#11
|
|||
|
|||
![]() :::: Chương XLII:::::
Tình Ca Giáo Viên Miền Núi Tôi định bụng sẽ dậy sớm để ra đi một cách âm thầm sau khi viết một ít lời để lại cho thầy Dũng nhờ thầy nói lại với gia đình bao bọc lo cho chỗ tôi ngủ, nhưng khi nghe tiếng gà gáy sáng thì tôi đã thấy ông trưởng làng lúi cúi chụm hai thanh củi chỉ có tí ti vết đỏ thổi lửa cho cháy lên một cách cực nhọc. Tôi với lấy bao lô xem tôi còn hộp diêm nào không. May quá, vẫn còn mấy hộp! Tôi lấy một hộp còn đầy que diêm, và xé mấy tờ giấy đã viết , nói: -- Để tôi chụm lửa cho! Ông trưởng làng tên Ksor Ya cười: -- Ông thầy có cay mắt không? Khói quá mà! -- Không sao, tôi có cách làm cho hết khói và cháy mau! Tôi có hộp diêm đó! Tôi châm que diêm và đốt giấy bỏ vào bếp cùng với các thanh củi nhỏ. Khi lửa bắt đầu lan thì tôi mới bỏ những thanh củi lớn vào bếp. Tôi đưa ông trưởng làng hộp diêm: -- Ông cầm lấy hộp diêm này dùng khi cần. -- Thật không? Ông thầy không cần à? -- Không sao, tôi còn. Khi nào tôi về tỉnh tôi mua thêm. -- Lúc thầy trở lại, mua cho tôi ít muối, thuốc lá và quẹt lửa nhé! -- Được, để tôi ghi vào sổ. Tôi sẽ nhớ để mua cho ông! -- Để tôi đưa ông thầy gạo trước nha! -- Không tôi phải về huyện dạy cả hai tuần rồi tôi mới về thị xã mua đồ rồi mới trở lại được, lấy gạo của ông, rồi cả tháng mới giao hàng, tôi áy náy lắm! -- Không sao mà, tôi và dân làng tin tưởng thầy! Đâu có gì mà ông thầy phải lo! -- Vậy ông cho tôi bao nhiêu gạo cũng được! Ông trưởng làng đi vào góc nhà, lấy gạo đổ vào đầy ruột tượng là túi vải may như một cái ống dài, bộ đội và du kích thường đeo gạo trên vai vừa nhẹ nhàng, gọn ghẽ, dễ đi lại. Nguyên một túi ruột tượng cũng khoảng 4 tới 5 ký gạo chứ chẳng chơi, tha hồ mà mua bánh thuốc khô, muối , quẹt và đá lửa. Những người Kinh buôn bán thường đi vào các buôn làng đổi chác một cách cắt cổ mà dân làng chất phác chẳng hề hay biết. Tôi thì đổi chác một cách sòng phẳng, tính cách giúp đỡ đồng bào cũng như tiện việc ăn uống thôi chứ chẳng mong làm giàu, dù muốn làm giàu cũng không khó, vì tôi rành rẽ tiếng của dân làng và đã phần nào có uy tín với họ. Tôi giao súng và đạn chú Minh đã cho tôi trưa hôm qua cho ông trưởng làng, nói: -- Ông giữ súng và đạn giùm tôi. Ông có thể dùng để đi săn! Súng đạn này là của bộ đội giao cho tôi. Nếu họ tới đây đòi lại, ông cứ việc giao lại. Tôi không muốn đeo súng khi tôi đi về huyện dạy học. Súng này tôi chỉ dùng để đi săn trên vùng này thôi. -- Thầy không sợ mất à? -- Ông là trưởng làng, ai mà dám lấy cắp ở nhà ông? -- Được, ông thầy tin tôi thì tôi giữ cho. Tôi chưa để mất lòng tin của ai bao giờ! -- Tôi biết mà, ông mà làm mất uy tín thì làm sao có thể làm trưởng làng mà cả các làng chung quanh cũng kính phục ông? Tôi từ giã ông Ksor Ya và ra đi lúc trời còn mờ sáng. Thầy Dũng và mọi người vẫn còn ngủ, tôi nhớ mãi lời ông trưởng làng khi tôi khen ông dậy sớm: "Làm trưởng làng cũng như làm cha mẹ của dân, phải dậy trước mọi người, lo những cái lo của mọi người, cũng như thầy làm cán bộ phải lo những cái lo của thầy giáo trước mọi người! Tôi còn muốn làm nhiều hơn, nhưng cái tuổi cao rồi như cái cây cổ thụ không biết ngày nào đổ xuống!" Tôi tự nhủ trong thâm tâm, kỳ trở lại thị xã tôi sẽ cố gắng bỏ tiền mua đủ mọi thứ, thuốc men, muối, thuốc lá giao cho trưởng làng này. Ksor Ya! Ksor Ya! Ông thật xứng đáng là một lãnh tụ. Chuyện ra đời của ông cũng đã thành giai thoại của dân làng. Mẹ của ông sinh ông lúc ngồi nghỉ cạnh con suối thường khô cạn trong mùa nắng gặp cơn mưa suối khô thành con suối nước chảy xiết. Người mẹ trong lúc lâm bồn không biết có phải khát nước hay thấy nước mưa chảy mạnh cứ la to: "ya, ya, ya" hoà với tiếng khóc oa oa của trẻ sơ sanh. Cha mẹ ông, thầy mo đặt tên ông là Ya, tưc là nước cũng từ đó. Theo thầy mo bấy giờ ông sẽ trở thành một lãnh tụ hướng dẫn dân làng kinh qua nhiều biến cố mà cuộc sống của ông Ksor Ya đã và sẽ chứng minh sau này. Bao lô khoác trên vai, ruột tượng kéo từ vai sang hông, và ôm một mớ cơm ống cuộn trong áo mưa kể cũng nặng nhưng tôi hôm ấy đi nhanh thoăn thoắt vì tôi phải về tới phòng giáo dục hôm nay, lại còn phải ghé căn cứ bộ đội trước khi về. Một đêm ngủ ngon đã hồi phục sức khoẻ của tôi. Lòng phấn chấn tôi hớn hở đi miết, tới gần chỗ ẩn nấp của các bạn mới của tôi ở rừng lồ ô thì tôi lủi vào, nhẹ nhàng đi vì không muốn để lại dấu tích nào khả nghi. Tôi đang len lỏi vào khu lồ ô thì có tiếng nói không to lắm nhưng đủ nghe rõ ràng: -- Tôi quả quyết anh ấy không trở lại đâu! Có tiếng con gái, nhỏ nhẹ hơn: -- Anh Quang sẽ trở lại, anh ấy không phải là người như anh nghĩ đâu! -- Thôi đừng suy đoán lung tung nữa, tôi thì tin tưởng Quang sẽ trở lại, có lẽ vì lý do nào đó mà Quang không tới được thôi. Các anh không nghe hôm qua có một loạt tiếng súng là gì sao? Chẳng còn nghi ngờ gì tôi cũng biết là họ đang hoài nghi vì sự trễ hẹn của tôi. Tôi đã hẹn với họ chiều đến là tôi ghé lại, nhưng vì chuyện săn trâu, chuyện làng có người chết nên việc trở lại của tôi không thực hiện ngay được. Tôi cũng không muốn lén nghe chuyện họ bàn tán nên giả bộ huýt sáo đi từ từ lên chỗ lùm tre. Nghe tiếng huýt gió thì tiếng nói chuyện cũng ngưng. Tôi đi lên như không hề biết chuyện gì, đưa mắt nhìn quanh, cũng không thấy ai. Thì ra, các bạn ấy cũng đề cao cảnh giác, dù cũng còn sơ sót vì việc nói chuyện vừa rồi. Tôi ngẩng mặt nhìn lên bụi tre: "Xuống đi, Quang đây! Không có ai khác đâu!" Anh Trung lác cành le trèo xuống: -- May quá, Quang vừa tới! Cả bọn vừa bàn cãi chuyện Quang tới hay không tới! Anh Minh và Cường thì cho Quang đã quên bọn mình rồi. Có Hồng , Tâm và Trung là nhất quyết Quang sẽ trở lại. -- Họ đâu hết rồi? Anh Trung hất hàm về phía mấy bụi tre gần đó: -- Họ leo cả trên mấy bụi tre kia! -- Tốt, thực ra các anh cũng thông thạo việc trốn tránh rồi. Quang đỡ lo. Hôm qua chỗ làng Tung Breng có người chết, dân làng bị bệnh nhiều, Quang phải lên căn cứ bộ đội xin thuốc, rồi đưa bộ đội đi bắn trâu, rồi ở lại cúng Giàng với dân làng, mệt quá nên ngủ lại, sáng nay mới tới được. Đang phân trần với anh Trung, thì anh Tâm, Minh, Cường cũng như cô Hồng leo xuống và đi lại chỗ chúng tôi: -- Chào các anh chị nhé. Quang vừa nói với anh Trung lý do tới đây trễ vì trong làng có người chết và bị bệnh... Cô Hồng ngắt lời tôi: -- Anh Quang không cần phân trần mà! Anh còn bận bao nhiêu việc, Hồng biết chắc nếu anh tới trễ là có lý do đặc biệt. Tôi đưa mắt liếc nhìn anh Minh xem phản ứng ra sao. Hình như anh ta có vẻ khó chịu, có thể là ghen bóng ghen gió gì đây, tôi tảng lờ. -- Cám ơn chị và các anh đã tin tưởng Quang. Thôi có một mớ cơm ống và ít gạo của đồng bào cho đây. Anh chị giữ mà dùng. Quang ghé thăm dặn dò một tí rồi phải đi ngay, vì nội trong ngày phải về tới Phòng Giáo Dục đó! -- Anh Quang không ngồi nghỉ một lát được sao? Các anh ở đây và Hồng còn muốn hỏi nhiều việc với anh mà. -- Có việc gì thì cứ hỏi đi. -- Ở đây không ai rành đường rừng bằng anh Quang, anh có thể vượt biên với bọn này không? -- Quang chưa hề nghĩ tới chuyện này, hơn nữa Quang có nhiệm vụ xóa nạn mù chữ mà, đâu có thể bỏ đi ngang xương vậy. Quang giúp các anh chị vì thấy các anh chị cần thôi, chứ việc ra đi Quang không đi đâu. Nếu các anh chị theo những lời chỉ dẫn của Quang thì chín mươi phần trăm là thành công, còn mười phần nữa là do số phận đó! -- Thôi mà, Hồng năn nỉ đó! -- Không được chị ạ! Quang còn nhiều việc dự định phải làm, chưa thể cuốn gói ra đi được. Quang hy vọng các anh chị có thể tới mảnh đất tự do được bằng an. Tôi ngồi chỉ vẽ lại cho anh Trung, anh Tâm, anh Cường và cô Hồng, còn anh Minh, sau khi hỏi tôi có thể ghé bưu điện gởi một lá thư về thị xã, được tôi gật đầu, thì ra một góc viết thư. Tôi nói sơ qua về tình hình ở khu vực mà tôi biết được với chuyện tôi trở lại đây trong vòng ba tuần sau khoá huấn luyện giáo viên dân tộc thiểu số. Tôi tả qua sông Krong Poco, mực nước, xuồng và cách đi lại. -- Tóm lại, từ nay trở đi, các bạn tuỳ cơ ứng biến! Đi được thì đi, còn không đêm rằm tới Quang trở lại, có thể giúp các bạn thêm một đoạn đường nữa. Nhưng tuyệt đối các bạn không thể để bị lộ hay để các dấu tích đáng nghi ngờ khiến việc giúp đỡ của Quang không thể thực hiện được. Nếu vì một lý do nào đó Quang không thể tới chừng hai ba ngày sau đêm trăng rằm thì coi như Quang không thể tới và các bạn phải tức tốc tìm cách ra đi. Còn nếu các bạn có thể đi trước được thì càng hay. Các anh chị đồng ý chứ? Tôi đổ gạo ra khỏi ruột tượng vào bao đựng đồ của anh Trung, giữ lại bao vải để trả lại cho trưởng làng đồng thời nhỡ có chuyện gì không ai có thể nghi ngờ tôi thông đồng với những người vượt biên. Tôi cầm thư anh Minh đã dán cẩn thận, rồi từ giã mọi người. Anh Trung đi theo tôi một quãng, nói nhỏ: -- Quang cẩn thận. Anh Minh có vẻ đáng nghi ngờ và không hẳn là người yêu của cô Hồng đâu. Trung đã nghe hai người cự nự nhau gì đó! -- Không sao, cám ơn anh! Anh trở lại đi. Quang sẽ để ý! Tôi rời khu rừng lồ ô, gánh nặng đã trút xuống, không còn gạo, không còn cơm ống, mà sao chân bước không nhẹ nhàng như lúc tôi tới. Tôi cảm thấy lòng nặng trĩu vì có sự khả nghi, vì có một cái gì đó không thể định nghĩa. Tôi phải suy nghĩ và tìm ra sự linh tính đáng ngại này. Tôi không nghĩ chú Minh hay chú Dũng sẽ phiền lòng vì chuyện tôi gởi súng đạn nơi ông trưởng làng. Có lẽ họ hơi ngạc nhiên, chứ không đến nỗi nghi ngờ tôi là phản động. Tôi đã nói với họ là tôi không thích cầm súng khi đi giảng dạy, súng với tôi chỉ là công cụ đi săn kiếm lương thực mà thôi. Tôi sẽ nói rõ cho họ là ông trưởng làng tên Ksor Ya nắm giữ giùm. Nếu họ cần lấy lại tôi có thể viết vài lời cho ông trưởng làng. Tôi đã nói với ông là súng do bộ đội giao, nếu bộ đội cần thì cứ giao lại cho họ. Tôi biết là hai chú cũng như các anh bộ đội khác không thể trách tôi về việc đó, nhưng sao lòng tôi cũng cứ thật nặng nề. Hình như có việc gì bất tường có thể xảy ra nếu tôi không giữ gìn cẩn thận. :::: Chương XLIII::::: Tình Ca Giáo Viên Miền Núi Chuyện tôi giao súng lại cho ông trưởng làng hoá ra chẳng thành vấn đề gì sau khi tôi nói chuyện với chú Minh. Chú cười cười nói: "Cậu lại trở lại đây trong dịp trăng tròn tới mà, có gì đâu! Với lại về huyện huấn luyện giáo viên thì đâu còn giờ để đi săn!" Các chú và các anh bộ đội giữ tôi lại ăn trưa rồi mới cho về. Chú Minh dúi vào túi tôi một mớ tiền nhờ tôi mua mấy thứ vặt vảnh nếu tôi về thị xã. Tôi lấy sổ viết những thứ chú cần rồi đứng dậy giã từ. Trên đường về Phòng Giáo Dục tôi vẫn không trút hết được nỗi lo âu không hiểu vì lý do gì. Chuyện súng đạn để trong làng đã không gây cho tôi một trở ngại nào thế mà lòng tôi cũng không yên. Tôi nghĩ tới chú Quốc, anh Lý, anh Tiến, anh Công và các anh bộ đội đang truy lùng người vượt biên mà lo sợ. Không biết có phải chuyện này không mà lòng tôi không an tâm mấy. Các anh Lý, Tiến, Công thì tôi không lo ngại, nhưng với chú Quốc thì đáng sợ lắm vì chú đã nói thẳng thừng là gặp người vượt biên là bắn bỏ chẳng cần tốn công giam giữ làm gì. Tôi lo ngại lỡ mà họ tìm được dấu vết đi tới rừng lồ ô thì thật khổ, cả năm người bạn mới của tôi không chừng sẽ chẳng biết chết bất cứ lúc nào, mà gặp chú Quốc đánh đập tra tấn thì còn tàn nhẫn hơn, mấy anh còn đỡ, một thân con gái như cô Hồng không biết có chịu nổi không. Vừa nghĩ tới cô Hồng, tôi lại nhớ tới Nhung, tới Du. Không biết bây giờ họ đang làm gì. Không biết Du đã trở lại làng chưa, và Nhung giờ này đang làm gì, hay là lại ngồi trước bàn viết nhật ký. Việc Du giận tôi vì hiểu lầm, không cho tôi một cơ hội giải thích cũng khiến tôi bực mình. Nhưng biết làm thế nào, tôi thực là tình ngay mà lý gian. Đối với người ngoài, Nhung thực sự là vị hôn thê của tôi, hai bên cha mẹ đã gặp nhau, tuy không phải là đi hỏi. Chúng tôi có nhiều cảm tình với nhau, tin tưởng nhau, nhưng trừ nụ hôn âu yếm như người yêu lần đó chưa hề chúng tôi hò hẹn trai gái với nhau một lần nào. Chúng tôi đã từng đi chơi riêng thuở còn học trò nhiều lần nhưng với tính cách bạn bè mà thôi. Lâu nay lúc một mình đi công tác tôi thường nghĩ tới Du và Nhung. Tôi biết tình cảm của tôi với Du là tự nhiên, do chúng tôi cùng một sở thích văn thơ và cùng công tác trên miền cao, nhưng nếu tiến tới xa hơn cũng cam go lắm vì gia đình tôi đạo Thiên Chúa từ đời xửa đời xưa còn gia đình Du rất sùng đạo Phật. Má Du tới ngày rằm hay mồng một mỗi tháng đều lên chùa tụng kinh, lại có cả một bàn thờ Phật trong phòng khách lúc nào cũng nhang khói. Với Nhung, thì từ xưa đến lúc tôi đọc nhật ký của Nhung, tôi vẫn xem Nhung là một người bạn gái tốt. Tình cảm của tôi với Nhung có thể đã đổi khác nếu như Hải không yêu Nhung thuở ban đầu và Hải không nhờ tôi giúp đỡ. Hải là bạn thân của tôi và tôi lúc đó cũng chưa rung động nên gồng mình làm quân tử Tàu sẵn sàng làm mai. Ai biết chuyện đời có nhiều cái trớ trêu như chuyện tình yêu lòng vòng. Tôi vừa đi vừa trầm ngâm suy nghĩ chẳng biết là mình đã gần ra tới đường lớn, xe có thể chạy dẫn từ thị xã Pleiku lên tận vùng biên giới B.10, B. 12 nơi có công trường lớn của các anh các chú bộ đội. Đi theo đường này thì nhanh hơn, không phải đi vòng, hay ghé các làng và thỉnh thoảng nếu may mắn có thể đón xe bộ đội quá giang lên biên giới hay về huyện hoặc thị xã. -- Đồng chí kia, làm gì lùi lũi đi không chào hỏi gì cả? Tôi giật mình ngẩng đầu lên nhìn: -- A chú Quốc, anh Lý, anh Công, anh Tiến, ... Chào tất cả các anh! Các anh ở làng Ea Yut về rùi hở? -- Còn nhớ tên chú là còn khá lắm! Đây ngồi xuống đây dưới bóng cây nghỉ mát một chút! Tôi vừa ngồi xuống cạnh anh Tiến vừa nhìn chú Quốc nói: -- Sao quên được chú? Mới gặp mấy hôm mà quên sao? Các chú và các anh có gì lạ không? -- Không, đi mấy ngày chẳng tìm được ai hay con thú nào! Nghĩ cũng bực mình! À ở gần đây có vùng nào có thú rừng không? Đồng chí có rảnh không? Dẫn bọn chú đi săn một lúc! Tôi phá lên cười ha hả: -- Các chú các anh tính làm mắm trâu hở? Ở căn cứ vừa mới bắn được ba con trâu hôm qua, mà bây giờ các chú định đi săn nữa sao? -- Thật không? Đồng chí không bố láo chứ? Làm gì mà săn được một lúc ba con trâu? -- Ba con trâu to kềnh đó chứ cháu có nói dối đâu! Chú và các anh về căn cứ mà coi! Chú Minh, chú Dũng sẽ kể cho chú và các anh. Tôi nhớ chuyện chú Dũng ăn gian bật cười nức nẻ: -- Chú Quốc nhớ hỏi chú Dũng chuyện đếm từ một tới một ngàn nhá! -- Sao có chuyện gì sao mà cậu vui thế? -- Cái này cháu không nói được, chú phải hỏi chú Dũng! Cháu nói ra mất hay! Chú không cười không được! -- Cái gì mà rào đón dữ vậy? -- Cháu nói không được mà! Chú và các anh cứ về căn cứ hỏi là biết ngay. Anh Tiến ngồi cạnh tôi quay sang hỏi: -- Anh Quang không đùa đó chứ? Bắn được ba con trâu thật sao? -- Thật đó, em phải gọi dân làng ra xẻ thịt heo đủ chia cho cả hai làng và cả căn cứ các chú và các anh. Chú Quốc và các anh bộ đội nhao nhao hỏi, tôi đành kể lại chuyện tôi gặp bầy trâu rừng và chuyện đi săn của chú Dũng và các anh bộ đội khác nhưng tránh không nhắc chuyện ăn gian của chú Dũng. Chú Quốc đập đùi mạnh một cái nói to: -- Tiếc đếch chịu được! Thật là một chuyện hy hữu trong rừng! Đồng chí Quang phải trở lại dẫn chúng tôi đi săn một chuyến đã như vậy mới được! Mà sao đồng chí có số may mắn sao đó, đi đâu cũng có thú rừng để ăn, có người để làm bạn! -- Được chú đã nói thế chừng tháng tới cháu lên dẫn chú đi bắn heo rừng, hay nai rừng! Trâu rừng thì cháu không dám chắc, vì chúng di chuyển nhanh lắm, ít khi quanh quẩn một chỗ. -- Nhớ đó nha! Đồng chí mà bố láo, đếch làm đồng chí với nhau nữa! -- Cháu có khi nào dám nói dối chú! Cháu sẽ lên lại mà! Nói thật chú này nha! Cháu được nhận làm bộ đội danh dự ở căn cứ các chú, các anh rồi đó nhé! -- Thế nào? Nói cho chúng tôi nghe đi! -- Chuyện này chú và các anh cũng phải hỏi chú Minh và chú Dũng! Chú Quốc vừa cười vừa chửi thề: -- Cái thằng này nói chuyện ỡm ờ đếch chịu được! Bọn mình phải về thôi, không có thì rượu cạn mà thịt trâu cũng chẳng còn. Tôi dò hỏi chuyện truy lùng người vượt biên, chú Quốc nói: -- Chắc bọn phản động. cũng chết bờ chết bụi hay dã đi về hướng khác rồi, thuộc phạm vi của căn cứ của đơn vị khác mình chẳng đáng quan tâm. Nghe vậy tôi cũng tạm yên lòng, chứ không cũng lo vì rừng lồ ô tuy không gần căn cứ chú Minh, chú Dũng, chú Quốc, nhưng nếu họ cố truy lùng thì không khéo họ có thể tìm ra nếu các anh chị kia không cẩn thận. Trốn một hai ngày hay di chuyển đều thì dễ chứ ở một nơi, đi vệ sinh không khéo thôi thì cũng đủ gây nên những mùi hôi thối đáng nghi ngờ hay chân dẫm lên cỏ lá cũng có thể để lại dấu tích. Tôi thầm hy vọng anh Trung, anh Tâm sẽ hướng dẫn ba người mới kia. Các