View Single Post
  #9  
Old 01-11-2013, 04:18 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Eldest - Đại ca (tt)

Đời sống bí ẩn của loài kiến


Oromis và con rồng vàng vừa khuất dạng, Saphira hí hởn:
“Eragon, ai ngờ lại có một rồng khác nữa. Anh cũng không thể nào tin nổi, đúng không?” Eragon vỗ về cô em rồng, bảo: “Anh cũng thấy điều đó thật diệu kỳ.” Từ cao nhìn xuống Du Weldenvarden, dấu hiệu dân cư của rừng giả chỉ là những cụm khói là đà trên những lùm cây rồi tản mạn vào làn không khí trong lành.
Saphira tiếp tục thì thầm: “Không bao giờ em ngờ gặp được một rồng khác ngoài con con rồng Shruikan của Galbatorix, hoặc giải cứu được mấy cái trứng còn trong tay bạo chúa. Nhưng… chuyện đó xa vời quá. Vậy mà bây giờ lại gặp Glaedr! Thật khó tin! Anh chàng rồng vàng này… trên cả tuyệt vời. Lớn tuổi, mạnh mẽ, những cái vảy… long lanh lóng lánh… lóng lánh long lanh… Tuyệt vời! Anh ta lớn gấp hai, không, gấp ba em. Anh có nhìn những móng vuốt không? Chúng… Cô ả trổ tài hùng biên, thao thao ca tụng những đặc tính của anh rồng vàng. Eragon cảm thấy trong lòng cô em đang sôi nổi tình cảm lẫn lộn, vừa kính trọng vừa yêu thương. Dù biết đầu óc Saphira đang bay bổng trên mây, Eragon cố gắng kể lại những gì đã nghe được từ sư phụ Oromis, nhưng vẫn không thể lái cô ả qua đề tài khác. Nó lặng lẽ ngồi sau lưng Saphira nhìn xuống màu cây xanh ngăn ngắt phía dưới, và cảm thấy mình là người cô đơn nhất trên đời.
Trở về chỗ nghỉ, Eragon mệt lả vì những sự kiện trong ngày và vì mấy tuần lễ đi đường. Vì vậy, trong khi Saphira ngồi nhòm nhõm trên ổ, lảm nhảm về anh rồng vàng thì Eragon bắt đầu khám phá những bí mật của một phòng tắm theo kiểu thần tiên.
Buổi sáng, Eragon nhận được gương và dao cạo như Oromis đã hứa. Tắm nước nóng xong, cầm gương lên ngắm mặt mình, Eragon thầm nhủ: “Trông mình già hơn trước nhiều. Già và mệt mỏi.” Không chỉ vậy, mặt nó có góc cạnh hơn, trông giống như một người tu khổ hạnh. Dù không phải là thần tiên, nhưng bất kỳ ai quan sát nó thật kỹ, khó có thể bảo nó mang dòng máu thuần túy của loài người. Vén tóc để lộ hai tai, thêm một bằng chứng mối liên hệ giữa nó và Saphira đã biến đổi thể xác nó đến thế nào: Eragon rờ ngón tay lên vành tai đã bắt đầu hơi nhọn.
Dù biết sự biến đổi tất nhiên phải xảy ra - để dần dần hoàn toàn trở thành một kỵ sĩ rồng – nhưng Eragon vẫn cảm thấy khó chấp nhận nổi chuyện này. Không được biết trước cơ thể mình đổi thay ra sao làm nó thấy như bị xúc phạm, tuy nhiên nó cũng háo hức chờ đợi những gì sắp xảy ra. Một điều nó biết rất rõ, nó vẫn đang ở giữa chính bản thân mình - một thanh niên của loài người – và những bí mật cam go của một vương quốc mà cái thân xác đó phải phục vụ.
“Bao giờ mình mới biết chính xác mình là ai? Là cái gì?” Bắt chước cậu Garrow vẫn thường làm, Eragon đặt dao lên má, cạo nhè nhẹ. Râu bị xén lởm chởm cọng cao cọng thấp. Nó đổi chiều cầm dao và thấy khả quan honư. Nhưng khi vứa kéo lưỡi dao xuống cằm, khóe miệng nó bị cứa một đường dài. Máu chảy xuống tận cổ. Eragon bật lên nói: “Wáise heill.” Vết thương khép ngay lại, không còn chút đau đớn nào nữa.
“Eragon!” Saphira kêu lớn, húc đầu mở tung cửa phòng, đánh hơi mùi máu.
Eragon vội trấn an cô rồng: “Anh còn sống mà.” “Làm ơn thận trọng một chút. Cứ để chòm râu dê cho đỡ rách việc, bầy dặt làm bảnh chi không biết nữa.” “Thôi đi, anh có làm sao đâu.” Saphira càu nhàu rụt đầu, trở ra ngoài.
Eragon lom lom nhìn lưỡi dao cạo, nói:
- Dẹp mày qua một bên.
Nó bình tĩnh ôn lại tất cả những từ cổ ngữ đã biết, chọn lựa những từ cần thiết, rồi lầm bầm niệm chú. Từ mặt nó bay ra một làn bụi màu đen và da mặt nó trở nên hoàn toàn nhẵn nhụi.
Ngay sau khi Eragon khoan khoái leo lên yên, Saphira bay vút lên không, thẳng tiến đến bờ vực Tel’náeir.
Oromis và Glaedr đã đang đứng chờ trước cửa lều. Trước hết, ông xem xét từng chi tiết bộ yên của Saphira, từ sợi dây cương, tới mỗi cái móc, rồi ông quả quyết đây là một món đồ thủ công:
- Brom bao giờ cũng rất khéo tay. Các con cứ tiếp tục sử dụng yên này những khi cần bay với tốc độ cao. Nhưng để an toàn hơn thì… Ông trở vào lều rồi vác ra một cái yên lớn, trang trí những hình ảnh mạ vàng từ yên tới bàn đạp:
- … hãy dùng cái này. Nó đã được làm tại Vroengard và đã được yểm bùa nhiều lần. Rất an toàn, không bao giờ làm các con thất vọng khi nguy cấp.
Eragon lảo đảo khi đón cái yên từ tay sư phụ. Trông nó cũng tương tự như cái yên của ông Brom làm, với hai hàng móc để giữ chân ổn định. Nhưng chỗ ngồi sâu hơn để người cưỡi – dù ngồi thẳng hay rạp người xuống cổ rồng - vẫn có thể bay liền nhiều giờ rất thoải mái. Ngoài ra, những sợi dây quanh ngực Saphira được khoan rất nhiều lỗ, để có thể nới ra khi cô rồng lớn hơn. Một loạt móc dây trên đầu cái yên làm Eragon chú ý. Trả lời câu hỏi về mục đích của những sợi móc đó, Oromis nói:
- Đó là những móc an toàn cho cổ và cánh tay của con. Con sẽ không chết khiếp khi Saphira cần phải sử dụng những đường bay phức tạp.
Sau đó, ông cùng Eragon tháo bộ yên cương trên lưng Saphira xuống:
- Saphira, hôm nay con có thể đi cùng Glaedr, để ta làm việc với Eragon tại đây.
“Xin tuân lệnh.” Saphira hí hửng nói rồi cất cánh bay theo con rồng vàng.
Oromis hướng dẫn Eragon vào một khoảng đất nện cứng, vuông vắn dưới gốc một cây dương liễu. Đứng đối diện với đệ tử, ông chậm rãi nói:
- Eragon, những gì thầy sắp dạy con, thuộc về Rimgar, nghĩa là Xà-Hạc quyền. Đó là những thế đánh được trang bị cho các chiến binh của chúng ta khi lâm trận, nhưng ngày nay tất cả thần tiên đều luyện tập để giữ gìn sức khỏe. Rimgar gồm bốn đẳng cấp. Cấp sau khó hơn cấp trước. Bây giờ chúng ta bắt đầu từ cấp một.
Eragon nắm chặt hai tay, gồng người đứng thẳng trong khi vết thương rần rần nhức nhối sau lưng.
Oromis nhẹ nhàng nói:
- Thả lỏng ra.
Eragon mvơr nắm tay, nhưng hai tay ãn cứng ngác khép chặt hai bên sườn.
- Eragon, thầy bảo con thả lỏng ra. Con không thể luyện Rimgar với thân hình cứng ngắc như một thân cây được.
- Con hiểu rồi, thưa sư phụ.
Eragon nhăn mặt cố gắng thả lỏng cơ bắp, khớp xương nhưng bụng nó vẫn còn căng cứng.
- Hai bàn chân đặt sát bên nhau. Hai tay buông xuôi theo thân hình. Mắt nhìn thẳng. Bây giờ con hãy hít vào thật sâu, trong khi từ từ đưa hai tay khỏi đầu, cho đến khi hai bàn tay úp vào nhau… Đúng rồi. Thở ra, cúi xuống, hai bàn tay úp trên mặt đất. Hít vào và… nhảy ra sau. Tốt. Hít vào, ngửa ra sau, nhìn lên trời, thở ra… Eragon bắt đầu yên tâm. Mấy thế tập nhẹ nhàng không làm chấn động vết thương, tuy nhiên cũng đủ làm trán nó lấm tấm mồ hôi. Bất chợt nó nhoẻn cười, sung sướng vì sức khỏe như đang dần hồi phục. Bao lo lắng hầu như tan biết hết, nó thoải mái vượt qua mọi tư thế, cùng với lòng tự tin, nội lực cũng tăng dần. Từ sau trận chiến trong lòng Farthen Dur, chưa bao giờ Eragon có được niềm sáng khoái như lúc này.
Oromis đứng tấn, rồi bắt đầu cùng đệ tử đi bài Xà-Hạc quyền. Những thế võ vừa mạnh mẽ vừa uyển chuyển của ông làm Eragon kinh ngạc, nhất là đối với một người tuổi tác như ông. Oromis có thể chạm trán xuống tận mấy ngón chân. Đi suốt bài quyền, ông vẫn tỏ ra thanh thản, chẳng khác nào như chỉ đang dạo chơi trong vườn hoa. Những lời chỉ giáo của ông nhẹ nhàng, kiên nhẫn hơn ông Brom, nhưng vẫn đầy uy lực. Không một lỗi nhỏ nào qua khỏi mắt ông.
Tập xong, Oromis bảo:
- Nào, đi rửa ráy cho sạch mồ hôi chứ.
Hai thầy trò ra con suối nhỏ bên nhà, cởi áo. Eragon lén nhìn, tò mò không biết một thần tiên khỏa thân sẽ ra sao. Sư phụ của nó gầy nhom, nhưng dưới làn da, cơ bắp hoàn hảo, rắn chắc như loài gỗ quý. Với Eragon, thân thể ông dường như có vẻ khác thường nếu so sánh với dân làng Carvahall, vì toàn thân ông trơn tru không có một cọng lông. Tuy nhiên tấm thân đó lại có một vẻ cao nhã kỳ lạ, như một con mèo rừng dẻo dai, mềm mại.
Sau đó ỏm dẫn đệ tử tới một khoảng trống, cây cối chung quanh mọc ngả vào trong, cành lá đan nhau che kín bầu trời. Chân hai thầy trò lún trong lớp rêu dày tới mắt cá. Chung quanh hoàn toàn tĩnh mịch.
Chỉ một thân cây màu trắng, ngọn bằng phẳng và sáng bóng, mọc giữa khoảng trống, Oromis bảo Eragon:
- Ngồi lên đó.
Eragon ngồi lên thân cây. Ông nói tiếp:
- Khoanh chân, nhắm mắt lại.
Eragon làm theo, trong mắt nó chỉ còn một màu đen, bên phải tiếng sư phụ thì thầm:
- Eragon hãy khai tâm mở trí ra. Mở trí ra mà lắng nghe thế giới chung quanh, lắng nghe ý nghĩ của từng sinh vật trong khoảng trống dưới lùm cây này. Từ con kiến trên cành, tới con giun trong lòng đất. Hãy lắng nghe cho đến khi con hiểu được tất cả bản chất và mục đích của chúng. Khi nào con không còn nghe thêm được điều gì nữa, hãy đến cho ta biết con đã tìm hiểu được những gì.
Thế rồi, cả khu rừng chìm vào im lặng.
Không biết sư phụ đã rời đi chưa, nhưng Eragon thử nới ý chí bao quanh tư tưởng để giao tiếp với tri thức của mình, giống như những lần muốn liên lạc với Saphira từ xa. Lúc đầu, chung quanh nó chỉ là một hố đen thăm thẳm, rồi những tia sáng ấm áp lóe lên, mạnh dần cho đến khi nó thấy mình đang ngồi giữa một chòm sao lóng lánh. Mỗi điểm sáng là hiện thân của một đời sống. Trước đây, mỗi lần muốn liên hệ với một sinh vật – như hai con ngựa Cadoc và Hỏa Tuyết hoặc ma mèo Solembum – tri thức nó tập trung vào đối tượng nó muốn giao tiếp, nhưng…lần này… dường như nó đứng bất lực giữa một đám đông, tiêng rào rào trò chuyện chung quanh như những dòng sống đang ào ạt cháy.
Eragon bỗng cảm thấy bất an. Ngay lúc này nếu kẻ nào muốn nhảy vào tâm trí nó, để điều khiển, thật quá dễ dàng. Một cách vô thức, nó rút vào nội tại: tất cả những gì nó mới nghe thấy đều biến hết.
Nhớ lại một bài dạy của thầy, Eragon giữ nhịp thở điều hòa êm ả lại, cho đến khi hòan toàn thoải mái mở lại ý thức.
Cho đến lúc này, những sinh vật nó có thể nhận ra, hầu hết là côn trùng. Bầy đàn của chúng làm Eragon khiếp đảm. Hàng chục ngàn con trên một thước vuông rêu; hàng triệu con lúc nhúc khắp khoảng trống nhỏ dưới lùm cây; hằng hà sa số nữa ở bên ngoài.
Vì Eragon chỉ biết một vài giống côn trùng, trong đó có những loài sư phụ đã nhắc tới, nên Eragon tập trung vào những đội quân kiến đỏ đang lũ lượt từng hàng leo lên một thân cây hoa hồng dại. Những gì thâu lượm được, cho Eragon thấy bộ não của chúng quá đơn sơ, hầu như không thể suy nghĩ, nhưng… lại rất khẩn trương: khẩn trương tìm kiếm lương thực, khẩn trương tránh những thương tổn, khẩn trương bảo vệ lãnh địa và khẩn trương phối giống. Vừa bắt đầu quan sát bản năng của chúng, Eragon đã bị bối rối bởi những hành động lạ lùng của loài kiến.
Chỉ vài chú kiến lang thang ngoài bầy, còn tất cả đều biết chính xác mục tiêu tiến tới. Không biết nhờ cơ quan nào điều khiển, đội quân kiến theo đúng lộ trình từ tổ tới nơi có lương thực, rồi trở lại. Nguồn lương thực của chúng lại càng đáng ngạc nhiên hơn. Eragon vẫn tưởng kiến giết và ăn những giống côn trùng khác, nhưng bầy kiến này đang cố gắng thẳng tiến tới… vùng canh tác… một thứ gì đó lốm đốm trên cây hồng. Eragon phải ráng hết sức tập trung tư tưởng vào những đốm li ti đó, và rồi nó bật cười ha hả khi khám phá ra: những chấm nhỏ đó chính là một loài rệp cây. Những chú kiến này đang làm công việc của dân chăn bò: chăn dắt, bảo vệ và “vắt sữa” bằng cách dùng râu vuốt ve bụng những con rệp vừng. Một khám phá quá bất ngờ, nhưng càng quan sát, Eragon càng tin chắc đó là sự thật.
Nó theo dấu bầy kiến vào những mê lộ rắc rối trong lòng đất và quan sát chúng săn sóc cho một con cùng loài, nhưng to lớn nhiều lần hơn những con bình thường. Tuy nhiên, Eragon không biết mục đích chúng định làm gì, chỉ thấy chúng tận tụy lần lượt vây quanh con kiến to đùng kia, giữ một khoảng cách với nhau rất có trật tự.
Một lúc sau, Eragon cảm thấy những tìm hiểu về loài kiến như vậy là đã đủ, ngay khi nó vừa định thu hồi luồn tư tưởng, một con sóc nhảy vào khoảng trống. Hình ảnh con sóc, cũng như bầy kiến, như một luồn sáng hòa vào dòng tư tưởng Eragon. Bàng hoàng, Eragon chợt thấy trong lòng nó tràn ngập những cảm giác của con sóc. Nó đánh hơi rừng bằng cái mũi của sóc. Cảm thấy vỏ cây dưới bộ móng sóc. Gió phe phẩy cái đuôi nhổng cao của sóc. So sánh với loài kiến, con sóc cũng khẩn trương nhưng thông minh hơn.
Sau khi con sóc thoăn thoắt nhảy biến vào rừng. Eragon mở mắt.
Rừng u tối và tĩnh mịch hơn lúc Eragon mới ngồi lên gốc cây này. Hít sau một hơi, rồi nhìn quanh, lần đầu tiên nó hiểu rõ hơn về sự sinh tồn trên mặt đất. Duối hai chân tê cóng, Eragon bước tới bên cây hồng dại.
Trên cành lá, Eragon thấy những con “bò sữa” và đám “chắn dắt” màu đỏ. Gần gốc hồng một ụ lá thông với lối vào tổ kiến. Nhìn bằng mắt thường, không thể nào thấy được những gì Eragon đã chứng kiến lúc nãy với vô vàn những hoạt động của chúng trong lòng đất.
Ghi nhớ tất cả vào tâm trí, Eragon ra khỏi lùm cây, tự hỏi không biết dưới bước chân này những loài nào đang bị dẫm đạp lên.
Bên ngoài, mặt trời đã xuống. Eragon đoán, có lẽ nó đã ngồi tại đây ba tiếng đồng hồ rồi.
Bước vào túp lều, Eragon thấy syư phụ đang viết bằng một cây bút lông ngỗng. Viết xong dòng cuối cùng, ông ngẩng đầu lên hỏi:
- Con đã nghe được những gì, Eragon?
Eragon cao giọng hãnh diện kể rành mạch từng chi tiết đã thu lượm được. Khi nó nói xong, Oromis nhướng cao một chân mày, hỏi:
- Tất cả chỉ có vậy thôi sao?
- Dạ… - Còn những sinh vật khác trong lòng đất, trên không trung? Con có thể cho ta biết chúng làm gì trong khi bầy kiến của con vỗ về đàn bò của chúng không?
- Dạ… không.
- Sai lầm của con là ở đó. Con phải tìm hiểu tất cả mọi điều. Đừng che hai bên mắt, để chỉ tập trung vào một vấn đề. Cho đến khi nào con chưa làm chủ được bài học quan trọng đó, hàng ngày con phải ngồi trên thân cây kia mà suy ngẫm trong một tiếng đồng hồ.
- Làm cách nào con biết đã làm chủ được bào học đó?
- Khi con nhìn một nhưng biết mười.
Ông ra hiệu cho Eragon ngồi xuống bên bàn, rồi đặt trước mặt nó bút mực và một tờ giấy mới:
- Cho đến lúc này con vẫn còn thiếu hiểu biết rất nhiều về cổ ngữ. Không phải ai cũng thông thạo tất cả các từ của ngôn ngữ này. Nhưng ít ra con cần phải quen với văn phạm và cách cấu trúc của cổ ngữ. Vì như vậy sẽ tránh cho con khỏi tai nạn tự sát vì sai lầm khi chia không đúng một động từ hoặc vì những lỗi tương tự khác. Ta không hy vọng con nói trôi chảy như thần tiên – làm được điều đó, con phải học hỏi cả đời -, nhưng ta mong con có thể đạt được khả năng vô thức. Nghĩa là con phải có khả năng nói ngay mà không cần suy nghĩ. Con phải học đọc, học viết. Không chỉ để nhớ từ, mà phải nói trôi chảy những câu dài khi cần thiết. Tất cả những loài khác – như loài người và người lùn - đều phát triển chữ viết của họ từ nguyên mẫu cổ ngữ. Tuy nhiên đó chỉ là những phương pháp bất đắc dĩ, không thể diễn tả hết tự tinh tế của ngôn ngữ bằng Liduen Kvaedhí của chúng ta. Liduen Kvaedhí - Bản gốc thi ca – là những vần thơ khúc chiết, thanh cao, diễm lệ. Tập thơ đó gồm bốn mươi hai khổ thơ với những âm thanh khác biệt. Từng chữ từng câu đều thâm trầm ý nghĩa, tạo cảm hứng vô bờ cho những nét chạm khắc như nét khắc trên thanh Zar’roc hay trên chiếc nhẫn của con… Nào, bây giờ ta bắt đầu: những nguyên âm căn bản của cổ ngữ là gì?
- Dạ… Khi đi cùng ông Brom, ông chỉ tập trung làm sao cho Eragon nhớ và phát âm chuẩn xác được những câu thần chú để sống còn. Ngoài ra, nó đâu biết phân biệt một quán từ phủ định hay xác định.
Trước sự mất căn bản của Eragon, Oromis vẫn bình thản kiên trì hướng dẫn lại cho nó từ đầu. Đang học Eragon bỗng nói với thầy:
- Con chưa bao giờ cần sử dụng nhiều từ trong một câu thần chú. Ông Brom bảo, chỉ với một câu “brisingr” mà con đã có thể làm được nhiều điều, là do thiên bẩm. Lần con sử dụng nhiều từ cổ ngữ nhất, là khi liên hệ qua tư tưởng với Arya và khi con chúc phúc cho một đứa trẻ mồ côi tại Farthen Dur… Oromis lo lắng ngắt lời nó:
- Con đã chúc phúc cho một đứa trẻ bằng cổ ngữ ư? Con có nhớ mình đã nói gì không?
- Dạ có.
- Nói lại cho ta nghe.
Khi Eragon lập lại lời chúc phúc, Oromis kêu lên khiếp đảm:
- Con nói skolir, chắc không? Hay Skoliro?
Eragon nhăn mặt:
- Skolir mà. Skolir mới có nghĩa là che chở chứ. Cầu chúc mi được che chở khỏi những điều bất hạnh. Đó là một lời chức thật tốt lành.
- Đó không phải là một lời chúc, mà là một lời nguyền. Tiếp vĩ ngữ “o” đổi những đồng từ tận cùng với “r” và “i” thành quá khứ. Skoliro nghĩa là được chở che, còn Skolir lại có nghĩa là che chở cho. Những lời con nói, thay vì chúc phúc, lại trở thành lời nguyền đứa trẻ đó phải hy sinh, nhận hết mọi bất hạnh để… che chở cho kẻ khác tránh khỏi khổ đau.
Không, không thể như vậy được. Eragon cuống cuồng cải chính:
- Tác dụng của một câu thần chú không chỉ quyết định vì những câu nói, mà từ ý định trong tâm người nói… Con không có ý định làm hại đứa trẻ đó… - Con không thể cãi lại sự ấn định của tạo hóa đã dành cho một từ ngữ. Không thể vi phạm giới hạn của nó để biểu thị một ý hoàn toàn ngược lại. Ta tin là con không có ý hại đứa trẻ, nếu không ta đã từ chối tiếp tục dạy dỗ con. Nếu con thành thật với một tấm lòng trong sáng, có thể câu chúc của con sẽ không quá tác hại như ta đã lo ngại. Tuy nhiên điều đó sẽ vẫn là một nguyên nhân gây đau khổ nhiều hơn chúng ta tưởng.
Toàn thân Eragon run bần bật vì những gì đã gây ra. Cố nuôi chút hy vọng, nó nói:
- Thưa sư phụ, có lẽ tình trạng sẽ không đến nỗi nghiêm trọng lắm, vì ngay sau đó Saphira đã ghi lại một dấu vết lên trán đứa trẻ, giống như dấu hiệu gedwey ignasia trên bàn tay con.
Lần đầu tiên trong đời, Eragon mới thấy một vị tiên sững sờ đến thế. Hai mắt Oromis trợn trừng, miệng há hốc, hai tay xiết chặt thành ghế:
- Mang dấu hiệu của kỵ sĩ, vẫn chưa phải là một kỵ sĩ. Suốt bấy nhiêu năm sống trên đời, ta chưa từng thấy ai giống như hai con. Tát cả những việc các con làm đều dẫn đến kết quả không ai tưởng tượng nổi. Các con làm đảo lộn thế giới như một trò đùa. Đứa trẻ đó bây giờ ở đâu?
- Ở với Varden, tại Farthen Dur hoặc Surda. Sư phụ nghĩ dấu hiệu của Saphira có giúp gì cho đứa trẻ đó không?
- Ta không biết. Trước đây chưa hề xảy ra chuyện đó bao giờ.
- Phải có cách nào hủy bỏ, vô hiệu hóa lời chúc đó chứ ạ?
- Có đấy. Nhưng muốn đạt kết quả hữu hiệu nhất, con phải đích thân làm chuyện đó. Tuy nhiên, trong tình trạng khả quan nhất, thì phần phép thuật còn sót lại của con cũng vẫn sẽ ám theo cô gái nhỏ mãi sau này. Đó là sức mạnh của cổ ngữ. Ta thấy con đã hiểu vấn đề nghiêm trọng đến thế nào, vì vậy ta phải nói cho con biết: con hoàn toàn lãnh trách nhiệm về số mạng của cô bé này. Và vì những gì con đã gây ra, con phải có bổn phận giúp đỡ cô ta trong mọi trường hợp. Theo luật kỵ sĩ, đứa trẻ đó là một điều hổ thẹn của con, nó như một đứa con ngoại hôn của con vậy.
Eragon thì thầm:
- Con hiểu. Con hiểu là đã đẩy đứa trẻ tội nghiệp vào một định mệnh nghiệt ngã. Con người không thể thật sự có thiện tâm, khi không hề biết cái ác là gì. Con đã làm đứa trẻ trở thành một nô lệ mù quáng, chỉ biết hy sinh.
- Con đã hiểu, vậy chúng ta sẽ không nhắc lại chuyện này nữa.
- Vâng, thưa thầy.
Trong lòng nặng trĩu u buồn khi Eragon theo thầy ra ngoài đón Glaedr và Saphira trở về. Cây cối ngả nghiêng khi hai con rồng vỗ cánh là là hạ xuống. Saphira phởn phơ hãnh diện ra mặt. Cô ả vươn cổ, nhe hàm răng nhọn hoắt, ngoác miệng ra thành một nụ cười với ông anh.
Tiếng đá dập vỡ dưới sức nặng của anh rồng vàng khi quay hỏi Eragon:
- Quy luật thứ ba để phát hiện gió xoáy là gì? Quy luật năm, phòng tránh cách nào?
Eragon ngẩn người, chớp mắt lia lịa:
- Không biết.
Oromis hỏi Saphira:
- Kiến chăn nuôi con gì và vắt sữa chúng ra sao?
Saphira lí nhí trả lời:
- Con không biết.
Oromis khoanh tay, dù giọng nói vẫn trầm tĩnh, nhưng mắt thoáng vẻ giận dữ:
- Ta tưởng hai con phải biết bài học căn bản nhất khi trở thành Shur’tugal - Kỵ sĩ rồng: đó là chia sẻ tất cả những hiểu biết cho nhau. Con có thể cắt đứt tay phải của mình được không, Eragon? Con có thể bay một cánh không, Saphira? Không bao giờ. Vậy thì, tại sao các con không giữ dây liên lạc? Các con không thèm sử dụng đến khả năng và lợi thế lớn nhất đó để thắng bất kỳ đối thủ nào sao? Không chỉ chuyện trò với nhau bằng ý nghĩ, mà còn phải hòa hợp ý thức vào nhau, để từ hành động, suy nghĩ chỉ là một. Ta hy vọng từ nay, điều gì đứa này học được, thì đứa kia phải biết.
Eragon nhăn nhó:
- Nhưng… còn những chuyện riêng tư của hcúng con?
Rồng vàng có ý kiến ngay: “Riêng tư gì? Bao giờ đi khỏi đây, nếu thích, hãy nói đến chuyện riêng tư. Trong thời gian huấn luyện không riêng tư gì hết.” Eragon nhìn Saphira mà phát rầu. Cô ả né cái nhìn của nó, rồi chợt nhịp chân kênh kênh, hỏi: “Cái gì?” “Họ nói đúng. Chúng mình lơ đãng quá.” “Đâu phải lỗi em.” Hừ, nó đoán được ý mình, thấy nó xoắn xuýt lấy con rồng vàng mà phát ghét. Nhưng Eragon vẫn nói: “Anh em mình phải cố tiến bộ hơn. Đồng ý?” “Tất nhiên.” Vênh váo trả lời Eragon xong, ả rồng ngoan ngoãn cúi đầu xin lỗi Oromis và anh rồng vàng.
Eragon cũng cúi đầu nói:
- Con hứa sẽ không để sư phụ thất vọng nữa.
- Nếu vậy, ngày mai ta sẽ lần lượt kiểm tra, xem đứa này có hiểu bài học của đứa kia không.
Ông đưa ra một vật tròn bằng gỗ, nói:
- Hãy nhớ lên dây đều đặn, vật này sẽ đánh thức các con đúng giờ mỗi buổi sáng. Sau khi tắm và ăn điểm tâm, trở lại đây ngay.
Eragon không ngờ món đồ chơi nhỏ xíu lại nặng thế. Hình dáng và kích cỡ nhỏ như một trái bồ đào với những đường trổ xoắn ốc quanh một cái núm. Eragon xoay thử cái núm và nghe ba tiếng lách cách nhỏ, như những đường khớp răng cưa bắt đầu chuyển động. Nó cúi đầu nói:
- Đa tạ sư phụ.


Dưới bóng cây Menoa


Sau khi cúi đầu chào, Eragon và Saphira cùng bay về ngôi nhà cây. Bộ yên cương mới lủng lẳng dưới móng hai chân trước của Saphira. Dù không đứa nào nhận lỗi, nhưng dần dần cả hai đều cởi mở tri giác để có thể giao tiếp dễ dàng cùng nhau. Cảm xúc sôi nổi trong Eragon làm Saphira chú ý, nó vội hỏi: “Eragon, chuyện gì vậy?”
Eragon kể lại sai lầm khủng khiếp đã gây ra cho đứa nhỏ tại Farthen Dur làm Saphira hoảng hốt không kém. Nhưng Eragon bảo: “Món quà em ghi dấu trên trán, có thể giúp đứa trẻ phần nào, nhưng chuyện sanh làm thật khó mà tha thứ.”
“Không thể đổ hết lỗi cho anh được. Em chia sẻ sự hiểu biết cổ ngữ cùng anh, em cũng đâu phát hiện ra sai sót đâu.”
Eragon im lặng. Saphira an ủi nói: “Điều đáng mừng là lưng anh hôm nay không còn đau nữa. Vậy là tốt rồi.”
Eragon đổi đề tài: “Hôm nay em học được những gì?”
“Phát hiện và tránh thời tiết nguy hiểm.”
Thấy Eragon vẫn bận tâm vì chuyện chúc phúc lầm, chẳng để ý gì đến những gì nó kể, Saphira lại lẳng lặng tiếp tục bay.
Về tới phòng ngủ, Eragon thấy một khay thức ăn đã để sẵn bên cửa như đêm qua. Cầm khay vào giường, nó vừa lèm bèm rủa thầm vì thiết thịt, vừa kề gối sau lưng để ngồi. Giữa lúc đó có tiéng gõ bên ngoài. Eragon lên tiếng:
- Cứ vào.
Eragon suýt sặc miệng nước vừa uống khi Arya bước qua ngưỡng cửa. Thay vì áo da như thường ngày, Arya mặc áo vải mềm màu xanh lục, thắt một cái đai đính đá trăng. Giải băng cố hữu trên đầu cũng không còn, mái tóc óng ả phủ quanh mặt, buông xuống hai vai. Nhưng sự đổi thay lớn nhất không chỉ do trang phục. Vẻ cứng rắn, xa cách trong thái độ từ lần đầu gặp cô, giờ hoàn toàn biến mất. Trông Arya thật thoải mái, dịu dàng.
- Arya, nàng tới đây có việc gì?
Nhẹ đặt hai ngón tay lên môi, Arya nói:
- Chàng định ở trong nhà suốt buổi chiều sao?
- Tôi…
- Chàng đã tới Ellesméra được ba ngày rồi, mà vẫn chưa biết gì về kinh thành của chúng tôi. Biết chàng rất muốn được khám phá nơi này, vậy hãy gác những lo nghĩ sang một bên. Đi theo tôi.
Vừa nói Arya vừa tiến lại cầm thanh Zar’roc, rồi ra dấu cho Eragon đi theo.
Eragon cùng cô tiến qua tiền sảnh, theo cầu thang cuốn vòng quanh một thân cây xuống đất. Trên đầu họ những cụm mây rực sáng trong ánh nắng cuối ngày.
Một mảnh vỏ cây rơi trúng đầu làm Eragon ngẩng nhìn lên: Saphira vươn ra từ phòng ngủ. Không cần mở cánh nó phóng thân hình đồ sộ từ độ cao mấy chục mét xuống. Một tiếng uỵch nặng nề vang trên mặt đất: “Em cũng đi.”
- Tất nhiên.
Arya thản nhiên nói trong khi Eragon rủa thầm, vì nó chỉ mong được một mình bên nàg.
Họ đi dưới những tàn cây rậm rạp che phủ ánh mặt trời. Lác đác trong cành lá, những ngọn đèn xanh ngọc tỏa ánh sáng dịu dàng xuống lối đi.
Rải rác trong vùng sáng và bóng tối, các thần tiên say sưa làm việc đơn lẻ, thỉnh thoảng mới có một nhóm chỉ hai người. Nhiều vị vắt vẻo trên cành cao, véo von thổi sáo. Lại có những vị mơ màng, thanh thản nhìn trời. Một vị khoanh chân bên một bàn xoay nặn gốm; dưới tay ông, một chiếc bình tinh xảo đã thành hình. Kế bên, mèo ma Maud ẩn mình trong tối chưm chú nhìn ông làm việc. Dôi mắt nó rực sáng khi thấy Eragon và Saphira bước qua. Vị tiên ông, nhìn theo hướng mắt ma mèo, rồi gật đầu chào.
Eragon thấy một thần tiên – không rõ nam hay nữ - ngồi trên một tảng đá giữa dòng suối, lẩm nhẩm niệm chú lên một quả cầu thủy tinh trên bàn tay. Quả cầu chợt biến mất.
Để không làm phiền ai, Eragon thì thầm thật nhỏ, hỏi Arya:
- Thần tiên làm gì để kiếm sống.
- Khả năng phép thuật ban cho chúng tôi sự nhàn hạ thảnh thơi. Chúng tôi không săn mồi, không trồng tỉa; vì vậy thời gian chỉ dành để tu luyện hòng chế ngự những gì chúng tôi quan tâm.
Qua một đường hầm bằng cây dương đào phủ đầy dây leo, họ tiến vào một mảnh sân vây quanh bởi một vòng cây. Dưới mái lều giữa sân cỏ một lò rèn và những dụng cụ mà Eragon biết chắc chú Horst hằng mơ ước. oMotj tiên nữ tay trái cầm cây kẹp sắt hơ trên lò than, tay phải đẩy bễ. Bà ta thoăn thoắt gần cái khoen nhỏ đỏ rực trên đầu kẹp vào một tấm áo giáp còn dang dở, đặt trên cái đe. Nắm chặt cây búa, bà đập mạnh lên cái khoen làm tung ttóe những đốm lửa sáng rực.
Arya tiến vào lên tiếng:
- Atra seterní ono thelduin.
Bà ta ngẩng nhìn. Ánh than hồng rọi lên làn da mặt và cổ nhăn nheo. Lần đầu tiên Eragon nhìn thấy biểu hiện tuổi già của một thần tiên.
Bà không trả lời Arya - một thái độ chống đối và không lịch sự, nhất là với Arya, một vị công chúa, con gái của nữ hoàng, trong khi nàng đã lên tiếng chào hỏi trước.
Arya vẫn bình thản nói:
- Rhunon tiền bối, tôi đưa đến một kỵ sĩ mới, Eragon Khắc-Tinh của Tà-Thần.
Rhunon nói với Arya:
- Ta nghe đồn công nương chết rồi mà.
Không giống những thần tiên khác, giọng bà ta cắm cẳn ồ ề, làm Eragon nhớ lại mấy ông già dân làng Carvahall, chiều chiều ngồi ngoài hiên phì phèo tẩu thuốc, kể chuyện ngày xưa.
Arya mỉm cười hỏi:
- Bao lâu rồi tiền bối không ra khỏi nàh?
- Công nương phải biết chứ. Đó là lần công nương ép tôi đến Hội Mừng Hè.
- Ba năm qua rồi.
- Vậy sao? Hừ, hội với hè, toàn đám đàn bà ngồi lê đôi mách. Nhưng thôi, công nương tới đây làm gì? Chắc không ngoài ý định nhờ tôi rèn một thanh kiếm cho con người này? Công nương biết rõ, từ sau ngày tên kỵ sĩ phản bội đó dùng gươm của tôi để hủy hoài, giết chóc, tôi đã thề không bao giờ làm ra những vật giết người như thế nữa rồi mà.
- Không. Eragon đã có kiếm rồi.
Arya nâng thanh Zar’roc trước mặt bà ta. Rhunon đón thanh kiếm với ánh mắt đầy kinh ngạc. Bà vuốt ve chuôi thanh kiếm đỏ rực, ngón tay ngập ngừng trên dấu khắc màu đen, rồi nắm tay rút kiếm ra khỏi vỏ uy nghi như một chiến binh dũng mãnh. Vung kiếm khỏi đầu, Rhunon chém mạnh một nhát, xẻ cái kẹp sắt trên đe đứt làm hai.
Ômg Zar’roc trong tay, Rhunon đong đưa như mẹ ru con:
- Ôi, Zar’roc, ta nhận ra mi rồi. Mi hoàn hảo như ngày mi mới ra lò. Suốt đời, ta đã rèn ra những thanh gươm quý như thế này từ quặng sắt. Thế rồi hắn đến, hủy hoại tất cả. Bao thế kỷ nhọc công tan tành trong thoáng chốc. Cho đến lúc này ta được biết, chỉ còn bốn tác phẩm của ta tồn tại. Một thanh của hắn, một của Oromis, còn hai thanh do hai gia đình cất giữ sau khi giải cứu chúng khỏi tay Wyrdfell.
- Wyrdfell là gì?
- Là phản đồ.
Rhunon quay lại Eragon:
- Giờ thì Zar’roc đã trở về. Trong tất cả những thanh kiếm ta tạo ra, ta ít có hy vọng được ôm lại Zar’roc trong tay nhất. Làm sao mi có được thanh kiếm này của Morzan?
- Ông Brom đã cho cháu.
- Brom? Brom… Ta nhớ rồi. Hắn đã nài nỉ ta làm một thanh để thay thế thanh bị mất. Thật tình ta rất muốn giúp hắn, nhưng ta đã phát thệ rồi. Hắn giận điên lên vì bị ta từ chối. Oromis phải đánh cho hắn ngất đi, mới đưa được hắn ra khỏi nơi này.
- Tiền bối Rhunon, thanh kiếm của bà đã cứu cháu. Nếu không có Zar’roc, cháu chết từ lâu rồi. Cháu đã giết Tà Thần Durza bằng thanh kiếm này.
- Thật sao? Vậy là Zar’roc đã làm được điều tốt.
Rhunon gần như miễn cưỡng khi phải trao trả thanh Zar’roc cho Eragon, rồi quay sang Saphira:
- A, chào mi, Skulblaka.
Saphira biết Skulblaka nghĩa là rồng trong cổ ngữ. Nó cúi đầu: “Xin chào tiền bối Rhunon.”
Không hề xin phép, bà tiên già leo lên cổ Saphira, vỗ vỗ móng tay cụt ngủn lên một cái vảy rồng:
- Đẹp, đẹp lắm. Không lấm lem bùn đất như những con rồng khác. Nói một cách chính xác thì kiếm của một kỵ sĩ phải xứng hợp với màu sắc của rồng. Màu xanh này phải đi với một lưỡi gươm rực rỡ…
Ý nghĩ đó dường như vắt cạn hết sức lực, Rhunon nhìn hai mảnh kẹp, như không còn ý chí hàn lại nữa. Eragon muốn tìm một câu để làm cho bà khuây khỏa nỗi buồn vì đã trót thề không bao giờ tôi rèn kiếm nữa, nhưng chưa biết nói gì. Nó chợt chú ý đến thân trên chiếc giáp và càng quan sát nó càng thêm kinh ngạc: mỗi chiếc khoen nhỏ li ti đều được hàn kín. Eragon trầm trồ:
- Chưa bao giờ cháu thấy một áo giáp của người lùn. Làm cách nào bà có thể kiến nhẫn hàn từng mối nhỏ xíu như vậy được? Sao không dùng phép thuật cho công việc được nhẹ nhàng hơn?
Không ngờ nó đã làm bà tiên già sôi nổi hẳn lên:
- Phép thuật? Để chiếm đoạt hết niềm vui trong lao động của ta sao? Nếu muốn, thần tiên nào cũng có thể nhờ phép thuật để có được những gì mình muốn. Nhưng… như thế đời sống còn ý nghĩa gì? Cho ta biết, thời gian mi dùng làm gì?
Eragon thú thật:
- Cháu không biết.
- Để theo đuổi những gì mi yêu thích nhất. Cần gì, chỉ niệm mấy câu thần chú là có ngay, mục đích sẽ trở thành vô giá trị. Hãy nhớ bài học đó. Sẽ có ngày mi phải lựa chọn giữa phép thuật và chính sức mình… Bây giờ thì đi đi, ta chán những chuyện tào lao này lắm rồi.
Nói xong, Rhunon trở lại cùng cái bễ và lò than.
Arya nói:
- Rhunon tiền bối, hãy nhớ là tôi sẽ trở lại đón tiền bối vào chiều tối Agaetí Blodhren.
Rhunon không ngẩng lên, chỉ ậm ừ trả lời. Tiếng đe búa chan chát và hình bóng bà tiên già bên lò than theo Eragon suốt đoạn đường hầm ra tới đường. Nó hỏi Arya:
- Tất cả kiếm của các kỵ sĩ đều do tay bà tạo ra sao?
- Bà là một nhà luyện kiếm tài năng nhất của chúng tôi. Tôi nghĩ chàng nên gặp bà, vì bà và vì lợi ích của chúng chàng.
- Cám ơn lời khuyên của nàng.
Saphira chợt hỏi: “Lúc nào bà ta cũng cộc cằn dữ vậy sao?”
Arya cười lớn:
- Suốt bốn mùa. Bà không quan tâm tới gì khác ngoài công việc thủ công, bà còn nổi tiếng là người rất khó chịu với kẻ nào đến quấy rầy. Tuy nhiên, tính nết kỳ cục đó không làm ai giận, vì… tài năng và những sản phẩm tuyệt vời của bà.
Vừa nghe Arya nói, Eragon vừa cố đoán Agaetí Blodhren nghĩa là gì. Blodh chắc chắn là máu rồi, nhưng còn agaetí? Nó chưa từng nghe bao giờ.
Đáp lại câu hỏi của Eragon, Arya cắt nghĩa:
- Agaetí là lễ hội. Chúng tôi tổ chức lễ hội mừng Huyết Thệ mỗi thế kỉ một lần. Chàng và Saphira đều may mắn khi có mặt tại đây… Số mệnh đã thu xếp cho sự ngẫu nhiên tốt lành này.
Arya làm Eragon ngạc nhiên khi hướng dẫ nó đi sâu vào Du Weldenvarden, bước xuống những lối đi rắc rối, dưới những cành lá chi chít đan xen không để chút kẽ hở cho ánh sáng xuyên qua. Eragon lần mò trong tối, đi theo đôi mắt tinh tường của Saphira. Những thân cây cao lớn xù xì càng lúc càng như mọc sát nhau hơn. Ngay khi cây cối ken nhau nhơ một tấm rào chắn cuối rừng, tất cả tiến vào một hoảng trống chan hòa ánh trăng.
Chính giữa khoảng trống là một cây thông đơn lẻ, không cao hơn những cây anh em chung quanh nó, nhưng thân lớn hơn gấp trăm lần. Từ thân cây khổng lồ, cả một tấm thảm rễ - to lớn khỏe mạnh – bao phủ mặt đất như những mạch máu nuôi sống toàn thể khu rừng, như chính nó là trái tim của Du Weldenvarden. Sừng sững giữa rừng, cây thông đơn lẻ giống như bà mẹ hiền che chở đàn con dưới những cành lá vươn dài.
Arya thì thầm:
- Hãy chiêm ngưỡng cây Menoa. Chúng tôi tuân thủ lời huyết thệ dưới bóng râm của bà.
Eragon lạnh người khi nghe Arya nói lên tên cây. Tại thành Teirm, sau khi bà phù thủy Angela đoán vận mệnh cho nó, mèo ma Solembum đã căn dặn thêm: “Tới thời điểm mi cần một vũ khí, hãy nhìn xuống gốc cây Menoa. Sau đó, khi gần như tuyệt vọng, sức tàn lực kiệt, mi hãy tới trước tảng đá Kuthian, tự xưng tên và Cửa Linh Hồn sẽ mở.” Eragon không tưởng tượng nổi loại vũ khí nào mà lại ở dưới gốc cây này và làm cách nào để tìm ra.
Saphira hỏi: “Anh có thấy gì không?”
”Không. Nhưng anh tin những lời nói của Solembum sẽ sáng tỏ khi chúng ta thật sự cần đến.”
Eragon kể cho Arya nghe hai lời tiên tri của ma mèo. Tuy nhiên, nó không thuật lại những lời của bà Angela, vì ngại Arya đoán ra nỗi lòng của nó.
Arya nói:
- Ma mèo ít khi giúp ai, nhưng khi chúng đã giúp, chàng nên lưu tâm. Nhưng theo tôi biết, không có vũ khí nào chôn giấu tại đây, kể cả trong những bài ca và truyền thuyết cũng không thấy nhắc đến chuyện này. Còn tảng đá, hay núi đá Kuthian… cái tên nghe mơ hồ trong đầu như một giấc mơ, vừa quen vừa lạ. Hình như tôi đã nghe tên này, nhưng không nhớ ở đâu.
Tiến gần cây Menoa, Eragon chợt chú ý tới bầy kiến đang bò trên gốc cây, tuy nhiên nó chỉ thấy những đốm đen lờ mờ; nhưng theo hướng dẫn của sư phụ, nó dễ dàng cảm nhận cuộc sống đang xảy ra chung quanh và có thể tiếp xúc với ý thức thô thiển của bầy kiến.
Nó phóng tư tưởng mạnh hơn để tìm hiểu những đời sống khác trong khoảng đất này. Hoàn toàn bất ngờ, Eragon bắt gặp một thực thể bao la, một cảm giác sống động bao trùm cảnh vật, mà nó không thể biết giới hạn tới đâu. So sánh với trí năng của sư phụ Oromis – khi nó được giao tiếp tại Farthen Dur – thì cái tinh thần này mạnh mẽ gấp bội lần. Ngay cả không gian dường như cũng bị chao đảo vì năng lực phát ra từ… cây Menoa.
Thong th, bình thản, ý nghĩ của cây tính toán từng bước, như đang chậm rãi trườn mình trên mặt đá. Tư tưởng đó không quan tâm tới Eragon, hay bất cứ cá nhân nào, mà chỉ hoàn toàn chú tâm trong việc làm cho cây cối cỏ hoa phát triển xanh tươi: hồng thắm, ngọc trâm, cúc quỳ, thược dược… đua nhau nở rộ.
Eragon bàng hoàng reo lên:
- Nó thức dậy! Tôi muốn nói là… nó có… trí khôn!
Chắc chắn Saphira cũng cảm thấy điều đó. Nó vươn cổ lắng nghe, rồi bay lên một cành cây. Đậu trên cành cây lớn như con đường từ làng Carvahall tới Therinsford, Saphira khoan khoái ve vẩy cái đuôi to đùng. Nhìn cảnh một con rồng đậu trên cành cây, Eragon suýt phì cười.
Giọng Arya nho nhỏ hòa vào bóng đêm:
- Đúng là bà ấy đã thức dậy. Càng có muốn nghe kể chuyện về cây Menoa không?
- Tôi rất thích nghe.
Một vệt sáng trắng thoáng qua bầu trời, rồi hiện lên nguyên hình kế bên Saphira: con quạ Blagden vươn đầu, the thé kêu lên: “Wyrda”.
- Ngày xưa, trong thời kỳ tràn ngập hương liệu và rượu nho, trước khi chiến tranh với loài rồng xảy ra… Một phụ nữ tên là Linnea sống một mình và hiến cả cuộc đời cho nghệ thuật ca hát để cây cối lớn lên. Bà không tha thiết đến chuyện chồng con. Thế rồi, một ngày kia có chàng trai trẻ đến ngỏ lời yêu thương. Tình cảm của chàng đánh thức trong lòng Linnea cảm giác mà bà tưởng không bao giờ có thật: niềm khao khát được yêu thương và được hy sinh cho người mình yêu. Vì vậy, lần chàng ngỏ lời lần sau, Linnea đã không thể cầm lòng. Bf rời bỏ công việc, sống hạnh phúc với người yêu… được một thời gian. Nhưng vì còn trẻ, chàng lại tìm thấy tình yêu mới với một cô gái ít tuổi hơn mình. Đôi mắt chàng luôn tràn ngập hình ảnh cô ta. Chàng chinh phục và sống hạnh phúc với người con gái đó. Khi Linnea khám phá ra sự phản bội, bà như phát điên vì đau khổ. Chàng tuổi trẻ đã gây nên một sai lầm tệ hại: đã cho Linnea tận hưởng hạnh phúc trong đời, rồi rũ bỏ bà không hề áy náy. Bà tìm gặp anh ta và cô gái kia. Trong một cơn phẫn nộ, Linnea đã đâm chết người tình cũ. Linnea biết mình đã gây ra tội ác và dù có được tha thứ, bà cũng không thể trở lại như xưa. Đời bà đã mất hết niềm vui sống. Vì vậy, bà tìm đến một cây cổ thụ tại Du Weldenvarden, ép mình vào cây, thề tuyệt đối trung thành cùng nòi giống. Bà đã hát suốt ba ngày cho đến khi bà và cây hòa vào nhau làm một. Từ đó, qua nhiều thiên niên kỷ, Linnea săn sóc và bảo vệ rừng cây. Cây Menoa đã được sinh ra như vậy đó.
Eragon lặng lẽ ngồi bên Arya trên một rễ cây khổng lồ. Nó tự hỏi, không hiểu Arya vô tình, hay cố ý kể chuyện này để cảnh cáo nó. Sự nghi ngờ càng mạnh khi nó nghe nàng hỏi:
- Theo chàng, trong thảm kịch này, chàng thanh niên có đáng trách không?
Eragon ngập ngừng lựa lời:
- Theo tôi… anh ta tỏ ra tàn nhẫn quá, còn phản ứng của Linnea lại thái quá…Cả hai đều có lỗi.
Arya trừng trừng nhìn cho đến khi Eragon phải quay qua hướng khác. Cô nói rành mạch từng tiếng.
- Họ không xứng đôi. Chỉ có vậy thôi.
Eragon định cãi lại, nhưng rồi lại nghĩ: Cô ta nói đúng. Arya tiếp tục nhìn làm nó phải nói ra lời:
- Có thể là vậy.
Sự yên lặng giữa hai người càng nặng nề hơn. Tiếng một con dế gáy vang đâu đó. Sau cùng, Arya lên tiếng hỏi:
- Chắc chàng muốn trở về rồi. Eragon lặng lẽ gật đầu. Arya cúi nhặt mấy nhánh Menoa trên mặt đất và bắt đầu đan một cái giỏ nho nhỏ. Cảm thấy mặt nóng bừng bừng khi ngắm nhìn Arya, Eragon mong ánh trăng không đủ sáng để cô không thể nhìn thấy màu đỏ trên hai má nó.
- Nàng… sống ở đâu? Trong cung hay lâu đài?
- Nữ hoàng và tôi sống trong cung điện Tialdarí, phía bắc Ellesméra. Mong có ngày chúng tôi sẽ tiếp chàng tại đó.
- A… ư… Arya, nàng có anh chị em ruột chứ?
Cô lắc đầu, Eragon hỏi tiếp:
- Vậy, nàng là người kế vị ngai vàng duy nhất của thần tiên?
Arya có vẻ thú vị vì sự hiếu kỳ của Eragon:
- Đúng vậy, nhưng chàng hỏi làm gì?
- Vì tôi không hiểu tại sao nàng lại được phép trở thành sứ thần tại nơi Varden và người lùn, cũng như lãnh nhiệm vụ luân chuyển trứng Saphira từ đây tới Tronjiheim. Đó là một công tác quá nguy hiểm cho một công chúa, chưa nói đến một bà hoàng tương lai.
- Chàng đang nói đến vấn đề… quá nguy hiểm đối với một cô gái của loài người. Trước đây tôi đã từng nói, tôi không phải là một trong số những con người yếu đuối đó. Chàng phải hiểu rằng, quan điểm của chúng tôi về chế độ quân chủ khác với loài người và người lùn. Với chúng tôi, nhiệm vụ cao quý nhất của một ông vua hay một bà hoàng là phục vụ thần dân khi có thể, bằng mọi cách, ở mọi nơi. Điều đó có nghĩa là, dù phải hy sinh mạng sống, chúng tôi sẵn sàng chứng tỏ tấm lòng tận tụy với… nói theo kiểu của người lùn… thì là: gia đình, vương triều và danh dự. Nếu tôi bị chết trong lúc thi hành nhiệm vụ, sẽ có người kế nhiệm được tuyển chọn trong những dòng tộc của hoàng gia. Chúng tôi không chọn người lãnh đạo thiếu nhiệt huyết cùng bổn phận.
Arya co chân trước ngực, dựa cằm lên đầu gối, ngập ngừng nói:
- Phải mất nhiều năm, mẹ con tôi mới hòa giải được vì những tranh cãi trong vấn đề này. Sao, việc học của chàng với Oromis tới đâu rồi?
Câu hỏi làm Eragon cảm thấy giây phút bên nàng chợt kém vui:
- Tiền bối Oromis… rât uyên thâm…
Eragon nhăn mặt vì bị Arya xiết chặt cánh tay, hỏi:
- Chuyện gì làm chàng không vừa ý vậy?
Cố kéo tay về, Eragon nói ngay:
- Không có gì.
- Tôi cùng đi với chàng đủ lâu để hiểu, khi nào chàng vui vẻ, giận hờn hoặc… đau khổ. Chuyện gì đã xảy ra giữa chàng và Oromis? Hay vì vết thương đau lại? Chúng ta có thể…
- Không phải vì chuyện huấn luyện. Thôi, hỏi Saphira đi, nó sẽ kể cho nghe.
- Tôi muốn nghe chính chàng nói ra.
Eragon thì thầm kể lại chuyện làm nó đau khổ như đang có một con rắn độc cuộn mình trong lồng ngực: vụ chúc phúc cho đứa trẻ tại Farthen Dur.
Arya buông cánh tay Eragon, nắm lấy rễ cây Menoa như cố ngồi cho vững vàng hơn.
- Barzul!
Lời nguyền rủa bằng ngôn ngữ người lùn làm Eragon giật mình. Chưa bao giờ Arya mở miệng rủa một câu nào.
- Tôi có biết hành động đó của chàng tại Farthen Dur, nhưng không bao giờ tôi tưởng… Không bao giờ ngờ cớ sự lại xảy ra như vậy. Eragon, tha lỗi cho tôi vì đã bắt chàng ra khỏi phòng tối nay. Đáng lẽ nên để chàng yên tĩnh nghỉ ngơi.
- Không đâu, trái lại, tôi rất sung sướng được đi cùng nàng, rất cám ơn nàng vì những hiểu biết hôm nay.
Eragon mỉm cười nhìn Arya. Cô lặng lẽ nhìn lại rồi cũng nhoản miệng cười.
Hai chiếc bóng nhỏ bé ngồi kề bên nhau dưới gốc cây khổng lồ, cùng ngước nhìn vầng trăng lấp ló sau màn mây. Eragon thì thầm:
- Tôi chỉ tự hỏi rồi đây chuyện gì sẽ xảy ra cho em nhỏ đó.
Tuốt trên cao, con quạ Blagden vỗ đôi cánh trắng, choe chóe kêu vang: “Wyrda!”


Những mối đối nghịch ngấm ngầm


Nasuada khoanh tay trước ngực, không giấu vẻ nóng nảy, khi chăm chăm nhìn hai gã đàn ông đang đứng trước mặt.
Gã bên phải đầu to cổ rụt, tóc sùm sụp gần phủ kín mắt, đôi môi dày đỏ chon chót, vẻ mặt vừa ương bướng vừa đần độn. Tuy nhiên cô biết, bề ngoài ngu ngơ vậy, nhưng miệng lưỡi gã trơn tru như bôi mỡ.
Gã thứ hia chỉ có một điểm nổi bật: nắng gió Surda không làm làn da trắng xanh của gã sậm thêm một chút nào, dù Varden đã di chuyển tới thủ phủ Aberon của Surda được mấy tuần rồi. Nasuada đoán sinh quán của tên này ở miền bắc đế quốc Alagaesia. Hai tay gã luôn xoắn vặn cái mũ len đan.
Nasuada chỉ gã mặt trắng hỏi:
- Hắn làm thịt bao nhiêu con gà của ngươi?
- Mười ba, thưa tiểu thư.
Quay lại gã vai so cổ rụt:
- Mười ba là con số xui đấy, ông Láu Cá ạ. Ngươi phạm cả hai tội: trộm cắp và phá hoại tài sản của người khác.
- Tôi có chối đâu.
- Ta chỉ tự hỏi vì sao ngươi có thể nuốt trôi mười ba con gà trong vòng bốn ngày? Không bao giờ ngươi cảm thấy no sao?
Hắn gãi gãi bên má, cười nham nhở như làm trò hề:
- Thật tình tôi không dám tỏ ra bất kính, nhưng phải phải chi tiểu thư nuôi ăn chúng tôi đầy đủ thì đâu nên nỗi. Thân hình tôi to béo thế này mà quần quật đập đá suốt ngày, không có được một miếng thịt cho vào bụng, làm sao chịu nổi. Tôi cũng đã cố nhịn thèm đấy chứ. Nhưng ba tuần ăn uống kham khổ thiếu thốn, mà cứ phải ngó cả bầy gà vịt mập ú ù lướt qua mắt, trong khi bụng sôi lên vì đói… Thú thật là… tôi không chịu nổi. Đối với vấn đề ăn uống, tôi vốn là kẻ yếu đuối. Tôi khoái đồ ăn ê hề nóng sốt, thưa tiểu thư.
Vấn đề là ở đó, Nasuada thầm nhủ. Varden không đủ khả năng nuôi quân, dù có thêm sự giúp đỡ của Orrin, vua Surda. Nhà vua đã mở kho để giúp, nhưng từ chối hành động theo kiểu của bạo của Galbatorix quen làm: chiếm đoạt lương thực của dân để tiếp tế ra mặt trận. Cách hành xử của vua Orrin là thái độ của một quân vương, nhưng càng đẩy Nasuada vào khó khăn hơn. Dù cô biết, những hành động như thế giúp người dân nhận rõ sự khác biệt giữa những người như cô, vua Orrin, vua Hrothgar và nữ hoàng Islanzadí với chế độ chuyên chế của Galbatorix.
- Ta thông cảm những lý do ngươi nêu ra. Tuy nhiên, dù Varden không phải là một nhà nước, nhưng chúng ta cũng có quy luật do các vị tiền nhiệm của hcúng ta đã đặt ra. Quy luật đó không cho phép ngươi hay bất kỳ kẻ nào sai phạm. Do đó, ta ra lệnh mi phải bồi thường mỗi con gà một xu.
Cô ngạc nhiên thấy hắn hớn hở chấp nhận ngay.
- Tuân lệnh tiểu thư.
Nhưng gã mặt trắng lại hốt hoảng kêu lên:
- Không. Bất công quá! Nếu tôi bán tại chợ, giá sẽ là…
- Đúng. Ngươi sẽ bán được giá cao hơn. Nhưng ta là người trả lương, ta biết hắn sẽ không đủ khả năng trả người nhiều hơn nữa. Ngươi quên rằng nếu ta quyết định xung công đàn gia cầm của người vì lợi ích của Varden, thì ngươi sẽ không được xu nào. Hiểu ý ta rồi chứ?
- Nhưng anh ta không thể…
- Hiểu ý ta rồi chứ?
Ngần ngừ một lúc, hắn đành gật đầu lẩm bẩm:
- Tôi hiểu, thưa tiểu thư.
- Tốt. Bây giờ cả hai hãy lui ra.
Nasuada ra lệnh cho mấy tên lính bảo vệ:
- Các ngươi cũng ra ngoài hết đi.
Còn lại một mình, cô ngả mình trên ghế, mệt mỏi, thở dài, với tay cầm quạt phe phẩy cho ráo mồ hôi lấm tấm trên trán. Cái nóng dai dẳng của vùng này như rút cạn sinh lực của cô và khiến những việc nhỏ nhặt nhất cũng trở thành khó khăn.
Từng quen thuộc với những công việc nội bộ của Varden, Nasuada cũng không thể ngờ chuyện di chuyển toàn bộ đội ngũ từ Farthen Dur, qua núi Beor để tới Surda và Aberon lại phát sinh nhiều việc đến như vậy. Cô rùng mình nhớ lại những ngày dài rong ruổi lưng ngựa. Vượt qua những khó khăn từ lên kế hoạch di dời, lo thu xếp chỗ ở mới, đồng thời vừa phải sửa soạn chương trình tấn công triều đình. Nasuada thầm than: “Mình đâu còn đủ thời gian để ngày nào cũng phải giải quyết những chuyện vặt vãnh như thế này!”
Cô buông quạt, kéo dây chuông gọi Farica, người tỳ nữ thân cận. Farica xuất hiện từ sau cánh cửa ẩn sau bức rèm bên phải bàn làm việc.
Nasuada hỏi:
- Còn ai nữa không?
- Không, thưa tiểu thư.
Nasuada không để lộ vẻ khoan khoái ra mặt. Mỗi tuần, cô mở một tòa án công khai để giải quyết những vụ xung đột trong nội bộ Varden. Kẻ nào cảm thấy có điều bị oan sai đều có quyền xin được xét xử. Nhưng Nasuada không ngờ giải quyết những chuyện vặt đó lại quá khó khăn, vì dương như chẳng ai vừa lòng. Có lẽ giống như cha cô đã nói sau lần thương thuyết với vua Hrothgar: “Một cuộc hòa giải tốt đẹp khiến cho mọi người đều tức giận.”
Trở lại chuyện trước mắt, Nasuada bảo Farica:
- Tôi muốn phần công cho gã Láu Cá một việc khác. Hãy giao một công việc thích hợp với miệng lưỡi dẻo quẹo của hắn. Quản lý hầm đá chẳng hạn, để hắn có đủ khẩu phần ăn. Đừng để hắn lại bị dẫn đến trước mặt tôi vì tội trộm cắp nữa.
Farica cúi đầu bước tới bàn, ghi lại chỉ thị của Nasuada, sự nghiêm túc trong công việc là một trong những điều làm cô ta được tin cậy. Quay lại Nasuada, Farica hỏi:
- Tôi có thể kiếm hắn ở đâu?
- Trong mấy nhóm làm hầm đá.
- À, trong khi tiểu thư bận xử vụ này, vua Orrin có cho mời tiêu thư đến gặp ngài tại phòng thí nghiệm.
- Ông ta lại bày trò gì trong phòng thí nghiệm nữa? Hết làm cho tai điếc, bây giờ lại muốn mù cả hai mắt sao?
Vừa nói Nasuada vừa rửa tay và cổ bằng nước thơm, ngắm lại mái tóc trong chiếc gương bằng bạc của vua Orrin đã tặng cô, rồi kéo tay áo choàng ngay ngắn lại.
Farica theo nữ chủ ra khỏi phòng. Ánh nắng choi chang rọi vào hành lang lâu đài Borromeo. Nasuada nhìn qua khoảng sân quanh lâu đài: chừng ba chục kỵ binh áo màu cam không ngừng lui tới tuần tra. Cô chua chát nghĩ: “Bấy nhiêu đó ăn thua gì nếu đích thân Galbatorix mở cuộc tấn công.”
Galbatorix chưa mở cuộc tấn công là vì lão quá cao ngạo, và vì – cô hy vọng – lão còn e ngại Eragon. Tất cả vua chúa đều cảnh giác với nguy cơ bị tiếm ngôi, nhưng những kẻ tiếm ngôi lại rất sợ mối hiểm họa có thể gây ra bởi những kẻ đơn thương độc mã. Nasuada biết cô đang chơi ván cờ nguy hiểm quá sức mình, khi đối đầu với một lão điên loạn uy quyền nhất Alagaesia. Nếu phán đoán sai lầm khả năng của mình, thì công chỉ cô và toàn thể tổ chức Varden bị tiêu diệt, mà hy vọng chấm dứt triều đại Galbatorix cũng sẽ tiêu tan.
Hương thơm tinh khiết trong lâu đài nhắc cô nhớ thời thơ ấy ở đây. Khi đó, tiên vương Larkin là phụ hoàng của Orrin còn đang trị vì. Orrin lớn hơn cô năm tuổi, nhưng hiếm khi hai người gặp nhau, vì anh ta luôn bận bịu với những bổn phận của một hoàng tử nhỏ. Tuy nhiên cho đến bây giờ, cô vẫn luôn cảm thấy, dường như cô mới là người lớn tuổi hơn.
Nasuada dừng bước trước cửa phòng thí nghiệm, chờ lính ngự lâm vào tấu trình. Tiếng nhà vua sang sảng vang ra:
- Tiểu thư Nasuada, tôi đang nóng lòng khoe cô một chuyện đây.
Nasuada cùng Farica bước vào. Căn phòng ngổn ngang những cái bàn chất đầy từ nồi chưng cất, tới những cốc lớn, bình thí nghiệm thủy tinh vươn cổ ra cả lối đi như chực chờ va quẹt vào tà áo hai người. Hơi kim loại bồng nặc làm Nasuada ứa nước mắt. Cô cùng người tì nữ lách mình qua lối đi nhỏ hẹp, cố tránh đụng phải những ly đồng hồ cát, những kính thiên văn của người lùn, những bình pha lê chứa lân tinh tỏa ánh sáng xanh lè.
Vua Orrin ngồi bên cái bàn đá, đang ngoáy thủy ngân trong nồi bằng một ống thủy tinh - một đầu hở một đầu kín -, dài chừng một thước, nhưng đường kính chỉ vài ly.
Trong khi Farica nghiêng mình chào, Nasuada vẫn đứng thẳng để chứng tỏ địa vị của cô ngang bằng nhà vua. Cô hỏi:
- Hình như bệ hạ đã hồi phục sau vụ nổ tuần trước?
- Trẫm học được một điều, đừng bao giờ dại dột hòa phốt pho vào nước trong một không gian khép kín. Hậu quả sẽ ghê gớm lắm.
- Thính giác của bệ hạ cũng bình thường lại rồi chứ?
- Chưa hoàn toàn, nhưng…
Hí hởn cười như đứa trẻ được quà, nhà vua gắp cục than trong lò, châm cây đèn nhỏ, rồi mồi tẩu thuộc nhồi lá cỏ cardus. Cô không hiểu vì sao nhà vua chịu nổi không khí quá ngột ngạt trong phòng này, nhưung chỉ hỏi:
- Tôi không biết bệ hạ cũng hút thuộc.
- Không đâu. Nhưng vì tai chưa hồi phục hẳn, trẫm dùng thứ này…
Cầm tẩu thuốc, hít mạnh một hơi, rồi Orrin phùng má cho đến khi một làn khói uốn éo tuôn ra từ tai trái như một con rắn trườn ra khỏi tổ.
Nhà vua lại cười hí hởn khoe:
- Cảm giác hay lắm. Như có ai cù trong tai vậy.
Nasuada nghiêm mặt hỏi:
- Bệ hạ còn gì khác cần bàn không?
Orrin búng ngón tay:
- Có, tất nhiên là có chứ. Tiểu thư nhìn kỹ nhé.
Orrin nhúng ống thủy tinh vào nồi, đổ thủy ngân vào ống, rồi bịt đầu hở bằng ngón tay. Đưa ống thủy ngân lên trước mắt Nasuada, nhà vua hỏi:
- Tiểu thư đồng ý trong ống này chỉ có thủy ngân chứ?
- Tôi đồng ý.
Vừa trả lời, cô vừa tự hỏi: “Chẳng lẽ gã vua này gọi mình đến chỉ để khoe trò lẩm cẩm này thôi sao?”
Với một động tác thật lẹ làng, Orrin quay ngược ống vào nồi, rồi rút ngón tay ra. Thay vì tuôn hết ra ngoài, như Nasuada tưởng, chất thủy tinh chỉ trôi xuống lưng chừng ống rồi ngừng lại.
Chỉ khoảng trống bên trên lớp thủy ngân, Orrin bảo:
- Nào, bây giờ tiểu thư thấy gì? Khoảng trống này chứa chất gì?
- Chắc phải là không khí.
Nhà vua cười cười lắc đầu:
- Nếu là không khí, sao không thoát ra ngoài. Không có đường nào để áp lực không khí có thể chen chân vào đây được.
Quay sang Farica, Orrin hỏi:
- Ý ngươi thì sao, tỳ nữ?
Farica lom lom nhìn rồi bảo:
- Chẳng lẽ lại… không có gì?
- Ha ha, nhưng chính xác là vậy đó. Trẫm tin là mình đã giải được bài toán hóc hiểm và lâu đời nhất về thiên nhiên. Trẫm đã chứng minh khoảng chân không là có thật. Điều này hoàn toàn đánh đổ lý thuyết của Vacher và cũng có nghĩa, Ládin thật sự là một thiên tài. Phải công nhận thần tiên dường như luôn luôn có lý.
Nasuada cố bình tĩnh hỏi:
- Nhưng mục đích của khám phá này là gì?
- Mục đích? Tất nhiên là chẳng có mục đích gì, ít ra là ngay lúc này. Tuy nhiên nó giúp chúng ta hiểu sự hình thành của thế giới. Vì sao, bằng cách nào? Đó là một khám phá thật diệu kỳ. Ai có thể biết trước khám phá này sẽ dẫn tới đâu.
Vừa nói, Orrin vừa trút hết thủy ngân ra khỏi ống, rồi nhẹ nhàng đặt vào một hộp lót nhung.
- Tuy nhiên mong ước thật sự của trẫm là sử dụng phép thuật để khám phá những bí ấn của thiên nhiên. Chẳng hạn như mới hôm qua, vì sao mà chỉ với một câu thần chú, Triana đã giúp trẫm phát hiện hai khí hơi hoàn toàn mới. Trẫm đang có ý định học phép thuật, nếu có thể thuyết phục được một pháp sư nào đồng ý chia sẻ kiến thức đó. Tiếc là kỵ sĩ Eragon đã không cùng đến đây với tiểu thư. Ta tin là Eragon sẽ đồng ý giúp.
Nasuada ra lệnh cho Farica:
- Ra ngoài chờ ta.
Farica cúi đầu chào rồi lui ra. Cánh cửa vừa khép lại, Nasuada lên tiếng:
- Bệ hạ có tỉnh táo không?
- Ý tiểu thư định nói gì?
- Trong khi bệ hạ giam mình trong phòng, làm những thí nghiệm vô bổ, lại có thể gây bao nhiêu nguy hiểm cho ngọc thể, thì bên ngoài đất nước ngài đang mấp mé bờ vực chiến tranh. Vô số vấn đề chờ đợi quyết định của ngài, vậy mà ngài đứng đây phì phà tẩu thuốc và đùa chơi với ông thủy ngân sao?
Orrin sa sầm mặt:
- Trẫm biết rất rõ bổn phận của mình, tiểu thư Nasuada. Tiểu thư là lãnh đạo của Varden, nhưng ta là vua của nước Surda. Phải nhớ điều đó trước khi nói lên những lời bất kính như thế. Có cần trẫm nhắc tiểu thư, nơi trú ẩn này của tiểu thư còn tùy vào thiện ý của ta kéo dài được bao lâu?
Nasuada biết, đó chỉ là một lời đe dọa vu vơ; vì nhiều người Surda có họ hàng trong tổ chức Varden và ngược lại. Họ không bao giờ có thể bỏ rơi nhau vì mối ràng buộc họ hàng rất thân thiết đó. Không, lý do thật sự làm Orrin tức bực là vấn đề quyền lực. Vì gần như không thể giữ cả một đoàn chiến binh ăn không ngồi rồi suốt một thời gian dài, nên những người Vattden phải kiếm việc làm, phải trồng trọt, và do đó hòa nhập vào nơi đất khách này.
“Sau cùng thì mình sẽ ra sao? Lãnh đạo một đoàn quân hữu danh vô thực? Hay trở thành một cấp chỉ huy dưới trướng Orrin?” Vị thế của Nasuada thật bấp bênh. Nếu hành động quá hấp tấp hay đưa ra quá nhiều đề nghị, sẽ gây cho Orrin cảm giác bị áp chế; nhất là cô lại đang được toàn dân Surda nể trọng vì chiến thắng của Varden tại Farthen Dur. Nhưng nếu phải chờ đợi quá lâu, cô sẽ vuột mất dịp may khai thác yếu điểm tạm thời lúc này của Galbatorix. Lợi thế duy nhất để vượt qua sự đối kháng ngấm ngầm này, chính là cô đang nắm trong tay yếu tố có thể thúc đẩy mọi hành động: Eragon và Saphira.
Cô nói:
- Tôi không hề tìm cách ngấm ngầm làm hại đến quyền uy của bệ hạ. Vì đó không phải là mục đích của tôi. Nhưng tôi xin lỗi, nếu đã gây ra ngộ nhận. Tất cả chỉ vì… công việc bề bộn quá. Tôi đã phải để một cuốn sổ bên giường như để ghi nhớ, vậy mà vẫn không làm hết việc. Tôi luôn cảm thấy như… chúng ta đang mấp mé bên bờ đại họa.
- Trước khi tiểu thư tới đây… Không, không phải vậy. Phải nói là trước khi vị kỵ sĩ của tiểu thư xuất hiện một cách hoàn toàn cụ thể, ta đã mong ước được sống một cuộc đời giống cá đấng tiên vương: Đó là, chỉ âm thầm chống đối Galbatorix trong bí mật. Vì vậy tiểu thư phải cho trẫm một thời gian để quen dần với thực tế mới này.
- Tôi hiểu, thưa bệ hạ.
- Nasuada, cô chỉ là một nhà lãnh đạo mới, còn trẫm đã nắm quyền nhiều năm rồi. Trẫm thành thật khuyên cô hãy tìm một thú tiêu khiển như ta cho đầu óc bớt căng thẳng.
- Tôi không thể. Mỗi khoảng khắc của tôi là cố gắng tìm cách hạ gục Galbatorix.
- Sẽ có hại cho Varden, nếu cô khăng khăng tiếp tục vắt kiệt sức mình cho công việc. Không cho đầu óc nghỉ ngơi thư giãn, thì không ai có thể làm việc hiệu quả được. Không cần nhiều, chỉ là năm mười phút thôi cũng đủ. Tập luyện cùng các xạ thủ chẳng hạn… Đó là lý do chính để trẫm thiết lậo phòng thí nghiệm này. Đó là vì sao trẫm phì phà tẩu thuốc và chơi đùa với thủy ngân, như cô nói. Và nhờ vậy ta đã không bực tức la hét cả ngày.
Dù không đồng ý với quan điểm của nhà vua, Nasuada vẫn nói:
- Tôi xin ghi nhớ lời khuyên của bệ hạ.
Orrin lại cười hồn nhiên như đứa trẻ:
- Trẫm rất hài lòng.
Nasuada tiến tới cửa sổ, nhìn xuống đường phố Aberon. Cô lắng nghe tiếng hàng rong í ới rao, nhìn đám bụi bàng tung bay khi chiếc xe ngựa đang từ hướng tây tiến vào cổng thành; không khí thoảng thoảng mùi cỏ cardus và hương nhang tỏa ra từ ngôi đền bằng đá hoa cương.
Không quay lại, Nasuada hỏi:
- Bệ hạ đã nhận bản báo cáo mới nhất của chúng tôi từ Alagaesia gửi qua chưa?
Orrin cũng đến bên cửa sổ:
- Trẫm đã nhận.
- Ý kiến bệ hạ thế nào?
- Quá sơ sài, không đủ để rút ra một kết luận chính xác nào.
- Nhưng đó là những tin tức tốt nhất mà chúng tôi có thể nhận được. Xin bệ hạ cứ cho ý kiến. Nếu rút ra từ những chi tiết của bản báo cáo, bệ hạ có đặt dấu nghi ngờ nào không?
Ngẫm nghĩ một lúc lâu nhà vua mới lên tiếng, và những lời nói của ông như những lời tiên tri i ám báo ngày tận thế:
- Tăng thuế, rút hết quân trú phòng về, sung công bò và ngựa khắp nước… Có vẻ như Galbatorix đang tập trung lực lượng để sửa soạn đương đầu với chúng ta. Nhưng trẫm chưa thể nói, lão mưu tính phòng thủ hay tấn công đây. Điều trẫm bận tâm nhất bây giờ là bao lâu nữa hắn mới ban lệnh động viên? VÌ điều đó sẽ quyết định đường lối chiến lược của ta.
- Mấy tuần, mấy tháng, mấy năm. Không thể đoán được hành động của lão.
- Gián điệp của tiểu thư vẫn tiếp tục phao tin rộng rãi về Eragon chứ?
- Việc làm đó mỗi lúc mỗi nguy hiểm, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng thi hành. Hy vọng của tôi là, những thành phố như Dras-Leona sẽ tràn ngập tin đồn về sự dũng cảm của Eragon. Như vậy, khi chúng ta tiến vào thành phố và dân chúng được thật sự nhìn thấy kỵ sĩ rồng, họ sẽ tự nguyện theo chúng ta, tránh được việc vây đánh thành.
- Chiến tranh hiếm khi nào quá dễ dàng đến thế đâu.
Nasuada không phản đối lời phê phán của nhà vua. Cô hỏi:
- Như thường khi, lúc nào Varden cũng sẵn sàng. Còn quân của bệ hạ thì sao?
Orrin xòe hai bàn tay như phân trần:
- Đánh thức một quốc gia là một điều rất khó khăn, Nasuada. Phải thuyết phục những nhà quý tộc, rồi trang bị áo giáp, vũ khí; tập trung lương thực…
- Suốt thời gian kéo dài đó, tôi lấy gì để nuôi quân? Chúng tôi cần nhiều đất hơn số bệ hạ đã cấp cho…
- Biết, trẫm biết…
- … vì vậy chúng tôi chỉ còn cách phải chiếm được Alagaesia, trừ khi bệ hạ muốn sáp nhập Varden vào hẳn Surda. Nhưng như vậy, bệ hạ phải cung cấp nhà cho hàng mấy ngàn con người đã theo tôi từ Farthen Dur tới đây. Điều đó chắc sẽ không làm vui lòng thần dân của bệ hạ. Dù chọn lựa phương án nào, xin bệ hạ quyết định ngay. Vì tôi e nếu bệ hạ tiếp tục trì hoãn, Varden sẽ phân tán thành những toán nhỏ, không thể kiểm soát nổi.
Cô cố dịu giọng để không giống như một lời hăm dọa. Tuy nhiên rõ ràng nhà vua không hiểu ẩn ý của Nasuada. Ông ta bảo cô:
- Thân phụ tiểu thư không bao giờ để cấp dưới vượt khỏi vòng kiểm soát của ông. Nếu muốn tồn tại trong địa vị lãnh đạo Varden, tôi tin là tiểu thư cũng sẽ làm được như vậy. Còn việc thu xếp của chúng tôi, không thể làm gấp rút được. Tiểu thư ráng đợi khi nào chúng tôi sẵn sàng.
Nasuada nắm chặt thành cửa sổ, mạch máu trên lưng bàn tay nổi phồng lên, nhưng cô không để giọng nói biểu lộ chút tức giận nào:
- Nếu vậy… bệ hạ có thể cho Varden vay thêm vàng để mua lương thực không?
- Không. Tôi đã đưa cho tiểu thư tất cả tiền bạc của tôi rồi.
- Vậy thì… chúng tôi sẽ ăn bằng gì đây?
- Tôi đề nghị, tiểu thư phải tự xoay sở thôi.
Phẫn nộ, nhưng Nasuada nở nụ cười rạng rỡ nhất và vừa giữ nguyên nụ cười vừa trừng trừng nhìn cho đến khi Orrin phải cảm thấy bối rồi. Lúc đó cô mới cúi mình chào như một tì nữ:
- Tiện nữ xin cáo lui. Hy vọng cho đến cuối ngày hôm nay, bệ hạ sẽ vẫn còn cảm thấy thú vị về buổi chuyện trò này.
Orrin lúng búng trả lời, nhưng Nasuada đã lách qua mấy cái bàn bước ra phía cửa. Cánh tay áo của cô vướng vào một bình ngọc, làm cái bình đổ vỡ, chất lỏng màu vàng tràn lan trên mặt bàn đá. Tay áo phải và váy của cô bị ướt sũng.
Farica hấp tấp bước theo nữ chủ về phòng.


Gợi ý từ sợi chỉ


Mở tung cửa phòng, Nasuada chạy tới bàn làm việc, buông mình xuống ghế. Mắt cô như mờ đi không nhìn thấy gì chung quanh. Nhịp thở dồn dập, trong đầu cô chỉ vang lên một ý nghĩ: “Mình thất bại rồi.”
- Tiểu thư, coi chừng tay áo.
Nasuada giật mình nhìn xuống.Farica rối rít dùng giẻ lau phủi mạnh lên cánh tay phải của chủ nhân. Một luồn khói khét lẹt bốc ra từ ống tay áo. Hốt hoảng, cô đứng bật khỏi ghế, xoay tay tìm chỗ cháy. Cánh tay áo và một góc váy của cô đang mủn ra thành tro trắng.
- Cởi lẹ cho ta.
Vừa nói, Nasuada vừa giang tay, cô sđứng vững để Farica tháo giải đai và cởi từng nút áo choàng.
Chỉ còn đôi dép và bộ áo lụa trên mình, Nasuada đứng bên bàn thở dồn dập vì hốt hoảng, tuy nhiên cô cũng mừng vì giải đai áo đắt tiền dù bốc mùi khét nhưng vẫn còn nguyên vẹn.
Farica hất cái áo dưới đất bằng mũi giày, lèm bèm hỏi:
- Thứ quỷ quái gì mà lại bốc cháy thế này?
- Ta đã làm đổ bình nước thuốc của Orrin trong phòng phí nghiệm.
Nasuada bàng hoàng nhìn tấm áo do những người đàn bà lùn trong hoàng gia Ingeitum đã dệt tặng riêng cô nhân ngày sinh nhật. Đây cỹng là cái áo đẹp nhết để cô có thể mặc mỗi khi xuất hiện trước mọi người. Với tình hình tài chính eo hẹp của Varden hiện nay, Nasuada không đủ khả năng mua một cái áo khác được.
Farica lục trong giỏ may, lấy cái kéo, lắc đầu nói:
- Cái áo này vải đẹp quá, để tôi cắt bỏ những chỗ bị cháy thôi.
Chưa hết khó khăn này, lại dồn dập thêm khó khăn khác làm Nasuada tức bực đến nghẹn lời:
- Lấy gì để mặc khi vào triều đây?
- Hay là tiểu thư mặc cái áo bằng lụa vậy.
- Xuất hiện trước vua Orrin và đám quý tộc của ông ta bằng cái áo tầm thường như vậy sao?
- Tiểu thư cứ để tôi thử xem. Tôi đảm bảo sẽ sửa chữa thành một cái áo sang trọng gấp đôi áo cũ.
- Ôi! Không được đâu! Đừng bắt ta làm trò hề trước mặt họ. Còn kẻ nào nể trọng, khi thấy ta mặc một cái áo vá víu như thế chứ.
Người tì nữ nghiêm nghị nhìn Nasuada:
- Tiểu thư yên tâm. Tôi bảo đảm khi tôi sửa xong, tiểu thư sẽ có một cái áo làm các vị phu nhân phải giật mình và bắt chước kiểu mẫu.
Mở hé cửa, Farica đưa những mảnh vải bị cháy cho một người lính gác:
- Tiểu thư ra lệnh đốt ngay những thứ này. Không được hé răng cho ai biết. Rõ chưa?
Khi Farica quay vào, Nasuada mỉm cười bảo:
- Không có em, ta thật tình không bếit xoay trở thế nào.
- Đa tạ tiểu thư quá khen. Tiểu thư vẫn giải quyết nhiều việc khó khăn hơn việc vặt này gấp ngàn lần.
Sau khi mặc bộ áo săn màu xanh, dù phát ngấy những lời khuyên của nhà vua, Nasuada cũng đành tạm gác công việc thường ngày để phụ cùng người tì nữ gỡ từng đường chỉ của thân áo còn lại. Vừa làm Nasuada vừa tâm sự cùng Farica về vấn đề tài chính bế tắc của Varden, hy vọng người tì nữ có thể đưa ra giải pháp nào không.
Nhưng nghe xong, Farica chỉ biết chép miệng thở dài:
- Chung quy mọi vẫn đề trên đời muốn giải quyết thì cần phải có tiền. Nếu có tiền, có lẽ chúng ta không cần phải đánh cũng có thể lật Galbatorix khỏi ngai vàng của lão.
Nasuada cầm chiếc đai áo lên ngắm nghía. Đây là phần đáng giá nhất của cái áo. Không chỉ đòi hỏi sự khéo léo, mà còn cần thời gian và kiên nhẫn. Một cái đai rua cần phải rút từng sợi chỉ, rồi kết thành từng hoa văn. Tốn rất nhiều thời gian. Mấy tháng trời mới có thể hoàn thành một dải đai như thế này. Vì vậy, chúng được bán theo cân lượng, giá trị ngang ngửa với bạc vàng.
Cô chợt nhớ tới những lời nói của vua Orrin, mong có phép thuật để nghiên cứu về thiên nhiên; cô cũng nhớ tới Triana, người phụ nữ chỉ huy Con-đường Lãng-du từ sau khi cặp sinh đỗi chết, và cô nhớ lại những lời cắt nghĩa về nguyên tắc phép thuật của một vài pháp sư nói với cô, năm cô mới lên năm sáu tuổi.
Nasuada chợt đứng dậy, vải áo từ trên đùi rơi lả tả xuống sàn. Cô bảo Farica:
- Gọi ngay Trianna đến đây. Dù cô ta đang làm gì, cũng bảo tới gặp ta ngay.
Farica nhíu mày thắc mắc, nhưng vẫn cúi đầu, ra khỏi phòng.
- Cám ơn, Farica.
Nasuada lẩm bẩm với căn phòng trống. Cô biết người tì nữ miễn cưỡng tuân lệnh, vì chính cô cũng cảm thấy không thoải mái mỗi khi tiếp xúc với những kẻ sử dụng phép thuật.Thật ra, cô chỉ tin cậy một mình Eragon, vì đó là một kỵ sĩ (dù điều đó cũng chưa hẳn là bằng chứng của sự trung thành, chẳng hạn như trường hợp Galbatorix), và vì Eragon đã tuyên thệ với cô. Quyền lực của pháp sư và phù thủy luôn làm cô e ngại. Cứ nghĩ đến chuyện, chỉ với một lời nói đủ để giết chết một con người, đủ để xâm chiếm tư tưởng người khác; và những trò gian ngoan, lừa lọc, trộm cắp do họ gây ra gần như thách thức xã hội mà không có cách nào bắt tội được họ, làm Nasuada khiếp sợ. Làm sao ổn định luật pháp, khi sống trà trộn với những thành phần có thứ uy quyền đặc biệt như thế? Trong khi nền tảng của tổ chức cách mạng Varden là chống đối triều đình, để xử tội một con người đã lạm dụng khả năng phép thuật mà gây ra biết bao nhiêu tội ác. Những đau khổ mà dân chúng đang phải hứng chịu, chỉ vì không có ai đủ sức mạnh để hạ gục Galbatorix. Lão còn dai dẳng sống thêm nhiều năm nữa!
Nhưng dù không ưa phép thuật, Nasuada biết mình vẫn phải đóng vai trò quyết định trong việc trừ khử Galbatorix, vì vậy vẫn phải nhân nhượng mọi thành phần cho đến khi bảo đảm được thắng lợi sau cùng. Tới lúc đó cô mới có thể giải quyết được những vấn đề họ gây ra.
Nghe tiếng gõ cửa, Nasuada vội sửa soạn mọt nụ cười hòa nhã và bình tĩnh thủ thê,s giữ vững tinh thần như cô đã từng được huấn luyện.
- Mời vào.
Cánh cửa mở rộng và cô gái phù thủy bước vào phòng., Mái tóc nâu rối bù chứng tỏ cô ta vừa ra khỏi giường. Trianna cúi chào theo kiểu người lùn:
- Tiểu thư cho gọi tôi?
- Phải, Ta muốn biết quy tắc quan trọng nhất của phép thuật là gì?
Trianna ngẩng cao đầu trước cái nhìn của Nasuada:
- Đó là, muốn làm bất cứ điều gì bằng phép thuật, phải tùy thuộc vào nội lực.
- Vậy thì cô có thể làm được những gì trong khả năng cổ ngữ của mình?
- Tiểu thư hỏi làm gì? Tôi tin chắc, đó là những điều căn bản mà tiểu thư đã từng biết.
- Đúng vậy. Nhưng ta muốn biết chắc là ta đã hiểu một cách tường tận vấn đề.
Vẫn ngồi trên ghế, Nasuada nghiêng mình nhặt lên cái áo đã bị cắt một phần, để Trianna nhìn thấy dải đai bị hỏng:
- Vậy với khả năng của mình, cô có thể niệm chú để tạo ra một dải đai rua được chứ?
Vành môi thâm của ả phù thủy nhếch một nụ cười ngạo nghễ:
- Con-đường Lãng-du có nhiều chuyện phải làm hơn là sửa chữa quần áo cho tiểu thư. Phép thuật của chúng tôi không đến nỗi quá tầm thường để làm những chuyện vặt vãnh này. Tôi tin rằng tiêu thư sẽ kiếm được một cô thợ may nào đó để đáp ứng đòi hỏi của tiểu thư…
- Im ngay. Ta thấy cần phải cho Con-đường Lãng-du một bài học như Hội-đồng Tiền-bối. Ta tuy còn trẻ, nhưng không phải là đứa con nít đòi hỏi được nuông chiều. Ta hỏi về đai rua là vì muốn sản xuất cấp kỳ hàng loạt bằng phép thuật, để ủng hộ Varden, bằng cách bán giá rẻ trên toàn lãnh thổ Alagaesia. Thần dân của Galbatorix sẽ đổ tiền bạc ra mua, và chúng ta sẽ dùng đồng tiền đó để sống còn.
- Nhưng nghe vô lý quá. Tiểu thư không thể trang trải phí tổn chiến tranh bằng mấy cái đai áo được.
Trianna phản đối, ngay cả Farica cũng tỏ ra nghi ngờ. Nasuada nhướng cao mày, hỏi:
- Tại sao không? Trái lại, những phụ nữ chưa từng có khả năng mua một dải đai, sẽ vui mừng nhảy lên vì những cái đai giá rẻ. Vợ của những nông dân, ước ao được xuất hiện trước mọi người như một người giàu có, sẽ sẵn sàng bỏ chút tiền ra mua ngay. Kể cả những nhà quý tộc, những thương gia cũng sẽ đổ tiền bạc ra, vì đai của chúng ta đẹp hơn, tinh xảo hơn những cái đai được làm ra từ những con người bình thường. Ta mong cô có đủ tài nghệ để làm điều đó.
Trianna vò tóc, nhăn nhó hỏi:
- Tiểu thư nghi ngờ khả năng tôi?
- Cô làm được chứ?
Trianna cầm dải đai quan sát, rồi bảo:
- Rất có thể. Nhưng để tôi thử trước rồi sẽ trả lời tiểu thư.
- Tiến hành ngay đi. Từ nay, đó là phần hành quan trọng nhất của cô. Hãy tìm một thợ làm rua giỏi nhất làm cố vấn cho cô từng chi tiết.
- Tôi hiểu, thưa tiểu thư.
Nasuada dịu giọng:
- Rất tốt. Tôi cũng muốn cô tuyển chọn những phần tử tài năng nhất trong Con-đường Lãng-du và cùng họ phát minh ra những phương pháp phép thuật hữu hiệu nhất để giúp Varden. Đó là trách nhiệm của cô.
- Xin tuân lệnh.
- Giờ cô có thể lui ra. Báo cáo cho tôi vào sáng mai.
Sau khi Trianna cúi chào, ra khỏi phòng, Nasuada nhắm mắt khoan khoái tận hưởng niềm hãnh diện về những gì cô vừa hoàn tất. Cô biết không ai, kể cả cha cô, lại nghĩ ra giải pháp này. Nasuada thầm nhủ: “Đây là đóng góp của mình cho Varden. Ước gì cha biết điều này”, rồi cô nói lớn thành lời:
- Tôi làm em ngạc nhiên, phải không, Farica?
- Tiểu thư luôn làm em kinh ngạc.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn