Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Tiểu Thuyết - Truyện Dài
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

 
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Prev Previous Post   Next Post Next
  #1  
Old 09-14-2012, 09:13 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ - Bản rút gọn của: Gisèle Vallerey - Tác giả: Victor Hugo.

NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ


Bản rút gọn của: Gisèle Vallerey



Người dịch: HUỲNH LÝ, VŨ ĐÌNH LIÊN, LÊ TRÍ VIỄN, ĐỖ ĐỨC HIỂU

G.S HUỲNH LÝ người xem lại toàn bản dịch


LỜI GIỚI THIỆU

Victor Hugo là nhà văn lãng mạn lớn nhất của nước Pháp, thế kỷ XIX. Cuộc đời chiến đấu không ngừng của ông, những tác phẩm văn chương của ông phản ánh trung thành những biến cố lịch sử lớn lao, những cuộc cách mạng của nhân dân Pháp suốt thế kỷ XIX. Tác phẩm của ông tiêu biểu cho ý chí tự do, lòng tha thiết yêu hòa bình, lòng tin tưởng cao cả vào con người lao động. Bởi vậy, ngày nay ở mọi nước, người ta đều công nhận Victor Hugo là một nhà văn tiến bộ không những của nước Pháp mà còn là của toàn thể nhân loại.
Năm 1952, nhân dân khắp thế giới đã tổ chức long trọng lễ kỷ niệm ngày sinh nhật lần thứ 150 của Hugo tại Viên, thủ đô nước Áo. Tác phẩm của ông đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Victor Mari Hugo sinh ngày 26 tháng 2 năm 1802 ở Bơdăngxông, một tỉnh nhỏ ở miền Đông nước Pháp. Bố ông là một sĩ quan cao cấp thời kỳ Napoleon đệ nhất. Mẹ ông thuộc một gia đình theo chủ nghĩa quân chủ và ngoan đạo. Lúc còn nhỏ, Hugo sống với mẹ, chịu ảnh hưởng tư tưởng của mẹ. Nhưng từ thời thơ ấu, ông đã ở Pari “quê hương” của ông, quê hương của cách mạng Pháp, nên ông sớm hấp thụ những tư tưởng cách mạng, tinh thần dân chủ. Những năm còn nhỏ tuổi, Hugo theo bố mẹ sang Ý rồi sang Tây Ban Nha. Cảnh vật chói lọi ở những nước này sẽ để lại trong thơ văn của ông những hình ảnh tươi sáng, những kỷ niệm sâu sắc. Từ năm lên mười, Hugo ở hẳn Pari, học tại trường trung học Luilơ Gơrăng. Năm mười bốn tuổi, Hugo bắt đầu làm nhiều thơ, năm mười lăm tuối được giải thưởng thơ của Viện Hàn lâm Pháp. Năm mười bảy tuổi, ông bỏ học để chuyên sáng tác.
Những tác phẩm đầu tiên của ông gợi lại thời kỳ Trung cổ phong kiến, biểu hiện tư tưởng quân chủ rõ nét, những đồng thời cũng đã có mầm mống của tư tưởng nhân đạo, chống đối lại chế độ nô lệ lúc bấy giờ.
Từ 1820 đến 1830, Hugo liên lạc với nhóm nhà văn lãng mạn và trở nên lãnh tụ của nhóm này. Ông mang hết thiên tài lỗi lạc và trái tim nồng nhiệt đấu tranh cho một nền văn học mới, tự do, chống đối lại thứ nghệ thuật gò bó, giả tạo của chủ nghĩa cổ điển lúc ấy đã lỗi thời. Năm 1827, ông viết vở kịch Cơromuen; bài tựa của vở này được coi như bản tuyên ngôn của phái lãng mạn. Huygo chủ trương phá bỏ tất cả những luật lệ cổ điển, khắt khe và đòi hỏi phải tôn trọng hiện thực, đòi hỏi tự do tưởng tượng. Vở kịch Hécnani, diễn năm 1830, gây ra những cuộc chiến đấu và những cuộc tranh luận kịch liệt giữa phái cũ và phái mới. Nghệ thuật lãng mạn hoàn toàn thắng lợi. Trên những nguyên tắc hoàn toàn mới về kịch, Hugo viết một loạt những vở kịch lãng mạn: Mariông Đơlormơ (1829), Luycơrét Borgia (1833), Mari Tuyđo (1833) và đặc biệt Ruy Bơla (1838). Ông đưa lên sân khấu những hoàn cảnh vĩ đại, những con người đầy nhiệt huyết, những mâu thuẫn gay gắt nóng bỏng, những trái tim nồng cháy. Người ta chú ý nhất đến vở Ruy Bơla, trình bày nhân vật chính là một người đầy tớ có tâm hồn cao thượng và yêu tha thiết hoàng hậu Tây Ban Nha. Đó là cả một cuộc cách mạng về quan niệm kịch của Hugo, trái hẳn lại với quan niệm kịch cổ điển.
Từ sau 1830, bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc đời, cũng như trong sáng tác của Hugo. Phong trào cách mạng Pháp càng ngày càng mạnh mẽ. Từ 1830 đến 1832 tại một số thành phố lớn ở Pháp, nhất là Paris và Lyông, nhân dân lao động nổi dậy chống chính quyền tư sản phản động, Hugo có cảm tình đặc biệt với phong trào cách mạng. Trong bài tựa cuốn Luycơrét Borgia (1833), ông tuyên bố nhà văn phải “sáng tác đồng thời với đấu tranh chính trị”. Từ 1830, Hugo không ngừng sáng tác và không ngừng tích cực tham gia đâu tranh chính trị. Phái lãng mạn thành hình từ 1810, đã có sự chia rẽ: một bên chủ trương nghệ thuật vì nghệ thuật, đứng đầu là Têôphin Gôchiê; một bên chủ trương nghệ thuật phục vụ dân sinh; Victor Hugo là người sáng lập ra dòng sau này. Đến năm 1859, ông viết cho thi sĩ Bôđơle: “Không bao giờ tôi chủ trương nghệ thuật vì nghệ thuật; bao giờ tôi cũng nói: nghệ thuật phải phục vụ cho tiến bộ”. Hugo viết để phục vụ đấu tranh, phục vụ quần chúng. Trong tư tưởng của ông, đã có một chuyển hướng quyết định. Chế độ phản động của Lui XVIII, cuộc cách mạng 1830, 1832 là những nguyên nhân sâu sắc của sự chuyển biến trong tư tưởng của nhà văn.
Năm 1831, ông viết cuốn tiểu thuyết lịch sử vĩ đại Nhà thờ Đức bà Paris, một cuốn tiểu thuyết lãng mạn tích cực điển hình. Ông đả kích kịch liệt bọn quý tộc, đề cao tấm lòng cao thượng, trong sáng của người bình dân. Cũng năm 1831, ông xuất bản tập thơ Lá Thu, trong đó ông viết: “Ta yêu tự do vì hoa trái của Tự do”. Từ 1830 đến 1840, các tập thơ của ông đều thấm nhuần lòng xót thương thấm thía những kẻ khốn cùng, lòng tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, lòng hy vọng vào tương lai loài người. Trong tập Ngày cuối cùng của người tội nhân (1829) và trong truyện ngắn Cơlốtđơ, thằng cùng, Hugo phản đối thống thiết tội tử hình trong luật pháp lúc bấy giờ.
Vào khoảng 1840, Hugo bỗng nhiên ngả về phái hữu. Ông bênh vực chế độ quân chủ chuyên chế, bên vực tên trùm tư sản Lui Philip, chống lại tư tưởng dân chủ. Năm 1841, ông được bầu vào Hàn lâm viện Pháp và năm 1845 được phong bá tước.
Nhưng sau 1848, trước sự phản bội của bọn quý tộc và bọn đại tư sản, Hugo trở nên chiến sĩ số một của tự do, dân chủ, của chế độ Cộng hòa Pháp, cho đến ngày cuối cùng. Từ cuộc đảo chính ngày 2 tháng chạp 1851, lật đổ chế độ cộng hòa, Hugo phải đày ra nước ngoài, thoạt tiên ở Bỉ, rồi ra đảo Giêcxây và Ghécnơxây suốt thời gian mười tám năm trời dưới chế độ đế chế thứ II. Ông cực lực chống lại Napoleon III. Thời kỳ này ông sáng tác những tập thơ và những bộ tiểu thuyết có giá trị nhất. 1852, ông viết Napoleon tiểu đế và xuất bản tập thơ Trừng phạt năm 1953; ông lên án gay gắt sự phản bội, sự áp bức của triều đình Napoleon III. “Người ta biết Hugo rời bỏ nước Pháp và từ những hòn đảo của Anh Cát Lợi trong biển Măngsơ ông đã nhóm ngọn lửa đấu tranh chống Napoleon tiểu đế” (Aragông: Bạn đã đọc Victor Hugo chưa?). Hugo thực sự đã trở thành một một chiến sĩ cách mạng, mang cả cuộc đời mình, thiên tài của mình để phục vụ cách mạng. Những tập thơ trên mở đầu cho giai đoạn thứ ba trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Trong thời kỳ ở đảo Giêcxây và Ghécnơxây, Hugo viết mấy bộ tiểu thuyết lớn: Những người khốn khổ (viết xong năm 1861), Những người lao động ở biển (1866) và đoạn đầu tập thơ Thiên anh hùng ca của nhân loại (1857 – 1883).
Những người khốn khổ là một cuốn tiểu thuyết xã hội hiện đại, một thiên anh hùng ca bằng văn xuôi. Hugo diễn tả cuộc đời trăm ngàn khổ cực và tâm hồn vô cũng cao thượng của một người tù khổ sai là GIĂNG VANGIĂNG, của một thiếu phụ bị xã hội tư bản tàn bạo chà đạp là Phăngtin, của một trẻ thơ anh dũng là Gavơrốt. Trong cuốn tiểu thuyết vĩ đại này, Hugo đứng hẳn về phía quần chúng, khi mô tả cuộc chiến đấu hùng tráng của nhân dân cần lao Paris nổi dậy năm 1832 chống lại chính quyền phản động lúc bấy giờ.
Trong bộ tiểu thuyết Những người lao động ở biển, Hugo mô tả cuộc đấu tranh của chàng đánh cá Giliát với biển cả và sự hy sinh cao quý của chàng cho hạnh phúc của người chàng yêu tha thiết, Đêruysét.
Thiên anh hùng ca của nhân loại gồm những bài thơ hào hùng ca ngợi sự tiến bộ của loài người từ bóng tối nguyên thủy tiến lên một tương lai rực rỡ.
Năm 1859, Napoleon III ân xá cho Hugo, nhưng Hugo không chịu trở về nước Pháp. Ông nói: “Giữ tròn lời thề với lương tâm, tôi chịu đến cũng số phận của Tự do. Tự do đã bị trục xuất khỏi đất Pháp, khi nào Tự do trở về đất nước, tôi sẽ trở về cũng với Tự do”.
Năm 1870, đế chế thứ III sụp đổ, Hugo trở về Paris. Tuy đứng về lý tưởng xã hội, ông không tán thành Công xã Paris, nhưng ông thông cảm sâu sắc với giai cấp công nhân nổi dậy làm cách mạng và khâm phục họ. Sau khi phong trào bị dập tắt, ông đứng dậy phản kháng những sự trả thù, khủng bố trắng trợn của bọn thống trị phản động. Ông đòi ân xá cho tất cả những người tham gia Công xã và cho một số người trốn ở nhà ông tại Bỉ. Cuộc cách mạng vĩ đại này là nguồn cảm hứng cho một tập thơ có giá trị lớn của ông là tập Năm khủng khiếp (1870 – 1871). Ở đây, thi hào ca ngợi con người vô sản đứng lên làm cách mạng và kết án những kẻ nhúng tay vào biển máu để trả thù những người yêu nước. Năm 1874, ông hoàn thành cuốn tiểu thuyết Chín mươi ba, bắt đầu viết từ những năm còn ở ngoài đảo. Ông mô tả lại cuộc cách mạng 1789 – 1794, coi đó như một sự kiện lớn nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.
Những năm cuối cùng, ông viết Nghệ thuật làm ông, đầy tình thương yêu trẻ con và hoàn thành tập thơ Thiên anh hùng ca của nhân loại.
Victor Hugo mất ngày 22 tháng 5 năm 1885, được toàn thể nhân dân Pháp thương tiếc. Ngày đưa tang ông được coi như ngày quốc tang. Những cựu chiến sĩ cách mạng Công xã Paris kêu gọi mọi người tưởng nhớ đến nhà đại văn hào đã hết lòng ủng hộ những người lao động tham gia Công xã.
Cuộc đời của Hugo nằm suốt cả trong thời kỳ bão táp của cách mạng Pháp và của châu Âu, thế kỷ XIX. Ông sinh trước ngày đế chế thành lập và chết sau Các Mác hai năm. “Tác phẩm của ông ra đời trên đống gạch đổ nát của ngục Baxti và chấm dứt khi những nghiệp đoàn thợ thuyền sắp sửa tuyên bố rằng mùa xuân sẽ thuộc về họ ngày 1 tháng 5 tại Chicago. Victor Hugo là tâm gương phản chiếu cách mạng Pháp”. (Aragông: sđd)
Quả vậy Hugo đã tiến từ xu hướng quân chủ đến tư tưởng dân chủ xã hội, từ nghệ thuật lãng mạn đến xu hướng hiện thực. Cuộc đời và tác phẩm của ông tiêu biểu cho cuộc phấn đấu không ngừng cho cách mạnh, cho tự do dân chủ, cho hòa bình hữu nghị các dân tộc.
Năm 1849, ở Đại hội quốc tế lần thứ nhất, những người Bạn của Hòa bình họp tại Paris, Hugo có nói: “Tư tưởng hòa bình là ở khắp thế giới, là tài sản của tất cả các dân tộc, mọi người đòi hỏi hòa bình vì hòa bình là hạnh phúc tối cao của họ”. Hugo đã hết sức bênh vực cho Giôn Brao, người lãnh tụ phong trào đòi hỏi tự do cho người da đen ở Mỹ, bị chính phủ Mỹ kết án tử hình. Hugo ủng hộ cuộc cách mạng ở Iếchlăng, ủng hộ nhân dân đảo Síp khởi nghĩa chống bọn thống trị Thổ Nhĩ Kỳ, ủng hộ cuộc khởi nghĩa của nhân dân Cuba chống bọn thực dân Tây Ban Nha.
Là lãnh tụ của phái lãng mạn, ông luôn trung thành với những tư tưởng lãng mạn tích cực, chống đối lại xu hướng lãng mạn tiêu cự, thoát ly. Ông chế giễu bọn nhà văn hô hào nghệ thuật thuần túy và đòi cho được nghệ thuật phải phục vụ chân lý, phản ánh thực tế. Hugo đề ra nhiệm vụ của nghệ thuật là phải phục vụ lợi ích của nhân dân; sức mạnh của văn chương là ở mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
Chủ nghĩa lãng mạn của Hugo thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Nó rất gần chủ nghĩa hiện thực, Aragông gọi Hugo là “nhà thơ hiện thực”. Tác phẩm của Hugo phản ánh đời sống cùng cực của nhân dân dưới chế độ tư bản, phản ánh tâm địa xấu xa bỉ ổi của bọn quý tộc, bọn tư sản thống trị của thời đại. Tác phẩm của ông cũng mô tả được những con người lao động vùng dậy làm cách mạng.
Tuy vậy, cũng phải thấy ngay rằng Victor Hugo chịu ảnh hưởng nặng của tôn giáo và mức tư tưởng cao nhất của ông là một thứ chủ nghĩa xã hội không tưởng kiểu của Xanh Ximông, Phuriê hồi đầu thế kỷ XIX. (Saint Simon (1760 – 1825) là một nhà nghiên cứu khoa học, người Pháp, có lòng yêu tha thiết loài người, căm ghét bọn quý tộc địa chủ và bọn tư sản đầu cơ. Ông chủ trương cải tạo xã hội tư sản và xây dựng xã hội không có người bóc lột người, nhưng Saint Simon chưa thấy rõ những mâu thuẫn của giai cấp trong xã hội tư bản nên chủ trương của ông đi đến thất bại hoàn toàn. Charles Fourter (1772 – 1837) là một nhà kinh tế học người Pháp, lên án kinh doanh vô tổ chức trong kinh tế tư bản. Ông bênh vực thợ thuyền là “người làm ra tất cả mà chịu sống đời sống khổ cực”. Ông chủ trương một nền kinh tế có kế hoạch, nhưng thủ tiêu đấu tranh giai cấp, nên cũng chỉ đi đến thất bại.) Thế giới quan của ông, bởi thế, bị hạn chế rất nhiều. Ông không nhận định được qui luật phát triển của xã hội. Ông tin tưởng rằng chỉ có tư tưởng mới có thể giải phóng được loài người. Bởi vậy những nhân vật ông xây dựng thường là những nhân vật có tâm hồn cao thượng, đầy lòng hy sinh nhưng ít chiến đấu tính. Tiểu thuyết của ông thường có những đoạn lý thuyết về luân lý, đạo đức, tôn giáo. Ông rất sợ những cuộc cách mạng đổ máu.
Cuộc đời Victor Hugo là cuộc đời đấu tranh không ngừng cho chính nghĩa, cho tự do, hòa bình, dân chủ. Tác phẩm của ông thấm nhuần tư tưởng nhân văn chân chính.
Ngày nay, nhân dân các nước rất ham đọc tác phẩm của Victor Hugo. Ở Pháp, cách đây ít lâu, báo Nhân đạo đã đăng lại bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ có minh họa. Trong thời gian phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp, một đội du kích Pháp đã lấy tên Gavơrốt làm tên đội.
Ở Việt Nam trước kia đã có nhiều người dịch thơ của Hugo và Nguyễn Văn Vĩnh đã dịch bộ “Những người khốn khổ” với nhan đề bản dịch “Những kẻ khốn nạn”.
Những người khốn khổ là một bộ truyện lớn nhất mà cũng là một tác phẩm có giá trị nhất trong sự nghiệp văn chương của Victor Hugo. Ông suy nghĩ về tác phẩm này và viết nó trong ngót ba mươi năm và hoàn thành năm 1861.
Ngay từ năm 1829, Hugo đã có ý định viết một cuốn tiểu thuyết về người tù khổ sai. Sau 1830, Hugo đặc biệt chú ý đến những vấn đề xã hội, nhận xét những bất công trong xã hội. Ông nhận thấy những kẻ tội phạm, những con người tư bản tàn ác. Ông tin tưởng rằng những con người ấy có thể cải tạo được bằng đường lối giáo dực nhân đạo. Ông nhận thức được rõ ràng nhiệm vụ cao quý của nhà văn là phải góp phần cải tạo xã hội, đấu tranh cho tự do, hạnh phúc của loài người.
Cũng vào những năm 1830, trước phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân lao động, một phong trào viết tiểu thuyết xã hội dâng cao ở Pháp, Gioócgiơ Xăng cho ra đời cuốn Lêlia, năm 1832; năm 1842, Ơgien Xuy đăng tập truyện Bí mật thành Paris.
Victor Hugo bắt tay vào công việc sưu tầm tài liệu và bắt đầu viết bộ tiểu thuyết này, thoạt đầu gọi là Những cảnh cùng khổ, vào năm 1840. Năm 1854, Những cảnh cùng khổ đổi thành Những người khốn khổ. Sau một thời gian gián đoạn, Hugo hoàn thành bộ truyện năm 1861. Đến năm 1862 thì bộ truyện xuất bản đồng thời ở Brussel (Bỉ) và ở Paris. Trong bốn tiếng đồng hồ đầu tiên ngày phát hành tập I, đã bán tới 3.500 cuốn.
Những người khốn khổ là bức tranh của một xã hội. Nó đề cập đến những vấn đề lớn lao trong xã hội Pháp đầu thế kỷ XIX, mà cũng là của tất cả các xã hội tư sản. Đó là một bản hùng ca của thời đại. Victor Hugo sau khi hoàn thành bộ tiểu thuyết này đã nói: “Quyển truyện này là một trái núi”. Quả thế, “một trái núi”, không những vì số trang của nó, vì những vấn đề to lớn nó bàn tới, mà chính là vì nó thấm nhuần những tư tưởng nhân đạo, vì nó ca ngợi đạo đức cao cả của nhân dân lao động, ca ngợi tự do, dân chủ, chống lại cường quyền áp bức, bóc lột. Đó là lòng thương cảm sâu xa đối với những con người bị xã hội chà đạp, lòng tin vào tâm hồn cao thượng của họ. Giăng VanGiăng bị xã hội tư sản bóp nghẹt, chăng lưới bao vây, lùng bắt cho đến chết, vẫn sống một cuộc sống hy sinh cao quý vì những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Phăngtin bị xã hội đạp xuống, vẫn là một tâm hồn thanh cao, là một tấm gương sáng của tình mẹ con. Gavơrốt là một đứa trẻ bị vứt bên lề đường Paris, vẫn là một tâm hồn thơ ngây, yêu đời, dũng cảm, nghĩa hiệp. “Những người khốn khổ còn là một bài ca phản kháng đối với cái trật tự của xã hội tư sản, nó đè bẹp những người nghèo khổ như là một thứ “định mệnh nhân tạo” và biến những người vì miếng cơm manh áo làm tên lính bảo vệ nó, thành những cái máy mù quáng, tàn nhẫn.
Những người khốn khổ là một tác phẩm chan chứa tinh thần lãng mạn cách mạng. Hugo là một nhà văn lãng mạn. Ông thường dùng phương pháp xây dựng những hình tượng to lớn để mô tả những tâm hồn siêu việt, những đột biến cao cả trong lòng người, gây những ấn tượng hùng vĩ cho người đọc. Những nhân vật chính diện đều sáng ngời đức hào hiệp, hy sinh.
Những người khốn khổ còn ghi lại những nét hiện thực về xã hội Pháp vào khoảng 1830. Cái xã hội tư sản tàn bạo được phản ánh trong những nhân vật phản diện như Giave, Tênácđiê. Tình trạng cùng khổ của người dân lao động cũng được mô tả bằng những cảnh thương tâm của một người cố nông sau trở thành tù phạm, một người mẹ, một đứa trẻ sống trong cảnh khủng khiếp của cuộc đời tối tăm, ngạt thở. Dưới ngòi bút của Hugo, Paris ngày cách mạng 1832 đã sống dậy, tưng bừng, anh dũng, một Paris nghèo khổ nhưng thiết tha yêu tự do.
Ưu điểm lớn nhất của Hugo là khi diễn tả xã hội tư sản, ông không chỉ diễn tả một số nhân vật độc ác, tàn nhẫn, vô lương tâm mà ông trình bày chế độ như một thực thể nhất trí trong việc áp bức, bóc lột, ruồng rẫy những người cùng khổ, đè lên người họ như một thứ định mệnh khốc liệt với các thứ công cụ ghê tởm như tòa án, tổ chức cảnh binh, quân đội, nhà tù, với báo chí, dư luận, thành kiến, tập quán.
Trong Lời nói đầu bọ Những người khốn khổ, Hugo đã nhấn mạnh ý nghĩa sâu xa của tác phẩm. Ông nói rằng trong cái xã hội văn minh ngày nay mà còn những địa ngục đày đọa con người thì “những quyển sách như loại này còn có thể có ích”. Với quan niệm nghệ thuật phục vụ đời sống như vậy, Hugo đã sáng tạo có ý thức một tác phẩm có ảnh hưởng lớn trong công cuộc đấu tranh chung của loài người chống áp bức và bóc lột.
Nhưng cũng như tất cả những người chưa nắm được chủ nghĩa xã hội khoa học, con đường thoát của xã hội mà ông tưởng tượng ra rất là duy tâm, không tưởng. Lý tưởng của ông là làm sao cho con người được như giám mục Mirien quên mình như kẻ nghèo khổ, như ông Mađơlen (Giăng VanGiăng) kinh doanh công nghiệp để cho thợ có chỗ làm ăn, tiền lời dùng một phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống cho thợ, tổ chức y tế, cứu tế trong xưởng, đề cao thuần phong mỹ tục. Làm sao cho con người trở nên tốt như thế? Ông Mirien toàn thiện là nhờ đức tin, Giăng VanGiăng trở nên tốt cũng là nhờ sự cảm hóa của Chúa, gián tiếp qua ông Mirien. Giăng VanGiăng là một điển hình nạn nhân của xã hội khi anh nghèo đói, khi anh bị tù tội, cũng như khi anh bị săn đuổi, tấm lòng nhân ái, hào hiệp vô biên của Giăng VanGiăng là một biểu tượng đẹp đẽ của tư tưởng nhân đạo của con người. Nhưng con đường cải tạo mà tác giả nghĩ ra cho anh thì lại quá cá biệt, gần như vô lý. Làm sao giải thích được chỉ một cử chỉ nhân đạo của giám mục Mirien đã dẫn dắt con người tối tăm ấy ra ngay chỗ ánh sáng rực rỡ, trong chốc lát biến một anh trộm cướp quen tay nên một người lương thiện, thay đổi một con người vì mười chín năm lao lý mà hóa ra thù hằn xã hội thành ra một con người yêu đời, bác ái, làm sao giải thích được sự biến chuyển đột ngột và triệt để ấy nếu không viện lẽ thần bí của Chúa?
Đối với Hugo, Chúa ở khắp nơi. Tuy có thấy một đôi điều ngớ ngẩn, giả dối, ngu dốt trong tu viện và óc danh lợi, tính xa hoa của đa số bọn giám mục, giáo chủ, Hugo không một phút nào nghi ngờ tôn giáo và đặt câu hỏi về Chúa. Trong Những người khốn khổ, không có dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông bắt đầu đoán thấy tôn giáo đã thành một công cụ của thống trị, trong khi ấy ông thấy về cảnh binh, tòa án, quân đội tư sản khá rõ. Trái lại ông cho “đức tin là lành” và Chúa là sự giải đáp cho tất cả. Trong truyện, người Giacôbanh già đã đả phá cường quyền, lên án chuyên chế, khi nói đến Chúa cũng nhất trí với viên giám mục và chịu phép ban phúc khi từ trần, Hugo cũng không nhận định được rõ bản chất tư sản phản động của đế chế Napoleon đệ nhất và chế độ Lui Philip, nên trong tác phẩm nhiều lúc ông ca ngợi những người đại diện của hai chế độ ấy. Thuật lời lẽ và ý nghĩ của nhân vật, tác giả lồng vào nhiều ý kiến về nhân sinh quan và vũ trụ quan của mình, trong ấy có nhiều điểm độc đáo, tiến bộ, nhưng cũng có một số điểm người đọc ngày nay cần lấy lập trường khoa học mà xét lại.
Cách mạng ở chỗ chống áp bức bóc lột, đòi tự do, đòi công lý, Victor Hugo vẫn là cải lương ở giải pháp. Với ông, làm cách mạng là để thay người xấu bằng người tốt, ban bố các quyền tự do, cải cách xã hội, mở trường học, dựng một chính quyền lấy tôn giáo chân chính làm hướng đạo, lấy yêu nước, dân chủ và nhân đạo làm châm ngôn. Vấn đề xóa bỏ trật tự cũ, thủ tiêu giai cấp chưa được bàn tới. Ông tin tưởng nồng nhiệt vào luật tiến hóa xã hội, nhưng theo ông, yếu tố chủ yếu của tiến hóa là sự cải tạo tư tưởng của con người. Ngày nay ai cũng biết là lý tưởng xã hội theo như ông muốn không thể thực hiện được bằng cuộc cách mạng như ông quan niệm. Chỉ có giai cấp công nhân dẫn đầu nhân dân lao động đứng lên lật đổ tư bản đế quốc, kiến thiết xã hội xã hội chủ nghĩa, mới có thể đem lại công ăn việc làm, tự do, kiến thức đầy đủ cho tất cả mọi người; và cái mộng cải tạo tư tưởng con người của ông cũng chỉ thực hiện được khi chính quyền đã ở trong tay gia cấp vô sản.
Mặc dù có mấy nhược điểm ấy, Những người khốn khổ vẫn là một bộ tiểu thuyết lớn của thế giới, thầm nhuần một tinh thần nhân đạo cao cả, tiến bộ rõ rệt và có giá trị lâu dài.


NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ


Chương 1

Một Con Người Chính Trực


Vào những ngày đầu tháng mười năm 1815, khoảng một giờ trước khi mặt trời lặn, một người đàn ông đi bộ vào thành phố D... Người đàn ông đó mập mạp và khỏe mạnh, tuổi khoảng từ bốn mươi sáu tới bốn mươi tám, một chiếc mũ lưỡi trai che một phần khuôn mặt sạm nắng, ông mặc một chiếc áo sơ mi bằng vải thô màu vàng, một chiếc ca vát xốc xếch nơi cổ, một chiếc quần dài đã sờn, một chiếc áo bờ lu vá nơi khuỷu tay, vác trên vai một cái túi lính thật nặng, tay cầm một cây gậy to tướng có nhiều mắt, chân không vớ đi giày đế sắt, tóc cắt ngắn và râu dài.
Tại thành phố... bấy giờ có một quán trọ xinh xắn mang bảng hiệu Croix-de-colbas là quán nổi tiếng nhất tại địa, phương. Người đàn ông bước về phía đó. Tất cả các lò đều đỏ lửa. ông chủ đang đi từ lò lửa tới đám xoong chảo, canh chừng bữa ăn tối tuyệt hảo của những người đánh xe nói cười râm ran nơi phòng bên. ông ta ngẩng đầu lên khi người khách lạ bước vào quán và ngạo nghễ nhìn ông với vẻ dè chừng.
- ông muốn gì -ông ta hỏi giọng xấc xược.
- ăn và ngủ..Người đàn ông vừa nói vừa móc ra bọc tiền to từ áo bờ lu của mình. Tôi có tiền đây.
ông chủ lưỡng lự một hồi. Rồi ông ta tiếp lại, giọng gay gắt hơn.
- Tất cả các phòng đều đã có người mướn và tôi không có gì cho ông ăn cả. Tất cả đều được dặn trước. ông hãy đi khỏi nơi đây !
Giọng của ông ta khiến người đi đường rùng mình.
Người đàn ông mở miệng để đáp lại, rồi ông cúi đầu nhặt lên cái túi mà ông đã đặt xuống đất và bước đi.
ông ra đường lớn. ông đi tới một cách lo âu, lướt sát qua các ngôi nhà. Nếu quay đầu lại, chắc ông đã trông thấy ông chủ quán trọ Croix-de colbas đứng nơi ngưỡng
cửa vây quanh bởi tất cả những người khách trong quán ông và tất cả những người đi đường, đang vừa nói một cách sôi nổi vừa dùng ngón tay chỉ về phía ông Trông
những cái nhìn dè chừng và sợ sệt của đám người, hẳn ông đoán biết việc ông tới sẽ sớm trở thành một biến cố của toàn thành phố.
Nhưng ông không quay đầu lại, ông không thấy gì về tất cả hiện tượng, những người trĩu xuống dưới sức nặng thường không nhìn phía sau họ. Đêm dần về, ông tìm một chỗ trú khác. Quán trọ xinh đẹp đã không tiếp ông, ông bắt đầu tìm kiếm một quán rượu thật khiêm nhường. ông vào quán đầu tiên ông gặp. Nhưng trong số những người khách ngồi vào bàn, có một người bán cá trước khi vào đây đã cho ngựa vào chuồng tại quán trọ Croix-de-colbas. Từ chỗ ngồi của mình hắn kín đáo ra hiệu cho chủ quán và rỉ vào tai ông ta mấy tiếng.
ông muốn gì đây?.Chủ quán sẵng giọng hỏi người đàn ông cầm gậy và không đợi người này có thì giờ trả lời, ông ta tiếp lời ngay : ông hãy rời khỏi nơi đây!
ông muốn tôi đi đâu?
Chỗ khác !
Người đàn ông cầm lên cây gậy và cái túi, rồi bước ông đi qua trước nhà tù. Nơi cửa treo một dây xích sắt buộc vào một cái chuông. ông rung chuông. Một cánh cửa con mở ra.
ông giữ cửa - người đàn ông vừa nói vừa kính cẩn dỡ mũ lưới trai ông có vui lòng cho tôi trú đỡ đêm nay không ?
- Một nhà tù đâu phải một nhà trọ người giữ cửa nói giọng khô khốc. ông hãy làm gì để bị bắt đi. người ta sẽ mở cửa cho ông.
Và cánh cửa con đóng lại.
Đêm tiếp tục ập xuống, gió lạnh từ dãy núi Alpes thổi tới. Trong ánh sáng yếu ớt của ngày đang tắt, người đàn ông trông thấy trong một khu vườn nằm dọc theo con
đường ông vừa bước tới, một cái chòi gỗ cửa thấp có vẻ là nơi ở của một người thợ sửa đường. ông dừng bước, thở dài nhẹ nhõm.
Mình ở đây được đấy ông lầm bầm.
Nhưng trong lúc ông cúi xuống để lướt vào trong cái chòi, ông nghe một tiếng gầm gừ dữ dằn. ông ngước mắt nhìn lên. Đầu một con chó gộc khổng ìô hiện ra trong bóng tối. Đây là cái cũi của một con chó.
- Chỗ này cũng không ! Người đàn ông kêu lên cay đắng.
ông đã phải dùng tới cây gậy mới ra khỏi ra khu vườn bởi con chó nhào tới ông với những tiếng sủa điên cuồng, và ông lại bước đi một cách cầu âu qua các con
đường gõ vào vài cánh cửa và lặng lẽ dang xa mỗi lần bị từ chối.
ông đến quảng trường Nhà Thờ, ông đưa nắm tay ra trước nhà thờ, rồi bởi kiệt sức vì mệt và không còn hi vọng gì nữa, ông nằm trên một chiếc ghế đá dài cạnh đó.
Bấy giờ một bà lão từ nhà thờ bước ra. Bà trông thấy người đàn ông nằm dài trong bóng tối.
- Đây là một cái giường rất tệ, ông bạn ạ,.bà nói.
- Trong suốt mười chín năm tôi có một cái nệm gỗ, người đàn ông nói giọng căm giận, hôm nay. tôi có một cái nệm đá.
ông không thể qua đêm như thế này được đâu; dĩ nhiên ông đang lạnh và đói. Người ta có thể cho ông tạm trú vì lòng từ thiện.
- Khắp nơi người ta đã xua đuổi tôi.
- ông đã gõ mọi cánh cửa rồi à? Bà lão vừa hỏi vừa chạm vào cánh tay người đàn ông và chỉ bên kia quảng trường, một ngôi nhà nhỏ và thấp bên cạnh tòa giám
mục. Nhưng ông đã gõ cánh cửa đó chưa?
Chưa .
Hãy gõ vào đó !
Bà lão dời bước, người đàn ông vừa nhổm dậy vừa càu nhàu và tiến đến cánh cửa mà bà lão đã chỉ cho ông.
ông gõ cửa.
- Vào đi ! một giọng đàn ông thốt lên, dịu dàng và trầm trọng.
Người đàn ông đẩy cánh cửa mở toang và bước vào Với cái túi trên vai, cây gậy trong tay, người đàn ông có một vẻ thô tháp, táo tợn, mệt mỏi và dữ dội trong
đôi mắt. ánh lửa-từ lò sưởi hắt thẳng vào mặt ông và trông ông dễ sợ như ma quỉ hiện hình.
Trong ba người có mặt trong phòng, một giáo sĩ và hai ngươi đàn bà luống tuổi, chỉ có hai người đàn bà khẽ rùng mình. Vị giáo sĩ nhìn đăm đăm vào người đàn ông
bằng đôi mắt lặng lẽ.
- Thế này đây. bấy giờ người đàn ông lên tiếng bằng một giọng khàn đục và không đợi người ta nói với mình : tôi tên là Jean Valjean, tôi đã trải qua mười chín năm trong tù. Tôi được trả tự do từ bốn ngày nay và đang trên đường tới Pontarlier. Tôi đi bộ từ Toulon đã bốn hôm rồi. Hôm nay tôi đã đi hết mười hai dặm đường.
Chiều hôm nay tôi đã vào một quán trọ rồi một quán khác, người ta đã xua đuổi tôi. Tôi đã vào trong cái cũi của một con chó, con chó đã cắn tôi và đã đuổi tôi. Tôi
đã nằm trên một cái ghế đá. Đêm không sao và tôi nghĩ trời sẽ mưa và không có phép thánh nào cản được mưa cả Một người đàn bà đã chỉ nhà ông cho tôi và nói :
"Hãy gõ vào đó?" Tôi đã gõ. Đây là đâu vậy? Một quán trọ à? Tôi có tiền, tôi sẽ trả. Một trăm lẻ chín đồng mười lăm xu mà tôi kiếm được trong nhà tù bằng sức lao động
của tôi trong mười chín năm. Tôi mệt lắm, mười hai dặm đường đi bộ. Tôi rất đói. ông có muốn tôi ở lại không
Bà Magloire, vị giáo sĩ vừa nói vừa quay sang một trong hai người đàn bà đội một cái mũ bông có nếp ống viền quanh khuôn mặt tròn trịa, bà hãy dọn thêm một bộ đồ ăn.
Người đàn ông bước ba bước đến gần cây đèn trên bàn. Một vẻ sửng sốt bộc lộ trong cái nhìn của ông.
ông có nghe không? ông nói nhỏ giọng lại. Tôi là một tên tù khổ sai, tôi từ cảnh tù đày về đây. Giấy thông hành của tôi đây. Màu vàng, như ông thấy đấy. Nó khiến
tôi bị xua đuổi ở bất luận nơi nào tôi đặt bước tới. ông hãy xem đây, những gì người ta ghi lên giấy thông hành của tôi, để tôi đọc cho ông nghe bởi tôi biết đọc mà, tôi
đã học trong tù. "Jean Valjean, tù khổ sai, được trả tự do, sinh trưởng tại Pontarlier, đã ở trong nhà tù mười chín năm. Năm năm về tội phá hoại. Mười bốn năm về tội
toan vượt ngục bốn lần. Con người này rất nguy hiểm".
Thế đấy. Mọi người đã ném tôi ra ngoài. Còn ông, ông tính cho tôi ăn uống và ngủ nghê hay sao? ông có một chuồng ngựa không?
- Bà Magloire, vị giáo sĩ nói, vẫn nói giọng dịu dàng, bà hãy trải những tấm ra trắng lên chiếc giường trong buồng. Đoạn quay sang người đàn ông. Mời ông ngồi và sưởi cho ấm, trong chốc lát chúng ta sẽ ăn bữa khuya. Trong lúc có người làm giường cho ông .
Khuôn mặt người đàn ông toát ra vẻ nghi hoặc và sửng sốt lạ thường.
- ông giữ tôi lại! ông ấp úng. ông gọi tôi bằng tiếng " ông " . ông không bảo tôi : " Đi đi đồ chó " . Tôi lại được ăn bữa khuya. Được một cái giường và nệm và những tấm ra như mọi người. ông là ai? Tôi sẽ trả tiền cho ông. ông là chủ quán này phải không?
- Không, tôi là một thầy tu đang ở đây. ông hãy giữ tiền của ông, ông hãy đến gần lửa. Gió đêm rất lạnh từ trong vùng núi Alpes. Bà Magloire, cây đèn này mờ quá.
Người giúp việc già cỗi biết ý chủ. Bà đi tìm hai cây đèn bằng bạc chạm trổ chỉ dùng khi có khách mời, và bà mang chúng tới khi đã thắp sáng. Trên lớp khăn trải bàn, bà dọn ra bốn bộ đồ ăn, vẻ đỏm đáng độc nhất trong ngôi nhà rất đỗi giản dị này.
- ông thầy tu, người đàn ông nói giọng run run, ông tốt lắm. ông đón nhận tôi, ông đốt những cây nến của ông vì tôi. Thế nhưng tôi đã không dối ông là tôi từ đâu đến.
Vị giáo sĩ chạm nhẹ vào bàn tay ông.
Cánh cửa này không hỏi người nào bước vào đây có tên hay không, bởi nhà này là nhà của Jésus-christ. Tôi biết điều đó trước khi ông nói.
Người đàn ông mở mắt kinh ngạc.
Đúng thế sao? ông biết tên tôi à? ông kêu lên.
Đúng, ông tên là người anh em của tôi.
Trong lúc đó bà Magloire đã dọn ra bữa ăn, một món súp có dầu và mỡ, một miếng thịt, những trái vả, một miếng phô mát tươi, một ổ bánh mì to bằng lúa mạch.
Tự tay bà còn lấy ra thêm, theo lệ thường của chủ, một chai rượu lâu năm của vùng Mauves.
Vị giáo sĩ đọc kinh trước bữa ăn. ông mời người đàn ông ngồi bên phải của mình, còn người đàn bà thì ngồi đối diện với ông, trong suốt cảnh này bà vẫn không nói gì và vẫn giữ một vẻ mặt bình lặng và dịu dàng nơi người ta bắt gặp những đường nét cùng những biểu lộ của khuôn mặt vị giáo sĩ.
Người đàn ông bắt đầu ăn ngon lành. Vị giáo sĩ và bà giúp việc nhìn ông một cách nhân từ nhưng không có chút tò mò gây khó chịu.
Những người đánh xe ăn sang hơn ông, ông linh mục à - người đàn ông nói, miệng đầy thức ăn.
- Họ có nhiều nỗi nhọc nhằn hơn tôi - vị giáo sĩ ôn tồn nói. Nhưng ông đã nói là ông đi Pontarlier. ở đó họ có một ngành công nghệ mang tính gia trưởng với những xưởng phô mát ...
Trong suốt bữa ăn câu chuyện xoay quanh ngành công nghệ đó của Pontarlier. Vị giáo sĩ thấy có nhiệm vụ là không thốt lên một từ nào có vẻ thuyết giáo, trái lại
ông tìm cách khuây khỏa Jean Valjean trong nỗi khốn cùng của ông, làm cho ông tin rằng ông cũng là một con người như bao con người khác.
Bữa ăn kết thúc, người em gái của vị giáo sĩ, cô Baptisfine, và người giúp việc, bà Magloire, lên lầu ngủ, phòng của họ trên tầng sâu độc nhất của ngôi nhà. Vị giáo sĩ cầm một cây đèn bạc trên bàn và quay sang người khách của mình, ông nói :
- ông đến đây, mời ông, tôi sẽ đưa ông về phòng.
Họ đi qua một gian phòng cũng bày biện đơn sơ như phòng ngoài, với một cái bàn và nhưng chiếc ghế màu trắng, một cái giường sắt có màn che bằng nỉ màu lục chiếm một góc, trong một góc khác có cánh cửa mở ra phòng cầu nguyện, một pho tượng Jésus-christ với hai cánh tay đã tróc lớp mạ vàng bị đóng đinh trên một cây thập tự gỗ nổi bật trên bức tường quét vôi trắng. Một buồng ngủ đóng kín với một cái giường ở cuối nhà nguyện.
- Xin ông cứ tự nhiên như ở nhà ông, vị giáo sĩ vừa nói vừa đặt cây đèn trên một cái bàn con nơi buồng ngủ.
ông hãy ngủ ngon. Sáng mai trước lúc lên đường, ông sẽ uống một ly sữa từ bầy bò cái của chúng tôi.
Bấy giờ bất chợt người đàn ông kêu lên, giọng khàn đục:
ông để tôi ngủ gần bên ông ! Như thế này đây ! Ai bảo với ông rằng tôi không phải là kẻ giết người?
ông Myrial hay đúng hơn là đức giám mục Bienvenu như ở dịa phương mọi người vẫn gọi, chủ nhân đón tiếp người cựu tù khổ sai, là giám mục tại D ... Từ nhiều năm nay, lòng từ thiện vô tận của ông đã khiến ông nổi tiếng trong thành phố nhỏ có vẻ đạo mạo, nơi những người theo đảng Jacobins, những người theo chủ nghĩa đế chế và những người theo chủ nghĩa bảo hoàng xâu xé nhau bằng những trò vu khống ngấm ngầm, cũng như trong những thôn xa xôi thuộc miền núi.
ông đã bắt đầu sự nghiệp giám mục của mình tại D... bằng cách đưa hai mươi sáu người bịnh trong bịnh viện vào tòa lâu đài có những khu vườn bao quanh nơi các tổng giám mục địa phận Embrun đã đến trước ông từ nhiều thế kỷ. Bản thân ông cùng với người em gái và người giúp việc về ở trong ngôi nhà nhỏ có khu vườn con
con mà hành phố vẫn dành cho việc vệ sinh công cộng.
- ông được chỗ ở của tôi và tôi được của ông, ông đã nói với ông giám đốc bịnh viện. Hãy trả lại nhà tôi.
Chỗ của ông là đây.
Lương bổng ông nhận được của nhà nước trong tư cách giám mục ráng lắm cũng chỉ đủ cho ông thanh toán điều ông gọi là "những khoản chi tiêu trong nhà". Những khoản chi tiêu đó gồm việc giúp đỡ, tặng tiền cho các công cuộc cứu tế và các hội đoàn khác nhau trong giáo khu. Trong số mười lăm nghìn cung cấp cho ông, giám
mục Bienvenu chỉ giữ lại một nghìn để sống và ông thường tự trách mình đã tước đoạt của người nghèo món tiền đó.
Bà Magloire dù dè sẻn tiện cặn cũng phải vất vả lắm mới kham nổi những món chi tiêu trong nhà chưa kể những lần bố thí bất ngờ. Bà đã khuyên chủ nhân đòi tỉnh
phải trả những chi phí về xe cộ trong thành phố và về những chuyến đi trong giáo khu. Và bà mừng rỡ khi Tổng hội đồng chấp thuận yêu cầu của ông giám mục, biểu
quyết cho ông một món tiền hằng năm ba nghìn. xong những niềm vui đó đã chóng tàn bởi ngay buổi chiều đức
giám mục Bienvenu đưa ra bản ghi chú này.
" Chi phí xe cộ và các chuyến đi :
Để đưa canh thịt cho người bịnh trong bịnh viện .........................1500 trăng
Dành cho hội dục anh Aix . . . . . . . . . . . . . . . 250 trăng
Dành cho hội dục anh vùng Dragreignan ......................... 250 trăng
Dành cho trẻ lạc .......................... 500 trăng
Dành cho trẻ mồ côi ........................ 500 trăng
Tổng cộng ................... 3000 trăng
Đó là quỹ chi thu của ông Myriel.
Thật nhanh chóng, ông giám mục trở thành người quản lý tài chánh của mọi công việc từ thiện và người thủ quỹ của mọi trường hợp cùng khổ. Người bịnh, người
nghèo, người khốn khổ đổ dồn về ông như về một nguồn sinh khí, ông chuyện trò nhiều hơn thuyết giảng, ông không kết án vội vã một điều gì, ông nói : " Chúng ta
hãy thấy con đường mà lỗi lầm đã đi qua. " .
ông còn nói : " Với những người dốt nát, hãy dốc lòng dạy họ những gì các con có thể. Xã hội trách nhiệm về đêm tối nó sản sinh. Kẻ phạm tội không phải là kẻ làm nên tội lỗi mà là kẻ làm nên bóng tối. "
ông biết ngồi im hàng giờ bên người đàn ông vừa mất vợ yêu dấu, bên người mẹ vừa mất con. ông không tìm cách xóa nhòa nỗi đau bằng sự quên lãng, mà không phóng to nó ra bằng hy vọng. .
Hãy chú ý đến cách các con quay về phía người chết. "Đừng nghĩ tới những gì đang thối rữa." ông biến đổi nỗi đau thương đang ngắm nhìn một cái hố bằng cách chỉ cho nó thấy nỗi đau thương đang ngắm nhìn một vì sao.
Quanh ông không có ban tham mưu gồm những tu sĩ tìm kiếm tương lai, bởi ông không có vẻ gì là một giám mục được sủng ái với mũ lễ to tướng được nhiều thánh
lộc, của bố thí cùng chức vụ thuộc nhà thờ làm tăng tiến kẻ hầu người hạ bằng cách tăng tiến chính mình. Tiếng tăm của giám mục Bienvenu chỉ tạo sự cô độc cho chính ông. Một ông thánh là một người láng giềng nguy hiểm có thể khiến chúng ta lây nhiễm một sự nghèo khó không chữa trị được. Nhưng sự cô độc trong đó tham vọng của một số người đã bỏ mặc ông, ông làm cho nó trở nên sinh động bằng sự khốn khổ của kẻ khác. Dưới mắt ông, thế giới giống như một căn bịnh trầm trọng mà ông thử tìm cách băng bó vết thương, không cần đoán biết căn nguyên bí ẩn của nó. " Hãy thương yêu nhau ", ông tuyên bố ngắn gọn như thế, và đó là tất cả học thuyết
của ông. Điều soi sáng con người đó chính là tấm lòng. Sự khôn ngoan của ông được hình thành bằng ánh sáng đến từ đó.
Mỗi buổi chiều, khi gió và mưa không cản bước ông, trước khi đi ngủ, ông ra khu vườn của mình trong một hay hai tiếng đồng hồ. ông ở đó một mình một bóng, trầm mặc, tĩnh tâm, mở rộng tâm hồn đón nhận những tư tưởng từ cõi cao xa rơi xuống, ngưỡng vọng, trong vẻ lộng lẫy hữu hình của những chòm sao, vẻ lộng lẫy vô hình của Thượng đế. Địa phận rào kín chật hẹp đó với bầu trời làm trần đã quá đủ cho cuộc đi dạo của ông và cho mộng tường của ông. ông còn ước vọng điều chi hơn
một vài cánh hoa trên mặt đất và tất cả những vì sao kia trong bầu trời?
Chiều hôm đó, ông giám mục đi bách bộ có phần lâu hơn trong khu vườn của mình, tâm hồn bám chặt vào
những điều kỳ bí lớn lao kia mà về đêm Thượng đế vẫn chỉ cho những đôi mắt còn biết mở to trông thấy. Trời đã khuya khi ông trở về căn hộ của mình; vài phút sau tất cả đều say ngủ trong ngôi nhà nhỏ.
Vào khoảng giữa đêm Jean Valjean thức giấc. ông ngồi bật dậy và đảo mắt nhìn quanh trong bóng tối, phần nào theo cách của loài mèo.
Bao nhiêu ý tưởng từ từ phác thảo trong óc ông nhưng khởi điểm và mức đến của chúng chỉ là lòng thù hận, thù hận xã hội và loài người thể hiện bằng một khát vọng thô bạo và liên tục được làm hại bất luận ai.
Đã mười chín năm nay, Jean Valjean chưa bao giờ nhỏ một giọt nước mắt. Bị kết án năm năm tù đầy vì tội trộm một ổ bánh mì, ông đã trông thấy sự khổ ải của mình kéo dài quá đáng trong những lần toan tính vượt ngục, và trong tâm hồn đen tối của ông một toà án được thiết lập. Không phải ông tự xá tội cho mình, nhưng ông lên án xã hội đã trừng phạt ông, con người đói khổ, và ông tự nhủ rằng ông có thể sẽ không ngừng ngại vào một ngày nào đó đòi hỏi loài người biện giải về dự thiếu cân bằng giữa sự thiệt hại ông gây ra và sự trừng phạt ông phải gánh chịu.
Trong phút chốc, Jean Valjean thoáng có ý định ngủ lại, nhưng không lâu. Tư tường ông bị ám ảnh bởi một hình ảnh : hình ảnh bộ đồ ăn bằng bạc mà bà Magloire đã đặt trên bàn mấy tiếng đồng hồ trước đây.
ông đứng dậy, cởi giày để tránh gây tiếng động và bước rón rén về phía cửa phòng ông giám mục. ông nhẹ tay mở cửa và bước vào.
Một tia sáng trăng vẻ quầng trên khuôn mặt bình yên của đức ông Bienvenu và tạo cho giấc ngủ của ông một vẻ yên ả cao cả và thánh thiện. Người cựu tù khổ sai ngắm nhìn chủ nhân với một vẻ kinh ngạc dữ dằn. Những ý tưởng hung bạo đã lôi kéo ông đến cạnh giường này chợt tan biến. ông lùi lại, mắt vẫn nhìn đăm đăm người
đang ngủ. Gần như máy móc bàn tay ông chụp lấy cái giỏ nơi mỗi buổi chiều bà Magloire cất mớ bát đĩa bằng bạc và đang ở trên đầu ông giám mục; đoạn ông vội
vàng trở vào phòng cầu nguyện, bước qua bục cửa sổ mở ra khu vườn. Một phút sau ông chạy trốn như một con chó xuyên qua đồng ruộng bằng cách nhảy qua những
tường rào và những cái hố.
Hôm sau trong lúc đức ông Myriel sắn sàng ngồi vào bàn với người em gái của ông thì bà Magloire xuất hiện, tay chân run rẩy, mặt mày tái mét.
Thưa đức ông! Bà kêu lên, người đàn ông hôm qua đã lên đường và mớ chén đĩa bằng bạc cũng thế. ông ta đã trộm của chúng ta !
à ! ông giám mục chỉ buột miệng có thế. Đoạn ngước cái nhìn nghiêm nghị và dịu dàng về phía người quản gia của mình : Và trước tiên, ông tiếp lời, mớ chén đĩa bằng bạc đó có đúng là của chúng ta không nào?
Chúng không phải của người nghèo hay sao? Và người đàn ông đó là gì, nếu không phải là một người nghèo?
Bà Magloire sắp sửa trả lời thì cửa mở : ba viên sen đầm đang tóm cổ Jean Valjean bước vào. Họ đẩy mạnh người tù tới trước.
Đức ông Myriel ghìm lại một cử chỉ ngạc nhiên và bước nhanh về phía Jean Valjean.
- Tại sao ông không mang theo luôn hai cây đèn bằng bạc chứ ? ông nói với một vẻ mặt khó diễn tả.
Như vậy, một viên sen đầm nói giọng kính cẩn, người đàn ông này đã không nói dối, thưa đức ông, khi quả quyết rằng đức ông đã biếu ông ta bộ chén đĩa bằng bạc này phải không ạ?
- ông ấy không nói dối, hãy để ông ấy đi.
ông lấy hai cây đèn bạc mà ông vẫn thích dùng để trang hoàng bàn ông vào những ngày tiếp tân.
- Hai cây đèn của ông đây, ông nói, ông hãy lấy và lên đường bình yên.
Và ông tiếp lời đủ để người cựu tù khổ sai nghe, người này đang run bần bật và đang nhìn ông vẻ lơ láo, sững sờ.
- Xin ông đừng quên, đừng bao giờ quên rằng ông đã hứa với tôi là sẽ dùng món tiền này để trở thành người lương thiện. Jean Valjean, người anh em của tôi, ông không còn thuộc về cái xấu nữa, tôi đã mua linh hồn ông và tôi tặng cho Thượng đế.


NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ


Chương 2

ÔNG MANELELNE

Vài năm sau thành phố nhỏ M... bầu vị thị V trưởng của mình là một trong những nhà chế biến hạt huyền và pha lê giả ngọc giàu nhất địa phương. Và " lão Madeleine " mà có người còn nhớ đã trông thấy khi ông bước vào thành phố vào buổi chiều tháng chạp, túi trên lưng và cây gậy co mất trong tay, đã trở thành ông thị trưởng.
Người ta không biết gì về nguồn gốc của ông; ông là người lạ trong tỉnh. Người ta chỉ kể rằng ngày ông tới M..., bấy giờ một trận hỏa hoạn vừa bùng lên trong tòa nhà thị sảnh, người đàn ông đó đã xông vào lửa và liều cả tính mệnh mình để cứu hai đứa con của viên đại úy sở sen đầm. Nhờ thành tích đó mà người ta đã không nghĩ tới việc hỏi giấy thông hành của ông.
Đó là một người đàn ông năm mươi tuổi, có vẻ ưu tư và tốt bụng. Cách ăn mặc của ông, ngôn ngữ của ông là của một người thợ giản dị, và tài sản của ông chỉ độ vài trăm quan. Nhưng ngay khi ông tới M..., ông đã sử dụng vốn liếng mỏng manh đó để phục vụ một ý tưởng khôn khéo. Trong chế biến, ông đã thay thế gôm cánh kiến bằng nhựa thông và ông đã nghĩ tới việc thay thế những vòng gài dính liền nhau của những cái xuyến hạt huyền bằng những vòng gài nối nhau một cách đơn giản.
Sự thay đổi nhỏ đó đã làm giảm thiểu giá nguyên liệu một cách đáng kể và là một cuộc cách mạng. Mới không đầy năm năm, tác giả của phương thức đó đã trở nên giàu có và đã làm giàu cho địa phương. Thành phố M... biến thành một trung tâm doanh nghiệp quan trọng. Ngoài một triệu ông chi cho thành phố và cho những người
nghèo bằng cách lập một bịnh viện, một ngôi trường, một viện dưỡng nhi, những quỹ cứu trợ, ông còn gửi tại laffite một món tiền là sáu trăm ba mươi nghìn trăng.
Dù có tài sản và địa vị cao sang, ông vẫn giản dị như ngày đầu. ông hoàn tất chức trách thị trưởng của mình, nhưng ngoài công việc, ông vẫn sống cô đơn, nói ít, xa lánh những lễ nghi thường tình. Trong những phòng khách cầu kỳ của thành phố M..., người ta bảo : Đó là một con người quê mùa, không thích giao du". Nhưng
quần chúng lại ngưỡng mộ ông.
Đầu năm 1821 , các tờ báo ngày loan tin về cái chết của ông giám mục địa phận D..., một cái chết lành thánh ở tuổi tám mươi hai. Hôm sau, ông Madeleine xuất hiện
trong y phục màu đen, với một băng tang trên mũ. Điều đó tức thì khiến ông được ngưỡng mộ trong vùng ngoại Ô nhỏ xíu Saint-germany thuộc thành phố D..., và một vị nữ tu cao tuổi trong thế giới bé bỏng đầy trang nghiêm đó một buổi chiều đã đánh liều hỏi ông :
- ông thị trưởng chắc là em họ của đức ông quá cố?
- Không, thưa bà, ông Madeleine ôn tồn đáp, nhưng trong thời trẻ của mình, tôi là đầy tớ trong gia đình của ông ấy.
Bất kể câu trả lời đó, sự chống đối ngấm ngầm trong các phòng khách cũng giảm sút và tàn lụi hẳn; lòng tôn kính đối với ông Madeleine đã trở thành nhất trí. Từ các vùng lân cận cách hàng chục dặm, người ta đến thỉnh ý ông thị trưởng. Mỗi người xem ông là một quan tòa đúng nghĩa. Sự tôn kính lan khắp vùng như một sự lây
nhiễm.
Chỉ có một người tránh được sự lây nhiễm đó. Đó là một viên thanh tra cảnh sát tên Javert, và ông ta chỉ đến thành phố M... khi tài sản của người chủ xí nghiệp đã hình thành và khi "lão Madeleine" đã trở thành ông Madeleine.
Thời trẻ ông đã từng là nhân viên trong các nhà tù miền Nam. Nhờ tính thật thà, lương tâm, chức nghiệp, lòng dũng cảm, ông đã lần lượt leo lên các bậc thang nghề nghiệp. Dáng vẻ ông ta vừa vững vàng vừa khủng khiếp vừa khắc khổ vừa kiêu căng. Bất hạnh cho kẻ nào rơi vào tay ông ta; ông ta sẵn sàng bắt giữ cha mình với
sự thỏa mãn trong lòng do đức hạnh mang lại. Trọn cuộc đời ông ta bám chặt vào hai từ này : canh chừng và theo dõi. Cặp lông mày ông nhô lên trên đôi mắt âm u; những chòm râu rậm rạp phủ đầy đôi má của ông ta, tạo cho ông một bộ mặt chó gộc. Quả thật Javert nghiêm nghị trông giống một con chó gộc, nhưng khi cười, ông ta trở thành một con cọp.
Con người ghê gớm đó giống như một con mắt lúc nào cũng nhìn đăm đăm vào ông Madeleine, một con mắt nghi ngờ và ức đoán, ông Madeleine cuối cùng cũng nhận ra điều đó nhưng ông không tìm cách lẩn tránh cái nhìn đó và ông cư xử với Javert một cách thỏa mái và tốt đẹp
Tuy nhiên một ngày nọ, thái độ lạ lùng của viên cảnh sát chừng như gây ấn tượng mạnh mẽ cho ông Madeleine.
Đó là hôm sau một ngày mưa, mặt đất còn sũng ướt, và trên một con đường hẹp lây lội của thành phố M..., một người nông đần già, lão Fauchelevent, vừa ngã dưới chiếc xe mà con ngựa đã quị xuống. Cái ngã của người đàn ông khốn khổ đến nỗi chiếc xe chở nặng đè lên ngực lão. Người ta đã thử kéo lão ra nhưng vô ích, lão buông những tiếng rên thảm hại. Javert xuất hiện đúng lúc xảy ra tai nạn, và ông ta cho người đi tìm một con đội. ông Madeleine tới. Mọi người kính cẩn dang ra.
- Trong bao lâu mới có con đội, ông thị trưởng hỏi.
- Một khắc đồng hồ.
Không thể đợi một khắc đồng hồ được. Chiếc xe càng lún xuống trong từng phút một. Cần một người thiện chí luồn dưới xe và dùng lưng đỡ nó lên. Tôi xin biếu hai
mươi đồng tiền vàng cho ai có sức khỏe và tấm lòng.
Phải một con người khủng khiếp mới dùng lưng nâng nổi một chiếc xe như thế, Javert nói. Rồi nhìn đăm đăm vào ông Madeleine, ông ta tiếp lời : Tôi biết chỉ có một người làm được điều ông vừa yêu cầu. Đó là một người tù khổ sai của nhà tù Toulon.
- à! ông Madeleine buột miệng, và mặt ông biến sắc
- Cứu tôi với! lão Fauchelevent rên rỉ. Cứu tôi!
ông Madeleine ngẩng đầu nhìn những người nông dân đang bất động, và ông mỉm cười buồn bã. Thế rồi, không nói lời nào, ông sụp quì gối và trước khi đám đông kịp buông ra một tiếng kêu, ông đã ở dưới chiếc xe.
Một phút yên lặng và đợi chờ đáng sợ. Bỗng đâu người ta trông thấy chiếc xe nhúc nhích, từ từ nhấc lên, bánh xe ra khỏi chỗ lún được phân nữa. ông Madeleine kêu lên, giọng tất nghẽn : " Nhanh lên ! Giúp một tay ! " .
Bấy giờ mọi người nhào tới. Chiếc xe được đưa lên bằng hai mươi cánh tay. Lão Fauchelevent đã được thoát nạn.
ông Madeleine đứng dậy. ông đầm đìa mồ hôi và dính đầy bùn. Mọi người đều khóc; ông lão vừa hôn lên hai đầu gối của ông vừa khóc nức nở.
Còn ông, ông có vẻ mặt đau đớn và đầy thánh thiện; và ông nhìn thẳng vào Javert bằng con mắt bình thản.
ông lão Fauchelevent đã đỡ nhiều nhưng một trong hai đầu gối của ông bị chứng cứng liền khớp. ông Madeleine cho con người chất phác đó vào nữ tu viện thuộc khu St-antoine tại Paris với tư cách người làm vườn.
Còn Javert, sau nhiều ngày nghiền ngẫm những suy nghĩ đen tối, ông ta viết một lá thư tới Paris. Với địa chỉ đề ngoài bì thư : " Kính gởi ông Chabouillet, thư ký ông cảnh sát trưởng".
Một tháng đã trôi qua. Một buổi chiều nọ, ông Madeleine đang trong phòng làm việc của mình, lo giải quyết một vài công việc cấp bách của tòa thị chính thì Javert yêu cầu được nói chuyện với ông.
ông cần gì, hở ông thanh tra? ông Madeleine ôn tồn hỏi.
Javert im lặng một hồi, rồi với một vẻ trịnh trọng buồn bã, cuối cùng ông ta nói :
Một hành vi phạm tội của một viên chức đối với một quan chức lãnh đạo địa phương. Tôi đến, bởi đây là bổn phận của tôi, để tường trình sự việc lên ông. Viên chức có tội chính là tôi. Quan chức lãnh đạo địa phương chính là ông, ông thị trưởng ạ. Tôi đến thỉnh cầu ông bãi chức tôi.
ông Madeleine nhổm dậy trên chiếc ghế bành của mình, sửng sốt.
Tôi không hiểu gì cả, ông nói.
- ông sẽ hiểu, ông thị trưởng ạ. ông còn nhớ tai nạn của ông lão Fauchelevent chứ? Tôi đã tố giác với sở Cảnh sát Paris rằng ông là một cựu tù khổ sai.
Mặt ông Madeleine tái đi, nhưng ông vẫn bật cười.
- Tôi nghĩ, Javert nói, mắt nhìn xuống một cách nhẫn nhục, tôi nghĩ tôi đã nhận ra ông là một người tù khổ sai mà tôi đã trông thấy cách đây hai mươi năm khi tôi là thượng sĩ cai tù ở Toulon, một người tên Jean Valjean khi ra khỏi tù đã ăn trộm tại nhà một ông giám mục. Từ tám năm nay ông ta đã biến mất ... Tôi cứ ngỡ Cuối cùng tôi đã tố giác ông.
Và người ta đã trả lời ông thế nào? ông Madeleine hỏi giọng hoàn toàn dửng dưng.
- Rằng tôi điên. Jean Valjean đích thực đã được tìm ra. Đúng thế. Mùa thu năm nay tại Ailly-le-haut-clocher người ta đã bắt được một con người quê mùa tên Champmathieu. ông ta đã trèo tường bẻ một cành táo với nhiều trái táo. Đó chỉ là một vụ thuộc tòa tiểu hình thôi. Nhưng khi chuyển con người buồn cười đó đến nhà
tù Arras. một cựu tù khổ sai tên Brevet được giữ tại đó đã kêu lên khi trông thấy người trộm táo đi qua : " Ê ! Tôi biết người đó, đó là một cựu tù khổ sai, đó là Jean
Valjean ! Tụi này cùng ở chung với nhau tại Toulon mà !
Tên Champmathieu chối. Tất nhiên rồi! Người ta điều tra sâu về ông ta. Người ta biết được rằng khoảng ba mươi năm trước ông ta làm thợ tỉa cành cây tại nhiều địa phương, đặc biệt là tại Faverolles. Tại đây, người ta mất dấu ông ta. Lâu lắm sau đó, người ta gặp lại ông ta tại Auvergne, rồi tại Paris nơi ông ta bảo mình làm thợ đóng
xe bò và có một con gái làm thợ giặt ủi. Thế mà trước khi vào tù vì tội danh đánh cắp, Jean Valjean là thợ tỉa cành cây tại Faverolles. Còn sự kiện khác. Valjean có
tên thánh là Jean và mẹ ông ta có tên họ là Mathieu.
Không gì tự nhiên hơn khi ra khỏi nhà tù, ông ta muốn lẩn trốn bằng cách lấy tên của mẹ. ông ta sẽ lấy tên Jean Mathieu. ông ta đến Auvergne và cách phát âm của địa
phương biến ông thành Chan Mathieu từ đó có tên Champmathieu. Người ta điều tra tại Faverrolles. Gia đình Jean Valjean không còn ở đó nữa. Những giai tầng khốn khổ đó như bùn sình hoặc bụi bặm, chúng biến mất mà không để lại dấu vết. Người ta điều tra tại Toulon.
Cùng với Brevet, chỉ còn có hai người tù khổ sai từng biết Jean Valjean : Cochepaille và Chenildieu. Người ta đưa họ ra khỏi nhà tù, người ta dẫn họ đến, và cả hai không chút ngần ngại đã nhận ra Jean Valjean ngay.
Chính vào lúc đó tôi đã gửi thư tố giác. Người ta gọi tôi tới Arras. Người ta đưa Champmathieu đến gặp tôi ... Tôi cũng đã nhận ra ông ta.
ông có chắc không? ông Madeleine hỏi.
Dạ chắc, Javert nói với nụ cười đau khổ.
- Và người đàn ông đó nói sao?
- ông ta chối bai bải. ông ta dở trò cục súc nhưng chẳng có hiệu quả gì với ai. Vụ việc được xét xử vào ngày mai. Lão già vô lại sẽ bị kết án. Leo tường, bẻ nhánh cây, trộm táo, đối với một đứa trẻ đó là một trò nghịch ngợm, đối với một người tù khổ sai đó là một trọng tội. Không phải mấy ngày tù nữa, mà là chung thân khổ sai. Tối ngày mai sẽ có bản án.
Tốt, ông Madeleine nói. Và ông khoát tay ra lệnh cho Javert lui ra.
Xin lỗi ông thị trưởng, Javert nhỏ nhẹ tiếp lời, nhưng tôi xin nhắc ông nhớ tôi phải bị bãi chức.
- Để xem, ông Madeleine chậm rãi nói. Đó là một sự xúc phạm mà chỉ có tôi là người phán xét. Bây giờ thì ông hãy tiếp tục công việc của ông. Tôi ra lịnh cho ông đấy
Javert dời bước, vẻ cương quyết. ông Madeleine tựa vào bàn viết của mình, đưa tay bóp trán và ngẫm nghĩ rất lâu.
Đêm đã ập xuống. Trong bầu trời lạnh lẽo của mùa thu, những vì sao lấp lánh và trong ý thức con người đang mơ màng, những tia sáng chói lọi cũng rực lên như những vì sao. Hiện tại. Quá khứ. Những chặng đường khác nhau đó của một đời người đang sống lại trong trí nhớ đau thương kia.
Ngục tù, những năm tháng khốn khổ và phẫn nộ giữa những tên cai ngục tàn bạo và những người bạn tù nhục nhã, rồi chuyến đi dài băng qua nước Pháp như một con vật bị xua đuổi, gần như bị truy nã, những lời lẽ của một vị giám mục già làm thay đổi một tâm hồn; cuối cùng là thành phố M..., nơi ông đã tới, sự khôn khéo trong công việc làm ăn ngày phát đạt, cuộc sống yên bình chỉ bị ám ảnh bởi hai ý tưởng : che giấu tên mình và thánh hóa cuộc sống của mình, hai ý tưởng đó đã biến ông thành con người nhân từ và tốt bụng làm sao, đã hướng ông về phía bóng tối và khuyên ông những điều giống nhau.
ông Madeliene, hay đúng hơn người cựu tù khổ sai Joan Valjean, đang bám lấy hai ý tường đó trong sự bối rối khổ sở - khiến tâm hồn ông chao đảo. Nghe Javert nói trước tiên ông chỉ muốn chạy đi tự thú, kéo champmathieu ra khỏi nhà tù, nộp mình thay cho ông ta. nhưng ngay sau đó ông đã kịp ngăn chặn ý đồ cao cả đó ông đã lùi bước trước thái độ anh hùng.
Và giờ đây ông xem xét tình huống và thấy nó xa lạ quá ông đã đứng dậy, đóng và khóa lại cửa như để chế ngự trước nguy hiểm có thể xảy tới, ông đã thổi tắt ngọn đèn, ánh sáng của nó khiến ông khó chịu, dường như người ta có thể trông thấy ông. Người ta là ai đây?
đó là lương tâm của ông.
ông ngẫm nghĩ trong bóng tối. Một loạt những câu hỏi lướt qua trong đầu ông. Và ông ôm trán trong hài bàn tay để ngăn chặn chúng lại.
Tất cả những gì tôi đã làm cho tới ngày hôm nay, ông thì thầm, không là gì khác ngoài một cái lỗ tôi đào để chôn vùi cái tên của tôi trong đó. Và cái tên đó vừa vang dội bên tai tôi! Tôi đang trên bờ một vực thẳm, và ở đó có con người lạ mặt kia mà định mệnh ngỡ là tôi và đẩy xuống vực thay cho tôi. Nếu tôi để yên mọi việc, tôi sẽ không có gì để lo sợ bởi tôi cùng lúc có mặt trong nhà tù trong con người lão Champmathieu đó và có mặt trong xã hội dưới cái tên ông Madeleine.
ông bật ra một tiếng cười khẩy đau đớn nghe như một tiếng nức nở, và ông bất ngờ đốt lại cây nến. Tôi sợ gì chứ? ông tiếp tục thì thầm trong cơn rùng mình; bởi tôi đã thoát nạn và mọi việc đã kết thúc, còn tên Javert kia, con chó săn dễ sợ vẫn ngây người trước tôi, đã hoàn toàn mất dấu. Hắn lo bắt Jean Valjean, và tôi chẳng can hệ gì trong chuyện đó! Chính trời đã làm hết mọi việc. Chính Thượng đế muốn tôi phải tiếp tục những việc tôi đã khởi đầu, tôi phải làm điều thiện, tôi phải là bạn của người
nghèo khổ và kẻ bất hạnh..., một tấm gương đáng khích lệ Vả chăng tôi không có một nhiệm vụ cấp bách là gì ?
Tôi đã không hứa với người phụ nữ bất hạnh đó, người nữ công nhân có thể đang chết dần vì đói nghèo và bịnh tật đó mà tôi đã yêu cầu người ta nhận vào bịnh viện, hứa đi trời. Trong khi nếu tôi nộp mình, nếu vì bổn phận mà tôi trở lại là tên tù khổ sai Jean Valjean, đích thực đó là tôi hoàn tất cuộc hồi sinh của mình, tôi vĩnh viễn đóng chặt cửa địa ngục từ đó tôi đã bước ra. Nếu tôi không làm thế, thì trọn cuộc đời hiện tại của tôi sẽ vô ích, trọn sự sám hối của tôi cũng vất đi. Và ông giám mục sẽ nói gì đây, ông vốn đã trông thấy tâm hồn tôi, bộ mặt thật của tôi trong khi mọi người chỉ trông thấy mặt nạ của tôi?
ông ngồi trở lại, sắp xếp lại mấy quyển sách, ném vào lửa một xấp giấy nợ của những người buôn bán nhỏ túng thiếu. Tiếp theo ông viết cho ông chủ nhà băng của mình một bức thư mà ông niêm lại và cho vào túi. Thỉnh thoảng, ông ngẩng đầu lên, chừng như lắng nghe một giọng nói, một giọng nói nghiêm khắc và đầy thuyết phục mà mỗi con người đều cưu mang nơi bản thân mình, như một quan tòa. Và trán ông đầm đìa mồ hôi.
Rời khỏi gian phòng bình yên này? ông nhủ thầm. Không dạo bước nữa trên ruộng đồng! Không nghe nữa tiếng chim vào tháng năm! Không cho quà các cháu nhỏ
nữa? Tôi sẽ không đọc, không viết nữa trên cái bàn này!
Chúa ơi, thay vào tất cả những điều đó, là nhà tù, xiêng xích, áo vét đỏ, ngục tối, roi vọt của lính coi tù, đào bới ! ôi, khốn khổ làm sao!
ông gục đầu vào ngực. Những tiếng khóc nức nở nghẽn tắt và não lòng làm tan nát lòng ông. ông lại quay quắt trước sự chọn lựa đau lòng : ở lại thiên đường và trở
thành quỷ dữ ở đó, hoặc trở về với địa ngục và trở thành thiên thần
Cứ thế mà tâm hồn khốn khổ đó dãy dua trong lo lắng, muộn phiền.
ông ngủ giấc ngủ nặng trĩu. Khi ông thức giấc, một buổi bình minh, mờ đục và giá lạnh, đã nhen lên yếu ớt.
ông đứng dậy, ông cảm thấy đầu óc trống hoác, không một ý tưởng. Gần như máy móc, ông khoác chiếc rây đanh gột, cầm lên chiếc áo rộng, chiếc nón rộng vành và
bước ra khỏi phòng, rồi bước ra khỏi nhà, lặng lẽ như một cái bóng.
ông đi đâu? Đến Arras. Để làm gì? ông không biết nữa. ông tự nhủ, tôi tự mình phê phán sự vật.
Hai tiếng đồng hồ sau, ông ngồi trên chiếc xe ngựa chở thư chạy nhanh trên đường về hướng Bắc.
ông nghĩ gì về trên trọn quãng đường đó? ông nhìn những hàng cây, những mái tranh, những cánh đồng được trồng trọt lướt qua trong một sự chiêm ngưỡng mơ hồ
bóng đen của những cái cối xay phủ vải đầu càng bổ xung cho tâm hồn nặng trĩu của ông vẻ buồn thảm, tiêu điều Những lần dừng xe, những lần thay ngựa không gây
cho ông chút cảm giác nào. Người đánh xe, sau những lần thử bắt chuyện, đã thấy mệt mỏi với sự im lặng đó và chỉ nhìn người khách quá trầm tư kia bằng một con mắt
nham hiểm.
Tại sao ông Madeleine lại đi Arras? anh ta tự hỏi.
Khi xe thư chạy vào dưới cửa xe ra vào của tòa nhà bưu điện tại Anas thì đã gần tám giờ rưỡi. Trước khi đến tòa án, ông hỏi thăm xem có cách nào trở về thành phố
M... ngay đêm nay không. ông giữ chỗ và trả tiền. Xong đâu đó, ông rời khỏi khách sạn và đi về phía tòa án.
Khi tới đó, ông chạm mặt một nhóm luật sư đang bàn về phán quyết và việc kết án.
- Đến đâu rồi, thưa ông? ông hỏi một người trong bọn họ.
- Xong rồi.
Xong rồi à?
ông nhấn giọng khi lập lại từ đó khiến ông luật sư kinh ngạc.
- Chắc ông là một người thân, ông ta nói. ông mong điều gì chứ, người đàn bà đó đã giết người; việc kết án bà ta là điều chắc chắn...
- Nhưng mà..., ông Madeleine tiếp lời một cách rụt rè. Vụ kia sao?
- Kìa, ông không thấy các cửa sổ sáng đèn kia sao? Vụ đó đang được xét xử.
ông Madeleine buông một tiếng thở dài, chỉ trong mấy khoảng khắc ông cảm nhận gần như tất cả những xúc động có thể có. Vụ việc chưa xong, ông không thể nói mình đang hài lòng hay buồn đau nữa.
ông thấy cửa phòng xử án đang đóng. Nhưng khi biết ông thị trưởng thành phố M... muốn dự phiên toà, ông chánh án tòa đại hình cho mời ông vào ngay một cách trân trọng. Người ta mời ông ngồi trong nhóm luật sư.
ông như không nhận ra những sự chào hỏi người ta dành cho mình, bởi ông đang chìm đầm trong một thứ ảo giác. ông đưa mắt nhìn quanh.
Những ông thẩm phán, một viên lục sự, những viên sen đầm, những bộ mặt hiếu kỳ một cách tàn nhẫn, ông đã từng trông thấy cảnh tượng này xưa kia. ông thấy xuất hiện trở lại những dáng vẻ gớm ghiếc của quá khứ ông. Và do một trò chơi bi đát của định mệnh mà người đàn ông người ta đang xét xử kia, mọi người đều gọi cho ông ta là Jean Valjean.
Lúc ông bước vào, luật sư bị cáo vùa kết thúc phần biện hộ của mình. Sự chú ý của mọi người được kích thích tới cao điểm. Từ ba tiếng đồng hồ rồi, đám đông đã chứng kiến một con người khốn khổ cực kỳ ngây ngô trĩu xuống dưới sức nặng của một vẻ chân thực khủng khiếp, hoặc con người đó cực kỳ khôn khéo chỉ có cách chống đỡ là chối bay tất cả, tội trộm cũng như tư cách tù khổ sai
Luật sư biện hộ đã bênh vực khá tốt, bằng lời lẽ hoa mỹ. Nhưng trước sự đồng thanh của những lời thừa nhận, ông không dám tranh luận về lý lịch của thân chủ và ông giới hạn trong việc yêu cầu bồi thẩm đoàn tòa án không nên tỏ ra thiếu tình cảm thương hại đối với người tù khổ sai tái phạm.
ông chưởng lý đáp lại người biện hộ. ông tỏ ra mãnh liệt và đầy văn vẻ như các ông chưởng lý thường khi vẫn tỏ ra. Và ông đòi một bản án nghiêm khắc, nghĩa là chung thân khổ sai chủ yếu dựa trên tội phạm cũ tại nhà ông giám mục địa phận D... hơn là việc bẻ cành táo đã khiến cho bị cáo bị bắt.
Đã tới lúc khép lại các cuộc tranh luận. ông chánh án đặt câu hỏi theo thông lệ : Anh có điều gì cần nói thêm để biện hộ cho mình không'? "
Champmathieu đưa mắt nhìn quanh vẻ mặt ngây dại. ông ta cuộn tròn một chiếc mũ vải bẩn thỉu trong hai bàn tay.
- Tôi phải nói điều này, ông ta nói giọng khàn đục. Tôi là thợ đóng xe ngựa tại Paris, ngay tại nhà ông Baloup. Nếu người ta không tìm ra ông ấy được nữa, điều đó chẳng phải lỗi tại tôi chút nào. Tôi đã năm mươi ba tuổi rồi Đã vậy tôi còn có đứa con gái làm thợ giặt ủi và chỉ kiếm được ít tiền. Chồng nó đánh đập nó. Nó chết. Các ông gọi tôi là Jean Valjean, Jean Mathieu à? Và còn chuyện gì lôi thôi nữa. Các ông hỏi tôi sinh trưởng tại đâu, tôi chẳng biết gì cả. Khi tôi còn là đứa trẻ người ta gọi tôi là cậu bé" bây giờ người ta gọi tôi là lão già . Đó là những tên thánh của tôi. Hãy cứ cho là vậy đi nếu các ông thích. Tôi đã ở Auvergne, tôi đã ở Faverolles - Pardi. Bộ người ta không thể ở Faverolles mà không đi tù được sao? Tôi đã nói với các ông là tôi không có ăn trộm và tôi là lão già Champmathieu. Tại sao người ta cứ truy đuổi tôi mãi thế?
- Bị cáo, ông chưởng lý nói giọng nghiêm khắc, coi chừng đấy, những lởi cãi chối của anh chỉ là một thủ đoạn tệ hại thôi. Những người bạn tù cũ của anh, Brevet, Chenildieu, Cochepaille, đều đã nhận ra anh, ông vừa dứt lời vừa đưa tay chỉ ba người tù khổ sai mặc áo tơi đỏ đội mũ vải xanh đang ngồi nơi chiếc ghế dài dành cho
nhân chứng giữa hai viên sen đầm. Đừng chối nữa. ông không thuyết phục được ai đâu.
- à! Thế đấy! Champmathieu vừa nói vừa nhìn đám người chứng buộc tội với vẻ mặt ngốc nghếch.
lạ kỳ thật!
ông chánh án hỏi ông ta :
- Bị cáo, anh nghe rồi chứ? Anh còn gì để nói không?
Tôi nói : hay thật! Champmathieu lập lại giọng lầm bầm.
Tiếng xôn xao nổi lên từ phía công chúng và gần như vọng tới bồi thẩm đoàn. Đương nhiên là lão già đã thất bại.
- Thừa phát lại, ông chánh án nói, hãy bảo mọi người im lặng. Tôi sẽ kết thúc mọi cuộc tranh biện.
Bấy giở một giọng nói buồn thảm và ghê rợn vang lên
- Brevet, Chenildieu, Cochepaille ! Hãy nhìn về phía này.
Mọi con mất đều hướng về điểm xuất phát của giọng nói. Một người đàn ông vừa đứng dậy trong nhóm luật sư ông cầm chiếc mũ trong bàn tay, chiếc áo rây đanh gột của ông gài nút tươm tất. ông nhợt nhạt và hơi run. Mái tóc của ông hãy còn muối tiêu lúc ông tới Anas đã trở nên bạc trắng, chỉ trong một tiếng đồng hồ. Hai
mươi người nhận ra ông và đồng thanh kêu lên.
- ông Madeleine !
Còn ông thì tiến bước về phía ba người tù khổ sai.
- Các anh không nhận ra tôi hay sao'? ông nói. Kìa, tôi thì nhận ra các anh cơ mà ! Brevet, anh còn nhớ không .
- ông ngừng nói, lưỡng lự một hồi và hỏi tiếp lời - anh còn nhớ những cái vải đeo quần bằng vải dan kẻ Ô mà, anh có được trong tù không? Còn cậu, Chenildieu, tự đặt biệt danh là "Je-ni-dieu", cậu có vai trái phỏng nặng bởi ngày nọ cậu đã nằm trên một cái lò đầy than hồng để xóa đi ba chữ : I.F.P.
- Đúng thế. Chenildieu nói.
- Còn cậu, Cochepaille, cậu có ở khuỷu tay trái của cậu ngày hoàng đế đến channes : một tháng ba 1815 . Hãy kéo tay áo lên xem?
Cochepaille kéo tay áo lên. Một viên sen đầm mang một mang một cây đèn tới. Đúng là có ghi ngày đó ông Madeleine quay về phía cử tọa và các thẩm phán vời một nụ cười vừa đắc thắng vừa tuyệt vọng.
Mọi người đều thấy tôi chính là Jean Valjean, ông nói. ông chánh án và ông chưởng lý, tôi biết các ông nghĩ gì. Mới đây các ông đã nghĩ rằng tôi điên. Không, tôi là một con người cực kỳ bất hạnh. Tôi đã làm hết sức mình, tôi đã lẩn tránh trong một cái tên. Tôi đã trở nên giàu có Tôi đã trở thành thị trưởng. Tôi muốn trở về với những con người lương thiện. Dường như điều đó không được. Tôi đã trộm nhà đức giám mục, đúng thế. Lòng tốt của ông ấy đã cứu tôi cũng như sự nghiêm khắc đã làm hỏng tôi. Nhưng các ông không thể nào hiểu được tôi luôn nói gì đâu. Javert, ông ấy đã nhận ra tôi. Tôi không muốn quấy rầy cử tọa thêm nữa. Tôi đi đây bởi người ta
không bắt tôi. Tôi có nhiều việc phải làm. Các ông biết tôi là ai, tôi đi đâu. ông chưởng lý, tôi vẫn thuộc quyền quyết định của ông.
ông đi về phía cửa. Không một giọng nói cất lên, không một cánh tay đưa ra để cản ông. Mọi người đều ngẩn ra. Trong cái nhìn của ông có vẻ gì siêu phàm khiến muôn người phải lùi lại và đứng về một bên trước một con người. Đến cửa ông quay lại.
Tất cả các người ở đây, các người thấy tôi đáng thương xót chứ? Chúa ơi, khi nghĩ tới điều tôi sắp sửa làm, tôi thấy mình đáng đố kỵ. Tuy nhiên, tốt hơn có lẽ tôi nên mong rằng tất cả chuyện này đừng xảy ra.
ông bước ra ngoài. Không đầy một tiếng đồng hồ sau, phán quyết của tòa án minh giải cho bị cáo Champmathieu khỏi mọi lời buộc tội, và ông này được trả tự do tức khắc. ông ta bước đi trong sững sờ, ông ta nghĩ mọi người đều điên cả rồi và ông chẳng hiểu ra làm sao cả.



NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ


Chương 3

QUÁN THENARDIER

trong khu rừng lớn giữa Chelles và Montfermeil Trời tối mịt và lạnh. Ngày hôm âý, hai bốn tháng mười hai 1823, trời nắng chói chang nhưng buổi chiều khi ngọn gió bấc thổi về người ta có cảm giác như đang giữa mùa đông nghiệt ngã. Một người đàn ông đang sải bước trong đám cây cuối cùng của khu rừng. ông dừng bước trong đám cây cuối cùng của khu rừng. ông dừng lại trong phút chốc bên con suối và uống nước trong lõm bàn tay mình rồi tiếp bước về phía ngôi làng.
Qua lớp trang phục cũng như qua toàn bộ con người, người đàn ông đó có vẻ là một thứ ăn mày lịch sự .
Ông đội một chiếc mũ tròn, cũ kỹ và được chải gội cẩn thận. ông mặc một chiếc áo rây đanh gốt bằng nỉ màu vàng đã sờn sợi ra.
Nhìn vào mái tóc bạc phơ, vầng trán nhăn nheo, làn môi nhợt nhạt của ông, người ta ước lượng ông phải ngoài sáu mươi. Nhưng dáng đi vững chãi của ông, vẻ chắc khỏe trong mọi sự vận động của ông cho thay ông chỉ trạc năm mươi. ông cầm một cây gậy nơi bàn tay và dưới cánh tay ông cắp một cái gói nhỏ buộc trong một
chiếc khăn tay. Trong đáy mắt của ông có một vẻ tĩnh lặng bi thảm.
Hai tháng trước, ông đã trốn khỏi nhà tù nơi người ta đưa ông tới theo nguyện vọng của ông tại tòa đại hình và kết án ông khổ sai chung thân. Trước khi bị giam cầm
vĩnh viễn ông đã hoài công cầu xin được phép đến tận Montermeil để tìm một đứa bé mà ông muốn trả về cho người mẹ đang hấp hối. Thần công lý không bận tâm với
một sự ngẫu nhiên cỏn con đến thế Một người đàn bà đang chết bởi đứa con đang ở nơi cách xa chị ta, điều đó không thể làm cho luật pháp phải dừng bước được. Và
Javert, người mà ông cựu thị trưởng ngỏ lời cầu xin ân huệ đó, đã chỉ nhún vai với một vẻ miệt thị độc ác.
Trong gian phòng của bịnh viện nơi Fantine, người nữ công nhân đáng thương mà lòng tốt của ông Madeleine đã đưa ra khỏi cảnh khốn cùng và đói khát, nhưng chị vẫn không thoát khỏi bệnh tật và cái chết, chị đang hấp hối, viên thanh tra cảnh sát đã tóm cổ con người đang cúi sát bên chị rất lâu. Và Jean Valjean trong cơn tuyệt vọng đành đưa hai cổ tay chịu còng.
Tại nhà tù ông trở thành số 9430. Nhưng khi ông đi rồi, sự thịnh vượng của tỉnh M... biến mất. Các xưởng đều đóng cửa, thợ thuyền phân tán khắp nơi. Lương bổng hạ,
thất nghiệp tràn lan, vỡ nợ đều khắp, tất cả đều tàn lụi.
Bản thân nhà nước, trong việc thu thuế, nhận ra có kẻ nào đã bị đè bẹp ở đâu đó.
Mặc dù vậy, Jean Valjean không thể chịu đựng số mệnh của mình quá lâu. ông đã tự nộp mình để hoàn thành một hành động công lý. Nhưng một nhiệm vụ khác đang chờ ông. ông đã thì thầm thề với Fantine đang ngắc ngoải rằng con gái của chị, cô bé Cosette mà chị vẫn mong đợi xiết bao trong cơn bạo bịnh của mình, sẽ được hạnh phúc, tránh khỏi sự khốn cùng và sự ruồng rẫy đã làm cho cuộc sống người nữ công nhân đáng thương phải kiệt quệ nhanh chóng. Và nhờ có lời hứa đó mà Fantine đã mỉm cười mà chết. Jean Valjean đã vượt ngục để làm tròn lời thề đó.
ông đã lợi dụng cơ hội đầu tiên trong lúc làm lao dịch nơi mạn một chiếc tàu đang sửa chữa trong cảng Toulon. ông đã liều mạng cứu một thủy thủ đã trượt chân từ lá buồm của một cột buồm lớn và rơi xuống. Trong lúc rơi, người thủy thủ đó đã bám vào một sợi dây nhưng không thể nào rút lên được. Jean Valjean xin viên sĩ quan trực cho phép đi cứu anh thủy thủ coi buồm đang kiệt lực. Bằng một nhát búa, ông đã chặt đứt phăng sợi xích liền với vòng sắt đeo ở cổ chân ông, rồi bằng sự nhanh nhẹn của một con mèo rừng, ông lao vào đám buồm chảo của con tàu. Bám chặt vào một sợi dây, ông
buông mình xuống tận con người đang kiệt quệ và đưa anh ta trở lên bằng cách cắp anh ta trong đôi cánh tay của mình. Sau đó trong lúc đám đông những người đang
chứng kiến vừa nhiệt liệt tán thưởng vừa kêu lên : " nhờ ơn đức của ông này!", ông lo trở xuống để tiếp tục việc lao dịch của mình. Nhưng trong lúc ông chạy trên một
trục buồm thấp, người ta trông thấy ông ngập ngừng, lảo đảo rồi rơi tõm xuống biển. Người ta hoài công tìm xác ông đến chiều, và hôm sau tờ báo ngày ở Toulon đăng
mấy dòng này :
" Hôm qua một tù nhân khổ sai trong buổi lao dịch nơi mạn tàu Orion khi cứu một thủy thủ trở về đã rơi xuống biển và chết đuối. Người ta đã không tìm ra xác ông ta. Người ta đoán chừng ông ta rơi vào những cây cọc thuộc mũi đất xưởng đóng tàu. Người đàn ông đó mang số tù 9430 tên là Jean Valjean"
Thật ra Jean Valjean không rơi xuống biển mà ông đã nhảy xuống đó. Bơi giữa hai làn nước, ông đã lướt đi dưới ruột con tàu đang thả neo đậu và đã trốn trong một chiếc xuồng con. Tối đến ông lại bắt đầu bơi và đến bãi biển cách mũi Trun không xa, ông vào một quán rượu là nơi cất gửi, thay quần áo của bọn tù khổ sai vượt ngục.
Sau đó, lần theo một lộ trình tăm tối và khúc khuỷu ông đến Paris.
ông không thiếu tiền. Lá thư ông viết cho Laffitte chủ nhà băng trước vụ án ở Arras cho phép ông lấy lại tiền của mình. ông chôn dấu phần lớn số tiền đó ở một nơi chỉ có ông biết và khâu dính những tờ giấy bạc còn lại trong lớp lót của chiếc áo rây đanh gết của mình.
Người ta tưởng ông đã chết, ông thấy yên tâm về mình, ông chỉ còn có mỗi một mục đích: gặp lại cô bé Cosette.
ông bước xuống xe ngựa từ Chelles và đi xuyên rừng để tới nhanh hơn. Bất chợt, một tiếng rên rỉ khiến ông dừng bước.
- ôi lạy Chúa, lạy Chúa ! Một giọng trẻ con kêu lên trong hãi hùng và tuyệt vọng.
ông cúi xuống trên một bụi rậm và vầng trăng hiện ra giữa hai đám mây cho ông thấy hình dạng mảnh khảnh mà một thùng nước đầy làm cho trĩu xuống như một cụ già. ông nắm lấy cái quai của thùng nước và nâng cô lên :
- Quá nặng đối với cháu, ông nói, cái thùng nước mà cháu phải mang đấy. Hãy đưa cho ông thùng nước.
CÔ bé ngẩng đầu lên, một giọt lệ lấp lánh trong đôi mắt xanh biếc rất to của cô. CÔ nhìn người đàn ông lạ mặt với một vẻ tin cậy bất ngờ.
- Cháu bao nhiêu tuổi?
- Tám tuổi, thưa ông.
- Cháu ở có xa không?
Dạ cách đây một khắc đồng hồ ạ.
- Vậy cháu không có mẹ à?
Cháu không tin là có, cô bé trả lời với một tiếng thở dài. Những người khác đều có mẹ. Còn cháu thì không bao giờ có.
Cháu tên gì?
Cosette.
Jean Valjean giật nẩy người như chạm phải điện.
ông cúi xuống cô bé và nhìn cô bằng tất cả tâm hồn mình. Một khuôn mặt gầy guộc và xanh xao hiện ra một cách mơ hồ trong ánh sáng mờ nhạt của bầu trời.
Thế ra ai, ông tiếp lời, ai đã sai cháu đi tìm nước ở trong rừng vào giờ này?
Bà Thénardier, cô bé nói và khi đọc lên cái tên đó cô thấp giọng trong một cơn run rẩy. Đó là bà chủ của cháu, bà chủ nhà trọ. Trong nhà không còn nước.
Đêm nay ông nhất định đến trọ tại quán đó. Cháu hãy dẫn ông đi. Nhưng mà cháu hãy nói cho ông biết, tại nhà bà Thénardier không có người giúp việc nào khác ngoài cháu sao?
- Đúng vậy, thưa ông... Nghĩa là có hai cô gái, Eponine và Azelma. Đó là con của bà Thénardier. Họ có những con búp bê xinh đẹp cùng nhiều đồ đạc, áo quần, họ chỉ chơi, họ chỉ đùa.
- Cả ngày?
Dạ. -
Còn cháu?
- Cháu thì cháu làm công việc.
- cả ngày?
CÔ bé ngước đôi mắt to nhìn lên và đáp giọng nhỏ nhẹ và buồn bã.
- Dạ.
Họ đến làng. Cosette hướng dẫn người đàn ông lạ mặt trên các con đường. Làng đang kỳ hội chợ, các cửa hiệu thắp nến sáng choang, bày ra những món đồ chơi trẻ
con để thu hút khách. Trong một cửa hiệu, một con búp bê to tướng cao gần hai piê (khoảng 60 cm) mặc áo dài bằng nhiễu màu hồng với những bông vàng trên đầu, nó sáng rực trên một nền vải trắng toát. Nó có bộ tóc thật và đôi mắt bằng sứ. Cosette ném về phía nó một cái nhìn vụng trộm đầy ngưỡng mộ.
Một chập sau, Jean Valjean và cô bé dẫn đường đã đến trước cửa quán "Thầy đội trận Waterlo". Đó là một ngôi nhà một tầng với vẻ ngoài buồn thiu. Một tấm bảng
hiệu to tướng thể hiện một bãi chiến trường nơi đó người ta có thể mơ hồ nhận ra một người đang vác một đồng đội ở phía trên cửa.
Cosette e dè mở cửa. Trong gian phòng mù mịt khói ống tẩu, mấy người đánh xe chở hàng đang ngồi với ông chủ quán, Thénardier, người đàn ông nhỏ thó tuổi năm mươi, gầy gò xanh xao, góc cạnh, xương xẩu, với cái nhìn tinh quái, nụ cười luôn điểm trên môi. Tóm lại, một con người mạt hạng hoàn toàn, trước khi mở cái quán tồi tàn tại Monfermeil, đã đi dò đường sau các đạo quân của Napoléon, buôn bán đầu này, cướp giật đầu kia. Giai đoạn này của cuộc đời ông ta cho phép ông ta được nhiều lần đóng vai trò một người anh hùng và một người cứu nạn.
Gần lò sưởi, Bà Thénárdier đang canh chừng một cái nồi, bà là người mà cô bé luôn hãi hùng khi phải nói chuyện. Đó là một người đàn bà tuổi trạc bốn mươi, đồ sộ khủng khiếp, có râu ria. Bà làm mọi việc trong nhà, dọn giường, làm phòng, giặt giũ, nấu nướng và lúc nào cũng quát tháo ầm ĩ. Bên bà, Cosette giống như một con chuột lắt hầu hạ một con voi. Bà hết mực kính trọng ông chồng luôn áp đặt lên bà tất cả âm mưu độc dịa của ông ta, và bà yêu con. Tất cả sự chân thành của bà dừng lại ở đó Người đàn ông và người đàn đó chính là sự xảo quyệt và sự hung ác kết hợp với nhau, sự móc nối ghê tởm và khủng khiếp trong đó Cosette cảm thấy mình bị nghiền
nát, xé tươm.
Năm năm trước, khi Fantine đáng thương giao con mình cho vợ chồng ông chủ quán này, chị không nghĩ mình đã giao đứa con gái yêu cho bọn người vô nhân đạo Thế mà chưa tới sáu tuổi Cosette đã bị ông Thénardier và vợ buộc phải thay một người giúp việc.
Tất cả chỉ có lợi cho họ : họ moi tiền người mẹ vừa làm cho chị tin rằng con mình được chăm sóc chu đáo, và họ không phải trả công cho cô bé giúp việc. Một bà chủ dã man, một ông chủ độc địa . Và giữa hai con người này, cô bé Cosetle phải làm việc đến hụt hơi, phải run sợ, phải câm nín.
Kìa ! Con ranh bẩn thỉu, bà Thénardier hét lên khi thấy Cosette bước vào, sao lâu thế? Mày có muốn tao đấm vỡ mặt mày không?
Thưa bà! Cosette ấp úng, có một ông đến ở trọ đây ạ
Tức thì vẻ mặt cáu gắt, bậm trợn của bà Thénardier đổi sang dịu dàng, tử tế ngay. Tuy nhiên khi bà xem xét trang phục của người khách thì vẻ mặt dịu dàng, tử tế của
bà tan biến ngay.
ông vào đi, bà nói, nhưng tôi báo trước với ông là tôi không còn chỗ đâu nhé.
- Không sao bà muốn cho tôi ở đâu cũng được, ở gác trên cùng, ở chuồng ngựa, tôi sẽ trả tiền như một phòng vậy.
- Bốn mươi xu và trả trước, bà Thénardier nói giọng điếc tai.
Jean Valjean móc một đồng năm frăng từ trong túi và ném nó lên bàn.
Của bà đó.
Một đồng năm trăng Bà Thénardier nghĩ thầm với một sự kính trọng bất ngờ.
và bà rời khỏi lò sưởi để nhường chỗ cho người khách sưởi ấm.
ông có dùng bữa ăn khuya không ạ? Bà hỏi.
Bánh mì và phô mát. Jean Valjean đáp, tâm trí ở đâu đâu
ông nhìn Cosette gầy gò xanh xao trong bộ quần áo rách bươm không che kín thân thể cô run lập cập.
Giữa những lỗ thủng của bộ quần áo, người ta nhận rõ dấu vết của những quả đấm hoặc ngọn roi da mà bà Thénardier đã giáng tới tấp lên cô chỉ cần một cơ hội cỏn con. Tất cả con người của cô bé này chỉ thể hiện một ý tưởng sự sợ sệt. Đôi mắt sâu hoắm của cô gần như đã lụi tắt vì mãi khóc, hai khóe miệng của cô thì đầy lo âu.
Ngồi co ro nơi chiếc bàn to, bằng cái nhìn buồn bã và thèm thuồng cô nhìn đăm đăm vào hai đứa bé con nhà Thénardier, Eponine và Azelma, vừa bước vào phòng và đang ngồi gần lò sưởi với con búp bê của chúng. Chúng ăn mặc một cách ấm áp và đỏm đáng, những bím tóc dài của chúng được trang hoàng bằng những dây băng, cả
hai dều lanh lợi, sạch sẽ, mập mạp, tươi tắn và khỏe mạnh trông khá đẹp mắt.
Eponine và Azelma không ngó ngàng gì tới Cosette. Đối với chúng, cô chẳng khác gì một con chó.
Ba cô bé này cộng lại chưa tới hai mươi bốn tuổi nhưng họ đại diện cho cả xã hội loài người : một bên là sự thèm muốn, một bên là lòng khinh miệt.
Bà Thénardier đang đi đi lại lại trong phòng chợt nhận ra Cosette thay vì làm công việc đã chỉ nhìn hai con bà đang nô đùa.
- à ? Tao bắt quả tang mày đấy nhé ! bà hét lên.
Mày làm công việc như thế đó hả? Tao sẽ bắt mày làm việc bằng roi da đây.
Này bà, Jean Valjean ôn tồn nói, bà cứ để cháu nó chơi.
- Nó phải làm mới có ăn, bà Thénardier vừa tiếp lời vừa thẳng chân đạp vào Cosette. Từ sáu tháng nay mẹ nó không trả tiền cho chúng tôi nữa, nhưng nó vẫn cứ phải ăn cơ mà. Người mẹ này chẳng đáng gì cả, chị ta bỏ rơi con mình. Có lẽ chị ta đã chết rồi cũng nên.
Jean Valjean chăm chú nhìn vào lò lửa. ông còn đang mơ mộng thì giọng nói chát chúa khiếp đảm của bà Thénardier kéo ông ra khỏi sự trầm tư của mình.
Hai đứa con gái nhà Thénardier đã bỏ búp bê để chơi với con mèo. Cosette không thể nào cưỡng lại được ước muốn chạm tay vào con búp bê kia, và cô chộp lấy nó. CÔ đang ru nó một cách ngây ngất thì bà Thénardier đã dừng bước trước mặt cô trong cơn giận sôi bọt mép khiến bà khàn cả giọng.
Cosette? Bà hét.
Cosette run bần bật, cô đặt con búp bê xuống đất với một vẻ sùng mộ pha lẫn tuyệt vọng. Rồi cô chập hai bàn tay lại và bật khóc nức nở.
Jean Valjean đứng bật dậy :
Chuyện gì thế? ông hỏi bà Thénardier.
ông không thấy à? bà này lớn tiếng, con quỷ này con mạt kiếp này tự tiện chạm tới con búp bê của con tôi với hai bàn tay bẩn thỉu khủng khiếp của nó.
Cosette càng khóc nà. Người đàn ông bước thẳng tới cánh cửa mở ra đường, mở cửa và ra ngoài. Một phút chưa kịp trôi qua ông đã trở lại. ông cầm trong hai bàn tay một con búp bê xinh đẹp mặc áo hồng mà một tiếng đồng hồ trước đây ông đã thoáng thấy trong cưa hàng hội chợ. ông đặt nó đứng trước Cosette và nói.
Của cháu đấy.
Cosette trông thấy người đàn ông đó đến với con búp bê kia như trông thấy vầng thái dương. CÔ không khóc nữa, dường như cô cũng không dám thở nữa.
Bà Thénardier, Eponine và Azelma bấy giờ ngẩn người ra như những pho tượng. Cả những khách đang giải khát cũng im tiếng, một niềm im lặng trọng thể bao trùm khắp quán.
ông Thénardier lần lượt chiêm ngưỡng con búp bê và người khách. ông đánh hơi người đàn ông đó như đánh hơi một túi tiền. ông đến bên vợ và nói với bà thấp giọng.
- Món đồ này trị giá ít lắm cũng ba mươi trăng. Chớ ăn nói dại dột. Phải nằm sát đất trước người này.
Và ông tiếp lời, lên tiếng vỗ về :
Cháu Cosette, ông đây cho cháu một con búp bê. Cháu hãy nhận. Nó thuộc về cháu đấy
Cosette đánh liều đến gần. Mặt cô hãy còn ràn rụa nước mắt, nhưng mắt cô đã rạng rỡ niềm vui. CÔ quay sang bà Thénardier và bằng một giọng vừa tuyệt vọng, vừa lo sợ vừa vui mừng.
- Thưa bà cháu được nhận không ạ?
- Được chứ! bà Thénardier vừa nói vừa siết chặt hai nắm tay trong cơn uất giận. Nó là của cháu mà. Hai đứa kia hãy đi ngủ đi, bà nói với hai đứa con gái của bà bấy
giờ đến lượt chúng đang nhìn Cosette một cách thèm thuồng.
- Đã tới lúc đi ngủ rồi. Thưa ông, bà tiếp lời, cố tạo giọng dịu dàng, xin phép ông, tôi sẽ cho Cosette lên giường. Hôm nay cháu đã mệt lắm rồi.
Jean Valjean chỉ gục gật đầu đáp lại.
Cosette ôm con búp bê đi vào cái hốc vốn là giường ngủ của cô dưới chân cầu thang, và cô mất nhiều thời gian mới dỗ được giấc ngủ bởi hạnh phúc của cô
mãnh liệt quá.
Giờ khắc trôi qua. Jean Valjean vẫn trầm ngâm, mắt đăm đăm nhìn vào ngọn lửa. Khách đã ra về, quán đã đóng cửa.
Tôi đi ngủ đây, bà Thénardier nói nhỏ với chồng. Tôi nhẹ người khi không còn thấy con vật già đó đã mua cho một con chó thứ búp bê bốn mươi trăng thay vì bốn
mươi xu theo ý tôi. Tôi hết chịu nổi rồi.
Còn lại một mình Thénardier với Jean Valjean. Khi thấy đã buồn ngủ ông lột mũ và kính cẩn đến bên Jean Valjean.
- Thưa ông, ông không nghỉ sao? ông hỏi.
- à ! Jean Valjean nói. Chuồng ngựa của ông đâu?
- Tôi sẽ dẫn ông, thưa ông, Thénardier vừa đáp vội vừa cầm một cây nến.
Và ông đưa người khách trọ của mình lên tầng nhất vào một gian phòng bày biện đồ đạc bằng gỗ đào hoa tâm. Lửa tí tách cháy trong lò sưởi. Thénardier đốt lên hai cây nến mới :
Đây là phòng cưới của chúng tôi đấy, ông nói. Trong năm, chúng tôi chỉ vào đây ba hay bốn lần. Chúng tôi dành nó cho khách quí.
Thénardier biến mất mà không dám nói lời chào với người mà ông định bụng sẽ lột da tới nơi tới chốn ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, vào lúc rạng đông, khi bước vào phòng lớn của quán, bà Thénardier thấy chồng đang tính tiền cho người khách mặc áo rây đanh gột vàng.
- Bà hãy nhìn đây, ông nói :
Hóa đơn của ông khách số 1 :
ăn khuya .......................................... 3 trăng
Phòng ............................................. 10 trăng
nến .................................................. 5 trăng
Lò sưởi ..:..........................................4 trăng
Phục vụ ............................................ 1 trăng
ổng cộng ...................................... 23 trăng
ông ấy sẽ không bằng lòng trả đâu, bà Thénardier nói. ông ấy sẽ thấy tính thế này là quá đáng.
- Bà cứ đưa giấy cho ông ấy, ông Thénardier nói. Rồi sẽ thấy mà. Tôi thì đang nợ 15 quan. Chủ nợ đang đòi đấy
ông ta bước ra ngoài. Đúng lúc đó Jean Valjean bước vào. Bà Thénardier đưa cho ông giấy tính tiền vẻ lúng túng.
ông đã đi rồi sao? bà hỏi giọng ngọt ngào một cách giả dối.
Đúng vậy, Jean Valjean vừa đưa mắt hờ hững ngó vào tờ giấy tính tiền mà không cần thấy, và ông tiếp lời :
Bà hãy cho tôi biết, ở đất Monfermeil bà làm ăn có khá không?
-Thời thế nghiệt ngã lầm! Người đàn bà hung ác nói giọng thảm thương. Và chúng tôi phải chịu bao gánh nặng nữa chứ! Này nhé, con bé Cosette đó mà ở đây người vẫn gọi là con Sơn Ca mặc dù nó có vẻ một con dơi đúng hơn là một con chim Sơn Ca. Chúng tôi phải tốn kém cho nó biết bao. Tôi có con tôi chứ, tôi không cần phải nuôi con kẻ khác.
Jean Valjean tiếp lời giọng run run dù ông cố tỏ ra dửng dưng:
- Và nếu bây giờ người ta tách nó ra khỏi ông bà thì sao?
Khuôn mặt đỏ rền và dữ dằn của bà chủ quán sáng lên:
- à! Thưa ông, xin ông cứ nhận nó, giữ nó, mang nó đi cho rảnh! Tôi không muốn thấy mặt con bé bẩn thỉu đó nữa ! Và tôi mong ông được hưởng phước lớn của
thánh thần.
Xong rồi. Tôi xin dẫn nó đi. Jean Valjean nói. Và ngay bây giờ. Bà hãy gọi con bé ra đây.
Cosette! bà Thénarđier gọi to.
- Tôi nợ bà bao nhiêu Jean Valjean tiếp lời vừa liếc vào tờ giấy tính tiên. 23 trăng! ông kêu lên.
- Đúng đấy, thưa ông. Hai mươi ba trăng, bà Thénardier khẳng định, bà đã có đủ thời giờ để chuẩn bị cú sốc này.
Jean Valjean đặt lên bàn năm đông năm trăng.
- Bà hãy đi tìm đứa bé, ông nói.
Đúng vào đó, ông Thénardier bước đến giữa gian phòng và nói giọng lạnh lùng :
ông con thiếu hai mươi sáu xu.
Hai mươi xu tiền phòng và sáu xu tiền bữa ăn khuya. Còn đứa bé, tôi cần nói chuyện với ông một chút
và quay ra nói với vợ - Bà hãy để mặc chúng tôi.
Khi còn lại hai người, ông Thénardier léo ghế mời Jean Valjean và vẫn đứng trước ông. Khuôn mặt ông ta lộ một vẻ chất phác và giản dị đặc biệt.
Thưa ông, tôi xin cho ông biết là đứa bé đó, tôi quí nó lắm.
Jean Valjean nhìn ông ta đăm đăm.
Đúng thế! ông tiếp lời giọng đầy tình cảm. Chúng tôi quyến luyến nhau, ông hãy lấy lại những đồng trăm xu Tôi không thể chấp nhận việc ông dẫn con bé Cosette của chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ thấy thiếu nó, con bé đó. Đúng là nó gây tốn kém cho chúng tôi. Cộng thêm bốn trăm quan tiền thuốc men chỉ vì một trong những căn
bịnh của nó. Nhưng nó không có cả cha lẫn mẹ. Tôi đã nuôi nấng nó. Tôi có đủ bánh mì cho nó và cho tôi. ông muốn gì chứ? Điều này không cần suy luận dài dòng : tôi
thương con bé đó. Vợ tôi thì nóng nảy nhưng bà ấy cũng thương nó. Từ lâu rồi chúng tôi coi nó như con của chúng tôi Tôi cần nghe nó nói chuyện líu lo trong nhà. Và rồi người ta không thể trao con mình cho một người qua đường như thế được. ông biết không, tôi muốn biết nó đi đâu để thỉnh thoảng đi thăm nó, để cho nó biết người cha đã tận tụy nuôi nó vẫn còn đó, vẫn dõi mất trông chừng nó. Tôi không biết cả tên ông, ông phải cho tôi thấy một mẩu giấy thông hành cửa ông chứ?
Jean Valjean nhìn đăm đăm vào ông ta. ông nói giọng trầm trọng cương quyết :
- ông Thénardier, người ta không cần một giấy thông hành để đi khỏi Paris năm dặm. Nếu tôi phải dẫn Cosette đi, tôi sẽ dẫn nó đi, thế thôi. ông sẽ không biết tên tôi lẫn chốn ở của tôi. ông sẽ không biết Cosette tới đâu và ý định của tôi là nó không gặp lại ông trong đời.
Tôi bứt phăng sợi dây nơi chân nó và nó lên đường ông có đồng ý không? Có hay không?
Thénardier thuộc số người thoáng nhìn qua đã phán đoán ngay được tình hình. ông nhận ra mối quan hệ sâu xa của Jean Valjean và đứa bé. ông bất thần bộc lộ mưu
chước của mình.
Thưa ông, ông ta nói, phải có một nghìn năm trăm quan cho tôi mới được.
Jean Valjean móc một chiếc ví cũ kỹ bằng da đen từ trong túi, rút ra ba tờ giấy bạc mà ông đặt trên bàn và giữ lại chúng dưới ngón tay trỏ to tướng của mình.
- Hãy gọi Cosette tới! ông nói với ông chủ quán đang sáng mắt ra.
Chập sau Cosette bước vào :
Này cháu, Jean Valjean vừa mở cái gói mà ông đã mang tới hôm trước dưới cánh tay của mình, và lấy trong đó ra một chiếc áo dài len màu đen và một bộ quần áo dành cho một cô bé bảy tuổi. Cháu hãy đi mặc ngay và trở lại đây.
Chằng mấy chốc Cosette đã trở lại, tay ôm chặt con búp bê.
- Chúng ta đi? Jean Valjean nói, và ông nắm bàn tay cô.
- Nhưng mà ..., Thénardier mở lời, ngây ngất với chiến thắng dễ dàng của mình và tự thấy mình quá đỗi khiêm tốn trong hoàn cảnh của mình. Thưa ông, người mà tôi không biết tên, ông còn thiếu tôi nhiều điều nhỏ nhặt. Và...
Jean Valjean bình thản nói :
- Đi, Cosette.
ông cầm chắc trong tay cây gậy gai mở cửa quán và bước ra đường.
Thénardier chú ý tới vẻ dình dàng của cây gậy và vóc người cao to của người đàn ông, rồi nhìn lại chính mình, với đôi cánh tay khẳng khiu và đôi bàn tay ốm yếu Và ông ta vừa trở vào nhà vừa mím môi tủi hổ.
Ngày ló dạng, người dân ở Montfermeil bắt đầu mở cửa, họ trông thấy một người đàn ông ăn mặc nghèo khổ nắm tay một cô bé để tang và ôm một con búp bê màu hồng đang đi qua trên đường phố Paris.
Cosette đi về đâu? Với ai? CÔ không biết nhưng thỉnh thoảng cô nhìn lên khuôn mặt trầm ngâm của người đàn ông và cô cảm thấy một niềm tin thần thánh trong lòng mình .
__________________

thay đổi nội dung bởi: Helen, 09-14-2012 lúc 05:05 PM.
Trả Lời Với Trích Dẫn
 


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 07:41 AM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.