Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Ma
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #11  
Old 05-03-2005, 02:35 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Ngày 29 tháng 6:
Hôm nay là ngày đề trên bức thư cuối cùng của tôi, và bá tước bắt đầu chứng minh sự xác thực của nó. Một lần nữa tôi thấy hắn dùng kỹ năng của lòai thằn lằn để leo tường xuống phía dưới, cũng từ cái cửa sổ đó, với bộ quần áo của tôi. Tôi muốn có trong tay một cây súng hay một loại vũ khí gì đó để tiêu diệt hắn, nhưng tôi sợ rằng không vũ khí nào của lòai người có thể làm gì được hắn. Tôi không dám đợi hắn trở về, vì sợ gặp những người phụ nữ gớm ghiếc kia. Do đó tôi trở về thư viện, và đọc sách đến khi ngủ thiếp đi.
Tôi được đánh thức bởi bá tước, hắn nhìn tôi với một vẻ cương quyết mà một con người có thể tạo ra được, và nói. "Tối mai, bạn thân mến, chúng ta phải chia tay rồi. Ngài trở về nước Anh xinh đẹp của ngài, tôi còn một số công việc phải giải quyết và có thể là chúng ta sẽ không còn bao giờ gặp lại nhau. Lá thư của ngài đã được gửi đi. Ngài mai tôi không có mặt ở đây, nhưng mọi thứ đã chuẩn bị sẳn sàng cho cuộc hành trình của ngài. Ngày mai những người Szgany sẽ đến đây, họ có một số chuyện phải làm, và sau đó cũng sẽ có một số người Slovak đến. Khi họ đi, xe ngựa của tôi sẽ đưa ngài đi đến BorPo Pass, ở đó có chuyến xe lửa từ Bukovina đi Bistriz. Nhưng tôi luôn hy vọng là sẽ còn có dịp đón tiếp ngài tại lâu đài Dracula."
Tôi nghi ngờ hắn, và quyết định kiểm tra sự thành thật của hắn. Sự thành thật! Điều này sẽ làm xúc phạm trái đất này nếu gắn nó cho một loại quái vật như hắn, và tôi hỏi với vẻ trống rỗng, "Vì sao tôi không đi ngay tối nay?"
"Bởi vì, thưa ngài, cỗ xe và ngựa của tôi đang có chuyện khác phải làm."
" Tôi sẽ đi bộ, không có vấn đề gì. Tôi muốn đi ngay tức khắc."
Hắn ta mỉm cười, với nụ cười dịu dàng, mềm mại ma quái của hắn, và tôi biết rằng luôn có cạm bẫy ẩn náu sau vẻ dịu dàng của hắn. Hắn bảo, "Còn hành lý của ngài?"
"Tôi không cần. Nó sẽ được gửi đến cho tôi sau."
Bá tước đứng lên, và với vẻ thành thực ngọt ngào đạt đến nỗi tôi dụi cả mắt mình"Câu nói của ngài, một người Anh, đã đi vào tim tôi, và tinh thần của truyền thống hiếu khách của chúng tôi luôn là ‘Chào mừng những người khách đến, đẩy mau những phút phân ly.’ Hãy đi với tôi, người bạn trẻ thân mến. Chưa đầy một giờ nữa ngài sẽ sẳn sàng ra đi từ nhà tôi như ước nguyện của ngài, dù tôi rất buồn về ý muốn đột ngột của ngài. Chúng ta đi!" Với một uy nghiêm bệ vệ, hắn cầm lấy cây đèn, dẩn tôi xuống thang và đi ngang đại sảnh. Chợt hắn ngừng lại. "Hark!"
Vọng lại là những tiếng tru của những con sói. Có vẻ như những âm thanh này lên xuống trầm bỗng theo nhịp tay của hắn, giống như dàn nhạc dưới gậy chỉ huy của nhạc trưởng. Sau một thóang im lặng, hắn bước đến cửa, với một vẻ trịnh trọng, đẩy cái then cài nặng nề, tháo sợi xích, và bắt đầu mở cửa.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, cánh cửa đã được mở khóa. Đầy nghi ngờ, tôi liếc nhìn quanh, nhưng chưa hiểu được điều gì.
Khi cánh cửa bắt đầu mở, những tiếng kêu của bầy sói càng trở nên lớn và hung dữ hơn. Quai hàm của chúng đỏ rực, răng nghiến trèo trẹo, và những cái chân đầy móng vuốt của chúng chồm tới, hướng về phía cánh cửa đã mở ra. Đến lúc này tôi biết rằng không thể chống lại bá tước. Với những kẻ thừa hành dưới quyền hắn như vậy, tôi không thể làm gì được.
Nhưng cánh cửa vẩn tiếp tục mở ra, và chỉ còn thân người bá tước đứng trên kẻ hỡ. Bất thình lình tôi chợt nhận ra tình thế kinh hòang của mình. Tôi sẽ được đem dâng hiến cho lũ sói, và đó xuất phát từ sự thúc giục của chính tôi. Lại thêm một ý tưởng ác độc ma quái của bá tước, và tôi kêu gào lên với hy vọng cuối cùng, "Đóng cửa lại! Tôi sẽ đợi đến sáng mai." Và tôi lấy tay che mặt, để giấu những dòng nước mắt cay đắng của mình.
Bá tước đóng mạnh cánh cửa lại. Tiếng cái then cài vang rền cả tiền sảnh khi nó được cài trở lại.
Không nói thêm một lời, chúng tôi quay trở về thư viện, và sau một hoặc hai phút tôi trở về phòng mình. Phút cuối tôi thấy bá tước Dracula gửi cho tôi một cái hôn từ tay hắn, mắt hắn đỏ rực lên ánh sáng của chiến thắng, và với một nụ cười làm cho Judas dưới địa ngục cũng phải tự hào.
Khi tôi trở về phòng và nằm xuống, tôi cảm thấy hình như có tiếng thì thầm ngòai cửa. Tôi rón rén bước đến và lắng nghe. Nếu tai tôi không đánh lừa tôi, thì tôi nghe thấy tiếng bá tước.
"Trở lại! Trở về chỗ của chúng mày! Thời điểm của tụi mày chưa đến. Hãy đợi đã! Phải kiên nhẫn chứ! Tối nay nó là của tao. Tối mai sẽ là của mày!"
Có những chuỗi cười nhẹ, gờn gợn vang lên, và trong cơn giận dữ, tôi mở tung cửa lao ra. Tôi thấy ba người phụ nữ kinh khiếp kia đang liếm mép. Thấy tôi, chúng cùng phá lên cười một cách kinh dị và chạy đi.
Tôi trở về phòng mình, quỳ xuống trên đầu gối. Chẳng lẽ đã đến lúc kết cục ư? Ngày mai! Ngày mai! Thiên chúa, xin hãy cứu tôi, và bây giờ tôi chỉ còn ngài thôi!

Ngày 30 tháng 6:

Đây có thể là những dòng cuối cùng tôi viết vào nhật ký. Tôi ngủ cho đến lúc gần rạng đông, và khi chòang tỉnh, tôi lại quỳ trên đầu gối. Tôi muốn làm sao khi Thần Chết tới, hắn thấy tôi đã sẳn sàng.
Cuối cùng tôi cảm thấy không khí có cái gì đó thay đổi, và biết rằng trời đã sáng trở lại. Tiếng gà gáy vui vẻ vang lên, và tôi biết mình đã an tòan. Hết sức vui vẻ, tôi mở cửa và chạy xuống tiền sảnh. Tôi thấy cửa không khóa, và lúc này cơ hội trốn thóat đã trải rộng trước mặt tôi. Với những cánh tay run rẩy và háo hức, tôi tháo xích và đẩy mạnh cái then cài khổng lồ.
Nhưng cánh cửa chẳng hề nhúc nhích. Sự tuyệt vọng bao phủ tôi.Tôi đẩy và đẩy cánh cửa, lắc nó cho đến khi nào hai cánh cửa chịu trượt ra, bất chấp sự nặng nề kinh khiếp của nó. Tôi có thể thấy cái móc nơi then cài cửa. Nó đã được khóa lại sau khi tôi rời khỏi bá tước.

Một ham muốn điên dại xui khiến tôi phải lấy được chìa khóa bởi bất kỳ giá nào, và tôi quyết định sẽ bò qua bức tường lần nữa, quay về chỗ phòng bá tước. Hắn có thể giết tôi, nhưng với ma quỷ, cái chết có lẽ một sự lựa chọn tốt đẹp nhất. Không một phút ngần ngừ tôi lao về phía cửa sổ phía Đông, leo tường xuống phòng bá tước giống như lần trước. Trong phòng không có ai. Đó là điều tôi đang chờ đợi. Tôi không thể tìm thấy chìa khóa ở đâu. Đống vàng thì vẫn như cũ. Tôi đi qua cánh cửa ở góc phòng và leo xuống cầu thang, đi qua cái lối đi tăm tối đến ngôi nhà thờ cổ. Tôi biết rõ đó là nơi có thể tìm ra con quái vật này.
Cái hộp vẩn ở chỗ cũ, gần bức tường, nhưng đã được đậy nắp. Chưa đóng lại, nhưng đinh đã cài sẳn, chỉ còn chờ quai búa.
Tôi biết tôi phải tìm chìa khóa trên cơ thể bá tước, vì vậy tôi nâng cái nắp lên và ném nó về phía tường. Và những cái tôi thấy được làm tôi dựng tóc gáy vì kinh hãi. Bá tước đang nằm đó, nhưng xem ra hắn đã trẻ lại phân nữa. Mái tóc và bộ râu bạc trắng của hắn bây giờ đã lốm đốm muối tiêu. Đôi má đầy đặn hơn, và làn da trắng lại ửng màu hồng ngọc. Miệng hắn đỏ hơn bao giờ hết, môi hắn lấm tấm máu tươi, chảy ra từ một khóe môi lan xuống cằm và cổ hắn. Thậm chí đôi mắt sâu, rực lửa của hắn bây giờ cũng phồng lên, khóe mắt nọng xuống. Có vẻ như tòan bộ cái sinh vật ghê tởm này chỉ được chứa bằng máu. Hắn nằm đó như một con đĩa no nê, giải quyết cơn đói bằng một sự phè phỡn.
Tôi rùng mình khi tôi cúi xuống và chạm vào hắn, và mọi giác quan của tôi như đứt tung với sự động chạm này, nhưng tôi vẩn phải tiếp tục tìm kiếm, hoặc tôi sẽ thất bại. Khi đêm đến cơ thể tôi sẽ là buổi tiệc lớn sau cuộc chiến với ba sinh vật kinh khiếp kia. Tôi lục tìm khắp cơ thể bá tước, nhưng không thể tìm thấy chìa khóa. Một nụ cười chế nhạo hiện ra trên khuôn mặt căng phồng kia làm tôi như phát điên lên. Điều này nghĩa là tôi sẽ được gửi về Luân Đôn, và có thể là hàng thế kỷ sau hắn sẽ đến, giữa lúc nhúc hàng triệu sinh vật giúp hắn thỏa mãn sự thèm khát máu tươi, và tiếp tục mãi mãi cái chu kỳ tạo ra những kẻ nữa quái vật sống bất lực lang thang.
Ý nghĩ này làm tôi như điên như dại. Một ham muốn tột độ xâm chiếm tôi là quét sạch cái loại ma quỷ này ra khỏi mặt đất. Không có vũ khí trong tay, tôi tóm lấy một cây cuốc mà những người làm dùng để đào đất, nâng cao nó lên, rồi đập mạnh chiều lưỡi vào cái khuôn mặt đáng ghét kia. Nhưng khi tôi quay đầu lại, ánh mắt của bá tước chiếu lên tôi, mắt hắn ánh lên vẻ man dại của lòai rắn. Cái nhìn của hắn làm tôi như tê liệt, cái cuốc rung lên trong tay tôi và chỉ chạm qua mặt hắn, tạo một vết trầy sâu trên trán. Cái cuốc rời khỏi tay tôi, rơi cắt ngang cái hộp. Khi tôi kéo nó ra thì lưỡi cuốc kéo luôn nắp hộp rơi xuống phủ lại lên hộp, che tôi khỏi cái tia nhìn kinh khủng đó. Cái nhìn cuối cùng tôi nhìn thấy trên khuôn mặt căng phồng, đầy máu và nhăn nhúm với vẻ gớm ghiếc đáng ra nên giữ chính nó ở tầng địa ngục thấp nhất. Tôi suy nghĩ xem mình nên làm gì tiếp theo, nhưng đầu óc tôi như bốc lửa, và tôi chờ đợi với sự tuyệt vọng hòan tòan. Trong lúc chờ đợi, tôi nghe thấy từ xa bài hát của dân gipsy với những tiếng chúc tụng càng lúc càng đến gần. Và cùng với bài hát của họ là tiếng bánh xe nặng nề quay và tiếng roi quất. Người Szgany và người Slovak mà bá tước nói đang đến. Nhìn một lần cuối về phía cái hộp đang chứa cái thân người ma quái kia, tôi chạy ra khỏi chỗ đó và trở về phòng bá tước, quyết định sẽ chạy ra ào ra ngay khi cánh cửa vừa được mở. Với đôi tai căng thẳng, tôi nghe thấy tiếng chìa khóa quay cót két ở phía dưới, và một cánh cửa lớn kéo sập xuống. Hẳn là còn một lối đi nữa ở phía dưới và có ai đó còn có chìa khóa.
Khi những tiếng chân nặng nề và chết :Dc xa dần, để lại những tiếng động vang rền trên đường, tôi quay xuống trở lại khu hầm mộ, nơi mà tôi có thể tìm thấy con đường thóat mới, nhưng ngay lúc đó tôi nghe thấy một tiếng gió mạnh thổi qua, và cánh cửa dẩn đến cầu thang cuốn đóng sầm lại khiến đám bụi trên rầm đỡ bay tung lên. Khi tôi chạy đến để đẩy nó ra, thì niềm hy vọng của tôi nhanh :Dng tan biến đi. Một lần nữa tôi lại là tù nhân, và cái lưới kinh khủng bao quanh tôi mỗi lúc lại mỗi gần.
Khi tôi viết những dòng này, ở đường đi bên dưới tôi nghe thấy nhiều tiếng chân nặng nề, những tiếng va đập mạnh mẽ. Không nghi ngờ gì nữa, những chiếc hộp được chở đi với đất bên trong. Rồi có tiếng búa đóng. Những chiếc hộp đã được đóng đanh lại. Bây giờ thì tôi có thể nghe thấy những tiếng chân nặng nề đi dọc theo đại sảnh, trong khi có những bước chân thảnh thơi đi sau họ.
Cổng được đóng lại, dây xích căng lên. Có tiếng chìa khóa xoay trong ổ khóa. Tôi nghe thấy tiếng chìa khóa rút ra, những cánh cửa khác mở ra và đóng lại. Tôi nghe thấy tiếng khóa cửa và cài then.
Tôi bây giờ chỉ còn đơn độc trong lâu đài với những người phụ nữ kinh hãi kia. Faugh! Mina cũng là phụ nữ vậy, nhưng giữa họ chẳng có điểm giống nhau nào. Bọn chúng là quỷ sứ từ trong hố chui lên!
Tôi sẽ không ở đây một mình với chúng. Tôi sẽ thử leo qua lâu đài xa hơn những lần tôi đã từng thử trước đây. Tôi sẽ mang theo một ít vàng, tôi sẽ cần chúng về sau. May ra thì tôi có thể tìm thấy con đường ra khỏi nơi kinh khiếp này.
Nào, bây giờ thì lên đường về nhà! Hãy đến với chuyến xe lửa nhanh nhất và gần nhất! Tránh xa ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa, vùng đất đáng nguyền rủa này, nơi mà quỷ sứ cùng con cái của nó vẩn dạo chơi bằng những bước chân không chấm đất!
Và cuối cùng thì lòng thương của Chúa sẽ vẩn hơn những con quái vật này, còn vách núi thì sâu và thẳng đứng. Nhưng đó là nơi con người có thể ngủ như một con người. Tạm biệt tất cả. Mina ơi!
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #12  
Old 05-03-2005, 02:36 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 5

Những bức thư

THƯ CỦA CÔ MINA MURRAY GỬI CHO CÔ LUCY WESTENRA


Ngày 9 tháng 5.

Bạn Lucy thân yêu,

Tha lỗi cho mình về việc mình không viết thư cho bạn suốt một thời gian dài vừa qua, nhưng tất cả cũng chỉ vì công việc đã khiến mình tối tăm mặt mũi. Với cương vị là một trợ lý cho hiệu trưởng, mình càng lại phải cố gắng. Mình chỉ ao ước được đi biển với bạn, tha hồ tán gẫu và mơ mộng về tất cả mọi thứ trên đời. Dạo gần đây mình làm việc hăng lắm. Mình muốn tỏ ra xứng đáng với anh Jonathan mà, và mình rấr chăm tập viết tốc ký. Khi chúng mình cưới nhau, thì việc mình biết viết tốc ký sẽ rất có ích cho anh Jonathan. Mình có thể ghi lại tất cả những gì anh ấy nói rồi sau đó đánh máy lại cho anh ấy. Bạn thấy đấy, đó là một lý do chính đáng khiến mình học tập rất hăng hái.
Anh ấy và mình thỉnh thỏang vẩn viết thư tốc ký cho nhau, và anh ấy đang viết tốc ký lại chuyến du hành của anh ấy ở nước ngòai. Khi nào mình đến chơi với bạn, mình cũng sẽ làm như vậy. Tất nhiên rằng quyển nhật ký của mình không phải là một thứ nhật ký mà mỗi tuần được dành đúng một trang với ngày chủ nhật được đánh thành một dấu phân cách ở góc. Mình sẽ chỉ viết khi nào mình thấy thích thôi.
Nó hẳn nhiên không phải là một thứ thú vị đối với nhiều người khác rồi, nhưng mình đâu có viết cho họ. Mình sẽ cho Jonathan xem khi nào mà hai chúng mình cùng chia xẻ với nhau mọi thứ trong thế giới này. Còn hiện giờ thì nó thật sự là một cuốn sách bài tập đấy. Mình sẽ cố làm tất cả những gì mà mình thấy các phu nhân của những nhà báo thường làm, đi phỏng vấn và viết lại những chi tiết, cố mà nhớ lấy những cuộc đàm thoại. Mình có nghe nói rằng, với một chút luyện tập, con người có thể nhớ hết tất cả những gì anh ta nghe thấy trong suốt cả ngày.
Tuy nhiên, chúng mình sẽ cùng thử. Mình sẽ nói với bạn về những kế hoạch nho nhỏ của mình khi chúng ta gặp nhau. Bây giờ thì anh Jonathan đang ở xứ Transylvania xa ơi là xa. Anh ấy khỏe, và sẽ trở về trong khỏang tuần lễ nữa. Mình lúc nào cũng nóng lòng chờ tin anh ấy. Được đi thăm một đất nước xa lạ thì tuyệt thật nhỉ. Chẳng biết bao giờ thì chúng mình, tức là anh Jonathan và mình ấy mà, được cùng nhau đi du lịch ở những vùng đất xa xôi ấy. Thôi, đồng hồ điểm mười tiếng rồi. Tạm biệt nhé. Bạn Mina thân yêu của bạn.
Nhớ kể cho mình tất cả mọi thứ về bạn khi bạn viết thư. Bạn cũng đã lâu rồi chẳng hề liên lạc gì với mình. Mình nghe nhiều tin đồn về bạn lắm đấy nhé, đặc biệt là về một người đàn ông cao lớn, đẹp trai, tóc xoăn đấy, thế là thế nào???

