Trâm yêu quý cái yên tỉnh của tâm hồn, cùa đời đang sống, cố gắng giử gìn nó như một tặng vật của Thượng đế ban cho.
Thế rồi vào một buổi sáng chủ nhật, hoc sinh nội trú đều ra ngoài, Trâm đang ngồi đọc sách trong thư viện trường,tai văng vẳng nghe tiếng đàn piano ở phòng học nhạc. Chuông điện rung lên theo số hiệu 2-3 của Trâm. Ra phòng khách, thì được cho biết có người quen muốn gặp.
Trâm đẩy nhẹ cửa, người đàn ông đứng quay lưng, mắt hướng ra ngoài cửa sổ, nơi đây có hàng thông xanh biết, lấp lánh vài nguồn nắng rơi. Trâm thảng thốt. Người đàn ông quay lại, Nghị, Trâm đưa tay đẩy mạnh khép chặt cánh cửa phòng khách, như muốn nhốt lại cảm giác ngở ngàng vừa ùa đến. Bóng hay người, người đàn ông tên là Nghị chậm rải quay lại, nhìn Trâm, rồi thong thả ngồi xuống.
Nghị ngày xưa trở về, của những ngày đạp xe lên chùa Thiên Mụ nhìn qua bên kia dãy núi voi Long Thọ, nơi có người đi không về. Của nhưng chiều lên núi Ngự Bình ăn bánh bèo, mà đường về băng qua những lối mòn đầy cỏ may.
Tuy xa nhau khá lâu, kể củng tám, chín năm, Trâm không còn là cô nữ sinh Đồng Khánh ngày ấy, Nghị không còn là anh hoc sinh Quốc Học. Số phận chia đôi, nhửng kỷ niệm xưa ràng buộc với nhau, quấn quýt như nhửng giây leo ký sinh vào tâm hồn người con gái.
Trâm cúi xuống nhìn đôi tay mình đan vào nhau, không biết nói như thế nào với Nghị. Tưởng là không bao giờ còn gặp lại nhau. Những năm sống lặng lẻ, âm thầm. Nghị là một hạnh phúc vô vọng đối với Trâm, vô vọng mà luôn tưởng nhớ. Nghị trong tiềm thức, hay Nghị đang là một hiển nhiên trước mặt, đều là sự chiếu lại của một vật ảo, như không có thực trong đời sống của Trâm.
- Anh mới ở Sài Gòn lên ?
- Không, anh ở đây đả hai tháng nay
Trâm im lặng, Nghị ở đây đã hai tháng nay mà mãi hôm nay mới ghé thăm.
-Thế anh mới có địa chỉ của em?
- Không, anh biết từ năm ngóai.
Trâm yên lặng, câu nói của Nghị từ năm nào do anh Hòa kể lại:"mùa đông, vườn nhà Trâm, bông Hải Đường vẩn nở" và bây giờ,"anh biết từ năm ngoái", gây nên một êm dịu lan tỏa lòng Trâm. Nghị vẩn nhớ đến mình
- Anh có việc ở trên này à?
Nghị trả lời:
- Anh bị giử....
Trâm chợt nhớ, vừa rồi báo chí có nói các biến cố chính trị ở Sài Gòn. Một số chính khách và tướng lảnh thường bị đưa lên tạm giử ở Pleiku và Đà Lạt.
- Thế anh được tự do đi lại à?
- Họ không cấm, nhưng có lẻ chỉ loanh quanh trong thành phố thôi.
Trâm cố giử lại tiếng thở dài, Nghị nhìn qua cửa sổ.
Trâm hỏi:
- Hiện giờ anh ở đâu?
Nghị đưa tay chỉ phía đồi núi nhấp nhô, ẩn hiện những ngôi nhà, nói:
- Trong một biệt thự phía ấy
Trâm muốn biết hỏi thêm:
- Anh ở một mình hay ở với ai?
- Một mình với vài người lính canh
Thừa lúc Nghị đang nhìn ra ngoài trời, Trâm chăm chú nhìn anh. Người đàn ông ngồi đó, chịu đựng trước mọi khó khăn, thách đố, kể cả lăng nhục. Người mà Trâm yêu từ ngày mới lớn. Trâm biết Nghị rất thương mình, nhưng tại sao không được ở gần nhau, sống với nhau như đời vợ chồng.
Một chút tự ái thời tuổi trẻ. Nghị vào Sài Gòn đi học, rồi lấy vợ trong đó, người vợ vừa đẹp vừa giàu. Không có một lời giải thích, để trả thù? Anh thù ai? Mẹ hay là xứ Huế.
"Chỉ có mình em, riêng em chịu đựng sự trả thù ấy. Em đã lớn lên trong một xứ Huế với những định kiến giai cấp,giòng họ, lại còn cả một hố sâu tôn giáo", Chúa, Phật, các giáo chủ đã tạo ra tôn giáo, để con người bớt khổ, được hạnh phúc, và để thăng hoa đời sống. Nhưng loài người thường xử dụng nó để làm khổ lẩn nhau.
Nghị từ từ quay lại, Trâm chớp mắt, hai người lại yên lặng trong ý nghỉ riêng tư về nhau. Cả hai đều như không muốn bày tỏ, bởi có nói củng không cùng.
Nghị nhìn đồng hồ đã thấy trưa, đứng dậy ra về, Trâm tiển anh ra cổng, Nghị nói:
- Anh xin cám ơn em
- Anh cám ơn về chuyện gì? Trâm hỏi
- Cám ơn sáu chiếc khăn tay ngày xưa
Trâm mĩm cười, những nụ cười không còn ý nghỉ của niềm vui, Trâm thong thả nói:
- Tặng anh món quà mà mãi gần chín năm sau, em mới nhận được lời cám ơn.
Nghị không nói gì thêm, anh lẳng lặng đi bộ xuống đồi, Trâm trở vào. Một lần gặp, đã bao năm trôi qua. Rồi cách biệt Trâm tưởng chừng Nghị vừa thoảng hiện trong giấc mơ, tỉnh dậy, Nghị không còn. cánh cửa gổ nặng nề từ từ đóng lại, như khép kín cuộc đời Trâm. Còn gặp lại nhau hay không, Trâm không biết. Cũng như không biết đời mình sẽ thế nào.
Năm 1975...
Khoảng ra Tết, đi dạy về, lên phòng thì Trâm nhận được điện tin đánh khẩn với nội dung: "Đừng ở lại Đà Lạt, tìm cách về Sài Gòn càng sớm càng tốt".
Trâm nghỉ là Mẹ đánh cho mình, Trâm hấp tấp ra Air Việt Nam mua vé máy bay bay về Sài Gòn. Thấy xung quanh người ta bắt đầu lo sợ, bàn tán về tình hình. Đến Sài Gòn, bà Phán ngạc nhiên, mừng rở hỏi tại sao biết được mà về sớm vậy.
Bức điện tín không phải Mẹ gửi. Vậy là Nghị. Trâm cảm động.
Đến 30 tháng 4, Sài Gòn mất, sự thay đổi làm lộn nhào hết mọi sự chung quanh. Chắc chắn việc dạy học của Trâm không thể tiếp tục. Đối với chế độ mới, môn văn chương trong chương trình giao khoa củ là môn học phản dong.
Hòa đã vào được Sài Gòn, anh đến nhà Trâm với bộ mặt còn thất thần vì cuộc di tản từ Huế.
Trâm hỏi:
- Anh làm cách nào mà vào được trong này?
Hòa trả lời:
- Nhờ một người của Nghị đưa vào bằng tàu thùy, hiện thời anh ở nhà Nghị.
Trâm nói:
- Hay anh đến đây ở với Mẹ em và em cho vui. Nhà anh Nghị chắc cũng đông người.
Hòa trả lời:
- Nhà Nghị rộng, vợ con đi rồi.
Trâm chợt yên lặng, không nói tiếp.
Hòa nhìn Trâm hỏi:
- Cô có muốn đi không?
- Em chưa có ý định, với lại bây giờ bỏ mẹ em một mình, em không yên tâm.
Hòa viết địa chỉ nhà Nghị, rồi đưa cho Trâm, nói thêm:
- Nếu cô muốn gặp thì đến.
- Cho em gởi lời thăm anh ấy, và cám ơn cái điện tín.
Trâm cất mảnh giấy địa chỉ, hẹn với Hòa thong thả sẻ đến thăm.
Những người bà con của bà Phán từ ngoài Bắc lần lượt vào Nam nhận họ hàng. Một người cho biết chính xác là Ba Trâm đã hy sinh ở trận đánh biên giới Hạ Lào năm 1973. Lúc ấy ông đang mang quan hàm Thượng Tá. Họ còn cho biết ông đã có thêm vợ và một người con trai hiện đang công tác ở Hà Nội.
Bà Phán nghe tin tức chồng, lặng lẻ thở dài. Trâm hiểu sự câm nín của Mẹ là do sự chịu đựng lâu nay, làm chai lỳ hết mọi cảm xúc. Trâm không thấy Mẹ buồn, tuần sau bà Phán lên nhả thờ xin một cái Lể. Cầu nguyện cho người đã chết.
Đối với Trâm từ bé đến lớn, không thấy người cha bên cạnh, cho nên khi biết tin cha mất, Trâm cũng không buồn, chỉ nghỉ rằng mình có một người cha, bỏ gia đình, ra đi vì lý tưởng, nay đả chết.
Thỉnh thoảng Trâm lấy cái địa chỉ của Nghị ra nhìn, rồi lại cất đi. Từ đây đến đó cũng chỉ mất 15 phút xe đạp, nhưng sao Trâm cứ bâng khuâng ngập ngừng. Lần vừa qua, anh Hòa ghé lại cho biết đang dự tính chuyện trốn đi. Có lẻ là một gợi ý nào do của Nghị, lòng tự ái làm Trâm thấy thương cho mình. Nhưng đồng thời Trâm mong gặp Nghị, thật lâu quá không gặp. Cái nôn nao thấy lại Nghị làm Trâm không tự chủ nổi. Trâm quyết định, chiều mai đến, thăm luôn anh Hòa.
Căn nhà Nghị ở, ngay trên con đường lớn, căn nhà Trâm vẩn thường đi qua đi lại nhiều lần, không ngờ nơi ấy có Nghị ở.
Trâm bấm chuông, mải một lúc mới có người đàn bà ra mở, hỏi vọng:
- Cô muốn hỏi ai?
- Cho cháu hỏi nhà ông Nghị.
- Cô là ai?
Trâm ngập ngừng:
- Dạ,cháu là người quen ông Nghị, em anh Hòa.
Nghe giọng Huế, người đàn bà mở cổng mới vào nhà. Căn nhà thật vắng, Trâm nhìn quanh.
Người đàn bà nói:
- Ông ấy đi rồi.
Trâm giật mình, hỏi lại:
- Anh ấy đi đâu?
Giọng người đàn bà nhỏ hơn:
- Đi vượt biên, có lẻ đi được.
Trâm tựa lưng vào tường, người đàn bà tiếp tục nói:
- Có cả ông Hòa cũng đi luôn, đi được tháng nay.
Trâm từ từ ngồi xuống chiếc ghế nệm bọc da. Lòng hoang lạnh đến lạ kỳ. Anh Nghị ơi, khi anh còn ở nơi đây, dù không gặp em cũng yên lòng. Nhưng biết anh đi rồi, em mới cảm thấu được nổi cô liêu còn lại nơi em.
Hai bàn tay Trâm cầm lại với nhau, mong ủ cho nhau một chút hơi ấm. Trâm muốn hít hết cả khối không khí nơi căn nhà này vào ngực mình, để giử lấy trong đó, một ít hơi thở còn sót lại đâu đây của Nghị. Cái ghế này cách đây một tháng anh đã ngồi, cái bàn kia, cách đây một tháng, anh đả viết. Bây giờ em mới hiểu, em yêu anh biết bao nhiêu. Yêu hơn những nổi chịu đựng đã yêu.
- Cô uống nước cho mát.
Trâm quay lại cầm ly nước, cám ơn:
Người đàn bà lại tiếp tục:
- Tôi là người giúp việc cho ông bà Nghị, ở đây cũng lâu lắm rồi, nhưng không thấy cô lại chơi.
Trâm trả lời:
- Vì ở xa, nên ít có dịp ghé thăm.
Rồi Trâm hỏi thêm:
- Bà Nghị đi đã lâu chưa?
- Bà Nghị và cậu con đi từ trước Tết qua Thụy Sĩ.
Trâm tò mò về người vợ Nghị, hỏi:
- Bà ấy chắc đẹp và hiền.
- Vâng , bà ấy rất tử tế. Nhưng không biết tại sao ông bà không hợp nhau. Ông cứ bận việc đi hoài ít khi ở nhà. Còn bà thì hay đem con về bên Ngoại, thành thử mọi chuyện đều giao cho tôi cả.
Trâm lắng tai nghe bà quản gia kể chuyện. Không biết tại sao Nghị không tìm được hạnh phúc bên người vợ đáng quý như thế.
- Á, cô phải là cô Trâm không?
Trâm ngạc nhiên gật đầu. Người đàn bà với tay lấy trên kệ sách một cái phong bì lớn đưa cho Trâm, rồi nói:
- Ông Nghị có dặn tôi, sau khi ông đi, nếu có cô Trâm đến đây tìm ông hay ông Hòa thì đưa lại. Còn không, tôi phải tìm địa chỉ nơi bì thư để giao tận tay cho cô ấy.
Trâm mở ra, Một tấm hình của Trâm được phóng lớn, hình ngày xưa lúc Trâm còn ở ngoài Huế. Khuân mặt bầu bỉnh, miệng cười tươi, nhưng đôi mắt thật buồn. Trâm nhớ hình nay đã được tiệm hình sang lớn treo làm mẩu ở phía ngoài. Có lẻ năm Nghị ra Huế đi ngang qua thấy, vào xin hoặc là mua lại. Nghị vẩn giử được cho đến ngày nay. Nước màu đã bạc đi nhiều chổ. Trâm lại sờ thấy trong bao thư. lấy ra hai chiếc khăn tay bằng vải phin trắng có thêu chử N. Khăn tay đã nhuộm màu vàng củ. Trâm cầm đưa lên mủi, chỉ còn lại mùi ẩm mốc của thời gian, Trâm thấy ngẹn ở cổ, cay cay ở mắt. Những giọt nước rơi xuống, trên kỷ niệm của mười bảy năm về trước.
Phía sau tấm hình, Trâm thấy nét chử nghiên nghiên của Nghị, mấy câu thơ:
Bến sông xưa,
Có con thuyền ngủ muộn
Bông cỏ may
Che khuất nẻo đường về
Hải Đường ơi,
Nghìn năm anh vẩn đợi
Mổi sáng đông về hướng mưa bay....
Nghị ghi thêm ngày tháng trước khi đi, Trâm nhìn lại mình trong tấm hình xưa.
Ngoài trời, buổi chiều bắt đầu úa. Một ngày trôi qua. Một tháng, một năm, mười năm, hai mươi năm. Thời gian không còn ý nghỉa, biên giới địa cầu dù có phân ly đôi người, đôi ngã, cái chết dù có tách rời mổi người một cỏi. Thì tình yêu là ngọn nến lung linh sáng mai, sưởi ấm cho một mảnh đời riêng Trâm.
"Em xin cầu nguyện cho anh mọi sự an lành ở nơi ấy. Một nơi không có em". Trâm nói thầm với mình.
|