chú bộ đội chào tôi rồi đi về hướng Tây, còn tôi cũng lững thững đi về hướng Đông. Cuộc nói chuyện vừa rồi với các anh bộ đội phần nào trấn an tôi, nhưng khi nghĩ tới năm người bạn mới lòng tôi thấy nóng bức chi lạ. Không lẽ chuyện gì sẽ xảy ra? Chuyện anh Minh và chị Hồng chưa phải là người đính hôn thì có liên hệ gì với tôi. Chị Hồng rồi cũng sẽ ra đi. Đâu có vướng bận gì tới tôi mà tôi phải lo nghĩ chứ! Tôi nghĩ tới nghĩ lui, công cuộc huấn luyện giáo viên này là do ý kiến của tôi và anh Ít. Tôi nhất định không để một lý do nào ngăn cản sáng kiến táo bạo và tiến bộ này. Đồng bào họ trông chờ sự hiện diện của các giáo viên sắc tộc, nói và viết được tiếng mẹ đẻ của họ. Đây là bước đầu của việc phát triển dân sinh dân trí có thể làm thăng bằng cán cân chính trị giữa người Kinh và người Thượng. Không có văn hoá thì cơ sở chính trị dân tộc cũng bị lung lay và có nguy cơ bị đồng hoá. Tôi đã tiếp xúc, sống và tìm hiểu được nhiều về người Jrai. Họ có nền văn hóa rất cao, thể hiện qua lời ca tiếng hát và những trường ca "khan" hay "ri" của họ. Những bài ca đó cũng có tính cách trữ tình, phối cấu hình tượng và kỹ thuật cũng cao, không kém gì trường ca Đam San của dân tộc Rhade ở vùng Ban Mê Thuột, hay Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu, hay Đoạn Trường Tân Thanh của cụ Nguyễn Du. Lời lẽ có phần mộc mạc, cụ thể, nhưng rất linh động như trong truyện ca mang tên chàng Jiong: "Chàng trèo qua bảy núi Chàng lội qua bảy mương Đem dao rừng đẵn củi Đi tìm bóng người thương" (1) Công việc của anh Ít và tôi trong những ngày sắp tới là đào tạo một lớp giáo viên Jrai hăng say dạy tiếng mẹ đẻ và thu thập những truyện ca, những ca dao, những truyện truyền khẩu của dân tộc Jrai để bảo tồn và phát triển văn hoá đặc biệt của họ trước khi bị tàn lụi với thời gian vì thiếu chữ viết. Nguy cơ mất cả kho tàng văn hoá Jrai rất rõ rệt khi tôi ngồi nghe những người già hát, rồi tôi hỏi những người trẻ 20 đến 40 họ đều lắc đầu không biết mặc dù họ đã nghe những "ri" những "khan" này nhiều lần. Có đêm tôi ngồi nghe hát, cứ láy hoáy viết xuống, rồi sau khi người già hát xong mỗi đoạn, tôi lại xin họ hát thêm lần nữa để tôi tẩy tẩy xoá xóa hay thêm vào cho đúng. Sau đó tôi gân cổ lên thử hát, ngâm như các cụ già làm bao nhiêu người ngạc nhiên, hỏi làm sao tôi có thể nhớ những tình ca của họ. Tôi cầm quyển vở với những dòng chữ nguệch ngoạc, nói với họ: -- Tất cả ở trong này, tôi đã viết xuống đây, rồi đọc lại thôi! -- Khó tin quá, ông thầy là con Jrai rồi. Không ai có thể biết những chuyện này nếu Giàng không cho phép. Giàng chỉ cho những người con đặc biệt của núi rừng thôi. Tôi cũng thấy vui vì những ý nghĩ chất phác của họ, có lần tôi bảo: -- Chắc tôi là con Jrai được người Kinh nhận làm con nuôi lúc nhỏ quá! Xem này, tôi cũng nâu đen như các anh chị đó! Họ gật đầu đồng ý, tôi hẳn là con Thượng do hoàn cảnh chi đó được giao cho người Kinh nuôi dưỡng bây giờ Giàng gọi trở lại núi rừng giúp đỡ những người Jrai trong hoàn cảnh mới. Nghĩ tới công việc sắp tới và việc tiếp xúc với người Jrai, hồn tôi phấn khởi, nhưng chỉ được một đoạn đường. Tới gốc cây lớn bên đường toả bóng mát dìu dịu, tôi ngồi xuống nghỉ mệt, tôi lại áy náy sốt ruột sao đó. Tôi bỏ bao lô xuống, lấy bi đông nước ra uống một ngụm nhỏ, liếc nhìn địa chỉ người nhận trên bià thư anh Minh gởi cho người nhà. Không ai khác hơn là một đoàn viên từng sinh hoạt ở phường Hoa Lư của tôi. Cô này chúng tôi lén lút gọi là những người cách mạng 30 tháng Tư rất hăng say với chế độ mới và đã đưa bao nhiêu người vào cảnh khổ. Chúng tôi rủa thầm những người cách mạng tháng Tư còn thậm tệ hơn cả các cán bộ từ miền Bắc đưa vào. Tôi có nên mở thư gởi riêng ra đọc không? Mở làm sao? Có liên quan gì tới tôi hay tới ai không? Tôi đâu thể mù quáng giúp đỡ người rồi tự đưa tôi vào chỗ chết được. Phải khôn ngoan như con rắn, phải hiền lành như bồ câu. Tôi phải làm gì? Có nên mở thư người khác khi họ tin tưởng giao cho mình không? Làm thế thì mất sự tín nhiệm, tồi quá! Tôi lắc đầu, "Mình lại lẩn thẩn nghĩ quấy rồi! Chắc tại đi đêm nên nghĩ tới ma thôi!" Tôi bỏ bi đông nước vào túi bao lô, rồi khoác bao lô lên vai. Đi đường vẫn vẩn vơ nghĩ tới bức thư gởi cô cách mạng 30 tháng Tư, bứt rứt. Có thể là mọi lo lắng của tôi bắt đầu từ đấy! Hôm gặp anh Minh, anh Cường và Nhung, ba người chỉ có bộ quần áo trên người, làm sao có giấy viết sẵn mà viết vậy. Có thể anh Minh xin anh Trung, nhưng xin anh Trung lúc nào mà tôi không biết. Bức thư này vậy đã viết trước rồi chứ không phải lúc chúng tôi ngồi nói chuyện anh Minh mới bắt đầu viết. Vậy trong đó anh Minh viết những gì? Có nguy hiểm gì cho tôi không? Nguyên Đỗ (Còn tiếp) (1) Truyện ca "ri" mang tên chàng Jiong. :::: Chương XLIV::::: Tình Ca Giáo Viên Miền Núi Trời xế chiều thì tôi mới gần tới Phòng Giáo Dục. Tôi không về ngay mà ghé lại làng Nang, chỉ cách Phòng Giáo Dục chừng hai ba cây số, cách khu kinh tế mới của đồng bào từ Qui Nhơn, Bình Định lên chừng một cây số thôi. Khu kinh tế mới nằm trong khu trù phú xã Thạnh Đức hồi xưa dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm, cây cối đã bị bom cày đạn phá chẳng còn lại bao nhiêu trừ mấy gốc mít to. Tôi tuy mệt nhưng còn có thể tới Phòng Giáo Dục tắm rửa ăn uống một cách dễ dàng. Tuy nhiên tôi thấy cần nghỉ ngơi một chút để sắp xếp lại những việc cần phải báo cáo hay nói với anh Nhật, anh Ít và mọi người. Với lại tôi cũng khó chịu vì có cái gì cứ như lửa đốt sau ót của tôi và mắt của tôi cứ hay bị nhảy mắt hoài, nó cứ giật giật như báo động cho tôi chuyện gì đó. Tôi biết việc làm của tôi xưa nay rất kín đáo, nhưng gần đây nhiều biến cố dồn dập xảy ra, nên không còn cẩn mật như xưa, mặc dù tôi lúc nào cũng đề cao cảnh giác. Tôi phải mở bức thư của anh Minh ra thôi, mở ra rồi dán lại rồi gởi đi thì ai mà biết. Nghĩ cũng hơi kỳ! Giá như anh ấy gởi cho một người khác, không phải cho cô cách mạng 30 tháng Tư là Nguyễn Hồng Loan ở phường tôi ở thì có lẽ tôi dù có nghi ngờ cũng không dám tự huỷ hoại sự tín nhiệm của người khác đối với mình. Tôi vào nhà một người Thượng quen ở ngay đầu làng, không vào nhà thầy cô giáo hay ông thôn trưởng ở giữa làng vì sợ người ta nghi ngờ chuyện mờ ám tôi sắp sửa làm. Tôi mượn nồi của họ, đổ nước vào nấu sôi, nói là tôi cần uống nước sôi vì không muốn bị ngã nước như tôi vẫn thường làm trừ trường hợp bất đắc dĩ phải uống nước vòi không đun sôi. Người nhà đồng bào tôi ghé vào đi xuống vọt nước tắm rửa thì nước tôi đang nấu cũng sôi. Hơi nước bốc lên. Tôi dùng đũa kẹp phong bì và đưa lên mặt nồi làm cho chất keo bị hơi nóng của nước làm mềm và rời ra. Tôi thầm cảm ơn một cuốn phim nào đó giúp tôi biết kỹ thuật bóc thư mà không bị rách này. Công việc coi trộm thư dễ dàng hơn tôi tưởng. Nếu không có gì thì tôi chỉ việc gắn bì thư lại rồi gởi về như thường. Tôi không nói thì ai mà biết được. Tôi tắt lửa, chờ nước nguội một tí rồi sẽ đổ vào bi đông đã gần hết nước. Trong lúc chờ đợi, tôi rút ruột thư ra lẩm nhẩm đọc với một chút ân hận trong lòng: Loan em, Chú Ý đã dặn anh khi nào có dịp là phải viết thư về ngay cho chú và em. Ý tưởng đầu tiên mỗi sáng hay tối của anh là về em. Những lần anh nhớ em, anh cũng dằn vặt lắm. Điều mà anh nhớ nhất là được em đối đãi ân cần tử tế suốt mấy tháng trời khi anh từ Huế vào theo lời giới thiệu của chú Ý! Sau ngày đầu tiên em đã dành cho anh những giây phút kỳ diệu. Đây là sự thật. Rất thật. Quan cảnh nơi em rất ấm cúng. Trọng tâm của những gì muốn nói là không bao giờ anh quên em. Liên tục mấy ngày đêm liền anh nghĩ về em. Quan trọng là em hiểu anh là được rồi. Tới ngày anh gặp lại em, anh sẽ kể hết mọi chuyện cho em. Tổ khối phố em sống bây giờ tình hình ra sao? Chức năng của em rất quan trọng cho tương lai sau này của chúng ta đó. Vượt mọi gian khó để tới thành công. Biên vào nhật ký em điều đó nhé, đừng xao nhãng công việc của mình để chúng ta sớm có ngày gặp lại. Cần cù chịu khó học tập. Theo gương những anh hùng đã đi trước. Dõi trông những tin tức hằng ngày. Giáo dục bản thân và quần chúng đều quan trọng cả. Viên chức cán bộ trong các cấp đều thực hiện điều đó. Tên tuổi của em sau này sẽ không kém nếu động viên tiến tới không ngừng. Quang sáng cho ngày mình gặp lại. Huyện Chư Pah bây giờ mưa và buồn lắm! Vì vội vã, lúc đi lên Pleiku lần này, anh không thể ghé thăm em được. Sự việc đó khiến anh càng buồn thêm. Nghiệp dĩ của thanh niên thời đại ngày nay đó. Vi thế em đừng buồn. Đại để là phải động viên cho mình lúc nào cũng phấn chấn trong công việc, đừng để chuyện tư ảnh hưởng tới việc công. Cuả em hay của anh, cũng vậy. Đảng phái hay bè nhóm có thành công là do sự đóng góp của mỗi cá nhân! Nhà có nên là do sự cố gắng của mỗi một người trong gia đình. Nước có giàu là do tập thể nhân dân gắng sức. Chúng ta ai cũng biết điều đó. Ta không thể ngủ quên hay đứng bên lề quan sát. Hi hữu lắm mới có người nằm chờ sung rụng mà được ăn quả. Sinh hoá hoá sinh trong vũ trụ đòi hỏi con người phải năng động. Tất cả định luật thiên nhiên đều chứng minh như vậy. Cả anh và cả em cũng không thể ra ngoài luật năng động đó, không tiến ắt lùi, phải năng động để khỏi rỉ sét trong đà tiến của xã hội ngày nay. Anh yêu em, Lê Bá Minh Một bức thư tình? Một bức thư tạ lỗi? Một bức thư động viên? Có cái gì đó làm tôi khó chịu nhưng tôi chưa tìm ra ngay. Hình như tôi phải đọc những lời gì khác trong bức thư nàỵ Có phải tôi lo sợ quá thái không? Phàm tội phạm thường hay chưa hỏi đã khai, chưa ai biết đã sợ. Tôi vì tình cờ che chở người vượt biên đối với nhà nước là đã phạm tội đồng loã nên đâm ra hoài nghi thái quá chăng. Tôi đọc đi đọc lại. Phải tìm cho ra có cái gì đặc biệt trong bức thư này. :::: Chương XLV::::: Tình Ca Giáo Viên Miền Núi Tôi đọc đi đọc lại cả mấy lần, thấy bức thư là lạ, không phải thư tình, có vẻ nửa vời sao đó. Không rõ rệt úp úp mở mở. Tôi để ý những câu có vẻ không ăn nhập vào nhau mấy và có một chính tả nhỏ là quan cảnh thay vì quang cảnh. Những năm làm thiếu sinh trong Liên Đoàn Hướng Đạo cũng không phải là dư thừa trong cuộc đời tôi. Những bài học, sinh hoạt ca hát vui chơi hay cắm trại, hay giải mật thư ký hiệu đã giúp tôi mau :Dng nhận ra hàng chữ thông tin ẩn dấu trong bức thư tình. Ba đoạn thư là ba câu cứu tôi khỏi nguy cơ bị bắt sau này. Nếu đọc những chữ viết hoa từ chữ Chú Ý thì sẽ nhận ra ngay lời thông báo: Chú Ý Những Điều Sau Đây Rất Quan Trọng Liên Quan Tới Tổ Chức Vượt Biên Cần Theo Dõi Giáo Viên Tên Quang Huyện Chưpah Vì Sự Nghiệp Vĩ Đại Của Đảng Và Nhà Nước Chúng Ta Có Thể Hi Sinh Tất Cả Tôi toát mồ hôi dù đã ngồi trong nhà. May mà tôi biết được điều này chứ không biết bao nhiêu là rắc rối có thể xảy ra. Kể ra thì anh Minh sơ hở nhiều, anh không cần phải kỹ lưỡng như vậy, không cần phải bỏ chữ Chú Ý vào làm gì, và cũng không cần viết sai chính tả chữ quang cảnh làm chi. Anh dùng dao phay chém tép riu thì làm gì chẳng bị tôi phát hiện. Dù sao, tôi cũng đã sinh hoạt mấy năm trong Hướng Đạo, cũng biết rành rẽ về sáng lập viên Robert Baden-Powell cũng như các thể thức mật thư mà. Cái đáng ngại là không biết anh ta còn tiếp tục gởi thư qua đường nào khác không, liệu khi vượt biên xong rồi anh có tiếp tục đi theo con đường Đảng và Nhà Nước giao phó cho anh không. Cứ như tình hình miền Nam sau ngày mất nước thì đã, và sẽ có rất nhiều người nằm vùng cả bao nhiêu năm mới xuất đầu lộ diện. Tôi phải sẵn sàng trực diện và đối phó với nguy hiểm. Có thể có những giáo viên làm việc cho sở công an cũng không chừng. Tôi tự nhủ từ nay càng phải kín đáo hơn, việc làm tay phải cũng không dám để tay trái biết. Thực ra tôi chỉ tình cờ làm chuyện hiểm nguy này, chứ có bao giờ thuộc về một tổ chức nào đâu. Có lẽ có một điều bí ẩn gì đây hay cũng có thể có một tổ chức bí mật dẫn người vượt biên theo đường rừng. Tôi nghĩ tới cô Hồng mà lo ngại cho nàng. Liệu cô Hồng có biết là anh Minh có người yêu ở thị xã Pleiku không? Anh Minh từ Huế lên Pleiku, rồi trở về dẫn cô Hồng và anh Cường lên Pleiku với mục đích gì? Cứ như lời giới thiệu của anh Minh thì hai người đã hứa hôn với nhau rồi, nhưng gần đây có điều chi trục trặc mà anh Trung đã nói nhỏ cho tôi biết. Có lẽ hai người chỉ đóng kịch che mắt người ngoài vì thân gái dặm trường không có người thân phải nhận đại vậy cho khỏi rắc rối. Tôi hy vọng là cô Hồng biết việc làm của cô. Cũng có khi cô lại là nạn nhân của một thủ đoạn to lớn hơn. Nghĩ tới âm mưu có thể đang xảy ra, tôi rùng mình. Không biết có ngõ ngách nào có thể con mắt nghi ngờ và do thám của Đảng Cộng Sản Việt Nam? Chỉ cần gieo mối hoài nghi, sự nghi ngờ vào một tổ chức là đã thành công một nửa rồi. Ai mà dám gia nhập một tổ chức nào nếu có sự hoài nghi? Hiện giờ tôi hoài nghi hết mọi tổ chức đù có tính chất chính trị vì tôi không biết có ai trà trộn trong những tổ chức đoàn thể đó không\! Tốt nhất là từ đây cứ theo phương châm, "Nghe mõ ra tiền, ai nói sao thì mình nghe vậy! Chứ không nên bình phẩm hay tham gia!" Ông bà xưa kia nói: Gà chết vì tiếng gáy, ếch chết vì lỗ miệng! Tôi phải đề phòng cảnh giác ngay cả với những giáo viên thân tín của tôi. -- Ông thầy ở lại ăn cơm nhé! Tôi ngẩng đầu lên, bà chủ nhà đã đi tắm rửa và gùi nước về, sửa soạn nấu cơm. -- Cám ơn, cho tôi khất lại lần khác. Tôi phải về Phòng Giáo Dục liền cho kịp. Cám ơn gia đình đồng bào đã cho tôi nghỉ ngơi ở đây và cho tôi nấu nước sôi. -- Ở lại ăn với chúng tôi một bữa đi. Chẳng mấy khi ông thầy ghé lại. Ông thầy hẹn lần khác, lần khác hoài, không có thấy ông thầy ở lại ăn bao giờ. Chắc là chê tôi nấu không ngon? -- Không có, tôi đâu dám vậy. Nói thế thì tôi ở lại đây ăn hôm nay, nhưng tôi báo trước là chỉ ăn thôi nhé, đừng có bắt tôi uống rượu vì tôi còn nhiều việc phải làm ở Phòng Giáo Dục tối nay đó! Bà chủ nhà thấy tôi nhận lời ở lại ăn cười tươi ra mặt. Tôi lợi dụng thời gian ở lại chạy qua nhà thầy giáo thăm hỏi, trở về lấy gùi bỏ mấy bầu nước đã hết để đi xuống vọt lấy nước về cho gia đình rồi tiện thể tắm luôn. Lội bộ cả ngày bây giờ ngồi dưới vọt nước kỳ cọ mới đã làm sao! Khi đám thanh niên Thượng cũng từ từ theo con dốc xuống vọt nước, thì tôi cũng sắp tắm xong. Cười giỡn với họ một lúc, tôi lau khô người, mặc quần áo trở lại, rồi ngồi xuống đeo gùi nước lên vai rồi lững thững trở về làng theo sau bầy thôn nữ đang gùi nước đi trước. Vừa đi chúng tôi vừa nói chuyện vui vẻ. Tôi tạm quên những việc nhức óc vừa xảy ra. Tôi còn bao nhiêu việc bao nhiêu điều để báo cáo với anh Nhật và chuẩn bị cho mười ngày huấn luyện giáo viên Thượng sắp tới, đâu thể ngồi lo âu riêng cho số phận của mình. Tôi quyết định giữ lại bức thư này chứ không gởi đi. Từ từ tôi phải tìm hiểu mới được, chưa cần phải một sống một còn mà. Không chừng khi ra nước ngoài mà tôi chắc chắn là có điều kiện văn minh hơn anh Minh sẽ tỉnh mắt ra và không theo chủ nghĩa giáo điều nữa. Nhưng liệu anh ta có làm hại đời cô Hồng không và liệu cô Hồng và anh Minh có yêu nhau thực sự không? Đường tình yêu có nhiều lúc trớ trêu thật. Tôi sực nhớ tới Du, và Nhung. Hình như tôi nghĩ nhiều về cô Hồng mất rồi, trong khi tôi phải nghĩ nhiều về Du, về Nhung mới đúng! Không biết có phải tôi đa tình lãng mạn không nữa. Nghĩ thì nghĩ vậy thôi, chứ tôi chẳng hề nghĩ tới chuyện trai gái gì với cô Hồng. Với Du, với Nhung, thì cũng có có một chút! Nụ hôn nồng hôm ấy của Nhung và những trang nhật ký nói rõ như thế làm sao tôi dễ dàng quên được. Với Du, thì tức ơi là tức! Tự dưng bỏ làng về, không cho tôi một cơ hội đính chính. Tôi mong mỏi có dịp gặp lại Du để phân trần, nhưng còn đối với Nhung tôi phải làm sao đây. Không biết anh Minh và cô Loan định hy sinh những gì cho Đảng và Nhà Nước mà anh Minh viết y như là khẩu hiệu. Không thể nào sai được, đúng là anh ta làm việc cho cơ quan công an hay tình báo gì đó! Họ dám hy sinh cả tình yêu trai gái của họ cho sự nghiệp của Đảng và Nhà Nước. Có khi nào anh Minh sẽ cưới Hồng để làm con rể một vị đại tá trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà để lũng đoạn đoàn thể quốc gia sau này không? Sau công tác văn hoá trên huyện này, có lẽ tôi phải về đi học và đi khám thần kinh quá. Tôi tưởng tượng ra quá nhiều viễn ảnh kinh hoàng của các nhóm quốc gia lưu vong bị Đảng cho người gia nhập. Giữa cảnh tranh tối tranh sáng, đố ai mà biết được sự thật. Chỉ cần gây sự nghi ngờ vào các đoàn thể hải ngoại là có thể làm các nhóm xâu xé nhau và chẳng ai còn dám nhiệt tình tham gia mọi hoạt động nào. Canh bạc này chỉ có chủ hội là người hốt tiền, còn các nhóm, đảng phái không chừng húp cháo ngó mà thôi. Nguyên Đỗ (Còn tiếp) |
Ðiều Chỉnh | |
Xếp Bài | |
|
|