Go Back   Vina Forums > Music & Movie > Âm Nhạc Việt Nam > Nhạc Việt Online
Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 03-12-2004, 11:07 PM
TongGiang
 
Bài gởi: n/a
Default



Ca hát trong lao động là niềm ưa thích và thói quen của người Việt Nam. Những bài hát lao động là một trong những vốn văn hóa phong phú và quý báu của nhân dân. Hò là một hình thức tương đối phổ biến.

Rất nhiều ý kiến cho rằng, hò là loại ca hát có nguồn gốc từ lao động sông nước. Điều đó là có cơ sở vì có nhiều điệu hò gắn với sông nước như hò Sông Mã, hò Qua sông hái củi, hò Khoan, hò Giựt chì, hò Kéo lưới, hò Mái nhì, hò Mái đẩy, hò Mái ba Gò Công, hò Đồng Tháp,... Tuy nhiên, có những điệu hò không gắn với sông nước như hò Giã gạo, hò Xay lúa, hò Kéo gỗ, hò Đạp lúa,... Từ thực tế đó, có thể coi phần lớn hò là một loại ca hát trong loại lao động tương đối nặng nhọc và hầu hết các trường hợp là lao động đông người cho cùng một công việc. Tuy nhiên, không phải bất cứ điệu hò nào cũng mang nhịp lao động. Các điệu hò trên sông Hương, trên kênh rạch Nam bộ là những giai điệu tự sự, dàn trải, lắng sâu. Vì vậy, không thể xem hò như một phương tiện giữ nhịp điệu cho một tập thể lao động thống nhất động tác. Với tư cách là một dạng nghệ thuật âm nhạc, trước hết và chủ yếu hò diễn tả tâm tư tình cảm của người lao động.

Hò có thể coi là đặc sản văn hóa của miền Trung và miền Nam, mặc dầu một số địa phương ven biển miền Bắc cũng có hò. Một vài tộc thiểu số cũng có loại ca hát tương ứng với hò như các điệu "Xuôi sông Đà" và "Xuôi sông Mã" của người Thái Tây Bắc.

CẢI LƯƠNG

Cùng với sự ra đời của tiểu thuyết, kịch nói, thơ mới... sự ra đời Cải lương được xem như là sản phẩm mang tính tất yếu của lịch sử. Nó hình thành từ sự tiếp xúc giữa nền văn hóa nông nghiệp lúa nước và nền văn hóa công nghiệp phương Tây. Nếu như kịch nói có lịch sử lâu đời và nguồn gốc từ phương Tây, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn hóa, của quan điểm thẩm mỹ phương Tây thì sự ra đời của Cải lương đầu thế kỷ XX có nguồn gốc từ nghệ thuật truyền thống dân tộc và sự du nhập lối biên kịch Châu Âu. Yếu tố đầu tiên mang tính cội nguồn của nghệ thuật cải lương là âm nhạc tài tử Nam Bộ.
Những năm đầu thế kỷ XX, vào khoảng năm 1917 có những bậc tiền bối làm nên sân khấu Cải lương như Nguyễn Tống Triều, André Thận, Thầy Năm Tú... Đầu tiên là hình thức ca nhạc tài tử. Thời ấy,Tuồng (Hát bội) không còn giữ vị trí độc tôn trong thưởng thức nghệ thuật trình diễn của đồng bào miền Nam, nên từ các vùng nông thôn bắt đầu phong trào đờn ca tài tử phục vụ trong các cuộc vui như lễ cưới, lễ hỏi, đám tiệc, đám giỗ... Sau đó là hình thức ca ra bộ. Sự khởi đầu của hình thức này được đánh dấu tại cuộc trình diễn của nhóm ca nhạc tài tử trên sân khấu hộp trong đó có cô Ba Đắc tại Hội chợ thuộc địa tại Pháp. Sau này ca ra bộ phát triển như một trào lưu tại Nam bộ. Tiết mục được trình diễn rất thô sơ trên một bộ ván gõ, diễn viên vừa ca, vừa diễn với điệu bộ, động tác minh họa. Ca ra bộ chính là gạch nối giữa hình thái âm nhạc và hình thái sân khấu. Sau đó nhờ những soạn giả như ông Trương Duy Toản, Mộc quán Nguyễn Trọng Quyền... viết lại từng mảng các chuyện tích xưa để diễn ca ra bộ, với hình thức đối ca, liên ca rồi kết hợp lại thành những vở tuồng Cải lương đầu tiên như Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều... Cải lương hình thành và phát triển rất mau nhờ những đóng góp của những bậc tài danh như Năm Phỉ, Năm Châu, Trần Hữu Trang, Tư Chơi, Năm Nở, Phùng Há...
Bước đầu hình thành, Cải lương giống như tên gọi cũng chịu ảnh hưởng đủ thứ nghệ thuật (đầu Ngô mình Sở). Tình trạng hỗn độn trong trang phục,hay phong cách diễn vẫn thường xảy ra; chẳng hạn diễn viên đóng Lữ Bố mang giày bốt, đóng Điêu Thuyền mặc áo dài, cột dây ngang lưng, đầu thắt bánh lái, cũng hát đủ kiểu tích Tàu, chuyện Tây. Tuy nhiên, những gì phi nghệ thuật làm mất bản sắc dân tộc dần dần bị đào thải. Nhờ các tác giả có tri thức, có tài năng mà sân khấu cải lương hình thành hai dòng: tuồng Tàu và tuồng Tây mà sau này các nhà nghiên cứu sân khấu khẳng định là Cải lương có hai phương pháp:phương pháp hiện thực tâm lý và phương pháp biểu hiện tả ý.
Trong bối cảnh văn hóa Việt nam đầu thế kỷ,nếu nói hát Bội là loại hình nghệ thuật cũ, Kịch nói là loại hình nghệ thuật mới thì Cải lương lại đứng giữa cái cũ và cái mới. Tính dân tộc qua phương pháp biểu hiện tả ý và tính hiện đại qua phương pháp tả thực tâm lý. Sân khấu Cải lương vừa dân tộc vừa hiện đại là do kết hợp một cách tài tình hai phương pháp hiện thức tâm lý và biểu hiện tả ý.
Đã nói đến sân khấu Cải lương, không thể nào không nói đến bản nhạc "đinh" trong các vở tuồng. Đó là bản vọng cổ. Có người cường điệu "không có bản vọng cổ không thể trở thành một đêm hát cải lương... "Lời khẳng định trên có phần hơi quá đáng, nhưng nghĩ kỹ lại cũng không sai. Tính hấp dẫn của một đêm diễn Cải lương không thể không nói tới sức thu hút kỳ diệu của bản vọng cổ.
Được biết vào năm 1918 ông Cao Văn Lầu đã sáng tác bản Dạ Cổ Hoài Lang, sau này trở thành bản vọng cổ. Dạ Cổ Hoài lang tiền thân của bản vọng cổ đã tạo ra một không khí mới cho nền ca nhạc cổ miền Nam. Từ đó trở đi, bất kỳ trong một vở Cải lương nào, bản vọng cổ vẫn là bản nhạc chủ đạo, thể hiện một cách đa dạng qua tất cả tình huống, trong một vở Cải lương.
Theo nhà nghiên cứu Tuấn Giang dựa theo một số công trình nghiên cứu thì ngoài âm nhạc tài tử Nam bộ ra có một dòng hình thành nên nghệ thuật Cải lương là cải cách nghệ thuật hát Bội .Theo chúng tôi việc làm đó không tránh khỏi khiên cưỡng và áp đặt. Đúng là trong thực tế Cải lương có một số điệu thức phương thức biểu đạt của Tuồng, nhưng nếu chỉ dựa vào đó coi đó là yếu tố hình thành Cải lương là chưa đúng về mặt thực tế và chưa thuyết phục về mặt khoa học. Cũng như có một thời gian dựa vào sự kiện Lý Nguyên Cát bị bắt làm tù binh, dạy múa hát cho người nước Nam mà chúng ta cho rằng nghệ thuật Tuồng có nguồn gốc từ Trung Quốc. Đó là sự ngộ nhận đáng tiếc. Dù Lý Nguyên Cát có tài giỏi đến đâu cũng chỉ góp phần thúc đẩy sự hình thành sân khấu Tuồng được nhanh chóng hơn, chứ không thể nào quyết định việc có hay không của Tuồng. Ở Cải lương cũng vậy. Nếu nói cải cách hát Bội là sự dịch chuyển, đổi mới từ hình thức cũ sang hình thức mới mà không phá bỏ nền móng, mô hình của hát Bội thì ở Cải lương nó đã phá bỏ mô hình hát Bội. Các điệu thức , phương thức biểu đạt của hát Bội có trong Cải lương là một sự thật không ai có thể chối cãi nhưng nó không phải là điệu thức chính. Điệu thức oán, lý và bài vọng cổ mới là điệu thức chính của Cải lương mới là chất men làm say lòng người. Đó là sự khác xa mà các nhà nghiên cứu đã khẳng định. Hay nói chính xác hơn Cải lương đã vay mượn các điệu thức ,các phương thức biểu đạt của Tuồng để làm giàu thêm cho mình và để đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của tầng lớp công chúng thị dân mới.
Khẳng định Cải lương không hình thành từ dòng cải cách hát Bội mà từ phong trào đờn ca tài tử Nam Bộ, không những không làm giảm phẩm chất và tổn thương danh giá của nó mà còn trả lại tính khách quan lịch sử cho nó.
Ngay từ lúc mới ra đời Cải lương đã thể hiện tinh thần ái quốc theo kiểu riêng của mình. Tầng lớp trí thức ,tiểu tư sản có nền học vấn Tây học thể hiện lòng yêu nước ,lòng tự tôn dân tộc dưới nhiều hình thức nhiều vẻ. Trong đó nhu cầu giải phóng cá nhân, nhu cầu tự khẳng định mình thóat khỏi sự o ép, quản thúc của xã hội – là một nhu cầu bức bách của giới này. Trào lưu lãng mạn chi phối tất cả các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật lúc đó. Thực chất đó là một thái độ một cách phản ứng với xã hội đương thời. Nếu báo chí đầu thế kỷ với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đi đầu trong việc tuyên truyền lòng tự tôn dân tộc bằng chữ quốc ngữ; nếu sân khấu kịch nói được nhập vào Việt Nam qua những bản dịch kịch Molie và sản phẩm “nội” đầu tiên là “Chén thuốc độc” (Vũ Đình Long); nếu văn học với “tiểu thuyết mới” với “ Tự lực văn đoàn”, phong trào thơ mới với Tản Đà (cái tôi ngông nghênh được xuất hiện, trưng bày như một nhu cầu của con người thời đại) thì Cải lương thể hiện ái quốc theo cách của mình. Khuynh hướng giải phóng cá nhân được đề cao, và mau chóng trở thành chủ đạo trong toàn bộ công tác biên kịch của nghệ thuật cải lương. Trong tiến trình xã hội Việt Nam nói chung, nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói riêng, đặt ra vấn đề giải phóng cá nhân, đề cao cái tôi là một bước tiến, một bước ngoặt. Đó là một mặt của tinh thần dân chủ, là sự đổi mới của hệ suy luận mà ở châu Au ngay từ thế kỷ Khai sáng thế kỷ XVIII đã đề ra. Với một xã hội nông nghiệp lúa nước hàng ngàn năm, với tinh thần truyền thống luôn đề cao cái “ta” – một cái “ta” mang tính trung quân của nho giáo, một cái “ta” mang tính cộng đồng làng xã, thì chuyển sang cái “tôi” cá nhân với bản sắc riêng, một cái “tôi” muốn tự khẳng định, muốn vùng vẫy với tinh thần tự do – lãng mạn là cả một bước ngoặt. Tuồng hát bội đã có một loại nhân vật trung quân: từ tâm tư đến hành động luôn bị đạo trung quân chi phối, và cũng bởi vậy cái con người cá nhân với cái riêng sống động của nó hoàn toàn bị con người theo chất lý tưởng Nho giáo che khuất. Ơ cải lương cái “tôi” đã mang đậm bản sắc rất riêng của con người. Đó là những con người muốn thóat khỏi ràng buộc của lễ giáo, muốn tự giải phóng mình, muốn sống vì tinh yêu, đi theo tiếng gọi của tình yêu mà rũ bỏ công danh, địa vị và đôi khi tự vẫn. “Khi người điên biết hát”, “Nỗi lòng người bếp”, “Tô Anh Nguyệt”, “Đời cô Lựu” và rất nhiều những vở thuộc loại này. Đó là cái “tôi” biết hát vang lên khúc ca tình yêu, biết thổn thức, biết xả thân vì tình yêu, không vì một tư tưởng trung quân nào ràng buộc. Chất lãng mạn, nhu cầu giải phóng cá nhân… là một nhu cầu mang tính thời đại, một nhu cầu có tính tiên tiến đối với con người của văn hóa lúa nước vốn bị “phương thức sản xuất châuA” đã ngàn năm trói buộc. Đó cũng là những vấn đề lớn, là nội dung mà nghệ thuật Cải lương quan tâm thể hiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Những vấn đề lịch sử văn học kịch nữa đầu thế kỷ XX – Phan Trọng Thưởng
Năm mươi năm mê hát – Vương Hồng Sển
Ca nhạc và cải lương – Tuấn Giang
Phong cách và thi pháp nghệ thuật cải lương – Hà Văn Cầu
Bước đầu tìm hiểu nghệ thuật cải lương – Sĩ Tiến
Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói trước CMT8- Phan Kế Hoành-Huỳnh Lý
Nghệ thuật cải lương, những trang sử – Trương Bỉnh Tòng
Tìm hiểu âm nhạc cải lương –Đắc Nhẫn

Hát bội



Vốn là một môn nghệ thuật truyền thống lâu đời nhất của Việt Nam, Hát bội (còn được gọi là hát Bộ) xuất xứ từ sân khấu Tuồng của miền Bắc, sau đó thời triều Nguyễn được nâng cao và phát triển mạnh ở miền Trung (Bình Định và Huế...) rồi lan nhanh đến Sài Gòn và Nam Bộ ở vào giai đoạn rất sớm khi vùng đất này hình thành.

Sức hấp dẫn của sân khấu hát bội là sự kết hợp đề cao các đạo lý truyền thống của dân tộc thông qua các hình thức biểu diễn hết sức độc đáo đó là hình thức ước lệ trong nghệ thuật ca, diễn, vũ đạo, trang phục, hoá trang... của diễn viên.

Hát bội giữ được vị trí chủ đạo trong sinh hoạt biểu diễn ở Sài Gòn suốt mấy thế kỷ, nhưng sang đến thể kỷ XX, hát bội bị các loại hình nghệ thuật sân khấu khác (Cải lương, kịch nói...) lấn át, trở thành một loại hình nghệ thuật cổ truyền chủ yếu gắn với sinh hoạt lễ hội dân gian (ở đình, miếu...). Mặc dù vậy, đối với nhiều người dân, nhất là ở vùng nông thôn ngoại thành và người lớn tuổi, hát bội vẫn là một loại hình nghệ thuật có sức hấp dẫn riêng. Đặc biệt, gần đây hoạt động du lịch ở TP Hồ Chí Minh ngày càng phát triển, các chương trình trích đoạn hát bội truyền thống phục vụ khách du lịch quốc tế đã được chú ý bước đầu đạt hiệu quả tốt.


Tuồng

Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đặc sắc của Việt Nam được hình thành trên cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân tộc Việt Nam. Ðến cuối thế kỷ XVIII Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh mọi mặt từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn.

Khác với các loại hình sân khấu khác như chèo, cải lương... Tuồng mang theo âm hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ của Tuồng. Có thể nói Tuồng là sân khấu của những người anh hùng. Trong những hoàn cảnh đầy mâu thuẫn và xung đột bạo liệt bi ai các nhân vật chính diện của Tuồng đã vươn lên thoát khỏi sự chế ngự của hoàn cảnh hành động một cách dũng cảm anh hùng, trở thành một tấm gương, một bài học cho người đời ngưỡng mộ noi theo.

Tuồng thuộc dòng sân khấu tự sự phương Ðông. Phương thức phản ánh đã đẻ ra thủ pháp và phương tiện biểu diễn Tuồng. Trong quá trình tái hiện cuộc sống Tuồng không có xu hướng tả thực mà chú trọng lột tả cái thần. Tả thần là biện pháp nhằm lột tả cái cốt lõi cơ bản, không đi sâu vào những chi tiết vụn vặt khi những chi tiết ấy không gây được hiệu quả nghệ thuật. Ðể lột tả được cái thần của nhân vật Tuồng dùng thủ pháp khoa trương cách điệu. Tất cả những lời nói, động tác hình thể sự đi lại trên sân khấu Tuồng đều được khoa trương và cách điệu để trở thành những điệu hát, điệu nói, điệu múa có nguyên tắc và niêm luật cụ thể. Tuồng có một hệ thống những điệu hát và những hình thức múa cơ bản mang tính chất mô hình. Người diễn viên tuồng căn cứ vào hoàn cảnh và tính cách nhân vật mà vận dụng linh hoạt những mô hình đó cho phù hợp. Ðặc trưng của khoa trương cách điệu còn được thể hiện trong âm nhạc, hoá trang, sự hình thành các kiểu mặt nạ hoá trang chủ yếu là sự khoa trương cách điệu đường nét , nếp nhăn trên khuôn mặt người. Quá trình khoa trương cách điệu trong Tuồng đều theo luật chi phối của luật âm dương.

Cùng với khoa trương cách điệu, Tuồng còn dùng thủ pháp biểu trưng ước lệ nghĩa là thủ pháp lấy chi tiết để thay cho toàn thể cuốn hút khán giả cùng tham gia vào sự tưởng tượng và sáng tạo của người diễn viên. Một chiếc roi ngựa có thể thay thế cho một con ngựa, chiếc mái chèo thay cho con thuyền, vài người lính có thể thay thế cho cả một đạo quân, một vòng đi quanh sân khấu có thể thay cho vạn dặm đường trường.

Khác với sân khấu hiện thực tâm lý, Tuồng rất ít bài trí sân khấu. Không gian sân khấu thường được bỏ trống, người diễn viên xuất hiện thì không gian, thời gian cũng xuất hiện. Nhân vật hành động trong không gian, thời gian nào thì sân khấu là không gian, thời gian đó. Thuở trước các gánh hát Tuồng chỉ cần chỉ có một chiếc chiếu trải giữa sân đình và đôi ba cái hòm gỗ đựng đạo cụ phục trang vậy mà họ vẫn diễn tả được không gian thời gian khác nhau, khi là trốn cung điện nguy nga, lúc là nơi núi rừng hiểm trở...

Tuồng vừa chứa đựng yếu tố của sân khấu cổ điển lại vừa chứa đựng những yếu tố của san khấu hiện đại. Yếu tố cổ điển biểu hiện ở chỗ tất cả những điệu hát, điệu múa được đúc kết trở thành khuôn vàng thước ngọc, hiện đại ở chỗ người diễn viên biểu diễn trên sân khấu không cần cảnh trí, Tuồng là loại sân khấu tổng thể. ở đây các yếu tố ca, vũ nhạc được pháp triển một cách hài hoà trong nghệ thuật biểu diễn.

Dàn nhạc Tuồng chủ yếu làm nhiệm vụ hỗ trợ trong biểu diễn của diễn viên. Trong dàn nhạc Tuồng gồm có bộ gõ: (trống, thanh la, mõ..), bộ hơi (kèn, sáo, chủ yếu là kèn); bộ dây (nhị, cò, hồ, đại, tiểu...)bộ gảy: (tam, tứ, nguyệt...).

Tuồng - một loại hình sân khấu độc đáo của Việt Nam ẩn chứa những giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc, những giá trị nghệ thuật mang tính chất bền vững. Tuồng đã và sẽ còn là những người bạntri âm, tri kỷ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam.

HJát Quan Họ .

Hát Quan họ (hay Quan họ Bắc Ninh) là "đặc sản" dân ca của người Việt ở tỉnh Bắc Ninh. Nó bắt nguồn từ những lối hát đối đáp nam nữ có từ rất lâu đời.

Hát Quan họ chủ yếu chỉ được tổ chức ở mỗi làng mỗi năm một lần vào dịp hội làng. Nó gắn với tục kết bạn nam nữ, kết nghĩa giữa hai làng khác nhau. Ngoài một bộ phận nhỏ mang nội dung chúc tụng, khẩn cầu, đại bộ phận các bài ca mà các anh Hai, chị Hai Quan họ (cách gọi nhau theo truyền thống) đối đáp với nhau đều mang nội dung giao duyên trữ tình rất thắm thiết. Tuy nhiên, theo tập tục cổ truyền trai gái trong các nhóm kết bạn hát với nhau lại không bao giờ lấy nhau.

Các cuộc Hát Quan họ có thể diễn ra ở trong nhà cũng như ngoài trời. Phương thức sinh hoạt ở các làng khá đa dạng, song nhìn chung, ngoài một số nét khác biệt, trong Hát Quan họ chứa đựng cả những nét có ở nhiều thể loại hát đối đáp nam nữ của các tộc trên đất nước.
Hát Quan họ bao giờ cũng hát đôi, trình tự hát vừa theo nội dung vừa theo làn điệu, đối lời kèm đối giọng.

Trải qua một quá trình phát triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu rộng và phát triển sớm, Hát Quan họđã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt Nam. Dân ca Quan họ cókhoảng 180 bài khác nhau , không tính các dị bản - một trong những kỷ lục của các thể loại dân ca Việt Nam.

Lời hay ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc; âm điệu phong phú, trữ tình; lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo; phong cách lịch thiệp - tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ Bắc Ninh


Hát Văn

Gắn với một phức hợp tín ngưỡng của người Việt, sau nhiều thế kỷ phát triển Hát văn (hoặc Hát chầu văn) đã xây dựng được nhiều kiểu gõ nhịp và một hệ thống làn điệu, bài bản phong phú với những qui ước về cách vận dụng cho từng hàng Thánh và từng loại Phủ.

