
05-13-2014, 05:58 AM
|
 |
thích gõ đầu trẻ
|
|
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
|
|
Cột đồng chưa xanh (tt)
Sau bữa ăn bắt đầu buổi biểu diễn. Ngọc Cầm ôm cây đàn đáy bắt đầu so dây, đánh vài thanh điệu não nùng. Lý Thuỷ Bình nhìn thấy cây đàn có hình dáng lạ kỳ không giống những loại nhạc khí nàng thường thấy như đàn tranh, đàn nguyệt hay đàn tỳ bà xuất phát từ Trung hoa, cũng không giống những cây đàn độc đáo của dân ta như đàn bầu hay đàn nhị. Đàn có một bầu đàn tức là thùng đàn hình bốn cạnh nhưng không vuông vức mà cạnh trên lớn hơn đo khoảng bảy tấc, cạnh phía dưới nhỏ ước chừng năm tấc, hai cạnh bên dài một thước. Thành đàn bằng gỗ vang cứng nhưng mặt đàn bằng gỗ ngô đồng có khoét một lỗ hình chữ nhật và gắn một cái thú để móc dây. Cần đàn dài ba thước có đến mười hai phím bằng tre dày và cao, phần đỉnh dài hơn phần chân phím. Tính từ đầu cần trở xuống, phím đầu tiên không gắn vào sơn khâu như nhiều nhạc cụ khác mà lại nằm ở giữa cần đàn. Đầu đàn hình lá đề, hốc luồn dây có ba trục chỉnh dây. Dây đàn có ba sợi bằng tơ se. Không nhịn được tò mò, nàng buột miệng hỏi:
_ Tại sao lại gọi là đàn đáy thế nhỉ?
Ngọc Cầm mỉm cười trả lời:
_ Thưa công tử, vốn dĩ thùng loại đàn này không có đáy nên được đặt tên chữ là vô để cầm, nghĩa là "đàn không đáy". Cái tên nôm na ban đầu "đàn không đáy" dần dần được gọi tắt là đàn đáy, lâu ngày thành tên.
Mạc Quân Tử hỏi:
_ Sự tích ra đời của đàn như thế nào, Ngọc Cầm cô nương có thể thuật cho anh em chúng tôi được tường tận chăng?
Ngọc Cầm nói:
_ Dạ thưa công tử, theo sự tích kể lại thì Tổ Đinh Lễ tự là Nguyên Sinh người làng Cổ Đạm, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tính tình phóng khoáng, thích ca hát. Một hôm vào rừng chơi Tổ gặp hai cụ già tự xưng là Lý Thiết Quải và Lã Động Tân. Hai vị tiên đưa cho Tổ một khúc ngô đồng và một tờ giấy có vẽ hình đàn, bảo về nhà cứ theo đấy mà đóng. Tổ y lời làm thành chiếc đàn vô để cầm, khi khảy tạo ra âm thanh rất hay, tiếng đàn làm người nghe vui vẻ, quên mọi mệt nhọc, giải trừ muộn phiền. Từ đó Tổ cùng vợ mang đàn đi ngao du khắp nơi, truyền nghề ca hát và môn ca trù được gắn liền với chiếc vô để cầm do người sáng chế.
Thuỷ Bình hỏi:
_ Thế ca trù chỉ dùng mỗi nhạc cụ vô để cầm thôi sao?
Thấy hai chị em Ngọc Cầm tỏ vẻ ngạc nhiên, Mạc Quân Tử vội đỡ lời:
_ Lý huynh đây vốn ở trong Kinh ra, chưa từng biết đến môn hát này, xin hai cô nương vui lòng giới thiệu cho.
Ngọc Thanh đáp:
_ Dạ thưa công tử, môn ca trù cần đến ba thứ nhạc cụ, ngoài vô để cầm ra thì nhạc cụ thứ hai là bộ phách gồm phách và sênh, còn gọi lá phách và bàn phách. Hai thứ này cũng làm bằng gỗ hoặc tre. Thông thường một bộ gõ chỉ gồm hai phách nhưng ca trù sử dụng đến ba phách, hai chiếc khi gõ luôn chập làm một gọi là phách con, phách tròn còn lại gọi là phách cái. Khi ca nương hát phải gõ phách vào sênh tạo ra âm thanh làm nhịp. Gõ phách phải tuân theo những khuôn khổ quy định và tiếng ca cũng phải nằm trong khổ phách ấy. Còn nhạc cụ thứ ba cũng quan trọng là chiếc trống chầu do quan viên đánh. Nhạc cụ này dùng để ngắt câu, giục hát, khen câu thơ hay, thưởng giọng ca ngọt, cung đàn vi diệu, nhịp phách tuyệt vời. Quan viên là người cầm chầu, dùi trống gọi là roi chầu. Phải là người tinh thông âm luật, sành âm nhạc và văn chương mới cầm chầu được trong cuộc hát, để khen chê cho đích đáng và chính xác. Cũng như gõ phách, người đánh trống chầu cũng phải tuân theo những quy luật riêng, cách đánh riêng.
Mạc Quân Tử nói:
_ Hay nhỉ, giờ xin mời hai vị cô nương bắt đầu.
Ngọc Cầm hỏi:
_ Thế trong hai công tử thì ai cầm chầu đấy ạ?
Thuỷ Bình đáp:
_ Dĩ nhiên là Mạc huynh rồi, tôi có biết gì về môn này đâu?
Ngọc Thanh nháy mắt tỏ vẻ tinh quái:
_ Quan viên cầm chầu thì phải thưởng người ca đấy nhé!
Thuỷ Bình ngạc nhiên:
_ Thưởng bằng cách nào?
Mạc Quân Tử giảng giải:
_ Mỗi hồi trống gõ ứng với một thẻ thưởng gọi là trù ném vào thau đồng để thưởng cho đào nương. Trù là thẻ bằng tre trên có ghi số tiền hoặc nếu không ghi thì quy định sẵn. Sau buổi hát thì đếm theo thẻ mà tính tiền thưởng phải trả cho ca nương và nhạc công. Người quyết định cho việc thưởng này là quan viên cầm chầu. Tiếng trống thể hiện trình độ thẩm âm của người thưởng thức. Cầm chầu phải công minh, nếu thưởng phạt sai sẽ bị chê cười, bởi vậy tục ngữ dân gian mới có câu rằng:
“Trên đời có bốn cái ngu
Làm mai lãnh nợ gác cu cầm chầu”
Mọi người nghe đến đây đều cười ầm cả lên. Hai nàng Ngọc Thanh và Ngọc Cầm cùng nhoẻn miệng cười, trông như hai đoá hoa hàm tiếu nổi bật giữa một vườn hoa kiều diễm. Thuỷ Bình cũng cười:
_ Mạc huynh cầm chầu cho vững đấy, chẳng khéo thì sạt nghiệp đến nơi!
Dù chỉ là nói đùa, nhưng trong âm hưởng câu nói của nàng hàm ý mát mẻ chua cay.
Trần Thập Nương nhìn hai người mỉm cười độ lượng. Chẳng cần phải suy đoán sâu xa nàng cũng thấu hiểu được tình cảm đặc biệt của cô cháu gái đã dành cho người bạn đường của mình. Nàng nghĩ thầm:
_ Phen này không chừng ta phải lãnh phần làm cái ngu thứ nhất đấy thôi!
Ái Hoa
(còn tiếp)
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)
|