View Single Post
  #2  
Old 08-15-2009, 12:27 PM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

B. KỸ THUẬT LÀM THƠ ĐL TNBC


1. Hình thức bài thơ ĐL
Về mặt hình thức, một bài thơ ĐL gồm có 6 yếu tố, thiếu một yếu tố thì không phải bài thơ ĐL :
a. Số chữ, số câu hạn định
Một bài thơ ĐLTNBC tổng cộng có 56 chữ , gồm 8 câu mỗi câu 7 chữ


b. Đúng luật bằng trắc
Các câu trong bài thơ ĐLTNBC phải theo đúng quy luật bằng trắc rất chặt chẽ, như đã trình bày ở trên. Bài thơ không theo đúng luật bằng trắc là bài thơ thất luật.


* Bất luận và khổ độc
Giữ đúng luật bằng trắc của bài thơ ĐL rất khó, nó làm hạn chế việc sử dụng từ ngữ và diễn đạt ý tưởng của người làm thơ nên trong thơ ĐL có thêm luật "nhất tam ngũ bất luận, nhị tứ lục phân minh", tức là trong 1 câu thơ ĐL không cần giữ đúng luật bằng trắc ở các chữ thứ 1, 3 hay 5, nhưng chữ thứ 2, 4 và 6 thì tuyệt đối không thể du di được .

Tuy vậy khi sử dụng luật bất luận, chữ theo luật là trắc mà đổi sang bằng thường thì không sao, nhưng nếu bằng mà đổi sang trắc đôi khi đọc nghe không êm tai, phải nên tránh .

Những chữ thứ 5 của câu lẻ và chữ thứ 3 của câu có vần nếu theo luật đáng là bằng mà lại đổi thành trắc theo luật bất luận thì gọi là khổ độc .

Một bài thơ bị nhiều lỗi khổ độc sẽ kém giá trị !


c. Đúng niêm
Niêm cũng là yếu tố quan trọng trong bài thơ ĐL TNBC. Để xác định bài thơ đúng niêm hay không thì phải xem chữ thứ 2 của mỗi câu.
- Chữ thứ 2 của câu 2 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 3 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 4.
- Chữ thứ 2 của câu 4 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 5 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 6.
- Chữ thứ 2 của câu 6 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 7 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 8.
- Chữ thứ 2 của câu 8 phải cùng nhóm thanh (trắc hay bằng) với chữ thứ 2 của câu 1 và khác nhóm thanh với chữ thứ 2 câu 2.
Nếu bài thơ không thoả tất cả các điều kiện trên thì gọi là thất niêm.


d. Đúng vần
Bài thơ ĐL chỉ dùng độc vận và vần được gieo ở cuối các câu chẵn. Trong 1 bài thơ ĐL có thể dùng cả chính vận lẫn thông vận, cưỡng vận chỉ dùng trong trường hợp bất đắc dĩ và nên dùng ít thôi. Nếu có lạc vận là bài thơ hỏng.


e. Chỉnh đối
Trong bài thơ ĐLTNBC, các câu 3-4 và 5-6 đối với nhau từng cặp một . Đối phải bao gồm cả đối ý, đối từ và đối thanh. Bài thơ có phần đối không chỉnh thì chưa phải là bài thơ ĐLTNBC hoàn hảo, còn nếu không đối thì không gọi là thơ ĐL (có người gọi nó là thơ Thất ngôn bát cú).


f. Đúng nhịp điệu
Thơ ĐL được ngắt nhịp ở chữ thứ 2 hoặc thứ 4 của câu, hoàn toàn khác với 2 câu bảy chữ trong thơ song thất lục bát của Việt Nam. So sánh:

Bước tới đèo Ngang _ bóng xế tà
Cỏ cây chen đá _ lá chen hoa
hay:
Nhớ nước _ đau lòng con quốc quốc
Thương nhà _ mỏi miệng cái gia gia
(Bà huyện Thanh Quan)

với:

Chìm đáy nước _ cá lờ đờ lặn
Lửng da trời _ nhạn ngẩn ngơ sa
(Ôn Như Hầu)

Nước thanh bình _ ba trăm năm cũ
Áo nhung trao quan vũ _ từ đây
(Đoàn Thị Điểm)

Bài thơ ngắt nhịp không đúng cũng không gọi là thơ ĐL.


2. Bố cục bài thơ ĐLTNBC
Bài thơ ĐLTNBC có 4 cặp câu tạo thành 4 phần: đề, thực, luận, kết
- Đề: gồm 2 câu đầu. Câu 1 là phá đề dùng để mở bài, câu 2 là thừa đề tiếp nối với câu 1 nói lên đầu đề của bài.

- Thực hay trạng: 2 câu 3-4 dùng giải thích đầu bài, nếu là tả cảnh thì mô tả cảnh sắc, nếu vịnh sử thì nêu công trạng đức hạnh của nhân vật, v.v...
- Luận: 2 câu 5-6 nói lên cảm xúc, ý kiến khen chê hay so sánh, tán rộng ra thêm, v.v...
- Kết: 2 câu cuối tóm ý nghĩa cả bài.


a. Phá đề
Có 3 loại: thực phá, hư phá và phản phá
- Thực phá: đi thẳng vào đầu bài
Thí dụ:

Nọ bức dư đồ thử đứng coi (Vịnh bức dư dồ rách, Tản Đà)
Xỏ lá ai bằng cậu Sở Khanh (Vịnh Sở Khanh, Tản Đà)
Từ thuở duyên xe mối chỉ hồng (Ký nội, Phan Thanh Giản)
Chày kình gióng tỉnh giấc Vu san (Đĩ già đi tu, Tôn Thọ Tường)

- Hư phá: mở ra khơi khơi, không mấy sát với đầu bài
Thí dụ:
Đi không chẳng lẽ trở về không (Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)
Uổng sanh trong thế mấy thu đông (Vịnh cây vông, Nguyễn Công Trứ)

- Phản phá: nói trái ý của đầu đề
Thí dụ:

Ví chẳng đi chơi hội Đạp Thanh (Kiều chơi Thanh Minh, Nguyễn Khuyến)
Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn (Đêm buồn, Trần Tế Xương)

b. Thừa đề
Nối ý với câu phá để đưa vào bài. Nếu câu Phá nhập đề ngay thì câu thừa chỉ bồi thêm ý, diễn giải rộng them cho câu phá trọn nghĩa và chuyển ý xuống hai câu thực.