Bên cạnh ba hệ thống làn điệu của riêng mình - Cờn, Dọc, Xá, Hát văn còn thu nạp nhiều bài bản, làn điệu từ các thể loại dân ca nhạc cổ khác.
Nhịp điệu và bộ gõ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng này.
Chúng tạo nên một không khí phấn hứng cao, góp phần giúp người ngồi đồng có cảm giác thoát xác để nhập thân với các vị Thánh,

đồng thời kết hợp với yếu tố tâm linh chúng góp phần tạo nên một trạng thái tinh thần đặc biệt khiến người ta có thể thực hiện những việc mà ở trạng thái bình thường khó có thể làm nổi.

Hát văn cùng với tục hầu bóng tiêu biểu cho một loại hình sinh hoạt tín ngưỡng tồn tại ở nhiều tộc trong nước. Ngoài yếu tố tâm linh, sự hấp dẫn của phần ca nhạc xưa kia đã từng khiến nhiều người say mê. Ngày nay những điệu Hát văn được giới thiệu với nội dung mới trên các sóng phát thanh và trên sân khấu ca múa nhạc vẫn là những tiết mục được công chúng yêu thích


Hát then

Hát then là một thể loại ca nhạc tín ngưỡng của người Tày, Nùng. Có thể xem Hát then là một cuộc diễn xướng trường ca mang màu sắc tín ngưỡng tường thuật lại cuộc hành trình lên thiên giới để cầu xin Ngọc hoàng giải quyết một vấn đề gì đó cho gia chủ.

Các bản trường ca thường gồm nhiều chương đoạn với độ dài ngắn và nội dung chi tiết ít nhiều khác biệt. Bản dài nhất đã sưu tầm được dài tới 4.949 câu với 35 chương đoạn.

Hát then là một hình thức diễn xướng tổng hợp bao gồm cả ca nhạc, múa, diễn với nhiều tình huống khác nhau. Trong cuộc lễ, ngoài nhiệm vụ thực hiện các nghi thức cúng, then hoặc giàng đồng thời phải đảm nhiệm chức năng của một diễn viên tổng hợp. Họ vừa hát, tự đệm, vừa múa và diễn để thể hiện nội dung các câu hát, đôi khi còn biểu diễn cả những trò nhai chén, dựng trứng, dựng gươm...

Âm nhạc luôn luôn là yếu tố xuyên suốt cuộc Hát then. Hát then có nhiều bài bản, làn điệu. Nhạc cụ đệm đơn giản song ở đây có thể gặp những đoạn hát hai - ba bè lý thú.

Người Tày, Nùng bất kể tuổi tác, giới tính, những người mê tín cũng như không mê tín rất thích nghe Hát then. Một vài tộc khác như H'mông, Việt ở trong vùng cũng tiếp nhận thể loại hát này trong đời sống tinh thần của mình.

Quy Nhơn - Cái nôi của nghệ thuật hát bội

Nghệ thuật tuồng ở Bình Định nói chung và ở Quy Nhơn nói riêng từ nhiều thế kỷ qua đã tồn tại và phát triển rất mạnh, trở thành món ăn tinh thần đặc biệt và quen thuộc của nhân dân vùng đất này. Mặc dù có những biến động lịch sử, trải qua chiến tranh, những người dân Bình Định vẫn giữ môn nghệ thuật đặc sắc của mình và kiên quyết chống lại những cuộc xâm lăng văn hóa từ nước ngoài để Quy Nhơn vẫn là điểm hội tụ tài năng hát bội, rồi từ Quy Nhơn tỏa đi khắp các địa phương khác.

Sự kiến đáng ghi nhớ trong lịch sử sân khấu tuồng là cuộc họp mặt các diễn viên, nghệ sĩ tuồng toàn quốc đầu tiên tại TP. Quy Nhơn giữa năm 1976. Từ đó Quy Nhơn trở thành điểm hội tụ thường xuyên của nghệ sĩ tuồng cách mạng kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất.

Quy Nhơn hiện có nhà hát tuồng mang tên Đào Tấn - nhà hát đang gìn giữ và phát huy di sản tuồng đồ sộ của vị hậu tổ tuồng, danh nhân Đào Tấn. Nơi đây đã từng làm ra những công trình nghệ thuật tuồng mẫu mực về hát, múa, về biểu diễn tuồng truyền thống nói chung và đã giành được tiếng vang lớn như "Quang Trung đại phá quân Thanh", "Sao Khuê trời Việt", "Sáng mãi niềm tin", "Bùi Thị Xuân"... Đặc biệt, những vở tuồng cổ điển mẫu mực về văn học và nghệ thuật biểu diễn của Nguyễn Văn Diêu và Đào Tấn đã và đang được phục hồi ở Quy Nhơn để làm tài sản chung cho ngành tuồng cả nước nghiên cứu, học tập. Ngoài nhà hát tuồng Đào Tấn, ở Quy Nhơn còn rất nhiều câu lạc bộ tuồng truyền thống hoạt động thường xuyên. Ở Quy Nhơn, xem tuồng là một tập tục hay một sự đam mê hiếm thấy.

Cho đến hôm nay, Quy Nhơn (Bình Định) vẫn được coi là trung tâm của nghệ thuật hát bội (tuồng). Nói tới tuồng là người ta nghĩ đến Bình Định, và muốn được xem những vở tuồng đích thực của Đào Tấn, Nguyễn Văn Diêu... thì phải đến Quy Nhơn.

Nhạc cung đình Huế - loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc ở Việt Nam

Âm nhạc cung đình Việt Nam là một bộ môn âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam, có giá trị cao về nghệ thuật và phương diện lịch sử.

Nhạc cung đình còn xuất hiện trong triều đình của một số quốc gia châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho biết, theo sử sách để lại thì nhạc cung đình xuất hiện lần đầu tiên vào đời nhà Trần (thế kỷ 14), nhưng mãi đến đời Nguyễn (cuối thế kỷ 18) nhạc cung đình mới chính thức được phổ biến và phát triển mạnh tại Cung đình Huế. Tuy được sử dụng trong cung đình, nhưng việc sáng tác và biểu diễn hầu hết đều do những nhạc sĩ, nghệ sĩ dân gian nhờ có tay nghề cao mà được sung vào cung để phục vụ triều đình. Vì vậy, nhạc cung đình tuy mang tính bác học nhưng cũng mang đầy âm hưởng các làn điệu dân gian của các miền Việt Nam. Nhạc cung đình Việt Nam sử dụng những nhạc cụ dân tộc như đàn tam, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, sáo trúc, bộ gõ. Các nhạc cụ này thể hiện đầy đủ các âm vực từ tiếng kim, tiếng thổ, tiếng trong, tiếng đục, tiếng trầm, tiếng bổng. Điều khác biệt giữa nhạc cụ biểu diễn trong cung đình với nhạc cụ sử dụng trong dân gian là nhạc cụ dùng trong cung đình được làm kỹ, chạm khắc cẩn thận, khéo léo, tinh xảo hơn.

Nhạc cung đình Huế có hai loại là Đại nhạc và Tiểu nhạc. Dàn Đại nhạc gồm có khèn, trống, bộ gõ và có thể có thêm đàn nhị. Khèn là loại khèn bầu và khèn bát làm bằng gỗ, được chia làm 3 loại là khèn đại, khèn trung và khèn tiểu. Trống cũng có nhiều loại từ trống lớn nhất là trống đại đến trống tiểu, trống vỗ, trống một mặt. Đại nhạc thường được dùng trong dịp Tết và những ngày lễ lớn. Dàn Tiểu nhạc gồm những nhạc cụ dùng dây tơ, sáo trúc và bộ gõ. Loại nhạc cụ dây tơ có loại đàn gảy như đàn nguyệt có hai dây, đàn tam có ba dây, đàn tỳ bà có bốn dây, có đàn dùng cung để kéo như đàn nhị. Bộ gõ bằng gỗ có mõ và phách tiền, bằng kim khí có chuông các cỡ. Các dàn nhạc biểu diễn thường có kèm theo đội múa. Dàn nhạc và đội múa là cả một sự phối hợp hài hòa giữa âm nhạc, vũ điệu và màu sắc trang phục.

Nhạc cung đình có nhiều thể loại khác nhau được biểu diễn trong những dịp lễ hội khác nhau. Giao nhạc được dùng trong tế Lễ Nam Giao khi nhà Vua làm lễ tế trời đất được thực hiện ba năm một lần; Miếu nhạc được dùng trong các lễ tế miếu; Ngũ tự nhạc sử dụng trong năm lễ tế thần; Đại triều nhạc được tấu trong các lễ lớn như Lễ Vạn thọ, tiếp Sứ thần; Thường triều nhạc được tấu khi Vua lâm triều thường lệ; Đại Yến nhạc được tấu trong các buổi yến tiệc; Cung trung chi nhạc được dùng trong cung phủ; Cứu nhật nguyệt giao trung nhạc được dùng trong các dịp nguyệt thực và nhật thực; và còn bao gồm tất cả các bộ môn âm nhạc khác như nhạc thính phòng, sân khấu và múa.

Theo các nhà nghiên cứu âm nhạc, trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, đây là bộ môn âm nhạc duy nhất được ghi vào sử sách từ xa xưa, trải qua bao thăng trầm của các triều đại, bao biến thiên của thời cuộc mà vẫn còn lưu lại được một di sản đáng kể có thể sử dụng để nghiên cứu về nhạc khí, cách sắp xếp dàn nhạc, nhạc ngữ và quan điểm thẩm mỹ.

Hiện tại, Việt Nam đang hoàn thành hồ sơ về Âm nhạc cung đình Việt Nam hay còn gọi là Nhã nhạc Huế để đệ trình UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại trong đợt hai năm 2003


Nghệ thuật hát chèo



Đã hàng trăm năm nay, nghệ thuật hát chèo, tuồng, múa rối nước, dân ca v.v... là những loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo của Việt Nam. Trong đó nghệ thuật hát chèo đã được những người nông dân miền Bắc Việt Nam rất yêu thích. Đặc biệt nó được phổ biến rất rộng ở đồng bằng sông Hồng. Chỉ riêng hai tỉnh Thái Bình, Hải Hưng đã có tới gần một ngàn đoàn chèo bán chuyên nghiệp và nghiệp dư. Ngay cả ngày nay, ở thế kỷ của điện ảnh, radio, video, vô tuyến truyền hình v.v... nếu không có nghệ thuật chèo thì không thể hình dung nổi đời sống văn hóa của nông thôn Việt Nam.

Đã có một thời, Hội chèo đôi khi kéo dài cả tuần lễ, mặc dầu còn lâu mới đến Hội nhưng trong mỗi gia đình nông dân đều đã có sự chuẩn bị tham gia kỳ Hội với những vai chèo yêu thích.

Đã từ lâu, nghệ thuật chèo đối với người nông dân Việt Nam vừa là sân khấu, vừa là thơ ca và âm nhạc và là nguồn duy nhất trong đời sống tinh thần của mình. Trong các vở chèo cổ thường vạch mặt bọn quan lại phong kiến và thực dân áp bức giống nòi. Ơở các vỡ diễn, người nông dân thấy được sự phản ánh đời sống của mình với những mặt tích cực và phản diện, những ước mơ và ý niệm của mình về cái thiện và cái ác. Mọi người đã yêu và càng yêu nghệ thuật chèo bởi tính nhân đạo và sự tươi mát của nó, và bởi nó mang màu sắc dân tộc độc đáo.

Những vở chèo - đó là các mẩu chuyện sân khấu của những tiểu thuyết thi ca, nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn, nó có những truyền thống lâu đời của thi ca phương Đông. Ngoài việc chèo là một nghệ thuật được nảy sinh từ quần chúng nông dân, nó còn được sử dụng rất nhiều tục ngữ và ca dao dân gian do nhân dân sáng tạo ra qua hàng ngàn năm.

Nghệ thuật cơ bản trong các vai của diễn viên là múa mà qua đó nó có thể hiện được tất cả sự uyển chuyển nhịp nhàng của con người. Những nghệ nhân lớp trước thường nói rằng: "Múa hình tượng đẹp đẽ của nội tâm". Song song v&a
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #2  
Old 06-19-2004, 08:37 AM
Caotieutho Caotieutho is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Jun 2004
Nơi Cư Ngụ: Sai Gon.
Bài gởi: 99
Default

chài ai, dài thòn lòn, đọc trên Net đóng tiền chết luôn, ctt in ra giấy cũng tốn hết 5 tờ 'f
__________________

Nếu phải duyên nhau thì thắm lại...
đừng xanh như lá bạc như vôi...
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #3  
Old 08-15-2004, 04:06 AM
Minhlvm Minhlvm is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Aug 2004
Bài gởi: 238
Question

anh Tong Giang viet gi ma dai thé, doc mot hoi het muon doc luon :huh:
__________________
Doi La Van Ngay Sau
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #4  
Old 09-19-2004, 11:55 PM
nico_vn nico_vn is offline
Junior Member
 
Tham gia ngày: Aug 2004
Bài gởi: 16
Default

:lol: dai wá nico chi luot so wa thoi nhin cung moi mat rui :P
Trả Lời Với Trích Dẫn
  #5  
Old 03-30-2005, 04:27 AM
contraicung contraicung is offline
Junior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2005
Bài gởi: 2
Default

Đúng rùi dài quá doc mỏi con mắt luôn :lol:
Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời


Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn không được quyền gởi bài
Bạn không được quyền gởi trả lời
Bạn không được quyền gởi kèm file
Bạn không được quyền sửa bài

vB code đang Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 05:09 PM.


Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.