Giang Nam Oán Lục
Hồi 3
Uyên đê tiêu dao ngộ
Hồi gia tam nghi mang
Hai người ra roi, thúc ngoi lên đèo.
Đến đỉnh, Tiểu Băng kinh hãi nhận ra hai lão già cao gầy, sắc diện tái xám, mũi két, mắt diều loang loáng hàn quang.
Dung mạo ấy chính là của Chấp Pháp Song Tướng của Thiên Độc Giáo. Uy quyền của bọn họ chỉ dưới một mình giáo chủ ôn Thiếu Bảo.
Tiểu Băng tuyệt vọng nói:
- Nay nhị bá phụ đã đứng ra gã tiểu nữ cho công tử đây rồi, nhị vị còn truy đuổi làm gì nữa?
Lão không râu là đệ nhất chấp pháp Bùi Tự Viên, cười nhạt đáp:
- Giáo chủ đã nghe báo việc này.
Người bảo chỉ cần giết gã oắt con kia đi là tiểu thư lại trở thành gái không chồng.
Dường như đã bàn bạc từ trước, lão vừa dứt lời thì đệ nhị chấp pháp Bùi Thế Đông vung chưởng quạt bay Văn Tuấn Hạc xuống vực thẳm.
ôn Tiểu Băng đau đớn gào lên, chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị Bùi Tự Viên búng một đạo chỉ phong vào huyệt Bộ Long. Nàng điên cuồng chửi mắng:
- Hai lão khốn kiếp kia, bổn cô nương thề sẽ phân thây bọn ngươi ra"
Lão cười nhạt, điểm luôn Thụy Huyệt của nàng. Cả hai lên ngôi phi mau, không để ý gì đến việc sống chết của Tuấn Hạc .
Lúc này chàng đang rơi xuống vực thẳm. Chưởng lực của Bùi lão quái quả là uy mãnh tuyệt luân.
Nhưng không hiểu do hoàng thiên hữu nhãn hay Tuấn Hạc chưa đến số chết, chàng rơi vào đám dây leo gai góc mọc trên vách. Nhờ vậy, tốc độ rơi chậm dần.
Cuối cùng, chàng nằm lịm người trên một mõm đá lớn bằng ba mảnh chiếu nhô ra khỏi sườn vực thẳm.
Tuấn Hạc ngất xỉu đến gần một canh giờ mới hồi tỉnh. Chàng mừng rỡ khi nhận thấy mình còn sống nhưng lo âu khi thấy miệng vực cao đến bốn năm chục trượng Kiểm tra lại cơ thể, chàng nhận ra mặt và toàn thân đầy những vết trầy sướt do gai góc.
May thay, bọc hành lý may bằng lụa dày nên chưa rách tung ra và vẫn còn vướng trên vai. Chàng và Tiểu Băng đã dồn chung y phục vào một bọc nên chiếc hỏa tập của nàng cũng ở đây. Tuấn Hạc tìm thấy, mừng rỡ bật lên quan sát vách vực Trước mặt chàng là một động khẩu nhỏ rộng độ nửa trượng.
Lúc đầu, vì e sợ độc vật, rắn rít nên chàng không dám vào. Nhưng nhờ lại rằng mình đã uống Thiên Độc Thần Đan, chàng bạo dạn tiến lên. Nếu ở lại mõm đá chàng sẽ không chịu được cái lạnh của đêm đông.
Tuấn Hạc ngạc nhiên khi thấy đường vào sạch sê, bằng phẳng, hai bên vách lại có khảm dạ minh châu to bằng quả trứng tỏa ánh sáng dịu nhạt. Chợt có luồng gió nhẹ từ trong thổi ra, mang theo mùi hương thơm của quả chín.
Đang đói khát, chàng phấn khởi bước nhanh. Được vài trượng, một hang động thiên nhiên rộng rãi hiện ra. Trần hang lố nhố muôn ngàn thạch nhũ, phía dưới là một hồ nước nhỏ rộng chừng hơn trượng.
cạnh hồ là một cây thấp, lá màu tím thẫm và lủng lẳng trên cành là bảy quả lạ, hình dáng giống lê mà vỏ trắng như sữa.
Chắc đã đến lúc chín mùi nên hương thơm ngào ngạt.
Dù đọc nhiều sách vở cổ kim, nhưng chàng vẫn không nhận ra lai lịch cây lạ kia. Không ăn cũng chết! Tuấn Hạc thở dài phó mặc, hái một trái ăn thử. Không ngờ, mùi vị lại ngon phi thường, tuy có hơi đắng vị thuốc bắc. Chàng ăn một mạch hết bảy quả, cúi xuống uống vài ngụm nước trong hồ.
Bông chàng nghe bụng nóng lên dữ dội, luồng nhiệt khí lan khắp châu thân, xông thẳng lên óc, da thịt trương phồng vô cùng đau đớn. Tuấn Hạc kinh hãi, cố lết xa hồ nước, đế cạnh vách động mà rên la, quằn quại.
Chàng lăn lộn đến nổi tấm đồng bài trong giầy rơi ra, nằm lăn lóc bên cạnh.
Lát sau, Tuấn Hạc mê man bất tỉnh, không còn biết gì nửa.
Và rồi, từ ngoài cửa động, một bóng trắng nhỏ bé lướt vào. Đó mà một con vượn bạch, mắt đỏ như lửa.
Nhận ra linh quả đã bị ăn sạch, nó giận dữ hú lên ghê rợn, định chụp lấy Tuấn Hạc mà xé xác. Nhưng nó chợt thấy tấm đồng bài liền dừng tay, nhặt lên xem xét và gãi đầu ngơ ngẩn.
Lát sau, Bạch Viên nhẩy nhót như mừng rỡ. Nó lao vào trong, lấy ra một vò rượn rỗng, múc nước dưới hồ tạt vào mặt Tuấn Hạc. Có lê sự công phạt của dị quả đã hết, chàng hồi tỉnh.
Ngày còn thơ ấu, Tuấn Hạc cũng nuôi một con khỉ nên rất mến loài linh trưởng này. Chàng vui vẻ hỏi:
- Phải chăng đây là nơi cư trú của ngươi?
Hỏi chỉ để tỏ sự thân tình, không ngờ Bạch Viên gật đầu xác nhận. Nó còn dơ tấm đồng bài lên và chỉ vào ngực chàng, như muốn hỏi có phải của chàng hay không? Tuấn Hạc hiểu ý đáp:
- Đúng vậy ! Vật này là của ta "
Bạch Viên vui mừng, hoa tay múa chân, thọt khét một hồi. Tuấn Hạc chịu thua, cười bảo:
- Ta không thể hi êu được "
Bạch Viên tức tối nắm tay chàng lôi vào trong. Tận cùng của hang động là một tảng đá vôn vức, nhẵn nhụi, cao hơn dầu người. Trên ấy là pháp thể của một lão nhân mặc áo thư sinh màu trắng đã Oá vàng vì thời gian. Đầu ông đội mũ Khổng Minh. Bộ râu dài năm chòm và gương mặt đoan chính khiến Tuấn Hạc sinh lòng kính nghiêng. Chàng sụp xuống thi đại lễ:
- Vãn bối ngộ nạn, vô tình lạc bước đến nơi tọa hóa của tiền bối. Ba lạy này gọi là để tạ lỗi đã mạo phạm chốn tôn nghiêm.
Chàng lạy xong, nhận ra Bạch Viên tỏ vẻ hài lòng. Nó chạy vào gốc động, mày mò một lát, đem ra một gói giấy dầy dưa cho chàng xem.
Thấy trên thạch án có ngọn tọa đăng còn hơn nửa bình dầu, chàng vươn tay lấy xuống đốt lên.
Sau lớp giấy dầu kia là bọc vải dầy, chứa hai quyển sách và một mảnh hoa tiên cũ kỹ. Tuấn Hạc mở ra đọc thử:
hậu sinh nhã giám"
Lão phu tung hoành thiên hạ bốn chục năm, không tìm ra đối thủ nên cảm thấy mình cô độc. Năm bảy mươi tuổi, phát hiện vực thẳm này có một cây Tử Diệp Bạch Lê - Kỳ toàn chí bảo của đất trời - Lão phu tìm xuống xem thử. Nhận ra nơi nầy thanh tịnh có thể tu tiên được nên ở lại ẩn cư và chờ đợi. Hai mươi năm sau, lão phu giác ngộ đại đạo, lòng hư tĩnh, sáng suốt, không còn chút dục vọng nào nữa và tính toán được cả chuyện vị lai. Vì vậy lão phu biết rằng mười lăm năm sau sẽ có người lạc vào đây, đúng lúc linh quả chín mùi. Người này sẽ kế thừa sở học của lão phu mà tạo phúc cho bách tính.
Lão phu cho rằng không còn vướng bận gì nơi trần tục nên thanh thản ra đi. Tiểu Bạch là thần vật hiếm có, hiểu rõ tính người và dũng mãnh tuyệt luân. Mong người hữu duyên hãy đối xử tử tế với Bạch Viên"
Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt di bút ! " Tuấn Hạc vui mừng khôn xiết, xem đến hai quyển sách. Một là pho Võ Kinh Thủ Lục, hai là Y Kinh Chân Giải.
Chàng biết là mình đã ngộ kỳ duyên, liền đứng trước thạch án lạy chín lạy khấn rằng:
- ân sư! Đồ nhi quyết không phụ lòng của người "
Tử đó, chàng ở lại thạch động, chuyên tâm rèn luyện. Bạch Viên chính là một vị sư huynh rất tốt, nó đã ở bên Công Tôn Quang Nguyệt suốt năm mươi năm nên thuộc lòng từng thế thức trong pho Cuồng Kiếm. Chàng thi triển sai là nó biết ngay và sửa lại. Tuy chỉ có mười tám chiêu nhưng biến hóa thành ngàn chiêu rất dễ dàng.
Pho chưởng có tên là Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ, bao gồm cả quyền, cước, chưởng, chỉ và phất huyệt vô cùng uyên ảo bác tạp. Tiểu Bạch đã được chân truyền tuyệt kỹ này. Nhưng do không thể luyện nội công, chỉ dựa vào thần lực thiên sinh nên không phát ra chưởng kình.
Bảy trái Tử Diệp Bạch Lê đã đem lại cho Tuấn Hạc gần bốn mươi năm công lực Nếu không, chàng chẳng thể nào hoàn thành được các tuyệt kỹ của Cuồng Kiếm Thần Y. Nhất là pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải đòi hỏi một nguồn chân khí sung mãn, hùng hậu mới thi triển được.
Thần Viên Tiểu Bạch là đối thủ duy nhất của chàng. Nó từng theo Công Tôn Quang Nguyệt đánh hàng trăm trận, lịch duyệt có thừa. Cộng với tính linh thông, ranh mãnh. Tiểu Bạch nhiều lần dồn Tuấn Hạc vào thế hạ phong. Nhờ vậy, chàng ngày càng lãnh hội được tinh túy sở học của ân sư.
Chàng cũng học luôn cả phép xoay chuyển linh hoạt của loài vượn nên thân pháp nhanh như điện chớp.
Không muốn tuyệt học gia truyền bị mai một, Tuấn Hạc rèn luyện luôn pho Ngô Câu Đoạt Mệnh Kiếm Pháp. Tuy không hùng mạnh bằng pho Cuồng Kiếm nhưng mức độ quỷ dị, ác độc có phần hơn. Lý do là vì Ngô Câu Kiếm có móc câu ở đầu nên thêm những thức móc giật, đối phương khó đề phòng.
Sau bốn năm khổ luyện, Tuấn Hạc đã đạt được bảy thành Thiết Thạch Thần Công, chịu liền mười đòn như trời giáng của Tiểu Bạch mà vẫn không thọ thương.
Chàng tự lượng đủ sức giết Văn Chí Khải nên tính chuyện rời vực thẳm.
Giờ đây, chàng leo trèo nhanh nhẹn không thua gì Thần Viên, nhưng cơ thể cao lớn và nặng đến hơn trăm cân nên chẳng thể tự trèo lên được. Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch ra ngoài tìm mấy chục sợi giây leo bền chắc, nối lại với nhau.
Lạy tạ pháp thể Cuồng Kiếm Thần Y xong, chàng thu xếp bọc hành lý ít ỏi rồi bảo Tiểu Bạch cầm một đầu dây trèo lên miệng vực, cột vào gốc cây.
Tuấn Hạc thông minh tuyệt thế, lại thực tâm yêu thương Tiểu Bạch nên đã hiểu hết mọi cách biểu hiện của Thần Viên. Cả hai tâm ý tương thông, chẳng còn chút ngăn cách nào cả.
Thoát khỏi vực thẳm, chàng mừng rỡ hú lên cao vút. Tiểu Bạch thấy vậy cũng hú theo.
Y phục cũ của chàng đã quá nhỏ bé, Tuấn Hạc đành phải mượn một bộ trường bào của sư phụ. Tuy cũ kỹ nhưng dệt bằng tơ tốt nên chưa hề rách.
Đã mấy năm qua không thấy ánh dương quang, Tuấn Hạc có làn da trắng xanh, làm nổi bật bộ râu mép rậm rì. Một vết thẹo nhỏ vắt từ tai bên tả xuống khoé miệng chính là dấu vết còn lại của lần rơi xuống vực . Nó không làm cho chàng xấu đi mà càng tăng phần uy vũ, phong trần.
Chàng thừa hưởng của Thiết Long Văn Chí Lãm dáng vóc cao lớn, tay dài chạm gối nhưng không thô ráp như ông và Tuấn Thu, mà đầy vẻ tuấn nhã, thông tuệ.
Tuy nhiên, trong đôi mắt sáng như sao kia, man mác một nổi buồn sâu thẳm.
Chàng buồn vì nhung nhớ và lo lắng cho ôn Tiểu Băng. Chàng đã khổ luyện vì mối huyết cừu và hình bóng kiều diễm của nàng là sự an ủi, khích lệ.
Chàng không biết nàng có thoát khỏi cuộc hôn nhân ép buộc với Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn hay không?
Nghĩ đến tính tình cuộng liệt của tình nương, bất giác Tuấn Hạc toát mồ hôi lạnh Nếu chẳng may nàng đã tự sát thì sao?
Còn nổi buồn thứ hai chính là hạ lạc của đại ca Văn Tuấn Thu và ẩn tình của mối gia thù. Chàng tin rằng Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh không hề nói dối, nhưng vì sao Văn Chí Khải lại đột nhiên yêu thương chàng như ruột thịt?
Trong tâm trạng u uẩn ấy, Tuấn Hạc đưa Thần Viên Tiểu Bạch đi về hướng Nam.
Hai ngày sau, bọn chàng đến thành Hoắc Châu. Việc làm đầu tiên là mua sắm vài bộ y phục và sửa sang râu tóc.
Lúc đầu, chàng định cạo phăng hàng râu mép, nhưng nhớ đến bào huynh, chàng giữ lại. Tuấn Thu cũng có hàng râu xanh như vậy Hỏi thăm lão thợ cạo, chàng mới biết giờ đã là giữa tháng tư năm Hồng VỖ thứ hai mươi bốn.
Đẻ tưởng nhớ đến những kỷ niệm ôn nhu ngày nào với Tiểu Băng, chàng tìm đến khách điếm cũ. Tắm gội thỏa thuê xong, chàng ra phố chọn tửu lâu lớn nhất mà vào.
Không phải vì chàng thèm rượn mà vì chỉ những nơi náo nhiệt như thế, chàng mới có thể hỏi thăm tin tức Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng. Đây là một trong những kinh nghiệm mà Nhâm Bá Linh đã dạy cho chàng.
Quả nhiên, lầu trên của Hoắc Châu đại tửu lâu đầy ắp khách giang hồ. Họ ồn ào đàm luận về cục diện võ lâm, hoặc khoe khoang kiến văn của mình.
Trong đám người ấy có một lão nhân tóc hoa râm, dáng người nhỏ bé, mặt mũi tinh ranh như mặt chồn. Lão chẳng nói gì mà cứ vân vê chòm râu dê vàng hoe, mỉm cười khinh mạn. Nhưng lát sau, lão ngứa miệng bật thốt:
- Chư vị quả là những người thông thái lịch lãm. Nhưng liệu có biết một việc động trời vừa xảy ra ở vùng Giang Nam hay không?
Quần hùng xôn xao hẳn lên. Một hán tử áo xám tươi cười bợ đỡ:
- Việc ấy thì chỉ có Vạn Bác Hồ Tinh mới biết được thôi! Mong tiền bối dạy cho.
Tuấn Hạc từng nghe Nhâm Bá Linh giới thiệu qua về nhân vật này. Lão có tên là Cù Sở Hòa, thông minh tuyệt mức, xảo quyệt có thừa. Không việc gì trong võ lâm mà lão không biết. Nghe nói lão là người của Cái Bang nên bao giờ cũng nắm được thông tin trước thiên hạ. Chàng định bụng sẽ hỏi lão về tin tức của Tiểu Băng.
Hồ Tinh đắc ý, hắng giọng rồi mới kể:
- Chư vị có nhớ việc Thiết Long Văn Chí Lãm treo giải thưởng một ngàn lượng vàng - cho ai tìm thấy nhị công tử Văn Tuấn Hạc - hồi bốn năm trước hay không? Tháng rồi, Văn nhị công tử xuất hiện ở Triết Giang, thành lập Hoài Hạc Bang. Chàng ta lại lên tiếng tố cáo Thiết Long hiện nay là giả mạo. Lão ấy chính thực là Văn Chí Khải. Mười năm trước đã giết chết Thiết Long và phu nhân rồi thế thân vào. Minh chủ võ lâm Thanh Long Tử - chưởng môn phái Võ Đang - đã nhận được đơn kiện. ông bèn phát võ lâm lệnh bài, triệu Thiết Long đến Võ Đang Sơn trần tình - vào ngày dầu tháng năm này"
Mọi người kinh hãi Oà lên, tíu tít gọi tiểu nhị tính tiền và kéo đi hết. Họ về chuẩn bị gia sự, thu xếp tiền bạc rồi đi Tung Sơn.
Hồ Tinh bực bội lẩm bẩm:
- Tin tức sốt dẻo như vậy mà chẳng tên nào dám bỏ tiền chiêu đãi lão phu cả"
Thật là một lũ bần tiện"
Tuấn Hạc nghe thấy ứng tiếng ngay:
- Tiểu sinh xin được làm việc ấy"
Chàng đứng lên bước qua bàn lão, gọi tiểu nhị dọn một mâm rượn thịt mới.
Vạn Bác Hồ Tinh khoan khoái cười hề hề hỏi:
- Lão phu đang được làm quen với ai đây?
Chàng mỉm cười đáp :
- Vãn sinh là Văn Tư Băng"
Lúc nãy nghe Cù Sở Hòa nhắc đến chuyện Hoài Hạc Bang, chàng linh cảm tên Tuấn Hạc giả mạo kia có thể là đại ca Tuấn Thu, hoặc chính ôn Tiểu Băng.
Nhưng nếu là Tuấn Thu thì bang hội kia sẽ không mang tên Hoài Hạc. Chỉ mình Tiểu Băng biết chàng rơi xuống vực.
Vì vậy bất giác xưng tên giả là Văn Tư Bang - để tỏ lòng hoài vọng mỹ nhân.
Tuy nhiên, chàng phải hỏi cho ra lê mới có thể xác quyết Thần Viên Tiểu Bạch thấy chàng sang bàn khác cũng đi theo. Nó chễm chệ ngồi xuống cạnh bàn, giương đôi mắt đỏ rực nhìn Vạn Bác Hồ Tinh với vẻ nghi ngờ.
Quả thực, gương mặt chồn già kia không lấy gì làm lương thiên.
Cù lão kinh hãi nói:
- Văn lão đệ! Đây là giống Hỏa Nhãn Tuyết Viên hiếm có trên đời, sao lão đệ lại có được?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Vãn sinh gặp Tiểu Bạch cách đây bốn năm ở rặng núi phía Nam thành Tinh Châu.
Rượn thịt được đem ra, hai người nâng chén mời nhau. Cù lão nheo cặp mắt tinh quái hỏi :
- Phải chăng công tử có điều gì muốn nhờ lão phu gỡ rối?
- Thưa phải! Vãn sinh mong tiền bối chỉ giáo tình hình của Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng?
Cù Sở Hòa cau mày đáp:
- cách đây bốn năm, nàng được gã cho Tích Ngọc Lang Quân, thiếu giáo chủ của Thiên Sư Giáo. Nhưng khi thuyền hoa đưa dâu xuôi dòng Trường Giang thì Tiểu Băng đánh trọng thương tân lang rồi gieo mình xuống sông tự tử. Việc này lan truyền khắp thiên hạ, sao công tử không biết?
Tuấn Hạc chết điếng người. Đôi gióng lệ thương tâm lén trào ra mà chàng không hay biết.
Cù lão lộ vẻ cảm thông:
- Té ra công tử có mối thâm tình với ôn tiểu thư. Như vậy cái tên Văn Tư Băng chắc là tên giả?
chàng giật mình, gượng cười :
- Tiền bối quả là thần nhân! Vãn sinh đích thực là Văn Tuấn Hạc ở Văn gia bảo đây Đến lượt Hồ Tinh nhẩy nhổm lên:
- Không lê bang chủ Hoài Hạc Bang là kẻ giả mạo?
Chàng biết lão là người tinh minh, thông thái nên thố lộ tâm sự, nhờ lão gở rối cho:
- Đúng thế! Vãn sinh còn đoán ràng người ấy là đại ca Văn Tuấn Thu"
Cù lão hỏi thêm:
- Vậy lời tố cáo kia có phải là sự thật hay không?
chàng gật đầu xác nhận:
- Bốn năm trước, Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh đã tiết lộ việc này cho vãn sinh biết. Sau đó ông ta bị bọn Hoàng Sơn Nhị Quỷ đánh rơi xuống Hoàng Hà, không rõ số sanh tử thế nào?
Cù Sở Hòa vốn là kẻ hiếu kỳ số một võ lâm, gặp nan đề phải giải cho ra. Vì vậy lão vô cùng thích thú trước vụ án bí ẩn của nhà họ Văn. Lão trầm ngâm suy nghĩ rồi hỏi:
- Thế trong bốn năm nay, công tử lưu lạc phương nào?
Biết lão tinh ranh như hồ ly, chàng đành thú thực :
- vãn sinh cùng ôn tiểu thư trên đường đến Huyền Không Tự để tìm Hằng Sơn Thiền ông thì bị Chấp Pháp Nhị Tướng của Thiên Độc Giáo chặn lại. Họ đánh bay vãn sinh xuống vực thẳm rồi bắt ôn tiểu thư về Nghi Xương. Vãn sinh may mắn thoát chết, nhưng mãi đến nay mới thoát khỏi vực sâu Tuy chàng không nói rõ việc mình gặp kỳ duyên nhưng Cù lão cũng đoán ra.
Nếu không, chàng chẳng thể nào trở lại nhân gian. Lão cười khà khà:
- Họa trung đắc phúc, xin chúc mừng công tử"
Bỗng lão ngớ người suy nghĩ, rồi hồ hỡi nói:
- Lão phu võ đoán rằng công tử đã kể cho ôn tiểu thư nghe nội tình Văn gia bảo? Nếu đúng vậy thì gã Hoài Hạc bang chủ kia có thể chính là nàng ta. Cái tên Hoài Hạc chẳng phải là để tưởng nhớ đến công tử đó sao?
Tuấn Hạc mừng rỡ:
- Vãn sinh cũng nghĩ như vậy nhưng không dám chắc"
Cù lão mỉm cười :
- Đầu tháng năm tới đây, cả Thiết Long lẫn Hoài Hạc Bang chủ đểu có mặt ở Võ Đang Sơn, công tử cứ đến đấy tất sẽ rõ nội tình.
Tuấn Hạc cảm tạ, gọi tiểu nhị tính tiền rồi cáo biệt Hồ Tinh.Thấy lão già nua cô độc áo rách không người vá, Tuấn Hạc cung kính nó i :
- Còn tiền bối, tiền tài như phấn thổ, nhân nghĩa tợ thiên kim. Mong tiền bối nhận chút lòng thành của vãn sinh.
Nói xong, chàng đặt ba tấm tiền giấy trăm lượng bạc xuống bàn.
Cù Sở Hòa chua chát hỏi:
- Dung mạo lão phu gian xảo, hèn hạ như vậy mà công tử không chán ghét sao?
Tuấn Hạc chỉnh sắc :
- Khổng Phu Tử có tướng ngũ lộ xấu xí Lão Tử thì mộc mạc, quê mùa, thô thiển như cây khô! Sao có thể nhìn dung mạo mà xét đoán con người? Hình dáng xấu đẹp tròn vuông là do tự nhiên ban cho, nhưng ai cũng sẵn có cái thiện căn trong tâm. Tiền bối một đời bôn ba vì chuyện của thiên hạ, không màng lợi lộc, vãn sinh hết lòng ngưỡng mộ.
Vạn Bác Hồ Tinh vỗ bàn khoan khoái:
- Sinh ra ta là cha mẹ nhưng hiểu ta chỉ có mình công tử. Lão phu xin đem tấm thân tàn này theo hầu vậy"
Biết lão là người tài trí, Tuấn Hạc phấn khởi vòng tay:
- Được tiền bối di theo dạy bảo, vãn sinh vui mừng khôn xiết "
Hai người vui vẻ rời tửu lâu, mua ngựa rồi lên đường xuôi Nam. Tiểu Bạch quen tính nghịch ngợm, cứ nhảy từ con tuấn mã này sang con kia, Tuấn Hạc hòa nhã noi:
- Tiểu Bạch! Hãy ngồi im, đừng làm ngựa sợ"
Thần Viên lập tức ngoan ngoãn ngồi sau lưng chàng. Cù Sở Hòa thấy con vượn thông hiểu tiếng người, lão suy nghĩ miên man. Cuối cùng, không dằn được tính tò mò, lão cất tiếng:
- Văn công tử, lão phu nhớ ra một cố sự võ lâm, cách nay đã mấy chục năm, đó là một vị đại kỳ nhân có danh hiệu Cuồng Kiếm Thần Y. ông ta có nuôi một con vượn trắng như Tiểu Bạch đây. Dám hỏi sư thừa của công tử?
Tuấn Hạc mỉm cười gật đầu:
- Đúng vây! Người ấy chính là tiên sư"
* * *
Tám ngày sau, khi bọn Tuấn Hạc đến thành Lạc Dương thì nghe tin Thanh Long Tử qua đời vì tẩu hỏa nhập ma. Vụ án Văn gia bảo đành phải hoãn lại chờ bầu tân minh chủ.
Vạn Bác Hồ Tinh liền bàn:
- Nếu vậy, công tử cứ về Văn gia bảo xem thái độ Thiết Long thế nào. Lão phu sẽ đi Chiết Giang dò xem bang chủ Hoài Hạc Bang là ai. Đệ tử Cái Bang sẽ giữ liên lạc giữa hai chúng ta.
Lão trao cho chàng một đồng tiền cổ để làm tín vật điều động bọn hóa tử. Hồ Tinh chua xót nó i :
- Tiền nhiệm bang chủ vì tham vinh hoa phú quý nên đã phục vụ quân Mông Cổ Vì vậy sau khi cuộc chiến kháng nguyên thành công, các môn phái khác đều được tuyên dương và tự do phát triển, duy chỉ có Cái Bang là mất cả tông môn.
Tuy nhiên, anh em vẫn âm thầm duy trì bang hội.
Tuấn Hạc an ủi lão :
- Cái Bang có truyền thống trượng nghĩa, trung liệt từ mấy trăm năm nay, đâu thể vì lỗi lầm của một đời bang chủ mà tiêu diệt được? Sau này tất có ngày trùng hưng trở lại được.
Hai người rời Lạc Dương, đồng hành thêm mấy trăm dặm nữa, đến tận Tín Dương mới chia tay.
Cuối tháng năm, Tuấn Hạc về đến Lư Lăng. Tòa Văn gia bảo thân yêu vẫn sừng sững đứng bên dòng sông Lư Giang trầm lặng.
Cửa bảo đóng kính, chàng xuống ngựa nắm song sắt đập vào cánh cửa gỗ. Lát sau, Trương tổng quản chạy ra, ngỡ ngàng nhìn chàng trai trẻ. Lão đã già đi, mắt mũi kèm nhèm nên chẳng thể nhìn ra nhị công tử. Gia dĩ, chàng đã khác xưa rất nhiều Bộ râu mấy ngày không cạo càng khiến gương mặt thêm xa lạ.
Câu đầu tiên mà chàng hỏi là:
- Xin hỏi Nhâm đại thúc có mặt ở đây không?
Trương lão buồn rầu đáp :
- Bốn năm trước, lão ta đưa nhị công tử lên kinh thi Hội, cuối cùng chẳng thấy trở ve.
Tuấn Hạc thầm thương cho Hoàng Diện Thái Tuế nhưng lại yên tâm vì việc này phù hợp với kế hoạch đã định. Chàng cười b ảo :
- Trương lão không nhận ra Hạc nhi sao? Ta là nhị công tử đây"
Trương Phúc kinh hãi, trợn mắt nhìn cho kỹ rồi ré lên:
- Nhị c ông tử "
Lão ôm chàng khóc dài:
- Trời cao có mắt nên công tử còn sống. Bốn năm qua, Văn gia bảo buồn như có đám ma.
Tuấn Hạc vỗ về lão :
- Trương lão đừng khóc nữa, để ta vào xem có ai nhận ra ta không?
Chàng trao cương ngựa cho lão rồi đủng đỉnh bước vào. Thiết Long Văn Chí Lãm và Hà nhị nương đang ngồi trên bàn bát tiên ở giữa đại sảnh. Bước chân Tuấn Hạc quá êm ái nên họ chẳng hề phát hiện.
văn bảo chủ thì thờ thẩn nhìn qua song cửa phía Tây ngắm ánh hoàng hôn thoi thóp Gương mặt ông hốc hác, đầy vẻ buồn phiền. Hà Tú Chân cặm cụi khâu va.
Tuấn Hạc bước đến gần họ mới nhận ra. Thiết Long ngỡ ngàng nhìn khách, đôi mắt ánh lên niềm nghi hoặc và hân hoan vô hạn. Cuối cùng, từ đôi mắt hổ trào ra những giọt lệ. Thiết Long thất thanh:
- Hạc nhi "
Tuấn Hạc nhìn thấy tất cả. Chàng biết ông ta thực lòng yêu mến mình. Người này chẳng thể là Văn Chí Khải được"
Chàng sụp xuống khó c :
- Hài nhi bái kiến phụ thân và nhị nương"
Thiết Long lao đến ôm chặt lấy chàng, bật cười vang dội:
- ôi hoàng thiên! Ta đội ơn người"
Hà nhị nương cũng khó c . Nàng chẳng thể chạy đến ôm lấy Tuấn Hạc vì chàng đã cao bằng Thiết Long. Tú Chân nghẹn ngào nói:
- Hạc nhi ! Ta tưởng rằng ki ếp này không còn được gặp con nữa.
Thiết Long kéo chàng về bàn rồi quát vang:
- Trương tổng quản đâu, mau chuẩn bị đại yến mừng nhị công tử"
Trương lão đã biết trước và thông báo các gia nhân nên mọi người kéo lên sảnh chúc mừng. Lát sau, họ ùa xuống bếp, chuẩn bị yến tiệc.
Họ đi cả rồi mới có một đứa bé gái độ ba tuổi chạy ra. Dường như nó đang ngủ và bị đánh thức bởi những tiếng ồn ào.
Thiết Long nhấc bổng cô bé lên cười khanh khách:
- Hạc nhi, tiểu nha đầu này là em ngươi đấy! Tên nó là Uyển Lan"
Lan nhi tròn mắt nhìn Tuấn Hạc rồi bập bẹ:
- Phụ thân! Chẳng phải đây là nhị ca mà người vẫn thường nhắc đến?
Thiết Long gật đầu, trao nó cho Tuấn Hạc. Lan nhi bụ bẩm, xinh đẹp như trong tranh, khiến chàng sinh lòng yêu mến.
Lan nhi ôm cổ chàng thủ thỉ:
- Nhị ca đi đâu không chịu về làm phụ mẫu sầu khổ, chẳng ngày nào vui vẻ. Tiểu muội cũng chẳng có ai chơi cùng.
Tuấn Hạc cảm động nói:
- Nhị ca sẽ không đi đâu nữa, Lan muội hãy yên tâm.
Thiết Long nghiêm giọng:
- Bốn năm qua Hạc nhi lưu lạc nơi nào, sao không viết thư về cho phụ mẫu yên lòng? Phải chăng ngươi chính là Hoài Hạc Bang chủ?
Giọng ông nghiêm khắc nhưng ánh mắt đầy vẻ quan hoài.
Tuấn Hạc quên cả kế hoạch đã tính toán, bi phẫn nói:
- Hài nhi không phải là Hoài Hạc Bang chủ, nhưng chẳng hay lời tố cáo ấy có đúng hay không?
Thiết Long cười dài, rồi chỉnh sắc chỉ lên trời mà thề :
- Nếu ta là Văn Chí Khải thì xin cho lôi thần đả tử, trầm luân trăm kiếp trong địa ngục a tỳ"
Vào thời ấy Phật Giáo đang hồi hưng thịnh Ai cũng tin vào thuyết luân hồi.
Hà nhị nương cũng nói vào:
- Hạc nhi! Nếu lão gia là Văn Chí Khải sao có thể đối đãi với ngươi như vậy được? Bốn năm nay, người ăn ngủ không yên, tiêu tốn cả nửa gia sản để truy tìm tông tích.
Tuấn Hạc cảm nhận được sự thành thực của họ nhưng vẫn chưa dám tin hẳn.
Chàng gượng cười :
- Hài nhi đã tin, mong phụ thân thứ tội.
Nhấp hớp trà thơm, Tuấn Hạc kể ra thiên cố sự bịa đặt:
- Năm ấy, Nhâm đại thúc đưa hài nhi đến bờ Trường Giang thì gặp kẻ cựu thù, họ đánh bay hài nhi xuống sông. Tình cờ có một lão già cứu hài nhi lên. Nhưng lão không cho hài nhi đi Nam Kinh mà đưa vào một khu rừng già âm u, cách bờ Bắc chừng hơn trăm dặm. Trong suốt bốn năm, lão bắt hài nhi phải hầu hạ, phục vụ.
Dường như lão già là một lang trung, đang luyện loại đan dược nào đấy. Trong lúc đi hái thuốc, hài nhi tình cờ quen được một con vượn trắng. Một hôm, trong lúc lão ta đang đánh đập hài nhi, Tiểu Bạch xuất hiện giết chết lão Hồ đại phu gian ác. Nhờ vậy hài nhi mới có thể trở về đây Câu chuyện này do chính Vạn Bác Hồ Tinh sắp đặt. Quả thực là phía Bắc Trường Giang có một khu rừng rậm và một người tên ác Y Hồ LỘ Kỳ - lão này đã chết từ lâu nhưng ít ai biết được.
Thiết Long nghe xong quắc mắt gầm lên:
- Khốn nạn thực, nếu lão ta còn sống thì hay biết mấy. Văn mỗ sẽ rửa hận cho Hạc nhi.
Tú Chân cười b ảo :
- Tướng công nói lạ! Nếu lão còn sống thì sao Hạc nhi có thể về nhà được?
Thiết Long sững người, cười xòa:
- Ưø nhỉ ! Thế con Thần Viên ấy đâu?
Tuấn Hạc quay ra gọi :
- Tiểu Bạch"
Linh thú đang say sưa hái quả, nghe gọi liền phóng vào như tia chớp. Tuấn Hạc giới thiệu xong, Tiểu Bạch nghiêm trang vòng tay vái chào.
Hà nhị nương ngạc nhiên:
- Chẳng lê Tiểu Bạch lại thông linh đến thế ư?
- Thưa phải! Nó thông hiểu tiếng người và có sức mạnh như thần.
Uyển Lan thích thú, tuột khỏi lòng Tuấn Hạc, chạy đến vuốt ve con vượn bạch.
Chàng liền dặn dò:
- Tiểu Bạch! Lan nhi còn nhỏ và rất yếu đuối ngươi phải nhẹ nhàng, không được đùa giỡn nặng tay.
Tiểu Bạch gật đầu, ôm lấy Lan nhi đưa ra vườn. Tú Chân biến sắc sợ hãi nhưng Tuấn Hạc đã trấn an:
- Nhị nương chớ lo, hài nhi xin chịu trách nhiệm.
Lát sau, ngoài kia vọng lại tiếng cười trong trẻo của Uyển Lan.
* * *
Tử đó, Tuấn Hạc trở lại là Văn nhị công tử, danh sĩ Triết Giang Tây. Chàng vẫn đọc sách ngâm thơ như ngày nào nhưng sáng sáng cũng ra vườn múa quyền. Thiết Long rất vui vì điều ấy, chỉ bảo thêm cho chàng. Nhưng rồi ông lại bị cuốn hút vào sanh ý của Thiết Long Tiêu Cục Giữa tháng sáu, phó tổng tiêu đầu Thiên Phương Kích Chu Tứ Lân xuất hiện. Tay và chân ông quấn đầy băng trắng. Cách nay mười mấy ngày, họ Chu áp tải đoàn tiêu đi Quý Dương.
Thiết Long kinh hãi hỏi:
- Phải chăng đã gặp cường địch?
Chu Tứ Lân thiểu não nói:
- Bảo chủ! Phen này nguy ngập lắm rồi! Chính Thiên Độc Giáo đã ra tay cườm tiêu xa và ngang nhiên thách thức bang chủ đến hồ Động Đình phó ước! Tam hộ pháp Thiên Độc Giáo là Cổ Túc Chi bảo rằng nếu Thiết Long Tiêu Cục không chịu nộp mỗi năm sáu vạn lượng thì đừng hòng đi về phía Tây nữa"
Thiết Long giận dữ nói:
- Vân mỗ coi lũ chó rơm đó ra gì! Sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi Động Đình Hồ"
Chu Tú Lân đi rồi, Tuấn Hạc hỏi ngay:
- Hài nhi nghe nói Thiên Độc Giáo rất lợi hại. Phụ thân kéo quân đi không sợ đối phương dùng độc hay sao?
thiết Long buồn rầu đáp :
- Ta cũng biết mình không địch lại Thiên Độc Giáo, nhưng chẳng thể để thanh danh trôi theo dòng nước! Ngày mai ta sẽ đi một mình vì không muốn anh em uổng mạng "
Tuấn Hạc vui vẻ bảo :
- Hài nhi ở với ác Y Hồ LỘ Kỳ mấy năm, cũng học được đôi điều hữu ích.
Chờ hài nhi vào chế xong thuốc phòng độc rồi người hãy đi"
Thiết Long hân hoan trả lời:
- Hay lắm ! Nếu thế thì ta chẳng sợ ai ca.
Trong bốn năm ở dưới vực sâu, Tuấn Hạc có đủ thời gian để thuộc lòng và thấu hiểu Y Kinh. Nhờ vậy, chàng biết được đặc tính thần diệu của rễ cây Tử Diệp Bạch Lê. Khi trở lên mặt đất, chàng đã đem theo số rễ cây ấy - dưới dạng bột khô Đây là nguyên liệu quý giá để tiền chế những loại thuốc bổ, thuốc trị thương và thuốc giải độc.
Chỉ trong ba ngày, chàng đã có trong tay hơn trăm viên Giải Độc Đan.
Sáng ngày mười chín tháng sáu, Thiết Long cùng hai mươi tiêu sư lên đường đến Động Đình Hồ.
Trước lúc khởi hành, Tuấn Hạc bảo Thiết Long:
- Phụ thân! Sao người không nhờ nghĩa công và nghĩa bà - Nhật Nguyệt Song Ma - đi theo trợ chiến? Nếu lần này Thiên Độc Giáo đưa đến nhiều đại cao thủ thì sao?
Thiết Long sững người suy nghĩ, vỗ đùi khen:
- Hay lắm! Yù kiến của Hạc nhi quả là tuyệt diệu. Ta sẽ ghé ngang qua Ngọc S ơn thỉnh họ cùng đi .
Đoàn nhân mã khuất xa, Tuấn Hạc cùng Hà nhị nương trở vào, chàng bỏ ra vườn đi xuyên qua cánh rừng tùng sau bảo, dện bờ sông Lư Giang ngắm gióng nước hiền hòa trôi. Lư Giang là dòng sông nhỏ, nước trong xanh chứ không vàng đục như Hoàng Hà.
Nửa tháng qua, chàng đã để tâm quan sát theo dõi hành động của Thiết Long.
Nhiều đêm, chàng phục dưới cánh cửa sổ để nghe ngóng, cố tìm ra chút sơ hở, nhưng chẳng phát hiện được gì. Trong câu chuyện phòng the, Thiết Long vẫn mãi nhắc đến chàng với giọng trìu mến, thương yêu.
Sau ngày chàng trở lại nhà, chàng đã hỏi Thiết Long về tin tức của đại ca Văn Tuấn Thu. Văn bảo chủ buồn bã nói rằng không biết. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau có một lái buôn đem đến tiêu cục - ở thành Lư Lăng - một phong thư của Tuấn Thu.
Thiết Long nhận được, mừng rỡ trao cho chàng đọc. Tuấn Hạc rất quen thuộc với nét chữ của đại ca nên biết rằng không phải là giả. Nội dung trong thư, Tuấn Thu tạ lỗi vời Thiết Long và bảo rằng chàng đã định cư ở Tây Vực và không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa.
Có cả những lời hỏi thăm thân thiết dành cho Tuấn Hạc .
Như vậy Thiết Long không hề giết Tuấn Thu như lời Nhâm Bá Linh đã phỏng đoán. Nhưng sơ hở lớn nhất của Thiết Long và Hà Tú Chân là họ không hề mở miệng thóa mạ Hoàng Diện Thái Tuế Nhâm Bá Linh. Lão ta chính là người có tội lớn nhất trong việc ly gián tình phụ tử giữa Thiết Long và Tuấn Hạc. Chính điểm này đã nuôi dưỡng nghi ngờ trong lòng chàng.
Một chiếc thuyền chài lướt ngang qua.
Trên thuyền thấp thoáng một bóng nghi nữ áo đen đang uyển chuyển đẩy mái chèo. Cảnh tượng này hợi nhớ đến Thiên Độc Thánh Nữ ôn Tiểu Băng. Chàng muốn đi ngay Chiết Giang để xem gã bang chủ kia có phải là nàng hay không?
Chàng lại lo lắng khi không nhận được tin tức của Vạn Bác Hồ Tinh.
Thơ thẩn cả canh giờ, chàng mới trở lại khu hậu viện. Lúc đi ngang qua khuê phòng của nhị nương, Tuấn Hạc thoáng thấy bà đang ngồi ủ rủ, nhìn qua khung cửa sổ đôi dòng châu lã chã tuôn rơi.
Chàng biết bà đang lo lắng cho Thiết Long, định vào an ủi nhưng không dám.
Ngày còn thơ ấu, chàng thích thú được bà ôm ấp vỗ về. Giờ đây, chàng đã trưởng thành mà bà vẫn thon thả, kiều diễm. Ở tuổi ba mươi bảy, nhị nương chỉ như gần tam thập.
Tuấn Hạc trở về phòng, chuẩn bị đi Động Đình Hồ. Trước khi biết rõ thực hư, chàng không thể để Thiết Long gặp nguy được Nhưng Hà nhị nương đã đến. Bà dặn dò chàng :
- Hạc nhi ! Nhị nương có hẹn đến chơi với phu nhân huyện lệnh Lư Lăng, có thể mai mới về. Mọi việc trong Bảo, mong Hạc nhi quán xuyến dúm.
Chàng vui vẻ gật đầu nhưng trong lòng đầy nghi vấn. Hà nhị nương rất yêu thương Thiết Long, không thể thản nhiên đi chơi trong khi trượng phu đang đi vào hổ huyệt. Nhất là lúc nãy bà đã khóc vì lo lắng.
Bà đi rồi, Tuấn Hạc giao sự vụ cho Trương tổng quản rồi cũng đi luôn. Văn Uyển Lan đã có nhũ mẫu trong nom nhưng chàng cũng phải để Thần Viên ở lại chơi với nó. Chàng đã nói với Trương lão là mình đi Cát An thăm bằng hữu.
Tuấn Hạc dùng khinh công bám theo ngựa của Hà Tú Chân. Đến một cánh rừng vắng gần thành, nhị nương nhìn trước nhìn sau rồi rê vào. Được hơn mười trượng bà nhảy xuống ngựa, cởi bỏ bộ cung trang. Tuấn Hạc kinh hãi không dám nhìn.
Khi chàng mở mắt ra thì bà đã mặc xong bộ võ phục màu thanh thiên, dung mạo thay đổi hoàn toàn. Thì ra người đàn bà dịu dàng, nhân hậu kia là một cao thủ võ lâm có tài dịch dung thần diệu.
Đôi nhãn quang sắc bén của chàng không hề nhận ra chút sơ hở của gương mặt giả kia. Tuấn Hạc toát mồ hôi nghĩ đến việc Thiết Long cũng mang mặt nạ.
Nhưng suy nghĩ lại, chàng biết Hà Tú Chân không dính dáng đến vụ huyết án thay mận đổi đào mười chín năm trước.
Việc đại ca Tuấn Thu cứu nhị nương đem về Bảo thì chàng vẫn nhớ rõ.
Văn nhị phu nhân hóa trang xong, rời khỏi cánh rừng và phi nước đại. Tuấn Hạc đoán rằng bà đi Động Đình Hồ để hỗ trợ cho Thiết Long Văn Chí Lãm. Địch thủ chưa rõ nhưng chàng vẫn mừng cho Thiết Long có được người vợ chí tình, chí nghĩa .
Đã biết mục tiêu, Tuấn Hạc thong thả đuổi theo. Đến trấn Đại Lâm, chàng ghé vào mua ngựa đi tiếp.
Hà nhị nương nóng ruột quất ngựa phi nhanh. Tuấn Hạc cũng vội nhưng giữ một khoảng cách chừng gần trăm trượng.
Chiều hôm sau, Hà Tú Chân và Tuấn Hạc lần lượt đến trấn Trường Đức - gần hồ Động Đình.
Đoàn người ngựa của Thiết Long tuy khởi hành trước hai canh giờ nhưng cũng đến trước chẳng bao lâu. ông không biết rằng vợ và con cũng đuổi theo.
Hà nhị nương trong dung mạo giả, thản nhiên trọ cùng khách điếm với phu quân.
Tuấn Hạc thì ở lữ quán đối diện.
Sáng ra, Thiết Long dương cờ tiêu cục, tiến ra bờ hồ. Nơi đây, có một phân đàn của Thiên Độc Giáo. ông kéo quân đến trước cửa, quát vang như sấm:
- Thiên Độc Giáo! Van mỗ đã y hẹn đến phó ước "
Chung quanh khu vực này có những khoảng rừng đào, liễu rậm rạp nên Tú Chân và Tuấn Hạc ẩn nấp dễ dàng. Tuấn Hạc chăm chú nhìn kỹ hai nhân vật đứng cạnh Thiết Long, họ chính là Nhật Nguyệt Song Ma.
Nhật Ma Hách Động Doanh người béo lùn, râu bạc, mặt đỏ như son, quanh lưng quấn một sợi nhuyễn tiên vàng nhạt. Còn Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy là một lão bà cao gầy, mặt sát xương tái mét. Trong tay bà có một cây Long Đầu Quải Trượng bằng một thứ kim loại đen sì.
Hoàng Diện Thái Tuế từng kể rằng:
- Mười chín năm trước, Song Ma đã theo Văn Chí Khải về Văn gia bảo. Họ ở lại một đêm mới quay về Ngọc Sơn - Nam Xương. Chí Khải nói là chính Song Ma cứu mạng lão nên trở thành nghĩa phụ, nghĩa mẫu. Tuấn Hạc thầm nghĩ: có thể song Ma có liên quan đến cái chết của cha chàng vì một mình Văn Chí Khải không thể giết được Văn Chí Lãm.
Lúc này, các cao thủ Thiên Độc Giáo xuất hiện. Tuấn Hạc đã không đoán sai, ngoài Tam hộ pháp Cổ Túc Chi, còn có Chấp Pháp Nhị Tướng Bùi Tự Viên và Bùi Thế Đông. Sau lưng là năm mươi giáo chúng áo xanh, hông đeo độc đao.
Nhật Ma tính nóng như lửa, thấy mặt đối phương là mắng ngay:
- Thiết Long là nghĩa tử của Nhật Nguyệt Song Ma. Nay Thiên Độc Giáo dám cướp tiêu, đòi cống nạp, tức là chẳng coi vợ chồng lão phu ra gì rồi"
Tam hộ pháp C Oå Túc Chi cười nhạt :
- Bổn giáo thống trị địa bàn ba phủ Hồ Nam, Giang Tây, Quí châu. Các nơi khác đều răm rắp tuân phục, lẽ nào Thiết Long Tiêu Cục lại được ngoại lệ?
Thật ra thì họ chỉ mới có ý định bành trướng vào phủ Giang Tây mà thôi. Văn gia bảo chính là hòn đá cản đường mà họ muốn hất đi .
Nguyệt Ma bật cười the thé:
- Để xem lũ ngươi có được bao nhiêu bản lĩnh mà dám ngông cuồng?
Dứt lời, bà vung Quải Trượng lao đến như tia chớp. Khí thế mãnh liệt như vũ bảo. Phu thê tâm ý tương thông, Nhật Ma cũng đồng thời xuất thủ. Cây Hoàng Long Tiên của lão thắt nên những vòng tròn chết chóc, chụp xuống đầu Chấp Pháp Nhị Tướng.
Thiết Long và hai mươi tiêu sư cũng xông vào đám giáo chúng áo xanh. Thanh Ngô Câu Kiếm đặc dị trong tay ông lồng lộn như thần long, lập tức chém chết hai tên.
Đám tiêu sư đi theo Thiết Long thục ra là những đệ tử thân tín. Họ được ông truyền cho phép đánh Ngô Câu Kiếm của dòng họ Văn. Vì thế, bản lĩnh vô cùng lợi hại. Tuy nhân số ít hơn phe Thiên Độc Giáo nhưng lại được thế thượng phong.
Mười tám người lập thành kiếm trận, tiến thoái nhịp nhàng, liên thủ mà tấn công nên khí thế càng hùng hậu. Hai người còn lại theo sau Thiết Long để bảo vệ hậu tâm của ông. Thiết Thạch Thần Công chống lại được đao kiếm nhưng nếu gặp tay nội gia cao thủ đánh trộm thì cũng không tránh khỏi bị thương.
Nhờ có hai gã đệ tử này mà Thiết Long yên tâm chém giết. Chỉ hơn nửa khắc, phe Thiên Độc Giáo đã bỏ mạng mười mấy tên. Bọn còn lại vội tung độc phấn, độc châm nhưng cũng chỉ hoài công.
Tuấn Hạc núp trong rừng liễu, mỉm cười hài lòng khi thấy thuốc giải của mình phát huy hiệu dụng.
Phần Nguyệt Ma, cây Long Đầu Quải Trượng liên tiếp giáng xuống đầu Tam hộ pháp Cổ Túc Chi những đòn sấm sét. Họ Cổ đón đỡ vài chiêu đã nghe hổ khẩu đau rát. Thanh kiếm tẩm độc mẻ từng miếng lớn Lão vung tả thủ, đẩy ra những luồng độc chưởng đen mờ, nên tạm thời duy trì được Bên kia Nhật Ma cùng Chấp Pháp Nhị Tướng giữ thế quân bình. Hách Đông Danh là người duy nhất trong võ lâm luyện phép đánh nhuyễn tiên đến mức đại thành Cây Hoàng Long Tiên dài gần trượng biến hóa quỷ dị vô song. Nếu lão không úy ky chất độc thì đối phương đã thảm bại từ lâu rồi. Vì tự ái mà Song Ma không chịu uống thuốc Giải Độc Đan mà Thiết Long đưa cho.
Nguyệt Ma Hân Hàn Thúy tính tình kiêu ngạo, nóng nảy. Thấy trượng phu ung dung đối phó với nhị tướng trong khi mình đánh một mà chưa xong, bà động sát khí rú lên. Cây Long Đầu Quải Trượng hóa thành trận cuồng phong đen thổi về phía Cổ Túc Chi. Lão ta kinh hãi trước khí thế của chiêu trượng, vội buông kiếm, dùng cả hai tay giáng liền tám chưởng vào màn trượng ảnh.
Tiếc rằng công lực của Nguyệt Ma thâm hậu hơn nhiều, Quải Trượng ập đến gõ vỡ đầu họ Cổ. Bà đắc ý cười khanh khách, định sang liên thủ với Nhật Ma.
Nhưng mấy chục thớt ngựa đã lao đến.
Ba người áo vàng nhảy xuống tấn công Nguyệt Ma, số còn lại đánh vào kiếm trận của bọn tiêu sư.
Tuấn Hạc giật mình khi thấy ba mươi sáu tên mới đến có hình dạng rất kỳ dị.
Toàn thân chúng được bao phủ bởi những miếng da dày đen xám, xếp như vảy cá.
Tay hữu cầm độc kiếm, tay tả thủ thiết chùy. Trên đầu chúng lại chụp mũ sắt dầy.
Được trang bị kín đáo như vậy, khó ai mà đả thương được. Hơn nữa, thủ pháp kiếm chùy hợp nhất kia vô cùng đáng sợ, mới ra tay đã có bốn tiêu sư bị thương.
Thiết Long gầm vang, bỏ đám giáo chúng áo xanh, tung mình đón đánh hai tên giáp sĩ. Thanh Ngô Câu Kiếm như tia chớp rạch sáu đường trên ngực chúng nhưng không chém đứt được lớp giáp kia.
Họ Văn điên tiết nhắm vào mặt và hai cổ tay bọn chúng mà đánh. Với những mục tiêu giới hạn như vậy, làm sao đắc thủ được Lại thêm bảy tiêu sư nữa rú lên vì thương tích. Kiếm trận bắt đầu loạn. Một mình Thiết Long chống cự với tám gã giáp sĩ nên bắt đầu nguy ngập. ông bị trúng hai chùy vào lưng, không rách da thịt nhưng máu miệng rỉ ra.
Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ:
- Lạ thực ! Nếu phụ thân ta đã luyện xong lớp thứ bảy của Thiết Thạch Thần Công thì đâu thể bị thương bởi hai đòn kia được?
chàng cũng đã luyện tâm pháp này nên biết rõ điều ấy. Tuấn Hạc chưa kịp nhảy ra hỗ trợ Thiết Long thì Hà nhị nương đã nhanh hơn. Bà lướt về phía trận địa của Thiết Long và tung mình lên không. Tử tay tả của bà, những cây kim vàng bay vào mặt tám tên giáp sĩ. Thủ pháp kỳ tuyệt kia đã có tác dụng, bón tên bị kim đâm mù mắt, rú lên những tiếng khàn đặc Thiết Long phấn khởi chặt liền hai bàn tay của chúng.
Hà nhị nương lướt khắp trận địa phóng kim châm vào mắt bọn giáp sĩ để cứu các tiêu sư Cục diện được vãn hồi đôi chút, bọn giáp sĩ e sợ nên không hung hăng như trước Nhưng một lão áo trắng - đang vây đánh Nguyệt Ma - đã thoát ra, chặn đường Hà Tú Chân. Người ấy là Tứ hộ pháp Lưu Độc Hà. Võ công của lão ta cao hơn Tú Chân rất nhiều nên bà bị thương ngay sau mười mấy chiêu kiếm.
Tuấn Hạc kinh hãi, lướt nhanh về phía Hà nhị nương. Thấy bà bị thêm một vết kiếm thương trên vai trái, Tuấn Hạc căm hận rú lên cao vút. Tử trên không chàng đách chiêu Tinh Sa Lạc Nhạn. Hàng ngàn chưởng ảnh giăng mắc khiến lão Tứ hộ pháp hoa mắt, không biết đâu là hư thực.
Lão kinh hãi cử song thủ giáng mạnh vào giữa đám ma thủ. Nhưng chưởng kình đã hụt mục tiêu. Lúc này, trái cầu ma quái kia phủ xuống và hai đạo chưởng phong nặng như núi bổ vào ngực lão.
Tuấn Hạc được Hà nhị nương nuôi nấng, yêu thương suốt bảy năm dài.
Trong thâm tâm, chàng vẫn coi người đàn bà hiền thục kia là mẹ của mình. Chính vì thế khi thấy bà đã bị thương, chàng đã xuất thủ rất độc ác. Xương lồng ngực của lão ma gãy nát và thân hình lão văng xa hơn trượng.
Tú Chân ngỡ ngàng nhìn người bịt mặt.
Chàng điểm huyệt chỉ huyết, xé vạt áo băng bó hai vết thương và cho bà uống thuốc giải độc. Lúc này, hyc đã kiệt lực vì sự công phá của chất độc trên lưỡi kiếm.
Tuấn Hạc ẵm bà trên đôi tay mạnh mê rồi lướt khỏi trận địa. Bọn giáp sĩ xông đến cản đường nhưng thân pháp chàng cực kỳ linh hoạt và nhanh nhẹn, thoát đi rất dễ dàng. Lúc sắp đến bìa trận, một tên giáp sĩ bất ngờ phóng thiết chùy vào lưng Tuấn Hạc. Toàn thân chàng chấn động nhưng không dừng chân. Tú Chân kinh hãi hỏi:
- Các hạ có sao không?
Chàng không dám mở miệng.
Tuấn Hạc chạy vào khu rừng liễu, đặt bà xuống chỗ kín đáo rồi quay trở ra.
Chàng giở pho Tiêu Dao Thất Thập Nhị Thủ ra tàn sát bọn giáp sĩ. Chỉ trong nửa khác đã bẻ gãy tay mười mấy tên. cục diện được vãn hồi.
Thấy vậy, Tuấn Hạc quay sang trận địa của Nhật Nguyệt Song Ma. Họ đang bị áp đảo vì khí độc đã ngấm vào huyết mạch.
Nhờ công lực thâm hậu nên còn tạm thời chống đỡ được .
Tuấn Hạc nhớ đến việc Chấp Pháp Nhị Tướng đẩy mình xuống vực và bắt ôn Tiểu Băng, liền nhặt thanh kiếm trong tay xác một tên tiêu sư rồi xông vào. Chàng dùng pho Cuồng Kiếm mà tấn công Nhị chấp pháp Cầu Triệu Linh.
Nhật Ma mừng rỡ bảo:
- Hay lắm! Tiểu tử cố cầm chân hắn để ta giết lão quỷ ốm này.
Họ Bùi cười âm hiểm, tung Hắc Độc Chưởng bao phủ lấy Tuấn Hạc. Nhung lão đâu biết rằng chàng đã uống Thiên Độc Đan nên chẳng hề e sợ, lao thẳng vào luồng độc chưởng. Dù trúng hai đòn vào ngực và bụng nhưng chiêu kiếm vẫn vun vút bay đến. Đây lại là chiêu sát thủ trong pho kiếm pháp, lợi hại khôn lường. Bùi lão ma bị bất ngờ nên không kịp tránh né, bị thanh Ngô Câu Kiếm chặt đứt tay trái và vạch bốn đường trên ngực - máu bắn tung tóe. Lão rú lên thê thiết, hồn về chín suối Nhật Ma thấy chàng trai này chỉ một chiêu đã lấy mạng địch thủ, nổi lòng háo thắng, lao thẳng vào luồng độc chưởng của Đại chấp pháp - Hoàng Long Tiên thắt chín vòng quanh thân đối phương.
Lão trúng một chưởng vào vai tả nhưng cần cổ Bùi Thế Đông cũng bị ngọn roi xiết đứt Nhật Ma đắc ý cười ha hả rồi gục xuống. Tuấn Hạc là người nhân hậu, tuy nghi ngờ Song Ma dự phần giết cha mình, nhung vẫn không thể để lão chết được.
Chàng vội nhảy đến, nhét vào miệng lão ba viên linh đan và trút nội lực hỗ trợ.
Nhật Ma có đến hơn hai hoa giáp tu vi nên mau chóng phục hồi. Lão gượng cười hỏi:
- Tiểu tử là ai mà lại cứu lão phu?
Tuấn Hạc chưa kịp đáp thì nghe Nguyệt Ma rên nhỏ. Chàng vội lướt về phía bà ta, chém vào lưng Ngũ hộ pháp Cốc Tòng Châu để giải vây.
Là người quang minh chính đại, chàng quát lên cho đối phương biết. Lão này thấy chàng giết Nhị chấp pháp nên không dám tiếp chiêu, tung mình đào tẩu. Đại hộ pháp CỐ An Tử cũng vội chạy theo.
Nhưng vừa đi được hai, ba trượng, lão quay ngoắt lại, phóng thanh độc kiếm vào Nguyệt Ma, bà ta đang lảo đảo vì chất độc mắt nhắm nghiền nên không phát hiện.
Nhật Ma đứng xa đến bốn năm trượng nên không kịp cứu hiền thê, lão thét lên kinh hoàng:
- Hân muội! Coi chừng"
Nguyệt Ma mở mắt nhưng không còn sức né tránh. Tuấn Hạc đã như tia chớp lao đến ôm bà, hứng lấy mũi kiếm oan nghiệt kia.
CỐ An Tử là cao thủ có hạng trong võ lâm, công lực thâm hậu nên thanh kiếm có sức công phá rất mãnh liệt. Tuấn Hạc vươn tả thủ vỗ vào bản kiếm, đẩy nó lệch đi Thủ pháp của chàng khi ấn Nhật Ma giật mình.
Lão chưa kịp nói lời cảm ơn thì người bịt mặt kia đã như tia chớp rút lui khỏi đấu trường, biến mất trong khu rừng liễu.
Lúc này, bọn giáp sĩ đã rút lui theo các hộ pháp. Thiết Long rảnh tay chạy đến, nhét thuốc giải độc vào miệng Nguyệt Ma. Nhờ có Nhật Ma truyền thêm công lực bà ta hồi phục rất nhanh. Vừa mở mắt, bà đã hỏi ngay:
- Chí Lãm! Cái gã bịt mặt đã cứu ta lúc nãy là ai vậy?
thiết Long cười khổ đáp :
- Hài nhi cũng chẳng biết người ấy là cao nhân phương nào nữa? ông ta dường như có mói thâm thù với Thiên Độc Giáo nên xuất thủ rất nặng tay. Nếu không, hôm nay chúng ta khó thoát chết.
Nhật Ma thở dài:
- Ta nghĩ mãi mà không tìm ra ai là kẻ có bản lãnh cao siêu như vậy! Mối đại ân này làm sao trả được?
Nguyệt Ma nhớ đến nữ nhân vãi kim vàng liền hỏi:
- Như vậy nữ lang mặc võ phục màu xanh lúc nãy cũng là đồng bọn của người bịt mặt?
Thiết Long không hề biết Hà Tú Chân giỏi nghề phóng kim châm nên cũng tán thành Nhật Ma nghiêm giọng:
- Nay Văn gia bảo và Thiên Độc Giáo trở thành tử đối đầu vợ chồng ta sẽ đến Lư Lăng để gúp ngươi chống cự. Trước sau gì lão họ ôn cũng đến đòi lại món nợ hôm nay.
Thiết Long vòng tay cảm tạ rồi thét thủ hạ đưa tiêu xa về. Tổng cộng, Thiết Long Tiêu Cục chết mất năm tiêu sư và bị thương gần hết. Tuy nhiên, đây là một chiến thắng oanh liệt"
Tiêu xa nặng nề, lại có người mang thương nên cước trình châm chạp, mãi ba ngày sau bọn Thiết Long mới về đến Văn gia bảo.
Tuấn Hạc và Hà nhị nương đều đã có mặt ở nhà. Chàng về trước Tú Chân hai canh giờ vì bà bị thương không đi nhanh được Lúc nhìn thấy Văn nhị công tử Nhật Nguyệt Song Ma đều hết lời khen ngợi:
- Cốt cách của Hạc nhi mà học võ thì chỉ bốn năm là có thể ngạo thị giang hồ"
Thiết Long ứng tiếng:
- Nếu vây, xin nhị vị tài bồi cho.
Nhật Nguyệt Song Ma chưa có truyền nhân nên hoan hỉ chấp thuận. Tuấn Hạc đã có dịp quan sát nên nhận ra Song Ma không phải là người xấu. Nhất là Hách Đông Danh lại có tướng phúc hậu, hào sảng. Chàng đã là nghĩa tôn của họ nên không cần xưng hô là sư phụ.
Trong đại yến tẩy trần, Thiết Long hết lời ca ngợi công lao nữ lang áo xanh và người bịt mặt. Nhật Ma cười bảo:
- Lão phu ước lượng người ấy có khoảng bốn mươi năm công lực. Như vậy, tuổi tác sẽ vào khoảng lục tuần. Tuấn Hạc đã bao kín cả tóc nên họ không thể đoán ra tuổi.
Hồi 4
Đông khứ tầm cố nhân
Ôn Châu đả Tích Ngọc
Đêm ấy, Thiết Long vô tình chạm vào vết thương nơi vai trái của nhị nương, bà nhăn mặt rên rỉ. Thiết Long giật mình, nhìn ái thê dò hỏi.
Tú Châu liếc yêu trượng phu rồi nói:
- Nữ lang áo xanh kia chính là thiếp đấy.
Bà cởi áo cho Thiết Long xem hai vết thương ở vai và lưng. ông cảm động hôn lên trán Tú Châu:
- Không ngờ nương tử lại liều mình để hổ trợ ta.
ông bỗng nhớ ra:
- Vậy nàng có biết diệu nhân kia không?
Hình như ông ta đã cứu nàng và đem vào cánh rừng liễu mà.
Tú Chân thẹn thùng lắc đầu:
- Người ấy hoàn toàn không nói tiếng nào !
Ngay cả khi trứng một chùy vào giữa lưng mà cũng chẳng hề rên rỉ. Thiếp đã quan sát vết thương ấy, áo đã bị gai chùy móc rách mà không hề có dấu máu.
Thiết Long kinh hãi:
- Chỉ có ai luyện Thiết Thạch Thần Công và hoàn thành lớp thứ bảy mới có khả năng ấy thôi Nhưng trừ ta và nhị đệ ra, không còn ai biết được tâm pháp ấy.
Tú Chân giật mình, suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Không thể là Hạc nhi được ! Nó đang nghi ngờ chàng là Văn Chí Khải tất sẽ không liều mình cứu Nhật Nguyệt Song Ma!
Chợt bà nghiêm sắc mặt bảo:
- Mấy năm qua, chúng ta đã hiểu Song Ma không phải kẻ ác. Họ chỉ bị Chí Khải lợi dụng mà thôi. Sao chàng không âm thầm nói rõ sự thực cho Hạc nhi nghe?
Thiết Long cười buồn:
- Nếu nói ra thì còn gì danh dự của Hà muội và nhà họ Văn? Tuấn Hạc là người đọc sách, trọng lễ nghĩa, tất sẽ rất đau lòng và tủi hổ.
Tú Chân chỉnh sắc :
- Thiếp lại nhận xét khác với tướng công.
Hạc nhi là người phóng khoáng, thông tình đạt lý chứ không cố chấp như bọn hủ nho. Nó sẽ thông cảm được với chúng ta.
Thiết Long rầu rĩ đáp:
- Có lẽ không cần phải nói ra đâu. Trong cuộc chiến với Thiên Độc Giáo, vợ chồng ta chắc gì đã sống sót? Vài ngày nữa, ta sẽ đóng cửa tiêu cục và gởi Tuấn Hạc xuống miền Đông. Có như vậy mới bảo tồn được tông tự họ Văn Tú Chân nghe lòng nặng trĩu, thầm công nhận tướng công có lý. Thế lực Thiên Độc Giáo hùng mạnh nhất vùng phía Nam Trường Giang, cao thủ nhiều như mây. Nhật Nguyệt Song Ma và Văn gia bảo không tài nào địch lại.
Bà trầm ngâm một lúc, tủm tỉm cười:
- Tướng công! Sao người không tính đến chuyện lập gia thất cho Hạc nhi?
Thiết Long không hiểu:
- Trong lúc dầu sôi lửa bỏng này, bàn đến chuyện ấy làm gì?
Tú Chân vui vẻ nói:
- Tướng công có nhớ đến chuyện Lưu Bị sang Đông Ngô cầu hôn em gái Tôn Quyền hay không? Biến Hình Môn ở ôn Châu mấy năm nay đã phát triển thành một bang hội hùng mạnh. Đương kim môn chủ cũng có ý muốn dương danh thiên hạ. Tháng trước, thiếp có gặp lại một đồng môn, ông ta thố lộ như vậy. Đồng thời còn nói rằng môn chủ đang kén chồng cho thiếu môn chủ Cổ Doanh Doanh. Hạc nhi là con nhà dòng dõi, lại nổi tiếng thiên hạ về tài thi phú, cộng với dung mạo tuấn tú kia, lo gì không lọt vào mắt xanh của Cổ tiểu thư? Hôn sự mà thành tựu, Cổ môn chủ sẽ dốc sức tương trợ Văn gia bảo. Đây cũng là dịp để Biến Hình Môn bành trướng về hướng Tây.
Thiết Long thầm nghĩ như vậy cũng là cách bảo toàn mạng sống cho Tuấn Hạc, vì nếu thất bại, chàng sẽ rút về trọng địa của Biến Hình Môn. ông hỏi lại:
- Nhưng dung mạo Cổ tiểu thư như thế nào?
Tú Chân trấn an:
- Tướng công chớ lo, nàng ta đẹp hơn thiếp nhiều Thiết Long đẹp dạ:
- Chỉ cần kiều diễm như nàng cũng quá tốt cho Hạc nhi rồi.
Sáng ra, trong bữa điểm tâm, ông trình bày kế hoạch của Tú Chân. Song Ma cũng tự lượng sức mình nên không phản bác. Hân lão nương cười bảo:
- Té ra Chân nhi là đệ tử của Biến Hình Môn !
Thiết Long khai luôn:
- Thưa phải ! Nàng cũng chính là nữ lang áo xanh hôm trước.
Tuấn Hạc không ngạc nhiên vì biết rằng vợ chồng đầu ấp tay gối tất chẳng thể giấu diềm nhau. Hơn nữa, nhị nương đã thọ thương.
Thiết Long quay sang hỏi ý kiến chàng:
- Hạc nhi ! Ngươi đã đến tuổi lập gia thất, Cổ tiểu thư lại là người sắc nước hương trời, nếu lấy được nàng, ngươi cũng chẳng thiệt thòi gì.
Nay Cổ môn chủ nuôi mộng tránh bá, dương danh võ lâm, hợp với tình thế hiện nay của Văn gia bảo. Ngươi cứ đi ôn Châu một chuyến xem sao, nếu không đúng như lời nhị nương thì hãy trở về Tuấn Hạc cau mày suy nghĩ. Chàng hỏi Tú Chân:
- Nhị nương! Cao thủ của Biến Hình Môn có bản lãnh gì lợi hại? Nếu quá tầm thường, e rằng chỉ uổng mạng mà thôi.
Hà nhị nương cười đáp :
- Trước đây, họ chỉ giỏi nghề hóa trang và xử dụng ám khí. Nhưng mười năm trước, Cổ môn chủ tình cờ bắt được một pho đao phổ. ông cố công khổ luyện và dạy lại một phần cho các đệ tử Nhờ vậy giờ đây, bổn môn đã có một đội dũng sĩ rất tinh nhuệ - đông đến năm trăm người. Cộng với những tuyệt kỹ tổ truyền, họ lợi hại hơn bọn giáo đồ Thiên Độc Giáo. Nhất là khi Hạc nhi cho họ uống phòng độc đan.
Tuấn Hạc mang nặng mối tương tư ôn Tiểu Băng nên không hề nghĩ đến chuyện lấy Cổ Doanh Doanh. Nhưng chàng cũng muốn đi về hướng Đông một chuyến để do thám tình hình Hoài Hạc Bang. Sự im lặng của Vạn Bác Hồ Tinh khiến chàng lo ngại.
Trầm ngâm một lúc, chàng đáp rằng:
- Tuần phủ Giang Tây là bạn văn chương với Hạc nhi. ông ta sẽ điều quan quân đến đồn trú gần Văn gia bảo. Thiên Độc Giáo thấy vậy sẽ không dám đến Lư Lăng. Nhưng hài nhi cho rằng phụ thân nên tạm thời đóng cửa tiêu cục, đưa đệ tử về đây phòng thủ. Trong lúc ấy, hài nhi sẽ đi ôn Châu.
Thiết Long hoan hỉ bảo:
- Để ta phái bốn cao thủ theo bảo vệ ngươi.
- Phụ thân quên rằng Tiểu Bạch thần dũng tuyệt luân hay sao?
Thiết Long cười ha hả:
- Phải lắm! Đến ta mà còn phải lúng túng khi so tài với nó.
Nhật Ma Hách Đông Danh giật mình:
- Chẳng lẽ con vượn nhỏ ấy lợi hại đến thế Lão quay sang hỏi Tuấn Hạc:
- Ngươi bắt được nó ở đâu?
Chàng đành phải kể lại câu chuyện bịa đặt kia. Hách lão gật gù:
- Nếu Tiểu Bạch giết nổi ác Y Hồ LỘ Kỳ thì nó chính là linh vật của Cuồng Kiếm Thần Y Công Tôn Quang Nguyệt. Bốn mươi năm trước lão phu có gặp ông ta và một con vượn trắng.
Không ngờ Cuồng Kiếm quy tiên mà nó vẫn còn đây.
Ba ngày sau khi Tổng Binh Lư Lăng đã hạ trại cách Văn gia bảo trăm trượng, Tuấn Hạc mới yên tâm lên đường.
Ngoài tiền bạc, chàng còn mang thư giới thiệu của Thiên Diện Ma Cơ Hà Tú Chân. Bà là sư điệt của môn chủ Biến Hình Môn.
Nhưng chàng lại đi thẳng đến Kim Hoa, cách ôn Châu bốn trăm dặm. Nơi đây chính là tổng đàn của Hoài Hạc Bang - nằm ngay trên ngọn đồi nhỏ cách cửa Nam thành mười dặm.
Đầu tháng bảy chàng mới đến nơi. Y phục ướt sạch vì cơn mưa hạ. Tuấn Hạc vào thành tìm chỗ trọ. Tắm gội, thay áo xong, chàng ra phố tìm bọn hóa tử. Cái Bang bị triều đình giải tán nên không hề có phân đà. Nếu ai có hỏi, bọn khất cái cũng chẳng dám nhận mình là con cháu của Hồng Thất Công.
Hôm nay là ngày mồng một nên đám hóa tử tụ tập đông đảo ở cổng chùa Lăng Nghiêm Tự.
Tuấn Hạc không vào chùa mà đứng ngoài quan sát bọn khất cái. Cuối cùng, chàng đã phát hiện ra kẻ đứng đầu. Đó là một lão già râu ngắn, tuổi độ ngũ tuần. Lão ngồi giữa hàng, trên ngực chiếc áo rách kín đáo điểm sáu mụn vá nhỏ màu xanh. Nếu không biết trước ký hiệu này, sẽ chẳng ai đế ý. Nó tượng trưng cho cấp bậc sáu túi. Lão chính là phân đà chủ Kim Hoa.
Tuấn Hạc đã đổi sẵn một ít tiền đồng, chàng đi vào bố thí cho từng người. Đến trước mặt lão phân đàn chủ, chàng ném tiền vào chiếc nón rách của lão, kèm theo đồng tiền cổ. Đồng thời chàng giả đò làm rớt cây quạt giấy, lúc cúi xuống nhặt quạt, chàng nói nhỏ với đối phương :
- Nửa khắc nữa ra sau chùa gặp ta.
Chàng thò tay lấy lại tín phù rồi đi vào chùa.
Chỉ vái vài cái lấy lệ, Tuấn Hạc trở ra ngoài.
chàng đi vòng về phía bức tường sau Lăng Nghiêm Tự đứng chờ.
Lát sau, lão khất cái râu ngắn xuất hiện. Lão quan sát chàng rồi bảo:
- Công tử bao nhiêu niên kỷ?
- Bốn mươi!
Lão nghe đúng mật khẩu, hoan hỉ vòng tay:
- Tiểu nhân là Đoản Tu Cái Côn Hành Khuất Phải chăng công tử ở họ Văn?
Chàng gật đầu rồi hỏi lại:
- Tứ trướng lão Cù Sở Hòa đã đến đây chưa?
- Thưa đã! Người đến đây cách nay gần tháng Khi nghe nói tổng đàn Hoài Hạc Bang không còn một bóng người, trướng lão dắt tiểu nhân đến tận nơi điều tra. Người đoán rằng ở đây đã xảy ra một cuộc chiến khốc liệt. Theo dấu vó ngửa để lại, Cù trướng lão theo hướng Đông Nam mà truy tìm. Người dặn tiểu nhân nếu công tử có đến thì báo lại rằng có thể tàn quân của Hoài Hạc Bang kéo về hướng ôn Châu - hoặc bị bắt làm tù binh. Nhưng từ lúc chia tay đến giờ, phân đà Kim Hoa không còn nhận được tin tức của Tứ trướng lão nữa.
Tuấn Hạc hỏi ngay:
- Túc hạ ở đây từ lúc Hoài Hạc Bang ra đời, vậy có biết lai lịch của gã bang chủ ấy hay không?
- Thưa không, ngoài cái tên giả Văn Tuấn Hạc, chẳng ai được thấy gã bao giờ. Nhân số Hoài Hạc Bang cũng chỉ độ gần trăm.
Tuấn Hạc từ giả Đoản Tu Cái và khách điếm thu xếp hành lý đi ngay.
Mùa hạ này, các khối băng trôi từ Bắc Hải về phía Nam đã làm cho nhiệt độ Hoàng Hải xuống thấp. Không khí lạnh tràn vào khu vực hạ lưu Trường Giang, gặp khối khí nóng ẩm, khiến hơi nước ngưng tụ, trời trở nên âm u, có mưa phùn kéo dài.
Chàng đặt Thần Viên vào lòng, trùm kín áo tơi thúc ngựa phi mau. Đường quan đạo lầy lội, nước đọng lại thành vũng và bắn tung tóe, làm cho bốn vó tuấn mã và hai chân chàng bùn bám lấm lem.
Hai ngày sau, trời đột nhiên quang đãng hơn, mưa ngừng rơi, mặt trời le lói sau đám mây xám lững lờ. Lúc này, Tuấn Hạc chỉ còn cách ôn Châu chừng trăm dặm.
Trước mặt chàng là một đoạn đường vắng vẻ đi ngang qua khu rừng thưa. Tiến lên được hơn dặm đã nghe tiếng quát tháo, tiếng vũ khí va chạm vọng lại. Chàng đoán rằng lữ khách nào đó bị cường đạo chặn đường, liền thúc ngựa phi nước đại. Khi đến nơi, cuộc chiến đã gần tàn.
Sáu tên bịt mặt đang vây quanh hai thiếu nữ.
Nàng áo hồng đã mê man, nằm gục trên mặt lộ.
Nàng áo đen đứng bên, đang cố chống cự, nhưng chỉ như ngọn đèn sắp tắt.
Tuấn Hạc thấy cảnh ngộ này, nộ khí bừng bừng, quát vang như sấm:
- Lũ cẩu tặc !
Chàng như chiếc pháo thăng thiên rời yên ngựa, bay chếch về phía trận địa. Tiểu Bạch cũng không chịu chậm chân. Tử trên cao, Tuấn Hạc xuất chiêu Khuê Đẩu Quang Minh, nhắm vào đầu hai gã bịt mặt gần nhất.
Tiếng quát của chàng đã khiến bọn chúng đề phòng - vung kiếm đón chiêu. Kiếm phong rít lên ghê rợn, chứng tỏ một công lực thâm hậu.
Tuy nhiên, pho chướng pháp này là tuyệt học hãn thế của Công Tôn Quang Nguyệt nên chẳng dễ gì đối phó.
Chướng kình liên tiếp vỗ vào lưới kiếm và âm thầm xuyên qua chỗ sơ hở, giáng vào ngực chúng. Hai gã kia trứng đòn, gào lên thảm thiết quị xuống mặt đất.
Tiểu Bạch chỉ học được phần cầm nã và quyền pháp trong pho tuyệt học kia, nhưng bù lại nó có lớp lông dầy trắng muốt, không sợ gươm đao và thần lực bẩm sinh. Nó không tấn công từ trên xuống mà lao thẳng vào hạ bàn gã thứ ba. Đối phương chưa kịp nhận ra cái bóng trắng nhỏ bé kia là vật gì, cũng vung cước đá liền. Tiểu Bạch chụp ngay bàn chân bẻ mạnh khiến gã trật khớp kêu trời. Và sau đó là tiếng than vãn cuối cùng vì Thần Viên đã thọc bàn tay đầy móng sắt vào bụng gã.
Ba tên còn lại điên cuồng lao đến tấn công.
Tuấn Hạc cười nhạt xông vào như không biết sợ chết là gì. Thân hình chàng uyển chuyển và linh hoạt luồn lách giữa ba thanh gươm. Thủ cước ra đòn như chớp giật, uy hiếp các nhược điểm của đối phương. Dường như chàng muốn mượn tay ba gã để thử uy lực pho chướng pháp? Thực ra không phải thế, kiếm pháp của ba gã này rất ảo diệu, chàng thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên chưa tìm ra cách giải phá.
Nhưng Tiểu Bạch đã lao vào lưng một gã. Nó chẳng hề để ý gì đến qui củ của võ lâm hay tinh thần thượng võ cả. Đối phương nghe hơi gió vội quay lại, vung kiếm đỡ đòn. Trường kiếm chém vào lớp lông dày và trượt đi. Cánh tay dài thườn thượt của Thần Viên vươn đến vỗ vào mặt gã. Đôi nhãn cầu vỡ nát, xương đầu rạn nứt, nạn nhân gào lên rồi ngã vật xuống.
Tuấn Hạc phấn khởi dồn chân khí vào song thủ, chụp lấy lưỡi kiếm của tên trước mặt.
