PHỤC SINH
Chương 61
Chín giờ sáng hôm sau, Nekhliudov thức dậy. Gã thư ký trẻ có phận sự hầu hạ "quan chủ", thấy chàng cựa mình, liền mang đến cho chàng đôi giầy da cao cổ chưa từng bao giờ được đánh bóng lộn như thế, với một bình nước suối trong mát lạnh, và báo rằng nông dân đã bắt đầu đến đông đủ. Nekhliudov vội nhảy xuống giường và nhớ lại ngay các ý định của mình. Nhưng cảm giác luyến tiếc đêm hôm qua về việc đem ruộng đất chia cho nông dân và tiêu huỷ cơ nghiệp, không còn mảy may dấu vết.
Nhớ lại điều đó, chàng còn lấy làm ngạc nhiên. Bây giờ chàng thấy lòng dạt dào vui sướng và có một niềm kiêu hãnh khó nén được về việc mình sắp làm.
Đứng ở cửa sổ, chàng nhìn ra mảnh sân quần vợt mọc đầy rau diếp dại, nơi nông dân tụ tập theo lệnh viên quản lý.
Ếch nhái cả đêm qua kêu inh ỏi không phải là không có duyên cớ: trời âm u và không có gió, nhưng từ sáng đã lất phất mưa bay, nước mưa đọng giọt trên cành lá cây và đầu ngọn cỏ. Mùi cây, mùi lá và cả mùi đất khô nỏ chờ mưa thoảng bay đưa vào cửa sổ. Vừa mặc quần áo, Nekhliudov vừa chốc chốc lại ngó qua cửa sổ, nhìn những người nông dân đang tụ tập trên sân. Họ lần lượt tới, cất mũ vải, mũ cát két ra chào nhau, họ đứng quây vòng lại và tỳ lên gậy chuyện trò.
Viên quản lý người còn trẻ, lực lưỡng béo tốt, khoác một chiếc áo ngoài ngắn màu xanh, cổ đứng, đính khuy to tướng, đến nói với Nekhliudov là mọi người đã đến đông đủ, nhưng họ có thể đợi chàng dùng trà hay cà phê xong, cả hai thứ đều pha sẵn.
Không, để tôi đi gặp họ cái đã, - Nekhliudov nói và nghĩ đến câu chuyện sắp đem ra trao đổi với nông dân, chàng bỗng cảm thấy trong lòng dâng lên một nỗi ngượng ngập thẹn thùng bất ngờ.
Chàng sắp thực hiện điều mơ ước của nông dân mong ước mà họ không hề bao giờ dám mơ tưởng có ngày thành sự thật: nhượng lại cho họ ruộng đất với một giá rẻ, nghĩa là ban cho họ một ân huệ, ấy thế mà chàng vẫn thấy có cái gì băn khoăn, e thẹn thế nào.
Lúc chàng đến gần, và khi thấy họ bỏ mũ ra chào, để lộ những mái tóc bạc hoe vàng hoặc quăn, những chiếc đầu hói, những mái tóc hoạ râm, thì chàng xúc động nghẹn ngào, đến nỗi mãi lâu chàng không nói được một lời. Mưa vẫn lất phất bay, bám vào tóc, vào râu và trên lượt tuyết mặt ngoài những chiếc áo nẹp Thổ Nhĩ Kỳ.
Những người nông dân nhìn ông chủ ấp, đợi xem sẽ nói chuyện gì, nhưng chàng xúc động quá, không thốt được nên lời. Viên quản lý người Đức bình tĩnh và đầy tự tin chấm dứt sự yên lặng khó chịu ấy, hắn tự cho mình là kẻ hiểu biết sâu sắc người nông dân Nga và nói thông thạo tiếng Nga. Cái con người to lớn béo tốt ấy và cả Nekhliudov, đứng bên cạnh những người nông dân mặt hốc hác, da răn reo, xương vai nhô lên dưới làn áo vải, gây nên một cảnh trái ngược quá rõ ràng.
- Sự thể thế nầy nầy, Công tước muốn ban ơn cho các người, đem ruộng đất cho các người, chỉ có một điều các người không xứng đáng thôi - viên quản lý nói.
- Sao chúng tôi lại không xứng đáng, anh Vaxili Kaclix? Chúng tôi đã chả đổ bao nhiêu công sức cho anh đấy ư? Cụ cố bà ngay trước thật quý hoá quá! Cầu Chúa ban phước cho linh hồn cụ. Công tước thì còn trẻ, lạy Chúa, chắc công tước không đến nỗi bỏ chúng tôi mà chẳng đoái thương, - một anh nông dân tóc đỏ hoe, mồm mép, lên tiếng.
- Tôi triệu tập các người lại đây đúng là vì tôi muốn nhượng lại tất cả đất đai của tôi cho các người, nếu các người muốn - Nekhliudov nói.
Đám nông dân bỗng im bặt, dường như họ không hiểu, hoặc không tin vào những lời vừa nói đó.
- Ngài nhượng ruộng đất như vậy là ý thế nào? - Một nông dân đứng tuổi mặc áo choàng, hỏi lại.
- Tôi cho các người thuê với một giá rất rẻ.
- Thế thì hay lắm, - một ông già nói.
- Miễn là tiền thuê đừng quá nặng để chúng tôi có đủ sức nộp được - một người khác nói.
- Được ruộng đất thì sao chúng tôi lại không nhận! Chuyện ấy chả phải nói. Chúng tôi sống về ruộng đất mà lại. Về phần ngài, như thế càng ổn, ngài chỉ có việc thu tiền? Còn như bây giờ thì thật lắm chuyện phiền nhiễu, tiếng nhiều người nói cùng một lúc ồn lên.
- Phiền nhiễu là do các người, - viên quản lý người Đức nói. - Nếu các người chịu khó làm việc, nếu các người biết giữ trật tự thì…
- Điều đó đối với chúng tôi không hề gì, anh Vaxili Kaclix ạ - một anh chàng gầy gò, mũi nhọn hoắt, đáp lại. - Anh trách chúng tôi cứ để ngựa vào ruộng lúa, nhưng nào ai muốn để kia chứ? Tôi suốt ngày cắt cỏ quần quật hoặc túi bụi công kia việc nọ, một ngày dài dằng dặc bằng một năm; tối đến, lăn ra ngủ thiếp đi, ngựa nó sổng ra chạy vào ruộng lúa của anh một tí, thế là anh làm tình làm tội tôi.
- Các người phải biết giữ trật tự chứ!
- Trật tự à, nói thì dễ đấy! Nhưng sức chúng tôi kham sao nổi, - một anh nông dân tuổi còn trẻ, người cao lớn, có đôi mắt nâu, lông lá đầy mình, trả lời.
- Nhưng tôi đã bảo các người bao nhiêu lần rồi, hãy rào ruộng lại.
- Rào, thì anh phải cho gỗ chứ! - Một người nhỏ bé vẻ mặt cau có, đứng đằng sau lưng mọi người, đáp lại. - Mùa hè năm ngoái tôi đang định làm một cái hàng rào, thì anh bỏ tù tôi ba tháng trời, để tôi làm mồi cho chấy rận. Đấy rào nhà anh là thế đấy.
- Hắn nói gì thế? - - Nekhliudov.
- Quân trộm cắp đầu sỏ của làng nầy đấy! - viên quản lý trả lời bằng tiếng Đức. - Năm nào nó cũng bị tóm cổ ở trong rừng vì tội ăn trộm. Còn mày, mày hãy nên biết tôn trọng tài sản người khác chứ?
- Nhưng có phải chúng tôi không tôn trọng anh đâu? - Một cụ già nói. - Chúng tôi không thể nào không kính trọng anh được, vì tất cả chúng tôi đây đều ở trong tay anh. Anh đem chúng tôi ra đánh thừng, đánh chão thế nào mà chả được.
- Nầy, ông bạn ơi! Không ai khinh miệt các người đâu chính các người miệt thị tôi thì có.
- Thế nào, miệt thị anh à! Hè năm ngoái, anh đánh tôi vỡ mặt ra, vết tích vẫn còn đây nầy! Không ai kiện cáo gì nổi nhà giàu, chuyện đời rõ quá đi còn gì nữa! Anh cứ chiểu theo pháp luật mà làm.
Rõ ràng đây chỉ là một cuộc đấu khẩu mà những người trong cuộc cũng không hiểu rõ lắm cả mục đích lẫn ý nghĩa lời họ nói. Người ta chỉ nhận thấy rõ là một bên tức giận mà phải nén đi vì sợ hãi, còn một bên cậy mình có thế, có quyền.
- Thế nào, về việc đất đai các người định thế nào, có đồng ý không? Nếu tôi cho thuê tất cả ruộng thì được các người trả bao nhiêu?
- Của ngài, xin để ngài cho giá.
Nekhliudov nói giá. Dù giá chàng đặt thấp hơn nhiều so với giá ở các vùng lân cận, nhưng người nông dân bao giờ cũng vậy, thế nào họ cũng cho là cao quá và họ bắt đầu mặc cả. Nekhliudov vẫn nghĩ rằng việc chàng xướng xuất sẽ được nông dân hoan nghênh nhiệt liệt, thế mà không thấy có một dấu hiệu nào chứng tỏ ra là họ hài lòng cả. Duy có một điều có thể khiến chàng đoán được việc làm của mình có lợi cho họ là chàng thấy họ tranh cãi rất dữ khi bàn xem ai là người được thuê ruộng đất: cho tất cả mọi người thuê hay chỉ một nhóm. Một cuộc cãi cọ kịch liệt xảy ra lúc đó, giữa một bên là người có chủ trương gạt ra ngoài không cho những người yếu sức, những người hay dây dưa nợ nần, tham gia thuê đất và một bên là những người nầy. Về sau, nhờ có sự can thiệp của viên quản lý, giá cả và thời gian được ấn định; họ lên đường về làng, chuyện trò huyên náo. Nekhliudov trở lại văn phòng cùng viên quản lý và lập dự án khế ước cho thuê.
Mọi việc đều được thu xếp ổn thoả như chàng mong muốn: Nông dân nhận đất cho thuê rẻ hơn giá ở khắp cả vùng xung quanh ba mươi phần trăm. Lợi tức về đất đai của chàng do đó giảm đi khoảng năm mươi phần trăm, nhưng cứ như thế thì cũng đã quá đủ cho chàng, nhất là nếu kể cả những món tiền bán rừng và các công cụ. Mọi việc như thế tưởng là tốt đẹp, nhưng sao chàng vẫn cứ băn khoăn. Chàng thấy tuy có một vài người tỏ lời cảm tạ chàng, song phần đông nông dân đều chưa hài lòng và còn chờ đợi ở chàng một điều gì hơn nữa. Thành thử, tuy có hy vọng lớn lao, chàng vẫn chưa thỏa mãn được những ước mong của họ.
Ngày hôm sau, bản giao kèo ký kết xong, một đoàn đại biểu nông dân gồm toàn các bô lão đến tiễn chân chàng; Nekhliudov ngồi trên chiếc xe ba ngựa kéo của viên quản lý để ra ga - chiếc xe ngựa thật là sang trọng, đúng như lời anh xe ngựa ở ngoài ga đã nói. Với một cảm giác day dứt, dở dang, khó chịu, chàng chia tay với nông dân; họ lắc đầu, vẻ lững lờ, không thoả mãn. Nekhliudov cũng không được hài lòng với mình; không hài lòng về cái gì chàng cũng chẳng biết nữa, chỉ biết chàng vẫn thấy một cảm giác buồn buồn như có điều gì đáng hổ thẹn.
Chương 62
Từ Kuzminxkoie, Nekhliudov đi đến khu trang ấp chàng được thừa kế của bà cô, chính cái nơi trước đây nàng đã quen biết Katiusa. Ô đây chàng muốn giải quyết vấn đề ruộng đất như ở Kuzminxkoie; ngoài ra, chàng còn muốn hỏi thăm để biết về Katiusa và đứa con; có thật đứa bé đã chết không, và chết trong trường hợp nào?
Sáng sớm chàng tới Panovo. Bước vào sân, cái đập vào mắt chàng trước hết là cái vẻ hoang phế, điêu tàn của nhà cửa, nhất là toà nhà ở.
Mái tôn trước kia màu xanh lá cây, lâu ngày không sơn lại, nay đã rỉ đỏ, ở một vài chỗ bị gió uốn cong lên; ván dát tường chỗ nào không đóng đinh chặt là bị dỡ đi mất, để trơ ra cả những chiếc đinh đóng han rỉ. Hai cái bậc tam cấp, - một cái ở cổng chính và nhất là một cái ở cổng sau chàng đặc biệt nhớ rõ, bây giờ đã đổ nát chỉ còn trở lại chiếc khung không. ỏ một vài cửa sổ, kính đã vỡ, phải thay bằng những mảnh ván. Buồng riêng viên quản lý nhà bếp, chuồng ngựa, chỗ nào cũng tiều tuỵ, tường lở mái long, một màu xanh xám.
Chỉ có mỗi khu vườn là không những không tiêu điều mà còn xum xuê tươi tốt, và lúc nầy hoa đang nở rộ. Bên kia hàng rào, những cây anh đào, cây táo, cây mận đều đầy hoa trông chẳng khác nào những cụm mây trắng.
Bụi tử đinh hương vẫn rộ hoa như mười bốn năm về trước, ngày nào mà chàng cùng với nàng Katiusa tuổi vừa mười tám chạy chơi đuổi bắt nhau, và chàng bị ngã, bị gai đâm đằng sau bụi đó. Cây lạc tùng diệp cô Sophia Ivanovna trồng cạnh nhà, lúc bấy giờ chỉ bằng cái cọc nhỏ, nay đã lớn, có thể dùng làm dầm nhà được, một lớp rêu mượt như nhung, xanh xanh vàng vàng, phủ khắp thân cây. Con sông nhỏ, nước dâng ngập hai bờ, ẩm ầm sủi bọt xô vào cái cửa đập cối xay. Trên cánh đồng cỏ bên kia sông, đàn gia súc của xóm làng đang gặm cỏ.
Viên quản lý là một gã trước kia đã theo học tiểu chủng viện, được nửa chừng thì bỏ; hắn bước ra sân đón Nekhliudov với nụ cười trên môi; hắn tươi cười đưa chàng vào văn phòng, và cũng vẫn nụ cười đó, nụ cười tưởng như hứa hẹn một cái gì đặc biệt, hắn đi vào phía sau bức vách, Nekhliudov nghe thấy có tiếng thì thầm, rồi im lặng.
Anh đánh xe nhận tiền thưởng xong ra về, tiếng chuông ngựa leng keng; thế rồi cảnh vật lại im lìm. Một thiếu nữ đi chân không, mặc áo cánh có thêu, tai đeo đôi hoa làm bằng lông nõn chim, chạy ngang qua trước cửa sổ; theo sau là một anh chàng nông dân nện cồm cộp đôi giầy to cao cổ có đế sắt trên lối đường mòn đất mịn.
Nekhliudov ngồi xuống thành cửa sổ, đưa mắt nhìn ra khu vườn trước mặt và lắng tai nghe. Làn gió xuân mát rượi đem theo mùi đất mới cày, thổi qua khung cửa sổ nhỏ, mơn nhẹ mái tóc trên vầng trán Nekhliudov lớp nhớp mồ hôi, phe phẩy lật các tờ giấy đặt trên thành cửa sổ nham nhở vết dao…
Từ ngoài sông vẳng lại tiếng chầy đập dồn dập liên hồi của những phụ nữ đang giặt giũ, những tiếng "tập pà tập tập pà tập" lan trên mặt nước lấp lánh của dòng sông bị cái đập chắn lại. Tiếng nước nhịp nhàng đổ ào ào vào cửa đập cối xay, nghe rõ mồn một; một con ruồi sợ hãi vo vo bay sạt qua tai chàng.
Và Nekhliudov bỗng nhớ lại xưa kia, lúc chàng còn niên thiếu, ngây thơ, chàng cũng đã từng nghe thấy tiếng chầy đập vải ướt nầy vang lên trong tiếng nước đổ đều đều vào cửa cối xay, cũng làn gió xuân đến mơn man mớ tóc trên vầng trán lấm tấm mồ hôi, phe phẩy lật những tờ giấy để trên thành cửa sổ nham nhở vết dao, và cũng có con ruồi với cái tiếng vo ve sợ sệt ấy bay sát bên mang tai. Không hẳn là chàng nhớ lại con người mình lúc bấy giờ, một thiếu niên mười tám tuổi mà là chàng cảm thấy lúc nầy cũng như hồi ấy, lòng chàng trong trắng, chứa chan mộng đẹp tương lai. Song đồng thời khác nào như chuyện trong giấc mộng, chàng cũng biết rằng tất cả những cái đó không thể còn có được nữa; và chàng thấy trong lòng tràn dâng một nỗi buồn ghê gớm.
- Ngài dùng bữa trưa vào lúc nào ạ? Viên quản lý tươi cười hỏi.
- Lúc nào cũng được. Tôi chưa thấy đói. Tôi đi quanh làng một cái đây.
- Xin ngài quá bộ vào trong nhà. Trong nầy mọi thứ chúng tôi thu xếp gọn gàng ngăn nắp. Xin ngài ngó qua một chút. Nếu chỉ nhìn bên ngoài thì…
- Thôi, để sau. Bây giờ thì anh làm ơn cho tôi biết, có phải ở đây có một người đàn bà tên là Matrena Kharina không?
- Người nầy là dì của Katiusa. Dạ, tôi biết lắm chứ ạ. Mụ ấy ở trong làng. Chỉ có mụ ấy là tôi không trị nổi. Mụ mở một cái quán bán rượu. Tôi biết, tôi đã bắt quả tang và mắng cho một trận. Nhưng đến lúc làm biên bản thì tôi lại không nỡ. Mụ ta đã già rồi, lại nhiều cháu. - Viên quản lý vừa nói vừa nhoẻn một nụ cười cốt để lấy lòng chủ, đồng thời cũng tỏ ra hắn hiểu tường tận mọi việc ở đây.
- Nhà bà ta ở chỗ nào? Tôi muốn đến tận nơi.
- Ở cuối làng ạ. Cái nhà thứ ba ở dãy bên kia. Ngài sẽ thấy một cái nhà gạch về mé tay trái, và ngay ở đằng sau đó là căn lều của mụ. Có lẽ để tôi đi với ngài thì hơn! - viên quản lý tươi cười nói.
- Thôi, cảm ơn anh, tôi khắc tìm lấy. Còn anh hãy báo cho nông dân đến cả đây. Tôi cần nói chuyện với họ về ruộng đất. - Nekhliudov nghĩ bụng giải quyết chóng vánh với nông dân ở đây, cũng như ở Kuzminxkoie, và nếu có thể, thì làm xong ngay chiều hôm nay.
Chương 63
Ra khỏi cổng, Nekhliudov gặp một cô gái khoác chiếc áo tạp dề sặc sỡ, tai đeo đôi hoa tai đính lông chim non, đôi chân trần chắc nịch đi thoăn thoắt trên con đường mòn uốn khúc qua cánh đồng cỏ mọc cao. Cô đang đi trở về tay trái vung vẩy theo nhịp bước nhanh, tay phải ôm mặt vào lông một con gà trống tía. Con vật, cái mào đỏ khẽ lắc lư, vẻ rất bình tĩnh, chỉ đảo đôi mắt trắng, duỗi thẳng rồi co một chiếc cẳng đen lại, móng chân dài móc cả vào chiếc tạp dề của cô gái.
Khi lại gần vị quý tộc, cô gái đi chậm lại, không chạy nữa mà thủng thẳng từng bước một: Đến ngang chỗ gặp thì cố đứng lại, ngửa mặt lên chào, và chỉ khi Nekhliudov đã đi rồi, cô ta mới tiếp tục đi, con gà vẫn ôm trong tay.
Đi tới gần cái giếng, Nekhliudov gặp một bà cụ mặc chiếc áo cánh vải thô, bẩn thỉu, lưng còng đang gánh một đôi thùng đầy nước. Bà cụ thận trọng đặt đôi thùng xuống đất và cũng hất đầu, ngửa mặt lên chào. Qua giếng thì bắt đầu tới làng. Hôm đó trời trong và nóng bức. Đến mười giờ thì đã oi lắm, chốc chốc mặt trời lại bị các đám mây đang tụ lại che lấp.
Dọc đường cái lớn, một mùi phân nồng nồng bay lên, sặc sụa, nhưng được cái không thối; mùi phân bay ra từ những chiếc xe tải lớn đang ì ạch leo lên con đường dốc bóng loáng, phẳng lì và nhất là những đống phân bị rỡ tung trong sân các nhà cổng mở rộng mà Nekhliudov đi qua. Đi sau xe là những nông dân chân đất, quần áo nhơ nhớp những nước phân; họ nhìn vị quý tộc cao lớn, đẫy đà đầu đội chiếc mũ xám, có băng lụa bóng loáng dưới ánh nắng, đang đi ngược trên con đường làng, cứ mỗi bước lại khẽ chống xuống đất chiếc can bóng đẹp, có nhiều đốt đầu bịt bạc.
Những người đi làm đồng về ngồi trên thành xe, lúc lắc theo nhịp nước kiệu của ngựa, cất mũ ra chào và kinh ngạc nhìn người khách kỳ khôi đang đi trên con đường làng mình; đàn bà con gái chạy ra cổng, hoặc đứng trên bậc thềm chỉ trỏ cho nhau và trố mắt nhìn theo khi chàng đi qua.
Đi đến trước cái cổng thứ tư thì Nekhliudov phải dừng bước, vì có một chiếc xe lèn đầy phân, tiếng bánh xe nghiến ken két, trên xe có rải một chiếc chiếu nhỏ để ngồi, đang từ trong cổng đi ra. Một thằng bé lên sáu đi theo sau xe, mặt mày hớn hở vì sắp được lên xe đi chơi.
Một anh chàng nông dân trẻ tuổi, đi dép cỏ, đang rảo bước dắt một con ngựa từ trong sân ra đường.
Một con ngựa con màu tro biêng biếc, cẳng dài nghêu bước qua cổng, nhưng trông thấy Nekhliudov nó hoảng sợ nép mình vào chiếc xe, va cẳng cả vào bánh, nó luồn lên đằng trước chiếc xe nặng nề mẹ nó đang kéo; con ngựa mẹ lo ngại, khe khẽ cất tiếng hí.
Con ngựa sau do ông già gầy còm dắt ra; ông cụ người còn nhanh nhẹn, chân cũng đi đất, mình vận chiếc quần dài kẻ sọc và một chiếc áo cánh dài bẩn trông hằn rõ cả những đốt xương sống.
Khi đã đưa ngựa ra tới đường cái rải rác những cục phân xám như bị cháy đen, ông già quay trở lại cổng, nghiêng mình chào Nekhliudov.
- Chắc ngài là cháu các bà chủ của chúng tôi trước đây có phải không ạ?
- Vâng, tôi là cháu gọi các bà là cô.
- Quý hoá quá! Ngài đến thăm chúng tôi phải không ạ? - Ông cụ già nhẹ miệng hỏi tiếp.
- Vâng, thế hoàn cảnh làm ăn sinh sống của nhà ta ra sao? - Nekhliudov chẳng biết nói gì, bèn hỏi như vậy.
- Chúng tôi sinh sống ra làm sao à… Một cách khổ cực nhất, ngài ạ, - ông già nhẹ miệng trả lời, giọng kéo dài, dường như lấy làm thích thú khi nói như vậy.
- Tại sao lại khổ cực? - Nekhliudov vừa nói vừa bước vào công.
- Không phải cuộc sống thảm hại nhất thì còn là gì nữa? - ông già vừa nói vừa đi theo Nekhliudov vào một khoảng sân sạch có mái che.
Hai người cùng vào đứng dưới mái.
- Ngài xem đấy? Nhà tôi cả thảy có mười hai miệng ăn, - ông già nói tiếp, tay chỉ vào hai người đàn bà, khăn bịt đầu xô lệch, mồ hôi nhễ nhại, váy xắn lên để hở bắp chân nhơm nhếch nước phân, tay cầm chiếc chạc hai, đang đứng trên nửa đống phân còn lại. - Tháng nào tôi cũng phải mua thêm sáu "pud" bột, hỏi lấy đâu ra tiền.
- Thế lúa cụ trống không đủ ăn à?
- Lúa nhà tôi ấy à! - ông già nói với một nụ cười khinh khỉnh. - Ruộng đất nhà tôi chỉ đủ cho ba miệng ăn, năm nay tất cả thu hoạch đánh lên được tám đống, không đủ ăn đến lễ Giáng smh.
- Thế thì làm thế nào?
- Thì cũng phải liệu cách thôi, tôi đã cho một cháu đi ở và sẽ đến xin ngài rủ lòng thương cho vay thêm. Chưa đến tuần chay cuối cùng đã tiêu hết sạch, mà tô vẫn chưa có để nộp..
- Cụ phải nộp tô bao nhiêu?
Phần nhà tôi phải trả mười bảy "rúp mỗi quý; Ôi, lạy Chúa! Hãy cứu chúng con thoát khỏi một cuộc đời như thế! Chúng con thật chẳng biết xoay xở làm sao cho thoát ra được nữa?
- Tôi muốn vào trong nhà ta được không, cụ? - Nekhliudov vừa nói vừa đi vào trong sân, chân dẫm lên một lớp phân màu vàng nghệ, mùi nồng nặc, còn để nguyên, chưa rỡ.
- Sao lại không được! Xin mời ngài vào! - ông lão nói rồi nhanh nhẹn đi lên trước, nước phân bắn vọt lên qua các kẽ ngón chân và mở cửa mời Nekhliudov vào.
Mấy người đàn bà đã sửa lại khăn ngay ngắn kéo thấp thêm vạt váy xuống; họ vừa tò mò vừa kinh ngạc ngắm nhìn vị quý tộc sạch sẽ kia, có khuy tay áo bằng vàng, đang bước vào nhà họ. Có hai đứa con gái nhỏ từ trong nhà chạy ra.
Nekhliudov cúi thấp xuống, bỏ mũ, bước qua cửa rồi vào hẳn trong căn nhà chật hẹp, bẩn thỉu, sực mùi thức ăn chua chua, có hai khung cửi choán chật cả nhà. Một bà cụ ngồi bên cạnh chiếc bếp lò, tay xắn lên để lộ cánh tay gầy rám nắng, nổi gân xanh.
- Đây là ông chủ, ngài đến thăm chúng ta, - ông cụ nói.
- Dạ. Xin mời ngài vào; quý hoá quá! - Bà cụ vừa vuốt tay áo xuống vừa nói, giọng ân cần hoà nhã.
- Tôi muốn được biết rõ hoàn cảnh sinh sống của các - cụ ra sao? – Nekhliudov nói.
- Ngài có thể thấy chúng tôi sống như thế nầy đấy.
- Túp lều nầy ụp đến nơi rồi, ngày một ngày hai sẽ có người bị đè chết thôi! Nhưng ông lão nhà tôi thì cứ bảo nó còn vững chán. Chúng tôi sống đế vương như thế đấy, thật là đế vương, - bà cụ người lanh lợi lắc đầu nói tiếp, vẻ bực dọc. - Tôi đang chuẩn bị bữa cho lũ trẻ nó đi làm về ăn đây.
- Bữa ăn nhà ta có những món gì hở cụ?
- Có những món gì ư? Thức ăn của chúng tôi thì tuyệt, món thứ nhất: bánh mì và nước kvas (1), món thứ thì: nước kvas và bánh mì, - bà cụ vừa nói vừa cười để lộ cả hàm răng đã mòn một nửa.
- Không, tôi không nói đùa đâu, cụ cho tôi xem bữa hôm nay nhà ta ăn những món gì?
- Ăn những món gì ư? - ông cụ vừa nói vừa cười. - Bếp nước của chúng tôi không nhiêu khê đâu ạ; cứ đưa cho ngài xem, bà nó!
Bà cụ lắc đầu.
- Ngài muốn xem thức ăn quê mùa của chúng tôi ư? Trời ơi? Ngài quả là một vị hiếu kỳ đấy tôi chưa thấy ai như ngài đâu? Ngài cần biết hết cả à? Tôi đã thưa với ngài, nước "quắt" và bánh mì, rồi một món xúp với bắp cải nữa; hôm qua mấy đứa con dâu mang về được mớ cá ranh đem nấu xúp và sau nữa là khoai tây.
- Ngoài ra không còn gì nữa ư?
- Lại còn gì nữa? Thêm tí sữa cho sáng nước xúp. - Bà cụ vừa cười vừa nói, mắt nhìn ra cửa.
Cửa ngỏ, lối ra vào đầy người, trẻ em, con trai, con gái, phụ nữ bồng con chen chúc nhau ngoài cửa nhìn vị quý tộc kỳ khôi đang xem bữa ăn của nhà nông. Bà cụ thấy mình ứng đối được với nhà quý tộc lấy làm hãnh diện.
- Vâng, khổ cực, đời sống của chúng tôi thật là khổ cực ông chủ ạ. Thật khổ vô cùng - ông già nói. - Chúng bay len vào đây làm gì? - ông già quát lên mắng đám người đang chen nhau ngoài cửa.
- Thôi, xin chào các cụ, - Nekhliudov nói, chàng cảm thấy ngượng ngùng, hổ thẹn, mà không hiểu vì sao.
- Xin cảm ơn ngài đã đến thăm chúng tôi, - ông già nói.
Ở lối ra vào, mọi người đứng sít vào nhau, rẽ ra lấy lối cho Nekhliudov đi. Ra đến ngoài đường, chàng đi ngược trở lên. Có hai thằng bé đi chân đất cũng từ cửa đi theo; đứa lớn tuổi mặc chiếc áo cánh, trước kia màu trắng, nay đã bẩn, còn một đứa mặc quần áo màu hồng đã bạc, sắp rách. Nekhliudov quay lại phía hai đứa bé.
- Thế bây giờ ông đi đâu? Thằng bé áo trắng hỏi.
- Đến nhà bà Matrena Kharina. Các em có biết bà ấy không?
Đứa nhỏ mặc áo hồng bật lên cười, còn đứa lớn đứng nghiêm trang hỏi lại:
- Matrena nào ạ? Bà ấy có già không?
- Bà ấy già.
- Á à! Nó dài giọng ra. - Thế là bà Xemenikha rồi. Ở đằng đầu làng ấy. Chúng cháu sẽ cùng đi với ông đến đó. Nào Feka, chúng ta dẫn ông ấy đi đi.
- Thế còn ngựa thì sao?
- Chà? Chẳng việc gì đâu!
Thằng Feka đồng ý, cả ba theo đường cái giữa làng đi ngược lên phía trước.
Chú thích:
(1) Kvas, một thứ uống làm bằng lúa hắc mạch lên men, vị rất chua (N.D.)
Chương 64
Nói chuyện với trẻ con, Nekhliudov cảm thấy thoải mái hơn là với người lớn và chàng đã nói chuyện với chúng suốt dọc đường. Lúc nầy thằng nhỏ không cười nữa và ăn nói cũng minh mẫn, khôn ngoan chẳng kém gì thằng lớn.
- Ai là người nghèo nhất ở cái làng nầy, các em nhỉ? - Nekhliudov hỏi.
- Nghèo nhất ạ? Có bác Mikhail. Cả bác Xemion Makerov nữa; và còn bà Marfa, bà ấy thì nghèo nhất.
- Còn bác Anixia nữa, bác ấy còn nghèo hơn cơ. Bác ấy không có con bò nào, phải đi ăn xin! - thằng Feka nói.
- Không có bò cái, nhưng nhà bác ấy chỉ có ba miệng ăn, còn nhà bác Marfa thì những năm cơ, - thằng lớn cãi lại.
- Thế nhưng mà bác ta goá chồng, - thằng bé áo hồng bênh vực cho bác Anixia.
- Mày bảo là bác Anixia goá chồng, nhưng bác Marfa thì cũng vậy thôi; bác ấy có chồng cũng như không.
- Thế chồng bác ấy ở đâu? - Nekhliudov hỏi.
- Đang nuôi rận ở trong nhà lao ấy, - thằng lớn dùng câu châm biếm mọi người vẫn dùng để trả lời.
- Mùa hè năm ngoái, chồng bác ấy chặt hai cây phong ở trong rừng ông chủ, cho nên bị bỏ tù, thằng nhỏ vội vã giải thích. - ông ta bị giam sáu tháng rồi, vợ phải đi ăn xin; bác ấy có ba đứa con dại và một mẹ già ốm yếu.
- Bác Marfa ở chỗ nào? - Nekhliudov hỏi.
Trong cái sân kia kỳa, - thằng nhỏ vừa nói vừa chỉ vào một cái nhà, ở ngay trên con đường ba người đang đi; trước nhà có một thằng bé con tóc gần như bạc trắng, đứng không vững, lắc la lắc lư trên đôi cẳng nhỏ bé vòng kiềng.
- Vatka, thằng ranh con, mày lỏn đi đâu rồi thế? - Một người đàn bà mặt lem luốc, bẩn thỉu, tưởng như trát đầy bồ hóng, vừa bước ra khỏi gian lều; vừa kêu. Chị ta chạy xổ ra đường, vẻ mặt bãi hùng, tóm lấy thằng bé trước lúc Nekhliudov bước tới cắp nó vào trong nhà, dường như sợ Nekhliudov sẽ làm gì con mình chăng.
- Chính chị là người đàn bà có chồng bị bắt giam vì đã chặt cây phong trong rừng của Nekhliudov.
- Còn bà Matrena, bà ấy có nghèo không? - Chàng hỏi khi ba người sắp tới gần nhà bà nầy.
- Bà ấy nghèo là thế nào? Bà ấy bán rượu kia mà! - Thằng nhỏ mặc áo cánh hồng trả lời, giọng quả quyết.
Tới nơi, Nekhliudov để hai đứa trẻ ở ngoài, bước qua cửa vào bên trong lều. Lòng gian lều chỉ dài chừng sáu arsin; một chiếc giường kê ở đằng sau lò sưởi, một người đàn ông to lớn nằm khó mà duỗi thẳng chân ra được "Katiusa đã ở cữ rồi đau ốm trên chiếc giường nầy đây" -Nekhliudov thầm nghĩ trong bụng. Chàng bước vào trong lều, đầu va phải chiếc khung cửa quá thấp, đúng lúc bà lão cùng với một đứa cháu gái đang mải sửa chữa cái khung cửi choán chật gần hết gian lều. Hai đứa cháu gái khác chạy xô vào nhà theo vị quý tộc, đứng dừng lại, đằng sau chàng, ngay trong lối ra vào, tay vịn vào thành khung cửi.
- Ông hỏi ai? Bà lão đang bực mình vì chiếc khung cửi của bà không chạy, hỏi giọng gắt gỏng. Hơn nữa, bà ta lại bán rượu lậu, nên thấy bất kỳ người lạ nào bước vào nhà, bà cũng nghi ngại.
- Tôi là chủ trang ấp ở đây, tôi muốn được nói chuyện với cụ?
Bà lão im lặng nhìn chàng và bỗng nhiên vẻ mặt biến đổi hẳn đi.
- Trời ơi, cậu đấy ư? Thế mà tôi ngốc quá lại không nhận ra được, tôi cứ nghĩ ông khách qua dường nào - bà lão bắt đầu nói với một giọng ngọt ngào. - Trời ơi, thì ra là cậu quý hoá quá!
Làm thế nào để khỏi có người nghe lỏm chuyện, hở cụ? - Nekhliudov vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra phía cửa để ngỏ, trẻ em đang đứng chen chúc và đằng sau chúng là một người đàn bà gầy gò ẵm một đứa bé ốm yếu, miệng thằng bé lúc nào cũng cười, mặt mày xanh xao bệnh tật, đầu đội một chiếc mũ khâu bằng mụn vải.
- Có cái gì mà chúng bay nhìn? Để tao cho chúng mày một trận, đưa cái nạng đây cho tao, bà lão quay lại phía bọn trẻ, quát lên:
- Khép cửa lại!
Lũ trẻ biến mất, người đàn bà bế đứa bé khép cửa lại.
- Tôi còn đang nghĩ: người kia là ai nhỉ? Ra chính là cậu chủ của tôi, cậu vàng, cậu ngọc của tôi, tươi đẹp quá, quý hoá quá! - Bà lão nói. - Cậu đã đến chơi, cậu đã có lòng đoái tưởng. Trời ơi? Quý hoá quá! Ngồi xuống đây cậu, cậu ngồi lên trên cái hòm nầy, - bà lão vừa tiếp vừa lau mặt hòm bằng cái màn che cửa. - Thế mà tôi cứ nghĩ: ai thế nhỉ? Thì ra chính là đức ông, chính là cậu chủ, ân nhân của chúng tôi, cha nuôi của chúng tôi. Cậu tha lỗi cho mụ già lẩn thẩn ngu muội nầy nhé. Già có mắt cũng như mù thôi.
Nekhliudov ngồi xuống, bà lão đứng trước mặt chàng, bàn tay phải chống vào má, bàn tay trái đỡ lấy cái khuỷu nhọn hoắt của cánh tay phải và lại bắt đầu nói với một giọng du dương.
- Trông cậu có già đi, xưa kia cậu tươi trẻ bao nhiêu, bay giờ thì thế. Chắc cũng lo nghĩ nhiều.
- Tôi đến hỏi cụ về việc nầy đây, cụ còn nhớ cô Katiusa Maxlova không?
- Katerina à? Sao lại không, nó là cháu tôi… quên nó sao được; bao nhiêu là nước mắt, tôi đã thương khóc nó hết bao nhiêu nước mắt. Câu chuyện ấy tôi biết hết. Ai mà không có tội với Chúa, ai mà chẳng phạm phép vua, thưa cậu. Thời son trẻ ấy mà! Ta uống chè, uống cà-phê với nhau, thế mà ma quỷ nô làm cho mê muội, mà kể ra mà quỷ nó cũng mạnh lắm kia! Biết làm thế nào, phải đâu cậu đã bỏ mặc nó, cậu đã thưởng tiền cho nó, đã cho nó một trăm "rúp" cơ mà? Còn nó, nó đã làm gì? Nó không biết điều hơn lẽ thiệt: giá nó nghe lời tôi thì nó cũng khá rồi. Nó là cháu tôi thật đấy, nhưng tôi cũng xin nói thẳng: nó là đồ hư hỏng. Sau đó, tôi cô giới thiệu nó đến làm ở một chỗ thật tốt nhưng nó không chịu nghe người ta, nó đã chửi lại chủ nhà? Thế là người ta tống khứ nó đi. Sau nó đến nhà ông kiểm lâm, kể nó cũng có thể ở được, nhưng nó chẳng chịu ở.
- Tôi muốn hỏi cụ về cháu bé. Cô ấy đã sinh nở tại nhà cụ có phải không ạ. Thế cháu bé đâu rồi?
- Cậu ạ Về cháu bé, tôi đã nghĩ chu đáo. Mẹ nó ốm quá coi chừng không qua khỏi được nên tôi xin rửa tội cho cháu, cho phải phép và sau đó, gửi nó đến nhà dục anh. Mẹ nó ốm sắp chết mà lại còn để cho đứa bé đẹp như thiên thần ấy phải héo hon nữa hay sao, người khác thì nó làm thế nầy: cứ để nó đấy, không cho nó ăn uống gì, thế rồi nó chết: Nhưng tôi thì tôi nghĩ: nếu sự thể đã như vậy ta phải làm thế nào chứ, ta phải gửi nó vào nhà dục anh Vả lại lúc đó tiền có sẵn, thế là tôi gửi ngay cháu đi.
- Thế ở nhà dục anh người ta có ghi số cháu là bao nhiêu không ạ?
- Số thì có. Nhưng cháu chết ngay. Bà ta nói với tôi: vừa tới nơi thì cháu mất.
- Bà ta là ai?
- Là cái bà ở Xkorotnoie. Bà ta chuyên làm nghề nầy. Tên bà tà là Melani. Bây giờ thì bà ta cũng mất rồi. Thật là một người đàn bà khôn khéo. Bà ta vẫn làm như thế nầy: hễ có ai mang lại cho bà ta một đứa bé, bà ta hẵng giữ lấy sau nầy mới đưa đi. Đợi được ba hay bốn đứa như thế, bà ta mang chúng đi một thể. Ở nhà bà ta, tất cả mọi thứ được sắp đặt thật khéo! Có một chiếc nôi lớn bằng chiếc giường hai người nằm, đặt chỗ nào cũng được. Cái nôi có cả tay nắm… Bà ta đặt bốn đưa bé vào trong đó đầu mỗi đứa một ngả, chân chụm vào nhau để khỏi đứa nọ đạp vào đầu đứa kia và cứ thế mang chúng đi. Bà ta nhét vào những cái miệng xinh xinh của trẻ, mỗi đứa một đầu vú sữa, thế là các cháu nằm im thin thít.
- Thế rồi sao ạ?
- Thế rồi bà ta đưa thằng cháu con Katerina đi cũng như thế. Nhưng có lẽ bà ta đã giữ nó ở nhà đến hai tuần lễ.Ngay từ khi đến ở nhà bà ta, nó đã bắt đầu yếu rồi.
- Đứa bé có xinh không ạ?
- Xinh lắm, không thấy đứa bé nào xinh như thế. Nó giống cậu như đúc ấy, - bà lão vừa nói thêm vừa nháy, mặt già nhăn nheo.
- Nhưng vì sao nó yếu đi ạ? Chắc họ cho ăn uống tồi quá?
- Chao ôi! Ăn với chả uống! Chỉ gọi là có một chút làm vị có phải con họ rứt ruột đẻ ra đâu… Miễn là đến nơi đứa bé còn sống thôi mà… bà ta bảo với tôi là vừa đến Moskva thì nó chết ngay. Bà ta đã mang về giấy chứng nhận, thật là hợp lệ! Một người đàn bà khôn khéo làm sao!
Tất cả những điều mà Nekhliudov có thể biết được về đứa con của mình là như vậy.
Chương 65
Nekhliudov bước ra, đầu lại va phải hai cái cánh cửa.
Hai đứa bé, một áo trắng, một áo hồng, đợi chàng ở ngoài đường. Có cả mấy đứa khác nhập bọn, cả mấy bà ẵm con nhỏ, trong đó có người đàn bà gầy gò ẵm đứa con xanh xao, đầu đội chiếc mũ thóp bằng mụn giẻ rách. Thằng bé, mặt già cằn, hốc hác, lúc nào cũng mỉm cười một cách kỳ dị, mấy ngón tay dài nghêu ngao co quắp, luôn luôn ngọ nguậy. Nekhliudov biết rằng cái cười kia là cái cười vì đau đớn. Chàng hỏi xem người đàn bà đó là ai.
- Đấy là bác Anixia cháu đã nói với ông đấy, - thằng bé lớn tuổi trả lời.
Nekhliudov quay lại phía người đàn bà;
- Chị làm thế nào để sinh sống? Lấy gì mà ăn? - Chàng hỏi.
- Làm thế nào để sinh sống à? Tôi đi ăn mày, Anixia nói rồi oà lên khóc. Khuôn mặt già cỗi của thằng bé tươi hẳn lên, đôi cẳng quắt queo, quằn quại như hai con giun.
Nekhliudov rút ví lấy cho người đàn bà mười rúp.
Chàng chưa đi được hai bước thì một người đàn bà khác ẵm một đứa bé đã theo liền, rồi đến một bà cụ, rồi lại một thiếu phụ nữa. Họ kể lể nông nỗi khổ cực và cầu xin chàng cứu giúp. Nekhliudov phân phát hết số sáu mươi rúp bạc lẻ trong ví; lòng buồn rười rượi, chàng trở về nhà, tức là trở về gian buồng của viên quản lý.
Anh nầy ra đón Nekhliudov và tươi cười báo cho chàng biết là đến chiều tối, nông dân sẽ đến họp. Nekhliudov cảm ơn, chàng không vào trong nhà, mà đi thẳng ra ngoài vườn, vừa dạo bước trên những con đường cỏ dại mọc tràn, rải rác đầy cánh hoa trắng, vừa suy nghĩ về những điều chàng vừa trông thấy.
Cả khu vườn im lặng, nhưng chỉ được một chốc chàng nghe thấy giọng bực tức của hai người đàn bà tranh nhau nói từ căn phòng viên quản lý vẳng ra, thỉnh thoảng mới thấy giọng nói bình tĩnh của người quản lý hay cười.
Nekhliudov lắng nghe.
- Thế nầy thì tôi không sao chịu nổi được nữa? Anh có muốn giết chết tôi thì cứ giết! - người đàn bà tức tối nói.
- Mà nó chỉ mới bước chân vào thôi, - người đàn bà thứ hai tiếp. - Nầy tôi bảo thật, anh hãy thả nó ra. Anh định làm khổ cả con vật, và lũ con nó không có sữa bú để làm gì?
- Chị hãy nộp phạt bằng tiền hoặc chịu trả bằng ngày công đã, - tiếng viên quản lý thản nhiên trả lời.
Nekhliudov bước ra khỏi vườn và lại gần bậc thềm, nơi có hai người đàn bà đang đứng, đầu tóc rũ rượi, một người có mang sắp đến ngày sinh. Viên quản lý đứng trên bậc, hai tay đút trong túi chiếc áo khoác bằng vải.
Hai người đàn bà trông thấy ông chủ trang ấp thì im lặng, họ sửa lại chiếc khăn bị xổ trên đầu. Viên quản lý rút tay ra khỏi túi mỉm cười. Theo lời hắn nói thì đầu đuôi câu chuyện như thế nầy: nông dân thường cố ý thả bê và cả bò mẹ của họ vào ăn cỏ của trang ấp. Hai con bò mẹ của mấy người đàn bà nầy đã bị bắt tại đồng cỏ và dắt về. Hắn đòi họ phải nộp phạt mỗi con hoặc ba mươi kopech, hoặc hai ngày công.
Hai người đàn bà thì khăng khăng một mực nói: một là bò của họ chỉ mới bước chân vào bãi; hai là họ không có tiền, và cuối cùng, họ hứa sẽ làm công đền sau nhưng đòi phải thả ngay bò của họ ra; những con bò bị buộc dưới nắng chang chang suốt từ sáng sớm đến giờ chưa được ăn, đang kêu rống lên rất đáng thương.
- Tôi đã nói bao nhiêu lần thật tử tế, - viên quản lý hay cười quay về phía Nekhliudov nói như muốn phân bua: - nếu các người chăn dắt súc vật vào buổi trưa thì phải coi giữ nó.
- Tôi mới chỉ thoáng chạy đi tìm thằng bé con thì chúng đã sổng ra mất.
- Nếu đang phải giữ bò thì đừng có bỏ đi đâu có được không?
- Giá mà bò của tôi đã thực sự giẫm nát đồng cỏ thì tôi không tức, đằng nầy, nó mới chỉ bước vào, - người đàn bà kia nói.
- Chúng đã giẫm nát hết cả cánh đồng - viên quản lý quay về phía Nekhliudov nói. - Nếu không bắt phạt họ thì một ngọn cỏ cũng không còn.
- Chao ôi Đừng có mà nói thế mà mang tội! - Người đàn bà có mang kêu lên. Bò nhà tôi chưa bị bắt bao giờ.
- Nhưng hôm nay thì nó bị bắt, thì chị phải nộp tiền hoặc đi làm trừ.
- Được rồi, tôi sẽ đi làm, nhưng anh hãy cứ thả bò của tôi ra đã, đừng để nó chết đói? - Người đàn bà giận dữ kêu lên - Làm quần quật cả ngày đêm không được nghỉ. Mẹ chồng thì ốm, chồng thì rượu chè be bét. Tôi một thân phải làm đủ mọi công việc mà sức thì kiệt rồi. Lạy Giời, cũng phải làm đầu tắt mặt tối, thở không ra hơi, đế lấy công trừ cho anh hết.
Nekhliudov bảo viên quản lý thả mấy con bò ra; rồi lại quay vào vườn để tiếp tục ngẫm nghĩ, nhưng còn gì mà suy nghĩ nữa. Tất cả mọi việc giờ đây đối với chàng đều sáng tỏ. Chàng lấy làm lạ, một việc hiển nhiên như vậy mà mọi người không ai nhìn thấy, và cả chàng nữa, sao mãi đến nay mới khám phá ra.
Dân chúng đang chết dần chết mòn, và những lối sống đặc trưng của cái chết đó đã hình thành: trẻ nhỏ chết yểu, phụ nữ phải lao lực quá độ, mọi người ăn uống thiếu đói, nhất là những người già cả: Và dần dà dân chúng lâm vào một tình trạng mà họ không thấy hết được cải khủng khiếp và cũng không oán thán nữa; vì thế cả chúng ta cũng coi cái tình trạng ấy như một chuyện bình thường, một điều tất nhiên.
Bây giờ chàng thấy rõ như ban ngày cái nguyên nhân chính dẻ ra sự cùng khổ của nhân dân, nguyên nhân mà họ biết rất rõ và luôn luôn nêu lên, là họ đã bị địa chủ cướp mất hết ruộng đất, và không có ruộng đất thì họ không sống được.
Có một điều rất rõ là con trẻ và ông già sở dĩ chết là vì không có sữa uống, mà không có sữa uống là do họ không có ruộng đất để chăn nuôi súc vật và cấy lúa, trồng cỏ. Rõ ràng là tất cả mọi nỗi khổ cực của nhân dân, hay ít ra thì nguyên nhân chủ yếu trực tiếp của nỗi khổ cực của họ là do ở chỗ ruộng đất để nuôi sống họ lại không ở trong tay họ mà lại nằm trong tay những kẻ dùng quyền chiếm hữu ruộng đất để sống bằng lao động của họ. Ruộng đất cần thiết cho nhân dân tới mức không có nó thì nhân dân chết, ấy thế mà họ bị dồn vào cảnh khốn cùng, lại phải cày cấy ruộng đất để có thóc đem bán ra nước ngoài cho bọn địa chủ có tiền mua sắm mũ mãng, batoong, xe ngựa, đồ chơi bằng đồng v.v…
Bây giờ tất cả những điều đó, Nekhliudov thấy rõ ràng, cũng rõ như là: ngựa mà nhốt trong một cánh đồng cỏ khi gậm hết cỏ sẽ gầy đi rồi chết đói, nếu không để cho chúng được đến một cánh đồng khác.
Điều đó thật khủng khiếp, không thể mà cũng không được để cho nó tồn tại!… Phải tìm cho ra một biện pháp trừ bỏ cái tình trạng đó đi, nếu không thì ít ra cũng không tham gia vào đó. "Cái biện pháp đó thế nào rồi ta cũng phải tìm ra!", chàng vừa nghĩ ngợi vừa đi đi lại lại trong lối nhỏ hai bên trồng phong.
Trong giới khoa học, trong các cơ quan chính quyền, trên báo chí, chúng ta đã bàn luận về những nguyên nhân đẻ ra sự nghèo khổ của nhân dân về những biện pháp cải thiện đời sống của họ, nhưng chúng ta không hề nói đến biện pháp độc nhất, chắc chắn có thể cải thiện được là thôi đừng tước đoạt của họ ruộng đất, ruộng đất đối với họ không thể thiếu được. Chàng nhớ lại rõ ràng những nguyên lý cơ bản của Henry Georges và cái tâm trạng mình say sưa những nguyên lý đó lúc bấy giờ.
Chẳng lấy làm lạ sao mình lại có thể quên được những điều đó. Ruộng đất không thể là đối tượng của sự chiếm hữu cá nhân, nó không thể là đối tượng của sự mua bán, cũng như nước, không khí; ánh nắng mặt trời vậy. Tất cả mọi người đều có quyền hưởng thụ như nhau về ruộng đất về tất cả mọi thứ lợi ích do ruộng đất mang lại cho loài người. Và bây giờ, Nekhliudov hiểu tại sao chàng đã băn khoăn hổ thẹn khi nhớ lại việc dàn xếp công việc của mình ở Kuzminxkoie. Chàng đã tự lừa dối mình. Biết là người ta không ai có quyền chiếm hữu ruộng đất, thế mà chàng lại tự cho mình cái quyền đó và đem lại cho nông dân một phần tài sản mà, trong thâm tâm, chàng biết là mình sẽ không có quyền gì hết. Bây giờ chàng sẽ hành động khác, sẽ thay đổi không làm như ở Kuzminxkoie nữa.
Và chàng nhẩm tính một phương án cho nông dân thuê ruộng đất, để lại cho họ cả số tiền thuê để họ nộp thuế và chi các khoản tiêu chung cho làng xóm. Đó không phải là chế độ thuế "Đơn nhất"(1) nhưng với tình trạng hiện nay thì đó là biện pháp gần giống với chế độ ấy nhất. Vả lại điều chủ yếu đối với chàng là làm như thế để từ bỏ hẳn cái quyền sở hữu về ruộng đất của mình đi.
Lúc chàng trở về nhà, viên quản lý với một nụ cười đặc biệt hân hoan, mời chàng đi dùng cơm; hắn tỏ ý rất áy náy vì món ăn đã mất lửa, hơi bị cháy, mặc dầu vợ hắn có cô gái đeo hoa tai đính lông chim nõn giúp đỡ đã mang hết khả năng ra nấu nướng.
Bàn ăn phủ một chiếc khăn vải thô; một chiếc khăn lau tay thêu thay thế cho chiếc khăn ăn; một món xúp khoai tây nấu gà - đúng là con và trống mà Nekhliudov đã trông thấy lúc sáng với đôi cẳng đen co co, duỗi duỗi đang bốc hơi nghi ngút trong cái liễn "Saxe"(2) hai cổ, sứt một bên tai; con gà hiện bị chặt thành từng miếng, có miếng vẫn còn cả lông măng. Tiếp theo món xúp là món gà quay cháy sém, rồi đến bánh nhân pho mát trắng phết bơ và đường. Bữa ăn dù có kém ngon, Nekhliudov cũng chẳng chú ý đến, tất cả tâm trí chàng còn đang dồn vào cái phương án nó đã làm tiên tan nỗi buồn vương vấn từ lúc đi và trong làng trở về…
Chị vợ viên quản lý dòm qua cánh cửa, theo dõi cô gái đeo hoa tai, vẻ sợ sệt bưng món ăn vào; còn anh chồng, vẻ hãnh diện về tài nấu nướng giỏi giang của vợ, nói cười mỗi lúc một hể hả hơn. Ăn cơm xong, Nekhliudov ép hắn ta ngồi xuống bên cạnh, chàng thấy cần phải kiểm tra lại những ý nghĩ của mình và cần thổ lộ với một người nào đấy nỗi băn khoăn của lòng mình. Chàng nói cho hắn biết ý chàng định nhường tất cả ruộng đất lại cho nhân dân và hỏi ý kiến hắn. Viên quản lý vẫn tươi cười, làm ra vẻ ta đây cũng đồng ý với những ý kiến đó từ lâu rồi, và rất khoan khoái khi được nghe nói đến. Thực ra, hắn chẳng hiểu gì hết, không phải vì Nekhliudov nói không rõ ràng, và là vì theo chủ trương đó, Nekhliudov vì lợi ích của người khác mà từ bỏ lợi ích của bản thân; thế mà cái tư tưởng nghĩ rằng ở đời ai cũng chỉ chăm chú đến lợi ích của bản thân bất chấp cả lợi ích của người khác, đã thâm căn cố đế trong tâm trí viên quản lý rồi, nên Nekhliudov nói với hắn rằng toàn bộ lợi tức về ruộng đất thu được sẽ đưa vào quỹ dùng cho việc có ích chung cho nông dân thì hắn thấy không sao hiểu nổi.
- Vâng, tôi hiểu. Như thế có nghĩa là ngài sẽ thu tiền lời của cái quỹ đó chứ gì? - Hắn hỏi, mặt mày sáng hắn lên.
- Không phải thế! Anh phải hiểu rằng ruộng đất không thể là đối tượng để chiếm làm của riêng.
- Vâng, đúng như vậy đó! Và tất cả những gì do ruộng đất sinh ra phải là của chung của tất cả mọi người.
- Nhưng mà như thế thì ngài sẽ chẳng còn thu được lợi tức gì ư? Viên quản lý hỏi lại, nụ cười lúc nầy đã tắt hẳn trên môi hắn.
- Thì đúng thế, tôi bỏ không thu lợi tức nữa.
Viên quản lý thở dài, nhưng rồi nét mặt hắn trở lại tươi cười. Bây giờ hắn hiểu rằng Nekhliudov không phải là con người đầu óc thật bình thường, và tức thì hắn suy nghĩ tìm trong chủ trương bỏ ruộng đất của Nekhliudov xem có thể có chỗ nào có lợi cho cá nhân hắn chăng; hắn cố hết sức hiểu chủ trương đó về mặt có lợi cho mình.
Cuối cùng, khi đã biết rằng điều đó không thể được thì hắn buồn rầu, không chú ý đến vấn đề nữa và cố mỉm cười cũng chỉ là để lấy lòng chủ mà thôi.
Thấy người quản lý không hiểu mình, Nekhliudov để hắn đi ra, rồi vào ngồi bên cạnh bàn mặt bàn nham nhở vết dao và nhem nhuốc những mực - thảo phương án của mình.
Mặt trời đã lặn sau rặng bồ đề mới đâm chồi nẩy lộc.
Hàng đàn muỗi tràn vào trong phòng quấy đất chàng.
Viết vừa xong, chàng nghe thấy từ xóm làng vọng đến tiếng rống của đàn bò đang trở về, tiếng những cánh cửa mở ken két và lời trò chuyện xôn xao của những người nông dân đến họp. Chàng bảo viên quản lý là không cần phải triệu tập nông dân đến tận văn phòng, chàng sẽ thân hành xuống làng, đến chỗ họ hội họp.
Sau khi uống vội chén trà viên quản lý vừa bưng lại, Nekhliudov đi vào trong làng.
Chú thích:
(1) Chế độ thuế do Henri Georges đề ra. Theo ông thì chỉ có địa tô mới là thuế khoá mà thôi. Nguyên tắc cơ bản của chế độ thuế "Đơn nhất" là tất cả mọi người đều có quyền sử dụng ruộng đất như nhau. Vấn đề nầy trình bày rõ trong cuốn "Điều kiện lao động"
(2) Saxe: đồ sứ Pháp nổi tiếng làm ở Saxe
Chương 66
Tiếng người nói ồn ào phát ra từ đám tập trung trong sân nhà viên trưởng thôn, nhưng khi Nekhliudov đến gần thì mọi người yên lặng một lúc, và cũng giống như ở Kuzminxkoie, họ lần lượt bỏ mũ ra chào. Nông dân ở vùng nầy cổ lỗ hơn nông dân ở Kuzminxkoie rất nhiều; đàn bà con gái tai đeo lông chim nõn còn đàn ông thì hầu hết đi giầy cỏ và mặc áo cánh hoặc áo lông kiểu Thổ Nhĩ Kỳ nhà may lấy; có cả một vài người đi chân đất; mình mặc có một chiếc áo cánh, họ đi làm đồng về, đến thẳng đây.
Nekhliudov cố nén xúc động; bắt đầu, chàng nói ngay cho họ biết ý định của chàng đem hiến cho mọi người tất cả ruộng đất của mình. Những người nông dân im lặng nghe chàng nói, vẻ mặt thản nhiên.
- Cái đó là dĩ nhiên! Đúng thế đấy! - Họ la lên.
Nekhliudov tiếp tục nói với họ về hoa lợi, về ruộng đất phải được chia đều cho tất cả mọi người; và vì thế, chàng xin nhượng lại tất cả ruộng đất của chàng cho họ lấy một số tiền do họ sẽ tự định lấy, số tiền đó sẽ bỏ vào một cái quỹ chung mà chỉ riêng họ được hưởng. Những lời tán thành và đồng ý tiếp tục vang lên, nhưng những bộ mặt nghiêm nghị của họ mỗi lúc càng trở nên nghiêm nghị. Những con mắt trước vẫn nhìn vào vị quý tộc thì bây giờ cũng nhìn xuống đất, tuồng như họ không nỡ làm cho chàng phải hổ thẹn, vì mưu mẹo của chàng họ đã biết tỏng cả rồi, chàng lừa bịp nổi ai đâu!
Nekhliudov nói lên ý kiến của chàng cũng khá rành mạch và nông dân lại là những người sáng ý. Nhưng họ không hiểu, không thể hiểu được chàng, cũng vì một lý do như với viên quản lý. Họ tin tuyệt đối rằng bản tính của con người ta ở đời là chạy theo tư lợi. Còn về địa chủ, thì kinh nghiệm truyền từ đời nầy sang đời khác đã dạy cho họ biết rằng chúng luôn luôn mưu lợi ích của chúng trên lưng nông dân. Vì thế nên họ nói rằng nếu ông chủ trang ấp có triệu tập họ lại để đề nghị với họ một cách dàn xếp mới nào đó thì cũng chỉ để lừa bịp họ bằng một mánh khóe khôn khéo hơn thôi.
Nào, thế thì các người định mức tô sẽ là bao nhiêu? - Nekhliudov hỏi.
- Chúng tôi làm sao có thể định mức tô được? Ruộng đất ở tay ngài, quyền hành ở cả ngài? - Có nhiều tiếng đáp lại trong đám đông.
- Không phải thế đâu. Các người sẽ được tuỳ tiện sử dụng số tiền đó vào những công việc cần thiết nhưng cho cả thôn xã kia mà.
- Không được đâu, thôn xã là một việc, và cái đó lại là một việc khác.
- Các người nên hiểu, - viên quản lý cũng theo Nekhliudov đến dự, y cười tìm cách giải thích, - Công tước muốn nhượng lại ruộng đất cho các người lấy một số tiền, nhưng số tiền đó sẽ trở về với các người dưới hình thức một công quỹ để tuỳ thôn xã sử dụng.
- Chúng tôi hiểu lắm chứ, - một ông già móm mém, vẻ mặt nghiêm nghị nói, mắt không ngước lên, - đại thể đây là một kiểu ngân hàng chứ gì, có điều chúng tôi sẽ phải trả đúng hạn. Chúng tôi không thích như vậy đâu. Đời chúng tôi thế nầy đã khổ cực lắm rồi. Bây giờ lại thế nữa thì đến nước đi ăn mày thôi.
- Tất cả những cái đó ích lợi gì? Cứ để nguyên như cũ, chúng tôi lại thích hơn, - những tiếng càu nhàu bất mãn, đến cả thô tục nữa, nổi lên.
Và họ càng từ chối quyết liệt khi Nekhliudov nói đến bản khế ước chàng định viết ra và bảo họ ký.
- Tại sao lại phải ký? Trước kia chúng tôi đã làm ăn như thế nào thì chúng tôi sẽ cứ làm ăn như vậy. Hà tất phải bày thêm chuyện, chúng tôi dốt nát biết gì.
- Chúng tôi không thể đồng ý bởi vì chúng tôi không quen việc như thế. Cứ để y nguyên như cũ? Chỉ cốt là đừng bắt chúng tôi phải tự xoay xoả lấy giống lúa thôi, - có nhiều tiếng nói to.
Như thế nghĩa là theo cách thức làm ăn hiện nay thì nông dân phải tự túc giống lúa, mà họ thì muốn chủ ấp từ nay trở đi phải cấp cho họ.
- Như vậy là các người từ chối. các người không muốn lấy ruộng đất? - Nekhliudov quay lại hỏi một anh chàng nông dân đứng tuổi, vẻ mặt hớn hở, quần áo rách rưới, chân đi đất, tay trái cầm thẳng đờ một mũ lưỡi trai rách, giống kiểu binh lính khi được lệnh trật mũ ra.
- Hoàn toàn đúng thế? - Con người nông dân chưa thoát khỏi ảnh hưởng mê muội của tập quán cũ nhà binh, trả lời.
- Vậy là các người có đủ ruộng đất rồi?
- Hoàn toàn không! - Người cựu binh trả lời với một vẻ cố làm ra hân hoan, tay cẩm chiếc mũ rách thận trọng giơ ra đứng trước mặt, dường như để tặng cho ai muốn dùng nó…
- Dù sao nữa, các người cũng hãy suy nghĩ về những điều tôi đã nói với các người. - Nekhliudov ngạc nhiên nói, và chàng nhắc lại những điều chàng đã đề xuất.
- Chúng tôi đã nghĩ cả rồi. Chúng tôi nói thế nào là làm đúng như vậy, - ông già móm làu nhàu nói.
- Tôi sẽ ở lại đây hết cả ngày mai. Nếu sau nầy, các người có thay đổi ý kiến thì báo cho tôi biết.
Nhưng những người nông dân không trả lời. Không khai thác ở họ được điều gì, Nekhliudov trở về văn phòng.
- Thưa Công tước, ngài thấy không? - Viên quản lý nói, lúc hai người về đến nhà - tôi đã thưa với ngài là ngài sẽ không thể đi đến một sự thoả thuận nào với họ đâu; nông dân họ bướng bỉnh lắm. Ở chỗ hội họp chỉ khăng khăng một mực chống lại và không có gì lay chuyển được họ. Chính vì vậy cái gì họ cũng sợ. Song cũng vẫn những người nông dân cái gì họ cũng không ưng thuận ấy dù là ông già tóc hoa râm hay là cái anh chàng tóc đen kia cũng vậy, họ đều là những con người hết sức tinh khôn. Giả sử có một người đến văn phòng, ta mời anh ta ngồi chơi uống trà, - viên quản lý cười nói, - rồi cùng chuyện vãn với anh ta, thì thật là một cái túi khôn. Một ông bộ trưởng thực thụ đấy? - Hắn thảo luận thật ra là về mọi vấn đề. Nhưng ở buổi họp, thì hắn lại là một người khác hẳn, cứ quanh đi quẩn lại có một câu thôi.
- Như vậy ta có thể gọi một vài người lanh lợi nhất đến đây không? Tôi sẽ giải thích tỉ mỉ công việc cho họ rõ.
Có thể được, - viên quản lý trả lời, miệng cười tươi tỉnh hơn.
***
- Thế nó có mưu mẹo không, hở cụ? - Người nông dân tóc đen có bộ râu rậm chẳng bao giờ chải, lên tiếng; anh lắc lư trên lưng con ngựa cái béo tốt đang bước đi đều đều Anh nói với ông cụ già cùng đi, ông cụ gầy còm, khoác chiếc áo lông rách, cưỡi ngựa đi bên cạnh, tiếng xích buộc ngựa leng keng nhịp theo.
Hai người dắt đàn ngựa đi ăn đêm, dọc theo con đường cái và lén lút cho ngựa vào ăn trong rừng của chủ trang ấp.
- "Tôi cho không các người ruộng đất, các người chỉ có ký thôi!". Bọn chúng đã chẳng thường xỏ mũi bà con mình đó sao. Thôi, xin ông bạn đừng có đùa? Bây giờ chúng tớ cũng láu như "chú mình" rồi, - hắn nói thêm và cất tiếng gọi con ngựa đang lảng xa đàn: "Bé à? Bé à?". Hắn vừa ghìm ngựa lại và ngoái nhìn về đằng sau gọi to. Nhưng con ngựa con không còn ở đằng sau, nó đã ở trong cánh đồng cỏ bên phải.
- Cụ xem con chó đẻ kia, nó đã quen mùi những cánh đồng cỏ của chủ trang ấp rồi? - Người nông dân có bộ râu không hề chải, nói tiếp, khi nghe tiếng thân cây me dại kêu lắc rắc dưới móng con ngựa con vừa phi và hí trong cánh đồng cỏ đẫm sương chiều, thoang thoảng mùi ao đầm thơm mát.
- Anh có nghe thấy tiếng lắc rắc không, gai rậm mọc tốt rồi đấy, đến ngày nghỉ lễ phải cho lũ đàn bà đi xáo cỏ mới được, - người nông dân gầy gò nói. - Không thì liềm hái sẽ cùn hỏng hết.
- Nó bảo "ký đi", - anh chàng nông dân râu rậm tiếp tục chỉ trích những câu nói của chủ trang ấp; - ký đi, rồi nó sẽ nuốt tươi bọn mình cho mà xem.
- Đúng thế đấy! - ông già trả lời.
Rồi họ im lặng. Chỉ còn nghe thấy tiếng vó ngựa lốp bốp trên con đường đá.
Chương 67
Lúc trở về, Nekhliudov thấy ở trong văn phòng người ta đã sắp sẵn cho chàng một chiếc giường cao có mền đắp chân, một đôi gối, một chiếc khăn trải giường bằng lụa màu đỏ thẫm, có hình vẽ thêu thùa rất tinh vi, dày đặc, khiến cho chiếc khăn cứng lại hẳn: đây hẳn là lấy ở bộ chăn mền cưới của vợ viên quản lý. Anh chàng nầy mời Nekhliudov ăn thêm những thức ăn bữa trưa còn lại, nhưng chàng từ chối. Viên quản lý xin lỗi chàng về việc đón tiếp quá xềnh xoàng, rồi lui ra, để chàng ở lại một mình.
Sự cự tuyệt của nông dân không hề làm cho Nekhliudov nao lòng. Trái hẳn lại, chàng thấy yên tâm và vui sướng, dù rằng ở Kuzminxkoie chủ trương chàng đề ra đã được nông dân đón nhận và cảm ơn, còn ở đây chỉ thấy những nghi ngờ và thậm chí cả thù hằn nữa.
Căn buồng bẩn thỉu, không khí lại ngột ngạt khó thở. Nekhliudov ra sân, định ra vườn dạo chơi, nhưng chàng chợt nhớ tới cái đêm hôm ấy, nhớ đến cái cửa sổ nhà dưới, đến bậc tam cấp ở đằng sau nhà, chàng cảm thấy lòng nặng nề khi nhìn lại những nơi đã bị một hành động tội lỗi làm ô uế nầy. Chàng ngồi xuống bậc tam cấp và hít thở không khí ấm áp của ban đêm được mùi lá phong non thơm ngát, mắt đăm đăm nhìn khu vườn đang mờ tối hẳn, lắng nghe tiếng cối xay, tiếng những con hoạ mi xao xác và tiếng hót đều đều đơn điệu của một con chim nào đó trong bụi cây kề bên. Ở cửa sổ buồng viên quản lý ánh đèn vụt tắt; phía đông, từ sau nóc nhà ngang, mặt trăng lưỡi liềm nhô lên, sáng rực; những tia chớp loang loáng mỗi lúc một mau soi tỏ khu vườn hoang dại, hoa lá xum xuê và ngôi nhà đổ nát.
Bỗng có tiếng sấm nổ ầm ầm ở đằng xa và một đám mây đen sẫm che kín hết một phần ba bầu trời. Tiếng hoạ mi cùng các chim chóc khác im bặt, tiếng ngỗng kêu quang quác, inh ỏi, át cả tiếng nước ào ào ở cối xay, rồi phút chốc từ trong sân nhà viên quản lý, vang lên tiếng gà gáy sớm, như chúng vẫn thường gáy vào những đêm oi ả dông tố. Tục ngữ có câu: "Gà gáy trước, rước đêm vui". Đối với Nekhliudov, thì quả đêm đó là một đêm sung sướng vô cùng, một đêm chứa chan hạnh phúc. Trí tưởng tượng làm sống lại trong lòng chàng những kỷ niệm của cái mùa hè tuyệt diệu đã qua kia, chàng sống, trẻ trung, trong trắng, trong khu vườn nầy và chàng cảm thấy, giờ đây mình vẫn như xưa, không phải chỉ như ở cái thời xa xôi đó, mà còn cả ở những giây phút đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình. Không những chàng nhớ lại, mà chàng còn cảm thấy mình đang như hồi mới là một thiếu niên mười bốn tuổi đầu, cầu nguyện Chúa vạch cho thấy chân lý; hoặc như hồi còn là một đứa con nít gục đầu trên gối mẹ khóc lúc chia tay, hứa suốt đời làm đứa con ngoan, không bao giờ để mẹ phải phiền lòng. Chàng cảm thấy mình như trước kia, khi cùng với bạn là Nikolenka Yecteniev quyết tâm thề sẽ mãi mãi dìu dắt nhau trên con đường làm điều thiện, hiến tất cả cuộc đời cho hạnh phúc của mọi người.
Bây giờ chàng nhớ lại ở Kuzminxkoie mình đã bị cám dỗ như thế nào, để rồi đâm ra luyến tiếc nhà cửa, rừng cây, trang trại và đất đai; và giờ đây, chàng tự hỏi: mình có tiếc không? Và chàng lấy làm lạ là tại sao lúc ấy mình lại có thể có ý nghĩ tiếc rẻ được.
Chàng nhớ lại tất cả những điều đã trông thấy ban ngày; người đàn bà với đàn con có chồng bị giam vì đã chặt ít cây trong khu rừng của chàng, và cái mụ Matrena ghê gớm nọ, mụ cho rằng, hoặc ít nhất mụ cũng đã nói rằng phận sự của những người phụ nữ ở tầng lớp mụ phải hiến thân cho các ông chủ, như những cô nhân ngãi, và coi đó là lẽ đương nhiên; chàng nhớ lại cách thức mụ xử đối với trẻ thơ, nhớ lại cái lối người ta gửi chúng đến nhà dục anh, nhớ tới cái thằng bé đội chiếc mũ thóp khâu bằng mụn giẻ rách, thằng bé khốn khổ, cằn cọc, héo hon, có nụ cười thương tâm và đang chết đói; nhớ tới những người đàn bà bụng mang dạ chửa, yếu đuối, mà người ta còn muốn bức phải lao động cho chàng, chỉ vì chị ta đã làm việc mệt lả nên không trông được con bò cái đói cỏ của mình.
Đến đây, chàng vụt nhớ tới nhà lao, những cái đầu cạo trọc, đến những phòng giam, những xiềng xích, mùi hôi thối và bên cạnh đó là cuộc sống xa hoa, dâm dật của chàng, đồng thời cũng là cuộc sống của những kẻ ở thành thị, ở thủ đô, cuộc sống như những ông chủ. Tất cả những điều đó đối với chàng thực đã rành rành, không còn ngờ vực gì nữa.
Vầng trăng bạc đã gần tròn vạnh nhô lên khỏi nóc nhà ngang. Những bóng đèn đổ dài trên sân, và mặt mái tôn của ngôi nhà đổ nát bỗng sáng loáng hẳn lên. Dường như không thể hững hờ được với ánh sáng tươi đẹp đó, con chim hoạ mi lại cất tiếng hót lýu lo và chép mỏ.
Nekhliudov nhớ lại khi ở Kuzminxkoie chàng đã suy nghĩ thế nào về cuộc đời mình, về cách giải quyết các vấn đề: tương lai sẽ làm gì và làm theo cách nào, chàng nhớ mình đã lúng túng, lẩn quẩn, không sao giải quyết được vì mỗi vấn đề đều có nhiều cách hiểu. Bây giờ cũng những vấn đề ấy, chàng lấy làm lạ rằng sao nó lại giản đơn đến thế chính là vì giờ đây, chàng không nghĩ tới những hậu quả có thể xảy đến cho mình, điều đó chàng không hề để ý, mà chỉ nghĩ đến bổn phận phải làm. Chàng ngạc nhiên thấy, nếu hỏi phải làm gì cho bản thân, thì chàng do dự không sao quyết định được, nhưng nếu là phải làm gì cho người khác thì chàng thấy rõ ngay, chẳng chút mơ hồ. Nhưng bây giờ không chút mơ hồ, chàng thấy là phải đem chia ruộng đất của mình cho nông dân, bởi vì giữ lấy nó là có tội. Và cũng chẳng chút mơ hồ, chàng thấy rằng mình không được rời bỏ Katiusa, phải tiếp tục giúp đỡ nàng, sẵn sàng chịu đựng tất cả để chuộc tội. Chàng thấy rõ về việc nầy phải nghiên cứu, phân tích, nhìn nhận cho thấu đáo tất cả những điều xét xử và trừng phạt của toà án, trong đó, chàng cảm thấy mình đã nhìn ra một điều gì đó mà người khác không trông thấy. Kết quả sẽ ra sao, chàng không biết, nhưng có điều chắc chắn là chàng sẽ phải làm việc đó và làm nhiều việc khác nữa. Và niềm tin chắc ấy đã khiến cho lòng chàng tràn ngập niềm vui sướng.
Mây đen đã kéo phủ kín bầu trời, những tia chớp nháy đã nhường chỗ cho những làn chớp giật chói loà, soi rõ cả mảng sân và toà nhà hư nát, với những bậc thềm đã sụp đổ; trên đấu, sấm nổ ầm ầm. Chim chóc im bặt. Những tiếng lá cây rì rào nổi lên. Một làn gió nhẹ thoảng tới bậc thềm, chỗ Nekhliudov ngồi, vuốt ve mái tóc chàng. Một giọt nước rơi xuống, tiếp sau, là một giọt nữa, rồi đến những giọt khác lộp bộp rơi trên đám lá cây ngưu bàng, trên mái nhà, và cả không trung lòe sáng như bốc cháy. Vạn vật im phăng phắc. Nekhliudov không kịp đếm đến ba thì có một vật gì nổ tung ngay trên đầu chàng với một tiếng khủng khiếp, ầm ầm vang dội trong bầu trời mênh mông.
Nekhliudov trở vào nhà.
"Phải, phải! chàng nghĩ - công việc của một đời ta, tất cả công việc đó có ý nghĩa của nó ta không hiểu và không thể nào hiểu được. Vì sao lại có hai bà cô ta trên đời nầy? Tại sao Nikolenka Yecteniev lại chết đi còn ta thì sống? Tại sao lại có Katiusa? Và cái việc làm rồ dại của ta? Tại sao có cuộc chiến tranh ấy? Và tất cả cuộc sống phóng đãng điên rồ mà ta đã trải qua, tại sao? Hiểu được tất cả những điều đó, hiểu được tất cả việc làm của Chúa, ta hiểu sao nổi? Nhưng làm trọn cái ý Chúa đã khắc sâu vào tâm khảm ta, điều đó ta làm được và là điều ta biết chắc chắn. Và khi ta làm trọn được ý Chúa thì chắc chắn lòng ta sẽ yên tĩnh thảnh thơi".
Lúc nầy, mưa như trút nước từ mái nhà đổ xuống, chảy ồng ộc vào trong chiếc thùng. Những tia chớp soi sáng mảnh sân và ngôi nhà thưa thớt dần. Nekhliudov về buồng, cởi quần áo, lên giường nằm, trong bụng vẫn sợ những con rệp nấp sau các tờ giấy rách dán trên tường.
"Ừ, cảm thấy mình không phải là ông chủ mà là người đày tớ chàng thấy thích thú với ý nghĩ đó. Điều chàng lo sợ không phải là không có lý. Ngọn nến vừa thổi tắt là lũ rệp xông tới đốt ngay.
"Phân phát ruộng đất, đi Siberi, rận rệp, bẩn thỉu và còn gì nữa? Nếu phải chịu đựng tất cả những cái đó ta cũng vui lòng".
Nhưng mặc dầu với tất cả thiện ý, chàng vẫn không chịu nổi và phải ra ngồi bên cửa sổ bỏ ngỏ, ngắm nhìn mây trên trời lúc nầy đang cuốn đi xa và vành trăng lại mới ló lên.
Chương 68
Đến gần sáng, chàng mới ngủ đi được và vì thế dậy rất muộn.
Giữa trưa, có bảy người nông dân được viên quản lý chọn mời, tới họp trong vườn, viên quản lý đã bố trí một cái bàn và mấy cái ghế làm bằng ván đặt trên cọc đóng xuống đất. Phải mất một lúc lâu để thuyết phục cho họ đội mũ lên và ngồi xuống ghế. Anh cựu binh hôm nay đi dép và quấn xà cạp sạch sẽ cứ khư khư trong tay cái mũ lưỡi trai rách chìa ra trước mặt, đúng phép như kiểu lính đi đưa ma. Trong bọn họ có một ông già rất tốt lão, vóc người cao to lớn, có chòm râu hầu như trắng toát giống râu pho tượng Moidơ của Michel Ange(l), với mái tóc quăn, trắng như bạc, toả xuống xung quanh vầng trán nhẵn bóng rám nắng. Đến lúc ông cụ vận chiếc áo lông Thổ Nhĩ Kỳ mới đội mũ len lên đầu, len vào sau chiếc ghế và ngồi xuống, thì những người kia mới làm theo.
Khi họ đã yên chỗ, Nekhliudov đến ngồi đối diện với họ. Tỳ khuỷu tay lên bàn, trên những trang giấy đã ghi kế hoạch của mình, chàng bắt đầu giải thích. Hoặc vì số nông dân ít hơn, hoặc vì chàng nghĩ đến công việc nhiều hơn là bản thân mình, nên lúc nầy, chàng không cảm thấy ngượng ngập chút nào. Tự nhiên, chàng thích quay về phía ông cụ có bộ râu xoắn ốc và đón chờ ở cụ một dấu hiệu tán thành hoặc phản đối. Song chàng đã đoán lầm.
Tuy ông cụ đáng kính ấy có gật gù cái đầu đẹp đẽ phúc hậu, để tỏ vẻ tán thành, hoặc lắc đầu chau mày, khi những người khác phản đối, nhưng rõ ràng là cụ hiểu rất khó khăn những lời chàng nói và cũng chỉ hiểu khi được những người khác nhắc lại cho ông cụ nghe bằng ngôn ngữ riêng của họ mà thôi.
Hiểu ý chàng nói hơn nhiều, là một ông già người bé nhỏ, chột mắt, râu thưa, mình mặc một chiếc áo choàng bằng vải Nam kinh, chân đi bốt cũ méo mó, ngồi bên cạnh ông cụ đẹp lão. Sau nầy, Nekhliudov mới biết ông ta là thợ xây bếp lò. Ông lão luôn luôn nhíu đôi lông mày lại cố gắng chăm chú lắng nghe và lần lượt truyền đạt lại những lời nói của chàng theo cách riêng của mình.
Cũng hiểu nhanh không kém, còn có một ông già khác, béo phục phịch, râu bạc trắng, hai con mắt long lanh, linh lợi; ông cụ không bỏ lỡ một dịp nào để chêm vào những nhận xét mỉa mai, trào phúng mà ông ta ra vẻ rất lấy làm hãnh diện xem chừng thì anh cựu binh đáng lý ra cũng có thể hiểu được nếu anh ta không bị cái đời lính tráng đã làm cho đần độn đi và nếu anh không bị hãm trong những lề thói ngôn ngữ vô nghĩa lý của nhà binh.
Trong tất cả các đám thính giả, người tỏ độ nghiêm túc hơn cả đối với công việc nầy là một người nông dân cao lớn giọng nói trầm trầm, mũi dài, râu ngắn, mình bận một chiếc áo lông Thổ Nhĩ Kỳ sạch sẽ và chân đi đôi giầy cổ mới. Bác ta hiểu hết cả và chỉ nói khi cần phải nói. Còn hai cụ già nữa, một người là ông cụ móm mà buổi họp hôm qua đã cương quyết phản đối tất cả những lời đề xuất của Nekhliudov, còn người thứ hai là ông già thọt chân, cao lớn, tóc bạc phơ, gương mặt phúc hậu, cẳng chân gầy guộc bó chặt trong những dải xà cạp bằng vải trắng. Cả hai người hoạ hoằn lắm mới thốt một hai lời nhưng chăm chú lắng nghe.
Trước hết, Nekhliudov nói rõ quan điểm của mình về quyền sở hữu ruộng đất:
- Theo ý tôi, - chàng nói, - thì người ta không ai có quyền bán; quyền mua ruộng đất, bởi vì chừng nào còn có thể làm được điều đó, thì những người có tiền của sẽ tậu hết ruộng đất, và như vậy họ sẽ bức được những ai không có ruộng đất mà muốn được quyền cày cấy phải nộp trả tiền mới được đứng trên mảnh đất - chàng dùng luận chứng của Spencer nói thêm.
- Chỉ còn có cách chắp cánh vào mà bay đi thôi, - ông già râu bạc có cặp mắt ranh mãnh ngắt lời.
- Đúng thế đấy, - người có cái mũi dài và giọng trầm nói.
- Hoàn toàn đúng! - Anh cựu binh nói.
- Một người đàn bà cắt một ít cỏ cho con bò cái cũng bị người bị người ta tóm ngay bỏ tù, - ông lão thọt chân nói.
- Ruộng nương của chúng tôi ở cách xa làng hơn năm dặm, còn thuê thêm thì đừng có hòng; họ đòi giá cao quá đến nỗi chẳng bao giờ chúng tôi gỡ lại đủ vốn. Người ta vắt kiệt sức chúng tôi như đánh thừng đánh chão không bằng tệ hơn cả chế độ tô lao dịch.
- Tôi cũng nghĩ như các người, - Nekhliudov nói, - và tôi coi việc chiếm hữu ruộng đất là một tội ác. Bởi vậy, tôi muốn đem nó trao lại cho các người.
- Được đấy! Việc đó hay đấy! - ông cụ có chòm râu dài như râu tượng Môidơ nói; rõ ràng cụ tưởng Nekhliudov muốn đem cho thuê đất.
- Tôi về đây là vì việc đó, tôi không muốn có ruộng đất nữa, có điều là cũng phải nghĩ xem dứt khoát bỏ ruộng đất bằng cách nào cho thoả đáng.
- Ngài cứ việc đem nó cho nông dân chúng tôi thế là xong! - ông lão móm hay cáu kỷnh nói.
Nghe những lời đó, thoạt tiên Nekhliudov hơi bối rối vì chàng cảm thấy trong đó có sự ngờ vực những ý định chân thành của mình, nhưng chàng trấn tĩnh được ngay và lợi dụng ngay điều nhận xét để nói hết những gì cần phải nói.
- Tôi sung sướng được đem cho ruộng đất đi, nhưng cho ai và cho như thế nào? - Chàng nói tiếp, - cho người nông dân nào? Tại sao lại cho nông dân xã ta mà lại không cho nông dân xã Deminxkoie (một làng bên cạnh, ruộng chỉ có một khoảnh xơ xác).
Mọi người im lặng, chỉ có một mình anh cựu binh nói:
- Hoàn toàn đúng.
- Nầy! - Nekhliudov nói tiếp, - các người hãy cho tôi biết: nếu Sa hoàng ra lệnh lấy lại đất đai của địa chủ và đem chia cho nông dân thì các người sẽ làm thế nào?
- Có tin đồn thế à? - Vẫn ông già ấy hỏi.
- Không. Sa hoàng không có lệnh gì cả, đó là tôi ví dụ thế thôi: giả sử Sa hoàng ra lệnh lấy lại ruộng đất của địa chủ và đem chia cho nông dân thì các người sẽ làm thế nào?
- Chúng tôi sẽ làm thế nào ư? Chúng tôi sẽ chia đều cho tất cả mọi người, nông dân cũng như trang chủ! - ông thợ xây bếp lò vừa nói, vừa nhíu đôi lông mày lại.
- Còn có cách nào khác nữa?
- Chúng tôi sẽ chia đều cho tất cả mọi người, - ông già có bộ mặt phúc hậu phụ hoạ thêm.
Tất cả đều cho cách giải quyết đó là thoả đáng và tán thành.
- Thế nào, chia đều cho tất cả mọi người ư? - Nekhliudov hỏi, - Chia cả cho những gia nhân đầy tớ trong các trang ấp nữa à?
- Chắc hẳn là không rồi, - anh cựu binh nói, cố tạo ra vẻ mặt khoai khoái.
Nhưng người nông dân cao lớn, vẻ mặt chín chắn lại không đồng ý với anh ta:
- Nếu chúng ta chia thì phải chia đều cho tất cả mọi người chứ, - bác ta cất giọng trầm trầm nói, sau một phút suy nghĩ.
– Cái đó không thể được. - Nekhliudov nói, chàng đã chuẩn bị sẵn từ trước lời phản đối. - Nếu chúng ta chia đều thì tất cả những người không lao động, không biết cày cấy các ông chủ, các gia nhân bồi bếp, các viên chức, thư ký hiệu buôn, tất cả những người ở tỉnh thành họ sẽ đem phần của họ bán cho nhà giàu và những người nầy lại chiếm lấy hết ruộng đất. Rồi những người sống bằng phần đất của mình lại sẽ sinh con đẻ cái, mà đất đai thì đã chia rồi. Thế là nhà giàu lại nắm được trong tay họ những kẻ cần phải có ruộng đất để sinh sống.
- Hoàn toàn đúng, - anh cựu binh vội vàng xác nhận.
- Phải cấm chỉ không cho bán ruộng đất, trừ những người tự tay mình cày cấy lấy thì không kể, - ông lão thợ xây bếp lò bực tức ngắt lời anh cựu binh.
Nhưng Nekhliudov vặn lại rằng không thể nào kiểm soát được để biết xem một người nào đó cày cho mình hay cày cho người khác.
Lúc đó, người nông dân cao lớn chín chắn đề nghị phải cày cấy chung.
- Chỉ có người nào đi cày người đó mới được chia, ai không cày thì không được, - bác ta nói, vẻ quyết liệt, giọng trầm trầm.
Để đối phó với chủ trương ấy, Nekhliudov cũng đã chuẩn bị sẵn những lý lẽ, chàng trả lời là trong trường hợp đó, tất cả mọi người đều phải có những chiếc cày như nhau, có ngựa như nhau và không ai được đi làm muộn hơn người khác, hoặc là cả ngựa nghẽo, cày cuốc, máy đập lúa và tất cả những súc vật nông cụ khác đều sẽ chung đụng hết. Muốn đi tới điều đó, trước hết mọi người phải thoả thuận với nhau đã.
- Không đời nào dân làng ta lại thoả thuận với nhau đâu! Sẽ xảy ra đánh nhau ngay, - ông già có chòm râu bạc và con mắt cười tinh ranh, nói. - Bọn đàn bà lại không móc mắt nhau ra ấy à?
- Và rồi ruộng đất tốt xấu khác nhau chia ra làm sao? - Nekhliudov nói. - Tại sao người nầy được đất đẹp màu mỡ, kẻ kia thì đất thó lẫn cát.
- Sẽ phải chia ra thành từng mảnh cùng một loại, - ông cụ thợ xây bếp lò nói.
Nekhliudov đáp lại rằng không phải chỉ là vấn đề phân chia ở trong một thôn xã, mà là phân chia ở khắp cả các tỉnh. Nếu đem ruộng đất cho không nông dân thì sao lại cho những người nầy ở chỗ đất tốt, những người kia chỗ đất xấu. Ai mà chả muốn được ruộng tốt.
- Hoàn toàn đúng, - anh cựu binh nói.
Những người khác im lặng.
- Các người thấy rõ đấy, nó không giản dị như ta tưởng đầu, - Nekhliudov đáp. - Và không phải chỉ riêng có chúng ta mới nghĩ đến vấn đề nầy. Có một người Mỹ tên là Georges đã nghĩ ra cách giải quyết như thế nầy, và tôi cũng đồng ý với ông ta.
- Ngài là chủ ruộng đất, ngài chỉ có việc cho nó đi. Ai làm gì được ngài? Ngài muốn thế nào thì tuỳ ý ngài? - ông già bẳn tính nói.
Bị ngắt lời, Nekhliudov bối rối, nhưng chàng rất hài lòng khi nhận thấy không phải chỉ riêng chàng mới thấy khó chịu về sự ngắt lời đó.
- Hãy khoan, ông Xemion, để cho ngài nói đã, - người nông dân chín chắn cất giọng trầm trầm nói.
Những lời nói khích lệ Nekhliudov, và chàng bắt đầu giải thích cho họ nghe về các dự kiến thuế "đơn nhất" theo Henry Georges.
- Ruộng đất không phải của riêng một ai. Nó là của Chúa - chàng bắt đầu nói.
- Đúng thế! Hoàn toàn đúng! - Mấy người lên tiếng công nhận.
Tất cả ruộng đất là của chung mọi người. Mỗi người chúng ta có quyền như nhau về ruộng đất, nhưng có ruộng tốt có ruộng xấu. Ai cũng muốn lấy ruộng tốt. Vậy làm thế nào cho công bằng? Nên làm thế nầy: người được ruộng tốt phải trả cho người không có ruộng một số tiền ngang với giá trị ruộng của mình. - Nekhliudov tự trả lời câu hỏi của mình. - Nhưng vì rằng thật khó mà xác định được xem ai phải trả tiền cho ai, thế mà đằng nào ta cũng phải thu một số tiền để chi vào những việc cần thiết của hàng xã, cho nên ta phải làm thế nầy: người được ruộng đóng cho xã một số tiền ngang với giá trị lô đất của mình. Như thế sẽ công bằng với tất cả mọi người.
- Anh muốn có ruộng à? Hãy trả một số tiền, ruộng tốt thì trả nhiều, ruộng xấu thì trả ít. Nếu anh không muốn có ruộng thì không trả gì cả, còn tiền đóng góp để chi tiêu các khoán của hàng xã thì những người có ruộng sẽ phải đóng cho anh.
- Đúng đấy! Ai có ruộng đất tốt sẽ trả nhiều hơn, - ông cụ thợ xây bếp lò vừa nổi vừa nhíu đôi lông mày lại.
- Cái anh chàng Georges nầy đầu óc ghê thật! - ông già tốt lão có bộ râu xoắn ốc nói.
- Miễn là tiền thuê đất phải nhè nhẹ vừa sức người thuê. - Người nông dân cao lớn có giọng trầm trầm nói, bác ta ra vẻ nhìn thấy trước được câu chuyện Nekhliudov sẽ đưa đến vấn đề gì.
- Tiền thuê phải tính thế nào cho không nặng quá, cũng không nhẹ quá… Nếu nặng quá, người ta sẽ khó mà trả được và sẽ lỗ vốn; nếu nhẹ quá, sẽ sinh ra chuyện tậu ruộng lẫn nhau, sẽ có chuyện buôn bán đất. Đó, cái mà tôi muốn thiết lập ở làng ta là như thế.
- Công trình hợp lý và đúng đấy. Được Hay lắm. - Mọi người cùng nói.
- Đầu óc ghê thật! - ông già râu xoắn ốc nhắc lại.
- Cái anh chàng Georges nầy: Điều anh nghĩ ra thật là thần tình.
- Thế nếu tôi cũng muốn được ruộng đất thì sao? - Viên quản lý mỉm cười nói.
Nếu có mảnh đất nào chưa ai làm thì anh lấy mà cày cấy? - Nekhliudov trả lời.
- Anh cần gì ruộng đất? Cứ thế nầy anh đã no nê chán ra rồi? - ông già có đôi mắt cười ranh mãnh nói.
Đến đó, cuộc thảo luận kết thúc.
Nekhliudov nhắc lại một lần cuối cùng ý kiến của mình nhưng không yêu cầu họ trả lời ngay. Chàng khuyên họ bàn bạc với dân làng rồi sau hãy trả lời cho chàng biết.
Những người nông dân đáp họ sẽ bàn bạc với dân làng và sẽ trả lời.
Họ chào rồi ra về, rất phấn khởi tiếng nói vang suốt dọc đường. Mãi đến đêm, tiếng cười ròn rộn rã, vang dội từ trong làng ra đến ngoài sông.
Ngày hôm sau, nông dân không đi làm họ ở nhà bàn bạc về lời đề nghị của chủ trang ấp. Dân làng chia ra làm hai phe: một phe cho rằng đề nghị của chủ trang áp là có lợi, chấp nhận cũng không hại gì, phe kia thì thấy trong đó có một âm mưu lừa lọc gì họ không nắm được thực chất nên nghi ngại.
Tuy nhiên, đến ngày thứ ba thì tất cả mọi người đều thuận tình chấp nhận và đến báo cáo cho Nekhliudov biết quyết định của cả làng. Có sự thoả thuận nầy là phần lớn nhờ ý kiến của một bà cụ nói về hành động của chủ trang ấp được các người già cả đồng tình; ý kiến nầy đã làm tiêu tan tất cả những nỗi lo ngại về âm mưu lừa lọc: Bà cụ cho rằng chủ trang ấp đã bắt đầu lo lắng đến phần hồn và sở dĩ làm như vậy là để cứu vớt linh hồn anh ta. Lời giải thích đã được chứng thực bằng việc Nekhliudov khi tới Panovo đã bỏ ra những món tiền lớn để bố thí cho người nghèo khó. Lần đầu tiên ở đây chàng nhận thấy tất cả nỗi cùng khổ cơ cực của đời sống nông dân, tình trạng khổ cực nầy đã khiến chàng rất đỗi kinh ngạc và xúc động, nó đã thôi thúc chàng đem tiền ra bố thí. Tuy biết rằng là làm như vậy là không hợp lý, chàng vẫn không thể không đem phân phát tất cả số tiền lớn đang có trong tay, tiền bán khu rừng ở Kuzminxkoie từ năm trước mới thu được và tiền người ta đặt trước để mua lại nông cụ.
Được tin ông chủ trang ấp cho tiền những ai đến hỏi xin, rất đông người nghèo khổ, phần lớn là phụ nữ, từ khắp miền chạy tới xin giúp đỡ. Thực ra chàng không biết đói xử với họ như thế nào. Căn cứ vào đâu để biết cho ai và cho bao nhiêu là phải. Chàng cảm thấy không thể không đem số tiền rất lớn có trong tay để cứu giúp những người đến xin, những người nầy coi bộ nghèo khổ thật. Mà phân phát bừa đi cho bất cứ ai đến hỏi thì cũng không có nghĩa gì cả. Chỉ còn mỗi một cách thoát khỏi tình thế đó là đi khỏi chỗ nầy. Và chàng vội vã làm ngay thế.
Ngày cuối cùng ở Panovo, Nekhliudov điểm lại những đồ vật còn lại trong ngôi nhà cũ. Trong ngăn kéo dưới cùng của một chiếc tủ nhỏ dùng để đựng đồ vặt vãnh, bằng gỗ đào hoa tâm, thân tủ phình ra đằng trước, có điểm những hình đầu sư tử, mõm ngậm vòng đồng, chàng tìm thấy trong một tập thư có tấm ảnh chàng vận bộ y phục sinh viên chụp chung với Sofia Ivanovna, bà Maria Ivanovna và Katiusa thanh tân yểu điệu say đắm yêu đời. Trong số tất cả các đồ vật, chàng chỉ lấy có tập thư có chiếc ảnh đó. Còn tất cả chàng nhường lại cho người xay bột và nhờ có lời yêu cầu khẩn khoản của viên quản lý người nầy chỉ phải trả một số tiền bằng một phần mười thực giá.
Giờ đây, nhớ lại những cảm giác luyến tiếc tài sản của mình khi ở Kuzminxkoie, Nekhliudov lấy làm ngạc nhiên sao mình lại có những cảm nghĩ như thế được. Giờ đây chàng thấy vui sướng vô hạn vì được giải thoát, được sống một cuộc sống mới, giống như niềm vui của người khách du lịch khi phát hiện ra được một vùng đất mới.
Chú thích:
(1) Michel Ange (1475-1516), danh hoạ người Ý, đồng thời là nhà điêu khắc, nhà kiến trúc sư kiệt xuất.
Chương 69
Thành phố lần nầy gây cho Nekhliudov một ấn tượng đặc biệt khác thường, hoàn toàn mới lạ. Đến đó vào lúc chiều tối, đèn dọc đường đã sáng trưng, chàng đi xe từ ga về nhà. Khắp nhà sực nức mùi băng phiến. Agrafena Petrovna và Korney, cả hai đều mệt phờ và cáu gắt, thậm chí cãi nhau, về việc nên thu dọn quần áo đồ đạc như thế nào; xem ra thì các thức nầy chẳng có ích lợi gì khác ngoài việc đem chúng trải ra phơi rồi lại cất vào một xó.
Buồng của Nekhliudov không có ai ở, nhưng vì không được sắp đặt dọn dẹp, hòm xiểng lại để lủng củng ngổn ngang ở bên ngoài nên ra vào khó khăn. Rõ ràng là việc, chàng về đã làm trở ngại cho công việc đang tiến hành trong nhà nầy theo một quán tính kỳ lạ nào đó. Sau khi đã nhìn thấy cuộc đời khổ cực của nông dàn, chàng thấy tất cả những cái trò nầy - mà trước kia chàng đã tham gia - thật là đáng ghét, vì nó quá vô nghĩa đến nỗi chàng quyết định ngay ngày hôm sau sẽ đến khách sạn, để mặc bà Agrafena tiếp tục thu dọn theo ý bà ta cho đến khi chị ruột chàng tới quyết định giải pháp cuối cùng cho tất cả mọi công việc của mình.
Ngày hôm sau, Nekhliudov ra đi từ sáng sớm; chàng chọn lấy hai gian buồng tại một nhà trọ gặp trước nhất ở gần nhà lao - một căn nhà xoàng xĩnh không lấy gì làm sạch sẽ lắm và, sau khi bảo người nhà mang lại chỗ ở mới những đồ dùng chàng đã sắp sẵn, Nekhliudov đi đến nhà trạng sư.
Bên ngoài, trời lạnh. Sau mấy trận mưa và mấy cơn gió bão, tiếp đến những trận gió rét quen thuộc của mùa xuân. Trời rét như cắt, gió buốt thấu xương. Nekhliudov phong phanh trong chiếc áo choàng mỏng, thấy lạnh cứng, phát run lên, chàng không ngừng bước nhanh cho nóng người.
Hình ảnh những con người ở nông thôn dồn dập hiện ra trong trí óc chàng: đàn bà, trẻ con, các cụ già, tình trạng nghèo khổ mỏi mòn, giờ đây dường như chàng lại trông thấy lần đầu? - và nhất là hình ảnh thằng bé con còi cọc luôn luôn có nụ cười kỳ dị, vặn oặt đôi chân quắt queo, - bất giác chàng đem so sánh những cảnh ấy với cảnh tượng ở thành phố.
Đi qua trước cửa hàng thịt, hàng cá và các cửa hiệu bán quần áo may sẵn, chàng sửng sốt nhận thấy, - tưởng như chàng mới trông thấy lần đầu tiên - cái vẻ phè phỡn, no nê của vô số những chủ hiệu sạch sẽ, béo tốt, thật ở thôn quê không sao có được lấy một người như thế. Rõ ràng là những con người nầy tin tưởng chắc chắn rằng công sức họ đem ra để lừa bịp khách hàng không biết phẩm chất hàng hoá, không phải là một việc vô bổ, mà trái lại còn rất có ích. Cái vẻ no nê, phè phỡn đó, chàng còn thấy ở cả những gã xà ích mông đít lồng bàn, có hàng khuy áo dọc sau lưng, cả ở những anh gác cổng đội mũ lưỡi trai có đính kim tuyến, cả ở những chị hầu phòng tóc uốn xoăn, đeo tạp dề trắng và nhất là ở những tên đánh xe ngựa loại thượng hạng gáy cạo nhẵn trắng, ngả mình trên đệm xe, nhìn chòng chọc vào mặt khách qua đường với cái vẻ mặt khinh khỉnh, đểu cáng.
Bây giờ chàng không thể nhìn thấy trong tất cả những con người nầy những người nông dân đã mất hết ruộng đất và vì thế bị đẩy ra thành thị. Tuy nhiên, nếu có một vài người trong bọn họ đã biết lợi dụng những điều kiện sinh hoạt ở tỉnh thành mà trở nên những người như chủ họ, và vui sướng vì địa vị mình, thì ngược lại, có những người khác ra đây phải sống một cuộc đời còn khổ cực hơn ở nông thôn và do đó, đáng thương hơn. Chẳng hạn như những người thợ giầy kia, Nekhliudov trông thấy họ ngồi làm việc trước lỗ thông hơi một căn hầm, như những người đàn bà thợ giặt kia, gầy gò, xanh xao, đầu tóc bơ phờ, cánh tay khẳng khiu đế trần, họ là quần áo trước những khung cứa mở rộng, hơi nước xà phòng bốc lên tuôn ra cuồn cuộn; lại như hai gã thợ nhuộm mà chàng đã gặp, mình đeo tạp dề, chân đi dép không bít tất nhem nhuốc những thuốc nhuộm từ đầu đến chân, áo xắn lên tận khuỷu tay, mỗi người ôm một thùng thuốc nhuộm trong đôi cánh tay đen sạm, khẳng khiu, yếu đuối, miệng không ngừng chửi nhau. Trên mặt họ, hiện rõ vẻ buồn chán, bực dọc. Cũng vẻ mặt như thế, còn thấy ở những người đánh xe tải, mình đầy bụi bậm, mặt đen thủi, ngồi lúc lắc trên xe và ở những người đàn ông, đàn bà, mặt nề vì phù thũng, quần áo rách bươm, cùng con cái đứng ăn xin ở các góc phố. Cũng những vẻ mặt như thế còn thấy qua các cửa sổ một quán rượu Nekhliudov đi qua. Ở đó, giữa những chiếc bàn bẩn thỉu, trên để chai lọ và cốc uống trà, những anh hầu bàn hoạt bát, đeo tạp dề trắng đi đi lại lại, và quanh bàn là những con người đang hò hét, hát hỏng, mặt đờ đẫn, đỏ gay, mồ hôi nhễ nhại. Một người như vậy ngồi ở gần cửa sổ, lông mày rướn lên, môi trề ra, nhìn đăm đăm trước mặt như cố nhớ lại một điều gì.
"Nhưng làm sao họ lại tụ tập tất cả trong cái thành phố nầy nhỉ?" - Nekhliudov tự hỏi mình và hít vào mũi mùi sơn hăng hắc lẫn với bụi bay theo gió lạnh.
Trong một phố kia, chàng gặp một đoàn xe tải chở đầy những thanh sắt; mặt đường gồ ghề khiến những thanh sắt va chạm vào nhau, phát ra những tiếng loảng xoảng ghê gớm, đinh tai nhức óc. Chàng rảo bước để vượt đoàn xe, bỗng qua tiếng sắt ầm ĩ chàng thoáng thấy có tiếng ai gọi mình. Chàng dừng lại và nhìn thấy cách trước mặt độ mấy bước, một quân nhân, mật mũi sáng bóng ria mép nhọn hoắt, ngồi trong một chiếc xe ngựa thượng hạng đang lấy tay thân mật vẫy chàng, miệng cười để lộ hàm răng trắng lạ lùng.
- Nekhliudov! Có phải cậu đấy không?
Cảm giác đầu tiên của Nekhliudov là vui thích.
- A! Sonbok, - chàng kêu lên, mừng rỡ, nhưng tức thì, chàng thấy ngay không có chút gì đáng để vui mừng với cuộc gặp gỡ nầy cả.
Đúng là gã Sonbok khi xưa đã đến nhà các cô chàng.
Từ lâu, Nekhliudov không gặp hắn, nhưng có nghe đồn, mặc dầu mang công mắc nợ, sau khi rời khỏi trung đoàn, hắn ở lại trong đội kỵ binh và cũng chẳng biết cách nào, hắn vẫn ở trong giới những kẻ giàu có. Nom cái vẻ phớn phở và mãn nguyện của hắn, có thể thấy tin đồn ấy là đúng.
- Gặp được cậu, thực may quá! Mình đang chẳng có ai quen biết ở đây. Nhưng nầy, cậu già đi nhiều rồi. - Hắn vừa bước xuống xe, vừa vươn vai vừa nói. - Mình chỉ nhận ra cậu ở dáng đi. Chúng mình ăn trưa với nhau nhé? Cậu có biết chỗ nào ăn kha khá không?
- Mình sợ không có thì giờ, - Nekhliudov trả lời, bụng nghĩ không biết làm cách gì để giã từ bạn mà không làm mất lòng hắn. - Nhưng cậu làm gì ở đây? - Chàng hỏi.
Mình đến có công việc, ông bạn ạ? Công việc giám hộ ấy mà. Vì mình bây giờ là chân giám hộ, mình quản lý tài sản cho gia đình nhà Xamanov. Cậu biết gia đình ấy chứ? Lão Xamanov triệu phú ấy mà. Lão ta giờ đầu óc hoá ra mụ mẫm, nhưng lão có năm vạn bốn nghìn mẫu đất - Sonbok nói với một vẻ hợm hĩnh đặc biệt, làm như là chính hắn gáy dựng nên cơ đồ mênh mông đó. - Trước kia, công việc bỏ đấy chẳng ai trông nom. Bọn nông dân chúng nó chiếm hết cả ruộng đất và không chịu nộp tô, đọng lại hơn tám vạn rúp tiền nợ. Trong một năm trời, mình làm đảo lộn hẳn cái tình trạng ấy và còn làm tăng mức thu hoạch lên bảy mươi phần trăm. Hừ! Cậu thấy thế nào? - Hắn kiêu hãnh hỏi.
Nekhliudov nhớ lại trước kia có nghe thấy người ta đồn chính vì đã phá tán hết cả gia tài, lại mang công mắc nợ không trả được, gã Sonbok nầy, sau nhờ có quan thầy đặc biệt nên đã được chọn là người quản lý tài sản cho một cự phú già. Bây giờ, hiển nhiên là hắn đang sống bằng cái nghề đó.
"Làm thế nào dứt được nó để đi mà không làm nó mất lòng", Nekhliudov nghĩ ngợi, chàng vừa ngắm nghía cái mặt sáng bóng, phì nộn, có bộ ria xức dầu bóng nhẫy của bạn, và nghe hắn tán huyên thuyên về công việc hắn quản lý tài sản…
- Thế nào? Chúng ta đi ăn ở đâu bây giờ?
- Thật quả là mình không có thì giờ, - Nekhliudov vừa nói vừa nhìn chiếc đồng hồ đeo tay.
- Vậy thì thế nầy nhé chiều nay có đua ngựa, cậu đi chứ?
- Không, mình không đi.
- Có chứ. Mình không còn con ngựa nào cả, nhưng mình có ngựa của Grisa. Cậu nhớ không? Hắn có một tàu ngựa hay lắm. Vậy cậu đi nhé, chúng mình sẽ ăn bữa chiều với nhau.
- Mình cũng không thể ăn chiều với cậu được đâu! - Nekhliudov mỉm cười nói.
- Ồ có chuyện gì thế? Thế bây giờ cậu đi đâu? Sẵn xe đây cậu có muốn mình đưa cậu đi không?
- Mình đi đến nhà một luật sư ở ngay góc phố kia.
- À! Phải rồi, bây giờ cậu đang bận về mấy cái nhà lao có phải vậy không. Nghe nói cậu thành người đi minh oan cho lũ phạm nhân phải không" Gia đình Korsagin đã nói cho mình biết. - Sonbok vừa nói vừa cười. - Gia đình nhà ấy họ đi rồi. Nào có chuyện gì thế? Kể cho mình nghe với?
- Ừ ừ, đúng cả đấy nhưng giữa đường phố như thế nầy mình không thể kể cho cậu nghe được.
- Tất nhiên, tất nhiên, cậu thì bao giờ cũng vẫn là một con người khác thường. Thế có đi xem đua ngựa không?
- Không, mình không thể đi được, và cũng không muốn đi. Cậu đừng giận nhé.
- Mình mà giận cáu à? Thật là vớ vẩn. Nhà cậu ở đâu? - Hắn hỏi và bỗng nhiên mặt hẳn nghiêm lại, cặp mắt trở nên dăm đăm, đôi lông mày rướn lên. Rõ ràng hắn đang cố nhớ lại một điều gì và Nekhliudov nhìn thấy ở trên khuôn mặt hắn cũng cái vẻ đờ đẫn mà chàng đã thấy trên một người có đôi lông mày rướn cao và cặp môi trề ra, ngồi ở cửa sổ quán rượu: cái vẻ mặt đã khiến chàng lấy làm lạ.
- Hừ, lạnh quá nhỉ!
- Ừ ừ
- Những cái gói vẫn ở đấy chứ, anh? - Sonbok quay lại hỏi người xà ích.
- Thôi thế chào cậu vậy, gặp cậu mình rất mừng, rất mừng. - Hắn nói và, sau khi đã siết chặt tay Nekhliudov, hắn nhảy lên xe, lòng bàn tay rộng bản, đi găng da hươu màu trắng vẫn vẫy ra trước, khuôn mặt bóng loáng, miệng nở nụ cười quen thuộc, để lộ hàm răng cực kỳ trắng.
"Có thể nào ta cũng đã như thế?" - Nekhliudov vừa tự hỏi mình, vừa tiếp tục đi đến nhà luật sư. - Dù cho là không hoàn toàn giống như thế, thì ta cũng đã từng ước ao được như thế và mong sống một cuộc đời giống như thế.
Chương 70
Nekhliudov không phải đợi lần lượt, chàng được viên trạng sư tiếp ngay và y nói luôn với chàng về vụ án mẹ con bà Melsov, y đã nghiên cứu hồ sơ, và rất công phẫn vì cái lối buộc tội vô căn cứ.
- Vụ nầy thật là đáng phẫn nộ? Rõ ràng là tên chủ nhà đã tự nó châm lửa đất nhà để lĩnh tiền bảo hiểm. Nhưng cái chính là ở chỗ tội lỗi của mẹ con bà Melsov hoàn toàn không có lấy một tang chứng. Chẳng qua chỉ tại viên dự thẩm quá ư sốt sắng và viên phó chưởng lý làm ăn cẩu thả mà ra. Nếu vụ nầy được đưa ra xử ở đây chứ không phải ở toà án quận, thì tôi cam đoan cãi cho họ được kiện mà không lấy một xu tiền công. Còn về việc thứ hai, sớ xin đại xá của Fedoxia Biriukov đệ trình lên đức Hoàng đế, tôi đã thảo xong, nếu ông có đi Petersburg thì mang theo, đích thân đệ trình lấy và thỉnh cầu, nếu không, họ sẽ tự hỏi bộ Tư pháp, và ở đấy, người ta sẽ trả lời quấy phá cho qua chuyện, thế tức là công việc sẽ chẳng đi đến đâu. Ông phải cố tìm những vị cao cấp có thế lực mới được.
- Đến tận Hoàng thượng à? - Nekhliudov hỏi.
Viên trạng sư mỉm cười:
- Đấy là cấp tối cao, còn cấp cao tôi muốn nói đây là bí thư hay chủ tịch Ban khiếu tố(1). Thế là đủ cả rồi.
- Chưa, tôi có một cái thư của những tín đồ tông phái, - Nekhliudov vừa nói vừa rút ở trong túi ra lá thư. - Nếu chuyện họ kể mà có thật thì cũng khó mà tưởng tượng nổi. Tôi định sẽ đi gặp họ ngày hôm nay xem vụ nầy thế nào.
- Tôi thấy thế nầy thì ông thành ra một cái phễu, một cái ống máng để tất cả những oán thán trong nhà tù trút qua – viên trạng sư mỉm cười, nói - những chuyện như loại nầy thì cơ man nào mà kể, ông không cáng đáng hết được đâu Nhưng đây thật là một vụ kỳ lạ, - Nekhliudov trả lời và chàng tóm tắt câu chuyện:
Ở một làng nọ, nông dân tụ họp nhau lại đọc kinh Phúc âm, bị nhà đương chức đến giải tán. Hôm chủ nhật sau, họ lại tụ tập nhau lại, lần nầy tên đội trưởng cảnh sát huyện đến lập biên bản, rồi đưa họ ra toà. Viên dự thẩm mở cuộc điều tra, viên phó chưởng lý thảo bản cáo trạng, rồi toà án công nhận lời buộc tội. Lúc viên phó chưởng lý buộc tội tang vật nằm ở trên bàn chỉ là những bản kinh Phúc âm. Đám nông dân bị kết tội đi đày.
- Thật là kinh khủng, - chàng nói thêm. - Có thể như thế được ư?
- Cái gì làm ông ngạc nhiên kia chứ?
- Thì tất cả ; Ừ, nếu chỉ là việc làm của viên đội trưởng cảnh sát thì còn có thể hiểu được, hắn ta chỉ biết chấp hành mệnh lệnh, nhưng đến phó chưởng lý, người đã làm ra bản cáo trạng, một kẻ có học thức…
- Cái lầm chính là ở chỗ đó. Chúng ta cứ tưởng bọn biện lý, thẩm phán gồm toàn những con người mới, những người có tư tưởng tự do. Đúng, có một thời kỳ, họ là những con người như vậy đấy. nhưng giờ đây thì khác hẳn. Họ chỉ còn là những viên chức chăm chăm đợi đến ngày hai mươi mỗi tháng để lĩnh lương, mà lương thì họ muốn được tăng lên không ngừng. Tất cả những nguyên tắc làm việc của họ chỉ có thế thôi. Họ tuỳ tiện muốn buộc tội xét xử kết án ai, tuỳ ý thích của họ.
- Vâng, nhưng có lẽ nào luật pháp lại cho phép đầy người ta đi Siberi chỉ vì đã tập hợp nhau lại đọc kinh Phúc âm? Không những nó cho phép đày họ đến những nơi xa xôi mà nó còn có thể lên án khổ sai nữa, nếu có chứng cớ rằng, khi đọc những bản kinh Phúc âm, những người nông dân kia đã tự tiện giảng cho người khác theo một ý nghĩa không giống ý nghĩa mà Giáo hội đã quy định; vì như vậy là chỉ trích lời giảng giải chính thức của Nhà thờ. Mà theo điều 196 thì làm tổn thương đến đức tin chính giáo ở nơi công cộng là bị tội đày đi biệt xứ.
- Điều đó không thể được.
- Tôi cam đoan với ông là đúng thế đó. Tôi thường bảo với ngài tư pháp, - viên trạng sư tiếp tục - rằng tôi không thể nào nhìn họ mà không cảm ơn họ, nếu tôi mà không bị bỏ tù, và cả ông nữa, cả mọi người chúng ta nữa, cũng vậy, là chỉ nhờ tấm lòng nhân đức của họ mà thôi. Chứ tước đoạt quyền công dân của chúng ta và đày mỗi người trong bọn ta đến những nơi xa xôi, thật không còn gì dễ hơn.
- Nếu sự thể là như vậy và tất cả đều phụ thuộc vào cái sở thích của viên chưởng lý hoặc những kẻ có quyền tuỳ tiện thi thành hay không thi hành luật pháp thì còn cần gì đến toà án nữa.
Viên trạng sư phá lên cười vui vẻ:
- Ông nói gì mà lạ vậy? Đó, là triết lý đấy, ông bạn ơi. Chúng ta có thể thảo luận về vấn đề nầy được đấy? Vậy mời ông thứ bảy lại nhà tôi chơi, ông sẽ gặp những nhà bác học, những nhà văn, những nhà hoạ sĩ. Và chúng ta có thể thảo luận về những vấn đề chung đó - viên trạng sư vừa nói vừa mỉa mai nhấn mạnh mấy tiếng "vấn đề chung" - Nhà tôi đã được biết ông, vậy thế nào ông cũng đến nhé.
- Tôi sẽ cố gắng, Nekhliudov trả lời, chàng cảm thấy đúng là mình nói dối và nếu chàng có cố gắng thì chỉ là để khỏi phải dự cuộc họp mặt buổi tối đó ở nhà viên trạng sư với các nhà bác học, các nhà văn, các nhà hoạ sĩ.
Cái cười của viên trạng sư để trả lời Nekhliudov khi chàng nhận xét cho toà án là vô dụng nếu các thẩm phán có thể tuỳ tiện thi hành bay không thi hành luật pháp, và những "vấn đề chung" tỏ cho Nekhliudov thấy quan điểm của chàng về những vấn đề nầy khác hẳn quan điểm của viên trạng sư và chắc hẳn là bạn bè của y nữa.
Chàng cảm thấy dù khoảng cách hiện nay giữa chàng với những bạn cũ như Sonbok có xa mấy đi nữa thì cái khoảng cách giữa chàng với viên trạng sư và giới của y vẫn còn xa hơn nhiều.
Chú thích:
(1) Ban Khiếu tố là một thẩm cấp đặc biệt có nhiệm vụ xét các sớ thỉnh nguyện (xin ân xá) trình lên nhà vua. Thẩm cấp nầy được đặt ra từ năm 1810 và là một bộ phận trong Hội đồng Chính phủ. Từ 1835 đến 1884 nó có quyền tự trị và trở thành một ban của Ngự tiền văn phòng của Nga hoàng (Chú thích của bản dịch Pháp văn của Edouard Beaux)