Go Back   Vina Forums > Câu Lạc Bộ Giao Lưu > Nhịp Đập Trái Tim > Quà tặng cuộc sống
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #531  
Old 10-15-2010, 06:15 PM
TT_LưuLyTím_TT's Avatar
TT_LưuLyTím_TT TT_LưuLyTím_TT is offline
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Bài gởi: 7,757
Default

Chú tiểu này khôn trật trời luôn sis Amour

Thanks sis Amour for sharing all the great posts !
__________________
http://Taochu.Uhm.vN
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #532  
Old 10-17-2010, 07:32 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Default

Trích:
Nguyên văn bởi TT_LưuLyTím_TT View Post
Chú tiểu này khôn trật trời luôn sis Amour

Thanks sis Amour for sharing all the great posts !

:thankyou: for enjoying them cưng...
Hihihi...
Ừa...chú tiểu nì...ma lanh thiệt...chắc là...có họ hàng mí Sis á...
__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #533  
Old 10-19-2010, 06:50 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
hoa ML'Amour collectibles...







" Thần dược " Aspirin...Những công dụng bất ngờ !


Nhiều người vẫn còn chưa biết hết các tính năng không ngờ tới
của loại thuốc viên aspirin...!

Aspirin (acetylsalicylic acid) chế từ mặt vỏ trong của cây liễu.
Trong nhiều thế kỷ, aspirin được coi là một trong những loại thuốc thần kỳ
có tác dụng giảm đau, giảm sốt, làm loãng máu, hạn chế một số dạng ung thư...

Tuy nhiên, nhiều người vẫn còn chưa biết hết hữu ích của aspirin.
Dưới đây là những lợi ích hàng đầu của aspirin có thể làm bạn ngạc nhiên !

Trị gàu

Đơn giản chỉ cần nghiền một vài viên thuốc thành bột trộn với một ít dầu gội
để gội đầu. Xoa xoa để tạo bọt trong vài phút, sau đó gội sạch.

Ngăn ngừa nấm đất tàn phá khu vườn của bạn


Hòa tan một ít aspirin trong một galoon (3,7 lít) nước, sau đó tưới lên cây.
Làm cách này cũng giúp ngừa nấm làm hại cây cảnh.

Giúp trị mụn

Nghiền một ít aspirin sau đó trộn với nước để làm một miếng dán trị mụn.
Dán vào mụn rồi sau một vài phút rửa sạch.

Loại bỏ vết bẩn mồ hôi trên quần áo


Hòa tan một vài viên thuốc rồi nghiền với một ít nước ấm.
Ngâm quần áo vào dung dịch này trong vài giờ.

Giảm ngứa khi bị rệp cắn

Nhúng một viên aspirin vào nước trong một hoặc hai phút,
sau đó chà aspirin vào vết cắn.

Khởi động lại xe khi hết ắc quy


Đơn giản là chỉ cần nhét hai viên thuốc aspirin vào bình ắc quy.
Với cách này bạn có thêm một chút thời gian lái xe
đến cửa hàng sửa chữa gần nhất để thay bình ắc quy mới.

Loại bỏ những cục chai ở gót chân

Nghiền 4 đến 6 viên aspirin thành bột rồi trộn với nước và nước chanh
cho tới khi thành hỗn hợp nhão. Sau đó bôi hỗn hợp đó vào cục chai.
Lấy một miếng vải ẩm phủ lên chỗ cục chai và chờ khoảng mười phút.
Các cục chai sẽ mềm ra, đủ để gọt đi một cách dễ dàng.




__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #534  
Old 10-20-2010, 08:34 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
hoa Chuyện Cũ ... Có thể nào quên ... ?






Có thể nào quên ...?



Ðời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng. Nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Ðó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua...

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe. Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy thả vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo Dục Thành Phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biến chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới. Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do. Những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn. Những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi quá nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố. Giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá: đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn. Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh-Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75, nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đó. Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng? Ði bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu. Có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian. Còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một ngườị. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!

Bà xã tôi bận con nhỏ -- khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi -- cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành. Con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt quá sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ! Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò bảy món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại 2 trường tư thục Công giáo là trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch, nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng. Một khi công an nghi ngờ, thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.

Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi. Nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại. Vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp quí nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ. Nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78. Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gì. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi. Sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó, tôi còn được biết thêm. Ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương, hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố, để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa, thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại! Tôi lên tầu, hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới. Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi nom rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa. Họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn. Ðây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 nguời đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Ðàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công. Có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết, trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu, có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa. Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18, ngồi dưới hầm bên cạnh tôi. Vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi .Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực. Thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củị Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục. Nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn, mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn. Nước ngập tới ngực, mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh, lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh không tên, trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển. Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ. Ðến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dướị Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:

- Anh Ngạn, Anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên, thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lỗ thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậỵ Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả. Chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống. Bà xã tôi giục nho nhỏ:

- Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm. Thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng, kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít. Nhà tôi lại bảo:

- Ðêm qua bão lớn. Cái áo của con bị rách tung rồi bay mất. Nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả ngườị Anh lên một chút đi!

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên, cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó. Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục. Lúc ngồi, dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái. Bây giờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm, nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp. Nhà tôi ưu tư bảo:

- Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng. Là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạỵ Hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu, nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng, Tôi nhìn lại phía buồng máy. Một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy. Chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với sức sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vơ. Ðàn bà con nít, nguời đứng người ngồi lố nhố, quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng nàỵ Bà xã tôi bảo:

- Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện. Ðêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số, thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi. Rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xa. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô. Nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại! Người ngoài khơi cứ đợị Người đã lên bờ thì bỏ mặc. Ðàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầụ. Hơn 100 người ngồidưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường! Tôi biết mình sắp chết, nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:

- Con ơi! Ðằng nào tầu cũng sắp chìm. Bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào...

Tôi không biết bơi. Mà có biết thì cũng không còn sức, bởi bờ ở quá xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Ðứa con trai hơn 4 tuổi, quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến, cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi, có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết, nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:

- Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống. May ra sóng đánh vào bờ! Thà nhẩy xuống trước, chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết!

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu Thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn. Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới, làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên. Tiếng người đồng thanh kêu ru lên, bị tiếng gầm của sóng át đị Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em. Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa!
Ðứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển. Tôi níu được một sợi giây nào đó trên tầu, nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính cứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn, làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài, và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai. Tất cả đều rụng xuống biển. Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiều tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua, đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân, người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi!

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình. Ðàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết. Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo trong lúc lâm chung, tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. Ðọc kinh, nhưng không cầm trí tập trung được...

Tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã kình qua bao nhiêu năm gian khổ. Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được thả về. Vậy mà cũng không sao! tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại chết? Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa!

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. Nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm bao. Ðứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

- Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Ðắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi quá đuối sức và vì không có mắt kính. Thằng bé lay tôi và nhắc lại:

- Chú Ngạn ơi! Ðắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh. Lính Mã Lai đang quây những gười sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần. Nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy. Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo. Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác, thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác !

Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào hét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh. Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển, thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa, nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua. Nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Ðức. Rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở bảo sanh viện Ðức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do!

Vợ tôi mất đi ở tuổi 26, sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Ðoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu rút cuộc lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!

Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu. Bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi -- người giới thiệu tôi cho ông Ân -- nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver, Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa. Còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh. Vợ con tôi chết trước mặt tôi. Hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi. Mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót! Ðó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm. Nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước quá lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt. Các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay. Năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình, hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước, và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mớimất, tôi bắt đầu viết truyện dài "Những người đàn bà còn ở lại" trong 3 tháng ở trại tạm cư. Cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao, nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hề viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong quá khứ. Ðó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.



Nguyễn Ngọc Ngạn@

Special Thanks to ...
NV. Nguyễn Ngọc Ngạn for sharing his heart-broken melancholy life story...
__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #535  
Old 10-21-2010, 11:09 PM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Arrow Bước ngang đời...






Sắc màu cuộc đời....


Có bao giờ....
bạn thử ngước lên bầu trời và đếm những ngôi sao..?
Một...hai..ba...hàng trăm... hàng vạn ngôi sao
mà ta không thể nào đếm hết được.
Bản thân mỗi người cũng như một dảy ngân hà
chất chứa hàng triệu triệu ngôi sao....
nhưng không bao giờ có thể hiểu hết.

Có đôi lúc....
bạn thấy một người khóc nhưng chưa chắc là họ buồn,
niềm vui quá lớn cũng có thể làm người ta bật khóc.
Đôi khi thấy ai đó cười...
nhưng cũng có thể là họ đang rất buồn,
rất tuyệt vọng....

Con người khó hiểu như thế đấy,
những biểu hiện bên ngòai không thể
làm ta hiểu hết về một ai cả.
Nhưng còn đôi mắt thì sao...?
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn....
thế nên những tâm trạng của mỗi người
cũng được thể hiện phần nào đó qua đôi mắt,
tuy không nhiều nhưng vẫn có thể cảm nhận được.
Một ánh mắt u uất...
chứng tỏ họ cần được quan tâm,
một ánh mắt ngời sáng...
chứng minh họ đang muốn được ai đó
chung hưởng niềm vui.
Dù là lúc vui hay buồn, lúc đau khổ hay thất vọng,
ta đều cần ai đó bên cạnh sớt chia.
Đũa luôn luôn là một đôi, giày dép cũng có đôi
và con người... cũng thế thôi...
không ai là đơn độc cả bởi vì bên cạnh mình
luôn có những người bạn sẵn sàng chia sẻ
những niềm vui và nỗi buồn cùng ta.
Những người bạn thật sự sẽ cảm nhận được
tâm trạng của bạn mà không cần bạn phải nói ra,
Những người bạn thật sự là người có thể nhìn thấy được
triệu triệu ngôi sao trong dải ngân hà của bạn.

Cuộc sống được tạo nên từ những mảng màu đơn giản,
nhưng nếu biết cách kết hợp....
thì nó sẽ trở nên đa dạng vô cùng...


__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #536  
Old 10-24-2010, 04:40 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
hoa Góc lắng...!






Cô đơn...

Nhìn quanh mình ... hình như, ai cũng cô đơn. Hay nói đúng hơn, ai cũng mang theo cô đơn bên mình. Tiếc rằng, bề mặt của sự cô đơn thường mang nét buồn, gợi cho mọi người một cảm giác muộn phiền và tư lự...khiến cho mọi người muốn ruồng bỏ nó.

Giờ đây, ngồi nơi này tôi chỉ có thể hỏi - phải thế không?- với những cành hoa đang hé nở chào đón bình minh. Chúng chẳng buồn trả lời, chỉ ung dung mỉm cười và uống từng những giọt sương còn đọng lại của đêm qua.

Hmm...
Tại sao sự cô đơn cứ vây lấy mọi người?
Một cảm giác buồn trong tỉnh lặng hay một cơn đau tuyệt vọng?
Một nỗi niềm riêng không chia sẻ được cùng ai?
Một vách ngăn vô hình bao bọc lấy tâm hồn?
Phải chăng, sự ngăn cách là cây cầu đưa nỗi cô đơn về với chúng ta?

Có những người cảm thấy cô đơn trong sự đợi chờ, trong giây phút ngóng trông mà không nhìn thấy nhau được, làm họ thấy đau lòng.
Đôi khi...sự xa cách lại thật là oan nghiệt .
Bởi vì...chia cách không phải vì sông biển muôn trùng mà đơn giản là
những trái tim gần bên nhau mà không đập cùng nhịp thở!
Hay...giữa đám đông mà vẫn thấy mình cô độc vì không chia sẻ được cảm giác buồn vui.
Và...có những người khi biết thời gian không thèm dừng lại, sự níu kéo là một điều tuyệt vọng .
Là những lúc...cô đơn gậm nhấm tâm hồn, tưởng chừng như không còn lối thoát !

Thật ra, sự ngăn cách chỉ là một nỗi buồn trong khoảnh khắc của cô đơn, không đơn thuần là cô đơn. Sự cô đơn là người bạn đời, vì có ai hiểu mình được trọn vẹn bằng chính mình đâu?! Chỉ trong lúc cần kề với cô đơn , ta mới thấy chính mình.

Có ai mà không nhớ thời thơ ấu của mình cũng đã từng ngồi riêng một gốc trog sân nhà hay sân trường bâng khuâng ....? Có biết bao nhiêu người đã từng thổn thức khi không có hoặc không còn vòng tay ấm ... ? Và trong một ngày nào đó, chúng ta cũng bắt gặp những người trầm tư khi tuổi xuân đã qua, chỉ mong tìm giấc ngủ bình yên....

Cô đơn là một cái bóng riêng của mình mà không ai thấy được, không thể bỏ nó hay trốn tránh. Nó không có tuổi tác hay hình dáng, nó luôn luôn hiện hữu bên mình, trong mỗi người trên thế gian này. Nỗi cô đơn mang nhiều màu sắc và đem lại cảm giác khác nhau cho từng người và cô đơn chỉ đến không hẳn là khi mình đơn độc hay đau khổ, không có một định nghĩa nào cho cảm giác này vì không ai hoàn toàn hiểu nó thật sự, một cách tuyệt đối.

Sự cô đơn không chỉ là nỗi đau triền miên của nhân loài, nó đã cống hiến rất nhiều cho chúng ta qua bao thế kỷ bằng nhiều hình thức trong nghệ thuật sống. Nó là nguồn sáng tạo, từ đạo giáo đến mỹ thuật và triết lý trong đời. Nhìn xem, có biết bao nhiêu sáng tác được hình thành trong nỗi cô đơn? Thế thì, không nên đè nén hay chối bỏ nỗi cô đơn , mà hảy cùng nó nhìn và chấp nhận cái cảm giác muộn phiền và nguyên nhân đưa đến. Vì, trong khoảnh khắc tận cùng, cô đơn cho ta nhận biết thế nào là hạnh phúc!

Hmm...
hớp ngụm cà phê cuối cùng, tôi chợt nhớ ra rằng... khi cái tách đã cạn, nó cần được rót thêm vào. Ngoài hiên, một cánh hoa tàn cũng vừa mới rụng. Điềm nhiên, tôi cũng chỉ biết cười từ giã... những gì còn và đã mất. Hiển nhiên, tôi biết mình không bao giờ mất sự cô đơn!


TL@
__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #537  
Old 10-25-2010, 08:43 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Arrow Bước ngang đời...





Con Ruồi...


Con ruồi nhỏ, nhỏ xíu.
Vậy mà cái nhỏ xíu đó đôi khi lại là nguyên nhân của những việc tày đình.


Rất có thể hai vợ chồng đâm đơn ra tòa ly dị nhau chỉ bởi một con ruồi. Ai mà lường trước được những việc thần kỳ đó!
Tôi ốm. Điều đó vẫn thỉnh thoảng xảy ra cho những người khỏe mạnh. Và vợ tôi pha cho tôi một ly sữa. Tôi nốc một hơi cạn đến nửa ly và phát hiện ra trong ly có một con ruồi. Con ruồi đen bập bềnh trong ly sữa trắng, "đẹp" kinh khủng!
Thế là mọi chuyện bắt đầu.
Tôi vốn rất kỵ ruồi, cũng như gián, chuột, nói chung là kỵ tất thảy các thứ dơ bẩn đó. Tối đang nằm mà nghe tiếng chuột bò sột soạt trong bếp là tôi không tài nào nhắm mắt được. Thế nào tôi cũng vùng dậy lùng sục, đuổi đánh cho kỳ được. Bằng không thì cứ gọi là thức trắng đêm.
Vậy mà bây giờ, một trong những thứ tôi sợ nhất lại nhảy tót vào ly sữa tôi đang uống, và đã uống, nói trắng ra là nhảy tót vào mồm tôi. Biết đâu ngoài con ruồi chết tiệt trong ly kia, tôi lại chẳng đã nuốt một con khác vào bụng. Mới nghĩ đến đó, tôi đã phát nôn.
Thấy tôi khạc nhổ luôn mồm, vợ tôi bước lại, lo lắng hỏi:
- Sao vậy anh?
Tôi hất đầu về phía ly sữa đặt trên bàn:
- Có người chết trôi kia kìa!
Vợ tôi cầm ly sữa lên:
- Chết rồi! Ở đâu vậy cà?
- Còn ở đâu ra nữa! - Tôi nhấm nhẳng - Chứ không phải em nhặt con ruồi bỏ vào ly cho anh à!
Vợ tôi nhăn mặt:
- Anh đừng có nói oan cho em! Chắc là nó mới sa vào!
- Hừ, mới sa hay sa từ hồi nào, có trời mà biết!
Vì tôi đang ốm nên vợ tôi không muốn cãi cọ, cô ta nhận lỗi:
- Chắc là do em bất cẩn. Thôi để em pha cho anh ly khác.
Tôi vẫn chưa nguôi giận:
- Em có pha ly khác thì anh cũng đã nuốt con ruồi vào bụng rồi!
Vợ tôi trố mắt:
- Nó còn trong ly kia mà!
- Nhưng mà có tới hai con lận. Anh uống một con rồi.
- Anh thấy sao anh còn uống?
- Ai mà thấy!
- Không thấy sao anh biết có hai con?
Tôi tặc lưỡi:
- Sao lại không biết? Uống vô khỏi cổ họng, nghe nó cộm cộm là biết liền.
Vợ tôi bán tính bán nghi. Nhưng vì tôi đang ốm, một lần nữa cô ta sẵn sàng nhận khuyết điểm:
- Thôi, lỗi là do em bất cẩn! Để em...
Tôi là tôi chúa ghét cái kiểu nhận lỗi dễ dàng như vậy. Do đó, tôi nóng nảy cắt ngang:
- Hừ, bất cẩn, bất cẩn! Sao mà em cứ bất cẩn cả đời vậy?
Vợ tôi giật mình:
- Anh bảo sao? Em làm gì mà anh gọi là bất cẩn cả đời?
- Chứ không phải sao?
- Không phải!
À, lại còn bướng bỉnh! Tôi nheo mắt:
- Chứ hôm trước ai ủi cháy cái quần của anh?
- Thì có làm phải có sai sót chứ? Anh giỏi sao anh chẳng ủi lấy mà cứ đùn cho em!
- Ái chà chà, cô nói với chồng cô bằng cái giọng như thế hả? Cô nói với người ốm như thế hả? Cô bảo tôi lười chảy thây chứ gì? Cô so sánh tôi với khúc gỗ phải không? Ái chà chà...
Thấy tôi kết tội ghê quá, vợ tôi hoang mang:
- Em đâu có nói vậy!
- Không nói thì cũng như nói! Cô tưởng cô giỏi lắm phỏng? Thế tháng vừa rồi ai làm cháy một lúc hai cái bóng đèn, tháng trước nữa ai phơi quần áo bị đánh cắp mà không hay? Cô trả lời xem!
Vợ tôi nhún vai:
- Anh lôi những chuyện cổ tích ấy ra làm gì? Hừ, anh làm như anh không bất cẩn bao giờ vậy! Anh có muốn tôi kể ra không? Tháng trước ai mở vòi nước quên tắt để cho nước chảy ngập nhà? Anh hay tôi? Rồi trước đó nữa, ai làm mất chìa khóa tủ, phải cạy cửa ra mới lấy được đồ đạc?
Tôi khoát tay:
- Nhưng đó là những chuyện nhỏ nhặt! Còn cô, năm ngoái cô lấy mấy triệu cho bạn bè mượn bị nó gạt mất, sao cô không kể luôn ra?
- Chứ còn anh, sao anh không kể chuyện anh đi coi đá gà bị mất xe? Rồi năm ngoái, ai nhậu xỉn bị giật mất điện thoại?
Cứ như thế, như có ma xui quỉ khiến, hai vợ chồng thi nhau lôi tuột những chuyện đời xửa đời xưa của nhau ra và thay nhau lên án đối phương, không làm sao dừng lại được. Tôi quên phắt là tôi đang ốm. Vợ tôi cũng vậy. Chúng tôi mải mê vận dụng trí nhớ vào việc lùng sục những khuyết điểm tầng tầng lớp lớp của nhau. Và thật lạ lùng, có những chuyện tưởng đã chìm lấp từ lâu dưới bụi thời gian, tưởng không tài nào nhớ nổi, thế mà bây giờ chúng lại hiện về rõ mồn một và chen nhau tuôn ra cửa miệng. Từ việc tôi ngủ quên tắt tv đến việc vợ tôi mua phải cá ươn, từ việc tôi bỏ đi chơi ba ngày liền không về nhà đến việc vợ tôi đi dự sinh nhật bạn đến mười hai giờ khuya v.v..., chúng tôi thẳng tay quậy đục ngầu quá khứ của nhau và vẽ lên trước mặt mình một bức tranh khủng khiếp về đối tượng.
Trời ơi! Thế mà trước nay tôi vẫn sống chung với con người tệ hại đó! Thật không thể tưởng tượng nổi! Tôi cay đắng nhủ thầm và bùng dậy quyết tâm phá vỡ cuộc sống đen tối đó. Tôi đập tay xuống bàn, kết thúc cuộc tranh cãi:
- Thôi, tra khảo hành hạ nhau thế đủ rồi! Tóm lại là tôi hiểu rằng tôi không thể sống chung với cô được nữa! Tôi ngán đến tận cổ rồi!
Vợ tôi lạnh lùng:
- Tùy anh!
Câu đáp cộc lốc của vợ không khác gì dầu đổ vào lửa. Tôi nghiến răng:
- Được rồi! Cô chờ đấy! Tôi làm đơn xin ly hôn ngay bây giờ!
Tôi lập tức ngồi vào bàn và bắt đầu viết đơn. Ngòi bút chạy nhoáng nhoàng trên giấy với tốc độ 100km/giờ.
Viết và ký tên mình xong, tôi đẩy tờ đơn đến trước mặt vợ. Cô ta cầm bút ký rẹt một cái, thậm chí không thèm liếc qua xem tờ đơn viết những gì.
Thế là xong! Tôi tặc lưỡi và thở ra, không hiểu là thở phào hay thở dài. Cuộc đời cứ như xi-nê-ma, nhưng biết làm thế nào được!
Ký tên xong, vợ tôi đứng lên và cầm lấy ly sữa.
- Cô định làm gì đấy?
- Đem đổ đi chứ làm gì!
- Không được! Để ly sữa đấy cho tôi! Tôi phải vớt con ruồi ra, gói lại, đem đến tòa án làm bằng cớ!
Đặt ly sữa xuống bàn, vợ tôi lẳng lặng đi vào phòng ngủ, đóng sập cửa lại. Trong khi đó, tôi hì hục lấy muỗng vớt con ruồi ra.
Tôi ngắm con ruồi nằm bẹp dí trên đầu muỗng và có cảm giác là lạ.
Tôi đưa con ruồi lên sát mắt, lấy tay khảy nhẹ và điếng hồn nhận ra đó là một mẩu lá trà...


Nguyễn Nhật Ánh@

__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #538  
Old 10-26-2010, 06:16 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Lightbulb Khơi dậy niềm tin....







Nhiều người tin rằng đời sống bắt đầu vào lúc sinh ra.
Điều này có thể hợp lý vì hầu như mọi người không ai nhớ được đời sống trước khi chúng ta ra đời. Từ tuổi thơ cho đến trưởng thành, chúng ta càng ngày càng thêm vướng víu với cuộc sống ở thế giới bận rộn này. Khi thơ ấu chúng ta đi học, trưởng thành rồi thì đi làm, sau đó lập gia đình, ý nghĩ về sự hiện hữu của bất cứ đời sống nào khác ngoài thế giới này thì chúng càho đó là ảo tưởng, là tín ngưỡng viễn vông, là một điều không thể có thật. Nhưng giờ đây có hàng triệu bài tường thuật của những người đã vượt trên ranh giới của sự sống khi trở về mang theo ký ức về một đời sống bên kia cửa tử và đời sống trước khi họ được sinh ra.



Hồn Lìa Khỏi Xác...


Tôi thấy trong người yếu dần, yếu dần. Tôi muốn bấm vào nút chuông cạnh giường để gọi y tá nhưng không sao nhúc nhích được. Có một âm thanh kỳ lạ như tiếng vo ve ở đâu trổi lên, lúc đầu còn nhỏ nhưng càng ngày càng to. Bỗng nhiên tôi cảm thấy có một mãnh lực kỳ lạ thúc đẩy khiến tôi muốn ngồi bật dậy nhưng thể xác tôi tự nhiên lại cứng đơ một cách lạ lùng. Tôi cố sức vùng vẫy nhưng vô hiệu, chân tay tôi không tuân theo mệnh lệnh của tôi nữa. Dường như có một sức mạnh nào đó đang thu hút lấy tôi, tôi nghe như có tiếng ai gọi thầm đâu đây. Bất chợt có một cái gì dội mạnh vào lồng ngực khiến tôi giật mình. Cảm giác này không đau đớn nhưng kỳ lạ khiến tôi thấy trong mình bỗng nhẹ hẳn đi như vừa trút được một gánh nặng.

Tôi có cảm tưởng như mình vừa được thoát khỏi các ràng buộc, thân thể lâng lâng sảng khoái như bay bổng. Rồi một cái gì đó dội mạnh vào lồng ngực tôi lần nữa khiến tôi thấy mình dường như thoát hẳn ra ngoài. Ra ngoài? Nhưng ra ngoài cái chi đây? Đầu óc tôi hoang mang lạ lùng. Tôi cố gắng cựa mạnh và tự nhiên thấy mình đang lơ lửng trong không gian gần chạm đến trần nhà. Tôi quay đầu nhìn lại và thấy một thân thể đang nằm bất động trên giường. Chỉ một thoáng giây tôi đã ý thức ngay được đó chính là xác tôi. Không hiểu sao tôi không thấy sợ hãi chút nào. Hình như có một sức mạnh nào đó đang che chở tôi, một cảm giác bình yên khiến tôi có thể yên lặng nhìn ngắm cái xác đó mà không hoảng hốt.

Phải rồi, đó chính là xác của tôi. Nó còn tốt lắm nhưng không còn sử dụng được nữa, thật đáng tiếc vì nó chưa hư hại bao nhiêu, vẫn có thể dùng được vào nhiều việc. Đang lặng ngắm cái xác, tôi bỗng ý thức được một điều thật kỳ diệu. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ mình dưới trạng thái của ba chiều đo. Khi trước tôi chỉ có thể thấy mình qua hai chiều đo lúc nhắm mình trong gương nhưng hiện nay cặp mắt của tôi có thể thấy rõ mọi khía cạnh của thể xác đàng trước, đàng sau, mọi phía một cách đầy đủ, toàn vẹn, từng chi tiết.

Bất chợt tôi thấy hình như mình không còn chịu áp lực của trọng lực nữa. Cơ thể tôi nhẹ nhõm, có thể cử động một cách dễ dàng thoải mái hơn trước. Dù vừa trải qua một cuộc giải phẫu nhưng tôi không thấy đau đớn, khó chịu vì vết thương. Ngay lúc đó tôi biết rằng mình đã thực sự chết rồi, đã rời bỏ thể xác mà người ta vừa giải phẫu xong. Thì ra cái xác đó không phải là tôi mà tôi mà chỉ lã một cái vỏ, một cái bóng, một bộ quần áo cũ mà tôi đã sử dụng trong nhiều năm nay. Cái xác đó nằm bất động nhưng tôi lại tự do, thoải mái và dĩ nhiên đây là một kinh nghiệm từ trước đến nay tôi không hề nghĩ đến.

Vừa nghĩ đến đó thì bỗng có ba người đàn ông ở đâu xuất hiện. Họ ở đâu đến tôi không biết nhưng chắc chắn không phải từ bên ngoài bước vào vì cửa phòng vẫn còn khép hờ như cũ. Tất cả đều mặc áo thụng màu nâu, quanh hông có cột một sợi dây màu vàng, hai đầu bỏ thõng xuống. Người họ tỏa ra một thứ ánh sáng rất dịu và đến lúc đó tôi mới nhận ra chính mình cũng đang tỏa ra một thứ ánh sáng tương tự. Không hiểu sao tôi không thấy e ngại hay sợ hãi vì sự xuất hiện của những người lạ mặt này. Thoạt trông họ chỉ trạc 70 hay 80 tuổi, nhưng tôi biết rằng tuổi thật của họ khác xa với số tuổi mà tôi phỏng đoán. Có lẽ họ đã sống rất lâu rồi, từ những buổi xa xưa lắm! Nhìn cách phục sức, tôi thấy họ giống như các tu sĩ thời cổ. Phải chăng họ xuất hiện dưới hình ảnh đó để biểu lộ một đức tính hay một minh triết lớn lao?

Một người mỉm cười cho tôi biết rằng giữa tôi và họ đã có những liên hệ “từ ngàn xưa”. Tôi không hiểu câu này có nghĩa gì? Tại sao lại có sự quen biết như vậy được? Ngàn xưa phải là một thời gian rất xa trong dĩ vãng nhưng xa thế nào được khi cuộc đời chỉ ngắn ngủi có mấy chục năm thôi? Vừa nghĩ đến đó thì tôi thấy ngay một hình ảnh xa xưa hiện ra trước mắt, một cuộc sống khác với đời sống vừa qua của tôi, và bỗng hiểu được sự liên hệ giữa tôi và những người này. Phải rồi, chúng tôi đã quen biết nhau từ lâu lắm rồi và đời sống thực sự của tôi vốn không có khởi đầu hay chấm dứt mà chỉ là một diễn tiến kéo dài không ngừng suyên qua thời gian. Lúc đó tôi mới ý thức rằng những người này thực sự là những người bạn chọn lọc của tôi trong cái đời sống lớn lao, kéo dài vô tận đó, và trong kiếp sống vừa qua của tôi, họ đã đóng vai những “thiên thần hộ mạng” cho tôi.

Một người cho biết rằng tôi chết chưa đúng số và lý do họ đến đây là để trấn an tôi. Trấn an? Tôi chợt hiểu được nguyên nhân của cảm giác bình an êm ái khi vừa qua đời lúc này, một cảm giác không sợ hãi, không hoảng hốt mà ý thức rõ rệt được các diễn tiến xảy ra. Khi đó tôi mới hiểu ba người này quả thật hết sức lưu tâm đến tôi. Tôi định lên tiếng cám ơn thì chợt nhớ ra rằng từ nãy đến giờ chúng tôi không hề nói chuyện với nhau bằng miệng mà chỉ cảm thông nhau bằng tư tưởng. Đến lúc đó tôi mới ý thức được sự diễn tả bằng lời nói, ngôn ngữ mà tôi vẫn sử dụng, quả thật rất giới hạn so với cái kinh nghiệm mới mẻ về sự truyền thông bằng tư tưởng này. Tôi biết có nhiều điều họ muốn chia sẻ với tôi, cũng như tôi muốn nói với họ, nhưng tôi biết rằng lúc này còn có những việc khác quan trọng hơn cần phải làm.

Tự nhiên tôi nghĩ đến chồng và các con của tôi. Hiện nay chồng tôi đang làm gì? Mấy đứa con tôi ra sao? Làm sao một người đàn ông không bao giờ trông nom trẻ nít lại có thể săn sóc một lúc sáu đứa nhỏ đây? Không có tôi thì làm sao những đứa bé nghịch ngợm này có thể thuận hoà với nhau được? Không chừng chúng đã bày đồ chơi bừa bãi khắp nhà rồi. Tôi phải gặp chúng ngay thì mới yên tâm được.

Tôi nhìn ra cửa sổ. Có lẽ tôi phải đi ra ngoài bằng cửa sổ rồi. Tự nhiên tôi hiểu rằng tôi có thể đi xuyên qua mọi vật một cách dễ dàng và tôi có thể đi bất cứ đâu mà tôi muốn. Tuy nhiên tôi không có thì giờ suy nghĩ nhiều về cái kinh nghiệm mới mẻ này, tôi chỉ nghĩ đến gia đình của mình. Sao bao năm làm lụng vất vả để gây dựng một mái ấm gia đình, tự nhiên tôi cảm thấy sợ hãi khi có thể mất đi cái mà tôi vừa có, cái hạnh phúc mà tôi đã nhọc sức bao lâu nay để vun vén, săn sóc, tạo dựng nên.

Vừa nghĩ đến nhà thì tôi đã thấy mình đứng trước cửa nhà. Tôi vội vã bước vào phòng khách và thấy chồng tôi đang ngồi đọc báo trên chiếc ghế bành quen thuộc, lũ nhỏ đang đùa nghịch chạy lên chạy xuống cầu thang, la hét ầm ĩ. Quả thật hết chỗ nói! Tôi vẫn thường dặn chúng không được chạy ngảy như vậy kia mà. Mẹ vừa vắng nhà một ngày mà lũ nhỏ đã tác oai tác quái rồi. Tôi chăm chú quan sát từng đứa một, và tự hỏi chúng sẽ ra sao khi thiếu người mẹ vẫn thường chăm sóc cho chúng. Không hiểu vì một lý do nào đó, tôi đồng thời ý thức được phần nào cuộc đời của mỗi đứa một cách mầu nhiệm.

Tôi biết mỗi đứa đều có một nhiệm vụ riêng, một đời sống riêng, và sẽ phải học hỏi để có những kinh nghiệm khác nhau. Thật là một lầm lẫn lớn khi tôi nghĩ rằng chúng là “con của tôi” trong khi thực ra chúng cũng như tôi, đều là những thực thể tâm linh, có cá tính, sự thông minh, hay các nghiệp quả riêng biệt trước khi đầu thai vào cõi sống này. Mỗi đứa đều có tự do ý chí và sẽ chọn một cuộc sống riêng. Chúng có đời sống của chúng cũng như tôi có đời sống của riêng tôi. Chúng được giao phó cho tôi để chăm sóc, trông nom và giáo dục trong một thời gian nhất định nào đó thôi, sau đó chúng sẽ đi con đường riêng mà chúng đã chọn. Đây là một chương trình được hoạch định bởi những định luật cao cả, và dĩ nhiên khi chúng đã hoàn tất nhiệm vụ này thì đời sống trong kiếp này của chúng cũng sẽ chấm dứt. Tôi nhình thấy những thử thách lớn lao và đầy khó khăn mà chúng sẽ gặp phải, nhưng đồng thời cũng biết rằng những việc này là điều cần thiết cho sự phát triển của chúng. Tất cả đều chỉ là những phần rất nhỏ trong một chương trình giáo dục lớn lao, được sắp đặt bởi những quy luật hết sức hoàn hảo.

Tôi thấy mình như trút được gánh nặng rất lớn. Từ trước đến nay tôi thường quá lo lắng cho chúng. Sức tôi thì yếu ớt, vòng tay tôi thì bé nhỏ, làm sao có thể lo liệu chu toàn được mọi thứ? Thế nhưng tôi đã sắp đặt, hoạch định và mơ ước những điều thật viễn vông. Tôi đã thầm mơ rằng những đứa con tôi phải trở nên những người nổi tiếng, hay thương gia giàu có. Quả thật tôi đã lầm lẫn rất lớn khi nghĩ rằng mình có thể sắp đặt, hoạch định những chương trình to tát như vậy. Nhưng nay thì mọi việc đã giải quyết vì cuối cùng thì cuộc đời của chúng cũng đều tốt đẹp cả. Cuộc sống của gia đình tôi cũng thế, cái hạnh phúc mà tôi hằng lưu tâm trước sau gì cũng sẽ xảy ra trong một tiến trình tất yếu...

Tôi cảm thấy thoải mái và sung sướng khi kinh nghiệm được các điều này, có lẽ nhờ thế mà tâm hồn tôi trở nên an tĩnh hơn. Những nỗi lo lắng, sợ hãi dường như tan biến khiến tôi cảm thấy hết sức thoải mái trong đời sống mới mẻ này. Tôi trở lại bệnh viện mà không nhờ mình đã về bằng cách nào. Tôi thấy thể xác mình vẫn nằm yên bất động trên giường, ba người bạn của tôi vẫn đứng đợi cạnh đó. Tôi cảm nhận ngay được tình thương của họ và cả niềm vui nho ngỏ của họ nữa. Hình như họ biết tôi vừa trở về nhà và đã kinh nghiệm được điều mà tôi cần phải biết. Tôi muốn nói với họ nhiều điều nhưng một người cho biết đã đến lúc tôi phải tiếp tục cuộc hành trình và họ sẽ không cùng đi với tôi.....


BE@

__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #539  
Old 10-28-2010, 01:22 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
Arrow Bước ngang đời ...Có những lúc sao cuộc đời buồn quá đổi...






Ăn rau không chú ơi...?


Chỉ cần mất 3 phút để đọc nhưng phải mất cả cuộc đời để suy ngẫm…


Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

- Ăn hộ tôi mớ rau...!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn.
Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa mới buổi sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:
Dạ cháu không bà ạ! Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn.
Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh.
"Mình thương người thì ai thương mình" - cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.

- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!

Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất,
gã đi đến nói với bà:

- Rau này bà bán bao nhiêu?

- Hai nghìn một mớ - Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

- Sao chú mua nhiều thế?

- Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời,
gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ...

- Nghỉ thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã.
Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm.
Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ.

Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường,
nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện.

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

- Bà bán rau chết rồi.

- Bà cụ hay đi qua đây hả chị ? - chị bán nước khẽ hỏi.

- Tội nghiệp bà cụ ! một giọng người đàn bà khác.

- Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán
(vì nghe đâu bà ta bán cho người khác rồi và người mua nhờ giữ hộ để họ sẽ đến lấy), rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh.

Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi.

Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia. Gã không ngờ...!


Ref: Calitoday

__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
  #540  
Old 10-29-2010, 01:09 AM
ML'Amour's Avatar
ML'Amour ML'Amour is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Aug 2009
Nơi Cư Ngụ: Virgin Island
Bài gởi: 2,448
hoa Vọng...






Hoài Vọng Quê Hương....



Ta về đếm lại vì sao
Bao nhiêu nỗi nhớ lại trào dâng lên
Lá ơi thôi rụng bên thềm !
Cho sầu lắng khúc nhạc êm phím đàn

Nhìn sao đứng cạnh trăng vàng
Thoáng mơ dáng nhỏ bên hàng dải Ngân
Gió lùa mây đến gần dần
Hợp rồi lan tỏa lần lần tan xa

Rằm, trăng sáng tỏ Hằng Nga
Gốc đa còn đó Cuội ra kiếm tìm
Buồn thương nhạc khúc nỗi niềm
Riêng ai có nhớ dáng hiền thuớt tha

Trăng lên đỉnh núi trăng già
Non xanh nước biếc mơ hoa mấy mùa
Vi vu tiếng gió mãi lùa
Lá vàng rơi rụng chuông chùa ngân vang

Mấy Thu rồi lại Đông sang
Tiểu thiền gom nhặt lá vàng rụng bay
Đàn lên khúc nhạc nhớ ai
Hòa cùng kinh kệ ngân dài vang vang

Tình thơ lở nhịp dở dang
Cung đàn lạc phím lời than nghẹn ngào
Chim trời lã cánh vòm cao
Em về nơi ấy kiếp nào gặp nhau

Nhớ em lệ ứa tuôn trào
Mưa ngâu tuôn đổ thác gào biển lay
Buồn thương tím cả trời mây
Trăng vàng lặn khuất sao lây nỗi sầu

Chim trời mỏi cánh về đâu
Sóng xô thuyền ngược giang đầu xa xôi
Nhìn con sóng nước bồi hồi
Nhớ về quê cũ dạ ôi vạn sầu !

Mây trời biển biếc một màu,
Lòng sầu cố quốc in sâu bóng hình
Tháng Ba là tiết Thanh Minh
Nén hương lan tỏa tụ hình người xưa

Nhớ thương nói mấy cho vừa
Tình hoài cố quốc nắng mưa mấy mùa
Ru hời tiếng võng đu đưa
Cho tròn giấc ngủ nhạc trưa quê nhà

Bướm vờn mở cánh vườn hoa
Bao nhiêu hoa lá nhớ nhà bấy nhiêu
Tiếng yêu dạo khúc tương chiều
Sông Hương, núi Ngự tình yêu mãi chờ...


DH@

__________________



Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 01:56 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.