Go Back   Vina Forums > Thư Viện Online > Kho Tàng Truyện > Truyện Kiếm Hiệp
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

 
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Prev Previous Post   Next Post Next
  #34  
Old 09-13-2012, 01:19 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Đại Đường Song Long Truyện - Hồi 698 - 700

ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN


Hồi 698

Tư Tưởng Phân Kỳ


Hoa tuyết không ngừng rơi, bay bay trong gió phủ lên mình hai nhân vật xuất sắc một già một trẻ, đại biểu cho Trung thổ.
Tống Khuyết phát giác tình huống kỳ dị của Khấu Trọng, ngạc nhiên nhìn gã: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”
Khấu Trọng buồn bã: “Tiểu tử từ sự khác biệt giữa Phiệt chủ và Thanh Huệ trai chủ mà nghĩ tới sự bất đồng với Ngọc Trí, nhờ vậy mới ý thức sâu sắc hoàn cảnh đương thời của Phiệt chủ.”
Tống Khuyết khẽ gật đầu: “Sự khác biệt giữa ta và Thanh Huệ quả đã làm cho bọn ta khó phát triển thêm một bước, nguyên nhân khác đều là thứ yếu. Thanh Huệ nghĩ Hán tộc không những chiếm ưu thế về nhân số, hơn nữa về mặt kinh tế và văn hóa cũng có tính ưu việt rõ rệt, chỉ cần có đủ thời gian là có thể đồng hóa ngoại tộc nào xâm nhập, một khi đã hết sạch sự khác biệt dân tộc, hỗn chiến giữa các dân tộc tự nhiên kết thúc, từ phân chia đi tới thống nhất, coi đây là tính tất nhiên của lịch sử. Ở một mức độ nào đó, ta đồng ý với lối nhìn về phương diện này của nàng. Nhưng nàng nghĩ sự dung hợp các dân tộc Bắc phương sau khi Hồ hóa mới là sự phát triển trong tương lai của Hán tộc ta, về chuyện này Tống mỗ thật không dám đồng ý.”
Khấu Trọng là lần đầu nghe, bất cứ một ai từ góc độ này phơi bày biến hóa thế cục Trung thổ, hơi có cảm giác mới lạ. Hồ hóa Hán tộc phương Bắc hay Hán hóa Hồ tộc là sự thật đã thành, giống như bọn Vũ Văn Hóa Cập, Vương Thế Sung, chính là Hồ nhân sau khi Hán hóa hay Hán nhân bị Hồ hóa không hơn không kém, họ Lý cũng có huyết thống người Hồ.
Nhưng muốn một người kiên trì ủng hộ Hán thống như Tống Khuyết đi tiếp nhận Hồ nhân đã Hán hóa hay Hán nhân đã Hồ hóa lại là chuyện không thể nào. Sự khác biệt giữa Phạm Thanh Huệ và Tống Khuyết trong đục rõ ràng, mà sự bất đồng này càng thể hiện trên tình thế trước mắt.
Tống Khuyết trầm giọng: “Ta không phản đối văn hóa ngoại lai, đó là bí thức bảo vệ sức sống và sự tiến bộ của dân tộc, Phật học là từ Thiên Trúc truyền đến Hán tộc ta, căn nguyên trải dài, phát dương quang đại sau khi kết hợp văn hóa thâm thúy tinh vi. Nhưng đối với ngoại tộc mà không có lòng đề phòng, sơ sẩy một chút sẽ biến thành dẫn sói vào nhà, giống như bọn Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô, chính vì Hồ hóa quá sâu cho nên không để ý tới mối họa Đột Quyết. Còn cha con họ Lý có dòng Hậu Trần, quan hệ mật thiết với các tộc Tái ngoại, sớm muộn gì cũng thành đại họa. Ta tán thưởng Thanh Huệ có lòng dạ bao dung, nhưng dưới tình huống thực tế, ta cần phải thẳng tay phân biệt Hán di, nếu không các tộc Tái ngoại sẽ lần lượt nối đuôi nhau xen chân vào Trung nguyên, Trung thổ vĩnh viễn không còn ngày yên lành. Bắc phương đã không có sức tự lo, duy chỉ còn nước để người miền Nam bọn ta vùng dậy nhất thống thiên hạ, dẹp loạn sắp xếp trật tự. Buông bỏ thì không còn đường đi nữa, nếu không, Đại Hán ta sẽ vô lực hướng tâm để duy trì hệ thống văn hóa, thiên hạ phải lọt vào tình trạng chia rẽ trường kỳ.”
Tiếp đó lão cười khà: “Tâm sự để Thanh Huệ dụ dẫn khiến phiền não ấp ủ trong tâm tư gần bốn chục năm dốc ra hết, Tống mỗ cảm thấy rất thống khoái. Thiếu soái hiện tại chắc minh bạch mục tiêu và lý tưởng của Tống Khuyết ta, ta giúp ngươi lên đế tọa, không phải là vì vinh nhục của Tống gia, mà là vì chính thống Đại Hán Hoa-Hạ ta. Sự xuất hiện của một dân tộc vĩ đại, hẳn là không có tính tất nhiên trên lịch sử, có được không phải dễ, cũng không phải không thể dựa vào ý chí con người mà chuyển dời, giả như không có Thủy hoàng Doanh Chính, Trung thổ có thể vẫn còn cục diện chư hùng cát cứ. Ta hy vọng thiên thu vạn thế sau, thần dân Hoa-Hạ lúc nghĩ đến Khấu Trọng ngươi, công nhận Khấu Trọng ngươi là kẻ kế thừa Doanh Chính và Dương Kiên, là nhân vật thứ ba kết thúc sự phân chia Trung thổ. Đây là sứ mệnh vĩ đại, tất cả mọi thứ khác đều không dính dáng tới.”
Khấu Trọng lòng trào dâng nhiệt huyết, đồng thời hiểu thấu dụng ý Tống Khuyết chịu thổ lộ tâm sự đã giấu tận đáy lòng bao lâu nay, là y kỳ thực không lạc quan mấy về trận quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ. Chỗ sơ hở của y là ở Phạm Thanh Huệ. Đang lúc y nghĩ mình không còn chịu sự chi phối tình cảm đối với Phạm Thanh Huệ nữa, Sư Phi Huyên lại thay Ninh Đạo Kỳ hạ thư khiêu chiến, lại câu dụ mối hoài tình năm xưa của y, một khi phát ra là không thể thu thập, khiến cho y không có cách nào bảo trì cảnh giới tột bực của Đao đạo “ngoài xả đao ra không còn gì khác”, nói gì tới tất thắng.
Tống Khuyết không những muốn Khấu Trọng hiểu rõ nỗi khổ tâm thống nhất thiên hạ của y, còn muốn gã có thể kiên trì giữ niềm tin, cho dù Tống Khuyết y có lạc bại thân vong, vẫn không bị Sư Phi Huyên dùng đại nghĩa lung lạc, khiến Khấu Trọng buông bỏ di chí chấn hưng thiên thu đại nghiệp Hán thống của y.
Khấu Trọng nghiêm mặt: “Phiệt chủ an tâm. Khấu Trọng sẽ kiên trì, cho đến khi hoàn thành lý tưởng tâm nguyện của Phiệt chủ.”
Tống Khuyết cười dài: “Được! Tống Khuyết ta không nhìn lầm ngươi, ngươi nên ghi nhớ, bọn ta không phải là vì nghĩ cho riêng mình, mà là phúc phận của cả dân tộc. Hiện tại ta có thể đặt hết tâm sự xuống, toàn tâm toàn ý cho cuộc quyết đấu với Ninh Đạo Kỳ, xem coi Đạo thiền của hắn được, hay là Thiên Đao của ta vẫn thắng ván này. Ngươi vẫn muốn theo ta đi xem chứ?”
Khấu Trọng gật đầu không chút do dự.
Tống Khuyết lại cười dài, phất người tới trước, tiến sâu vào vùng bình nguyên trắng xóa tuyết rơi lã tã.
Khấu Trọng rượt sát theo sau, hai đại cao thủ một già một trẻ trong nháy mắt đã chìm vào vùng sâu thẳm vô tận tràn ngập tuyết và tuyết.

o0o

“Cộc! Cộc!”
Từ Tử Lăng ngồi một mình trong phòng khách lên tiếng: “Hiển Hạc, mời vào, cửa không có cài then.”
Âm Hiển Hạc đẩy cửa vào phòng, đóng cửa lại, thần tình ngay đơ ngồi đối diện Từ Tử Lăng.
Đây là một lữ quán khá quy mô bên kia đường của tửu quán, sau khi Phục Khiên cáo biệt, bọn họ đã đến đây mướn hai gian phòng.
Từ Tử Lăng quan tâm hỏi: “Ngủ không được sao?”
Âm Hiển Hạc đằm đằm gật đầu, buồn bã thốt: “Ta có phải rất vô dụng không?”
Từ Tử Lăng không đồng ý: “Sao lại có thể coi mình như vậy, ngươi lo được lo mất là hợp với nhân tình. Kể từ khi lệnh muội thất tung, ngươi lặn lội chân trời góc biển tìm nàng, tuy chưa có kết quả, vẫn còn một tuyến hy vọng. Hiện tại nơi hạ lạc của lệnh muội có thể Kỷ Thiến đã tìm ra, đổi lại ta là ngươi, cũng sợ tin tức sẽ là sự thật đáng sợ không có cách nào vãn hồi, lúc đó ngươi sẽ mất đi tất cả hy vọng, ngay cả ý nghĩa của sinh tồn, cho nên sợ là đúng rồi.”
Âm Hiển Hạc khổ não: “Ngươi rất hiểu ta.”
Từ Tử Lăng mắt bắn kỳ quang: “Nhưng ta có dự cảm ngươi nhất định có thể đoàn tụ với tiểu muội, ta thật có cái cảm giác đó, tuyệt không phải là nói để an ủi ngươi.”
Âm Hiển Hạc có vẻ phấn chấn một chút, hỏi: “Ngươi có cảm giác gì đối với Phục Khiên?”
Từ Tử Lăng bần thần nhìn hắn một hồi, cười khổ: “Ta không muốn nghĩ tới vấn đề của hắn, mọi người cuối cùng cũng là bằng hữu.”
Âm Hiển Hạc hỏi: “Đột Lợi không phải cũng là sinh tử chi giao của ngươi sao? Nhưng dưới sự ép bức của tình thế, cuối cùng cũng có một ngày ngươi sẽ đối diện quyết chiến sa trường với y. Hiệt Lợi và Đột Lợi tuy thường hay đấu đá, nhưng về chiến tranh đối ngoại, vì lợi ích của cộng đồng, luôn cùng một đường lối. Ta đồng ý với lời nói của Phục Khiên, liên quân của Hiệt Lợi và Đột Lợi sẽ ào ạt xâm nhập Trung nguyên bất cứ khi nào, đây là hiện thực không ai có thể cải biến.”
Từ Tử Lăng hỏi: “Bọn chúng có lợi ích cộng đồng gì?”
Âm Hiển Hạc đáp: “Ta lưu lãng Tái nội Tái ngoại trường kỳ, tìm kiếm Tiểu Kỷ, cho nên ý thức được tâm trạng của các tộc dân Tái ngoại sâu sắc hơn ngươi và Khấu Trọng. Cái bọn chúng sợ nhất là xuất hiện một đế quốc Trung nguyên thống nhất lớn mạnh, ký ức họa hoằn Dương Quảng tạo cho chúng còn mới tinh. Chỗ duy nhất ta không đồng ý với Phục Khiên là Thống Diệp Hộ của tây Đột Quyết tuyệt sẽ không vào lúc này ngáng giò Hiệt Lợi, đó là truyền thống của đám sói lang bọn chúng, hễ thấy một con cừu mập là tụ bầy cắn xé, no nê hết đói. Trước mắt Lý phiệt trong chia ngoài rẽ, Trung thổ vì Khấu Trọng nổi dậy mà trở thành Nam Bắc đối kháng, nếu người Đột Quyết không lợi dụng thời cơ trời ban nhất thời này mà cắn xé con cừu mập bọn ta, một khi Lý phiệt hay Khấu Trọng bất cứ phe nào thống nhất Trung nguyên, bọn chúng sẽ mất đi cơ hội.”
Từ Tử Lăng cảm thấy lưng ướt đầm mồ hôi, Âm Hiển Hạc chưa từng dùng luận điệu dài dòng đi thuyết minh chuyện gì, chuyến này chịu mở miệng, hơn nữa từng chữ từng lời như phun châu nhả ngọc, đem hình thế Tái nội Tái ngoại phân tích vừa sinh động vừa sắc sảo.
Thình lình gã thấu hiểu nguyên nhân Sư Phi Huyên lại đạp chân vào phàm trần, chính là muốn bất chấp tất cả cản trở sự phát triển sự tình như Âm Hiển Hạc nói.
Chính trị bất kể động cơ, chỉ nói hậu quả.
Sự tranh bá thiên hạ của Khấu Trọng, cái mang đến rất có thể là tai nạn khổng lồ.
“Tử Lăng à! Ngươi đã từng có nói, nếu Lý Thế Dân lên đế tọa, ngươi sẽ khuyên Khấu Trọng thoái lùi. Vì chúng sinh thiên hạ, Tử Lăng có thể đổi sang thái độ tích cực, giúp Phi Huyên hoàn thành tâm nguyện được không?”
Lời nói của Sư Phi Huyên còn lan man trong đầu gã.
Lúc đó gã không nghĩ gì lắm về lời nói đó của nàng, giờ phút này lại như tiếng trống sớm chuông chiều, làm gã sực tỉnh, toàn thân đổ mồ hôi lạnh.
Phúc phận của vạn dân ở giữa một ý niệm như vậy.
Thanh âm của Âm Hiển Hạc vang bên tai gã: “Sao sắc mặt ngươi lại biến thành khó coi như vậy?”
Từ Tử Lăng khốn khó lắm mới cất tiếng: “Ta từng tận mắt chứng kiến tình cảnh đáng sợ bầy sói dữ tụ lại cấu xé một con nai, cho nên sự so sánh của ngươi làm cho tận đáy lòng ta sinh cảm giác sợ hãi.”
Âm Hiển Hạc thở dài: “Người Đột Quyết luôn luôn coi sói như thầy, chiến thuật của bọn chúng chính là chiến thuật của sói, trước hết chạy vòng vòng bốn bề gầm gừ thăm dò hư thực của ngươi, đánh sụp đấu chí của ngươi, làm cho tinh thần ngươi chịu áp lực, một khi ngươi tỏ vẻ khiếp sợ, lập tức tụ lại tấn công, dùng công thế hung tàn nhất cấu xé thú săn, hơn nữa không để ý gì tới sự an toàn của mình.”
Ngưng một chút y lại tiếp: “Nếu ta là Hiệt Lợi, càng không cho phép Khấu Trọng có cơ hội thống nhất thiên hạ, hiềm kỵ Khấu Trọng khẳng định còn hơn là hiềm kỵ Lý Thế Dân, bởi không có ai hiểu rõ năng lực trên chiến trường của Khấu Trọng hơn là Hiệt Lợi. Thời gian nước sông đóng băng ba tháng này chính là cơ hội tốt nhất để Hiệt Lợi xâm nhập.”
Từ Tử Lăng giật nảy mình: “May là được Hiển Hạc đề tỉnh ta. Ta đâu nghĩ tới đóng băng có chỗ hại như vậy.”
Âm Hiển Hạc thốt: “Tử Lăng sinh trưởng ở miền Nam, đương nhiên không biết sự khổ não lo sợ đề phòng đêm đến của con dân ở vùng biên giới phía Bắc. Người Đột Quyết xuất quỷ nhập thần như bầy sói, đến như gió, tới chỗ nào là gạch ngói cũng không chừa.”
Từ Tử Lăng cộc lốc: “Không! Ta tuyệt không cho phép tình huống đó xuất hiện.”
Âm Hiển Hạc chán ngán: “Bọn ta còn có biện pháp gì có thể làm chứ?”
Từ Tử Lăng nhíu mày: “Đột Lợi lẽ nào hoàn toàn không nhìn mặt mũi của ta và Khấu Trọng?”
Âm Hiển Hạc lắc đầu: “Người Đột Quyết vĩnh viễn lấy dân tộc làm đầu, cá nhân làm thứ, Khả Đạt Chí là một ví dụ tốt. Huống hồ có Tất Huyền ủng hộ Hiệt Lợi, chỉ cần Tất Huyền xen tay, Đột Lợi sẽ không dám không theo. Nếu không hắn đâu có giữ được Hãn vị của hắn. Dưới tình huống đó, tình huynh đệ gì gì cũng không có tác dụng. Tử Lăng cần phải đối diện sự thật.”
Từ Tử Lăng trầm giọng: “Ta phải đi gặp Lý Thế Dân.”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Gặp y có tác dụng gì? Các ngươi không còn là bằng hữu nữa, mà là tử địch thế bất lưỡng lập.”
Từ Tử Lăng thần tình kiên quyết: “Lời nói của ngươi đêm nay giúp ta tháo gỡ nhiều chướng ngại trong đầu não, nghĩ thông rất nhiều sự tình. Trong dĩ vãng ta và Khấu Trọng luôn từ lập trường của bản thân mà đi quyết định lý tưởng và mục tiêu, chưa từng nghĩ đến hậu quả dẫn tới.”
Đến phiên Âm Hiển Hạc nhíu mày: “Hình thế đã đến nước một khi bắn ra không thể thu thập lại, Tống Khuyết đã ra Lĩnh Nam, thiên hạ không còn ai có thể nghịch chuyển hình thế như vầy, Tử Lăng gặp Lý Thế Dân còn có gì để nói chứ?”
Từ Tử Lăng đáp: “Ta không biết! Nhưng đây là cơ hội cuối cùng giúp Trung nguyên tránh qua đại họa. Nếu ta không tận lực đi thử, ta sẽ có lỗi với chúng sinh, còn cô phụ kỳ vọng của Phi Huyên đối với ta.”
Âm Hiển Hạc bắt đầu hiểu rõ tâm ý của Từ Tử Lăng, hít một hơi sâu: “Thuyết phục được Lý Thế Dân thì sao, trên Lý Thế Dân còn có Lý Uyên, Kiến Thành Nguyên Cát lúc nào cũng muốn dồn Lý Thế Dân vào tử địa, theo ta thấy Tử Lăng chỉ tốn một chuyến đi vô ích mà thôi.”
Từ Tử Lăng lộ thần sắc trầm tư, không đáp lại hắn.
Âm Hiển Hạc than: “Khấu Trọng không còn là Khấu Trọng của trước đây nữa, gã hiện tại không những là lãnh tụ của Thiếu Soái quân, còn là kẻ kế thừa của Tống Khuyết, trên vai gã có gánh nặng rất ghê gớm, ta thật không muốn thấy hai hảo huynh đệ các ngươi vì chuyện này mà bất hòa.”
Từ Tử Lăng thốt: “Ta không có cách nào xoá đi tranh cãi mặc cả, nhưng bây giờ ta chỉ biết bá tánh Trung thổ sắp đại họa lâm đầu. Bọn họ chịu đựng đủ rồi! Nên có một đoạn ngày tháng an lạc hòa bình trường trị.”
Âm Hiển Hạc gật đầu: “Tử Lăng là người lo tưởng cho người ta, không tính được mất của bản thân. Chỉ tiếc thời gian và hình thế đã đến hoàn cảnh ông trời cũng bất lực, cho dù Khấu Trọng có đầu hàng Lý Đường, Tống Khuyết vẫn không ngưng nghỉ. Ngươi rõ Khấu Trọng nhất, gã dưới hình thế ác liệt nhất vẫn không chịu khuất phục đầu hàng, huống hồ là thời khác có hy vọng thống nhất, gã không những không có cách ăn nói với bản thân, khó lòng mà ăn nói với người theo chân ủng hộ gã, càng không có cách nào ăn nói với tướng sĩ hy sinh vì gã.”
Hắn ngưng một chút lại tiếp: “Ta nói nhiều lời như vậy, không phải là không hiểu khổ tâm và hoài bảo của Tử Lăng, mà là sợ ngươi gặp hiểm, chiến trường đâu bao giờ là chỗ nói nhân tình. Ngươi đi gặp Lý Thế Dân như vầy, y sẽ đối phó ngươi ra sao thật khó dự liệu, cho dù niệm tình xưa, bọn Lý Nguyên Cát, Dương Hư Ngạn càng tuyệt không thể buông tha ngươi. Trừ đi ngươi coi như phế được một nửa người Khấu Trọng. Theo ta thấy Lý Thế Dân không chịu bỏ qua cơ hội Tử Lăng đưa dê vào miệng cọp đâu.”
Từ Tử Lăng sâu sắc cảm nhận được sự thành khẩn đối với mình của con người tựa như không hề quan tâm bất cứ một sự tình nào, cảm động thốt: “Ta sẽ cẩn thận hành sự.”
Người trong lòng nghĩ đến là Lý Tịnh, gã vốn không định tìm hắn, hiện tại lại phải cần đi gặp hắn, không tính toán chuyện này sẽ dẫn đến hiểm nguy gì nữa.
Âm Hiển Hạc thấy không thể thuyết phục gã, ráng nỗ lực lần cuối: “Ngươi nếu muốn thuyết phục Khấu Trọng đầu hàng, sao lại cần gặp Lý Thế Dân?”
Từ Tử Lăng đáp: “Nếu không thể thuyết phục Lý Thế Dân, không có khả năng đả động đến Khấu Trọng, cho nên cần phải trước hết du thuyết y. Chuyện này phức tạp cực kỳ, dây dưa sâu rộng, một lời khó nói hết.”
Âm Hiển Hạc trầm giọng: “Vấn đề Tống Khuyết làm sao giải quyết?”
Từ Tử Lăng buồn bã: “Ta không biết, chỉ còn nước thấy bước nào đi bước đó, Phi Huyên nói nàng có thể kiến tạo một bước chuyển mình cho thống nhất hòa bình, hy vọng nàng quả có thể làm được.”
Âm Hiển Hạc chợt nói: “Ta theo ngươi đi gặp Lý Thế Dân.”
Từ Tử Lăng nói: “Gặp Kỷ Thiến rồi hãy nói đi!”
Âm Hiển Hạc thở dài: “Lời nói của Tử Lăng đối với ta rất có ích, so với hạnh phúc hòa bình của thiên hạ bá tánh, sự đau thương của cá nhân đâu đáng nói tới.”
Từ Tử Lăng chợt thò tay quạt tắt đèn: “Có người đến!”
Âm Hiển Hạc nắm trường kiếm sắt lạnh trên lưng, tiếng xé gió từ ngoài song và ngoài cửa vang lên.

o0o

Giữa gió tuyết mờ mịt, Tống Khuyết và Khấu Trọng đứng ở bờ đông Y Thủy, nhìn nước sông dằng dặc chảy qua trước mắt.
Mãi đến giờ phút này, Khấu Trọng vẫn chưa biết thời gian và địa điểm Ninh Đạo Kỳ ước chiến với Tống Khuyết.
Tống Khuyết thần thái an nhàn, không một chút biểu lộ tình cảm.
Y chợt mỉm cười: “Thiếu soái có cảm giác gì đối với Trường Giang?”
Khấu Trọng nghĩ tới đủ thứ quan hệ cùng Trường Giang, nhất thời trăm mối tơ vò, khẽ thở dài một hơi: “Một lời khó tận.”
Tống Khuyết thản nhiên thốt: “Trường Giang giống như một con rồng lớn, từ trên ngọn núi chính của dãy Đường Cổ Lạp Sơn là Các Lạp Đan Đông dốc xuống, ngang qua Trung thổ, kéo từ tây sang đông ra đại dương, tạo dựng cảnh vật văn minh phồn hoa của phương Nam. So sánh với Hoàng Hà, Đại Giang hơn mấy phần ôn nhu tươi đẹp. Giang, Hà, Hoài, Tế gọi là ‘Tứ Độc’, đều là đường sông chảy vào biển lớn. Danh xưng Thiên hạ đệ nhất Đại Hà tuy là Hoàng Hà, nhưng ta độc chỉ chung tình với Đại Giang, có rất nhiều phương diện Đại Hà không thể nào bì được.”
Khấu Trọng hoàn toàn bối rối, không rõ Tống Khuyết tại sao đột nhiên lại nói đến Trường Giang, tuy tựa như có cảm tình khắc sâu kiểu co kéo thần hồn đối với Đại Giang, giọng điệu lại thê lương thương cảm.
Tống Khuyết nói tiếp: “Ta từng vì thăm dò ngọn nguồn của Đại Giang, dọc Giang Tây mà tiến, đã gặp qua biết bao là dòng băng. Nơi đó núi non liên miên, tuyết trắng phau phau, những khối tuyết khổng lồ tan chảy dưới ánh mặt trời, lần theo vực băng đổ xuống bốn phía, hình thành trăm ngàn thác nhỏ, tụ lại thành sông, trôi dòng sang Đông, uy thế cực kỳ hoành tráng, không phải tận mắt chứng kiến thì đâu dám tin.”
Khấu Trọng nghe đến mức lòng bừng bừng hùng khí: “Có cơ hội tiểu tử nhất định sẽ cùng Tử Lăng đi một chuyến.”
Tống Khuyết đề tỉnh: “Ngươi tựa như đã quên Ngọc Trí.”
Khấu Trọng buồn bã: “Nàng tuyệt sẽ không chịu theo tiểu tử đi!”
Tống Khuyết mỉm cười: “Nếu đổi lại là hôm qua, ta có lẽ sẽ nói với ngươi thời gian có thể gạt bằng tất cả, hiện tại lại không dám nhất định nữa. Sau khi lên làm Hoàng đế, ngươi nghĩ còn có thể tùy tiện chạy chơi tứ xứ sao?”
Khấu Trọng như xót xa mất mát, không nói gì.
Tống Khuyết quay lại thoại đề trước: “Người ta nói Hoàng Hà tương đồng với ba hẻm sông của Trường Giang, có sự hùng vĩ hiểm trở của Cù Đường hạp, có sự đẹp đẽ u trầm của Vu hạp, và sự tuôn chảy không ngừng của Tây Lăng hạp, là ba cái nhất của Trường Giang, đó chỉ là lời của kẻ vô tri. Hổ Khiêu hạp trong Kim Sa Giang, dài mười mấy dặm, mõm đá trồi sụt, sóng tuyết dập dềnh, khói nước mông lung, hai bờ núi tuyết ngàn dặm, dòng băng vắt mình, mây mù quyện quẩn, hẻm núi sâu vạn trượng, cứ như một thế giới khác, đó mới là cái nhất của Trường Giang.”
Khấu Trọng cười khổ: “E rằng tiểu tử vĩnh viễn không có duyên đi minh chứng lời nói của lão gia.”
Tống Khuyết không để ý, điềm đạm thốt: “Thuyền của ta chìm ở đó, ta phải đổi sang thuyền chở khách để đi Ba Thục, là vào một đêm trăng sáng, gặp được Thanh Huệ trên sàn thuyền, ta chưa từng thử chủ động nói chuyện với bất cứ một cô gái mỹ lệ nào, nhưng đêm đó lại không cầm được lòng làm một bài thơ mở đầu tỏ bày, khiến cho ta vĩnh hằng ôm một đoạn thương tình mỹ lệ, hồi ức lúc ta nghĩ đã quên đi thì lại khắc sâu hơn bất cứ lúc nào khác.”
Khấu Trọng lòng giật nảy, không ngờ Tống Khuyết vẫn không thể thoát thân khỏi niềm thương nhớ Phạm Thanh Huệ, trận chiến này thật không mấy lạc quan.


ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN


Hồi 699

Nam Bắc Chi Tranh


Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai.
Từ Tử Lăng quay sang Âm Hiển Hạc thấp giọng: “Bốn người.”
Cửa phòng và hai cửa sổ đồng thời vỡ nát.
Âm Hiển Hạc rút trường kiếm khỏi vỏ, như con báo vọt bắn ra, đón đầu địch nhân phá cửa vào.
Từ Tử Lăng nhìn tựa như thong dong đứng dậy khỏi ghế, hai tay phất ra, Bảo Bình kình khí tập trung cao độ nóng bức đập thẳng vào hai địch nhân định lao qua cửa sổ.
Người đến toàn thân vận kình trang, đầu trùm vải đen, chỉ để lộ mũi và mắt, nhưng làm sao có thể che giấu được Từ Tử Lăng.
Kẻ tấn công qua cửa chính đích thị “Đại Tôn” của Đại Minh Tôn giáo Hứa Khai Sơn. Kẻ lao qua hai song cửa là Đoàn Ngọc Thành và Tân Na Á, kẻ duy nhất không đoán được là kẻ giấu mặt ở phòng bên, võ công của người đó chẳng kém Hứa Khai Sơn.
Chính diện xung đột với Thạch Chi Hiên đã khiến cho Đại Minh Tôn giáo hao binh tổn tướng, nguyên khí bị thương trầm trọng, nhưng mấy kẻ đến đây không ai không phải là cao thủ đã trải qua khảo nghiệm rạch ròi, tuyệt không thể khinh suất.
Đến bây giờ, gã mới minh bạch kẻ Mỹ Diễm phu nhân muốn chạy trốn là Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc thạch ả mang theo từ Tái ngoại là vật đã theo Quang Minh sứ giả Lạp Ma từ Ba Tư sang đông vào đại thảo nguyên, kiến lập Đại Minh Tôn giáo. Ngũ Sắc thạch là thánh vật chí cao vô thượng của Đại Minh Tôn giáo, cho nên bọn Hứa Khai Sơn tuyệt không cho phép để lọt vào tay người ngoài.
Tiếng hừ lạnh và tiếng quát khẽ đồng thời vang lên, Đoàn Ngọc Thành cùng Tân Na Á còn chưa có cơ hội vượt qua song đã bị Bảo Bình chân khí mãnh liệt cứng cỏi quật loạng choạng thoái về.
Từ Tử Lăng kinh nghiệm thực chiến phong phú làm sao, nào chịu để địch nhân bình tỉnh đánh dai, huống hồ địch nhân phòng kế bên cao thâm khó lường, Hứa Khai Sơn còn là cao thủ cấp bậc gần bằng Thạch Chi Hiên, vọt liền ra trước.
Tiếng kình khí giao kích liên miên bất tuyệt, quang cảnh trong nháy mắt, Âm Hiển Hạc đã sử hết công lực vốn có mà vẫn bị Hứa Khai Sơn dồn ép, bức thoái liên hồi, đã về lại giữa phòng.
Từ Tử Lăng quát khẽ một tiếng, phóng qua kề vai Âm Hiển Hạc, không khí tiền phương như biến thành đậm đặc, đổi lại là Từ Tử Lăng lúc giao thủ với Hứa Khai Sơn ở U Lâm Tiểu Trúc, tất sẽ hữu lực mà khó thi triển như Âm Hiển Hạc, hiện giờ lại nắm chắc một hai, nhất chỉ điểm ra, nhắm song chưởng đang vùn vụt đập tới của Hứa Khai Sơn.
“Tường phải!”
Âm Hiển Hạc hội ý, lúc trường kiếm túa thành đóa đóa kiếm hoa, mặt tường bên phải vỡ tan, địch nhân thần bí còn chưa hiện thân đã phá vách mà sang, hày khí buốt giá xộc ra từ trường kiếm trên tay như làn chớp đâm thẳng tới, tàn độc hung mãnh vô cùng.
Đoàn Ngọc Thành cùng Tân Na Á đã chấn chỉnh lại tay chân, lại vọt qua song cửa mà vào, khiến hình thế phe họ Từ và Họ âm càng thêm nguy cấp.
“Hừ” một tiếng, Từ Tử Lăng tập trung cao độ, chỉ kình xuyên qua bức tường khí hình thành từ song chưởng của Hứa Khai Sơn, đâm thẳng lên người Hứa Khai Sơn. Bên dưới tung một cước, đá vụt vào chỗ yếu hại nơi bụng dưới của Hứa Khai Sơn. Hai chiêu này thần tốc hùng dũng, đến Hứa Khai Sơn cũng không thể không thoái lùi ra sau.
“Keng!”
Âm Hiển Hạc đánh trúng kiếm địch, phát ra tiếng ngân rền vang, nhưng hắn hiển nhiên kém nội kình hơn đối phương một bậc, không trụ được lực, bật ngược về phía sau Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng bỏ qua Hứa Khai Sơn, thi triển bản lĩnh nghịch chuyển chân khí cứng cỏi chuyển công thế sang địch nhân đáng sợ từ phòng bên cạnh phá tường đánh qua, cười khà khà thốt: “Liệt Hà huynh không phải đi cùng mọi người đến Cao Lệ sao?”
Địch nhân mình trùm đen thui nghe tiếng rúng động, kiếm thế hơi chậm lại, mũi kiếm bị một chỉ của họ Từ điểm trúng, thoái lùi về sau như bị sét đánh.
Đoản kiếm của Tân Na Á, trường kiếm của Đoàn Ngọc Thành hợp thành công thế bài sơn đảo hải quật về phía hai người.
Từ Tử Lăng nào dám luyến chiến, thò tay nắm lấy Âm Hiển Hạc còn đang thoái lùi, vọt thẳng lên trên, phá mái nhà phóng đi.

o0o

Khấu Trọng hỏi: “Bài thơ mào đầu mà Phiệt chủ làm tất có thể khiến cho bất cứ một nữ tử nào cũng nghiêng ngã, tiểu tử thiếu sót bản lĩnh trên phương diện đó.”
Khoé miệng Tống Khuyết hé một nụ cười ôn nhu, chăm chú nhìn bão tuyết mịt mù hòa mình vào sông nước, giống như trùng diễn lại tình cảnh năm xưa, khe khẽ thở dài: “Thủy để hữu minh nguyệt, thủy thượng minh nguyệt phù; Thủy lưu nguyệt bất khứ, nguyệt khứ thủy hoàn lưu” (tạm dịch: “Đáy nước có trăng sáng, trên nước trăng sáng nổi; Nước chảy trăng không đi, trăng đi nước vẫn chảy”).
Khấu Trọng nghe xong quên luôn cả trận quyết chiến, khen hay: “Tức cảnh mà sinh tình, vì tình mà tả cảnh, tình cảnh giao hòa, sau lưng lại có thâm ý ẩn hàm chuyện đời thăng trầm, bài thơ không thể nào hợp tình huống đương thời hơn được nữa!”
Tống Khuyết nhìn sang gã, song mục loang loáng thần quang: “Nói ra ngươi có lẽ không tin, ta lần đầu nhìn thấy nàng, liền khẳng định nàng là đệ tử của Từ Hàng Tịnh Trai, đạp chân vào trần thế tiến hành sự nhập thế tu hành mà sư môn chỉ định, lúc đó Trần triều còn chưa bị Dương Kiên tiêu diệt, Thanh Huệ biết được ta là thế hệ mới của Lĩnh Nam Tống gia, hỏi ta tình huống thịnh suy của Nam Bắc triều.”
Khấu Trọng lại một lần nữa bị Tống Khuyết làm cho hứng thú, hỏi: “Lúc đó Dương Kiên đã ngồi trên bảo tọa Hoàng đế Bắc triều rồi?”
Tống Khuyết gật đầu: “Là lúc Dương Kiên vừa nhận nghi lễ có cái tên đẹp đẽ ‘Thiện nhượng ’, trở thành Bắc triều chi chủ, con người này về mặt quân sự là nhân tài hiếm có, từ lúc đăng ngôi Đế vị cho đến lúc cử binh nam chinh, khoảng cách thời gian cũng cả chín năm, chuẩn bị sung túc, kế hoạch chu tường, bất kể là mặt chính trị hay mặt quân sự đều hơn xa hôn quân Trần Thúc Bảo của nam triều. Nhưng lại có một khuyết điểm lớn, là độc đoán đa nghi, không chịu tin người, cuối cùng giúp cho Ma môn có thể thừa cơ, để Dương Quảng nối ngôi, đánh mất tất cả. Ngày nay Lý Uyên lại dẫm theo đường mòn của Dương Kiên, càng không dám tưởng tượng tới hậu quả.”
Khấu Trọng cảm thấy nói chuyện với Tống Khuyết không những là một thứ hưởng thụ, hơn nữa còn khiến cho mình hừng hực tráng chí hiểu thấu đạo lý làm người và trị loạn hưng suy. Tống Khuyết nằm phục ở Lĩnh Nam, nào có khác gì Dương Kiên xếp đặt mưu kế rồi mới phát động khi nào cơ hội thắng lợi vừa đến.”
Tống Khuyết điềm đạm thốt: “Ta phân tích những điểm then chốt Nam yếu Bắc mạnh cho nàng nghe, miền Nam sở dĩ có thể an bình trường kỳ, đều là vì phương Nam đất đai tài nguyên trù phú, chỉ tiếc kẻ trị quốc không có năng lực, nghèo giàu không đều, đất tốt đều tập trung vào tay giới quyền quý thổ hào, quan lại tham ô hủ bại cấu kết. Trộm cướp dấy động vùng rừng núi, dân lành bị hại, khiến cho bá tánh bỏ nhà cửa mà chạy, lòng người uất ức. Ngược lại Dương Kiên không ngừng tiến triển, ai cao ai thấp liếc mắt là thấy liền.”
Khấu Trọng gật đầu: “Đây là kiến giải sâu sắc, Thanh Huệ trai chủ không....”
Tống Khuyết bình tĩnh thốt: “Nàng quay về vấn đề dung hòa dân tộc, khi Dương Kiên lên ngôi ở Bắc phương, người Bắc chạy loạn vào Trung thổ ta đã sớm đồng hóa, hợp thành một dân tộc mới, vừa có ngoại tộc Bắc Tái, lại không rời Hán thống ta văn hóa quảng bác ưu mỹ, căn nguyên thâm hậu, thêm vào Hán tộc trường kỳ đối kháng các tộc Tái ngoại, đã dưỡng thành một phong thái chuyên cần hùng dũng. Cho dù Dương Kiên thất bại, Nam phương Bắc phương lấy Bắc thống nhất Nam, là hướng đi tất nhiên của sự phát triển lịch sử.”
Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ có đồng ý không?”
Tống Khuyết mỉm cười: “Ta là người Nam, đương nhiên nghe không lọt lỗi tai, lại không thể không thừa nhận lối nhìn của nàng là nhìn xa trông rộng, thâm thúy chí lý. Ta chỉ ra nếu hiện thời kẻ xuất hiện ở phương Bắc không phải là Dương Kiên mà là một hôn quân, kẻ lãnh đạo miền Nam không phải là Trần hậu chủ thối nát, lịch sử có phải sẽ được viết lại không? Nói đến ai thống nhất ai, thủy chung là vấn đề người này thịnh người kia suy, Tống Khuyết ta đâu chịu thừa nhận sự phát triển của lịch sử có tính tất nhiên không thể cải nghịch. Chính trị, võ công và thủ đoạn là nhân tố trực tiếp quyết định lịch sử. Sự đối đầu Nam Bắc trước mắt, mở một mức độ nào đó là sự lặp lại của hình thế năm xưa, ta muốn lấy sự thật chứng minh cho tất cả mọi người thấy lịch sử là do con người sáng tạo ra.”
Khấu Trọng càng lúc càng hiểu rõ sự khác biệt giữa Tống Khuyết và Phạm Thanh Huệ, đều là vì góc độ lập trường có chỗ bất đồng. Nếu quả Tống Khuyết là người Bắc, cuộc tranh luận này sẽ không còn chỗ đứng. Với sự tài tình và chí khí của Tống Khuyết, tuyệt không thể cam tâm quỳ gối dưới Hán tộc Bắc phương bị Hồ hóa, mà y cũng không tín nhiệm người phương Bắc, nghĩ bọn họ không thể không thể vạch rõ giới tuyến với người Hồ, bọn Lưu Vũ Châu, Lương Sư Đô càng giúp cường điệu hóa định kiến của y. Nói đến Lý Uyên khởi binh từng mượn sức Đột Quyết trợ giúp, đến bây giờ vẫn có quan hệ mật thiết với Đột Quyết, binh Đột Quyết của Khả Đạt Chí hơn nữa còn là cột sống của Trường Lâm quân của Lý Kiến Thành, đủ thứ chuyện như vậy, Tống Khuyết khởi binh Bắc thượng là chuyện đương nhiên.
Triệu Đức Ngôn trở thành Quốc sư của đông Đột Quyết, giúp Ma môn ngang hàng với ngoại tộc. Bất kể Ma môn hay Từ Hàng Tịnh Trai đều thuộc vào hệ thống văn hóa phương Bắc, mà Tống gia của Tống Khuyết chính là cột trụ trung thành của văn hóa phương Nam, kiên trì ủng hộ cờ xí của Hán thống. Sự bất hòa giữa Tống Khuyết với Lý phiệt, tới mức chính diện giao tranh, chính đã thể hiện sự tranh đấu khác nòi giữa Nam và Bắc.
Tống Khuyết nói đúng, lịch sử là do con người sáng tạo ra, nếu không có Tống Khuyết, Khấu Trọng, ai thắng ai bại cũng có thể dự kiến.
Khấu Trọng hỏi: “Phiệt chủ đã biết Trần hậu chủ vô dụng, lúc đó sao không đánh chiếm, rồi chống lại Dương Kiên?”
Tống Khuyết cười khà khà: “Ta lúc đó còn là hạng vô danh, mãi cho đến khi đánh bại người mang danh tự Thiên hạ đệ nhất đao là ‘Bá Đao’ Nhạc Sơn mới vang lừng thanh danh, lên ngôi Phiệt chủ. Ta lúc đó lập tức chỉnh đốn Lĩnh Nam, trước hết bình Di hoạn, liên kết chư hùng miền Nam. Khi đó Dương Kiên dùng thế cuồng phong quét lá rụng dẹp sạch Nam phương, định tiến quân vào Lĩnh Nam, bị một vạn tinh binh của ta bền lòng ngăn trở mười mấy vạn đại quân xâm phạm. Tống Khuyết ta mười trận thắng cả mười, khiến cho Dương Kiên khó lòng tiến tới một tấc đấc, bức bách phải cầu hòa. Ta biết chưa đến thời, chịu thụ phong làm Trấn Nam công, mọi người nước sông không phạm nước giếng, ta chưa từng kính Dương Kiên một nửa lễ, cho nên Dương Kiên trước khi giá băng vẫn vì không thể thu phục Tống Khuyết ta mà lòng luôn canh cánh.”
Tiếp đó lão hừ lạnh: “Người Bắc thống trị miền Nam thì sao chứ, một Dương Quảng đã khiến thiên hạ lại lọt vào loạn cục chia năm xẻ bảy, nguyên nhân bên trong không những là vì Dương Quảng hà khắc hại dân, ham lập đại công, hao mòn quốc lực, càng chứng minh ta không ưa Hán nhân sau khi Hồ hóa là chính xác. Sự dung hòa dân tộc không phải là chuyện tự nhiên là được, kẻ giết Dương Quảng chính là Vũ Văn Hóa Cập một tên người Hồ từ đầu đến đuôi. Muốn Trung thổ chấn hưng, bá tính có ngày tháng an lạc, tất cần phải ủng hộ Hán thống mới có hy vọng. Thiếu soái cần ghi nhớ lời nói này của Tống Khuyết ta.”
Khấu Trọng gật đầu đáp ứng, cảm thấy gánh nặng trên vai càng trầm trọng, hơn nữa lại sinh ra cảm giác quái lạ đối với chuyện Tống Khuyết từ từ khéo léo chỉ dạy này.
Gã nhịn không được nói: “Lấy Nam thống nhất Bắc là mục tiêu tối cao của Phiệt chủ, những chuyện khác đều là thứ yếu, đã là như vậy, Phiệt chủ rất có thể cự tuyệt sự khiêu chiến của Ninh Đạo Kỳ, cứ đơn giản để tôi đi nói với lão là lão nhân gia không có thời gian lý tới, còn Phiệt chủ đi về chủ trì đại kế công đả Giang Đô.”
Tống Khuyết đôi mắt toát ra thần sắc tổn thương bất lực: “Ta không muốn giấu ngươi, đề nghị của ngươi có sức hấp dẫn kinh người đối với ta. Nhưng kẻ hạ chiến thư là ái đồ của Thanh Huệ, mà Phi Huyên càng khiến cho ta nhìn thấy được Thanh Huệ từ trên người nó, cứ như là hóa thân của nàng, làm cho ta không nói nổi lời cự tuyệt. Một khi đã quyết định Tống Khuyết nào sẽ nói ngược đẩy đưa. Thanh Huệ quá rõ cá tính và cảm tình của ta đối với nàng, cho nên chụp được chỗ hiểm của ta. Ta tỏ rõ quyết tâm phù trợ ngươi tranh thiên hạ, ta đã rõ rõ ràng ràng dùng hành động để chứng minh tất cả. Sự vật trong thiên hạ có thể làm cho ta động tâm không có nhiều, Ninh Đạo Kỳ chính là một, thêm vào Thanh Huệ, bắt ta làm sao mà cự tuyệt.”
Khấu Trọng im bặt không nói được.
Tống Khuyết mỉm cười: “Bọn ta kiếm cây gỗ làm một bè gỗ nhé.”
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Bọn ta phải đi đường thủy sao?”
Tống Khuyết đáp: “Ninh Đạo Kỳ hiện tại đang ở Tịnh Niệm Thiền Viện đợi ta, đi đường thủy có thể bớt chút cước lực. Đã có Thiếu soái làm bạn đồng hành, ta có thể đỡ mất sức chèo bè, tĩnh tọa mấy canh giờ, đêm mai ta sẽ quyết chiến với Ninh Đạo Kỳ ở thiền viện, xem coi ai là đệ nhất nhân của Trung thổ.”

o0o

Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc cả đêm leo ra tường thành rời khỏi Hán Trung, đi vội lên Bắc, tiến sâu vào vùng núi Tần Lĩnh, mới thật sự thể hội được tình huống đông cứng của băng tuyết.
Tuyết trên quan đạo dày tới sát gối, còn đông cả trên cây cối thành những chuỗi băng trong suốt, lúc gió phất qua hoa tuyết lã tã rơi, cảnh vật sinh tình.
Đỉnh núi phủ tuyết nhấp nhô, không thấy người đi đường.
Mây mù dày kín che phủ bầu trời thâm trầm một màu xám xịt, bão tuyết tựa như sẽ hạ mình bất cứ lúc nào.
Âm Hiển Hạc quay đầu liếc nhìn hai hàng dấu chân lưu lại: “Người của Đại Minh Tôn giáo quyết tâm không ngừng truy đuổi bọn ta, khẳng định không lâu sau sẽ rượt đến.”
Từ Tử Lăng quan tâm hỏi: “Ngươi có thụ thương không?”
Âm Hiển Hạc đáp: “Không sao! Chỉ có chút ít huyết khí đọng nghẽn. Ài! Công phu của Liệt Hà xem chừng còn cứng cỏi hơn Hứa Khai Sơn, thật kỳ quái.”
Từ Tử Lăng thốt: “Bởi Hứa Khai Sơn còn đang mang nội thương chưa bớt, nếu không, có muốn thoát thân cũng phần phải phí nhiều thời gian. Thật là lạ!”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Ngươi thấy lạ chỗ nào?”
Từ Tử Lăng đáp: “Ngày trước lúc ở Long Tuyền, người của Đại Minh Tôn giáo đâu có coi trọng Ngũ Sắc thạch gì đâu, ít ra không toàn lực tranh đoạt, hiên tại lại như bất chấp tất cả mà giành, làm cho ta cảm thấy kỳ lạ.”
Âm Hiển Hạc gật đầu đồng ý: “Trừ phi bọn chúng không muốn ở lại Trung nguyên nữa, nếu không, không nên đến quấy nhiễu ngươi.”
Từ Tử Lăng rúng động: “Ta hiểu rồi!”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Hai câu nói của ta lại có thể mở đường cho ngươi sao?”
Từ Tử Lăng cười nói: “Chính là như vậy, trên sự thật bọn chúng chính là không muốn ở lại Trung nguyên, còn muốn rời khỏi Tái ngoại, đến một nơi bọn chúng có thể phát dương Đại Minh Tôn giáo. Bất kể là Tái ngoại hay Tái nội, bọn chúng đều có cừu gia, chỉ một Thạch Chi Hiên thôi đã đủ khiến cho bọn chúng lo sợ phập phồng, Bồ Tát hồi nữ lại càng không chịu bỏ qua cho chúng.”
Âm Hiển Hạc không hiểu: “Bọn chúng còn có chỗ nào có thể đi chứ?”
Hai người vượt qua một đỉnh núi, lần theo quan đạo đi xuống triền núi.
Từ Tử Lăng đáp: “Đương nhiên là Ba Tư nơi bắt nguồn của Đại Minh Tôn giáo, chỉ có ở đó Ngũ Sắc thạch mới có giá trị và tác dụng, bọn họ chỉ cần nói năng dễ nghe, đem Ngũ Sắc thạch hoàn lại cho nguyên chủ, chắc có thể có chút thành tựu, nếu không chỉ ngồi đợi bị mổ xẻ.”
Âm Hiển Hạc hân hoan: “Suy đoán của Tử Lăng hợp tình hợp lý quá, ta không tìm ra chỗ hở nào.”
Hắn lại nói: “Nếu Ngũ Sắc thạch đã thành món đồ duy nhất cho bọn chúng lên đường và trùng chấn phong thái, bọn chúng nhất định không chịu tha cho bọn ta.”
Từ Tử Lăng nói: “Vậy cũng tốt, Hiển Hạc không phải muốn tìm công đạo cho An Lạc bang chủ sao? Bọn ta trước khi đến Trường An lo xong chuyện này.”
Âm Hiển Hạc nhíu mày: “Đã là Tử Lăng có tâm ý như vậy, hồi nãy tại sao không chu toàn bọn chúng luôn.”
Từ Tử Lăng đáp: “Hồi nãy quyền chủ động thao túng nằm trong tay bọn chúng, lão ca ngươi lại nửa tỉnh nửa say, công lực bị gò bó đi nhiều, kẻ chịu kém là bọn ta. Hiện tại bọn ta thu mình chực chờ, đón đánh bọn chúng, hơn nữa có thể sinh động biến hóa chiến lược, gọi là tùy tiện mà hành động.”
Âm Hiển Hạc cười khà: “Không lạ gì Khấu Trọng và Từ Tử Lăng có thể danh chấn Tái nội Tái ngoại, ở với các ngươi càng lâu càng cảm thấy các ngươi gan góc chọc trời, quỷ thần khó lường, người khác khó bằng.”
Từ Tử Lăng thốt: “Tâm tình của ngươi đỡ hơn nhiều rồi!”
Âm Hiển Hạc gật đầu: “Không biết có phải bị ngươi lây nhiễm hay không mà ta chợt cảm thấy lạc quan phi thường. Thật ra hoàn cảnh của ngươi không tốt hơn ta bao nhiêu, hơn nữa gần như là gút mắc không có cách nào tháo gỡ được, nhưng ngươi vẫn dũng cảm đối diện. Vấn đề của ta đơn giản hơn của ngươi, Kỷ Thiến một là biết nơi hạ lạc của Tiểu Kỷ, hai là không biết, sau khi đến Trường An là rõ cả, nếu ông trời không chịu để huynh muội bọn ta trùng phùng, ta chỉ còn nước chịu nhận số mạng, sau đó tận lực trợ giúp Tử Lăng hóa giải đại tai kiếp của Trung nguyên này, hy vọng có thể gầy chút phúc đức cho Tiểu Kỷ.”
Từ Tử Lăng hiểu, nguyên nhân làm cho Âm Hiển Hạc chuyển thành tích cực là mình đã kích thích tâm trạng hiệp nghĩa của hắn, tìm được mục tiêu cho cuộc đời.
Gã hân hoan thốt: “Yên tâm đi! Ta có lòng tin ngươi có thể đoàn tụ cùng lệnh muội. Ui! Là mùi gì vậy?”
Âm Hiển Hạc ngước mũi ngửi: “Ừ! Là mùi rất quen thuộc! Nếu ta không đoán lầm, chắc có người nướng thịt sói đằng trước. Ta đã từng ăn thịt sói mấy lần ở Tái ngoại, mùi thịt không khác gì.”
Hai người quẹo vào một hẻm núi, xa xa đằng trước bên quan đạo thấp thoáng đèn đuốc, mùi thơm chính là từ chỗ đó truyền ra.
Âm Hiển Hạc nói: “Là một dịch trạm, không ngờ trời lạnh đông đá như vầy vẫn có người ở lại.”
Từ Tử Lăng thốt: “Cho dù có người ở lại, chắc đã sớm lên giường chui vào chăn ấm say mộng, sao lại đốt lửa nướng thịt, hơn nữa lại là thịt sói dữ.”
Âm Hiển Hạc cười nói: “Mối tư lự của Tử Lăng làm cho tiểu đệ cũng lo, bọn ta đi luôn hay là vào dịch trạm kiếm một hai miếng?”
Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Qua cửa là khách, đương nhiên cứ tiến vào xem sao. Ý Hiển Hạc huynh thế nào?”
Âm Hiển Hạc vui vẻ nói: “Mọi việc cứ theo ý của Tử Lăng.”
Hai người cười cười nói nói, sải bước về phía dịch trạm.



ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN


Hồi 700

Nghĩa Thích Kim Cương


Tuyết nối đuôi nhau từ trên trời bay xuống, càng lúc càng dày, toàn vùng núi chìm vào một màu trắng miên man. Khấu Trọng đẩy mái chèo ở cuối bè, mục quang nhìn bóng lưng hùng tráng như một trái núi của Tống Khuyết đang ngồi xếp bằng dõi trông phía trước. Hoa tuyết rơi đến cách nửa thước trên đầu lão ta, lập tức bị một lực lượng thần bí khôn lường gạt trật qua, tự nhiên bay tránh sang một bên, không một tí nào vấy lên mình lão ta được.
Bão tuyết vẫn đang rầm rập bao trùm trời đất, bè gỗ đã đóng mấy tấc tuyết, tăng gia trọng lượng thân bè, khiến cho Khấu Trọng phải quét dẹp mấy lượt.
Giữa tuyết trắng mênh mông, hai bờ Y Thủy biến thành những đường nét mơ hồ mờ mịt, bất kể bè gỗ động chạm trôi nổi thế nào trên mặt sông, Tống Khuyết vẫn ngồi vững như Thái Sơn, không một chút động đậy.
Thiên Đao danh chấn thiên hạ đặt ngang trên gối, song thủ nắm nhẹ, làm cho Khấu Trọng càng cảm nhận được cảnh giới “ngoài xả đao ra không còn gì khác” của Tống Khuyết.
Trận chiến này của Tống Khuyết thật là may rủi khó liệu.
Khấu Trọng từng giao thủ qua với hai người, lại hoàn toàn không có cách nào nhận được ai cao ai thấp, bọn họ đều như vực sâu biển rộng thâm trầm không lối ra, không thể nào dò tìm mức độ nông sâu.
Giả như Ninh Đạo Kỳ bại trận, đương nhiên mọi việc lại tiến hành như cũ, trường quyết chiến này chỉ là một khúc chen trên con đường thống nhất thiên hạ.
Nếu Tống Khuyết bại trận bỏ mình, Khấu Trọng sẽ không còn đường thoái nào khác, chỉ có thể kế thừa di chí của Tống Khuyết, hoàn thành mộng tưởng của Tống Khuyết, vì nghĩa vụ không còn đường quay lại.
Sau khi thấu qua lời nói của Tống Khuyết hiểu được sự khác biện giữa y và Phạm Thanh Huệ, gã không còn cách nào rõ được vấn đề ai đúng ai sai. Mọi người có lập trường và lối nhìn riêng biệt, không những là đấu tranh tư tưởng, mà còn là đấu tranh khu vực.
Không chỉ đơn độc một lần mà lặp đi lặp lại, Tần Thuỷ Hoàng Doanh Chính kết thúc sự chia rẽ trường kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, lúc quốc thế cường thịnh nhất, lại chỉ truyền một đời rồi mất; Tùy Văn đế Dương Kiên khiến cho loạn cục Ngụy, Tấn - Nam, Bắc triều quy hợp thống nhất lại, cũng qua hai đời là sụp đổ. Sự xảo hợp này là số mệnh lịch sử? Hay là hậu quả tất nhiên của việc muốn có đồng hóa dưới sự khác biệt văn hóa?
Hán triều trường trị an bình sau nhà Tần, Trung thổ sau nhà Tùy có phải cũng hưởng vận mệnh giống như vậy?
Khấu Trọng dưới sự mở mang của Tống Khuyết đã vượt quá thời đại của bản thân mình. Dùng góc độ từ trên nhìn xuống để quan sát nguyên nhân sâu xa sau lưng sự trị loạn, hưng suy xưa nay, giúp cho gã thâm nhập hoàn cảnh tự xem xét nội tâm mình.
Bè gỗ dưới sự thao túng của gã tiến tới hướng bắc, đưa Tống Khuyết đến vị trí quyết chiến.
Đây không những là một trường quyết đấu sinh tử chấn động nhất Trung thổ, mà còn là trận quyết chiến then chốt quyết định mệnh vận thiên hạ.
Khấu Trọng sâu sắc cảm nhận được bất kể chiến cục kết quả ra sao, hình thế Trung nguyên sau trận quyết chiến sẽ vĩnh viễn không thể hồi phục lại bộ dạng trước đây.

o0o

Trong dịch quán ấm áp như mùa xuân, mùi thơm lan tỏa, bảy hán tử ăn vận kiểu thương lữ bình dân đang quây quần quanh một lò lửa đắp tạm, thiêu nướng hai cái đùi sói, khói nghi ngút qua song cửa hai bên, trong quán không khí không ngột ngạt chút nào. Thấy Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc hai vị khách không mời mà đến đẩy cửa đi vào, ai nấy cũng nhìn lên nhìn xuống hai người, lại không chào hỏi nói năng, khiến bọn họ cảm thấy không khí khẩn trương sát khí đằng đằng động chạm là bùng nổ.
Từ Âm hai người lịch duyệt giang hồ, thấy bọn người kia ai ai cũng có bọc dài đặt ở chỗ tầm cánh tay có thể duỗi chụp, đều biết bên trong tất có giấu binh khí, bảy tráng hán kia không những là kẻ có võ, không chừng còn là đạo tặc chuyên cướp của giết người.
Từ Tử Lăng đóng cửa lại, mục quang lạc trên mình một tráng hán cỡ hăm bảy, hăm tám đang ngồi bên lò nướng đối diện cửa lớn, người này thần thái trầm ổn lãnh tĩnh, tuy mặt mày phong trần vẫn khó che đậy anh khí, hiển hiện không phải là tiểu tặc chặn đường cướp của, mà là cao thủ võ công cực cao.
Y không một chút nhân nhượng nghênh đón mục quang của Từ Tử Lăng, cũng lộ thần sắc kinh dị, hiển thị có nhãn lực cao minh.
Những người khác chỉ theo sự dẫn dắt của y, đều đưa mục quang tuân thủ ý hướng của y, chờ y phát lệnh.
Từ Tử Lăng trực giác cảm thấy bọn chúng không phải là hạng đạo tặc, liền hé cười ôm quyền thăm hỏi: “Xin thứ cho bọn ta quấy nhiễu, chỉ vì ngửi thấy mùi thịt thơm lừng, nhịn không được nên chui vào, không có ý gì khác.”
Hán tử cứng cỏi anh khí kia rướn người dậy, ôm quyền hồi lễ: “Huynh đài thần thái diện mạo làm cho tại hạ nghĩ tới một người, dám hỏi cao tánh đại danh.”
Giọng nói của y đậm đặc khẩu âm Tái bắc, Từ Tử Lăng lòng rúng động, thản nhiên đáp: “Bản nhân Từ Tử Lăng.”
Bao gồm cả hán tử anh vĩ kia, ai ai cũng lộ thần sắc chấn động, ai còn ngồi cũng liền đứng dậy, hướng tới gã thi lễ, thái độ thân thiện.
Hán tử anh vĩ hiện ra thần sắc cảm khái anh hùng khí đoản, cười khổ: “Thì ra thật là Từ huynh, tiểu đệ là Tống Kim Cương.”
Từ Tử Lăng ngây người: “Tống huynh sao lại đến đây?”
Tống Kim Cương buồn bã: “Tướng bại trận không đủ dũng khí để nói, chuyện này nói ra thì dài, bọn ta chi bằng ngồi xuống đàm thoại.”
Mọi người lại vây quanh lò lửa ngồi xuống, Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc chia nhau ngồi hai bên Tống Kim Cương, sau khi giới thiệu Âm Hiển Hạc, mọi người thay phiên dùng dao bén cắt thịt sói, vừa ăn vừa nói.
Tống Kim Cương thốt: “Có thể cùng chia sẻ thịt sói với Từ huynh, Âm huynh như vầy là ân sủng đặc biệt của ông trời đối với ta, sau khi đại bại trận Bách Bích, ta và Định Dương Khã hãn bị Lý Thế Dân phái binh đánh đuổi sát rạt, thủ không được Thái Nguyên, duy chỉ còn nước thoái ra Tái ngoại đầu hàng Hiệt Lợi, nào hay lại trúng gian mưu của Triệu Đức Ngôn.”
Định Dương Khã hãn là Lưu Vũ Châu, chủ của Tống Kim Cương.
Từ Tử Lăng cau mày: “Triệu Đức Ngôn và các ngươi có ân oán gì, sao lại muốn hãm hại các ngươi?”
Tống Kim Cương đáp: “Vấn đề ở chỗ Hiệt Lợi có vẻ coi trọng Tống Kim Cương ta, cho nên khiến cho Triệu Đức Ngôn sinh nghi kỵ, cho nên phao bậy với Định Dương khả hãn là Hiệt Lợi hy vọng bọn ta về lại Thượng Cốc, Mã Ấp chiêu tập binh tướng cũ, sắp xếp phản kích Đường quân. Nào hay trên đường bọn ta y lời dẫn người về Trung nguyên, Triệu Đức Ngôn lại nói với Hiệt Lợi bọn ta có ý đồ mưu phản. Vì vậy bọn ta bị Lang quân truy kích, Định Dương khả hãn tử trận tại đương trường, gần ngàn huynh đệ không ai may mắn, chỉ có bảy người bọn ta thành công chạy thoát.”
Một người trong số nói: “Toàn là nhờ Tống soái nghĩ ra kế Kim thiền thoát xác, dùng một huynh đệ đã chết mặt y phục của người, rạch nát mặt mày người đó, Triệu Đức Ngôn mới chịu thu binh về.”
Từ Tử Lăng lòng đã sớm biết chuyện như vậy sẽ xảy ra, đâu cảm khái gì, Triệu Đức Ngôn nói không chừng là do Hiệt Lợi sau lưng sai phái, bởi Lưu Vũ Châu và Tống Kim Cương đã mất đi giá trị lợi dụng, không cần phải lưu giữ trên thế gian nữa. Nếu công nhiên xử quyết hai người, sẽ làm cho Hán nhân nương tựa Đột Quyết bỏ đi, cho nên phải dùng chút thủ đoạn.
Tống Kim Cương lại thở dài than: “Bọn ta có phải rất ngu xuẩn không?”
Từ Tử Lăng đối với việc y chơi với cọp đòi lấy da nó, làm chó săn cho người Đột Quyết đã thấy bất đồng sâu xa, bất quá Tống Kim Cương đã đến bước sơn cùng thủy tận, không muốn đánh hôi người ta, chỉ còn nước thốt: “Thắng làm vua thua làm giặc, thông minh ngu xuẩn gì chứ. Tống huynh có tính toán gì cho tương lai?”
Tống Kim Cương đáp: “Thật không giấu gì, Bắc phương không còn chỗ cho Tống Kim Cương ta dung thân, cho nên muốn đi Giang Nam đầu hàng Tiêu Tiễn luôn có quan hệ mật thiết với bọn ta, nào ngờ sau khi về Trung nguyên mới biết hình thế đại biến, Tống Khuyết kéo binh ra khỏi Lĩnh Nam trợ giúp Thiếu soái tranh thiên hạ, nhiều người khẳng định phía bắc Trường Giang sớm muộn gì cũng quy hàng Thiếu Soái quân hết, cho nên thám thính ý của Tiêu Tiễn, nhắm xem Ba Thục rời bỏ trọng tâm tranh bá ở Trung nguyên, hy vọng tìm được một chỗ ẩn lánh tươi sáng sống tới già, không lo tới thế sự nữa.”
Âm Hiển Hạc ngạc nhiên: “Tống huynh sao không tính tới đầu quân Thiếu soái, sự rành rọt của Tống huynh đối với Đột Quyết tất sẽ có ích vô cùng cho Thiếu soái.”
Tống Kim Cương lộ thần sắc khổ não: “Ta năm xưa đã lập tâm bất lương đối với Thiếu soái, kết bọn với Tiêu Tiễn và Hương Ngọc Sơn hãm hại gã, còn có mặt mũi nào đi cầu xin gã thu dụng. Bỏ đi! Kim Cương hiện tại lòng đã nguội lạnh, không còn hùng tâm tráng chí nữa.”
Từ Tử Lăng gật đầu: “Tống huynh thoái ra khỏi cuộc phân tranh là việc làm sáng trí.”
Tống Kim Cương nghiêm mặt: “Từ huynh không nhắc chuyện ác cũ, đối với Kim Cương không nửa lời trách cứ, Kim Cương cảm kích phi thường. Hiện nay Tái ngoại hình thế cực kỳ khẩn trương, các tộc Tái ngoại dưới sự lôi kéo của Hiệt Lợi và Đột Lợi đã kết thành liên minh, dùng khẩu hiệu đẹp đẽ nói là phù trợ Khấu Trọng, chính đang bí mật tập hợp quân lực chuẩn bị kéo rốc xâm lăng miền Nam. Mặt khác để Triệu Đức Ngôn thông qua thế lực Ma môn ở Trường An, tận lực trấn an Lý Uyên và Lý Kiến Thành, nghe nói Lý Uyên đối với chuyện liên quân Tái ngoại vẫn còn như nằm mộng không phát giác gì, tình thế bất lợi phi thường.”
Từ Tử Lăng nghe vậy tâm tình càng trầm trọng, Tống Kim Cương chạy trốn khỏi Đột Quyết, nắm bắt được tình báo đầu tay về Hiệt Lợi, Đột Lợi, tuyệt không phải nói bậy. Xem chuyện Lương Sư Đô sai người thông qua Hải Sa bang thu mua binh khí Giang Nam là biết Ma môn và Đột Quyết đang sắp xếp đại âm mưu đối phó Lý Thế Dân, Lý Thế Dân nếu bị hại chết, đại quân Tái ngoại lập tức xâm nhập, chiến lược cao minh cực kỳ. Lời nói của Tống Kim Cương càng làm gã kiên định quyết tâm đi gặp Lý Thế Dân, hơn nữa không thể chậm trễ chút nào.
Tống Kim Cương lại giọng trầm trầm long trọng: “Trong chư hùng Nam phương, Phụ Công Hựu, Lý Tử Thông và Trầm Pháp Hưng đều không đủ gây họa, chỉ là đối tượng dâng cho Thiếu soái luyện đao. Kẻ duy nhất đáng ngại là Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng, đặc biệt là họ Lâm rất khó đối phó. Bọn họ nếu không phải lo kềm chế lẫn nhau, đã sớm vượt Trường Giang lên Bắc, khuếch trương thế lực.”
Cái Từ Tử Lăng quan tâm là sự uy hiếp của liên quân Tái ngoại, đối với Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng giờ phút này đâu để tâm tới, nhưng đối phương tỏ hảo tâm nên lễ độ hỏi: “Tống huynh thấy sao về hai người này?”
Tống Kim Cương đáp: “Khuyết điểm của Tiêu Tiễn là ngoài rộng trong hẹp, đố kỵ nhân tài, hay trấn áp tru sát kẻ có công cao, cho nên nội bộ không ổn. À! Nếu không phải ta không còn đường đi, tuyệt sẽ không nghĩ tới đi đầu hàng hắn.”
Từ Tử Lăng mỉm cười: “Nói như vậy, Khấu Trọng trái lại đã giúp Tống huynh có quyết định chính xác rồi.”
Tống Kim Cương bẽn lẽn cười: “Lâm Sĩ Hồng vừa được Phùng Áng dẫn quân quy hàng, thế lực tăng gia, thực lực vượt trên Tiêu Tiễn, đối phó hắn không phải dễ.”
Từ Tử Lăng đang định nói cảm tạ, chợt lòng sinh cảnh giác, quát khẽ: “Có người!”

o0o

Khấu Trọng nghĩ đến rất nhiều sự tình, còn nghĩ tới đủ mọi khả năng, cuối cùng đi đến một kết luận mà chính gã cũng ngấm ngầm thất kinh, là gã tất phải tuyệt đối bình tĩnh đi ứng phó nguy cơ xuất hiện một khi Tống Khuyết bại trận, phải tạo an bài chính xác và có hiệu quả, không thể dùng tình cảm hành sự, không thể để tình tự theo chiều hướng xấu che phủ lý trí. Gã cần phải đem thắng lợi tối hậu đặt ở vị trí trọng yếu nhất, bởi gã không còn là tên tiểu lưu manh xông nam xáo bắc cùng Từ Tử Lăng nữa, mà là người lãnh đạo tối cao của Thiếu Soái quân. Sai lầm gã phạm phải sẽ dẫn đến hậu quả đáng sợ cho bá tánh theo ủng hộ gã và Thiếu Soái quân.
Ai đủ tàn nhẫn, người đó có thể sống còn.
Thời gian ba tháng băng đá này tất cần phải lợi dụng thích đáng, dùng thủ đoạn quân sự ác liệt nhất khống chế các vùng đất miền Nam một cách toàn diện, gã phải dùng hành động để chứng minh cho tất cả những ai phản đối gã thấy không một ai có thể cản trở Thiếu soái Khấu Trọng gã.
Nghĩ đến đây, đầu óc gã linh hoạt hẳn, nghĩ đi nghĩ lại trật tự tiến thoái có lợi nhất cho công cuộc thống nhất đại nghiệp của gã dưới những khả năng khác nhau.
Giờ phút này, gã cuối cùng đã thành công đem đao pháp hòa vào binh pháp.
Xá đao chi ngoại, tái vô tha vật.

o0o

“Bình!”
Cửa gỗ bể tan tành, như mưa tạt bắn về phía mọi người ngồi quanh lò lửa. Gió tuyết cuồn cuộn ùa vào, thổi lò nướng khói túa mù mịt, thanh thế hãi hùng đến cực điểm.
Với tu vi của Từ Tử Lăng cũng phải rùng mình phát lãnh.
Từ lúc gã cảm ứng được có người đến gần, lên tiếng cảnh cáo, đến lúc người đến phá cửa sát nhân, khoảng thời gian chỉ là một búng tay ngắn ngủi, có thể thấy công lực của người đến không dưới Từ Tử Lăng. Tốc độ của hành động, thủ pháp hung mãnh bạo ác biểu hiện phong cách của sát thủ thích khách cao thâm tột đỉnh, ít nhất cũng thuộc hàng cao thủ cỡ Dương Hư Ngạn.
Đao quang loang loáng như chớp, toàn dịch quán lập tức đao khí ngang dọc, đao phong lấp loáng phảng ánh dưới ánh lửa, thần tốc như lưu tinh nhắm đầu Tống Kim Cương quật xuống, tàn độc đến cục điểm.
Tống Kim Cương còn chưa kịp rút bội đao ra khỏi bao, đao phong chỉ còn cách yết hầu hắn chưa tới ba thước.
Tống Kim Cương không hổ là cao thủ, tuy bị dồn vào thế hạ phong tuyệt đối, lâm nguy vẫn không loạn, lăn lùi ra sau.
Sáu thủ hạ của hắn ai ai cũng vọt dậy rút binh khí ra, nhưng đều chậm mấy bước, nếu đối phương thừa thế truy kích, khẳng định trước khi Tống Kim Cương bị chém chết, bọn họ cả vạt áo của đối phương cũng không đụng tới được.
Âm Hiển Hạc trường kiếm rời khỏi lưng, phạt ngang người địch nhân, Từ Tử Lăng từ dưới đất búng lên, huy quyền đập xéo lên lưỡi đao.
“Bộp!”
Kình khí chạm nhau, phát ra tiếng động như pháo nổ.
Người cầm đao thoái theo hướng cửa, đến đi như tên bắn, đứng sừng sững sau cửa lớp, khẽ lắc lư chút xíu.
Chúng thủ hạ của Tống Kim Cương đang định tiến tới liều mạng, Từ Tử Lăng quát lớn: “Mọi người dừng tay!”
Gió tuyết hù hù thổi rát, từ ngoài ốc cuộn vào, lò lửa dần dần phục hồi nguyên trạng, tuy còn phất phơ lúc sáng lúc tắt, cũng đủ để soi sáng bên trong dịch quán trở lại.
Người vác đao đứng ngoài quát gằn giọng: “Tử Lăng đừng can thiệp, đây là chuyện giữa người Đột Quyết bọn ta và Tống Kim Cương, Tử Lăng nếu vẫn coi ta là bằng hữu, xin lập tức bỏ đi.”
Tống Kim Cương từ dưới đất chống đao đứng dậy, sắc mặt tái nhợt, hít một hơi sâu: “Khả Đạt Chí!”
Khả Đạt Chí đôi mắt sát khí rừng rực, đao khí ép chặt mọi người trong quán, ngửa mặt cười nói: “Chính là bản nhân, Đạt Chí phụng mệnh Đại hãn tuyệt không cho phép ngươi sống sót. Ngươi nghĩ kiếm người mặc y phục của ngươi có thể man thiên quá hải sao? Có phải khi Đột Quyết ta ngu đần không?”
Tống Kim Cương hừ lạnh: “Ta ở đây, có giỏi thì cứ đến lấy mạng ta!”
Khả Đạt Chí mục quang quay sang chỗ Từ Tử Lăng, lãnh đạm thốt: “Là địch hay là bạn, Tử Lăng quyết một lời đi.”
Từ Tử Lăng điềm đạm đáp: “Chỉ cần Đạt Chí có thể nói ra Tống huynh có làm quấy với quý Đại hãn bất cứ chuyện gì, ta và Hiển Hạc sẽ lập tức bỏ đi, không can thiệp vào sứ mệnh của Đạt Chí.”
Khả Đạt Chí mặt lạnh như băng, quát lớn: “Bội phản Đại hãn, tính toán quay về Trung nguyên, mưu đồ bất chính, vậy còn chưa đủ sao?”
Từ Tử Lăng lắc đầu thở dài: “Đó chính là Triệu Đức Ngôn bày trò quỷ, giả truyền chỉ ý của quý Đại hãn, kêu bọn họ quay về Trung nguyên chiêu tập binh tướng cũ, Đại hãn của các người bị y bịt mắt rồi!”
Khả Đạt Chí hơi ngạc nhiên, mục quang quay sang Tống Kim Cương: “Ngươi và Lưu Vũ Châu đâu phải con nít lên ba, sao lại tin lời nói một cách tùy tiện, sao không kiếm Đại hãn minh chứng, lại bí mật đêm đến dẫn người bỏ đi.”
Tống Kim Cương bình tĩnh lại, trầm giọng: “Đừng nghĩ ta sợ ngươi, ta nể mặt Từ huynh mà đáp trả ngươi vấn đề này. Đại hãn lúc đó không có ở nha trướng, bọn ta từng hỏi han Đôn Dục Cốc, được gã chứng thực, mới không nghi ngờ y.”
Quay sang Từ Tử Lăng nói: “Dưới tình huống này, nói gì cũng vậy thôi. Từ huynh xuất thủ làm cho ta cảm kích phi thường, nhưng đây quả là ân oán giữa Tống Kim Cương ta và người Đột Quyết, nguyên nhân chủ yếu là ta không còn chỗ có thể cho người ta lợi dụng nữa. Ta hối hận vì lỗi lầm ban đầu. Nếu ông trời đã định cho ta chôn xương ở đây, ta không oán hận chút nào. Xin Từ huynh và Âm huynh tiếp tục lên đường.”
Âm Hiển Hạc gật đầu: “Hảo hán tử!”
Từ Tử Lăng quay sang Khả Đạt Chí: “Chuyện của Tống huynh đã được nghe lúc chuyện vãn hồi nãy, chắc là thật. Theo ta thấy, quý Đại hãn có ý trách Tống huynh khiến cho y hao tổn một số lớn tướng sĩ, cho nên có ý muốn giết.”
Khả Đạt Chí song mục sát khí có tăng chứ không giảm, lạnh giọng: “Tử Lăng đừng nói bậy nữa, chuyện này ngươi thật sự muốn nhúng tay vào sao?”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Ngươi không phải là ngày đầu quen biết ta, chắc biết ta không thể ngồi nhìn chuyện không công bình.”
“Rẻng!”
Vượt ngoài ý liệu của mọi người, Khả Đạt Chí tra đao vào vỏ, đi tới chỗ Từ Tử Lăng, giang rộng hai tay, cười khà khà thốt: “Từ Tử Lăng đã muốn nhúng tay, lại có Âm huynh trợ trận, Kinh Châu ta còn làm gì được chứ?”
Dưới những con mắt ngỡ ngàng của mọi người, Từ Tử Lăng đi tới tiến hành tục lễ ôm chào, cười hỏi: “Vậy ngươi làm sao để ăn nói với Đại hãn?”
Khả Đạt Chí buông gã, mỉm cười đáp: “Đuổi bắt không được bảy người đâu có gì lạ? Huống hồ không phải Đại hãn tận miệng hạ lệnh cho ta, chỉ là Khang Sao Lợi truyền tin cho ta, nói rằng phát hiện Tống huynh chạy đến Hán Trung, có ý đồ tránh sang Ba Thục. Tiểu đệ nghe đồn Tống huynh công phu ghê gớm lắm, nhịn không được tức tốc ngày đêm rượt đuổi.”
Âm Hiển Hạc không hiểu: “Ngươi sao lại biết trong dịch quán có Tống huynh mà không phải là người khác?”
Khả Đạt Chí thản nhiên đáp: “Là người khác thì đã sao? Bất quá ôm nhau xin lỗi. À! Sự thật là ta phát hiện xác sói, thủ pháp cắt xẻ là tập quán của người Tái thượng, lại ngửi được mùi thịt thơm, cho nên đoán được Tống huynh đang ăn trong quán.”
Từ Tử Lăng hoài nghi: “Ngươi thật không tìm Tống huynh và các huynh đệ của y thanh toán chứ?”
Khả Đạt Chí không vui: “Ngươi không phải mới ngày đầu quen biết ta, Khả Đạt Chí từng nói gì mà không giữ lời chứ.”
Quay sang Tống Kim Cương thốt: “Tống huynh tốt hơn hết là lập tức ra đi, trốn càng xa càng tốt, Ma môn thế lực bao la, ta không biết Triệu Đức Ngôn có hành động gì khác để đối phó các ngươi không.”
Từ Tử Lăng gật đầu: “Đây không phải là thời khắc đọ anh hùng, Tống huynh có thể giữ được mạng coi như đã bắt Triệu Đức Ngôn thất bại một phen rồi, lời nói của Đạt Chí có lý.”
Tống Kim Cương ôm quyền thi lễ: “Được! Ân tình của hai vị, Tống Kim Cương ta vĩnh viễn không quên. Giã biệt!”
Hắn nói xong tay cầm túi vải, cùng thủ hạ ra khỏi cửa chìm vào bão tuyết. Hào hùng một đời không ngờ phải lọt vào hạ trường như vầy, khiến ai nấy cũng phải cảm thán.
Khả Đạt Chí cười nói: “Còn thịt sói nướng kìa, có thể cúng miếu ngũ tạng của ta.”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên: “Các ngươi không phải là dân tộc thờ sói sao?”
Khả Đạt Chí đáp: “Cái bọn ta thờ là Lang thần, hễ đói thì lá cây còn có thể ăn, huống gì là súc sinh. Ngồi xuống hãy nói, ta rất nhớ cái ngày kề vai tác chiến với các ngươi ở Long Tuyền.”
Từ Tử Lăng lòng dâng tràn cảm giác ấm cúng, nghĩ tới có thể có một ngày phải quyết chiến sa trường với họ Khả, không khỏi cảm khái ngút ngàn.
Tạo hóa trêu người, dễ gì bỏ qua cơ hội này.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn
 


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 12:40 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.