View Single Post
  #1  
Old 11-01-2012, 01:35 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ - Huỳnh Dị

KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ

Quyển Thượng


Hồi 1: Thành mất nhà tan


Bóng đao bóng kiếm, tiếng la tiếng giết vang trời.
Trong thành ngoài thành, ngùn ngụt khói cuộn, rừng rực lửa cháy, muội đen tràn ngập khoảng không trải dài hàng chục dặm. Lúc ấy tuy là đương ngọ, mặt trời mùa thu còn lơ lửng trên cao, nhưng dưới màn khói đen đặc, cả vùng đất đều vô quang hôn ám.
Tường bao phía nam thành bị đâm vỡ nhiều chỗ, lôi mộc của địch nhân công phá mạnh mẽ như độc long. Gia binh Khước thị lấy thân mình kết thành tường chắn, liều chết kháng cự, đổ máu tươi giữ lấy từng tấc đất, ngăn chặn địch nhân hung tàn chọc qua lỗ hổng tràn vào như nước triều.
Khước Uyển mình khoác tấm áo da màu ráng hồng, trang phục thường dùng của đại tướng nước Sở, mỗi bên hông đeo một thanh kiếm đồng, chính là ‘Đồng Long’ – ‘Đồng Phụng’ danh chấn thiên hạ đã cùng ông tung hoành khắp bốn phương, đến lúc sinh tử tồn vong này, sát bên mình vẫn còn có chúng.
Vị đệ nhất dũng tướng của Sở quốc đứng sừng sững trên đầu tường thành trong, tư thái ung dung khi lâm địch xưa kia giờ đã mất, sắc diện ngưng trọng.
Trên bình nguyên mênh mang bên ngoài thành, tinh kỳ địch nhân rờm rợp như biển, tầng tầng binh mã sát khí ngút trời, lặng lẽ đợi thời khắc quyết chiến.
Khước Uyển ngửa mặt phát thệ: “Nang Ngõa! Nang Ngõa! Khước Uyển ta chết đi, tất sẽ hóa thành lệ quỷ đến đòi mạng ngươi!”.
Thủ hạ của ông tám ngàn gia tướng, hiện chỉ còn lại hơn năm nghìn người. Mười vọng lâu bên ngoài thành, ba canh giờ trước đã lần lượt thất thủ, binh sĩ rút hết về thành nội. Tai ách sắp đổ xuống toàn quân đã ập đến ngay trước mắt.
Khước Uyển nhìn lướt mười tên tùy tướng, mục quang loé tia máu, hét lớn: “Hay lắm! Gia tộc Khước thị ta, từ tiên tổ Khước Mang sáng nghiệp đến nay, đã trải qua mười hai đời, chỉ có chí sỹ chết vì đánh trận, không có hạng đầu hàng!”.
Chúng tướng rộ lên ứng thanh, quyết ý tử chiến.
“Rầm rầm! Rầm rầm!” Một tràng tiếng động nghiêng trời lệch đất, lầu cao dựng bên nam thành khói cát sỏi đá mù mịt, từ từ sụp xuống như một tên lính bị thương. Nam thành vậy là không giữ được nữa rồi.
Bốn vạn quân địch đang đánh thành ngoài nhất tề hét vang, khiến người ta chấn động màng nhĩ, nhấn chìm cả tiếng động phát ra từ toà lầu khổng lồ đang ầm ầm đổ xuống. Trong tình thế tao loạn, bỗng chốc không nghe thấy bất kỳ thanh tức gì nữa, xung quanh như đang phô diễn một màn kịch câm. Rồi giữa vùng hỗn mang nháo nhác đến cực điểm, vụt cất lên một loại dị âm có quy luật và tiết tấu, một hồi tiếp một hồi, giáng thẳng vào trái tim Khước Uyển và từng viên tùy tướng. Địch nhân đang đánh trống trận.
Đội tiên phong bên ngoài bắt đầu di động như triều dâng, ép dần vào toà thành Khước thị có thời đã là biểu tượng của sự vô địch.
Một đại hán mặc giáp trụ tướng quân, dẫn theo hơn mười tên thân binh, vội vàng rảo bước tới trước mặt Khước Uyển, khom mình thi lễ:
“Đại ca! Khước Chính bất lực, thành nam thất thủ, địch nhân sẽ công vào trong vòng nửa canh giờ nữa thôi!”.
Khước Uyển xót xa nhìn người tiểu đệ từ nhỏ tới lớn luôn trung thành đi theo mình, y và hơn mười tên cận vệ phía sau, ai cũng trọng thương, thân thể đẫm máu. Uổng một đời tự phụ là tướng tài, đến thân đệ cốt nhục tương liên cũng không bảo vệ nổi, Khước Uyển thở dài, không định rõ được lòng mình đang bất lực, hay đang phẫn khái.
Khước Chính nói: “Địch nhân ban đầu tấn công dữ dội vào vọng lâu chính nằm ở thành tây, đến nỗi thực lực bên ta bị tiêu hao nhanh chóng, lại chọn tấn công nơi yếu nhất của thành nam, khiến quân ta trở tay không kịp. Nếu nói là không có nội gián hiểu rõ hư thực tiếp trợ, thật khiến người khác khó mà tin được”.
Khước Uyển trầm ngâm không đáp, kỳ thực ông đã sớm nghĩ đến vấn đề nội gián. Địch nhân lần này đột ngột xuất kích, trước đó không hề có đến nửa dấu hiệu báo trước, hiển nhiên là đã nắm rõ bố trí sắp xếp của bên mình, nên mới tránh được những tai mắt thám sát. Riêng điểm này đã xác định được là có nội gián hay không. Tự xét mình xưa nay hậu đãi thủ hạ, đối xử chân thành với mọi người, không ngờ lại có kẻ bán đứng cả một gia tộc khổng lồ như thế này!
Khước thị là một đại gia tộc của nước Sở. Những năm dưới hai thời Xuân Thu - Chiến Quốc, một giọt máu đào hơn ao nước lã, quan niệm thân tộc mạnh hơn hẳn quan niệm quốc gia.
Khước Uyển ngoảnh đầu nhìn nơi xa bên ngoài thành. Hướng chính nam đang giương cao một cây cờ soái, trên đề một chữ ‘Phí’, lệch về phía tây là một cây đại kỳ khác thêu chữ ‘Yên’, đều đang bay phần phật trong gió. Hai cây đại kỳ này vượt lên tất cả những chiến kỳ khác chừng nửa trượng, đang nhe nanh múa vuốt, diễu võ dương oai ở ba trượng trên cao.
Ai cũng biết, hai chữ đó đại diện cho hai mãnh tướng trứ danh của nước Sở, hai dũng sỹ quyền khuynh thiên hạ mà Lệnh doãn Nang Ngõa coi như hai cánh tay trái phải của mình.
‘Phí’ tức là Phí Vô Cực, ‘Yên’ tức là Yên Tương Sư. Phí Vô Cực, Yên Tương Sư, Khước Uyển và Tương Lão - người đứng đầu một đại gia tộc khác, tề danh Sở quốc Tứ đại kiếm thủ, đều là danh tướng của nước Sở.
Khước Uyển thầm đánh giá, hai cây đại kỳ lúc này vẫn ở nguyên chỗ cũ, bất động, nhưng khi họ tiến lên, sẽ là thời khắc thư hùng quyết chiến.
Tiếng trống trận vang vang càng lúc càng mau, khấu động trái tim mỗi người trên chiến trường, không khác gì quỷ chú đòi mạng.
Khước Uyển trầm giọng gọi: “Khước Chính!”.
Khước Chính rùng mình, tựa hồ ý thức được mệnh lệnh mà đại ca sắp đưa ra, mắt vụt loé những tia kiên quyết: “Tả doãn, tiểu tướng hôm nay đã quyết, thành còn người còn, thành mất người mất, tất cả những chuyện khác, không cần nói nữa!” Rồi y dứt khoát quay đi, tuốt trường kiếm, sải bước về chỗ thành vỡ. Mười tên thủ hạ cũng lần lượt tuốt trường kiếm, theo sát đằng sau.
Khước Uyển lặng lẽ thở dài, cũng không giữ lại. Huynh đệ tâm ý tương thông, Khước Chính biết trước ý nghĩ trong lòng mình, gọi mình là ‘Tả doãn’ chứ không phải đại ca, chứng minh y không muốn mình vì y là huynh đệ chí ái mà lệnh cho y đào thoát. Không ngờ vị huynh đệ cả đời luôn luôn phục tùng, lần duy nhất kháng mệnh lại là thời khắc như thế này.
Khước Uyển thoắt trầm ngâm, tựa hồ cân nhắc một quyết định trọng đại. Giây lát sau, ông dứt khoát gọi:
“Lăng Thạch!”.
Từ trong đám tùy tướng đằng sau, một đại hán bước ra.
Lăng Thạch nét mặt thô mộc, kín bưng, dáng vẻ kiên nghị quật cường.
Khước Uyển rung cổ tay, chưa thấy rõ cử động, bảo kiếm ‘Đồng Phụng’ đeo bên hông trái đã được rút ra, chĩa lên thẳng tắp, thân kiếm lấp lánh sinh quang, vững vàng như thạch, tựa hồ có thể vĩnh viễn lưu giữ được tư thái ấy, mãi cho đến ngày tận thế của nhân gian.
Khước Quyển nhìn viên thủ hạ đã từng cùng mình vào sinh ra tử, trong giờ phút thành vỡ quân tan này, thần sắc vẫn điềm đạm trầm tĩnh, thì tỏ vẻ hài lòng nói: “Ngươi hãy cầm lấy Đồng Phụng, vào nội viện truyền lệnh ta: phàm là người của Khước thị, kể cả phu nhân và tiểu thư, đều phải lập tức tuẫn tiết, tránh thọ nhục khi thất thủ”. Ngữ điệu kiên quyết hữu lực, không dung nhượng một chút thỏa hiệp nào.
Lăng Thạch im lìm đón lấy kiếm, bước đi.
Nhìn theo bóng y biến mất dưới chân thang, chúng tướng sắc diện không thay đổi. Thắng bại vốn luôn tàn khốc như vậy, thời đó kẻ thua bị bắt, hầu hết phải xung làm nô bộc, sống còn không bằng chết. Trước kia dưới sự dẫn dắt của Khước Uyển, bọn họ chiến bất khả bại, hôm nay mạt lộ cùng đồ, thà hết sức giao phong rồi chết, chứ không thể nhẫn nhục sống cho đoạn tháng qua ngày.
Nhưng một nam tử đứng xế bên, thân hình cao lớn mạnh mẽ, thì tái mặt thốt: “Cha!” đôi mắt sáng quắc ngập lệ.
Khước Uyển hắng giọng ngắt lời, ngăn gã nói tiếp: “Hoàn Độ, ta lấy tư cách người đứng đầu Khước gia hạ lệnh cho con: đây là lần cuối cùng con có thể khóc, sau này con chỉ được phép đổ máu, không được phép rơi lệ. Nam nhi của Khước thị, tuyệt không có hạng yếu mềm ướt át!” đoạn thở dài than: “Tổ vỡ thì trứng làm sao còn nguyên vẹn được?”
Khước Hoàn Độ thần tình ảo não, cúi đầu thưa: “Hài nhi bất hiếu, cả ngày chỉ mê mải kiếm thuật, xa lạ binh pháp, đến nỗi hôm nay không thể gánh đỡ phần phá địch với cha!”
Khước Uyển ngửa mặt cười dài bi phẫn. Chúng tướng đằng sau chưa bao giờ thấy thần thái của ông như vậy, bất giác sinh ý sẵn sàng liều chết. Họ rất hiểu tâm trạng chủ nhân. Khước thị và Nang Ngõa đều là thần tử Sở quốc, hiện tại sự biến đã đến sát bên, nội bộ tương đấu, loại ác độc như Nang Ngõa, khiến người ta không khỏi căm giận.
Khước Uyển vụt ngưng cười: “Hoàn Độ bất tất tự trách, xưa kia ba vị huynh trưởng của con đều là những tướng tài thành thục binh pháp, nhưng bơi giỏi lại chết đuối, cuối cùng thảm tử sa trường. Sự gì cũng có hai mặt, con không lưu tâm đến binh pháp, ta cũng chưa từng miễn cưỡng, một mặt vì mẹ con trước sau đã mất ba người con trai, nên muốn giữ con bên cạnh, mặt khác ta nghĩ con có thể tiếp tục kế thừa được kiếm pháp gia truyền, khiến nó phát dương quang đại. Mong rằng con sẽ dựa vào kiếm thuật đó, để thoát khỏi tai kiếp hôm nay”.
Chúng tướng xung quanh sửng sốt, bọn họ chưa bao giờ xem trọng vị tiểu chủ công này, vì chưa từng thấy gã khoác giáp ra trận, cả ngày chỉ ở nội viện giữa đám quần thoa, lại thêm không biết kiếm pháp của gã đã đạt tới trình độ nào, giờ mới rõ nguyên nhân nội tại.
Khước Uyển lại tiếp: “Trung Hành, ngươi lập tức giúp công tử chọn lấy hai trăm tử sỹ, hộ tống y chạy thoát ra nước ngoài, bên trái của luỹ đông có một đạo lộ, công tử nắm rõ đường đi lối lại, y sẽ dẫn đường”. Nói đoạn cười ha ha tiếp: “Nang Ngõa, cho dù nội gián của ngươi là quỷ, cũng không biết Khước thị ta còn một chước sau cùng”.
Đại tướng Trung Hành nói: “Chủ công, hay là người và thiếu chủ cùng rời đi, chúng thuộc hạ ở đây khiên chế địch nhân!”.
Bình! Bình! Các tướng nhao nhao quỳ xuống, van vỉ chủ nhân đào thoát.
Khước Uyển tháo lấy ‘Đồng Long’, đưa qua cho Khước Hoàn Độ, lòng than thầm, nếu là hai mươi năm trước, ông nhất định không trù trừ chạy trốn khỏi đây. Lúc đó còn trẻ, có bản lĩnh, nào sợ không còn cơ hội, nhưng hiện nay tuổi tác đã trọng, huống hồ một đời tung hoành, hiệu xưng vô địch, giờ lại chạy quáng quàng như chó nhà táng, thì thật không bằng chiến đấu vinh quang mà chết! Mặc dù hi vọng mong manh, nhưng sẽ đem ước muốn phục thù ký thác lại cho thân nhi.
Khước Uyển nói với Khước Hoàn Độ: “Ngày sau phải để Đồng Long bảo kiếm uống no máu tươi của Nang Ngõa!” dừng một lát rồi tiếp: “Ta tuy đứng đầu trong Sở quốc Tứ đại kiếm thủ, nhưng với tên ác nhân Nang Ngõa này, vẫn không dám chắc là chế thắng được hắn. Con phải chú ý điều đó!” Rồi phóng mắt ra xa, hai ngọn quân kỳ Phí, Yên đang chầm chậm di chuyển, chiến xa của địch nhân cũng bắt đầu rầm rập tới gần.
Khước Uyển nói với đám thuộc tướng đang quỳ trước mặt: “Các ngươi không cần làm vậy, ý ta đâ quyết, tuy không có hi vọng thắng, nhưng thề rằng sẽ khiến kẻ địch phải trả một cái giá rất thê thảm!”.
Khước Uyển quay mình ra ngoài, cao giọng hét: “Phí Vô Cực, ngươi có gan đơn đả độc đấu với bản nhân không?” Thanh âm bay thật xa, vang động khắp chiến trường. Ông là một trong số ít các cao thủ của nước Sở, lần này vận khí dương thanh, xa gần ai nấy đều nghe rõ, rất nhiều tử đệ Khước thị vốn đã thọ thương ngã xuống, vừa nhận ra thanh âm của chủ công, lòng lại chấn động, cố gắng gượng dậy, trên chiến trường nhất thời kịch chiến tăng thêm, một bầu thảm liệt.
Giọng Phí Vô Cực từ xa vọng lại: “Là bại tướng thì còn tư cách gì để nói đây?
Khước Uyển ngươi đừng tính chuyện chó cùng dứt giậu nữa. Nếu tự trói hai tay, quỳ xuống đầu hàng, ta sẽ để ngươi chết toàn thây!” Thanh tức hùng hậu, dư âm ngưng đọng, hiển nhiên công lực rất cao. Người này hiệu xưng Sở vực đệ nhất cao thủ, võ công chỉ đứng sau Nang Ngõa, đồng thời còn là một tay kiếm tài ba, cùng Yên Tương Sư, Khước Uyển, Tương Lão được liệt vào danh sách Sở quốc Tứ đại kiếm thủ.
Khước Uyển không giận mà lại cười, tiếng cười bi lãnh của người anh hùng đã đến bước cùng đồ mạt lộ!
Trống trận bên địch vang lên, trầm trầm mà mạnh mẽ, từng hồi từng hồi thúc vào trái tim Khước Uyển. Đại quân của Phí Vô Cực và Yên Tương Sư từ từ di chuyển, thời khắc phân định thắng thua, sau một hồi song phương ‘chờ đợi’, rốt cục cũng đã đến.
Khước Uyển cầm lấy một cây đồng mâu cỡ lớn, sải bước xuống dưới thành, lòng miên man nhiều suy nghĩ quái lạ: mình từ chỗ có tất cả, quyền lực, phú quý, mỹ nữ, đến giờ này sắp mất tất cả, mà không hề thấy bận tâm vướng víu, lòng lại dâng tràn một thứ khoái cảm thống khổ. Ngẫm cho kỹ con người ta trần trụi mà đến, rồi trần trụi mà đi, cả đời toàn theo đuổi những mục tiêu ngắn ngủi và tạm bợ. Ngoài giây phút hưng phấn trên đỉnh cao thành công, còn lại chỉ là những tháng ngày buồn chán. Hiện tại trước mặt ông ít nhất cũng có một mục tiêu rõ ràng, đó là phải phóng tay giết địch, kỳ cho đến lúc chết mới thôi. Trong lòng bất giác trào lên một thứ hào tình, ông hét lớn, vung trường mâu đâm văng hai tên lính địch đầu tiên.
Tâm pháp về võ học của Khước gia coi trọng nhất là sự tuyệt diệt cảm xúc, cho dù giữa thiên binh vạn mã, cõi lòng vẫn phải như băng tuyết không tan trong lò lửa, quan chiêm sự vật bằng cái nhìn lạnh lẽo. Lúc này Khước Uyển đã gạt bỏ mọi chuyện hơn thua, tâm linh đạt tới cảnh giới chí hư chí tĩnh, trường mâu như con rồng nhe nanh múa vuốt, lao thẳng vào đám đông quân địch. Thuộc hạ thấy chủ công uy võ kinh nhân, sĩ khí cũng trào dâng, theo ông xông qua chỗ thành vỡ, đánh bật ra ngoài, nhất thời tiếng hô giết dậy đất, trong trận hỗn chiến người ngựa ngả nghiêng.
Khước Uyển như mãnh hổ xổng chuồng, tiến lui xung sát trong rừng đao biển kiếm. Lúc này tướng sĩ bên mình ông, từ hơn hai ngàn người lúc đầu, giảm xuống chỉ còn chừng năm trăm mạng. Đột nhiên trước mặt đám người xao động, một đội Khước thị tử đệ, hộ tống một viên đại tướng đang tiến về hướng ông. Khước Uyển giật mình, vội vàng chỉ thị thuộc hạ phân làm hai cánh đánh lên, tiếp ứng cho đội nhân mã đó. Ông tinh mắt nhận ra đại tướng dẫn đầu là Khước Chính, ngực đẫm máu tươi, sắc mặt nhợt nhạt, trông không còn cầm cự được bao lâu nữa, liền đánh át lại đón. Khước Chính nhìn thấy đại ca, khoé mắt ứa lệ, đôi môi mấp máy, Khước Uyển cúi xuống ghé sát tai vào miệng y, nghe thấy Khước Chính thều thào một câu hầu như câm lặng: “Nang Ngõa! Cẩn thận...”. Ngữ thanh đứt đoạn, thì ra đã tắt thở rồi.
Khước Uyển đau đớn phát điên, hú một tiếng khủng khiếp, lại đánh giết vào giữa trận địch, trường mâu huy động chọc đâm phạt quất, địch nhân ngã như ngả rạ, máu tươi phun tưới thành vòi.
Giữa trận khổ chiến đẫm huyết, đột nhiên tất cả địch nhân dãn nhanh ra như triều rút, để lộ một khoảng trống lớn, chỉ còn mình Khước Uyển đứng trơ trọi, thủ hạ của ông đều đã bị tách riêng, nơi xa tuy còn đưa lại vài âm thanh giao đấu lẻ tẻ, nhưng hiển nhiên đối phương đã khống chế được đại cục.
Thân hình cao lớn của Phí Vô Cực len đám đông bước lên, dừng cách Khước Uyển hai trượng, trong tay cầm một thanh trường kiếm, khinh thị nói: “Ngươi chẳng phải là muốn cùng ta đơn đả độc đấu sao?” Khước Uyển trong lòng vui sướng như điên, hiện tại thể lực của ông tuy đã cạn kiệt nghiêm trọng, nhưng nếu có thể quyết chiến riêng với kẻ đại địch này, tận dụng sức bền và ý chí của mình để thực hiện kế đồng quy ư tận, thì thật là lý tưởng.
Khước Uyển chĩa xéo trường mâu về phía Phí Vô Cực, cũng không nói một lời, sải bước tiến tới.
Phí Vô Cực thấy Khước Uyển vóc dáng động tác oai nghiêm khôi vĩ, sau trận kịch chiến, vẫn không tỏ lộ một chút mệt mỏi hay sơ hở nào, lại biết ông bước lên lập tức sẽ thi triển tấn công, đời nào chịu đợi ông tích đầy khí thế, trường kiếm trong tay hắn hóa xuất từng vòng hào quang, hào quang đột ngột toả rộng, đúng lúc Khước Uyển cũng vừa bước tới.
Khước Uyển rung cổ tay, trường mâu bắn ra vạn đạo hàn mang, kích trúng hào quang từ trường kiếm của Phí Vô Cực, tiếng binh khí va nhau bật lên keng keng.
Vòng hào quang tan đi, trường mâu phá không đâm tới, loé lên như chớp chọc thẳng vào yết hầu Phí Vô Cực, tốc độ hết sức nhanh. Phí Vô Cực cũng rất lợi hại, không lùi mà lại tiến, trường kiếm phách xuống thân mâu, cảm giác trường mâu nhẹ tênh vô lực, kiếm chạm vào bỗng bật sang trái. Phí Vô Cực vừa kêu to bất diệu, khoé mắt đã thấy chớp động một làn nhân ảnh, Khước Uyển ném mâu xông lên, thò tay nắm lấy trường kiếm của Phí Vô Cực. Phí Vô Cực vận cổ tay xoay kiếm, phạt đứt bốn ngón tay của Khước Uyển, nhưng trường kiếm cũng vì vậy mà chậm lại. Khước Uyển vùng áp sát, thúc cùi chỏ vào dưới mạng mỡ hắn, tức thời đâm gãy liền mấy giẻ sườn. Rồi ông vung tay chém xéo lên, phách vào hai mắt của hắn, Phí Vô Cực la to chí nguy. Không hiểu vì sao Khước Uyển bỗng nhiên trùng trình, Phí Vô Cực nhân cơ hội vội vàng thối lui, mắt trái dội lên một cơn đau nhói, tuy giữ được mắt phải, nhưng mắt trái đã bị chọc trúng rồi.
Khước Uyển nén chịu cơn đau dội lên từ bốn ngón tay bị phạt đứt, đang định chọc mù hai mắt của Phí Vô Cực, bỗng một luồng đại lực hùng hậu từ đằng sau ập tới, khiến ông chùn một bước, chỉ phế được con mắt trái của Phí Vô Cực. Đúng lúc đó luồng đại lực đã trút vào lưng ông, Khước Uyển miệng hộc máu, lật tay đánh lại, người sau lưng sử một thủ pháp xảo diệu, hóa ra vô số quyền ảnh, tiếp đó song thủ nhanh như chớp vỗ lên vai ông, Khước Uyển nghe thấy tiếng xương cốt mình răng rắc vụn vỡ, máu tươi cũng ứa trào khỏi mũi khỏi miệng không ngừng, khi hai người tách nhau, thân thể ông đã không còn nguyên vẹn nữa.
Khước Uyển mơ hồ trông thấy trước mắt xuất hiện một người cao lớn âm trầm, mình mặc hồng bào, ông nghe trong đầu nổ rầm một cái, tức thời minh bạch ý tứ của Khước Chính trước khi chết, nhắc ông phải cẩn thận Nang Ngõa. Kẻ trước mắt ông đây chính là Nang Ngõa, cuối cùng ông và người tiểu đệ thân thiết nhất đều táng mạng trong tay tên gian nhân đó, thì ra hắn thân chinh đến đốc quân. Mối thù này, đành phải để lại cho Hoàn Độ báo.
Khước Uyển ngã sầm xuống, một đời danh tướng, ôm hận mà thác!
Nang Ngõa ngửa mặt cười lớn, nhìn máu nhuộm hai tay, bộ dạng cực kỳ hân hoan.
o0o
Cửa ra của đạo lộ ở dưới một con dốc rậm rạp cây, đằng sau sơn thành nhà họ Khước, hình thế tinh xảo, đường lối khúc khủyu, che mắt người nhìn rất khéo. Xưa kia khi tổ tiên Khước thị được phong đất, đã đặc biệt mời thợ mộc giỏi đến kiến tạo, chuẩn bị vạn nhất cần đào sinh bảo mệnh, trải qua mười mấy đời sóng êm gió lặng, đến Khước Hoàn Độ mới phải dùng.
Cơ quan của đạo lộ lẽ ra đã nát hỏng từ lâu, nhưng nhờ Khước Uyển xưa nay trong cảnh yên bình vẫn lo sinh biến, thường bí mật phái thân tín sửa sang dọn dẹp, vì vậy về cơ bản vẫn hoàn hảo.
Đạo lộ này là bí mật lớn nhất của Khước thị, ngoài số ít những huynh đệ tử điệt thân cận, còn lại không ai hay biết. Đại tướng Trung Hành, người vừa phụ trách tuyển lựa hai trăm tử sĩ, hộ tống Khước Hoàn Độ đào tẩu cũng mới lần đầu tiên biết đến sự tồn tại của đạo lộ này.
Khước Hoàn Độ, Trung Hành và hai trăm tráng đinh, lặng lẽ im lìm xuyên qua khu rừng cây, men theo khe suối đằng hậu sơn, lội nước đi vào dãy Đại Biệt Sơn trải dài liên tiếp.
Ai nấy đều biết đây là lúc sinh tử quan đầu, mỗi động tác đều tăng cường cẩn thận, không dám tạo nên một chút tiếng động nào để gây liên luỵ đến toàn quân.
Thành luỹ của Khước thị lùi lại đằng sau, đã chìm vào rùng rùng biển lửa, khói đen xông kín cả một vùng trời, chôn vùi những tiếng la tiếng giết, rõ ràng là đã thất thủ.
Khước Hoàn Độ cắn răng nén lại niềm bi thống. Gã năm nay hai mươi lăm, hơn mười năm bỏ bê binh pháp mà tinh nghiên kiếm thuật, tự phụ bất phàm. Nhưng giữa thiên quân vạn mã, chống chọi sa trường, gã quá lắm chỉ đảm đương nổi chức trách một viên dũng tướng, chứ không thể làm nguyên soái giành chiến thắng, trong đáy tim nhất thời nỗi hối hận giằng xé. Nhưng nhớ lại tài dụng binh của cha, trong tình thế này cũng đành thúc thủ thở dài, mình vĩnh viễn không bằng được, trước mắt việc báo cừu thật là mờ mịt. Mà gã, Khước Hoàn Độ, lại là người duy nhất có thể trả được mối thù diệt gia hủy tộc. Âm dung của Khước Uyển, bất giác vang lên trong óc gã.
“Chỉ có thể đổ máu, không được phép rơi lệ”.
Gã lập thệ vĩnh viễn ghi khắc trong tim.


KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 2: Thử qua thân thủ



Đám bại binh tháo chạy khỏi toà thành thất thủ, mang trong tim nỗi huyết hận bị người ta tróc sạch cả gốc rễ, cắm cúi đi theo dãy Đại Biệt Sơn trải dài liên miên vạn dặm. Chỉ cần vượt qua vùng núi rộng rãi này, là sẽ tiến gần đến Vân Mộng Trạch nổi tiếng của Sở quốc, nơi đó là đầm lầy, địa hình thấp trũng, lại nhiều rừng rậm ao hồ, rất thuận tiện cho việc trốn thoát sự vây bủa đại quy mô của kẻ địch.
Đi bên cạnh Khước Hoàn Độ là Trác Bản Trường, bạn chơi của gã thuở thiếu thời. Trác Bản Trường tinh minh lợi hại, giỏi kế mưu, là chủ lực do Khước Uyển đích thân chỉ thị hộ tống Khước Hoàn Độ. Sau khi lớn lên, vì Trác Bản Trường theo Khước Uyển chinh chiến nam bắc, cũng rất ít gặp mặt, song vào thời khắc đặc biệt này, lại ở cùng nhau, hai người đều có một cảm giác lạ lùng thân thiết.
Hơn hai trăm người mải mốt chạy trốn được hai canh giờ, đi sâu được hơn hai mươi dặm vào vùng núi mọc đầy những cây kinh cức, ai nấy đều mệt nhoài. Trác Bản Trường tuy võ nghệ cao cường, nhưng đã kịch chiến lúc trước, giờ cũng cảm thấy không chịu nổi. Y liếc sang tiểu công tử bên cạnh mình, thấy vẫn khí phách ung dung, tựa hồ không hề mệt mỏi, bất giác nhìn gã phú gia tử đệ chưa từng kinh qua nỗi bôn ba sa trường chinh chiến này bằng một con mắt khác.
Mọi người lên đến một ngọn tiểu sơn tương đối bằng phẳng. Trung Hành vốn vẫn dẫn đầu bỗng vòng về cuối đội hình, đến trước mặt hai người nói: “Công tử, lần này đi rất nhanh, đã cách địch nhân hơn hai mươi dặm. Hiện mặt trời sắp lặn về tây, tùy tùng lúc trước cũng huyết chiến cả ngày, lại trải qua một chuyến bôn ba, quả thực khó chi trì thêm nữa”. Nói đoạn lão dùng con mắt dò hỏi nhìn Khước Hoàn Độ, rồi nhìn Trác Bản Trường.
Trác Bản Trường có một cảm giác hết sức kỳ quái, tựa hồ Trung Hành đang chăm chú quan sát Khước Hoàn Độ, với một chút địch ý và khiêu khích rất lạ lùng, y không biết có phải do sự thiên kiến của mình không, vì cho đến nay, y đối với bậc trưởng bối Trung Hành này rất không ưa thích, luôn cảm thấy lão trầm mặc ít lời, thái độ quá kín đáo.
Khước Hoàn Độ trong lòng bi thống, hoàn toàn không để tâm. Đang định hỏi ý Trác Bản Trường, đột nhiên nhớ ra mình đã trở thành chúa công của y, tự nhiên phải có chút ít chủ kiến, nhưng trong đầu trống rỗng, không biết nên gật hay nên lắc.
Trung Hành ánh mắt lấp loé một tia châm biếm, rồi ngay tức khắc khôi phục lại thái độ tôn kính.
Trác Bản Trường trong lòng e ngại, nhưng lúc này không thể nghĩ nhiều, bèn giải vây: “Công tử, trừ phi địch nhân nắm bắt được lộ trình của chúng ta, đồng thời sau khi thành vỡ đã lập tức biết tin có người chạy trốn, ngoài ra tuyệt đối không thể nào bắt kịp!” Y đang nói bỗng im bặt, nét mặt đăm chiêu.
Trung Hành không đợi Khước Hoàn Độ phát thoại, lập tức hạ lệnh cho mọi người nghỉ ngơi một chút.
Trác Bản Trường thầm cảm thấy bất an. Khước Hoàn Độ không hề hiểu biết về mệnh lệnh hành quân, thấy Trung Hành bảo mọi người nghỉ ngơi, ngẫm ra thì cũng có lý, bèn ngồi theo xuống. Trác Bản Trường và Trung Hành thì tự mình bố trí.
Hai trăm gia tướng này, đều là những quân sĩ giàu kinh nghiệm trận mạc, vừa nhận lệnh không đợi phân phó, đã lần lượt chiếm lấy các phương vị có lợi, dựa vào địa hình, triển khai các biện pháp tuần tra thám sát, lặng lẽ bọc Khước Hoàn Độ vào giữa. Khước Uyển xưa nay rất chiếu cố quân sĩ, lúc này họ biết gặp phải kình địch, trong lòng đều có ý lấy cái chết để bảo hộ huyết mạch cuối cùng của Khước gia.
Khước Hoàn Độ trông thấy tất cả, lòng thầm hổ thẹn, mình thân là thống soái của bọn họ, kỳ thực không bằng bất kỳ người nào trong đó, ngay những kiến thức quân sự thông thường, gã cũng kém xa. Tuy thế sự bài binh bố trận trước mắt lại khiến gã, một công tử luôn ở trong nội viện, ngày thường chỉ biết ứng phó với mẫu thân, tỷ tỷ, với các nữ tì xinh đẹp, bỗng nảy sinh một cảm giác mới mẻ, một sự khao khát về cuộc sống phóng khoáng hào hùng. Nghĩ thật nực cười, một gia tộc danh tướng, lại dung dưỡng một kẻ chưa từng tòng quân chinh chiến.
Khước Hoàn Độ bất giác sờ nhẹ lên Đồng Long đeo bên hông, hơi cảm thấy yên dạ, tựa hồ sự tín nhiệm của phụ thân Khước Uyển từ thanh kiếm đó đã lặng lẽ truyền sang tay, thấm dần vào tim gã.
Khước Hoàn Độ từ từ tuốt trường kiếm. Kiếm dài bốn thước, so với những lưỡi kiếm thông thường thời đó thì dài hơn một thước, dưới ánh tà dương hắt sáng lấp lánh. Thân kiếm đắp một con rồng xanh đang nhe nanh múa vuốt, vấn vít uốn lượn dọc theo mặt kiếm, lúc ẩn lúc hiện, tinh mỹ xảo diệu. Trường kiếm nằm trong tay nghe nằng nặng, kiếm pháp Khước thị trứ danh có thể phát huy cao độ đặc tính của thanh đồng kiếm được coi là cực phẩm trong các loại đao kiếm đương thời này. Nghe nói nước Ngô, đại địch của nước Sở và nước Việt ở phương Nam đã bắt đầu rèn kiếm sắt, tiến hơn một bước so với kiếm đồng.
Khước Hoàn Độ nhẹ nhàng rờ lên con rồng đắp trên thân kiếm, cảm giác ấm áp, gã tuy kém về mặt quân sự, nhưng với kiếm pháp thì thiên tư trác tuyệt, tuy chưa chắc đã sánh bằng Khước Uyển, nhưng cũng là anh tài. Cầm thanh bảo kiếm, nhất thời hào tình bộc phát, gã trầm cổ tay, Đồng Long vụt hắt lên muôn vạn hào quang trong không trung, vạch những đường cong nhịp nhàng, toả ra một bức kiếm ảnh mỹ lệ.
Một người chạy đến bên gã trầm trọng thốt: “Công tử!”.
Khước Hoàn Độ liếc mắt nhìn, trông thấy gương mặt nghiêm nghị của Trác Bản Trường, vụt nhớ lại thời thơ ấu mỗi lần y định trách cứ, đều dùng cái thần thái ấy, trong lòng vụt cảm thấy bất diệu, nhưng không biết mình đã sai phạm ở đâu.
Trác Bản Trường nói: “Công tử múa kiếm lúc mặt trời xế bóng, thân kiếm sẽ phản chiếu dư quang của ánh dương, có thể nhìn thấy từ xa ngoài mười dặm, chúng ta hiện tại đang chạy trốn tìm sự sống, làm như vậy khác nào tự sát”.
Khước Hoàn Độ hổ thẹn vô cùng, thầm nghĩ mình thật là thành sự bất túc, bại sự hữu dư. Vội vàng thu Đồng Long, quay đầu nhìn lại, những gia tướng quanh đó đều tập trung ánh mắt lên người gã, tựa như thương hại cho sự vô tri của chủ công.
Trác Bản Trường cảm thấy mình hơi nặng lời, liền chuyển đề tài: “Công tử, Trung Hành có thái độ khác ngày thường, chúng ta nên thận trọng một chút!”.
Khước Hoàn Độ từ trước tới nay không thích người khác dèm chuyện thị phi. Nội viện hầu hết đều là đàn bà con trẻ, ‘thị phi’ chiếm phần lớn trong cuộc sống hàng ngày của họ, Khước Hoàn Độ vốn rất ghét nghe, vì vậy mấy câu của Trác Bản Trường gã tuyệt không để vào tai, chỉ hàm hồ ậm ừ cho qua, nhắm mắt dưỡng thần.
Trác Bản Trường cảm thấy mất hứng. Sự hoài nghi của y đối với Trung Hành, hoàn toàn dựa trên những thay đổi hết sức vi diệu về thái độ và tính cách của lão, giống như một người lâu ngày dồn nén bản chất của mình, qua sự thay đổi của hoàn cảnh đột nhiên mất cảnh giác, vô tình để lộ bản tính thật của mình. Những thay đổi này hết sức khó để mô tả thành lời, quả thật không có bất kỳ một căn cứ hay thực chứng.
Từ khi kẻ địch bắt đầu công thành, vấn đề nội gián luôn lởn vởn trong suy nghĩ của mọi người, Trác Bản Trường cũng không phải ngoại lệ, vì vậy những thay đổi nhỏ nhặt trên thần thái Trung Hành lập tức khơi gợi sự đề phòng của y. Nhưng thấy Khước Hoàn Độ phản ứng tiêu cực, đành không nói nữa. Y là người kiên nghị, quyết ý nâng cao cảnh giác để ứng phó với những nguy nan phía trước.
Đợi Trác Bản Trường đi xa, Khước Hoàn Độ từ từ mở hai mắt, mặt trời đỏ đã chìm xuống chân trời phía tây, một dải diễm hồng, khiến gã nhớ lại máu tươi của Khước thị tử đệ bắn vấy trên những bức tường thành. Xét đến cội rễ, thủ phạm đầu sỏ chính là tên đại hôn quân Sở Chiêu Vương, y sủng tín Nang Ngõa, mặc hắn lộng quyền gây hoạ, bài xích người khác. Phụ thân Khước Uyển ở địa vị Tả quân cao vọng, là trọng thần của đất nước, đã đánh bại đại địch là Ngô quốc ở vùng đông nam, lại giải quyết chính biến, khiến Ngô vương Liêu táng mạng dưới thanh kiếm Ngư Trường của Chuyên Chư, vì Sở quốc mà tạo dựng được biết bao công nghiệp phi phàm. Ai ngờ lại bị Nang Ngõa đố kỵ, lần này mật phái thủ hạ là hai đại tướng Phí Vô Cực và Yên Tương Sư thống lãnh binh lực đông đảo lén đến tập kích, tình thế bất ngờ trở tay không kịp, khiến mình rơi vào cảnh gia phá nhân vong, thực khiến người ta nghiến răng thống hận!
Khước Hoàn Độ vụt đứng dậy, đối diện với mặt trời đỏ chỉ còn dư lại một vệt, ngước lên phát thệ: “Ngày Hoàn Độ trở về, cũng là lúc nước Sở phải mất!” Hữu thủ nắm chặt Đồng Long, đầu ngón tay siết mạnh đến nỗi bợt ra trắng bệch.
Vầng thái dương ẩn xuống dãy núi phía tây, đất đai dần chìm vào màn hôn ám.
Bóng tối rốt cuộc cũng buông xuống.
o0o
Trong khu rừng đen đặc, Khước Hoàn Độ vụt bừng tỉnh, trán toát mồ hôi lạnh. Gã vừa nằm mộng thấy những mỹ nữ từng cùng mình phong lưu ân ái ngã trong vũng máu, cảm thấy hết sức thống khổ, oán hận mình không thể dẫn họ đào thoát khỏi nguy nan, tiếp đó lại mộng thấy mình và hai trăm gia tướng lọt vào vây khốn trùng trùng, liền thò tay tuốt kiếm, mới biết Đồng Long đã không cánh mà bay, bất giác kinh hoàng tỉnh dậy.
Đúng lúc đó, một người từ trong bóng tối đen kịt lặng lẽ đi ra, bước đến gần gã.
Khước Hoàn Độ trông thấy thân hình tư thái của người đó, biết là Trác Bản Trường, liền bình tâm trở lại.
Trác Bản Trường tới trước mặt Khước Hoàn Độ, khẽ nói: “Thiếu chủ, địch nhân vây kín chúng ta rồi!”.
Khước Hoàn Độ chấn động thân hình, ác mộng cuối cùng đã thành hiện thực.
Ngữ thanh của Trác Bản Trường tiếp tục truyền vào tai, sự thực y đã hạ giọng xuống thấp như tiếng muỗi vo ve, nhưng đối với Khước Hoàn Độ, chẳng khác nào sấm nổ chực xé toác màng tai, chỉ nghe thấy Trác Bản Trường nói: “Địch nhân hiện thu cờ thu trống, không có động tĩnh gì, nhưng thuộc hạ thấy chim đêm chợt bay, thú rừng vụt chạy, mới nhận biết địch nhân thình lình đến tập kích bốn xung quanh”. Ngừng một lúc, ngữ âm đột nhiên nhanh hơn: “Điều đó cho thấy địch nhân sớm đã nắm được hành tung của chúng ta, vì vậy vừa đến đã lập tức tạo thế hợp vây, khiến chúng ta mọc cánh cũng khó bay thoát. Xem ra trong hàng ngũ có kẻ phản bội, đi đường lưu lại ám hiệu, chỉ dẫn lộ trình chạy trốn”.
Khước Hoàn Độ vụt cảm thấy mờ mịt, đối với việc quân, gã quả thực không biết một chút mánh khoé nào, không biết ứng biến ra sao mới phải.
Trác Bản Trường tiếp: “Hiện tại bọn chúng án binh bất động, tự nhiên là hi vọng chúng ta hồ đồ không biết gì cả, lặng lẽ đợi trời sáng, khi đó chạy trốn khó khăn, sẽ dễ dàng giăng một mẻ lưới tóm gọn toàn bộ”. Y dừng một lát, biết rất khó mà xin được chỉ thị gì từ gã công tử này, bèn dứt khoát nói: “Cách duy nhất hiện nay là không để địch nhân thực hiện được dự tính của chúng, nhân còn đêm tối, ta thừa lúc hỗn loạn xông ra, thiếu chủ thấy sao?” Thời đó phân giới tôn ti rất nghiêm, vì vậy Trác Bản Trường mới chêm vào câu cuối, nhưng đối với y đó chỉ là một câu nói hết sức hình thức qua loa.
Khước Hoàn Độ cảm thấy mình như con thuyền lá tròng trành trong biển sôi giận dữ, cần một bến an bình để cập lại, vội vàng hỏi: “Trung Hành ở đâu rồi?”.
Trác Bản Trường hơi trù trừ, rồi đáp: “Khi vừa có dấu hiệu địch nhân xuất hiện, thuộc hạ đã lùng khắp nơi để tìm lão, nhưng không thấy tung tích đâu cả. Thuộc hạ nghĩ nội gián có đến tám phần chính là kẻ ấy”.
Khước Hoàn Độ nghe trong đầu nổ rầm một cái, nỗi thẹn nỗi hận đan xen, mình nếu sớm nghe lời Trác Bản Trường, làm gì đến nỗi rơi vào hoàn cảnh khốn khó hiện tại.
Trác Bản Trường đoán biết tâm trạng của gã, không bàn thêm về việc đó nữa.
Lúc này trăng sao đều tắt, vùng sơn dã phủ ngập một màn đen đặc, những bụi cây, hóa thành những bóng tối lớn nhỏ khác nhau, trông như mãnh thú nhe nanh múa vuốt, tùy thời có thể xông đến xé xác người ta.
Khước Hoàn Độ tuy kinh nghiệm còn non kém về nhiều mặt, nhưng đã hơn mười năm tân khổ luyện kiếm, nội công tinh thâm, tuy trong bóng đêm giơ tay không trông thấy năm ngón, nhãn lực của gã vẫn có thể nhìn xa đến mười trượng. Trông thấy nhân thủ Khước thị đều đang cảnh giới cao độ, lần lượt nắm lấy các vị trí chiến lược, bất giác bội phục sự điều độ của Trác Bản Trường, mình hóa ra lại là người cuối cùng biết địch nhân đến gần. Lòng hơi cảm thấy yên ổn, suy nghĩ bắt đầu khôi phục hoạt động.
Khước Hoàn Độ hỏi: “Bản Trường, giả như tận dụng bóng đêm để chạy trốn, theo ngươi tính toán, cơ hội thành công là bao nhiêu?”.
Trong bóng đêm Trác Bản Trường cau mày: “Địch nhân nếu muốn ngăn cản chúng ta giữa hoang sơn mù mịt này, nhất định phải huy động binh lực gấp đôi chúng ta, cũng may địch nhân vừa tới đã bị thuộc hạ phát hiện, nếu để chúng bố trí xong chướng ngại và bẫy rập, cơ hội đào thoát kể như bằng không!” Rồi y cười khổ: “Qua nội gián, bọn chúng sẽ biết được lộ trình và quân số của chúng ta, không cần mất công phân tán tìm kiếm, còn thực lực của chúng, có thể gấp mười lần quân số của chúng ta lúc này”. Nét mặt bất giác lộ vẻ bất lực.
Khước Hoàn Độ tuy trong bóng đêm, nhưng nhãn lực vượt xa người thường, mỗi động thái trên nét mặt Trác Bản Trường gã đều nhìn rõ hết. Gã đoán Trác Bản Trường công lực còn dưới mình, không có khả năng nhìn xuyên đêm, nên lầm tưởng Khước Hoàn Độ cũng như y, mù mịt về thần tình thay đổi của đối phương, vì vậy hoàn toàn không che giấu những cảm giác trong tâm khảm. Nói cách khác, Trác Bản Trường tuy đưa ra kế sách chạy trốn nhân lúc đêm đen và trước khi địch nhân bố trí xong cạm bẫy, nhưng chính y lại không chắc chắn thành công đến nửa phần.
Khước Hoàn Độ trong lòng sợ hãi, nhưng mặt khác, khát vọng cầu sinh lại bị kích thích mãnh liệt, gã mới có hai mươi lăm tuổi, lần đầu tiên mới thực sự giành giật và phấn đấu cho tương lai của mình.
Đầu óc gã nhanh chóng phân tích tình hình trước mắt. Đám gia tướng này, cả đời dưới sự suất lãnh của Khước Uyển chưa từng chiến bại, đều coi Khước Uyển như cha như thần thánh, lần này thành vỡ người chết, coi như một sự đả kích không gì bù đắp nổi trong cõi lòng họ, ai nấy tráng trí tiêu tan, mất hết ý muốn tranh hùng. Thêm nữa xưa nay, mình là tứ công tử, cả ngày chỉ quanh quẩn với phụ nhân và nữ tỳ, phong lưu khoái hoạt giữa đám quần thoa, họ làm sao biết đến những lúc mình khổ công luyện kiếm, tự nhiên không có chút lòng tin nào với mình. Nếu không thể xoay chuyển được tâm thái đó, đêm nay cả bọn đừng mong có một người thoát chết, đương nhiên kẻ nội gián thì là ngoại lệ.
Trác Bản Trường đột nhiên trầm giọng: “Thiếu chủ, giả sử hai chúng ta nhân lúc địch nhân còn chưa bài binh bố trận, lén chạy trốn, cơ hội thành công có thể đến năm phần!”.
Khước Hoàn Độ e ngại, biết ý của y là bỏ lại hai trăm tử đệ gia binh, hai người tháo chạy, mục tiêu sẽ bị phân tán, vượt ra ngoài dự liệu của địch nhân, quả nhiên là một kế khả thi. Nhưng hai trăm người này coi như bị bán đứng, tất sẽ sa vào tuyệt địa.
Khước Hoàn Độ nội tâm vò xé, dứt khoát lắc đầu: “Bản Trường, ta làm như vậy, phụ thân trên trời có linh sẽ không tha thứ cho ta, chuyện này đừng nhắc lại nữa!”.
Trác Bản Trường mắt lướt qua một tia tán thưởng, song vẫn khăng khăng: “Địch nhân nếu thấy chúng ta có động tĩnh, lập tức sẽ phóng hỏa đốt rừng, hung hiểm tăng thêm vạn bội!”.
Y thấy Khước Hoàn Độ trầm ngâm không đáp, lại nói: “Đương nhiên hươu chết về tay ai còn phải tận lực liều sức mới biết được, Khước thị đâu phải là hạng dễ bị khuất phục!” Trong ngữ khí lộ ra quyết tâm tử chiến.
Khước Hoàn Độ cảm thấy hết sức bất diệu. Trác Bản Trường quyết ý tử chiến, càng chứng tỏ y chẳng hề chắc chắn là sẽ chạy thoát. Huống hồ địch nhân chiếm ưu thế như vậy, bên mình làm sao đủ năng lực cầm cực, đến lúc này, sự chờ mong của gã đối với Trác Bản Trường thực sự lịm tắt, chuyện về sau, đều phải trông chờ vào chính bản thân.
Giả thiết Trung Hành đúng là người của địch, tất nắm rất rõ chiến thuật hư thực của bên mình, coi như mình đã mất hoàn toàn tiên cơ, đường đi nước bước đều bị khắc chế, trận chiến như vầy, làm sao còn đánh được nữa?
Nhưng có lợi tất có hại, địch nhân nếu biết được hình thế của bên mình, tất sẽ có tâm lý xem nhẹ, mỗi hành động chỉ nhằm vào Trác Bản Trường, giả như bây giờ một kẻ không biết gì về quân sự như mình đứng ra chỉ huy tiến thoái, biết đâu lại có hiệu quả. Đương nhiên, vấn đề là phải soạn được một kế hoạch khả dĩ khởi tử hồi sinh.
Khước Hoàn Độ vụt hỏi: “Ngươi muốn định kế tháo chạy, kế đó thực hiện thế nào?”.
Trác Bản Trường trầm ngâm: “Mỗi loại chiến thuật đều phải đạt tới một mục tiêu quân sự hoặc phải hoàn thành một giai đoạn nhất định trong một mục tiêu. Ai cũng nhận thấy chúng thuộc hạ đang hộ tống công tử chạy thoát trùng vây. Vì vậy thuộc hạ sẽ tận dụng nhược điểm phòng thủ dây dài của địch nhân, để mấy đội tử sĩ tập trung lực lượng, cùng một lúc theo các hướng khác nhau tràn ra, làm nhiễu loạn tai mắt của địch.
Cũng may lúc sớm mới đến chỗ này, thuộc hạ đã quan sát địa thế và môi trường vùng phụ cận, nếu bám theo tuyến đường trốn chạy đã định, trong lúc hỗn loạn phân hướng xông ra, thì có thể hi vọng thành công”. Nói đoạn khuôn mặt lộ vẻ bất lực.
Khước Hoàn Độ biết Trác Bản Trường đang nghĩ: Trung Hành tất cũng đã quan sát qua địa thế, thành ra chiến thuật an toàn nhất, hình như lại là chiến thuật hung hiểm nhất. Huống hồ vùng này chính là vùng Trung Hành đề nghị nghỉ lại, tất nhiên đã có âm mưu, vì vậy Trác Bản Trường xét qua hình thế ta địch, mới không biết là phải làm thế nào.
Khước Hoàn Độ nhớ lại năm xưa ở hương thôn sau thành, có xem qua nông dân chơi cá cược chọi chó. Lúc đó mọi người đều đặt cá cho con chó vàng cao to hung mãnh, mà xem thường con chó đối thủ gầy yếu bé bỏng, Khước Hoàn Độ cũng nhận định như vậy. Trận đấu đến hồi quyết liệt, con chó to lăng không nhảy xuống vồ, dùng đúng tư thế lão ưng quặc thố, toan chụp chết đối thủ. Ai ngờ con chó nhỏ tránh nặng tìm nhẹ, áp sát mình xuống từ dưới xuyên lên, một thoáng đã cắn đúng vào yết hầu, nơi mỏng manh nhất của con chó to, giành được chiến thắng. Câu chuyện còn khắc rõ trong ký ức Khước Hoàn Độ. Kiếm thuật của gã về sau thiết kế theo đúng nguyên tắc này, tránh nặng tìm nhẹ, lấy yếu thắng mạnh.
Cùng lúc gã bỗng tỉnh ngộ, giờ chỉ có thể dựa vào sự tu dưỡng và sách lược về mặt kiếm thuật, như phụ thân Khước Uyển đã nói: dùng thuật đánh kiếm để thoát khỏi đại nạn. Vì vậy gã phải vận dụng kiếm thuật vào binh pháp, nghĩ đến đây, trước mắt tựa hồ hiện ra vài con đường bằng phẳng, tuy vẫn chưa có bất cứ một kế hoạch cụ thể nào, nhưng so với tâm trạng người mù cưỡi ngựa loà lúc trước, thì đã cảm thấy sáng tỏ hơn rất nhiều.
Tiếng côn trùng mùa thu râm ran trong rừng trong núi, song phương đều im lặng không gây một tiếng động, lúc này cách giờ mão trời sáng còn hai canh nữa, việc chạy trốn phải quyết định thật nhanh không thể chậm trễ nữa rồi.
Khước Hoàn Độ trầm giọng nói: “Bản Trường, ngươi tức khắc tập hợp tất cả nhân thủ lại chỗ này, những cứ điểm phòng ngự hiểm yếu khác đêu bỏ đó, hành động phải thận trọng mau chóng”. Gã rốt cục, lần đầu tiên trong đời, đã hạ một mệnh lệnh cho gia tướng, lòng trỗi dậy một cảm giác khoan khoái về quyền lực. Tức thời hiểu được cái tâm tình của Khước Uyển khi suất lĩnh quần hùng, uy phong vang dội.
Trác Bản Trường nghi ngại, không ngờ người không hiểu chút gì về quân sự cũng đã đưa ra được chủ trương. Nhưng Khước Hoàn Độ ngữ điệu trầm ổn hữu lực, biểu lộ sự tự tin mạnh mẽ, thậm chí uy nghiêm. Huống hồ y tự vấn cho dù làm theo kế sách của mình, cũng chỉ có con đường chết. Vì vậy tuy trong lòng vẫn do dự day dứt, hai chân đã bất giác tuân theo chỉ thị đi hành động.
Trác Bản Trường không hổ tướng tài kinh nghiệm phong phú, rất nhanh chóng hai trăm binh sĩ đã im lìm tập trung ở vùng đất trống với những vách đá vây bọc xung quanh, mọi người đều bò dưới đất, không gây ra một chút thanh tức nào.
Khước Hoàn Độ đứng bên một cây to. Trác Bản Trường, có lẽ do quá nhạy bén, cảm thấy Khước Hoàn Độ tuy sắc mặt nghiêm ngặt, nhưng không che giấu nổi một nét đắc ý vương vất trên vầng trán, trong lòng rất lấy làm kỳ quái.
Khước Hoàn Độ ra một mệnh lệnh thứ hai, yêu cầu chuẩn bị những vật dễ cháy buộc vào đầu mũi tên, tùy thời sẵn sàng phát xạ. Mọi người chẳng hiểu thế nào, nhưng cũng vẫn tuân lệnh hành sự.
Sắc trời thâm trầm, bóng tối tựa hồ vĩnh viễn không tiêu tán.
Khước Hoàn Độ hơi định thần, đột ngột cất giọng hét lớn: “Phí Vô Cực, còn có đảm lượng nói chuyện với mỗ không?” Thanh âm hùng tráng, nhất thời chim chóc kinh hoảng bay vụt lên, vùng sơn dã nháo nhác những tiếng chí choách. Quân sỹ song phương đều lộ vẻ bất an, tiếng y phục cọ loạt soạt vào cỏ cây vách đá nhiễu loạn một hồi, thậm chí cả tiếng binh khí rớt xuống đất cũng đều vẳng tới. Khước Hoàn Độ thình lình hét lớn, tiếng hét vang dội giữa những dãy núi sừng sững tịch mịch, như tạo uy thế trước để áp đảo đối phương.
Thanh âm của gã kích lên hàng tràng tiếng vọng trong vùng sơn dã mênh mang trống trải, rồi chầm chậm tan đi.
Trác Bản Trường và chúng tướng đằng sau lưng gã cùng ngạc nhiên nhìn nhau. Lúc này bọn họ là bại tướng, là chó nhà táng, chỉ cầu thần không hay người không biết, lặng lẽ mà lẻn đi. Ai ngờ vị tứ công tử không cân nhắc nặng nhẹ, lại hét lên ầm ĩ như vậy, sao có thể không khiến lá gan đã ngập đầy hoang mang của họ kinh sợ đến vỡ nát ra chứ.
Nhưng đồng thời, thanh âm của Khước Hoàn Độ hàm chứa sức mạnh trấn nhiếp nhân tâm, lại khiến họ nảy sinh một cảm giác nương tựa, cảm giác này thật là mâu thuẫn, khiến ai nấy khó mà thích ứng được.
Qua một lúc lâu, từ hai mươi dặm bên đông mới có tiếng đáp: “Người của Khước thị nếu đem hiến cái đầu của Khước Hoàn Độ, bản nhân Bạch Vọng Đình, là tướng tiên phong dưới trướng Phí Soái, có thể bảo đảm kẻ đó một đời ăn mặc no đủ, lại được thưởng ngàn lượng hoàng kim”. Người này vừa cất tiếng đã phân hóa ly gián, ngôn ngữ hành xử thật là đê tiện.
Khước Hoàn Độ không giận mà lại mừng, gã hét lớn là muốn dọ thám hư thực. Bạch Vọng Đình vừa cất lời, gã đã thu thập được bao nhiêu thông tin, giống như kiếm thủ trước khi giao đấu, thường dựa vào quan sát để dò biết tình hình đối phương ra sao.
Chẳng hạn, sau khi Khước Hoàn Độ cất tiếng rất lâu, Bạch Vọng Đình mới có hồi ứng, hiển nhiên vì bất ngờ trước hành động của gã, từ đó suy ra, Bạch Vọng Đình không phải là người giỏi ứng biến, nếu có thể nhằm vào điểm này xuất kỳ chế thắng, khả năng thành công sẽ tăng lên. Thứ hai, do xem nhẹ Khước Hoàn Độ, Phí Vô Cực và Yên Tương Sư không thân chinh đến cầm quân, Khước Hoàn Độ có thể chưa sánh được với hai tay kiếm đáng sợ đó, chứ những người khác không có gì khiến gã ngại cả.
Kỳ thực võ công của Khước Hoàn Độ nông hay sâu, ngoài Khước Uyển và những người thân cận ra, không ai biết tường tận. Hiện tại đây có thể là vũ khí bí mật nhất của gã. Vì vậy cho dù Trung Hành nắm rõ chuyện của Khước gia, cũng đã phạm phải sai lầm khi đánh giá Khước Hoàn Độ.
Khước Hoàn Độ định tâm, lòng tự tin tăng lên nhiều lần. Đến đây gã đã hoàn toàn lĩnh ngộ được rằng kiếm pháp và binh pháp, thực ra tuy hai mà một, thích chí ngửa mặt lên trời cười dài: “Bạch Vọng Đình ngươi bất quá là nô tài dưới tay người khác, có quyền gì mà tự định đoạt, đợi xem ta lấy cái mạng chó của ngươi!”.
Rồi gã hướng về sau khoát tay, phùng phùng một tiếng, hai trăm gia tướng nhất tề châm lửa đốt hỏa tiễn, ánh sáng lập tức chiếu rọi một khoảnh đầu núi, chỉ thấy bóng địch lổm ngổm đã vây kín xung quanh.
Khước Hoàn Độ nhanh chóng lướt nhìn, mục quang sắc bén như mắt chim ưng, nhưng đáng tiếc không thấy mục tiêu. Thì ra gã muốn tìm tên phản đồ Trung Hành, bắn lão một phát tiễn xuyên tâm, gã vô cùng thống hận, hạ quyết tâm không tiếc bất cứ giá nào cũng phải tự tay giết chết lão hung ác này.
Lại một mệnh lệnh nữa, hai trăm cây hỏa tiễn nhất tề bắn lên không, giống như hàng ngàn đốm lửa hoa toả vụt ra bốn phía, rơi xuống bốn phương tám hướng nhung nhúc địch nhân. Hai trăm cây tiễn khác lại được đốt sáng, rồi bắn lên y như vậy. Rừng thu xao xác, nháy mắt bốn bề đã nhập vào hỏa trận trùng trùng.
Bên địch bóng người thoáng động trong ánh lửa, một bầu hỗn loạn. Mãi cho đến lúc này, quyền chủ động vẫn nắm trong tay Khước Hoàn Độ, cách phòng thủ tốt nhất của kiếm pháp chính là tấn công.
Khước Hoàn Độ không để địch nhân kịp thở, đột nhiên ngửa mặt lên trời hú dài, nội công thâm hậu, lần vận khí này khiến toàn trường chấn động, người hai bên đổ dồn ánh mắt vào gã.
Gã chĩa Đồng Long lên cao. Trông thấy bảo kiếm vô địch của Khước Uyển, địch nhân táng đởm, Khước thị gia binh thêm vững tin.
Khước Hoàn Độ cao giọng: “Kẻ nào muốn cản ta, thì sẽ như cái cây này!”.
Đồng Long chớp lên rồi xả xuống, hàn mang láy động, cây bách bên cạnh thân to hơn thân người vụt đứt ngang, tiếng động rầm rầm, từ trên cao đổ gập xuống.
Song phương chưa từng nhìn thấy kiếm thuật và thần lực như vậy, dưới ánh lửa chiếu rọi khắp vùng sơn dã, mọi cặp mắt đều đổ dồn vào uy vũ của Đồng Long. Cho dù dùng lợi phủ, cũng phải cần một lực sỹ ra tay mới có thể đạt tới thành quả ấy, huống hồ đây chỉ là một thanh kiếm đồng. Vì vậy một là Khước Hoàn Độ võ công cái thế vượt xa phụ thân, hai là Đồng Long tuyệt thế bảo kiếm, uy lực mới lớn đến mức đó. Bất luận do khả năng nào, lúc này hai trăm gia tướng của Khước thị sĩ khí cũng được khích lệ, trong lòng lại nhen lên niềm hi vọng khôi phục gia tộc, ngược lại địch nhân tim gan lạnh buốt, ý chí đã bị tiêu tan mất rồi.
Chỉ có Trác Bản Trường, người từ nhỏ rất hiểu Khước Hoàn Độ, là không bất ngờ, không hổ danh cao thủ, lập tức phối hợp với khí thế của chúa công, hét lên một tiếng lớn, đánh át vào trận địch trong biển lửa, như mãnh hổ xổng chuồng.


KINH SỞ TRANH HÙNG KÝ


Hồi 3: Lưu lạc chân trời



Khước Hoàn Độ cầm kiếm xông lên trước, Đồng Long biến ra một dải kim quang sắc lạnh, bảo hộ trước thân, thế như chẻ tre đánh thốc vào trong trận địch. Nhớ lại cảnh gia đình đổ máu, nhất thời sát khí bừng bừng, chút sợ hãi còn sót lại đã bay biến cả.
Kiếm pháp độc môn của gã, chú trọng nhất ‘hộ tâm’, tức là tập trung toàn bộ tinh thần ở cảnh giới vô ưu vô nhiễm. Nói cách khác, là xoá bỏ hoàn toàn mọi xung động tình cảm, không để gợn lại dù chỉ một chút e ngại, tất cả những hỉ nộ ai lạc, thậm chí phụ tử tình thâm, phu thê chi ái, cũng đều gạt ra khỏi trái tim.
‘Võ thư’ của gia đình gã nhận định rằng, trái tim con người cũng như một đầm nước, nếu gợn sóng tình cảm, hồ nước sẽ vẩn lên lăn tăn, không thể phản ánh được cảnh vật nữa. Chỉ có gạt bỏ triệt để những tình cảm trần tục, hồ nước mới trở lại xanh trong, chiếu soi chúng sinh vạn vật; kiếm pháp không bị trì đọng vì tình, mới phát huy được đến cực điểm.
Khước Hoàn Độ bắt đầu luyện kiếm từ năm chín tuổi, ngày thường tuy thích đùa nghịch với các mỹ nữ trong nhà, nhưng lúc luyện kiếm thì vô cùng chuyên chú, công phu ‘hộ tâm’ thậm chí vượt xa Khước Uyển. Cái còn thiếu ở gã chỉ là kinh nghiệm thực chiến và sát khí sinh ra khi kiếm nhúng máu kẻ địch mà thôi.
Đúng lúc đánh thốc vào giữa trận địch, gã tự nhiên đặt chân tới cảnh giới của công phu hộ tâm. Hơi thở trở nên chậm và dài, toàn bộ lỗ chân lông trên người thả lỏng, tất cả mọi cảm quan đều phát huy tác dụng. Không chỉ mắt tai miệng mũi, mà cả làn da, cũng đều đặt ở trạng thái cảnh giác cao độ, mỗi cử động của kẻ địch xung quanh, dù là giơ kiếm, vung mác, huơ khiên, định tiến hay lui, cho dù ở nơi tầm nhìn không với tới, gã cũng nắm bắt được, và nhanh chóng quyết định được sách lược.
Dòng máu chiến binh nhà họ Khước sục sôi trong mình gã. Huyết quản thu hẹp, khiến máu tươi lưu chuyển cao độ, đem lại luồng năng lượng hoạt động rất lớn. Mười năm khổ luyện bỗng chốc có chỗ dụng võ. Kiếm như độc long xuất hải, vạn đạo kim mang giao thoa như dòng thủy ngân đổ xuống, trút lên thuẫn bài và kiếm trận của địch.
Binh tướng bên kia sớm đã bị một kiếm trầm hùng của gã lúc phạt cây khiến cho thất đảm, giờ lại thấy gã uy thế như vậy, cùng nháo nhác thối lui. Khước Hoàn Độ tiến sâu vào giữa trận, Đồng Long tới đâu, địch nhân đổ máu tới đó, gây rối thế hợp kích. Hai trăm gia tướng đằng sau thấy thiếu chủ võ nghệ kinh nhân, tấn công ào ạt, thì tinh thần đại chấn, oán khí chồng chất suốt cuộc chạy thoát đào sinh vụt bạo phát như hỏa diệm phun trào, trên dưới một lòng xả thân giết địch, nhất thời trời sầu đất thảm, huyết vũ đao quang, cả toán người lao sâu vào trong trận địch.
Hỏa thế càng lúc càng cường mãnh, lại thêm gió núi hun hút thỉnh thoảng tạt lên ngọn lửa, giữa vòng cháy bỏng đó, Khước thị gia tướng triển khai một cuộc đột vây thảm liệt.
Bạch Vọng Đình đứng trên cao quan sát chiến cuộc. Trong rừng trong núi nơi nơi lửa dày khói đặc, tuy chiếu sáng khắp bãi chiến trường, nhưng lại sinh ra một lượng lớn khói đen, quện lẫn qua rừng cây, khiến tầm nhìn hạn chế. Cục trường hỗn loạn, thế hợp vây biến thành hỗn chiến, khó mà phát huy được chiến thuật lấy đông đánh ít. Lúc này Bạch Vọng Đình mới cảm thấy hối hận sâu sắc là đã đánh giá thấp gã công tử phú gia địch quốc này, thầm nghĩ nếu không thể sớm giết gã đi, về sau sẽ gây hậu hoạn.
Khước Hoàn Độ vừa chặt bay đầu một tên địch, đột nhiên cảm thấy khác lạ. ‘Thân thể’ gã báo cho biết, sau lưng đang có mấy món lợi khí, từ một góc độ rất khó ứng phó, thần tốc đâm tới. Rồi hầu như cùng lúc, gã thấy trước mặt và hai bên trái phải xuất hiện hơn mười tên cầm mác, đồng thời xông lại với tốc độ rất cao, mới thức ngộ mình thân hãm trùng vây, gặp phải cục diện hết sức tàn độc. Đồng Long thoắt lật lại lượn vòng, lập tức vang lên một tràng âm thanh đing đang, những ngọn mác từ đằng sau đâm tới lần lượt bị Đồng Long gạt bay, nhưng Khước Hoàn Độ thầm kêu không ổn. Vì qua tiếp xúc với những ngọn mác ấy, gã đã nhận ra địch nhân sức mạnh trầm hùng, có dư lực, lại thêm công phu tương đương nhau, hiển nhiên rất giỏi thuật hợp kích. Lòng tự tin giảm sút, trước mặt đã lại có ba ngọn mác dài chớp nháng đâm tới.
Khước Hoàn Độ hét lớn một tiếng. Đồng Long vun vút xuất kích, trong nháy mắt chém bạt ba mũi tấn công đoạt phách câu hồn trước mặt, rồi tuyệt không chần chừ, thân hình mau chóng xông lên phía trước, khi chuôi kiếm đi sát qua bên mình, gã trở tay chặt vào sườn đại hán bên trái, khiến hắn ngã bật ra ngoài giữa một tràng tiếng xương gãy răng rắc, lại chém một đại hán từ bên khác xông tới bắn vụt đi.
Khước Hoàn Độ xông lên, vừa may tránh được bốn ngọn mác cùng kích tới sau lưng. Lúc này gã tuy đả thương được hai người, nhưng lòng vẫn biết rằng bất diệu. Nhớ lại phụ thân từng kể Phí Vô Cực ngoài tinh thông kiếm thuật, còn rất giỏi dụng mác, vì vậy đặc biệt tuyển lựa trong đám thủ hạ ra một số dũng sĩ thiên tư tốt, huấn luyện được ba mươi sáu người sử mác kiệt xuất, gọi là Trường qua Tam thập lục Kỵ. Ba mươi sáu người này rất giỏi thuật hợp vây, nếu họ ở bình nguyên cưỡi ngựa vung mác công kích, thì không ai trong thiên hạ giữ được tính mệnh.
Uy danh của Trường qua Tam thập lục Kỵ khiến người ta nghe thấy mà biến sắc. Phí Vô Cực lại không ngừng huấn luyện bổ sung, vạn nhất có người tử vong, lập tức thay thế, vì vậy Tam thập lục Kỵ giống như một trận thế vĩnh viễn không thể khuyết thiếu. Cũng may nơi đây là hoang sơn dã lĩnh, lại thêm lửa cháy bốn bề, bọn họ chưa thi triển hết được sở trường, bằng không cho dù mọc thêm một Khước Hoàn Độ nữa, cũng chỉ có thể đưa cổ ra đợi chém thôi, tuy thế tình cảnh trước mắt vẫn tương đối nguy hiểm.
Trong lúc nguy cấp Khước Hoàn Độ ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy bọn Trác Bản Trường đã bị đẩy xa khỏi mình chừng mấy trượng, đang đổ máu khổ chiến. Nhìn sang bên địch, thấy cả Trung Hành! Bùng một tiếng, trong đầu Khước Hoàn Độ như rùng rùng lửa cháy, thù hận xóc lên tận não. Đúng lúc ấy, cảm giác có kình phong cắt cứa quét tới, Khước Hoàn Độ phát run, vội nhích sang ngang. Đầu vai nhói đau, đã bị một ngọn mác trong Trường qua Tam thập lục Kỵ xuyên trúng. Đồng Long vạch từ trái qua phải, đánh bạt hai mũi mác đang đâm tới, Khước Hoàn Độ lại lăn xuống đất, băng qua một đám lửa, mới tránh được hai ngọn mác khác nữa.
Gã tỉnh ngộ, biết trái tim mình bị thù hận làm nhiễu, khiến lòng nổi phong ba, mới bị thất cơ như vậy, liền vội vàng khôi phục ‘hộ tâm’. Lúc này trước mắt hàn mang điểm điểm, mấy ngọn mác như bóng theo hình đuổi sát đằng sau, Tam thập lục Kỵ quả nhiên danh bất hư truyền.
Có cả thảy mười mấy người cầm mác tấn công Khước Hoàn Độ. Dẫn đầu trong số đó là bốn người, cầm bốn ngọn mác dài kêu uâng uâng, chia nhau mỗi người đâm vào một bộ phận: cổ, tay phải cầm kiếm, hông trái và chân phải của Khước Hoàn Độ. Thời gian đâm tới rất sít sao, cho dù lúc đó gã có tránh qua, tất cũng dẫn theo phản ứng dây chuyền của địch nhân, đến chết cũng không buông. Thấy Khước Hoàn Độ lăn dưới đất tránh, địch nhân lập tức nắm lấy cơ hội, toan dồn gã vào đường cùng.
Khước Hoàn Độ lúc này bình tĩnh lạ lùng, đột nhiên phát giác ra trong bốn ngọn mác đang đâm tới hé lộ một khe hở kỳ lạ. Chỉ nháy mắt, gã lập tức hiểu đó là tại đống lửa nhỏ mình lăn qua ban nãy, phương vị vừa khéo nằm giữa bốn người họ, trong đó hai người vì tránh giẫm lên đống lửa, nên hơi nghiêng mình đi. Bốn người xưa nay quen tiến hành theo một loại trận thế nào đó, nhưng hiện tại tình hình đặc biệt khiến họ không thể tâm đầu ý hợp như khi thao luyện, vì vậy để lộ ra một chút sơ hở. Đương nhiên nếu không phải vì Khước Hoàn Độ tinh thông thuật hộ tâm, thì khó mà từ cảnh huống sát khí đằng đằng, lại quan sát ra sự thay đổi nhỏ như cái kim sợi chỉ ấy.
Khước Hoàn Độ cong mình về phía trước, trường kiếm như thiểm điện chém xuống hai ngọn mác dài, khiến chúng bật sang hai bên, đụng phải hai ngọn mác kia, hóa giải hoàn toàn thế công kích của địch nhân. Đồng Long không một khắc trù trừ, men theo ngọn mác chém ngược, phạt đứt hai cái đầu, máu tươi tưới phụt lên. Khước Hoàn Độ đắc thế không bỏ qua, lại xẹt vào giữa quân địch, trường kiếm thoăn thoắt sử ra thủ pháp công phu, bám sát địch nhân thi triển huyết chiến, mấy tên cầm mác hồn phi phách tán, tuy thiện nghệ hợp công xung sát, nhưng lại gần giáp chiến không phải là sở trường của chúng. Mỗi lần Khước Hoàn Độ chuyển thân lại có một người trúng kiếm ngã xuống, máu tươi phun đầy lên thân áo gã.
Khước Hoàn Độ biết trước mắt tuy chiếm được thượng phong, nhưng không dám du đấu, gã giơ chân đá vào đống lửa, làm tro bụi bắn tung lên mù mịt, rồi vội vã thoái lui, rút về phía bọn Trác Bản Trường.
Khi Khước Hoàn Độ lui về phía Trác Bản Trường, thì Trác Bản Trường cũng đang vượt qua địch nhân để tiến đến với gã, lúc này bên cạnh y còn không quá một trăm người, những người khác đã bị đánh tản mát.
Hai người không nói một lời, đồng lòng đồng ý, cùng mau chóng chạy vào phía trong sơn dã.
Mọi người nhất loạt bám theo. Khi vượt qua được dãy Đại Biệt Sơn, đã là chính ngọ ngày hôm sau, họ chạy thẳng một mạch, đến lúc này không ai là không sức cùng lực tận.
Khước Hoàn Độ dừng bước, ngoảnh đầu nhìn lại, nhận ra tính cả Trác Bản Trường, chỉ cón tổng cộng sáu mươi tư người, mà tất thảy đều bị thương, bộ dạng lôi thôi lếch thếch.
Trác Bản Trường trên mặt có vệt máu, từ góc mắt trái kéo qua đến khoé miệng, trông thập phần đáng sợ.
Trác Bản Trường mặt không biến sắc: “Đây là dấu vết Trung Hành để lại!”.
Khước Hoàn Độ gật đầu: “Ta thề sẽ tự tay giết chết kẻ này!”.
Trác Bản Trường trong mắt lướt qua một tia hận thù sôi sục, nhưng chuyển sang chuyện khác: “Chúng ta tuy đã chạy thoát đại nạn, nhưng tình thế so với lúc trước còn hung hiểm gấp trăm lần, đặc biệt khi Nang Ngõa biết thiếu chủ võ nghệ kinh nhân, nhất định không từ thủ đoạn để dồn người vào chỗ chết!”.
Khước Hoàn Độ thoắt trầm mặc, biết những lời Trác Bản Trường nói không phải là giả. Hôm nay địch nhân không đến thì thôi, nếu đến nhất định có khả năng giết chết mình, còn đang nghĩ ngợi, thanh âm của Trác Bản Trường đã lại vang lên: “Sau đây thiếu chủ xem nên hành sự như thế nào?” Khước Hoàn Độ giật mình, trong lòng trào lên một cảm giác khó tả. Bắt đầu từ khi chạy trốn, đây là lần đầu Trác Bản Trường thật tâm thật ý hỏi đến chỉ lệnh của gã, cho thấy Khước Hoàn Độ bằng sinh mệnh, sự gan dạ và hiểu biết của mình, đã giành được lòng tôn kính và khâm phục nơi thuộc hạ.
Khước Hoàn Độ mỉm cười: “Nếu chúng ta cùng chạy trốn, mục tiêu rất lộ, chưa đến trăm dặm tất sẽ gặp sự truy sát của địch nhân. Phương pháp duy nhất là biến có thành không, phân tán lực lượng để chạy trốn, cũng may khi rời thành, ta mang theo bên mình khá nhiều hoàng kim ngọc thạch, đủ để mỗi người sinh hoạt ăn mặc không phải lo lắng. Lát nữa ngươi giúp ta chia cho mọi người, nói với họ dùng số tài vật này đầu tư vào các ngành các nghề ở đất Sở. Ngày sau ta nổi dậy, tất sẽ triệu tập bọn họ để báo phục mối huyết hận này!”.
Nói đoạn nhìn Trác Bản Trường: “Ta sẽ một mình chạy ra nước ngoài, ngươi phải lưu lại Sở quốc, phụ trách việc liên lạc với mọi người”.
Trác Bản Trường thấy mắt gã đầy vẻ kiên quyết, lòng trỗi lên một cảm giác quen thuộc. Y đột ngột nhớ ra, Khước Uyển đã từng dùng ánh mắt đó để khiến mọi người vâng phục, liền vội vàng đáp: “Cẩn tuân sự phân phó của chủ công!” Lời đã dứt, mới nhớ đó là cách xưng hô tôn kính dành cho Khước Uyển trước kia.
Khước Hoàn Độ dường như không nhận thấy sự thay đổi trong cách xưng hô và ngữ khí của Trác Bản Trường đối với mình, ngửa mặt thở một hơi dài nói: “Chước đó vượt qua dự liệu của địch nhân. Nang Ngõa ơi Nang Ngõa! Cuộc sinh tử tương tranh của chúng ta, từ giờ khắc này mới bắt đầu đây!”.
Trác Bản Trường đột nhiên hạ giọng hỏi: “Chủ công, đêm qua cái cây ấy có phải người đã dùng thủ xảo?” Khước Hoàn Độ mỉm cười nói: “Ta biết không che nổi mắt ngươi, cái cây đó trước khi bị chặt gẫy, sớm đã bị ta dùng tiểu đao khoét mọp, có điều ta vẫn để miếng vỏ cây đấy!”.
Hai người cùng bật lên cười lớn.
o0o
Trải qua gần bẩy ngày đăng trình trong vùng sơn dã, Khước Hoàn Độ cuối cùng cũng ra được quan đạo dẫn đến Hạ Phố. Hạ Phố tọa lạc bên bờ Trường Giang, là một đại đô hội nằm gần Dĩnh Đô của Sở quốc. Mấy ngày vừa rồi chỉ nhìn thấy rừng sâu núi thẳm, giờ đặt chân lên quan đạo người xe tấp nập, Khước Hoàn Độ cảm thấy như được quay trở lại nhân gian. Gã không biết nên tìm đến đâu nữa, với thân phận là con trai của Khước Uyển, thật sự không có chỗ nào để đi cả.
Lúc này phương bắc do nhà Tấn đứng đầu, cùng với nước Sở ở phương nam tranh đoạt địa vị bá chủ. Các nước khác trong thiên hạ, không theo Tấn thì theo Sở. Khước Hoàn Độ giờ đã không còn được dung nạp ở Sở quốc, phụ thân Khước Uyển vì phụng sự nước Sở mà lâu nay trở thành kẻ địch với nước Tấn, vì vậy Tấn cũng sẽ sẵn sàng lấy việc giết được gã làm vui, nước Ngô mới nổi cũng coi cha gã là tử địch. Vì vậy thiên hạ tuy lớn, nhưng đúng là khó có chỗ dung thân.
Nghĩ tới đây, Khước Hoàn Độ buồn bã chán nản, đừng nói đến việc diệt Sở phục hận, hiện tại nguyên việc giữ được tính mệnh, cũng đã là một việc không dễ rồi.
Huống hồ đang đêm gã từ Sở quân trùng trùng vây khốn tháo chạy ra, có thể nói đã để lộ chân tướng, tất nhiên càng khiến Nang Ngõa uý kị. Nghĩ dưới trướng hắn cao thủ như mây, không chừng trước khi mình chạy ra khỏi Sở quốc, bọn truy sát đã bắt kịp rồi, vì vậy hoàn cảnh hiện tại thật hết sức đáng ngại.
Khước Hoàn Độ vừa nghĩ ngợi, vừa rảo bước theo quan đạo.
Giao thông trên đại lộ này tương đối nhộn nhịp, ngoài những thương lữ bộ hành, nông phu đi chợ, còn có rất nhiều xe la và ngựa đàn chở hàng hóa qua lại.
Lúc đó phong khí thông thương tương đối thịnh vượng. Cuối Xuân Thu - đầu Chiến Quốc là một thời đại chuyển giao lớn trong lịch sử Trung Hoa, không chỉ các quốc gia thời Xuân Thu, mà các tổ chức cũng thoát dần khỏi phong kiến để biến thành quân chủ tập quyền, một số xu thế mạnh mẽ như công thương nghiệp phát triển, thành thị mở rộng, chiến tranh ngày thêm kịch liệt, sự hưng khởi của những giai cấp mới, sự giải phóng tư tưởng, lúc này đều rõ rệt lên nhiều lần.
Ví như Bạch Khuê thời sau này tập trung kinh doanh lúa gạo và tơ lụa, Y Đốn sản xuất muối mà lập nghiệp, Quách Tùng đúc đồ sắt, đều sang giàu như vương hầu. Từ đó có thể thấy sự phát triển cao độ của nền kinh tế. Sở là quốc gia mạnh nhất lúc đó, công thương phát triển có phần lấn át cả các nước khác.
Thêm nữa, do sự cần thiết về mặt quân sự, các nước đã khai mở rất nhiều con đường, liên đới thúc đẩy sự phồn vinh của đô hội, vì vậy con đường dẫn thẳng đến Hạ Phố mà Khước Hoàn Độ đang đi, mới xuất hiện nhiều hoạt động nhiệt náo. Khước Hoàn Độ một mặt bị những hình tượng phồn vinh này khiến cho tinh thần chấn động, mặt khác lại lo sợ, với thực lực và sự tinh minh của Nang Ngõa, nhất định không thể bỏ qua trọng điểm giao thông này, không chừng đã bố trí đầy đủ nhân lực để bắt con cá lọt lưới là gã đây, tiền đồ gian hiểm trùng trùng, gã đành chỉ đi bước nào biết bước đó thôi.
Mỗi lần có xe ngựa chạy qua, gã lại nép vào một bên, tránh đụng phải truy binh, đúng là có cảm giác mỗi bước mỗi gian nan. Sau những ngày lưu lạc trong thâm sơn khoáng dã, mặt mày đăm đăm, quần áo tơi tả, cho dù không mang thân phận là Khước Hoàn Độ đi nữa, e rằng cũng có thể bị vệ binh chặn lại khám xét, chuốc phải những phiền toái.
Khước Hoàn Độ lại đi thêm một thôi, còn ba dặm nữa là tới được Hạ Phố, trong lòng đang suy tính làm sao để tránh được việc xét hỏi ở cổng vào thành, bỗng một tràng tiếng móng ngựa vang lên sau lưng. Khước Hoàn Độ giật mình, chú tâm lắng nghe, đội nhân mã đó có ít nhất ba mươi kỵ sĩ, lại có tiếng bánh xe nghiến rào rạo, gã vội vàng tránh qua bụi cây bên đường.
Một đội binh mã, hộ tống một cỗ xe hoa lệ, chầm chậm đi, binh vệ giáp trụ tươi mới, trên yên và trên xe đều khắc một cặp hùng sư múa vuốt nhe nanh.
Khước Hoàn Độ chấn động, nhận ra đây chính là huy hiệu của người mà thanh danh chỉ đứng sau phụ thân mình, cùng được liệt vào Sở quốc Tứ đại kiếm thủ - Tương Lão.
Người này nghe nói kiếm thuật xuất thần nhập hoá, vượt trên cả Phí Vô Cực và Yên Tương Sư, tính cách hung tàn, lấy việc giết người làm vui, là kẻ đứng đầu trong mạng lưới trinh sát tình báo do Nang Ngõa trực tiếp quản hạt. Đặc biệt đáng sợ là dưới tay hắn đã tập hợp một mạng lưới nhân tài đủ màu đủ vẻ, bình thời bọn họ đóng ở Dĩnh Đô - đô thành của Sở quốc, lần này đi xa đến đây, không hỏi cũng biết, tất nhiên là muốn săn đuổi gã rồi. Hôm nay gã thân lâm hung hiểm, hoàn cảnh còn tồi tệ hơn so với tưởng tượng rật nhiều, rơi vào tay kẻ hung ác này, sống còn không bằng chết.
Mặt khác, gã lại cảm thấy có chút tự hào, Nang Ngõa xuất con át chủ bài của hắn như vậy, đủ thấy là rất uý kị gã. Khước Hoàn Độ bất giác phấn chấn tinh thần, quyết ý sẽ đối phó đến tận cùng.
Đoàn xa mã rề rà lăn qua, trong đầu Khước Hoàn Độ loé lên một tia sáng, người ngồi trên xe này, nhất định là lão nhân hay nữ quyến, nếu không tốc độ của xe không thể chậm như vậy được. Khoé miệng bất giác lộ tiếu ý, thân hình triển khai, toàn lực đuổi theo đoàn xe đó.
Đoàn xa mã khắc huy hiệu của Tương Lão chậm rãi đi về phía Hạ Phố. Đột nhiên những kỵ sĩ phía trước ra hiệu cho cỗ xe dừng lại.
Toán kỵ sĩ này đều là binh vệ của Tương Lão, viên đội trưởng khuôn mặt tinh minh hơn hẳn, dáng vẻ thân kinh bách trận. Vừa thấy cỗ xe dừng lại, y bèn quay ngựa phóng về bên cạnh, một mặt khoát tay ra hiệu hai tên kỵ sỹ dẫn đầu lên trước quan sát, một mặt phân phó thủ hạ đằng sau, ngăn khách bộ hành tiến đến gần, tựa hồ trong xe có một vật gì vô cùng trân quý.
Thủ hạ của y phân tán đội hình, dàn ra quanh cỗ xe.
Kỵ sỹ đội trưởng đó cúi đầu trước khuôn cửa xe rèm rủ thấp, khẽ hỏi: “Cơ phu nhân xin đừng kinh hoảng, giữa đường không biết tại sao lại đổ xuống một cây to. Đợi chúng thuộc hạ đi xét qua cái cây có phải là do người ta cố ý chặt gẫy, rồi xem có thể di chuyển nó đi, tiếp tục hành trình không!”.
Trong xe có giọng phụ nữ dịu dàng ừm khẽ một tiếng.
Một giọng phụ nữ khác hỏi: “Thích đội trưởng, Cơ phu nhân muốn biết khi nào có thể vào được Hạ Phố?” Người lên tiếng, có lẽ là nữ tỳ.
Thích đội trưởng nói: “Ước chừng trước lúc hoàng hôn sẽ vào thành, vào thành độ nửa canh giờ sẽ đến được biệt viện tạm thời của chủ công ở Hạ Phố”.
Y thong thả nói, Khước Hoàn Độ ở rặng cây bên đường suýt chút nữa thì mắng khắp lượt mười tám đời tổ tông của y.
Gã một mặt mừng rỡ mình chân tay nhanh nhẹn, lúc ngả cây chặn đường đã có suy tính, nếu không quan sát kỹ, rất khó biết là cố ý chặt gẫy, vì cái cấy gã chọn sớm đã khô giòn, bất kỳ ai cũng có thể cho rằng tự nhiên mà đổ, không thể hoài nghi đến điều khác. Mặt khác Thích đội trưởng tinh minh lợi hại, phản ứng mẫn tiệp, vừa thấy cây chặn đường lập tức quay ngựa về hộ vệ, khiến ý đồ muốn trốn vào dưới gầm xe của gã khó mà thực hiện được, nhất thời gã không biết làm thế nào.
Lúc này hai người đi tra xét cây gãy đã khoát tay thông báo cho Thích đội trưởng, biểu thị không có vấn đề gì. Thích đội trưởng vội vàng hạ lệnh, tức thời lại có hai kỵ mã khác tách ra, chuẩn bị trợ giúp hai kỵ mã kia dọn đường. Một người rút ra sợi dây thừng to, chuẩn bị dùng ngựa để kéo cây sang một bên.
Khước Hoàn Độ giật mình, nhận ra tính tình sốt sắng của mình đã đánh mất công phu hộ tâm , làm nhụt hết sự linh mẫn của tai và mắt. Vừa rồi trước lúc đám kỵ sĩ đằng sau phóng lên trước, sự chú ý của mọi người đều tập trung lại phía họ, nếu gã nắm bắt được thời điểm đó, thì đã có thể dựa vào thân pháp tuyệt thế để lòn xuống dưới gầm xe, nhưng do trong lòng còn bận cân nhắc thành bại, nên bỏ lỡ mất cơ hội tốt, gã cảm thấy tiếc vô cùng, vội vàng tập trung tinh thần, tĩnh tại đợi cơ hội thứ hai.
Một đầu sợi dây buộc vào thân cây, một đầu giằng vào yên ngựa, kỵ sĩ hét to một tiếng, hai gối thúc mạnh, con kiện mã phóng bốn vó, cây to rùng rùng chuyển mình, cành lá quét xuống nền đường đất vàng, làm bụi đất bốc lên mù mịt, vừa lúc đó một cơn gió mạnh lùa tới, đất cát đầy trời thốc vào đoàn xa mã, đám kỵ sỹ đều cúi đầu nhắm mắt để tránh bụi lọt vào mắt.
Khước Hoàn Độ thầm kêu trời giúp ta rồi. Thân hình nhanh như li miêu, gã nhảy lên, lắc mình vào dưới gầm xe, thần không biết quỷ không hay.
Thích đội trưởng hạ lệnh, đoàn xe từ từ tiến lên, tốc độ có nhanh hơn một chút. Hiển nhiên do hành trình vừa bị trì hoãn, vì vậy phải tăng tốc, kịp vào được Hạ Phố thành trước lúc mặt trời lặn.
Khước Hoàn Độ áp sát lên gầm xe, chân tay như con dơi bám chặt lấy cái giá đế gỗ, trong lòng cảm thấy khoan khoái, lần này vào thành là do địch nhân hộ tống, thế sự quả thực không điều kỳ lạ gì không có. Lại nhớ đến trước sau hai lần đều dùng phương pháp chặt cây làm cứu tinh, cũng thật là chuyện lạ.
Tiếng móng ngựa, xe ngựa tiến lên dọc con đường, trên xe ngoài những tiếng thở nhẹ nhàng truyền ra, không nghe thấy bất kỳ một âm thanh nào khác. Khước Hoàn Độ hiếu kỳ vô cùng, suy đoán về thân phận của phu nhân ngồi trong xe, không biết vì sao nàng lại đến nơi này gặp Tương Lão.
Trên đường Thích đội trưởng còn quay ngựa lại mấy lần nữa để bẩm báo về hành trình với phu nhân. Vị phu nhân đó không hé một lời, chỉ thông qua nữ tỳ hồi ứng, lúc này Khước Hoàn Độ cũng hiểu ra Thích đội trưởng đang kiếm cớ khiến vị Cơ phu nhân ấy lên tiếng.
Đột nhiên từ đằng sau, một đội kỵ sỹ phi tới với tốc độ rất mau, khi lướt qua bên đoàn xe, bọn họ ghìm chậm lại, rồi một người trong bọn trầm giọng nói: “Thuộc hạ Triển Thành xin được hỏi thăm Cơ phu nhân”. Trung khí mạnh mẽ đầy rẫy, tỏ rõ là một cao thủ.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn