View Single Post
  #17  
Old 11-28-2012, 12:15 PM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Nghìn lẻ một đêm - Chương 38, 39

Nghìn lẻ một đêm


Chương 38

ALI COGIA. NGƯỜI LÁI BUÔN THÀNH BAGDAD


Dưới thời giáo chủ Haroun Alrasehid, ở thành phố Bagdad có một người lái buôn tên Ali Cogia, không phải một trong những thương gia giàu nhất cũng không phải loại kém nhất, ông ở trong nhà bố mẹ để lại, không vợ không con. Trong thời gian nghỉ ngơi, ông rất hài lòng về việc buôn bán của mình và trong ba đêm liền ông nằm mơ thấy một cụ già đáng kính nghiêm khắc nhìn, quở trách ông chưa làm nhiệm vụ hành hương đến La Mecque.
Giấc mơ làm Ali Cogia bối rối. Là một tín đồ Hồi giáo trung thành, ông biết mình có bổn phận tiến hành cuộc hành hương ấy nhưng bận vì ngôi nhà, đồ đạc và một cửa hiệu, ông vẫn nghĩ có lý do chính đáng để được miễn trừ, cố gắng thay thế bằng những bố thí và các việc thiện khác. Từ lúc nằm mơ, lương tâm dồn nén sợ có tai hoạ gì xảy ra nên ông đành quyết định không chần chừ làm nhiệm vụ đó.
Để năm tới có thể thoả mãn ý nguyện, Ali Cogia bắt đầu bán hết đồ đạc, sau đó bán cửa hiệu và phần lớn hàng hoá, chỉ dành lại những gì cần thiết cho cuộc hành hương đến La Mecque; về ngôi nhà ông cho một người thuê một thời gian dài. Bố trí như thế, ông sẵn sàng chờ đoàn lữ hành của thành phố Bagdad lên đường đi La Mecque để cùng đi. Việc độc nhất còn lại là cất giữ an toàn số tiền một nghìn đồng vàng khỏi phải mang theo cồng kềnh sau khi để riêng số tiền mang theo chi tiêu và cho những việc cần khác.
Ali Cogia chọn một chiếc hũ lượng chứa vừa phải, bỏ một nghìn đồng vàng vào và chất đầy quả ô-l1iu lên trên. Sau khi gắn miệng hũ, ông đưa sang nhà một lái buôn hàng xóm. Ông đè nghị:
- Người anh em, ông củng biết ít ngày nữa tôi sẽ đi La Mecque cùng đoàn lữ hành. Ông làm ơn cho tôi gửi nhờ hũ ô-liu này và giữ gìn cho đến lúc tôi trở về.
Người hàng xóm sẵn sàng, nói
- Đây là chìa khoá nhà kho của tôi; ông tự mang hũ của ồng vào đấy, để chỗ nào tuỳ thích. Tôi hứa ông sẽ thấy lại nguyên vẹn khi trở về.
Ngày đoàn lũ hành Bagdad lên đường đã tới, Ali Cogia cùng một con lạc đà chở hàng hoá đã lựa chọn, cưỡI lên lưng con vật đi theo đoàn, may mắn đến La Mecque yên bình. Ông cùng những người hành hương khác đi viếng ngồi đền thờ nổi tiếng, hàng năm mọi người dân theo Hồi giáo từ khắp nơi trên thế giới đến chiêm ngưỡng, thành kính quan sát những buổi lễ được thông báo. Khi làm xong nhiệm vụ hành hương, ông bày những hàng hoá mang theo để bán hoặc trao đổi.
Hai thương gia đi qua, thấy hàng của Ali Cogia rất đẹp dừng lài ngắm nghía tuy họ không cần. Thoả mãn tính tò mò rồi, trong lúc rút lui người này nói với ngườI kia:
- Nếu ông lái buôn này bán ở Caires sẽ rất lời, ông ta mang tới đó còn hơn bán ở đây quá rẻ.
Ali Cogia nghe họ nói thế và đã nghe nói hàng nghìn lần về những vẻ đẹp của Ai Cập, ông quyết định ngay nhân dịp này đi một chuyến du lịch tới đó. Như vậy ông gói lại hàng hoá và đáng lẽ trở về Bagdad, ông lên đường đi Ai Cập theo đoạn lữ hành đi Caire. Đến đây ông không phải hối hận về chuyến đi vì chỉ trong ít ngày ông bán hết số hàng hoá lãi rất nhiều so với dự kiến. Ông mua hàng hoá khác với ý định qua bán ở Damas và chờ một đoàn sẽ đi trong sáu tuần nữa, để thoả mãn tính tò mò của mình ông xem hết những gì đáng tham quan ở Caire, ngắm nhìn Kim Tự Tháp, đi ngược đòng sông Nil, thấy những thành phố nổi tiếng nhất hai bên bờ.
Trong chuyến đi Damas, con đường đoàn lữ hành Damas qua Jerusalem, nhà buôn Bagdad tranh thủ tham quan ngôi đền mà mọi tín đồ Hồi giáo xem là thánh đia chỉ sall La Mecque.
Ali Cogia thấy thành phố Damas rất đẹp vì dồi dào nước, nhiều đồng cỏ, vườn cây mê hồn vượt xa những gì ông đọc được trong những truyện kể, nên ở ìại đó khá lâu. Tuy thế vẫn không quên mình là người Bagdad, cuối cùng ông ra đi, đến Halep ở lại một thời gian và từ đó sau khi vượt sông Euphrate ông đi theo con đường đến Moussoul với ý định rút ngắn đường về xuôi theo dòng sông Tigre .
Nhưng khi đến Moussoul, những thương giá BaTư cùng đi với ông từ Halep và đã cùng nhau kết bạn thân thiết, có ảnh hưởng lớn tới ông vì tính trung thực và chuyện trò dễ nghe, không khó khăn gì khẳng định với ông không chia tay với đoàn trước khi đến Sehirag, vì từ đó về Bagdad thuận hơn nhiều. Họ dẫn ông qua nhiều thành phố rồi mới đến Sehirag; ở đây ông lại thoả thuận đi cùng họ sang Ấn Độ rồi mới trở lại Sehirag với họ.
Cứ thế, tính cả những thời gian lưu lại ở các thành phố, Ali Cogia xa thành phố Bagdad cũng bảy năm lồi mới lên đường trê về. Cho đến lúc đó người bạn ông gửi hũ ô- liu trước khi đi không nghĩ gì về ông cũng như về chiếc hũ. Trong thời gian ông rời Sehirag cùng một đoàn người, người lái buôn bạn của ông ở nhà trong một bữa ăn tối của gia đình, người ta nói đến quả ô-liu và bà vợ mong muốn được ăn vì đã lâu lắm trong nhà không có.
Người chồng nói:
- Nhân chuyện ô-liu bà nhắc tôi nhớ ra khi đi La Mecque cách đây bảy năm Áli Cogia có gửi chúng ta một hũ đầy, tự mình đưa vào để trong kho và lúc trở về sẽ nhận lại. Nhưng từ khi đi đến nay Ali Cogia ở đâu. Đúng là khi đoàn lữ hành trở về, có người nói với tôi ông ta sang Ai Cập. Nhưng đã bao nhiêu năm nay ông không trở về, chắc đã chết bên ấy rồi; chúng ta có thể ăn ô-liu nếu còn ngon. Ai đó đưa cho tôi cái da và đèn, tôi vào kho lấy chúng nếm xem sao.
- Ông ơi - Bà vợ lại nói - nhân danh Chúa ông đừng làm một việc đen tối như vậy; không có gì thiêng liêng hơn việc giữ hộ. Đã bảy năm Ali Cogia đi La Mecque không về nhưng người ta bảo ông ta đi Ai Cập và từ Ai Cập ông có biết đâu ông ta đi xa hơn nữa? Chưa có tin chết rồi thì ngày một ngày hai ông ấy có thể trở về. Nếu ông không đưa trả lại chiếc hũ nguyên vẹn như lúc gửi thì xấu hổ cho ông và gia đình biết mấy! Tôi tuyên bố với ông tôi không thèm muốn những quả ô-liu ấy và tôi không ăn đâu. Hơn nữa ông nghĩ sau bấy nhiêu năm, ô-liu còn ăn được ư? Thối và hỏng hết rồi. Và nếu Ali Cogia trở về như tôi linh cảm thấy, thấy chúng ta có sờ mó đến ông ta sẽ xét đoán như thế nào về tình bạn và tính trung thực của ông? Tôi khuyên ông từ bỏ ý định ấy đi.
Bà vợ thuyết phục lâu như vậy vì thấy có sự ngang bướng thể hiện trên nét mặt chồng. Thực vậy ông không nghe những lời khuyên đúng đắn, đứng dậy đi vào kho vớI đèn và một cái đĩa. Lúc đó bà vợ nói với ông:
- Ít nhất ông cũng nhớ cho tôi không tham gia vào việc ông sắp làm; nếu phải hối hận thì ông đừng đổ lỗi cho tôi.
Người lái buôn vẫn không nghe, cố làm theo ý mình. Vào nhà kho ông ta lấy chiếc hũ mở nút thấy ô-liu đã hỏng hết. Để xem phần dưới có nhũn thối như ở trên không, ông đổ ô-liu lên đĩa và trong lúc lắc mạnh chiếc hũ, có vài đồng vàng rơi xuống.
Thấy thế, người lái buôn bản chất tham lam, chú ý nhìn vào hũ nhận thấy ô- liu ông ta đă đổ hết xuống đõa, phần còn lại toàn những đồng vàng rất đẹp. Ông bỏ lại vào hũ tất cả, nút chặt lại và về phòng.
- Bà ơi - Ông nói với vợ lúc vào - ô-liu thối hết, tôi đã nút kỹ hũ để Ali Cogia có trở về, ông ấy sẽ không nhận thấy.
- Đáng lẽ ông nghe tôi thì hơn - bà vợ bảo - đừng sờ mó đến đấy. Mong chúa không để xảy ra điều gì xấu!
Ngườí lái buôn cũng hơi suy nghĩ về lời nói này và thái độ của vợ. Ông ta nằm gần suốt đêm nghĩ cách chiếm đoạt số vàng của Ali Cogia, làm thế nào để mình không bị rắc rối gì nếu ông ấy trở về đòi lại chiếc hũ. Sáng sớm hôm sau ông ta đi mua những quả ô-liu mới trong năm, về vứt hết những quả cũ trong hũ, lấy vàng giấu đi, bỏ đầy hũ những quả ô-liu mới mua, gắn kín nút như cũ và đặt vào chỗ Ali Cogia đã đặt hũ.
Khoảng một tháng sau khi người lái buôn thực hiện việc làm hèn hạ ấy mà ông ta sẽ phải trả giá, Ali Cogia trở về Bagdad sau chuyến đi dài ngày. Do nhà đã cho thuê trước khi đi ông vào ở một phòng trong nhà trọ, tin cho người thuê nhà tìm chỗ ở mới. Ngày hôm sau ông đến nhà người lái buôn bạn; ông này vui mừng ôm hôn ông trở về sau chuyến vắng mặt quá lâu và nói đã hết hy vọng gặp lại ông. Sau những lời chúc mừng qua lại thường có trong một buổi gặp mặt như thế, Ali Cogia đề nghị cho xin lại chiếc hũ ông gửi và xin lỗi đã làm phiền ông bạn nhiều.
- Ali Cogia, bạn thân mến của tôi - người lái buôn nói - ông sai lầm vì đã xin lỗi tôi, tôi không hề phiền gì về chiếc hũ của ông. Trong trường hợp ấy tôi cũng nhờ ông theo cách ông nhờ tôi thôi. Chìa khoá kho của tôi đây, ông vào lấy đi, vẫn nguyên ở chỗ ông đã để.
Ali Cogia vào kho, lấy chiếc hũ, trả chìa khoá và rất cám ơn đã được nhận lại được chiếc hũ. Trở về nhà trọ mở nắp hũ cho tay vào phần giấu vàng, ông rất ngạc nhiên không thấy vàng nữa. Sợ mình nhầm ông lấy đĩa, xoong chảo trút cả hũ ô-liu ra nhưng không có một đồng vàng nào. Ông đứng lặng người, kinh hoàng giơ hai tay lên trời kêu:
- Có thể thế được chăng, một người tôi xem là bạn tốt đã lừa lọc tôi hèn hạ đến như vậy?
Hốt hoảng sợ mất đi một số của cải lớn, trở lại nhà người lái buôn ông nói:
- Ông bạn, ông đừng ngạc nhiên thấy tôi trở lại đây. Tôi thú nhận đã nhận ra chiếc hũ tôi đã gửi. Cùng với những quả ô-liu, tôi có để trong đó một nghìn đồng vàng mà bây giờ không thấy. Phải chăng có lúc ông cần và đã sử dụng vào việc mua bán. Nếu thế, ông cứ sử dụng, chỉ để mong cất bỏ nỗi phiền lòng cho tội, cho tôi biết và sau đó hoàn trả lại tôi khi thuận tiện.
Người lái buôn đã dự tính Ali Cogia đến nói thế, cũng đã suy nghĩ câu trả lời.
- Ali Cogia bạn tôi - Ông ta nói - khi ông mang hũ ô- liu đến, tôi có sờ đến không? Phải chăng tôi đã đưa chìa khỏa kho cho ông, ông tự mang vào và đã lấy lại ở chỗ ông đặt, tình trạng nguyên vẹn và nút chặt như cũ? Nếu ông để vàng trong đó ông phải tìm thấy chứ. Ông bảo tôi là hũ ô-liu tôi cũng tin như vậy. Tôi biết tất cả chỉ thế, ông tin tôi thì tin, tôi không sờ mó gì đến chiếc hũ.
Ali Cogia dùng mọi lời lẽ nhẹ nhàng để người lái buôn trả lại số tiền. Ông nói:
-Tôi chỉ thích ổn thoả với nhau, không muốn đi đến. những biện pháp tận cùng làm ông chẳng danh giá gì trước mọi người mà tôi cũng phải ân hận. Ông nên nghĩ những thương gia chúng ta cần bỏ mọi lợi ích để giữ lấy tiếng tăm. Một lần nũa mong ông không nên cố tình như thế buộc tôi phải đưa vấn đề ra trước pháp luật; tôi vẫn thích thiệt thòi một ít gì đó còn hơn phải xét xử.
- Ali Cogia - Người lái buôn lại nói - ông thừa nhận gửi chỗ chúng tôi một hũ ô-liu, ông đã lấy lại rồi và bây giờ trở lại đòi tôi một nghìn đồng vàng? Ông có nói với tôi có vàng trong đó đâu? Thậm chí tội không biết có ô-liu không, ông có mở cho tôi xem đâu; rất ngạc nhiên thấy ông không đòi ngọc hay kim cương thay vì vàng. Thôi, ông về đi, đừng làm nhiều người tập hợp trước cửa hiệu tôi.
Một số người đã dừng lại đó và những lời nói ấy của người lái buôn tỏ ra rất căng thẳng không chỉ làm một số đông dừng lại mà những người buôn quanh đấy cũng phải ra khỏi cửa hàng đến xem họ cãi nhau về việc gì và cố gắng dàn xếp. Khi Ali Cogia trình bày vấn đề, những người sáng suốt nhất hỏi ông bạn lái buôn trả lời ra sao.
Người lái buôn nhận có giữ chiếc hũ của Ali Cogia gửI trong kho nhà mình nhưng chối là không sờ đến; ông ta thề chỉ biết có ô-liu vì nghe Ali Cogia nói và đề nghị họ làm chứng về việc bị Ali Cogia xúc phạm, chửu rủa ông ta ngay tại nhà.
Ali Cogia bèn nắm lấy cánh tay người lái buôn và nói:
- Chính ông chuốc lấy sự xúc phạm. Ông đã thâm độc như vậy, tôi sẽ nhờ đến luật lệ của Chúa. Để xem ông có dám nói như thế trước quan toà không.
Trước lời thúc bách ấy mà mọi tín đồ Hồi giáo đều phải nghe theo để khỏi phản nghịch đối với tôn giáo, người lái buôn không dám chống cự. Ông ta nói:
- Nào thì đi, tôi cũng đòi hỏi như thế. Rồi sẽ biết ai sai, ông hay tôi.
Ali Cogia dẫn người lái buôn đến toà án, trình bày sự việc và kết tội người lái buôn lấy cắp một nghìn đồng vàng. Quan toà hỏi có người làm chứng không. Ông trả lời không đề phòng đến trường hợp ấy vì vẫn tưởng gửi ở nhà một người bạn mà cho đến lúc đó ông vẫn nghĩ là người trung thực.
Người lái buôn không nói gì khác ngoài những lời đã nói với Ali Cogia và trước mặt những người hàng xóm. Kết thúc ông ta nói sẵn sàng khẳng định bằng lời thề, lời kết tội ông ta lấy một nghìn đồng vàng là sai, thậm chí ông cũng không hề biết có vàng. Quan toà bắt ông ta thề và sau đó cho về miễn bị truy tố.
Ali Cogia, vô cùng đau đớn vì mất một số tiền lớn, kháng nghị chống lại việc xét xử ấy, tuyên bố với quan toà sẽ kêu lên giáo chủ Haroun Alraschid nhưng quan toà không lạ việc chống án cho là phản ứng tất nhiên của người thua kiện, ông ta nghĩ mình đã làm đúng nhiệm vụ không truy tố một bị cáo không có chứng cứ.
Trong lúc người lái buôn thắng được Ali Cogia trở về nhà, vui sướng chiếm được một nghìn đồng vàng dễ dàng đến thế, Ali Cogia viết một lá đơn, ngay hôm sau nắm vững thời gian nhà vua đi nhà thờ cầu kinh đến trưa trở về cung, ông đứng bên đường lúc nhà vua đi qua hai tay nâng lá đơn và một võ quan hầu cận tách ra khỏi hàng đến nhận đơn kiện đưa trình lên giáo chủ.
Ali Cogia biết nhà vua Haroun Alraschid có thói quen về cung sẽ đọc ngay những loại đơn khiếu nại như thế, nên ông đi theo đoàn hộ tống vào trong cung chờ viên võ quan đã nhận đơn đi ra. Viên võ quan đó bảo nhà vua đã đọc lá đơn, hẹn giờ xét xử vào ngày hôm sau rồi hỏi địa chỉ người lái buôn, và chũ người triệu tập ông ta cũng vào giờ đó.
Buổi tối hôm ấy, nhà vua cùng quan tể tướng Giafar và trưởng thái giám Mesrour cùng cải trang đi khảo sát trong thành phố. Qua một con đường nghe thấy tiếng ồn, nhà vua bước nhanh tới một cánh cổng nhìn vào và thấy trong sân khoảng mười, mười hai đứa trẻ chơi đưới trăng sáng.
Tò mò muốn biết những đứa trẻ chơi trò gì, ông ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh cổng, tiếp tục nhìn vào qua khi cửa. ông nghe một đứa trong bọn, có vẻ nhanh nhẹn, thông minh hơn cả, nói với những đứa kia:
- Chúng ta chơi trò xử án; ta là quan toà; hãy dẫn vào đây Ali Cogia và người lái buôn ăn cắp một nghìn đồng vàng.
Nghe lời nói của đứa trẻ, nhà vua nhớ đến lá đơn trình lên ông ngày hôm ấy và ông đã đọc; điều đó càng làm ông chú ý hơn để xem kết quả xét xử ra sao.
Vì vụ Ali Cogia và người lái buôn mới xảy ra, gây tiếng vang lớn trong thành phố đến cả bọn trẻ con cũng biết nên những đứa trẻ khác cùng chơi vui vẻ chấp nhận và thống nhất với nhau phân vai. Tất cả đều cử đứa trẻ đề xướng làm quan toà. Cậu bé bắt đầu phiên toà với điệu bộ và thái độ nghiêm trang của một quan toà; một cậu khác trong vai viên thư lại ở toà án giới thiệu hai cậu, một là Ali Cogia và cậu nữa là người lái buôn mà Ali Cogia đưa đơn kiện.
Cậu đóng giả quan toà lên tiếng, nghiêm khắc hỏi cậu bé trong vai Ali Cogia:
- Thế nào, Ali Cogia, ông đòi hỏi điều gì ở người lái buôn kia?
Cậu đóng Ali Cogia cúi chào rất thấp, kể lại chi tiết từ đầu đến hết câu chuyện và xin được quan toà phán xử để không mất một số tiền lớn như vậy.
Lắng nghe trình bày xong, quan toà ngoảnh lại người lái buôn hỏi vì sao không trả lại Ali Cogia món tiền trên.
Cậu bé đóng vai người lái buôn nói những lý lẽ như người lái buôn thật nói trước toà án Bagdad và cũng đề nghị khẳng định sự thật bằng lời thề.
- Không đi nhanh đến thế - Quan toà đóng giả nói - trước khi để ông thề, ta muốn xem những quả ô-liu đã. Ali Cogia, ông có mang theo hũ không?
Nghe nói không mang theo, quán toà bảọ:
- Đi lấy đến đây cho ta xem.
Cậu đóng giả Ali Cogia đi một lúc rồi mang chiếc hũ đến đặt trước mặt quan toà, cậu nói đó chính là chiếc hũ đã gửi và lấyvề lại. Không bỏ sót thủ tục nào, quan toà hởi người lái buôn có công nhận chiếc hũ ấy không; người lái buôn im lặng công nhận không dám chối nên quản toà ra lệnh mở nắp hũ. Ali Cogia mở ra, quan toà nhìn vào trong hũ nói:
- Những quả ô-liu rất đẹp, ta muốn nếm thử.
Vờ lấy một quả nếm,quan toà giả nói thêm:
- Ngon lắm. Nhưng những quả o-liu giữ trong bảy năm ta thấy hình như không được ngon như vậy. Bảo những người buôn ô-liu tớI chổ họ xem thế nào.
Hai cậu bé được đưa tới với tính cách lái buôn ô-liu. Quan toà hỏi:
- Các ông có phải buôn bán ô-liu không?
Thấy họ trả lời đúng là nghề nghiệp ấy của họ, quan toà hỏi thêm:
- Các ông cho ta biết ô-liu được giữ gìn cẩn thận, qua bao nhiêu năm vẫn ăn ngon?
- Thưa quan toà - Những cậu bé đóng giả lái buôn ô- liu trả lời - dù bỏ công sức bảo quản đến mấy, đến năm thứ ba quả ô-liu không còn đáng giá gì, không màu khộng mùi vị chỉ đáng vứt đi.
- Nếu như thế, các ông nhìn vào hũ kia và cho ta biết những quả ô-liu ấy người ta bỏ vào đó bao lâu rồi?
Những người lái buôn quan sát, nếm thử và xác nhận với quan toà những quả ô-liu vừa bỏ vào và còn ngon.Quan toà bảo:
- Các ông nhầm rồi - Ali Cogia nói đã bỏ ô-liu vào hũ bảy năm rồi kia mà.
- Thưa quan toà - Những người lái buôn được xem như chuyên gia lại nói - điều chúng tôi có thể khẳng định những quả ô-liu này vừa hái trong năm nay.
Chúng tôi chắc chắn tất cả những người buôn ô-liu ở thành phố Bagdad không một người nào nói khác chúng tôi.
Người lái buôn bị Ali Cogia tố cáo định mở miệng bác lời xác nhận của eác chuyên gia nhưng quan toà không cho nói.
- Im đi, anh là một đứa ăn cắp, đem treo cổ nó lên!
Bọn trẻ kết thúc trò chơi như thế, vỗ tay vui vẻ và vờ lao đến kẻ tội phạm giả đưa đi hành hình.
Không tả hết được sự khâm phục của nhà vua Haroun Alraschid về trí óc khôn ngoan của đứa trẻ vừa xét xử thông minh đến thế vụ kiện ngày mai sẽ đưa ra trước mặt ông.
Rời mắt khỏi khe cửa, nhà vua đứng dậy hỏi vị tể tướng cũng vừa chú ý theo dõi việc xảy ra xem ông có nghe việc xét xử của đứa bé không và ông nghĩ như thế nào về chuyện đó.
- Thưa vị lãnh đạo những tín đồ - Đại thần Giafar trả lời - người ta không ai ngạc nhiên hơn thần về sự thông minh của lứa tuổi còn ít như vậy.
- Nhưng ông có biết một điều là ngày mai ta phải xử chính vụ ấy mà Ali Cogia thật vừa đệ đơn khiếu nại lên ta?
- Tôi có đuợc Người cho biết ạ.
- Ông nghĩ ta có sự xét xử nào khác ngoài việc phán quyết chúng ta vừa nghe?
- Nếu cũng là vụ việc ấy, tôi thấy có lẽ Người không thể có cách xử nào khác đúng hơn và tuyên bố đúng hơn được.
- Vậy ông ghi lấy ngôi nhà này và ngày mai cho dẫn đứa bé đã xét xử vụ ấy đến trước mặt ta. Triệu tập cả quan toà đã miễn tố tên lái buôn ăn cắp để cho hắn phải học theo gương một đứa bé mà sửa chữa. Ta cũng muốn ông báo cho Ali Cogia mang hũ ô-liu đến và gọi thêm hai lái buôn ô-liu đến phiên toà.
Nhà vua chỉ thị như thế và tiếp tục cuộc vi hành không gặp một điều gì đáng chú ý nữa.
Ngày hôm sau vị tể tướng Giafar đến ngôi nhà ông đã chứng kiến trò chơi của bọn trẻ, hỏi gặp ông chủ nhưng ông ta đang đi vắng nên chỉ gặp bà vợ. Tể tướng hỏi về những đứa con. Bà bảo có ba đứa và gọi ra trước mặt ông. Ông nói:
- Các cháu, tối hôm qua chơi với nhau, cháu nào đóng vai quan toà thế?
Đứa lớn nhất tái mặt nói chính là mình và không biết vì sao ông hỏi như vậy. Vị tể tướng nói:
- Con trai ta, con đi với ta, vị lãnh đạo các tín đồ muốn gặp con.
Bà mẹ hoảng sợ thấy vị tể tướng muốn đưa con đi, vội hỏi:
- Thưa ngài, có phải nhà vua muốn gặp con tôi không?
Vị tể tướng liền chấn an bà, và bảo cậu bé sẽ trở về chóng thôi và khi nó về bà sẽ biết lý do và bà sẽ rất hài lòng.
- Nếu vậy - Bà mẹ xin cho phép tôi bảo cháu mặc quần áo sạch sẽ hơn khi đến trước đức thống lĩnh của các tín đồ.
Và bà cho con thay ngay quần áo. Vị tể tướng đưa đứa bé trình diện nhà vua vào giờ ông triệu tập Ali Cogia và người lái buôn đến nghe xét xử.
Nhà vua chủ thấy đứa bé có vẻ sợ hãi và muốn chuẩn bị tinh thần cho nó, ông nói:
Lại đây con trai, có phải con hôm qua đã xét xử vụ Ali Cogia và tên lái buôn ăn cắp vàng. Ta đã thấy và nghe con xét xử, ta rất vui lòng.
Đứa bé không bối rối, khiêm tốn trả lời là chính nó. Nhà vua lại nói:
- Con trai, hôm nay ta cho con ,thấy Ali Cogia và tên lái buôn thực sự; con đến ngồi đây.
Nhà vua dắt tay đứa bé lên cho ngồi cạnh mình và ra lệnh đưa các bên nguyên và bị cáo vào. Người ta dẫn họ vào, gọi tên trong lúc họ quỳ trước ngai vàng dập trán xuống tấm thảm trước đó. Khi họ đứng lên, vị giáo chủ nói:
Mỗi người trình bày yêu cầu, lý lẽ của mình đi; đứa bé này sẽ nghe các anh và xét xử,nếu thiếu gì ta bổ sung.
Ali Cogia và người lái buôn lần lượt trình bày và khi người lái buôn đề nghị cho thề như lần xét xử trước, đứa bé bảo chưa đến lúc, trước hết đưa xem hũ ô- liu đã.
Ali Cogia đưa hũ ô-liu đến, đăt ở chân nhà vua và mở nắp. Nhà vua nhìn những quả ô-liu, lấy một quả nếm thử. Hũ được chuyển cho những người lái buôn có kinh nghiệm được triệu tập đến; họ nhận định những quả ô-liu vẫn ngon và mới được hái trong năm. Đứa bé nói với họ Ali Cogia khẳng đlnh đã bỏ vào hũ cách đây bảy năm; họ trả lời đúng như nhũng đứa bé giả làm lái buôn chuyên nghiệp đêm xét xử.
Đến đây lái buôn bị cáo thấy rõ hai lái buôn chuyên nghiệp vừa kết án hắn; muốn đưa ra nhiều lý do thanh minh nhưng đứa bé kiên quyết cho treo cổ. Nó nhìn vị giáo chủ nói:
- Thưa đức Thống lĩnh các tín đồ, đây không phải là một trò chơi: chính do Người kết án tử hình thực sự chứ không phải con, hôm qua con làm như thế để cười đùa với nhau thôỉ.
Nhà vua thấy rõ tâm địa xấu của lái buôn bị cáo, giao cho đao phủ đưa treo cổ sau khi hắn thú nhận chỗ cất giấu tiền. Một nghìn đồng vàng được đưa trả lại cho Ali Cogia. Vị thống lĩnh này cảnh cáo quan toà xét xử lần đầu, cũng đăng có mặt, phải học tập một đứa bé trong việc thi hành công lý cho chính xác hơn. Ông ôm hôn đứa bé, rồi cho nó về với món tiền thưởng hào phóng là một trăm đồng vàng.


Chương 39

CON NGỰA THẦN DIỆU


Scheherasade đã tiếp tục kể những câu chuyện rất hay làm vua Ấn ĐỘ vô cùng vui thích, sau đó nàng chuyển sang chuyện con ngựa thần. Nàng nói:
- Thưa bệ hạ, ngày mới tức ngày đầu năm và đầu mùa xuân là một ngày lễ long trọng và lâu đời trên toàn đất nước Ba Tư. Ngày đó đã được đức thánh tối cao và anh linh của chúng ta đặt ra từ thủa sơ khai và duy trì cho đén nay; không chỉ có những thành phố lớn, mà không một thành phố nhỏ nào, không một ngoại ô, xóm làng nào không tổ chức với những trò vui khác thường.
Những thú vui chơi ấy ở triều đình thật rầm rộ vì các trò dIễn mới và kỳ lạ; người ở các nước lân cận, thậm chí ở những nước xa nhất cũng bị thu hút đến vì các phần thưởng và sự hào phóng của nhà vua đối với những ngườI xuất sắc về sáng kiến và công trình của họ, vì thế không có chỗ nào trên thế giới có được lễ hội rực rỡ như vậy.
Một trong những buổi lễ ấy, sau khỉ những người thành thạo, thông minh nhất trong nước cùng những người nước ngoài đến Schiraj là triều đình lúc đó, trình diễn những trò giải trí cho nhà vua và triều đình xong nhà vua đã rộng rãi khen thưởng những người tài giỏi đã biểu diễn những tiết mục kỳ lạ, đẹp, hoàn hảo nhất. Khi vua chuẩn bị ra về và cho nghỉ thiết triều thì một người Ấn Độ đến trước ngai vàng dắt một con ngựa đầy đủ yên cương sang trọng, thiết kế tinh vi đến mức lúc đầu người ta tưởng là ngựa thật.
Người Ấn Độ quỳ xuống trước ngai vàng rồi đứng lên chỉ vào con ngựa nói:
- Thưa bệ hạ, tuy thần dân là người cuối cùng tham dự cuộc thi nhưng thần xin cam đoan trong lễ hội này Người không thấy có trò vui nào tuyệt vời, lạ lùng hơn con ngựa này, khẩn cầu Người để ý đến cho.
- Ta không thấy con ngựa này - Vua nói - có gì khác hơn nghệ thuật làm giống như thật nhưng một người thợ khác có thể cũng làm được như thế, thậm chí hoàn mỹ hơn.
- Thưa bệ hạ, không phải thần có ý định trình với Người thiết kế và dáng vẻ bề ngoài con ngưa mà là một kỳ quan. Chính bởi cách sử dụng của thần và bất cứ ai thần trao đổi về bí mật điều khiển. Khi thần lên ngựa bất cứ ở đâu, xa xôi mấy, nếu muốn bay trên không thần cũng thực hiện được ngay. Tóm lại, thưa bệ hạ, đớ là một kỳ quan và chưa ai được nghe nói; nếu bệ hạ ra lệnh thần sẽ làm thử để Người xem.
Vua Ba Tư, tò mò về tất cả những gì kỳ diệu, sau khi đã thấy và tìm tòi để thấy bao nhiêu điều lạ, chưa hề thấy hoặc nghe nói điều gì tương tự như thế. Nhà vua liền đồng ý để người Ấn Độ làm thử như ông ta ,vừa nói để xem thực hư thế nào.
Người Ấn Độ cho ngay chân vào bàn đạp nhẹ nhàng nhảy lên ngựa và khi đã đưa chân sang bàn đạp kia, ngồi vững vàng trên yên ông ta liền hỏi nhà vua rằng NgườI muốn bảo ông ta đi đâu.
Cách Schiraj khoảng ba dặm có một ngọn núi cao trông rõ cả quảng trường nơi nhà vua ra mắt dân chúng trước hoàng cung. Vua chỉ ngọn núi đó nói với người Ấn Độ:
- Ngựơi thấy ngọn núi ấy chứ? Ta muốn ngươi bay đến đó. Khoảng cách không xa nhưng ta chỉ cần biết ngườI đi và về có nhanh chóng không. Do không nhìn theo ngươi mãi được, để chứng tỏ ngươi đã đến đó, ngươi hãy đem về cho ta một lá cọ ở cây dưới chân núi.
Vua Ba Tư vừa nói xong, người Ấn Độ chỉ vặn một cái chất trồi lến một chút ở cổ ngựa quay nắm tay về phía yên. Ngạy lập tức con ngưa rời mặt đất nâng người cưỡi lên không như tia chốp, cao đến nỗi những người mắt tinh tường nhất cũng không trông thấy; việc đó làm nhà vua, cận thần và những người tập hợp quanh đó kêu lên thán phục.
Không đầy mười lăm phút sau người ta thấy người Ấn Độ trên không trở về với lá cọ cầm tay: Ông ta bay trên quảng trường tung tăng nhiều vòng theo tiếng hoan hô của dân chúng rồi hạ xuống dừng lại trước ngai vàng đúng chỗ ông bay đi không một cử động của con ngựa làm khó chịu người cưỡi. Ông ta nhảy xuống; lại gần ngai vàng quỳ xuống đặt chiếc lá cọ dướì chân vua.
Vua Ba Tư chứng kiến cảnh ấy vừa ngạc nhiên vừa thán phục muốn được có ngay con ngựa, nhà vua định sẽ trả bất cứ món tiền nào mà người Ấn Độ đòi. Nhà vua nói:
- Ta đã chỉ nhìn diện mạo con ngựa của ngươi nên đã đánh giá nó không đúng. Tạ cám ơn ngươi đã làm ta nhận ra sai lầm và để chứng tỏ ta quý trọng nó ra sao, ta sẵn sàng mua nó nếu ngươi bán.
- Thưa bệ hạ, thần chàng nghi ngờ gì trong những vị vua trị vì trên quả đất hiện nay bệ hạ là người, sáng suốt nhất trong mọi việc và đánh gIá đúng giá trị mọi thứ, sẽ là công bằng đối với con ngựa của thần khi bệ hạ lưụ ý đến giá trị của nó. Thần cũng đã dự kiến Người không chỉ khen ngợi mà còn muốn có nó như Người vừa nói. Về phần thần, thưa bệ hạ, tuy thần biết như bất cứ ai về gỉá trị của nó và được có nó tức là thần đã có được là tên tuổi mình bất tử trên đời. Nhưng thần có thể dứt bỏ sự đam mê mạnh mẽ ấy để làm niềm say mê của đấng cao quý được thoả mãn. Trình bày điều đó với bệ hạ, thần cũng xin đề nghị một điều khác dính líu đến điều kiện mà không có được thần sẽ không thể chuyển con ngựa sang tay người khác và có lẽ Người sẽ không hài lòng. Bệ hạ biết cho, thần không bán con ngựa này. Thần có nó từ người chế tạo ra nó khi anh ta đề nghị thần gả đứa con gái độc nhất cho anh ta và buộc thần không được bán mà chỉ chuyển cho ngườì khác bằng cách đổi chác thần thấy thích hợp.
Người Ấn Độ muốn nói tiếp nhưng nghe nói có sự đổi chác, Nhà vua ngắt lời ông ta.
- Ta sẵn sàng - Vua nói - chấp nhận cuộc đổi chác nào ngươi yêu cầu. Ngươi biết vương quốc ta rộng rãi, nhiều thành phố lớn giàu có và đông dân. Ta để ngươi chọn thành phố nào tuỳ thích, được hưởng toàn bộ quyền lực và thống trị những năm cuối đời .
Việc trao đổi ấy thực sự vương giả trong triều đình Ba Tư nhưng còn rất thấp so với đề nghị của người Ấn Độ. Ông ta muốn cái gì đó cao hơn nhiều, nên ông ta trả lờI nhà vua:
- Thưa bệ hạ, thần rất đội ơn về điều Người ban cho và hết lòng cảm kích về lòng đại lượng của Người. Tuy vậy xin khẩn cầu Người đừng phật lòng nếu thần dám táo tợn nói rõ thần chỉ có thể chuyển con ngựa lên Người khi được Người cho phép cưới công chúa con gái Ngườl làm vợ. Thần đã quyết tâm chỉ chịu mất tài sản ấy với giá đó.
Cận thần vây quanh vua Ba Tư không ngăn được cười phá lên trước đòi hỏi quá đáng của người Ấn Độ. Hoàng tử Firouj Schah,con trưởng của vua và là người sẽ thừa kế ngai vàng, giận dữ khi nghe yêu cầu đó. Vua thì nghĩ khác, ngài cho rằng có thể hy sinh công chúa để thoả mãn ý thích của mình. Tuy vậy ngài đang cân nhắc xem có nên như thế không.
Hoàng tử Firouj Schah thấy phụ hoàng ngập ngừng chưa trả lời, sợ ngài chấp nhận lời đòi hỏi mà chàng xem như thoá mạ danh giá nhà vua, công chúa và bản thân mình, liền phát biểu để nhà vua dè chừng:
- Thưa phụ hoàng, xin Người thứ lỗi nếu con nói có thể nào Người còn đắn đo không từ chối yêu cầu hỗn láo của một người không là gì, một tay làm trò ảo thuật hèn hạ, để hắn một lúc hí hửng sẽ được thông gia với một trong những nhà vua hùng mạnh nhất trên địa cầu? Con khẩn cầu Người xem lại không chỉ đối với riêng mình mà cả đối với dòng máu và sự cao quý của tổ tiên.
- Con trai ta - Vua Ba Tư nói - ta thông cảm với thái độ của con về nhiệt tình con chứng tỏ để bảo vệ ánh hào quang về nguồn gốc sinh thành nhưng con chưa đánh giá đúng mức tính ưu việt của con ngựa này của người Ấn Độ. Nếu ta từ chối lời đề nghị đó có thể ông ta sẽ đến chỗ khác yêu cầu và người ta sẽ không bỏ qua của quý đầy danh giá đó. Ta sẽ thất vọng nếu một ông vua khác có thể tự hào đã đại lượng hơn ta, và lấy mất của ta con ngưa mà ta đánh giá là vật kỳ lạ và đáng khen nhất trên đời. Tuy vậy ta cũng không muốn thuận theo yêu cầu của hắn ta. Có lẽ hắn cũng thấy đó là một tham vọng quá đáng và ngoài công chúa con gái ta, có thể sẽ có một thoả thuận gì đó mà hắn ta sẽ hài lòng. Nhưng trước khi bàn bạc để quyết định, ta muốn con quan sát kỹ con ngựa, tự mình thử nghiệm đi và nói với ta về cảm nghĩ của con. Chắc hắn ta sẵn lòng để con bay thử.
Người Ấn Độ thấy trong những lời nói vừa được nghe nhà vua rất hào hứng và mong muốn có con ngựa, vua Ba Tư không cương quyết từ chối chấp nhận thông gia với giá con ngựa và hoàng tử thay vì phản đối như vừa thể hiện, có thể vui lòng thuận tình theo ý thích của nhà vua. Để tỏ ra vui lòng cho hoàng tử thử nghiệm, ông ta lại gần con ngựa sẵn sàng hướng dẫn hoàng tử cách điều khiển và giúp chàng lên ngựa.
Hoàng tử Firouj Schah, lanh lẹn tuyệt vời, nhảy lên ngựa không cần người Ấn Độ giúp đỡ; vừa bỏ chân vào bàn đạp không đợi ý kiến của ông ta, quay chất, chàng đã thấy ông ta làm khi lên ngựa. Ngay khi vừa quay chết, ngựa nâng chàng lên nhanh như mũi tên bắn và phút chốc vua, triều đình và cả tập hớp nhiều người ở đó không nhìn thấy chàng nữa.
Cả ngựa và hoàng tử không còn ở trên không trung vua cố gắng nhìn theo mãi không thấy trong lúc người Ân Độ hoảng sợ về việc xảy ra, quỳ trước ngài vàng làm vua phải nhìn xuống và nghe ông ta nói:
- Thưa bệ hạ, người cũng thấy hoàng tư quá vội không cho phép thần hướng dẫn cách điều khiển ngựa. Thấy thần đã làm, chàng tỏ ra không cần thần chỉ cách bay đi nhưng không biết cách thần hướng dẫn cho ngựa quay trở lại chỗ cũ. Như vậy, thưa bệ hạ, Người làm ơn đừng bắt thần bảo đảm có thể sẽ xảy ra việc gì cho hoàng tử. Xin Người công minh xét cho nếu có tai hoạ phát sinh.
Lời nói của người Ấn Độ làm nhà vua rất buồn, hiểu ngay mối nguy hiểm hoàng tử không tránh khỏi, như ông ta nói, điều bí mật làm cho ngựa quay trở lại, khác với lúc đi Ngài giận dữ hỏi tại sao ông ta không nhắc khi thấy hoàng tử lên ngựa.
- Thưa bệ hạ - Người Ấn Độ trả lời - Người cũng thấy hoàng tử và con ngựa bay lên nhanh đến mức nào. Lúc đầu thần cũng ngạc nhiên không nói nên lời và lúc sắp hướng dẫn thì người ngựa đã đi xa, không nghe được; nếu có nghe thì hoàng tử đã có thể điều khiển cho ngựa quay trở về nhưng chàng đã không nắm đựợc bí mật vì chàng đã không chịu khó nghe lời thần. Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể hy vọng, trong lúc lúng túng chàng có thể thấy chất kia, quay chất ấy ngựa sẽ hạ xuống đất ở chỗ thích hợp bằng cách điều khiển đây cương.
Dù theo cách lý giải của người Ấn Độ, tình thế có vẻ còn có khả quan, nhà vua Ba Tư vẫn hoảng hốt về nguy cơ rất rõ ràng của con trai mình, ngài nói:
- Cứ cho là hoàng tử trông thấy cái chất kia và sử dụng như ngươi nói, tuy không chắc lắm, nhưng con ngựa thay vì xuống đất có thể rơi xuống đá tảng hoặc chìm xuống biển sâu thì sao?
- Thưa bệ hạ, Người không phải lo về chuyện ấy; ngựa qua biển không bao giờ rơi xuống và mang người đến chỗ người định đến. Bệ hạ có thể chắc chắn nếu hoàng tử nhận thấy chất kia như thần nói, ngựa chỉ mang chàng đến nơi chàng muốn và chắc chàng sẽ đến một nơi có thể cứu mình và làm cho người ta biết mình.
Nghe nói thế, vua bảo:
- Dù sao ta cũng không tin được vào sự bảo đảm an toàn như ngươi nói. Nếu trong ba tháng không thấy hoàng tử lành mạnh trở về hoặc được tin chắc chắn con ta còn sống, ngươi sẽ trả giá cho cuộc sông của con trai ta bằng đầu của mình.
Ngài ra lệnh bỏ người Ấn Độ vào ngục tối giữ cho ông ta sống sót, sau đó nhà vua trở về cung, rất buồn về lễ hội đầu năm trang trọng trong toàn nước Ba Tư, kết thúc buồn bã như vậy đối với mình và triều đình.
Hoàng tử Firouj Schah bay lên không rất nhanh, chưa đến một tiếng đồng hồ chàng thấy mình trên cao đến nỗi không phân biệt được gì trên mặt đất, núi đồi, thung lũng lẫn với đồng bằng. Lúc ấy chàng nghĩ đến trở về nơi mình đã đi. Muốn vậy chàng hình dung sẽ quay chất trên đầu ngựa ngược chiều lại đồng thời quay đây cương. Chàng làm thế nhưng vô cùng kinh ngạc thấy con ngựa vẫn nâng mình lên càng nhanh. Chàng quay chất đi, lại nhiều lần nhưng vô ích. Lúc ấy chàng mới thấy mình sai lầm không nghe lời người Ấn Độ hướng dẫn điều khiển ngựa trước khi nhảy lên đi. Chàng cũng hiểu mối nguy hiểm rất lớn đang chờ mình nhưng không mất bình tĩnh, hết sức tỉnh táo quan sát đầu và cổ con ngựa, chàng thấy một cái chất khác nhỏ hơn, kín hơn cái trước bên cạnh tai phải của ngựa. Chàng quay chốt và thấy mình hạ xuống đất theo một đường giống như lúc lên nhưng chậm hơn.
Trời tối đã nửa giờ ở chỗ hoàng tử xuống thẳng mặt đất khi chàng quay chốt. Vì vậy thay vì chọn chỗ thích hợp, chàng đành thả dây cương trên cổ ngựa, kiên nhẫn chờ ngựa hạ xuống không khỏi lo lắng sẽ rơi vào một chỗ không có người ở, sa mạc hoặc sông, biển.
Ngựa dừng lại lúc đã quá nửa đêm; hoàng tử Flrouj Schah nhảy xuống đất nhưng đuối sức vì từ sáng đến hết ngày nay không ăn gì. Trước tiên chàng tìm hiểu chỗ mình hạ xuống. Chàng thấy mình đang ở trên mái bằng một lâu đài thật đẹp, bao quanh là một hàng rào đá hoa cương. Quan sát mái bằng chàng thấy có thang gác từ dưới lâu đài đi lên, cửa vẫn để mở.
Một ai khác hoàng tử Firouj Schah sẽ không dám bước xuống trong bóng tối vì sợ có thể gặp nhiều trở ngại mà chưa blết sẽ gặp bạn hay thù. Chàng tự nhủ: ''Mình đến không nhằm làm hại gì ai và những người mình gặp đầu tiên tay không vũ khí, sẽ nhân đạo nghe mình nói mà không hãm hại mình''. Chàng nhẹ nhàng mở rộng cửa, tiếp tục thận trọng đi xuống không gây tiếng động có thể đánh thúc một ai đó đang ngủ. Trên một khúc quanh của thang gác chàng thấy cửa mở của một gian phòng lớn có ánh sáng.
Hoàng tử Firouj Schah dừng lại trước cửa lắng tai nghe, không có gì khác ngoài tiếng ngáy khác nhau của những ngườI đang ngủ say. Chàng bước vào phòng, dưới ánh sáng của một ngọn đèn thấy những người đang ngủ là các thái giám da đen, gươm tuốt trần để bên cạnh mình; cảnh đó cho chàng biết đây là quân bảo vệ một hoàng hậu hay công chúa và chàng nhận ra là của một công chúa.
Gian phòng công chúa ngủ tiếp nối gian phòng đang cửa mở, che một tấm vải lụa nhẹ. Hoàng tử bước tới cánh cửa chân giơ cao không làm các thái giám tỉnh giấc. Đẩy cửa vào phòng, chàng không dừng lại ngắm gian phòng lộng lẫy đầy vương giả trong hoàn cảnh này mà chú ý đến điều mình quan tâm. Chàng thấy nhiều chiếc gương, một đặt trên chiếc xô-pha và những chiếc khác dưới thấp. Các thị nữ ngủ trên những giường thấp để phục vụ công chúa đang nằm trên giường cao.
Phân biệt rõ thế, hoàng tử không nhầm khi đến trước chính công chúa, chàng lại gần giường nàng nằm mà không hề làm nàng hay một thị nữ nào thức dậy. Đứng ngay cạnh nàng chàng nhận ra một sắc đẹp tuyệt vời làm chàng mê mẩn và si mê ngay khi vừa thấy “TrờI! – Chàng tự nhủ, số phận dẫn mình đến tận đây để lấy mất tự do của mình ma lâu nay vẫn gìn giữ? Mình có nhất thiết chờ cho đến khi nàng mở mắt và đôi mắt ấy như mình tin tưởng sẽ tăng thêm ánh sáng và sự hoàn hảo của toàn bộ thân thể, duyên dáng tuyệt vời này? Mình phải nắm lấy cơ hội này vì lùi bước sẽ là tự giết mình và cần phải làm như thế''.
Suy nghĩ như vậy, trong tình hình ấy và trước sắc đẹp của công chúa, hoàng tử Firouj Schah quỳ xuống, cầm lấy đầu cánh tay áo rủ xuống của công chúa bao lấy một cánh tay trắng như tuyết và kéo rất khẽ.
Công chúa mở mắt, ngạc nhiên thấy trước mặt mình một người đàn ông tuấn tú, ăn mặc sang trọng, nét mặt hiền hậu, nàng sững người tuy không có dấu hiệu sợ hãi hoặc hoảng hốt.
Hoàng tử lợi dụng lúc ấy, cúi đầu thấp xuống tận tấm thảm chân và ngẩng lên nói:
- Công chúa đáng kính, do một cuộc phiêu lưu khác thường và tuyệt vời nhất người ta có thể tưởng tượng, nàng thấy dưới chân nàng một hoàng tử, con vua Ba Tư đang cầu xin, sáng hôm qua còn ở bên phụ hoàng giữa những cuộc vui chơi trọng thể của lễ hội đầu năm và trong giờ này đang ở một nước xa lạ có nguy cơ bị hãm hại nếu tấm lòng phúc hậu và đạl lượng của nàng không cứu giúp , và bảo vệ. Tôi khẩn cầu sự bảo vệ đó, thưa công chúa đáng tôn sùng, với lòng tin nàng sẽ không từ chối. Tôi đám khẳng đlnh điều đó vì không thể có sự vô tâm trong vẻ đẹp, duyên dáng và oai nghiêm đến thế của nàng.
Công chúa mà hoàng tử Firouj Schah sung sướng được trình bày như thế là công chúa xứ Bengale, con gái duy nhất của quốc vương này, ngài đã cho xây dựng lâu đài nói trên hơi xa kinh thành để nàng thường đến giải trí ở nông thôn. Sau khi nhân hậu nghe chàng nói, công chúa trả lời tử tế.
- Thưa hoàng tử, chàng cứ yên tâm, chàng không phải đang ở trong một đất nước hoang dã. Lòng mến khách, tính nhân đạo và lễ nghi trong vương quốc Bengale cũng như ở vương quốc Ba Tư. Không phải tôi sẵn sàng bảo vệ chàng vì chàng yêu cầu mà chàng có thể nhận đước điều đó trong toàn vương quốc chứ không riêng gì ở lâu đài tôi.
Hoàng tử Ba Tư cúi đầu muốn cám ơn công chúa Bengale về sự thẳng thắn và ân huệ đó, nhưng nàng không để chàng có thì giờ nói.
- Dù rất muốn - Nàng nói thêm - chàng cho biết bằng phép kỳ lạ nào chàng đi từ kinh thành Ba Tư đến đây một cách nhanh chóng như vậy và làm sao chàng bí, mật vào được trước mặt tôi, qua mắt được vệ binh. Nhưng chàng cần phải ăn uống, phải nghênh đón như một thượng khách nên tôi nén sự tò mò lại sáng mai và lệnh cho thị nữ đưa chàng về một phòng trong lâu đài, tiếp đãi, để chàng thư giãn, nghỉ ngơi cho đến khi hồi phục có thể thoả mãn sự tò mò của tôi và tôí được thoải mái nghe chàng kể lại.
Những thị nữ, tỉnh dậy từ lúc hoàng tử bắt đầu nói với công chúa nữ chủ của họ, kinh ngạc không hiểu vì sao chàng đến tận đầu giường công chúa mà họ và các thái giám đều không biết; họ cũng hiểu ra ý định của công chúa nên vội vàng mặc quần áo và sẵn sàng thực hiện lệnh của công chúa ngay khi nàng vừa nói. Mỗi người lấy một cây nến đang cháy sáng trong phòng công chúa và khi hoàng tử lễ phép chào công chúa để rút lui, họ đi trước dẫn chàng vào một gian phòng rất đẹp, một số chuẩn bị giường màn trong lúc số kia vào bếp chính và bếp phụ.
Tuy vào giờ bất thường, nhưng những thị nữ ấy của công chúa Bengale không để hoàng tử Firouj Schah phải chờ lâu. Họ mang vào nhiều loại thức ăn, đầy đủ cho chàng lựa chọn theo khẩu vị; khi chàng ăn uống no nê xong họ dọn dẹp để chàng tự do đi nằm sau khi chỉ nhiều chiếc tủ đựng nhiều đồ vật có thể cần thiết cho chàng.
Công chúa Bengale rất chú ý đến những đức tính của hoàng tử Ba Tư trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi vừa qua, nàng chưa ngủ được khi các thị nữ trở vào phòng đi nằm. Nàng hỏi họ có chăm sóc chàng cẩn thận không, chàng có hài lòng không, có để chàng thiếu gì không và họ nghĩ về hoàng tử ấy như thế nào.
Các thị nữ trả lời mọi điều và về điều cuối cùng họ nói:
- Thưa công chúa, chúng tôi không biết Người nghĩ ra sao; đối với chúng tôi, chúng tôi đánh giá thật hạnh phúc nếu vua cha tìm cho công chúa được người chồng như vị hoàng tử đáng yêu đến thế. Không một người nào trong triều đình Bengale có thể so sánh với chàng và chúng tôi cũng biết trong các quốc gia lân cận không có ai xứng đáng với công chúa.
Lời ca tụng ấy không làm mất lòng công chúa nhưng do không muốn nói lên tình cảm của mình, nàng bảo họ im lặng:
- Các chị nói nhảm mãi; đi nằm đi và để cho ta ngủ lại.
Ngày hôm sau việc đầu tiên công chúa làm sau lúc dậy là vào phòng trang điểm. Chưa bao giờ nàng bỏ nhiều thời gian vào công chải tóc tai, mặc quần áo sửa đi sửa lại trước gương đến thế. Chưa bao giờ các thị nữ phải klên trì làm đi làm lại nhiều lần cùng một việc cho đến khi nàng bằng lòng đến vậy. Nàng tự nhủ: ''Không trang điểm mình cũng nhận thấy không phải không vừa lòng hoàng tử Ba Tư; nhưng chàng sẽ thấy khác hẳn khl mình trang sức đầy đủ'' Trên đầu nàng giắt những viên kim cương to nhất, lóng lánh nhất cùng vòng cổ, vòng tay và chiếc thắt lưng đầy những viên đá quí gíông nhau, tất cả đều vô giá,quẩn áo nàng mặc là loại vải sang trọng nhất trong toàn Ấn Độ chỉ dệt cho vua chúa, hoàng tộc, màu sắc nổi trội hơn tất cả. Sau khi ngắm trước gương nhiều lần và hỏi ý klến thị nữ người này đến người khác xem còn thiếu sót gì không, nàng cho người đến xem chàng dậy chưa; trường hợp chàng đã dậy và mặc quần áo; chắc sẽ đề nghị được đến gặp nàng thì bảo nàng sẽ tự đến gặp chàng và có những lý do để làm thế.
Hoàng tử Ba Tư đã ngủ bù một đêm thức trắng, hoàn toàn lại sức sau chuyến bay vất vả vừa mặc quẩn áo xong thì một thị nữ vào mang đến lời chào của công chúa. Không để thị nữ truyền đạt lời công chúa, chàng hỏi ngay nàng có thể để mình đến làm nhiệm vụ lễ nghi khôgg. Khi nghe thị nữ nói lại ý định của công chúa, chàng bảo:
- Công chúa là chủ và tôi ở đây chỉ để thực hiện lệnh của nàng.
Công chúa Bengale vừa được báo hoàng tử đang chờ, nàng đến ngay để gặp mặt. Sau những lời chúc mừng lẫn nhau, hoàng tử xin lỗi đã làm nàng tỉnh giấc giữa lúc đang ngủ say và công chúa thì hỏi chàng đêm qua ra sao và tình hình sức khoẻ thế nào, công chúa ngồi xuống ghế xô-pha, hoàng tử cũng ngồi, lễ độ cách nàng một ít.
Công chúa bèn lên tiếng:
- Thưa hoàng tử, đáng lẽ tôi có thể tiếp chàng ở gian phòng lúc đêm chàng thấy tôi nằm ngủ nhưng ở đấy trưởng thái giám được tự do ra vào còn ở đây chưa được phép thì không bao giờ được vào; nóng lòng muốn nghe chuyến phiêu lưu kỳ lạ tạo cho tôi hạnh phúc được gặp chàng, tôi muốn đến đây, trong một chỗ chúng ta không bị gián đoạn. Mong hoàng tử cho thoả mãn yêu cầu của tôi.
Để làm công chúa Bengale hài lòng, hoàng tử Firouj Schah bắt đầu kể về lễ hội long trọng ngày đầu năm trong toàn vương quốc Ba Tư, những trò vui xứng đáng giải trí triều đình và hầu khắp thành phố Schirag. Sau đó con ngựa thần kỳ với cảnh lạ lùng khi người Ấn Độ lên ngựa trước cả một tập hợp người nổi tiếng, đã thuyết phục công chúa, nàng công nhận không thể hình dung trên đời có một sự kiện lạ hơn.
- Thưa công chúa - Chàng nói tiếp - nàng biết cho phụ hoàng tôi không tiếc chi phí để tăng vào tài sản mình những vật hiếm, lạ nhất, rất nóng lòng muốn có thêm con ngưa oai ấy, không ngần ngại hỏi người Ấn Độ về giá cả.
Ông ta trả lời rất quá đáng: ông ta không mua mà có được do đổi người con gái độc nhất và chỉ có thể nhường lại với điều kiện tương tự nghĩa là cưới công chúa em tôi nếu vua cha đồng ý.
Toàn thể cận thần vây quanh phụ hoàng tôi phá lên cười nhạo trước lời đề nghị quái gở đó, riêng tôi không nén được vô cùng giận dữ, hơn thế khi thấy phụ hoàng ngập ngừng trả lời từ chối. Thực vậy tôi nghĩ sẽ đến lúc Người có thể sẽ chấp nhận nếu tôi không cương quyết nói rõ đó là một quyết định sai lầm ảnh hưởng đến vinh quang của hoàng tộc. Thái độ của tôi vẫn chưa thể làm Người loại bỏ hoàn toàn ý định hy sinh công chúa cho con người đáng khinh đó. Người nghĩ tôi có thể thông cảm với Người nếu hiểu được như Người hình dung rằng con ngựa ấy thật đáng giá với tính chất đặc biệt của nó. Do vậy Người muốn tôi quan sát, lên ngựa và tự mình thử nghiệm xem.
Để vua cha hài lòng, tôi nhảy lên lưng ngựa, vì đã thấy người Ấn Độ quay một chiếc chất để ngựa bay lên, nên không chờ nghe những lời chỉ dẫn khác, tôi cũng làm thế và ngay lúc đó tôi được nâng lên không trung nhanh như một mũi tên bắn ra từ một cái cung khoẻ của một người có kinh nghiệm nhất.
Trong giây lát tôi đã cách rất xa mặt đất không phân biệt được vật gì, hình như lên gần đến vòm trời tôi sợ vỡ đầu mất. Trong tình trạng bay nhanh như vậy tôi không còn nghĩ được gì, không nghĩ đến những nguy hiểm đang chờ mình.
Tôi muốn quay ngược lại chiếc chết để hạ xuống nhưng càng quay con ngựa càng đưa tôi lên cao, càng xa mặt đất. Cuối cùng tôi nhận thấy một chiếc chất khác tôi quay chất và con ngựa bắt đầu hạ xuống. Trong đêm tối tôi không thể điều khiển nó hướng đến một chỗ không nguy hiểm, tôi giữ nguyên dây cương, trông chờ vào Chúa về việc gì có thể đến với số phận mình.
Con ngựa dừng lại, tôi nhảy xuống, quan sát thấy ở ngay tầng thượng lâu đài này. Cửa cầu thang để ngỏ, tôi bước xuống không tiếng động, gặp một cánh cửa mở có ánh sáng. Nhìn vào tôi thấy các thái giám đang ngủ, ánh sáng qua một màn che cửa gợi cho tôi tò mò. Tôi táo bạo bước tới vén màn tuy hình dung được mối nguy nếu thái giám tỉnh dậy.
Phần còn lại thì nàng đã biết tôi không cần nói thêm - Thưa công chúa - Xin cảm ơn lòng tốt, độ lượng của nàng và xin cho biết tôi phải làm thế nào để làm nàng hài lòng. Theo luật lệ, thân xác tôi đã là nô lệ của nàng, tôi chỉ còn có thể hiến đâng nàng con tim. Thưa công chúa con tim ấy không còn của tôi nữa; say mê về sắc đẹp của nàng đến nỗi thay vì đòi lại, tôi để lại nó cho nàng. Do đó tôi mong muốn xin được tuyên thệ tôi công nhận nàng là nữ chủ của lòng tôi.
Những lời nói này của hoàng tử với giọng điệu và thái độ làm công chúa không nghi ngờ gì về sức hấp dẫn của mình. Nàng không bực mình về lời tuyên bố xem như quá vội vã của hoàng tử. Mặt nàng ửng đỏ càng làm nàng đẹp và đáng yêu dưới con mắt hoàng tử.
Firouj Schah vừa nói xong, công chúa Bengale đáp:
- Thưa hoàng tử, nghe kể lại những việc kỳ lạ và tuyệt vời đến thế, một mặt tôi vô cùng xúc động, mặt khác hình dung chàng bay cao tít trên không trung tôi rất lo sợ, và tuy thấy chàng lành mạnh trước mặt, tôi vẫn không hết sợ lúc chàng nói con ngựa may mắn hạ xuống tầng thượng của lâu đài của chúng tôi. Điều đó có thể xảy ra ở hàng nghìn chỗ khác nhưng tôi hân hạnh được sự tinh cờ đã ưu đãi và cho tôi có dịp nói rõ với chàng cũng vì sự tình cờ đó có thể ehàng sẽ bộc lộ lòng mình ở những chỗ khác nhưng không phải ìà chỗ chàng được nhận thân ái và vui thích hơn ở đây.
- Như vậy thưa hoàng tử, tôi sẽ thật không phải nếu muốn tin chàng tự cho mình là nô lệ của tôi là một ý nghĩ nghiêm túc và không cho đó là một biểu hiện trung thực thay vì tình cảm chân thực; việc tiếp đón hôm qua của tôi tỏ rõ chàng không kém tự do hơn ở giữa triều đình Ba Tư.
- Còn về lòng chàng - Công chúa nói thêm với giọng điệu không kém hơn một lời từ chối tôi rất chắc chắn chàng không đợi đến bây giờ mới trao đổi trái tim mình và phải đã chọn một công chúa xứng đáng rồi, tôi sẽ rất giận mình tạo điều kiện cho chàng thiếu chung thuỷ.
Hoàng tử Flrouj Schah định cãi lại công chúa Bengale rằng cho đến khi chàng đến từ Ba Tư thì chàng vẫn làm chủ trái tim mình nhưng lúc sắp nói thì một thị nữ đã được lệnh, vào báo bũa ăn đã chuẩn bị xong.
Việc đó đã giải thoát cho hoàng tử và công chúa phải giải thích thêm những điều làm họ cùng bối rối mà họ cũng thấy không cần thiết. Công chúa hoàn toàn bị chinh phục vì lòng thật thà của hoàng tử Ba Tư còn hoàng tử tuy công chúa không nói rõ, qua lời lẽ và thái độ của nàng, chàng có thể hài lòng về hạnh phúc của mình.
Thị nữ đang để màn vén lên, công chúa đứng dậy nói với hoàng tử cũng đã đứng lên, rằng nàng không có thói quen ăn sớm thế nhưng chắc bữa khuya thị nữ chuẩn bị không tất nên đã cho sửa soạn bữa ăn này sớm hơn bình thường. Vừa nói nàng vừa dẫn chàng vào một gian phòng rất đẹp, trên bàn đã sẵn sàng nhiều thức ăn thật ngon. Họ ngồi vào bàn, rất nhiều các thị nữ nô lệ của công chúa mặc áo quần sang trọng bắt đầu hoà tấu nhạc và hát suốt trong bữa ăn.
Nhạc tấu rất êm dịu và không cản trở hoàng tử nói chuyện, hai người tiếp nhau phần lớn trong bữa ăn, công chúa lấy thức ăn mời hoàng tử và hoàng tử tiếp công chúa những thức ăn ngon nhất với thái độ và lờl nói càng làm công chúa thành tâm và khâm phục. Trong phong cách xã giao qua lại và quan tâm đến nhau như vậy tình yêu tăng dần ở từng người hơn lúc đối diện với nhau trước đó.
Ăn uống xong công chúa đưa hoàng tử vào một gian phòng rộng, đẹp do thiết kế và vàng bạc trang trí hài hoà, nội thất sang trọng. Họ ngồi trên ghế xô- pha nhìn ra khu vườn của lâu đài; hoàng tử tấm tắc khen về rất nhiều loại hoa, cây lớn cây nhỏ khác hẳn cây cối ở Ba Tư nhưng không kém vẻ đẹp. Tranh thủ chuyện trò trong dịp này, hoàng tử Firouj Schah nói: ''Thưa công chúa, tôi tưởng trên thế giới chỉ ở Ba Tư mới có những lâu đài tuyệt đẹp và những khu vườn đáng khâm phục xứng đáng với phong thái các nhà vua nhưng giờ đây tôi thấy rõ ở đâu cũng có những vị vua lớn biết cho xây dựng những dinh thự phù hợp với sự lớn lao và quyền lực của họ và nếu có khác nhau về cách xây dựng và những gì kèm theo, các lâu đài đều giống nhau về qui mô và hoành tráng.
- Thưa hoàng tử, tôi không có một khái niệm nào về các lâu đài ở Ba Tư nên không có ý kiến gì về sự so sánh của chàng. Nhưng tuy chàng có thể rất thực lòng, tôi khó cho là đúng được. Tuy không muốn coi thường lâu đài của tôi trước mặt chàng do chàng có lòng tất và thích thú nên không thể không nhận xét tất đẹp. Nhưng xin khẳng định với chàng tôi thấy nó rất xấu nếu so sánh với lâu đài phụ hoàng tôi, chiếc lâu đài vượt hẳn về qui mô, vẻ đẹp và giàu sang. Chàng cũng sẽ nói với tôi như thế khi thấy hoàng cung. Tình cờ đã đưa chàng đến kinh thành này, tôi nghĩ chàng cũng muơn trông thấy nó và chào phụ hoàng tôi để Người đưa lại vinh dự cần có cho một hoàng tử của một hoàng tộc và xứng đáng như chàng.
Gợi lên ở hoàng tử Ba Tư tính tò mò muốn biết hoàng cung Bengale và chào vua cha, công chúa mong phụ hoàng thấy một hoàng tử tuấn tú, thông minh và có mọi đức tính như thế, có thể đề nghị kết liên bằng cách gả con gái cho chàng. Qua đó, do chắc chắn hoàng tử không thờ ơ với mình và sẽ không từ chối sự kết liên ấy, nàng hy vọng sẽ đạt được nguyện vọng nhưng vẫn giữ được tư cách một công chúa có vẻ vâng theo ý muốn của phụ hoàng. Nhưng hoàng tử không trả lời đúng theo điều nàng suy nghĩ Chàng nói:
. Thưa công chúa, việc nàng vừa nói hoàng cung của vua Bengale hơn hẳn lâu đài của nàng đủ cho tôi tin là đúng chẳng khó khăn gì. Còn lời đề nghị tôi đến chào vua cha không chỉ là niềm vui thích mà là một vinh dự lớn cho tôi Nhưng thưa công chúa, nàng xét xem, khuyên tôi có nên trình diện trước một vị vua lớn lao thế như một kẻ phiêu lưu, không tuỳ tùng và trang bị phù hợp với dòng tộc mình chăng?
- Thưa hoàng tử, chàng khỏi phải bận tâm về điều ấy; miễn chàng muốn, tiền bạc không thiếu để trang bị như chàng vừa lòng, tôi sẽ cung cấp cho chàng. Ở đây có những nhà buôn của đất nước chàng, có thể lựa chọn một nhà theo chàng thích để làm tăng vinh dự cho chàng.
Hoàng tử Flrouì Schah thấu hiểu ý định của công chúa và tình cảm rõ rệt của nàng càng làm tăng thêm niềm say mê của chàng đối với nàng nhưng dù sao cũng không làm chàng quên nhiệm vụ. Chàng không ngập ngừng đáp lại:
- Thưa công chúa, tôi vui lòng chấp nhận lòng tốt của nàng và rất biết ơn nếu nỗi lo lắng vì tôl của phụ hoàng ở xa không cản trở tôi thực hiện điều đó. Tôi sẽ không xứng đáng với lòng nhân hậu và trìu mến của Người đối với tôi nếu không trở về sớm để làm Người yên tâm. Tôi biết rõ trong lúc tôi được hạnh phúc có một công chúa thật đáng yêu bảo vệ, chắc chắn Người đang rất đau lòng và mất hy vọng gặp lại tôi. Tôi mong nàng hiểu cho tôi không thể không vô ơn, thậm chí không mắc tội trọng nếu không trở về bảo toàn cuộc sống cho Người vì về quá chậm có thể gây nên nguy hại cho Người. Sau đó thưa công chúa, - hoàng tử Ba Tư tiếp tục, - nếu nàng cho phép và xét thấy tôi xứng đáng hy vọng có hạnh phúc trở thành chồng nàng, nhù phụ hoàng tôi luôn tỏ ra không ép buộc trong việc chọn vợ, đễ đàng được Người cho phép tôi trở lại đây, không phải với tư cách một người xa lạ mà là một hoàng tử, thay mặt Người đến đề nghị kết thân với vua Bengale bằng cuộc hôn nhân của chúng ta. Tôi khẳng định Người sẽ đồng ý khi tôi tâu với Người về lòng độ lượng nàng đã tiếp đón tôi trong lúc không may.
Qua cách giải thích của hoàng tử, công chúa Bengale rất biết điều không thuyết phục chàng đi trình diện vua cha mình nữa, không buộc chàng làm gì trái với nhiệm vụ và danh dự của chàng. Nhưng nàng hoảng hốt thấy chàng có vẻ muốn mau chóng ra đi, sợ rằng chia tay nhau sớm, thay vì giữ lời đã hứa chàng sẽ quên nàng khi không còn gặp nhau nữa. Để làm chàng đổi ý, nàng nói:
- Thưa hoàng tử, khi đề nghị góp phần để chàng đủ tư thế đi gặp phụ hoàng tôi, tôi không có ý định chống đối lời khước từ chính đáng như chàng nói mà tôi không dự kiến được. Nếu có ý định đó tôi sẽ là tòng phạm về lỗi của chàng. Nhưng tôi không đồng tình chàng sẽ đi ngay như chàng nghĩ. Ít nhất mong chàng chấp nhận đề nghị của tôi vì hạnh phúc của tôi bởi chàng đến vương quốc Bengale chứ không phải giữa một sa mạc (hoặc trên một đỉnh núi dốc chàng không xuống được), hãy ở lại một thời gian ngắn đủ để thông báo chi tiết những gì có ở đây cho trìều đình Ba Tư.
Lời công chúa nhằm mục đích lưu hoàng tử Firouj Schah lại it lâu, chàng sẽ say mê sắc đẹp nàng hơn, hy vọng lòng mong mỏi về Ba Tư chậm lại, chàng có thể ra mắt công chúng, đến gặp nhà vua Bengale. Hoàng tử không thể lại từ chối điều nàng đề nghị sau sự đón tiếp chân tình như vậy. Chàng vui lòng nhượng bộ và công chúa chỉ còn nghĩ đến tổ chức những trò vui, giải trí thú vị trong lúc chàng lưu lại.
Trong nhiều ngày chỉ là lễ mừng, vũ hội, hoà nhạc, tiệc tùng sang trọng, những cuộc dạo chơi trong vườn, săn bắn trong công viên lâu đài ở đó đủ các loại muông thú, hươu nai, bê, hoẵng và những con vật tương tự đặc biệt riêng ở xứ Bengale mà cuộc săn không nguy hiểm phù hợp với công chúa.
Cuối những buổi săn bắn hoàng tử và công chúa cùng nhau đến một chỗ đẹp trong công viên, người ta trải một tấm thảm lớn và gối tựa để họ ngồi nghỉ thoải mái. Ở đó, tĩnh trí lại và thư giãn sau cuộc săn bắn mệt nhọc, họ nói chuyện với nhau về các loại đề tài. Trên tất cả, công chúa chú ý không để bỏ qua câu chuyện về sự lớn lao, sức mạnh, của cải và sự cai tn ở đất nướe Ba Tư, từ đó nàng có thể đến lượt mình kể về vương quốc Bengale và những lợi thế của đất nước mình để chinh phục tâm trí của hoàng tử, làm chàng quyết định ở lại. Nhưng phải thú nhận rằng mọi việc ngược lại điều nàng mong muốn.
Thực vậy, hoàng tử Ba Tư, không khuếch trương gì, kể với nàng chi tiết về sự hùng cường của đất nước Ba Tư, vẻ đẹp và sự sung túc tràn đầy, về sức mạnh quân đội, việc buôn bán đường bộ và đường biển đến những nước xa nhất mà chàng không hề biết, về vô vàn những thành phố lớn, hầu hết đông dân cư như kinh thành họ đã chọn, có những lâu đài trang bị đầy đủ, sẵn sàng tiếp đón chàng bốn mùa nên có thể hưởng thụ một mùa xuân vĩnh viễn. Nghe nói như vậy, trước khi hoàng tử kết thúc câu chuyện, công chúa nhìn lại vương quốc Bengale như thua xa Ba Tư về nhiều mặt. Thậm chí lúc hoàng tử dứt lời và giục nàng kể những mặt mạnh của vương quốc Bengale, nàng đành nói sau nhiều lần hoàng tử khẩn khoản.
Công chúa kể chuyện cho hoàng tử vừa lòng nhưng bớt đi những lợi thế rõ ràng vương quốc Bengale vượt trội hơn vương quốc Ba Tư. Nàng tỏ cho hoàng tử biết rõ nàng sẵn sàng đi theo chàng về đấy khi chàng thấy cần đề xuất với nàng. Nhưng chàng nghĩ đã đến lúc cho nàng biết nàng đã sai lầm khi muốn giữ chàng lại lâu hơn, cản trở chàng mong muốn về gặp vua cha.
Suốt hai tháng ròng, hoàng tử Firouj Schah hoàn toàn thả mình theo ý muốn của công chúa Bengale, tham gia những trò giảl trí nàng có thể hình dung và tổ chức vì chàng, như chàng chẳng có việc gì khác ngoài vui sống với nàng theo cách ấy. Nhưng khi những việc đó trôi qua, chàng nghiêm túc tuyên bố mình xao nhãng bổn phận đã quá lâu và yêu cầu nàng để mình tự do thực hiện nhiệm vụ ấy, chàng lặp lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại với một hành trang xứng đáng với nàng và với chàng, xin nhà vua Bengale cho cưới hỏi đúng thể thức.
- Thưa công chúa - Chàng nói thêm - tôi có lẽ đă có những lời lẽ đáng ngờ và đề nghị của tôi đã làm nàng cho tôi vào hàng ngũ những người đễ quên lãng khi xa nhau. Để chứng tỏ niềm say mê không giả dối, không che giấu khẳng định cuộc đời tôi chỉ có hạnh phúc bên cạnh một công chúa hiền dịu như nàng mà tôi không nghi ngờ đã yêu tôi, tôi dám xin nàng gia ân đưa nàng về cùng với tôi nếu nàng không cho lời đề nghị của tôi là một sự xúc phạm.
Thấy công chúa đỏ mặt khi nghe nói vậy và không có dấu hiệu giận dữ, nàng ngần ngại chưa biết nên như thế nào, hoàng tử tiếp tục:
- Tôi có thể bảo đảm phụ vương tôi sẽ bằng lòng và tiếp nhận nàng trong sự kết liên. Còn vua cha Bengale, với những thể hiện trìu mến từ trước tới nay và vẫn còn dành cho nàng, Người sẽ không phải như nàng đã nói, nghĩa là thù hằn về sự thanh thản và hạnh phúc của nàng nếu Người không tiếp nhận cởi mở sứ giả của phụ vương tôi cử đến để xin chấp nhận hôn lễ của hai chúng ta.
Công chúa không trả lời gì với hoàng tử nhưng sự im lặng và đôi mắt nhìn xuống của nàng cho hoàng tử biết rõ hơn bất cứ lời tuyên bố nào nàng không ngần ngại gì và sẽ chấp nhận đi cùng chàng sang Bá Tư. Điều khó khăn nhất là nàng tỏ vẻ không tin hoàng tử đủ kinh nghiệm điều khiển con ngựa, sợ sẽ cùng chàng lúng túng như lúc chàng mới thử nghiệm. Hoàng tử Firouj Schah giải thoát cho nàng nỗi sợ hãi đó, khẳng định nàng có thể tin vào chàng và sau lúc những gì đã xảy ra, chàng có thẽ thách thức chính người Ấn Độ điều khiển ngựa thành thạo như chàng. Do đó nàng chỉ còn cùng chàng chuẩn bị ra đi bí mật đến nỗi không ai trong lâu đài nghi ngờ gì về vận mệnh của họ.
Ngay sáng hôm sau, một lúc trước khi trời sáng, cả lâu đài còn chìm đắm trong giấc ngủ, công chúa cùng hoàng tử lên tầng thượng và chàng quay con ngựa về hướng Ba Tư, ở một chỗ nàng có thể dễ dàng lên yên. Hoàng tử lên trước, sau khi công chúa ngồi thoải mái phía sau, ôm lấy chàng cho an toàn, chàng quay chết mà chàng đã quay khi ở kinh thành Ba Tư và con ngựa nâng họ lên không trung.
Ngựa phóng theo tốc độ bình thường, hoàng tử điều khiển vững vàng và khoảng sau hai tiếng rưỡi đồng hồ, họ đã thấy kinh thành Ba Tư. Chàng không hạ xuống quảng trường trước hoàng cung, cũng không hạ trong lâu đài nhà vua mà xuống một lâu đài vui chơi giải trí không xa thành phố lắm. Chàng đưa công chúa vào gian phòng đẹp nhất, nói sẽ tâu lên vua cha họ đã về để tiếp nàng theo vinh dự cần có đối với nàng và ra lệnh cho người hầu ở đấy lo lắng mọi việc để không thiếu điều gì cần cho nàng.
Sau khi để công chúa ở trong phòng, hoàng tử sai người hầu thắng ngựa; chàng bảo người hầu trở lại phục vụ thật nhanh việc ăn uống của công chúa và phi ngựa qua đường sá, phố phường. Chàng được đân chúng vui mừng hoan nghênh thay vì nỗi thất vọng không được gặp chàng từ khi mất tích. Nhà vua đang thiết triều, toàn thể triều đình mặc quần áo tang từ khi hoàng tử bị mang đi. Nhà vua ôm lấy con, chảy nước mắt vì vui mừng và trìu mến, vội vàng hỏi con ngựa ra sao rồi.
Câu hỏi ấy làm hoàng tử có dịp tâu trình lại với vua cha khi ngựa bay lên không trung chàng lúng túng và có nguy cơ hiểm nghèo như thế nào, chàng đã vượt qua lúc đó và đến tận lâu đài công chúa Bengale ra sao, việc tiếp đón chu đáo của nàng và lý do phải ở lại một thời gỉan cho đến lúc chàng hứa hôn và đưa nàng cùng về.
- Thưa bệ hạ - Hoàng tử kết thúc câu chuyện và nói thêm - sau khi hứa với nàng phụ hoàng sẽ đồng ý, con đã đưa nàng về đây trên con ngựa của người Ấn Độ, nàng đang chờ ở lâu đài vui chơi giải trí của bệ hạ và mong rằng con có thể đến báo tin cho nàng lời hứa của con có hiệu quả.
Hoàng tử quỳ xuống để làm vua cha chấp thuận nhưng ông ngăn lại, ôm hôn con lần thứ hai:
- Con trai, ta không chỉ đồng ý việc thành hôn của con với công chúa Bengale, ta còn muốn đích thân đến gặp nàng cám ơn về sự giúp đỡ của nàng, đưa nàng về hoàng cung và tổ chức hôn lễ ngay hôm nay.
Nhà vua sau khi ra lệnh chuẩn bị cho công chúa vào hoàng cung, cho quần thần cởi bỏ quần áo tang, tổ chức những cuộc vui bắt đầu bằng hoà tấu kèn trống, não bạt với những nhạc cụ khác, cũng lệnh cho thả người Ấn Độ và dẫn đến gặp Người.
Người Ấn Độ được đưa vào tiếp kiến, vua nói:
- Ta để lại mạng sống cho ngươi, ngươi không phải làm kẻ để ta trút giận và nỗi buồn, nhằm trả giá cho cuộc sống của hoàng tử nữa. Ngươi đi lấy lại con ngựa và đừng xuất hiện trước mặt ta nữa.
Khi ngườl Ấn Độ ra ngoài, qua những người mở cửa trại giam hắn đã biết hoàng tử Flrouj Schah trở về cùng công chúa Bengale trên con ngựa thần diệu.
Lâu dài giải trí là nơi công chúa đang tạm dừng chân và hắn cũng biết vua chuẩn bị ra gặp nàng để dẫn nàng về hoàng cung. Muốn đến trước vua và hoàng tử, hắn vội vã đi ngay tới lâu đài giải trí. Hắn nói với quân hầu hắn được nhà vua phái đến đón công chúa lên ngựa đi gặp nhà vua đang ở quảng trường hoàng cung để tiếp đón nàng với tư cách đại diện cho triều đình và thành phố Bengale.
Quân hầu vốn biết nhà vua đã bắt người Ấn Độ và đã trả lại tự do cho hắn, tin vào lời hắn không gây khó khăn gì. Hắn đến trình diên công chúa; vừa nghe nói hoàng tử Ba Tư sai đến nàng đồng ý thực hiện ý muốn của hoàng tử ngay.
Người Ấn Độ, phấn khởi thấy dã tâm của mình đạt kết quả dễ dàng, lên ngựa ngay nhờ người hầu giúp công chúa ngồi phía sau, quay chất và ngựa đưa hắn cùng công chúa bay ngay vào không trung.
Cùng lúc đó vua Ba Tư với triều đình hộ tống, ra khỏi hoàng cung để đến lâu đài giải trí còn hoàng tử đi trước chuẩn bị cho công chúa tiếp đón vua cha thì người Ấn Độ cùng con mồi của mình vừa bay qua thành phố, thách thức nhà vua và hoàng tử, trả thù sự đối xử bất công như hắn nghĩ.
Khi vua Ba Tư nhận thấy tên khiêu khích, ông dừng lại kinh ngạc vô cùng bực tức về sự xúc phạm đặc biệt như thế. Ông nguyền rủa hắn trước mặt các cận thần và những người chứng kiến sự hỗn láo bằng những lời độc địa không gì bằng. Người Ấn Độ không đếm xỉa đến những lời thoá mạ vang lên đến tai mình, tiếp tục bay đi trong lúc vua Ba Tư trở về cung, đau đớn về sự ngạo mạn sâu cay và tự thấy mình bất lực không trừng phạt được.
Nhưng khổ sở xiết bao cho, hoàng tử, tận mắt thấy mà không thể ngăn chặn tên Ấn Độ bắt cóc công chúa Bengale, người mà chàng yêu say đắm và không thể sống thiếu nàng? Và về việc không ngờ đó trong lúc chàng đang đứng lặng người, nghĩ có nên chửi rủa tên Ấn Độ hay than phiền số phận đáng thương của công chúa và xin lỗi vì thiếu biện pháp bảo vệ người phó thác mình vào chàng chứng tỏ chàng được yêu thương đến mức nào, thì con ngựa với tốc độ không tưởng tượng nổi đã đưa họ ra khỏi tầm nhìn của chàng. Làm gì đây? Trở về hoàng cung đắm mình vào phiền muộn trong phòng không một hành động đuổi theo tên khiêu khích để giải thoát công chúa và trừng phạt hắn thật thích đáng chăng? Lòng đại lượng, tình yêu, sự can đảm không cho phép chàng làm như thế. Chàng tiếp tục đi tới lâu đài vui chơi giải trí.
Thấy hoàng tử đi đến, người hầu tự nhận thấy sự nhẹ dạ của mình, đã để bị lừa, vội khóc lóc đến quỳ dưới chân chàng tự nhận tội và xin chịu chết. Hoàng tử bảo:
- Đứng dậy đi, ta không quy tội cho anh về việc công chúa bị bắt cóc mà chỉ do ta đã quá đơn giản mọi chuyện. Đừng để mất thì giờ, đi tìm cho ta một bộ quần áo tu sĩ và không nói chuẩn bị cho ta.
Không xa lâu đài có một tu viện mà người phụ trách là bạn của anh hầu. Anh đến tìm người ấy vờ tâm sự có một võ quan trong triều mà anh chịu ơn nay muốn giúp anh ta tránh khỏi cơn giận của nhà vua. Anh mượn toàn bộ quần áo tu sĩ về cho hoàng tử. Firouì Schah thay quần áo của mình mặc vào. Cải trang như thế, mang theo chi phí cho hành trình dựa vào hộp ngọc và kim cương mang đến định tặng công chúa Bengale, chàng ra khỏi lâu đài trong đêm tối bước theo con đường vô định nhưng quyết tâm không trở lại nếu không tìm được công chúa đưa về.
Trở lại người Ấn Độ. Hắn điều khiển con ngựa thần diệu ngay trong ngày đó đến một khu rừng nhỏ, gần kinh thành xứ Cachemire. Hắn thấy đói và xét thấy công chúa cũng cần ăn nên hạ xuống khu rừng này, vào một chỗ gần suối nước trong mát để công chúa ngồi lại trên bãi cỏ.
Trong lúc người Ấn Độ vắng mặt, công chúa Bengale thấy mình lệ thuộc vào một tên khiêu khích vô lại, sợ bị hắn hãm hại muốn tìm cách trốn vào một nơi nào đó. Nhưng buổi sáng lúc đến lâu đài nàng ăn rất ít nên cảm thấy quá yếu không thực hiện được ý định. Không lẽ buông xuôi, vì không còn nguồn lực nào khác ngoài long can đảm, cương quyết thà chết chứ không muốn thiếu chung thuỷ với hoàng tử. Vì vậy nàng không để người Ấn Độ mời hai lần. Nàng ăn uống lấy lại khá sức lực để dũng cảm chống đối những tán tỉnh hỗn láo của hắn sau bữa ăn. Sau nhiều lần đe doạ hắn chuẩn bị dùng sức mạnh thì công chúa đứng dậy chống cự và kêu cứu ầm lên. Những tiếng kêu làm một toán ky sĩ kéo đến vây lấy nàng và người Ấn Độ.
Đấy là vua của vương quốc Cachemire cùng đoàn tuỳ tùng đi săn về qua chỗ đó nghe tiếng kêu chạy đến. Ông hỏi người Ấn Độ là ai, định làm gì người phụ nữ này. Hắn trâng tráo trả lời đấy là vợ hắn và không muốn để cho ai biết về điều bất hoà của hắn đối với vợ mình.
Công chúa không cần rõ tính chất và tư cách của người vừa đến kịp giải thoát cho mình nàng tố cáo:
Thưa ngài, dù ngài là ai mà trời đã cử đến kịp cứu tôi, xin ngài thương hại cho một công chúa và đừng tin vào một kẻ lừa bịp. May mà Chúa không bắt tôi làm vợ một tên Ấn Độ xấu xa và đáng khinh như thế! Đấy là một phù thuỷ ghê tởm hôm nay vừa bắt cóc tôi khỏi hoàng tử Ba Tư mà tôi sẽ là vợ chàng; hắn đưa tôi đến đây trên con ngựa ma quái mà ngài thấy kia.
Công chúa Bengale không cần nói nhiều để khẳng định sự thật với vua Cachemire. Sắc đẹp của nàng, phong thái công chúa và nước mắt đã nói thay nàng. Nàng định nói tiếp nhưng thay vì lắng nghe, vua Cachemire giận dữ vì sự hỗn láo của người Ãn Độ cho vây bắt ngay hắn và chặt đầu. Lệnh ấy được thực hiện rất dễ dàng vì hắn vừa ra khỏi nhà giam thì bắt công chúa đi ngay, không có vũ khí nào để tự vệ.
Công chúa Bengale được giải thoát khỏi sự hành hạ của người Ấn Độ, nhưng nàng lại rơi vào một tình huống khác không kém đau khổ. Nhà vua sau khi bảo đắt cho nàng một con ngựa, đưa nàng về cung bố trí ở trong một gian phòng đẹp nhất sau phòng của ông, liền cho một số lớn thị nữ nô lệ phục vụ và những thái giám canh phòng. Ông đích thân đưa nàng về gian phòng ấy, không để nàng có thì giờ cám ơn như nàng nghĩ, ông ta nói với nàng: ''Công chúa, chắc nàng cần nghỉ ngơi, tôi để nàng tự do. Ngày mai nàng sẽ bình tĩnh hơn để kể lại với tôi cuộc phiêu lưu lạ lùng của nàng''. Nói xong ông rút lui.
Công chúa vô cùng vui mừng phút chốc được thoát khỏi sự hành hạ của một người nàng ghê tởm và tự nhủ nhà vua Cachemlre sẽ đầy độ lượng để trả nàng về với hoàng tử Ba Tư khi nghe nàng trình bày đã thuộc về hoàng tử như thế nào và khẩn cầu ông gia ân cho điều ấy. Nhưng còn lâu mớl thấy hy vọng của nàng được thực hiện được .
Thực vậy, vua Cachemire quyết định ngày hôm sau sẽ cưới nàng và ngay từ bình minh ông đã thông báo cho vui chơi với não bạt, trống kèn và các nhạc cụ khác vạng khắp hoàng cung và thành phố. Công chúa tỉnh giấc vì tiếng hoà âm hỗn loạn, cho rằng vì lý do khác, không phải như ý định của nhà vua? Khi vua cho người báo sẽ đến thăm nàng và sau khi hỏi thăm sức khoẻ, ông cho biết tiếng chiêng trống đó là để làm hôn lễ của họ thếm long trọng và để cho nàng vui lòng, nàng kinh ngạc đến nỗi ngã xuống bất tỉnh.
Các thị nữ chạy tới cấp cứu, nhà vua cũng làm mọi cách để nàng tỉnh lại nhưng nàng vẫn trong tình trạng ấy rất lâu. Cuối cùng nàng cũng hồi phục, nhưng thay vì để mất lòng tin với hoàng tử Ba Tư nếu bằng lòng thành hôn với vua Cachemire, người đã quyết định mà không hỏi ý kiến nàng, nàng vờ mất trí trong lúc ngã bất tỉnh. Nàng bắt đầu nói những điều quá đáng trước mặt vua, đứng dậy như muốn nhảy vào ông làm nhà vua rất ngạc nhiên và bất bình trước thời điểm quan trọng này. Thấy nàng chưa tỉnh táo, ông để nàng lại cho thị nữ, bảo không được rời mắt và chăm sóc nàng cẩn thận. Trong ngày ông cho người đến nắm tình hình của nàng và lần nào người ta cũng tâu với ông nàng vẫn ở trong tình trạng ấy hoặc tăng thêm chứ không giảm. Cơn đau có vẻ nặng hơn về buổi tối nên vua Cachemire đêm ấy không hạnh phúc như mình nghĩ.
Công chúa Bengale hôm sau không chỉ nói năng lung tung mà còn có nhiều dấu hiệu mất trí khác. Những ngày tiếp theo vẫn vậy; vua buộc phải tập hợp các lương y trong triều kể bệnh tình và bảo chạy chữa.
Các lương y sau khi hội chẩn, đều trả lời có nhiều trạng thái bệnh, tuỳ theo tính chất có những triệu chứng có thể khỏi, có những triệu chứng không chữa được và họ không phán đoán rõ bệnh tình công chúa nếu không trực tiếp gặp nàng. Nhà vua ra lệnh cho thái giám lần lượt đưa từng người vào phòng công chúa theo thứ bậc của họ.
Công chúa đã dự kiến việc sẽ đến, sợ nếu để các lương y lại gần bắt mạch mình, người ít kinh nghiệm nhất cũng biết nàng vẫn khoẻ và bệnh tật chỉ là một sự giả vờ nên tỏ ra rất ghê tởm, sẵn sàng cấu xé nếu họ đến gần nên không thầy thuốc nào dám bước tới.
Một số tự cho thành thạo hơn, nói có thể chẩn đoán bệnh qua nhìn bề ngoài, kê một số thuốc uống nhưng công chúa quá biết rằng bệnh hay không là do mình, nên các loại thuốc chẳng có tác dụng.
Nhà vua thấy các lương y trong triều không chữa được bệnh, liền huy động các thầy thuốc khắp kinh thành nhưng khoa học, kinh nghiệm cũng chẳng có kết quả gì hơn. Sau đó ông cho gọi những thầy thuốc ở các thành phố khác đặc biệt những người nổi tiếng về hành nghề. Công chúa không tiếp đón thuận lợi hơn và những đơn thuốc của họ cũng không tác dụng gì. Ông bèn thông báo đến các tỉnh trong nước, các vương triều lân cận, mời những lương y giỏi nhất đến chữa bệnh, hứa trả chi phí hành trình đến kinh thành Cachemire và thưởng rất hậu.
Nhiều thầy thuốc thực hiện cuộc hành trình đó nhưng không ai có thể nói gặp may hơn những đồng nghiệp địa phương trong việc khôi phục lại tâm trí của người bệnh, điều không phụ thuộc vào họ và nghệ thuật của họ mà tuỳ theo ý muốn của công chúa.
Trong thời gian đó, hoàng tử Firouj Schah cải trang thành tu sĩ qua nhiều tỉnh, thành phố, đau khổ về tinh thần khiến chàng bất chấp mọi mệt nhọc khi đi đường. Chú ý đến tin tức ở mỗi chỗ đi qua, nên khi đến một thành phố lớn ở Ấn Độ, chàng đã nghe thấy người ta nói nhiều về một công chúa Bengale mất trí vào hôm vua Cachemire dự định cưới nàng. Nghe nói đến công chúa Bengale, chàng cho rằng nàng công chúa đó chính là người mình đi tìm kiếm vì không nghe nói ở triều đình Bengale có công chúa nào khác hơn công chúa của chàng. Tin vào lời đồn, chàng lên đường đến kinh thành Cachemire. Tới nơi chàng thuê một chỗ trọ, ngay trong ngày ấy biết được tin câu chuyện về công chúa Bengale, kết cục của ngườl Ấn Độ đã đưa công chúa đến trên con ngựa thần diệu và tốn phí vô ích của nhà vua trong việc chữa chạy cho công chúa.
Nắm được những chi tiết đó, hoàng tử kiếm một bộ quần áo thầy thuốc và với bộ râu để mọc dài suốt cuộc hành trình, chàng đi trên đường tự xưng là lương y giỏi. Nóng lòng gặp lại công chúa, chàng đi thẳng vào hoàng cung đề nghị cho gập một võ quan hầu cận. Người ta đưa chàng đến viên đội trưởng có trách nhiệm đón tiếp lương y; chàng nói với ông ta rằng chàng có thể bị coi là táo bạo khi đến xin chữa cho công chúa sau bao nhiêu lương y khác không đưa lại kết quả nhưng hy vọng với một số bài thuốc chàng biết và có kinh nghlệm, chàng có thể chữa được bệnh. Viên đội trưởng hoan nghênh chàng, và bảo nhà vua vui lòng gặp chàng và nếu chữa cho công chúa đỡ bệnh, chàng sẽ có một phần thưởng hào phóng của nhà vua. ''Ông chờ một lúc, người tiếp đón nói thêm,tôi sẽ ra ngay''.
Đã một thời gian không một thầy thuốc nào đến xin chữa bệnh và vua Cachemire rất đau lòng nghĩ đã hết hy vọng thấy lại công chúa khoẻ mạnh như ông đã gặp và yêu say mê muốn cưới nàng. Ông ra lệnh cho viên đội trưởng tiếp đón đưa ngay lương y vào gặp mình.
Hoàng tử Ba Tư được vào trình diện nhà vua dưới dạng cải trang lương y và nhà vua không nói nhiều, lưu ý chàng,công chúa Bengale thấy thầy thuốc lại gần sẽ lồng lộn lên càng làm bệnh thêm nặng nên đưa chàng lên một phòng để ngỏ có thể nhìn qua một lỗ cửa mà không bị trông thấy.
Hoàng tử Firouj Schah bước lên, nhận ra công chúa thương yêu của mình, đang thẫn thờ ngồi khóc, hát một bài than số phận có lẽ không bao giờ gặp được người mình yêu tha thiết nữa.
Hoàng tử buồn rầu về hoàn cảnh của công chúa, không cần có những dấu hiệu gì khác cũng hiểu rằng nàng giả vờ bệnh và vì yêu chàng mà nàng buộc phải khổ long như vậy. Chàng xuống khỏi căn phòng, bẩm với nhà vua đã phát hiện ra bản chất căn bệnh của công chúa, không phải không chữa được. Chàng nói để khỏi bệnh, cần thiết chàng phải nói riêng với nàng và thay vì nổi khùng khi thấy các thầy thuốc, chàng hy vọng công chúa sẽ dịu lại và lắng nghe chàng.
Vua sai mở cửa phòng công chúa và hoàng tử bước vào. Thấy chàng xuất hiện nàng cho là một thầy thuốc, nàng đứng lên giận dữ đe doạ và chửi rủa. Chàng vẫn tiến lại, khi khá gần để có thể nói chỉ một mình nàng nghe, chàng nói nhỏ giọng và thái độ cung kính:
- Công chúa, tôi không phải lương y; mong nàng nhận ra hoàng tử Ba Tư đến để giải thoát cho nàng.
Nghe giọng nói và nhìn những nét trên khuôn mặt, công chúa nhận ra chàng mặc dầu bộ râu để mọc dài. Nàng bình tĩnh lại và thể hiện trên mặt niềm vui người ta không còn hy vọng nàng có nữa và điều ít ngờ được là nàng có thể nói chuyện khi chàng bước vào. Sự ngạc nhiên êm dịu làm nàng im lặng một lúc; hoàng tử có dịp kể lại nỗi thất vọng của mình khi thấy tên Ấn Độ bắt cóc đem nàng đi mất, chàng quyết tâm bỏ tất cả để đi tìm nàng bất cứ đến đâu và giải thoát nàng khỏi tay tên vô lại; hạnh phúc làm sao qua một hành trình buồn tủi và vất vả chàng hài lòng lại được thấy nàng trong hoàng cung này. Vắn tắt những điểm cần thiết xong chàng yêu cầu công chúa nói cho chàng biết những việc xảy ra từ khi bị cướp đi cho đến lúc này, chàng lưu ý nàng đó là điều rất quan trọng để có những cách làm đúng đắn đưa nàng ra khỏi sự độc đoán của vua Cachemire.
Công chúa không dài dòng, thuật lại những việc xảy ra và để giữ mình cho một hoàng tử nàng đã trao cả tấm lòng và niềm tin, nàng đã chọn con đường vờ mất trí hoặc sẽ chết hơn là kết hôn với một ông vua nàng không yêu và không thể yêu.
Hoàng tử Ba Tư thấy công chúa không còn gì để nói, liền hỏi nàng về con ngựa thần diệu ở đâu sau cái chết của tên Ân Độ.
- Thiếp không rõ - Nàng trả lời - nhưng sau việc thiếp đã kể, chắc rằng nhà vua đã cho bảo vệ cẩn thận.
Hoàng tử cũng tin như vậy, chàng bàn bạc với công chúa về ý định và cách làm để sử dụng ngựa thần đưa nàng về Ba Tư và bảo nàng ăn mặc lịch sự để tiếp nhà vua khi chàng dẫn ông ta lại tuy không bắt buộc phải nói chuyện với ông ta.
Vua Cachemire rất vui mừng khi nghe hoàng tử Ba Tư báo tin đã có biến chuyển tốt ngay lần đầu khi gặp và bệnh tình công chúa đã giảm. Ngày hôm sau ông xem hoàng tử như lương ỳ giỏi nhất thế giới khi công chúa tiếp ông và nhận định tình hình thực sự rất khả quan như hoàng tử đã nói.
Thấy nàng trong tình trạng chửa khỏi hẳn, vua chỉ nói rất sung sướng vì công chúa đã bắt đầu hồi phục và sau khi khuyến khích lương y tiếp tục việc chữa trị đã bắt đầu rất tốt, ông rút lui không chờ công chúa nói câu nào.
Hoàng tử Ba Tư đi theo nhà vua, khi ra khỏi phòng công chúa, chàng xin phép hỏi ông vì sao công chúa Bengale ở một mình trong vương quốc Cachemlre, xa nước mình đến thế, làm như chàng không biết nhằm làm nhà vua nói chuyện về con ngựa thần và để tự ông nói ra đã làm gì nó rồi.
Vua Cachemire không hiểu được mục đích hoàng tử hỏi, nên không giấu giếm gì. Ông kể lại gần như công chúa đã nói với ông còn về con ngựa ông đã cho đưa vào kho như một vật rất hiếm tuy ông không biết cách sử dụng nó như thế nào.
Lương y giả mạo nói:
- Thưa bệ hạ, điều Người vừa cho tôi biết có thể giúp tôi chữa hẳn được bệnh của công chúa. Do được mang tới trên lưng ngựa và là con ngựa thần diệu, nàng bị ảnh hưởng của điều gì đó bí hiểm chỉ được giải thoát bằng một số hương liệu tôi biết. Nếu bệ hạ vui lòng và cho triều thần và dân chúng kinh thành được xem một quang cảnh kỳ lạ nhất, ngày mai Người cho mang con ngựa ra giữa quảng trường trước hoàng cung và phần còn lại giao cho tôi làm, tôi hứa Người và toàn thể dân chúng sẽ tận mắt thấy chỉ trong chốc lát công chúa Bengale sẽ tỉnh táo và mạnh khoẻ hơn bao giờ hết. Để việc làm được rầm rộ, đã đến lúc công chúa phải mặc thật đẹp, trang sức những viên đá quí nhất bệ hạ có.
Vua Cachemire đã làm những việc khó hơn điều hoàng tử đề nghị để được thoả thích nguyện vọng mà ông thấy đã tới gần.
Ngày hôm sau con ngựa thần diệu được kéo từ kho báu ra để ở quảng trường từ sớm theo lệnh nhà vua và tiếng đồn chuẩn bị cho một việc gì rất khác thường lan đi khắp thành phố làm từng đoàn người ở các khu vực kéo đến xem. Quân bảo vệ được bố trí giữ trật tự và dành một chỗ rộng cho con ngựa.
Vua Cachemire xuất hiện, khi ông đã ngồi lên ghế cao ở khán đài, xung quanh là cận thần và các tướng lĩnh trong triều, công chúa Bengale có một toán thị nữ được chỉ định tháp tùng và giúp nàng lên ngựa. Khi nàng đã ngồi trên yên, chân Sỏ vào bàn đạp tay cầm dây cương, lương y giả mạo cho đem đến quanh con ngựa nhiều lư hương lớn đầy lửa, quay vòng quanh ném vào mỗi lư hương một loại hương liệu toả ra nhiều loại mùi vị thật thơm. Sau đó tĩnh tâm lại, đôi mắt lim dim, tay chắp trước ngực, lương y đi ba vòng quanh ngựa vờ đọc thần chú và trong lúc các lư hương toả làn khói dày đồng thời với hương vị rất dịu ngọt bao quanh công chúa người ta không nhìn rõ nàng và con ngựa, hoàng tử nhẹ nhàng nhảy lên ngồi sau công chúa, đưa tay quay chết ra đi. Trong lúc ngựa đưa chàng và công chúa lên không trung, hoàng tử lớn tiếng nói rõ ràng những lời mà nhà vua cũng nghe được:
- Nhà vua cachemire, khi ông muốn cưới những công chúa xin ông bảo vệ, trước hết phải được họ bằng long đã. Theo cách đó hoàng tử Ba Tư giành lại và giải thoát công chúa Bengale, ngay trong ngày ấy đưa nàng về kinh thành Ba Tư, không dừng lại ở lâu đài vui chơi mà hạ xuống hoàng cung. Vua Ba Tư chỉ hoãn đám cưới trong thời gian cần thiết để chuẩn bị hôn lễ thật trang trọng, lộng lẫy hơn.
Sau những ngày vui chơi chúc mừng, việc đầu tiên vua Ba Tư thấy cần làm là cử một phái đoàn nổi danh đến nhà vua Bengale trình bày về những việc xảy ra và xin nhà vua chấp nhận làm thông gia qua cuộc hôn nhân này. Vua Bengale biết rõ được mọi việc, cho là một vinh dự và vui lòng chấp nhận.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn