#41
|
||||
|
||||
![]() Trường Hận Ca Hoàng đế Đường Huyền Tông, họ tên thật là Lý Long Cơ, sau này hay gọi là Đường Minh Hoàng, nhà vua thứ chín đời nhà Đường (618-907). Lúc thiếu thời là một người anh vũ, có tài thao lược. Dưới triều đại của ông, đất nước được thanh bình. Nhưng mấy năm sau cùng, nhà vua đã 50 tuổi, đâm ra si mê Dương Quí Phi tức Dương Ngọc Hoàn, lại tin dùng bọn Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi), Lý Lâm Phủ, ... nên quốc chính ngày càng suy tệ. Lúc bấy giờ có tướng An Lộc Sơn, người Hồ, quê ở vùng Nhiệt Hà là người rất thông minh, được nhà vua tin mến. Nhứt là đối với Quí Phi, họ An rất được yêu thương. An xin làm con nuôi của Quí Phi để được phép ra vào cấm uyển mà khỏi ai dị nghị. Nhà vua mù quáng lại vui lòng ưng thuận. Vì có sự hiềm khích với Tể tướng Dương Quốc Trung, An Lộc Sơn sợ bị ám hại nên bỏ trốn, rồi cử binh từ quân Ngự Dương, tự xưng hoàng đế, đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Đến Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu đi nữa, lại đồng nhau phải giết chết quyền thần Dương Quốc Trung; và bức vua phải đem thắt cổ con người ngọc thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng Quí Phi là mầm sinh đại loạn. Lương thực hết, quân sĩ khổ mệt, căm tức. Gặp bước đường cùng, nhà vua đành giấu mặt, cắt lòng mà "hy sinh người yêu khuynh quốc". Sau, loạn dẹp xong, Đường Minh Hoàng trở về Trường An. Đế đô còn đó, mà con người ngọc yêu dấu ngày xưa nay đâu còn nữa. Nỗi nhớ thương dào dạt, dằng dặc đầy lòng. Mối tình vương giả này, rồi sẽ bị chìm trong lãng quên của thời gian, nếu không có ngòi bút tài hoa tuyệt vời của Bạch Cư Dị tô điểm cho thêm phần lâm ly, chua xót. Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, người đời nhà Đường, quê ở Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhận chúc Hàn lâm học sĩ. Có lúc ông bị biếm làm Tư mã đất Giang Châu. Sau, ông giữ chức Thứ sử ở Tô Châu, Hàng Châu. Về già, được thăng Hình bộ thượng thư. Chứng kiến được cảnh thảm khốc của một bi tình si lụy của Đường Minh Hoàng, họ Bạch để lòng cảm xúc bằng bài "Trường hận ca" (Hận tình muôn thuở). Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc, Ngữ vũ đa niên cầu bất đắc. Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành, Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức. Thiên sinh lệ chất nan tự khí: Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc. Hồi mâu nhất tiếu, bách mị sinh, Lục cung phấn đại vô nhan sắc. Xuân hàn tứ dục Hoa thanh trì, Ôn tuyền thủy hoạt tẩy ngưng chi. Thị nhi phù khởi kiều vô lực, Thỉ thị tân thừa ân trạch thì, Vân bấn hoa nhan kim bộ diêu. Phù dung trướng noãn độ xuân tiêu. Xuân tiêu khổ đoản, nhật cao khởi. Tùng thử quân vương bất tảo triều. Thừa hoan thị yến vô nhàn hạ, Xuân tùng xuân du, dạ chuyên dạ. Hậu cung giai lệ tam thiên nhân, Tam thiên sủng ái tại nhất thân. Kim ốc trang thành kiều thị dạ, Ngọc lâu yến bãi túy hòa xuân. Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ, Khả liên quang thái sinh môn hộ Toại linh thiên hạ phụ mẫu tâm Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ. Ly cung cao xứ nhập thanh vân, Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn, Hoãn ca mạn vũ ngưng ti trúc, Tận nhật quân vương khan bất túc... Ngư Dương bề cổ động địa lai, Kinh phá Nghê Thường vũ y khúc. Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh Thiên thặng vạn kỵ Tây Nam hành. Thúy hoa diêu diêu hành phục chỉ, Tây xuất đô môn bách dư lý. Lục quân bất phát, vô nại hà, Uyển chuyển nga my mã tiền tử, Hoa điền ủy địa vô nhân thâu, Thúy kiều kim tước ngọc tao đầu. Quân vương yểm diện cứu bất đắc, Hồi khan huyết lụy tương hòa lưu. Hoàng ai tán mạn phong tiêu tác, Vân san oanh vu đăng Kiếm các. Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành, Tinh kỳ vô quan nhật sắc bạc. Thục giang thủy bích, Thục sơn thanh, Thánh chúa triêu triêu mộ mộ tình. Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc, Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh. Thiên tuyền địa chuyển hồi long ngự, Đáo thử trù trừ bất năng khứ. Mã ngôi pha hạ nê thổ trung, Bất kiến ngọc nhan không tử xứ, Quân thần tương cố tận triêm y, Đồng vọng đô môn tín mã quy. Quy lai trì uyển giai y cựu: Thái dịch phù dung Vị ương liễu. Phù dung như diện liễu như my. Đối thử như hà bất lụy thùy! Xuân phong đào lý hoa khai nhật, Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì. Tây cung nam nội đa thu thảo, Lạc diệp mãn giai hồng bất tảo. Lê viên đệ tử bạch phát tân, Tiêu phòng a giám thanh nga lão. Tịch diện huỳnh phi tứ thiểu nhiên Cô đăng khiêu tận, vị thành miên. Trì trì chung cổ sơ trường dạ Cảnh cảnh tinh hà dục dục thự thiên. Uyên ương ngõa lãnh sương hoa trọng, Phỉ thúy khâm hàn thùy dữ cộng Du du sinh tử biệt kinh niên Hồn phách bất tằng lai nhập mộng. Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách, Năng dĩ tinh thành trí hồn phách. Vị cảm quân vương tuyển chuyển tư, Toại giao phương sĩ ân cần mịch Bài vân ngự khí bôn như điện, Thăng thiên nhập địa cầu chi biến. Thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền, Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến. Hốt đăng hải thượng hữu tiên san, San tại hư vô phiếu diễu gian. Lâu các linh lung ngũ vân khởi, Kỳ trung sước ước đa tiên tử. Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân, Tuyết phu hoa mạo sâm si thị. Kim khuyết tây tương khấu ngọc quynh, Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành. Văn đạo Hán gia thiên tử sứ. Cửu hoa trướng lý mộng hồn kinh. Lãm y thôi chẩm khởi bồi hồi, Châu bạc ngân bình dĩ lỹ khai. Vân kế bán thiên tân thụy giác, Hoa quan bất chính hạ đường lai. Phong xuy tiên duệ phiêu phiêu cử Do tự Nghê Thường vũ y vũ, Ngọc dung tịch mạc lệ lan can. Lê hoa nhất chi xuân đái vũ. Hàm tình ngưng thế tạ quân vương Nhất biệt âm dung lưỡng diễu mang. Chiêu dương điện lý ân ái tuyệt Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường. Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ, Bất kiến Trường An kiến trần vụ Duy tương cựu vật biểu thâm tình Điền hợp kim thoa ký tương khứ. Điền lưu nhất cổ hợp nhất phiến Thoa bích hoàng kim hợp phân điện. Đãn giao tâm tự kim điền kiên, Thiên thượng nhân gian hội tương kiến. Lâm biệt ân cần trọng ký từ, Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri, Thất nguyệt thất nhật Trường sinh điện, Dạ bán vô nhân tư ngữ thì, Tại thiên nguyện tác tị dực điểu, Tại địa nguyện vi tiên lý chi. Thiên trường địa cửu hữu thời tận, Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ. Tác phẩm này đã có nhiều người dịch ra quốc văn, có bản bằng Pháp văn của Georges Soulié de Morant. Dưới đây là bản dịch của Yã Hạc và Trịnh Nguyên: Vua Hán ước mơ người quốc sắc, Bao năm tìm kiếm luống công toi. Họ Dương có gái hoa đương nở, Khóa kín buồng xuân, hận lẻ loi. Sắc đẹp trời sinh khôn bỏ phí, Ngai vàng một sớm được ngồi chung. Một cười khêu gợi trăm mê luyến, Xóa mất hồng nhan ở sáu cung. Xuân lạnh, Hoa thanh hồ sẵn đó, Suối tuôn dòng ấm tắm hoa khôi, Vua ban ân trạch, con hầu nịnh Sáng dậy phò nâng ẻo lả ngồi. Ngày dạo sen vàng bay tóc mượt, Đêm xuân trướng ấm ủ hoa đào. Mặt trời lên vội, đêm xuân ngắn, Từ đấy nhà vua nhãng thị trào. Yến ẩm vui vầy thôi chẳng ngớt; Đêm đêm xuân tứ lại xuân tình. Ba ngàn cung nữ, ba ngàn mối, Sủng ái từ đây thanh hầu thánh chúa, Anh em nhuần gội ơn mưa móc, Nhà cửa hàn vi rạng rỡ lây. Thiên hạ đem lòng mơ phú quý, Khinh trai trọng gái kể từ đây. Ly Cung cao tít lồng mây biếc, Tiên nhạc mê hồn vẳng bốn phương. Sớm tối ca êm hòa múa dịu Não nùng tơ trúc đắm quân vương. Ầm ầm chiêng trống Ngư Dương dấy, Khúc hát Nghê Thường hoảng vỡ tan. Thành khuyết xôn xao mù khói bụi, Xe rồng rong ruổi hướng tây nam. Khi đi khi nghỉ, cờ phơ phất. Trăm dặm đường Tây bước gập ghềnh. Quân sĩ căm hờn, không chịu tiến: Mày ngài trước ngựa phải hy sinh! Hoa tai bỏ đất, không người nhặt, Trăm ngọc thoa vàng lả tả rơi. Đứt ruột quân vương đành giấu mặt. Ngoảnh nhìn máu chảy lệ ràn trôi. Bụi vàng tản mác đìu hiu gió, Kiếm Các cheo leo sạn đạo dài. Chân núi Nga Mi buồn bã vắng; tinh kỳ nhợt thếch, mặt trời phai. Nước non Ba Thục xanh xanh biếc, Sớm tối nhà vua trĩu nhớ nhung. Quạnh quẽ hành cung, trăng gợi thảm, Đêm mưa chuông vắng tiếng đau lòng. Trời xoay đất chuyển quày long ngự, Chốn cũ ngừng thăm dạ ngẩn ngơ. Mặt ngọc giờ đâu? Trơ tử địa, Mã ngôi ảm đảm đất bùn nhơ, Vua tôi nhỏ lệ đầm bâu áo, Kinh khuyết vời trông tế ngựa về, Về tới, vườn ao như thuở trước. Vị ương lá liễu giống mày ai, Phù dung Thái dịch trông như mặt. Cảnh cũ tình xưa giọt lệ rơi! Đào lý nở hoa xuân gió thoảng, Mưa thu đổ rụng lá ngô đồng. Tây cung Nam nội đầy thu thảo, Phủ kín thềm hoang lá úa hồng. Con hát Lê viên sầu tóc bạc, Tiêu phòng thái giam hận răng long. Tối nhìn đom đóm bay le lói. Khêu cạn đèn khuya giấc chửa an. Dằng dặc năm canh rền trống điểm, Sông Ngân lấp lánh báo đêm tàn. Mái lầu thánh thót rơi sương lạnh, Đắp chiếc mền đơn, nhớ độ nào... Sống thác bao năm đằng đẵng biệt, Hương hồn sao chẳng hiển chiêm bao! Lâm Cùng may có tay phương sĩ, Một phép chiêu hồn dậy tiếng tăm, Thương cảm quân vương trằn trọc nhớ, Mới sai đạo sĩ cố truy tầm. Cỡi mây lướt gió nhanh như chớp, Lên tận trời cao xuống đất sâu. Bích Lạ, Hoàng Thuyền đi khắp chỗ, Mênh mông nào thấy bóng ai đâu! Chợt nghe ngoài biển nơi không ảo, Lơ lửng mơ hồ có núi tiên. Cung điện chập chờn mây ngũ sắc. Tiên nga tha thướt dạo trong đền, Mặt hoa da tuyết riêng nàng nọ, Phảng phất hình dung, tợ Thái Chân. Gõ cửa hiên tây vàng rực rỡ, Báo tin Tiểu Ngọc, nhắn Song Thành. Nghe tin sứ giả đời vua Hán Trướng gấm hồn mơ bỗng giựt mình. Dã dượi ngồi lên, thu vạt áo, Rèm châu bình lạc, mở lần ra. Tóc mây lệch nửa, nghiêng nghiêng mũ Bước xuống thềm loan, dáng thẫn thờ. Tay áo gió lay bay phất phới, Tưởng như đang múa Nghê Thường xưa. Âm thầm mặt ngọc lưa thưa lệ, In một cành lê điểm điểm mưa. Ngầm sầu ngưng lệ, tạ quân vương, Từ thuở âm dương biệt mỗi phương. Trong điện Chiêu Dương, ân ái tuyệt, Bồng lai tiên cảnh, tháng năm trường. Ngoảnh đầu trông xuống nơi trần thế, Chẳng thấy Trường An, thấy bụi mù. Gởi tỏ tình tâm trong vật cũ, Thoa vàng hộp đá kính dâng vua. Hộp đá thoa vàng đem bẻ nửa, Nửa thì giữ lại, nửa đưa trao, Lòng sao chỉ nguyện như vàng đá, Hạ giới thiên đình sẽ gặp nhau. Lúc sắp lui về còn nhắn nhủ, Nhắc lời thệ ước giữa đôi bên. Năm xưa, trùng thất, Trường Sinh điện. Vắng vẻ đêm khuya thủ thỉ truyền: "Trên trời nguyện hóa chim liền cánh, Dưới đất làm cây nhánh dính liền". Trời đất lâu bền rồi sẽ tận, Hận này muôn thuở vẫn miên miên.
__________________
![]() |
#42
|
||||
|
||||
![]() Hoa đào năm ngoái …
Thôi Hộ, một danh sĩ đời nhà Đường (618-907), nhân dự hội Đạp Thanh đến Đào Hoa Trang, gõ cửa một nhà xin được giải khát. Một thiếu nữ đứng thập thò bên cửa đưa nước cho chàng. Nàng đẹp, duyên dáng, e lệ. Chàng đưa tay tiếp lấy bát nước. Đôi tay trai gái chạm nhau. Nàng ngượng ngùng, cúi mặt xuống. Đôi má hây hây đỏ như đóa hoa đào. Chàng rụt rè, ngượng nghịu. Đoạn từ giã đi. Nhưng rồi đèn sách và mộng công hầu không xóa mờ hình bóng của giai nhân. Đào Hoa Trang vẫn gợi lên một hình ảnh đầm ấm trong trí não, khiến lòng chàng nho sinh chan chứa biết bao tình cảm mặn nồng... Rồi năm sau, ngày hội du xuân đến. Thôi Hộ tìm đến Đào Hoa Trang. Cảnh cũ còn đó, nhưng con người xưa vắng bóng. Cửa đóng then cài. Chỉ có ngàn hoa đào rực rỡ phe phẩy theo gió xuân như mỉm cười, chào đón khách du xuân. Ngẩn ngơ, thờ thẫn trước cảnh cũ quạnh hiu, Thôi Hộ ngậm ngùi: - Hay là nàng đã về nhà chồng! Từng bước một, chàng quay bước trở ra. Lòng cảm xúc vô hạn, rồi muốn ghi lại mấy dòng tâm tư của mình, chàng thảo mấy câu thơ trên cửa cổng: Chiều đến, nàng thiếu nữ họ Đào cùng thân phụ đi viếng người thân trở về. Nàng theo sau cha, chợt nhìn lên cổng thấy bốn câu thơ, nét chữ tinh xảo, ý thơ dồi dào, nàng hiểu rõ tâm tình của khách du xuân năm ngoái. Nàng buồn bã thở dài, hối tiếc duyên vừa gặp gỡ lại khéo bẽ bàng. Rồi ngày này sang ngày khác, nàng thiếu nữ họ Đào vẫn tựa mình bên cửa cổng, mong đợi và hy vọng người khách hào hoa phong nhã xin nước năm xưa. Nhưng ngày lại ngày qua, mấy lần bóng chiều xuống, bóng người xưa chẳng thấy mà chỉ thấy vài cánh chim chiều bạt gió, lẻ loi từ ngàn phương kêu bạn đổ về bằng một giọng não nùng... Nàng âm thầm gạt lệ. Nhưng lệ vẫn trào lên khóe mắt, đẫm lên đôi má. Rồi đông qua xuân đến, hè lại thu sang, lá rơi rụng bay lả tả phủ đầy thềm. Trời thu hiu hắt. Cảnh sắc thu thêm giục khách sầu đau. Rồi mỗi khi xuân về, ánh thiều quang ấm áp, ủ ấp trên ngàn cây nội cỏ càng gợi lại nỗi nhớ nhung hình ảnh của ai làm dằng dặc cõi tâm tư. Nàng cảm thấy đời hoàn toàn tuyệt vọng. Rồi từ ấy nàng bỏ ăn bỏ ngủ, thân hình tiều tụy, dung nhan võ vàng. Thân phụ ngày đêm lo lắng, tìm thầy thuốc. Nhưng nào biết đâu: "Nhược hữu lương y viên tuyệt mạng, tùng lai vô dược liệu tương tư" (Có thầy giỏi cứu được sự sống cho người, chớ không có thuốc chữa bịnh tương tư). Biết không sống được, nàng đành thuật lại tâm sự của mình cho cha già nghe và xin tha tội bất hiếu. Người cha xúc động đau khổ cho số phần đen bạc của đứa con gái duy nhứt của mình. Nhìn thấy đứa con nằm thiêm thiếp trên giường như chờ đợi tử thần, ông lão thương con nóng lòng, đâm liều chạy tìm người đã đề thơ trên cổng. Nhưng hạc nội mây ngàn tìm đâu cho thấy. Người cha đau khổ ấy bối rối, cứ chạy ra chạy vào, lòng mang một mong mỏi yếu đuối. Trong giờ phút cuối cùng may được gặp chàng trẻ tuổi xa lạ đã gây sóng gió bão tố trong gia đình ông mà giờ phút này, ông cho là vị cứu tinh của gia đình, nên ông lại chạy kiếm nữa... Vừa ra khỏi cổng, bỗng chạm phải một người. Ông ngửng mặt nhìn. Đó là một thư sinh tuấn tú. Thấy ông, mặt mày giàn giụa nước mắt, cử chỉ hốt hoảng, chàng thư sinh thăm hỏi. Ông vừa bươn bả đi vừa kể lể. Nhưng kể chưa dứt câu chuyện, chàng thư sinh bỗng ôm mặt khóc. Ông lão lấy làm ngạc nhiên, chưa kịp hỏi thì chàng thư sinh nói: - Tôi là Thôi Hộ, người đã đề bài thơ trên cổng... Chàng chưa dứt lời, ông đã mừng rú lên rồi lôi sền sệt chàng vào nhà, đưa thẳng đến phòng. Nhưng nàng thiếu nữ cũng vừa trút hơi thở cuối cùng. Nhìn nàng thiếu nữ nặng tình yêu đã vì chàng mà vóc liễu tiều tụy, dung nhan võ vàng, chết một cách thảm thiết, chàng cảm động quá, quỳ bên giường, cầm lấy tay nàng. Chàng úp mặt vào mặt nàng, khóc nức nở! Lạ thay, nước mắt của chàng rỏ xuống mặt nàng thiếu nữ họ Đào, thì nàng bỗng từ từ mở mắt ra đăm đăm nhìn chàng, trên môi điểm một nụ cười tươi thắm. Nàng đã sống lại. Ông già họ Đào mừng rỡ. Chàng thư sinh họ Thôi hớn hở vui tươi. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả Kim Trọng sau khi về Liêu Dương hộ tang chú, quay trở lại vườn Lãm Thúy để tìm Kiều, có câu: Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
__________________
![]() |
#43
|
||||
|
||||
![]() Tiếng đàn tri âm Bá Nha, người đời nhà Tấn, làm quan Thượng Đại Phu. Một hôm đi sứ nước Sở trở về, đến sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu trăng thanh gió mát, ông bảo quân dừng thuyền lại để uống rượu thưởng trăng. Thừa hứng, Bá Nha đem đàn ra gảy. Nhưng bản đàn chưa dứt, dây đàn bỗng đứt. Bá Nha lấy làm kinh ngạc, nghĩ thầm: - Chỗ này núi cao, non thẳm, sông dài, lẽ đâu có người biết nghe đàn làm cho dây đàn vội đứt. Hẳn đây là quân trộm cướp chăng? Đoạn truyền quân lên bờ tìm bắt. Bỗng có tiếng một chàng trẻ tuổi vọng xuống: - Xin đại nhân chớ nghi, tôi là đứa trẻ đốn củi mộc mạc, thấy khúc đàn hay nên dừng chân nghe thử. Bá Nha mỉm cười, bảo: - Có lẽ đâu một tên tiều phu mà lại biết nghe đàn! Chàng tiều phu đáp: - Xin lỗi đại nhân! Đại nhân nói như vậy chẳng là lầm lắm. Thánh nhân xưa có nói: Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa có quân tử đến. Nếu đại nhân khi chỗ núi non rừng bụi không có người biết nghe dàn thì ở nơi sông vắng đêm khuya này chẳng lẽ có khách biết đàn. Nghe có chiều hữu lý, nhưng Bá Nha lại hỏi: - Ngươi bảo nghe được đàn, vậy ta đàn bài gì đây? - Dạ, đại nhân đàn bài Đức Khổng Tử than tiếc thầy Nhan Hồi. Bài ấy như vầy: Bá Nha cho là hay, mời khách xuống thuyền đàm đạo. Nhưng nhìn thấy khách là một chàng trai trẻ tuổi, quần bô áo vải thì có vẻ xem thường. Bá Nha không nói gì, ôm đàn sửa dây gảy một bản hướng về ý cao siêu. Bản đàn vừa dứt, chàng tiều phu cười nói: - Hay! Hay! Ý đại nhân vọi vọi ở non cao (Nga nga hề chỉ tại sơn). Bá Nha lại gảy một bản đàn khác hướng về tình cảm mênh mang, khoáng đãng. Chàng tiều phu cười nói: - Hay! Hay! Ý đại nhân cuồn cuộn nơi nước chảy (Dương dương hề chí tại lưu thủy). Bá Nha lấy làm khâm phục, đứng dậy xốc áo xin lỗi và hỏi danh tánh. Chàng tiều phu xưng là họ Chung tên Tử Kỳ. Cả hai trò chuyện, lấy làm tương đắc. Bá Nha lại mời Tử Kỳ cùng theo mình về triều để hưởng cuộc sống giàu sang. Tử Kỳ thở dài, bảo: Vì còn cha mẹ già, phận làm con phải ở bên quạt nồng ấp lạnh, thần tỉnh mộ quang phụng dưỡng. Vì việc quan cần cấp, Bá Nha phải sớm về triều. Lại ước hẹn với Tử Kỳ là sang năm ngày này, tháng này, Bá Nha sẽ đem thuyền đến đón cả gia quyến của Tử Kỳ về triều, vậy chàng hãy chờ đợi tại đây. Đoạn hai người từ giã nhau. Rồi đến mùa thu năm sau, Bá Nha đem thuyền đến đón tại vàm sông Hán Dương cạnh núi Mã An. Bá Nha chờ đợi mãi nhưng không thấy Tử Kỳ đến. Buồn bã, Bá Nha lại ôm đàn gảy. Tiếng đàn hôm nay sao lại ai oán vô cùng. Lòng Bá Nha nghi hoặc một điềm bất thường xảy đến. Sáng lại, Bá Nha lên bờ, lần bước thăm hỏi nhà Tử Kỳ. Đến nơi mới hay Tử Kỳ vừa chết trong một cơn bạo bịnh. Chung ông lại cho biết rằng: Trước khi chết, Tử Kỳ lại trối phải chôn chàng bên mé sông Hán Dương, cạnh núi Mã An để chàng giữ lời hẹn với Bá Nha năm xưa là đến đó đón người. Bá Nha tìm đến mộ Tử Kỳ, bày đồ tế lễ, rồi lấy đàn gảy một bài ai điếu và khóc lóc thảm thiết. Đàn xong Bá Nha bèn đập đàn vào đá tan nát, thề trọn đời không đàn nữa vì đã hết bạn tri âm. Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Đồ Chiểu có câu: Than rằng lưu thủy cao san, Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn Kim Trọng yêu cầu Kiều đánh đàn cho nghe, có câu: Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm. Rằng: "Nghe nổi tiếng cầm đài, Cổ thi cũng có câu: "Bất tích ca giả khổ, Đãn thương tri âm hy" nghĩa là: "Không tiếc người hát khó nhọc, chỉ đau đớn người tri âm ít mà thôi". Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ". "Lưu thủy, cao san, tri âm, Chung Kỳ" đều căn cứ điển tích trên.
__________________
![]() |
#44
|
||||
|
||||
![]() Tuyệt Diệu Hảo Từ Thái Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264). Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền, thấy một người chụm củi, ông bảo: "Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là củi tốt, sao đem chụm cho uổng". Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn, tiếng rất trong. Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn, nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở với Hung Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót, mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về. Vua đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ. Khi về nước, nàng Thái Diễm có làm bài "Bi phẫn thi" dài 540 chữ, tả nỗi long đong của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ. Một hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa: - Đây là bài văn bia đề một nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn, chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng văn hay đồn dậy xa gần... Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc. Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có người khắc cả 8 chữ vào đấy. Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: "Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu". Tháo hỏi Diễm: - Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không? Nàng thưa: - Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng hiểu ý nghĩa ra sao. Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng: - Tôi hiểu ra rồi. Tu giải: - Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. "Hoàng quyến" là lụa màu vàng, tức là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ "ti" với chữ "sắc" hợp lại thành chữ "tuyệt". "Ấu phụ" nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là "thiếu nữ". Chữ "thiếu" đứng bên chữ "nữ" hợp thành chữ "diệu". "Ngoại tôn" là cháu ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ "nữ" chắp với chữ "tử" thành chữ "hảo". "Tê cửu" là cái cối giã hành tỏi. Cái cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ "thụ" đặt bên chữ "tân" thành chữ "từ". Tóm lại, đó là ẩn chữ "Tuyệt diệu hảo từ", tức Thái Ung đã hết lời khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy. Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp.
__________________
![]() |
#45
|
||||
|
||||
![]() Nam Tào, Bắc Đẩu Quản Lộ tự Công Minh, vốn người ở đất Bình Nguyên đời Tam Quốc (220-264) diện mạo xấu xí, thích uống rượu. Từ bé, Lộ ham xem thiên văn, thường đêm nằm nhìn trăng sao, thao thức không chớp mắt, cha mẹ ngăn cấm không được. Vừa lớn lên, Quản Lộ đã làu thông kinh Dịch, hiểu hết nghĩa uyên thâm, biết đoán chiều gió, tinh thông khoa lý số và giỏi cả xem tướng. Một hôm, Lộ ra cánh đồng dạo chơi, thấy một gã thanh niên đương cày ruộng. Lộ đứng lại bên đường, đứng ngắm một lúc, đoạn gọi lại hỏi: - Này anh kia, dám hỏi quý danh là gì? Niên canh bao nhiêu? - Tôi họ Triệu tên Nhan, 19 tuổi. Dám hỏi tiên sinh là ai? Lộ đáp: - Ta là Quản Lộ đây. Ta thấy trên quầng mắt anh có tử khí. Chỉ còn ba ngày nữa là anh chết. Tiếc thay, gương mặt anh xinh đẹp thế mà không thọ. Triệu Nhan nghe nói lo sợ, về ngay báo cho cha biết. Người cha lập tức chạy theo tìm gặp Quản Lộ, rồi phủ phục xuống đất, kêu khóc: - Xin tiên sinh rủ lòng thương, trở lại cứu mạng con tôi. Lộ nói: - Đó là số trời, cầu đảo sao được! Ông lão năn nỉ, van lơn: - Già này chỉ có một đứa con, xin ngài cứu cho, kẻo khổ một đời... Nói xong, cả hai cha con dập đầu lạy, khóc bù lu bù loa, trông rất bi thiết. Lộ thấy cha con lão thiệt tình, lòng không nỡ bỏ, mới bảo Triệu Nhan: - Anh hãy về tìm một vò rượu ngon rất tinh khiết với một ít thịt nai thật thơm, ngày mai đem vào núi Nam Sơn, tìm gốc cây cổ thụ, sẽ thấy ở trên phiến đá có hai dị nhân ngồi đánh cờ. Một ông ngồi quay về Nam mặc áo trắng, dung mạo dữ tợn, một ông quay về hướng Bắc mặc áo hồng, dung mạo rất đẹp. Bấy giờ thừa lúc hai vị cao hứng mải mê đánh cờ, anh cứ bày rượu thịt ra mâm dâng lên. Đợi cho ăn uống xong, sẽ lạy khóc mà xin tuổi thọ. Như thế may được sửa sổ lại. Nhưng nhớ kỹ một điều: chớ nói là ta xúi anh nhé. Ông lão mời Quản Lộ ở lại nhà mình chờ xem. Hôm sau, Triệu Nhan cắp nắp rượu ngon, nem thơm, dĩa chén vào núi Nam Sơn. Đi độ năm sáu dặm, quả thấy hai dị nhân đang ngồi đánh cờ trên phiến đáa, dưới bóng rườm rà của cây tùng. Triệu Nhan đội mâm rượu đến gần. Hai ông vẫn chăm vào bàn cờ, như không có người đứng bên cạnh. Nhan quỳ xuống dâng mâm lên, đặt trên thạch bàn. Hai ông mải mê đánh cờ, bất giác đưa tay nâng chén... rồi dần dần vừa đánh vừa ăn uống hết cả rượu thịt một cách ngon lành. Lúc bấy giờ, Nhan mới khóc òa lên và lạy lục xin cầu thọ. Hai ông giựt nẩy mình nhìn lại. Đoạn ông mặc áo đỏ bảo ông mặc áo trắng: - Hẳn là gã họ Quản xúi nó đến đây, nhưng hai ta đã dùng của nó thì phải thương nó. Ông áo trắng liền rút quyển sổ trong mình ra, tìm xét, rồi bảo Nhan: - Năm nay mày 19 tuổi, đáng lý phải chết, giờ đây ta thêm cho một chữ "cửu" lên trên hai chữ "thập cửu" thì mày sẽ sống đến 99 tuổi. Nhưng phải về báo gã Quản Lộ rằng: từ nay phải chừa đi, chớ có tiết lộ thiên cơ nữa. Nếu không trời sẽ khiển phạt, nghe chưa? Ông áo đỏ cũng mở sổ, thêm vào một nét bút. Rồi một cơn gió thơm ngào ngạt bay qua, hai vị tiên biến thành hai con hạc trắng, bay lên trời mất hút. Triệu Nhan mừng rỡ, về nhà hỏi Quản Lộ về hai vị tiên ông ấy. Quản Lộ nói: - Ông mặc áo hồng chính là ngôi Nam Đẩu hay gọi là Nam Tào. Ông áo trắng là ngôi Bắc Đẩu đấy. Nhan lại hỏi: - Tôi nghe nói Bắc Đẩu có những 9 vị, sao chỉ thấy có một ông? Lộ giải thích: - Phân tán thì thành 9, kết hợp lại thành một. Bắc Đẩu ghi sổ tử, Nam Tào ghi sổ sinh. Nay đã được sửa số tuổi rồi anh còn lo gì nữa! Cha con họ Triệu mừng rỡ lạy tạ. Từ đó, Quản Lộ sợ tội tiết lậu thiên cơ không dám khinh xuất nói hở việc huyền bí cho ai biết nữa.
__________________
![]() |
#46
|
||||
|
||||
![]() Bách bộ xuyên dương "Bách bộ xuyên dương" là đứng xa trăm bước bắn trúng lá dương. Đời Xuân Thu (551-479 trước D.L.), tướng Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng đều là người nước Sở, có tài thiện xạ. Một hôm, cả hai thử tài nhau chơi. Phan Đảng bắn luôn ba phát đều trúng đích bia. Dưỡng Do Cơ nói: - Nhà người bắn trúng đích bia, chưa lấy gì làm lạ. Ta trăm bước bắn trúng lá dương. Mọi người đứng quanh lấy làm lạ, hỏi. Dưỡng nói: - Đánh dấu vào một lá dương, ta đứng xa trăm bước, bắn một phát trúng giữa lá ấy nên mới gọi là "bách bộ xuyên dương". Để thưởng thức tài họ Dưỡng, mọi người kéo nhau đến cây dương. Một người lấy mực đánh dấu vào một chiếc lá. Dưỡng Do Cơ đứng xa trăm bước, giương cung lắp tên, bắn ra một phát. Không thấy tên rơi xuống đất, mọi người đổ đến cây xem. Thì ra cây tên ấy vướng trên cành cây dương, còn cái mũi xuyên qua chiếc lá đã bôi mực. Phan Đảng nói: - May được trúng đấy thôi. Bây giờ, ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba chiếc lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay kiệt hiệt. Phan Đảng liền đánh dấu ba chiếc lá. Mỗi chiếc mỗi chỗ: chiếc đề chữ "nhứt", chiếc đề chữ "nhị", chiếc đề chữ "tam". Dưỡng Do Cơ nhìn qua một lượt, đoạn lui ra ngoài trăm bước, lại theo thứ tự của mỗi chiếc lá: một, hai, ba mà bắn luôn ba phát, đều trúng cả. Mọi người chấp tay xá, nói: - Quả thật là thần nhân. Phan Đảng lòng khen thầm, nhưng cũng muốn khoe tài mình, bảo: - Bắn như thế cũng là giỏi, nhưng nghề bắn cần có sức khỏe mới được. Ta có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp. Đoạn bảo quân sĩ xếp áo giáp bảy lần liền nhau, dày gần một thước. Mọi người cho là khó bắn qua được. Phan Đảng lại sai đem bảy lần áo giáp ấy treo lên đích bia, đoạn đứng xa trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn một phát. Chỉ nghe tiếng tên bay vút đi mà không thấy tên rơi xuống đất, mọi người đổ lại xem, reo ầm lên: - Thật tài! Thật tài! Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, tên ấy xuyên thấu bảy lần áo giáp như đinh đóng cột. Phan có vẻ tự đắc, truyền cho quân sĩ đem mấy lần áo giáp ấy xuống, và vẫn để mũi tên găm như vậy, định đưa cho tất cả trại lính cùng xem. Nhưng Dưỡng Do Cơ bảo: - Khoan đã, đừng hạ xuống vội. Để ta thử bắn một phát nữa xem sao. Mọi người vui vẻ đồng ý. Nhưng Dưỡng Do Cơ giương cung toan bắn lại thôi. Chúng nhân lấy làm lạ hỏi, Dưỡng nói: - Nếu cứ theo lối cũ mà bắn như vậy thì không lấy gì hay lạ. Ta sẽ có một cách bắn khác hơn. Nói xong liền bắn ngay một phát. Mũi tên đi không cao, không thấp, không lệch về tả hữu mà lại cắm thẳng ngay cái đốc tên của Phan Đảng và đẩy mũi tên này sang qua bên kia. Còn mũi tên của Dưỡng Do Cơ thì thay vào cắm chỗ thủng ấy. Mọi người xem thấy đều lắc đầu le lưỡi và hoan hô nhiệt liệt. Bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục. Trong sử lại có chép: Vua Sở đi săn ở Kinh Sơn, gặp một con vượn có tài bắt tên giỏi lắm. Vua Sở truyền quân vây mấy vòng rồi giương cung bắn. Nhưng phát nào, vượn cũng bắt được cả. Vua Sở truyền gọi Dưỡng Do Cơ đến. Con vượn nghe tiếng "Dưỡng Do Cơ" liền kêu gào ầm lên, ra vẻ sợ hãi. Dưỡng Do Cơ đến, bắn trúng ngay giữa bụng con vượn. Xem thế, Dưỡng là người bắn giỏi nhất đời Xuân Thu. Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Đồ Chiểu, đoạn Võ Thể Loan tiễn Lục Vân Tiên đi thi, có lời khuyên: Chàng dầu cung Quế, xuyên dương, "Xuyên dương" do điển tích trên và có ý nghĩa mưu việc đều thành tựu. Thiếp xin vẹn chữ tao khương đạo hằng.
__________________
![]() |
#47
|
||||
|
||||
![]() Chắp cánh, liền cành "Chắp cánh, liền cành" tức là "Chim chắp cánh, cây liền cành". Sách Nhĩ Nhã chép: Chim Kiêm giống chim le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương Nam. Mỗi khi muốn bay thì hai con phải chắp cánh với nhau mới bay được. Chim này gọi là tỷ dực điểu, cũng gọi là Kiêm Kiêm. Cây liền cành là cành của hai cây giao nhau. Nguyên đời Chiến Quốc (479-221 trước D.L.) vua nước Tống tên Yển vốn người hiếu sắc, dâm bạo. Một hôm đến chơi ở gò Phong Phụ, bắt gặp một phụ nữ hái dâu rất đẹp. Vua dọ hỏi biết là vợ của nho sĩ Hàn Phùng, người họ Tức. Vua liền cho đòi Hàn, bảo đem vợ lại hiến mình. Hàn sợ uy quyền, về thuật cho vợ nghe và khóc hỏi có bằng lòng không? Tức Thị làm thơ để tỏ ý mình: Núi nam có con chimVua Tống say mê sắc đẹp của nàng, theo đuổi không thôi. Liền sai người đến tận nhà Hàn, cướp lấy người ngọc. Hàn thấy vợ bị bắt đưa lên xe đi, lòng như dao cắt, biết không phương giải cứu, kiếp này khó họp, đau đớn quá mà tự tử. Vua Tống đem Tức Thị lên đài Thanh Lăng, cưỡng bách, bảo nàng: - Ta đây là vua một nước, có đủ uy quyền sinh sát trong tay. Muốn phúc, ta cho phúc. Muốn họa, ta cho họa. Phương chi chồng nàng đã chết, nàng còn ở với ai. Nếu bằng thờ quả nhân, cùng tay bắt mặt kề thì sẽ được phong hoàng hậu. Tức Thị nổi giận làm thơ tỏ ý mình: Chim có trống mái,Vua Tống tức quá, bảo: - Nàng đến đây rồi, dẫu không muốn thờ ta cũng không thể được. Tức Thị thấy thế cùng, nói: - Để thiếp tắm gội, thay áo, lạy linh hồn chồng cũ rồi sẽ xin hầu đại vương. Vua Tống bằng lòng cho. Tức Thị tắm gội, thay áo xong, ngửa trông lên không, chắp tay vái hai vái rồi từ trên lầu đâm đầu xuống. Vua Tống hoảng hốt, vội níu lại nhưng không kịp, trông nàng đã tắt thở rồi. Khám xem trong mình nàng có một bức thư. Đại ý nói: sau khi chết xin cho đem thi thể cùng chôn một mộ với chồng, dưới suối vàng sẽ đội ân sâu. Vua Tống cả giận, cho người chôn riêng một nơi, làm hai mộ cách xa nhau. Được ba hôm, bỗng một đêm có giống cây Văn Tử mọc ở cạnh hai ngôi mộ. Chỉ trong tuần nhật, cây ấy dài hơn ba thước, những cành quấn quít lấy nhau như một. Thỉnh thoảng có một đôi chim uyên ương đậu ở trên cành, giao đầu kêu nhau một giọng bi thương. Người trong xóm thương xót, cho đó là oan hồn của vợ chồng Hàn Phùng hóa sinh; và gọi thứ cây ấy là "Cây tương tư". Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du có câu: Trong khi chắp cánh liền cành, "Chắp cánh liền cành" ý nói: vợ chồng gắn bó. Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên. Trong "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn, có câu: An đắc tại thiên vị tỷ dực điểu, Trong "Trường hận ca" của Bạch Cư Dị đời nhà Đường bên Tàu, đoạn thuật lời thề giữa đêm thất tịch của Đường Minh Hoàng cùng Dương Quí Phi tại điện Trường Sinh, có câu: Tại địa vị liên lý chi. Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm: Thiếp xin về kiếp sau này, Như chim liền cánh, như cây liền cành. Tại thiên nguyệt tác tỷ dực điểu,Nghĩa là: Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,để nói ý: vợ chồng gắn bó chung thủy đời đời, không bao giờ xa rời nhau.
__________________
![]() |
#48
|
||||
|
||||
![]() Gậy rút đất Ở núi Xuân Đài, xã Thọ Vực, huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hóa) có động Hồ công. Phía trước động ngoảnh về sông Mã. Trong động có hai tượng đá. Tục truyền khi xưa, có một ông già và một thằng bé đi bán thuốc ngồi nghỉ ở đó, rồi tự nhiên biến mất. Người ta cho là hậu thân của ông Hồ Công và Phí Trường Phòng. Bởi vậy tạc tượng để thờ. Câu chuyện Việt Nam lại liên quan chuyện của Tàu. Vì truyện Hồ Công và Phí Trường Phòng là truyện Tàu. Cả hai người đều là người Tàu. "Liệt tiên truyện" chép: Khoảng đời Tây Hán (206 trước D.L.-8 sau D.L.) có ông Hồ Công hằng ngày bán thuốc ở chợ Trường An. Ông thường đeo một cái bầu bên hông. Tối đến thì chun vào bầu ấy mà ngủ. Phí Trường Phòng là người hằng ngày dâng bánh cho Hồ Công ăn, thấy thế làm lạ kỳ. Một hôm, yêu cầu Hồ Công cho mình vào bầu thử một lần xem sao. Hồ Công bằng lòng, đưa Phí vào bầu. Trong bầu có những lầu đài tráng lệ, có những kẻ hầu hạ rất lịch sự trông như cảnh thần tiên. Phí Trường Phòng cực kỳ kinh ngạc nói: - Không ngờ đây lại chiếm riêng một cõi càn khôn. Hồ công nói: - Ta vốn là tiên bị trích xuống trần nên tạm ngụ ở đây. Trường Phòng yêu cầu, xin theo Hồ công học đạo tiên. Hồ công bèn dẫn vào núi dạy phép tu luyện. Khi từ biệt, Hồ công trao cho Trường Phòng một cây gậy tre rút đất, có phép thâu ngắn đường đi. Từ đấy, Trường Phòng xách gậy, rày đây mai đó, công danh phú quý gác bỏ ngoài tai. Hàng ngày, Phí thường la cà nơi quán rượu; nhân đó quen biết một anh lính thú. Anh này rất kính trọng Phí, và thường trút túi đãi rượu thẳng tay. Một hôm trên đường về chỗ trọ, Phí thấy anh lính vẻ mặt buồn bã, thỉnh thoảng lại thở dài thườn thượt, mới hỏi cớ sự. Anh lính thú thực là ba năm rồi, chẳng được phép về quê thăm vợ con. Anh nhớ lắm. Phí vui vẻ nói: - Tưởng là việc gì khó, chớ muốn thăm vợ con thì ta giúp cho. Đêm nay về chung vui vợ con, sáng đến có mặt cho khỏi bị quan quở. Cho là lời bỡn cợt vô duyên, anh lính tức bực bảo: - Trông ông có vẻ tiên phong đạo cốt, tôi kính trọng ông, không ngờ ông lại tàn nhẫn chế giễu, cười cợt trước sự đau khổ của tôi. Từ đây về quê tôi, đường trải hàng vạn dặm lại gay go hiểm trở, phải đi trót tháng mới về đến nơi. Thế mà ông bảo đêm nay về, sáng đến! Phí Trường Phòng không hờn giận, vẫn vui vẻ, cười bảo: - Ta nói thật đấy. Ta có phép tiên. Từ trước đến nay, ta vốn thọ ơn hậu đãi, nay ta làm phép mọn để gọi là trả ơn chút ít đó. Đoạn, bảo anh lính ngồi lên cây gậy và nhắm mắt lại, chừng nào nghe hết hơi gió sẽ mở mắt ra. Và, khi sáng sớm cũng ngồi trên gậy trở lại, thực hành như lúc về. Anh lính mừng rỡ, vâng lời. Vừa trèo ngồi lên gậy xong thì gió ù ù thổi đến, anh lính nhắm chặt mắt lại. Rồi cảm thấy thân mình nhẹ bổng như bay giữa thinh không. Thoáng chốc, gió lặng, anh mở bừng mắt ra thì trước mắt anh quả thực đây là nhà của mình. Vợ chồng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi, tưởng chừng như sống trong mộng. Thế là đêm đó, vợ chồng mặc tình trút nỗi tâm sự những ngày xa vắng nhớ nhau. Rồi sáng sớm, anh lại lên gậy trở về biên thú. Phí Trường Phòng còn giúp anh lính được nhiều lần như thế nữa. Một thời gian lâu sau, Phí Trường Phòng ném cây gậy tre ấy ở xứ Cát Bi, hóa ra rồng mà bay đi mất. Từ đó, người ta không tìm thấy hình bóng của Phí đâu nữa. Trong "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn có câu: Hận vô Trường Phòng xúc địa thuật. Bà Đoàn Thị Điểm diễn nôm: Gậy rút đất dễ khôn học chước. "Trường Phòng", "xúc địa thuật" (phép rút đất) hay "gậy rút đất" đều do điển tích trên. Vua Lê Thánh Tông đời Hậu Lê (1428-1788) có làm bài thơ về động Hồ công: Thần chùy quỷ tạc vạn trùng san,Bản dịch của Thiện Đình: Khuông thiêng khéo tạc núi muôn trùng,
__________________
![]() |
#49
|
||||
|
||||
![]() Kết cỏ ngậm vành Đời Xuân Thu (551-479 trước D.L.), tướng nước Tần là Đỗ Hồi, đem quân sang đánh nước Tấn. Hồi vốn là một lực sĩ, răng nhọn hoắc, mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xồm tóc quăn, thân cao to lớn, chuyên sử dụng cây Khai Sơn đại phủ (búa to) nặng 120 cân, người giống Bạch Địch. Đã có lần ở Thanh Mi Sơn, Đỗ đâm chết luôn 5 con hổ, lột da đem về. Và, cũng có lần, Đỗ chỉ huy 300 quân mà phá vỡ được hơn 10 ngàn quân giặc ở Sa Nga Sơn. Uy danh càng lừng lẫy. Tướng của nước Tấn là Ngụy Khỏa đem binh ra nghinh chiến. Đỗ Hồi dẫn 300 quân xông vào mặt trận, múa cây Khai Sơn đại phủ tung hoành chém giết. Búa đến đâu là đầu rơi long lóc. Quân Tấn chết nằm ngổn ngang như rạ. Ngụy Khỏa vội vàng rút quân, đóng chặt cửa thành, giữ lấy thế thủ. Mặc cho Đỗ Hồi đến khiêu chiến, chửi rủa thậm tệ suốt cả mấy ngày. Vừa lúc ấy có em của Ngụy Khỏa là Ngụy Kỳ vâng lịnh vua Tấn đem binh tiếp ứng. Khỏa thuật cả việc lại. Kỳ không tin, hôm sau đem quân ra nghinh chiến. Đỗ Hồi lại múa búa, tả xông hữu đột, chém giết quân Tấn tơi bời, máu chảy tựa suối. Ngụy Kỳ thua to. May nhờ có Khỏa liều thân đem quân tiếp cứu mới về được thành. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa ngồi buồn rầu, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì để phá địch. Đương mơ màng, bỗng nghe có tiếng người văng vẳng bên tai: "Thanh Thảo Pha! Thanh Thảo Pha!" Đến lúc tỉnh dậy, không hiểu nghĩa là sao, mà chợp mắt ngủ lại nghe như trước. Khỏa thuật lại cho Kỳ biết. Kỳ nói: - Cách đây độ mười dặm (1 dặm bằng 576 thước tây), có một bãi cỏ tên "Thanh Thảo Pha", có lẽ thần minh mách bảo quân Tần sẽ bị bại tại đó. Vậy tôi xin đem một toán quân mai phục sẵn, rồi anh lập kế dụ quân giặc đến. Bấy giờ hai bên đổ ra cùng đánh, chắc chắn sẽ thắng. Khỏa bằng lòng. Sáng ra, Ngụy Khỏa giả cách truyền lịnh rút quân. Quả nhiên, Đỗ Hồi đem quân đuổi theo. Khỏa giao chiến qua loa một lúc rồi bỏ chạy, dụ Hồi đến Thanh Thảo Pha. Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên, bất thần đổ ra hợp với quân của Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Hồi chẳng nao núng, múa búa tung hoành như vào chỗ không người. Nhưng bỗng nhiên, Đỗ Hồi đi mỗi bước lại ngã chút một cái, như người bị trượt chỗ nước băng. Quân Tấn lấy làm ngạc nhiên, reo ầm cả lên. Ngụy Khỏa ngẩng trông thấy một lão già, mặc áo vải chân đi thảo hài, đương kết cỏ lại làm vướng chân Đỗ Hồi. Bấy giờ, Khỏa và Kỳ xông lại bắt sống. Quân Tần mất tướng chỉ huy nên bỏ chạy tán loạn, bị quân Tấn đuổi bắt giết gần hết. Đem Đỗ Hồi về dinh, Ngụy Khỏa hỏi: - Mầy cậy có sức khỏe, nhưng nay sao để bị bắt? Hồi uất hận, trả lời: - Ta đương đánh, không biết có vật gì trói lấy chân làm cho ta ngã. Đó là trời hại ta, chớ không phải ta thua. Ngụy Khỏa nghe nói lấy làm lạ. Thấy Hồi có sức mạnh phi thường, sợ thoát thân được nên Khỏa và Kỳ đồng ý đem giết chết, cắt lấy đầu đem về dâng vua Tấn. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa nằm ngủ, mơ màng thấy ông lão kết cỏ ở Thanh Thảo Pha hiện đến, vái chào và nói: - Tướng quân có biết tại sao Đỗ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đỗ Hồi vướng chân mà ngã đó. Ngụy Khỏa kinh sợ, chấp tay đáp lễ, nói: - Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại có lòng tốt quý giúp tôi như vậỷ Tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ! Ông lão nói: - Tôi là cha của nàng Tố Cơ. Tướng quân theo lời trị mệnh của tiền nhân không chôn sống con tôi, mà còn tìm chỗ xứng đáng gả cho con tôi lấy chồng. Vậy tôi cảm ơn ấy mà giúp tướng quân. Sau này con cháu tướng quân vẫn được đời đời vinh hiển. Nói xong biến mất. Nguyên xưa, thân phụ của Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu tên Tố Cơ. Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc thì thường dặn dò Ngụy Khỏa: "Nếu cha chẳng may chết ở chiến trường, con nên tìm chỗ tử tế mà gả Tố Cơ để nàng khỏi phải khổ sở tấm thân. Cha dẫu chết cũng được yên lòng!" Nhưng đến lúc Ngụy Thù đau nặng, trước phút lâm chung, lại bảo Khỏa: - Tố Cơ là người thiếp yêu của cha. Khi cha chết rồi, con phải đem nàng mà chôn theo cha để cho cha ở suối vàng có người làm bạn. Ngụy Thù chết. Ngụy Khỏa an táng cho cha nhưng không bắt Tố Cơ chôn theo. Ngụy Kỳ hỏi tại sao không vâng lời cha trối lúc lâm chung thì Khỏa đáp: - Thân phụ lúc nào cũng dặn ta sau này nên gả Tố Cơ lấy chồng. Nhưng đến lúc gần mất, lại dặn phải đem chôn theo. Bởi vậy, kẻ hiếu tử nên theo trị mệnh, chớ không theo loạn mệnh. Sau, Ngụy Khỏa gả Tố Cơ cho một danh sĩ. Vì có ân đức ấy, nên linh hồn của thân phụ Tố Cơ hiện lên để kết cỏ báo ơn. "Ngậm vành" do chữ "Hoàng tước hàm hoàn" nghĩa là chim hoàng tước ngậm vòng. Đời nhà Thương (1733-1154 trước D.L.), triều vua Thái Mậu (1637-1562 trước D.L.), có một chư hầu đem dâng cho nhà vua một con chim hoàng tước trống. Được chim quý, nhà vua truyền làm một chiếc lồng bằng vàng, chén ăn bằng ngọc và bắt thái giám cho lo săn sóc cực kỳ cẩn thận. Nhưng chim ngày ngày vẫn ủ rũ, không chịu nhảy nhót, kêu hót, vui đùa. Hằng ngày, ngoài vườn, lại có một con chim hoàng tước mái cất tiếng kêu thật bi đát, giọng mỗi lúc càng thảm thiết não nùng. Chim hoàng tước trống ở trong lồng nghe tiếng chim mái ở bên ngoài kêu thì lại càng ủ dột, buồn bã, bỏ ăn bỏ uống. Thỉnh thoảng lại kêu lên một giọng bi thảm. Thấy chim trống buồn, chim mái kêu bi thương, vua Thái Mậu động lòng thương xót, truyền thả chim hoàng tước trống ra. Được thoát khỏi lồng, trống mái xum họp. Đôi chim bay lượn ba vòng chung quanh đền, cất tiếng hót véo von, giọng trong trẻo lảnh lót. Một thời gian, nhà vua đương ngự trên đền, bỗng thấy con chim hoàng tước trống bay đến, miệng ngậm một chiếc vòng. Chim lại sà trước mặt nhà vua, nhả chiếc vòng ngọc quý rồi vỗ cánh múa, tỏ vẻ tạ ơn. Cũng tích "Ngậm vành": Đời Hậu Hán (25-219) có cậu bé tên Dương Bảo, một hôm đi chơi bên cạnh một khu rừng, thấy một con chim sẻ vàng óng ánh bị chim cắt đánh rơi xuống đất. Chim sẻ què chân, gãy cánh, giãy giụa, kêu la thảm thiết. Bảo đem về chăm sóc, nuôi nấng. Đến khi chim mạnh, lành thì cho bay đi. Một hôm, có một chàng tuấn tú khôi ngô, mặc áo vàng đến, nói với Bảo: - Tôi là sứ giả của bà Tây Vương Mẫu, chẳng may gặp nạn, may nhờ ông cứu, ơn ấy chẳng quên. Vậy xin dâng ông 4 vòng ngọc quý, chúng sẽ làm cho bốn đời nhà ông được hưởng phú quý, sang làm đến tước Tam Công. Dương Bảo vừa nhận lấy vòng, chưa kịp tạ ơn thì chàng trai áo vàng biến mất. Quả nhiên về sau, bốn đời họ Dương đều sang cả đúng như lời. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, lúc nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhờ Sở Khanh dắt đi trốn mong thoát khỏi nanh vuốt của Tú Bà, nàng có lời tha thiết nói với họ Sở: Rằng "Tôi bèo bọt chút thân, "Kết cỏ ngậm vành" là do những điển tích trên, ý nói thọ ơn bao giờ cũng đền đáp. Lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh. Dám nhờ cốt nhục tử sinh, Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.
__________________
![]() |
#50
|
||||
|
||||
![]() Lá gió, cành chim Về đời vua Đại Tông nhà Đường (763-780) ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây có nhà nho tên Tiết Trịnh, làm quan ở Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, sinh một đứa con gái tên Tiết Đào. Nàng học hành giỏi, tư chất thông minh, vừa lên sáu đã biết làm thơ. Nhưng ý thơ rất lẳng lơ. Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum sê đứng sừng sững trước nhà, trông như sát từng mây. Tiết Trịnh ngắm cảnh buột miệng ngâm: Đình trừ nhứt cổ đồng, Tung cán nhập vân trung. Nàng Tiết Đào liền ngâm tiếp: Chi nghinh nam bắc điểu Diệp tống vãng lai phong. Nghĩa: Ngô đồng đứng trước sân, Thân cây cao vút mây. Đàn chim cành nam bắc Đưa lá gió sớm chiều. Nghe con gái đọc lời thơ lả lơi, Tiết Trịnh thở dài nghĩ: - Nghiệp chướng đã vận vào mình rồi. Cứ như lời thơ này con gái ta về sau ắt sẽ là một đứa lãng mạn, bướm ong. Hai năm sau, thân phụ Tiết Đào bị bạo bịnh qua đời. Vì làm quan thanh liêm nên sau khi chết, đời sống gia đình họ Tiết rất chật vật. Tiết Đào phải xin vào phường ca kỹ, ngày ngày đàn hát ngâm thơ đón kẻ tao nhân mặc khách, lấy tiền nuôi mẹ già. Ở chốn ca lâu, mang tấm thân ngà ngọc, tài học uyên thâm ra để mua vui cho những kẻ có tiền, nàng Tiết Đào buồn rầu, thường sáng tác những bài ca phổ vào nhạc điệu dạy đoàn ca nữ múa hát hay chính nàng nhịp phách ca ngâm. Những bài ca của nàng rất tuyệt tác, được truyền tụng trong phường, nên được nhiều người trọng vọng, thường gọi nàng là Tiết tú tài. Những văn nhân tài tử bốn phương nghe danh đổ đến để cùng nàng đề thơ xướng họa, mong được nàng Tiết lưu ý đến họ. Nhưng mắt xanh chẳng lọt vào ai, nàng Tiết vẫn làm nghề ca kỹ. Nhờ danh tiếng, Tiết Đào kiếm được chút vốn liếng bèn dựng một ngôi nhà bên cầu Vạn Lý. Nàng lại chế ra một thứ giấy ngũ sắc có vẽ cây tùng, cây bách, cây liễu, hoa sen rất đẹp, đặt tên là "Hoa tiên tùng giang". Giấy này dùng để viết thơ do Tiết Đào làm, nên về sau gọi là Hoa tiên Tiết Đào. Quan Tư Mã Thiểm Châu là Vương Kiến mến tài nàng Tiết nên thân đến cầu Vạn Lý thăm, và tặng nàng một bài thơ: Vạn Lý kiều biên nữ Hiệu Thư Tỳ bà hoa hạ bế môn cư. Tảo mỵ tài tử tri đa thiểu, Quản lĩnh đông phong tổng bất như. Dịch: Nàng Hiệu Thư Lang ở bến sông, Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông. Ngày xuân cửa đóng hoa ngăn gió. Bao kẻ tôi mày đã uổng công. (Bản dịch của Bùi Khánh Đản) Đời vua Hiến Tông nhà Đường (806-821) có quan Tả Thập Di tên Nguyên Chẩn, một danh nho đương thời, vâng chiếu chỉ thanh tra đất Thục. Nghe danh nàng Tiết những mong được gặp nên nhờ bạn giới thiệu. Đôi bên gặp nhau, xướng họa đối ẩm xem chừng tương đắc. Thế là từ đấy cả hai quyến luyến, chẳng rời. Nhưng rồi vì công vụ, Nguyên Chẩn phải trở lại Trường An phục mệnh. Kẻ lên ngựa chẳng yên lòng dứt áo, người ở lại ngậm ngùi nhỏ lệ buồn thương. Rồi một điều chẳng may hơn nữa, tướng trấn thủ Tây Xuyên là Lưu Tích tạo phản, đốt phá Thành Đô. Nguyên Chẩn nóng lòng sốt ruột, mướn người đi vào đất Thục tìm nàng Tiết Đào. Nhưng lần nào cũng hoàn toàn thất vọng vì đường bị nghẽn, làm tin tức vắng bặt. Nguyên Chẩn buồn bã thương nhớ giai nhân. Tuy quan san cách trở, thời gian qua mau nhưng mối tình kỳ ngộ sâu xa đối với Tiết Đào vẫn canh cánh bên lòng. Riêng về nàng Tiết Đào, từ ngày chia tay cùng ý trung nhân thì vẫn mỏi mắt trông chờ tin tức nhưng vẫn bặt tin nhạn cá. Ngày tháng trôi qua, tuổi càng chồng chất, nghĩ buồn thương cho thân phận xấu số vô duyên, nên lui về ở đầm Bạch Hoa, mặc cà sa, ăn chay niệm Phật. Năm Thái Hòa thứ 5 (811) đời vua Văn Tông, nàng Tiết Đào bị bạo bịnh mất. Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà, có câu: Biết bao bướm lả, ong lơi, "Lá gió cành chim" xuất xứ ở bài thơ của nàng Tiết Đào. Và, bài thơ đó chính là một triệu chứng chỉ về vận mạng của nàng vậy.Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm. Dập dìu lá gió cành chim, Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Thanh.
__________________
![]() |
![]() |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|