THƯ CỦA LUCY WESTENRA GỬI MINA MURRAY

Ngày 17, đường Chatham

Thứ tư

Bạn Mina thân yêu,

Mình phải nói là bạn chẳng hề công bằng với mình tí nào. Mình đã viết cho bạn hai lần kể từ khi chúng mình chia tay, còn lá thư mình vừa nhận chỉ là bức thư thứ hai của bạn. Ngòai ra, mình chẳng có gì để kể với bạn cả. Chẳng có gì hấp dẩn cả, thế đấy.
Thị trấn bây giờ tuyệt lắm. Khi mà đi dạo hay đánh xe ngang công viên, chúng mình cứ như lạc vào một phòng triển lãm tranh vậy. Còn về cái anh chàng cao lớn tóc xoăn ấy hả, thiên hạ cứ tòan là đồn những chuyện nhảm mà bạn cũng tin. Chắc là họ trông thấy anh chàng mà mình gặp ở buổi nhạc Pop gần đây nhất ấy mà.
Đấy là anh Holmwood. Anh ấy hay đến chỗ tụi mình chơi, và anh ấy nói chuyện với Mamma nhà mình hợp lắm, họ có rất nhiều điểm chung.
Gần đây bọn mình gặp một anh chàng cứ như sinh ra là để dành cho bạn ấy, đấy là mình nói nếu bạn chưa đính hôn với anh Jonathan. Anh ta là một anh chàng tuyệt lắm, rất đẹp trai, phong lưu và gia thế. Anh ta là bác sĩ và hiển nhiên là thông minh cực kỳ. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! Anh ta chỉ mới hai mươi chín tuổi, vậy mà đang điều khiển một viện điều dưỡng cực lớn dành các bệnh nhân tâm thần. Anh Holmwood giới thiệu anh ấy với mình, anh ấy đến làm quen và bây giờ thường đến đây thăm mình lắm. Mình nghĩ anh ấy là người đàn ông cương quyết nhất mà mình đã từng gặp. Anh ấy có một vẻ bình thản tuyệt đối. Chẳng có gì có thể làm anh ấy mất quân bình được. Mình tưởng tượng anh ấy chắc là phải có cái vẻ quyền lực tuyệt đối như vậy để làm việc với các bệnh nhân của mình. Anh ấy có sở thích nhìn thẳng vào mặt người đối diện để đọc những ý nghĩ của họ. Anh ta cũng thử làm điều đó với mình, nhưng mà đừng có hòng nhé, lần này thì anh ấy đã gặp phải một quả hạch khó đập vỏ đấy. Cứ nhìn qua gương là mình biết tất.
Bạn đã bao giờ cố đọc trên khuôn mặt của chính mình chưa. Mình đã thử rồi đấy, và mình có thể nói rằng đấy không phải là một sự nghiên cứu vô ích đâu, và nó sẽ đem đến cho bạn nhiều rắc rối hơn bạn tưởng nếu bạn chưa bao giờ thử nó đấy.
Anh ấy nói rằng mình đem đến cho anh ấy một trường hợp tâm lý đáng chú ý. Và mình khiêm tốn nghĩ rằng đúng như thế đấy. Bạn cũng biết rồi đấy, mình chẳng bao giờ có một quan tâm thật sự đến thời trang để ăn mặc cho thật hợp mốt cả. Ăn diện là một công chuyện tẻ ngắt. Thời trang thì luôn thay đổi xoành xoạch và chẳng bao giờ có cho mình một chính kiến xác định. Arthur nói như thế mỗi ngày đấy thôi.
Mina ơi, đó là tất cả đấy. Từ bé đến giờ chúng ta đã luôn nói cho nhau những bí mật của mình. Chúng ta cùng ăn và ngủ với nhau, chúng ta khóc và cười với nhau, và bây giờ, dù mình đã nói rồi, mình vẩn muốn nói tiếp nữa. Mina ơi, chẳng lẽ bạn lại không đóan được ra sao? Mình yêu anh ấy mất rồi. Mình thẹn đỏ mặt khi viết ra những điều này đấy, bởi vì mình nghĩ dù anh ấy yêu mình, anh ấy cũng chưa hề nói với mình thành lời. Nhưng, ôi, Mina ơi, mình yêu anh ấy. Mình yêu anh ấy! Chính điều đó làm mình sung sướng vô cùng.
Mình ước là mình có thể ngồi bên bạn, bạn yêu quý, ngồi bên ngọn lửa tàn, như chúng ta ngày xưa vẩn làm ấy, rồi mình sẽ kể cho bạn nghe mình đang cảm thấy thế nào. Mình không biết phải làm cách nào để nói cho bạn hiểu hết những điều này. Mình buộc phải ngừng lại thôi, nếu không mình sẽ xé luôn bức thư này mất. Mình chẳng muốn dừng đâu, mình muốn kể cho bạn tất cả cơ. Hãy viết lại cho mình, và nói mình biết bạn nghĩ gì về những chuyện này. Mina ơi, cầu nguyện cho hạnh phúc của mình nhé.
Lucy

T.B. Có lẽ mình cũng chẳng cần phải nói với bạn rằng đây là điều bí mật đấy. Tạm biệt lần nữa. L


THƯ CỦA LUCY WESTENRA

GỬI CHO MINA MURRAY

Ngày 24 tháng 5

Mina thân yêu,
Cám ơn, cám ơn bạn nhé, cám ơn vô vàn vì bức thư êm đềm của bạn. Kể hết mọi chuyện với bạn để được bạn cảm thông, điều ấy thật là tuyệt. Bạn thân yêu ơi, có những điều chẳng bao giờ xảy đến nhưng thình lình nó sẽ ào ạt dội xuống đầu mình. Câu danh ngôn cổ này thật là đúng. Mình đây, sắp hai mươi tuổi vào tháng Chín, và cho đến hôm nay chưa hề có ai cầu hôn mình, một lời cầu hôn thật sự ấy, nhưng thình lình hôm nay mình nhận được đến ba lời cầu hôn. Cứ như là trong truyện cổ tích vậy! Ba lời cầu hôn trong một ngày! Đấy hẳn không phải là một điều tồi tệ rồi! Mình cảm thấy rất tiếc, thật sự và thành thực tiếc cho hai chàng trai không hạnh phúc. Ôi, Mina ơi, mình hạnh phúc đến nổi mình không biết điều gì đang xảy ra cho mình nữa. Những ba lời cầu hôn! Nhưng mà tốt nhất đừng nói gì với những cô gái khác, nếu không họ sẽ lại tưởng tượng ra những ý kiến thái quá, rồi họ sẽ cảm thấy thương tổn và tự ti nếu trong cái ngày quan trọng nhất trong đời họ không nhận được ít nhất sáu lời cầu hôn. Có những cô gái như vậy đấy! Bạn và mình, Mina thân mến ơi, những người đã đính hôn và sẽ mau :Dng trở thành những người phụ nữ có gia đình chuẩn mực, chúng mình có thể bỏ qua những sự phù phiếm ấy. Ôi, mình đã nói với bạn rằng có ba chàng trai cầu hôn mình, thì bạn phải giữ bí mật ấy nhé, bạn thân mến, tất nhiên là ngoại trừ anh Jonathan của bạn rồi. Bạn có thể nói với anh ta, bởi vì nếu mình ở vào hoàn cảnh của bạn, mình cũng sẽ nói với anh Arthur thôi. Một người phụ nữ thì nên kể hết mọi chuyện với chồng mình. Bạn nghĩ sao, Mina? Và mình nghĩ mình cũng nên công bằng một chút. Những người đàn ông thì thích những người phụ nữ, đặc biệt là vợ họ, biết giữ im lặng. Còn phụ nữ, mình e rằng sẽ chẳng bao giờ giữ nỗi bí mật những điều mà họ nên giấu.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #13  
Old 05-03-2005, 02:37 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Nào, bạn thân mến ơi, người số Một đến ngay trước bữa ăn trưa. Mình đã kể về anh ấy với bạn rồi đấy, bác sĩ John Seward, trưởng viện tâm thần, người có cái quai hàm khỏe mạnh và vầng trán cao. Anh ấy có bề ngoài lạnh lùng, nhưng thật sự lại dễ bị khích động. Rõ ràng là anh ta đã tự rèn luyện mình như thế và cố giữ bình tĩnh trước mọi hoàn cảnh. Nhưng anh ta cứ suýt nữa là ngồi luôn lên cái mũ lụa rộng vành của mình, điều mà một người thật sự lạnh lùng chẳng bao giờ làm, và mỗi lần anh ta muốn giữ bình tĩnh, anh ta lại mân mê cái lưỡi dao mổ của mình trông ngộ nghĩnh đến nỗi mình cứ muốn cười phá lên. Anh ta nói với mình, Mina ạ, rất là thẳng thắn. Anh ấy nói mình thật là thân thiết với anh ấy như thế nào, và mặc dù anh ấy chỉ mới biết mình, nhưng nếu có mình bên cạnh thì đó sẽ là sự giúp đỡ và động viên rất quý báu trong cuộc đời của anh ấy. Anh ấy còn nói rằng sẽ thật bất hạnh nếu như mình không hề quan tâm đến anh ấy, rồi khi anh ấy thấy mình khóc, anh ấy nói rằng anh ấy thật là thô lỗ khi đem đến cho mình một sự phiền phức như vậy. Sau đó anh ta ngưng lại và hỏi xem mình có nhận lời hay không. Tay anh ấy run lên khi mình lắc đầu, và lưỡng lự một lát anh ấy hỏi mình xem mình đã có yêu ai khác chưa. Anh ấy nói thật lịch thiệp rằng anh ấy không hề muốn can thiệp vào chuyện riêng của mình, nhưng anh ấy muốn biết chỉ vì rằng khi mà trái tim người phụ nữ còn tự do thì người đàn ông vẩn còn hy vọng. Mina ơi, mình cảm thấy như đang có lỗi với anh ấy khi mình nói rằng mình đã có người yêu rồi. Mình chỉ nói thế thôi, rồi anh ấy đứng dậy. Anh ta rất rắn rỏi và can đảm nắm lấy cả hai tay mình và nói rằng anh ấy chúc mình hạnh phúc, và nếu khi nào mình cần một người bạn thì anh ta sẽ có mặt trong số những người tốt nhất.
Ôi Mina thân mến, mình chẳng thể nào cầm được nước mắt, và bạn hãy tha lỗi cho mình vì lá thư này thấm đẫm nước mắt của mình. Lời đề nghị đưa ra thật tử tế và chân thành, nhưng làm sao mà mình có thể vui khi nhìn thấy một người đàn ông thất vọng, người mà bạn biết đã yêu bạn chân thành, đang cất bước ra đi với một trái tim tan nát, người đã hiểu rằng, dù anh ấy có nói gì lúc này chăng nữa, thì bạn đã thật sự đi ra khỏi cuộc đời anh ấy rồi. Bạn thân mến ơi, mình phải ngừng lại một lúc thôi, mình thật sự đau khổ dù mình đang thật là hạnh phúc.
Buổi chiều tối.
Arthur vừa đi, và mình đã cảm thấy khá hơn so với lúc mình dừng bút, và mình có thể kể tiếp với bạn về cái ngày đặc biệt này.
Bạn thân mến ơi, thế là người số Hai đến sau bữa cơm trưa. Anh ta là một anh chàng Mỹ trẻ tuổi đẹp trai đến từ miền Texas. Anh ta trông trẻ và ngây thơ đến mức khó mà tin rằng anh ta đã từng sống ở nhiều nơi và trải qua nhiều chuyến phiêu lưu mạo hiểm. Mình thông cảm với Desdemona khi nàng cảm thấy như sét đánh ngang tai lúc chạm mặt với người đàn ông mặc đồ đen. Mình cho rằng phụ nữ chúng mình vốn nhút nhát, và mong muốn cưới người đàn ông có thể che chở, bảo bọc cho mình. Bây giờ nếu mình là đàn ông thì mình đã biết cách nào làm cho một cô gái yêu mình.Thật ra thì mình chẳng biết gì sất, bởi vì anh Morris đã kể cho chúng mình những câu chuyện về anh ta, còn Arthur thì chẳng hề nói gì cả…
Bạn thân mến, hình như mình hơi hấp tấp thì phải. Anh Quincy P.Morris đến lúc mình đang ở một mình. Đó là một anh chàng luôn tìm đến những cô gái đúng lúc họ cô đơn. Arthur thì chẳng bao giờ làm được như thế, dù anh ấy đã cố gắng gấp đôi để tìm một cơ hội, và mình thì ra sức giúp đỡ, mình chẳng xấu hổ khi thú nhận với bạn điều ấy đâu. Mình phải nói trước với bạn là anh Morris không phải lúc nào cũng nói tiếng lóng, anh ấy không hề nói thứ tiếng đó khi nói chuyện với những người lạ. Đó là một người có giáo dục tốt và có dáng vẻ bặt thiệp. Tuy nhiên anh ấy khám phá ra rằng mình thích nghe anh ấy nói chuyện bằng thứ tiếng lóng của Mỹ, nên khi có mặt mình và không ai tỏ ra khó chịu, thì anh ấy lại nói bằng cái thứ ngôn ngữ buồn cười ấy. Bạn thân mến, lúc đầu mình nghĩ rằng anh ấy sáng tác ra tất cả những thứ đó, bởi vì nó luôn luôn thích hợp một cách kỳ lạ với những gì anh ấy nói ra. Nhưng đó là cách mà người Mỹ nói lóng. Mình chẳng biết là có một lúc nào đó mình sẽ nói những thứ tiếng lóng đó ra hay không. Mình cũng chẳng biết là Arthur có thích nó không, nhưng chẳng bao giờ anh ấy dùng đến nó cả.
Thế đấy, anh Morris ngồi bên mình, nhìn mình với tất cả vẻ hạnh phúc và vui tươi mà anh ấy có thể tạo ra được, nhưng mình có thể thấy ngay rằng anh ta rất hồi hộp. Anh ấy nắm lấy tay mình, và nói thật ngọt ngào…
" Cô Lucy ơi, tôi biết rằng tôi thật ra cũng chẳng xứng làm một vật trang trí trên những chiếc giày của cô, nhưng tôi tin rằng nếu như cô đang đợi đến khi cô tìm thấy một người đàn ông xứng đáng thì cô sẽ mang đến cho bảy người phụ nữ trẻ khác niềm hy vọng nếu như cô từ bỏ ý định đó. Vậy sau cô không cùng tôi thắng chung một cỗ yên cương, cùng giật cương ngựa thả bước lang thang trên đường đời rộng mở?"
Ôi, với vẻ hóm hỉnh và tươi vui của anh ấy khiến cho việc đưa ra lời từ chối chỉ khó bằng một nữa so với khi làm điều ấy với bác sĩ Seward tội nghiệp. Với tất cả vẻ nhẹ nhàng của mình, mình nói rằng mình chẳng biết tí gì về việc giật cương ngựa cả, và vì thế mình sẽ làm gãy cỗ yên cương mất thôi. Đoạn anh ấy nói với một vẻ thật nhẹ nhàng rằng, vì đây là một sự kiện quá quan trọng cho anh ấy, và vì thế nếu anh ấy có làm điều đó một cách quá sỗ sàng, quá quan trọng, thì mình hãy tha lỗi cho anh ấy. Anh ấy tỏ ra rất nghiêm túc khi nói điều đó, và mình cảm thấy hân hoan vì anh ấy là người thứ Hai làm điều đó trong một ngày. Và bạn thân mến ơi, trước khi mình có thể thốt nên lời thì anh ấy bắt đầu đổ ập xuống đầu mình hàng lọat những cơn sóng chứa đầy những lời lẽ yêu đương, rằng anh ấy mang trái tim và tâm hồn của anh ấy đặt dưới chân mình. Anh ấy trông thật nghiêm chỉnh đến nỗi mình không bao giờ nghĩ rằng một con người luôn khôi hài lại có thể nghiêm chỉnh đến vậy, bởi vì lúc nào anh ấy trông cũng vui vẻ. Mình nghĩ rằng anh ấy đã nhìn thấy trên mặt mình điều gì đó ngăn trở anh ấy, vì vậy anh ta thình lình ngừng lại, và nói với vẻ nhiệt tình đầy nam tính rằng mình có thể sẽ yêu anh ấy nếu như lúc này mình vẩn còn tự do…
" Lucy, anh biết em là cô gái có trái tim trung thực. Anh sẽ không ở đây để nói với em như nãy giờ nếu như anh không tin rằng mình đã có thể hiểu được những nơi sâu thẳm trong tâm hồn em. Hãy nói với anh như một người trung thực nói với một người trung thực, rằng thật sự em đã có để ý đến ai chưa? Và nếu điều đó là sự thực thì anh sẽ không bao giờ quấy rầy em về điều này nữa, nhưng hãy để cho anh trở thành một người bạn thật trung thành của em, nếu như em cho phép điều đó."
Mina thân yêu của mình, vì sao những người đàn ông lại thật là cao thượng đến thế, trong khi phụ nữ chúng ta thật ra chưa hẳn đã hòan tòan xứng đáng với những điều đó? Những trái tim cao quý của những người đàn ông trung thực này đã khiến mình cảm thấy rất vui. Mình lại bật khóc nữa rồi, bạn thân mến ơi, mình e rằng lá thư này lại còn thấm đẫm nước mắt hơn lúc trước nữa đấy, và mình lại cảm thấy đau khổ vô cùng.
Vì sao người ta không cho phép một cô gái cưới ba người đàn ông, hoặc tất cả những người nào thật sự yêu cô ấy nhỉ? Nhưng điều này dị giáo quá, mình không được nói ra. Mình rất vui để kể lại cho bạn rằng, mặc dù đang đầm đìa nước mắt, mình vẩn có thể nhìn thẳng vào đôi mắt can đảm của anh Morris và trả lời anh ấy thật thẳng thắn…
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #14  
Old 05-03-2005, 02:38 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

"Vâng, em có yêu một người, dù anh ta chưa bao giờ nói là anh ấy yêu em." Mình thật là sáng suốt khi quyết định nói thật với anh ấy, bởi vì khi nghe thấy những điều ấy, mặt anh ấy bừng sáng, và hai tay anh ấy nắm lấy hai tay mình, thật ra thì mình nghĩ là mình đã đặt chúng vào tay anh ấy, và anh ta nói một cách nồng nhiệt…
" Đúng là cô gái dũng cảm của tôi. Dù sao thì có cơ hội để sau này có em vẩn tốt hơn là lãng phí thời gian với những cô gái khác trên thế giới. Đừng khóc, cô em thân mến của tôi. Với anh thì đây là một quả hạch khó đập vỏ đấy, nhưng anh chẳng lùi bước đâu. Còn cái tên kia, cái gã đang không biết là hắn đang có một niềm hạnh phúc như thế nào thì, hừ, tốt hơn là hắn nên biết điều đó cho sớm, nếu không thì hắn có công chuyện phải giải quyết với anh đấy. Cô gái nhỏ, em thật là tử tế và can đảm khi nhận anh là bạn, còn anh thì thích làm người yêu của em hơn, xem ra anh có vẻ ích kỷ quá nhỉ. Cô em thân yêu, anh sắp phải có một đoạn đường dài cô độc từ đây về thủ đô. Em có thể cho anh một nụ hôn được không? Nó sẽ làm cho bóng tối không còn bao phủ anh nữa. Em có thể làm điều đó mà, vì em cũng biết là người đàn ông tốt số kia vẩn còn chưa ngỏ lời và xem như em vẩn chưa thuộc về ai."
Vẻ dũng cảm và ngọt ngào của anh ấy đã chiến thắng mình, và còn thêm vào sự cao thượng của anh ta nữa, thật khó từ chối, phải không Mina? Và anh ấy trông thật buồn, buồn đến nỗi mình trườn người tới và hôn anh ấy.
Anh ấy đứng đó, giữ chặt tay mình, và nhìn sâu vào mặt mình. Mình e rằng lúc đó mình đã đỏ bừng mặt lên, anh ấy nói, " Cô gái nhỏ, anh đang cầm tay em, và em đã hôn anh. Nếu những điều này không khiến chúng ta trở thành bạn thì chẳng có điều gì có thể làm được điều đó cả. Cám ơn em vì sự tử tế êm đềm em đã dành cho anh, và tạm biệt." Anh ấy siết chặt tay mình, rồi nhặt lấy mũ, chẳng hề ngập ngừng, run rẩy hay nhỏ một giọt nước mắt, anh ấy đi ra mà không hề nhìn lại, còn mình thì khóc như một đứa trẻ.
Ôi, vì sao một người đàn ông như thế lại có thể không tìm thấy hạnh phúc khi mà có biết bao cô gái luôn ngưỡng mộ anh ta trên khắp các nẻo đường mà anh ấy đi qua? Mình ước mình là một cô gái tự do, nhưng chỉ vì mình không muốn làm một cô gái tự do. Bạn thân mến ơi, điều này làm bối rối quá, và mình cảm thấy mình không thể viết ngay lúc này về hạnh phúc của mình, sau khi đã kể với bạn về những chuyện vừa qua, và mình không muốn kể về người số Ba đến khi mình cảm thấy hòan tòan hạnh phúc. Mãi mãi yêu bạn… Lucy
T.B – Ồ, về cái người số Ba ấy, chắc mình chẳng cần phải nói với bạn về người số Ba phải không? Ngòai ra, tất cả thật là mù mờ. Hình như chỉ là trong một khỏanh khắc nào đó anh ấy vào phòng mình, hai tay anh ấy ôm lấy mình, và anh ấy hôn mình. Mình rất, rất là hạnh phúc, và mình không biết phải làm gì để xứng đáng với nó. Mình chỉ cố làm sao trong tương lai đừng tỏ ra vô ơn với Chúa vì tất cả những chuyện này. Chúa thật tốt với mình khi gửi đến cho mình một người yêu, người chồng và người bạn như thế.

Tạm biệt.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD (Thu trong máy quay dĩa)

Ngày 25 tháng 5:

Hôm nay lòng khao khát của tôi đã rút xuống như cơn sóng thủy triều. Không thể ăn được, không thể ngủ được, và thay và đó là đoạn nhật ký này. Sự từ chối dứt khóat mà tôi nhận được hôm qua đã khiến tâm hồn tôi trống rỗng. Chẳng có gì trên thế giới này còn có ý nghĩa để mà làm nữa. Và tôi biết rằng chỉ có một liều thuốc duy nhất có thể chữa được căn bệnh này, đó là làm việc, và tôi lại lao vào giữa đám bệnh nhân. Tôi lại tìm thấy một người bệnh khiến cho tôi cảm thấy thú vị. Anh ta có cái vẻ kỳ quặc khiến tôi quyết định phải cố gắng tìm hiểu ông ta. Tối nay có lẽ tôi đã tiến sâu hơn mọi khi vào trái tim bí ẩn của ông ta.
Tôi hỏi ông ta nhiều hơn mọi lần, và cảm thấy có vấn đề khi làm việc với những ảo giác của ông ta. Với cách làm của tôi trong trường hợp này, tôi cảm thấy có phần tàn nhẫn. Tôi đã giữ bệnh nhân của mình trong đỉnh điểm của những cơn điên của ông ta, cái điều mà tôi tránh làm với những bệnh nhân khác khi tôi cảm thấy đang ở ngưỡng cửa của địa ngục.
(Lạ thật, tại sao trong lần này tôi lại không tránh cái hố của địa ngục nhỉ?) Ommia Romae venalia sunt. Địa ngục cũng có cái giá của nó! Nếu như bên trong bản năng này có điều gì đó đáng giá cho một sự theo dõi xác đáng, thì tôi đang bắt đầu làm đây, vậy thì…
R.M, Renfield, 59 tuổi. Tính khí lạc quan, thể chất khỏe mạnh tuyệt vời, dễ bị kích động một cách bệnh hoạn bởi những chu kỳ buồn bã, chứa đựng bên trong những ý tưởng sâu thẳm mà tôi không thể hiểu được. Tôi giả sử rằng chính cái tính khí lạc quan kia đã tạo nên những sự xáo động nội tại dồn nén lại bên trong ý nghĩ, khiến cho một con người có thể trở thành nguy hiểm, trở nên nguy hiểm nếu như bên trong anh ta không có sự ích kỷ. Bên trong mỗi con người, sự ích kỷ sẽ giúp họ tạo thành một cái áo giáp giúp họ chống lại chính mình. Trong trường hợp này, tôi nghĩ rằng bản chất con người sẽ trở thành một điểm cân bằng cho các lực hướng tâm, tức những ý nghĩ ích kỷ triệt tiêu với những lực ly tâm, là những ý nghĩ cao thượng. Khi những điều cao thượng như bổn phận, lý tưởng v.v… là điểm cân bằng đó, thì những thứ lực ly tâm sẽ có tác dụng mạnh mẽ, mà chỉ một tai nạn bao gồm hàng chuỗi những tai nạn mới có thể cân bằng được với nó.

THƯ TỪ QUINCEY P.MORRIS GỬI CHO

HON. ARTHUR HOLMOOD

Ngày 25 tháng 5.

Art thân mến.

Chúng mình đã từng huyên thuyên đủ thứ chuyện bên những lán trại trên thảo nguyên, người này băng bó vết thương cho kẻ khác sau khi thử nhảy xuống dòng Marquesas, và uống mừng sức khỏe nhau bên bờ biển Titicaca. Sẽ có nhiều điều để mà huyên thuyên, rồi còn những vết thương khác để mà băng bó, nhiều thứ sức khỏe để uống mừng lắm. Sau cậu lại không đến chỗ trại của tớ vào tối mai nhỉ? Tớ chẳng ngại ngùng gì mà không mời cậu đến đâu, vì tớ biết chắc tối mai cô tiểu thư kia có lời mời đi ăn tối và cậu hoàn toàn tự do. Sẽ chẳng có thêm ai ngòai ông bạn cũ của chúng ta tại Triều Tiên, Jack Seward. Hắn cũng đến luôn, để hai chúng tớ trộn lẩn nước mắt của mình vào những cốc rượu vang, để uống mừng sức khỏe từ tận đáy lòng mình cho người đàn ông hạnh phúc nhất thế giới, người đã được Chúa ban cho trái tim cao thượng nhất và nhận được phần thưởng xứng đáng nhất. Chúng tớ hứa là cậu sẽ được đón tiếp nồng nhiệt, chào hỏi thân tình và sức khỏe của cậu sẽ được đảm bảo y như là nó được giữ chặt trên tay cậu. Cả hai chúng tớ xin thề là sẽ đưa cậu về nhà nếu cậu uống say đến mức mắt mở hết lên nổi. Nào, đến nhé!

Đã và mãi là bạn của cậu,
Quincey P.Morris

ĐIỆN TÍN TỪ ARTHUR HOLMWOOD GỬI CHO QUINCEY P.MORRIS

Ngày 26 tháng 5.

Đến chỗ tớ ngay. Tớ có chuyện sẽ làm cho cả hai tai cậu phát ù lên nếu nghe thấy. Art.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #15  
Old 05-03-2005, 02:41 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 6

Đọc nhật ký của MINA MURRAY & BÁC SĨ SEWARD


NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY

Ngày 24 tháng 6. Whitby.

Lucy gặp tôi ở nhà ga, trông bạn ấy dễ thương và đáng yêu hơn bao giờ hết, và chúng tôi quay về những căn phòng ở Crescent. Nơi đây thật là đáng yêu. Con sông Esk nho nhỏ chảy qua vùng thung lũng sâu, rồi mở rộng ra khi đến gần cảng. Một cây cầu dài bắc ngang phía trên với những chân móng cao vút, khiến cho phong cảnh trải rộng ra hơn tầm vóc thực của nó. Thung lũng là cả một màu xanh tuyệt đẹp, và nó dốc đến nỗi khi bạn ở trên cao thì bạn có thể nhìn xuyên qua nó, trừ khi bạn ở quá gần để nhìn xuống. Những ngôi nhà ở thị trấn cổ nằm đối diện với chúng tôi đều lợp ngói đỏ, nằm san sát nhau giống như những bức tranh chúng tôi thấy ở Nuremberg. Nằm phía bên phải thị trấn là những tàn tích còn lại của tu viện Whitby, bị những người Đan Mạch bỏ hoang, và đó là một phần của giáo phái "Marmion", nơi mà tục đa thê khiến các cô gái sống chen chúc lẩn nhau. Đấy là một khu tàn tích nguy nga có tầm vóc khổng lồ, đầy rẫy những phong cảnh tráng lệ và diễm tình còn sót lại. Có truyền thuyết rằng người ta đã từng thấy một tiểu thư mặc đồ trắng giữa những khung cửa sổ của tu viện. Giữa nó và thị trấn là một nhà thờ khác nằm trong một khu xứ đạo, bao quanh bởi một nghĩa địa lớn đầy những ngôi mộ. Đối với tôi, đấy là nơi đẹp nhất của Whitby, nó nằm phía bên phải thị trấn, có thể nhìn tòan cảnh bến cảng và trông ra nơi mũi biển Kettleness vươn mình ra biển cả. Đường đi từ cảng xuống dốc đến nổi một phần đê rơi xuống, tiêu hủy mất một số ngôi mộ.
Một số ngôi một đá vươn ra đến tận con đường cát nằm xa phía dưới. Dọc con đường đi đi xuyên qua khu đất nhà thờ này người ta đặt những ghế đá, và lúc nào trong ngày cũng có người đến ngồi ở đấy thưởng thức cảnh đẹp và đón gió.
Tôi nhất định sẽ thường đến ngồi ở đấy và làm việc. Thật sự lúc này tôi đang ngồi đây, sách trên đầu gối, và lắng nghe ba người đàn ông lớn tuổi ngồi cạnh tôi nói chuyện. Hình như họ chẳng có gì làm, nên họ suốt ngày ngồi đây và tán gẫu suốt.
Hải cảng nằm phía dưới tôi. Nằm ở phía xa là một bức tường dài bằng đá granit vươn thẳng ra biển, kết thúc bằng một đường cong, bao bọc giữa chúng là một ngọn hải đăng. Một bức tường khác chạy dài ra khỏi nó. Ở phía bên này,một bức tường khác tạo thành một đường gãy khúc chạy về phía ngược lại, và cũng tận cùng là một ngọn hải đăng khác.Nằm giữa hai bức tường chắn là một lối đi hẹp dẩn vào cảng, thường được mở ra đột ngột.
Khi thủy triều lên thì phong cảnh thật là đẹp, nhưng khi thủy triều xuống thì nó cuốn sạch mọi thứ trên dãi cát ngầm, chỉ còn dòng chảy của con sông Esk chảy len lỏi giữa những mỏm đá. Nằm bên ngòai cảng theo hướng này là một dãi đá ngầm nhô cao khỏang nữa dặm, chạy thẳng ra từ phía sau ngọn hải đăng phía nam. Tận cùng của nó là một cái phao treo cùng với một cái chuông. Khi nào thời tiết xấu, nó lại ngân lên những âm thanh buồn bã được gửi đi muôn phương theo tiếng gió thỏang.
Có truyền thuyết rằng khi có một con tàu bị đắm tiếng chuông sẽ ngân vang lên giữa biển. Tôi phải hỏi người đàn ông già về chuyện này mới được. Ông ta đang đến kia…
Đấy là một ông già vui tính. Ông ấy hẳn là phải già lắm rồi. Da mặt ông ấy lấm tấm và xương xẩu như vỏ cây. Ông ấy bảo rằng ông ấy đã gần trăm tuổi, khi xưa, khi mà Waterloo được tìm thấy, ông là một thủy thủ nằm trong đội thuyền đánh cá Greenland. Tôi nghĩ rằng ông ấy là một người rất hay hòai nghi, khi tôi hỏi về những tiếng chuông vang trên biển và về Tiểu Thư Áo Trắng, ông ta trả lời khá cộc cằn,
" Tôi chẳng quan tâm gì đến những chuyện ấy, thưa cô. Những chuyện như thế đã bị quên lãng sạch rồi. Tôi không nói là chúng chưa bao giờ xảy ra, nhưng tôi nói là chúng không phải xảy ra ở thời của tôi. Chúng hấp dẩn những khách du lịch, những kẻ vi hành, những bọn đại loại như vậy, chứ không phải cho một tiểu thư trẻ trung xinh đẹp như cô. Cái lũ lang thang từ York và Leed đến đây để ăn cá trích chữa bệnh và uống trà thì luôn trông ngóng những câu chuyện rẻ tiền như vậy bởi tính tin dị đoan của chúng. Tôi không biết là những tên nào đã kể lếu láo với chúng, thậm chí còn đăng trên báo nữa, tòan là những chuyện nhảm nhí."
Tôi nghĩ rằng người đàn ông này là một người thú vị, có thể học tập được nhiều, vì vậy tôi đề nghị ông ấy kể lại cho tôi nghe về công việc đánh cá voi vào những ngày xa xưa. Ông ấy đang chuẩn bị nói thì chuông đồng hồ điểm sáu tiếng, rồi thì ông nặng nhọc đứng dậy và nói,
" Tôi phải rút về nhà ngay, thưa cô. Cháu gái của tôi không thích đợi khi bữa trà đã sẳn sàng. Từ đây về nhà còn xa, và nếu về muộn thì tôi sẽ hụt ăn mất, thưa cô."
Ông ta tập tễnh bước đi. Tôi thấy ông ta đang vội vã đi nhanh hết sức mình xuống những bậc thang. Những bậc thang này là một nét đặc biệt của vùng đất này. Nó dẩn từ thị trấn đến nhà thờ, có đến hàng trăm bậc, tôi chẳng thể đếm xuể. Chúng tạo thành những đường uốn lượn thanh nhã, khiến những chỗ dốc trở nên dễ đi đến nỗi ngựa có thể lên xuống dễ dàng. Tôi nghĩ chắc là chúng được xây dựng cùng lúc với tu viện. Tôi cũng sẽ về nhà vậy. Lucy đi thăm mẹ bạn ấy rồi, và họ chắc có chuyện riêng để tâm sự, tôi hẳn là không nên đi.

Ngày 1 tháng 7

Tôi đã đến đây cả giờ với Lucy, và có một cuộc nói chuyện thú vị với ông bạn già của tôi và hai người khác luôn nhập bọn với ông. Ông ta rõ ràng là thủ lĩnh của nhóm, và tôi nghĩ rằng lúc thịnh thời hẳn ông này là một tay độc tài cực kỳ.
Ông ta chẳng đồng ý với cái gì cả, và luôn gây sự với mọi người. Nếu cãi lý không thắng, ông ta bèn giở trò át giọng và bắt mọi người phải im lặng đồng ý với ông.
Lucy trông thật là đẹp trong chiếc váy trắng. Cứ nhìn thấy bạn ấy là người ta lại trông thấy những sắc màu tươi tắn.
Tôi thấy ngay là những ông già kia lập tức tiến tới và ngồi sát vào Lucy khi chúng tôi ngồi xuống. Bạn ấy tỏ ra rất thân mật với họ, còn họ thì có cảm tình với bạn ấy ngay tức khắc. Thậm chí ông bạn già ương ngạnh của tôi cũng chẳng hề tranh cãi gì với Lucy, và tôi tất nhiên cũng được chia xẻ mối cảm tình ấy. Tôi lại gợi chuyện về những truyền thuyết xưa, và ông ấy bắt đầu huyên thuyên. Tôi phải cố nhớ để ghi lại.
" Tất cả chỉ là những chuyện nhảm nhí, nhăng cuội, tào lao cả. Tất cả những cái mớ ma quỷ, phù thủy, bọn người độc ác gì đó chỉ dùng để dọa trẻ con hay những phụ nữ yếu bóng vía mà thôi. Tất cả những cái lũ ma quỷ, với những dấu hiệu, những lời cảnh cáo của chúng đều được sáng chế ra bởi những kẻ vô công rồi nghề, những tên bịp bợm muốn mọi người làm theo ý chúng. Tôi rất ghét cái lũ đó. Vì sao mà những cái điều chẳng hề được viết lại thành văn và truyền giảng bởi các giáo sĩ lại muốn được khắc lại trên các ngôi mộ thế kia? Cô hãy nhìn chung quanh đi. Tất cả những ngôi mộ kia, kiêu hãnh đưa ra những giá trị mà bản thân chúng không hề có, và sau đó thì ngã lộn nhào bởi sức nặng của những điều giả dối được khắc trên chúng. ‘Nơi đây yên nghỉ’ hay là ‘Mãi mãi ghi nhớ’ là những câu được khắc trên đó, nhưng gần một nữa trong số chúng chẳng chôn người nào bên dưới cả, và ký ức về chúng chỉ còn lại như ngọn nến leo lét gần tắt mà thôi. Tất cả đều là giả dối, ở khía cạnh này hoặc khía cạnh khác, giả dối tất. Lạy Chúa, rồi đến cái Ngày Phán Xét thì ai nấy sẽ có cái áo quan của mình, rồi lại khắc lên tấm bia mộ những lời hoa mỹ, trong khi đó thì thật sự thì họ run rẩy, tuyệt vọng rồi chìm đắm ở đâu đó ngòai biển khơi, nơi mà chẳng bao giờ họ có một cái gì chứa đựng họ cả."
Tôi có thể nhận thấy là người đàn ông già nọ tỏ ra rất tự mãn về bầu không khí mà ông gây ra, ông nhìn quanh để tận hưởng sự tán thành của những người bạn nối khố của mình về những gì mà ông nói, còn tôi thì lúi húi ghi chép lại chúng.
"Oh, ông Swales, không thể như lời ông nói được. Chẳng lẽ những ngôi mộ kia lại là giả hay sao?"
"Yabblins! Cái một số là thật, là nơi chôn cất những người tốt, những người không bị biển cả nuốt chửng. Còn lại tòan là giả dối cả. Nào hãy đến đây. Cô là một người lạ, và cô hãy thử nhìn khu nghĩa địa này."
Tôi gật đầu, vì tôi nghĩ tốt nhất là tôi đang đồng ý. Cái thứ thổ ngữ của ông già này thật là khó hiểu. Hình như là ở khu nghĩa địa này có cái gì đó không bình thường thì phải.
Ông ta tiếp tục, "Và cô nghĩ rằng tất cả những phiến đá này đều thật sự che phủ cho những con người ư?" Tôi gật đầu. "Đều là giả dối sạch. Đó là những thứ được dựng nên vào cái ngày thứ Sáu đen tối."
Ông ta thúc vào một trong những người bạn mình, và cả ba cười phá lên. "Ôi, Chúa ơi! Thật ra những người này là như thế nào? Hãy nhìn thử cái này xem, đọc những gì khắc trên mộ ấy!"
Tôi đến gần và đọc, "Edward Spenceland, thủy thủ trưởng, bị cướp biển giết trên bờ biển Andres, tháng Tư 1854, 30 tuổi." Và khi tôi quay lại, ông Swales nói tiếp,
"Tôi tự hỏi là ai đã mang ông ta về đây, để chôn cất nơi đây? Trong khi bị giết ở bờ biển Andres! Và cô tin là thi hài của ông ấy nằm đó! A, tôi còn có thể kể tên hàng tá những bộ xương khác đang nằm trên vùng biển Greenland đó," ông ta chỉ về hướng bắc, "hoặc những dòng chảy khác đã cuốn trôi chúng đi. Và chỉ còn có những tấm bia đá nơi đây. Với đôi mắt trẻ trung của mình, cô có thể nhìn thấy những dòng chữ giả dối khác được khắc quanh đây. Kia là Braithwaite Lowery, tôi biết cha hắn, chết ở Lively off Greenland vào năm 20, hoặc Andrew Woodhouse, chết đuối cùng nơi vào năm 1777, hoặc John Paxton, chết đuối ở Mũi Tạm Biệt vào năm sau, rồi John Rawling, ông hắn đi biển với tôi, chết đuối ở Vịnh Phần Lan năm 50. Cô có nghĩ là tất cả những người này sẽ quay về Whitby khi tiếng kèn trumpet cất lên không? Chắc là họ sẽ chen chúc nhau trên một tảng băng trôi miền bắc trong khi chúng tôi ở trên một tảng băng khác từ sáng đến tối, cố buộc lại những kênh đào của chúng tôi bằng ánh bình minh phương bắc." Chắc đây là một cách nói khôi hài của dân địa phương, nên tôi thấy người đàn ông già cười khúc khích, trong khi các bạn ông ta hưởng ứng với vẻ thích thú.
"Nhưng," tôi nói, "hình như ông nói chưa đúng lắm. Ông bắt đầu bằng cách cho rằng những người đáng thương kia, hoặc là linh hồn của họ, được chôn cất và khắc tên trên bia đá vào Ngày Phán Xét. Điều này làm sao xảy ra được?"
"Ờ, những tấm bia đá kia được khắc lên làm gì? Trả lời tôi đi, thưa cô!"
"Để an ủi những người thân của họ, tôi nghĩ thế."
"Để an ủi những người thân của họ, cô nghĩ thế!" ông ta nói với sự khinh miệt rõ rệt. "Làm sao có thể an ủi những người thân của họ với sự giả dối được viết trên đây, trong khi tất cả mọi người dân trong vùng đều biết rằng chúng là những lời dối trá?"
Ông ta chỉ về phía một bia đá đã đổ sập xuống, tạo thành một nơi nghĩ chân nằm gần một mũi đá nhô ra biển. "Hãy đọc những lời dối trá trên tấm bia đá này," ông ta nói.
Những chữ khắc trên bia đá nằm ở phía bên kia so với chỗ tôi ngồi, nhưng Lucy ngồi ở hướng đối diện, bạn ấy chồm tới và đọc, "Đời đời tưởng nhớ George Canon, chết ngày 29 tháng Sáu năm 1873 do rơi từ mũi đá Kettleness với niềm hy vọng sẽ hồi sinh trong vinh quang. Ngôi mộ được lập nên bởi một người mẹ đau khổ cho đứa con trai yêu thương thân thiết của bà. ‘Anh ta là đứa con trai duy nhất của bà, và bà là một góa phụ.’ Ông Swales, tôi thật sự chẳng thấy có gì đáng cười ở đây cả!" Bạn ấy nói với một vẻ dũng cảm và nghiêm khắc.
"Cô chẳng thấy gì buồn cười à! Ha – ha! Nhưng cũng chỉ vì cô không biết rằng người mẹ đau buồn kia là một con mèo dưới địa ngục luôn căm ghét đứa con trai bởi vì anh ta sống quá chuẩn mực, còn anh con trai thì ghét mẹ đến nỗi quyết định tự tử để bà ta không thể lãnh được số tiền bảo hiểm mà bà ta đã đóng cho mạng sống của anh ta. Anh ta đã bắn vào đầu mình bằng một cây súng hỏa mai cũ, nó để lại một cái dấu toang hoác trên đầu anh ta. Đó là cái cách mà anh ta rơi xuống từ mõm đá. Và còn cái gọi là phục sinh trong vinh quang nữa chứ. Tôi thường nghe anh con trai nói với tôi khi nó còn sống là hắn hy vọng sẽ được xuống địa ngục, bởi vì mẹ hắn ngoan đạo như vậy chắc hẳn sẽ được lên đến thiên đường, và hắn hoàn toàn không muốn lẩn quẩn ở bất kỳ nơi nào có mẹ hắn. Chẳng lẽ lời khắc trên đá "anh ta đã đóng đinh bằng một cây gậy như lời anh ta nói" là sai hay sao? Gabriel, người đã liệm George đã phải cân nhắc vô cùng về lời ghi trên mộ đá của anh ta, hãy hỏi hắn nếu cần bằng chứng."
Tôi không biết phải nói gì thêm, nhưng Lucy quay lại cuộc hội thoại ngay, bạn ấy cao giọng, "Ô, vì sao lại nói với chúng tôi điều này? Đây là chỗ ngồi ưa thích của tôi, và tôi không thể xa rời nó được, còn bây giờ thì tôi biết là tôi phải ngồi bên mộ của một người tự sát rồi."
"Điều đó sẽ chẳng có hại gì cho con đâu, con gái của ta, và điều này có thể làm cho Geordie tội nghiệp cảm thấy được an ủi khi có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi ghé bên. Nó chẳng có hại gì cho con cả. Ta đã ngồi ở đây gần hai mươi năm, và có gì phiền tóai đến cho ta đâu. Đừng bận tâm xem những lời khắc kia có phải là những lời nói dối hay không? Nó sẽ để lại cho con những kỷ niệm khi một ngày nào đó những ngôi mộ này dời đi, và chung quanh đây trở nên xơ xác như một đám ruộng trơ rạ. Đã đến giờ rồi, ta phải đi thôi. Sẳn sàng phục vụ các cô, các tiểu thư!" Và ông ta khập khiễng bước đi.
Lucy và tôi ngồi lại thêm một lát, và cảnh đẹp trải rộng trước mặt khiến chúng tôi bồi hồi nắm chặt tay nhau. Lucy kể lại lần nữa về Arthur và đám cưới sắp đến của họ. Điều này làm tim tôi đau nhói, bởi vì tôi chưa có tin tức gì về Jonathan suốt cả tháng nay cả. Cùng ngày hôm đó, tôi quay lại đây, cô đơn và buồn bã. Chẳng có lá thư nào cho tôi cả. Tôi hy vọng là anh Jonathan chẳng gặp chuyện gì. Đồng hồ đã điểm chín giờ. Ánh đèn tỏa lan trong thành phố, chạy thành hàng theo những con đường, và sáng lên đơn độc ở một đôi chỗ. Nó chạy dọc phía bên phải dòng Esk và chấm dứt chỗ đường cong dẩn vào thung lũng. Ở bên trái tôi cắt ngang bởi một vệt đen tạo ra bởi ngồi nhà cổ nằm cạnh bên tu viện. Bầy cừu kêu buồn ở những cánh đồng phía sau tôi, có tiếng vó lừa lóc cóc ở con đường lát gạch phía dưới. Ban nhạc phía trên móng cầu chơi một điệu valse êm ả, và phía xa trên bờ ke là một đạo quân Salvation đang tập hợp ở con đường phía sau. Cả hai phía đều chẳng thấy nhau nhưng ở đây tôi thấy và nghe được cả hai. Tôi không biết bây giờ anh Jonathan đang ở đâu, và anh ấy có đang nghĩ về tôi hay không! Ước gì anh ấy ở đây với tôi.

NHẬT KÝ CỦA BÁC SĨ SEWARD

Ngày 5 tháng 6. – Càng nghiên cứu trường hợp về Renfield tôi càng thích thú khi hiểu thêm về người đàn ông này. Ông ấy ngày càng lộ rõ tính ích kỷ, bí ẩn và có một mục đích xác định.
Tôi muốn biết về vấn đề sau này thật rõ. Ông ta hình như có một thời khóa biểu riêng mà tôi chẳng thể biết được. Ông ta bù lại có một tình yêu với thú vật, mặc dù đôi khi ông ta tỏ ra rất tò mò khiến tôi cho rằng ông ta chỉ là một kẻ độc ác khác thường. Những con thú nuôi của ông ta là những con vật dị thường.
Bây giờ thì sở thích của ông ta là bắt ruồi. Cái sở thích kỳ quặc này khiến tôi buộc phải thắc mắc. Tôi kinh ngạc khi thấy ông ta chẳng hề nổi giận như tôi tưởng, mà lại có một dáng vẻ nghiêm túc khi trả lời. Ông ta nghĩ một lúc, đoạn nói, " Cho tôi ba ngày? Tôi sẽ giũ sạch chúng." Tất nhiên, tôi chấp nhận. Tôi phải chú ý đến ông ta.
Ngày 18 tháng 8. – Bây giờ thì ông ấy quay sang bắt nhện, và bỏ những con thật lớn vào trong hộp. Ông ta nuôi nhện bằng những con ruồi của ông ấy, và số lượng ruồi ông ta có được giảm đi đáng kể, mặc dù ông ta cố quyến rũ chúng bằng phân nữa số thức ăn ông ta có.
Ngày 1 tháng 7. – Số nhện của ông ta đã trở nên nhiều đến nỗi khiến lòai ruồi trong phòng gần tuyệt chủng, và tôi nói với ông ta rằng cần phải dẹp bỏ bọn nhện đi.
Ông ta trông có vẻ rất buồn bã, nên tôi nói rằng ông ta có thể giữ lại một số trong bọn chúng. Ông ta vui mừng với sự cho phép này, và tôi cho ông ta một số thời gian để lựa chọn.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #16  
Old 05-03-2005, 02:43 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Ông ta làm tôi vô cùng ghê tởm, khi mà dùng những thứ thức ăn thối rửa để thu hút bọn ruồi nhặng dơ dáy. Chúng bay vo ve đầy phòng, ông ta bắt lấy chúng, vui mừng vân vê chúng giữa hai ngón tay, và trước khi tôi hiểu ra ông ta định làm gì, ông ta bỏ chúng và miệng và ăn chúng.

Tôi la rầy ông ta về chuyện này, nhưng ông ta tranh cãi một cách mềm mỏng rằng chúng rất ngon và vô hại, chúng rất có lợi cho sức khỏe và mang lại cuộc sống cho ông ta. Điều này làm tôi nảy ra một ý nghĩ, một suy nghĩ tiền đề. Tôi phải theo dõi xem ông ta làm cách nào mà giũ bỏ bọn nhện.
Ông ta rõ ràng là có một điều gì ám ảnh sâu trong tâm hồn, vì ông ta có bên mình một cuốn sổ tay, ông ta thường ghi chép vội vã vào đó. Có trang thì ông ta vẽ đầy những con số được xếp thành dãy, tổng số của chúng lại được xếp thành từng dãy khác, và ông ta chăm chú tính tóan như một kế tóan viên thực thụ.
Ngày 8 tháng 7. - Lại có một trò điên của ông ta, và cái ý tưởng phôi thai trong tôi đang định hình dần. Nó sẽ trở thành một ý nghĩ tòan vẹn sớm thôi, đó là một hoạt động không ý thức của não.
Tôi tránh mặt bạn bè vài ngày để quan sát mọi sự thay đổi có thể diễn ra. Chẳng có gì mới, ngoại trừ việc ông ta chia tay với một số con vật thân thiết của mình và bắt thêm một số mới.
Ông ta cố gắng bắt được một con chim sẻ và ra sức thuần hóa nó. Quá trình thuần hóa của ông ta dẩn đến một kết quả đơn giản là giảm bớt số nhện đi. Tuy nhiên số còn lại vẩn cần phải ăn, và ông ta lại tiếp tục dùng thức ăn của mình để quyến rũ lòai ruồi.
Ngày 19 tháng 7. – Chúng ta lại có sự tiến bộ mới đây. Ông bạn của tôi đã có được một tập đoàn chim sẻ, còn lũ ruồi và nhện thì đã gần như tiêu ma hoàn toàn. Khi tôi đến ông ta chạy ào đến chỗ tôi và nói rằng ông ta muốn yêu cầu tôi một đặc ân, một đặc ân rất quan trọng. Và trong khi nói, ông ta xun xoe chung quanh tôi như một con :D
Tôi hỏi ông ta xem đặc ân đó là gì, và ông ta nói với dáng vẻ và giọng điệu đầy hí hửng, "Một con mèo con, một con mèo con khỏe mạnh, dễ thương để tôi chơi với nó, và cho nó ăn, cho nó ăn, cho nó ăn!"
Tôi chưa chuẩn bị cho một yêu cầu như vậy, nhưng chẳng khó để nhận ra rằng cái lũ vật nuôi của ông ta ngày càng gia tăng về kích cỡ và sự tiến hóa, và tôi không dám chắc là cái bầy sẻ được thuần dưỡng của ông ta rồi sẽ được biến đi cùng một cách với lũ ruồi và nhện hay không. Vì vậy tôi hỏi xem vì sao ông ta không chọn một con mèo lớn thay cho một chú mèo con.
Sự hăm hở của ông ta đã phản bội lại ông khi ông trả lời, "Ồ, vâng, tôi thích một con mèo! Tôi chỉ xin một con mèo con vì ngài có thể từ chối tôi một chú mèo lớn. Tôi sẽ có một con mèo con chứ ạ?"
Tôi lắc đầu, và nói rằng hiện giờ thì tôi e rằng điều đó là chưa được, nhưng tôi sẽ xem xét nó. Khuôn mặt ông ta xịu xuống, và tôi có thể thấy những nét đe dọa và nguy hiểm bên trong nó, manh nha một ý định giết người. Con người có một bản năng điên dại giết người tiềm ẩn trong mình. Tôi sẽ kiểm tra ông ta qua yêu cầu mà ông vừa đưa ra và xem mọi chuyện diễn tiến như thế nào, tôi sẽ biết rõ thêm.
Mười giờ tối. - Tôi thăm ông ta lần nữa và thấy ông ta đang ngồi ngẫm nghĩ ở một góc phòng. Khi tôi đến, ông ta quỳ sụp xuống trên đầu gối và khẩn nài ông ta cho ông một con mèo, rằng sự cứu rỗi của ông ta phụ thuộc vào đó.
Tuy nhiên tôi rất cương quyết nói rằng yêu cầu này là không thể giải quyết được. Vậy là ông ta không nói thêm nữa lời, quay về góc của mình và gặm ngón tay. Tôi sẽ gặp lại ông ta vào sáng sớm mai.

Ngày 20 tháng 7. – Tôi đến thăm Renfield rất sớm, trước khi những người chăm sóc mang ông ta đi dạo. Tôi thấy ông ta đang ư ử một giai điệu vo ve. Ông ta ve vẩy cục đường mà ông ta còn để dành được ra ngòai cửa sổ, với một ý định rõ ràng là tái lập lại cái trò bắt ruồi, với một sự khởi đầu đầy hứng khởi và khéo léo.
Tôi nhìn quanh tìm những con chim của ông ta, nhưng chẳng thấy đâu. Tôi bèn hỏi ông ta xem chúng đâu. Ông ta trả lời mà chẳng buồn quay lại rằng chúng đã bay mất rồi. Có một đám lông vũ vung vãi trong phòng, máu rỏ ra từ cái xích của ông ta. Tôi không nói gì thêm, quay ra dặn người coi giữ phòng phải báo cáo ngay với tôi tất cả những gì lạ lùng xảy đến với ông ta trong ngày.
11 giờ sáng. – Người chăm sóc phòng vừa đến nói rằng Renfield đang bệnh và ông ta nôn ra tòan lông chim. "Thưa bác sĩ, tôi tin rằng ," anh ta nói, "ông ta đã ăn những con chim của mình. Ông ta đã bắt và ăn sống chúng."
11 giờ tối. – Tôi cho Renfield uống một liều thuốc ngủ mạnh khiến ông ta nằm mê đi, rồi lấy cuốn sổ trong túi ông ta ra để đọc. Những điều thắc mắc lẩn quẩn trong đầu tôi đã được giải đáp, những lý thuyết của tôi đã được chứng minh.
Tôi gặp một trường hợp bản năng cuồng sát đặc biệt. Tôi nghĩ ra một cách giải thích khác cho trường hợp của ông ta, mà tôi gọi là sự cuồng ăn thịt (thịt sống). Cái mà ông ta muốn là hút càng nhiều sự sống vào người càng tốt. Ông ta cho một con nhện ăn nhiều con ruồi, một con chim ăn nhiều con nhện, rồi ông ta muốn một con mèo ăn nhiều con chim. Tiếp theo ông ta sẽ muốn tới cái gì đây?
Cái giá phải trả để hòan tất những kinh nghiệm này cũng đáng lắm chứ. Nó sẽ hòan thành nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng. Lòai người đã từng chế nhạo việc mổ xẻ, nhưng hãy nhìn những thành tựu mà công việc này đem lại ngày nay! Vì sao sự phát triển của khoa học luôn gặp phải những khó khăn và thách đố vì những định kiến từ đầu óc con người?
Nếu tôi nắm được bí mật này, tôi sẽ biết được điều cốt yếu để đi sâu vào tâm hồn những người mất trí, tôi sẽ có những sự đóng góp đáng giá vào khoa học để so sánh với nhà sinh lý học Burdon – Sanderson hoặc thiên tài Ferrier. Nếu như nó có được một nguyên nhân chính đáng! Đừng nghĩ nhiều về nó, hoặc là tôi sẽ làm cho mình trở nên kích động mất. Một điều khiến tôi bình tâm, đó là tôi không phải là một người có tài năng đặc biệt bẩm sinh.
Sự suy luận của con người thật tuyệt vời. Những người mất trí luôn sống trong một thế giới riêng của họ. Không hiểu người đàn ông này đánh giá một con người bằng với bao nhiêu sự sống, hay chỉ bằng một thôi. Ông ta đã gần tính chính xác được rồi, và hôm nay ông ấy lại bắt đầu một bản ghi mới. Ai trong số chúng ta đã bắt đầu nghiên cứu mỗi ngày để tính tóan về sự sống của chính chúng ta.
Tối qua cuộc sống của tôi đã gần như kết thúc đối với tôi và tôi thật sự đang bắt đầu tính tóan lại cho mình một cuộc sống mất. Nó sẽ tiếp tục cho đến khi Quan Tòa Vĩ Đại cộng hết tất cả lại cho tôi trong một con tính cuối cùng, cân bằng lại cho tôi những lợi nhuận và mất mát của tôi.
Ôi, Lucy, anh không thể giận em, cũng như không thể giận bạn mình, người đang hạnh phúc cùng em. Nhưng anh chỉ có thể đợi chờ trong hy vọng và làm việc. Làm việc! Làm việc!

Nếu như tôi có thể mạnh mẽ được như người bạn mất trí tội nghiệp của tôi nhỉ, với một lý do tốt đẹp, không vị kỷ để làm công việc của tôi. Đó sẽ là điều hạnh phúc thật sự.

NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY

Ngày 26 tháng 7. – Tôi thật là lo âu, và chỉ có thể xoa dịu bằng cách tự kể với mình bằng những trang nhật ký này. Điều đó giống như một người tự thì thầm và lắng nghe chính mình cùng lúc. Và đó cũng là lý do tôi dùng những ký hiệu viết tắt, nó gây ra cảm giác khác biệt so với chữ viết thường. Tôi không vui về Lucy và Jonathan. Tôi chẳng có tin tức gì về anh Jonathan thời gian qua, và rất lo lắng. Nhưng hôm qua ngài Hawkins đáng mến, người luôn luôn tỏ ra tốt bụng, đã chuyển cho tôi bức thư của anh ấy. Tôi đã viết thư hỏi thăm anh ấy, anh ấy trả lời là đã nhận được thư. Và chỉ có một hàng đề ngày tháng từ Lâu đài Dracula , báo tin anh ấy đang bắt đầu trở về nhà. Chẳng giống Jonathan tí nào. Tôi hoàn toàn không hiểu gì, và điều này làm tôi bất an.
Lại còn Lucy nữa. Mặc dù bạn ấy vẩn khỏe, nhưng dạo gần đây bệnh mộng du của bạn ấy bắt đầu quay trở lại. Mẹ bạn ấy có bàn về chuyện này với tôi, và chúng tôi quyết định rằng tôi sẽ khóa cửa phòng chúng tôi mỗi tối.
Bà Westenra có cho tôi biết là những người mộng du hay đi trên mái nhà, đi dọc theo những cạnh đá. Thình lình họ tỉnh giấc và rơi xuống với những tiếng kêu thảng thốt làm vang động chung quanh.
Bà mẹ tội nghiệp tất nhiên là rất lo lắng cho Lucy. Bà ấy nói với tôi là chồng bà, tức cha Lucy, cũng có thói quen như vậy. Ông ấy thức giấc vào nữa đêm, tự thay quần áo và đi ra ngòai nếu không ai đánh thức dậy.
Lucy sẽ cưới vào mùa thu, và bạn ấy đang chuẩn bị quần áo và nhà cửa của mình. Tôi thông cảm với bạn ấy, tôi cũng sẽ làm như vậy nếu tôi là bạn ấy.Chỉ có điều tôi và anh Jonathan sẽ sống một cuộc sống đơn giản, và sẽ cố hòa hợp hai lối sống với nhau.
Anh Holmwood, anh ấy tên là Hon. Arthur Holmwood, là con trai duy nhất của ngài Godalming, thỉnh thỏang lại đến, ngay khi anh ấy có thể rời thị trấn được, vì cha anh ấy không được khỏe. Tôi thấy Lucy luôn khắc khỏai chờ anh ấy đến.
Bạn ấy luôn muốn ngồi cùng anh ấy trên khu đất nhà thờ, chỉ cho anh ấy cảnh đẹp miền Whitby. Tôi dám chắc là sự chờ đợi làm bạn ấy rối tung lên, và bạn ấy trở lại bình thường khi anh ấy đến chơi.
Ngày 27 tháng 7. – Chẳng có tin tức gì của anh Jonathan. Tôi cảm thấy vô cùng lo lắng cho anh, nhưng tôi chẳng biết phải làm gì. Ước gì anh ấy viết cho tôi, dù chỉ một hàng.
Lucy lại càng hay mộng du, mỗi đêm tôi đều bị đánh thức bởi tiếng chân bạn ấy lang thang khắp phòng. May là dạo này trời nóng nên bạn ấy không bị nhiễm lạnh. Nhưng sự xáo động liên tục ấy rốt cuộc đã ảnh hưởng đến tôi, tôi trở nên căng thẳng và mất ngủ. Tạ ơn Chúa, sức khỏe của Lucy vẩn ổn. Anh Holmwood vừa đột ngột được gọi về gặp mặt cha, vì ông ấy yếu đi nhiều. Lucy cáu kỉnh vì bị chia cắt, nhưng không để lộ điều ấy ra mặt. Bạn ấy cố đùa cợt, và má bạn ấy đỏ hồng lên thật đáng yêu. Bạn ấy không còn xanh xao nữa. Tôi mong sao điều ấy diễn ra mãi. Ngày 3 tháng 8. – Lại một tuần nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì về anh Jonathan, hay thậm chí là từ ông Hawkin, người tôi đang nóng lòng chờ đợi. Ôi, tôi mong sao anh ấy đừng ngã bệnh. Anh ấy phải nên viết cái gì cho tôi chứ. Tôi xem lại bức thư cuối cùng của anh ấy, nhưng nó chẳng làm tôi thỏa mãn. Nó không giống cách anh ấy viết, dù là nét chữ của anh ấy. Không thể sai lầm được. Trong tuần này Lucy không mộng du nhiều như trước, nhưng bạn ấy có cái vẻ quan tâm là lạ nào đó mà tôi không hiểu, hình như ngay trong khi ngủ bạn ấy cũng theo dõi tôi. Bạn ấy thử mở cửa, và khi thấy cửa khóa thì bạn ấy lùng sục trong phòng để tìm chìa khóa.
Ngày 6 tháng 8. – Lại ba ngày nữa trôi qua, và chẳng có tin tức gì. Khỏang thời gian chờ đợi này thật là chết người. Chỉ cần biết một nơi nào đó để viết vài chữ hay để đi đến, tôi sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng chẳng ai biết gì thêm về Jonathan kể từ lá thư cuối cùng của anh ấy. Tôi chỉ còn biết cầu Chúa để giúp mình kiên nhẫn hơn.
Lucy trở nên kích động hơn, nhưng ngòai ra mọi thứ đều tốt đẹp. Đêm hôm qua tiết trời có vẻ là lạ, và những người đánh cá nói rằng sắp có một cơn bão ập đến chỗ chúng tôi. Tôi phải học cách quan sát và đóan nhận từ những dấu hiệu do thời tiết mang lại mới được.
Ngày hôm nay thật là u ám, và khi tôi viết những dòng này thì mặt trời đã ẩn vào những đám mây dày che phủ miền Kettleness. Mọi thứ đều u ám ngoại trừ bãi cỏ xanh nổi lên như một viên ngọc lục bảo giữa phong cảnh chung quanh. Những mỏm đá màu xám, những đám mây màu xám, pha lẫn với ánh mặt trời nhàn nhạt xa xa, trôi lững lờ trên mặt biển, phủ một màu xám lên tòan bộ bức tranh thiên nhiên. Biển như tràn ngập lên tất cả những chỗ cạn và những dãi cát với một màn sương hung dữ, dày đặc từ đại dương đi vào đất liền. Chân trời đã biến mất trong màn sương xám xịt này. Tất cả đều mênh mông xa vắng, mây trời thì ùn ùn kéo lại thành từng lớp như những tầng đá khổng lồ, và thỉnh thoảng lại có những tiếng kêu vang dội khắp mặt biển như vang lên từ địa ngục. Một bóng đen thỉnh thỏang lại xuất hiện trên mặt biển, đôi khi chìm khuất trong màn sương, giống như một ‘người đàn ông đang đi bộ trên những mảnh ván’. Những chiếc thuyền đánh cá vội vã quay trở vào bờ. Sóng biển cuồn cuộn hung hãn đập vào bờ như muốn cuốn phăng cả hải cảng đi, rồi rút ra qua những lỗ thông nước. Ông bạn già Swales đến thăm. Ông ta đi thẳng lại chỗ tôi, và qua cái cách ông ta nhấc mũ thì tôi hiểu rằng ông ta muốn nói chuyện.
Tôi có phần xúc động trước sự thay đổi nơi người đàn ông tội nghiệp già cỗi này. Khi ông ấy ngồi cạnh tôi, ông nói với một vẻ rất lịch thiệp, "Tôi muốn nói với cô đôi điều, thưa cô."
Tôi thấy ông ấy không bình tĩnh lắm, nên tôi nắm lấy bàn tay nhăn nheo già nua của ông trong tay tôi và nói ông ấy hãy cứ nói hết.
Ông ta rút tay ra khỏi tay tôi và nói, "Cô bé yêu quý của tôi, tôi sợ rằng sẽ làm cô bị sốc với những điều khủng khiếp tôi sắp nói ra về cái chết.Trong những tuần qua tôi đã không nói về chúng, nhưng tôi muốn cô nhớ kỹ khi tôi đã ra đi. Chúng tôi là những kẻ lang thang sau những bánh lái đi khắp mọi nơi trên trái đất, mà chẳng có ai buồn nghĩ đến nó, chúng tôi cũng chẳng sợ hãi gì về nó. Trái tim tôi tự hào rằng tôi hoàn toàn xem thường cái chết. Nhưng mà, cô bạn ạ, Chúa sẽ phù hộ cho cô, tôi chẳng sợ gì cái chết, nhưng tôi không muốn chết nếu như tôi vẩn còn có thể tìm thấy lối thóat. Thời điểm của tôi đã sắp đến rồi, và tôi biết rằng, một trăm năm là một cuộc đời dài so với cuộc sống của một con người, và tôi đã cảm thấy lão Thần Chết đang vung lưỡi hái của lão đâu đây. Cô thấy đấy, tôi vẩn chưa dứt được thói quen đùa cợt với nó. Cái lưỡi hái ấy lão vẩn thường vung lên trước mặt tôi như một trò đùa quen thuộc của hắn. Rồi sắp đến hắn sẽ thổi lên tiếng kèn gọi của hắn cho tôi. Nhưng cô đừng tỏ ra như thế chứ, cô bạn thân yêu!" – đó là lúc ông ấy thấy tôi đang khóc – "nếu hắn đến vào lúc khuya khoắt này tôi sẽ từ chối chẳng thèm trả lời lời gọi của hắn đâu. Cuộc sống là cái mà, sau khi những gì mà người ta làm được, người ta chờ đợi một cái gì khác xảy đến, thì cái chết chính là cái điều hợp lý để đợi chờ. Nhưng tôi hài lòng nếu nó đến với tôi, cô bạn thân mến, và hãy đến nhanh lên. Nó có thể đến trong khi đang được trông ngóng và đợi chờ. Có thể nó nằm đâu đó trong những cơn gió biển đang mang đến sự mất mát và tàn phá, làm tâm hồn tan nát, làm con tim nhói đau. Nhìn xem! Nhìn xem!" ông ta đột ngột kêu lên. "Có một cái gì đó trong cơn gió này. Nó mang theo mùi vị, âm thanh, mang theo sắc màu của cái chết. Nó đâu đó trong không khí. Tôi cảm thấy nó đang đến đấy. Chúa ơi, hãy làm cho vui sướng khi ngài gọi con!" Ông ta giơ tay lên một cách nhiệt thành, nhấc mũ lên. Môi ông ta mấp máy như đang cầu nguyện. Sau vài phút im lặng, ông ấy đứng dậy, bắt tay tôi, chúc phúc cho tôi, rồi chào tạm biệt và khập khiểng bước đi. Điều này làm tôi xúc động tận tâm can và buồn rầu không ngớt.
Tôi vui lên khi người lính tuần duyên đi đến một mình, với cái kính viễn vọng trong tay. Ông ta dừng chân nói chuyện với tôi như mọi khi, nhưng vẩn chăm chú theo dõi một con tàu lạ.
"Con tàu này lạ quá," ông ta nói. "Nó là tàu Nga, qua dáng vẻ bên ngòai. Nhưng nó kéo còi liên tục một cách dị thường. Hình như chẳng có ai điều khiển nó. Giống như nó thấy trước một cơn bão, nhưng không biết là nên chạy thẳng lên phía bắc để tránh hay cập vào đây. Nhìn lại xem! Nó di chuyển rất kỳ quặc, hình như chẳng có ai điều khiển bánh lái cả. Cứ mỗi cơn gió lại làm nó đổi hướng. Ngay trước sáng mai chúng ta sẽ biết thêm về nó."
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #17  
Old 05-03-2005, 02:45 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 7

BẢN CẮT TỪ TỜ "THE DAILYGRAPH", NGÀY 8 THÁNG 8

(ĐƯỢC DÁN TRONG NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY)


Theo tin của phóng viên.

Whitby.

Một trong những cơn bão hung hãn và bất ngờ nhất mà người ta ghi nhận lại được đã diễn ra ở đây, mà kết quả để lại của nó thật lạ lùng và khó tin. Thời tiết gần đây có vẻ khá oi bức, nhưng cũng không đến nỗi quá đặc biệt trong tiết tháng Tám này. Chiều chủ nhật vẩn đẹp trời như thường lệ, và lượng khách du lịch khổng lồ đổ dồn về hôm qua được dẩn đi thăm Rừng Mulgrave, Vịnh Robin Hood, Đồi Rig, Runswick, Staithes và những địa danh du lịch khác chung quanh Whitby. Những con tàu hơi nước thực hiện những chuyến du hành lên xuống bờ biển, và số lượng khách du lịch đến và đi Whitby tăng lên một cách bất thường. Sự bất thường tuyệt diệu đó kéo dài đến tận trưa, cho đến khi một số tin đồn được lan ra từ Vách đá Phía Đông khu nhà thờ, rằng giáo chủ ra lệnh hãy để quang bờ biển phía bắc và phía tây, để có thể thuận tiện quan sát sự xuất hiện của hiện tượng "đuôi ngựa cái" trên bầu trời phương bắc. Gió nam thổi mơn man, mà nói theo ngôn ngữ khí tượng học là ‘Gió cấp hai, thổi nhẹ.’
Những người lính tuần duyên làm những bản báo cáo theo đúng chức năng của mình, và một người đánh cá già, người đã hơn nữa thế kỷ quan sát những dấu hiệu của thời tiết từ Vách đá Phía Đông, tiên đóan dứt khóat về một cơn bão sắp diễn đến thình lình. Hòang hôn diễn ra đẹp tuyệt vời, với những đám mây hòa lẫn nhiều sắc màu pha trộn thành một bức tranh hùng vĩ, khiến cho một khối lượng lớn khách đi dạo trên vách đá nằm trên khu nghĩa địa gần nhà thờ đã tập trung lại để thưởng thức cảnh đẹp. Trước khi mặt trời chìm hẳn vào bóng đêm của Kettleness, nó liều lĩnh đi xuyên qua vùng trời phía tây, khiến quá trình lặn dần của nó tạo nên vô số những đám mây sặc sỡ với những màu sắc đặc trưng cho buổi hòang hôn, hồng lửa, tía, hồng cẩm chưởng, xanh lá cây, tím violet và tất cả các cung bậc khác nhau của sắc vàng, pha trộn với những mảng đen đây đó với nhiều hình dạng khác nhau, phác họa lên một hình bóng đêm đen thật ấn tượng. Cảnh đẹp chiều nay chẳng thể nào phai mờ trong tâm hồn những người nghệ sĩ, và không còn nghi ngờ gì nữa, những nét phác thảo về bức tranh "Khúc dạo đầu cho Cơn Bão Lớn" sẽ làm rạng danh cho những bức tường của R.A và R.I vào tháng Năm tới.
Nhiều loại tàu khác nhau đã được thuyền trưởng của mình cho cập vào cảng, với ý định ở lại đây cho đến khi bão tan. Gió đã tắt hẳn trong suốt chiều, và đến nữa đêm thì không khí vô cùng oi bức và ngột ngạt do không còn một chút gió biển nào, và tiếp theo một cách thường lệ là những tiếng sấm vang dội làm run sợ những người yếu bóng vía.
Có vài ánh chớp lóe lên trên biển, chiếu sáng những con tàu chạy hơi nước được neo chắc gần cột chống trên bờ biển, và vài chiếc thuyền đánh cá khác. Chiếc tàu duy nhất ngòai khơi là một chiếc thuyền buồm ngoại quốc với tất cả các cánh buồm được giương lên, hình như định đi về phía tây. Sự liều lĩnh hoặc ngây thơ của những kẻ điều khiển chiếc tàu buồm này làm dội lên những tiếng bình luận không ngớt trong khi nó còn được nhìn thấy, trong lúc mọi người cố gắng ra hiệu cho nó biết sự nguy hiểm đang ập đến với chuyến đi của nó. Trước khi đêm xuống hẳn chiếc thuyền buồm còn được trông thấy bềnh bồng giữa những cơn sóng chập chờn của biển cả một cách bình thản.
"Nó bình thản như một con tàu được vẽ trên một bức tranh về biển."
Gần đến mười giờ, thời tiết vẩn oi bức, và sự im lặng bao trùm làm nổi bật lên những tiếng kêu của bầy cừu, những tiếng sủa xa xăm của lũ chó bên trong thị trấn, khiến cho giữa hai đầu bờ đê như chìm trong một buổi hòa âm lặng lẽ của thiên nhiên mang đầy đặc trưng của nước Pháp. Sau nữa một chút thì một một tiếng động lạ vọng lại từ bờ biển, và một vang trong không khí là một tiếng nổ lớn vọng về từ xa vắng.
Rồi thình lình cơn bão ập đến mà chẳng có gì báo trưóc. Với một tốc độ nhanh đến mức không tưởng, mà sau đó người ta không thể hình dung lại được, tòan bộ thiên nhiên như bùng lên một cơn chấn động khôn cùng. Những cơn sóng hung hãn dâng cao, đợt này nối tiếp đợt khác, làm cho biển cả chỉ đang êm ả mới đây nay trở nên hung hăng và cuồng nộ như một con quái vật. Những cơn sóng điên cuồng tràn lên bãi cát và cuốn đi mọi thứ trên vách đá. Những cơn sóng khác công phá vào bến tàu, bọt sóng tung tóe đến tận những ngọn đèn hải đăng treo ở hai đầu Cảng Whitby.
Gió biển gầm vang như cơn sấm sét, và thổi mạnh đến nỗi ngay cả một người khỏe mạnh cũng khó có thể đứng vững trên đôi chân của mình nếu như không được móc chặc vào một cây cột thép. Người ta thấy rõ là cần phải giải tán ngay cái đám đông khổng lồ đang tập trung ở chỗ móng đê, nếu không thì sự thiệt hại do cơn bão gây ra trong đêm nay sẽ càng gia tăng lớn hơn. Thêm vào cho những sự khó khăn và nguy hiểm của tình thế, một bầy lớn những con hải cẩu tràn vào bờ. Cái đám đông trắng và ẩm ướt kia lập tức bị quét đi một cách ma quái bởi bầy thú nhám nhúa, đen đua và lạnh giá này. Có thể tưởng tượng rằng linh hồn của những con hải cẩu đã bị chết ngày xưa trong biển cả đã chạm những bàn tay lạnh giá của cái chết vào những đồng loại của chúng, và nhiều người chợt rùng mình khi màn sương cuồn cuộn của biển cả tan ra.
Ngay khi sương tan ra, trên mặt biển chớp lên một vầng hào quang sáng :Di, rực rỡ và mau :Dng, tiếp theo là hàng loạt những tiếng gầm của sấm sét khiến cho cả bầu trời cao như run rẩy dưới những bước chân hung hãn của bão tố.
Quang cảnh đang diễn ra có một dáng vẻ hùng vĩ khôn tả và thu hút hết thần trí của con người. Biển cả cuộn lên những cơn sóng cao như những ngọn núi, tung lên trời những đám bọt trắng xóa, giống như thiên nhiên đang muốn vồ lấy mọi thứ và ném chúng vào giữa khoảng không vô tận. Thấp thóang những chiếc thuyền đánh cá, buồm rách tả tơi, đang cuống cuồng tìm kiếm một chỗ ẩn nấp giữa thiên nhiên hung dữ, là những đôi cánh trắng của những con hải âu đang bị dập vùi giữa các đợt sóng khổng lồ. Trên đỉnh của Vách Đá Phía Đông có một cây đèn pha lớn đang vừa được đưa ra thử nghiệm, nhưng chưa được sử dụng lần nào. Bây giờ thì những nhân viên phụ trách của nó đang bắt đầu điều khiển, và ánh sáng của nó xua tan đi bóng tối rọi sáng bề mặt của biển cả. Sự nỗ lực của nó cũng có tác dụng được một hai lần, khi mà chiếc thuyền đánh cá đã bị nước tràn qua mép đã có thể tìm về cảng một cách an tòan dưới sự điều khiển của ánh đèn pha, tránh được mối nguy hiểm va vào các chân đê. Khi mỗi chiếc thuyền đánh cá an toàn về đến cảng thì đám đông đứng bên bờ biển lại kêu lên những tiếng vui mừng, những tiếng kêu như muốn xua tan cơn bão và tống khứ chúng đi.



Chẳng mấy chốc chiếc đèn pha đã phát hiện ra từ phía xa một con thuyền buồm nhỏ với những cánh buồm giương cao, rõ ràng nó chính là chiếc thuyền đã gây nên sự chú ý ban chiều. Gió bây giờ đã thổi ngược về phía Đông, và một cái rùng mình lan đi giữa đám đông khi họ nhận thức rõ mối nguy hiểm mà chiếc thuyền đang phải đương đầu.
Giữa con tàu này và cảng là một dãi đá ngầm lớn đã mà qua nhiều thế hệ đã làm bao con thuyền phải khốn khổ, và với hướng gió hung hãn như thế này, khó mà con thuyền kia có thể về đến cảng.
Thủy triều càng lúc càng dâng cao, các cơn sóng càng lúc càng mạnh, chúng gần như đã nuốt chửng bờ biển, và chiếc tàu buồm kia, với tất cả các cánh buồm vẩn giương cao, vẩn lướt đi băng băng. Người ta nghe thấy tiếng của một thủy thủ lão luyện vang lên "nó chỉ có thể dừng lại ở một nơi gọi là địa ngục mà thôi." Rồi một màn sương biển khác ập đến, dày đặc hơn lúc nào hết. Cái khối sương ẩm ướt kia đã phủ một tấm vải xám lên mọi vật, và bây giờ người ta chỉ còn nghe thấy những giọng nói, tiếng gầm của thời tiết, tiếng vang của sấm sét, và rồi một tiếng động khủng khiếp truyền đi mơ hồ giữa các cơn sóng, lớn hơn tất cả các tiếng động trước đây. Hướng rọi sáng của đèn pha được giữ từ phía cổng hải cảng xuyên qua Vách Đá Phía Đông, và mọi người đều chờ đợi một cú sốc, tất cả đều nín thở.
Gió biển thình lình thổi giạt sang hướng bắc, và khối sương còn đọng lại cũng tan đi trong gió. Và, điều kỳ diệu đã xảy ra, giữa những nhịp đê, trườn mình lên những ngọn sóng, xông pha một cách liều lĩnh, con tàu buồm lạ lùng kia vẩn lướt đi cùng gió, tất cả các cánh buồm giương cao, và cập bến an toàn vào cảng. Ánh đèn pha vẩn dõi theo nó, và tất cả mọi người khi trông rõ nó đều rùng mình bởi họ nhìn thấy một thi hài được buộc chặt nơi bánh lái con tàu, đầu gục xuống, lắc lư một cách kinh khiếp theo từng nhịp sóng. Không còn ai khác ở trên tàu.
Một nỗi kinh khiếp lan đi giữa mọi người, khi họ nhận thấy rằng con tàu kia, bằng một phép màu kỳ diệu, đã tìm về được hải cảng dưới bàn tay cầm bánh lái của một người đã chết. Tuy nhiên, mọi việc diễn ra còn nhanh hơn hơn là chúng được ghi lại. Chiếc tàu buồm kia không dừng lại, cứ thế đâm sầm qua cảng, lao vào khối cát và sỏi được tráng lên bởi những cơn sóng thủy triều và những cơn bão thổi về góc phía nam của bến tàu nhô lên dưới Vách Đá Phía Đông, được gọi là Ngọn Đồi Bến Tàu Tate. Tất nhiên là con tàu chịu một sự chấn động khủng khiếp khi nó lao vào khối cát. Tất cả cột trụ, dây thừng, dây néo đều căng lên, rồi sập xuống như bị một cây búa khổng lồ nện xuống. Nhưng lạ lùng hơn hết thảy là ngay khi con tàu chạm vào bờ biển, một con chó khổng lồ đã phóng vụt xuống, và giống như bị kích thích bởi sự chấn động, đã phóng vội đi, nhảy những bước dài trên các mô cát.
Nó chạy thẳng về phía vách đá cao, nơi có một con đường dẩn từ khu nghĩa địa vào Bến Tàu Phía Đông, nơi có một ngôi mộ hay những bia đá được gọi bằng những thứ tiếng địa phương của Whitby. Người ta đã có kế hoạch trùng tu lại vách đá để nó đừng đổ ập xuống. Con chó biến mất vào bóng tối, điều này càng gây nên ấn tượng mạnh khi mà ánh đèn pha vẩn dõi chặt theo nó.

Khi điều này xảy ra thì chẳng có ai ở Ngọn Đồi Bến Tàu Tate cả, bởi vì tất cả ngôi nhà ở đó đều đóng chặt cửa để đi ngủ hoặc leo lên trên đồi để quan sát. Đoạn người lính tuần duyên đang làm phận sự ở phía tây hải cảng chạy xuống bến tàu nhỏ, anh ta là người đầu tiên leo lên boong. Những người điều khiển đèn pha, sau khi sục xạo lối vào hải cảng mà chẳng thấy gì thêm, bèn chiếu hờ hững ánh đèn lên tàu và giữ nó ở yên đấy. Người lính tuần duyên chạy xuống đuôi tàu, đến bên bánh lái để kiểm tra, và thình lình giật lùi lại như gặp phải một biến cố gì đó thình lình. Điều này càng khêu gợi sự tò mò chung, và một lượng lớn người bắt đầu chạy đến.
Có một con đường vòng từ Vách Đá Phía Tây đi qua cây cầu Draw dẩn đến Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, và người phóng viên trung thành của bạn là một tay chạy rất tuyệt, anh ta đã dẩn dầu đông. Tuy nhiên, khi tôi đến nơi, tôi thấy một đám đông đã bao quanh bến tàu, nhưng những người lính tuần duyên và cảnh sát không cho phép ai vào cả. Nhưng đội trưởng của những người chèo thuyền thuê đã thật lịch lãm khi cho phép tôi, người phóng viên trung thành của bạn, được phép leo lên boong. Ở đây có một nhóm nhỏ đang quan sát người thủy thủ chết lúc này vẩn còn bị buộc chặt vào bánh lái.
Không có gì lạ khi người lính tuần duyên tỏ ra ngạc nhiên, thậm chí kinh sợ trước những gì được nhìn thấy. Người chết chỉ bị buộc hai tay vòng qua bánh lái để anh ta được giữ chặt với nó. Nắm giữa tay anh và lớp gỗ là một cây thánh giá, một chuỗi tràng hạt được buộc vòng quanh cổ tay anh và bánh lái, và được giữ chặt bằng một những sợi thừng buộc lại. Người đàn ông khốn khổ đã không bị ngồi xuống bởi những cánh buồm đã được đặt xuyên qua bánh lái, giữ anh ta lắc lư quật anh ta lên xuống qua lại, và những sợi thừng trói anh ta đã cắt qua da thịt vào đến tận xương.
Người ta ghi chép cẩn thận lại mọi chuyện, và một bác sĩ, bác sĩ giải phẫu J.M.Caffyn, ở 33, Vùng Đông Elliot, người đến ngay sau tôi, sau khi kiểm tra, đã nói rằng người đàn ông này đã chết được khỏang hai ngày.
Trong túi anh ta là một cái chai, mà sau khi mở nút, người ta cẩn thận lấy ra một cuộn giấy, những thứ sau này được biết là phần thêm vào của nhật ký hàng hải.
Người lính tuần duyên nói rằng người đàn ông này đã tự trói mình, và buộc gút bằng răng. Sự kiện người lính tuần duyên là người đầu tiên lên tàu đã gây ra những sự rắc rối sau này, vì theo luật hải quân, người lính tuần duyên không có quyền đòi hỏi quyền lợi mà một thường dân sẽ được hưởng nếu anh ta đi vào một con tàu bỏ hoang. Tuy nhiên, việc tranh cãi về tính hợp pháp để sỡ hữu những tài sản này sẽ còn được tranh cãi, một sinh viên luật trẻ đã lớn tiếng chứng minh rằng dù người chủ nhân có tòan quyền dâng hiến tài sản của mình, tuy nhiên việc chiếm hữu tòan bộ những tài sản là không hợp pháp, bởi vì bánh lái vẩn còn được giữ trong tay người chết như là một sự tượng trưng cho sự sở hữu.
Chẳng cần phải nói thêm là người thủy thủ xấu số đã được mang đi chôn cất một cách trang trọng từ cái nơi mà anh ta đã dũng cảm gìn giữ danh dự của mình cho đến chết, với một tinh thần kiên định đầy quả cảm như chàng Casabianca trẻ tuổi, và đám tang của anh ta sẽ được cử hành sau cuộc điều tra. Lúc này bão đã tạnh, thiên nhiên không còn hung dữ nữa. Đám đông đang giải tán rải rác, và bầu trời lại ửng hồng trên khắp miền Yorkshire.
Trong những kỳ phát hành sắp tới tôi sẽ tiếp tục gửi đến quý vị những chi tiết về con tàu hoang đã vượt qua cơn bão một cách kỳ diệu để về đến bến cảng.
Ngày 9 tháng 8. – Những khám phá về con tàu hoang kỳ lạ đã đến trong cơn bão tối hôm qua càng khiến mọi người thêm ngạc nhiên về nó. Chiếc tàu buồm này được làm rõ là đi từ Nga đến Varna, có tên là Demeter. Nó gần như chỉ lót đầy những cát mịn, với một số lượng nhỏ hàng hóa, là những cái thùng gỗ đầy đất.

Những hàng hóa này được gửi cho một cố vấn pháp luật ở Whitby, ngài S.F.Billington ở số 7, Cresten. Ngay sáng hôm đó ông này đã lên boong và tiến hành những thủ tục cần thiết để nhận nó.
Lãnh sự Nga cũng đến, và chiếu theo hợp đồng thuê tàu, lấy lại quyền sở hữu đối với con tàu, cũng như trả cho cảng những khỏan thuế cần thiết v.v…
Không có gì đặc biệt được đề cập đến trong ngày hôm nay, ngoại trừ một sự trùng hợp kỳ lạ. Các nhân viên của Ủy ban Thương mại đã xác nhận hoàn toàn mọi sự việc đã được làm đúng theo luật lệ. ‘Cái điều không thể tin được’đã xảy ra, ủy ban này đã cho thấy một cách rõ ràng là họ sẽ không đưa ra sự phàn nàn nào.
Sự chú ý bây giờ đổ dồn về phía con chó đã nhảy xuống khi chiếc tàu đâm vào bờ, và một vài thành viên của S.P.C.A vốn rất có thế lực trên Whitby đã nhận nuôi chú chó này. Nhưng ai nấy đều thất vọng vì không thể tìm ra chú :D Cả thị trấn hình như đều thất vọng về điều này.Có lẽ do quá hỏang sợ, con chó đã trốn ra những cánh đồng hoang, nơi mà vẩn là những vùng bí ẩn trên lãnh thổ.
Một số người đã sợ hãi điều này, vì rằng con vật kia có thể trở nên rất nguy hiểm, bởi vì rõ ràng nó đã là một sinh vật hung tợn. Sáng sớm nay người ta thấy một con chó lớn, thuộc một giống chó lớn tai cụp lai của một thương gia buôn bán than đang nằm chết trên con đường đối diện với vùng đất của chủ nó. Đã có một trận chiến diễn ra, và rõ ràng là con chó đã có một đối thủ hung bạo, vì cổ họng nó bị xé toạc, và bụng nó thì bị rạch tung bởi những móng vuốt dã man.
Đêm khuya. – Do sự tử tế của ngài thanh tra của Ủy ban Thương mại, tôi được phép nhìn vào cuốn nhật trình hàng hải của Demeter, vẩn còn được ghi chép lại cho đến ba ngày trước, nhưng chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ sự kiện một số người mất tích. Tuy nhiên, điều thú vị nhất nằm trong cuộn giấy được tìm thấy trong cái chai, ngày hôm nay được đưa ra để điều tra. Khi trải chúng ra, người ta tìm thấy một câu chuyện lạ lùng được tường thuật lại, tôi chưa từng gặp phải chuyện gì lạ lùng như thế.
Do không có điều gì phải che giấu, tôi được phép sử dụng tài liệu này, và được chấp thuận để gửi cho các bạn một bản sao của nó, chỉ đơn giản loại bỏ bớt những phần chi tiết kỹ thuật về công việc của những người thủy thủ và chuyên chở hàng hóa. Có lẽ là người thuyền trưởng đã bị một cơn điên xâm chiếm khiến ông ta buộc phải nhảy xuống làn nước xanh, căn bệnh đã tồn tại và lan rộng suốt cuộc hành trình. Tất nhiên lời kể lại của tôi vẩn chưa phải hoàn toàn chính xác, vì tôi được một thư ký của lãnh sự Nga đã tốt bụng dịch lại bản tài liệu này và đọc lại cho tôi chép.
NHẬT KÝ HẢI TRÌNH CỦA "DEMETER" VARNA ĐI WHITBY

Được viết vào ngày 18 tháng 7, đã có nhiều chuyện lạ xảy ra, và tôi sẽ ghi chép lại thật chính xác cho đến khi chúng tôi cập bến.
Vào ngày 6 tháng 7 chúng tôi chất hàng lên tàu, cát mịn và những cái thùng đất. Đến trưa thì giương buồm. Gió đông, vừa mới nổi. Thủy thủ đoàn, năm… hai thuyền phó, đầu bếp, và tôi (thuyền trưởng).
Đến bình minh 11 tháng 7, cập bến Bosphorus. Đón thêm những viên chức Thuế quan Thổ Nhĩ Kỳ lên boong. Lại chuẩn bị lên đường. Tất cả đều ổn. Tiếp tục chuyến đi lúc 4 giờ chiều.
ến 12 tháng 7 thì đi ngang Daradnelles. Thêm một số viên chức Thuế quan và nhân viên cứu hộ lên tàu. Lại tiếp tục lên đường. Công việc của các viên chức diễn ra tỉ mỉ nhưng nhanh :Dng. Họ muốn chúng tôi đi sớm. Đến tối thì vào Archipelago.
Đến 13 tháng 7 thì đi ngang Mũi Matapan. Thủy thủ đòan hình như không hài lòng về một chuyện gì đó. Một số sợ hãi, nhưng không nói ra.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #18  
Old 05-03-2005, 02:47 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Đến 14 tháng 7 thì thủy thủ đòan trở nên rất lo lắng. Bọn họ đều là những người đàn ông vững vàng đã từng đi biển với tôi. Thuyền phó không thể hiểu được đang xảy ra chuyện gì. Họ chỉ nói với ông ta là có một CÁI GÌ ĐÓ, và làm dấu thánh. Người thuyền phó mất bình tĩnh với một người trong bọn họ và đánh anh ta. Một cuộc ẩu đả hẳn sẽ nổ ra, nhưng tất cả vẩn im lặng.

Đến ngày 16 tháng 7 thì thuyền phó trong buổi sáng hôm đó đã phát hiện một trong số thủy thủ đòan, Petrofsky, đã mất tích. Không thể tìm thấy anh ta. Vào tám giờ tối hôm truớc anh ta đi lên mạn trái của tàu, cùng với Amramoff, nhưng không trở về giường ngủ. Mọi người càng xuống tinh thần hơn lúc nào hết. Tất cả bọn họ đều nói rằng họ chờ đợi những việc như vậy diễn ra, nhưng không nói gì hơn là có một CÁI GÌ ĐÓ ở trên boong. Thuyền phó đã mất hết kiên nhẫn với bọn họ. Tôi sợ rằng những điều rắc rối sẽ vẩn còn tiếp tục.



Vào ngày 17 tháng 7, hôm qua, một người trong bọn họ, Olgaren đã đi vào cabin của tôi với dáng điệu run sợ, anh ta kể với tôi rằng anh ta nghĩ là có một người đàn ông lạ ở trên tàu. Anh nói rằng khi anh ra trú một cơn mưa bão ở căn phòng dưới boong tàu, thì anh ta thấy một người đàn ông cao, gầy, chẳng giống một ai trong số thủy thủ đòan, đi theo lối đi dẩn lên, đi một mình lên boong và biến mất. Anh ta cẩn thận bám theo, nhưng đến mũi tàu thì chẳng thấy một ai, còn những cánh cửa sập vẩn được đóng chặt. Anh ta hoảng lạn trong một nỗi sợ hãi mê tín, và tôi sợ rằng cơn hỏang lạn này sẽ còn lan rộng. Để trấn an anh ta, tôi sẽ tổ chức một cuộc kiểm tra vào thứ hai trên tòan bộ con tàu từ đầu đến cuối.
Đến khuya tôi tập hợp tòan bộ thủy thủ đòan, nói rằng do họ tin chắc là có ai lạ trên tàu, chúng tôi sẽ kiểm tra tòan bộ con tàu. Thuyền phó thứ nhất phản đối, nói rằng điều đó là ngớ ngẩn, việc ngã theo một ý kiến nhảm nhí như vậy sẽ chỉ làm mọi người mất tinh thần, ông ta hứa sẽ giúp mọi người giũ bỏ mọi rắc rối bằng một cây đòn. Tôi ra lệnh cho ông ta đi lái tàu, mọi tất cả mọi người còn lại bắt đầu một cuộc kiểm tra, đi cùng với nhau, với những ngọn đèn lồng trong tay. Chúng tôi không bỏ qua một ngóc ngách nào. Và ngòai những cái thùng gỗ kia, thì không còn một ngóc ngách khốn kiếp nào mà một con người có thể trốn được. Mọi người phục hồi tinh thần khi cuộc tìm kiếm chấm dứt, và trở lại làm việc vui vẻ. Người thuyền phó thứ nhất tỏ ra cáu kỉnh, nhưng ông không nói gì.


Ngày 22 tháng 7. – Thời tiết xấu trong ba ngày vừa qua, và tất cả mối bận tâm đều dồn về những cánh buồm, không ai có thời gian để mà sợ hãi nữa. Mọi người hình như đã quên phứt đi mối sợ hãi kinh khiếp của mình. Thuyền phó vui vẻ trở lại, và thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình. Tuyên dương mọi người đã tích cực làm việc trong thời tiết xấu.Vượt qua Gibraltar và qua khỏi eo biển. Tất cả đều tốt đẹp.
Ngày 24 tháng 7. – Những điều tồi tệ lại xảy ra trên tàu. Sau một chặng đường ngắn, chúng tôi đi vào Vịnh Biscay. Gió biển thổi lồng lộng, và tối hôm qua lại một người khác mất tích. Giống như người đầu tiên, anh ta thực hiện phiên gác của mình, và không ai thấy lại anh nữa. Tất cả mọi người đều hỏang loạn trong sợ hãi, và đưa ra một bản kiến nghị đề nghị mỗi phiên gác sẽ có hai người, do họ sợ ở một mình. Thuyền phó nổi giận. Sợ sẽ có thêm rắc rối nếu người thuyền phó hoặc thủy thủ đòan dùng đến bạo lực.
Ngày 28 tháng 7. – Bốn ngày trong địa ngục, mọi người luôn bị căng thẳng và thời tiết luôn cuồng nộ. Không ai có thể ngủ được. Mọi người đều mệt lử. Không sắp gác được vì mọi người đều không còn sức lực nữa. Thuyền phó thứ hai tình nguyện lái tàu và canh gác để mọi người có được vài giờ nghỉ ngơi. Gió dịu đi, nhưng biển cả xem ra vẩn còn ghê rợn, và con tàu vẩn là nơi mọi người tin tưởng hơn.

Ngày 29 tháng 7. – Lại một bi kịch khác.Tối qua người thuyền phó thứ hai gác một mình, do thủy thủ đòan đã quá mệt để có thêm ai gác đôi với anh ta. Đến sáng thì người gác thay lên boong và chẳng thấy ai ngoại trừ người lái tàu. Cất cao giọng kêu lên, và mọi người đều chạy lên boong. Tìm kiếm kỷ lưỡng, nhưng không ai tìm thấy. Bây giờ thì chúng ta mất người thuyền phó thứ hai, và thủy thủ đòan hỏang loạn. Thuyền phó và tôi đồng ý là phải vũ trang từ lúc này và chờ đợi bất kỳ dấu hiệu lạ nào xảy đến.
Ngày 30 tháng 7. – Đêm cuối cùng. Vui mừng vì chúng tôi đã gần đến nước Anh. Thời tiết tốt, các cánh buồm được giương cao. Sự mệt mỏi căng thẳng bị đẩy lui, ngủ say, và người thuyền phó đánh thức để nói rằng cả người gác và người lái đã biến mất. Chỉ còn tôi và thuyền phó và hai người nữa trên con tàu.
Tháng 1 tháng 8. – Hai ngày chìm đắm trong sương mù và không thấy một cánh buồm nào khác. Đã hy vọng rằng khi đến được Kênh đào Anh thì có thể yêu cầu giúp đỡ hoặc cập vào đâu đó. Không còn sức lực để điều khiển các cánh buồm nữa, đành để mặc con tàu cho gió cuốn đi. Lòng can đảm không suy giảm, nhưng không thể nâng cao nó lên được. Chúng tôi hình như đang bị cuốn trôi vào một địa ngục kinh khiếp. Thuyền phó bây giờ còn hỏang loạn hơn cả những thủy thủ. Bản năng bên trong của ông ta bây giờ quay sang chống lại ông ta. Thủy thủ đã vượt qua nỗi sợ hãi, kiên trì và bền bĩ làm việc, sẳn sàng chờ đợi điều xấu nhất xảy đến. Họ là người Nga, còn ông ấy là người Rumani.
Ngày 2 tháng 8. – Nữa đêm. Thức dậy sau khi ngủ vài phút vì nghe thấy tiếng thét hình như bên ngòai phòng của tôi. Không thể thấy gì trong sương mù cả. Chạy lên boong, và thuyền phó chạy đến. Nói với tôi rằng ông ta nghe thấy tiếng kêu và chạy lại, nhưng không thấy bóng dáng ai cả. Lại một người nữa ra đi. Chúa ơi, giúp chúng con! Thuyền phó nói rằng chúng tôi đã đi qua eo Dover, vì ngay khi sương mù tản ra lúc ông ta nghe thấy tiếng kêu thét, ông ta đã nhìn thấy Dãi Đất Phía Bắc. Nếu chúng tôi bây giờ đã trôi dạt đến vùng Biển Bắc, thì chỉ có Chúa mới có thể chỉ dẩn cho tôi trong màn sương mù đang bao quanh chúng tôi, và Chúa dường như đã bỏ rơi tôi rồi.
Ngày 3 tháng 8. – Lúc nữa đêm tôi đi thay ca cho người lái tàu và khi đến nơi tôi không thấy ai cả. Gió vẩn thổi mạnh, và nương theo cơn gió này thì chúng ta không thể đi chệch hướng. Tôi không dám rời tay lái, nên gọi thuyền phó. Vài giây sau, ông ta lao lên boong trong bộ đồ flannel. Mắt ông điên dại và và trông ông hốc hác, và tôi càng sợ hãi hơn về cái lý do khiến ông như vậy. Ông ta đến gần tôi, kề miệng vào tai tôi, thì thầm bằng một giọng khàn khàn, như sợ rằng có thể có ai đó nghe thấy trong không khí. "Nó ở đây, tôi biết Nó ở đây. Đêm qua trong phiên gác tôi đã thấy Nó, giống như con người, cao và gầy, trắng bệch như xác chết. Nó đứng ở mũi tàu và nhìn ra ngòai. Tôi bò đến sau lưng Nó, và đâm nó bằng con dao của tôi, nhưng dao đâm xuyên qua Nó như đâm xuyên qua không khí vậy." Và khi ông nói, ông vung mạnh dao găm trong không trung một cách hung hãn. Đoạn ông tiếp tục, "Nhưng Nó đang ở đây, và tôi sẽ tìm ra Nó. Nó có thể là sẽ nằm đâu đó trong những cái hộp kia. Tôi sẽ mở tung chúng từng cái một. Ngài giữ tay lái." Rồi với cái nhìn cảnh giác và đặt ngón tay lên môi, ông ta đi xuống. Tôi thấy ông ta xuất hiện trên boong trở lại với hộp dụng cụ và cây đèn lồng, rồi đi xuống cửa sập. Ông ấy thật sự là điên cuồng, hòan tòan điên cuồng, và tôi không thể cản ông lại được. Ông ta không thể đụng đến những cái hộp, chúng là hàng chuyển giao, và không thể làm như ông ta định làm. Tôi ngồi lại giữ tay lái, và viết những dòng này. Tôi chỉ có thể tin vào Chúa và đợi cho sương tan đi. Rồi lúc đó, nếu tôi không thể cập vào một hải cảng nào khi gió vẩn thổi như thế này, tôi sẽ cắt buồm, ngã chúng xuống, và ra dấu hiệu cầu cứu…

Bây giờ hình như là mọi chuyện đã qua. Ngay lúc tôi bắt đầu hy vọng rằng thuyền phó sẽ bình tĩnh hơn và đi ra, thì tôi nghe thấy ông ta nện liên tục vào một cái gì đó trong khoang, công việc của ông ta có vẻ tiến triển, rồi thình lình từ cửa sập vang lên một tiếng thét đột ngột làm máu trong người tôi như đông cứng lại, rồi ông ta vọt lên boong tàu nhanh như tên bắn, hỏang loạn tột cùng, mắt ông trợn tròn và mặt ông ta co giật trong kinh hãi. "Cứu tôi với! Cứu tôi với!" ông ta gào lên, và rồi nhìn màn sương chung quanh. Sự hỏang loạn của ông chuyển thành sự tuyệt vọng, rồi với một giọng bình thản ông ta nói, "Ngài tốt hơn nên làm như tôi, thuyền trưởng, trước khi quá muộn. Hắn ở đây! Tôi đã biết điều bí mật rồi. Đại dương sẽ bảo vệ tôi trước Hắn, và đấy là tất cả những gì còn lại!" Trước khi tôi kịp nói lời nào hay làm bất cứ điều gì để giữ ông ta lại, ông ta nhảy qua hàng rào chắn và bình thản buông mình xuống biển. Lúc này thì tôi nghĩ rằng tôi cũng đã biết được điều bí mật. Đấy là một người điên đã lần lượt ném từng người trong thủy thủ đòan xuống biển, và bây giờ chính ông ta làm theo họ. Chúa cứu tôi! Làm sao tôi có thể chịu đựng được tất cả những chuyện kinh dị này khi tôi đến được cảng? Khi tôi đến được cảng! Bao giờ thì điều đó xảy ra?
Ngày 4 tháng 8. Sương mù dày đặc, và bình minh không thể chọc thủng được. Tôi biết bình minh đã đến vì tôi là một thủy thủ, tôi biết phân biệt những thứ này. Tôi không dám đi xuống, tôi không dám rời tay lái, và tôi đã ở đây suốt đêm, và trong bóng tối lờ mờ tôi đã thấy nó. Hắn! Chúa ơi, xin hãy tha thứ cho con, nhưng người thuyền phó đã làm đúng khi nhảy khỏi boong tàu. Đó là cách tốt hơn để chết như một con người. Để chết như một thủy thủ giữa làn nước xanh, không ai có thể làm gì được. Nhưng tôi là thuyền trưởng, tôi không thể bỏ con tàu của mình. Nhưng tôi sẽ chống lại tên ác ma hay quái vật này, tôi sẽ trói tay tôi vào bánh lái khi sức lực của tôi bắt đầu cạn kiệt, và tôi sẽ buộc vào thêm một thứ mà Hắn, Nó, sẽ không dám chạm đến. Và với cơn gió thuận hoặc nghịch, tôi sẽ bảo vệ được linh hồn của mình, và bảo vệ được danh dự thuyền trưởng của mình. Tôi đang trở nên yếu hơn, và bóng đêm đang xuống dần. Nếu Hắn lại xuất hiện trước mặt tôi một lần nữa, tôi sẽ không còn thời gian để hành động… Nếu chúng tôi bị đắm, có thể cái chai này sẽ được tìm thấy, và người nào đọc nó sẽ hiểu. Nếu không… được thôi, mọi người sẽ biết là tôi đã là trung thành với bổn phận của mình. Chúa, Đức Mẹ Đồng Trinh và Các Thánh sẽ giúp cho một linh hồn tội nghiệp ngu dại đang cố thực hiện nhiệm vụ của mình…
Tất nhiên lời phán quyết được đưa ra công khai. Không có bằng chứng nào được đưa ra, không có người nào đưa ra lời buộc tội giết người. Mọi người đều thống nhất rằng người thuyền trưởng hoàn toàn là một anh hùng, và anh ta xứng đáng có một lễ tang bởi quần chúng. Theo sự sắp xếp, thi hài của anh sẽ được chuyển bằng thuyền lên dòng Esk và đưa lên Ngọn Đồi Bến Tàu Tate, rồi đưa qua những bậc thang tu viện và chôn cất tại nghĩa trang trên vách đá. Chủ nhân của hơn một trăm chiếc thuyền đã yêu cầu được cử đại diện đi theo đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Chẳng thấy dấu vết gì về con chó khổng lồ, và đấy sẽ là một đám tang lớn, vì theo ý kiến chung được ghi nhận, tôi tin rằng anh ta sẽ được đưa tiễn bởi cả thị trấn. Ngày mai tang lễ sẽ cử hành, và nó sẽ là sự chấm hết cho thêm một "bí ẩn của biển cả."

NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY

Ngày 8 tháng 8. – Lucy hầu như mất ngủ suốt đêm qua, và tôi cũng không sao ngủ được. Bão táp thật là kinh hãi, và tiếng gầm của nó vang dội qua ống khói lò sưỡi, làm tôi rùng mình. Tiếng gió thổi mạnh vang đến như là tiếng súng nổ ở phía xa xa. Lạ lùng thay, Lucy chẳng hề tỉnh giấc. Hai lần trong cơn mộng du bạn ấy thức dậy và tự thay quần áo. May mắn là mỗi lần ấy tôi đều thức dậy và cố gắng thay quần áo lại cho bạn ấy mà không làm bạn ấy kinh động, đưa bạn ấy trở lại giường. Điều lạ lùng nhất là, dù trong trạng thái mộng du, nhưng mỗi lần sắp vướng phải một chướng ngại nào trên đường đi, bạn ấy đều tự động ngừng lại và đổi hướng, giống như bạn ấy đang thức vậy.
Sáng sớm cả hai chúng tôi đều thức dậy và đi ra cảng để xem đêm qua có xảy ra thêm chuyện gì hay không. Vẩn còn rất đông người trên cảng, và dù mặt trời sáng rực, không khí thóang đảng và trong lành, những cơn sóng lớn vẩn trong đầy u ám, và chúng càng tự làm mình thêm tối tăm bởi những bọt sóng trắng xóa trên đỉnh, chúng cuồn cuộn đập vào cảng, giống như một kẻ hung hãn đang lao vào đám đông. Ở một chừng mực nào thấy tôi cảm thấy vui mừng vì Jonathan không ở trên biển tối hôm qua, mà là ở trên bờ. Nhưng, than ôi, anh ấy đang ở trên biển hay ở trên đất liền? Anh ấy đang ở đâu, và như thế nào? Em vô cùng lo lắng cho anh. Nếu như em chỉ cần biết điều gì đó để làm, và có thể làm điều gì đó cho anh!
Ngày 10 tháng 8. – Đám tang của người thuyền trưởng tội nghiệp kia đã gần xong. Mọi chiếc thuyền trên bến cảng đều có ở đây, và chiếc quan tài được khiêng bởi các thuyền trưởng trên khắp con đường từ Ngọn Đồi Bến Cảng Tate đến khu nghĩa trang. Lucy đi với tôi, và chúng tôi đi trước đến chỗ ngồi quen thuộc của mình, trong khi quan tài được chở đi trên thuyền đi lên tận Viaduct và sau đó quay xuống trở lại. Chúng tôi có một vị trí nhìn rất tốt, và luôn nhìn thấy tòan cảnh đám rước gần như ở mọi vị trí. Người đàn ông đáng thương đã an nghỉ gần chỗ chúng tôi thường ngồi, và chúng tôi đứng đấy theo dõi mọi việc diễn ra. Lucy tội nghiệp trông có vẻ rất phiền muộn. Bạn ấy luôn lo lắng và bồn chồn không yên, và tôi buộc phải nghĩ rằng cơn mơ đêm qua đang quay lại quấy rầy bạn ấy. Bạn ấy có một cái gì đó rất lạ. Bạn ấy không thể thổ lộ với tôi và đó chính là nguyên nhân cho mọi sự bất an của bạn ấy, hoặc chính là vì bạn ấy cũng không thể tự hiểu thực sự điều đó là gì.
Thêm vào đó, người ta thấy ông Swales tội nghiệp đã chết vào sáng nay tại chỗ mà chúng tôi thường ngồi, cổ ông ấy bị gãy. Bác sĩ nói rằng ông ấy rõ ràng đã rất sợ hãi một cái gì đó, rồi té xuống từ chỗ ngồi của mình, do sự sợ hãi và kinh dị còn hiện rõ trên mặt ông ấy khiến mọi người trông thấy đều rùng mình. Người đàn ông già tội nghiệp thân yêu!
Lucy thật dễ thương và nhạy cảm đến nỗi bạn ấy dễ bị tác động hơn bất cứ ai. Bây giờ bạn ấy đang rất phiền muộn vì một điều gì đó mà tôi chưa thể xác định được, dù bản thân tôi rất dễ thông cảm với mọi người.
Có một người đàn ông thường hay đến đây ngắm tàu thuyền cùng với một chú chó đi theo. Cả hai đều tỏ ra trầm tính, tôi chưa bao giờ thấy người đàn ông nổi giận hay nghe con chó sủa. Nhưng lần này, khi người đàn ông ngồi với chúng tôi, thì con chó không lại gần, nó đứng cách chúng tôi vài yard, sủa và tru lên. Chủ nó dịu dàng kêu nó im đi, rồi lên tiếng gay gắt hơn, và cuối cùng là giận dữ. Nhưng ông không sao làm cho con chó im tiếng. Nó trông rất giận dữ, mắt trông thật man rợ, lông dựng lên tua tủa giống như cái đuôi mèo khi nó chuẩn bị giao tranh.
Cuối cùng người đàn ông nổi giận, ông ta nhảy xuống và đá con chó một cú, rồi tóm gáy nó và nữa kéo nữa ném nó lên tấm bia đá tại chỗ ngồi. Ngay khi chạm vào tảng đá, con vật tội nghiệp run lên bần bật. Nó không tìm cách chạy đi, nhưng nằm mọp xuống, run rẩy và khúm núm, trông một trạng thái run sợ đến tội nghiệp đến nỗi tôi tự nhiên phải đến khuyên giải nó.
Lucy trông cũng vô cùng đáng thương, nhưng bạn ấy không cố để chạm vào con :D nhưng nhìn với dáng vẻ tuyệt vọng vô cùng. Tôi rất sợ là bạn ấy cũng có một bản năng siêu nhiên để run sợ mà không nói nên lời như thế. Tôi tin chắc là bạn ấy sẽ nằm mơ thấy nó tối nay. Tất cả những điều đang được tích tụ lại, con tàu được lái đến cảng bởi một người chết, những điều anh ta kể lại, được buộc vào bánh lái với cây thánh giá và tràng hạt, việc cử hành tang lễ, con chó lúc giận dữ và lúc thì khiếp sợ, tất cả đủ tạo nên một giấc mơ kinh khiếp cho bạn ấy.

Tôi nghĩ là tốt nhất nên làm cho bạn ấy mệt lử trước khi lên giường, vậy tôi sẽ cùng bạn ấy đi bộ trên những vách đá của vịnh Robin Hood rồi trở về. Bạn ấy sẽ chẳng còn đủ sức cho những cơn mộng du nữa.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #19  
Old 05-03-2005, 02:50 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Chương 8


Nhật ký của Mina Murray.


Cùng ngày, 11 giờ đêm. – Ôi, tôi mệt quá! Nếu như mọi việc không đến nỗi nào thì tôi đã khỏi phải mở nhật ký ra như thường lệ nữa. Chúng tôi đã đi đạo rất vui. Lucy, sau một lúc, đã trở nên vui vẻ, tôi nghĩ chắc là do mấy con bò đáng yêu trên cánh đồng gần ngọn hải đăng đã tiến lại gần chúng tôi làm chúng tôi chết khiếp. Tôi tin rằng chúng tôi đã quên đi mọi thứ, tất nhiên là trừ nỗi lo sợ riêng tư, mây mù dường như đã xua ta và trả lại cho chúng tôi bầu trời trong sáng. Chúng tôi đã dùng ‘một bữa trà đơn giản’ làm bữa ăn chính lại một quá ăn nhỏ cổ kính đáng yêu ở Vịnh Robin Hood, với một cánh cửa sổ phía bên phải trông ra một mỏm đá phủ đầy rong biển bền bờ biển. Tôi tin rằng chúng tôi đã khiến cho "Người Phụ Nữ Mới" phải bàng hòang trước vẻ ngon miệng của mình. Mọi người trong có vẻ dễ chịu quá, Chúa phù hộ cho họ! Rồi chúng tôi đi bộ về nhà, nhiều lần phải dừng lại nghỉ vì quá sợ những con bò đực hoang dã kia.



Lucy có vẻ rất mệt, và chúng tôi đã định leo ngay lên giường ngay tức khắc. Nhưng một ông cha xứ trẻ đến, và cái cô Westenra ấy đã mời ông ta ở lại dùng bữa tối. Lucy và tôi đều khốn khổ về sự khó chịu này.Tôi biết rằng đây là một việc khó khăn cho tôi, và tôi rất xứng làm một anh hùng. Chắc là một lúc nào đó các giám mục phải đào tạo ra các cha phó mới không biết ăn bữa tối dù có cảm thấy thôi thúc như thế nào nữa, và luôn luôn biết lúc nào thì các cô gái trẻ mỏi mệt.



Lucy đã ngủ và thở nhè nhẹ. Đôi má bạn ấy trông lúc ngủ lại càng thêm gợi cảm. Nếu anh Holmwood đã yêu bạn ấy khi chỉ thấy bạn ấy trong phòng khách, thì không hiểu anh ấy sẽ nói gì khi thấy bạn ấy lúc này. Sẽ có một ngày nào đó các nhà văn của "Người Phụ Nữ Mới" sẽ nảy ra ý tưởng là rằng những người đàn ông và phụ nữ hãy cho phép người khác ngắm mình trong giấc ngủ trước khi tỏ tình và chấp thuận. Nhưng những "Người Phụ Nữ Mới" sẽ chẳng chiếu cố đến những ý tưởng này đâu. Họ sẽ tự mình tỏ tình. Và họ cũng sẽ tự mình tìm lấy những nghề nghiệp thích hợp. Những ý nghĩ đó làm tôi vui lêm. Và tối nay tôi thật là vui, vì bạn Lucy yêu quý đã trông khá hơn. Tôi thật sự tin rằng bạn ấy đã vượt qua thời kỳ khó khăn, và chúng tôi không còn phải bận tâm về những giấc mơ của bạn ấy nữa. Tôi sẽ hạnh phúc hơn nếu như tôi có thể biết tin về Jonathan… Chúa phù hộ và giữ gìn cho anh.



Ngày 11 tháng 8. - Tôi lại viết nhật ký. Lúc này vẩn chưa buồn ngủ, và tôi vẩn có thể viết. Tôi quá xúc động đến nổi không thể ngủ được. Chúng tôi vừa trải một cuộc phiêu lưu, trải qua những biến cố kinh hòang. Tôi ngủ thiếp đi ngay khi tôi vừa đóng nhật ký lại. Thình lình tôi bừng tỉnh, ngồi dậy với một cảm giác kinh hòang khiến tôi kinh sợ, bao quanh tôi là một cảm giác trống vắng. Căn phòng tối đen, và tôi không thể nhìn thấy giường của Lucy. Tôi lẻn sang giường Lucy và sờ tìm bạn ấy. Chiếc giường trống rỗng. Tôi bật diêm và thấy bạn ấy chẳng có trong phòng. Cửa đóng nhưng không khóa, giống như trạng thái tôi đã làm hồi hôm. Tôi không dám đánh thức mẹ bạn ấy, vì gần đây bà ấy đau ốm luôn. Vì vậy tôi quàng vội quần áo và cuống cuồng đi kiếm bạn ấy. Khi tôi rời khỏi phòng, thình lình tôi nảy ra ý nghĩ là những quần áo bạn ấy mặc sẽ gợi ý cho tôi biết nơi bạn ấy định đi trong giấc mơ. Áo chòang và quần áo của bạn ấy vẩn y như cũ. "Lạy Chúa," tôi tự nhủ, "bạn ấy không thể đi xa khi mà chỉ mặc quần áo ngủ như vậy."



Tôi chạy vội xuống thang và nhìn vào phòng khách. Chẳng có ai! Rồi tôi tìm trong tất cả các căn phòng khác của căn nhà, với một nỗi sợ hãi càng lúc càng tăng làm tim tôi như thắt lại. Cuối cùng tôi chạy ra cửa chính và thấy nó đã mở ra. Cửa không mở rộng, nhưng không cài then. Mọi người trông nhà luôn cẩn thận kiểm tra cửa nẻo hàng đêm, và tôi sợ rằng bạn Lucy đã làm như vậy để ra ngòai. Không còn thời gian để nghĩ xem chuyển gì xảy ra nữa.Mỗi nỗi sợ hãi khủng khiếp mơ hồ đang chập chờn trong tôi.



Tôi lấy một cái khăn chòang lớn và chạy vội ra. Đồng hồ điểm một giờ khi tôi ở Crescent, và chẳng trông thấy ai. Tôi chạy lên Nền Đất Phía Bắc, và cũng chẳng hề thấy tăm hơi của cái bóng trắng mà tôi đang trông đợi. Đứng trên cạnh của Vách Đá Phía Tây trên bờ đê tôi nhìn xuyên qua hải cảng về phía Vách Đá Phía Đông, trông sự hy vọng hoặc sợ hãi mà chính tôi cũng không phân định rõ, là sẽ trông thấy Lucy tại chỗ ngồi quen thuộc của chúng tôi.



Đó là một đêm trăng tròn, sáng rực, với những đám mây đen dày trôi lượn, ném tòan bộ phong cảnh chìm vào một bức tranh phối cảnh giữa áng sáng và bóng tối khi chúng lướt qua. Trong một thóang tôi chẳng nhìn thấy gì, khi bóng đen của những đám mây phủ chung quanh nhà thờ Saint Mary và bao chung quanh nó. Khi những đám mây trôi qua, tôi có thể thấy cái tu viện hoang tàn đó lần lượt hiện ra, và ánh sáng trải ra thành một luồng hẹp sắc bén như một lưỡi gươm chuyển động xuyên qua khung cảng, soi sáng dần dần khu nhà thờ và nghĩa trang. Điều mong chờ của tôi đã không trở nên vô dụng, bởi vì, ngay tại chỗ mà chúng tôi thường dùng, ánh sáng bạc của mặt trăng đã rọi qua một hình người đang ngồi tựa xuống, trắng như tuyết. Mây trôi quá nhanh nên tôi chẳng nhìn thấy gì nhiều, vì ngay sau đó bóng tối đã phủ lên vùng sáng ngay tức khắc, nhưng lúc mà ánh sáng chiếu qua tôi thấy hình như là một bóng đen đứng phía sau chỗ mà cái bóng trắng kia đang ngồi và đang chồm lên nó. Nó là cái gì, người hay thú, tôi không thể khẳng định được.



Tôi không thể đợi đến khi ánh sáng có lại thêm một lần nữa, mà lao như bay xuống các bậc đê, băng qua chợ cá để đến cây cầu, đó là con đường duy nhất để đến Vách Đá Phía Tây. Thị trấn dường như đã chết lặng, chẳng hề có một bóng người. Điều này làm tôi vui mừng, vì tôi không muốn ai nhìn thấy tình cảnh hiện nay của bạn Lucy tội nghiệp. Thời gian và khỏang đường dài như vô tận, đầu gối tôi run lên, hơi thở trở nên nặng nhọc khi tôi cố gắng leo lên những bậc thang dài vô tận của tu viện. Tôi phải cố đi nhanh, và những bước chân leo lên của tôi trở nên vô cùng nặng nề, những khớp nối trên cơ thể tôi dường như muốn bung cả ra.


Khi lên đến đỉnh tôi có thể nhìn thấy tại chỗ ngồi quen thuộc của mình một cái bóng trắng, và lúc này tôi đã đến đủ gần để có thể phân biệt mọi vật trong tấm màn của bóng đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, có một vật gì đó, cao và đen đang chồm qua cái bóng trắng đang ngồi dựa kia. Tôi kêu lên trong hỏang hốt, "Lucy!Lucy!", rồi cái vật kia ngẩng đầu lên, từ chỗ mình tôi có thể thấy một khuôn mặt trắng và đỏ, đôi mắt lờ đờ.



Lucy không trả lời, và tôi chạy vội về lối đi chính của nghĩa địa. Khi tôi đi vào thì nhà thờ đã nằm giữa tôi và chỗ Lucy ngồi, nên trong một thoáng tôi không thể nhìn thấy bạn ấy. Khi tôi nhìn thấy được bạn ấy trở lại thì những đám mây đã bay đi, ánh trăng sáng rực giúp tôi có thể nhìn thấy đang ngồi dựa đầu vào phía sau chỗ ngồi. Bạn ấy chỉ có một mình, không có dấu hiệu nào về một sinh vật sống chung quanh bạn ấy.



Khi tôi cúi xuống xem xét bạn ấy, bạn ấy vẩn còn ngủ. Đôi môi của bạn ấy hé mở, và bạn ấy không thở nhẹ nhàng như thường lệ, mà là những hơi thở dài, nặng nhọc như muốn hít đầy không khí vào phổi mình sau mỗi nhịp thở. Khi tôi đến gần, bạn ấy giơ tay lên trong giấc ngủ và kéo cổ áo ngủ lại như thể đang cảm thấy lạnh. Tôi tung cái khăn chòang lên phủ ấm,buộc kín lại quanh cổ bạn ấy. Tôi sợ rằng bạn ấy sẽ gặp phải những sự nguy hiểm chết người khi đi ra ngòai mà không mặc đủ ấm trong đêm trăng lạnh lẽo này. Tôi chưa dám đánh thức bạn ấy lại vào lúc này, vì muốn tay mình được rảnh để giúp đỡ bạn ấy. Tôi vội vã quàng cái khăn chòang quanh cổ họng bạn ấy và cài lại thành bằng một cái ghim băng lớn. Nhưng do quá bối rối, tôi trở nên vụng về nên hình như là quẹt phải hay đâm phải nó vào bạn ấy, và ngay lúc đó, khi hơi thở của bạn ấy đã trở nên dịu hơn, bạn ấy giơ tay lên họng mình một lần nữa và khẽ rên rỉ. Khi tôi đã cẩn thận phủ ấm đầy đủ cho bạn ấy, tôi đi đôi giầy của tôi vào chân bạn ấy rồi bắt đầu dịu dàng đánh thức bạn ấy dậy.



Đầu tiên bạn ấy không trả lời, nhưng dần dần bạn ấy càng trở nên khó chịu hơn trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại rên rĩ và thở dài. Cuối cùng, do thời gian trôi nhanh cùng nhiều lý do khác, tôi lắc mạnh bạn ấy cho đến khi bạn ấy mở mắt và tỉnh dậy. Hình như bạn ấy không ngạc nhiên lắm khi thấy tôi, và tất nhiên bạn ấy chưa nhận ra được ngay là mình đang ở đâu.



Lucy luôn luôn có những cử chỉ duyên dáng, và thậm chí ngay lúc bấy giờ, khi mà cơ thể bạn ấy vẩn còn run rẩy vì cái lạnh, tâm trí bạn ấy phần nào hoảng loạn khi nhận ra mình đang đi trên nghĩa địa trong đêm mà chỉ mặc đồ ngủ, bạn ấy vẩn không mất đi vẻ duyên dáng của mình. Bạn ấy thóang rùng mình, rồi ôm chặt lấy tôi. Khi tôi nói với bạn ấy phải trở về nhà ngay với tôi, bạn ấy đứng dậy mà không nói lời nào, ngoan ngõan như một đứa trẻ. Khi chúng tôi đi, sỏi cứa vào chân tôi, và Lucy nhận thấy tôi nhăn mặt. Bạn ấy dừng lại, khăng khăng đòi tôi phải đi lại giày của mình, nhưng đừng hòng tôi nghe theo. Tuy nhiên, khi chúng tôi đi ra khỏi khu nghĩa địa, có một vũng nước nhỏ còn lại sau cơn bão, tôi nhúng chân tôi vào bùn, chân này rồi chân kia, do vậy khi chúng tôi đi về nhà thì không có ai, nếu như chúng tôi có gặp ai đó, có thể nhận ra là tôi đang đi chân không.



Vận may mỉm cười với chúng tôi, và chúng tôi về đến nhà mà chẳng gặp một ai cả. Có một lần chúng tôi thấy một người có vẻ như đang say rượu đi một mình trên đường phía trước chúng tôi. Nhưng chúng tôi trốn sau một cánh cửa cho đến khi anh ta biến mất trong một ngõ hẻm đâu đó, gần với chỗ vách đứng mà người Scotland gọi là "wynds". Tim tôi đập mạnh đến nỗi có những lúc tôi nghĩ mình sẽ quị mất. Tôi rất lo cho Lucy, không chỉ là chuyện sức khỏe của bạn ấy sẽ bị tổn hại như thế nào, mà còn làm sao cho chuyện này đừng để bị lộ, nếu không thì danh dự của bạn ấy sẽ gặp rắc rối với những kẻ ngồi lê đôi mách. Khi chúng tôi về đến nhà và đã rửa chân, chúng tôi cùng nhau cầu nguyện tạ ơn chúa, và tôi giục bạn ấy lên giường. Trước khi ngủ bạn ấy đã yêu cầu, thậm chí van nài tôi đừng nói một lời nào về chuyến phiêu lưu này với bất cứ ai, thậm chí với mẹ bạn ấy.



Đầu tiên tôi do dự trước khi hứa, nhưng tôi nghĩ đến tình trạng ốm đau hiện nay của mẹ bạn ấy, và những câu chuyện như thế này sẽ làm bà rất phiền muộn, và ngòai ra câu chuyện này sẽ còn bị bóp méo bởi những lời xuyên tạc khi nó được đồn đại ra ngòai. Tôi nghĩ không để lộ nó ra là một hành động khôn ngoan. Tôi hy vọng tôi đã làm đúng. Tôi khóa cửa và buộc chìa khóa vào cổ tay mình, do đó có thể tôi sẽ không còn bị xáo trộn nữa. Lucy đã ngủ say. Ánh bình minh đã phản chiếu từ trên cao ở ngòai biển khơi xa thẳm.



Cùng ngày, sáng sớm. – Mọi việc đều tốt đẹp. Lucy ngủ cho đến khi tôi đánh thức bạn ấy dậy và chẳng tỏ ra có gì khác lạ. Cuộc mạo hiểm đêm qua hình như chẳng có hại gì cho bạn ấy, ngược lại nó còn có lợi cho bạn ấy, vì vào sáng nay bạn ấy trông khá hơn cả tuần qua. Tôi rất tiếc khi nhận thấy sự vụng về của mình với cái cây ghim băng đã làm bạn ấy bị thương. Thật ra mọi việc có thể trở nên nghiêm trọng, vì làn da trên cổ họng bạn ấy bị trầy. Chắc là tôi đã chạm cây ghim băng vào một cùng da non và đâm xuyên qua nó, nên bây giờ có hai chấm đỏ giống như vết kim châm và trên dải băng áo ngủ của bạn ấy có vết một giọt máu. Khi tôi xin lỗi và lo lắng về điều này, bạn ấy cười phá lên và giả vờ giận dỗi tôi, nói rằng bạn ấy chẳng cảm thấy gì hết. Cũng may là vết thương này sẽ không để lại sẹo, vì nó nhỏ tí ti.



Cùng ngày, ban đêm – Chúng tôi trải qua một ngày đầy vui vẻ. Không khí thóang đãng, mặt trời lên cao, và những cơn gió lạnh. Chúng tôi ăn trưa ở Rừng Mulgrave, bà Westenra đi bằng xe lửa, còn Lucy và tôi đi bộ qua lối đi ở vách đá và gặp bà ở ga. Tôi cảm thấy buồn cho mình, vì không có được cảm giác hạnh phúc tuyệt đối khi có anh Jonathan bên mình. Nhưng thôi nào! Tôi phải kiên nhẫn mới được. Đến buổi chiều chúng tôi đi dạo ở Lối Đi Sòng Bài, nghe một buổi hòa nhạc rất hay của Spohr và Mackenzie, rồi đi ngủ sớm. Lucy có vẻ mệt hơn thường lệ và bạn ấy ngủ ngay. Tôi khóa lại cửa và cẩn thận giữ lại chìa khóa như đêm trước, dù tôi cho rằng tối nay sẽ chẳng có rắc tối nào.



Ngày 12 tháng 8. – Những điều tiên đóan của tôi đã sai lầm, vì hai lần tôi bị đánh thức trong đêm khi Lucy tìm cách ra ngòai. Mặc dù bạn ấy đang ngủ, bạn ấy thậm chí đã tỏ ra bực dọc khi phát hiện ra cửa bị khóa và trở về giường một cách vùng vằng. Tôi thức dậy vào lúc bình minh, lắng nghe tiếng chim hót ngòai cửa sổ. Lucy cũng thức dậy và tôi vui mừng khi thấy bạn ấy thậm chí trông còn khá hơn hôm qua. Tất cả những nét vui tươi quen thuộc đã trở lại với bạn ấy, bạn ấy đi qua và xích lại gần tôi, rồi nói với tôi mọi điều về Arthur. Tôi cũng nói với bạn ấy những điều phiền muộn của mình về chuyện anh Jonathan và bạn ấy tìm cách an ủi tôi. Trong một chừng mực nào đó thì bạn ấy cũng thành công, vì dù sự thông cảm không thể giải quyết được vấn đề, nó cũng làm cho con người thêm sức chịu đựng.



Ngày 13 tháng 8. - Lại một ngày khác lặng lẽ trôi qua, và tôi đi ngủ với chiếc chìa khóa buộc chặt ở cổ tay như trước. Một lần nữa tôi lại thức dậy trong đêm, và thấy Lucy đang ngồi dậy trên giường, vẩn đang ngủ, hướng về phía cửa sổ. Tôi nhẹ nhàng ngồi dậy, kéo tấm màn qua một bên và nhìn ra. Trăng sáng rực rỡ, và ánh trăng dịu dàng trải rộng trên bầu trời và biển cả trộn lẩn cùng điều bí ẩn kỳ lạ đang diễn ra trong đêm khuya trong thanh vắng khiến cho cảnh vật trở nên tuyệt đẹp mà không lời nào có thể tả xiết. Giữa tôi và ánh trăng kia là một con dơi khổng lồ đang bay lượn tới lui thành những vòng tròn lớn. Một hoặc hai lần nó bay đến thật gần, và tôi có cảm giác là nó đang nhìn tôi với vẻ đe dọa, rồi nó bay đi xuyên qua bến cảng về hướng thung lũng. Khi tôi từ cửa sổ quay lại Lucy đã nằm xuống trở lại và ngủ với dáng vẻ rất thanh thản. Bạn ấy không gây nên chuyện lộn xộn nào khác trong cả đêm.

Ngày 14 tháng 8. – Tôi đọc và viết trên Vách Đá Phía Tây suốt cả ngày. Lucy đã trở nên thích nơi này giống như tôi, và việc mang bạn ấy ra khỏi chỗ này khi đến giờ ăn trưa, dùng trà hay bữa chiều trở nên khó khăn. Khi chiều xuống thì bạn ấy thốt lên một ý tưởng rất buồn cười. Lúc này chúng tôi đang đi về nhà dùng bữa tối, và đang ở đỉnh Bến Tàu Phía Tây và dừng lại để nhìn ngắm cảnh vật như chúng tôi vẩn thường làm. Mặt trời đang lặn, chìm dần sau bầu trời Kettleness. Một thứ ánh sáng đỏ chiếu trên Vách Đá Phía Tây và cái tu viện cũ, và dường như nhúng tất cả mọi vật mà một ánh sáng hồng huyền ảo. Chúng tôi im lặng trong một thóang, rồi thình lình Lucy lẩm bẩm như đang nói với chính mình…



"Lại những con mắt đỏ của ông ta! Chúng vẩn ở đấy!" Sự diễn đạt này rất lạ lùng, xem ra chẳng ăn nhập gì với chung quanh, và điều này làm tôi giật mình. Tôi quay người nhìn quanh, và thấy rõ là chẳng có ai đang nhìn Lucy cả. Bạn ấy đang bắt đầu trở nên nữa mê man và vẻ mặt của bạn ấy trông thật là khác lạ mà tôi không sao hiểu được, do đó tôi không nói gì mà nhìn theo mắt bạn ấy. Bạn ấy có vẻ như đang nhìn về phía chỗ ngồi của chúng tôi, nơi có một bóng áo đen đang ngồi đơn độc. Tôi cảm thấy giật bắn người, khi trong một thóang tôi nhìn thấy người lạ mặt kia có đôi mắt lớn đỏ rực như những ngọn lửa, nhưng cái nhìn tiếp theo đã xua đi những ảo giác này. Những tia sáng đỏ đang chiếu sáng trên những khung cửa sổ của nhà thờ Saint Mary đằng sau chỗ ngồi của chúng tôi, và khi mặt trời chìm sâu thì nó tạo ra những hiện tượng khúc xạ và phản xạ gây ra những hiệu ứng đặc biệt. Tôi nói Lucy chú ý đến hiện tượng kỳ lạ này, bạn ấy tỏ ra có quan tâm, nhưng vẩn buồn bã như cũ. Có thể bạn ấy đang nghĩ về cái đêm kinh khủng kia. Chúng tôi chẳng bao giờ nhắc đến nó, và vì tôi chẳng nói gì, chúng tôi trở về nhà dùng bữa tối. Lucy nhức đầu và đi ngủ sớm. Tôi thấy bạn ấy đã ngủ rồi, bèn đi ra ngoại và đi dạo một lát.

__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #20  
Old 05-03-2005, 02:50 PM
vui_la_chinh vui_la_chinh is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Nơi Cư Ngụ: Trum Yeu Gai
Bài gởi: 4,697
Send a message via Yahoo to vui_la_chinh
Default

Tôi đi bộ dọc theo những vách đá của bờ biển phía tây, và khi nghĩ đến Jonathan, lòng tôi lại tràn ngập một nỗi buồn man mác. Khi tôi về nhà, ánh trăng sáng rực, sáng đến nỗi tôi có thể nhìn thấy tường tận vùng Crescent trước mặt, dù nó đang chìm trong bóng đêm. Tôi liếc nhìn lên khung cửa sổ của chúng tôi, và thấy Lucy đang thò đầu ra. Tôi lấy khăn tay ra và vẫy bạn ấy. Bạn ấy dường như chẳng nhận ra và cũng chẳng làm một cử động gì. Lúc này ánh trăng tỏa quanh một góc tòa nhà, và ánh sáng chiếu thẳng vào cửa sổ. Lucy hiện ra rõ mồn một, đầu bạn ấy thò ra khỏi thành cửa sổ, mắt nhắm nghiền. Bạn ấy đang ngủ say, và tại chỗ bạn ấy ngồi cạnh cửa sổ có một cái gì đó giống như một con chim cỡ lớn. Tôi sợ bạn ấy lạnh, bèn chạy vội lên, nhưng khi tôi vào phòng thì bạn ấy đã trở về giường, ngủ say, thở một cách nặng nhọc. Bạn ấy giữ tay trên cổ họng, giống như đang bảo vệ nó khỏi giá lạnh.



Tôi không đánh thức bạn ấy, mà đắp ấm cho bạn ấy. Tôi kiểm tra kỹ cửa nẻo và cài then cửa sổ cẩn thận.



Bạn ấy trông thật là dễ thương trong lúc ngủ, nhưng bạn ấy trắng bệch hơn bình thường, và dưới mắt bạn ấy có một dáng vẻ buồn bã, bơ phờ mà tôi chẳng thích tí nào. Tôi sợ là bạn ấy gặp phải chuyện gì phiền muộn. Ước gì tôi biết được nó là cái gì.



Ngày 15 tháng 8. – Dậy muộn hơn thường lệ. Lucy trông uể oải và mệt mõi, khi mà chúng tôi được gọi dậy. Chờ đón chúng tôi tại bàn ăn sáng là một bất ngờ thú vị. Cha Arthur đã khá hơn, và muốn tổ chức đám cưới sớm. Lucy tràn ngập mừng vui, còn mẹ bạn ấy nữa vui nữa buồn. Sau đó bà đã nói cho tôi nghe nguyên nhân. Bà ấy buồn khi mất đi Lucy của riêng bà, nhưng bà vui mừng là bạn ấy đã sớm có người bảo bọc cho bạn ấy. Người đàn bà dịu dàng, đáng mến và tội nghiệp! Bà thổ lộ cho tôi biết rằng bà đã cảm thấy trát gọi của thần chết. Bà không nói cho Lucy biết và bắt tôi phải hứa giữ bí mật. Bác sĩ của bà đã nói cho bà biết nhiều nhất vài tháng nữa bà sẽ chết, vì tim bà đã yếu lắm rồi. Trước tình thế này, một cú sốc thình lình vào lúc này rõ ràng sẽ giết chết bà. A, chúng tôi quả thật là khôn ngoan khi giấu bà về cái đêm mộng du hãi hùng của Lucy.



Ngày 17 tháng 8. – Đã hai ngày nay tôi không đụng đến nhật ký. Tôi không còn tâm trí nào để viết nữa. Có vẻ như có một tấm màn u ám đang bao phủ lên hạnh phúc của chúng tôi. Không có tin tức gì từ Jonathan, còn Lucy thì càng yếu hơn, trong khi những giờ khắc còn lại của mẹ bạn ấy càng lúc càng cạn dần. Tôi không hiểu vì sao mà Lucy lại như vậy. Bạn ấy ăn tốt, ngủ ngon, hít thở không khí trong lành, nhưng theo thời gian vẻ hồng hào trên đôi má bạn ấy càng nhạt đi, bạn ấy yếu hơn và càng bơ phờ hơn ngày theo ngày. Đêm đêm tôi nghe bạn ấy thở hổn hển như cần không khí.


Cửa phòng chúng tôi luôn đóng chặt, và khi ngủ chìa khóa luôn đeo ở cổ tay tôi, nhưng bạn ấy thức giấc và đi lòng vòng khắp phòng, rồi ngồi bên cánh cửa sổ hé mở. Đêm hôm qua khi tôi tỉnh giấc tôi thấy bạn ấy chồm người ra, và tôi không thể nào cố thử đánh thức bạn ấy dậy được.



Bạn ất rất mệt mõi. Khi tôi cố làm bạn ấy thức giấc, bạn ấy yếu ớt như giọt nước, và hít thở những hơi khẽ, dài, đau khổ để tìm không khí. Khi tôi hỏi bạn ấy ngồi bên cửa sổ để làm gì, bạn ấy lắc đầu và quay đi.



Tôi tin là căn bệnh của bạn ấy không thể từ vết trầy vô tình gây ra bởi cái ghim băng kia được. Tôi nhìn vào cổ họng bạn ấy trong khi bạn ấy nằm ngủ, và vết thương nhỏ kia vẩn chưa lành. Chúng vẩn tiến triển, lớn hơn lúc trước, và cạnh của nó hình như có màu trắng đầy bệnh hoạn. Chúng trông như những chấm trắng bao quanh một chấm đỏ ở giữa. Nếu một hai ngày nữa mà nó vẩn chưa lành, tôi nhất định phải gọi bác sĩ đến xem xét chúng.



THƯ TỪ SAMUEL F.BILLINGTON VÀ CON TRAI, LUẬT SƯ WHITBY, GỬI CHO MESSRS. CARTER, PATERSON VÀ CÔNG TY, LONDON.



Ngày 17 tháng 8



" Kính thưa Quý Ngài,



"Tôi xin vui mừng báo ngài rằng tôi đã nhận được những hóa đơn cho chuyến hàng gửi bởi Hãng Xe lửa Vĩ đại Phương Bắc. Chúng cũng được gửi đến Carfax, gần Purfleet, ngay theo hóa đơn tại trạm chuyển Chữ Thập Vua đáng tin cậy. Ngôi nhà lúc này đã trống rỗng, nhưng xin gửi kèm những chìa khóa đã được dán nhãn rõ ràng.



"Quí ngài sẽ nhận được những cái hộp, mà số lượng ghi trên hóa đơn vận chuyển là mười lăm cái, nằm trong một phần bị hư hại của tòan nhà, được đánh dấu chữ ‘A’ trong sơ đồ gửi kèm. Nhân viên của quí ngài sẽ dễ dàng tìm được nơi này, đó là một nhà thờ cổ trong lâu đài. Hàng hóa được chuyển đi bằng xe lửa lúc 9:30 tối nay, và sẽ đến Chữ Thập Vua lúc 4:30 sáng mai. Vì khách hàng của chúng ta muốn việc chuyển hàng diễn ra càng nhanh càng tốt, chúng ta bắt buộc phải sắp xếp sao cho người của quí ngài phải sẳn sàng tại Chữ Thập Vua theo giờ đã định và ngay lập tức mang hàng hóa đến đích. Để loại trừ mọi sự chậm trễ có thể xảy ra, xin quí ngài hãy hoãn lại những công việc đã định trước vào lúc đó, chúng tôi xin gửi kèm quí ngài tấm chi phiếu 10 bảng ngay lúc này, xin quí ngài vui lòng báo lại khi nhận được hóa đơn. Nếu công việc tốn kém ít hơn, xin quí ngài gửi trả số tiền thừa, còn nếu nhiều hơn, chúng tôi sẽ lập tức gửi tiếp tờ chi phiếu khác khi có tin của quí ngài. Xin quí ngài hãy để lại chìa khóa trên lối đi vào tiền sảnh của tòa nhà, chủ nhân của ngôi nhà này sẽ nhận lại nó khi ông ta vào nhà bằng chiếc chìa khóa thứ hai.



"Xin đừng nghĩ là chúng tôi đã phóng đại tầm vóc của công việc khi yêu cầu quí ngài hãy khẩn trương đến mức tối đa bằng mọi cách có thể được. "Xin dừng bút, thưa Quý Ngài, "Trân trọng,"SAMUEL F.BILLINGTON & SON"



THƯ CỦA MESSRS. CARTER, PATERSON & CÔNG TY, LONDON, GỬI CHO MESSRS. BILLINGTON & CON TRAI, WHITBY.



Ngài 21 tháng8.



"Kính thưa Quí Ngài,



"Chúng tôi xin được phản hồi là đã nhận được 10 bảng và gửi trả về chi phiếu 1 bảng 17s, 9d tiền thừa, được ghi rõ trong hóa đơn kèm theo. Hàng hóa đã được phân phối chính xác theo chỉ dẩn, và chìa khóa được để lại dưới tấm thảm trong phòng chính như quí ngài mong muốn. "Xin được dừng bút, thưa Quí Ngài," Trân trọng, "Pro CARTER, PATERSON & CÔNG TY."



NHẬT KÝ CỦA MINA MURRAY.



Ngày 18 tháng Tám. – Hôm nay tôi rất vui, và tôi đang ngồi viết tại chỗ ngồi quen thuộc của mình trên khu nghĩa địa. Lucy đã khỏe mạnh hơn bao giờ hết. Tối qua bạn ấy ngủ ngon suốt cả đêm và chẳng hề quấy rầy tôi.



Vẻ hồng hào đã trở về trên đôi má của bạn ấy, dù bạn ấy vẩn còn tái xanh ốm yếu và trông rất vàng vọt. Nếu bạn ấy bị thiếu máu bởi một nguyên nhân nào đó thì tôi còn có thể hiểu được, đằng này bạn ấy đâu có sao. Bạn ấy đang lên tinh thần, rất yêu đời và vui sướng. Căn bệnh tiềm tàng hình như đã bắt đầu lánh xa bạn ấy, và nhìn bạn ấy lúc này chỉ còn gợi tôi nhớ lại, nếu như tôi còn chút gì để nhớ, về cái đêm hôm ấy, và tại nơi đây, chính tại nơi này, tôi thấy bạn ấy đang ngủ.



Bạn ấy vừa cố rút một hòn đá trong giày đang đâm vào gót chân của bạn ấy vừa nói,



"Cái chân tội nghiệp của mình làm phiền mình quá! Mình dám chắc là ông bạn già tội nghiệp Swales đang nói chuyện với mình vì mình không muốn quấy rầy Geordie."



Thấy bạn ấy đang ở trong tâm trạng cởi mở, tôi hỏi bạn ấy xem đêm đêm bạn ấy mơ thấy những gì,



Trước khi bạn ấy trả lời, trán bạn ấy nhăn lại theo một nét cau mày đáng yêu. Arthur, tôi gọi anh ấy là Arthur theo ý thích của Lucy, đã từng nói rằng anh ta đã yêu bạn ấy qua cử chỉ này, thực sự là điều này chẳng hề làm tôi ngạc nhiên. Đoạn bạn ấy trở nên nữa mơ mộng như thể đang cố phục hồi ký ức của mình.



"Mình chẳng có mơ đâu, mà tất cả dường như đang diễn ra thật sự đấy. Mình chỉ muốn trở về nơi đây. Mình chẳng biết vì sao, dù mình lại đang sợ hãi một cái gì đó mà mình cũng không biết là cái gì. Mình còn nhớ, dù lúc đó mình còn đang ngủ, là mình đi ngang những con đường và đi qua cây cầu. Một con cá nhảy lên trên đường, và mình trườn người tới để ngắm nó, và mình nghe thấy rất nhiều tiếng chó tru. Cả thị trấn lúc ấy dường như phủ đầy tiếng chó tru, và mình lại tiếp tục đi lên. Rồi diễn ra mơ hồ trong ký ức mình là một cái gì đó cao và đen với đôi mắt đỏ rực như là khi chúng ta thấy trong hòang hôn, rồi một cái gì đó vừa ngọt ngào vừa cay đắng vờn quanh mình cùng lúc. Rồi mình cảm thấy như đang chìm vào một hồ nước xanh, rồi có những tiếng hát vang lên bên tai mình, mà mình cảm thấy là bài hát dành cho những người chết đuối, và mọi thứ đang dần rời xa mình. Linh hồn của mình dường như đã rời khỏi thể xác và bay lơ lững trên không trung. Mình nhớ là lúc đó Ngọn Hải Đăng phía Tây nằm ở ngay dưới mình, và lúc đó mình có một cảm giác đau đớn kỳ lạ, giống như là mình đang ở trong một cơn động đất, mình quay trở lại và nhìn thấy bạn đang lay cơ thể mình. Mình thấy bạn trước khi mình cảm thấy bạn."
Bạn ấy bắt đầu cười. Tôi cảm thấy là có một cái gì đó rất là lạ, và tôi lắng nghe tiếng cười hổn hển của bạn ấy. Tôi không thích điều này chút nào, tốt hơn đừng để cho bạn ấy bận tâm về những chuyện như vậy nữa, và chúng tôi bắt đầu chuyển sang những chủ đề khác, và Lucy lại cảm thấy yêu đời hơn. Khi chúng tôi về nhà, khí trời đã khuyến khích bạn ấy, và đôi má trắng bệch của bạn ấy lại ửng hồng. Mẹ bạn ấy rất vui khi thấy bạn ấy, và chúng tôi đã trải qua một buổi tối vui vẻ cùng nhau.
__________________




**************************************************
TRUM YEU GAI , CHET VI GAI
SONG DE YEU , CHET VI YEU
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 05:06 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.