Chương 26
Hộp thư bí mật trao đổi liên lạc thư từ giữa thằng Dũng và con bé Danh vẫn còn tác dụng trong mùa thi. Những lá thư mùa thi không còn nặng mùi thơ văn nữa mà chỉ còn là sự ta thán những nỗi khổ của kiếp học sinh. Dù là học sinh trường tư hay trường công, dù là trường Gia Long hay Petrus Ký cũng có nỗi khổ giống như học sinh Tân Văn, Nguyễn Bá Tòng... Mùa thi không phân biệt học sinh trường nào. Học sinh phải khổ vì thi! Đó là kiếp nạn của người học sinh trên toàn thế giới!
Sau những buổi thi là lời tâm sự của thằng Dũng với con Danh và ngược lại. Mà hình như là của con Danh nhiều hơn. Đây là năm cuối nó còn ngồi học ở Gia Long, nhưng sang năm nó phải học ở một trường tỉnh lẻ nào đó mà ba nó được thuyên chuyển đến để làm trưởng ty bưu điện, cả gia đình nó, ngay cả ba nó - dù được lên chức từ trưởng ty bưu điện một quận trở thành trưởng ty bưu điện tỉnh - cũng không muốn nhưng vì công vụ ông không thể từ chối. Bao nhiêu năm gắn bó ở thành phố, năm năm ở trường tiểu học Bình Tây, ba nãm ở trường Gia Long bây giờ đi đến một nơi nào đó mà con Danh chưa biết mình sẽ được chào đón ra sao làm nó chạnh lòng. Những lá thư mùa thi cuối cùng của con bé Danh gửi cho thằng Dũng là những lời tâm sự không chỉ dành cho mùa thi mà là chuẩn bị cho một cuộc chia tay.
Những tâm sự của con bé Danh làm thằng Dũng nao lòng. Nó đã biết việc chia tay não lòng như thế nào qua những truyện mà nó đã học, đã đọc. Theo bác Sơn Nam nói ngày xưa người ta chia tay thường là ở những bến sông hay đường cái quan, ngoài cổng làng vì lúc ấy đường thủy và lộ là phương tiện di chuyển, xê dịch duy nhất. Thơ văn thường nói về những cảnh chia tay ở bến sông như là một điển cố hơn là một điểm cụ thể. “Sông Tương một giải nông sờ/ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia" là hai câu trong Đoạn trường tân thanh mà nó đã học. Thời đại tân tiến đã có xe hơi, tàu hỏa, máy bay. Nhưng chia tay bằng tàu lửa là buồn nhất, ảm đạm nhất. Với tiếng hú của con tàu bắt đầu rời sân ga trong đêm vắng. Đêm vắng phải giá lạnh mới trữ tình lãng mạn. “ Tiếng còi trong sương đêm/ Nghe thiết tha u buồn..." Đó là trong tiểu thuyết. Loan chia tay Dũng trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh. Nhưng cuộc chia tay với con bé Danh chỉ là cuộc chia tay đi bằng xe đò Lục tỉnh vì từ Sài Gòn xuống Long Xuyên người ta chỉ đi bằng xe đỏ. Xe đò thì ít thơ mộng hơn nhiều, ít văn thơ học thuật so với đi xe lửa. Nếu có quyền nó sẽ cho mở lại đường xe lửa vì nghe nói ngày xưa đã có đường xe lửa từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho. Đã từng có tiếng còi tàu hú trong đêm ga hoang vắng ở Sài Gòn. Như mấy câu thơ trong bài Lộ trình, nó tưởng tượng ra cảnh ‘‘Sân ga buồn co ro/ Tàu khuya tiu nghỉu đứng./Người con trai lặng yên/ Vẫy tay làm tiễn biệt... ”
Chưa chia tay con Danh, mà ngay trong mùa thi, nên những lá thư mùa thi của thằng Dũng là những lá thư nói lên nỗi nhớ con bé Danh - dù là chưa đứa nào phải đi đâu cả. Thi sĩ thường ưa tưởng tượng mà có hay tưởng tượng mới là thi sĩ. Phải mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây. Thằng Dũng đang là dự bị thi sĩ nên cũng cho mình có cái quyền được tưởng tượng. Tưởng tượng không tốn đồng teng cắc bạc nào tại sao lại không tưởng tượng. Sau hai giờ thi môn toán, nhìn ra tượng đồng cụ Petrus Ký đang uy nghi nằm giữa sân trường nó nghĩ tới cảnh “Chửa xa nhau mà đã nhớ nhau. Nhớ nhau vì nỗi phải xa nhau. Xa nhau chi để cho nhau nhớ. Mà có xa nhau mới nhớ nhau. ” Những vần thơ của ông Phan Khôi mà nó đọc được trong bản vỗ tơi tả trong đám giấy báo đầy mực nham nhở, chờ đi nhúng mực xanh, cân ký cho những ông Tàu mua giấy vụn. Dù chỉ vài câu thơ sắp co chữ 12, phông chữ Avant gra-de trên mảnh giấy nhàu nát, còn nhiều lỗi morass chưa được qua tay thầy cồ nhưng đủ nói lên tâm trạng nhớ nhung của dự bị thi sĩ. Những lá thư mùa thi của thằng Dũng là những lá thư nho nhau vì phải chuẩn bị để xa nhau. Người đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn tôi bỗng dại khờ...
Những lá thư thường nằm trên nắp hộp thư gửi bảo đảm như là một hộp thư chết để trao đổi thông tin giữa hai điệp viên nên tuyệt đối bí mật. Sáng nay, trước giờ đi đến nhà in, thằng Dũng mang lá thư nó viết tối qua đến bưu điện để gửi thư không tem. Quả là làm quen với con gái trưởng ty bưu điện cũng đỡ tốn tiền gửi thư nên nó cũng thường xuyên trau luyện tài văn chương qua những bức thư gửi không cần dán tem. Trước kia, theo phong trào kết bạn bốn phương trên báo Phụ nữ Diễn đàn, nó cũng viết thư tìm bạn gái bốn phương trời với một cái tên cực kỳ thơ mộng là Hoài Mộng Nhân. Để gặt hái thắng lợi, nghĩa là viết thư với cùng một nội dung, rồi chịu khó ngồi chép lại khoảng chục lá thư để gửi về địa chỉ của “một người con gái sầu mộng”, “một tuổi thơ buồn..”, ”một em gái cô đơn..”... Gửi càng nhiều càng tốt. Vì gửi 10 thư mới hy vọng được một thư quay trở về. Bởi vì những “em gái sầu mộng, cô đơn, thích nghe nhạc Trịnh... sẽ nhận được mấy chục lá thư gửi về nên xác suất nhận được thư hồi âm là rất thấp. Đây là kinh nghiệm của thằng Thạch. Có lần nó giả làm một em gái mang tên Trần Thị Diễm Chu - dựa theo tên nhân vật trong một tiểu thuyết của Duyên Anh, cuộc đời buồn nhiều hơn vui, xấụ đẹp tùy người đối diện, thích nghe nhạc Trịnh” đăng lên mục “tìm bạn phương xa" báo Sài Gòn mới thì chưa đầy một tuần nó nhận được gần 50 lá thư cũng đầy hoàn cảnh tương tự đòi kết bạn gần xa. Ôi, nội dung giống nhau thì đã đành nhưng những lá thư cũng như anh em sinh đôi sinh ba những lỗi chính tả, câu cú lủng ca, lủng củng, với những nét chữ hứng lên là quẹo lên, quẹo xuống không theo một quy tắc nào cả.
Lợi nhất là thằng Dũng. Thằng Trần Thị Diễm Chu đống thư đầy nặng những tâm sự cô đơn, lỡ làng duyên bạc phận cho thằng Dũng lấy tem. Thằng Dũng lựa những con tem mà nhà bưu điện đóng dấu không rõ ràng rồi dùng gôm ngồi tẩn mẩn, tỉ mỉ bôi bôi xóa xóa. Chỉ trong một buổi chiều rảnh rỗi mà nó có thể phục hồi sinh được 18 con tem đã từ trần. Mỗi khi gửi thư tìm bạn tâm tình, thay vì mua tem mới, thằng Dũng dùng những con tem đã cạo sửa này coi như tiết kiệm được một số tiền đáng kể. Những tâm sự của nó trong những lá thư kết bạn tâm thư là những tâm sự thuộc loại sáng tác thì nó dùng tem giả để gửi đi đúng là một sự hòa hợp rồi, sức mấy mà bàn cãi.
Lên năm đệ tứ, nó không còn thời giờ cho những lá thư gửi bằng những con tem phục sinh với những tâm tình từ những tiểu thuyết diễm lệ đăng đầy trên các báo đó. Năm đệ tứ với những hăm dọa vô hình của cuộc đời học sinh sắp chuyển từ đệ nhất lên đệ nhị cấp - nghe rất là oai phong lẫm liệt. Nếu lên đệ tam thì đúng là lẫm liệt nhưng nếu rớt thì coi như là... bại liệt. Thi rớt là chữ không có trong tự điển của học sinh Petrus Ký! Mỗi đứa phải tự tâm niệm vì danh dự của tên trường mà tụi nó đang học, không ai ép buộc, thúc ép tụi nó. Chỉ là sự thúc ép vô hình của quá khứ. Những đàn anh đi trước đã tạo tên tuổi cho trường thì tụi nó phải đền đáp lại. Phải vậy thôi!
Nó viết những điều này trong những lá thư mùa thi - mùa của tuổi học trò. Nhiều nhà văn viết mùa phượng vĩ nở với tiếng ve kêu là mùa của tuổi học trò. Đối với thằng Dũng, đó là mùa chia tay. Mùa học trò là mùa thi. Mùa hè chỉ đến khi mùa thi đã qua. Với học trò mùa thi là tất cả. Hạnh phúc hay đại họa. Nước mắt và nụ cười. Những chuỗi ngày xi-nê triền miên hay là cắm đầu học ôn chờ thi lại. Những lá thư mùa thi là những lá thư chứa đựng đầy những ưu tư, lo lắng, không còn mơ theo trăng và vơ vân cùng mây nữa.
Thằng Dũng mang bì thư không tem đến đặt vào trên nắp .hộp thư chết và khi đặt tay lên nắp hộp thư thì nó cảm nhận được đã có một bì thư đã được đặt nằm ở đó - một bì thư với nét chữ nghiêng, nhỏ nhắn màu mực tím đã trở nên quen thuộc với nó. Nhìn trước nhìn sau không thấy ai, nó lẹ làng cầm lấy bì thư như người sắp sửa bỏ thư vào thùng thư bảo đảm, rồi sau đó bỏ vào cặp. Dù cho đây là lần thứ bao nhiêu mà nó cũng không nhớ, đến lấy thư nhưng nó vẫn hồi hộp như đến lần đầu. Có iần, khi đến gửi thư, nó thấy con bé Danh từ trên lầu đứng nhìn xuống nhưng nó vẫn làm mặt lạnh, tỉnh bơ như không. Cũng có khi nó gặp anh Kiệt, bỗng dưng người nó run lên nhưng vẫn cố gắng giữ bình tĩnh gật đầu chào rồi nói: “em đến gửi thư bảo đảm.” Anh Kiệt chỉ gật đầu cười chào nó. Anh học đệ nhứt nghĩa là thuộc loại “Đại ca Thay” của trường nhưng anh không có chút nào tự kiêu, lên mặt với nó. Chẳng bù với chị con Chi trong xóm, dù mới học đệ nhị đã nhìn nó với cặp mắt ta đây thuộc loại chì một cây. Ba nó thường nói gia đình con Chi giàu nhưng không có nền tảng của người có ăn học theo sách thánh hiền. Họ luôn là những người nhìn người khác bằng nửa con mắt. Thằng Dũng không hiểu làm sao có loại người có thể nhìn người bằng nửa con mắt được. Chắc cũng thuộc loại quái kiệt như quái kiệt Trần Văn Trạch. Qụái kiệt như ông Trần Văn Trạch thì còn mê được chứ quái kiệt chỉ có nửa con mắt thì y như quái vật trong phim “Những cuộc phiêu lưu của hoàng tử Sinh - Bá”, thấy mà ghê!
Vừa ra khỏi cửa ty bưu điện quận 6, thằng Dũng - như mọi khi - không nén được sự kiên nhẫn, liền mở thư ra xem ngay. Có những bức thư đã làm nó ngây ngất trong quãng đường đạp xe về nhà, quên cả mệt nhọc của những buổi làm việc mệt nhọc tại nhà in, và quãng đường trưa nắng gắt. Trong thư cô bé Danh chỉ kể chuyện học hành trong lớp, những bạn bè thân quen, những món ăn quen thuộc được bán chung quanh con đường Bà Huyện Thanh Quan. Chuyện anh Kiệt thổi ổng sáo như mấy ông thiến heo. Những bài thơ nhỏ mà con bé mới vừa sáng tác được. Những chuyện bình thường, đơn giản được viết bằng những con chữ thơ ngây, như thủ thỉ bằng những lời bình dị, không ra dáng màu mè, vãn chương hoa lá cành như văn chương của các thi sĩ trong các thi văn đoàn học trò, mọc ra như nấm trong các trang nhật trình. Thằng Dũng đọc thư và cảm nhận được như mình là một người trong gia đình của con bé Danh, có mặt trong những suy nghĩ và ước mơ của con bé. Nó hãnh diện là người được con bé tin cậy và gửi gấm những thầm kín chứ không phải là những người trong gia đình. “Tôi chỉ muốn cô là người em gái nhỏ. Để bâng khuâng lơ đãng chút mây chiều. Mà có hỏi sao rộn ràng chi đến vậy. Như mơ thôi, một chút ngẩn ngơ lòng... “
__________________
|