Thí dụ:

Nọ bức dư đồ thư đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười (Vịnh bức dư dồ rách, Tản Đà)

Xỏ lá ai bằng cậu Sở Khanh
Kiếm ăn lại quẩn chốn lầu xanh (Vịnh Sở Khanh, Tản Đà)

Từ thuở duyên xe mối chỉ hồng
Lòng này ghi tạc có non sông (Ký nội, Phan Thanh Giản)

Chày kình gióng tỉnh giấc Vu san
Mái tóc kim sinh nửa trắng vàng (Đĩ già đi tu, Tôn Thọ Tường)

Nếu câu Phá nói khống tức là hư phá thì câu thừa phải nói rõ đề ra. Thí dụ:

Đi không chẳng lẽ trở về không
Gánh nợ cầm thư phải trả xong (Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)

Uổng sanh trong thế mấy thu đông
Cao lớn làm chi vông hỡi vông (Vịnh cây vông, Nguyễn Công Trứ)

Nếu câu phá là phản phá, tức là nói trái ý đầu đề thì câu thừa phải bẻ lại cho hợp đề bài. Thí dụ:

Ví chẳng đi chơi hội Đạp Thanh
Làm chi mang lấy nợ ba sinh (Kiều chơi Thanh Minh, Nguyễn Khuyến)

Trời không chớp bể chẳng mưa nguồn
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn (Đêm buồn, Trần Tế Xương)

c. Thực
Theo đề bài mà diễn đạt, trình bày rõ ràng trực tiếp (bình tự) hoặc gián tiếp (gián tự). Thí dụ:

Biết bao lúc mới công vờn vẻ
Sao đến bây giờ dáng tả tơi (Vịnh bức dư dồ rách, Tản Đà)

Mảnh tiên tích việt vừa khô mực
Con ngựa truy phong đã phụ tình (Vịnh Sở Khanh, Tản Đà)

Tài cán không già già khúc mắc
Ruột gan chẳng có có gai chông (Vịnh cây vông, Nguyễn Công Trứ)

Đài kính biếng soi màu phấn nhạt
Cửa không đành gởi cái xuân tàn (Đĩ già đi tu, Tôn Thọ Tường)

Kẻ còn người mất đôi hàng lệ
Trước lạ sau quen một chữ tình (Kiều chơi Thanh Minh, Nguyễn Khuyến)

Bối rối tình duyên cơn gió thoảng
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông (Đêm buồn, Trần Tế Xương)

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem than thế hẹn tang bồng (Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)

Hoặc là:

Chợ lợi trường danh tí chẳng màng
Sao ăn không ngọt ngủ không an
Trăm năm ngán đó tuồng dâu bể
Muôn họ nhờ ai bạn chiếu chăn

(Thức khuya, Phan Bội Châu)

Lạnh lẽo song thu tiễn lá ngàn
Mây thu vờn vẽ khói trần gian
Có tơ ai nhớ công tằm khổ
Không mật đành mang kiếp bướm nhàn

(Lẻ điệu, Trường Xuyên)

d. Luận
Có nhiệm vụ bàn rộng ý tứ trong câu thực hoặc tiếp ứng bồi thêm ý mới. Có 2 cách phổ biến:
- Khai triển: mở rộng, phóng ra cho to, sâu thêm.
Thí dụ:

Ấy trước ông cha mua để lại
Mà nay con cháu lấy làm chơi (Vịnh bức dư dồ rách, Tản Đà)
<giải thích vì sao bức dư đồ bị rách>

Thôi với thanh lâu người một hội
Chẳng qua hồng phấn nợ ba sinh (Vịnh Sở Khanh, Tản Đà)
<giảng giải vì sao Thuý Kiều bị lừa>

Tương tự với các bài khác:

Ơn nước nợ trai đành nỗi bận
Cha già nhà khó cậy nhau cùng (Ký nội, Phan Thanh Giản)

Hú hồn hoa liễu vài câu kệ
An cảnh tang du một chữ nhàn (Đĩ già đi tu, Tôn Thọ Tường)

Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông (Đi thi tự vịnh, Nguyễn Công Trứ)

Rường xoi cột xỉa không nên mặt
Giậu lỏng rào thưa phải cậy lòng (Vịnh cây vông, Nguyễn Công Trứ)

Nghĩ đến suối vàng thương phận bạc
Nỡ đem lá thắm phụ xuân xanh (Kiều chơi Thanh Minh, Nguyễn Khuyến)

- Phiên thế: dựng riêng một ý mới khác hẳn ý trong câu thực.
Thí dụ:

Cửa sấm gớm ghê người đánh trống
Tai trâu mỏi mệt khách đưa đàn (Thức khuya, Phan Bội Châu)

Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện
Bút bút nghiên nghiên khéo dở tuồng (Đêm buồn, Trần Tế Xương)

Gió bấc mỉa mai lòng bạch nhạn
Bóng chiều ngao ngán phận hồng nhan (Lẻ điệu, Trường Xuyên)

Ái Hoa
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn