View Single Post
  #11  
Old 08-29-2009, 01:23 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Trạng Lợn

Nguyễn Nghiêu Tư, hiệu là Tùng Khê, người xã Phù Lương, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Tương truyền cha ông làm nghề thịt lợn, ông lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên được đặt tên là Nguyễn Văn Trư và mọi người thường gọi là cậu Lợn.

Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, có lần đi với bố ra đường, gặp đám rước kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi:
- Ông gì thế bố?

Người cha đáp:
- Ông Trạng!

Trư nói:
- Lớn lên con cũng làm ông Trạng!

Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe:
- Tao là quan Trạng!

Có người khách nghe được mới nói lỡm rằng:
- Trạng dở hay trạng nguyên?

Ông buột miệng đối ngay:
- Khách quen hóa khách lạ!

Cạnh làng ông là làng Yên Định đất học, có cụ đồ sang chơi, nói rằng:
- Mày là Trạng thì để ta ra câu đối xem đối có được không?

Trư ưng chịu. Nhân nhà Trư sinh sống bằng nghề thịt lợn cụ đồ bèn ra vế đối, mang đề tài lợn:
- Lợn cấn ăn cám tốn!

Lợn cấn là lợn có chửa, lợn chửa thì ăn nhiều cám tuy nhiên cái lắc léo của câu đối chính là Cấn và Tốn là hai quẻ trong Bát quái.

Trư đối ngay:
- Chó khôn chớ cắn càn!

Câu đối tuy rằng khá xấc xược, nhưng vế đối khá hay bởi vì Khôn và Càn cũng chính là hai quẻ trong Bát quái!

* Thật ra xét về luật đối thì vế đối không chỉnh lắm vì chữ "ăn" là động từ, "chớ" là trạng từ, "cám" là danh từ "cắn" là động từ. Câu đối này được gán cho Trạng Quỳnh trong truyện về Trạng Quỳnh (chú thích của Ái Hoa).

Cụ đồ thấy Trư thông minh bèn khuyên bố mẹ ông cho ông đi học. Chính cụ đồ bị ông đối xược ấy dạy ông từ năm mới 8 tuổi. Ông học rất giỏi, nghe một biết mười, lễ phép, chuyên cần, bạn học có người lớn gấp rưỡi, gấp đôi tuổi thảy đều thương mến. Những ngày trời mưa bạn thường cõng ông qua chỗ lội.

Khi ở nhà lúc nào ông cũng chăm lo đèn sách, thậm chí khi ra ao rửa bèo, ra vườn hái rau, tay vẫn cầm cái que nhọn vạch xuống đất hoặc vào lá chuối, lá khoai những chữ khó nhớ.

Đến khi biết chữ đã kha khá, thầy đồ gửi ông ra học cụ Vũ Mộng Nguyên. Cụ Nguyên người xã Đông Sơn, huyện Tiên Du, đỗ Thái học sinh nhưng không làm quan cho nhà Hồ mà về làng dạy học.

Ông đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1448) niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông. Tương truyền đêm trước ngày thi đình vua Nhân tông nằm mơ thấy lợn đỗ trạng. Dân gian coi yết bảng cứ kháo nhau thành vè “Long đầu lợn-Nguyễn Văn Trư”, vua liền đổi tên cho Trạng là Nguyễn Nghiêu Tư.

Ông làm quan đến chức An phủ sứ Hàn lâm Trực học sỹ, đi sứ nhà Minh lại phong Lại bộ thượng thư, về phong Chưởng lục bộ thượng thư.

Khi Trạng vinh quy bái tổ, dân làm cái nghè ở Phù Lương thị (chợ làng Phù Lương), tức làng Giùng, chợ Giùng để đón. Nghè còn tồn tại đến thời kháng chiến chống Pháp dân vẫn gọi là Nghè quan Trạng. Khi về hưu vua phong “Thượng quốc công chí sỹ” và vợ được hàm “nhất phẩm phu nhân”.

Năm 1459 Lê Nghi Dân giết vua tiếm vị, sai Trạng đi sứ sang Tàu cầu phong. Khi đoàn sứ thần ta tới ải Nam Quan, viên quan coi cửa ải nhà Minh muốn thử trí sứ thần Đại Việt bèn treo lên cửa quan một chữ thập lớn bằng gỗ, bảo nếu đối được thì mới mở cửa đón tiếp. Trạng nói:
- Các người ỷ thế nước lớn, ngạo mạn muốn coi người Trung Hoa là “tung hoành vũ trụ”. Đã vậy thì ta phải đối lại cho chúng biết người Đại Việt chúng ta không dễ gì mà bắt nạt!

Trạng sai người bện một cái vòng tròn lớn bằng lụa tết mắc lên đầu chữ thập, cả chữ thập lọt trong vòng tròn ấy. Viên quan Tàu coi ải đọc ra ngụ ý vế đối là "bao quát càn khôn", để đối lại vế ra là “tung hoành vũ trụ”. Ông ta thầm khiếp phục, mở cửa quan nghênh tiếp sứ giả.

Vào đến Yên Kinh, Trạng vào yết kiến vua Minh. Hoàng đế nhà Minh hoạch hoẹ:

- Sao lại dám giết em mà tranh ngôi vua?

Nghiêu Tư trả lời:

- Đường Thái tông giết cả anh là Kiên Thành, em là Nguyên Cát là việc cũ của thiên triều, thì việc nước tôi ngày nay có gì là lạ?

Thấy sứ thần Đại Việt trả lời rất đúng lý nhà Minh đành chấp nhận phong vương.

Nhà vua muốn thử tài sứ giả, ngầm sai đặt trong hoàng cung quán lịch sự, đề hai chữ Kính Thiên treo ở giữa, bầy đôi sập thất bảo rất cao, xung quanh đặt nghi vệ sang trọng như chỗ giường ngủ của thiên tử, để xem Trạng có dám ngồi đó không.

Khi sắp yến tiệc họ đưa Trạng và phó sứ dạo thăm cung điện rồi mới đưa đến đấy. Trạng bèn bảo phó sứ cùng ngồi lên sập thất bảo. Thấy vậy, viên quan nhà Minh ra hoạch:

- Cớ sao sứ thần lại ngược ngạo, vô lễ đến như vậy? Không trông lên trên kia xem, chỗ này là chỗ gì?

Trạng ta bình thản trả lời:

- Dám thưa, ngài lấy cớ gì cho sứ thần tôi là ngạo? Biển đề hai chữ Kính Thiên 敬 天, chiết tự ra là kính nhị nhân 敬 二 人 (chữ thiên 天 là trời, tách ra thành hai chữ nhị nhân 二 人 là hai người) thực hẳn là ý quý quốc muốn đem cái ngôi này mà hậu đãi hai sứ thần xa lại. Ngài dạy thế chúng tôi phải tuân theo. Vả nghe cổ nhân có nói: “Đãi người phương xa cốt lấy bụng thực”. Tôi nghe Thánh triều lấy thành tín đãi người ngoại quốc. Thế mà sứ giả nước xa tới lại đem cái bụng trí thuật làm oai. Tôi sợ người ta nghe tiếng dẫu có lòng thực hướng mộ, cũng sinh nghi mà không lại nữa.

Viên quan nhà Minh thấy Trạng nói như đã thấu rõ gan ruột mình từ trước, vội vàng khoả lấp ngay:

- Xin quý ngài xá lỗi. Nghĩ là buổi ban đầu, thử xem ngài có phải là bậc tài giỏi không thôi. Nhưng quý ngài quả là bậc thông minh, đã giỏi mà biết trước được như thế còn hề chi?

Trong thời gian ở Trung Quốc ông lập được nhiều công lớn, nhất là việc dạy hoàng tử học, được vua Minh rất đỗi quý phục phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên.


Ái Hoa

__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn