười vừa quay đi chỗ khác...
***
Hơn một năm sau thì ở nhà Đoàn lão đã có thêm ba sinh linh. Ba đứa bé trai đã ra đời trước sau chỉ trong mấy ngày. Ba bà mẹ đã toại nguyện ước vọng. Nhưng họ chờ mãi mà vẫn chưa thấy phán quan trở lại.
Thật ra phán quan đâu có trở lại nữa. Bởi nơi này là những con người, không cần họ dẫn đi nữa...


XUẤT HỒN NHẬP XÁC


Một nhóm gần mười chiếc xe lớn nhỏ lần lượt dừng lại trước cái quán lá ven lộ. Cánh tài xế đều xuống xe và người nào cũng ngao ngán khi nhìn lên con đường đèo cao ngất ngưởng. Một anh than thở:
- Cố chạy dữ lắm mà cũng không kịp. Giờ này làm sao leo đèo được. Mà ngủ lại đây đêm nay thì muỗi cắn có mà chết!
Một tài xế khác phụ họa:
- Bữa kia tôi ngủ lại rồi, chẳng những muỗi mà còn có vắt nữa! Nửa đêm đang ngủ, sờ lên mặt đụng phải gần chục con vắt sắp sửa bò vào lỗ mũi lỗ tai mình!
Người thứ ba thêm vào câu chuyện cho tính ly kỳ lên tới tột đỉnh:
- Đó mà ăn thua gì, chính tôi đây đã bị nguyên một con rắn chui tọt vào trong quần đùi, vừa thức dậy phát hiện ra tức thì tôi ngất xỉu luôn!
Nghe những người đó kể chuyện, Hoa Lý ngồi cạnh chồng trong ca-bin xe tải phát rùng mình, liền hỏi:
- Họ ngủ ở đâu mà bị vậy anh?
Sự chỉ ngay trong xe:
- Thì phải ngủ ngồi hay lăn ra sàn nếu là xe tải để ngủ, chớ kẹt ở đây thì lấy chỗ đâu mà thuê mướn phòng trọ?
Lý có vẻ lo, nhưng thấy chồng chưa có ý kiến gì thì cũng chỉ biết ngồi trên xe mà chờ. Cánh tài xế chung quanh người thì ăn cơm, kẻ uống rượu để giết thì giờ. Đến hơn mười giờ khuya, thì có một phụ nữ ra dáng người địa phương, tới bên xe của Lý gợi ý:
- Họ là đàn ông thì ngủ đâu cũng được, chớ đàn bà con gái như cô thì ở đây sao tiện. Sao không chạy vào trong kia một chút, có ngôi nhà rộng, họ vẫn thường cho những xe lỡ đường ngủ nhờ.
Lý mừng rỡ:
- Hay quá! Chị dẫn đường tôi vào đó được không?
Chị kia mau mắn:
- Được chớ!
Lý quay sang giục chồng:
- Mình vào đó đi anh!
Đây là lần đầu tiên lái xe qua đèo ban đêm, lại có chở theo cô vợ trẻ, nên Sự cũng không muốn vợ mình chung đụng với cánh tài xế ăn nói bạt mạng, nhậu nhẹt bí tỉ đó, nên anh hưởng ứng ngay:
- Vậy mời chị lên xe, tôi đưa tới chỗ đó luôn!
Người phụ nữ nhanh nhảu leo lên ngồi cạnh Hoa Lý, chị ta buột miệng khen:
- Cô đẹp đến tôi nhìn mà cũng ngất ngây, đừng nói là...
Thấy mình lỡ lời, chị ta ngừng ngang, dẫu vậy Sự cũng quay sang nhìn, vẻ không hài lòng kiểu người khác khen vợ mình như thế. Chị kia chừng như hiểu nên nói lảng sang chuyện khác:
- Cô chú có đói thì lát nữa tôi nấu cơm đem qua cho ăn. Tính rẻ hơn cả quán xá nữa!
Lý nhỏ nhẹ:
- Dạ, chắc là sẽ nhờ chị. Bộ nhà chị ở gần nơi cho trọ?
- Cách mấy căn thôi. Kìa, tới rồi đó, chỗ căn nhà có đèn sáng đó.
Sự lái chiếc xe tải nhẹ của mình tới đậu ngay sân ngôi nhà sàn khá rộng. Một người phụ nữ từ trong nhà nghe tiếng xe đã chạy ra. Gặp người quen, hai người họ nói riêng gì đó mấy câu, sau đó người phụ nữ dẫn đường quay lại bảo:
- Chị chủ nhà đồng ý để cô chú ngủ nhờ. Mà chỉ hai người thôi, chớ nhà chị ấy đơn chiếc, không tiện cho nhiều người.
Lý phấn khởi ra mặt, lấy tờ giấy bạc đền ơn người giúp mình:
- Chị cầm lấy uống nước.
Nhưng chị ta xua tay:
- Không đâu! Chỗ chị em mà, giúp nhau thôi chớ tiền bạc gì!
Khi bước vào nhà rồi, chính Sự cũng phải công nhận là vợ chồng anh gặp may. Nhà cửa khang trang, sạch sẽ và ấm cúng, khác hẳn khung cảnh lạnh lẽo, hoang vắng của bên ngoài. Anh cũng ngạc nhiên tại sao gần như vậy mà lâu nay cánh tài xế không phát hiện ra, để chen chúc chi chỗ cái quán lá chật chội ngoài kia?
Lý cũng bảo chồng:
- Chắc họ sợ vào đây tốn kém nên mới nhường may mắn cho mình?
Nhờ được có chỗ trọ, nên tối đó Hoa Lý không phải lo ngay ngáy chuyện muỗi, vắt tấn công, mà lại có được một bữa ăn no, ngon miệng nữa. Chị chủ nhà chỉ có một đứa con nhỏ ở cùng, nhà còn một phòng nhỏ đủ một người ngủ và cả một gian phòng khách rộng mênh mông. Chị ta nói:
- Tiếc là cả hai vợ chồng không ngủ trong phòng có chiếc giường nhỏ kia được, vậy phiền chú ngủ ngoài phòng lớn, tôi đã giăng mùng sẵn.
Sự nói ngay:
- Không sao đâu, một mình vợ tôi được ngon giấc là đủ rồi!
Đêm dần trôi qua...
Gà gáy một hiệp, cũng là lúc Sự tỉnh giấc. Anh quay về phía phòng ngủ của vợ mình, sốt ruột muốn mò vào thăm chừng, bởi lúc chiều cô ấy có vẻ sốt và khó chịu trong người... Tuy nhiên, Sự không dám. Bởi lỡ đang mò vào phòng vợ mà gặp chị chủ nhà thì chị ta sẽ nghĩ gì về mình? Chắc chắn là không hay rồi...
Cố gạt qua một bên sự lo lắng, nhưng sao trong lòng Sự tự dưng nóng lên, bồn chồn như đang có chuyện gì đó? Cuối cùng anh chợt nảy ra một ý, liền ngồi dậy chui ra khỏi mùng và đi thẳng ra cửa, nhưng cố tình đi sát vào phòng ngủ của vợ. Chuyện này nếu có bị phát hiện thì Sự cũng có cớ để nói rằng anh đang tìm lối ra ngoài đi vệ sinh!
Nhưng cũng may, hình như chị chủ nhà đang ngủ say... Sự mạnh dạn bước hẳn vào phòng vợ. Tuy trong bóng tối, nhưng anh vẫn có thể nhìn rõ chiếc giường ngủ...
- Hoa Lý!
Trước mắt Sự rõ ràng là chiếc giường trống không!
- Hoa Lý!
Quên cả giữ ý, Sự gọi lớn đến hai lần. Nhưng chẳng hề có tiếng đáp. Có thể nàng đi ra ngoài. Điều này hơi lạ, bởi xưa nay Hoa Lý rất nhát gan, chưa bao giờ dám ra ngoài ban đêm, nhất là ở một nơi lạ như thế này.
Bước trở ra ngoài, Sự hướng về phía phòng chủ nhà, hỏi to:
- Chị chủ nhà còn thức không?
Không có tiếng ai đáp, Sự bước gần hơn phía bếp và lại gọi lần nữa:
- Chị chủ nhà ơi!
Sự đã bước tới ngang phòng của chủ nhà, liếc vào thấy cửa phòng mở toang, bên trong có đèn sáng và... không có ai trong đó cả!
Sự nghe tim mình đập nhanh, anh lại gọi lớn:
- Lý ơi!
Hoàn toàn im lặng. Lúc này không còn giữ ý nữa, Sự tung cửa bước hẳn ra ngoài. Và anh hoa cả mắt, khi nhìn chung quanh lúc đó là khung cảnh hoang tàn, chớ không như lúc anh mới đến.
- Kỳ vậy?
Sự không suy nghĩ thêm, anh lo lắng cực độ khi nghĩ tới một điều gì đó thật xấu...
***
Điều lo lắng của Sự không hề sai. Bởi lúc đó, cách ngôi nhà vợ chồng anh ngủ tạm khoảng trên một cây số, Hoa Lý đang gặp nạn! Cô đã bị bắt đi, đem ra khỏi phòng trong lúc đang ngủ. Người ta đã trùm cô trong một bao tải lớn với rất nhiều vôi bột rắc bên trong, bởi vậy Lý đã không thể mở miệng kêu la được, vì mỗi khi há miệng ra thì cô sặc vôi đến muốn ngất đi!
Có ba người đứng vây quanh Hoa Lý, một trong ba người đó chính là người phụ nữ dẫn đường cho vợ chồng cô vào chỗ trọ. Lúc này chị ta mới lộ mặt là người cò mồi, gài bẫy để vợ chồng Lý sập bẫy. Chính chị ta đã nói với tên đàn ông trong bọn:
- Giao nó cho anh, đây là món hàng tuyệt vời nhất mà tôi gặp được từ nào đến giờ. Vậy thưởng lớn chớ?
Tên đàn ông lấy ra một xấp tiền đưa cho chị ta:
- Đây là thưởng ban đầu. Còn phần thưởng lớn hơn tức là quyền khai thác thân xác cô ta sau một tháng ta sử dụng!
Họ cùng cười hô hố trước cơn phẫn nộ của Lý. Lúc này cô đã hoàn toàn tỉnh táo, nhưng do hai tay bị trói và miệng bị nhét khăn, nên chẳng làm sao la hét được.
Sau đó hai người biến đi, chỉ còn lại duy nhất tên nọ với Lý. Hắn ta không vội vã để thực hiện ý đồ. Đầu tiên hắn dùng chiếc khăn ướt khá sạch lau nhẹ nhàng quanh mặt mày, cổ rồi lần xuống ngực của Lý. Lau đến đâu hắn xuýt xoa đến đó:
- Đẹp ơi là đẹp! Nhan sắc này, tấm thân này sao lại là gái đã có chồng được! Phải là nụ hồng vừa nở mới đúng!
Lúc đi ngủ, Hoa Lý đã thay bộ đồ hơi mỏng để cho mát và không mặc nội y, cho nên khi tên kia lau tới vùng ngực, Hoa Lý điếng hồn vía, người cô run lên, tưởng chừng như sắp ngất vì khiếp sợ! Mà tên nọ cũng đang bắt đầu run, bởi những gì hắn nhìn thấy chẳng khác miếng mồi ngon phô bày trước miệng con hổ đói!
- Em cưng ơi...
Hắn mất bình tĩnh thấy rõ, và tay hắn vừa run vừa chụp đúng vào nơi mà hắn cho là ngon nhất!
Bằng tất cả sức bình sinh, Lý vùng lên lần cuối của cuộc đời! Cú bung chân, nẩy người thật mạnh khiến cho cả thân thể đang bị trói của cô lăn khỏi giường!
Ngôi nhà xây trên mỏm đá sát bên một vực sâu, cho nên khi Lý lăn ra, người cô tung vách ván văng ra bên ngoài. Tên nọ hốt hoảng lao theo, khi nhìn thấy Lý đang nằm sát bờ vực, hắn đã kêu lên:
- Nằm yên đó, đừng nhúc nhích!
Hắn từ từ bước tới, đôi mắt long lên đỏ ngầu. Hoa Lý đã liếc nhìn thấy cái vực bên dưới, và... không một chút đắn đo, cô tung người một lần nữa!
- Đừng!
Đó là tiếng thét của hắn. Nhưng đã muộn. Bóng dáng thân thể nhỏ bé của Hoa Lý đã rơi vùn vụt xuống vực sâu. Rồi mọi thứ trở về im lặng...
Vừa lúc ấy, một bóng người lao vút tới, cùng với một tiếng thét lớn:
- Lý ơi!
Người vừa tới đó là Sự. Anh chậm mất vài giây thôi nhưng đã hết rồi!
Hai người đàn ông ghìm nhau. Nếu so về sức và thủ đoạn thì Sự thua sút. Nhưng về uất hận thì anh chàng đang có ưu thế! Anh gào to một tiếng:
- Chết!
Anh lao thẳng người vào tên nọ bằng tất cả sức mạnh của một người chết ngất nỗi hận. Tên côn đồ kia phải tránh sang bên. Tuy nhiên do né hơi chậm, nên hắn bị Sự xô ngã lăn trên đá. Bằng một động tác rất có nghề, hắn lăn ngược trở lại và bám được vào một gốc cây. Còn Sự thì sau khi lao quá mạnh, đã ngã chúi đầu xuống đất, đau điếng. Nhưng lúc đó, miệng anh vẫn còn gào lên:
- Lý ơi!
Tên côn đồ không bỏ lỡ dịp may, hắn bật ngay dậy và dùng chân đá mạnh vào mạng sườn của kẻ đứng trước mặt mình! Sự chỉ kêu lên được một tiếng, rồi thì toàn thân bắn tung lên, rơi nhanh xuống vực, theo hướng của vợ vừa rơi!
Tên côn đồ xoa tay vào nhau, nở nụ cười hiểm ác:
- Tao hụt ăn thôi, chớ làm sao bị hại bởi tụi bay được!
Tuy bị một phen hú vía, nhưng hắn vẫn còn thèm tấm thân nõn nà mà hắn vừa vuột mất trong tầm tay. Hắn nói:
- Cả năm trời nay mới có được con mồi ngon như vậy, thế mà vuột mất, điên thật!
Hắn chạy như bay về hướng ngôi nhà trọ, la hét hai mụ đàn bà tay sai:
- Mau đẩy chiếc xe tang vật xuống khe núi đi, bọn chúng đi đời hết rồi! Rồi ra ngoài kia đón coi, có đứa nào tới nạp mạng nữa không? Vuột mất lần này nữa thì chính tụi bay phải thế mạng!
Hai mụ đàn bà tiếp tay làm việc ác riu ríu nghe lời...
Ở chân đèo ngoài kia lại có thêm vài chiếc xe dừng lại chờ sáng để qua đèo. Chẳng biết rồi sẽ còn nạn nhân nào kế tiếp nữa hay không?
Trăng trên đỉnh đầu vừa nhô ra khỏi đám mây đen. Chẳng hiểu sao trăng lúc đó có màu đỏ như nhuộm máu...
***
Mở mắt ra, việc đầu tiên của Sự là thều thào hỏi:
- Hoa Lý đâu?
- Mô Phật, thí chủ đã tỉnh lại rồi!
Người vừa lên tiếng là vị sư già, có lẽ đã đứng bên cạnh suốt thời gian Sự hôn mê. Nghe Sự hỏi, ông quay sang nói với bà già làm công quả trong chùa:
- Suốt hai ngày mê sảng, hễ hơi tỉnh là cậu ta cứ gọi tên cô ấy.Tội nghiệp!
Bà già Hai nhẹ lắc đầu:
- Chẳng biết cô Hoa Lý nào đó bây giờ ở đâu để mình đi báo tin lành này, cậu ấy có thể sống được rồi!
- Hoa Lý! Hoa Lý... em đừng chết! Em đừng chết!
Vị sư già thở dài:
- Xem ra cô Hoa Lý nào đó chẳng còn trên thế gian!
Bà già Hai vẫn nuôi chút hy vọng, bà kề sát vào tai Sự hỏi khẽ:
- Cậu nói đi, cô Hoa Lý đó ở đâu, tôi sẽ đi tìm cho?
Sự định ngồi dậy, nhưng toàn thân đau nhức, không thể cử động được. Nhà sư phải lên tiếng:
- Cậu cần phải nằm tĩnh dưỡng lâu nữa mới có thể khỏi được. Số cậu may lắm mới rơi từ trên núi xuống mà lại vướng vào cành cây bồ đề của ngôi chùa này, nên chỉ bị thương thôi. Chớ rơi thẳng còn gì là tính mạng!
Bà già Hai cũng thêm vào:
- Tôi đang quét lá sân chùa thì nghe một tiếng động mạnh, nhìn lên tôi thấy cậu treo lơ lửng trên đó. Lúc ấy trời mới hừng đông, nên không có ai tiếp tay đưa cậu xuống, tôi và thầy trụ trì phải khó khăn lắm mới đưa cậu xuống được an toàn. Số cậu đúng là lớn lắm!
- Số lớn mà làm gì khi không còn Hoa Lý! Lý ơi...
Anh ta do quá xúc động và ráng sức quá nhiều nên ho lên sù sụ, và vì thế đã làm động vết thương ở ngực, máu tuôn ra nhiều.
- Kìa cậu!
Bà già Hai hoảng sợ kêu lên. Vị sư già bình tĩnh:
- Băng lại vết thương cho cậu ấy, rồi lấy thuốc cho cậu ấy uống ngay vào. Đừng để cậu ấy bị kích động nữa.
Sự được chăm sóc và phải mất hơn nửa ngày sau đó, anh mới tỉnh hẳn. Vị sư già kể từ lúc ấy cũng không xuất hiện nữa, có lẽ ông đã yên tâm là người khách trẻ của mình không còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Sự ăn được cháo loãng và cũng đã nói năng được rành mạch.
Bà già Hai luôn túc trực bên cạnh và sẵn sàng trả lời những câu hỏi hơi nhiều của Sự. Mà câu hỏi về Hoa Lý luôn trên cửa miệng của anh:
- Đây có gần vực sâu không? Bà có thấy người nào rơi xuống đó chết không?
Bà Hai thành thật đáp:
- Chùa này cách vực sâu không xa, thỉnh thoảng tôi cũng có nghe tin ai đó rớt xuống, nhưng do vực quá sâu, lại hiểm trở, nên khó mà nhìn thấy nạn nhân được. Mà theo tôi, cậu là người may mắn duy nhất từ xưa đến nay.
Sự sốt ruột:
- Tôi muốn đi tìm vợ tôi. Cô ấy rơi xuống vực sâu chỉ cách tôi nửa phút, chắc là rơi không xa nơi đây. Vậy mà sao...
Nhìn ra ngoài trời, bà Hai lo lắng:
- Sao giờ này chưa thấy sư trụ trì trở về? Nơi đó nguy hiểm lắm mà ông cũng không ngại...
- Sư ông đi đâu?
- Ông không nói, nhưng tôi đoán là ông xuống dưới vực sâu hơn. Có thể là nơi có xác chết.
Sự ngồi dậy được, anh hỏi dồn:
- Có đúng là sư ông đi tìm vợ tôi không?
Bà Hai chưa trả lời thì từ ngoài đã có tiếng của nhà sư Thiện Tánh:
- Mô Phật!
Vừa nhìn thấy ông, Sự đã hỏi ngay:
- Có phải sư thầy đã...
Sư Thiện Tánh nhẹ thở dài, gương mặt buồn bã:
- Không hay rồi. Ta không giấu cậu, ta đã...
Ông ngồi xuống đối diện với Sự, lại một lần nữa thở dài:
- Ta đã gặp người đó, hình như là đúng...
Ông lấy trong tay áo một vật mà vừa đưa ra, Sự đã kêu lên:
- Chiếc vòng của Hoa Lý!
Đó là chiếc vòng bạc có chạm khắc rất tinh xảo mà Sự đã đặt làm tặng vợ sau ngày cưới. Anh chụp ngay nó và ôm vào lòng:
- Em đây mà!
Nhà sư nhìn thấy mà lòng bất nhẫn, ông cố giữ bình tĩnh, nhưng trong giọng nói có hơi run:
- Cậu bình tĩnh lại. Dẫu gì thì cũng xảy ra rồi...
Sự hốt hoảng:
- Cô ấy sao rồi thầy?
- Chết rồi! Ta đã khó khăn lắm mới trèo xuống được nơi ấy, cách đỉnh bên trên có đến hơn trăm thước. Một nơi như vậy thì làm sao sống nổi! Tội nghiệp, thân xác cô ấy chẳng còn lại gì, chỉ có cánh tay với chiếc vòng này là còn nhận ra.
Sự vừa hồi tỉnh, giờ đây lại như chiếc lá lìa cành, anh đổ người xuống, suýt nữa đã rơi khỏi giường. Đích thân đỡ anh nằm yên, nhà sư nhẹ giọng bảo:
- Đằng nào thì cũng phải cho cậu ấy biết sự thật, chớ để cậu ấy hy vọng hão huyền thì không nên. Khi cậu ấy khỏe hẳn rồi, nếu muốn thì ta sẽ đích thân dẫn cậu ấy trở xuống đó lần nữa. Ta đã mai táng chu đáo cho cô ấy rồi.
Ông ngồi đó với Sự khá lâu, đổ cho anh thêm một ít thuốc an thần. Ông hy vọng sau một giấc ngủ dài, tinh thần của Sự sẽ vững vàng hơn...
***
Trước khi rời khỏi chùa Thiền Lâm, Sự đã hứa với sư Thiện Tánh:
- Con sẽ nghe lời thầy, con sẽ cố bình tâm mà sống. Con cám ơn thầy chăm sóc, nuôi dưỡng con mấy tháng nay. Ơn này con không bao giờ quên.
Sự ôm chiếc bình tro cốt của vợ rất chặt trong tay, như sợ nó vuột mất! Lên được con dốc dựng đứng, Sự nghe lời nhà sư, anh đứng chờ xe đò để về nhà. Tuy nhiên, chỉ sau vài phút đứng đó, bao nhiêu ký ức về Hoa Lý như sống lại, và hình ảnh đêm kinh hoàng ấy lại hiển hiện về, nó khiến cho Sự lảo đảo, mất kiềm chế.
- Anh có lỗi với em, Lý ơi!
Mỗi lần nói câu đó thì cơn uất hận trong lòng Sự có dịp bùng lên, điều mà mấy tháng qua anh đã nghe theo lời khuyên của sư thầy, kiềm chế được nó...
Phút giây ấy, Sự hiểu rằng mình đành phải đi ngược lại những gì đã hứa ở chùa. Anh siết chặt chiếc bình tro cốt một lần nữa, rồi nói như lời thề:
- Anh sẽ không để cho vong hồn em phải ngậm hờn nuốt hận đâu, Hoa Lý!
Thay vì đón xe hướng về nhà, Sự đi bộ dần dần và sau cùng hướng về phía bên kia đèo.
Vẫn chân đèo quen thuộc. Tuy vào ban ngày nó có khác đi đôi chút, nhưng Sự vẫn nhớ rõ đêm hôm đó anh dừng xe trước cái quán lá kia để đợi...
Sự ghé vào quán, vờ như người lỡ đường, anh gọi nước uống và nghe ngóng tình hình. Anh nhớ, hôm đó anh lái xe theo chỉ dẫn của người phụ nữ kia đi về phía trước mặt không xa lắm thì tới ngôi nhà ấy. Ngồi một lúc, thừa lúc vắng khách, Sự quay sang hỏi chủ quán, một người đàn ông tàn tật:
- Nghe nói xe tới đây ban đêm thường bị kẹt lại, tại sao vậy anh?
Chủ quán có vẻ thật thà, thở dài nói:
- Thật ra ban đêm vẫn qua đèo được, nhưng vài năm trở lại đây ở giữa đèo thường xảy ra cướp bóc, thậm chí giết người nữa, nên cánh lái xe hàng ban đêm rất sợ, cứ trời tối là ngủ lại đây cho chắc ăn.
- Thấy ở đây chật hẹp, làm sao cùng lúc nhiều xe tới có thể trú ngụ được. Gần đây có chỗ trọ không?
Nhìn Sự một lúc, người chủ quán hạ thấp giọng:
- Có chỗ để ngủ qua đêm, nhưng mấy ai dám vào đó!
Thấy mình khai thác đúng nguồn, Sự dò thêm:
- Sao không dám, giá cả mắc hả?
Chủ quán lắc đầu, vừa nói mà mắt đảo qua đảo lại nhìn, như sợ có người nghe thấy:
- Cho không cũng chẳng ai dám ở! Ai không biết thì nộp mạng liền!
Sự trố mắt:
- Sao vậy?
Chủ quán hạ thấp giọng hơn nữa:
- Nghe nói là sào huyệt của bọn cướp ở đó!
- Sao biết mà không ai đi tố cáo chúng?
Chủ quán lắc đầu, thở dài:
- Đất này là của chúng, hó hé ra là hết sống! Tôi nói thật, nghèo quá nên bấm bụng ở lại buôn bán, chớ cũng muốn cuốn gói đi lâu rồi! Mới hôm qua đây, nghe nói con gái của quan tỉnh trưởng tỉnh kế bên lái xe qua đây lúc mờ tối, chưa kịp ghé quán tôi nghỉ chân thì đã bị dụ đưa vào đó và mất tích luôn! Quan lính của tỉnh trưởng đã bủa vây suốt ngày mà chẳng bắt được ai, mà bóng dáng cô gái cũng biến mất luôn, chiếc xe du lịch còn bỏ lại ở trong đó!
Sự bắt đầu bị kích động, nhưng cố giữ bình tĩnh. Anh uống vội ly nước rồi đi ngay, anh biết chủ quán đang nhìn theo tò mò. Bởi ở khu vực đèo này ít ai đi bộ lên xuống đèo. Nhắm hướng ngôi nhà trọ bữa trước, Sự đi thật nhanh.
Trong đầu Sự quả thật chưa có một định hướng gì, chỉ nghe hỏa bốc lên bởi câu chuyện vừa được biết! Làm gì bọn chúng ư? Sự cũng chưa tính, nhưng chắc chắn khi đối mặt với chúng, đặc biệt là với tên khốn kiếp hôm trước thì nhất định giữa anh và hắn sẽ chẳng ai có thể sống!
Đi được hơn nửa cây số thì trước mặt Sự hiện ra ngôi nhà sàn, anh thốt lên:
- Chính đây rồi!
Nhưng bước chưa được chục bước nữa thì bất chợt có ai đó nhảy ra chụp lấy Sự kéo vào bụi rậm. Anh quay lại thì thấy có khá đông quân lính Pháp và vài người địa phương. Trong số này có một phụ nữ người Việt, ăn mặc sang trọng, bà ta hất hàm hỏi:
- Anh này đi đâu vào đó?
Sự đã liều, nên nói đại:
- Tôi đi tìm vợ! Vợ tôi bị bọn cướp bắt đưa vào đây chưa biết sống chết ra sao?
Bà nọ nghe Sự nói thế thì mừng rơn:
- Vậy sao? Vậy thì... thì để cho anh ta vào đó. Biết đâu anh ta có thể cứu được luôn con gái tôi ra!
Bà ta nói với Sự:
- Tôi là vợ ông tỉnh trưởng ở tỉnh bên, con gái tôi cũng bị bọn chúng bắt cóc đưa vào đó từ hôm qua đến giờ. Lính đã bao vây hết khu vực này, nghe nói tên đầu sỏ đang còn mắc kẹt trong ngôi nhà trước mặt, nhưng hắn hung dữ và có lựu đạn, nên lính của tôi chưa tiện xông vào. Nếu bây giờ cậu có thể xông vào, làm cách nhử cho tên cướp xuất hiện, nói chuyện thương lượng với hắn, trong lúc đó lính của tôi sẽ lén tấn công diệt hắn!
Sự mừng thầm, vậy là anh không cần phải tìm đâu xa, kẻ thù đã ở trước mắt. Do vậy, anh gật đầu liền:
- Được, để tôi vào đó.
Một tên sĩ quan Pháp đưa cho Sự khẩu súng nhỏ:
- Mày cần mang theo...
Nhưng Sự gạt ngang:
- Tao không cần!
Như được tiếp thêm sức mạnh, Sự đi thật nhanh vào nhà, trước những cặp mắt ngạc nhiên quá đỗi của mọi người.
Tiến lên nhà sàn, Sự lên tiếng ngay:
- Thằng chó chết đâu, ra đối mặt với tao!
Không nghe ai đáp, Sự lại bước thẳng vào nhà, nhìn thấy rõ căn phòng mà hôm đó vợ anh đã ngủ. Máu hận trong lòng bừng lên, Sự quát thật to:
- Ra đây tay đôi với tao, thằng ăn cướp sát nhân!
Vẫn chẳng có ai đáp, Sự bước thẳng tới cửa phòng của mụ chủ nhà, vừa lúc đó có một cánh tay mềm mại đưa ra kéo mạnh Sự vào trong, kèm câu nói nghe thật quen:
- Hắn chờ anh trong này!
Giọng nói rõ ràng là của Hoa Lý, nhưng nhìn lại thì người vừa kéo Sự là một cô gái lai, khuôn mặt hoàn toàn xa lạ. Sự lúng túng:
- Cô... cô là...
Đưa tay chỉ vào giữa phòng, lúc ấy đang có mặt gã đàn ông bặm trợn, mặt có một vết thẹo dài vắt ngang sống mũi. Vừa nhìn thấy là Sự nhớ ra ngay:
- Thằng khốn kiếp!
Anh không dằn được, lao tới đá cho hắn một cú, hắn ngã nhào mấy bước, đụng vào vách nhà.
- Không cần phải làm thế đâu. Hắn đã bị em cắt hết gân tay chân rồi, bây giờ anh chỉ cần cắt nốt cái lưỡi chó của hắn nữa là đủ, là hết đời hắn!
Giọng nói đúng là của Hoa Lý, vừa nhẹ nhàng mà vừa như ra lệnh đó Sự đã quen từ ngày chưa cưới.
- Cô là...
Nàng cười thật tươi:
- Anh nhận không ra em cũng phải. Bởi em là phần hồn, còn cái xác là của con gái bà tỉnh trưởng ngoài kia. Hôm qua bọn cướp bắt cô này đem vào đây định hiếp và bị cô ấy chống cự, thà cắn lưỡi chết chớ không để làm nhục! Em là Hoa Lý, vợ của anh, từ ngày bị chết oan dưới vực sâu biết được tin anh còn sống qua lời của vị sư chùa Thiền Lâm, nên em vẫn ngày đêm vất vưởng đi tầm thù, quyết trả cho được mối hận mà cả em và anh đang mang nặng trong lòng. Em đã tới đây lúc tên khốn kiếp này vừa khiến cho cô gái chết, đúng là số trời đã định thế, nên em kịp nhập vào cái xác còn nóng hổi ấy. Em hồi sinh và tên chó má này đã bị em khống chế. Em ở đây chờ, vì biết thế nào anh cũng tới...
Nàng nói xong, sà ngay vào lòng Sự như ngày nào nàng vẫn làm. Sự tưởng chừng như trong giấc mơ, anh kêu lên khe khẽ:
- Hoa Lý!
Lát sau, họ dẫn tay nhau ra. Bà tỉnh trưởng và bọn lính chạy tới ngạc nhiên hỏi:
- Cậu đây cứu con phải không?
Cô nàng nhẹ gật đầu:
- Dạ phải.
Nàng nói khẽ vào tai Sự:
- Cứ nhận đại đi, thế nào rồi họ cũng gả con gái họ cho anh mà, em biết chắc! Và... chúng ta lại trùng phùng...
Sự mừng không thể tả. Tuy nhiên, trong lòng anh vẫn có chút bùi ngùi... Dẫu sao, thân xác của Hoa Lý vẫn làm anh không thể quên...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #55  
Old 11-07-2012, 04:24 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 28

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXVIII: Yêu và Chết- Phần 1


1. Chuyến Xe Hoàng Hôn
Quốc lộ 27, con đường đèo từ Ban Mê Thuột qua Đà Lạt là một con đường vắng, rất ít xe cộ đi qua, nhất là xe con. Vậy mà ngay từ sáng sớm hôm nay đã có một người khách lạ ghé qua quán cốc của Hà Ni và nói với cô:
- Bữa nay cô có khách đặc biệt đó!
Hà Ni đã nhìn người khách lạ rồi nhún vai nói:
- Có ma ghé thì có!
Người khách là một vị nữ nhân, tuổi trên dưới bốn mươi, cười hiền hòa rồi tiếp:
- Vậy mà có mới hay. Mà có phải cô là Hà Ni không?
Hơi ngạc nhiên về sự rành rẽ của khách, nhưng nghĩ có thể do mình làm chủ cái quán nhỏ này chắc ai đó biết tên rồi nói lại, nên cô gật đầu:
- Cháu là Hà Ni, chẳng hay cô ở đâu lại biết cháu?
Vị khách lại cười:
- Biết mà không sai là tốt rồi. Vậy cô có phiền nếu tôi ngồi nói chuyện chơi không?
Hà Ni phấn khởi:
- Quán ở đây vắng, nhiều khi cần một người khách ngồi nói chuyện còn quan trọng hơn là bán được ly cà phê! Mời cô.
Vị khách khá tự nhiên:
- Gọi tôi là Dã Quỳ. Cô Hà Ni có lạ với cái tên này không?
Hà Ni cười thoải mái:
- Dã Quỳ là hoa tiêu biểu của vùng này! Hoa mọc đầy hai bên đường, chỉ có điều...
Cô ngừng lại không dám nói tiếp, thì bất ngờ vị khách lại nối câu:
- Dã Quỳ nói lái thành quỷ già phải không?
Hà Ni xua tay:
- Cháu không có ý đó! Cháu chỉ...
- Quỷ già thì đâu đã sao! Tuổi như tôi mà bị gọi là quỷ già cũng đúng thôi! Chỉ e cỡ như cô mà thiên hạ gọi như vậy mới đáng ngại.
Hà Ni chợt thở dài:
- Ở mãi nơi này thì dẫu có là hoa hậu thì rồi cũng trở thành hoa Dã Quỳ hết thôi!
Nghe tiếng thở dài não ruột của cô, vị khách cũng buồn theo:
- Một người trẻ như cô mà bi quan quá là không nên!
- Thực tế nó như vậy, có lạc quan thì cũng cải thiện được gì đâu?
Hà Ni đi pha một tách cà phê khá ngon, đem lại mời khách:
- Phụ nữ mà uống nhiều cà phê là không tốt cho da, nhưng mình ở xứ này không uống thứ này thì uống gì bây giờ. Cháu không uống được rượu, nên mới cố cạn ly chất đắng này vậy!
Vị khách cười:
- Vậy thì hoa Dã Quỳ sắp tàn uống với đóa Dã Quỳ hàm tiếu!
Họ cùng cười nói vui vẻ. Khi mặt trời đứng bóng, bà Dã Quỳ đứng lên kiếu từ:
- Giờ tôi phải đi. Về tới Đà Lạt phải hơn sáu giờ, nên không thể đi trễ hơn được. Hẹn có dịp nào trở lại tôi sẽ ghé chơi và hy vọng lúc đó sẽ nhìn thấy một Hà Ni với tên gọi mới, cô Hoa Hồng chẳng hạn!
Trước khi bước ra cửa, bà còn quay lại dặn:
- Cô sắp gặp bạn rồi đó. Nhớ lời tôi nhé, đó là người sẽ...
Bà bước đi nhanh không để cho Hà Ni hỏi gì thêm. Chỉ khoảng nửa giờ sau thì có một chiếc xe tải dừng lại trước cửa quán, từ trên xe có hai người dìu một chàng trai máu me đầy người bước xuống. Họ gọi mấy ly cà phê và hỏi chủ quán xin nước để nhúng khăn lau vết thương cho người nọ.
Hà Ni vốn sợ máu, nên cô không dám nhìn, nhưng lấy một chiếc khăn sạch để họ lau và còn dặn:
- Lau xong bỏ luôn cũng được.
Chàng trai bị thương có vẻ can đảm lắm, nên tuy thương tích khá nhiều khắp người, nhưng anh ta không hề rên la tiếng nào, chỉ ngồi trân mình chịu đau. Chỉ thỉnh thoảng nhăn mặt rồi cúi đầu chịu trận.
Uống chưa hết ly nước, tài xe đã đứng dậy nói với cậu trai nhỏ tuổi hơn:
- Mày ngồi với anh ấy, tao lại đằng kia bỏ mấy món hàng xong sẽ trở lại ngay.
Anh ta ra xe và rồ máy chạy rất nhanh. Còn lại chàng trai bị thương và cậu lơ xe, Hà Ni len lén nhìn và chợt hỏi:
- Sao không đưa anh ấy đi bệnh viện chữa trị, vết thương coi bộ không nhẹ đâu!
Cậu lơ xe đáp:
- Anh này không chịu. Mà tụi tôi cũng sắp về tới Ban Mê Thuột rồi.
Ngồi thêm chừng mười phút nữa thì cậu lơ xe đứng lên đi ra ngoài, vừa nói:
- Em đi... ngoài một chút.
Và rồi cậu ta đi luôn. Mười phút, hai mươi phút, rồi hơn một giờ vẫn không thấy trở lại. Cả chiếc xe tải cũng mất hút luôn. Đến lúc này thì Hà Ni chợt hiểu.
- Họ bỏ anh ta ở lại đây!
Anh chàng bị thương vẫn không một tiếng rên la, nhưng xem chừng anh ta đã lả người, cứ chúi tới trước và đến một lúc bỗng ngã dài xuống sàn.
Hà Ni hốt hoảng:
- Kìa anh!
Cô chẳng còn cách nào hơn, đành phải cúi xuống đỡ anh chàng dậy và chợt phát hiện ra có một mảnh giấy nhỏ rơi ra từ túi áo anh chàng. Không định đọc, nhưng bỗng nhìn thấy tên mình trên đầu mảnh giấy, nên cô tò mò:
"Cô Hà Ni! Nhớ tôi nói đây là khách của cô. Nếu không muốn làm một thứ... quỷ già như tôi, thì hãy chấp nhận anh ta và chăm sóc cho cẩn thận. Có lúc gặp lại. Hoa Dã Quỳ."
Hà Ni ngẩn ngơ một lúc, đến khi thấy anh chàng cứ nấc lên và ưỡn người như lên cơn, cô chẳng còn cách nào khác, phải dùng hết sức bế xốc anh ta dậy, kéo lê vào phòng mình. Bởi trong quán chỉ có chiếc giường ngủ của cô là nơi duy nhất có thể ngả lưng.
Đặt anh chàng xuống giường, vừa định quay ngoài thì bất chợt bàn tay anh ta nắm chặt tay Hà Ni, khiến cô hốt hoảng:
- Kìa, sao anh...
Nhưng lúc nhìn lại thấy mắt anh ta hầu như hết thần, Hà Ni không đành gỡ tay ra, mà chỉ nhẹ nhàng ngồi xuống và chờ một lúc. Khi thấy bàn tay anh ta lơi ra, Hà Ni mới rút tay về, nhưng cũng chưa vội đứng lên. Đến lúc này cô mới có dịp nhìn kỹ anh chàng.
Anh ta còn khá trẻ, khuôn mặt thanh tú, không có chút gì là của dân nhà xe hay làm nghề rừng như hầu hết thanh niên xứ này.
- Anh ta là một người xứ khác? - Cô tự hỏi.
Từ đó cho tới chiều anh chàng nằm yên như hôn mê, nhưng Hà Ni len lén sờ thử trán thấy nhiệt độ vẫn bình thường thì yên tâm. Khi trời tối thì cô gái sống một mình này lại bắt đầu lo. Làm sao để anh ta ở lại đây được, khi ban đêm cô chỉ có một mình? Vả lại...
Định báo cho mấy người hàng xóm biết, nhưng do dự mãi, cuối cùng Hà Ni chọn giải pháp giữ im lặng. Cô hy vọng anh ta sẽ tỉnh lại, và sáng mai nếu chiếc xe kia không trở lại thì cô sẽ tìm cách gửi anh ta về Ban Mê Thuột. Như thế ít ra lòng cô gái nhân hậu này cũng đỡ ray rứt...
Đến nửa đêm hôm đó...
Trong lúc Hà Ni chuyển ra ngoài quầy hàng ngủ tạm thì anh chàng vẫn nằm yên trên giường của cô.
Đến khoảng 1 giờ sáng, khi thức dậy đi ra sau bếp thì Hà Ni giật mình khi thấy trên giường trống không. Anh chàng đã biến đâu mất...
Cửa sau vẫn còn chốt bên trong, cả cửa trước cũng thế, vậy anh ta đi đâu được?
***

Việc anh chàng biến mất vào nửa đêm rồi xuất hiện vào sáng sớm hôm sau đã làm cho Hà Ni sửng sốt.
Lúc tối sau khi tìm kiếm khắp nơi không thấy người khách bị thương nặng, Hà Ni đã lên giường nằm ngủ lại, với ý nghĩ là sẽ tìm hiểu kỹ lại vào sáng hôm sau. Vậy mà khi vừa choàng tỉnh lại thì bàn tay của Hà Ni đã chạm phải một người nào đó ngay cạnh mình trên giường!
- Ai?
Câu hỏi của Hà Ni vừa cất lên thì bàn tay người nọ đã quàng qua ngực cô và giữ yên ở đó. Lúc này cô mới định thần, thay vì bật ngay dậy và hét lên, thì linh tính báo cho Hà Ni biết tốt hơn là cô nên giữ im lặng... Bởi người đang ôm cô chính là... anh chàng bị thương lúc nãy.
Và thay vì lên tiếng hỏi, Hà Ni lại nằm im, cố giữ để anh ta không giật mình.
Một lúc lâu, thấy anh ta không có cử động gì, nghĩ là anh ta đã ngủ say, Hà Ni mới từ từ gỡ tay anh ta ra và nhẹ nhàng bước xuống giường.
Trời đã sáng hẳn, nên bây giờ cô có thể nhìn rõ được mặt anh chàng hơn.
Anh ta ngủ chẳng khác một đứa trẻ, gương mặt nửa trẻ thơ nửa người lớn.
Mấy vết thương trên mặt đã khô và trả lại một phần trán và má bên phải vẻ phẳng phiu, ưa nhìn của một chàng trai thành thị!
Hà Ni đánh bạo gọi khe khẽ:
- Anh gì ơi! Anh...
Bất chợt anh ta bật ngồi dậy và lên tiếng:
- Xin lỗi đã làm cho cô sợ!
Hà Ni lúc này mới hốt hoảng, đứng bật dậy khỏi giường:
- Anh... anh biến đi đâu rồi xuất hiện lại như ma vậy? Sao anh dám... dám lên nằm trên giường tôi?
- Tôi đã xin lỗi rồi, nếu cần, tôi sẽ xin lỗi lần nữa. Việc tôi nằm trên giường là do cô mà!
Hà Ni nghiêm giọng:
- Lúc đầu thấy anh bị thương nặng quá nên tôi cho vào giường nằm, bởi nhà chỉ có chiếc giường duy nhất. Còn khi không thấy anh, tôi đã trở lại giường của mình để ngủ. Sao khi trở lại anh cũng leo lên nằm chung là ý gì? Anh nên nhớ tôi là gái chưa chồng, anh làm như vậy...
Anh chàng cười trên đôi môi héo hắt:
- Chết duyên con gái! Tôi vạn lần tạ lỗi và chấp nhận bị trừng phạt. Phạt gì cũng được, tùy cô.
- Tôi chỉ muốn...
Hà Ni đưa tay sờ lên ngực, nơi bị bàn tay của anh ta đặt lên lúc nãy. Hình như hiểu ý, anh ta nhẹ giọng:
- Tôi vô tình. Chắc cô cũng không nỡ trách một người trong trạng thái gần kề với cái chết chứ?
Hà Ni nghe cách anh ta nói chuyện thì đã xác định rõ, anh chàng chính là người thành thị, miệng dẻo nhưng vẫn có chút gì đó thật thà. Và điều này đã khiến cho cô không truy hỏi nữa, mà chỉ nhìn kỹ anh ta để dò xét thêm.
- Sao cô lại leo lên giường nằm chung với tôi, không sợ sao?
Hà Ni bây giờ mới la lên:
- Ai nằm chung với anh? Giường của người ta, anh leo lên đại thì có.
- Nhưng cô đã nhường cho tôi rồi, sao nửa đêm lại vào nằm, làm tôi tưởng...
- Anh thật sự không nhớ là nửa đêm đã bỏ đi đâu mà tôi tìm kiếm khắp nơi không thấy?
- Tôi vẫn nằm ở đây mà!
- Không có! Hay anh là... ma?
Không ngờ anh chàng lại gật đầu:
- Cũng có thể là ma lắm. Bởi nếu không phải ma sao tôi đang ở Sài Gòn, đang sắp lấy vợ thì lại nằm ở đây?
Cách nói ỡm ờ của anh ta khiến cho Hà Ni tò mò hỏi thêm:
- Anh nói sao, anh không phải là người đi chung xe với mấy người trên xe tải chở hàng sao?
Anh chàng ngơ ngác:
- Xe tải nào?
- Chiếc xe chở hàng từ Đà Lạt chạy về đây. Trên xe có tài xế, một cậu lơ xe và... anh. Họ đem anh trong tình trạng thương tích đầy người vào đây rồi bỏ trốn hết, để mình tôi lãnh của nợ!
Anh chàng lẩm bẩm:
- Sao như vậy được? Tôi đang đi với cô ấy đó mà? Tôi đang...
Hà Ni ngỡ anh ta đóng kịch, nên nghiêm giọng hỏi:
- Anh nói sắp lấy vợ mà còn đang đi với cô nào nữa?
- Thì là cô ấy! Chúng tôi đang chở nhau đi sắm đồ cưới, chẳng hiểu sao lại bị như thế này?
Nhìn nét mặt thất thần của anh ta, Hà Ni nhẹ giọng:
- Lúc họ bỏ anh lên xe, anh có biết gì không?
- Xe nào?
- Thì chiếc xe tải chở anh tới đây!
Anh chàng lắc đầu:
- Tôi không hề biết gì... Cũng chẳng hiểu sao, tôi hoàn toàn không nhớ gì hết? Vậy Ngọc Lan ở đâu?
- Ngọc Lan là vợ chưa cưới của anh phải không?
- Chính là cô ấy!
- Anh tìm chiếc xe tải đó mà hỏi? Có thể lúc anh chở cô ấy đi đường, bị chiếc xe ấy tông phải rồi họ bỏ anh lên xe chở đi, còn cô kia thì chắc đã chết, nên họ vứt xác ở đâu đó.
Nghe Hà Ni nói y như thật, anh chàng bắt đầu hốt hoảng nói:
- Có đúng như vậy không?
Hà Ni phải bật cười:
- Sao anh lại hỏi tôi? Chuyện đó...
Anh chàng như cố nhớ lại, nhưng hình như đầu óc anh ta không vận hành theo ý muốn, nên lúc nhớ lúc không, vừa muốn nói thì lại thừ người ra. Hà Ni phải trấn an:
- Được rồi, anh nghỉ ngơi đi rồi sẽ nhớ.
Cô vừa bước vào trong thì chợt anh chàng nhớ ra, kêu lên:
- Phải rồi, cô ấy ở dưới cái hố sâu!
Hà Ni chỉ ra ngoài, nơi có một cái vực sau nhà, hỏi:
- Có phải giống như vậy không?
Anh chàng nhìn và tỏ ra sợ hãi:
- Đúng rồi! Cô ấy... cô ấy...
Sợ anh ta không kiềm chế được, nên Hà Ni phải giải thích:
- Giống chỗ này thôi, chứ không phải đây!
Đợi cho anh ta bình tâm lại phần nào rồi Hà Ni mới hỏi:
- Tên anh là gì?
- Phong. Người ta gọi cặp đôi chúng tôi là loài hoa rừng đẹp nhất: Hoa Phong Lan.
- Vậy là anh đã tỉnh táo hoàn toàn rồi. Anh cố nhớ lại xem, có đúng là cô ấy đã chết không?
- Cô nào?
- Thì vợ hay người yêu của anh. Cô Lan gì đó?
Anh chàng bật dậy, một lần nữa ngơ ngác nhìn quanh rồi lẩm bẩm:
- Phải rồi, cô ấy ở ngoài kia...
Rồi bất ngờ, anh vụt phóng khỏi giường và cắm đầu chạy như bay ra ngoài. Không kịp ngăn lại, Hà Ni chỉ gọi với theo:
- Anh đừng ra đó, có cái vực sâu!
Nhưng không còn kịp nữa, chỉ trong nháy mắt thì bóng của Phong đã mất hút... Hà Ni hối hận đã nói linh tinh khiến cho anh chàng kích động. Lần này không biết có giống như lúc nãy, liệu anh ta có trở lại không?
Tuy là người đã sống ở vùng này lâu nay, nhưng Hà Ni cũng chưa hề đi xuống phía vực sâu nên cô không thể hình dung nổi là bên dưới ra sao và liệu Phong xuống đó rồi có chuyện gì xảy ra? Cô bước tới một gốc cây bên bờ vực, đưa mắt nhìn xuống bên dưới và chợt rùng mình. Nó sâu thăm thẳm và cô chợt nghe lạnh sống lưng. Rồi bỗng dưng cô cất tiếng gọi thật to:
- Anh Phong ơi!
Chỉ có tiếng vọng từ chính giọng của cô dội lại, chứ hoàn toàn không có ai đáp. Sững sờ một lúc khá lâu, Hà Ni lững thững đi trở vào nhà. Cô lo lắng cho sự an nguy của anh chàng xa lạ kia một phần, nhưng chính cô cũng lấy làm lạ là trong lòng mình lại có điều gì đó rộn lên kỳ lạ, khó giải thích.
Khi vào tới nhà, bỗng dưng Hà Ni đánh hơi có gì đó bất thường bên trong.
Cô buột miệng kêu khẽ:
- Ai trong nhà nhỉ?
Sở dĩ cô tự hỏi như vậy là do cái mũi thính nhạy của cô vừa phát hiện ra một mùi hương rất lạ của một ai đó.
Không lên tiếng hỏi, Hà Ni nhẹ bước đi thẳng vào phòng ngủ và sững lại khi nhìn thấy có một người nằm im, cả thân thể phủ kín trong chiếc mền, chỉ ló ra phần trên.
Vừa nhìn đã thấy mái tóc dài phủ qua mặt gối, Hà Ni đã kêu lên:
- Ai vậy? Cô là...
Người nằm đó đúng là một nữ nhân, nghe tiếng hỏi lớn của Ni, cô ta trở mình, quay mặt ra và rên khẽ mấy tiếng. Hà Ni hốt hoảng khi phát hiện ra trên gương mặt xinh xắn của cô ta dính đầy những máu.
- Trời ơi! Sao... sao vậy?
Ni quên cảnh giác, đã bước nhanh tới bên người khách lạ và đưa tay tốc mền ra, vừa lúc kêu lên thất thanh:
- Bớ!
Tiếng kêu của Hà Ni bị nghẹn lại, bởi lúc ấy cô lảo đảo và ngã phịch xuống đất. Trước mặt cô, nửa phần thân thể của người kia chỉ là... bộ xương trơ ra!
- Trời ơi... cứu... cứu!
Hà Ni không còn kiểm soát được mình nữa, cô muốn thoát chạy, nhưng tay chân hoàn toàn không còn cử động được, như bị điểm huyệt.
Trong khi cô lịm đi thì nửa thân người của cô gái kia từ từ cử động và nhẹ nhàng rời khỏi giường, không màng tới Ni đang nằm dưới đất.
Một cơn mưa trái mùa đột ngột trút xuống, lùa gió lạnh buốt xương qua cửa sổ vào nhà, và chỉ trong phút chốc, toàn gian nhà như chìm trong màn tối âm u.


Phần 2


2. Hoa Dã Quỳ
Tuấn đỗ xe ngay trước quán, gọi to vào trong:
- Hà Ni ơi, anh về tới nè!
Bên trong quán có người bước ra, đó là Hà Ni, nhưng khi nhìn thấy Tuấn, cô vẫn dửng dưng như không, chỉ đưa mắt nhìn như nhìn khách lạ vào quán.
Tuấn ngạc nhiên, nhưng vẫn lên tiếng tiếp:
- Em sao vậy, cách có mấy thước mà nhìn cũng không ra anh sao?
Hà Ni vẫn trơ mắt nhìn, đến nỗi một người khách đang ngồi trong quán vốn quen biết với Tuấn lên tiếng:
- Người yêu về mà nhận cũng không ra, đúng là bữa nay cô Hà Ni này đầu óc sao ấy!
Rồi anh ta quay ra nói với Tuấn:
- Từ sáng đến giờ vào uống cà phê mà cô này lơ đãng sao ấy. Như là người mất hồn vậy!
Tuấn lo lắng nhìn người yêu:
- Em có bệnh gì không vậy Hà Ni? Coi sắc mặt em kìa, xanh rờn...
Hà Ni vẫn không nói gì, nhưng khi Tuấn bước đến gần hơn thì cô bất ngờ đưa tay cấu vào đùi anh ta một cái đau điếng. Tuấn suýt kêu lên nhưng kịp kiềm chế được, anh đoán chắc có nguyên nhân gì đó, nên bước nhanh vào nhà trong.
Ni đi theo, lúc này cô mới nhanh chóng đóng sầm cửa lại và thật bất ngờ, đưa tay đẩy mạnh một cái. Tuấn không kịp đề phòng, nên bị ngã ngửa lên giường.
Anh chàng chưa kịp lên tiếng, đã bị một bàn tay của Hà Ni bịt chặt ở miệng và đành phải im lặng...
Trong mơ hồ, Tuấn nhớ là mình bị người yêu nhảy đè lên người, và anh còn ráng sức thốt lên:
- Em... em làm anh cứ tưởng... thì ra là... là...
Rồi Tuấn hầu như không còn, hay đúng hơn là không muốn vùng vẫy nữa, anh chấp nhận để cho người yêu muốn làm gì thì làm...
Nửa giờ sau...
Người xuất hiện trở lại ở gian khách đang ngồi uống cà phê là Tuấn chứ không phải Hà Ni. Vị khách quen lúc nãy rất tâm lý, lên tiếng:
- Vắng nhà lâu ngày nên bị bà xã phạt phải không? Mà xem ra cô ấy cũng không khỏe lắm đâu, ông liệu mà vừa phải tối nay nhé, không khéo...
Anh ta nói xong trả tiền cà phê và bước ra ngoài. Chỉ một lát sau, bỗng có người chạy lại hớt hãi báo tin:
- Cái người vừa ra khỏi quán chẳng hiểu sao tự nhiên chúi nhủi đầu xuống đất miệng hộc máu và nằm một đống ngoài kia kìa!
Vài người nữa đổ xô chạy đến, Tuấn cũng đi theo, nhưng lát sau anh trở lại, lúc ấy đã thấy Hà Ni đứng trong quán, anh nói như lời báo cáo:
- Anh ta bị trúng gió chắc!
Hà Ni vẫn bình thản:
- Việc gì cũng có cái giá của nó.
Tuấn hình như muốn hỏi lại, nhưng xem chừng anh ngại, nên sau đó chỉ lẳng lặng giúp người yêu dọn dẹp trong quán, không nói năng gì.
Cho đến khi từ ngoài có một chiếc xe hơi cũ vừa đậu lại, từ trên xe bước xuống một người đàn ông lớn tuổi, mà vừa thoạt trông thấy Hà Ni đã kêu lên:
- Chính là cô sao!
Người phụ nữ lớn tuổi hôm trước đã ghé quán. Bà ta nhìn sang Tuấn và chẳng cần giữ ý, đã nói ngay:
- Cậu này đâu phải là người cô mong đợi phải không?
Câu hỏi khiến cho Tuấn ngẩng mặt lên nhìn, nhưng Hà Ni thì vẫn không chút lo lắng, đáp nhanh:
- Giữa chốn thâm sơn cùng cốc này, có đàn ông là quý rồi, còn chọn ai với ai nữa!
Cô vừa nói vừa bước lại gần và quàng tay qua vai Tuấn, giới thiệu:
- Đây là Tuấn, người yêu của cháu, lâu nay đi làm ăn xa nay mới về.
Người phụ nữ tên Dã Quỳ chợt nghiêm sắc mặt lại:
- Hai người đừng có diễn trò trước mặt tôi! Hà Ni và anh chàng tên Phong đâu?
Câu hỏi bất ngờ của bà khiến cả Hà Ni cũng phải lúng túng còn anh chàng tên Tuấn thì vừa run vừa lùi lại sau như sắp bỏ chạy. Bà Dã Quỳ hét lớn:
- Đứng yên đó!
Nhưng anh chàng đã kịp phóng qua hàng rào thấp bên hông nhà và mất hút bên ngoài. Còn lại Hà Ni đang lúng túng thì đã bị bà Dã Quỳ chụp tay, bà đanh giọng:
- Các người tính làm gì? Cậu ấy đâu?
Hà Ni run lẩy bẩy:
- Anh... anh ta...
Rồi bất chợt cô chỉ ra ngoài chỗ vực sâu, nói nhanh:
- Ở dưới đó!
Bề ngoài xem ra vẻ chậm chạp, vậy mà khi ra tay thì bà Dã Quỳ thật nhanh, bà khóa chặt tay của cô gái, rít lên:
- Nếu không đưa anh ta lên thì đừng hòng sống với tao!
Động tác khóa tay đó có lẽ quá mạnh, nên Hà Ni kêu lên đau đớn:
- Ui da! Để... để con nói...
Cô ta được bà buông ra, vừa định bước đi thì đã bị gọi giật lại:
- Trên người của cô bây giờ đã bị ta điểm huyệt, đừng hòng tính chuyện tẩu thoát. Khôn hồn thì mau đưa anh chàng tên Phong đó về đây!
Hà Ni đi rồi. bà Dã Quỳ mới quay lại phân trần với người khách duy nhất còn lại trong quán:
- Ở chốn vắng vẻ này xưa nay vốn bình yên, nhưng bây giờ đã không còn được như vậy nữa rồi. Ông thấy đó, cô gái lúc vừa rồi đâu phải là một con người bình thường... cô ta...
Vị khách đó là một người đàn ông trung niên, nãy giờ hầu như không màng tới cuộc đôi co giữa hai người, giờ nghe hỏi mới quay lại từ tốn nói:
- Thì chính bà đã đem lại điều bất ổn đó thôi!
Người đàn bà giật mình:
- Ông... ông nói thế...
Người đàn ông vẫn không nhìn vào bà Dã Quỳ, nói tiếp:
- Thì chính bà đã gây ra cái chết cho họ, khiến họ thành như vậy mà còn trách ai?
Ông nói vừa xong thì vội bước ra ngoài. Bà Dã Quỳ hốt hoảng thấy rõ, bà vội chạy theo gọi lớn:
- Kìa, ông!
Nhưng người đàn ông đã như cái bóng, biến mất ngay khi vừa ra tới đường lộ. Bà Dã Quỳ ngẩn ngơ một lúc, khi bước trở vào thì đã thấy một người nằm im dưới sàn nhà. Người ấy là anh chàng Phong.
Chẳng hề ngạc nhiên, bà Dã Quỳ đưa tay sờ lên trán anh chàng, rồi chép miệng:
- Cũng còn may.
Phong vẫn còn sống, nên sau đó vài giây, anh ta trở nhẹ người rồi mở mắt ra, ngơ ngác:
- Tôi... tôi đang ở đâu?
- Cậu không phải lo, đây là nơi cậu được cứu sống. Cậu nhớ cô chủ quán Hà Ni không?
Được đánh thức cơn mê. Phong ngơ ngác:
- Cô ấy đâu rồi?
Đưa tay chỉ vào trong nhà:
- Nơi cậu đã nằm hồi đêm qua.
Phong không hỏi thêm, bật ngay dậy rồi bước nhanh vào trong nhà. Cũng vừa lúc ấy Hà Ni bước ra. Cô như vừa thức dậy sau giấc ngủ dài, sững sờ khi nhìn thấy Phong:
- Anh... anh...
Bà Dã Quỳ phải lên tiếng:
- Nếu tôi trở lại không kịp thì hai người đã chết rồi! Tôi kể tóm tắt cho nghe: Hai người đã bị oan hồn của một ma nữ hãm hại, nó khiến cho cậu Phong này đi xuống vực sâu và nó nhập hồn vào Hà Ni, khiến cho cô suýt nữa đã hại thêm một người thanh niên vô tội. Anh chàng Tuấn vốn là một thợ chụp ảnh thường qua lại tuyến đường này và từng đem lòng thương cô chủ quán đây. Nó bắt hồn anh chàng ấy, định biến anh ta thành một cặp đôi để cùng với nó tiếp tục gây thêm những thảm cảnh. Cũng may...
Bây giờ hai người mới nhận ra. Hà Ni lúc này hoàn toàn khác một Hà Ni lúc nãy, cô ngượng ngùng nhìn Phong:
- Anh đã...
Phong đáp:
- Tôi cũng không biết nữa! Tôi cũng mới tỉnh lại đấy thôi.
- Em cũng...
Hà Ni vừa nhìn ra nhà ngoài thì ngạc nhiên:
- Bà ấy đâu rồi?
Biết cô hỏi bà Dã Quỳ, Phong nhìn ra và nói:
- Bà ấy mới vừa ở đây.
Nhưng khi họ trở ra ngoài thì chẳng còn thấy bà ấy đâu Hà Ni ngạc nhiên:
- Em mới nghe tiếng của bà đây mà.
Khi đó, người đàn ông bỏ đi đột ngột lúc nãy lại hiện diện, ông ta đặt một nhánh hoa dã quỳ nằm dưới đất và bảo:
- Bà ấy đây. Cô chủ quán nhớ tên bà ta không?
Hà Ni gật đầu đáp:
- Dạ nhớ, bà Dã Quỳ. Ông là...
Người đàn ông không đáp, mà vừa nói vừa bước trở ra ngoài:
- Bà ta không phải là người xấu, nhưng nếu không tìm gặp lại bà ấy thì chuyện rắc rối sẽ còn dài đấy!
Ông ta cũng biến rất nhanh như lúc tới. Hà Ni hoang mang:
- Sao toàn những chuyện gì đâu không vậy anh?
Phong lắc đầu:
- Tôi không hiểu! Nhưng vừa chợt nhớ lại chuyện của mình. Tôi nhớ tới Lan, khi cô ấy bị tai nạn...
Đầu của Phong đau nhói khi nhắc tới chuyện ấy. Anh vừa ôm đầu vừa rên rỉ:
- Tôi không chịu nổi... Tôi chết mất!
Hà Ni hốt hoảng:
- Anh bị sao vậy? Anh... anh.
Cô hốt hoảng nhưng cũng chẳng biết làm sao. Trong lúc luống cuống, chẳng hiểu sao cô lại chụp cái hoa dã quỳ còn nằm dưới đất đưa cho Phong, Đó là hành động vô ý thức, vậy mà lạ lùng thay, nó lại có hiệu quả tức thời. Phong tỉnh táo hẳn và ngơ ngác:
- Tôi hết đau rồi. Hay là...
Anh chợt nghe văng vẳng tiếng ai đó từ trong đóa hoa phát ra:
- Hãy tới thôn Ea Rya mà tìm người chủ bông hoa này...
Phong nhìn sang Hà Ni hỏi:
- Ai vừa nói vậy?
- Ai nói gì đâu, em không nghe!
Tiếng nói lại vang lên rất khẽ, chỉ đủ cho mình Phong nghe:
- Đi ngay đi và nhớ là đừng rời hoa dã quỳ ra khỏi tay. Nhớ đấy!
Lần này cũng chỉ mình Phong nghe, anh phải nói lại cho Hà Ni nghe nội dung câu nói và hỏi:
- Ai vậy?
Hà Ni lặng người đi:
- Em cũng không biết...
Phong nhớ lại lời người đàn ông nói lúc nãy, anh hốt hoảng:
- Mình phải tìm người đàn bà có tên là Dã Quỳ này sao? Bà ấy...
Vô tình trong lúc nói chuyện, Phong để hoa dã quỳ rơi khỏi tay, lập tức cơn đau lại nhói lên dữ dội. Thấy anh ta lảo đảo, Hà Ni vội chụp lấy vai và kêu lên:
- Anh sao vậy?
Phong sợ Hà Ni giẫm phải bông hoa, anh muốn cúi xuống nhặt lên, nhưng vừa cúi người thì ngã sấp luôn xuống sàn nhà. Cũng may khi ngã anh lại nằm đè lên đóa dã quỳ, nhờ vậy Phong lại tỉnh táo.
Lúc này Hà Ni chợt nhớ ra, cô bảo:
- Anh không được rời bông hoa này ra.
Phong hỏi:
- Thôn Ea Rya ở đâu?
- Em cũng không biết, nhưng chắc hỏi thì có người chỉ cho.
Đóng vội cửa quán, Hà Ni giục:
- Mình đi ngay cho kịp!
Gọi một chiếc xe thồ, cô hỏi:
- Anh biết thôn Ea Rya không?
Anh chàng chạy xe đáp ngay:
- Thôn ấy cách đây khoảng chục cây số, cô tìm ai ở đó nói đi, tôi rành thôn ấy lắm vì tôi cũng là người ở đó mà.
- Vậy anh có biết một bà có tên là Dã Quỳ không?
Anh chàng lái xe giật mình:
- Bà Lang Leng? Mà cô tìm bà ta làm gì?
Đến phiên Hà Ni ngạc nhiên:
- Lang Leng là ai?
- Đó là tên riêng của bà mà cô gọi là Dã Quỳ đó. Bà ấy là người cùng thôn với tôi mà. Ở thôn người ta chỉ quen gọi bà ta là bà Leng thôi. Nhưng mà...
Anh ta bỗng nhìn Hà Ni với ánh mắt không bình thường và định nói gì đó nhưng không kịp, bởi lúc ấy cô nàng đã đỡ Phong trong tình trạng đang suy sụp lên xe, cô ngồi kèm phía sau và giục:
- Anh đưa tụi tôi đi ngay đi!
Anh chàng kia đành phải rồ máy xe. Trên đường đi, anh ta hỏi:
- Cô tìm bà ấy có chuyện gì?
Rồi không đợi cho cô đáp, anh ta quay lại nhìn Phong, hỏi:
- Anh này có phải bị bệnh đau đầu không?
Ni giật mình:
- Sao anh biết?
Anh ta chưa kịp đáp thì do phải tránh một chiếc xe ngược chiều chạy áp sát, nên ngưng ngang câu chuyện. Đến khi tránh được rồi thì anh ta lại chuyển sang đề tài khác:
- Đoạn đường này xảy ra tai nạn hoài, như chuyện vừa rồi đó...
Câu nói vô tình khơi gợi đúng nỗi đau của Phong, anh nói liền:
- Vợ tôi cũng bị một chiếc xe như vậy...
Anh nói chưa hết câu thì đột nhiên ngưng bặt, như có một vật gì đó chặn ngang cổ họng. Ngồi cạnh, Hà Ni phát hiện ra điều ấy nên hỏi nhanh:
- Anh bị sao vậy?
Phong không đáp được mà chỉ đưa tay ra dấu. Hà Ni càng hốt hoảng hơn:
- Anh chạy nhanh lên! Đừng nói chuyện nữa. Anh bạn tôi đang gặp nguy.
Anh chàng lái xe do vậy không thể nói tiếp điều đang muốn nói. Gần hai chục phút sau đã tới thôn Ea Rya, anh ta dừng xe trước một ngôi nhà sàn và bảo:
- Nhà của bà Leng đó.
Dặn anh ta chờ đó, Hà Ni dìu Phong leo lên thang. Khi bước vào nhà đã gặp ngay một cô gái trẻ đang ngồi dệt thổ cẩm, Hà Ni vội hỏi:
- Có bà Dã Quỳ ở nhà không cô?
Cô gái giương mắt nhìn khách như không hiểu. Hà Ni chợt nhớ ra, cô hỏi lại:
- Tôi muốn hỏi bà Leng!
Bấy giờ cô gái mới đáp:
- Không có!
- Bà đi vắng chừng nào về?
- Không về!
Thấy cách đáp cộc lốc của cô ta Hà Ni hơi bực, nhưng chợt nhớ đấy là một cô gái người thiểu số, nên cô dịu giọng hỏi lại:
- Tôi có việc cần kíp, muốn gặp bà Leng. Xin cô giúp cho...
Cô gái lắc đầu:
- Bà ấy chết rồi còn đâu mà gặp!
Hà Ni giật bắn người:
- Cô nói sao? Bà Dã Quỳ... Bà Leng đã chết ư?
Cô ta chỉ tay ra ngoài đường lộ nói gọn lỏn:
- Ra ngoài kia mà nhìn xuống hố sâu, má tôi ở đó!
Phong đang trong tình trạng choáng váng, vậy mà khi nghe câu nói, anh đã hỏi liền:
- Bà ấy cũng bị tai nạn xe ư?
Vừa lúc ấy anh chàng lái xe thồ cũng vừa bước lên, anh ta lên tiếng:
- Lúc nãy tôi định kể mà chưa kịp. Bà Leng đã chết cách nay hơn một năm rồi. Bị một chiếc xe tải đụng phải, hất bà ấy văng xuống vực sâu rồi bỏ chạy luôn. Bởi vậy từ ấy bà thường hiện hồn về chặn mấy chiếc xe chạy ẩu để cảnh báo. Bà là một hồn ma giúp người chứ không hại người. Cách nay mấy bữa, tôi nhìn thấy một chiếc xe tải chạy như điên qua khu vực này, bỗng nhiên dừng lại, rồi cả tài xe và lơ xe đều nhảy xuống quỳ giữa đường lạy như tế sao vừa van xin mà chẳng biết là xin ai. Tới khi họ đi rồi tôi mới nhìn thấy ở bên đường có một bó hoa dã quỳ còn tươi nằm ở đó, tôi đoán...
Hà Ni vụt nói:
- Bà Dã Quỳ!
Anh ta gật đầu:
- Đúng là bà ấy!
Hà Ni lo lắng nói:
- Thì ra mấy lần bà ấy xuất hiện đều là… hồn ma!
Rồi cô quay sang Phong:
- Anh nghe giọng nói bí hiểm từ trong đóa hoa dã quỳ có phải là bà ấy không?
Phong gật:
- Đúng vậy.
- Do đó, lúc nãy khi nhìn thấy cậu đây cầm trên tay đóa hoa dã quỳ tôi đã có ý nghi ngờ. Có phải là cậu gặp bà Leng không?
Không tiện nói hết ra, Phong chỉ đáp:
- Bà ấy giúp tôi...
Còn Hà Ni thì lại nói:
- Có một người chỉ cho chúng tôi tới đây. Người đàn ông...
Không ngờ anh lái xe kêu lên:
- Ông thầy người Tàu từ Đà Lạt lên phải không?
Hà Ni lắc đầu:
- Tôi không biết, chỉ gặp ông ghé quán một lần, ông ấy cho địa chỉ để tới đây rồi đi luôn, không biết gốc tích, tên tuổi.
Tỏ ra rành rẽ việc, anh ta nói thêm:
- Đã nhiều lần ông thầy đó tìm về đây, hình như lúc đầu để trừ khử oan hồn của bà Leng, nhưng sau này lại nghe nói ông ta luôn ủng hộ bà ta, mỗi khi có đụng độ giữa bà Leng với ai đó...
Phong ngạc nhiên:
- Sao lại có chuyện đụng độ? Bộ có nhiều người muốn trừ khử bà ấy sao?
- Tôi không rõ lắm... Nhưng xem ra đây là chuyện giữa các oan hồn với nhau. Tôi chạy xe thồ khắp khu này nên đã nhiều lần chứng kiến cảnh ông thầy Tàu đó ngồi bên đường đốt nhang cúng, mà lần nào cũng có những bông hoa dã quỳ cạnh nén nhang. Trong thuật làm phép, theo tôi biết khi muốn giúp ai thì người ta hoặc là đặt ảnh hoặc biểu trưng của vong hồn người đó cạnh nén nhang. Ông ấy không cúng để độ cho bà Leng thì đặt những bông hoa dã quỳ làm gì ở đó?
Hà Ni lẩm bẩm:
- Cũng lạ...
Lúc ấy, đột nhiên Phong ngã sóng soài trên sàn nhà. Trong lúc Hà Ni hốt hoảng thì cô gái con chủ nhà lúc nãy bước trở ra, cô ta cầm trên tay một đóa hoa dã quỳ khác, hoa đã phơi khô, đặt lên ngực Phong, vừa bảo:
- Cái này dễ giữ bên mình hơn. Xong rồi về đi.
Chưa ai kịp hỏi gì thì lại một lần nữa cô ta biến mất vào trong. Hà Ni gọi với theo:
- Cô ơi!
Anh chàng lái xe thồ bảo:
- Người thiểu số không biết nói nhiều. Cô ấy nói như vậy là xong rồi, cô cứ đưa cậu ấy về đi. Coi kìa, cậu ấy đã tỉnh táo như thường rồi.
Phong tự đứng lên và nói như chưa có gì xảy ra:
- Mình về! Cám ơn cô Hà Ni.
Rồi quay sang người lái xe, bảo:
- Anh cho tôi ra ngoài chợ, tôi sẽ xuống ở đó, còn anh đưa cô này về quán.
Hà Ni phản đối:
- Không được! Anh chưa thể tự đi, phải về quán nằm nghỉ, lúc nào khỏe hẳn hay. Vả lại, anh còn chưa rõ chuyện đã xảy ra với mình mà.
Phong vẫn cương quyết:
- Cứ như vậy đi.
Anh lái xe thồ làm đúng như lời, ra ngoài anh ta còn nhiệt tình chở Phong tới giao cho một bạn đồng nghiệp rồi dặn:
- Cậu này cần đi đâu anh cứ chở, rồi nhớ chở về lại quán cô Hà Ni này.
Hà Ni không an tâm, cô cũng chẳng hiểu sao như vậy, bởi giữa cô với anh chàng chưa hề có ràng buộc gì với nhau cả. Đến khi xe thồ chở cô về tới quán mà Hà Ni vẫn còn ngẩn ngơ, lo lắng…
Anh lái xe nghĩ Hà Ni lo cho người yêu nên chen vào nói:
- Anh ta chẳng đi đâu xa cả, lúc nãy tôi nghe lỏm được biết anh ta bảo xe thồ chạy tới dốc Đầu Voi. Chỗ mới xảy ra tai nạn chết hai người cách đây mấy ngày. Chắc là đi tìm tin tức người thân...
Câu nói của anh ta lại khiến Hà Ni càng thêm lo:
- Chỗ đó xảy ra tai nạn sao? Ở đó...
- Nơi ấy là một khúc cua gắt, lại khuất tầm nhìn nên xe thường bị tai nạn. Ngay như tôi, dẫu quen đường đèo, vậy mà ai kêu chở qua đó tôi còn ớn nữa là...
Hà Ni hồi hộp như người thân yêu nhất của mình đang gặp nguy...
***
Ba ngày sau, Phong vẫn chưa trở lại.
Lúc đầu Hà Ni chỉ hơi lo thôi, nhưng sang ngày thứ ba thì cô không thể nào chịu nổi nữa. Cô tự nhủ với lòng là rõ ràng chàng khách lạ kia đã chính thức ngự trị trong con tim mình. Nó không như Tuấn, nhà nhiếp ảnh giang hồ trước đây, lần đó Hà Ni mới chỉ có cảm tình với anh ta, lâu lâu không thấy anh ta ghé thì nhớ nhớ, mong mong chứ không bồn chồn lo lắng như lần này với Phong.
Sáng sớm ngày thứ tư thì Hà Ni chủ động đi tìm anh lái xe thồ tên Tư Lương và đề nghị:
- Anh đưa giùm tôi tới đèo Đầu Voi và trở về đây kịp bán bữa trưa.
Tư Lương đoán biết ngay mục đích của cô, nên nhận lời ngay:
- Tôi sẽ chở cô đi, nhưng chỉ tới phía bên này dốc thôi, tôi không chạy qua bên kia.
Hà Ni thật sự chưa từng đi qua con đường quốc lộ 27 này, nên gật đầu:
- Chỉ cần anh đưa tới đó thôi, để tôi...
- Cô đi tìm anh chàng bữa trước phải không?
Hà Ni không muốn giấu:
- Anh ấy đi đã ba ngày rồi không thấy về. Mà tôi cũng quên hỏi anh: người đưa anh Phong đi hôm đó đâu rồi?
Tư Lương giật mình:
- Mấy hôm nay bận công chuyện nên tôi cũng quên hỏi nó xem hôm đó đưa cậu kia đi ra sao. Vậy cô lên xe đi, tôi chở đi tìm anh ta hỏi, rồi mình liệu mà đi tìm luôn.
Chạy một vòng chỗ các tay xe thồ hay đậu xe đợi khách, không tìm thấy Ba Long, Tư Lương ngạc nhiên bảo:
- Thằng này siêng lắm, ít khi bỏ cữ chạy xe, vậy mà hôm nay không thấy!
Anh ta hỏi một tay quen thì được trả lời:
- Nghe nói Ba Long đưa khách đi Bảo Lộc mấy hôm rồi chưa về, vợ con nó đang lo sốt vó ở nhà!
Hà Ni hốt hoảng:
- Có chuyện gì hay sao vậy?
Tư Lương cũng cuống lên, anh ta không đợi Hà Ni bảo cũng chạy thẳng tới nhà Ba Long. Vợ anh này vừa trông thấy Lương đã òa lên khóc:
- Anh có biết nhà tôi đi đâu không?
Hà Ni vụt hỏi:
- Mấy hôm nay anh ấy không về hay sao?
Thấy Hà Ni, vợ Ba Long ngạc nhiên, Tư Lương phải giới thiệu:
- Đây là cô Hà Ni, chủ quán cà phê ở dốc 30, mấy bữa trước cô ấy có nhờ Ba Long đưa giùm bạn của cô ấy đi đèo Đầu Voi, tới hôm nay bạn cô ấy cũng chưa trở về.
Vợ Ba Long càng hốt hoảng:
- Vậy nguy to rồi! Sao mấy hôm nay anh không nói cho tôi biết để đi tìm!
Chị giục đứa con lớn:
- Chở má tới chỗ đó ngay!
Hai chiếc xe phóng như bay tới đèo Đầu Voi. Hà Ni luống cuống không thua gì vợ Ba Long. Khi vừa tới nơi, trong lúc mọi người còn đang đứng từ trên cao nhìn xuống vực sâu thì Hà Ni đã đi đại xuống theo một lối mòn, khiến Tư Lương phải la lên:
- Không xuống kiểu đó được đâu!
Anh ta chặn một người qua đường lại hỏi thì người đó chỉ tay xuống vực sâu nói liền:
- Mới có một chiếc xe gắn máy lọt xuống đây cách mấy ngày, rồi sáng nay có người nói ở xóm rẫy phía dưới phát hiện mấy cái xác.
Vợ Ba Long gào lên:
- Trời ơi, ông ơi!
Hà Ni cũng cuống cuồng:
- Mình phải xuống dưới đó mới được!
Cô quên cả hiểm nguy tuôn xuống theo con đường mòn. Tư Lương chưa kịp ngăn lại thì vợ Ba Long cũng chạy theo. Có mấy người khách qua đường nhìn thấy, họ hét lớn:
- Không xuống bằng lối đó được, leo lên rồi đi vòng chỗ kia kìa!
Cũng may là họ chỉ kịp thời, chứ nếu không thì chỉ vài chục bước nữa thôi hai người đã gặp nguy, bởi đó là một vực sâu không có lối xuống, mà bên dưới cách hơn trăm mét là cây cao và đá lởm chởm.
Hơn nửa giờ sau, theo đường được chỉ, họ cũng xuống được bên dưới. Đó là một xóm nhà của đồng bào H'Mông. Vừa bước vào ngôi nhà đầu tiên ở cái xóm chừng hơn chục nóc nhà, Hà Ni đã kêu lên khi thấy người đàn ông đang ngồi xếp bằng giữa nhà:
- Kìa, ông là...
Đó là vị khách từng uống cà phê và chỉ đường cho Phong tới tìm nhà bà Dã Quỳ. Ông không ngạc nhiên khi thấy sự xuất hiện của Hà Ni, mà bình thản nói:
- Tôi biết sớm muộn gì cô cũng tới đây! Mà tới là phải và kịp lúc. Cậu ấy chờ cô tới để đưa về.
Một lần nữa Hà Ni kinh ngạc bởi ngay trước mắt cô là Phong đang nằm im như xác chết:
- Kìa, anh ấy có sao không?
Cô ngồi xuống ngay bên cạnh và đưa tay sờ lên ngực, lên mũi Phong, như cử chỉ của một người vợ. Rồi reo lên:
- Còn thở!
Ông thầy Tàu lên tiếng:
- Tôi tới chậm một bước là cậu ấy mất mạng rồi!
Thuận tay, ông chỉ vào túi áo của Phong:
- Cũng may nhờ có vật này.
Hà Ni móc ra đóa hoa Dã Quỳ khô, cô bảo:
- Chính cô gái con bà Dã Quỳ tặng cho anh ấy.
Ông thầy Tàu gật đầu:
- Ít ra thì bà ấy cũng đã làm được việc ấy.
Rồi ông đứng lên, giục:
- Cô nên đưa anh ấy về ngay đi. Có mấy người tôi đã nhờ, họ sẽ giúp cô đưa cậu ấy lên.
Chờ đợi nãy giờ mà không thấy chồng đâu, vợ Ba Long vụt hỏi:
- Chồng tôi đâu?
Không nhìn chị ta, ông thầy Tàu nói:
- Người lái xe thồ đã về nhà từ sáng sớm nay rồi, sao chị còn ở đó? Mau về mà lo cho sức khỏe anh ta đi. Anh ấy cũng may mắn nên mới thoát nạn. Phải nói là nhờ hồng phúc của cậu Phong đây.
Nghe vậy, chị ta không đợi Hà Ni, đã cùng con trai trở lên ngay, Tư Lương cũng lên theo. Lúc này ông thầy Tàu mới gọi riêng Hà Ni ra ngoài nhà, chỉ tay về phía một ngôi nhà sàn nhỏ nằm đơn độc ở một góc:
- Lúc nãy do có mặt người đàn bà kia nên tôi không tiện nói, còn bây giờ cô không vội đưa cậu Phong về đâu. Cậu ấy còn cần phải lưu lại nơi đây cho đến khi nào giải quyết xong chuyện với người trong ngôi nhà kia.
Hà Ni ngạc nhiên:
- Ai ở trong đó?
- Người mà trước sau gì cô cũng cần phải gặp. Nếu tôi nói đó là tình địch của cô thì cô có tin không?
Hà Ni càng bối rối hơn:
- Từ nào đến giờ tôi chưa có người yêu. Người có thể nói có chút liên hệ tình cảm với tôi thời gian qua là anh chàng nhiếp ảnh sống lang bạt, nhưng đó cũng chỉ là tình bạn không hơn không kém. Tuy nhiên, gần đây thì giữa tôi với anh ta cũng không còn liên hệ gì với nhau nữa. Vả lại anh ấy là người sống độc thân, như vậy làm sao có ai là tình địch của tôi được?
Ông thầy Tàu nghiêm giọng:
- Vậy mà có đó! Lại là tình địch mà nếu không giải quyết xong rắc rối giữa cô với cô ta thì cô sẽ còn khổ dài dài...
Ông nói xong lặng lẽ ngồi xuống ngay bên cạnh Phong, để cho Hà Ni lúng túng:
- Ông chỉ cho tôi bây giờ tôi phải làm sao?
Ông ta đáp cộc lốc:
- Cô hãy sang nhà đó gặp người cô cần gặp trước đã.
- Nhưng mà...
Ông thầy Tàu chừng như cố ý không nghe, nên ông nhắm nghiền mắt lại và ngồi bất động mặc cho Hà Ni hỏi gì ông cũng im lặng...
Chẳng còn cách nào hơn. Hà Ni đành phải một mình bước đến ngôi nhà kia.
Đầu óc cô hoang mang, chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra nên vừa bước đi mà trong lòng lo lắng, sợ hãi…
Tuy nhiên, khi bước hẳn vào bên trong ngôi nhà nhỏ ấy thì Hà Ni ngạc nhiên, bởi bên trong nhà không có ai. Một ngôi nhà trống, chỉ có một số vật dụng mà vừa thoạt nhìn Ni lại càng ngạc nhiên hơn, bởi đó là đồ dùng của phụ nữ, mà là phụ nữ người Kinh!
- Ai ở đây?
Nhìn bộ quần áo màu xanh ngọc còn mới, rất đẹp mắt treo trên vách, bên cạnh đó là chiếc nón vải của người thành thị. Hà Ni đoán chắc nơi này là chỗ ở của một cô gái không phải là cô gái người H' Mông. Ở một góc phòng còn có một cái rương bằng da còn mới, trên nắp rương có một khung ảnh.
Tò mò, cô bước lại gần và nhìn thấy ảnh một cô gái rất đẹp trong khung hình. Mắt Hà Ni mở tròn xoe khi đọc được dòng chữ viết khá bay bướm dưới góc ảnh: Phong Lan!
- Phong Lan! Người mà Phong đã kể...
Không kiềm chế được, Hà Ni vừa thốt lên thì chợt nghe từ phía sau lưng có người lên tiếng:
- Cô cũng biết tên tôi nữa sao?
Giật mình, Hà Ni quay lại nhìn và sững sờ, bởi người đang đứng trước mặt cô đúng là cô gái trong bức ảnh bán thân kia!
- Cô chưa trả lời câu hỏi của tôi!
Cô ta lặp lại câu hỏi khiến cho Hà Ni lúng túng:
- Tôi... tôi nghe...
- Phong đã kể cho cô nghe chứ gì! Anh ta dám đem chuyện riêng về tôi mà kể với người khác, rõ ràng lòng dạ anh ta không còn gì để nói nữa rồi!
Cô ta giận dỗi, bước đi thật mạnh, nhưng sao mà Ni không nghe động sàn nhà...
Cô còn đang ngạc nhiên thì đã nghe cô ta quát lớn:
- Cô muốn gì mà tới đây?
Cảm giác sợ hãi bỗng dưng biến mất, Hà Ni đáp gọn:
- Để gặp cô!
- Tôi sẽ giết chết bất cứ ai giành người tôi yêu! Tôi chờ và hôm nay cô dẫn xác tới đây tức là tự cô tìm lấy giây phút cuối của đời mình rồi đó!
Hà Ni không còn ngại, nên cô dám nhìn thẳng vào người đang nói chuyện với mình. Tuy nhiên, điều làm cô ngạc nhiên là tuy nghe tiếng nói, nhưng nhìn khắp chung quanh Hà Ni vẫn không thấy ai, ngoài những lay động nhẹ ở phía cửa sổ, như có người nào đang đứng đó và thở vào bức màn vải mỏng.
- Cô là...
Giọng sắc lạnh đáp ngay:
- Người không còn chân dung! Cô không biết sợ ma ư?
Tự dưng Hà Ni bạo dạn hẳn lên:
- Trước đây thì có, nhưng từ lúc này thì không. Cô biết tại sao không?
Đang ở thế là người chủ động tấn công, bỗng cô gái xưng mình là Lan kia đã có vẻ khựng lại và nhẹ giọng hơn:
- Cô nghĩ mình có ông thầy Tàu kia che chở sao?
Thật ra Hà Ni không hề nghĩ điều đó, tuy nhiên nghe cô ta hỏi, cô đáp liền:
- Có thể là như vậy! Hơn nữa, còn có Phong ở đây. Anh ấy chưa biết là người hay ma, nhưng tôi biết chắc đó là một người đàn ông chung tình, tốt bụng.
Giọng của Lan gắt lên:
- Anh ta không chung tình! Bởi nếu chung tình thì đã không bỏ đi và quen biết với cô trong lúc biết tôi bị nạn. Một người tốt thì sao lại bỏ người yêu của mình nằm dưới vực sâu này mà đi một mình?
- Cô nói anh ta đi đâu một mình?
- Thì đi tìm cô, gặp cô rồi khiến cô mò đến tận đây để tìm, trong lúc tôi đã thành ma, đã là một oan hồn đói lạnh ở chốn này!
Hà Ni vốn hiền lành, không thích đôi co tranh luận hơn thua với ai, nhưng cũng phải phá lên cười:
- Cô chỉ biết yêu và ích kỷ thôi, còn ngoài ra không hiểu gì về giá trị của tình yêu cả. Cô nói mình là một oan hồn mà đến việc người yêu của mình bị thương suýt chết, bị người khác mang xác đi bỏ đường bỏ chợ cũng không biết! Cô biết ai đã cứu anh ấy không?
Đến phiên Lan cất tiếng cười vang:
- Cô dám nói mình chính là người cứu lắm!
- Điều ấy đúng!
Câu nói này là của ông thầy Tàu. Ông ta xuất hiện lúc nào hai người đang tranh luận không hay biết. Hà Ni chưa kịp quay lại thì ông đã tới và càng ngạc nhiên hơn khi giọng nói của Lan kêu lên vẻ sửng sốt:
- Ba nói sao, cô này...
- Chính cô ấy đã cứu Phong, nếu không, cậu ta đã chết mất xác dưới vực sâu khác rồi! Bọn buôn lậu thuốc phiện, những kẻ hại con đã mang Phong đi tới chỗ của cô này và bỏ lại đó, nếu cô ấy không tốt bụng ra tay cứu thì Phong đâu còn mạng. Cũng vì cứu Phong mà suýt nữa cô ấy cũng mang họa lây, bởi bọn kia mượn bàn tay của thầy mo A Lúng ở rừng Yok Đôn, định biến cô này thành ma trành. Cũng may là có anh chàng người yêu cũ của cô ấy đã thế mạng...
Ông vừa nói tới đây thì Hà Ni thét lên:
- Chẳng lẽ Tuấn đã...
Ông thầy Tàu nhẹ lắc đầu:
- Thương cho cậu ấy, nhưng cũng là cái số. Bọn kia biết được anh chàng Tuấn đó đem lòng yêu thương cô nên đã dụ đưa cậu ấy về để cùng chịu chung số phận với cô, nhưng do cô chưa tận số, nên hôm đó chỉ có Tuấn là bị chết thôi. Tuấn chết mà cũng kịp liều mạng, kéo theo con ma nữ vốn là tay sai của lão thầy mo A Lúng cùng chết. Bởi vậy từ hôm đó cô mới được hiện hữu như ngày hôm nay. Chẳng qua...
Ông định nói gì thêm, nhưng bỗng dừng lại rồi im lặng, bước tới ngồi xếp bằng giữa sàn nhà. Giọng của Lan lại run run vang lên:
- Ba, ba không thương con gái mình sao? Ba...
Đến lượt Hà Ni ngơ ngác:
- Cô Lan là con của ông?
Ông thầy Tàu thở dài, trả lời với con trước:
- Nếu không thương con thì cha đâu đã lặn lội tới đây. Nếu không thương con thì cha đây suýt mất mạng vì con ma trành của lão thầy mo A Lúng! Con có biết là để cứu được Phong, cứu cô Hà Ni, đem họ tới được đây đâu phải chuyện dễ!
- Nhưng cô Hà Ni này sẽ...
Ông thầy Tàu chặn lời con:
- Cô này không có ý tranh giành gì người con yêu. Nhưng đây là duyên số. Cha làm nghề trừ tà ma, cha biết rõ chuyện này, kể cả sự vắn số của con. Hôm con cùng thằng Phong đi Ban Mê Thuột trên chuyến xe của mụ Hai Nương đó, cha không kịp cản ngăn, suýt nữa làm liên luỵ đến sinh mạng của Phong.
Lan la lên:
- Còn mạng của con thì cha để mặc phải không?
- Cha không để mặc, mà cha đành bó tay. Bởi số con đã tận, con không chết giờ đó thì vài giờ sau cũng chết!
Giọng của Lan khóc lên rấm rứt, cô cố gào lên:
- Vậy sao không để Phong cùng chết với con! Anh ấy yêu con mà...
Ông thầy Tàu lại thở dài, lần này nghe não ruột hơn:
- Thà như vậy mà tốt hơn, tránh một chuyện còn thảm khốc hơn là cái chết nữa. Con có biết Phong là gì của con không?
- Là người yêu của con chứ còn gì nữa!
- Nếu cha chậm một bước thôi là mọi chuyện đã hỏng hết rồi! Con và Phong chính là... anh em cùng cha khác mẹ với nhau.
- Ba!
Tiếng kêu thảng thốt của Lan làm cho Hà Ni cũng phải bàng hoàng:
- Ông nói... nói là...
Giọng của Lan đầy kích động:
- Ba... ba nói gì? Ba gạt con phải không?
- Con còn nhớ đêm hôm trước khi con bỏ trốn đi Ban Mê Thuột với thằng Phong cha đã rầy và đòi đánh con một trận nếu con không chấm dứt tình yêu với Phong không?
Giọng Lan nức nở:
- Con không ngờ ba nhẫn tâm chia lìa tụi con. Bởi vậy con và Phong mới quyết định bỏ đi Ban Mê Thuột. Tụi con tính chung sống ở đó vĩnh viễn.
Ông thầy Tàu cất giọng buồn thảm:
- Cha đã sững sờ khi hay tin con và Phong yêu nhau. Trước đó cha cứ nghĩ hai đứa chỉ là bạn. Vả lại hôm đó cha mới được biết Phong chính là giọt máu rơi của cha với một phụ nữ người dân tộc ở thôn Ea Rya.
Tự dưng Hà Ni kêu lên:
- Bà Leng? Bà Dã Quỳ!
Ông thầy Tàu gật đầu:
- Phải. Chính là bà ấy. Hồi xưa lúc đi làm rừng ở vùng đó, ta có yêu một cô gái Thượng tên là Ya Leng, có biệt danh là hoa Dã Quỳ. Ta có với cô ấy một đứa con trai, nhưng khi vừa sinh con ra thì do một tai nạn lở núi, bà ấy chết, ta cứ ngỡ là đứa con đó cũng bị chôn vùi theo với mẹ nó. Nào ngờ cách đây không lâu, ta được hồn bà ấy hiện về báo cho biết khi tai nạn xảy ra, đứa con không chết, nó được một người chạy xe khách đem về nuôi và nó đã lớn lên, tên là Phong. Bà ấy buộc ta phải ngăn chuyện yêu đương giữa hai anh em chúng lại và ta đã làm, suýt nữa không kịp...
Rồi ông quay sang phía có tiếng nói của Lan, hỏi giọng khẩn trương:
- Giữa con và Phong đã có gì với nhau chưa?
Lan đáp rất nhanh:
- Chưa! Tụi con chỉ yêu nhau với tình yêu trong trắng. Anh Phong là người đàng hoàng.
Có hai tiếng thở phào cùng lúc. Một là của ông thầy Tàu và của Hà Ni. Cả hai nở nụ cười mãn nguyện. Ông già nói giọng phấn khởi:
- Con vắn số thì có trời mới thay đổi được. Thôi, dẫu cha có thương con, nhớ con thì cũng phải chấp nhận. Giờ đây chỉ còn lại chuyện của thằng Phong và cô gái này...
Ông quay sang Hà Ni:
- Không phải tự dưng mà hôm đó bọn xấu chở xác Phong tới quán của cô đâu. Mà đó là do sự chỉ bảo của vong hồn bà Dã Quỳ.
Hà Ni thốt lên:
- Bởi vậy ngay sau đó bà ấy có mặt liền!
- Cho tới bây giờ bà ấy vẫn có mặt bên Phong, bên cô để ngăn chặn bọn kia hãm hại hai người. Tội nghiệp bà ấy...
Ông lại hướng về phía Lan:
- Cha không muốn đưa vong con về bên cha là bởi con cần ở đây một thời gian nữa. Nơi này từng xảy ra quá nhiều tai nạn, oan hồn uổng tử quá đông, con là người sẽ giúp hóa giải bốn âm khí, oan hồn nơi này, để bớt những cái chết đi. Rồi khi nào cha thấy được thì sẽ rước vong con về nhà ở Đà Lạt.
Có tiếng khóc nức nở của Lan...


Phần 3


3. Quán Âm Hồn
Hai Nương bảo đứa đàn em:
- Mày ngừng lại chỗ cái quán bên đường kia, tao... mắc quá!
Lơ xe Ngố cười tít mắt:
- Bởi vậy nãy giờ xe cứ lết lên dốc thấy tội nghiệp! Cả xe ai cũng đầy bầu nên xe nặng lết không nổi cũng phải!
Đập lên lưng lơ xe một cái, mụ Hai Nương bước xuống nhanh, vừa quay lại dặn tài xế:
- Tranh thủ nghỉ một lát rồi tới Pleiku ăn cơm cũng kịp.
Mụ đi thẳng vào quán định đi vệ sinh nhờ, nhưng chủ quán chỉ ra sau:
- Ở phía kia.
Mụ Nương đi ra xa hơn vài chục thước, thấy có căn nhà nhỏ ở một góc thì bước đại vào. Nhưng mụ ta đã phải khựng lại, bởi đó không phải là nhà vệ sinh, mà là một cái miếu âm hồn.
Còn chưa kịp lùi ra thì bỗng như có ai xô mạnh một cái, làm cho mụ ngã chúi nhủi về phía trong, vô tình quỳ gối ngay trước bát nhang đang nghi ngút khói.
Còn đang lúng túng, định đứng dậy thì chợt nghe có một giọng nói vừa đủ nghe:
- Sao chưa lạy!
Mụ ta mọp ngay đầu xuống đụng đất và cứ thế lạy liền ba lạy. Khi ngẩng lên, bỗng mụ run rẩy kêu lên:
- Cô... cô là...
Trước mắt mụ ta đang có một cô gái ngồi xếp bằng trên chỗ bệ thờ. Tuy tóc cô ta xõa gần kín khuôn mặt, nhưng mụ Nương vẫn nhận ra, mụ lặp lại:
- Cô... cô sao lại ở đây?
Một tràng cười vang lên:
- Mụ không ngờ người bị mụ xô xuống vực Đầu Voi bây giờ lại ở đây? Mụ tưởng đổi địa bàn hoạt động, không cho xe chạy qua quốc lộ 27 nữa là sẽ không gặp lại oan gia sao!
- Tôi... tôi...
- Mụ nín! Nếu còn léo nhéo nữa thì ta cắt lưỡi liền! Mụ trả lời ta, tại sao hôm đó mụ xô ta xuống vực sâu, còn người yêu của ta mụ lại chỉ đánh cho nhừ đòn rồi kéo lên xe chở đi?
- Dạ... dạ tôi không có ý... tôi chỉ...
Mấy cái tát liền khiến cho mụ ta xiểng liểng, suýt ngã chúi đầu tới trước.
Giọng mụ thất thần:
- Tôi chỉ...
- Phải nói thật ra thì còn mong toàn mạng, bằng không thì...
Mụ Hai Nương bình sinh hung ác, miệng lưỡi có gai có góc, vậy mà giờ đây mềm như bún:
- Dạ... chỉ vì tôi... giận cô đã cướp thằng Phong, nó vốn là người mà ba tôi nuôi nấng từ nhỏ. Phong là người mà tôi kỳ vọng sẽ nối nghiệp nhà tôi mà kinh doanh...
- Láo! Phong là người tốt, anh ấy có mang ơn nuôi dưỡng của mấy người, nhưng từ khi trưởng thành, anh ấy biết cái nghề buôn lậu hàng quốc cấm của mấy người là phạm pháp, nên đã có ý định ra khỏi nhà mấy lần. Anh ấy đã thề là sẽ không bao giờ dính tới chuyện làm ăn nguy hiểm đó nữa. Vậy mà mấy người đã nỡ nhẫn tâm hại anh ấy. Còn tôi, chỉ là người vô can, tại sao mấy người giết tôi?
- Chẳng qua tôi chỉ... tôi chỉ lỡ tay mà thôi. Vả lại...
- Vì sợ tôi tố cáo mấy người chứ gì! Mà có sợ thì cũng có thoát được đâu! Tôi nói cho mà biết, bắt đầu từ hôm nay hãy liệu mà bỏ nghề đi, nếu không sẽ hối không kịp!
Lời đó vừa dứt thì có một cụm khói xanh bốc lên từ chỗ cô gái ngồi rồi... sau đó mất dạng! Mụ Hai Nương sợ thất thần:
- Cô... cô Lan!
Mụ đã nhớ ra rồi, cô gái này là người yêu của Phong, đã bị chính mụ ta xô ngã xuống vực sâu hôm đó, vì nghĩ rằng cô ta là nguyên nhân khiến Phong mê muội tính bỏ nhà đi. Vậy mà sao cô ta lại ở đây?
Mụ chợt nhận ra, kêu thét lên:
- Ma! Bớ người ta!
Mụ tức tốc chạy ra khỏi miếu. Khi vào tới nhà, mụ còn chưa hoàn hồn, chỉ thều thào với chủ quán:
- Ma! Ma ngoài kia...
Bà chủ quán gắt lên:
- Ma cỏ gì ở đây!
Mụ Hai Nương chỉ ra cái miếu:
- Ngoài miếu có... có ma.
Tuy bực mình nhưng bà chủ quán cũng bước ra xem. Bà trở vào la lớn:
- Chị này vô duyên, đó là cái miếu thờ thổ địa của đất này từ bao đời nay, ma quỷ gì trong đó!
- Ma... tôi thấy ma.
Rồi mụ ta chạy một mạch ra xe, giục mấy đàn em:
- Đi nhanh lên.
Chẳng hiểu sao, mụ ta bảo tài xế quay đầu về hướng quốc lộ 27, thay vì chạy theo hướng Kontum, Pleiku.
***
Chỉ một tuần sau. Tại chân đèo Đầu Voi, chỗ khúc cua nguy hiểm nhất, trước khi các xe leo đèo và đổ dốc, người qua lại thấy mọc lên một cái quán khá khang trang. Chủ quán trực tiếp đứng bán chính là... mụ Hai Nương!
Lúc đầu người qua lại ngạc nhiên và hơi ngỡ ngàng, nên hay ghé quán. Tuy nhiên chỉ mấy ngày sau thì lời đồn lan mạnh:
- Mụ Hai Nương mở quán miễn phí trong tháng đầu tiên, sau đó chỉ lấy bằng năm mươi phần trăm giá các quán khác!
Lời đồn đó quả không sai. Khi khách ghé quán tháng đầu, dẫu cho ăn uống thứ gì cũng được miễn phí.
Mụ Hai Nương tuyên bố:
- Trước đây tôi làm nhiều điều không phải, nay sám hối, muốn mọi người cảm thông, tha lỗi...
Quán mụ ta nhờ vậy ngày càng đông khách. Đặc biệt, những xe dừng lại nghỉ ngơi ở đó đều có chung nhận xét:
- Mở quán ngay chỗ này thật là thuận tiện cho cánh chạy xe chúng tôi. Bởi tới đây nghỉ ngơi trước khi lên đèo và xuống dốc, nhờ được tỉnh táo, nên sẽ không xảy ra tai nạn.
Lời nói đó rất đúng. Từ lúc có cái quán thì tai nạn giảm hẳn. Mà khu vực hoang vắng đó cũng trở nên đỡ lạnh lẽo hơn.
Đặc biệt hơn, quán đông khách hơn nữa khi về đêm. Điều nay chưa từng xảy ra, bởi xưa nay dân buôn ít khi qua đoạn đường này vào ban đêm, bởi đường không an toàn và thường có những vụ trấn lột. Vậy mà bây giờ hầu hết xe cộ lại thích đi đêm qua đây, được ghé quán nghỉ ngơi, đôi khi còn được lai rai vài thứ đặc sản thú rừng do đầu bếp riêng của quán nấu.
Lâu dần tiếng tốt đồn xa, ai cũng thích ghé quán tên là Hai Nương đó...
Cho đến cuối năm, khi tình cờ đi ngang qua đó, Hà Ni và Phong, lúc ấy đã thành vợ chồng, họ ghé vào quán nghỉ chân. Vào chiều cuối năm, lại vào giờ xế nên quán vắng khách. Chỉ có đôi vợ chồng trẻ nên họ gọi thức uống được phục vụ rất nhanh.
Uống một ngụm cà phê, Hà Ni khen:
- Cà phê này không thua cà phê Tùng ở Đà Lạt!
Phong cũng xác nhận:
- Đúng là ngon. Phân nửa giống hương vị cà phê của Ban Mê Thuột.
Hai người đang muốn đi sau khi uống xong cà phê, nhưng bỗng người phục vụ quán bưng ra mấy dĩa thức ăn còn nghi ngút khói và nói:
- Chủ quán chúng tôi mời hai cô chú. Xin cô chú cứ dùng, quán chiêu đãi, không tính tiền.
Phong vội nói:
- Không phải là chuyện tiền nong, mà do chúng tôi phải vội đi.
Bỗng có một giọng trong trẻo cất lên từ phía trong:
- Nỡ từ chối lời mời của người bạn cũ sao?
Phong quay lại và giật mình khi thấy một cô gái rất đẹp bước ra:
- Ngọc Lan!
Hà Ni nghe chồng gọi tên Lan cũng sửng sốt:
- Đây là...
Cô gái chủ động lên tiếng:
- Lan mà cô từng gặp dưới vực sâu hôm đó, nhưng nay mới nhìn được dung nhan. Chào cô dâu mới xinh đẹp!
Phong chưa hết bàng hoàng thì từ trong nhà có một người nữa bước tiếp ra theo. Lần này Hà Ni lại kêu lên:
- Bà Dã Quỳ!
Phong đã nghe cha mình thuật lại mọi chuyện, nên lúc này anh như trong cơn mơ:
- Bà là... Mẹ!
Bà Dã Quỳ nén xúc động, đứng từ xa, kêu lên:
- Con!
Vừa khi ấy, chợt bên ngoài có một chiếc xe khách dừng lại, có khá nhiều người bước vào. Điều đó khiến cho cả Lan và bà Dã Quỳ vội rút vào trong mà chưa kịp nói hết lời, Phong định bước theo, nhưng chân anh như bị ai kéo lại, không bước được bước nào. Hà Ni nhạy cảm hơn, cô nói khẽ:
- Không gặp được họ đâu. Anh không nhớ họ đã chết rồi sao? Họ là... oan hồn!
Lúc ấy khách vào khá nhiều, những người phục vụ ra lo cho khách. Phong có hỏi nhưng họ đều đáp:
- Ở đây không có ai ngoài chúng tôi.
Họ thẫn thờ ngồi lại rất lâu. Thậm chí khi mấy lượt khách vào rồi ra mà bóng dáng của hai người kia vẫn chẳng thấy tái xuất hiện. Đến lúc mụ Hai Nương ra và nói:
- Những gì cô cậu nhìn thấy chỉ nên để bụng thôi. Rồi sau sẽ hiểu!
Phong muốn hỏi chuyện thêm với người đã từng cưu mang mình, nhưng mụ Nương hình như muốn tránh, cứ lăng xăng lo cho khách mà không hề ngồi lại với Phong.
Sau này nhiều người đồn rằng cái quán của mụ Hai Nương là... quán âm hồn.
Bởi có những đêm họ đi qua thấy quán vắng, không có ai phục vụ, nhưng hễ ghé vào gọi thức ăn thì lập tức được dọn lên mau lẹ.
Tuy là vậy, nhưng chẳng hiểu sao thiên hạ vẫn cứ ghé quán mà không hề sợ hãi. Hỏi thì có người bảo:
- Ma cỏ gì, miễn phục vụ tốt là được rồi!
Riêng Hà Ni và Phong thì tin chắc điều mình chứng kiến là thật. Họ bảo nhau:
- Có thể sự hối cải của mụ Hai Nương đã khiến cho những oan hồn ở đèo Đầu Voi cảm động và giúp mụ thành công khi mở quán...
Chính Phong và Hà Ni còn nhiều lần trở lại quán ấy, nhưng họ không hề gặp lại bà Dã Quỳ và Ngọc Lan...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #56  
Old 11-07-2012, 04:26 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 28

OAN HỒN MẸ CON

Cuộc Hội Ngộ


Lần dọn nhà này đã là thứ ba, chỉ trong vòng hai năm. Mà đâu chỉ dọn gọn nhẹ, đằng này mỗi lần dọn là cả một khối gia tài khổng lồ. Dọn nguyên cả một ngôi biệt thự!
Có người thắc mắc, chẳng hiểu tại sao ông chủ nhà trẻ tuổi có cái tên nghe như người nước ngoài Robert Lý này lại hay thay đổi nhà như vậy? Câu hỏi thắc mắc đó chỉ được giải đáp khi chính người tài xế lâu năm của ông ta là Tư Tài tiết lộ rằng, sở dĩ chủ mình chuyển nhà hoài cũng chỉ vì... chứng mất ngủ!
Tại sao một người quá giàu có như ông ta lại khó ngủ, trong khi đó là bệnh của những người nghèo, những người phải tất bật với trăm công ngàn việc, phải suy nghĩ tính toán mưu sinh?
Cũng chính tài xế Tài có lần đã nói:
- Chẳng hiểu sao ông chủ tôi cứ nửa đêm là thức trắng tới sáng, và mỗi lần như vậy thì ông thường bắt mọi người trong nhà phải bật đèn sáng hết tất cả các phòng ốc trong nhà. Hỏi tại sao thì ông ta không nói mà chỉ gầm thét rất dữ mỗi khi ai đó không nghe lời, không làm đúng ý ông ta!
Robert Lý là một đàn ông tuổi còn trẻ, chứ chưa phải là một ông cụ lẩm cẩm, khó tính, vậy mà đã có một thói quen kỳ lạ như vậy, ắt phải có nguyên do.
Tuy nhiên, ngoài những tiết lộ hiếm hoi của tài xế như vậy, chẳng một ai khác biết được gì thêm. Mà cũng khó mà biết được, bởi ngoài anh tài xế nói ra ít ỏi những điều đó rồi ngậm miệng, có cho vàng anh ta cũng không nói thêm, còn những người giúp việc khác trong nhà hầu như trước sau gì cũng bị cho nghỉ việc.
Ông chủ vốn độc thân từ lúc mọi người được biết ông như một người thích chuyển nhà như thay quần áo!
Ngôi biệt thự nằm trong khu đất rộng hơn nửa mẫu tây này có tiếng là đẹp và sang trọng. Đã nhiều người trước ông Robert Lý này muốn mua mà không mua được, tại người bán nói giá quá cao, vậy mà khi ông ta vào coi, chỉ hỏi giá, sau đó ông ta ký tờ chi phiếu trả tiền ngay, không đắn đo suy nghĩ.
Ông ta mua nhà giống như mua món hàng vài ngàn đồng. Khi dọn về ở, việc đầu tiên ông ta làm là sai tài xế Tài đi rước một ông thầy địa lý gốc từ Hồng Kông sang, khá nổi tiếng trong giới người Hoa ở Chợ Lớn. Ông thầy địa lý đó được chủ nhân yêu cầu có một điều:
- Nhà này tôi ưng ý hầu hết các chi tiết về xây dựng, không phải sửa đổi điều chi hết, chỉ yêu cầu ông trấn yểm thế nào cho yên ổn, nhất là để ban đêm cho nhà bớt lạnh!
Lời yêu cầu khá kỳ quặc, vậy mà ông thầy địa lý lại nhận lời ngay. Ông ta còn quả quyết:
- Chứng mất ngủ của ông cũng sẽ chấm dứt từ nay!
Robert Lý có vẻ hài lòng lắm, anh ta thưởng trước cho ông thầy địa lý một số tiền lớn, coi như vừa nhận được từ ông thầy này một ân huệ gì đó lớn lắm!
Đó là đêm thứ ba Lý dọn về ở trong ngôi nhà đắt tiền của mình. Anh ta thật sự hài lòng, bởi rõ ràng như lời cam kết của ông thầy địa lý, hai đêm rồi Lý ngủ yên giấc, lại ngủ giấc dài, không mộng mị, không giật mình lúc nửa đêm.
Ông ta quá đỗi vui, gọi tài xế Tài tới và dặn:
- Từ nay cậu không phải thức chờ lệnh mở đèn sáng như trước kia nữa. Tôi có thể ngủ trong bóng tối được rồi...
Đêm nay Lý đi ngủ khá sớm, lúc chưa đầy mười giờ. Đèn ngủ trong phòng ông cũng tắt hết, chứng tỏ ông ta đã bình yên, ngủ ngon...
Cho đến nửa đêm hôm đó...
- Tư Tài hả? Sao giờ này mày còn chưa ngủ, mà...
Hỏi tới đó thì ông Lý bật dậy, bởi ông cảm giác người bước qua cửa sổ ngoài không phải là Tài. Một người có mái tóc dài đang phất phơ trước gió...
- Ai vậy?
Sau câu hỏi của ông Lý thì chợt vang lên một âm thanh va chạm, giống như vật gì đó vừa ngã đổ. Hốt hoảng, ông Lý hỏi to:
- Sao vậy?
Ông không kịp suy nghĩ, đã tung cửa chạy ra nơi vừa phát ra tiếng động. Quả nhiên trước mặt ông là một người đang nằm sóng soài trên sàn: một phụ nữ với mái tóc dài!
Không có đèn sáng, nhưng do trời có trăng, nên Lý cũng đã nhận ra người nằm kia là một phụ nữ còn khá trẻ. Ông hơi lưỡng lự một chút, rồi bằng phản xạ tự nhiên ông luồn tay qua thân thể cô gái đỡ dậy, vừa lẩm bẩm:
- Sao lại đi đâu vào giờ này?
Rồi một cách tự nhiên, Lý bế xốc nạn nhân vào phòng mình. Và thay vì gọi tài xế Tài, ông ta lại tự tay mình đặt cô gái lên giường. Khi bật đèn sáng lên, ông ta càng kinh ngạc hơn khi nhận ra đó là một cô gái trẻ, lại đẹp như tranh vẽ.
- Cô ta là ai?
Lý tự hỏi, cũng vừa lúc cô gái trở mình, mở mắt ra và thảng thốt kêu lên khẽ:
- Đây là...?
Lý trấn an:
- Tôi là chủ nhân ngôi nhà này. Vừa rồi nghe cô bị ngã bên ngoài nên tôi mạn phép đưa vào đây.
Cô gái bật dậy, nhưng choáng váng suýt ngã, Lý phải đưa tay đỡ và lên tiếng:
- Cô cứ nằm cho khỏe hẳn đã!
Cô gái đưa cả hai tay ôm lấy ngực như muốn che giấu điều gì. Lúc này Lý mới để ý, ngực áo cô ta bị rách toạc một mảng lớn mà lúc nãy do vội nên ông không để ý.
Bằng một động tác thật nhanh, Lý lấy vội chiếc áo khoác của mình đang để ở đầu giường rồi trùm lên người cô ta kèm lời trấn an:
- Cô đừng ngại, nhà này ngoài tôi ra còn có tài xế đang ngủ gần đây. Cô cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi cần về thì tôi gọi tài xế đưa về. Tôi tên Lý!
Cô gái có vẻ bình tĩnh hơn, cô nói rất khẽ:
- Em là Mỹ Nhung. Em...
- Thôi được rồi, cô chưa cần nói gì đâu, cứ nghỉ ngơi đi đã. Để tôi pha ly chanh nóng cho cô uống sẽ ấm người. Có vẻ cô bị lạnh.
Cô ta vẫn còn run, nhưng sau khi được choàng chiếc áo khoác thì có vẻ đỡ hơn. Cô hơi ngại muốn rời khỏi giường, nhưng Lý đã kịp lên tiếng:
- Không sao cả, cô cứ ngồi đó.
Nhưng cô gái đã chủ động chuyển qua ngồi trên một trong hai chiếc ghế dựa trong phòng, vừa áy náy lên tiếng:
- Thật làm phiền ông quá. Tôi đi lạc...
- Sao cô lại lạc vào nhà này, trong khi cổng ngoài đã khóa và tường rào bao quanh ngôi nhà khá cao?
- Dạ... em bị người ta truy đuổi. Chỉ vì em... nhìn thấy một vụ... giết người!
Câu nói khiến Lý sửng sốt:
- Cô nói ai giết người? Giết ở đâu?
Đưa tay chỉ ra ngoài, cô gái giọng vẫn còn thất thần:
- Ngoài kia, ở xóm nhà bên ngoài...
Rồi cô ta giải thích rành rọt:
- Nhà em ở cạnh tường rào nhà này, lúc nãy em đang ngủ thì nghe có tiếng người kêu cứu bên ngoài, em mở cửa bước ra thì vừa lúc chứng kiến một người đàn ông đang vung dao chém một người khác. Em hoảng quá liền la lên, thế là hung thủ quay qua đuổi em, có lẽ hắn ta sợ bị lộ hành vi giết người của mình! Em quýnh quá nên leo vội lên gốc cây cạnh tường và... nhảy đại vào vườn nhà này. Em cố chịu đau và bò lê tới đây.
Lời giải thích khá hợp lý nên ông Lý không hỏi thêm, ông muốn hỏi xem cô gái có bị thương chỗ nào không, nhưng thấy cô vẫn còn lấy tay ôm ngực, nên không tiện hỏi. Chợt nhìn thấy một dòng máu thấm qua kẽ tay cô, Lý hốt hoảng:
- Cô bị thương rồi!
Cô gái không đáp, vừa nhích tay ra khỏi chỗ bả vai thì ngã phịch xuống sàn nhà! Hốt hoảng, Lý đỡ cô và một lần nữa đưa trở lại giường. Lần này cô gái ngất đi hẳn...
Đồng hồ trên tường lúc ấy đổ một tiếng khô khan...
***
Định thức canh cho cô gái ngủ sau khi chính mình băng vết thương trên bả vai cô ta, nhưng cuối cùng Lý cũng ngủ thiếp đi. Đến lúc choàng tỉnh thì nghe bên ngoài có tiếng gọi khá to của tài xế Tài:
- Ông chủ ơi, trưa quá rồi! Hôm nay ông có dặn là mình đi sớm lên vườn cao su thăm người bạn của ông ở Tây Ninh mà!
Lúc này Lý mới chợt nhớ, ông nhìn lên giường và hốt hoảng khi không thấy cô gái nằm trên đó:
- Đâu rồi?
Từ bên ngoài, Tài tưởng ông chủ hỏi mình nên vội lên tiếng:
- Ông nói cái gì đâu rồi?
- Cô... à không không, tao nói...
Ông mở cửa phòng, ngơ ngác hỏi:
- Mày có thấy ai ngoài này không?
Tài ngẩn người ra:
- Đâu có ai!
Sợ Tài phát hiện ra những bất thường trong phòng, Lý bảo:
- Thôi, mày ra ngoài chờ đi, tao sửa soạn một chút cái đã!
Trở vào nhìn lên giường, ông phát hiện trên gối nằm có mấy chữ viết vội bằng son môi:
"Cám ơn anh đã cho nghỉ ngơi và săn sóc vết thương. Em có việc phải về nhà gấp, hẹn sẽ có dịp đền đáp công ơn.
Mỹ Nhung."
Lý ngẩn ngơ mấy giây rồi đưa mắt nhìn ra phía sau vườn, nơi có bờ tường cao ngăn với xóm nhà bên ngoài. Ông suy nghĩ một lúc rồi hỏi tài xế Tài:
- Mày có biết xóm nhà phía sau vườn mình không?
Tài gật đầu:
- Dạ, có biết. Nhưng em chưa qua đó lần nào từ khi ông dọn về đây.
- Đưa tao qua đó!
Tài ngạc nhiên:
- Thưa ông...
Lý không để cho Tài hỏi thêm, đã bước nhanh ra sau vườn.
- Ủa, sao ông đi lối này?
- Tao muốn!
- Bộ ông muốn leo qua tường sao? Tốt hơn..
Tuy không có ý định đó, nhưng Lý cũng muốn tận mắt nhìn xem lời kể của cô gái có đúng hay không, nên giục Tài bước tới tận bờ tường. Sẵn có thang leo hái trái để gần đó, đích thân Lý trèo lên và nhìn sang bên kia. Quả nhiên có một cây mít to. Cành của nó giẻ qua tận bờ tường. Lý thầm bảo:
- Cô ta nói đúng...
Rồi anh cùng với Tài đánh xe vòng qua bên xóm nhà. Đến lúc này Lý mới hơi lúng túng, anh chẳng biết phải hỏi thế nào cho phải, bởi cô nàng và anh chỉ mới quen biết nhau qua một giây phút ngắn ngủi...
Cũng may, vừa khi ấy có một ông cụ từ trong ngôi nhà sát bờ tường bước ra, ông nheo mắt hỏi khách lạ:
- Mấy chú kiếm ai?
Lý vội đáp:
- Dạ... cháu muốn tìm cô Mỹ Nhung.
Ông già nhìn sững vị khách sang trọng rồi lặng lẽ quay bước vào trong, buông một câu mời:
- Mời anh vào nhà.
Lý để Tài ngồi ngoài xe, còn anh theo vào trong. Thấy nhà vắng người, lại không có tăm hơi gì của cô gái, Lý vừa định lên tiếng hỏi thì ông cụ đã nói:
- Anh cần gặp cháu tôi có việc gì?
- Dạ, cháu...
- Anh chưa cho tôi biết, anh quen thế nào với cháu gái tôi?
- Dạ, cháu và cô Mỹ Nhung chỉ mới quen. Cháu muốn hỏi thăm vết thương trên vai của cô ấy đã đỡ chưa ạ!
Ông cụ giật mình:
- Nó bị thương sao?
Lý ngạc nhiên:
- Vậy cô ấy chưa về nhà sao? Cô ấy...
Ông cụ chợt đổi giọng:
- À không... Tôi muốn hỏi, anh là người cứu cháu phải không?
Lý thở phào:
- Dạ, cũng gần như vậy. Cháu muốn biết bây giờ cô ấy có khỏe không?
Ông cụ nhẹ gật đầu:
- Nó không sao!
- Thưa ông, cô ấy...
- À, nó hiện không có ở nhà. Tối qua có lẽ nó về bên nhà nội nó...
- Dạ, bác đây là...
- Tôi là ông ngoại. Cháu nó ở đây với tôi từ khi ba má nó vắn số đến nay.
Lý nhìn lên tường thấy có bức chân dung của Mỹ Nhung khá to treo cạnh một phụ nữ lớn tuổi mà vừa thoạt nhìn Lý đã ngờ ngợ, hình như quen quen...
Anh chưa kịp hỏi thì ông cụ đã nói:
- Cháu uống nước đi!
Ông thấy Lý cứ nhìn lên mấy bức ảnh trên tường thì nói:
- Nó và mẹ nó lúc còn sống.
- Dạ... bà ấy có phải là bà Thu Hà?
Ông cụ ngạc nhiên:
- Cậu biết con gái tôi?
- Dạ, nếu đúng đó là bà Thu Hà thì cháu có biết. Trước đây bà và ba má cháu có quen.
- Vậy cậu là con ai?
- Dạ, ba cháu là thầu khoán Lê Khả.
Ông cụ trợn tròn mắt nhìn Lý khá lâu rồi reo lên:
- Quả là trái đất tròn! Tôi có biết ba cậu. Ngày xưa...
Ông chợt khựng lại và rồi nín lặng, tinh ý lắm mới nghe ông thở dài. Rót tách trà nóng mời Lý uống, ông vừa nhìn đồng hồ tay rồi nói:
- Xin lỗi cậu, tôi có việc phải ra chợ. Hôm nay là ngày giỗ của con gái tôi.
Lý vội vã:
- Dạ xin lỗi bác, cháu làm phiền bác quá.
Anh kiếu từ và ra xe giục tài xế:
- Mình về thôi.
Tài mở khóa xe, nhưng sau mấy lần khởi động xe vẫn không chạy được. Lý càu nhàu:
- Đã dặn nhiều lần rồi, phải chăm sóc xe cẩn thận...
Tài lúng túng:
- Thưa ông, em mới chỉnh lại xe hôm qua, nó còn ngon lành mà.
- Coi lại xăng thế nào!
- Dạ, em mới đổ chiều hôm qua, còn đầy bình.
Lúc ấy, Lý thấy ông cụ đạp chiếc xe đạp đi qua, trên xe máng cái giỏ đi chợ.
Anh lại giục:
- Người ta đi xe đạp mà còn nhanh hơn mình kìa!
Xe chưa kịp nổ máy thì chợt Lý phát hiện có một nghĩa trang nhỏ phía sau ngôi nhà, anh bảo với Tài:
- Hóa ra nhà mình ở cạnh một nghĩa địa mà lúc mua mình không để ý.
Tài đã nhìn thấy lúc đậu xe chờ, anh ta nói với ông chủ vẻ thân tình:
- Đây là nghĩa địa riêng, chỉ có vài ngôi mộ thôi. Không chừng của nhà này đó cậu.
Tự dưng Lý thấy tò mò, anh bảo:
- Mày ráng nổ máy đi, để tao ra coi.
Anh bước nhanh ra phía sau nhà như bị một điều gì đó xúi giục, không thể cưỡng được. Ngôi mộ đầu tiên anh nhìn thấy đã làm cho hai mắt hoa lên, anh phải dụi hai lần và ghé sát hơn vào bia mộ: "Mộ chí Nguyễn Thị Mỹ Nhung."
- Cái gì?
Lý không tin vào mắt mình, anh cúi hẳn xuống nhìn và trong lúc còn bàng hoàng thì chợt nghe có giọng nói phía sau:
- Đây là chị em sinh đôi, trùng tên với cháu nó.
Quay lại thấy ông cụ lúc nãy vừa trở về, Lý lúng túng nói:
- Dạ, xe cháu chết máy, nên cháu...
- Cậu tò mò vì cái tên trên mộ bia phải không?
- Không phải là nó mà là đứa em nó, trùng tên.
Lý nghe tim mình đập nhẹ đi và anh thở phào:
- Vậy mà cháu cứ tưởng...
Vừa khi ấy, tài xế gọi vọng vào:
- Nổ máy được rồi cậu ơi!
Lý vội chào ông cụ rồi bước ra xe ngay, sợ ông già hỏi thêm. Anh cũng chẳng hiểu sao mình như vậy nữa.
Khi xe chạy rồi anh mới hỏi Tài:
- Mày có gặp trường hợp hai chị em trùng tên bao giờ chưa?
Tài đáp ngay:
- Có chứ cậu. Như ở quê em, hai đứa đều tên là Lài, nhưng một đứa là Lài chị, còn đứa kia là Lài em.
- Nhưng một người sống một người chết, mày đã gặp chưa?
- Dạ chưa. Mà ai vậy cậu?
- Nhà đó đó. Cô chị tên Mỹ Nhung mà em cũng cùng tên, cô chị sống, cô em chết.
Tài nhìn sang cậu chủ:
- Bộ cậu quen ai trong hai cô sao?
Lần đầu tiên Lý lúng túng trước tài xế của mình:
- À đâu có!
Tài lờ mờ đoán ra chuyện gì đó nhưng không dám hỏi. Anh chỉ hỏi khi xe ra tới ngoài đường cái:
- Mình có đi Tây Ninh không cậu?
Lý nhìn đồng hồ tay rồi đáp:
- Thôi khỏi, mình về nhà.
Vừa về tới nhà, Lý đã đi ngay vào phòng riêng và vừa mở cửa ra anh đã suýt kêu lên, bởi trên giường của anh đang có người nằm. Mà người đó không ai khác hơn là Mỹ Nhung!
- Sao cô lại ở đây?
Cô gái nhoẻn miệng cười rất tươi, khác hẳn vẻ tiều tuỵ đêm qua:
- Dạ, em không ra ngoài được.
- Vậy ra từ đêm qua đến giờ cô vẫn còn ở trong nhà này? Mà sao sáng nay...
- Em tính không làm phiền anh nữa nên định trở ra bờ tường để trèo về bên kia, nhưng em vừa trèo thì bị ngã, em nằm ngất đi ở bụi cây.
Lý hốt hoảng:
- Cô bị ngất suốt từ đó ư?
Cô gái bẽn lẽn:
- Em tỉnh lại sau đó, nhưng khi vào đây thì anh đã đi ra ngoài rồi.
- Vậy sao cô vào phòng tôi được?
- Anh đi mà đâu có khóa cửa phòng, nên em vào đại. Bởi em nghĩ, không quen ai trong nhà này, vậy cách an toàn nhất là vào phòng người em từng làm quen đêm qua cho chắc ăn!
Một lần nữa, Lý bị thuyết phục bởi cách nói năng lưu loát của cô gái trẻ, anh nhìn cô ái ngại:
- Vết thương cô sao rồi?
Cô gái cười hồn nhiên:
- Ngất đi một lúc lâu, khi tỉnh lại thì hầu như vết thương không còn đau nữa. Cám ơn anh!
Lý cau mày:
- Cô bị nhốt trong nhà tôi mà lại cám ơn tôi là sao?
- Là vì... nếu trở về sớm thì chắc chắn em sẽ no đòn với ông ngoại. Ông ngoại em thương em, nhưng bỏ nhà đi qua đêm là không được.
- Nhưng tối qua cô nói là bị bọn người xấu đuổi theo mà? Vả lại, đâu có nghe ông ngoại cô nói gì chuyện rầy rà...
Nghe Lý nói, cô gái trố mắt nhìn anh:
- Sao anh biết? Bộ anh...
Lý đành thú nhận:
- Tôi xin lỗi vì đã phải sang tận nhà cô để hỏi thăm. Bởi cô biến mất đột ngột khiến tôi lo lắng.
Cô gái cất giọng dò hỏi:
- Anh gặp ai trong nhà?
- Thì ông ngoại cô và cả...
Lý ngừng nói, nhìn cô gái vài giây mới tiếp lời:
- Thấy cả ngôi mộ mang tên cô nữa!
Câu nói đó khiến cô nàng bật dậy liền. Nhưng Lý lại nói luôn:
- Ngôi mộ mang tên Mỹ Nhung, nhưng ông ngoại cô nói đó là người em song sinh trùng tên.
Cô nàng ngồi xuống giường, sắc mặt giãn ra.
- Đúng thế chứ, cô Mỹ Nhung?
Lần đầu tiên nghe anh gọi chính tên mình, cô nàng hài lòng:
- Anh không ngạc nhiên khi em không phải là người nằm dưới mộ?
Câu hỏi hơi bất ngờ khiến Lý phải mất vài giây mới đáp:
- Tôi đi tìm cô là tìm người còn sống, chứ đâu muốn nhìn ngôi mộ!
Cô nàng vụt đứng lên định bước ra thì Lý gọi lại:
- Cô nói là sợ về bị ăn đòn sao bây giờ lại về?
- Anh đã thấy ông ngoại em đi chợ rồi phải không? Như thế là ổn, em chỉ việc về nhà nấu cơm sẵn, đợi ông mang thức ăn về là ông sẽ vui ngay, không rầy và chắc chắn là không đánh.
- Dẫu cô cháu gái ông bỏ nhà đi qua đêm?
Mỹ Nhung hơi khựng lại, rồi bất ngờ nói:
- Hay anh đưa em về giúp, được không?
Lý rùn vai:
- Về và thú nhận là đã bắt cóc cháu gái ông để ăn đòn thay cô hả?
Nàng không chú ý đến nội dung câu hỏi, vẫn giục Lý:
- Anh đã giúp thì giúp cho trót đi!
Lý gọi tài xế:
- Cậu đưa giùm cô này về nhà, chỗ tôi và cậu mới vừa sang đó.
Tài ngơ ngác khi chưa nhìn thấy cô nàng:
- Cô nào, thưa cậu?
- Cô đang ở trong phòng tôi.
Tài sửng sốt:
- Cậu.. cậu có... ai trong phòng?
Lý gắt:
- Bảo thì cứ làm, hỏi lôi thôi làm gì!
Chợt bên trong giọng của Mỹ Nhung vọng ra:
- Phải anh đưa thì em mới về, còn không thì em... ngủ ở đây luôn!
Quá bất ngờ, Tài lè lưỡi rụt cổ như ngầm bái phục ông chủ của mình. Biết anh ta hiểu lầm, Lý lại gắt lên:
- Đừng nghĩ lung tung! Mau đưa xe ra cửa đi.
Tài chạy xe ra cổng đợi, lát sau Lý cùng ra với người đẹp. Vừa chợt nhìn thấy, Tài đã kêu lên:
- Cậu, đây là...
Lý phải đập vào vai chàng tài xế lắm mồm một cái rõ đau thì anh ta mới chịu nín im. Anh ta cho xe chạy ra khỏi cổng vừa được hơn chục thước thì bỗng ôm lấy đầu kêu đau. Chiếc xe đang ngon trớn đã suýt đâm sầm vào cột đèn khi anh ta kịp đạp thắng gấp. Lý la lớn:
- Mày làm gì vậy Tài?
Nhưng lúc ấy Tài đã gục trên vô lăng, mặt anh ta tái xanh. Quýnh lên, Lý lay anh ta, vừa gọi:
- Tài, sao vậy?
Cũng may vừa khi ấy Tài mở mắt ra, anh ta hoảng hốt chỉ tay về phía trước:
- Cậu không thấy gì sao, có...
Lý ngạc nhiên:
- Có cái gì?
- Người... người ta nằm lăn ra đường, suýt chút nữa... chút nữa mình cán qua họ rồi!
Lý hoàn toàn không thấy gì như lời Tài nói, nên vội nhìn ra ngoài và càu nhàu:
- Có ai đâu, thằng này mày sao vậy?
Tài vẫn còn tỏ ra sợ hãi, vừa chỉ tay ra phía trước vừa run giọng nói:
- Kia kìa, cậu không thấy sao?
Lúc ấy, chợt Mỹ Nhung cũng lên tiếng:
- Có người bị tai nạn phía trước, anh thử bước xuống xem...
Buộc lòng Lý phải mở cửa xe bước xuống. Vừa đặt chân chạm đất thì bỗng nhiên Lý kêu lên:
- Họ nằm đây nè!
Ngay bên hông xe, đúng chỗ Lý vừa bước xuống đã có một người nằm sóng soài. Lúc này Lý mới hốt hoảng:
- Vậy ra mày đã đụng vào người ta rồi!
Lý cúi xuống định đỡ nạn nhân lên thì chợt sững sờ khi nhìn vào mặt người phụ nữ tuổi trung niên đang nằm nhắm nghiền mắt dưới chân.
- Bà... bà Thu Hà!
Người phụ nữ này có khuôn mặt giống hệt như trong bức ảnh chân dung ở nhà ông cụ hồi sáng nay. Lúc này Lý vội nhìn vào trong xe, anh định hỏi Mỹ Nhung thì chẳng còn thấy cô ta đâu!
Có vài người đi đường nhìn thấy, họ la lên:
- Sao không chở người ta vào bệnh viện đi, còn ở đó chờ cho người ta chết sao?
Lý chợt hoàn hồn, anh giục Tài:
- Đưa bà ấy lên xe rồi chở vào bệnh viện ngay đi!
Dẫu đã trên mười năm rồi, nhưng gương mặt người phụ nữ này vẫn đập mạnh vào tâm trí Lý, anh thẫn thờ như người mất hồn khi nhớ lại câu nói của ông ngoại của Mỹ Nhung hồi sáng:
- Kể từ khi ba má nó chết hết thì con Mỹ Nhung ở với tôi.
Anh chợt rùng mình, nhưng vẫn giục Tài chạy nhanh đi tìm bệnh viện. Khi tới bệnh viện cấp cứu, anh đích thân mở cửa và giục Tài:
- Mày chịu khó bế bà ấy vào, nhanh lên!
Nhưng chợt Tài kêu lớn:
- Cậu Hai, coi kìa!
Theo tay chỉ của Tài, Lý nhìn ra băng ghế sau, anh kinh hãi khi thấy ở đó là... một bộ xương người chứ không phải là người phụ nữ bị tai nạn lúc nãy nữa!
- Trời ơi!
Lý chỉ kịp kêu lên như vậy rồi lặng người đi, mồ hôi lạnh thấm ướt cả lưng áo...
Việc phải âm thầm chở bộ xương người trên xe quay về ngôi nhà của ông cụ tìm Mỹ Nhung là điều vạn bất đắc dĩ mà Lý buộc phải làm. Anh động viên Tài:
- Ráng giúp tao một chút.
Tài thắc mắc:
- Nhưng cậu đâu bắt buộc phải chở về đó, trong khi ta có thể đem bỏ ở bãi đất trống nào cũng được mà!
Lý nghiêm giọng:
- Không được. Mày cứ làm theo tao đi, rồi ắt biết tại sao.
Khi Tài chạy xe tới đúng ngôi nhà lúc sáng thì chính Lý ngạc nhiên khi thấy cửa nẻo đóng kín. Ngỡ ông cụ đi chợ chưa về nên anh bảo Tài tắt máy xe đợi.
Hơn nửa giờ sau, Lý bắt đầu sốt ruột, nhất là việc Mỹ Nhung vẫn chưa trở về nhà. Anh hỏi lại Tài:
- Lúc nãy khi lộn xộn, mày có thấy cô gái bước ra khỏi xe không?
- Dạ, lúc ấy em bị choáng, đâu biết gì.
Chờ thêm nửa giờ nữa, Lý quyết định bước xuống xe đi vòng ra sau nhà, chỗ mấy ngôi mộ đá. Anh giật mình khi thấy ngôi mộ nằm cạnh mộ đề tên Mỹ Nhung bị vỡ một mảng lớn, như bị ai đó đập phá. Trên bia mộ ghi rõ: Mộ phần Lê Thị Thu Hà.
Tò mò, Lý cúi xuống nhìn kỹ dòng chữ ghi bên dưới được khắc bằng tay, dạng chữ viết thường:
"Hận nhà họ Vương!"
- Sao là họ Vương?
Lý bị kích động khi dòng họ Vương của mình bị nêu ra ở đây. Anh ngồi hẳn xuống ngay đầu mộ, đưa tay bới đất cát lấp một phần dòng chữ tiếp theo để đọc cho hết câu:
"Lòng dạ bạc bẽo của người này chỉ có phanh thây ra mới hả dạ! Suốt kiếp này mày đừng hòng ngóc đầu lên được Dương Cường ơi!"
Tới đây thì Lý không thể nào còn bình tĩnh được nữa, anh sửng sốt kêu lên:
- Cha tôi sao?
Dương Cường là cha của anh. Ông ấy có liên hệ với người phụ nữ tên Thu Hà này là điều Lý từng biết, tuy còn lờ mờ. Nhưng câu ghi trên mộ này đích thị là dành cho cha mình! Lý thì thào:
- Sao... sao lại có chuyện này...?
Anh ngồi thừ người ra ở đó khá lâu, lúc đứng lên trở ra xe thì một lần nữa Lý sửng sốt khi thấy Tài gục trên tay lái, ngất lịm. Nhìn ra băng ghế sau, anh kêu lên:
- Đâu rồi?
Bộ xương đã biến mất!
Lý nhìn quanh, xóm vắng không có một bóng người. Ngôi nhà của ông cụ vẫn khóa chặt cửa. Khi Lý bước tới nhìn qua khe cửa thì hốt hoảng, bởi ở giữa nhà có một cỗ quan tài đỏ nằm trong bóng lờ mờ...
Còn đang hoang mang thì chợt Lý nghe có tiếng ai đó sau lưng:
- Nhà đó không có ai ở đâu, mà cậu tìm ai?
Lý quay lại, anh thấy một phụ nữ trung niên đang nhìn anh như dò xét. Lý phải lên tiếng:
- Tôi tìm ông cụ chủ nhà. Ông có cô cháu ngoại tên Mỹ Nhung...
Chị nọ nhìn sững Lý rồi nói, giọng hơi run:
- Ông... ông ấy đã... còn cô... cô...
Chị ta chỉ nói được mấy tiếng không thành câu đó rồi vụt bỏ chạy như bị ma đuổi. Lý ngơ ngác gọi theo:
- Kìa chị! Chị ơi...
Trong nháy mắt, người phụ nữ đã biến mất dạng. Lý còn đang phân vân thì nghe Tài gọi vừa nhấn còi xe:
- Cậu Hai!
Khi Lý trở lại xe thì thấy sắc mặt của Tài vẫn còn thất thần, anh hỏi:
- Hồi nãy mày bị sao vậy? Còn cái...
Lý vừa hỏi vừa nhìn ra băng sau, Tài run giọng đáp:
- Em đang ngồi đợi cậu ra thì chợt nghe có tiếng động phía sau, em quay lại thì thấy một phụ nữ trung niên với mái tóc dài quá lưng đang trừng mắt nhìn! Em chưa kịp có phản ứng gì thì bỗng bị mờ mắt, đầu óc quay cuồng, rồi không còn biết gì nữa...
Lý càng hoang mang hơn, anh chỉ ra sau nhà, nói giọng hơi run:
- Ngôi mộ phía sau đó cũng... cũng...
Tự dưng Lý cảm giác như có ai chặn ngang không để anh nói. Anh hốt hoảng giục Tài:
- Chạy đi!
Khi về đến nhà, Lý vẫn chưa hết bàng hoàng. Anh dặn Tài:
- Mày nghe bất cứ động tĩnh gì cũng phải chạy ngay lên phòng tao, đừng để tao phải gọi!
Lý đóng cửa phòng lại, và anh mở tung mấy ngăn kéo cất giữ giấy tờ sổ sách mà khi dọn nhà tới đây anh chưa có dịp sắp xếp lại. Vật anh tìm là những gì của cha để lại mà bấy lâu nay Lý ít khi để ý tới. Phần lớn là những bản lưu các hợp đồng thi công những công trình lớn, thỉnh thoảng có lẫn một vài giấy tờ, thư từ riêng.
Và cuối cùng vật mà Lý cần tìm đã có. Đó là một bao nhựa cũ, trong đó gói khá kỹ những thư từ, hình ảnh của cha và... của một người tên Thu Hà!
- Đây rồi!
Những thứ này kể từ khi cha chết đã hơn tám năm, Lý niêm kín trong tủ riêng, kể cả mẹ anh chết sau cha hai năm Lý cũng không cho bà xem.
- Thì ra bà Thu Hà và cha...

Lý vừa tò mò giở từng phong thư và hình ảnh. Lúc này anh mới phát hiện trên một bức ảnh chụp riêng bà Thu Hà, có những nét bút mực đỏ gạch chéo gần như muốn xóa hết khuôn mặt xinh đẹp trong đó.
- Sao ai lại làm vậy?
Lý lật phía sau bức ảnh, anh giật mình khi nhận ra nét chữ quen thuộc của mẹ:
"Con chó cái này, mày không thể tồn tại trên cõi đời này là đúng với ý trời, đừng trách ai cả!"
Đọc thêm vài lá thư nữa, Lý biết đó là những thư tuyệt tình của người tên Thu Hà, trong đó có đoạn viết:
"Chuyện của mình càng lúc càng đi đến ngõ cụt mà thôi. Em xin anh hãy buông tha cho em, còn phần em thì để quên anh, em sẽ đi lấy chồng. Em đau đớn mà làm việc này, nhưng như thế còn hơn, bởi em không thể yêu một người đã có vợ, để suốt năm tháng vò võ đợi chờ trong tuyệt vọng... Thôi, quên em đi...
Thu Hà."
Thì ra ba đã yêu người đàn bà này trong khi đã có mẹ rồi. Thảo nào mẹ ghen như vậy...
Đến một lá thư sau cùng, được để dưới một xấp ảnh, vừa đọc ngay dòng đầu, Lý đã sững sờ:
"Tôi hận anh kiếp này qua kiếp khác Dương Cường ơi!"
Nội dung gần giống với câu trên mộ bia. Và còn nữa, những dòng tiếp theo:
"Anh không thể bảo đảm chuyện tình yêu cho người ta thì hãy để cho người ta hạnh phúc, cớ sao lại nhẫn tâm phá hoại cái mà người ta cất công xây dựng?
Anh đã ra tay độc ác thì đừng trách sao chính mình sẽ lãnh hậu quả thảm khốc."
Lý buông những lá thư và hình ảnh xuống rồi thẫn thờ khá lâu. Vậy ra cha mình có lỗi trong vụ gì đó chăng? Hay là lỗi với chính bà Thu Hà?
Suốt buổi đó hầu như Lý không ra khỏi phòng. Anh cố tìm thêm những chi tiết khác nữa, nhưng không có... Bất chợt anh nhớ tới mẹ:
- Ở nhà ngoại, nơi mẹ ở vào những ngày cuối đời!
Điều vừa lóe lên trong đầu khiến cho Lý gọi giật tài xế vào:
- Chuẩn bị đi Bà Rịa ngay!
Tài ngạc nhiên:
- Chỉ tới Bà Rịa thôi hay đi luôn Vũng Tàu hả cậu?
- Bà Rịa thôi, về nhà ông bà ngoại tôi!
Tài muốn có ý kiến ngăn lại, bởi lúc đó đã hơn 5 giờ chiều rồi, nhưng anh biết tính của cậu chủ mình, một khi đã muốn làm việc gì rồi thì có trời mới cản được. Bởi vậy Tài vẫn cho xe ra cổng và chờ.
Khi Lý vừa mở cửa xe phía sau thì anh ngạc nhiên hỏi:
- Cái gói gì đây?
Tài ngơ ngác:
- Dạ, gói gì em đâu có biết?
Lý mở lớp giấy bọc bên ngoài ra, anh ngạc nhiên vì bên trong là một cái hộp thiếc, loại hộp đựng bánh bisqui. Nhưng bên trong không có bánh, mà chứa toàn những giấy tờ, thư từ...
- Của mẹ!
Nhìn chữ viết cùng những vật dụng quen thuộc, Lý nhận ra ngay đó là đồ vật của bà Mỹ Hoa, mẹ anh.
Lý hỏi lại:
- Sao nó lại ở đây?
Lý biết chắc hầu hết những đồ vật riêng tư của mẹ, khi bà mất thì bà ngoại anh đã lấy về cất riêng trong căn phòng mà mẹ anh được dành riêng trong ngôi nhà của ông bà ngoại ở huyện Đất Đỏ. Nó chưa hề được đưa về nhà này, lại càng không thể nằm khơi khơi trên xe như thế này.
Giở nắp hộp ra, Lý phát hiện có một mảnh giấy với dòng chữ lạ:
"Cần gì phải ra tận Bà Rịa, những gì cần xem nó ở cả trong chiếc hộp này!".
- Chữ này của ai viết vậy, mày biết không Tài?
Đưa miếng giấy với mấy dòng chữ viết đó cho Tài xem, anh ta lắc đầu:
- Em đâu có biết.
Lý thay đổi quyết định, anh bảo:
- Mày cho xe trở vào và chờ tao một lát.
Anh đi thẳng vào phòng mình, tuần tự giở hộp thiếc ra. Ngay tờ giấy đầu tiên đã khiến Lý phải giật mình, bởi trên đó không viết chữ gì, mà chỉ có một bức ảnh chân dung của bà Thu Hà cùng với dấu gạch chéo bằng bút đỏ. Một dấu gạch chéo đủ nói lên ý của người gạch: Xóa sổ người trong ảnh!
Chưa hết, ngay dưới đó còn có một lá thư với nét chữ lạ, viết rất thô kệch và đề thẳng tên mẹ: Gửi bà Mỹ Hoa. Lý hơi run tay khi bóc lá thư này ra xem.
"Theo đúng ý bà, tôi đã cho đàn em làm xong mọi việc. Tình địch của bà, cả chồng con nó đều đã bị thiêu sống trọn gói, như một tai nạn cháy nhà, chẳng ai có thể nghĩ đó là một vụ giết người.
Như vậy, lần này bà không còn phải áy náy nữa về việc trừng phạt mà bà trách tôi là ra tay nửa vời như lần trước. Tình địch của bà giờ đây không còn có cơ hội viết thư tố cáo với chồng bà nữa. Vậy đề nghị bà trao nốt số tiền công còn lại cho người cầm giấy này nội trong ngày hôm nay.
TB: Điều dặn dò cẩn thận của bà cũng đã được đàn em tôi thực hiện chu đáo: trước khi chết, tình địch của bà được báo cho một chi tiết thú vị rằng chính ông Dương Cường đã ra tay để trả thù việc bà Thu Hà bỏ đi lấy người khác, gây cho ông chồng bà đau khổ! Hồn người kia dưới Suối Vàng sẽ luôn nghĩ rằng bà ta bị tình nhân sát hại. Và nếu có trả thù thì chắc chắn họ cũng chỉ tìm chồng bà để trả thù mà thôi!"
Buông lá thư xuống, Lý chỉ kịp kêu lên mấy tiếng rồi gục xuống.
***
Khó khăn lắm Lý mới tìm được ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong con đường dẫn lên núi ở một thôn cách thị trấn Long Điền hơn năm cây số.
Ngôi nhà cửa đóng im ỉm, đứng ngoài khá lâu rồi mà Lý vẫn không thấy bóng ai bước ra.
Mặt trời dần xuống thấp càng làm cho Lý hơi lo, bởi nếu không gặp được người cần tìm thì có lẽ anh phải trở về Bà Rịa ngủ trọ, rồi mai trở lại tìm nữa.
Vừa khi ấy, có người lên tiếng hỏi từ phía sau:
- Cậu kiếm ai?
Giật mình quay lại thấy một bà cụ, Lý lễ phép:
- Dạ, cháu muốn tìm ông Năm Lực.
Bà già chỉ tay vào nhà:
- Ông ấy ở trong nhà! Cậu phải vô tận nơi để kêu may ra ông nghe, chứ đứng ngoài này thì tới bao giờ ông ấy mới ra!
- Dạ, nhưng cổng ngoài đóng chặt...
- Đẩy mạnh mà vào, không có khóa đâu. Nhưng nói trước để cậu biết, coi chừng khi vào gặp ông già đó!
Lý ngạc nhiên:
- Sao vậy bác? Cháu chỉ hỏi thăm chuyện nhà một chút, chứ có làm phiền gì ông ấy đâu?
Bà cụ khẽ lắc đầu:
- Ông già này tính khí thất thường lắm. Bình sinh ông không chịu tiếp xúc với ai, cũng không gây khó dễ gì cho ai, nhưng nếu ai làm cho ông ta bực mình thì liệu hồn, có khi ông ấy vác cây đuổi chạy không kịp! Ở xứ này ai cũng ngán, không ai dám bước vào nhà nửa bước. Cậu liệu mà tính!
Nói xong bà cụ đi thẳng. Lý hơi lưỡng lự, nhưng cuối cùng anh mạnh dạn đẩy cánh cổng và bước vào sân. Câu nói của người nào đó trong giấc mộng đêm qua như còn văng vẳng bên tai, nó như sự thôi thúc Lý phải gặp ông già cho bằng được:
"Gặp ông Năm Lực thì mọi điều sẽ sáng tỏ. Ông ấy sẽ cho anh biết anh phải làm gì để thoát ra khỏi khổ nạn này. Bằng không, anh sẽ bị mất ngủ triền miên, bị quấy phá suốt đời và thậm chí sẽ tiêu tan hết sản nghiệp do cha anh để lại".
Lý bước nhanh đến bên cửa trong ngôi nhà và gõ liền mấy cái vào cửa, vừa cất tiếng gọi:
- Bác Năm ơi, bác Năm!
Anh phải gọi đến lần thứ ba thì mới nghe một giọng khàn đục lên tiếng:
- Ai đó?
- Dạ, cháu tìm bác có việc gấp. Cháu từ Sài Gòn ra.
- Ai ở Sài Gòn ra?
Giọng ông già trở nên hằn học và cộc lốc:
- Ai?
- Dạ, cháu là Lý. Cháu cần tìm ông Năm Lực.
- Lý nào?
Lý bắt đầu ngại khi nghĩ mình sắp đối diện với con người hung hăng này.
Anh cố dịu giọng:
- Cháu được cô Mỹ Nhung giới thiệu...
Không ngờ câu nói bịa của Lý lại có tác dụng tức thời. Ông già mở ngay cánh cửa, vừa hỏi:
- Con Mỹ Nhung đâu?
Ông đứng đối diện với Lý mà chẳng màng đến anh, chỉ đảo mắt tìm kiếm.
Hiểu ý, Lý phải nói:
- Dạ, cháu ra có một mình. Cháu chỉ..
Cánh tay khẳng khiu của ông cụ vung lên và rất nhanh, ông giáng thẳng vào mặt Lý một cái. Nếu không cảnh giác trước thì Lý đã lãnh trọn cái tát đó.
Anh kịp đưa tay chụp cánh tay ông lại vừa lên tiếng:
- Cháu không có ý xấu. Cháu chỉ nghe theo lời mách bảo của Mỹ Nhung ra gặp ông, đem cho ông ít quà...
Cánh tay già nua tuy có dữ dằn, nhưng sức lực đâu bì được với sức trẻ, do vậy khi bị Lý kìm lại, ông đành phải rút tay về và đột nhiên bật thành tiếng khóc. Ông khóc nức nở như một người chưa từng được khóc, khiến cho Lý lo ngại:
- Kìa bác. Cháu chỉ...
Anh đã chuẩn bị sẵn gói quà theo lời mách bảo của người báo mộng cho anh đã dặn, mấy bánh thuốc hút.
Vừa đưa nó ra, ông cụ đã reo lên như đứa trẻ được quà:
- Con Mỹ Nhung của ông đây mà! Quà của nó ở đây mà...
Ông vồ lấy mà không đợi Lý đưa. Và thái độ ông đổi khác ngay khi ôm gói quà trong tay:
- Con Mỹ Nhung của ông đâu? Nó được bao lớn rồi? Nó sao không về đây vấn thuốc cho ông hả?
Những câu hỏi liên tục khiến Lý chưa biết trả lời sao thì chợt anh nhìn thấy một ảnh chân dung phóng lớn treo trên vách nhà, hình một bé gái tuổi khoảng lên ba, có nét hao hao với Mỹ Nhung. Linh cảm khiến Lý ứng đối kịp thời:
- Dạ, Mỹ Nhung nay đã lớn rồi, cô ấy có thể mồi thuốc cho ông hút được!
Đang vui, bỗng ông nhìn Lý quát lớn:
- Sao tập cho con gái hút thuốc hả? Không được nghe chưa!
Nói xong, ông giữ chặt gói thuốc trong tay vừa bước thẳng vào trong như sợ có người giật lại gói quà của mình. Quan sát sự việc, Lý đã đoán phần nào tính khí và tình trạng sức khỏe của ông cụ. Anh lại dịu giọng nói:
- Mỹ Nhung gửi lời thăm ông và dặn ông không được ăn uống thất thường. Mỹ Nhung...
Bỗng dưng ông cụ quay trở ra, chỉ tay lên bức ảnh bé gái, vừa mếu máo nói:
- Con nhỏ chết khi mới chừng ấy tuổi thôi, tội lắm trời ơi!
Bây giờ đến phiên Lý kinh ngạc, anh lúng túng:
- Dạ, cháu... cháu...
- Ngồi xuống đi, rồi nói cho ta nghe coi cháu tao bây giờ ở đâu?
Thì ra ông cụ không bình thường, nhớ chuyện này xọ qua chuyện kia. Lý nắm bắt tâm lý khá giỏi bởi đã du học khoa tâm lý ở nước ngoài mấy năm, anh tiếp tục dùng sở học của mình:
- Dạ, để cháu vấn thuốc cho ông hút, Mỹ Nhung có chỉ cho cháu.
Quả nhiên cách nói đó của Lý đã chinh phục được ông già. Ông tỏ ra thân thiện hơn:
- Được rồi, mấy bữa nay ta ho nhiều nên cữ hút thuốc. Vậy con hãy rót nước cho ông uống đi, giống như Mỹ Nhung hồi ấy...
Lý rót ngay một ly nước trong bình trà đã nguội đưa cho ông và nói:
- Ông uống đỡ, để chờ cháu đi nấu nước sôi pha ấm trà khác cho ông nghe. Mỹ Nhung nói ông thích uống trà đậm.
Chi tiết này là Lý bịa ra, không ngờ đúng ý ông:
- Phải, con nhỏ nhớ dai quá. Ta thích uống trà nóng và đậm mà phải là trà sen kia.
Cũng may trong gói quà Lý mang theo có cả thuốc lá và trà, anh vội nói:
- Mỹ Nhung có gửi cả trà sen cho ông.
Ông cụ cảm động:
- Con nhỏ còn thương! Tội nó quá...
Lý thầm nghĩ: thì ra đây là ông nội của cô gái, còn ông già ở cạnh nhà mình là ông ngoại.
Anh tự nhiên đi ra sau bếp mà không gặp sự phản đối nào của ông cụ. Anh tìm thấy ấm nấu nước để chỏng chơ trên lò, không có chút nước nào trong đó, chứng tỏ ông già sống chỉ một mình và không ai chăm sóc cơm nước.
Chờ ấm nước sôi, Lý mang lên châm vào bình, xin ông cụ lấy gói trà sen trong bọc thuốc lá. Anh bịa thêm:
- Mỹ Nhung nói ông thích vừa ngồi uống trà vừa kể chuyện cho con cháu nghe, vậy bây giờ...
Anh định khơi gợi để bắt đầu cuộc truy hỏi những điều mình cần biết, và anh đã thành công khi ông già bảo:
- Ngày trước lúc nào nó cũng biết đòi ta kể chuyện những lúc ta ngồi hút thuốc, uống trà. Bàn tay nhỏ nhắn của nó cầm nhúm thuốc không xong, vậy mà lúc nào cũng đòi vấn cho nội hút. Thấy mà thương cái bàn tay búp măng đó!
Nhìn đôi mắt rưng rưng ngấn lệ của ông, Lý biết rằng trong lòng ông đang sống lại hình ảnh đứa cháu gái thân thương, nên anh đánh thẳng vào điểm yếu đó bằng câu nói:
- Nếu Mỹ Nhung yêu cầu ông kể cho nghe tại sao cô ấy bỏ ông đi, ông có sẵn lòng nói không?
Lý chờ những lời kể thật câu chuyện mà anh cần biết, hoặc có thể là cơn thịnh nộ của ông già. Không ngờ, giọng ông cụ bỗng trở nên nhẹ nhàng, tình cảm hơn:
- Nó bỏ ta mà đi khi ta chỉ có nó là cháu nội duy nhất! Hôm đó cũng bằng giờ này khi nó đang ngồi nghe ta kể chuyện thì vụt chạy ra ngoài, kêu lên là nhà của nó bị cháy. Nó hoảng loạn lên, bởi khi ấy ba má nó đang ngủ say trong đó, mà lúc sang đây do sợ trộm vào lấy đồ nó đã khóa cửa từ bên ngoài! Trời ơi...
Ông cụ kể tới đó thì nấc lên và hầu như không còn đủ sức để ngồi vững nữa, ông ngã chúi nhủi về phía trước. Lý hốt hoảng:
- Kìa, ông ơi!
Anh đỡ ông cụ lên và kịp nghe ông nói rất khẽ:
- Gặp con Mỹ Nhung hãy nói với nó là đừng làm khó người ta... không phải do thằng ấy gây ra đâu…
Câu nói mập mờ khó hiểu, khiến Lý phải hỏi lại:
- Ông nói thằng đó là ai?
- Thằng Dương Cường... không phải nó... mà chính con vợ nó...
Ông nói tới đây thì kiệt sức, ngoẹo đầu sang bên và ngất đi. Lý bế ông lên chiếc ghế dài giữa nhà:
- Ông ơi!
Sờ thấy ông còn thở, Lý hơi yên tâm, nhưng nỗi thắc mắc trong lòng vẫn khiến anh không yên. Tại sao ông cụ nói về cha mình như thế?
- Ông ấy nói đúng. Tôi đã gặp ông và hỏi kỹ rồi, đang tính về sẽ gặp lại cậu nói rõ. Nhất là gặp mẹ con con Thu Hà để giải mối hận trong lòng chúng nó bấy lâu nay.
Giọng nói đó khiến Lý bàng hoàng, anh quay lại và ngơ ngác khi thấy ông già mà anh từng gặp ở ngôi nhà gần nhà mình, nơi có những ngôi mộ.
- Kìa, sao bác lại ở đây?
Ông già bình tĩnh ngồi xuống ghế và đáp:
- Thì cũng như cậu, tôi đi tìm hiểu sự thật.
- Vậy ra bác vắng nhà mấy bữa nay là lên đây! Mà sao có một cỗ quan tài nằm giữa nhà bác ở dưới?
- Cậu không nhận ra sao, đó là quan tài của cha cậu, ông Dương Cường!
Câu nói đó khiến Lý rúng động:
- Trời ơi, sao lại như thế!
- Đó là ý của con Thu Hà! Hơn mười năm nay nó chỉ nung nấu việc trả thù, dẫu đã là người cõi âm nó vẫn không nguôi chuyện thù hận. Bởi nó vẫn tin chắc rằng cha cậu là người gây ra cái chết cho vợ chồng, con cái nó. Cho đến mới đây...
Ông lấy từ trong túi áo một phong thư và đưa cho Lý:
- Cậu đọc đi rồi sẽ hiểu.
Lý cầm lấy và ngạc nhiên kêu lên:
- Đây là lá thư người ta gửi cho má cháu!
- Thì ra cậu đã biết, chính con Mỹ Nhung đưa về cho tôi. Nó bảo sau khi hiểu ra điều này rồi, nó không còn hận cha cậu nữa, mà nó cũng muốn mẹ nó làm như vậy...
- Hôm qua cháu cũng nhận lá thư này trong cái hộp của mẹ cháu, hình như cũng do Mỹ Nhung đem tới.
Ông già gật đầu:
- Nó đó! Con Mỹ Nhung có cảm tình với cậu, nên nó không muốn mẹ nó tiếp tục hận thù, tiếp tục gây ra những cái chết cho nhà họ Dương nữa...
Lý hốt hoảng:
- Những cái chết nhà họ Dương?
Ông già tiếp lời bằng giọng bức xúc:
- Ba cậu chết là do con Thu Hà bắt hồn, mẹ cậu cũng thế và rồi sẽ tới cậu!
Lý tái mặt:
- Ông... ông nói thật ư?
Ông già tiếp tục thở dài:
- Oan gia nghiệp chướng mãi như thế làm sao được! Bởi thế hôm cậu sang nhà tìm con Mỹ Nhung là tôi sợ thất thần rồi! Tôi đâu muốn con gái mình tiếp tục lún sâu vào cuộc hận thù đó, mặc dù nó có quyền...
Ông nói tới đây thì oà lên khóc, khiến Lý cũng mủi lòng, ông nghe mắt mình cũng cay cay...
- Thưa ông...
Lý bị ông già chặn ngang:
- Cậu để tôi nói hết đã. Hôm đó tôi nói dối cậu rằng có hai con Mỹ Nhung. Thật ra chỉ có một và đó là Mỹ Nhung nằm dưới mộ. Còn Mỹ Nhung mà cậu gặp chính là...
Lý chặn lời ông:
- Cháu đã hiểu, đó là hồn ma cô ấy!
- Nhưng có những điều cậu còn chưa hiểu. Như nơi cậu đang sống...
- Ông nói gì cháu không hiểu? Ngôi nhà cháu đang ở là sao?
- Đó là ngôi nhà do ba cậu xây cho... ông Năm Lực đây mà!
Lý ngơ ngác:
- Có chuyện đó sao? Vậy mà cháu nào biết. Cháu mua là do có người mách.
- Do oan hồn con Thu Hà khiến cậu đó. Nó muốn đưa cậu về đây, để...
Ông tiếp bằng giọng run run:
- Nó muốn bắt hồn cậu đi luôn!
Lý thất thần:
- Thảo nào gần hai năm nay, lúc nào trong đầu cháu cũng như vang lên những âm thanh kỳ lạ, khiến cháu mất ngủ triền miên và rất sợ bóng tối! Cháu không hề biết gì về ngôi nhà mình đang ở...
Ông già kể tiếp:
- Hồi đó anh sui gia tôi đây cất ngôi nhà ở cạnh nhà tôi. Con Thu Hà ngày ấy còn sống, và nó với cha cậu là một cặp đôi mà tưởng chừng như không có gì chia lìa chúng được. Tôi cũng tán đồng chuyện chúng nó yêu nhau. Nhưng chẳng hiểu sao đùng một cái, cha cậu lại đi lấy vợ, lấy người mà sau này cậu gọi là mẹ đó! Con Thu Hà đau khổ khóc sưng cả mắt và cứ tìm cách níu kéo, kêu gọi cha cậu hồi tâm trở về với nó! Tôi biết được điều đó nên cương quyết bảo nó cắt đứt chuyện tình với cha cậu, bởi tôi không muốn con gái mình mang tiếng phá hoại gia cang người khác, mặc dù nó là kẻ đến trước. Đến trước mà về sau cậu à...
Ngừng lại một lúc, rồi ông tiếp bằng giọng bùi ngùi:
- Nó đã trả thù lại bằng cách... đi lấy chồng! Con trai ông Năm Lực đây khi ấy sống trong ngôi nhà cậu ở bây giờ, tức sát vách nhà tôi và con Thu Hà. Chúng nó phải lòng nhau thật sự hay chỉ là cuộc tình gán ghép để thỏa cơn thù hận của con Thu Hà thì tôi không dám chắc, nhưng có điều là khi chúng sống với nhau, tôi nhận ra thằng Hòa con anh Năm đây thương con Thu Hà thật. Cho đến khi chúng có với nhau đứa con đầu lòng, con Mỹ Nhung, thì tôi tin là chúng sẽ ăn đời ở kiếp với nhau được. Tôi mừng lắm. Nhưng...
Ông ngừng lại, cơn uất nghẹn làm cho ông không thể tiếp tục câu chuyện được nữa. Phải mất gần năm phút sau Lý mới nghe ông lên tiếng, giọng khàn đục:
- Vậy mà một buổi chiều kia, lửa trong nhà bỗng dưng bốc cháy! Lúc đó tôi đi ra chợ chưa về, còn con Mỹ Nhung lúc ấy hơn ba tuổi thì sang nhà nội nó chơi, chỉ kịp chạy về khi lửa đã cháy trùm toàn ngôi nhà.
- Cửa ngoài đã bị khóa, con Mỹ Nhung cố lao vào để mở cửa và cũng bị thiêu cháy theo ba má nó! Trời ơi...
Ông cụ lại ngất đi. Lúc này trong ngôi nhà nhỏ có đến hai ông già nằm bất động, khiến Lý bối rối, anh phải chạy đi lấy khăn nhúng nước lau cho cả hai người. Lát sau họ tỉnh lại. Ông Năm Lực tiếp bằng giọng trầm buồn:
- Bấy lâu nay tôi buồn đau quá mà hóa rồ, bởi tôi chỉ có mỗi thằng con trai, nó chết đi rồi tôi không còn thiết sống nữa.
- Bởi vậy anh ấy mới bán ngôi nhà mà cậu đang ở đó, bỏ về đây ở ẩn. Hôm qua tôi tìm đến để hỏi thêm anh ấy vài việc liên quan tới con gái mình, và định trở về khuyên con Thu Hà, đừng nuôi hận thù nữa. Chứ thật ra khi nó mang cỗ quan tài ba cậu về đặt giữa nhà đó là cho liệm xác cậu vào đó mới hả giận. Đêm qua đúng ra là cậu đã bị hại rồi, nếu không có con Mỹ Nhung. Nó đã cãi nhau với mẹ nó một trận, không cho Thu Hà đón đường cậu lúc cậu định đi Bà Rịa.
Lý hốt hoảng kêu lên:
- Thì ra cô ấy ngăn không cho cháu đi Bà Rịa bằng cái hộp đựng đồ vật của mẹ cháu!
- Phải! Thật ra cái hộp này giữ ở nhà ông nội cháu đây từ lâu, chứ không ở nhà bà ngoại cậu. Con Mỹ Nhung đã lấy đem đưa cho cậu, mục đích giúp cậu hiểu rõ mọi chuyện, đồng thời ngăn không cho cậu ra ngoài. Bởi nếu cậu đi đêm qua thì cậu đã không toàn mạng!
Lý rùng mình, hết nhìn hai ông cụ rồi nhìn một lượt khắp ngôi nhà. Thấy bức ảnh của Mỹ Nhung thời thơ ấu, anh thắc mắc:
- Lúc chết cô ấy mới ba tuổi, sao giờ đây là một cô gái.
Ông Năm Lực tỉnh táo đáp:
- Người trong thế giới vô hình cũng lớn lên theo thời gian. Nó đã trở về đây nhiều lần, mà mỗi lần bước vào nhà tôi cứ tưởng là cô gái nào, đâu ngờ là nó. Nếu nó còn sống thì năm nay cũng đã mười bảy mười tám rồi...
Ông lại khóc. Rồi ông già kia cũng khóc theo. Và đến lượt Lý cũng không cầm được nước mắt...
***
Khi Lý trở về cùng ông cụ thì cả hai vô cùng ngạc nhiên khi không còn thấy cỗ quan tài nằm giữa nhà nữa! Lý còn đang hoang mang thì ông già đã chỉ tay ra sau nhà bảo:
- Chắc là nó an táng ngoài kia rồi.
Lý chạy ra và vô cùng ngạc nhiên khi thấy có một ngôi mộ mới nằm ngay bên trái mộ của Thu Hà, cùng một dãy với ba ngôi mộ: Thu Hà, chồng bà ấy và Mỹ Nhung.
- Âu cũng được...
Lý nói khẽ và thầm khấn:
- Ba hãy nằm đây! Bà ấy đã tha thứ cho ba rồi đó...
Lý trở về nhà với tâm trạng bớt nặng nề hơn. Kể từ hôm đó, Lý đã cho mở tường rào thông cửa sang bên kia. Mỗi ngày anh đều sang bên bốn ngôi mộ và thường xuyên hương khói.
Cũng từ hôm đó, đêm nào đèn ở phòng của Lý cũng tắt rất sớm. Có lần tài xế Tài rình bên ngoài và nghe có tiếng cười của một người con gái từ bên trong.
Vốn là người ưa tán chuyện, nhưng chẳng hiểu sao từ đó Tài lại kín miệng như bưng, không hé lộ với ai nửa lời về những gì mình thấy được trong phòng cậu chủ của mình...
Mà thật ra thì cũng có gì đâu để bàn tán! Bởi ở cõi đời này, đâu phải người với ma liên hệ với nhau là chuyện đáng ngạc nhiên!
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #57  
Old 11-07-2012, 04:28 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 28

NHẬP TRÀNG

Cái Chết Của Người Tình Trẻ


Bà Lệ Thủy rùng mình bởi cơn gió lạnh đột ngột thổi từ ngoài vào, bà bước tới đóng chặt cánh cửa sổ lại rồi bật lò sưởi.
Đây là một ngoại lệ, bởi tuy trời Đà Lạt có lạnh, nhưng từ bao lâu nay bà không bao giờ phải dùng tới lò sưởi cả. Với bà, cái lạnh ở xứ hoa này đâu thấm gì với cái lạnh ở nước ngoài mà bà đã trải qua hơn mười năm đi du học. Bởi vậy kể từ khi về nước, mua lại ngôi nhà cổ này trên ngọn đồi cách trung tâm thành phố hơn cây số, bà đã cho mở tung các cửa ra, kể cả ban đêm.
Với bà, không khí trong lành quan trọng hơn cả hơi lạnh mà mọi người thường ngại. Tôi tớ trong nhà không tán thành việc đó, nhưng họ đâu dám có ý kiến khi bà chủ muốn.
Tối nay, bà càng có lý do để chứng tỏ mình không sợ lạnh, bởi thằng con trai bà lúc chiều đã điện thoại lên dặn bà phải đóng kín cửa lại, làm cho trong nhà ấm lên, để khi anh ta đưa cô con dâu bà về cô ta đỡ phải cóng, vì cô ta rất dị ứng với khí lạnh Đà Lạt này.
Bà Lệ Thủy vốn có thành kiến với cô con dâu không do bà chọn này, cho nên hễ cái gì cô nàng không ưa thì bà muốn làm trái ngược lại.
Về cô con dâu Mỹ Dung, chính bà đã phản đối kịch liệt khi bà còn ở nước ngoài nhận được tin Hoàng Lộc cưới vợ. Với bà, chuyện vợ con của Lộc phải do bà chọn, mà việc đó bà đã làm rồi, bà muốn Lộc cưới Lan Hương, một cô gái đang ở Pháp cùng cha mẹ vốn là bạn thân của bà.
Tuy nhiên Hoàng Lộc đã làm chuyện đã rồi, khi tự mình tổ chức đám cưới mà không cần sự có mặt của mẹ. Khi bà về nước, giữa hai mẹ con đã nổ ra cuộc tranh luận dữ dội, dẫn tới sự tách ra lên Đà Lạt ở riêng, không màng gì tới cuộc kinh doanh đang phát đạt và rất cần sự góp sức của bà.
Hồi trưa nay, Lộc điện lên báo tin là anh và vợ sẽ lên gặp bà bàn vài việc quan trọng. Bà đã có ý không muốn tiếp cô con dâu, nhưng do Lộc bảo chuyện không thể không gặp, nên buộc lòng bà phải để cho Lộc đưa con dâu lên. Bà cố ý ngồi chờ là vậy...
Tuy nhiên, chẳng hiểu sao đang ngồi, bà Lệ Thủy lại bắt rùng mình, bà đóng cửa sổ lại nhưng không muốn mấy người giúp việc nhìn thấy mình bị lạnh, nên bà tự bật lò sưởi và đóng kín cửa ra vào lại, rồi ngã người trên ghế nệm. Tự dưng bà cảm thấy buồn ngủ đến độ đôi mắt vốn rất tỉnh táo của bà như đang muốn nhắm lại.
- Ra khỏi phòng này ngay!
Cái vía của bà Lệ Thủy vẫn còn chưa ngủ, nhưng câu nói của ai đó thì như vọng lại từ cõi hư vô. Bà cố bật người dậy mà không thể, nên cố nhướng mắt lên, vừa hỏi nhừa nhựa:
- Ai... nói gì...
- Tao nói là mày bước ra khỏi phòng này ngay, nghe chưa con đ. già!
Giọng nói càng lúc càng đanh đá và như sắp vồ lấy bà, khiến bà Lệ Thủy phải đưa tay lên đỡ và một lần nữa cố rướn người lên để tránh. Bà cảm giác như có hơi thở của ai phả vào mặt mình, bà kêu thét lên. Nhưng tiếng kêu của bà không thể phát ra khỏi cổ họng được, trong khi giọng nói lặp lại lần nữa:
- Tao nói lần nữa, mày có đi ra không! Phòng này là của tao, tại sao mày tới đây chiếm lấy rồi còn tự động đốt lò sưởi lên nữa, tao không thích!
Cái lò sưởi chạy điện đang phả hơi nóng ra, tự dưng tắt phụt, rồi một cái tát thật mạnh vào má, khiến bà Lệ Thủy phải ngã phịch xuống sàn. Bấy giờ, bà mới kêu lên thành tiếng:
- Bớ người ta!
Vừa khi ấy, bên ngoài có tiếng đập mạnh cửa phòng:
- Bà ơi, có chuyện gì vậy?
Bà Lệ Thủy đứng lên mà cảm giác lảo đảo vẫn còn. Phải mất nửa giây sau, bà mới hoàn hồn, hiểu rằng mình vừa trải qua cơn ác mộng...
- Con Hai hả, mày đẩy cửa vào, cửa không khóa!
Hai Sương, cô giúp việc đắc lực của bà lo lắng:
- Con nghe bà la dữ quá, có chuyện gì vậy?
Nhớ lại chuyện vừa rồi, nhưng bà không dám nói:
- Tao thấy cái gì đó ghê lắm, nhưng... mộng mị mà. Có lẽ tao nằm cấn bả vai, cho nên...
Bà nhìn đồng hồ tay và chép miệng:
- Sao giờ này mà cậu Lộc mày chưa lên tới?
Hai Sương đáp:
- Lúc nãy con nghe điện thoại trong phòng bà reo dữ lắm, con tưởng bà nghe...
- Tao nằm ngủ quên. Không biết có phải của thằng Lộc không?
Bà vừa dứt thì chuông điện thoại lại reo vang, bà chụp lấy ống nghe và ngạc nhiên khi đầu dây bên kia không phải là giọng của Lộc, nhưng đang nói chuyện về Lộc:
- Tôi là người đi đường ngang qua đèo Bảo Lộc và gặp chiếc xe của cậu Hoàng Lộc bị nạn ở đó. Cậu Lộc thì không sao, nhưng còn...
Bà Lệ Thủy buông ống nghe xuống, người bà cứng đờ sắc mặt tái xanh...
Hai Sương hoảng hốt:
- Chuyện gì vậy bà?
Bà nói như người mất hồn:
- Con vợ thằng Lộc... chết rồi!
- Trời ơi!
***
Ghét Mỹ Dung là một chuyện, còn việc cô ta chết lại là việc khác, nó khiến bà Lệ Thủy bối rối và lo lắng nhiều. Cô dâu trẻ mà bà chỉ mới gặp có vài lần trước ngày tách ra ở riêng, thật ra cũng không phải là con người đáng ghét hay xấu xa gì, chỉ có điều... cô ta không phải là người do chính bà chọn lựa!
Người ta đưa được xác Mỹ Dung lên từ dưới vực sâu sau khi xe của Hoàng Lộc lạc tay lái rơi xuống đó. Cô nàng tuy chết do tai nạn rơi xuống đèo, nhưng chiếc xe của họ vướng vào một thân cây to và treo lơ lửng ở đó, chỉ cô bị rơi ra, máng vào một cành cây và tử vong, còn Hoàng Lộc thì vướng lại trong cabin, nên chỉ bị xây xát nhẹ.
Nửa đêm hôm đó, xác Mỹ Dung được chuyển từ nhà xác bệnh viện về theo yêu cầu của Hoàng Lộc. Anh chàng không muốn để ở nhà xác rồi chuyển thẳng về Sài Gòn theo ý của mẹ, bởi anh lập luận:
- Mỹ Dung được quyền nằm lần cuối trong nhà mẹ chồng, thay vì nằm trong nhà xác lạnh lẽo! Mẹ có phản đối thì con cũng đưa về đây và thậm chí con còn tổ chức tang ma luôn trên này, thay vì đưa về Sài Gòn.
Bà Lệ Thủy đành để mặc cho con trai muốn làm gì thì làm. Suốt đêm đó cho tới sáng, bà cáo bệnh nằm rút trong phòng riêng. Sáng hôm sau khi vừa tỉnh giấc, bà đã nghe bên ngoài có tiếng đọc kinh theo công giáo, thay vì tụng niệm theo nghi lễ Phật giáo.
Bà gọi Lộc vào định phản đối, bởi gia đình theo đạo Phật. Tuy nhiên, Lộc đã thẳng thừng phản kháng:
- Mỹ Dung theo công giáo, do đó con phải làm lễ theo nghi thức tín ngưỡng của cô ấy. Mẹ không tham dự thì để con làm.
Sự chống đối của Lộc với mẹ đã ra mặt và có vẻ căng thẳng, mà với khách khứa tới nhiều, không tiện tranh luận với con, nên bà Lệ Thủy lại một lần nữa im lặng lánh vào phòng.
Hầu như suốt ngày hôm đó bà không ló mặt ra, dẫu bà nghe tin ông bà sui gia, tức cha mẹ của Mỹ Dung hay tin con chết đã có mặt đầy đủ! Hoàng Lộc phải nói khéo với cha mẹ vợ:
- Mẹ con đau tim nên khi hay tin dữ bà đã ngất đi và không dậy nổi suốt từ hôm qua đến giờ, có lẽ ba mẹ cũng không nên vào thăm làm gì chỉ khiến bà mệt thêm mà thôi.
Cha mẹ Mỹ Dung nhất quyết đưa quan tài con gái về Sài Gòn, nên ngay trưa hôm đó họ mướn xe chuyển đi ngay. Bà Lệ Thủy nhờ thế trút được gánh nặng.
Khi xe chuyển quan tài đi rồi, chính Tư Sương khuyên bà:
- Dẫu gì thì bà cũng nên về theo cho phải lẽ.
Nhưng bà lại cương quyết:
- Thằng Lộc đã nói như vậy rồi thì tao không cần đi. Vả lại, tao không thể chịu nổi cho đến khi chấm dứt ma chay.
Hai Sương kê sát tai bà nói:
- Lúc liệm xác mợ Hai, con thấy ở hai khóe mắt của mợ như có hai hàng nước mắt chảy ra!
Bà Lệ Thủy trừng mắt nhìn chị ta:
- Nói tào lao! Mày nhiễm ba cái chuyện hoang đường rồi đó.
Nhưng Hai Sương quả quyết:
- Không riêng gì con thấy thôi đâu. Chính bà mẹ mợ ấy cũng thấy và con thấy chính bà ấy lấy khăn lau nước mắt cho mợ Hai nữa. Cậu Lộc đã khóc ngất khi chứng kiến cảnh ấy đó bà!
Tuy gạt ngang chuyện bà cho là nhảm nhí đó, nhưng khi vào phòng riêng nằm, bà Lệ Thủy cứ bị ám ảnh hoài điều mà Hai Sương gọi là xác chết chảy nước mắt đó. Đến nỗi khuya hôm đó, bà phải gọi Hai Sương vào ngủ cùng. Bà giải thích:
- Tao thấy trong người không được khỏe lắm, nên cần mày bên cạnh, để nửa đêm cần cạo gió thì mày cạo giùm tao.
Hai Sương biết bà ta sợ, nhưng vờ như không hiểu, chị ta còn nói:
- Con ngủ với bà, nếu nửa đêm bà có sợ gió không ra ngoài mà cần gì bên ngoài con sẽ đi thay bà.
***
Nửa đêm hôm đó...
Có lẽ quá căng thẳng suốt ngày, nên vừa nằm xuống một lúc bà Lệ Thủy đã ngủ say. Hai Sương đi tắt đèn rồi cũng nằm theo.
Khoảng một giờ sau...
Bà Lệ Thủy quay sang cô người làm của mình, nói bằng giọng ngái ngủ:
- Mày ngủ ngáy và nghiến răng quá tao ngủ không được! Hay là thôi, mày ra ngoài ngủ riêng đi!
Hai Sương không trả lời, hình như cô ta đã ngủ quá say. Và tiếng ngáy càng to hơn...
Bà Lệ Thủy phải bật dậy với tay bật bóng đèn ngủ có độ sáng tỏ hơn, bà gắt:
- Con này ngủ như chết vậy. Dậy đi!
Và bà chỉ kịp nói tới đó, rồi thì gần muốn đứng tim khi nhìn thấy trước mặt mình, người đang nằm kia không phải là Hai Sương, mà là... Mỹ Dung!
- Trời ơi, bớ... bớ...
Bà ta lảo đảo ngã ngửa xuống giường, vô tình lại ngã đúng lên thân thể của Mỹ Dung!
- Cứu...
Bà ta ngất đi. Đến khi được cứu tỉnh thì người đứng trước mặt bà là Hai Sương. Bà ta thều thào:
- Sao... sao lại... thế này...?
Hai Sương ngạc nhiên:
- Bà sao vậy? Sao nửa đêm bà la làng làm náo động cả nhà vậy bà?
Bà Lệ Thủy bật dậy, nhìn quanh với vẻ bàng hoàng còn trên nét mặt:
- Nó... nó đâu rồi?
- Nó nào?
- Con... con Mỹ Dung!
Hai Sương và mấy người làm đều ngơ ngác:
- Mỹ Dung nào? Mỹ Dung đã được chở về Sài Gòn rồi, sao còn cô ấy ở đây?
- Không, nó mới ở đây? Nó nằm trên giường này, nó là...
Bà ta quay lại nhìn Hai Sương với vẻ nghi ngờ:
- Sao lúc đầu mày ngủ với tao, mà sao khi tao lay dậy thì thấy... con Mỹ Dung nằm ngay chỗ của mày?
Hai Sương nghe bà ta nói vậy thì hốt hoảng:
- Con đâu phải ma! Lúc bà ngủ, con ra ngoài đi vệ sinh, bởi con sợ làm dơ nhà vệ sinh của bà. Đến khi trở vào thì con kịp nghe bà kêu thét lên!
Sáu Xinh, một cô người làm khác cũng lên tiếng:
- Lúc bà chủ kêu la trong này thì ở ngoài kia có ai đó để cái thùng lớn ngã dưới gốc cây mimosa. Cái thùng đó giống như... giống như...
Bà Lệ Thủy chú ý tới điều đó, bà hỏi dồn:
- Cái thùng gì?
Sáu Xinh chỉ tay ra ngoài:
- Ngay trước cửa đó!
Hai Sương là người chạy ra xem đầu tiên, và từ ngoài sân tiếng cô ta kêu thất thanh:
- Bà ơi, cỗ... cỗ quan tài!
Bà Lệ Thủy dù đang kiệt sức cũng phải cố lết ra ngoài, đôi mắt bà trợn trừng khi nhìn thấy cỗ quan tài đỏ như máu đang nằm lạnh lùng giữa sân nhà! Rồi như có một lực vô hình đẩy bước chân bà tiến lại gần hơn cỗ quan tài.
Hai Sương cũng bước theo và khi họ còn đang sợ sệt hồi hộp, thì bỗng nắp quan tài như bị ai đó đẩy mạnh, nó bật ra rơi xuống đất!
- Trời ơi!
Tiếng la lớn nhất là của Hai Sương, nhưng người ngất xỉu lại là bà Lệ Thủy?
Bên trong quan tài là Mỹ Dung! Hình ảnh đôi dòng lệ chảy tuôn lúc liệm như thế nào, thì lúc này trước mắt mọi người nó lại tái hiện y như vậy! Hai Sương thất thần:
- Mợ Hai... xin mợ...
Mọi người không tin vào mắt mình, nhưng trước mắt họ, cái xác nằm im trong quan tài là sự thật và nó như đang thách thức những con tim sắp vỡ ra của những người có mặt. Hai Sương dìu bà chủ vào nhà, vừa nói với lại:
- Sáu Xinh gọi điện thoại về Sài Gòn báo tin này liền đi, kẻo cậu Lộc lo.
Xinh gọi ngay cho Hoàng Lộc báo tin cỗ quan tài thì từ đầu dây bên kia, giọng của Lộc sửng sốt:
- Chị nói cái gì, quan tài của vợ tôi đang ở dưới này, tang lễ đang cử hành mà!
Sáu Xinh rụng rời tay chân, đứng chết lặng...


Khi Người Chết Trở Về


Thấy Hoàng Lộc quá mệt sau hai đêm thức trắng bên quan tài vợ, ông bà Tân Phát đều khuyên anh:
- Con phải ngủ lấy sức, chứ thức suốt như vậy chịu sao nổi!
Nhưng Lộc vẫn cương quyết:
- Con không sao ngủ được ba má à. Hễ nhắm mắt lại là con thấy hình ảnh vợ con như hôm xảy ra tai nạn và con lại bị sốc, lại hãi hùng!
Bà Tân Phát lắc đầu:
- Biết rằng vậy, nhưng con không thể chịu đựng nổi đâu. Hay là con cứ vái vong hồn vợ con, nó sẽ giúp con thanh thản mà nghỉ ngơi.
Lộc ngắm nghiền mắt lại, cố làm theo lời mẹ vợ, nhưng vừa lúc đó anh bỗng thảng thốt kêu lên:
- Coi kìa! Vợ con!
Anh hướng về cửa ra vào nhìn người phụ nữ vừa bước vào. Vợ chồng ông bà Tân Phát cũng nhìn theo và cùng reo lên:
- Trời ơi, con... Mỹ Dung!
Lúc này những người giúp lo ma chay đã đi ngủ hết, nên chỉ có ba người họ với nỗi sợ hãi thất thần. Hoàng Lộc là người tỉnh táo nhất, anh lên tiếng hỏi:
- Có phải là em không... Mỹ Dung?
Người phụ nữ vừa bước vào giương mắt nhìn ba người, nhìn Hoàng Lộc khá kỹ, rồi cất tiếng đáp:
- Chào cả nhà. Xin phép cho tôi được đốt nén hương cho người chết được không ạ?
Vừa nói cô ta vừa bước sát tới bên quan tài, một lần nữa bà Tân Phát rú lên:
- Mỹ Dung, con ơi!
Ông Tân Phát bình tĩnh hơn, dìu vợ lùi mấy bước, vừa khe khẽ gọi:
- Có phải con thác thiêng và về thăm cha mẹ không Mỹ Dung?
Người kia trừng mắt nhìn hai ông bà, ngơ ngác hỏi:
- Ai là Mỹ Dung? Tôi là Ngọc Hương, nhà tôi ở gần đây hay tin nhà có tang nên sang chia buồn. Sao ông bà gọi tôi là Mỹ Dung?
Hoàng Lộc tròn mắt nhìn vào vợ mình, gọi to:
- Mỹ Dung, anh đây mà!
Cô ta lại trừng mắt với Lộc:
- Cả nhà này sao vậy? Không cho người ta đốt nhang thì thôi, sao lại có thái độ này? Tôi là Ngọc Hương, chẳng dính dáng gì tới Mỹ Dung nào đó cả...
Lộc phải gắt lên:
- Em đừng đùa dai nữa, cả nhà đang đau buồn vì em, sao em lại...
Anh định đưa tay chụp lấy tay vợ mình thì cô nàng bước lùi lại rất nhanh vừa la lên:
- Nhà này điên rồi!
Vừa nói cô ta vừa tháo chạy ra ngoài, và phải vài giây sau Hoàng Lộc mới tốc chạy theo, anh kêu lớn:
- Mỹ Dung! Em đừng...
Nhưng anh không tài nào đuổi theo kịp, bởi lúc ấy dòng người và xe cộ bên ngoài rất đông. Trong khi ấy ở trong nhà, ông bà Tân Phát chưa kịp hoàn hồn thì những người khác đã thức giấc, họ ngơ ngác hỏi nhau:
- Chuyện gì vậy?
Một người kịp nhìn thấy nắp quan tài hé mở, liền kêu lên:
- Sao cái nắp quan tài như vậy?
Tư Quan là người đã cùng với những người trong đội mai táng hôm qua đã đóng quan tài cẩn thận, liền lên tiếng:
- Nắp áo quan này có nạy cũng chưa chắc ra được, sao lại như thế này?
Anh ta bước tới và kêu lên:
- Cô Mỹ Dung sao thế này?
Ông Tân Phát kịp bước tới cùng với vợ, ông nhìn vào và sững sờ:
- Nó còn đây mà!
Điều bà Tân Phát sững sờ là hai giọt nước mắt ở khóe mắt của xác con, nó giống như bữa đầu tiên bà đã bắt gặp và kịp lau. Bà gào lên:
- Nó còn sống ông ơi!
Nhưng khi tay bà chạm vào xác con thì lạnh ngắt. Nhưng hai giọt lệ thì tuôn chảy giống như người sống đang khóc! Bà gào to:
- Con ơi!
Tay bà chạm vào giọt nước mắt bà bỗng rú lên, bởi nó đỏ như máu! Ông Tân Phát nhìn thấy thì hốt hoảng:
- Bà đừng đụng vào!
Nhưng lúc ấy cả hai bàn tay của bà Tân Phát đã nhuộm đầy máu, khi bà đưa lên thì cũng là lúc Hoàng Lộc từ ngoài cửa bước vào với gương mặt hớt hải:
- Con sắp đuổi kịp thì vợ con biến mất vào xóm nhà bên trong hẻm, con...
Anh chợt nhìn thấy cảnh trước mắt thì khựng lại. Ông Tân Phát lên tiếng:
- Con Mỹ Dung còn đây. Nó...
Lộc bước tới nhìn thấy xác vợ mà vẫn chưa tin:
- Không thể nào...
Anh nói thế bởi người mà anh vừa đuổi theo không hề khác với vợ mình bất cứ điểm nào, kể cả bộ đồ cô ấy mặc trên người cũng chính là bộ đồ mà khi liệm xác, anh đã mặc vào cho Mỹ Dung.
- Không thể nào!
Anh nhìn hai bàn tay đầy máu của mẹ vợ với sự kinh ngạc:
- Má sao vậy?
Ông Tân Phát chỉ vào mắt của con gái:
- Nước mắt nó chảy ra và bà ấy chạm vào thì bị như vậy!
Tư Quan nói:
- Xác đã liệm rồi, bà bị như vậy bây giờ ông bà và cậu Hai phải đốt nhang làm lễ lại, coi như nhập quan lần thứ hai. Mợ Hai chắc có điều chi uất ức đây, nên mới thế này...
Ông Tân Phát đồng ý:
- Thì chú làm giúp cho đi!
Nhưng Hoàng Lộc ngăn lại:
- Con không thể nào tin được chuyện xác vợ con và người phụ nữ vừa rồi. Không thể có việc người giống người kỳ lạ đến như vậy!
Tư Quan vẫn đề nghị:
- Chuyện gì đó mình tính sau, còn bây giờ hãy đóng nắp áo quan lại, chứ để thế này không tiện. Mợ Hai giờ đã về với cõi âm, không thể...
Chợt bà Tân Phát gắt lên:
- Bây giờ tôi mới để ý làm gì có chuyện người chết sống lại như vừa rồi, trong khi con tôi còn nằm nguyên trong quan tài này! Đúng rồi, chắc chắn là ông lại sinh tâm mà bấy lâu nay tôi không hay biết! Ông... ông nói đi, có phải con nhỏ đó là con riêng của ông không?
Ông Tân Phát ngơ ngác:
- Con riêng nào?
- Thì con nhỏ vừa mới vào đây đòi đốt nhang đó, chứ con nào nữa! Chỉ có dòng máu của ông thì mới có đứa giống con Mỹ Dung như khuôn đúc vậy thôi! Cả tới thằng Lộc mà còn lầm nữa là...
- Nói bậy! Tôi mà có con rơi con rớt hồi nào.
Lộc thì vẫn như người mê ngủ:
- Không thể tin được! Giống nhau như hai giọt nước... giống nhau...
Bà Tân Phát quên cả việc hai bàn tay mình đang dính đầy máu, bà chụp vai chồng và nổi cơn tam bành:
- Bây giờ cháy nhà mới ra mặt chuột nè trời! Bấy lâu nay tôi đui mù nên đã tin tưởng ông, vậy mà...
Bà khóc rống lên trước sự ngơ ngác của mọi tôi tớ trong nhà. Nhất là Tư Quan, anh ta đang sốt ruột muốn đóng nắp áo quan lại, mà như vậy thì biết làm sao? Anh ta nhắc nhở Hoàng Lộc:
- Cậu Hai xem...
Lộc quay lại anh ta và bảo:
- Anh cứ để đó cho tôi.
Nhưng câu nói của Lộc vừa dứt thì bỗng dưng nắp quan tài tự động đóng sầm lại. Tư Quan ngơ ngác:
- Sao kỳ vậy cậu?
Hoàng Lộc bước tới cố kéo ra, nhưng nắp áo quan như đã được đóng đinh chắc cứng, không làm sao lay chuyển được. Ông Tân Phát nhân cơ hội nói lớn:
- Bà làm chuyện tào lao khiến cho hồn con mình nó bị kinh động rồi kìa!
Hoàng Lộc cũng nói:
- Ba má gác chuyện đó lại đi, bây giờ phải tập trung lo cho Mỹ Dung đã...
Tuy nói là tập trung lo, nhưng Lộc cũng không biết là lo cái gì. Cho đến khi Tư Quan nhắc, vì ông bà Tân Phát cũng cho người mời các nhà sư tụng niệm theo nghi thức Phật giáo:
- Lát nữa đây có mấy nhà sư tới tụng kinh. Trong số mấy vị sư này có sư Thiện Tánh rành về tà ma, hay là mình nhờ ông xem thử.
Lộc gật đầu:
- Phải đó!
Vừa khi ấy thì ba nhà sư bước vào. Nhờ vậy mà cuộc tranh luận giữa đôi vợ chồng già mới tạm yên. Nhưng bà vẫn quay sang nhà sư có pháp danh Thiện Tánh và đề nghị:
- Nhờ thầy xem giùm, con gái tôi...
Bà nói chưa dứt lời thì sư Thiện Tánh đã lên tiếng vừa chỉ vào quan tài:
- Hồn người này vừa xuất ra lại nhập vào ngay, nếu không...
Ông quay lại nhìn Hoàng Lộc:
- Giữa vợ cậu với ai đó có mối hận thù gì không mà như vậy?
Lộc ngạc nhiên:
- Hận thù gì ai đâu thầy?
- Có! Chết mà còn hiện về khi hạn bốn mươi chín ngày chưa qua là có chuyện rồi! Cậu không nhìn thấy trên hai khóe mắt của bức ảnh kia có nước mắt sao?
Bấy giờ Lộc và mọi người mới nhìn lên bức ảnh chân dung dựng trước quan tài, họ thấy rõ hai dòng lệ tuôn ra y như người còn sống! Bà Tân Phát kêu lên:
- Trên xác nó cũng có!
Nhà sư chậm rãi nói:
- Hiện tượng này là sự hoàn dương, bởi có điều oan ức chưa giải được. Phải giải trước khi mai táng, còn không thì...
Ông quay sang Lộc nói khẽ:
- Vợ cậu chết không do tai nạn xe, mà chết trước khi xe rơi xuống vực!
Vợ chồng ông Tân Phát kinh hãi:
- Có chuyện đó sao Lộc?
Hoàng Lộc còn đang bàng hoàng thì nhà sư vội nói tiếp:
- Chuyện này có thể không dính tới cậu đây, nhưng việc cô ấy chết là có điều uẩn khúc. Tôi sẽ tụng kinh cầu siêu cho vong hồn cô ấy siêu thoát, rồi việc gì đó gia chủ tính sau...
Ông bắt đầu buổi cầu kinh. Trong khi đó thì ông bà Tân Phát kéo Lộc ra ngoài truy vấn:
- Ông thầy nói vậy là sao?
Lộc thành thật thuật lại:
- Khi tụi con đi gần tới đèo Bảo Lộc thì Mỹ Dung kêu nhức đầu, con lấy dầu xoa thì Dung cho biết có đỡ hơn. Cô ấy chỉ có biểu hiện là không được khỏe thôi, chứ không có điều gì khác thường. Sau đó, Dung ngả đầu trên ghế ngủ thiếp đi, con để yên cho cô ấy ngủ. Đến khi xe con đang chạy thì bỗng nghe có tiếng động gì đó khác thường dưới gầm xe, con tính dừng lại xem, nhưng do lúc ấy đang lên dốc, nên con phải chờ cho hết dốc mới tấp vào lề. Tuy nhiên...
Hoàng Lộc kể đến đó thì quá kích động nên phải dừng lại một chút rồi mới tiếp:
- Như con đã nói rồi, bỗng dưng lúc ấy xe chao đảo dữ dội, rồi thì con không còn điều khiển xe được nữa, và...
Bà Tân Phát kêu lên:
- Đúng rồi, con Mỹ Dung đã ngất trước khi xe bị nạn, có phải đã bị đầu độc không?
Hoàng Lộc hốt hoảng:
- Ai đầu độc? Vợ con trước đó nửa phút vẫn còn tỉnh mà, cô ấy đâu có biểu hiện gì của sự bị đầu độc?
Ông Tân Phát nói:
- Như vậy thì phải để lại xác con Dung, chờ khám nghiệm tử thi đã, không được đem chôn!
Hoàng Lộc cũng đồng tình:
- Chắc phải làm vậy thôi.
Nhưng bà thì phản đối:
- Con tôi đã chết thảm chết thương như vậy mà nay còn banh xác ra mổ xẻ nữa, tội nó lắm mấy người biết không!
Bà khóc oà lên. Từ trong nhà, sư Thiện Tánh bước ra, giọng từ tốn nói:
- Không cần phải làm vậy đâu. Chuyện này thuộc tâm linh, hãy để cho cái vong người chết quyết định.
Bà Tân Phát vụt hỏi:
- Như vậy là sao thầy?
- Đợi tôi tụng xong kinh cầu siêu này thì gia đình có thể cho mai táng được rồi. Mọi chuyện còn lại hãy để vong hồn cô ấy tự quyết định. Cứ làm như vậy đi rồi mọi việc sẽ sáng tỏ thôi.
Ông quay vào nhà mà còn nói với lại:
- Người cõi âm hành xử rõ ràng hơn cõi dương gian.
Ông tiếp tục gõ mõ cầu kinh trong khi bà Tân Phát đứng ngồi không yên, bà chốc chốc lại hỏi chồng:
- Có nên nghe theo lời thầy không?
Lộc chen vào:
- Con nghĩ cứ làm theo như thế. Việc bây giờ có lẽ con sẽ cho người giám định lại chiếc xe bị nạn của tụi con. Người ta đã trục được nó và đưa về gara gần đây.
Ông Tân Phát còn bức xúc:
- Ông thầy nói con Mỹ Dung chết trước lúc xe rơi xuống hố thì còn coi lại chiếc xe làm chi!
Lộc vẫn cương quyết:
- Theo con là có! Con đang nghi tới một số sự việc...
Anh bỏ vào đứng cạnh quan tài vợ, lâm râm khấn vái điều gì đó rất lâu.
Đến giữa trưa hôm đó thì buổi tụng kinh chấm dứt. Trước khi ra về, sư Thiện Tánh gọi riêng Lộc ra bảo:
- Cậu sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc tìm ra những khúc mắc quanh cái chết của vợ cậu, tốt hơn hết là cậu nên đưa xác cô ấy về chôn trên đất riêng của mình hơn là chôn ở nghĩa địa.
Lộc do dự:
- Điều này ba mẹ con không đồng tình. Họ muốn chôn ở nghĩa địa để tiện bề thăm viếng hơn. Hay là thầy nói giúp giùm...
Sư Thiện Tánh gật đầu:
- Được, để ta nói.
Nhờ ông thuyết phục, cuối cùng vợ chồng ông Tân Phát mới thuận theo.
Nhưng bà vẫn ra điều kiện:
- Con phải bảo đảm là sau này nếu con có lấy vợ khác thì việc thăm viếng của gia đình bên này không có trở ngại gì. Bằng không thì má sẽ cho chuyển mộ đi nơi khác liền!
Hoàng Lộc nói chắc:
- Con xin hứa với ba má là đời con chỉ có một lần lấy vợ thôi. Ngôi nhà của con sẽ mãi mãi là nhà của Mỹ Dung. Con xin thề có vong linh cô ấy.
Theo lời khuyên của thầy Thiện Tánh thì việc an táng Mỹ Dung được thực hiện vào chiều tối hôm ấy. Ông nhấn mạnh:
- Giờ Dậu thích hợp cho việc an táng này.
Ngôi biệt thự nhỏ của Lộc còn một khoảng sân trồng nhiều hoa phía sau.
Anh an táng vợ ngay giữa những luống hoa nhiều màu sắc...
***
Ba Minh đứng ngồi không yên khi liên tục hai ngày rồi chuông điện thoại nhà ông cứ reo rồi lại tắt ngay khi có người nhấc ống nghe lên.
Ông ta bực mình lắm nên đã ba lần đích thân nhấc máy lên và chửi vào đó những lời nặng nề nhất!
Và sáng hôm nay cũng thế. Khi ông vừa thay đồ xong định đi thì chuông reo.
Vừa cầm máy lên ông đã chửi xối xả:
- Đồ mất lịch sự, đồ...
Lời ông ta chưa dứt thì đầu dây bên kia đã có giọng nữ trong trẻo cất lên:
- Làm gì hung hăng dữ vậy ông trùm côn đồ!
Từ nào đến giờ chưa có ai dám ăn nói xấc xược như vậy với ông, nên Ba Minh gay gắt ngay:
- Ai vậy? Bộ...
- Muốn giết tôi sao? Giống như giết người ở đèo Bảo Lộc hả?
Ba Minh thót tim. Giọng ông không còn tự nhiên:
- Ai... ai nói đó?
- Cần gì biết là ai khi ông chưa trả lời tôi? Có phải ông định giết tôi như giết vợ chồng Hoàng Lộc không?
Ba Minh dập ngay ống nghe xuống, mặt ông tái xanh! Chuông điện thoại lại reo. Không dám nhấc máy, nên chuông reo có đến gần một phút, cuối cùng ông ta nhanh tay ấn nút cúp cuộc điện đàm và thở phào!
Nhưng lạ lùng sao, tiếng nói trong điện thoại vẫn vang lên:
- Biết sợ rồi sao ông Minh. Tôi tưởng người dám làm mọi chuyện tày trời như ông thì đâu có sợ ai, dẫu là hồn ma báo oán chăng nữa!
Người của Ba Minh phát lạnh và run, điều mà suốt cuộc đời làm giang hồ của hắn chưa bao giờ xảy ra!
Ông ta có muốn kiềm chế lại cũng không được, cái lạnh lạ lùng xuất phát từ trong ruột gan mà ra, cho nên càng cố gắng kiềm chế thì ông ta càng run lập cập và suýt nữa thì hai hàm răng đã chạm vào nhau.
- Thế nào, bây giờ ông chịu nói chuyện với tôi chưa, ông Minh?
Ba Minh như con gà mắc mưa, run giọng hỏi:
- Cô là ai?
- Hồn ma. Ông từng nghe nói về oan hồn chưa?
- Cô... tôi đâu có làm gì...
Giọng trong điện thoại bắt đầu sắc lạnh hơn:
- Không làm gì, chỉ giết người rồi ném xác người ta xuống vực sâu thôi, phải không?
- Tôi... tôi..
Ông ta thật sự bị suy sụp:
- Tôi xin cô...
- Ô kìa, trùm côn đồ, giết người như ngóe mà bây giờ hèn thế sao! Vậy lúc ông đích thân xả thắng xe của Hoàng Lộc, để khi đổ đèo thì mất thắng, ông có sợ không?
- Tôi... tôi...
Ông ta chỉ lặp lại mấy lần như vậy chứ không nói được câu nào khác. Giọng trong điện thoại vẫn vang lên:
- Rồi ai tráo lọ đầu gió của Lộc, để khi vợ anh ta hít vào thì bị hôn mê hả?
- Tôi... tôi...
- Mục đích chính của tội ác đó là gì? Do dược trả tiền công cao hay lý do nào khác, hãy tự nói đi, ông Minh. Đừng để tôi ra tay!
Ba Minh vừa run rẩy vừa cố bò lết ra tận cửa ra vào. Đến khi đứng lên được thì ông thoắt chạy như điên ra chiếc xe hơi nhà đang đậu sẵn. Khi xe ra tới đường rồi ông mới thở phào nhẹ nhõm. Ít ra thì ông cũng đã thoát được cái giọng nói chết người đó!
Ông ta có cuộc hẹn làm ăn với mấy khách hàng tại một địa điểm ở trung tâm thành phố và đáng lẽ khi rồ ga ông phải tới đó ngay, nhưng chẳng hiểu sao hướng xe của ông ta lại đi về khu vực ngoại ô.
Gần nửa giờ sau, Ba Minh cho xe rẽ vào một ngôi nhà bề thế nằm sâu trong một hoa viên sực nức mùi hoa kiểng. Đón anh là một phụ nữ ngồi trên chiếc xe lăn, bà ta đã tự lăn xe ra tận bậc tam cấp khi thấy xe của Ba Minh đi vào.
Ba Minh bước xuống xe và âu yếm với người đó bằng cách bế bà ta trên tay, đưa vào phòng khách, vừa cất giọng trìu mến:
- Đã nói rồi, Ly Ly không được tự lăn xe ra ngoài đó, lỡ ngã xuống bậc tam cấp thì sao?
Người có tên là Ly Ly nũng nịu:
- Thì đã có anh đỡ, lo gì!
- Đâu phải lúc nào anh cũng có mặt ở đây để đỡ. Mà anh còn đang có nhiều việc phiền lòng đây...
Ly Ly tuy đã có tuổi, nhưng là một phụ nữ đẹp, có sức quyến rũ không thua gì con gái trẻ. Người ta nói người phụ nữ khuyết tật luôn có sức quyến rũ, hấp dẫn tiềm tàng mà khó có người đàn bà lành lặn nào có được... Bởi vậy Ba Minh, một tay giang hồ khét tiếng, dưới trướng có không biết bao nhiêu em út trẻ đẹp, lại đi mê bà ta như điếu đổ, trong khi bà ta còn có chồng con và Ba Minh thì đang sống cùng hai bà vợ trẻ khác!
Giọng Ly Ly như mật ngọt:
- Bộ bị hai cái gông kia cột chặt sao mà mặt mày bí xị, hốc hác vậy cưng?
- Cột đâu mà cột, mà có cột thì làm sao giữ nổi thằng Ba Minh này?
Cuộc chuyện trò tình tứ giữa họ bị cắt ngang bởi chuông điện thoại reo vang.
Đã bị tiếng chuông điện thoại hành hạ suốt hai hôm nay, nên vừa nghe chuông reo Ba Minh đã nói liền:
- Đừng nghe!
Ly Ly cau mày:
- Sao lại đừng nghe? Em đang chờ điện thoại của Lan Hương từ Pháp gọi về mà.
- Nhưng...
Ba Minh không tiện nói ra ý của mình nên không cản nữa, để cho Ly Ly nhấc máy lên. Chẳng biết bà ta nghe ai nói gì trong điện thoại mà nhìn sững Ba Minh vừa quay ra hỏi:
- Ai mà biết anh ở đây?
Ba Minh hốt hoảng:
- Nói là anh vừa đi ra ngoài.
Nhưng giọng trong điện thoại đã vang lên giống y như lúc Ba Minh ở nhà mình:
- Sao vậy ông Ba Minh! Ông nghĩ là chạy trốn sang đây rồi có thể thoát được sao? Mà liệu ông thoát thì cô con gái cưng của ông và bà Ly Ly đây ở bên Pháp có thoát được chăng?
Câu nói này chẳng riêng Ba Minh sợ tái mặt, mà Ly Ly cũng rúng động. Bà run giọng hỏi:
- Cô là ai mà biết con gái chúng tôi?
Giọng người kia phá lên cười sắc như dao và sau tràng cười là một loạt âm thanh gầm rú nghe rợn người:
- Vừa nghe nói đến tên con gái mình thì đã lo sốt vó, trong khi đó thì lại đi giết con gái người khác không gớm tay!
Bà Ly Ly không còn giữ bình tĩnh được nữa, và điều khiển chiếc xe lăn thật nhanh, tiến sát tới bên điện thoại và chụp ống nghe lên, giọng bà run run:
- Cô... cô nói gì về con gái tôi? Nó... nó đâu có làm gì nó chỉ biết đi học thôi mà...
- Vậy con gái người ta thì sao, nó cũng chỉ biết sống vui và đi lấy chồng, có được hạnh phúc thôi, có làm gì ai đâu mà ông chồng của bà giết hại nó?
- Cô nói... ông ấy giết ai?
- Muốn biết giết ai thì bà hỏi người đàn ông bên cạnh bà đi!
Đến lúc này thì Ba Minh không còn giữ bí mật nữa, ông ta nói ra điều mà ngay cả người tình yêu dấu của mình ông cũng định giấu:
- Chỉ vì anh không muốn con gái mình bị chị Lệ Thủy bỏ rơi. Từ lâu anh đã muốn thằng Hoàng Lộc là con rể nhà mình. Chính em cũng muốn điều đó, bởi giữa em và chị Lệ Thủy từng hứa hẹn là sẽ làm sui gia với nhau mà...
Bà Ly Ly trợn tròn đôi mắt:
- Nói vậy con dâu chị Lệ Thủy chết là do anh?
Ba Minh nín thinh, chỉ có giọng trong điện thoại là vang lên:
- Chẳng những giết người con dâu vô tội kia, mà ông ta còn định giết luôn Hoàng Lộc nữa!
Không tin đó là sự thật, bà Ly Ly tròn mắt nhìn Ba Minh khiến ông ta lúng túng, run rẩy:
- Tôi... tôi... không có ý giết thằng Lộc. Hôm đó, tôi đã cho người phá cái chốt cửa bên tay lái, định hễ chiếc xe vừa sắp lao xuống vực thì bằng phản ứng tự nhiên, Hoàng Lộc sẽ tung cửa xe ra để thoát thân và chỉ ngã trên bờ vực, chứ đâu có ngờ. Nhưng cuối cùng Hoàng Lộc cũng đâu có chết!
- Trời ơi, anh Minh!
Bà Ly Ly thét lên rồi ngã chúi người về phía trước, toàn thân run lên bần bật.
Có lẽ cơn đau tim của bà đang bộc phát.
Ba Minh hoảng hốt:
- Ly Ly, em sao vậy?
Giọng kia lại vang lên:
- Ông lại phạm thêm một tội ác nữa rồi!
Sau câu nói đó thì giọng ấy im bặt... Chỉ có tiếng nấc của Ba Minh:
- Em ơi, anh chỉ muốn giành lại tình yêu cho con gái mình thôi. Chỉ còn một tháng nữa thì nó đã về nước, nó cần có một tấm chồng như con trai chị Lệ Thủy, có như vậy thì ngôi nhà này và những tài sản khác nữa của tụi mình mới không bị ngân hàng tịch biên để trả nó cho công ty bất động sản mà hiện nay thằng Hoàng Lộc đang làm giám đốc! Tôi chỉ muốn giữ hạnh phúc cho mẹ con em thôi mà...
Lời ông ta càng nói thì người bà Ly Ly càng co giật dữ dội hơn. Đến khi chợt nhớ ra thì Ba Minh mới bế xốc bà ta lên, chạy bay vào phòng riêng để cứu chữa.
Nhưng hình như đã quá trễ...


Quỷ Nhập


Bà Lệ Thủy dậy thật sớm và dặn Hai Sương:
- Bữa nay tao có khách, tụi bay lo đi chợ làm thức ăn đãi khách.
Hai Sương hỏi lại:
- Khách bao nhiêu người thưa bà?
- Khoảng bốn năm người!
- Dạ, là đàn ông hay đàn bà, khách chỉ ăn cơm hay khách nhậu ạ?
Bà Lệ Thủy bảo:
- Khách toàn đàn ông. Mày mua cho tao một nửa con chó.
Hai Sương sửng sốt:
- Bà... bà nói mua con gì?
- Mua thịt chó! Mày kêu xe đi xuống Trại Mát. Ở đó có bán thịt chó làm sẵn, mua về và chỉ làm đúng một món nướng cho tao thôi.
Hai Sương xanh mặt:
- Con... con đâu có biết làm thịt chó. Con cũng không quen mùi nữa...
- Không quen rồi sẽ quen. Đem về đây rồi tao sẽ chỉ cho cách làm.
Trước thái độ kỳ lạ của bà chủ, Hai Sương thấy hơi kỳ lạ. Bà ta ở nước ngoài về mà sao lại bảo nấu món thịt chó đãi khách?
- Mày ngạc nhiên vì tao bảo làm món thịt chó hả?
Không ngờ bà ta hiểu thấu tâm trạng mình, nên Hai Sương hơi lúng túng:
- Dạ... con chỉ lo món thịt chó hơi lạ, xưa nay đâu nghe ai đãi khách...
Bà Lệ Thủy bỗng phá lên cười:
- Người ta không đãi mà mình đãi mới hay! Vả lại những người này phải đãi họ thịt chó họ mới thích.
Hai Sương biết tính chủ, càng nói thì bà càng bảo lưu ý của mình, nên chị ta vừa lấy xe máy ra mà vẫn còn thắc mắc, nhưng vẫn đi mua. Khi chạy xe tới Trại Mát, vùng ngoại ô của thành phố Đà Lạt thì Hai Sương mới càng lúng túng hơn, bởi nhìn quanh chẳng thấy nơi nào bày bán thịt chó. Mà hỏi thăm thì Hai Sương lại không dám, bởi ai đời một phụ nữ lại đi tìm mua thịt chó?
Còn đang hoang mang, bỗng có người hỏi từ bên ngoài đường:
- Có phải cô kiếm mua thịt chó không?
Hai Sương giật mình:
- Dạ... dạ phải. Nhưng sao anh lại biết?
Người đàn ông trung niên cười cười:
- Thấy cô ngơ ngác thế kia thì biết ngay mà! Nhưng nói cho vui thôi, chứ đã có người dặn rồi, cô cứ lấy thịt mà mang về, khỏi phải trả tiền.
Hai Sương càng ngạc nhiên hơn:
- Có phải bà chủ tôi dặn không?
Người đàn ông lắc đầu:
- Cô không cần biết. Hãy mang về đi.
Ông ta vừa nói vừa đưa cho Sương một cái túi nhựa và dặn:
- Đem về nhà hãy mở ra, và chỉ cần làm theo hướng dẫn ghi trong giấy là sẽ có món ngon ngay.
Hai Sương xách cái giỏ mà tay run run. Từ nào đến giờ cô có biết thịt chó nó ra làm sao, cứ tưởng tượng nguyên con chó mới làm thịt nằm trong giỏ là Sương đã muốn nôn ói rồi.
Chị ta gồng mình cầm lấy và cắm đầu đạp xe như bay trở về nhà.
Vừa tới cổng nhà đã thấy thấp thoáng mấy người khách lạ đứng trong sân.
Bà Lệ Thủy nhìn ra giục:
- Mau đem vào đi, còn chần chừ gì nữa.
Rồi bà quay sang một người khách trẻ và bảo:
- Đã có cậu này rồi thì mày giao món thịt đó cho cậu ấy làm.
Nói xong, bà ta lại hướng về người đàn ông có tuổi đang đứng quay mặt vào trong và nói:
- Món ăn này mình ăn ngay tại sân thích hơn anh!
Người đàn ông quay lại, thì ra ông ta là Ba Minh. Nghe hỏi, ông ta miễn cưỡng đáp:
- Ừ cũng được. Mình vừa ăn vừa nói chuyện! Tốt nhất là chị không nên để cho mấy người làm ở ngoài này...
- Anh yên tâm, sẽ chỉ có đám mình thôi. Nào, mời cùng ngồi quanh bàn đá này, trong lúc cậu gì đó mang gói thịt tới đây, ta bày lên bàn rồi đưa bếp lò ra sau.
Tên đàn em của Ba Minh đặt chiếc giỏ lên bàn, vừa định mở ra thì đã bị bà Lệ Thủy ngăn lại:
- Không, vinh dự này phải để cho anh Ba chứ!
Ba Minh cười rất gượng:
- Ai cũng được mà, đâu hề gì.
Ông ta nói thế nhưng vẫn đưa tay mở dây cột giỏ ra. Gói khá lớn lại cột hơi kỹ, nên phải mất gần nửa phút ông ta mới mở bung được lớp bọc bên ngoài.
Vừa nhìn thấy vật bên trong thì Ba Minh đã kêu thét lên:
- Trời ơi!
Trước mặt ông ta và mọi người là một chiếc đầu lâu người, chứ không phải con chó. Mà cũng không phải cái đầu lâu bình thường, bởi tuy đã nằm rời thân thể, nhưng đôi mắt của cái đầu ấy vẫn còn chớp mắt như người sống!
Bọn thủ hạ của hắn do đứng bên ngoài nên nhanh chân chạy đi, còn Ba Minh thì cứng đờ một chỗ! Tuy nhiên, cũng chỉ chạy được mấy bước rồi chẳng hiểu bị gì mà đều đứng khựng lại như bị chôn chân xuống đất!
Bà Lệ Thủy bỗng dưng phá lên cười:
- Lũ giết người mà cũng biết sợ xác chết sao?
Nghe giọng bà là lạ, Ba Minh nhìn sững và lắp bắp hỏi:
- Chị Thủy, có phải là chị không?
Bà Lệ Thủy vẫn giọng cười khác thường:
- Nếu không phải thì là ai? Trước tiên, anh hãy nhìn vào cái đầu lâu kia xem là ai cái đã!
Ba Minh nhìn xuống lần nữa và lần này còn thét lên kinh hoàng hơn lần trước:
- Ly Ly!
Rõ ràng cái đầu của bà Ly Ly đang nhìn ông với đôi dòng lệ đang tuôn trào hai bên khóe mắt! Ba Minh vồ lấy và ôm đầu lâu vào lòng, vừa khi ấy có một tiếng rú lạ thường cất lên từ đầu lâu ấy, và... Ba Minh bật ngửa ra, buông rơi chiếc đầu lâu lăn lông lốc dưới đất.
Bọn đàn em hắn nhìn rõ mọi diễn biến, cả bọn chúng đều líu cả lưỡi, muốn kêu lên mà cũng không làm sao mở miệng được. Cho đến khi bà Lệ Thủy vụt đứng lên, tiến về phía chúng và cất tiếng hỏi:
- Đứa nào làm hư thắng xe của Hoàng Lộc?
Vừa hỏi, bà vừa chỉ thẳng vào một tên gọi là Hùng Sùi:
- Chính mày phải không?
Tên này vừa mở miệng định chối thì bỗng hắn thét lên đau đớn. Nhìn lại thì đã thấy miệng hắn đầy máu, một phần lưỡi của hắn đã rơi xuống đất!
Những tên còn lại kinh hoảng nhưng cũng đành đứng như bị trời trồng, cho đến khi bà Lệ Thủy hỏi tiếp:
- Thằng nào bỏ thuốc mê vào ly nước cho vợ Hoàng Lộc uống?
Bốp! Chát!
Vừa hỏi xong thì bà giương thẳng tay tát vào hai bên má thằng đàn em tên Năm Gà:
- Chính mày chứ còn ai vào đây!
Lại một cái lưỡi nữa rơi ra cùng lúc với tiếng kêu thảm thiết của tên nọ!
Đến lượt Ba Minh. Nãy giờ ông ta đã thất kinh hồn vía, vừa run vừa muốn chạy trốn, nhưng cũng là lúc bị gọi tên:
- Tụi nó chỉ là tay sai, được chủ sai đâu thì làm đó! Còn ông, ai đã sai bảo ông? Ông lý giải là do sợ con gái mình không lấy người chồng giàu phải không? Cho nên ông bằng mọi giá phải loại đối thủ của mình. Hành động đó của ông đã khiến cho người phụ nữ trót yêu ông mà cả đời phải hy sinh, chịu tật nguyền do ông cho uống nhầm thuốc phá thai, rồi vì ông mà bà ta phải chịu cảnh xa chồng, do người đàn ông kia không thể nào chịu nổi cảnh vợ mình mê một tay trùm xã hội đen như ông. Bây giờ bà ấy đã chết, bởi biết ông gây ra tội ác tày trời. Ông còn muốn gì nữa? Còn đứa con gái ông sắp về nước phải không?
Ba Minh gào lên, van lơn:
- Đừng, xin đừng hại tới con tôi. Mọi tội lỗi là do tôi, con gái tôi không biết gì hết, nó cũng không muốn làm theo tội ác của tôi đâu!
Ông ta vừa cử động tay chân được thì cũng là lúc cái đầu lâu của bà Ly Ly tự nhiên lăn đến dưới chân. Thuận tay, ông ta cúi xuống ôm lấy và nức nở khóc.
Nhưng lạ lùng thay, bỗng nhiên ông ta phát tru lên một tiếng thật dài, thật kinh khủng, rồi phóng mình xuống đất! Lúc đó Hai Sương và vài người nữa trong nhà nghe tiếng gào thét bên ngoài đã chạy ra nhìn, và sửng sốt khi nhìn thấy Ba Minh vừa nhảy xuống đất đã biến thành một con chó mực to tướng.
Hai Sương là người xách chiếc giỏ thịt chó về cho nên chị ta càng thêm kinh hãi khi nhìn thấy hiện tượng đó. Chị líu cả lưỡi:
- Ông... ông ta...
Khi ấy bà Lệ Thủy quay lại và nói to cho người nhà nghe:
- Kẻ ác nhân này đã đền tội rồi đó, vậy bà chủ của mấy người cũng được tha từ nay. Và hãy nói với bà ta không được đối xử với con dâu mình như vậy nữa!
Nói dứt lời thì như cái bóng, hình hài bà ta thành sương khói biến mất...
Sáu Xinh đứng bên cạnh nói với Sương:
- Bà ra coi, sao bà chủ mình biến đi đâu?
Hai Sương thất thần:
- Kỳ quá...
Chợt chị ta nhớ ra, bảo:
- Hồi nãy nghe bà ấy nói gì không? Tại sao bà ta nói là đã tha cho bà chủ mình rồi? Vậy bà ta là ai?
Họ chẳng hẹn mà cùng chạy vào nhà, gõ cửa phòng bà Lệ Thủy:
- Bà chủ ơi!
Họ gọi đến khàn cả cổ mà vẫn chẳng có tiếng trả lời, mà bên trong lúc ấy hình như có âm thanh ú ớ.
Hai Sương nói:
- Mình tông đại cửa vào thôi, biết đâu bà chủ bị nạn gì đó!
Họ tung được cửa thì vừa kịp nhìn thấy bà Lệ Thủy ngã lăn xuống sàn nhà.
- Bà chủ!
Họ vực bà dậy thì vừa lúc bà Lệ Thủy tỉnh lại, sợ hãi hỏi:
- Nó đâu rồi?
Hai Xinh hỏi:
- Bà chủ hỏi ai?
- Nó... vợ thằng Lộc...
Sau khi hoàn hồn lại, bà kể:
- Tao đang ngủ trong này chợt thấy có ai đè lên thân thể, rồi cổ tao như bị chặn ngang, không nói hay kêu la gì được. Mà cả chuyện ngồi dậy cũng không thể.
Hai Sương ngơ ngác:
- Vậy người nãy giờ ở ngoài sân tiếp khách là ai? Rồi hồi sáng này có phải bà sai con đi mua thịt chó không?
Bà Lệ Thủy tròn mắt kinh ngạc:
- Tao bảo mua thịt chó làm gì? Mà từ sáng tới giờ tao có ra khỏi phòng đâu, tao bị ai đó đè cứng trên giường này như tụi bay thấy đó!
Mọi người như từ trên trời rơi xuống, nhất là Hai Sương, chị ta ngẩn người một lúc rồi tự hỏi:
- Phải chăng là... mợ Hai?
Sáu Xinh nghe vậy liền hỏi:
- Oan hồn cô Mỹ Dung hả?
Hai Sương như người mất hồn:
- Oan hồn! Đúng là oan hồn!
***
Lan Hương vừa bước xuống phi trường, mới bước vào phòng chờ lấy hành lý thì đã thấy một thanh niên đưa tay vẫy vẫy ở cửa đợi. Lúc đầu tưởng là vẫy ai nên Hương không đáp lại, nhưng sau đó nhìn kỹ, cô thấy trên tay anh ta cầm một miếng bìa cứng đề tên LAN HƯƠNG, thì cô giật mình tự hỏi:
- Chẳng lẽ là anh chàng này?
Cô lấy một mảnh giấy nhỏ trong túi áo khoác và đọc lại: Hoàng Lộc sẽ chờ ở phi trường.
Chỉ biết Hoàng Lộc trước khi đi du học, đã cách trên mười năm rồi, nên lúc này đứng trước mặt anh ta chắc gì Lan Hương đã nhớ. Tuy nhiên, khi nhìn lại một lần nữa anh chàng cầm tấm bìa đề chữ Lan Hương kia, cô nàng thầm nghĩ: vượt quá mong đợi của mình rồi!
Hương còn nhớ cách nay hơn một tháng, cô đã nhận được lá thư của cha, trong đó ông có viết:
"Ba đã tìm được cho con người con trai mà con mong đợi, thằng Hoàng Lộc mà trước khi đi du học con từng khen là đẹp trai, thông minh mà lại hiền lành.
Mặc dù khi ấy Lộc mới có mười hai tuổi, còn bây giờ nó đã gần ba mươi, đang là một mẫu đàn ông khôi ngô tuấn tú, lại giỏi giang, giàu có. Ba má mà được nó làm rể thì còn hạnh phúc nào bằng!"
Cách ngày Hương về nước mấy hôm, cô còn nhận được một điện tín đánh từ quê sang, nói rằng khi về nước cô sẽ nhận được nhiều tin vừa xấu vừa tốt một lúc nhưng chính niềm hạnh phúc bất ngờ sẽ giúp cô vượt qua những tin gọi là xấu! Lúc đó, Lan Hương chưa hình dung được là chuyện gì. Cho đến hôm nay, suốt hơn mười giờ ngồi trên máy bay, cô nghĩ mãi mà vẫn chưa ra chuyện gì đang chờ mình ở nhà...
Sau khi lấy được hành lý, Lan Hương vừa đẩy xe ra tới cửa thân nhân đón thì Hoàng Lộc đã tiến đến gần và lên tiếng ngay:
- Tôi là Hoàng Lộc, đến đón Lan Hương theo sự cho phép của hai bác.
Lan Hương lịch sự, nhẹ giọng:
- Em đã được ba má nhắc nhiều về anh, nhưng không ngờ...
Lộc nói liền:
- Không ngờ gặp là thất vọng phải không!
Hai người cười vui và ngay từ phút giây ấy, họ đã thân nhau ngay. Điều này cả hai cũng không hiểu tại sao...
Đến khi Lộc lái xe đưa Hương về thẳng nhà mình thì thay vì ngạc nhiên, cô đã rất tự nhiên đi theo Lộc vào nhà và còn hỏi:
- Nhà có đủ phòng cho em ngủ lại không?
Hoàng Lộc đã chuẩn bị từ trước, anh chỉ về một căn phòng khang trang nhất trong nhà, đáp:
- Chẳng những có phòng mà còn là căn phòng đẹp nhất nữa!
Lan Hương không hỏi gì đến sự vắng mặt của cha mẹ mình, cho đến khi Lộc chủ động nói ra:
- Nếu bây giờ Hương nghe một tin buồn thì em sẽ làm sao?
Nàng bất ngờ hỏi:
- Anh muốn nói tới chuyện ba má em phải không?
Lộc gật đầu:
- Đúng vậy! Em có buồn lắm không?
Cô nàng sa nước mắt, nhưng vẫn tỉnh táo:
- Lúc ngồi trên xe anh, chẳng hiểu tại sao em lại nghe văng vẳng bên tai mình báo tin buồn này. Lúc đó em bàng hoàng, vừa muốn khóc lên thì bất chợt xe anh quẹo vào nhà, ngừng lại thì em như... một người khác. Bây giờ em chỉ bùi ngùi một lúc rồi thôi...
Hoàng Lộc cầm lấy tay nàng, nói rất khẽ:
- Từ bây giờ em không còn là... Lan Hương nữa! Đúng hơn, em là Lan Hương, nhưng thực chất em là... vợ anh thật sự!
Lộc nói những lời này vừa nhìn Hương, cô nàng không có phản ứng gì, ngoài việc nhìn anh đắm đuối.
Sau đó, hai người đứng trước bàn thờ của Mỹ Dung, Hoàng Lộc lên tiếng:
- Anh đã làm theo đúng những gì em muốn rồi đó! Bây giờ Lan Hương đã về đây, cô ấy rõ ràng hoàn toàn không biết những gì cha mẹ mình làm. Cô ấy...
Lời của Lộc chưa dứt thì đã nghe chính miệng Lan Hương thốt lên:
- Em biết rồi, không quay lại nhìn em sao?
Hoàng Lộc quay lại nhìn và anh kêu lên thích thú:
- Em đây mà, Mỹ Dung.
Tiếng cười khúc khích của cô nàng vừa lúc cánh cửa lớn mà Lộc vừa mở lúc nãy bỗng dưng sập lại, đèn đang sáng cũng tắt ngúm. Chỉ còn lại tiếng reo vui của hai con người trong bóng tối:
- Làm người ta hết hồn!
- Cám ơn em đã đền cho anh...
- Nhớ đây là phần thưởng dành cho con người trung thực, hết lòng yêu vợ của anh. Nếu anh lạng quạng thì chẳng những mất em luôn mà cả cái xác Lan Hương này cũng sẽ thuộc về người khác đó nghe!
- Ai dại gì mà để mất... cả hai!
Một cú nhéo đau điếng, mà người lãnh đủ chính là Hoàng Lộc. Anh chàng ráng nhịn đau, nhưng đến lúc chịu không nổi phải kêu lên:
- Đau, đừng nhéo chỗ đó em!
Trong bóng tối, hai người quyện lấy nhau và có lẽ hạnh phúc sẽ ở với họ lâu lắm...
***
Chuyện Lan Hương và Hoàng Lộc thành hôn với nhau tuy diễn ra âm thầm, nhưng vẫn có một số người biết. Họ bàn tán với nhau:
- Thằng Lộc sao tệ quá, vợ mới chết chưa đầy sáu tháng đã lấy vợ khác rồi!
Người lại nói:
- Mà cũng lạ, nghe nói vong hồn cô Mỹ Dung linh lắm, mà sao lại chấp nhận cho người vợ mới của Lộc về ở trong ngôi nhà còn bàn thờ cô ta trong đó?
Mặc ai nói gì thì nói, Lộc và Lan Hương vẫn hạnh phúc bên nhau. Bà Lệ Thủy vẫn ở Đà Lạt, nhưng thỉnh thoảng về Sài Gòn. Mỗi lần về, bà đều rất hòa hợp với Lan Hương, khác xa với thái độ hờ hững, đố kỵ với Mỹ Dung ngày trước.
Và nếu có ai nhìn thấy thì sẽ ngạc nhiên hơn, bởi bà luôn đứng trước bàn thờ của Mỹ Dung và lâm râm khấn vái rất thành khẩn. Có lần bà còn gọi Lan Hương lại gần, đứng trước bàn thờ và nói:
- Má biết lỗi của mình, biết được tấm lòng vị tha của con khi chấp nhận cho Lan Hương đem xác mình về nhập với hồn của con để làm vợ thằng Lộc. Má cám ơn con...
Bí mật của Lộc và Lan Hương chỉ có bà Lệ Thủy biết, và bà đã thề với lòng là sẽ mãi mãi giữ kín. Bởi vậy nhiều người ngạc nhiên tại sao Lan Hương từ lúc về nước chưa một lần về nhà thăm ngôi nhà của mẹ cô.
Ngôi biệt thự đồ sộ đó bị bỏ hoang... Tuy nhiên, khi tìm hiểu thì người ta mới phát hiện ra trong nhà không phải hoàn toàn vắng hoe mà thật ra còn có một... con chó mực rất lớn trú ngụ! Con chó đó là hiện thân của Ba Minh!
Ngôi biệt thự tuy không có người, nhưng chỉ có con chó ấy, nó đã giữ cho ngôi nhà luôn luôn ấm cúng như có người ở. Không một kẻ trộm nào dám léo hánh vào bởi đã từng có mấy lượt, kẻ tham lọt vào nhà và lập tức bị con chó cắn cổ, xé xác.
Chỉ có vợ chồng Lan Hương là biết chuyện. Họ thường tâm sự với bà Lệ Thủy:
- Con chó mực đó là hồn của Ba Minh nhập vào. Ba Minh là kẻ đại ác, nên chết không thành ma mà thành quỷ. Tuy nhiên, nó đã bị Mỹ Dung khắc chế, nhốt nó vĩnh viễn trong ngôi nhà đó. Ở trong ngôi nhà thì nó chỉ là con chó tinh ranh, nhưng bình thường nó không có gì nguy hiểm. Trừ phi có ai đó tìm cách đưa nó ra ngoài, lúc đó nó sẽ trở nên cực kỳ nguy hiểm! Người bị nó nhập sẽ là quỷ nhập tràng, nguy hiểm khôn lường...
Bà Lệ Thủy lo sợ hỏi:
- Sao con không diệt nó hẳn cho rồi, để như vậy sẽ có ngày...
Nhưng vong hồn Mỹ Dung đã quả quyết:
- Chỉ khi nào anh Lộc ruồng bỏ Lan Hương, tức ruồng bỏ con, thì lúc đó con mới để cho con chó mực thoát ra ngoài. Và lúc ấy nạn nhân đầu tiên sẽ là... Hoàng Lộc!
Hoàng Lộc dúi mặt vào tóc vợ, âu yếm:
- Trời có sập anh cũng không dám bỏ em nữa là...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #58  
Old 11-07-2012, 04:31 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 29

TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG


Quyển XXIX: YỂU MỆNH

Người Con Gái Bạc Phận


Vượt qua vô vàn khó khăn, cuối cùng hai người mới được toại nguyện. Đám cưới vừa xong là Văn mệt phờ người, anh ngủ vùi một đêm mãi gần giữa trưa hôm sau mới giật mình tỉnh dậy. Vừa mở mắt ra, anh đã nhận được một tiếng thở dài ngay bên cạnh.
- Anh xin lỗi.
Văn quay sang nói với tác giả tiếng thở dài vừa rồi và lại nhận thêm một cái ngúng nguẩy, xoay người nhanh sang nơi khác kèm theo tiếng thở dài còn dài hơn.
- Người ta biết lỗi rồi mà. Chỉ vì đêm qua anh quá say, khi vào tới phòng đã không còn biết trời trăng gì nữa. Thậm chí anh còn không biết có em nằm bên cạnh nữa!
Cho đến lúc này Ngọc Mai mới chịu quay mặt lại, giọng vẫn còn hờn dỗi:
- Đêm động phòng của anh là như vậy đó hả?
Biết lỗi của mình nên Văn lại xuống giọng hơn nữa:
- Biết lỗi rồi mà... tha cho lần đầu đi, rồi anh sẽ đền bù xứng đáng cho.
Ngọc Mai bật dậy ngay, vừa chỉ tay xuống nệm, nơi có vài ba vết màu đỏ loang lổ:
- Anh hưởng đời con gái mà như vậy đó sao? Anh có biết là suốt đêm qua em khóc bao nhiêu nước mắt không?
Văn cũng giật mình và bật dậy ngay, mắt nhìn vào dấu vết đó vừa run giọng hỏi:
- Anh... anh đã làm gì?
Lần này không phải là tiếng thở dài nữa, mà là một tiếng kêu thảng thốt:
- Anh không biết mình đã làm gì?
- Ờ... anh say quá, có ngóc đầu dậy nổi đâu...
- Vậy vậy ai đã làm ăn như gà mổ. Làm tiêu đời con gái người ta mà chẳng màng tới kết quả ra sao nữa. Ai đã...
Văn thật sự tỉnh táo:
- Em nói đêm qua anh đã… đã... làm gì? Anh còn mặc nguyên quần áo đây mà! Anh...
Văn không ngờ chỉ câu nói đó của mình mà Ngọc Mai đã òa lên khóc! Quá đỗi ngạc nhiên, Văn hỏi:
- Em làm sao vậy, Mai? Anh nói không phải sao, anh ngủ như chết và có làm gì đâu?
Thêm câu nói này nữa thì sức chịu đựng của Mai đã hết, cô nhảy phóc xuống giường, vừa ôm mặt khóc vừa chạy bay ra khỏi phòng. Văn gọi với theo:
- Mai! Dừng lại đã.
Vừa đuổi theo vợ, Văn vừa cảm giác đầu mình nặng như chì, anh lảo đảo và suýt ngã sấp ngoài cửa. Nhưng do Mai cứ nhắm hướng đường xe mà chạy, nên Văn cũng phải cố đuổi theo.
Trong khi đó thì mấy bà cô, bà dì tới dự cưới đêm qua còn ngủ lại trong nhà, khi nghe cuộc đuổi bắt của vợ chồng Văn đã cùng thức dậy ra xem. Họ đã không tiếp Văn đuổi theo giữ Mai lại mà còn đứng nhìn nhau và cười. Bà cô thứ Sáu còn trẻ nên bạo miệng hơn, đã lên tiếng:
- Thằng Văn này không biết tâm lý gì hết. Chắc là con nhỏ vừa ngủ dậy thấy bị... mất đời con gái nên mắc cỡ! Mà thằng cũng tệ, phải biết tâm lý con gái chứ nó cảm giác như bị mất, đồng thời như phạm tội... Chắc là thằng Văn nói gì không khéo làm cho con nhỏ quá ngượng mà bỏ chạy đó, Chắc là chạy về bên nhà.
Bà dì út kéo tay mấy bà kia:
- Mình vào coi kết quả có đáng mừng không?
Cả bốn bà vừa cô vừa dì đã cùng bước vào phòng tân hôn của vợ chồng Văn. Người la lên đầu tiên là cô Sáu:
- Điểm son rồi chị Hai ơi! Chị trúng độc đắc rồi! Trúng số rồi!
Mấy bà kia sau khi nhìn mấy đốm màu đỏ trên nệm cũng đều la lên.
- Hỷ sự thật rồi!
Đối với các bà còn nặng cổ tục thì việc nhìn thấy dấu vết "con gái" sau đêm tân hôn của cô dâu là điều đại hỷ, nên việc họ cùng la lớn mà không ngượng là có lý của nó.
Bà mẹ chồng Hai Ngân từ trong bước ra, chỉ nghe thôi cũng đã mãn nguyện, bà thở một hơi dài như trút được gánh nặng:
- Suốt đêm qua tới giờ tôi cứ ngay ngáy trong lòng...
Rồi bà quay sang các chị em chồng phân bua:
- Cưới vợ cho con thời nay nó cực vậy đó. Lo nết ăn nết ở của nó chỉ một, mà lo... đời con gái của nó còn không là gấp mười lần! Tôi thấy con Ngọc Mai sống theo tân thời nên cũng lo lo. Cũng may, trời còn thương nhà này.
Mấy bà kia được dịp tự tán dương mình:
- Thấy không, tụi này có con mắt tinh đời mà, thoạt nhìn đã biết con nhỏ có phước tướng, cưới nó về rồi đây chị Hai phát tài cho coi!
Một bà dì lại nói:
- Có được con dâu còn… "nguyên vẹn" là điều phải ăn mừng lớn đó! Thôi, bảo tụi nó đem giặt tấm drap đi, để con nhỏ lại mắc cỡ nữa bây giờ!
Nhưng bà cô Sáu lại nói:
- Không cần. Phải để cho con Mai nó tự đi giặt, còn mình thì hãy đóng cửa lại, làm như không biết gì...
Nửa giờ sau..
Trong lúc cả nhà đang phấn khởi trước dấu hiệu vui thì Văn trở về với bộ mặt rầu rĩ, anh thấy mọi người nhìn mình thì bực dọc:
- Làm như con là quái vật hay sao vậy?
Bà Hai Ngân phải lên tiếng:
- Mấy cô mấy dì đang có ý định làm bữa tiệc riêng mừng vợ chồng con đó!
Văn trố mắt:
- Mừng chuyện gì?
Cô Sáu là người bạo miệng nhất:
- Chuyện con có được con vợ đại hỷ!
Dì út thì nói:
- Thời buổi này mà được con vợ như nó là đại phước đó! Thiên hạ bỏ ra bạc triệu cũng không có, chứ phải chơi đâu!
Thật bất ngờ, Văn buông một câu:
- Có gì đâu mà quý, máu lươn đó?
Bà Hai Ngân nghe như sét đánh ngang tai, bà há hốc mồm rồi vài giây sau mới hỏi:
- Con... con nói gì?
Văn nói toẹt ra:
- Con mới chạy qua nhà cô ta hỏi cho ra lẽ, tuy cô ta không chịu nhận, nhưng con biết chắc đó là... máu lươn! Chứ có phải...
Cô Sáu la lên:
- Tụi bay điên rồi hay sao mà làm vậy? Sao mày biết?
Văn sa sầm nét mặt vốn đã nặng từ nãy giờ:
- Đêm qua con say bí tỉ, ngủ mê như chết thì làm sao... có chuyện đó được. Cô ta đã...
Bà Hai Ngân chụp lấy vai con:
- Chuyện này có thật!
- Còn thật với giả gì nữa. Sáng nay khi thức dậy con biết chắc mình... không có làm gì hết, vậy mà cô ta lại trách con. Làm ăn không ra gì, rồi còn nổi giận bỏ chạy khi con tỏ ý nghi ngờ. Đến khi con chạy theo về nhà cha mẹ cô ấy, hỏi thì cô ấy làm dữ, đóng ầm cửa lại không thèm tiếp chuyện với con. Má coi như vậy có tức không!
Bà Ngân thừ người ra trước cái tin bất ngờ này, mãi một lúc sau bà mới thở dài một tiếng rồi lặng lẽ bỏ đi về phòng riêng. Mấy bà dì bà cô xúm lại định hỏi, nhưng Văn đã buồn bã rút vào phòng mình, rồi suốt chiều đó anh không hề bước ra ngoài, cũng chẳng buồn cơm nước gì...
***
Bà Ngân vừa xuống xe xích lô thì đã nghe có người gọi mình:
- Chị Hai! Vào đây!
Mắt hơi kém nên nhìn dáo dác mà không thấy ai, chỉ nghe giọng hơi quen quen thôi, nhưng bà Ngân vẫn bước về phía người gọi.
- Có dâu mới rồi quên bạn bè hết sao!
Bước tới gần hơn, lúc này bà Ngân mới nhận ra bà bạn cũ:
- Trời ơi, bà coi mắt mũi tôi đó, cách có chục bước mà như mù.
Bà Tư Xinh hình như đã có ý đợi sẵn, nên nói:
- Biết chị thế nào cũng đi chùa nên tôi đợi, chẳng ngờ đợi đến mỏi cổ ra chị mới tới. Sao đi chùa trễ vậy?
Bà Ngân chỉ giỏ trái cây, giải thích:
- Bận chờ con nhỏ bán trái cây, nó hẹn đem xoài cát vừa chín tới để mình cúng Phật, mà giao trễ đến gần một tiếng đồng hồ, làm trưa trờ trưa trật tôi mới đi được. Mà sao bà không tìm tôi ở nhà lại chờ ở đây?
- Tôi không dự đám cưới được nên ngại đến nhà. Vả lại có chút chuyện nên muốn gặp chị ở đây tiện hơn.
Đã lâu không gặp nhau, vừa rồi lại không thấy bà ta tới dự đám cưới, nên bà Ngân có ý ngại:
- Tôi có bảo sắp nhỏ qua gửi thiệp và lời cáo lỗi với bà, mấy bữa đó tôi nhức cái chân đi không được, chứ đúng ra phải trực tiếp qua mời. Sao, có giận gì không! Tôi xin lỗi.
Bà Tư khoát tay:
- Không có chuyện đó đâu, người xin lỗi phải là tôi. Nhưng bữa nay tôi gặp chị không phải vì chuyện đó, mà là...
Bà ta hạ thấp giọng ra vẻ quan trọng:
- Có một người muốn gặp chị, nhờ tôi nói trước...
Bà Ngân ngạc nhiên:
- Ai muốn gặp tôi sao lại phải nhờ bà? Bộ người ta không thể biết nhà tôi sao?
- Chị nhớ người này không?
Vừa lúc đó, người đàn bà nãy giờ ngồi quay mặt vào tường giờ mới quay ra, vừa nhìn thấy thì bà Ngân đã reo lên:
- Chị Năm!
Người được kêu là chị Năm đó là Năm Thảnh, một người đối với bà Ngân có mối thâm tình còn hơn là một người bạn cũ. Và chẳng hiểu sao, sau tiếng kêu thảng thốt đó thì bà Ngân lại biến sắc! Giọng bà hơi run:
- Chị Năm về hồi nào, mà sao tôi không hay.
Giọng người phụ nữ có vẻ không tự nhiên:
- Tôi đâu có được hoan nghênh, nên làm sao báo trước! Mà cũng phải, báo trước thì đâu có cuộc gặp hôm nay!
- Chị Năm.
Có lẽ hiểu ý, nên Tư Xinh đứng lên:
- Xong nhiệm vụ rồi, tôi xin kiếu, rồi bữa nào sẽ qua nhà gặp chị Hai sau. Tôi đi có chút việc nhà...
Không giữ bà lại có lẽ cũng hạp ý bà Năm Thảnh, nên bà ta nghiêm giọng nói:
- Chuyện này có lẽ giải quyết giữa tôi với chị tốt hơn.
Bà Ngân bắt đầu lộ rõ sự lo lắng, bối rối:
- Tôi không có ý đó...
- Chị muốn nói là không có ý nuốt lời hứa với tôi chứ gì? Nhưng bằng chứng là chị có tôn trọng những gì đã hứa đâu. Chị đã là bà mẹ chồng của cô dâu mà đứa con gái đó không là con gái của tôi!
Bà Ngân lúng túng:
- Tôi không có ý...
- Tốt hơn là chị đừng nói với tôi những lời thanh minh ấy. Chị đã cưới vợ cho con trai mình, trong khi nhẫn đính hôn với con gái tôi thì nó vẫn còn đeo. Chị giải thích sao về điều này đây?
Bà Ngân như một tội nhân đứng trước mặt quan tòa, bà đáp buông xuôi:
- Chuyện này tôi cũng không biết nói sao nữa. Thằng Văn nó cũng không có ý bội bạc, chỉ vì... chỉ vì...
- Chỉ vì đám đó giàu hơn nhà tôi, con dâu mới đẹp hơn con Xuân Lan nhà tôi, đúng không. Vậy thì ngày đó chị mai mối xin cưới con gái tôi làm gì? Chị có nhớ là khi chị dẫn thằng Văn qua coi mắt con nhỏ, chính tôi đã nói là tôi chỉ có mỗi con Xuân Lan, nên tôi chưa muốn gả, vậy mà chị nói cho bằng được, chị hứa hẹn đủ điều đến nỗi con nhỏ cũng phải xiêu lòng, nó bỏ cả năm học cuối để chuẩn bị về nhà chồng, để rồi...
Những lời của bà ta nói đến đâu bà Ngân nghe buốt óc đến đó. Dẫu bà đã biết trước sẽ có ngày này, nhưng đối mặt với nó bà lại mất hết can đảm để nói thật. Bởi sự thật này nó có điều sâu kín, khó nói ra một lúc...
Phải mất đến gần một phút sau, bà Ngân mới nói được một câu có đầu có đuôi:
- Ông nhà tôi trước khi mất có nợ một số tiền lớn của bên đó, nên mẹ con tôi không còn cách nào khác hơn là phải tiến hành lễ cưới. Tôi cưới dâu mà lòng đau như cắt chứ có sung sướng gì đâu...
- Đau lòng mà sao còn đòi con dâu phải còn trinh tiết!
Bất ngờ trước câu nói của bà ta, bà Ngân ngơ ngác:
- Sao... chị biết chuyện đó?
- Bởi biết mới gặp chị để nghe chị giải thích ra sao? Bị ép buộc phải cưới con người ta, sao còn đòi hỏi? Muốn đòi hỏi tiêu chuẩn cao sao chê con gái tôi?
Nói tới đó bà ta đứng phắt dậy, nói gần như rít lên:
- Tội ác của mẹ con chị rồi đây trời sẽ phạt cho sáng mắt ra! Đã ác độc làm cho con gái tôi thất vọng vì nhục nhã, nay còn làm cho một đứa con gái khác chết oan vì tội bêu xấu, hỏi còn chỗ nào để nói nữa không!
Bà Ngân như bị sét đánh ngang tai, bà bàng hoàng:
- Chị Năm nói gì? Ai… chết?
Bà Năm Thảnh cười khẩy:
- Đẩy con gái người ta chỉ sau một đêm tân hôn vào chỗ chết mà còn ngây thơ hỏi ai chết, có lẽ chỉ có mẹ con nhà mấy người thôi!
Bà ta nói xong bước đi liền, không thèm nhìn lại dù cho bà Ngân kêu liền mấy tiếng. Phải một lúc sau thì bà Ngân mới hoàn hồn, chạy ra gọi xích lô mà quên cả cái giỏ trái cây đi cúng chùa! Hấp tấp bảo người đạp xe:
- Chú chạy tới chợ Tân Định giùm.
Nhà của Ngọc Mai.
Vừa ngừng xe trước cửa, bà Ngân đã điếng hồn khi nhìn thấy người ra vào tấp nập, mà sắc mặt người nào cũng căng thẳng. Nhác thấy bà, một người trong nhà đã thốt lên:
- Quân sát nhân còn dám vác mặt tới đây nữa sao?
Bà sui gia cũng vừa đi đâu về, bà ta lên tiếng ngay khi thấy bà Ngân:
- Tôi tốn tiền xe để kêu mấy người qua đây đền mạng cho con tôi, sao mấy người ác quá vậy!
Bình thường thì giữa bà Ngân và gia đình Ngọc Mai đã chỉ bằng mặt mà không bằng lòng, đặc biệt là với người đàn bà nổi tiếng là cay nghiệt đanh đá trong giới buôn hột xoàn, đá quý, mà từ cái tên Ba Tú đã được người ta đổi thành Tú Bà Bà. Nay xảy ra chuyện thì phải biết...
- Sao bà chưa vào mà đền mạng cho con tôi, còn đứng đó để chờ tôi rước vào hay sao?
Vừa sợ vừa nhục, bà Ngân chưa biết phải xử lý ra sao thì chợt bà nghe có tiếng phía sau lưng:
- Má để con đưa vào!
Quay lại nhìn thấy Văn đi cùng một người phụ nữ lạ tuổi trung niên, bà Ngân ngạc nhiên:
- Sao con cũng tới vậy?
Văn rất tự tin, mặc dù lúc đó mọi ánh mắt trong nhà đều đổ dồn ra mẹ con anh với sự hằn học, như chực xỉa xói, chửi bới! Và quả nhiên như thế, bà Ba Tú đã hất hàm nói lớn:
- Nhà này không đón loại người kia như khách, mà là tội phạm, là quân ác!
Lời bà ta vừa dứt thì có hai ba thanh niên lao ra, giữ tay Văn lại. Họ vừa định lôi Văn đi, thì người phụ nữ đi theo đã lên tiếng:
- Các người hãy khoan manh động.
Rồi bà quay sang bà Tú:
- Bà không còn nhớ tôi sao? Người đã tiếp bà qua điện thoại ba lần hồi đầu tuần này. Người đã...
Người này vừa nói tới đó thì bà Tú đã bị rung động:
- Vậy bà là...
- Hai Xuân. Bà nhớ ra chưa?
Chỉ bấy nhiêu đó thôi. Bà Tú như bị trời trồng, thần sắc tái nhợt ngay:
- Bà... bà...
Lúc này Văn mới lớn tiếng:
- Con chỉ muốn thắp hương cho vợ con, và mẹ con cũng tới đây với ý tốt. Vậy má...
Anh chưa dứt lời thì bà Tú đã đưa mắt nhìn mấy thanh niên kia, họ buông Văn ra rồi rút đi hết. Lúc này khách mới được mời một cách nhã nhặn:
- Dạ, mời chị sui.
Văn vẫn tỏ ra lịch sự:
- Thưa má, con không có ý làm tổn thương...
Bây giờ người phụ nữ đi theo Văn mới lại tiếp:
- Tôi cũng muốn giấu chuyện này, bởi nó là danh dự một con người. Nhưng bởi chuyện xảy ra tày đình quá, nên buộc lòng tôi phải lên tiếng. Thật ra việc tôi giúp cho cô Ngọc Mai có được là chỉ nhằm... bảo vệ hạnh phúc lứa đôi mà thôi… Việc một chút máu lươn, máu cá đó cũng chỉ để...
Lúc này bà Ngân mới hiểu hết đầu đuôi, bà sửng sốt nhìn bà sui gia, rồi nhìn người phụ nữ kia:
- Trời ơi, sao lại cần phải làm tới những chuyện ấy! Trinh tiết người con gái còn ở đức hạnh, phẩm chất, chứ đâu chỉ ở mấy vết máu dính ở drap nệm. Trời ơi, tội ác này dẫu không nhúng tay vào, nhưng tôi cũng không làm sao tránh được tội! Ngọc Mai ơi, sao con...
Bà lao tới chỗ quan tài cô con dâu, trong lúc Văn cũng làm thế và gục xuống nấc lên trong niềm đau vô bờ...
Bà Tú lặng người đi, rồi cuối cùng bà cũng bật khóc. Chợt một người từ trong nhà ra, có lẽ chưa biết nội dung cuộc nói chuyện giữa đôi bên nãy giờ, nên giọng bà ta tỏ ra đanh đá.
- Mấy người rõ là quân sát nhân mà! Cháu tôi chỉ mới về nhà chồng một đêm mà mấy người nhẫn tâm làm cho nó phẫn chí phải tự tử chết, trong lúc cái bào thai trong bụng nó đã trên hai tháng rồi...
Ý bà ta cho rằng tác giả bào thai là của Văn, cho nên mới mạnh miệng nói như thế. Nào ngờ lời đó vừa thốt ra thì cả mấy người ở đó đều tái mặt. Chính bà Tú cũng kêu lên:
- Trời ơi!
Rồi bà quỳ xuống ngay trước đầu quan tài con gái. Bà Ngân thì vừa nhìn sang con trai mình, hoang mang tột độ:
- Con... có chuyện đó sao con không nói?
Văn tế nhị, không muốn nói chuyện ấy, nhưng ở thế chẳng làm cách nào hơn, nên anh phải lên tiếng:
- Con với Ngọc Mai chưa một ngày quan hệ với nhau trước khi cưới. Vả lại nếu đã có gì với nhau thì việc gì Ngọc Mai phải dàn cảnh những dấu máu đó làm gì...
Sự hung hăng của người kia cũng bị xìu ngay, nhưng bà ta cũng vẫn cố vớt vát:
- Tôi là cô của nó, tôi đâu để cháu mình bị oan ức như vậy được!
Tuy nhiên lúc ấy bà Tú đã tỉnh lại, bà đưa tay kéo nhẹ cô em chồng của mình lại gần, thều thào:
- Đừng nói nữa… Người ta đâu có gì sai...
Bà cô già vẫn chưa chịu:
- Nhưng con Mai nó chết oan với cái thai trong bụng là cháu của họ!
Bà Tú lạc giọng:
- Tôi nói không... phải mà. Mọi việc là ở... thằng Tài con bà Sanh...
Nói chỉ được bấy nhiêu đó rồi bà lại xỉu một lần nữa.
Bà cô thì sau một lúc sững sờ đã gào lên:
- Đồ quân khốn nạn! Tao sẽ giết hết tụi bay!
Rồi bà bỏ chạy ra ngoài, để lại mẹ con bà Ngân đứng bơ vơ đó. Trong lúc ấy thì người nhà của bà Tú cuống cuồng lên lo cứu bà tỉnh lại, mà không một ai chú ý đến điều bất thường đang xảy ra: Có một người phụ nữ trẻ đầu trùm gần kín trong chiếc khăn choàng, đã bước vào nhà và đứng ngay trước cửa nhìn vào cỗ quan tài rất lâu mà không nói gì. Lạ một điều là giữa lúc đó bên ngoài có nhiều khách đến dự lễ tang đang ngồi, vậy mà hầu như không một ai để ý. Hoặc là họ không nhìn thấy? Một lúc sau thì người đó lặng lẽ bỏ đi. Có người trong nhà bước qua chỗ cô ta vừa đứng chợt nhìn thấy một mảnh giấy nhỏ của ai đó đánh rơi. Chị cầm lên và đọc thấy mấy chữ viết vội: Văn, tôi hận anh?
Người nhặt được mảnh giấy đó là chị họ của Ngọc Mai, chị gọi lớn vào trong:
- Văn, có ai gửi cậu cái gì nè!
Văn bước ra ngay và sau khi đọc, anh bàng hoàng kêu:
- Của Ngọc Mai! Cái này chị lấy ở đâu ra!
Văn lặng người, ai nghe kỹ mới biết là anh vừa nói:
- Ngọc Mai, anh xin lỗi...
Chỉ có Văn mới biết những dòng chữ kia là do Ngọc Mai viết. Mà hình như là mới vừa viết đây thôi...


Cô Gái Tuổi Tuất


Gần ba năm sau...
Sau một thời gian dài sống gần như khép kín, tách biệt khỏi mọi cuộc vui chơi... Văn mới trở lại đời sống bình thường. Hôm nay cũng là chuyến đi chơi đầu tiên của anh sau mấy năm và nơi anh đến là một vùng biển vắng, rất ít du khách. Chính Văn cũng chẳng hiểu sao mình lại chọn khu Mũi Nai của Hà Tiên, có thể là một sai lầm khi ngẫu hứng chọn lựa. Tuy nhiên, khi đặt chân tới rồi thì anh mới cảm thấy là mình chọn không lầm.
Bởi ở một nơi vắng và còn hoang sơ này mới thích hợp cho một cuộc tịnh dưỡng tinh thần. Văn chọn một nhà trọ bình dân ở gần bãi biển và còn cẩn thận hỏi người chủ phòng trọ:
- Ở đây có đông khách lắm không?
Bà chủ thật thà:
- Chỉ có cuối tuần thì mới có thêm một số khách, hoặc là dịp lễ, còn không thì lai rai ít người thôi. Nếu cần sự yên tĩnh thì nơi này quá thích hợp.
Văn cũng không giấu giếm:
- Tôi chỉ ngại có quá đông người. Nếu vắng được như vậy có lẽ tôi sẽ ở chơi một tuần.
Bà chủ mừng rỡ:
- Được những người khách như cậu thì tôi thích lắm. Mà cậu cũng đừng đi ra ngoài hàng quán ăn cơm chi cho mất công, thích ăn uống gì cứ cho biết, tôi sẽ phục vụ cậu như ở nhà.
Văn tỏ ra thích thú:
- Được vậy cũng tốt. Vậy mỗi ngày bà cứ cho ăn gì cũng được, miễn là đừng có thịt. Tôi ngán thịt và những món nhiều mỡ, chất béo.
Sau khi dặn dò, Văn ngủ một giấc dài...
Đến khi choàng dậy thì thấy trời đã tối, đồng thời anh ngửi được mùi thức ăn thơm lừng. Đói bụng, Văn định bước ra ngoài nhắc bà chủ dọn cơm, nhưng khi vừa bước xuống giường anh đã giật mình khi nghe có người nói ngay trong phòng mình:
- Em tính kêu nhưng chưa kịp thì anh đã dậy. Em xin lỗi đã vào phòng mà không xin phép. Chỉ vì em sợ để thức ăn bên ngoài mèo chó ăn...
Nhìn thấy một mâm cơm còn nghi ngút khói đặt trên bàn, Văn ngạc nhiên:
- Cô là ai mà lại mang cơm vào đây?
Lúc này Văn mới nhìn kỹ cô gái đang xới cơm một cách tự nhiên, anh hơi giật mình bởi nhan sắc cực kỳ quyến rũ, không có vẻ gì là con gái xứ này, hơn nữa khó lòng nghĩ rằng đây là người giúp việc cho bà chủ nhà trọ.
Do vậy Văn hơi lúng túng:
- Cô đây là…
Vừa khi ấy bà chủ nhà trọ xuất hiện, bà đáp thay:
- Quên nói với cậu, tôi còn có con nhỏ cháu ở xa tới chơi, hôm nay nghe có khách nên nó giúp một tay.
- Dạ, cám ơn bà chủ.
Cô gái trở nên dạn dĩ hơn:
- Người trực tiếp làm lại không được lời cám ơn nào, cũng hơi buồn...
Bà chủ nhà trọ phải chặn lời:
- Con nhỏ này, ăn nói...
Văn chen vào:
- Không, cô ấy nói đúng, tất nhiên sau bà chủ nhà là phải cám ơn cô nhiều nhưng bên cạnh đó tôi lại xin được trách...
Anh chưa dứt lời, bà chủ đã lo lắng hỏi:
- Có chuyện gì làm cậu không hài lòng?
Văn chỉ vào cô gái:
- Có, cô này...
Bà chủ nhà trọ càng hoảng hơn:
- Xuân Lan, con làm gì để khách phiền vậy?
Cô gái tên Xuân Lan hốt hoảng:
- Dạ, con có làm gì đâu, ngoài nghe lời dì con mang cơm vào đây thôi. Có chăng là con quên gõ cửa lúc bưng cơm vào.
Văn xua tay:
- Tôi đâu dám trách chuyện ấy. Tôi chỉ muốn nói điều đã nói rồi với bà chủ, tôi không muốn bị phá vỡ sự yên tĩnh. Mà cô đây...
Chợt ngớ ra, bà thở phào:
- Tưởng chuyện gì, chứ điều ấy thì... cho tôi xin lỗi. Nhưng con Xuân Lan này đâu phải là khách trọ hay ai xa lạ nó là con cháu trong nhà, cũng kể như...
Xuân Lan lại mau miệng:
- Coi như là người hầu cũng được!
Văn áy náy:
- Ai dám có người hầu như cô!
Bà chủ trọ hình như cố ý:
- Nếu cậu không phiền thì từ bữa nay tôi xin để nó dọn cơm, lau dọn phòng cho cậu. Con nhỏ tuy dáng tiểu thư như vậy chứ nó giỏi giang và siêng năng lắm.
Rồi không để Văn có ý kiến, bà chủ trọ bước ra khỏi phòng với một câu nói thòng:
- Xuân Lan, hãy giúp cho khách quý của chúng ta!
Lúc đầu đúng là Văn không thích sự có mặt của một người như cô gái này trong phòng mình, nhưng chỉ sau chưa được hai phút thì trong đầu Văn lại đổi chiều suy nghĩ. Anh dịu giọng:
- Nãy giờ tôi nói đùa, thật ra được một người như cô dọn cơm cho ăn thì dẫu bụng no vẫn muốn ăn!
Và ngay sáng hôm sau, khi bữa điểm tâm được dọn bởi một người khác thì Văn đã cảm thấy khó chịu:
- Sao không phải là cô gì đó...
Cô bé phục vụ thật thà:
- Dạ, cô Lan bị đau bụng không dậy nổi.
Văn hốt hoảng:
- Có nặng lắm không? Bây giờ cô ấy ở đâu?
- Dạ, ở phòng phía sau.
Rồi chẳng màng tới mâm thức ăn, Văn phóng ra khỏi phòng trước sự ngạc nhiên của con bé phục vụ:
- Kìa, cậu!
Văn luýnh quýnh như người thân của mình bệnh nặng, anh chạy ra phía sau thấy có hai căn phòng đều đóng kín cửa, chẳng biết Xuân Lan ở bên nào để gõ cửa thì chợt anh nghe từ phía sau lưng.
- Ủa, mới sáng sớm anh đã thức rồi sao?
Quay lại thấy Xuân Lan, Văn hơi sửng sốt:
- Vậy ra... cô không phải đang đau?
Cô nàng ngạc nhiên:
- Sao anh biết?
- Thì... con bé gì đó nói…
- À, con nhỏ bé Tư nhiều chuyện. Việc con tôi đau bụng thì có gì phải nói với khách. Con này thật là...
Văn trố mắt:
- Cô vừa nói gì? Ai bệnh?
Có lẽ lỡ lời nhưng sau đó thì Xuân Lan vẫn tự nhiên trả lời.
- Dạ, đó là con gái em. Lúc nửa đêm nó đau quá nên em phải ra tận thị xã kiếm thuốc.
- Cô, có con rồi?
Thấy vẻ ngạc nhiên của Văn, Xuân Lan không khỏi bật cười.
- Chuyện em có con sao anh lại sửng sốt như vậy? Chẳng khác gì một anh chàng khi được người yêu báo tin có thai!
- Ồ không... không phải vậy! Chỉ vì tôi thấy cô...như con gái mà.
Vừa lúc đó từ trong phòng có tiếng trẻ con khóc thét lên, khiến Xuân Lan hốt hoảng:
- Trời ơi, con tôi.
Cô chạy nhanh vào phòng và hét to từ trong đó:
- Dì Hai ơi, con của con!
Văn quên cả giữ ý, anh bước nhanh vào và nhìn thấy một đứa bé còn rất nhỏ, chỉ khoảng vài tuổi, lăn lộn trên giường, người tím tái như sắp chết đến nơi.
Trong lúc Xuân Lan còn đang lúng túng chưa biết phải làm sao, ngoài cách ôm con vào lòng, đứa bé có lẽ quá đau, nên nó giãy giụa càng dữ hơn. Văn rất nhanh nhẹn, anh lao tới bế xốc nó lên và chạy bay ra ngoài, vừa nói với lại:
- Qua bên phòng tôi, tôi có thuốc đau bụng và có cách làm cho nó bớt đau!
Anh về tới phòng mình thì Xuân Lan cũng chạy theo kịp. Cô tiếp với Văn đặt đứa bé xuống giường. Văn tỏ ra khá sành về chăm sóc bệnh, vừa làm anh vừa giải thích:
- Tôi là một bác sĩ chuyên khoa nhi, nên đi đâu tôi cũng mang theo.
Anh pha một chút thuốc và bảo Xuân Lan:
- Cô cho cháu uống đi!
Do quá sợ nên tay cô run, đút mấy muỗng thuốc mà cũng không xong. Văn phải giành lấy muỗng và bảo:
- Cô để tôi!
Anh đút thuốc cho đứa bé chẳng khác gì một ông bố thương con, lo cho con. Nhìn từng động tác của anh, Xuân Lan có vẻ cảm phục lắm. Sau khi đút hết số thuốc, Văn còn lấy dầu xoa khắp vùng bụng cho đứa bé và sau đó bảo Xuân Lan.
- Cô tiếp tôi giữ chặt cháu lại, để tôi xem kỹ coi cháu có bị đau ruột thừa không?
Anh dùng tay ấn lên bụng bên phải của đứa bé, khám đi khám lại mấy lượt và trầm ngâm không nói gì... Sốt ruột Xuân Lan hỏi.
- Cháu có sao không anh?
Văn thở phào:
- Không có dấu hiệu của đau ruột thừa. Có thể cháu nó bị trúng thực. Uống thuốc này vào, một lát sau nếu cháu đi tiểu được thì ổn, còn không thì có lẽ phải đưa đi bệnh viện.
Lời của Văn vừa dứt thì... chính Xuân Lan cũng muốn ngạt thở, bởi đứa bé xổ ra tất cả những gì có trong bụng! Mùi tanh tưởi, hơi thối tỏa lan khắp phòng.
- Chết rồi, nó... làm bậy trên giường rồi!
Văn tỏ ra cảm thông:
- Không hề gì, cứ để cho cháu đi… Được như thế này mình có thể yên tâm rồi!
Quả nhiên như vậy, sau một hồi xổ ra những gì tích tụ khiến bụng đau con bé dịu lại ngay, nó không còn lăn lộn la khóc nữa. Và trước sự bất ngờ của Xuân Lan, đích thân Văn cúi xuống bế đứa bé lên một cách nhẹ nhàng rồi bước thẳng vào nhà tắm để rửa. Xuân Lan hốt hoảng:
- Không, dơ lắm, để em!
Nhưng Văn đã rất tự nhiên, ôm bé trong lòng, ngồi xổm xuống và nhẹ nhàng rửa cho nó. Xuân Lan phải tiếp anh nên chỉ một lúc sau, đứa bé đã được rửa sạch và đúng phương pháp, không để cho bé bị lạnh. Anh chỉ nói:
- Cô giúp dọn tấm trải giường giùm, thay cho tấm khác để tôi đặt cháu lên.
Xuân Lan đề nghị:
- Hay để em ẵm cháu về bên phòng em...
- Không nên, cháu đang đi vào giấc ngủ sau khi kiệt sức vì đau bụng. Bây giờ giấc ngủ của cháu còn tốt hơn cả thuốc. Cô làm theo lời tôi đi, trong lúc tôi bế cháu thì cô thu dọn đi.
Phải mất gần mười phút mới xong. Thời gian đó, Văn khéo léo ẵm đứa bé trên tay, áp sát nó vào lòng, vừa bước tới lui vừa nhẹ nhàng ru cho nó ngủ. Vừa dọn giường, Xuân Lan vừa liếc mắt nhìn và không giấu được xúc động. Khi đặt bé xuống xong, Văn nói:
- Lúc này cháu nó cần ngủ cho say. Chỉ cần đụng khẽ vào là cháu giật mình và có thể ảnh hưởng tới bộ thần kinh non nớt của cháu. Tốt hơn là cô cứ ở đây với cháu, tôi ra ngoài chơi cũng được.
- Hay là... anh cứ qua bên phòng của em nằm nghỉ đỡ.
- Ồ không. Ai lại...
- Không sao cả, phòng bên em cũng giống y như bên anh thôi. Được như vậy em mới không áy náy...
Sau một chút ngần ngừ, Văn gật đầu:
- Thôi, cũng được.
Anh bước đến phòng của Xuân Lan và khá ngạc nhiên khi cánh cửa gài chốt bên trong. Vậy còn ai trong phòng ngoài mẹ con Xuân Lan?
Anh vừa định quay bước thì chợt cánh cửa mở toang ra, nhưng lại chẳng thấy người mở. Tò mò, Văn bước tới và lên tiếng:
- Ai trong đó vậy?
Không ai đáp, nên buộc lòng Văn phải bước hẳn vào trong. Anh nhìn thấy một người nằm trên giường, mặt quay vào trong.
- Xin lỗi, ai vậy?
Cửa phòng tự dưng đóng sập lại, cùng lúc người trên giường cất tiếng:
- Tự tiện vào nhà là tư cách gì vậy?
Nghe giọng quen quen, Văn giật mình:
- Cô là...
- Tôi hỏi anh chưa trả lời?
- Tôi… được chủ phòng này cho phép ngủ nhờ. Tôi...
Văn đứng cách giường đến hai thước vậy mà chẳng hiểu sao, như bị một sức hút mạnh, khiến cả người anh lao tới sát bên giường và rồi bất thần anh bị người nọ kéo mạnh lên giường. Văn mất bản năng tự vệ, anh ngã nằm chồng lên người cô ta.
- Tôi… tôi xin lỗi!
Thay vì than phiền, cô nàng lại kéo sát người Văn vào mình, kề tay anh nói thật nhỏ:
- Không nhận ra người quen sao?
Văn có muốn quay lại nhìn cũng không được, bởi nàng ta ôm quá chặt, trong khi Văn đang rất hoang mang bởi giọng nói, trong đầu anh đang lướt qua những hình ảnh có thể là người chủ nhân của giọng nói... Bỗng anh kêu lên:
- Ngọc Mai!
Tiếng kêu của anh đồng thời với vòng tay của cô nàng lơi ra. Văn vừa chồm dậy được thì lại một lần nữa phải ngạc nhiên tột cùng:
- Kìa... sao lại là cô?
Trước mặt Văn là Xuân Lan.
- Sao lại là cô?
Văn kinh ngạc hỏi lại.
Tưởng mình nhìn lầm, Văn phải cúi xuống nhìn lại lần nữa. Nàng ta đang nhìn anh với nụ cười kỳ lạ...
Văn phóng người xuống và chạy một mạch về phòng mình. Chưa tới cửa, anh đã kêu lớn:
- Cô Lan ơi!
Văn khựng lại ngay cửa phòng và thất sắc! Bởi trong phòng anh, Xuân Lan đang ngồi dưới sàn mà đầu thì dựa vào cạnh giường ngủ một cách ngon lành!
- Cô Lan.
Văn gọi, nhưng cô nàng không tỉnh lại ngay, hình như còn trong cơn mơ, giọng thì thào:
- Con chờ mẹ… mẹ sắp làm được điều đó rồi... chờ mẹ nghe con.
- Cô Xuân Lan! Cô...
Lúc này Xuân Lan mới tỉnh hẳn, cô bật dậy, vừa ngơ ngác:
- Có chuyện gì vậy?
- Ở... ở bên phòng cô...
Anh nói và chạy như bay về hướng phòng của Xuân Lan. Cô nàng chạy theo. Khi đứng trước cửa phòng, Văn mới lắp bắp nói:
- Ở trong này...
- Cái gì trong đó?
- Một cô... một cô giống như cô!
Chẳng hiểu Văn muốn nói gì, Xuân Lan bước hẳn vào trong và nhìn khắp một lượt, cũng chẳng thấy gì. Chính Văn cũng kinh ngạc:
- Cô ta mới ở đây mà? Cô ấy nằm trên giường cô!
Chẳng còn thấy cô ta, Văn tái mặt khi nhớ tới giọng nói quen thuộc và hồi nãy bất chợt anh tưởng đó là giọng của Ngọc Mai.
Thấy Văn thừ người ra, Xuân Lan hỏi:
- Anh bị sao vậy?
Văn đành phải kể lại chuyện vừa rồi. Nghe xong, Xuân Lan giật mình:
- Ở đây làm gì có chuyện kỳ lạ ấy xảy ra? Nơi đây vắng khách nên cũng đâu có ai tới tận phòng riêng của em để lộng hành như vậy!
Xuân Lan tỏ ra bị kích động nhiều trước sự việc này, nhưng cũng may, vừa lúc đó thì tiếng khóc thét của đứa bé bên kia khiến cô phải chạy về. Văn cũng chạy theo và một lần nữa anh biến sắc khi nhìn thấy trên cổ của bé có đeo một vòng chuỗi màu tím rất nổi bật, mà vừa thoạt trông thấy nó Văn đã sửng sốt?
- Sao lại như thế này.
Xâu chuỗi này chính anh đã mua theo yêu cầu của Ngọc Mai ngay sau lễ hỏi của hai người và ai cũng nhận xét rằng nó là xâu chuỗi có màu sắc độc nhất vô nhị. Điều đó cũng đúng, bởi sau đó mỗi khi đeo Ngọc Mai đều nhận được những tia nhìn trầm trồ. Và chính người chủ hiệu kim hoàn, nơi bán xâu chuỗi đã nói với Văn rằng đó là xâu chuỗi duy nhất đem về Việt Nam. Không thể có xâu thứ hai!
Vậy tại sao bây giờ nó lại ở đây? Văn bước lại gần hơn xem kỹ và anh phải thốt lên:
- Ngọc Mai!
Mà cũng lạ, đứa bé đang khóc thét, vậy mà khi nghe Văn kêu hai tiếng Ngọc Mai thì tức thời nó nín lặng và đưa mắt dáo dác tìm...
Xuân Lan ôm con vào lòng cô nói nhỏ đủ mình nghe:
- Mẹ đã hứa rồi mà, mẹ không để con phải khổ tâm. Hãy tin mẹ...
Văn nghe không rõ, tưởng cô than trách gì với con, nên anh lên tiếng:
- Cháu giật mình thôi, chứ không sao đâu. Cô xem, sắc mặt cháu đã khá lên nhiều rồi.
Xuân Lan hơi lúng túng:
- Em, em nói chuyện để xem nó tỉnh hẳn chưa, chứ không có gì...
Cô nàng không tỏ ra chút ngạc nhiên gì với sự xuất hiện xâu chuỗi trên cổ con mình, cho đến khi Văn hỏi:
- Xâu chuỗi này ở đâu cô có và cô đeo cho cháu lúc nào vậy?
- Ủa, nãy giờ em không để ý. Cái này không phải của em, mà cũng chẳng biết ai đã đeo lên cổ cháu nữa? Rõ ràng lúc nãy đâu có!
Văn thẫn thờ một lúc rồi nhẹ thở dài...
Câu chuyện thương tâm sau đêm tân hôn ba năm trước như một đoạn phim đang diễn ra trước mắt, khiến trong một tích tắc không kiềm chế được, anh ôm đầu khóc lên rưng rức. Xuân Lan ngạc nhiên:
- Anh sao vậy? Anh vừa gọi Ngọc Mai, mà đó là ai?
Văn có nhu cầu trút cạn nỗi niềm mà từ rất lâu rồi anh không biết thổ lộ cùng ai:
- Ngọc Mai là người vợ chỉ chung sống với tôi có đúng một đêm tân hôn rồi ra đi vĩnh viễn. Mà thật ra đêm tân hôn đó đâu đáng được gọi là đêm thiêng liêng của một đôi vợ chồng đúng nghĩa. Chẳng qua cũng tại tôi. Tôi là thằng đàn ông chẳng ra gì, đồ bỏ đi. Cũng tại tôi mà…
Xuân Lan tỏ ra quan tâm đến câu chuyện:
- Anh nói lỗi tại anh, vậy sao lúc ấy anh không xin lỗi hoặc là tỏ cho cô ấy biết là anh hối hận chẳng hạn?
Văn lắc đầu:
- Tôi có dịp nói lời nào đâu!
- Nhưng phải có nguyên nhân gì mới khiến cô ấy bỏ anh chứ?
Văn thở dài:
- Cô nói điều này đúng. Nguyên nhân là bởi từ sự vô tình của tôi trước nỗi đau của Ngọc Mai. Dẫu biết rằng lúc ấy nàng cần một sự cảm thông, an ủi. Vậy mà tôi quá khốn nạn!
Xuân Lan hơi bị kích động qua câu nói của Văn:
- Anh nói cảm thông là cảm thông điều gì?
Văn không giấu giếm:
- Cô ấy lỡ có thai với người tình và trong đêm động phòng đó, nàng sợ tôi phát hiện ra, nên đã...
Văn không tính nói ra, nhưng vô tình Xuân Lan lại khơi đúng mạch:
- Có phải nàng tìm cách qua mặt anh chuyện trinh tiết không?
Văn giật mình:
- Sao cô biết?
- Thì... chuyện vợ chồng trong đêm tân hôn từ ngàn xưa mà! Có phải anh quá căng thẳng chuyện ấy?
Văn buông một tiếng thở dài:
- Căng thẳng thì có, nhưng chính vì sự căng thẳng đó mà tôi đã phạm vào một tội ác không thể tha thứ được!
- Tội ác gì?
- Giết vợ!
- Ủa, chính anh trực tiếp giết?
- Không trực tiếp, nhưng vì lòng ích kỷ, hẹp hòi, đã đẩy nàng tìm tới cái chết, như vậy không phải do tôi giết là gì.
Ngừng lại một lúc, Văn không thể không nói ra hết những gì chất chứa trong lòng:
- Mẹ tôi và các cô, dì của tôi đều lên án việc Ngọc Mai có thai hai tháng khi về nhà chồng, điều đó cũng là lẽ thường tình, bởi có ai chấp nhận được một cô dâu mang về nhà mình đứa con của người khác! Trong trường hợp đó, đáng lẽ tôi phải là người cảm thông, chia sẻ nỗi đau với Ngọc Mai, đằng này tôi xuôi tay, bất lực. Đau cho tôi hơn khi vài tuần sau đó, tôi tìm hiểu và được biết rằng Ngọc Mai đã bị lừa và cô ấy đang chơi vơi giữa dòng nước lũ, còn một bàn tay cứu giúp là tôi, thì tôi lại phủ phàng từ chối. Cô ấy chết là tự giải thoát mình, nhưng đó là bản án nặng nề nhất mà tôi phải gánh chịu. Bởi vậy từ ba năm nay, tôi để cho nỗi ăn năn gặm nhấm lương tâm mình...
Khi nhìn sang đứa trẻ, Văn bỗng ứa nước mắt lần nữa, rồi giọng anh chùng hẳn xuống:
- Tội lỗi của tôi càng nặng hơn khi Ngọc Mai chết mang theo cả bào thai hơn hai tháng, mà nếu còn sống thì chắc cũng cỡ tuổi này!
Nói xong thì cơn xúc động của Văn đã lên tới cực điểm, nên anh bật khóc như chưa bao giờ được khóc như thế. Đứa bé đột ngột ngồi bật dậy, khỏe như những đứa trẻ bình thường! Nó nhìn Văn rồi cất tiếng:
- Nếu con ông còn sống thì ông có nuôi nó không?
Trước câu hỏi bất ngờ của nó, Văn hơi lúng túng, nhưng cũng trả lời suôn sẻ:
- Chắc chắn là bác sẽ nuôi như con ruột mình! Bác thề trước trời đất, bằng cả lương tâm mình, bác sẽ làm một người cha tốt nếu có được đứa con như vậy!
- Nhưng nó là con người khác mà?
Không ngờ đứa bé mới hơn ba tuổi lại hỏi được câu hỏi như vậy, nên Văn cúi xuống vuốt lên tóc nó giọng trìu mến.
- Bác ao ước có được một đứa con như cháu vậy. Bác muốn lắm.
Có lẽ cử chỉ đó, những lời nói đó của Văn đã chạm vào nỗi niềm của cô nàng, nên bỗng dưng Xuân Lan bật khóc.
Đứa bé ôm mẹ và cũng khóc theo! Trong phút chốc, cả ba người đều ràn rụa nước mắt. Đột nhiên Xuân Lan ôm con đứng dậy rồi chạy bay ra cửa. Đứa bé quay lại nhìn Văn như không muốn rời...
Và chẳng biết mẹ nó hay chính nó đã ném mạnh xâu chuỗi về phía Văn. Anh sợ nó rơi rồi bị đứt, nên vươn tay ra chụp. Xâu chuỗi quấn chặt vào tay Văn, rồi chẳng hiểu bằng cách nào, nó lại quấn thành nhiều vòng, ôm sát lấy cổ tay Văn như người ta đeo chiếc vòng xuyến!
Chính Văn cũng ngạc nhiên, anh kêu khẽ:
- Sao thế này?
Anh thử cởi ra, nhưng không làm sao cởi cho được, mà nếu cố sức thì chắc chắn xâu chuỗi sẽ bị đứt!
Ngẩn người ra một lúc và cũng từ giây phút đó, tự dưng Văn cảm thấy như có một luồng khí lạnh chạy dài theo sống lưng, rồi lan ra khắp cơ thể. Khí lạnh ấy chạy đến đâu thì Văn nghe như có hàng vạn mũi kim châm vào da thịt mình. Anh hốt hoảng kêu lên:
- Làm sao đây!
Lời anh chưa dứt thì cả thân người Văn lảo đảo, rồi đổ xuống sàn nhà...


Cuộc Hội Ngộ


Phải hai tuần sau thì Văn mới bình phục và rời khỏi bệnh viện Rạch Giá. Thay vì trở về Sài Gòn ngay theo lệnh của mẹ, nhưng Văn lại quyết định một lần nữa xuống Hà Tiên. Anh trở lại bãi biển Mũi Nai, quyết tìm lại ngôi nhà trọ mà ở đó anh đã gặp những con người kỳ lạ.
Nhưng như một giấc mơ, dẫu đã đi tìm cả buổi mà vẫn chưa tìm ra đúng nơi anh từng ở hồi tuần trước. Hỏi thì ai cũng lắc đầu bảo:
- Ở đây làm gì có ngôi nhà trọ đó.
Bãi tắm Mũi Nai khá nhỏ, vào thời ấy chỉ có đúng hai nhà trọ, mà cả hai Văn đều tới và đều thất vọng, bởi từ phòng ốc cho tới con người, chẳng có nơi nào giống với nơi kia. Kể cả hai căn phòng nằm phía sau như chỗ ở của Xuân Lan cũng không hề có. Vậy hóa ra những gì vừa trải qua là một giấc mơ sao?
Văn hoang mang, nghi ngờ cả trí nhớ của mình... Nhưng cuối cùng anh vẫn quả quyết rằng những gì đã xảy ra là thật. Bởi vật còn lại trên cổ tay anh đã nói lên tất cả, đó là xâu chuỗi màu tím. Nó càng lúc càng như bám chặt lấy thịt da Văn, mặc dù lúc ở bệnh viện hình như người ta đã có ý lột nó ra nhưng không thành công.
Giờ đây tuy nó không còn gây ra cảm giác lạnh buốt như lúc mới đeo, nhưng dẫu cho có như thế thì Văn vẫn không có ý muốn cởi nó ra nữa.
Văn cố kiên nhẫn nán tại Mũi Nai thêm một đêm. Anh thuê một phòng và đêm đó có ý thức rất khuya để đợi... nhưng đến quá nửa đêm, do quá mỏi mệt nên Văn thiếp đi cho đến sáng. Vừa thức dậy, Văn đã bàng hoàng khi trên cổ tay mình không còn thấy xâu chuỗi nữa! Mọi cửa nẻo đều đóng kín nên khó có người ngoài lọt vào. Mà cho dù có người khác thì cũng chẳng làm sao lột xâu chuỗi ra được. Vậy mà...
Văn bần thần rất lâu, bỏ cả bữa ăn sáng chỉ để tập trung đi tìm xem có ai đeo xâu chuỗi ấy trên cổ. Nhất là những đứa bé, gặp đứa nào Văn cũng cố tình lại gần và nhìn kỹ...
Đến trưa hôm đó, chẳng còn hy vọng gì nên Văn định chỉ ở cho hết một ngày tiền phòng nữa rồi sẽ đi.
Nhưng khi anh trở về phòng trọ thì quá đỗi ngạc nhiên khi thấy phòng của mình đã có người khác trú ngụ! Hỏi ra thì chủ nhà trọ chưa từng cho anh thuê phòng, bằng chứng là trong sổ lưu trú không hề có tên anh vào đêm qua.
Sau một hồi cãi vã, Văn đành phải hỏi thuê phòng khác, nhưng đã bị từ chối với lý do nhà trọ hết phòng. Quá bực mình, Văn sang nhà trọ còn lại. Nhưng điều không ngờ đã xảy ra: nhà trọ ấy cũng báo là hết phòng.
Bực quá, Văn hỏi:
- Ở bãi biển này làm gì có khách nhiều đến đỗi cả hai nhà trọ mà hết cả phòng?
Chủ phòng trọ đưa sổ cho Văn xem thì quả nhiên cả mấy chục phòng đều đã có người ở! Văn đành tiu nghỉu gọi xe ra chợ Hà Tiên với ý định trở về Sài Gòn ngay. Nhưng lúc ấy đã quá trưa, nên bến xe vắng tanh. Phòng bán vé báo cho Văn biết là đã hết xe, muốn đi phải mua vé trước và chờ sáng ngày hôm sau.
Tối đó, Văn đành phải thuê phòng khách sạn ở lại. Khi đăng ký ở khách sạn Giang Thành, Văn nghe cô tiếp tân bảo:
- Cũng may cho anh, bữa nay có nhiều khách từ tỉnh khác tới, người ta đặt chỗ trước hết cả hai chục phòng ở đây. Căn phòng này vốn là của hai mẹ con một vị khách đã ở đây mấy ngày rồi, đáng lẽ cô ấy còn ở lại tới chủ nhật này, nhưng chẳng hiểu sao lại đột ngột trả phòng và đi lúc sáng nay, nên mới còn trống cho anh mướn đấy.
Văn hơi tò mò:
-Hai mẹ con đó tên gì vậy cô?
Cô lễ tân nhìn Văn vừa cười cười:
- Chà, bộ đi tìm người yêu hả? Cô ấy tên là... Xuân Lan và đứa bé cỡ ba tuổi...
Vừa nghe đến đó, Văn đã cuống lên:
- Cô ấy đâu?
Cô lễ tân đáp:
- Đi từ sớm rồi. Nghe nói về Cần Thơ.
Văn hỏi một câu hơi quá tò mò:
- Cần Thơ mà huyện, xã nào cô có biết không?
Vậy mà chẳng ngờ cô lễ tân lại biết:
- Hôm qua nghe cô ấy nói quê mình ở gần chợ Ô Môn, Cần Thơ.
- Ô Môn!
Tự dưng Văn giật mình! Hình như anh đã có nghe ai đó nói quê cũng ở địa danh này... Nhất thời Văn chưa thể nhớ đó là quê của ai, nhưng trong đầu Văn cứ lởn vởn mấy từ Ô Môn... Ô Môn...
Văn nghĩ, đây là sự ngẫu nhiên đến lạ lùng. Anh vô tình lại thuê đúng căn phòng người mà mình muốn đi tìm! Phải chăng đó là cơ duyên?
Mải nghĩ miên man nên khi cô lễ tân đưa xâu chìa khóa phòng mà Văn vẫn còn lơ đãng nhìn đi nơi khác...
- Chìa khóa phòng của anh đây.
Văn lững thững đi tìm phòng. Anh định sau khi nhận phòng rồi sẽ đi một vòng quanh chợ, để may ra còn có thể gặp mẹ con cô ấy...
Nhưng khi vừa mở cửa phòng, bật đèn lên thì Văn ngạc nhiên khi nhìn thấy xâu chuỗi màu tím đang nằm trên gối.
***
Xe đò dừng ở đầu cầu Ô Môn, Văn lưỡng lự một lúc rồi mới bước xuống. Việc Văn quyết định ghé nơi này là một hành động mạo hiểm. Bởi đây là lần đầu anh đến nơi này. Nhìn nhà cửa hai bên đường, chưa thấy có vẻ gì là thị trấn thì Văn lại càng lo, liệu nếu không tìm ra chỗ cần tìm mà trời tối thì làm cách nào để ngủ tạm, trong khi chẳng hề thấy có nhà trọ nào quanh đây?
Gọi một chiếc xe ôm, Văn hỏi bác tài:
- Gần đây có nơi nào trọ qua đêm không bác?
Nhìn qua Văn một lượt bác tài đáp:
- Tìm khách sạn sang trọng như ở Cần Thơ thì không có, chứ phòng trọ bình dân thì thiếu gì. Mà cậu muốn ở gần đây hay vào trong thị trấn?
- Thị trấn còn cách bao xa bác?
- Khoảng năm trăm thước thôi, nhưng mấy người muốn ngủ qua đêm rồi sáng mai đón xe đò đi Sài Gòn thì người ta thường ở chỗ nhà trọ gần đây. Cậu Hai cần chỗ nào?
Leo lên xe xong, thay vì về chỗ trọ, Văn lại bảo:
- Bác chạy cho cháu mấy vòng thị trấn này, bao nhiều tiền cháu sẽ trả.
Bác tài mỉm cười:
- Chà, dân thành thị lần đầu về chợ quê muốn ngắm mấy cô gái quê phải không?
Văn thấy ông ta vui nên cũng đùa.
- Gái quê dễ thương hơn con gái thành thị bác ơi!
Bác tài cười lớn tiếng:
- Coi bộ muốn kiếm vợ xứ này hay sao vậy?
Văn vui miệng đùa:
- Nếu kiếm thì có dễ không bác?
Ông già đáp ngay:
- Dễ ợt.
- Bác biết có ai làm mai cho cháu được không?
Văn nói đùa, nhưng ông già lại tưởng thật:
- Cái vụ đó thì tôi dám nhận lời lắm à! Tôi có đứa cháu gái, năm nay chỉ mới 21 tuổi, đẹp như gái thành thị, chỉ có điều...
Đã lỡ đùa rồi nên Văn đùa tới luôn:
- Kể cả gái đã từng có chồng rồi cũng được, miễn hiền và ngoan và đạt yêu cầu!
Ông già nói luôn:
- Nó lỡ có một con rồi...
Tự dưng Văn chợt nghĩ tới Xuân Lan:
- Con được mấy tuổi bác?
- Cỡ ba tuổi! Cậu dám lấy gái có con rồi không? Tôi xem tướng cậu năm nay có lẽ cũng gần ba chục, mà chọn gái còn son thì e khó...
Văn cười:
- Son hay không son đều được cả, miễn hạp nhãn!
- Cậu nói thật không, tôi giới thiệu liền?
- Con của bác?
- Không, tôi có quen với chỗ này, họ có một đứa con gái tuy tuổi còn trẻ mà đã lỡ…
Văn chưa kịp có thêm ý kiến gì thì đã được đưa tới một nơi cách thị trấn Ô Môn chừng nửa cây số xe ngưng trước một ngôi nhà ngói xưa khá rộng. nhưng vắng người.
- Cậu xuống đi, trong nhà có người đang đợi cậu!
Lời vừa dứt thì bác tài cũng vừa nhấn bàn đạp, mà không cần lấy tiền xe. Chiếc xe lôi vọt đi trước sự ngỡ ngàng của Văn:
- Kìa bác...
Văn chưa biết phải làm gì thì đã nghe người trong nhà nói vọng ra:
- Đã tới rồi thì vào nhà đi chứ?
Rồi một bà cụ từ trong bước ra, nheo mắt nhìn khách cho rõ. Văn cúi chào:
- Dạ, kính chào bà. Con đi kiếm nhà một người tên là... Xuân Lan. Chẳng hay bà có biết vùng này có ai tên đó không ạ?
Bà cụ mở cổng rào ra, vừa nói:
- Đã tới rồi thì vào đi, còn hỏi gì?
Ngạc nhiên bởi thái độ bà cụ và cả ông lái xe lôi. Văn phải hỏi lại:
- Cháu cần tìm một người tên là Xuân Lan, vậy bác có biết?
Bà cụ không trả lời, lại khóa cổng, rồi đi thẳng vào trong sau khi nói.
- Cậu ngồi ở phòng khách đợi.
Bà bỏ đi ra nhà sau, khiến Văn càng khó xử hơn. Anh cứ lúng túng không biết phải làm sao thì chợt nhìn thấy trên tường có một khung ảnh lớn, trong đó có hàng chục bức ảnh nhỏ hơn, mà một trong những tấn ảnh đó khiến cho Văn phải giật mình:
- Sao lại là họ?
Anh bước vào gần hơn để nhìn và bàng hoàng kêu lên:
- Chính là họ rồi!
Trong ảnh là cha mẹ của Ngọc Mai và cả ảnh của cô nữa, có lẽ chụp cách năm ba năm gì đó. Trông Ngọc Mai chẳng khác gì lúc về nhà chồng!
- Đây là...
Văn vừa buột miệng thốt ra chưa dứt lời, thì sau lưng anh đã có người lên tiếng:
- Ngạc nhiên phải không? Trái đất tròn mà...
Nghe tiếng quen quen, Văn quay lại đã kêu lên:
- Kìa… má!
Bà mẹ của Ngọc Mai đang đứng giữa phòng khách với bộ mặt lạnh lùng! Văn tưởng như mình nhìn lầm:
- Má... sao má lại ở đây?
Bà Thảnh ngồi xuống ghế và chỉ chiếc ghế đối diện:
- Cậu ngồi xuống đây.
Văn như người từ trên trời rơi xuống, anh ngồi mà lúng túng thấy rõ:
- Con... con không hề biết má ở đây. Con chỉ...
- Chỉ đi tìm người con gái tên Xuân Lan phải không?
Bị lật tẩy, Văn càng cuống lên:
- Dạ... sao... sao má biết? Nhưng mà con chỉ tìm để trả lại cô ấy xâu chuỗi...
Không ngờ bà mẹ vợ đã tinh ranh hơn Văn tưởng:
- Xâu chuỗi màu tím là của con Ngọc Mai, cậu lại tìm tới trả cho người khác là sao? Hay là có mới nới cũ?
Trước câu hỏi quá hóc búa, Văn như con gà mắc tóc.
- Dạ... con... con...
- Sao anh không nói rõ xâu chuỗi đó là của con bé Ngọc Ngà!
Người vừa thốt ra câu nói đó chính là Xuân Lan, xuất hiện cùng với con bé Ngà, nó vừa trông thấy Văn thì nhào tới và reo lên:
- Chú!
Lúc này trên mặt bà Thảnh mới hết căng thẳng, bà quay sang bảo:
- May cho cậu, nếu không có con nhỏ này...
Bà nói xong thì đứng lên đi vào liền, khiến Văn có muốn hỏi thêm cũng không được. Anh nhìn Xuân Lan với tất cả sự kinh ngạc:
- Sao cô cũng ở đây?
Nàng cười:
- Thì đây là nhà em mà!
- Vậy còn...
- Anh muốn hỏi người vừa rồi hả, đó là dì ruột của em, từ Sài Gòn mới về để... đợi gặp anh!
Câu nói này càng làm cho Văn hoang mang:
- Sao lại có chuyện đó?
Nàng cười thành tiếng:
- Bộ anh tưởng tự nhiên anh biết nơi này mà tới sao? ở khách sạn Giang Thành hôm qua, đâu phải tự dưng người ta chỉ cho anh biết em ở xứ này? Cũng như lúc nãy, làm sao bác đạp xe lôi biết anh mà chở đến tận đây?
Văn rùng mình:
- Thì ra...
- Anh cũng đừng lo, mọi điều cũng chỉ tạo cơ hội cho anh đến gặp người mà anh ngại gặp nhất mà thôi và anh đã gặp rồi đó. Nhưng xem ra dì em cũng không đến đỗi quá căng thẳng với anh, khác với thái độ của bà suốt ba năm nay. Bà chỉ muốn gặp và ăn tươi nuốt sống anh thôi, chắc anh biết nguyên do?
- Vậy cô là...
- Em đã nói rồi, em là cháu của dì Thảnh.
Nhớ lại chuyện xâu chuỗi và những gì xảy ra ở Hà Tiên, Văn hỏi dồn:
- Vậy chuyện của Ngọc Mai, chuyện về xâu chuỗi kia...
Xuân Lan nhẹ lắc đầu:
- Mọi việc không phải do tôi. Anh muốn biết thì cứ hỏi dì tôi. Còn bây giờ...
Cô quay lại, tìm thì chẳng còn thấy bé Ngọc Ngà đâu. Nàng hoảng hốt:
- Ngà ơi, con ở đâu?
Chẳng nghe con bé trả lời, cô càng quýnh lên. Văn cũng hoảng, anh cùng chạy đi tìm. Cả hai chạy khắp nhà, ra cả ngoài sân vườn cũng chẳng thấy. Lúc này Xuân Lan đã thấy run, cô líu cả lưỡi:
- Không… không được... không xong rồi!
Văn hỏi mãi cô ta mới nói rõ hơn:
- Để cho con bé đi coi như nó sẽ trở về với mẹ nó, và như vậy có nghĩa là... là... anh phải đi khỏi đây ngay!
Văn ngơ ngác:
- Cô nói gì tôi không hiểu? Vậy hóa ra cô không phải là mẹ của bé Ngọc Ngà sao? Và tại sao tôi không được ở lại đây?
Nàng nói như hét:
- Anh đi ngay đi!
Nói xong, nàng ta gục xuống khiến Văn càng hoảng sợ hơn:
- Kìa, cô Lan. Cô sao vậy?
Xuân Lan lịm dần và suýt ngã xuống đất, may mà Văn đã đỡ kịp. Anh gọi lớn:
- Cô tỉnh lại đi, cô Lan!
Cô nàng chỉ còn là cái xác biết thở nhè nhẹ... Văn chẳng còn cách nào hơn nên phải bế cô lên, định bước vào nhà thì anh nghe Lan thì thào:
- Đừng vào đó, hãy đưa em ra ngoài...
Văn làm theo như cái máy. Anh đưa Xuân Lan ra ngoài cổng, vừa nhìn thấy một chiếc xe lôi trờ tới, anh gọi:
- Chở đi bệnh xá gần nhất!
Xe chạy một lúc thì đột nhiên ngừng ngay cửa một nhà trọ, Văn khoát tay:
- Không phải đây!
Nhưng một lần nữa, anh nghe giọng thì thào của Xuân Lan:
- Cứ đưa em lên đây!
Một người trong phòng trọ bước ra giúp đưa cô vào phòng. Họ nói:
- Cô này là khách ở đây mà.
Văn nói cho họ rõ:
- Không, nhà cô ấy ở gần đây cô ấy bị bệnh nên tôi phải đưa đi bệnh viện ngay!
Nhân viên tiếp tân quả quyết:
- Cô Xuân Lan này ở đây từ hôm qua với một đứa bé, lúc nãy nó chạy về trước và đang ở trong phòng!
Vừa khi ấy, bé Ngọc Ngà từ trong chạy ra, nó một lần nữa mừng rỡ khi gặp Văn:
- Chú, con chờ chú về.
Văn còn thắc mắc nhưng không thể hỏi đứa bé ba tuổi, vả lại anh còn phải lo cứu chữa cho Xuân Lan trước. Nhân viên nhà trọ nói cho Văn biết:
- Cô ấy nói lúc sáng rằng mình về chơi nhà người quen, tôi cứ tưởng đến chiều cô ấy mới về, nên vừa rồi có một cô bạn của cô ấy tới đây tìm, tôi đã chỉ cho vào phòng đợi, bây giờ chắc còn trong đó.
Bé Ngà nói:
- Đi rồi, chỉ để lại cái này.
Nó đưa ra cho Văn một cái bọc, trong đó có một gói giấy được gói khá chu đáo:
- Con về phòng thì không gặp cô ấy, nhưng khi con vào trong phòng rồi thì cô ấy đứng từ ngoài nói vọng vào, dặn con lấy cái bọc này đưa cho má Xuân Lan hoặc người nào đi cùng má Lan cũng được. Vậy chú cũng là người được gửi cái này, chú mở ra xem đi.
Văn không định mở, nhưng nghe con bé nói vậy anh mở ra xem thử. Vật gói kỹ kia khi được mở ra khiến cho Văn điếng hồn, đó là bức ảnh chụp Ngọc Mai lúc vừa tự tử đang còn nằm yên trên giường!
- Trời ơi!
Văn chỉ kêu được mấy tiếng rồi thì lảo đảo, mặt xanh tái! Con bé Ngà không hiểu chuyện gì, nó hoảng sợ:
- Chú, chú làm sao vậy chú?
Văn cố lắm mới nói được mấy tiếng:
- Ngọc... Mai...
Bé Ngà bỗng ôm cứng lấy Văn, như sợ anh chết. Nó gào lên:
- Chú ơi, chú!
Xuân Lan lúc ấy kêu lên ú ớ:
- Đừng đừng hại người ta… đừng...
Con bé Ngà cũng hét lớn:
- Đừng hại chú này! Con thương chú ấy!
Vừa nói nó lại càng siết chặt Văn hơn như sợ ai đó bắt mất anh, đến nỗi Văn cũng phải ngạc nhiên:
- Chú có sao đâu con?
Bé Ngà vẫn không lơi tay nó càng la lớn hơn và cứ xoay người hết bên này lại qua bên kia, như đang cố che chở cho anh khỏi bị ai đó tấn công! Và đến khi Văn không còn đủ sức để đứng vững thì một lần nữa con bé lại thét lên:
- Mẹ, đừng hại người ta!
Rồi như liều mình, nó ngã nhoài lên thân thể vừa đổ xuống của Văn, chẳng khác gì tấm lá chắn. Lúc ấy thì Xuân Lan cũng đã nằm yên. Vậy bé Ngà sợ ai? Chẳng thể lý giải được, bởi lúc ấy cả Văn và Xuân Lan đều đã ngất đi. Chỉ còn chị chủ nhà trọ, chị hốt hoảng giục mấy người làm lo cấp cứu cho hai người. Tuy nhiên, khi mấy người kia kéo bé Ngà ra khỏi người Văn thì con bé nhất quyết không bỏ ra, nó gào lên:
- Đừng để mẹ giết chú này!
Cho đến khi họ đưa Văn vào phòng mà con bé vẫn còn ôm cứng anh. Chị chủ nhà trọ nói với một nhân viên:
- Chạy vào xóm trong, chỗ gần nhà máy xay có một ngôi nhà ngói xưa, cô này có bà con ở đó, báo cho họ biết cô ấy đang bị bệnh ngoài này, kêu họ ra ngay.
Người nhân viên chạy đi một lúc khá lâu, khi trở về đã lắc đầu báo:
- Em kiếm nãy giờ mà có ngôi nhà ngói xưa nào đâu, chỉ có một cái nhà lớn, nhưng khi nhìn vào thấy chỉ có mồ mả chung quanh chứ đâu có người ở!
Chị chủ phòng trọ ngạc nhiên:
- Tôi cũng nhớ ở đó không có người nào ở, mà sao cô này lại nói có bà dì ở đó! Mày có hỏi kỹ mấy người chung quanh đó không?
- Dạ có, ai cũng nói nhà ấy đã bỏ hoang từ lâu rồi, cách đây mấy năm có chôn một người, thành ra nơi ấy gần như là cái nghĩa trang gia đình, chứ đâu phải nhà ở.
Vẫn chưa tin hẳn, nên chị chủ phòng trọ lại sai một người khác đi hỏi. Vài mươi phút sau người này về, cũng báo y như vậy:
- Đó đúng là một nghĩa địa gia tộc, nghe nói của một bà nhà giàu nào đó ở Sài Gòn, quê quán ở xứ này, nên bây giờ khu đất đó dùng làm nơi chôn người chết. Ngôi mộ nào cũng xây đá kiên cố lắm, nhưng ngôi nhà ngói lớn thì không ai ở đã từ lâu rồi.
Trong lúc họ còn đang bàn tán thì Văn tỉnh lại. Anh nhìn thấy bé Ngà vẫn đang bám chặt lấy anh và đã ngủ khì thì xúc động lắm, định gỡ bé ra cho nó ngủ trên giường, nhưng con bé dù đang ngủ vẫn cự tuyệt, không chịu buông tay ra!
Chị chủ nhà hỏi Văn:
- Lúc nãy cậu đưa cô này về từ đâu vậy?
Nghe Văn kể, chị ta kêu lên:
- Chỗ đó là nghĩa địa chứ đâu phải nhà!
Văn không tin, anh định gửi bé Ngà lại để tự đi xem thực hư, nhưng con bé vẫn nhất định không rời ra, nên cuối cùng Văn đành phải bế nó theo, kêu xe lôi chạy trở về chỗ lúc nãy. Tận mắt chứng kiến mà Văn vẫn còn chưa tin, anh hỏi một người gần đó, người ta nói rành rẽ:
- Đây là đất hương hỏa của ông Cả mà ngày xưa người ta gọi là Cả Tự, khi ông mất đi thì để lại cho người con gái tên Thảnh, nhưng sau đó bà này cũng chuyển lên Sài Gòn ở, rất ít khi về đây. Ngôi nhà dần dần xuống cấp, cuối cùng bà Thảnh dùng khu đất ấy làm từ đường thờ tổ tiên. Nhưng chỉ được một thời gian thì việc thờ tự cũng chẳng ai lo, nên hầu như ngôi nhà đành bỏ hoang. Chỉ có khu đất rộng gần một mẫu chung quanh đã lần hồi biến thành nghĩa trang gia tộc. Hình như có đến gần mười ngôi mộ được chôn trong đó, mà mới nhất là mộ của người con gái bà Thảnh chết cách đây ba bốn năm, được đem về mai táng và thỉnh thoảng bà có về nhang khói. Nhưng mới đây nghe tin bà ấy cũng đã chết, nhưng mộ phần thì không thấy đem về đây, có lẽ đã được hỏa táng rồi cũng nên.
Nghe bà ta kể rành rọt như vậy nên Văn không thể không tin, sau một lúc lưỡng lự, anh quyết định vào bên trong khuôn viên ngôi nhà. Vẫn là ngôi nhà mà anh tới lúc sáng, nhưng bây giờ nó là một ngôi nhà hoang, rêu phong, nhện giăng đầy. Văn đứng thẫn thờ khá lâu rồi chợt nhớ, anh bế bé Ngà ra thẳng sau vườn, nơi có đến chục ngôi mộ đá nằm san sát nhau. Một ngôi mộ mới nhất, nổi bật hơn nằm ở cuối dãy, mà vừa thoạt nhìn thấy Văn đã thót tim! Khi bước lại gần bỗng bé Ngà khóc thét lên và co quắp người lại ôm cứng lấy Văn, anh phải dỗ nó:
- Cháu đừng sợ, chú chỉ xem qua rồi đi ra ngay!
Ánh mắt của Văn dừng lại ở dòng chữ trên mộ bia: Phần mộ Lê Thị Ngọc Mai. Bên trên dòng chữ là ảnh chân dung của Mai, gương mặt buồn hiu.
- Ngọc Mai!
Văn kêu lên rồi đứng chết lặng. Trong lúc bé Ngà kéo tay anh giục đi:
- Đi đi chú! Đi đi...
Văn bước đi mà mắt cứ ngoái lại nhìn vào ngôi mộ.
Nó như có một mãnh lực kỳ lạ, khiến Văn cứ muốn chạy trở lại. Rồi văng vẳng bên tai Văn nghe như có tiếng ai đó gọi tên mình. Anh vừa định lên tiếng thì bàn tay nhỏ nhắn của bé Ngà đã bụm ngang miệng, khiến anh không thể thốt lên được. Và một lần nữa con bé lại giục:
- Đi nhanh lên đi chú!
Mãi đến khi tới ngoài cổng, con bé mới òa lên khóc và nói rất nhỏ vào tai Văn:
- Người ta đang muốn bắt chú đi, chú mau chạy đi!
Thấy Văn vẫn còn nấn ná chưa chịu bỏ đi, con bé lại giục.
- Chạy nhanh lên!
Lúc này chợt Văn nghe như có bước chân người phía sau lưng, anh cảm nhận hơi thở của ai đó sát vào gáy mình, đồng thời có một mùi hương rất quen thuộc phả vào mũi anh... Văn buột miệng:
- Ngọc Mai!
Đúng là loại nước hoa mà Ngọc Mai thường dùng khi còn sống, khi ấy Văn vẫn thường nói chỉ duy nhất nàng mới dùng loại nước hoa pha lẫn giữa hương của đàn ông với phụ nữ...
Lúc này Văn cảm giác như có luồng hơi lạnh buốt đang phủ lên gáy mình và hình như… Bỗng con bé Ngà hét lên một tiếng rồi buông tay ra khỏi Văn! Anh hốt hoảng khi nhìn quanh không thấy con bé.
- Cháu ơi! Cháu ở đâu?
Văn điếng hồn khi con bé tự dưng biến mất, mà quên là lúc ấy cái cảm giác lành lạnh sau gáy cũng không còn...
Văn trở về nhà với bộ dạng thất thần. Vừa bước vào cửa nhà trọ, anh đã nghe tiếng khóc nức nở của ai đó từ bên trong. Và khi anh vào hẳn phòng khách thì đã nghe Xuân Lan gào lên:
- Con bé chết rồi!
Văn đang như kẻ mất hồn, đã giật mình:
- Cái gì, bé Ngà đâu?
Chỉ đứa bé đang nằm im trong lòng, mắt nhắm nghiền, Xuân Lan nói qua màn nước mắt:
- Nó chết rồi!
Hốt hoảng. Văn cúi xuống chạm tay vào mũi con bé, không còn tín hiệu của hơi thở, Văn gào lên:
- Trời ơi, chú hại cháu rồi!
Đột nhiên Văn hét vào mặt Xuân Lan:
- Chính cô! Cô là nguyên nhân làm cho con bé chết!
Lan ngơ ngác:
- Anh nói gì vậy? Chính em vừa tỉnh lại thì đã thấy con nhỏ nằm bên cạnh rồi. Lúc nãy nó lại đi với anh, vậy ai đã làm gì con bé?
Câu hỏi khiến Văn nhớ lại diễn biến câu chuyện vừa rồi, anh buông tiếng thở dài:
- Ngọc Mai...
Xuân Lan hoảng hốt:
- Anh vừa nói gì? Anh gặp chị ấy?
Văn không giấu:
- Tôi vừa cùng bé Ngà vào ngôi nhà hoang và ra nghĩa địa...
Anh vừa nói tới đó thì Xuân Lan đã thất thần kêu lên:
- Anh dẫn xác đến đó là tới số rồi.
Rồi cô nhìn lại bé Ngà:
- Nhưng sao con bé lại như thế này? Nó là con..
Nàng định nói hết ý, nhưng bỗng ngừng bặt và vẻ sợ hãi lộ rõ. Văn hỏi:
- Cô sao vậy?
Xuân Lan không trả lời, rồi bất ngờ cô ôm bé Ngà đứng vụt dậy và chạy biến ra ngoài. Văn gọi theo.
- Cô Xuân Lan, đừng đưa con bé đi.
Nhưng bóng cô nàng và bé Ngà phút chốc đã không còn thấy nữa...


Hóa Giải Hận Thù


Tìm kiếm đến chồn chân mà vẫn chẳng thấy Xuân Lan đâu, Văn chán nản quay về phòng trọ. Chị chủ nhà chỉ căn phòng của Lan và bảo:
- Nếu còn ở lại thì anh cứ ở trong phòng cô ấy, chờ xem có thể chiều hoặc mai gì đó cô ấy sẽ trở lại.
Thật tình thì Văn vẫn muốn lưu lại đây thêm, bởi những gì quanh Ngọc Mai anh vẫn còn quá mù mờ.
Nhất là chuyện của con bé Ngà đang làm cho Văn hối hận, đau khổ... Do đó, tối hôm ấy Văn ngủ lại phòng của Xuân Lan.
Lúc ở trong phòng anh mới phát hiện cô ta còn bỏ lại túi xách quần áo. Ban đầu Văn không có ý định lục lọi gì trong đó, nhưng lúc nửa đêm thì bỗng trong đầu anh lóe lên một ý nghĩ lạ, anh lẩm bẩm:
- Có thể nào chính là cô ấy chăng?
Văn đang liên tưởng Xuân Lan chính là... Ngọc Mai! Bởi những gì đã xảy ra có khả năng là như vậy. Văn bật dậy và nhẹ nhàng mở chiếc túi vải ra. Bên trong chỉ có vài bộ quần áo của Xuân Lan và bé Ngọc Ngà. Nhưng điều làm cho Văn chú ý là còn có một bức ảnh mà vừa nhìn vào Văn biết ngay đó là bức ảnh mà anh đã nhìn thấy trong ngôi nhà lúc sáng, ảnh của Ngọc Mai và gia đình. Có đủ mặt, từ Ngọc Mai, bà mẹ và một người đàn ông đứng bên cạnh bà Thảnh. Điều này cũng lạ, bởi khi cưới Mai thì Văn đã biết là cô ấy mồ côi cha từ khá lâu, mà bức ảnh này có lẽ chụp cách khi Mai chết không lâu lắm?
Lật ra phía sau bức ảnh còn có dòng chữ: sinh Ô Môn, tử về Giang Thành!
- Giang Thành!
Văn được biết Giang Thành là tên gọi khác của Hà Tiên! Anh giật mình:
- Thì ra là vậy?
Nhìn đồng hồ tay thấy mới hai giờ sáng, nhưng Văn đã thay đồ, xách theo túi xách của Xuân Lan và trả phòng. Chị chủ nhà trọ ngạc nhiên:
- Giờ này mà cậu đi đâu?
- Tôi có việc phải đi gấp, nếu cô Xuân Lan có trở lại chị làm ơn nói là tôi đi tìm cô ấy ở Giang Thành.
Văn đi ngay giờ ấy và cũng may là có chuyến xe đò chạy tuyến Cần thơ đi Hà Tiên qua đó khá sớm. Nhờ vậy, Văn tới nơi vào giữa trưa hôm ấy.
Sự trở lại của Văn làm cho cho khách sạn Giang Thành ngạc nhiên:
- Ủa, tưởng cậu đã về Sài Gòn rồi, sao giờ này còn ở đây?
Văn hỏi liền:
- Chị có thấy cô gái và đứa con hôm trước trở lại đây hay không?
- Có. Nhưng chỉ ghé đây dặn trước phòng để mai quay về ở rồi đi ngay.
Văn thất vọng:
- Lỡ cả rồi!
Nghe vậy, người chủ khách sạn hỏi:
- Cậu muốn gặp cô ấy lắm sao?
- Dạ cần lắm. Nhất là tôi muốn biết xem đứa bé con của cô ấy tình trạng sức khỏe ra sao rồi?
- Cháu bé còn bệnh, sốt mê man nhưng có vẻ không sao, nên cô ấy mới quyết định về thăm mộ cha, trước khi trở lại đưa cháu bé đi trị bệnh.
Văn hốt hoảng:
- Sao lại làm vậy, tính mạng đứa nhỏ quan trọng hơn chứ.
Anh vội đi ngay. Người chủ khách sạn hỏi:
- Cậu tính đi đâu? Sao không ở lại đây đợi, thế nào cô ấy cũng trở lại mà.
Văn sốt ruột:
- Tôi muốn tìm gặp đứa bé ngay, nó đang trong tình trạng nguy hiểm, có thể tử vong chứ không phải chỉ bệnh nặng đâu.
Nghe vậy, ông chủ khách sạn sau một lúc suy nghĩ, chợt nhớ ra:
- Hôm trước ở đây cô ấy có nói là dòng họ mình có khu từ đường trên đường lên Thạch Động. Có thể bây giờ cô ấy đang ở đó cũng nên!
Đưa cho Văn chiếc xe đạp, ông bảo:
- Đây lên chỗ đó hơi xa. Mà ngoài đi bộ và xe đạp ra không có phương tiện gì khác, vậy cậu cứ lấy chiếc xe đạp này đi cho tiện. Cậu biết đường lên Thạch Động?
Ông chỉ đường cặn kẽ cho Văn và còn dặn:
- Nếu cần đưa cháu bé đi bệnh viện Rạch Giá thì tôi có chiếc xe hơi, sẽ giúp đưa cháu đi.
Văn đạp xe theo đường đã được hướng dẫn và không khó đã tìm ra khu đất từ đường duy nhất trên đoạn đường đó. Khi hỏi một người đánh xe bò đi qua, Văn được ông ta cho biết khá rành rẽ:
- Đây là đất của ông Hương Chủ Mạnh, đã có thời là một trong những người giàu nhất xứ này. Ông ấy mới chết cách nay chưa lâu và hiện được chôn cùng bà vợ trẻ hơn ông cả chục tuổi.
Chưa biết chắc có phải nơi mình cần tìm không, nhưng Văn cũng bước vào trong khuôn viên khu từ đường. Có hai ngôi mộ xây khá bề thế nằm giữa khu vườn rộng, và trên mộ bia một trong hai ngôi mộ có dòng chữ phần mộ Trần Thị Thảnh đã đập vào mắt Văn tức thời. Anh bước lại gần và còn nhìn rõ ảnh chân dung của người chết nữa:
- Bà ấy đây rồi!
Đây là mộ của bà Thảnh, mẹ của Ngọc Mai! Bên cạnh là mộ của người đàn ông tên Phan Văn Hoài, với ảnh chân dung mà vừa nhìn Văn nhận ra ngay, đó là người đàn ông trong bức ảnh nằm trong túi xách của Xuân Lan.
- Thì ra...
Vừa khi ấy có tiếng cất lên từ phía sau:
- Không cách nào thoát được anh!
Văn quay lại và kêu lên:
- Xuân Lan!
Thấy cô chỉ có một mình, Văn hỏi ngay:
- Con bé đâu?
Xuân Lan đáp, giọng cực kỳ buồn thảm:
- Chết rồi!
Cô chỉ tay vào một ngôi nhà nhỏ dưới tàn cây gần đó Văn chạy nhanh vào và đứng khựng lại trước xác của Ngọc Ngà nằm trên chiếc giường cũ.
- Nó đã chết từ lúc ở bên Ô Môn, nhưng em cố đưa nó về đây để hy vọng bà ngoại nó cứu được. Nào ngờ họ là những người quá vô cảm, nhẫn tâm nhìn cháu ruột của mình chết!
- Cô nói họ là ai?
- Dì tôi, bà Thảnh!
- Nhưng tại sao phải là bà ấy mới cứu được bé Ngà?
Có lẽ định không nói, nhưng rồi Xuân Lan không kiềm chế được, đã thốt ra:
- Vì nó mà bà ngoại nó, người lúc nào cũng thúc ép mẹ nó làm chuyện báo thù? Chính vì muốn báo thù mà mẹ nó đã nghe bà ngoại, tìm cách giết hại anh, trong lúc bé Ngà thì lại bênh vực cho anh, nó muốn cứu anh nên đã lao vào người mẹ nó và đã chết từ tay mẹ nó!
Văn ngơ ngác:
- Cô nói gì vậy, ai là mẹ của bé Ngà?
- Ngọc Mai!
Câu trả lời của Xuân Lan khiến Văn bàng hoàng:
- Con của Ngọc Mai, có nghĩa là...
- Chính nó là giọt máu của anh đó!
- Trời ơi!
Trong lúc Văn ngồi xuống bế con lên tay thì Xuân Lan đều giọng kể:
- Khi Ngọc Mai chết thì đã có thai trên hai tháng. Người chết oan lại mang thai thì sau khi chết phải sinh con trả lại cho đời, bởi đứa bé chưa tới số. Em vốn là con riêng của ba, trước khi ba chắp nối với dì Thảnh. Một hôm khi đang ngủ, em giật mình tỉnh giấc bởi có ai đó đặt bên cạnh mình một đứa trẻ sơ sinh. Em hoảng quá thì lúc ấy bà Thảnh đã hiện về báo cho biết đó chính là con của Ngọc Mai, bắt em phải nuôi và coi như con, không được kể lại chuyện ấy với ai. Không phải em sợ bị hồn ma giết hại, mà vì em thương đứa bé tội nghiệp này, nên em đã chấp nhận nuôi nó và coi như con mình. Vậy mà cách đây vài tuần, bà ta lại không để cho em và con bé được yên, khi buộc em phải tìm cách gặp anh để trả thù giúp Ngọc Mai!
Văn giật mình:
- Vậy em không phải là... hồn ma của Ngọc Mai sao?
- Em là nạn nhân cũng như anh thôi! Việc anh không chọn khu nghỉ mát nào khác mà chọn Mũi Nai cũng là do xui khiến của hồn ma của bà Thảnh và Ngọc Mai. Họ xui anh tới đây để em ra tay.
Văn chặn lời:
- Nhưng tại sao Ngọc Mai không trực tiếp ra tay, cô ấy là một hồn ma mà?
Chỉ vào bé Ngà, Xuân Lan nói:
- Cũng bởi con bé này. Chẳng hiểu sao dẫu chưa một lần biết mặt anh, nhưng lúc nào nó cũng bênh vực, che chở cho anh. Chính nó là vật cản đã khiến cho dì Thảnh và Ngọc Mai không ra tay được. Họ lại càng hận anh lắm, anh biết không!
Văn thở dài:
- Tôi biết và nỗi ăn năn lâu nay đã gặm nhấm lòng tôi khôn nguôi. Tôi không ân hận gì nếu bị họ giết chết!
Xuân Lan nghiêm giọng:
- Không được, anh phải sống vì con anh chứ!
- Nhưng...
Văn muốn nói thật đứa bé không phải là dòng máu của mình, nhưng kịp nghĩ lại, anh lảng sang hướng khác:
- Tôi ngạc nhiên không hiểu sao hai mẹ con họ lại không chôn chung một nơi ở Ô Môn mà hai người hai nơi như thế này?
Lan thở dài:
- Cũng do ba em. Ông ấy và Ngọc Mai không thuận với nhau lúc còn sống, đến khi chết họ cũng thề không nằm gần nhau. Ba em có một lời nguyền khi nhắm mắt, không ngờ lời nguyền đó đã linh ứng sau này, và cũng bởi vì lời nguyền nên Ngọc Mai không thể tự tiện tới vùng đất này để ra tay hại anh. Đây nè, em cho anh coi lời nguyền...
Xuân Lan đi vào góc nhà tìm một lúc, rồi lo lắng nói:
- Em bỏ quên cái túi xách ở đâu mất rồi, trong túi có vật ấy...
Văn đưa chiếc túi vải đang cầm trên tay ra:
- Phải cái này không?
Xuân Lan mừng rỡ:
- Đúng rồi!
Cô cầm lấy tấm ảnh chụp chung ra, chỉ tay vào người đàn ông trong ảnh.
- Đây là ba em. Lúc tấm hình này chụp thì không có ông, bởi ông đã chết trước đó mấy năm rồi. Nhưng khi biết mẹ con bà Thảnh muốn dùng em để hại người, đó là hại anh, thì ông đã linh ứng, đưa hình ông ghép vào trong này, để ngăn chặn không cho họ làm hại em nếu sau này em bị họ ép đến đường cùng. Anh có thấy dòng chữ viết phía sau ảnh này không? Sinh Ô Môn, tử Giang Thành! Đó chính là lời nguyền của ba, ý ông muốn nói là bà Thảnh sinh ra ở Ô Môn, nhưng khi chết thì chôn ở Hà Tiên này. Mà có như vậy thì sinh mạng em sẽ không sao, bởi khi bà ấy nằm ở đây thì còn có ba em, sẽ không để làm hại em được! Chính vì vậy mà em mới giữ bé Ngà ở đây để nuôi, cho nó được yên ổn. Vậy mà chỉ vì muốn ngăn chặn không cho họ hại anh, để rồi con bé phải mạng vong như thế này. Tội cho nó...
Nghe kể chuyện, Văn sững sờ, anh gào lên:
- Có muốn giết thì cứ giết tôi, cớ sao lại hại con bé mới ngần này tuổi!
Văn ôm con bé và chạy thẳng ra chỗ hai ngôi mộ rồi bằng một động tác bất ngờ, anh lao đầu vào mộ bia của bà Thảnh. Sức lao khá mạnh, nếu trúng vào thì có thể vỡ đầu. Đó là một hành động tự sát mà chính Văn cũng chẳng hiểu tại sao mình làm vậy!
Xuân Lan chạy ra sau, cô vừa kịp nhìn thấy đã la lên:
- Đừng! Anh đừng...
Tuy nhiên, khi đầu của Văn va vào thành mộ bia thì như có một cái đệm êm ái đỡ lấy, khiến anh chỉ bị ngã mà không bị thương tích gì. Vừa khi ấy, Văn chợt nghe có tiếng thì thào:
- Con không sao, ba ơi!
Văn bật ngay dậy và mừng như bắt được vàng:
- Ngọc Ngà, con còn sống sao?
Con bé Ngà ôm chầm lấy Văn như nó vẫn thường làm, hơi ấm từ người nó làm cho Văn nhẹ hẳn đi, anh nói và khóc:
- Cứ tưởng con bỏ ba rồi...
Xuân Lan chạy tới, cô mừng không kém:
- Mẹ cứ tưởng con không thương mẹ nữa chứ!
Không hẹn mà cả Văn và Xuân Lan đều ôm chầm lấy bé Ngà, chẳng khác gì cặp vợ chồng đang âu yếm đứa con cưng! Và họ giữ như vậy khá lâu...
Chẳng hiểu có sợi dây vô tình nào đó đã cột chặt họ lại với nhau, nên sau phút bất chợt đó, họ đã nhìn nhau với ánh mắt đầy cảm thông, trìu mến. Rồi Xuân Lan lên tiếng:
- Vừa rồi vong hồn của ba đã đỡ cho anh không va đầu vào mộ bia đó! Ba không muốn anh chết, bởi trên đời này còn có đứa con gái bé bỏng của ba đang bơ vơ!
Văn bất chợt siết chặt tay nàng, nói khẽ vừa đủ cho nhau nghe:
- Em sẽ không bơ vơ nữa...
Con bé Ngà vội chen vào:
- Còn bỏ con cho ai?
Văn siết chặt nó vào lòng:
- Có ba, mẹ đây chi!
Họ tràn ngập trong niềm hạnh phúc tuy bất ngờ, nhưng đó là điều tất yếu...
***
Văn cứ sợ bé Ngà không thể sống lâu, bởi người ta nói thường những đứa bé nửa âm nửa dương như Ngà thì chỉ thọ được cao lắm là tới mười tuổi. Vậy mà đã mười bốn năm trôi qua, bây giờ Ngọc Ngà đã đến tuổi mười bảy, mà chẳng có dấu hiệu gì cho thấy cô bé yểu mệnh Văn vừa mừng vừa lo, anh bàn với vợ:
- Anh nghe người ta nói, nếu Ngà vừa qua tuổi mười bảy, bước sang tuổi mười tám mà vẫn chưa có gì xảy ra thì phải làm lễ cúng thật lớn để rửa vong cho nó! Vậy chúng ta nên chuẩn bị là vừa, bởi chỉ còn chưa đầy mười ngày nữa là Ngà qua tuổi mười tám!
Xuân Lan kề sát vào chồng, thì thầm:
- Em đã lo cả rồi, mà anh cũng yên tâm, mấy đêm liền ba đều hiện về báo cho em biết rằng cái vận yểu mệnh của dòng họ chị Ngọc Mai đã qua và bé Ngà cũng chính thức được tồn tại trên cõi trần này rồi.
Lúc ấy Ngọc Ngà vừa từ dưới bếp bước lên, thấy cha mẹ bàn bạc, cô nói:
- Bữa nay con đãi ba má món cá trê chiên chấm nước mắm gừng, món ruột của hai ông bà!
Văn nhẹ cười với con gái:
- Chỉ sợ quả bom nổ chậm này không còn bao lâu nữa để cho tôi với má nó hưởng cái thú ăn ngon này nữa đây! Con gái là con nhà người ta mà.
Ngọc Nga giãy nảy:
- Không, con không lấy chồng đâu, con ở mãi với ba má thôi.
Và cũng như hồi nhỏ, Ngà vẫn còn thói quen cứ sà vào lòng cha mà giữ chặt:
- Con không bao giờ rời xa ba má!
- Con khỉ, nói phải giữ lời đó nghen!
Không ai lột da mà sống mãi, nhưng có lẽ hạnh phúc mà họ đang được hưởng là bất tận...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #59  
Old 11-07-2012, 04:32 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 29

TIẾNG HÚ RỪNG TRÀM - Phần I


Mùa nước nổi...
Con kinh Xáng chảy từ Sông cái Mỹ Văn xuyên qua Mỹ Hiệp Sơn cho tới tận đầu kinh Bảy Nam Thái Sơn năm nào cũng vậy, hễ mùa khô thì nước cạn tới đáy, còn mùa nước nổi thì nước ngập tràn đồng, không còn phân biệt được đâu là sông, đâu là bờ.
Đôi vợ chồng trẻ Ba Tài và Mỹ Lệ nghĩ nước tràn sông sẽ dễ đi, nên mãi tới gần hai giờ chiều họ mới rời kinh Bảy để đi về Mỹ Hiệp Sơn. Con kinh Xáng vốn quá quen thuộc với họ, nên dù đoạn giữa khá vắng, nhưng Ba Tài vẫn tự tin nói với vợ:
- Em coi chừng nào cơm chín, mình dừng lại chỗ có hàng tràm gie ra sông để nghỉ. Ăn tối mình đi thì khoảng bảy giờ là tới Vọng Thê, như vậy đêm nay mình đã có mặt ở nhà, chấm dứt một tháng trời lênh đênh sông nước!
Mỹ Lệ thở dài:
- Buôn bán kiểu này chắc lần sau em xá dài, không bao giờ dám đi bán hàng nữa! Cũng may là sáng nay bán được cho tiệm tạp hóa ở chợ Nam Thái Sơn số xoài còn lại, chứ nếu không thì có nước đổ xuống sông?
Cuộc chuyện trò của vợ chồng họ được một lúc thì đã tới khúc giữa của con kinh, nơi đã vài lần Ba Tài cho ghe dừng lại nghỉ ngơi. Lần này vừa nhìn thấy đám khói bốc lên từ chỗ đó, anh tắc lưỡi:
- Có người chiếm chỗ trước mình rồi!
Lệ thì lại thích:
- Có thêm người đậu lại vui hơn! Em đã ngán cảnh phải thui thủi đậu ghe ở bến vắng lắm rồi!
Ba Tài cho ghe tấp lại chỗ hàng tràm quen thuộc. Tưởng là có ghe khác. Nào ngờ khi đậu lại mới hay khói bốc lên từ một con cúi rơm do ai đó bỏ lại lúc nấu nướng xong. Rơm đang cháy sém vào thân cây tràm lớn. Ba Tài càu nhàu:
- Để lửa kiểu này gặp mùa khô nó cháy hết rừng chứ chẳng phải chơi!
Anh định khoát nước dập tắt lửa, nhưng Lệ đã ngăn lại:
- Để đó em nhúm lửa, khỏi phải quẹt hao đá lửa!
Vợ chồng họ bắt đầu bữa cơm chiều khá sớm và nhanh chóng. Ăn vừa xong, Lệ đã giục chồng:
- Đi về cho sớm, trời chuyển mưa rồi kìa?
Nghe vợ nói có lý nên Ba Tài vội nhổ sào sửa soạn lui ghe. Nhưng thật bất ngờ, cơn mưa đổ như trút nước ngay khi trời còn quang! Lệ hốt hoảng:
- Kiếm chỗ có nhà trú đỡ đi anh!
Ba Tài nhìn chung quanh rồi thất vọng:
- Cách đây cả cây số mới có nhà, bây giờ mưa quá lớn đâu đi được.
Họ đành phải cột dây ghe vào gốc tràm chịu trận. Ba Tài trấn an vợ:
- Mưa kiểu này sẽ không dai đâu, ráng chịu một chút là tạnh thôi!
Và họ cắn răng chịu đựng. Cứ ngỡ cơn mưa rào sẽ qua mau. Nhưng họ không thể ngờ được tình huống tồi tệ nhất mà họ phải trải qua sau đó...
Cơn mưa càng lúc càng lớn, giông gió nổi lên mạnh chưa từng thấy. Mùa nước nổi mà mưa giông thế này đúng là bi kịch cho những người đi xuồng ghe. Ba Tài đã quen sông nước, dãi dầu mưa nắng nhiều, vậy mà một lúc sau anh bắt đầu lo. Chiếc ghe năm trăm giạ của anh thường chở cả mấy tấn hàng, nay lại là ghe trống nữa, nên không sợ chìm vì nước mưa, nhưng lúc ấy Lệ lại gào lên khi phát hiện nước tràn quá nhiều tát không kịp:
- Nước phía sau nhiều lắm, anh tiếp em tát ra kẻo chìm ghe.
Lệ la lạc cả giọng, nhưng lúc đó Ba Tài còn phải lo ghì dây cột, cố giữ cho chiếc ghe không bị trôi theo cơn gió mỗi lúc một lớn hơn! Đến một lúc, giọng của Lệ hầu như không còn phát ra được nữa. Phần do đã la quá nhiều nãy giờ nên giọng không còn nghe rõ được, phần nữa là âm thanh của con người đều bị át đi bởi tiếng gầm rú của giông bão.
- Ghe sắp chìm rồi!
Đó là câu nói cuối cùng của Lệ mà Ba Tài còn nghe tiếng được tiếng mất trong màn mưa, để tới sau đó họ hầu như không liên lạc được với nhau mặc dù chỉ đứng cách nhau chưa đầy mười thước. Chiếc ghe đã bắt đầu lắc lư dữ dội và ngay sau đó nó tròng trành theo gió và những đợt sóng lùa cực mạnh. Ba Tài đã phát hiện ghe của mình bị trôi. Anh gào lên:
- Bám chặt mui ghe!
Anh còn la mấy lần nữa, nhưng đó là những tiếng gào cuối cùng. Bởi nếu có thể nhìn rõ được qua màn mưa thì ắt Ba Tài đã phải bàng hoàng, bởi bóng dáng mảnh mai của Mỹ Lệ vừa bị bắn tung ra khỏi ghe.
Mưa gió vẫn hoành hành suốt ba tiếng đồng hồ sau. Chiếc ghe gần như bị lật úp và trôi dạt theo dòng nước đang cuồn cuộn chảy, trên một dòng sông mênh mông...
Đêm tối mịt mùng...
Cho đến rạng sáng ngày hôm sau...
Mưa đã bắt đầu tạnh. Người đầu tiên phát hiện ra chiếc ghe mắc cạn ngay trước cửa nhà mình là một lão nông, khi ông vừa đẩy được cánh cửa xiêu vẹo bởi cơn gió suýt làm sập từ đêm qua. Nhìn thấy chiếc ghe nằm nghiêng chiếm hết phần sân, ông kêu lên:
- Ghe của ai mà leo lên tận nhà mình nè bà ơi!
Bà lão đang dọn lại nhà bếp bị mưa dột tứ tung, vừa lên tiếng:
- Chắc là trời cho mình ghe để đi chở lúa trúng năm nay đó.
Ông lão nghển cổ sang nhà hàng xóm gọi lớn:
- Năm Xị ơi, qua coi giùm tao coi ghe của ai mà nằm trên sân vậy nè?
Từ bên căn nhà lá đã bị sập gần phân nửa mái trước, có tiếng đáp lại:
- Tôi thấy rồi, tính chờ ông dậy báo cho ông biết là của trời cho ông đó, ông Sáu ơi!
Ông Sáu Đời chỉ tính bước lại coi qua, chứ sức ông thì làm sao chuyển dời được chiếc ghe dài gần bằng cái nhà. Nhưng bỗng ông giật mình khi thấy từ trong ghe có đôi chân trần của ai thò ra ngoài!
- Năm Xị! Mày qua coi, có xác chết đây nè!
Khi Năm Xị chạy qua thì cả bà Sáu cũng có mặt. Bà quá sợ nên run rẩy nói:
- Mau cứu người ta ra đi rồi báo cho chòm xóm biết!
- Thật là tội nghiệp...
Không đợi thêm người, chính ông Sáu đã đẩy được phần mui ghe bị sập lên và thấy được cả người bị nạn kẹt bên trong. Ông kêu lên:
- Một người đàn ông, Năm ơi!
Khi họ kéo được xác ra thì đó là Ba Tài! Năm Xị lo lắng:
- Dám còn người trong ghe nữa lắm à!
Anh ta ra sức chui vào trong khoang ghe để tìm. Cuối cùng anh lắc đầu bảo:
- Hết rồi!
Bà Sáu chạy đi tìm chiếc chiếu cũ để đắp xác nạn nhân, nhưng khi vừa cúi xuống thì bà hốt hoảng kêu lớn:
- Còn thở!
Ông Sáu Đời quay lại nhìn rồi cũng reo lên:
- Còn sống thật Năm ơi!
Năm Xị đã đôi lần cứu người chết đuối nên có kinh nghiệm, anh ta la lên:
- Bà Sáu trải chiếc chiếu ra để anh ta nằm lên, rồi mình đốt lửa hơ cho anh ta ấm, người tím tái hết rồi!
May mắn, sau hơn mười phút hơ lửa, Ba Tài đã hồi tỉnh. Vừa mở mắt ra, anh chàng đã bàng hoàng kêu lên:
- Mỹ Lệ! Em đâu Lệ ơi.
Ông Sáu Đời phải trấn an:
- Chỉ có mình cậu trên ghe. Chắc ai đó còn bám víu được ở đâu đó, không sao đâu!
Bấy giờ Ba Tài mới nhìn chung quanh, anh trấn tĩnh lại và bắt đầu mếu máo:
- Sao con vợ tôi nó không chịu bám ghe... nó yếu đuối quá mà, sao chịu nổi sóng gió hả trời!
Sau một hồi gào khóc kêu tên vợ, Ba Tài mới bắt đầu kể lại chuyện mình bị nạn. Anh nói:
- Tôi đang đậu ghe ở giữa kinh Xáng thì gió nổi lên...
Ông Sáu chép miệng:
- Ở đây là gần cầu số 5 cách kinh Xáng đến hơn ba chục cây số.
Năm Xị cũng nói:
- Lần đầu tiên trong đời tôi mới thấy ghe trôi ngược từ dưới lên trên, suýt chút nữa là trôi tới tận Bảy Núi rồi!
Ba Tài giật mình:
- Đây là cầu số 5 sao? Vậy gần nhà tôi.
- Cậu ở đâu?
- Dạ, ở Vọng Thê, ở trên triền núi Ba Thê.
Năm Xị reo lên:
- Gần quê của vợ tôi rồi!
Anh quay gọi về nhà:
- Má mấy đứa nhỏ ơi, qua nhìn bà con nè!
Vợ Năm Xị chạy qua và la lên:
- Ba Tài đây mà! Trời ơi, sao vậy nè?
Sau khi nghe kể chuyện, chị Năm lo lắng:
- Con Mỹ Lệ hồi còn con gái là đứa bơi lội dở nhất trong đám bạn bè tụi tôi. Sao anh dám cho nó đi theo ghe?
Ba Tài mếu máo:
- Túng tiền quá nên tính đi chuyến này rồi nghỉ luôn. Con vợ tôi nó cũng cằn nhằn hoài, không thích đi buôn bán dưới ghe.
- Có ghe chở hàng đi bán đây đó là nhất đời rồi, chỉ hiềm con nhỏ bơi lội dở, không ưa sông nước thôi. Mà thôi, bây giờ đã như vậy rồi, anh Ba cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi tôi bảo ông chồng tôi cùng với anh đi tìm con Lệ.
Ba Tài lòng nóng như lửa đốt, liền đề nghị:
- Nhà chị có xuồng, làm ơn cho tôi mượn, tôi muốn đi tìm ngay. Chậm một giây nào là...
Anh ta lại khóc như trẻ con, khiến mấy người chung quanh cũng mủi lòng. Bà Sáu nói:
- Tôi có chiếc xuồng con, chịu được sóng gió, lùm bụi, cậu cứ lấy mà đi. Cần thì ông nhà tôi đi theo giúp nữa.
Năm Xị nói:
- Thôi, chú Sáu ở nhà, để tôi đi với Ba Tài được rồi.
Họ bắt đầu cuộc tìm kiếm, bắt đầu ở chỗ nhà, lần ngược theo hướng gió đi về phía kinh Xáng, băng qua đồng tràm bị ngã rạp vì gió bão.
Lúc gió bão đi ghe chắc chừng vài giờ, còn lúc này Ba Tài không bỏ sót lùm tràm nào còn nhô lên khỏi mặt nước, nên phải mất gần cả ngày mà vẫn chưa tới được kinh Xáng. Năm Xị nói:
- Tôi có nhà người quen ở khúc kinh Xáng dưới này, hay là ta ghé đó nghỉ ăn cơm đã, rồi đi tiếp.
Ba Tài không muốn nghỉ, nhưng phải chiều lòng bạn, nên miễn cưỡng chống ghe về phía đó. Tiếp họ là vợ chồng anh chàng chuyên lấy củi ở rừng tràm, Tám Đối vừa nghe nói mục đích chuyến đi đã reo lên:
- Dám cái này lắm à! Sáng nay đi kiếm củi ở vạt rừng phía trước, vợ tôi thấy có chiếc áo của ai vất trên nhánh tràm, thấy còn mới nên nó lấy về tính để mặc. Coi phải áo của chị nhà không?
Ba Tài vừa nhìn thấy chiếc áo đã la hoảng lên:
- Áo của vợ tôi mà!
Rồi anh khóc rống lên, Tám Đối nói thật lòng:
- Áo đang mặc trong người mà bị lột ra, máng trên nhánh cây là đã bị gió nước cuốn trôi mạnh lắm!
Ba Tài hầu như chẳng còn nghe ai nói gì nữa, anh chỉ khóc, vừa ôm chiếc áo vào lòng vừa gào lên từng hồi...
***
Suốt ba ngày như điên như dại, tìm kiếm hầu như khắp các cánh đồng mà chẳng thấy dấu vết gì của vợ. Ba Tài trở về nhà như cái xác không hồn!
Người ở xóm vừa trông thấy anh đã kêu lên:
- Thằng này bộ thành ma hiện về hay sao vậy? Con vợ mày nó đợi mày ba bốn bữa nay, khóc hết nước mắt vì mày.
Ba Tài tưởng mình nghe lầm:
- Mấy người nói gì? Con vợ tôi chết thì hãy để vong hồn nó yên, đừng có...
Dì Mười bán tạp hóa trợn mắt nhìn Tài:
- Cái thằng bộ khùng sao chứ, vợ mày nó uổng công đợi mày quá!
Ba Tài vẫn giọng tưng tửng:
- Còn vợ đâu mà đợi với chờ!
Dì Mười cứ tưởng Tài khùng, bà la lớn:
- Về nhà nhanh lên đi, con vợ mày nó khóc hết nước mắt rồi đó!
Đến nước này Ba Tài mới ngớ người ra:
- Cái gì? Dì Mười nói giỡn hay thật?
Vừa hỏi, Ba Tài vừa cắm đầu chạy một mạch về nhà mà trong lòng hoang mang tột độ. Từ xa, Tài đã nhìn thấy nhà mình có khói bốc lên, chứng tỏ có người! Mà nhà anh ta thì ngoài hai vợ chồng ra có ai khác đâu mà nấu với nướng?
- Mỹ Lệ!
Ba Tài nhìn thấy vợ đang nhúm lửa nấu cơm trong bếp mà không tin đó là sự thật! Anh phải gọi lần thứ hai:
- Lệ! Có phải là em không?
Mỹ Lệ đứng dậy reo lên rồi nhào tới ôm chầm lấy chồng, cô nghẹn ngào:
- Tưởng anh không về...
Rồi cô khóc như mưa! Thật quá bất ngờ đến không thể nào tin nổi! Tài lắp bắp:
- Em... em thật... thật không vậy?
Mỹ Lệ cũng sờ nắn từ vai xuống ngực Ba Tài nghi ngờ:
- Có phải anh thật không vậy?
Vợ chồng mừng như vừa qua cơn ác mộng. Mỹ Lệ kể:
- Em bị nước cuốn trôi và em ngất đi, cho đến khi tỉnh lại thì thấy mình nằm trên một chiếc ghe lớn. Em hoảng hốt khi thấy mình đang mặc bộ quần áo của người khác. Thì ra vợ chồng người chủ ghe tốt bụng đã vớt được em trong lúc em ngất xỉu nằm trên một chiếc xuồng lật úp.
Ba Tài kể lại những ngày đi khắp cánh rừng tràm tìm kiếm. Nhớ lại chiếc áo, anh hỏi:
- Chiếc áo máng lại trên nhánh tràm, vậy khi người ta vớt em thì... trần trụi hay sao?
Lệ ngượng ngùng:
- Lúc đó còn biết gì nữa... Mà thôi kệ, miễn còn sống trở về với anh là mừng rồi!
Suốt đêm hôm đó hai vợ chồng hầu như không ngủ, đến gần sáng Lệ hỏi một câu làm Ba Tài giật mình:
- Chuyện anh với cô út Sương hồi đó kết thúc ra sao?
Ba Tài trố mắt:
- Sao khi không em hỏi chuyện đó làm gì? Chuyện ấy là thời anh còn trai trẻ, anh và cô ấy có... nhưng xong hết trước ngày anh cưới em mà! Anh coi như không còn nhớ gì...
- Nhưng em thì nhớ! Anh có biết là trong lúc hôn mê khi trôi trên sóng nước em thấy gì không? Thấy có người nói là anh phụ cô đã bỏ rơi khi cô ấy đã... có thai! Đúng không?
Ba Tài giật mình:
- Ai nói... bậy bạ vậy? Làm gì có chuyện đó!
- Đâu phải ai nói, mà em mơ thấy. Mấy hôm nay nằm nhà chờ anh, em cũng còn mơ tiếp giấc mơ kỳ lạ đó? Em chờ anh về để hỏi...
Tài gạt ngang:
- Không hề có chuyện ấy!
Rồi như không muốn cho vợ đề cập đến chuyện đó nữa, Tài lảng sang chuyện khác:
- Nói cho tôi nghe coi, bữa được người ta vớt lên thì ai vớt, ai thay quần áo cho em? Có phải thằng cha chồng của bà chủ ghe không?
Lệ nguýt dài:
- Đừng đánh trống lảng, hãy trả lời em lần nữa đi, có phải hồi trước lấy người ta có thai rồi bỏ không?
- Đã nói không có mà!
Tài khỏa lấp bằng hành động âu yếm, nhưng Lệ vẫn chưa chịu buông tha:
- Hỏi là hỏi chơi vậy chứ em biết hết rồi! Em còn biết cái thai khi đó đã được trên ba tháng nữa... Và hồi đó anh còn tính đặt cho con là Minh Lộc nữa. Tài Lộc mà!
Nghe vợ nói quá chi tiết nên Tài giật mình:
- Sao… sao em biết? Ai nói?
Giọng Lệ càng lúc càng tỉnh táo hơn, đến đỗi Ba Tài phải giật mình:
- Lệ, sao em cứ nhắc lại chuyện đó hoài vậy. Bộ không thương anh sao?
- Thương anh, nhưng anh đâu có thương người ta! Anh bỏ người ta trong lúc bụng mang dạ chửa, vậy lương tâm anh ở đâu?
Câu nói của Lệ khiến Tài phải ngồi bật dậy nhìn thẳng vào mặt cô:
- Lệ! Có phải là em không? Tại sao...
Mỹ Lệ không trả lời mà đứng lên bước xuống khỏi giường, lát sau trở lại đặt lên bụng Tài một vật gì đó mềm mềm, lành lạnh như vừa lấy từ dưới nước lên.
- Cái gì vậy?
- Nhìn thì biết.
Tài định nhảy xuống giường đốt đèn, nhưng Lệ đã nói:
- Anh sờ sẽ biết ngay là cái gì mà.
Ba Tài đưa tay sờ vào và kêu lên thảng thốt:
- Tóc!
Đó là lọn tóc dài được khoanh lại. Điều đó gợi ngay cho Tài một hình ảnh:
- Út Sương.
Một tiếng thở dài trong bóng tối:
- Ít ra thì anh cũng đã thừa nhận.
- Em...
Tài đưa tay định mơn trớn, xoa dịu cô vợ trẻ, nhưng lúc ấy anh giật mình, bởi tay anh vừa chạm vào một thân thể sũng nước, lạnh ngắt!
- Lệ!
Toàn thân Lệ bất động, Tài phải lay mấy lượt cũng chẳng chịu nhúc nhích. Hốt hoảng, Tài nhảy xuống tìm cách đốt đèn dầu lên, nhưng tìm mãi mà không thấy cây đèn đâu. Phải loay hoay mãi anh mới đốt được đèn và soi vào mùng, kèm theo tiếng gọi lần nữa:
- Lệ!
Nhưng Tài điếng hồn khi thấy chỗ của Lệ nằm giờ chỉ còn là bộ quần áo đẫm nước, mà Lệ thì chẳng thấy đâu!
- Lệ ơi! Em ơi...
Ba Tài có linh tính chẳng lành, anh tốc chạy ra ngoài vừa kêu vang. Nhưng do chung quanh rất ít nhà cửa, nên dù tiếng kêu vọng lớn trong đêm, phải một lúc sau mới nghe có tiếng của Hai Mười hỏi lớn:
- Cái gì vậy Ba Tài?
- Vợ...vợ con mất tiêu rồi!
Khi hỏi ra sự tình, mọi người đều ngạc nhiên:
- Nó đi đâu giờ này? Hay là mày làm gì nó giận rồi trốn ở đâu đó chăng?
Dì Mười và mấy người nữa cùng với Tài chia nhau đi tìm, nhưng mãi tới sáng hôm sau cũng chẳng thấy tăm hơi gì của Lệ. Đến khi mặt trời lên thì có người từ dưới triền núi chạy lên báo:
- Chiếc ghe của anh Ba Tài đâu mất rồi!
Ba Tài sững người, kêu khẽ:
- Lệ đi rồi!
Mất chiếc ghe coi như Ba Tài cụt chân. Mùa nước nổi chung quanh núi đều là nước, núi Ba Thê giờ như một ốc đảo cô lập giữa đại dương. Giờ có muốn đi tìm Lệ cũng chẳng biết làm sao, bởi hầu như nhà nào cũng chỉ có một chiếc xuồng dùng để đi lại, đâu có ai dư!
Dì Mười lúc đó mới thắc mắc:
- Không biết bữa con Lệ về đây nó đi bằng gì mà chẳng thấy xuồng ghe gì hết?
Ba Tài thẫn thờ như người mất hồn. Khi anh trở về nhà thì bộ quần áo ướt của Lệ cũng chẳng thấy! Thay vào đó là cái nón lá cũ của ai để trên gối, mà khi cầm lên Tài phải giật mình, vì bên trong nón có dòng chữ viết bằng than củi:
- Tìm em ở rừng tràm.
Ba Tài kinh hãi:
- Không xong rồi!
Anh qua năn nỉ dì Mười:
- Dì Mười làm ơn cho con mượn chiếc xuồng của ai để đi tìm vợ con. Nó gặp nguy.
Không cho cũng kỳ, nên dì Mười dặn thòng:
- Mày có đi thì đi cho nhanh mà về, để ngày mốt tao còn đi núi sập.
Tài bơi chiếc xuồng nhỏ nhẹ tênh, nó lướt đi vù vù, vậy mà anh vẫn còn thấy chậm. Lòng dạ anh nóng ran như lửa cháy, nên không thiết gì ăn uống, cứ băng đồng nước, nhắm hướng rừng tràm mà đi. Vạt rừng này kéo dài từ Mỹ Hiệp Sơn qua tới Nam Thái Sơn, biết tìm Lệ ở đâu.
Mông lung như vậy, chẳng hiểu sao Tài lại đi rất tự tin, cứ nhắm hướng giữa rừng mà bơi. Rừng tràm sau cơn bão lớn giờ xơ xác, ngã rạp, nên vốn đã chằng chịt giờ lại um tùm, khó đi hơn. Trời tối mà Ba Tài còn loay hoay giữa chốn mịt mùng, không biết phải làm sao.
Giữa lúc còn đang hoang mang thì bỗng chiếc xuồng của Tài đâm phải vật gì đó trước mũi. Vừa khi ấy, anh thấy lờ mờ và reo lên:
- Mỹ Lệ!
Chiếc ghe của Tài đậu phía trước, anh quýnh lên:
- Đây rồi!
Tài nhảy phóc lên ghe, vừa kêu rối rít:
- Lệ ơi, em đâu?
Nhưng anh thất vọng, bởi trên ghe không có ai. Chiếc ghe mắc kẹt vào giữa hai cây tràm lớn và nằm yên ở đó, còn người trên ghe thì đã biến đi từ lúc nào rồi...
- Lệ ơi!
Tiếng kêu của Tài vang vọng cả khu rừng. Bất chợt anh nghe một tràng tiếng hú nối theo tiếng kêu của anh. Tiếng hú lúc đầu nhỏ và ngắn, sau lan dần ra và càng lúc càng lớn. Nghe lạnh cả người!
Nghĩ tới vợ trong khung cảnh này, bất chợt Tài rùng mình! Anh buột miệng:
- Lệ, em có làm sao không?
Chờ cho tràng tiếng hú kia vừa dứt, Tài lại cất tiếng gọi vợ lần nữa:
- Lệ ơi, anh tìm em. Anh là Ba Tài đây!
Một lần nữa tràng tiếng hú lại nối theo y như lần trước, lần này tiếng hú ở gần hơn và nghe rõ hơn, đúng là... giọng của một người nữ!
Thần hồn Ba Tài hoảng loạn, anh chỉ kịp thốt lên:
- Mỹ Lệ, trời ơi!
Rồi đứng chết lặng. Lẽ nào như thế? Lẽ nào Mỹ Lệ là người phát ra tiếng hú đó? Hoang mang đến cực độ, Tài chỉ biết chấp tay van vái:
- Xin đừng để vợ con như vậy xin trời Phật...
Lời của Tài chưa dứt thì chợt một tràng cười như xé lụa vang lên. Giọng cười nghe bi thương hơn và qua giọng cười đó, bỗng Tài nhận ra âm thanh quen thuộc làm Tài bừng tỉnh, anh kêu lên:
- Út Sương!
Tiếng thốt của Tài nhỏ, chỉ đủ mình anh nghe, nhưng chẳng hiểu sao đã có tiếng đáp vọng lại:
- Vẫn còn nhớ cố nhân sao!
Tài lắp bắp:
- Anh... anh không có ý...
Một vật gì đó bay vụt tới rơi ngay trước mặt Tài..Anh cầm lên và giật mình.
- Bộ quần áo của Mỹ Lệ!
Bộ quần áo này lúc sáng còn nằm trên giường khi Lệ biến mất. Bây giờ nó vẫn đẫm nước, như được lột và quăng từ dưới nước lên. Bất chợt, Tài kêu to:
- Mình ơi!
Tràng cười kia lại vang lên, kèm một tiếng rít ghê rợn:
- Tình quá!
Và tiếp theo là cả thân thể lõa lồ của Mỹ Lệ vọt lên từ dưới nước, rơi đúng vào chân của Tài. Anh nhận ra ngay và vội cúi xuống ôm lấy. Nhưng như trong cơn mơ, bàn tay Tài vừa chạm vào cơ thể vợ thì khác nào chạm vào nước. Anh hốt hoảng.
- Lệ! Em sao vậy?
Cũng vừa lúc ấy Tài lảo đảo, rồi mắt mũi tối sầm lại…


Phần II


- Kìa, cậu đã tỉnh lại rồi, may quá!
Mở mắt ra nhìn thấy một lão nông trung niên ngồi trước mặt mình, Ba Tài chồm ngay dậy, hỏi liền:
- Vợ tôi đâu chú?
Đưa tay ra dấu cho Tài nằm yên, người chủ nhà nhỏ nhẹ nói:
- Kêu tôi bằng anh thôi. Tôi năm nay chỉ mới ba chín, chắc lớn hơn chú chút đỉnh thôi.
Ba Tài đâu còn nghĩ gì khác ngoài vợ mình:
- Kêu bằng gì cũng được, nhưng vợ tôi đâu?
- Vợ nào, tôi chỉ thấy có mình chú nằm chết giấc trên ghe nên đem về đây, chứ nào có ai khác.
- Nhưng vợ tôi nó... nó...
Chợt nhớ lại chuyện đã qua, Tài nhìn quanh rồi thảng thốt kêu lên:
- Người ta đã làm gì vợ tôi rồi? Chú... à mà anh có thấy ai ở chỗ ghe của tôi không?
Người đàn ông lắc đầu:
- Tôi đi giăng câu ngang qua vạt rừng đó thì nghe có tiếng hú, biết có chuyện chẳng lành nên tôi vội tới. Cũng may là còn kịp cứu chú.
- Anh có biết ai hú không?
- Kêu tôi bằng Hai Chà là được rồi. Còn ai hú thì làm sao mà biết được, ngoại trừ mình cũng là ma như họ!
Tài giật mình:
- Đó là ma sao?
- Tôi ở đây lâu đời lắm rồi, nhưng hiện tượng này chỉ mới có chừng hơn một năm nay. Ban đầu tôi cứ tưởng người điên nào đó, nhưng kiếm tìm hoài mà chẳng thấy ai trong khu rừng này cả. Rồi chắc chắn đó là ma!
- Một hồn ma nữ?
- Đúng. Đã nhiều đêm tôi nghe tiếng một người đàn bà vừa hú vừa khóc! Nhất là vào những đêm trời tối hay mưa gió, chỉ nội nghe tiếng hú thôi thì dẫu cho tim bằng đá óc bằng thép cũng phải rùng mình! Tôi nè, là dân làng chài mà nhiều lần đã phải thót tim khi nghe tiếng hú vừa khóc thê lương đó. Cậu mà nghe thì...
Chợt anh ta hỏi:
- Hay là cậu nghe rồi nên mới ngất đi phải không?
Ba Tài gật đầu:
- Chẳng riêng tôi, mà còn con vợ tôi nữa.
Anh đem chuyện mất tích của vợ mình và những gì đêm qua kể lại. Vừa nghe xong Hai Chà đã vỗ đùi:
- Đúng y như vậy rồi! Hồi năm ngoái có một cặp vợ chồng lấy củi ngang qua khu rừng đó thì cũng bị như vậy. Chỉ vì người chồng tên là Tài.
Ba Tài kinh ngạc:
- Tên Tài thì có gì liên quan tới hồn ma?
- Vậy mà có đó. Tôi để ý rồi, đã nhiều cặp vợ chồng hoặc đàn ông đi một mình hễ ai qua đó cũng bị hồn ma hiện ra quấy phá, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng nữa, tất cả đều có tên là Tài! Ở xóm trên đã có ba người bị y như vậy!
- Đều tên là Tài!
- Đúng vậy. Chú mày biết tại sao không? Chỉ bởi hình như hồn ma đó có thù hận điều gì với một người tên Ba Tài!
Ba Tài giật bắn người, suýt nữa anh đã để lộ thân phận của mình, cũng may là Hai Chà đã nói tiếp:
- Tôi đã tìm thấy một cái gò đất cao giữa cánh đồng tràm, trên gò có một cây gáo cổ thụ, thân cây cỡ hai người ôm và trên đó còn ghi lại mấy chữ để giải thích vì sao có chuyện hận thù người tên Tài!
Ba Tài lắng nghe rất kỹ, thấy Hai Chà dừng lại hút thuốc, anh hỏi tới:
- Sao nữa anh Hai?
- Trên thân cây viết mấy chữ như vậy: Hận Ba Tài suốt kiếp. Đó, chú mày thấy chưa, chỉ vì hận Ba Tài nào đó mà oan hồn ấy hại bất cứ người đàn ông nào tên Tài vô phước đi ngang qua!
- Ở gò đất đó có nhà cửa gì không anh Hai?
- Chỉ có một cái chòi nhỏ, nhưng có lẽ cất đã lâu ngày nên bây giờ dột nát hết rồi. Tuy nhiên, nơi đó còn có một vật sót lại, có lẽ đó là kỷ vật của hai người lúc còn mặn nồng với nhau.
Anh ta đi vào nhà lấy ra một chiếc lược làm bằng sừng trâu rất xinh xắn, đưa cho Tài xem:
- Trên chiếc lược này còn khắc mấy chữ, cậu đọc coi.
Tài vừa nhìn thấy chiếc lược đã giật mình run rẩy... bởi không cần nhìn kỹ Tài cũng biết trên cán lược có dòng chữ: Cho người thương không bao giờ xa cách!
Hai Chà đợi cho Tài đọc xong, anh ta mới nói:
- Tôi đoán giữa Ba Tài này với cô gái oan hồn vốn là cặp đôi với nhau, và từng có thời tới chỗ cái chòi đó để ở hay tình tự gì đó, cho đến khi...
Bỗng dưng Ba Tài thét lớn:
- Đừng nói nữa.
Rồi như một kẻ điên, anh lao người ra trước nhà và không làm chủ được bản thân, đã bước hụt chân ngã luôn xuống nước! Và có lẽ nước lạnh đã làm cho Tài tỉnh lại, anh vẫn đứng yên dưới nước, nhưng lại ôm mặt khóc nức nở, Hai Chà ngạc nhiên:
- Chú làm sao vậy?
Ba Tài không đáp, lẳng lặng leo lên ghe, mãi đến khi chống ra cách nhà vài chục thước mới nói với lại:
- Cám ơn anh Hai, tôi phải đi tìm vợ tôi!
Hai Chà đứng nhìn theo và lắc đầu:
- Thằng này số chết hay sao đây!
Anh lấy chiếc lược sừng đặt lên bàn thờ giữa nhà, thành kính khấn vái:
- Việc cô sai tôi chưa làm được, nhưng thằng đó sớm muộn gì cũng tới nộp mạng cho cô thôi!
Nếu ai để ý sẽ thấy bàn thờ kia chỉ có một bát nhang, không có ảnh thờ, nhưng lại có một lọn tóc phụ nữ khá dài. Giống y như lọn tóc mà Ba Tài đã thấy ở nhà đêm vợ biến mất!
Nén nhang đã tắt tự bao giờ, bỗng dưng sau lời khấn của Hai Chà nó vụt cháy trở lại. Bấy giờ Hai Chà lại tiếp tục khấn:
- Em yên tâm, dẫu em còn bị phán quan cấm cung, không thể ra ngoài đi báo thù được nhưng Hai Chà này nguyện vì em, sẽ làm cho kẻ đã gây ra cái chết oan uổng của em phải đền tội ngay trong mùa nước nổi này!
Anh ta khấn xong thì bước ngay ra ngoài, lên chiếc xuồng nhỏ bơi theo hướng Ba Tài vừa đi. Chiếc xuồng nhỏ nên lướt rất nhanh, và có lẽ thuộc đường, nên khi anh ta tới gò đất thì chưa thấy ghe của Tài.
- Ủa, anh ta phải tới đây mà?
Hai Chà chợt nhìn sang chỗ gốc cây cổ thụ, nơi có khắc dòng chữ và kêu lên:
- Anh ta dám làm chuyện này sao?
Gốc cây gáo, chỗ có khắc dòng chữ vừa mới bị ai đó dùng dao vạt bằng mặt, xóa hết những chữ khắc đã mấy năm qua. Dấu vết vạt còn mới nguyên.
- Thằng Ba Tài này dám sao!
Nhưng anh ta chưa kịp nổi cơn giận thì bỗng thấy ở phía bên kia gốc cây có một nấm mộ đất còn mới. Trên đầu mộ có cái bệ bằng cây tràm tươi vạt mặt, khắc mấy dòng: Mộ phần Lưu Mỹ Lệ.
Quá uất ức, Hai Chà lao tới dùng chân đạp mạnh vào đầu ngôi mộ, định xô ngã cái bệ. Nhưng bỗng anh ta rú lên một tiếng đau đớn rồi ngã lăn ra. Những ngón chân anh ta tóe máu ròng ròng, giống như vừa bị ai chặt đứt!
Từ không trung, bỗng vang lên tràng tiếng hú lạ lùng, ghê rợn. Mà nghe kỹ thì cách hú không hề giống với tiếng hú mà Ba Tài đã nghe. Vẫn của một người nữ, nhưng khác với tiếng hú mà Hai Chà đã biết:
- Út Sương, không phải là em, vậy ai đang hú?
Trả lời cho anh ta là một tiếng khóc dội lên từ gò mả cũ, đối diện với mả mới. Vừa nghe Hai Chà đã hốt hoảng:
- Sao em lại khóc, Út Sương?
Tiếng khóc càng lúc càng bi thương hơn, và Hai Chà hiểu việc gì đã xẩy ra.
- Có phải em bị người ta hại rồi phải không? Ai? Con Mỹ Lệ hay là...?
Hình như giữa anh ta và cái vong dưới mộ có thể truyền đạt ý nghĩ cho nhau, nên chỉ một lát sau thì anh đã gầm lên:
- Trời ơi, mình chậm mất rồi!
Anh ta hấp tấp rời ngay gò đất như chạy trốn. Và lúc này chiếc ghe của Ba Tài mới cập bến, Tài bước lên với dáng điệu thẫn thờ, nhưng khi đứng trước ngôi mộ mới thì anh vội ngồi thụp xuống và gào lên:
- Đừng bỏ anh Lệ ơi!
Rồi quay lại phía sau, anh mọp sát người xuống mặt đất, giọng van lơn:
- Út Sương ơi, anh tạ tội với em, xin em đừng làm như vậy tội cho cô ấy. Nếu có muốn trả thù thì anh đây, em cứ ra tay!
Tài nằm hẳn ra đất và chẳng buồn ngồi dậy. Anh chờ và chờ rất lâu. Vẫn không có gì xảy ra cho đến khi trời sẫm tối. Lúc này không phải Ba Tài ngồi, mà có ai đó kéo anh dậy, vừa nhìn mặt người đó, Tài đã run lên:
- Hai Chà! Anh... làm gì?
Trên tay Hai Chà cầm cây mác sáng ngời, mắt anh ta long lên:
- Mày phải chết!
Anh ta vung tay lên và chặt xuống. Phụp một cái!
Nhưng thay vì chặt trúng vào Ba Tài đang ngã ngồi dưới đất, cây mác lại nhắm thẳng vào thân cây gáo và mũi mác cắm phập vào đó, gần lút nửa cây mác!
Và từ trong thân cây có một dòng máu chảy ra, kèm theo một tiếng thét kinh hoàng!
- Út Sương!
Đó là tiếng gào của Hai Chà, và sau tiếng gào đó thì anh ta gục xuống ngay, miệng hộc máu tươi có vòi!
Ba Tài ngơ ngác nhìn, chưa hiểu tại sao anh ta lại như vậy thì anh nghe có tiếng từ dưới nấm mộ mới, vừa đủ cho anh nghe:
- Anh hãy rời đây ngay, không thì nguy đến tính mạng!
- Mỹ Lệ!
Tài quay sang ôm lấy nấm mộ, nhưng giọng nói kia lại thúc giục.
- Đi nhanh lên đi! Những giọt máu tươi này sẽ làm cho cô ả thoát ra được chốn giam cầm, và thế là anh chết ngay.
- Không, anh không đi đâu hết, anh sẽ ở lại đây vĩnh viễn cùng em.
- Đi đi.
Ba Tài bị đẩy mạnh một cái ra xa và nằm gọn dưới ghe!
Vừa lúc đó, có một chiếc xuồng nhỏ khác vụt tới và một người phóng lên ghe, cắp ngang người Ba Tài, nhảy gọn lên gò đất cao. Vừa đặt Tài xuống, ông đã dang tay tát cho anh hai cái liền và quát:
- Thằng khốn kiếp, quen thói trăng hoa thì sẽ nhận hậu quả thôi!
Bị đánh quá đau, nhưng thay vì kêu la, trái lại Ba Tài lại reo lên với tất cả sự vui mừng.
- Ba!
Trước mặt Tài lúc này là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng còn khỏe, thân hình cao lớn, dữ tợn! Và người đó là cha của Tài!
- Ba! Sao ba ở đây? Ba là... là...
- Một hồn ma! Bởi ta làm sao là người được khi đã chết hơn mười năm rồi!
Rồi ông chỉ vào ngôi mộ cũ:
- Nó là mầm mống của mọi kiếp nạn mà con phải gánh chịu! Con còn nhớ trước khi ba chết, ba đã từng dặn con điều gì không?
Tài hạ thấp giọng:
- Dạ, năm đó con mười sáu tuổi, lúc hấp hối ba có dặn con là đừng bao giờ dan díu với phụ nữ đã có chồng hoặc người đã có người yêu, bởi trong đời người có hai cái tội lớn nhất: thứ nhất là phá hại đời con gái người ta, thứ hai là lấy vợ người khác!
Ông già gằn giọng:
- Vậy con đã làm đúng chưa?
- Dạ...
Giọng ông già đanh lại:
- Con đã làm sai hết những gì ba dặn! Việc con dan díu với Út Sương khi cô ấy đã có chồng là Hai Chà, như vậy là sao?
Ba Tài lắp bắp:
- Dạ... con không biết... Đến khi biết thì đã lỡ rồi... Mà con cũng không biết Hai Chà là chồng của Út Sương... Cho đến khi...
- Con lớn xác chứ đầu óc chưa lớn! Con có biết gần ba năm trước, khi con đưa Út Sương trốn vào gò đất này để tránh tiếng đời dị nghị, con đâu có biết là mình đã vướng vào cái vòng oan nghiệt. Út Sương khi ấy đâu còn là người nữa...
Ba Tài kinh hãi:
- Ba nói sao? Sương là...
- Khi nó báo tin cho con biết đã có thai hai tháng và rủ con đi trốn vào rừng là đã có ý định giết con rồi. Một con ma nữ muốn giết người tình của nó đâu có gì lạ, nhưng lạ một điều là người chết tại đây năm đó không phải con, mà là nó. Con Út Sương?
Ba Tài có vẻ sợ hãi:
- Ba đừng nói chuyện đó!
Nhưng ông già vẫn nói:
- Ngày đó cũng may ta hay kịp nên tới cứu con đúng lúc. Thật ra cái chết của Út Sương đâu phải do con. Con đã bị hàm oan mà không tìm cách để minh oan, chưa chi đã vội đi lấy vợ tiếp, để cho người ta gán cho cái tội bội nghĩa bạc tình, tội giết vợ rồi chạy tội?
Ba Tài cũng không ngờ tình tiết này, anh ngơ ngác:
- Sao có chuyện đó ba? Chính con đã bỏ đi trong lúc Út Sương mang thai tới ngày sinh. Cô ấy sinh khó và chết ở chỗ này, trong lúc con bỏ về và không trở lại mà?
Điưa tay chỉ vào Hai Chà, ông nói:
- Cũng giống như lần này, lần đó chính anh ta đã bám theo con và Út Sương tới tận đây. Người mà hắn muốn giết là con, nhưng xui rủi sao, khi hắn ra tay thì lại nhằm vào Sương. Cô gái bị chết trước khi ngã xuống sông, nên con tưởng chính mình gây ra cái chết đó! Ba cũng cùng hoàn cảnh với con, nên ba cảm thông được nỗi khổ trong lòng mà con phải chịu oan, nên bấy lâu nay lúc nào ba cũng theo để che chở cho con. Nếu không có ba thì làm sao con thoát qua được cơn bão tố vừa rồi!
- Vậy sao ba để cho Mỹ Lệ phải chết!
Ông già thở dài:
- Con mới hiểu một mà chưa hiểu hai, ba. Mà ba hỏi thật với Mỹ Lệ, con có yêu thương nó không?
Ba Tài đáp nhanh:
- Điều này ba khỏi phải hỏi. Nếu không yêu thì con đâu có bỏ cả danh vọng ở chốn thị thành mà lên sống cùng cô ấy ở núi Ba Thê. Con cũng giống như ba, đã bỏ hết...
Ông già bỗng phá lên cười, giọng cười vừa chua xót vừa bi thương:
- Cũng chỉ vì đàn bà cả. Con ơi!
Rồi giọng ông chùng xuống:
- Cũng giống như con, ba đã lỡ vướng vào người phụ nữ đã có chồng và vì đó mà tiêu tan cả sự nghiệp và mạng sống. Ba đã vì chuyện ấy mà bỏ cả mẹ con ở lại, để rồi bà ấy chết vì chịu không nổi cảnh đời ngang trái...
Ông nói như sắp khóc, Ba Tài nói lảng chuyện khác:
- Ba, con muốn ở lại đây với vợ con được không ba?
Ông già gầm lên giận dữ:
- Thằng điên, bộ muốn chết sao chứ!
Ông thẳng chân đạp một cái thật mạnh, Ba Tài bị hất tung xuống ghe, còn nhanh hơn hồi nãy, kèm theo tiếng quát:
- Một mạng của ba đủ rồi!
Tài vẫn cố nói:
- Nhưng còn vợ con nằm đó, con không đành...
- Con vợ mày... Mà thôi, tao bảo đi là đi!
- Vợ con ba ơi!
- Đi nhanh lên, rồi... mày sẽ gặp nó! Đi đi!
Lúc đó, cây gáo cổ thụ bỗng chuyển động giống như bị ai đó cưa sắp ngã. Cùng lúc, những tiếng hú kinh người cất lên vang động cả khu rừng. Nằm trên ghe mà Ba Tài có cảm giác như mình bị quay tròn như chiếc bông vụ.
Chóng mặt và muốn ói, Tài chỉ kịp kêu lên một tiếng rồi chiếc ghe như bị lôi đi vùn vụt...
Tuy không nhìn thấy, nhưng lúc ấy Ba Tài nghe rất rõ tiếng gầm lên như con hổ bị thương của cha, cùng lúc có những tiếng thét lên kinh hoàng của phụ nữ.
Mọi thứ đã ở lại sau lưng Ba Tài. Anh ngất lịm...
***
Ngay đêm trở về nhà ở Ba Thê, Tài đã chứng kiến một việc rất lạ. Tuy anh vắng nhà đã bốn năm ngày, nhưng nhà cửa vẫn sạch sẽ, tươm tất. Và lúc về vì quá mệt, Tài đã nằm ngủ một giấc dài... đến khi tỉnh dậy đã thấy một mâm cơm ai dọn sẵn còn nóng sốt.
Cứ tưởng Dì Mười bên cạnh thấy tình cảnh đơn chiếc của anh nên lo giúp bữa ăn, tuy nhiên khi mở mắt ra nhìn thì thấy cửa anh đã chốt bên trong, làm sao bên ngoài đưa cơm vào được. Trong lúc Tài còn đang hoang mang thì một giọng nói quen thuộc đã cất lên mà không thấy người:
- Thắp nhang cho ba đi, rồi ăn cho lại sức!
Tài bàng hoàng:
- Mỹ Lệ! Em...
- Đừng nói lớn, người ngoài nghe được họ tò mò. Em bây giờ chỉ về được với anh qua đêm như thế này thôi. Đó cũng là nhờ ba đã hy sinh cứu em thoát được thảm kịch vừa rồi.
Ba Tài ngơ ngác.
- Chuyện gì đã xảy ra?
- Sau khi anh đi rồi thì một cuộc tàn sát đã xảy ra, mà người phát động là Út Sương! Cô ấy bị ba và một số oan hồn khác bắt nhốt ở gò đất cây gáo đó từ nhiều năm, chỉ có thể nhờ người chồng còn sống là Hai Chà đi trả thù giùm và đáng lẽ cô ấy còn bị giam cầm ở đó mãi mãi… Nhưng vừa rồi lúc Hai Chà chém anh thì mũi mác đá vô tình lạc vào thân cây, mà thân cây gáo chính là nơi giam vong hồn của Út Sương, thế là máu chảy tuôn ra và hồn cô ta theo đó mà thoát! Điều đó có nghĩa là Út Sương sẽ trực tiếp đi theo anh và sớm hay muộn thì anh cũng phải đền mạng!
Trong lúc Ba Tài đang căng thẳng đầu óc, thì giọng của vợ anh lại tiếp, trấn an anh:
- Nhưng bây giờ thì không sao rồi. Chính ba anh đã phải hy sinh cái mạng sống ở cõi âm, quyết sống mái một trận với Út Sương, cuối cùng cả hai cùng tan hồn! Anh yên tâm, Út Sương giờ đây đã vĩnh viễn tiêu diêu cùng cát bụi...
- Ba anh!
- Ba thì cũng vậy. Và nhờ có ông mà anh sẽ được sống.
Rồi cô hạ thấp giọng:
- Nhưng sống như thế nào mới là quan trọng!
Ba Tài hiểu ý:
- Em vẫn sợ anh lăng nhăng nữa chứ gì!
- Không sợ sao được khi mới ngần này tuổi mà anh đã qua hai đời vợ! Ai mà biết được là sẽ còn bao nhiêu đời nữa...
- Anh sẽ...
- Bây giờ anh đừng hứa hẹn gì cả. Khi em còn sống thì em ghen theo kiểu người sống, anh có thể chống đỡ được, còn hiện tại thì em là một oan hồn, mà anh biết rồi đó, oan hồn hành động ai mà lường được! Em sẽ ghen cho anh coi!
- Mỹ Lệ, anh hứa mà...
- Thì cứ sống cho đàng hoàng đi, em hứa sẽ là người vợ phục vụ anh hết mình, hết kiếp âm này luôn!
Rồi nàng hạ thấp giọng, sợ có người khác nghe:
- Em chỉ về với anh vào ban đêm, còn ban ngày anh chỉ nghe tiếng em nói mà không thể nhìn nhau được. Vậy anh có dám hứa là cho đến hết kiếp dương trần của anh, anh sẽ không bao giờ lấy người con gái nào khác nữa không?
Ba Tài nói không cần suy nghĩ:
- Sao lại không hứa! Anh bảo đảm với em rằng Ba Tài này sẽ không bao giờ mơ màng tới phụ nữ nào khác.
- Chắc không?
- Chắc trăm phần trăm!
- Vậy thì ăn hết phần cơm kia đi, em mới tin.
Bụng đang đói cồn cào nên không đợi nhắc lần thứ hai, Ba Tài đã ngồi vào ăn ngon lành. Giọng nói của vợ vẫn đều đều bên tai:
- Từ nay em sẽ lo cơm nước cho anh, sẽ lo hết mọi việc trong nhà này, nhưng để mọi người không nghi ngờ, em sẽ đem về đây cô em gái bà con...
Vừa nghe, Ba Tài đã la lên:
- Sao được! Đã nói là anh không bao giờ quen ai nữa kia mà!
- Cái này là do em cho phép. Em sẽ cho đứa em về đây thay em, sống với anh như vợ chồng.
- Không! Anh không thể...
Giọng nàng nghiêm túc:
- Không phải anh sống với nó như lấy người khác đâu mà không với chịu! Xác của nó mà hồn là của em, anh hiểu rồi chứ.
Rồi nàng nói rõ hơn:
- Đứa em của em nó vắn số, năm sau thì chết, lúc đó em sẽ nhập hồn vào nó và... về ở với anh! Còn từ đây đến đó anh vẫn cư tang vợ, vẫn phải sống âm thầm cùng em như thế này.
Tài lúng túng:
- Anh... anh không biết tính sao...
- Không trăng sao gì hết, cứ nghe em mà làm. Sáng mai làm một bữa tiệc, mời chòm xóm tới thông báo việc em bị chết và cúng cơm.
Nàng nói xong thì biến mất. Ba Tài có hỏi thêm gì cũng không nghe trả lời...
Hơn một năm sau...
Một hôm, bỗng có một cô gái khuôn mặt giống y như Mỹ Lệ, từ dưới triền núi đi lên, trên tay xách nguyên một va li quần áo, giống như đi về nhà chồng. Cô vừa bước vào cửa đã hỏi ngay Tài:
- Sao vợ về mà không ra đón?
Tài ngơ ngác, bởi giọng nói thì hoàn toàn là của... Mỹ Lệ! Anh lắp bắp:
- Anh... anh chưa biết em là...
Nàng cười như thân quen tự bao giờ:
- Em là vợ anh từ hôm nay, sao còn đứng đó?
Nàng ta đưa va li cho Tài một cách tự nhiên và sau đó bước vào nhà, đi thẳng ra sau bếp, giống như người đã sống trong nhà từ lâu!
Trưa hôm đó theo ý của Lệ, Ba Tài dọn một tiệc nhỏ, mời đầy đủ hàng xóm và chính thức giới thiệu:
- Giới thiệu với bà con, đây là cô em họ của vợ tôi, thấy hoàn cảnh tôi đơn chiếc, nên từ nay cô ấy về đây giúp đỡ...
Dì Mười là người nhanh nhảu, nói thẳng ý mình:
- Con chị chết rồi, sao không bắt con em thế vai? Còn ai bằng chính con em mình, chắc vong hồn con Lệ cũng vui lắm!
Thấy Ba Tài không nói gì, còn cô gái thì bẽn lên cúi đầu, mọi người cùng vỗ tay:
- Đẹp đôi quá rồi, vậy thì nhân bữa nay ta coi như lễ cưới đi!
Vậy đó....
Nhờ bữa tiệc nhỏ ấy mà từ đó cô em vợ Mỹ Lan đã chính thức trở thành nội tướng của Tài. Hơn một năm sau thì họ có đứa con đầu.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #60  
Old 11-07-2012, 04:34 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww TỔNG TẬP TRUYỆN MA CỦA NGƯỜI KHĂN TRẮNG, Quyến 29

NGHIỆP CHƯỚNG - Phần I


Việc con gái cưng Thể Phụng chuyển bụng sinh kéo dài đến ba ngày mà vẫn chưa sinh được đã khiến bà Phủ Hoài lo lắng, đứng ngồi không yên. Đến chiều ngày thứ ba thì bà hết kiên nhẫn, gọi cô em chồng bảo:
- Cô kêu xe chở con nhỏ lên ngay Sài Gòn đi, thầy bà, mụ đỡ ở Cần Thơ này kêu họ bỏ nghề hết cho rồi! Ai đời có chuyện sinh con mà làm ba ngày rồi cũng chưa được! Tôi đây sinh sáu mặt con mà chỉ cần mụ vườn cũng cái "rẹt" là xong!
Cô Út Nguyệt phân trần:
- Không phải họ dở đâu chị Hai. Mà chỉ vì con Phụng sinh khó, nghe mấy bác sĩ ở bệnh viện nói không chừng phải mổ để lấy con ra nữa đó!
Bà Phủ kêu lên:
- Không được đâu! Con gái tôi lá ngọc cành vàng, thân thể ngà ngọc mà mổ xẻ thì còn gì con nhỏ!
Út Nguyệt vẫn cố giải thích:
- Người ta nói nếu không mổ coi chừng đứa nhỏ trong bụng bị ngạt mà chết chứ chẳng phải chơi!
- Cô này nói xui xẻo không hà! Mà thôi, đi đánh điện cho thằng tài xế về nhanh lên, để chở nó đi liền!
- Đánh điện, nhận điện rồi đi về hai ngày nữa mới tới, chắc là con Phụng nó đau mấy lớp rồi! Sao không nhờ xe của bên nhà Phán Hữu cho tiện?
Bà Phủ trề môi:
- Thèm mượn của nhà đó! Cái xe Traction "cà tàng" đó chở con nhỏ đi bị dần xóc, chắc con Phụng sinh trên xe chứ không đợi tới nhà bảo sanh! Vả lại, nhà đó có ưa gì bên mình đâu mà mượn với vay. Cô không nhớ vụ con Thể Phụng từ hôn con trai họ sao? Họ thù nhà mình lắm!
Nguyệt vẫn nói:
- Theo em thì nếu mình nhờ là họ đáp ứng ngay! Mới hồi sáng này thằng Lộc còn qua hỏi thăm sức khỏe con Phụng đây, và còn gửi chục cam sành nói là của má nó mua biếu cho con Phụng! Họ còn thương con Phụng lắm!
- Thương với yêu gì cái ngữ ấy! Tôi nói thật, con Phụng từ hôn đúng lúc, chứ nếu không thì đời con nhỏ sẽ khổ cho mà coi! - Bà Phủ gạt ngang.
- Nhưng theo em thấy...
Thấy Út Nguyệt cứ một mực bênh vực cho họ, bà Phủ gắt lên:
- Tôi nói rồi, nhà đó không được! Cô thấy không, gả con Phụng cho cánh này, nó...
Bà bị Nguyệt cắt ngang:
- Tôi thấy có ngon lành gì đâu! Đến đỗi con nhỏ tới ngày sinh mà thằng chồng còn không ló mặc về, thì thử hỏi...
Bà Phủ tuy bị cứng họng, nhưng vẫn cố nói:
- Thằng Tường nó bận công chuyện làm ăn nên về không kịp, chứ đâu phải không về! Mà đàn ông thời buổi này họ lo làm ăn nhiều hơn là lo cho vợ con. Mà nói thật, tôi cũng không thích loại đàn ông cứ tối ngày lẽo đẽo bên vợ, ru rú trong nhà!
Út Nguyệt trề môi, lắc đầu:
- Đàn ông mà đi mịt mù kiểu đó ham cái gì! Tôi để ý rồi, bữa báo tin con Phụng sinh khó, bảo nó về gấp, vậy mà nó có về đâu.
Bà Phủ vẫn chống chế:
- Trên Sài Gòn báo điện về nói thằng Tường phải đi Đà Lạt lo việc làm ăn gì đó về không kịp.
- Đà Lạt chứ phải bên Tây Tàu gì đâu mà năm sáu bữa rồi về không tới? Nói thật với chị, chị cứ bênh nó hoài như vậy có ngày à...
Bà Phủ biết Út Nguyệt vốn có cảm tình với nhà Phán Hữu, mà thằng Lộc, con họ từng là bạn học của Nguyệt, nên khi Phụng từ hôn với Lộc, chính Nguyệt là người phản đối đầu tiên và còn quyết liệt phản đối việc Thể Phụng lấy Tường, con trai một của nhà trọc phú Ba Lến!
Biết cứ để cho Út Nggyệt nói một lát, cô ta sẽ càng nói linh tinh, nhức đầu lắm! Cho nên bà Phủ liền nói cho qua:
- Thôi được, cô muốn nhờ ai đó thì nhờ. Nhưng tôi không ra mặt đó!
Út Nguyệt hăng hái:
- Để tôi lo, chị Hai coi như không biết!
Cô chạy đi một lát, khi trở về đã hí hửng:
- Thằng Lộc sẽ trực tiếp lái xe đưa con Thể Phụng đi và chờ để đưa về nữa!
Bà Phủ có vẻ khó chịu, nhưng đành phải im lặng để Nguyệt lo. Tuy nhiên bà dặn:
- Coi chừng con Phụng sẽ không chịu lên xe đó nghen!
Út Nguyệt nheo mắt:
- Bảo đảm với chị, con nhỏ mà được thằng Lộc chở đi sinh nó càng sinh lẹ hơn cho chị coi.
Nửa giờ sau, chính Lộc lái chiếc Traction qua tận bệnh viện tỉnh, rước Thể Phụng và đưa đi Sài Gòn. Út Nguyệt đi theo. Trên đường đi, Út Nguyệt cười ngặt nghẽo:
- Bà già bị tao gạt mà cũng đành ngậm tăm mà chấp nhận! Bà ấy đâu có biết là con Phụng tính lộn ngày mang thai nên phải một tuần nữa mới tới ngày sinh. Bây giờ hai đứa bay tha hồ mà hú hí, chừng nào sắp sinh thì điện tín về cho bà ấy hay.
Thể Phụng hơi lo:
- Lỡ má con đòi lên Sài Gòn thăm con thì làm sao?
- Thì thằng Lộc "thêm tay thêm chân" cũng vài ngày thôi, chứ bộ muốn cả tháng sao. Lúc đó tao đã đưa con này vào nhà bảo sanh rồi, bà ấy có lên cũng đâu có sao.
Lộc cười gượng, anh nhìn sang Phụng nói mà lòng đau như cắt:
- Đáng lẽ mình tạo cả hình hài chứ đâu chỉ thêm tay thêm chân như thế này. Nhưng sao cũng được, miễn Phụng hiểu cho lòng dạ con là được rồi, dì Út.
Út Nguyệt cũng xót xa:
- Thấy tụi bay mà lòng tao cũng đau. Cũng tại thằng Lộc hết, lúc sắp đám cưới con Phụng, tao đã bảo là hai đứa cứ bỏ trốn mà mày không dám!
Lộc chống chế:
- Dì Út xúi nghe cũng phải, nhưng con mà làm vậy, ông Phủ cào nhà ba má con! Vả Iại Phụng lúc ấy có đồng tình đâu mà con dám...
Thể Phụng bùi ngùi:
- Tại má em đòi chết nếu em không từ hôn anh và lấy thằng Tường! Nói phải tội, chỉ vì má em ham cái tài sản khổng lồ mà thằng Tường được hưởng, chứ bà thừa biết em đâu thương yêu gì thằng đó!
Út Nguyệt chợt điểm mặt cả hai:
- Nhưng tao cảnh cáo nghe. Hai đứa bay cứ lén lút tò tí với nhau có bữa thằng Tường nó hay được thì có mà chết! Mà tao cũng nghi quá, không biết cái thai trong bụng mày đây thằng Lộc đóng góp hết mấy chục phần trăm.
Thể Phụng đập vào vai bà cô mình mấy cái liền:
- Cô này... biết rồi còn phải hỏi! Mà nói thật, nếu đổ bể ra con sẽ khai trong vụ này đầu dây mối nhợ là do cô Út! Chính cô bày đầu, chính cô chỉ đạo!
- Cha mày, giúp cho tụi bay mà bây giờ mang tiếng.
Lộc chen vào:
- Con cám ơn cô Út. Nếu không có cô Út giúp thì qua vụ bị từ hôn vừa rồi, con đã cắn lưỡi mà chết cho rồi! Đó là chưa nói ba má con đã nhục nhã, uất ức vô cùng khi bị từ hôn.
- Thôi thì bây giờ tao đền cho đây! Mà nói thật, không phải tao trù, chứ còn chuyện vợ chồng con Phụng này, tao dám chắc là sẽ không thọ đâu. Một khi con Phụng bỏ thằng Tường, mày có dám nhận lại nó không?
Lộc đáp không cần suy nghĩ:
- Con thề có trời, con nhận liền.
- Hưởng xái cũng được sao?
- Xái hay nguyên gì cũng được hết! Cô Út quên là con từng nói, nếu Phụng có tan nát hết đời thì con vẫn yêu Phụng, con quyết phải ăn đời ở kiếp với Phụng!
Thể Phụng bật khóc thành tiếng. Cô lắc vai Nguyệt:
- Cô Út đừng nói nữa, con... chết bây giờ!
Út Nguyệt nhìn cháu gái mình rồi nhìn sang Lộc và thở dài...
Bất chợt Lộc nói:
- Nếu bây giờ tụi con bỏ trốn luôn thì cô Út có giúp con không?
Út Nguyệt giật mình:
- Có phải hai đứa đã có tính trước phải không?
Thể Phụng ôm vai bà cô mình:
- Tụi con không giấu cô Út, hai đứa tính chuyến này trốn luôn! Tụi con sẽ đi thật xa, rồi sau khi sinh xong, chúng con sẽ lập nghiệp nơi đó luôn. Vậy sau khi đưa tụi con lên Sài Gòn xong thì cô Út quay về, sau đó khoảng một tuần lễ Út hãy nói với mọi người rằng sau khi sinh xong, con đã đi đâu Út không biết!
Út Nguyệt sợ hãi:
- Chuyện này thì không nên đâu! Hay là để sinh nở xong đã, đứa con này đem giao cho bên nội nó, rồi tụi con muốn đi đâu cũng được!
- Tới nước này con xin nói thật với cô Út, con không còn đứa con nữa! Phụng khóc rấm rứt.
Câu nói như sét đánh ngang tai Út Nguyệt, cô run giọng hỏi:
- Con nói gì, Thể Phụng?
Bây giờ Phụng bình tĩnh trở lại:
- Con đã phá cái thai này ngay từ tháng thứ năm rồi!
- Phụng!
Nguyệt gọi một tiếng lớn rồi nhìn sững đứa cháu gái mình. Mọi việc như một giấc mơ. Hồi lâu cô mới hỏi lại:
- Sao tới giờ con vẫn còn mang thai?
Bất ngờ, Phụng giở áo ngoài lên, để lộ cái thai giả quấn bằng vải độn gòn bên trong và kể:
- Út nhớ trận đau nặng của con cách nay mấy tháng không? Đó là lần con phá thai, suýt mạng vong! Sau khi phá xong, bởi thằng Tường đâu có khi nào ở nhà, cho nên con dễ dàng qua mặt bên chồng bằng cái bụng giả này! Sở dĩ con làm vậy là vì con không muốn có bất cứ mối quan hệ nào với cái gia đình quái quỷ đó. Con đã tính cùng với Lộc bỏ đi từ lúc ấy, nhưng chưa thuận lợi, nên mới nấn ná tới bây giờ. Đây là thời điểm thích hợp để tụi con thực hiện ý nguyện của mình, vậy cô Út hãy giúp con lần cuối! Con lạy cô Út!
Út Nguyệt chới với, ngẩn ngơ một lúc mới thở dài nói:
- Tụi bay đặt tao trước việc đã rồi này thì bảo tao còn làm cách nào được nữa! Thôi thì muốn làm gì đó cứ làm...
Cô móc trong túi ra còn một số tiền, thấy quá ít nên vội tháo luôn chiếc xuyến đeo trên tay và đôi bông nhận hột dừa luôn cho Thể Phụng:
- Cô không có nhiều, chỉ có bấy nhiêu thôi, hai đứa cầm đỡ để tiêu xài, rồi có gì cô liên lạc sau và giúp tiếp!
Phụng xua tay:
- Không cần đâu cô Út ơi! Con đã chuẩn bị từ lâu nay rồi, nên đã ngầm tích trữ, hiện nay cũng có được một số vốn kha khá, có thể gầy vốn làm ăn, sinh sống được, cô…
Suốt dọc đường đi, câu chuyện của ba người chỉ xoay quanh đề tài bỏ trốn. Đến xế chiều thì họ tới một nơi mà Lộc nói:
- Tối nay Út ngủ lại với tụi con chỗ này. Đây là ngôi nhà nhỏ mà tụi con đã âm thầm chuẩn bị từ mấy tháng nay, rất kín đáo, nên chắc chắn không một ai biết!
Đó là một xóm ngoại ô rất vắng vẻ nhà cửa, ít người qua lại. Ngôi nhà tuy nhỏ nhưng có được khoảng sân, có chỗ để xe kín đáo. Phụng hớn hở trước khung cảnh mới mẻ này, cô ôm chầm lấy Út Nguyệt:
- Đây mới thật sự là tổ ấm của tụi con đó cô Út ơi!
Nhìn qua một lượt, Út Nguyệt gật đầu:
- Cũng khá ấm cúng. Thôi, Út mừng cho hai đứa con. Còn bây giờ coi bộ con Phụng mệt rồi, hãy mở cửa vào nhà cho nó nghỉ ngơi, trong lúc đó để Út đi ra ngoài kia mua chút gì về chuẩn bị bữa cơm trưa nay và cho cả bữa chiều luôn!
Cô nói xong đi liền. Trong khi đó Thể Phụng cũng mệt thật sự, cô bảo Lộc:
- Anh cất chiếc xe cho kỹ, đừng để người quen nhìn thấy. Em đi nghỉ chút đây.
Cô mở cửa đi thẳng vào phòng khách. Nhưng vừa bước vào cô đã phải khựng lại, bởi ngay giữa bộ ghế trường kỷ đã có một người ngồi sẵn! Đó là một phụ nữ tuổi trung niên.
Bà ta không để Phụng lên tiếng, đã nói ngay:
- Đã sinh rồi mà cái bụng sao còn lớn vậy cô Thể Phụng?
Phụng giật mình, nhìn sững bà ta:
- Bà là...
- Là người đem tin chẳng lành đến cho cô! Cô có muốn nghe tin về đứa con năm tháng tuổi bị bỏ rơi không?
Như giẫm phải lửa, Phụng thảng thốt:
- Bà... bà nói gì? Tôi nào có... có bỏ ai.
Người phụ nữ mặt đanh lại:
- Chuyện bỏ con là chuyện riêng cô, còn tôi là người tới để bắt cô phải chịu trách nhiệm về đứa con của mình.
Bà ta lấy ra từ trong giỏ xách một tấm chăn bông và chiếc áo ấm còn mới, đưa cho Phụng và nói gay gắt:
- Người ta sinh con ra khi không nuôi, đem cho người khác thì ít nhất cũng bọc con trong cái chăn cỡ này, mặc cho đứa nhỏ cái áo ấm cỡ này... Có đâu như cô, chỉ cho đứa nhỏ một cái bao cũ, mấy tờ báo cũ để gói và liệng xuống ao!
Bà ta nói đến đâu Thể Phụng gai ốc đến đó, và cuối cùng cô phải bước lùi mấy bước run run hỏi:
- Bà là... là ai? Bà tới đây để...
- Tôi nói rồi, tôi tới để bắt cô chịu trách nhiệm về đứa con bị bỏ rơi của mình.
Phụng cố chống chế.
- Đứa con đó tôi bị hư thai. Bỏ nó là lẽ đương nhiên...
Giọng người đàn bà đanh lại:
- Nó đâu có chết khi thai đã hơn năm tháng tuổi! Lúc ấy nó đã thành hình và khi lọt lòng nó đã là một sinh mạng! Cô...
Thể Phụng vùng chạy ra ngoài trong tâm trạng bấn loạn, sau lưng cô, giọng nói kia vẫn vang lên:
- Cô không thèm nhìn mặt con mình hay sao? Nó đi tìm cô mà cô vẫn nhẫn tâm thì đừng có trách!
Phụng dừng lại ngay, cô sửng sốt:
- Nó làm sao sống được?
- Cô không nghe ai khóc trong phòng hay sao?
Lúc này Phụng mới để ý lắng nghe, và hốt hoảng khi nghe rõ mồn một tiếng trẻ con khóc từ bên trong nhà!
- Ai?
Người phụ nữ giọng vẫn lạnh lùng:
- Vào mà nhận con đi!
Như bị điện giật, Thể Phụng la lên:
- Tôi không có con! Tôi...
Người phụ nữ đứng vụt lên và bước thẳng ra ngoài cửa. Vừa lúc Lộc cất xe xong bước vào, anh ngạc nhiên:
- Có chuyện gì vậy em?
Vừa lúc tiếng khóc lớn hơn của đứa trẻ vọng ra, khiến cả Lộc và Phụng đều sửng sốt, họ chạy bay vào và... đứng sững lại trước một đứa trẻ hình hài quái dị đang nằm trên giường, khóc thét từng hồi!
Lộc bình bĩnh hơn, anh nói:
- Tìm hiểu xem là con ai mà bỏ đây đã, rồi sẽ tính.
Nhưng Phụng đã run rẩy và lắp bắp:
- Là con... con của... em!
Đến phiên Lộc há hốc mồm:
- Em điên hả Phụng?
- Em nói thật. Nó là cái bào thai năm tháng tuổi mà hôm trước anh dẫn em đi phá đó...
Lộc ngơ ngác:
- Nó đã chết ngay sau khi lấy thai ra mà! Chính anh đã thấy...
Thể Phụng rụng rời tay chân, phải ngồi bệt xuống sàn, mặt tái xanh... Lộc hỏi lại:
- Ai nói với em chuyện này?
- Lúc nãy anh không thấy người phụ nữ từ đây đi ra sao? Chính bà ta tới giao con và nói rõ...
Lộc chợt nhớ ra:
- Bà ta... anh nhớ ra rồi, bà này là người nhà của bà mụ, người anh đã nhờ lo vụ phá thai cho em. Hồi nãy thấy bà ta đi ra anh cứ tưởng là em có hẹn để nhờ vả chuyện gì đó...
Nhìn lại đứa trẻ một lần nữa, Lộc chợt rùng mình, anh nói rất khẽ với Phụng:
- Mình phải làm sao... chứ để vậy sao được?
Phụng nói như khóc:
- Làm sao thì... em đâu biết. Mà trời ơi, sao nó chỉ có một con mắt và không có cái lỗ mũi! Nó là người hay là...
- Là người! Là đứa con được người sinh ra đàng hoàng chứ bộ!
Tiếng nói đó phát ra từ đâu cả Lộc và Phụng đều không biết, họ ngơ ngác nhìn nhau rồi đảo mắt khắp phòng, tìm kiếm...
- Con đây nè!
Lúc này họ mới tá hỏa, bởi tiếng nói đó phát ra từ đứa bé! Thể Phụng gần như bò lết dưới sàn, cô hoảng loạn chỉ muốn bỏ chạy mà không làm sao đứng lên được.
Chợt giọng nói kia lại cất lên:
- Sao gặp con mà mẹ không mừng? Con là Tài đây mà. Tài Lộc, Lộc Tài, cái tên hồi đó mẹ dự định đặt cho con, mẹ không nhớ sao?
Giọng nói hướng về phía Lộc:
- Ba của con đây mà! Tài Lộc của ba đây!
Lộc chết điếng:
- Con... con..
Anh chỉ nói được mấy tiếng rồi cứng họng đờ đẫn cả người... Trong khi đó thì đột nhiên đứa bé nhanh như sóc nó phóng từ giường xuống rồi nhảy lên đeo cứng Thể Phụng, khiến cho cô phải ẵm nó khác nào mẹ ẵm con!
Giọng nó lại rót vào tai Phụng:
- Hãy ẵm con cho chắc con mà té thì con chết. Mà con chết thì.. người ẵm cũng chết theo luôn!
Phụng hầu như không còn kiểm soát được mình, cô sắp ngã người sang một bên thì Lộc đã kịp thời lao tới chụp lại kịp. Đứa bé thích thú cười vang:
- Như vậy phải được không! Có cả cha lẫn mẹ cùng ôm con như vậy mà bấy lâu nay con cứ tưởng là không bao giờ có được! Con cám ơn cha mẹ...
Phụng đã thật sự ngất. Lộc ngẫu nhiên trở thành người phải sang tay, ẵm đứa bé, để nó khỏi té. Và đến phiên anh nghe đứa nhỏ thỏ thẻ bên tai:
- Con đã về đây rồi thì đừng hòng đưa con đi nữa...
***
Phải khó khăn lắm Thể Phụng mới thoát được ra khỏi nhà. Suốt ba ngày phải sống trong cực hình, nằm bên một đứa trẻ mà nội hình hài của nó thôi Phụng đã phát chết khiếp. Có lẽ nhờ cô phát bệnh từ hôm đầu, cho nên suốt mấy hôm nay Lộc là người phải chịu trận bồng ẵm, chăm sóc cho nó!
Có một hôm lợi dụng lúc nó ngủ, cả Lộc và Phụng liền lẻn ra khỏi nhà, định bỏ trốn, nhưng khi vừa leo lên xe thì đã bị nó leo lên lúc nào chẳng biết và đeo cứng cổ, không cho Lộc lái xe! Bởi vậy bữa nay nhân nó nằm ngủ với Lộc, Phụng dặn trước Lộc, cô sẽ đi tìm bà mụ, người đã lấy thai ra cho cô, để hỏi cho rõ, nhất là gặp người đàn bà kia, hầu nhờ giải quyết vụ này.
Quả nhiên Phụng thoát được, cô đi một mạch về chợ Phụng Hiệp. Tuy lần đó đi lén vào ban đêm, nhưng Phụng vẫn còn nhớ nhà, cô hỏi thăm thì được người ta chỉ đúng chỗ bà mụ. Bà vừa gặp Phụng đã nhớ ra, bà ngạc nhiên hỏi:
- Sao, bộ cô có thai nữa và cần... phá nữa sao?
Phụng ngượng đỏ mặt:
- Làm gì có. Tôi tới là để thăm lần phá năm đó bà chắc là cái thai đã chết không?
Bà mụ Ba hơi sựng lại một chút, rồi đáp:
- Thì... lấy ra khỏi bụng mẹ thì... coi như chết chứ sao!
- Nhưng... cỡ thai đó liệu nuôi thì có sống được không?
- Hơn năm tháng, làm sao sống được.
- Vậy sao...
Phụng sợ nói ngang bà mụ không hiểu, nên hỏi lại:
- Hồi bà làm cho tôi, tôi nhớ có một bà phụ việc... bà đó bây giờ còn ở đây không?
- Bà Tám Thôi, chính bà ta đã là người giúp đem đứa nhỏ đi mai táng. Bà đó làm ăn đàng hoàng, chu đáo, nên cô đừng lo, vong hồn đứa bé chắc là cũng siêu thoát rồi. Chỉ tiếc là hồi đó tôi quên không hỏi bà ấy chôn cái xác đó ở đâu để mai mốt mình đem vào chùa cầu siêu cho nó.
- Tôi muốn gặp bà Tám đó, bà làm ơn...
Bà mụ Ba đáp gọn lỏn:
- Bà ấy chết cách đây hơn một tháng rồi!
Câu nói khiến cho Phụng tá hỏa:
- Bà nói gì? Ai chết?
- Thì bà Tám Thôi, bà bị chết bất đắc kỳ tử mà chẳng thấy có bệnh gì! Bởi vậy tôi mới không kịp hỏi bà chôn cái thai ở đâu.
Phụng phải vịn vào thành ghế mới đứng vững được, người cô run và phải một hồi sau mới có thể hỏi tiếp:
- Có phải chắc chắn đúng bà ấy là người đã cùng làm với bà?
Bà mụ Ba nói chắc nịch:
- Mấy cái vụ này thì làm sao dám cho người ngoài sờ tay vào. Bà Tám Thôi này xưa nay có tay nghề và kín miệng, cho nên chỉ mình bà ta là cùng làm với tôi, chứ không có ai khác cả!
Chưa tin hẳn, Phụng hỏi thêm:
- Bà chỉ nhà giùm... tôi tới thắp cho bà ấy nén nhang.
Nghĩ là Phụng có lòng, nên bà mụ Ba chỉ và còn dặn:
- Bà ấy hoàn cảnh khó khăn, cô có tới thì cũng cho bà ấy chút đỉnh.
Phụng đi ngay tới chỗ đó. Khi bước vào nhà thì cô đã nhìn thấy tấm ảnh chân dung của bà ta đặt trên bàn thờ, Phụng kêu khẽ.
- Đúng là bà ta rồi!
Người nhà đón tiếp Phụng rất ngạc nhiên khi thấy một người lạ mà tới nhà họ, nên đã hỏi thẳng:
- Cô tới để nhờ vả vụ... phá thai phải không? Nếu là chuyện đó thì yêu cầu cô đi ngay cho!
Phụng phải đính chính:
- Dạ không phải, tôi là người quen cũ, nhân về qua đây ghé thăm bà gửi cúng bà ít quà...
Cô lấy ra một số tiền kha khá đặt lên bàn thờ và nói:
- Cầu cho vong linh bà Tám siêu thoát...
Người con gái lớn của bà bỗng ôm mặt khóc:
- Má tôi đâu có làm gì ác, mà sao từ khi chết đến giờ đêm nào cũng về báo mộng, toàn là chuyện gì đâu không, làm cả nhà mất ăn mất ngủ?
Phụng tò mò:
- Có chuyện gì vậy?
Nghĩ Phụng cũng là người quen với má mình, nên chị nọ không giấu:
- Má tôi chết mà không có bệnh gì, tôi đã nghi rồi... không ngờ có thật? Đêm nào bà ấy cũng về báo là bị một oan hồn uổng tử đeo theo phá, đòi đền mạng! Bà sợ hãi, khóc lóc và kêu cứu, nhưng mình là người trần thì làm sao cứu giúp được những vong hồn cõi âm.
- Uổng tử là cái gì?
- Là vong hồn của trẻ nhi bị chết oan! Chẳng hiểu lúc giúp cho bà mụ Ba, má tôi có phạm phải tội ác gì hay không mà...
Chị nói tới đó thì lại khóc lớn hơn. Rồi lát sau hơi bình tâm lại, chị chỉ lên bàn thờ và bảo:
- Có cái tên của người nào đó mà lần nào hiện về má tôi cũng bảo ghi lại. Hỏi để làm gì thì bà nói để bà chỉ cho đứa uổng tử kia, để nó không còn đeo theo bà nữa!
Phụng như bị lôi cuốn vào câu chuyện, cô đứng lên và bước về phía bàn thờ, rồi tiện tay cầm lên mảnh giấy nhỏ có ghi mấy chữ: Thể Phụng, con gái bà Phủ Hoài!
Phụng tái mặt, cô tìm cách tháo lui ngay:
- Xin lỗi, tôi có việc phải đi... để lần khác tôi tới thắp nhang cho bà Tám sau.
Ra đường rồi Phụng đi như chạy và lúc này trong đầu cô hình ảnh của bà Tám Thôi hôm gặp cô ở nhà đang là nỗi ám ảnh khủng khiếp! Và theo như những gì đứa con gái bà thuật lại hồi nãy thì chuyện bà ấy mang đứa bé tới giao cho Phụng không phải là ý của riêng bà. Đó là ý của... oan hồn uổng tử kia!
Trở về Sài Gòn ư? Điều này Phụng không dám. Nhưng để cho Lộc chịu trận với đứa bé thì khác nào biết anh sắp nguy mà không cứu! Cuối cùng Phụng nghĩ ra một cách. Cô cũng về Sài Gòn, nhưng thay vì về thẳng nhà, cô ghé lại một nhà quen, nhờ một người đạp xích lô, cho anh ta một số tiền bằng cả ngày chạy xe và dặn:
- Anh tìm cách tới số nhà này, theo địa chỉ tôi ghi trong giấy, tới đó tìm người tên Lộc, gọi anh ta ra cửa rồi dặn anh ấy là phải đem đứa bé về nhà của bà Phủ Hoài. Đưa nó cho cô Út Nguyệt và dặn...
Người đạp xích lô lắc đầu nói:
- Cô dặn nhiều quá tôi đâu có nhớ. Tốt nhất là cô viết vô tờ giấy, rồi tôi tới đó đưa, người ta sẽ đọc và làm theo!
Nghe có lý, Phụng viết vội mấy ý, dặn Lộc cứ ôm đứa bé về nhà, nói đại là cô vừa sinh ra... quái thai, nên sợ không dám về nhà. Rồi bảo cô Út Nguyệt đem đứa nhỏ giao cho bên nội nó, để bên đó họ xử lý sao là tùy họ!
Người đạp xích lô đi chừng một tiếng đồng hồ, trở về với vẻ thất vọng:
- Việc cô nhờ tôi làm không xong rồi, tôi tới đó thì nhà đóng kín cửa, kêu hoài cũng chẳng ai ra mở!
Phụng lặng người đi khá lâu, cuối cùng cô quyết định liều, cô bảo chở mình về đó. Khi mở cửa ra thì đúng là Lộc và đứa bé không có ở nhà. Họ đi đâu chẳng hiểu, nhưng chiếc xe hơi thì vẫn còn ở đó.
Lúc xem lại hành lý thì những gì của Lộc cũng biến mất, chỉ còn lại quần áo, vật dụng của Phụng.
- Như vậy là sao? Chẳng lẽ Lộc bỏ trốn với đứa bé?
Điều này hoàn toàn không thể, nhưng những gì diễn ra trước mắt khiến cho Phụng càng lúc càng hoang mang. Cũng may, sau đó khi ra chỗ chiếc xe, Phụng chợt phát hiện có dòng chữ viết bằng phấn trên ca-pô xe: Anh đem con về nhà cho cô Út.
Phụng reo lên:
- Lộc đã làm đúng ý mình!
Cô thầm cám ơn trời phật đã giúp cho mọi việc như ý...


Phần II


Út Nguyệt nhanh tay đặt đứa bé vào trong xe hơi của Tường, rồi chạy đi ngay khi nó còn đang ngủ. Do đã cho tiền tài xế Tư Sang rồi, nên anh ta lúc đó làm như vô tình bỏ đi uống cà phê.
Như vậy là mọi việc coi như ổn. Điều lo sợ canh cánh trong lòng từ hai ngày qua giờ đã giải tỏa. Việc này Út Nguyệt dám tự hào rằng, ngoài cô ra thì khó lòng ai làm được. Thứ nhất, không ai dám ẵm đứa bé dị hình và tính tình quỷ quái như nó. Thứ hai là ẵm được nó và giao tận nơi mà nó phải tới, người cha ruột thịt của nó, là điều khó lòng thực hiện!
Làm xong việc khó, như trút được gánh nặng ngàn cân, Út Nguyệt về nhà lòng hí hửng. Ở một căn nhà mướn tạm để cho Phụng và Lộc ở, Út Nguyệt phấn khởi kể lại thành tích của mình:
- Tụi bay biết không, lúc đặt đứa bé vô xe, tao cứ nơm nớp lo sợ nó giật mình tỉnh lại và đeo cứng như thằng Lộc nói, nào ngờ nó lại nằm im, ngủ ngon lành! Tao tưởng tượng lúc thằng Tường trở ra mà nhìn thấy nó chắc là hắn ta sợ đến... đái trong quần luôn!
Lộc vẫn chưa yên tâm:
- Đứa bé này nó quỷ quái lắm, không phải ai nó cũng đeo bám đâu. Chỉ đúng người nó mới làm vậy. Sợ e...
Út Nguyệt trừng mắt:
- Thì thằng Tường là cha đẻ của nó thì nhất định nó sẽ đeo khi gặp mặt. Chứ còn như tao, tụi bay thấy không, nó đâu có đeo cứng như đeo thằng Lộc... à mà cũng lạ, sao thằng Lộc là người ngoài, đâu có dính dáng máu mủ gì với nó đâu mà đứa bé lại đeo như sam là sao?
Bà quay sang Phụng:
- Mày nói thật coi, đứa bé là con của ai, thằng Tường hay thằng Lộc nào?
- Dạ... của ông Tường, chứ anh Lộc thì...
- Thằng Lộc không có sao đứa nhỏ đeo nó dữ vậy? Tao nghi quá... Hay là nó hoàn toàn là của thằng Lộc trước khi mày lấy chồng?
- Đâu có cô Út! Của cha Tường mà.
- Tao thấy sau ngày cưới rồi mà mày còn thậm thò thậm thụt với thằng Lộc, tao sợ...
Phụng không muốn bàn tới chuyện đau đầu này nữa, nên đứng lên và nói:
- Thôi, cô Út giúp kêu chiếc xe lôi vào đây, để tụi con trở lên Sài Gòn liền. Tụi con sẽ thực hiện tiếp những gì đã tính.
Út Nguyệt nhẹ lắc đầu:
- Tao cũng mất ăn mất ngủ vì chuyện tụi bay! Từ bữa con Phụng lên Sài Gòn rồi không thấy về, cả nhà thằng Tường chạy đôn chạy đáo kiếm tìm. Sau khi họ biết là mày cùng bỏ đi bởi thằng Lộc thì họ làm giặc lên, họ đòi kiện ba má bay! Cũng may là uy thế cha bay còn lớn nên họ mới để yên. Nhưng với thằng Lộc thì họ hăm sẽ làm dữ với nhà mày!
Lộc không hề nao núng:
- Con đã quyết rồi thì họ muốn làm gì cũng được. Cái quan trọng nhất với con là Phụng, trừ khi là Phụng bỏ con, chứ không thì con thề sẽ không bao giờ con để mất Phụng lần nữa!
Phụng cũng nói:
- Con chỉ lỡ một lần thôi, sẽ không có lần thứ hai.
Út Nguyệt hạ thấp giọng:
- Mà tao vẫn còn thắc mắc, sao mày không thương thằng Tường, sao lại để có con với nó! Mày ngừa rồi chứ cơ hội như thế này có phải đỡ rắc rối hơn không!
Phụng chán ngán:
- Ngừa sao được với cái thằng lúc nào về nhà cũng say xỉn. Mỗi lần như vậy hắn coi con như con súc vật, đè ra đánh, đập và... làm đủ trò, con làm sao cưỡng lại được!
Rồi Nguyệt thở dài:
- Cái số con này không ngờ lại khổ! Bởi vậy đâu phải cứ sinh làm con nhà giàu, nhà quyền thế là sướng đâu!
Phụng bước vào phòng trong chuẩn bị hành lý, thì từ trong đó cô hét to:
- Út ơi, anh Lộc ơi!
Hai người này chạy vào thì muốn chết khiếp! Bởi, trước mặt họ là đứa bé đang nằm ngủ ngon lành trên giường!
Phụng run giọng:
- Sao... sao nó vẫn còn ở đây cô Út?
Út Nguyệt cũng mất bình tĩnh:
- Nghe tụi bay kể tao không tin nó là… oan hồn uổng tử. Nhưng bây giờ thì… tao tin. Mà đã là oan hồn thì làm sao bắt nó theo ý mình được.
Phụng vừa sợ vừa chán nản:
- Con biết làm sao bây giờ đây Út? Út có cách nào giúp con với...
Út Nguyệt chợt nhớ, cô kéo tay hai đứa ra ngoài bảo:
- Cô có quen một ông thầy chuyên làm phép trục ma quỷ ít ra ông ấy cũng có thể làm cho đứa bé này không quậy phá con nữa.
Phụng mừng quýnh:
- Sao Út không nói sớm. Vậy Út còn chờ gì nữa.
Út Nguyệt bảo:
- Bây giờ để nó khỏi nghi, Lộc hãy ở lại nhà coi chừng nó, cô sẽ dẫn con Phụng qua bên ông thầy.
Ông thầy gọi là thầy Tư Thế, vốn nổi tiếng từ Xiêm La về. Đã lâu năm hành nghề từ Băng-Cốc, Nam Vang, Thất Sơn. Ông tài giỏi, nhưng rất kén khách. Chỉ những ai thầy cho là có hoàn cảnh ngặt nghèo, đáng thương thì nhờ thầy thầy mới giúp. Còn không, dẫu có trả bao nhiêu tiền thầy cũng từ chối.
Biết vậy nên trước khi ghé chỗ thầy, Út Nguyệt đã dò hỏi trước ở nhà một người quen và được người này cho biết:
- Thầy Tư đã đóng cửa không tiếp khách từ ba ngày nay. Có dặn mấy đệ tử là khi nào có người tới tìm thì từ chối hết.
Út Nguyệt thất vọng:
- Tôi từ xa tới, mà thầy như vậy thì biết làm sao đây?
Người nọ mách:
- Cũng đã từng có vài lần như vậy rồi. Nếu cô muốn được thầy tiếp thu phải đợi lúc nửa đêm tới đứng chờ thầy ở cổng. Giờ đó thầy thường ra ngồi cầu vong giữa trời. Lúc đó hễ thầy gặp ai đầu tiên thì nhờ gì thầy cũng giúp.
Út Nguyệt ái ngại:
- Nhưng tôi và đứa cháu là thân nữ, làm sao có thể tới vào đêm khuya như vậy được?
- Nếu không làm vậy thì đành chịu thôi!
Út Nguyệt về bàn lại với Phụng, thế là nửa đêm hôm đó hai cô cháu đích thân tới nhà thầy Tư Thế và đợi... Đúng như chị nọ nói, đúng nửa đêm hôm đó thầy Tư xuất hiện như một tiên ông, trong bộ quần áo toàn trắng. Thầy ngồi xếp bằng giữa sân, không thắp hương, nhưng mắt thầy nhìn vào khoảng không bao la như nhìn làn khói hương quyện bay theo gió... Hồi lâu bỗng thầy ngẩng lên và nhìn ra cổng nói đủ cho hai người nghe:
- Hai người chờ đợi chi cho mất công. Hãy về đi, oan gia nghiệp chướng đó đã trót mang thì không làm sao dứt ra được đâu!
Út Nguyệt nghe vậy lên tiếng liền:
- Lạy thầy, thầy đã biết rồi thì xin ra tay giúp giùm cho cháu tôi, tội nó lắm! Nó gặp phải cuộc hôn nhân không ra gì, bây giờ lại mang cái khổ này nữa, làm sao nó sống nổi.
Thầy Tư không nhìn Phụng, nhưng đã phán:
- Nó sống không nổi vậy sao bắt kẻ khác phải khổ?
Út Nguyệt cãi:
- Cháu tôi đâu có làm ai khổ đâu thầy! Nó... nó…
Thầy Tư giờ mới nhìn ra, giọng thầy đanh lại:
- Vậy xác đứa bé năm tháng tuổi nằm dưới đáy ao là con của ai?
Phụng nãy giờ im lặng, bỗng thốt lên:
- Chuyện đó không phải do con làm! Cái đó...
- Ai mang nó trong bụng?
- Dạ... con lỡ...
- Lỡ mang thì phải đẻ và nuôi, cớ sao phá bỏ giữa chừng, mà phá xong khi biết nó còn sống lại giết nó chết?
Phụng hốt hoảng:
- Con không có giết nó. Con giao chuyện ấy cho bà mụ và...
Thầy Tư đanh giọng:
- Tội của bà mụ và người trợ giúp cho bà ta thì đã rõ, cả hai người họ đều sẽ lần lượt lãnh hậu quả thôi.
Ông thầy nói xong câu đó thì im lặng, ngồi nhắm mắt và tiếp tục cuộc cầu hồn. Út Nguyệt và Phụng có nói gì thì vẫn không nhận được câu trả lời. Đứng mòn mỏi, cuối cùng Út Nguyệt dẫn cháu về. Họ nhận được lời khuyên của thầy nói với theo:
- Đứa bé có thể biến mất, nhưng nghiệp chướng thì sẽ không hết đâu!
Đầu óc hoang mang, Phụng đi theo Nguyệt chỉ được một đoạn rồi kêu đau bụng. Lúc đầu bụng chỉ đau râm ran... nhưng càng về sau thì cơn đau tăng lên dữ dội. Nhìn thấy mặt cháu mình xanh tái, Út Nguyệt hốt hoảng:
- Có sao không con?
Phụng thở hổn hển đầy mệt nhọc:
- Không... không xong rồi... Út ơi... con chịu không nổi nữa rồi...
Phụng chỉ nói được mấy tiếng đó rồi ngã quỵ xuống giữa đường. Hoảng quá, Út Nguyệt vội kêu xe chở đi bệnh viện. Phụng đã gần như mê man lúc vào tới chỗ khám bệnh. Sau gần một giờ, một cô y tá bước ra hỏi:
- Ai là thân nhân của cô Thể Phụng?
Út Nguyệt vội đáp:
- Dạ tôi.
Nhìn Nguyệt từ đầu đến chân, cô y tá hơi tò mò:
- Cô là gì của cô Phụng?
- Tôi là cô ruột của nó. Tôi...
- Được rồi, mời bà vô gặp bác sĩ.
Ngỡ bệnh tình của Phụng quá nặng, nên Út Nguyệt vừa bước theo mà vừa run. Vừa gặp bác sĩ cô đã hỏi ngay:
- Cháu tôi sao rồi bác sĩ? Liệu có chữa được không?
Vị bác sĩ Iại nhìn cô một lượt, rồi đột nhiên hỏi:
- Bà chưa biết gì?
Út Nguyệt ngơ ngác:
- Biết gì?
- Cô Phụng này đã có thai được ba bốn tháng, cái thai bị động nên hành, mà sao bà để cho đến nỗi này?
Út Nguyệt tưởng mình nghe lầm:
- Bác sĩ nói thật hay giỡn?
Vị bác sĩ nghiêm nét mặt:
- Tôi đâu có thời giờ để nói chơi với bà. Cô này bị động thai, nhất thời chúng tôi chưa xác định được là cái thai có bị gì hay không, phải đợi chuyển qua chuyên khoa rồi mới rõ.
Nguyệt bắt đầu run:
- Cháu tôi mới sinh đây mà sao lại có thai được? Hay là bác sĩ lầm lẫn?
Vị bác sĩ có vẻ bực mình, ông gọi cô y tá dặn:
- Cô cho chuyển bệnh nhân qua khoa sản ngay. Lưu ý, phải kịp thời, nếu không sợ e...
Ông bỏ ra khỏi phòng rồi mà Út Nguyệt vẫn còn ngơ ngác nhìn theo. Mãi một lúc cô mới hỏi lại cô y tá:
- Bác sĩ nói gì vậy?
Cô y tá cũng bực mình:
- Thì bà nghe rồi đó, bệnh nhân này bị động thai, chứ có bệnh hoạn nào khác đâu! Mà sao thai lớn rồi mà bộ không biết sao để cho nó tệ như vậy?
Năm phút sau thì Phụng được chuyển sang phòng khác. Khoa sản.
Cho đến nửa đêm hôm đó thì bệnh viện cho một kết quả động trời: Bệnh nhân Thể Phụng mang thai gần bốn tháng, thai bị động, có thể nguy hiểm chẳng những cho đứa bé trong bụng, mà ngay cả mẹ nó cũng bị nguy hiểm đến. Út Nguyệt thất thần:
- Không thể nào! Làm sao lại như vậy...
Bà cứ đứng yên như bị trời trồng, vừa lẩm bẩm khiến mấy cô y tá phải phát bực:
- Bà không đi làm thủ tục cho bệnh nhân nhập viện đi, còn đứng đó, bộ muốn nhìn bệnh nhân bị nguy hiểm sao!
Mãi đến khi theo Phụng vào tới phòng điều trị rồi mà Nguyệt vẫn còn lừng khừng như kẻ mất hồn. Cho đến khi cô gọi khẽ sau lưng:
- Cô Út! Cô Út...
Út Nguyệt quay lại thấy Phụng vừa tỉnh thì mừng:
- Con ơi, dậy đi để cãi với họ, chứ cô nói không được..
- Cãi cái gì?
- Thì... họ nói mày có thai bốn năm tháng gì đó, nghe có tức cười không?
Phụng cũng ngơ ngác:
- Thai gì? Con mới phá thai cách năm tháng trước, rồi từ đó có... ăn nằm gì với ông Tường đâu mà có thai?
Út Nguyệt ngập ngừng:
- Vậy mày với thằng Lộc... có gì với nó không?
- Làm gì có.
- Thật không?
- Con thề độc với dì mà.
Hai cô cháu nhìn nhau mà chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra...
***
Bà Phủ Hoài điếng hồn trước tin báo của Út Nguyệt. Bà ngồi thừ người ra hồi lâu rồi mới hỏi lại:
- Rồi biết ăn nói làm sao với bên nhà chồng nó? Cái con mẹ phú hộ Ba Lến là loại đàn bà miệng mồm độc địa, đâu dễ để yên.
Nguyệt đã tính kỹ rồi, nên có cách nói của mình:
- Sợ gì thứ nhà giàu dốt nát đó! Tôi nói thật với chị, cùng lắm thì mình bắt con Phụng về cũng có sao đâu!
Bà Phủ nhảy dựng lên:
- Bộ giỡn sao Út! Họ đâu có để cho mình yên khi con Phụng đã là dâu nhà họ? Rồi mình giải thích sao với thiên hạ nữa chuyện con Phụng mới đi bệnh viện nằm chờ sinh, rồi bữa nay lại nói mới có thai bốn tháng? Bộ cô nói họ con nít sao chứ!
Út Nguyệt hạ thấp giọng:
- Con Phụng sẽ có cách nói, nó đã tính rồi...
Bà Phủ trợn mắt nhìn đứa em chồng chỉ bằng tuổi con gái mình:
- Cô với nó còn tính toán, âm mưu gì nữa đây?
Nguyệt kề tai nói nhỏ cho bà chị dâu nghe một hồi.
Vừa nghe xong bà Phủ la lớn:
- Không được! Phá thai là tội lớn, suốt đời cất đầu lên không nổi đâu!
- Nhưng con Phụng đã...
Suýt nữa Nguyệt đã nói lộ ra chuyện Phụng từng phá thai một lần rồi, may mà cô dừng lại kịp... Bà Phủ tinh ý nên thắc mắc:
- Bộ con Phụng đã...
Nguyệt nói lảng ngay:
- Đâu có chuyện gì. Tôi muốn nói con nhỏ đang có sức khỏe kém, không thể để nó bệnh hoạn bởi mang cái thai... nhưng thôi, tôi sẽ có cách khác...
Thấy Nguyệt úp mở như vậy bà Phủ lo ngại:
- Cô tính toán gì thì cũng nghĩ tới tôi với ông anh Hai cô. Ông ấy mà biết được chuyện con Phụng làm bậy bạ gì đó là ông ấy giết chết!
Nguyệt nói ỡm ờ:
- Làm thì làm cho đúng, chứ ai lại làm bậy...
Cô nói xong đứng lên đi ngay, khiến cho bà Phủ càng lo thêm, bà gọi giật ngược:
- Cô Út! Cô lại đây tôi hỏi thêm coi!
Nhưng Út Nguyệt đã đi nhanh ra khỏi cửa. Bởi Phụng đang nằm ở ngôi nhà mướn chờ đợi...
Từ hôm ở bệnh viện về, Phụng lúc nào cũng ở trong tâm trạng nơm nớp lo sợ, hoang mang. Vừa thấy Nguyệt về, cô nàng đã vồ lấy, khóc nức nở:
- Con chết Út ơi! Nó... nó lại hành con...
- Ai hành?
- Cái thai! Từ sáng lúc Út đi thì nó liên tục quậy, làm con đau đớn không chịu nổi.
- Đã uống chén thuốc an thai mà cô pha sẵn chưa?
- Uống rồi, nhưng vừa uống vô là con ói ra sạch hết và cái thai càng quậy dữ hơn! Con chịu hết nổi rồi Út ơi!
Họ đang nói chuyện thì từ ngoài cửa Lộc chạy ùa vào. Anh vừa thở hổn hển vừa mừng ra mặt:
- Xong rồi cô Út ơi!
Nguyệt ngạc nhiên:
- Chuyện gì vậy?
- Đứa... đứa nhỏ.. coi như xong rồi.
Đến Phụng đang đau đớn mà cũng hỏi dồn:
- Xong là sao?
Lộc nói chậm từng tiếng một:
- Nó biến đâu mất rồi!
Út Nguyệt kinh ngạc.
- Thật vậy sao? Mà biến đi đâu?
Phụng lo lắng:
- Thứ quỷ quái đó không dễ bỏ đi đâu. Nó là oan hồn thì chuyện ở hay biến mình làm sao kiểm soát được.
Nhưng Lộc quả quyết:
- Anh đã tìm khắp nơi rồi, không hề thấy nó.
Và anh lấy ra bộ đồ trẻ con đưa cho Út Nguyệt xem, vừa trông thấy thì cả cô và Phụng đều kêu lên:
- Đồ của nó!
- Thì đây là quần áo đứa bé đang mặc, vừa rồi cháu tìm thấy nó bỏ ngoài sân.
Phụng nghe trong bụng mình nhói đau và như có ai xúi, cô thốt lên:
- Đem đốt nó đi!
Lộc còn lưỡng lự thì Út Nguyệt giật lấy, cô chạy ra sân và châm lửa đốt liền. Bộ quần áo cháy rất nhanh và khi nó vừa cháy hết thì cũng vừa lúc Phụng bật đứng dậy vừa reo lên sung sướng:
- Con hết đau bụng rồi Út ơi.
Cô đưa tay xoa xoa bụng như còn chưa tin và rồi đột nhiên hỏi:
- Hình như con... đâu còn có thai nữa?
Hôm qua Út Nguyệt đã sờ vào bụng cháu mình, rõ ràng cái thai gò lên và động đậy nữa, còn bữa nay...
Sau khi sờ vào, Nguyệt la lên:
- Đúng là không có gì hết!
Lộc chưa được thông báo việc Phụng có thai lần nữa, nên ngơ ngác:
- Cái gì không có vậy?
Út Nguyệt nháy mắt không cho Phụng nói, cô hỏi Lộc:
- Tao hỏi thật, mày có ăn nằm gì với con Phụng từ bốn năm tháng nay không?
Lộc thành thật:
- Từ lúc Phụng phá thai đến giờ tụi con hoàn toàn không có gì với nhau hết!
- Thật không?
- Dạ thật. Con mà nói láo cho trời tru đất diệt con đi!
Nguyệt cười:
- Thấy mày thề thốt tao cũng tạm tin. Mà thôi, để tao lo vụ con Phụng cho xong đã...
Cô quay sang Phụng thì cô này đang ưỡn ẹo ra vẻ mừng vui lắm:
- Con không còn thấy có chút gì trong bụng hết. Chắc chắn là con... hết mang thai rồi Út ơi!
Vô tình cô nói hớ lên khiến Lộc ngơ ngác:
- Em mang thai?
Đến nước này Út Nguyệt đành phải nói:
- Con Phụng thấy bụng đau, đi bệnh viện khám, người ta ghi là có thai...
Phụng chen vào nói:
- Nhưng bây giờ hầu như không có gì! Út ơi, mình trở lại bệnh viện cho họ khám lại đi!
Lộc xung phong:
- Để anh đưa em đi!
Út Nguyệt chặn lại:
- Ở đây gần với nhà chồng con Phụng, họ mà thấy nó đi với mày thì họ cào nhà mày xuống! Thôi, để tao đưa đi, thằng Lộc muốn nghe ngóng thì đi theo, nhưng phải cải trang thành người nào đó, để thiên hạ không nhận ra.
Lộc mau mắn:
- Để con giả làm người đạp xe lôi. Con có quen với một bác có chiếc xe lôi đang bỏ không, cô Út và Phụng chờ cho một chút, con sẽ kiếm đồ thay rồi đưa xe tới đây chở Út và Phụng đi tới một bác sĩ sản khoa giỏi mà con có biết.


Phần III


Lộc đi chừng nửa giờ sau trở lại. Anh ngừng xe ngoài cửa gọi vào nhà:
- Ai đi xe thì ra đi!
Khi Út Nguyệt và Phụng bước ra họ đã vô cùng kinh ngạc khi nhìn trong lớp quần áo phu xe với chiếc nón lá rách lụp xụp trên đầu. Phụng kêu lên:
- Anh giống dân xe lôi quá trời!
Lộc đùa:
- Cũng phải tập dần, để mai mốt về sống chung với Phụng, lỡ có thất nghiệp thì cũng có sẵn cái nghề để sinh nhai chứ!
Họ leo lên xe, Lộc đưa tới một bà bác sĩ chuyên khoa sản. Sau khi khám thật kỹ, bà nói liền:
- Tuy còn phải thử thở mới biết được chắc chắn là có thai hay không, nhưng qua các dấu hiệu cho thấy thì cô đây hoàn toàn không có gì hết!
Phụng mừng rơn:
- Vậy là thật rồi, mừng quá!
Bà bác sĩ ngạc nhiên:
- Không có thai mà mừng vậy sao? Có đứa nào chưa?
Phụng lắc đầu:
- Dạ chưa?
- Chưa có con thì phải buồn khi chưa có thai chứ?
Út Nguyệt phải chen lời:
- Thưa bác sĩ là vầy... cháu nó chưa muốn có con để còn tiện làm ăn. Chờ lúc nào thuận tiện mới tính...
Bà bác sĩ quay sang Lộc:
- Anh chồng đây phải không? Anh cũng đồng ý với vợ sao?
Lộc miễn cưỡng gật đầu:
- Dạ, em cũng muốn vậy.
Bà bác sĩ lắc đầu:
- Từ nào đến giờ thân chủ của tôi hầu hết khi nghe chưa đậu thai thì thất vọng, chán nản lắm. Đây là lần đầu...
Trả tiền khám bệnh xong, Phụng giục hai người:
- Mình về thôi, chắc má tôi mừng íắm!
Út Nguyệt hốt hoảng:
- Bộ mày muốn trở về nhà hả Phụng?
Phụng gật đầu:
- Dạ, đúng rồl! Từ nay con không sợ gì nữa hết, con sẽ trở về nhà sống đàng hoàng, rồi con sẽ bỏ chồng, để chuẩn bị lấy anh Lộc!
Nguyệt lo lắng:
- Rồi biết ăn nói sao với bên phú hộ Tư Bền đây? Rồi thằng Tường nữa...
Phụng tỏ ra bình thản:
- Có gì mà phải lo. Bây giờ con nghĩ rồi, chẳng thà quyết định dứt khoát, chứ còn tiếp tục sống trong cảnh vợ hờ thì con không chấp nhận! Từ ngày lấy con, tay Tường chỉ ngủ nhà có ba đêm rồi biền biệt miết, con còn sống đời làm vợ kiểu đó được sao!
Thấy Lộc im lặng nhìn đi nơi khác, Út Nguyệt hỏi:
- Ý mày thấy sao, Lộc?
Lộc quay lại đáp rất dứt khoát:
- Con đã nói rồi, dẫu có chết con cũng quyết lấy Phụng!
Phụng cảm động ngã vào vai Lộc, âu yếm:
- Con không thể thiếu anh ấy được...
Út Nguyệt thở dài:
- Đành thôi, chứ biết sao...
Ngay tối hôm đó Phụng theo Út Nguyệt vào thẳng nhà mình. Bà Phủ Hoài vừa thấy con về đã định quát một trận, nhưng khi thấy Phụng vẫn tươi tỉnh và bình thản thì bà hơi ngạc nhiên:
- Mày có sao không vậy?
Phụng ôm chầm lấy mẹ, cầm tay bà đặt lên bụng mình khiến bà Phủ rụt tay lại, la lớn:
- Sao lại có thai, vậy còn đứa con mới sinh đâu?
Phụng thản nhiên:
- Bầu bì gì đâu má. Bộ má không thấy bụng con là bụng... con gái hay sao?
Bà Phủ tròn mắt:
- Mày với cô Út mày. Bộ muốn giỡn mặt với tao hả?
Út Nguyệt giờ mới lên tiếng:
- Cũng tại con nhỏ này, nó nói hoảng, làm em tưởng...
Bà Phủ mừng rỡ:
- Nếu vậy thì còn dễ ăn nói với bên kia.
Rồi bà thắc mắc:
- Sao cả chục năm nay rồi, từ lúc con Phụng được lên Sài Gòn sinh tới nay. Không hề thấy bên nhà Tư Bền qua hỏi thăm tiếng nào hết?
Phụng được dịp kể lể:
- Cái nhà đó mà biết gì tới ai ngoài họ đâu. Còn thằng Tường thì đi mút chỉ, hình như có vợ bé đâu trên Sài Gòn, còn nhớ gì tới nhà cửa, vợ con!
Út Nguyệt được dịp chen vào, kể tội:
- Tôi đã nói rồi, dứt khoát với cái nhà đó cho rồi mà chị còn không chịu!
Bà Phủ dịu giọng:
- Tôi cũng đâu có thiết tha gì, nhưng ngặt nỗi ông anh cô ông ấy sĩ diện, không muốn thiên hạ đàm tiếu. Bởi vậy cho nên...
Phụng nói thẳng ra ý của mình:
- Kỳ này con tính bỏ luôn! Nhân chuyện con đi sinh về mà không có con đem theo, con báo là sảy thai, chắc là họ sẽ giận dữ và kiếm chuyện, vậy cũng tốt, con sẽ tuyên bố bỏ về nhà cha mẹ luôn.
- Không được đâu con...
Bà Phủ can, nhưng Út Nguyệt đã đốc vào:
- Cứ làm vậy đi con! Nếu mà bây không dám nói thẳng, thì để cô. Tôi sẽ đi với con Phụng qua bên đó nói chuyện với họ một lần cho xong!
- Nhưng mà, còn anh cô...
Nguyệt xẵng giọng:
- Cùng lắm là anh Hai giết em chứ gì, em không sợ, miễn là em cứu con Phụng thoát cảnh khổ là được.
Nói xong cô hối cháu mình
- Mày đi liền với tao qua nhà họ!
Phụng do dự:
- Để từ từ đã cô. Con mới về, để con chơi với má con chút đã...
Nguyệt nóng nảy:
- Tao muốn đi liền, chứ để nguội tao mất lửa luôn, không nói được!
Phụng đành phải đi theo. Cô sắp sẵn trong đầu kịch bản để nói với nhà chồng chuyện mình có thai mà không sinh. Thậm chí Út Nguyệt còn chỉ thêm cho một mánh nói hiệu quả hơn:
- Mày cứ nói là sinh.. quái thai, nên sau khi sinh xong mày hoảng quá đã nhờ người bỏ đi rồi!
Phụng dè dặt:
- Mấy người già họ không chấp nhận vậy đâu. Có lẽ con sẽ nói là sinh con dị hình và vừa ra đời nó đã chết nên bệnh viện cho mai táng giúp rồi!
- Ừ, cứ như vậy...
Tuy nhiên, mọi việc diễn ra sau đó đã làm đảo lộn mọi dự tính của cả hai. Lúc vừa bước vào nhà đã gặp ngay bà chủ Bền. Hôm nay thấy mặt con dâu bà đã cười toe toét ngay:
- Dữ không, tưởng mày bỏ luôn cục cưng của tao chứ!
Phụng ngơ ngác nhìn bà rồi nhìn lại Út Nguyệt, chưa hiểu gì thì chủ Bền lại nói:
- Nó dễ thương lắm mày ơi! Tao vốn ghét con nít, vậy mà từ lúc nó về đây tao thương hết biết, bồng ẵm không rời tay!
Bà nói xong quay lại chiếc nôi đặt giữa nhà, bế lên một đứa bé còn trong tháng, vừa nựng nịu:
- Cục cưng của bà nội ơi, con mẹ mày nó hư lắm sinh ra mày rồi bỏ đi luôn, bữa nay mới về! Dậy mà la cho nó một trận đi!
Phụng thảng thốt:
- Má nói...
Bà chủ Bền sang thằng bé qua cho Phụng:
- Sinh con dễ thương như vậy mà không chịu về bồng ẵm, cưng yêu nó! May là có nó nên tao tha cho, bây giờ về mà chăm sóc nó đi. Nhưng nhớ, cục cưng của ta à nghen, nuôi không kỹ thì biết tay tao!
Phụng như từ trên trời rơi xuống:
- Má nói...?
Út Nguyệt cũng hỏi:
- Đứa trẻ này là...
Bà chủ Bền gắt lên:
- Trời ơi, con nó mà nó còn hỏi! Bộ mày điên hả Phụng? Chứ đứa nào sai ẵm nó về đây, nói mày còn phải nằm bệnh viện dưỡng bệnh sẽ về sau. Lúc đầu tao định lên Sài Gòn kiếm mày, nhưng mấy bữa nay mắc ôm cái cục cưng này đâu làm sao đi được!
Phụng ẵm đứa nhỏ trong tay mà chẳng hiểu ra sao, cô đưa mắt nhìn sang cô mình. Út Nguyệt lanh trí hơn, nên nói khỏa lấp:
- Đúng rồi, con Phụng bữa nay mới khỏe... Nhưng ai ẵm đứa nhỏ về vậy? Hay là của ba nó?
- Thì là con của thằng Tường chứ ai! Mà con thằng Tường là con của con Phụng! Bộ cô tưởng thằng con tôi nó năm thê bảy thiếp sao!
Bà quay qua Phụng, cầm bàn chân của thằng bé lên, suýt xoa:
- Bàn chân giống thằng Tường như khuôn đúc. Còn cái môi, cái mũi nó giống con như cắt để qua. May cho tụi bây, sinh ra mà không giống đứa nào thì chết với tao.
Phụng nhìn kỹ thì công nhận lời nói của bà không sai, đứa bé trai quả giống cả cô và Tường không chối cãi đi đâu được.
Bà chủ Bền chợt hỏi:
- Về sao không thấy đồ đạc đâu hết?
Út Nguyệt nhanh miệng đáp thay:
- Nhân tiện tôi đưa nó về nhà, để đem qua sau.
Rồi nhân lúc bà chủ không để ý, Út Nguyệt kéo cháu ra ngoài, hỏi nhỏ:
- Chuyện này là sao Phụng?
Phụng bối rối:
- Nhiều chuyện quá con cũng không biết sao nữa... Hết thằng quái thai kia, rồi cái thai mắc dịch, và bây giờ lại thằng nhỏ này? Con nghi có thể con rơi của thằng Tường, rồi nó tìm cách đưa về đây để bắt con gánh quá! Nếu vậy thì con sẽ bỏ nhà đi cho Út coi!
Út Nguyệt có được sự bình tĩnh lạ thường trong những trường hợp nguy. Cô suy nghĩ rất nhanh rồi nói:
- Chuyện này rất có uẩn khúc. Để tao tìm hiểu...
Phụng lắc đầu:
- Chắc con chịu thua quá Út ơi! Con không còn chịu nổi những rắc rối nữa. Rồi bây giờ không lẽ con phải ôm con người khác mà nuôi sao?
Bỗng từ miệng đứa bé thốt ra mấy lời nghe lạnh cả sống lưng:
- Sao lại là con người khác. Con là con của bà đây mà!
Suýt nữa Phụng đã buông rơi đứa bé xuống đất! Út Nguyệt đỡ lấy nó vừa run run nói:
- Không xong rồi, còn nguy hơn cả quái thai nữa!
***
Thầy Tư Thế không cần nhìn ra cũng đã biết là ai tới. Thầy cất tiếng:
- Tới kịp lúc thì vào đi, còn ngần ngại nỗi gì nữa.
Út Nguyệt nhìn Phụng rùng mình:
- Ông này như có mắt ở ngoài đường vậy?
Chưa đợi hai người bước vào tới nhà, thầy đã nói liền:
- Cái họa đã tới rồi phải không? Tôi đã nói rồi, oan gia nghiệp chướng này thì khó mà thoát được nó lắm!
Út Nguyệt mạnh dạn kể sơ qua câu chuyện đã xảy ra. Cô không kể rõ chi tiết, tuy nhiên thầy Tư đã nhắc:
- Cô kể còn thiếu lần có thai sau này của cô kia?
Rồi không đợi Nguyệt đáp, ông nói tiếp:
- Đứa quái thai đã biến mất rồi phải không?
Phụng nhanh nhảu:
- Dạ, nó biến rồi, con mừng quá!
- Thật ra nó không biến, mà chỉ thay đổi hình dạng thôi. Nó là biến thể của cái bào thai mà cô đã phá lúc năm tháng có thai. Nó chết đi và hiện về phá cô, báo oán thì đúng hơn! Nhưng do thấy cô quá sợ và khó lòng sống chung với cô và gia đình chồng, nên nó biến thành cái bào thai bất ngờ làm cho cô hoảng sợ mấy hôm! Chính nó định qua lần có thai lần nữa của cô để ra đời và bắt đầu cuộc báo oán ầm ĩ hơn...
Phụng buột miệng:
- Con đã không còn có thai nữa rồi thầy!
Thầy Tư lắc đầu:
- Có thể tự nhiên mà có thai được, bởi đó là mang thai của ma! Nhưng làm sao tự dưng mà hết có thai được.
- Vậy tại sao...?
- Cô đã sinh con mà không biết đó thôi! Con ma thì sinh cũng theo kiểu của ma! Cô vừa sinh non đứa bé đó trong lúc đi vệ sinh mà không hề hay biết. Và đứa bé đó hiện nay đang được bà nội nó nuôi!
Út Nguyệt hoảng hốt:
- Vậy ra đứa nhỏ đó...
Thầy Tư trầm giọng:
- Bây giờ nó đã lọt vào nhà phú hộ Bền được một cách êm xuôi, được cưng chìu nữa, như vậy coi như cuộc báo oán bắt đầu...
Phụng nói vội:
- Như vậy con có thoát được không thầy?
Ông thầy lắc đầu:
- Cô mang tội nghiệt quá lớn thì làm sao thoát được! Nhà phú hộ Bền do làm giàu bất chánh, từng có ân oán nặng với nhiều người và người ta muốn qua con cháu họ để báo oán. Đáng lý ra cô có thể thoát được, nếu cô không nhẫn tâm giết chết cái thai năm tháng tuổi đó. Bây giờ đứa bé vừa báo oán nhà Tư Bền, mà cô cũng phải lãnh phần. Nhưng do cha mẹ cô ăn ở có đức hơn, nên cô chỉ phải gánh chịu chuyện đứa bé cho đến khi nó được ba tuổi. Khi ấy nhà bá hộ Bền trả nợ xong thì cô cũng được thoát. Cho nên mọi chuyện của cô bây giờ là trở về nhà chồng và chờ cho đến mãn kỳ hạn mà thôi.
Phụng hốt hoảng:
- Cứu con thầy ơi! Con không thể chịu nổi...
Nhưng thầy Tư đã đứng lên, giọng dứt khoát:
- Ta chỉ biết và kể lại cho cô nghe thôi, còn mọi việc là do ở số phận, phúc phận của cô thôi. Về trước khi xảy ra những điều tệ hại hơn...
Ông nói xong bước ra nhà sau rồi mất tăm luôn.
***
Ba năm sau…
Cả vợ chồng phú hộ Tư Bền đều ngã bệnh và cùng chết một ngày trước sự ngơ ngác của thân nhân! Khi cậu Hai Tường về thì đáng lẽ phải đau buồn và lo lắng chuyện ma chay, đằng này anh ta lại dửng dưng, phó mặc cho mấy người bà con. Anh ta còn ra lệnh cho người chú họ:
- Chú lo chôn hai người họ xong thì bảo tất cả bà con ở quê lên phải về hết!
Ông chú Tám của Tường bất mãn:
- Bà con anh em người ta lên đây là do hay tin anh chị Tư chết, chứ đâu phải lên để nhờ vả gì đâu!
Nhưng Tường vẫn hách dịch:
- Tôi nói là sau đó tôi có chuyện phải làm việc với những quan chức ở Sài Gòn về. Tôi đâu cần nhiều người!
Quá bất mãn với thái độ mất dạy của Tường nên đám bà con thân nhân đã kéo nhau về hết. Cũng may cho họ, chứ nếu họ còn ở lại thì chỉ mất công chứng kiến một chuyện không ai ngờ.
Quả có khách Sài Gòn về thật. Nhưng họ không phải là khách thân thiện, mà họ về là để làm thủ tục tịch biên toàn bộ gia sản của phú hộ Tư Bền. Chính Tường cũng kinh ngạc:
- Tại sao mấy người làm vậy?
Một luật sư đại diện cho phía chủ nợ đã trưng ra các giấy tờ mà nhà này nợ ngân hàng họ. Số tiền quá lớn, đến Tường còn phải thất thần:
- Sao nợ gì mà lớn quá vầy nè?
Vị luật sư nói:
- Phân nửa số nợ này là do cậu vay đã mấy năm nay rồi mà chưa trả, nay đã quá hạn.
Tường gân cổ cãi:
- Nhưng hôm nay tôi sẽ tính sổ và trả hết!
Vị luật sư bảo:
- Đó là ý của cậu. Còn thực tế thì tài sản nhà cậu đâu còn gì để mà trả. Đây cậu coi.
Tường xem xong sổ sách, giấy nợ, anh thất thần:
- Trời ơi, như vậy mấy ông tính sao với gia sản này?
- Tính kỹ rồi, qua đối chiếu thì cả hai số nợ gộp lại thì tài sản này trọn vẹn đủ trả cho ngân hàng. Hôm nay chúng tôi làm thủ tục, yêu cầu anh ký tên.
Tường hét lên như điên:
- Tôi chỉ nợ một phần, còn lại ai nợ tôi đâu có biết?
- Như cậu thấy đó, người ký giấy nợ là cha mẹ anh và người được hưởng một phần sau khi ngân hàng tính toán chính là đứa con còn nhỏ của anh. Nó sẽ được hưởng khi đủ tuổi trưởng thành.
Tường bắt buộc phải ký tên vào giấy thanh lý. Sau đó anh ta phát điên và bỏ nhà đi mà chẳng biết là đi đâu.
Thế là chỉ trong phút chốc thì cả cái gia sản kết sù đã biến thành của người khác. Phụng âm thầm bỏ đi, để đứa bé ba tuổi lại với chị vú em.
Lạ một điều là hình như đã biết trước mọi việc, nên thằng bé vẫn bình thản khi biết Phụng bỏ đi. Nó còn nói như người lớn:
- Bà vú cứ ở lại với con, rồi bà vú sẽ được đền bù!
Chuyện kết cuộc đúng y như vậy: mười lăm năm sau đứa bé lớn lên và hưởng phần gia tài còn lại. Còn Tường thì chẳng thấy bóng dáng đâu. Có người nói hình như là anh ta điên đi lang thang rồi chết bờ chết bụi ở đâu đó...
Rồi vào một đêm kia, ngôi nhà ngói như cái dinh thự của bá hộ Tư Bền đã bỗng dưng bốc cháy dữ dội vài giờ sau thì cả cái cơ ngơi đó thành tro bụi...
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 05:42 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.