Chàng lôi gã về phía mình và tống một quyền vào ngực. Lối đánh cương mãnh này khiến gã còn lại giật mình định đào tẩu. Tuấn Hạc cười nhạt ve vẩy đôi bàn tay. Mười ngón biến thành vạn ngón và một trong những ngón ấy búng luồng chỉ phong vào huyệt Liên Khuyết trên cổ tay hữu - thuộc kinh Thủ Thái âm Phế. Thanh trường kiếm rơi xuống, nhưng gã này có võ công cao cường, cơ trí biến báo nên đã nhịn đau vỗ thẳng vào ngực Tuấn Hạc. Gã đắc thủ nhưng nghe như đánh vào đá, chiếc cổ tay đau đớn gãy lìa. Chân phải Tuấn Hạc đã quất thẳng vào bụng dưới đối thủ, đưa lão về chín suối.
Lúc này thiếu nữ áo đen cũng đã gục xuống.
Chàng vội chạy đến xem thử. Thấy cả hai mê man bất tỉnh, mạch đập rất yếu, Tuấn Hạc cho họ uống linh đan.
Nếu họ là nam nhân, chàng đã có thể cởi áo xem xét thương thế và xoa bóp huyệt đạo.
Tuấn Hạc theo nho học nên trọng lễ nghĩa, không dám sơ xuất.
Trời lại u ám, mây đen giăng mắt, báo hiệu một cơn mưa. Tuấn Hạc thở dài nghĩ đến tòa phế miếu cách đây nửa dặm. Lúc đi chàng đã thấy nó ẩn hiện trong rừng, cách vệ đường vài mươi trượng.
Tuy thiếu lịch duyệt nhưng chàng cũng hiểu rằng không thể để sáu tử thi kia nằm phơi trên mặt lộ, phe đối phương sẽ phát hiện lùng sục ngay. Chàng không sợ chúng nhưng còn hai thiếu nữ này thì sao?
Tuấn Hạc liền bảo Tiểu Bạch kéo xác giấu vào rừng, còn chàng đưa hai nạn nhân lên lưng ngựa.
Thần Viên chỉ đi ba lượt đã hoàn tất nhiệm vụ Tuấn Hạc đặt hai người nằm vắt ngang qua lưng ngựa rồi dẫn đi ngược trở lại. Cơn mưa sắp đến sẽ xóa tan vết máu và dấu vó ngựa.
Vừa đến được tòa cổ miếu thì cơn mưa ập đến, không phải mưa phùn mà là mưa rào. May thay, một phía mái ngói còn nguyên vẹn nên phần nền chỗ ấy không bị ướt. Chàng trải áo tơi và thêm tấm áo choàng rồi mới đặt họ nằm lên.
Giờ đây chàng mới có dịp nhìn rõ gương mặt hai thiếu nữ. Nàng áo hồng tuổi độ đôi mươi, dù da mặt đang tái xanh vì thương thế mà vẫn lộ rõ một dung nhan diễm lệ. Ngược lại nàng áo đen có gương mặt nạm, xấu xí.
Tuấn Hạc bảo Tiểu Bạch canh gác rồi thăm mạch lần nữa. Thấy khí huyết trì trệ, không thông suốt dù trên người không dấu máu.
Chàng đoán rằng họ trứng chướng thương.
Nhưng nếu không cởi áo họ ra, sao có thể nhận biết được thủ pháp mà chữa trị? Nghe hơi thở họ yếu dần, Tuấn Hạc cau mày lẩm bẩm:
- Lẽ nào thấy chết mà không cứu? Giữ được chút lễ nghĩa mà phế bỏ đạo nhân thì có xứng đáng là người quân tử hay không?
Nghe tâm yên ổn, Tuấn Hạc lật họ nằm sấp xuống, kéo áo lên xem, chàng hy vọng vết thương sẽ nằm ở phía sau như thế đỡ thất lễ hơn. Nhưng tiếc thay, hoàn toàn không có gì ca.
Chàng đành đỡ họ nằm ngửa trở lại. Nhớ đến ôn Tiểu Băng, Tuấn Hạc bỗng ngần ngại.
Đồng ý rằng ngộ biến tùng quyền nhưng quan niệm tiết trinh thời bấy giờ rất khắc khe. Nếu những nạn nhân này không thông cảm, chàng khó mà từ chối hôn sự.
Nay ôn Tiểu Băng vì chàng mà ngọc nát châu trầm, lẽ nào chàng lại đa mang thêm nữa?
Tuấn Hạc quyết định chữa trị cho thiếu nữ xấu xí kia trước, rồi nhờ nàng xoa bóp cho thiếu nữ áo hồng xinh đẹp. Có như thế,Tiểu Băng mới không trách chàng là người tham sắc.
Đã có chủ ý, Tuấn Hạc cởi áo ngoài và chiếc yếm đào của nạn nhân. Thân trên ngọc ngà hiện ra khiến chàng đỏ mặt. Người con gái thon gầy này lại đầy đặn, nở nang hơn bề ngoài.
Một dấu chướng ấn xám xì nằm ngay giữa hai nhũ hoa. Tuấn Hạc quan sát và hồi tướng lại Y Kinh, chàng nhận ra đây là Khôi Yên Thủ của Thiên Sư Giáo.
Chàng hít một hơi dài, cố trấn tĩnh tâm hồn, điểm vào các huyệt Trung Phủ, Thềm Tăng, Nhũ Trung, Bất Dung, Thần Phong. Trong đó có hai huyệt Nhũ Trung nằm ngay trên vú.
Sau đó, chàng ngồi xếp bằng, tả thủ đặt vào giữa hai vết thương, hũu thủ áp lên khí huyệt ở bụng dưới. Chân khí của chàng trút vào Chí Huyệt - lên đến vết thương - ngay huyệt Đản Trung - và chất độc bị tay trái hút ra ngoài.
Chỉ nửa khác sau, luồng chân nguyên hùng hậu của chàng đã trục hết độc tố, đả thông tâm mạch, chàng không dám nhìn tấm thân nõn nà, khêu gợi kia. Chính vì vậy chàng không biết rằng thiếu nữ áo đen đã tỉnh lại trước rồi. Nàng nhìn say đắm gương mặt anh tuấn của chàng, đôi dòng lệ tuôn trào. Và nàng kịp nhắm mắt lại trước khi chàng xả công.
Tuấn Hạc thấy vết chướng ấn đã biến mất mà sao nạn nhân vẫn chưa tỉnh lại. Chàng cắn răng xoa bóp các huyệt đạo trên ngực, cố dùng lửa tam muội hỗ trợ luồng chân khí của nạn nhân Thiếu nữ mặt nạm ngất ngây và hổ thẹn, đành phải tỉnh lại. Nàng nhìn Tuấn Hạc bằng cặp mắt ai oán và trách móc. Chàng nghe mặt nóng bừng, vội nói ngay:
- Tiểu sinh không nỡ để cô nương táng mạng nên đành vượt qua lễ giáo, mạo phạm đến ngọc thể Mọi sự sẽ giải quyết sau. Nay xin cô nương điều tức một lát để phục hồi công lực mà cứu nữ lang áo hồng kia.
Thiếu nữ áo đen bẽn lẽn mặc lại áo rồi hỏi:
- vì sao công tử không ra tay cứu Doanh muội mà lại cứu ta trước?
Tuấn Hạc buồn rầu đáp :
- Tiểu sinh đã lỡ nặng mối chung tình với một người, đâu dám vương vấn cùng ai nữa.
Nếu sau này nàng biết chuyện hôm nay, may ra tiểu sinh còn có cơ hội biện bạch.
Thiếu nữ hiểu ngay tâm trạng của chàng, mắt tóe lên những tia bí ẩn:
- Thì ra công tử cho rằng thiếp xấu xí, tất sẽ không dám với cao chứ gì? Công tử sai rồi, thiếp tuy gương mặt đen đũa nhưng lại là người cương liệt. Thân này đã bị công tử chạm đến, coi như đã thuộc về công tử. Nếu chàng chê bỏ, thiếp sẽ tự sát ngay, Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Kẻ làm điều nhân không hề nghĩ đến hậu quả Nếu cô nương chịu phận lẽ mọn, tiểu sinh cũng chẳng dám chối từ trách nhiệm. Tiểu Băng là người nhân hậu tất sẽ lượng thứ cho chúng ta. Giờ xin cô nương theo lời chỉ dẫn của tiểu sinh mà chữa trị cho lệnh muội. Tiểu sinh sẽ truyền công lực qua người cô nương, bất tất phải điều tức nữa.
Thiếu nữ ranh mãnh nói:
- Thiếp đã quá mệt mỏi, e không làm đúng theo lời công tử chỉ dẫn, sao chàng không tự mình làm đi? Hai chị em thiếp thờ chung một chồng cũng chẳng sao. Tiểu Băng cô nương nào đó chắc cũng chấp nhận thôi. Cổ nhân có câu: Ngộ biến tùng quyền mà.
Tuấn Hạc nhăn mặt:
- Một mình cô nương cũng đã khiến tiểu sinh lỗi đạo với Tiểu Băng, xin hãy lượng thứ.
Thiếu nữ áo đen động tâm trước tấm lòng chung thủy, liếc chàng say đắm. ánh mắt nàng chất ngất yêu thương khiến Tuấn Hạc phải ngỡ ngàng.
Nàng ta cởi áo thiếu nữ kia, lúc quay lại thi thấy chàng đã nhắm nghiền mắt lại. Nàng phì cười :
- Đúng là hủ nho ! Gặp người quốc sắc mà không biết thướng thức.
Tuấn Hạc cắn răng không đáp, từ tốn chỉ cho nàng phương pháp trị thương. Thiếu nữ nghe xong, suy nghĩ một lúc rồi nũng nịu nói:
- Thú thật với công tử là thiếp không tường vị trí các huyệt đạo. Mong công tử chỉ dẫn cho, nếu không hậu quả sẽ khó lường. Chỉ nhìn thôi chắc cũng không đến nỗi nào? Lát nữa Doanh muội tỉnh lại, thiếp sẽ giấu kín việc ấy.
Tuấn Hạc sợ nàng điểm sai, nguy đến tính mạng nạn nhân, đành thở dài, mở mắt ra. Trọn vẹn thân trên cơ thể mỹ nữ lồ lộ như pho tượng ngọc. Tuấn Hạc cắn răng hướng dẫn, xác định vị trí đứng để nữ lang mặt nam điểm vào.
Gần khắc sau, thiếu nữ kia tỉnh lại. Nàng ngơ ngác nhìn người bạn gái và chàng trai tuấn tú kia. Nữ lang áo đen nháy mắt rồi khép vạt áo của nàng kia lại. Nàng vui vẻ đáp:
- Công tử có thể mở mắt rồi đấy. Doanh muội đã hồi tỉnh.
Tuấn Hạc thở phào, rút tay lại đứng lên, đi ra ngoài để hai nàng sửa sang xiêm áo.
Không hiểu họ đã nói gì với nhau mà tàn nửa nén hương mới gọi chàng vào. Tuấn Hạc bối rối khi thấy nữ lang áo hồng đỏ mặt, cúi đầu vân vê tà áo Chàng đoán rằng nữ lang xấu xí kia đã kể lại chuyện trị thương.
Tuấn Hạc vòng tay nới :
- Tiểu sinh là Văn Tuấn Hạc, quê ở Giang Tây. Dám hỏi phương danh nhị vị?
Nữ lang mặt nam đáp ngay:
- Thiếp là Hàn Khiết Văn, còn đây là biểu muội Hàn Khiết Doanh. Công tử chắc là Văn nhị thiếu chủ của Văn gia bảo? Có việc gì mà lại đi ngang đây?
Tuấn Hạc lúng túng đáp :
- Tiểu sinh đi ôn Châu có chút việc riêng.
Thiếu nữ áo đen nghiêm nghị nói:
- Chị em thiếp đã bàn bạc với nhau, đồng lòng xin làm tỳ thiếp. Sau này, nếu ôn cô nương rộng lượng dung nạp mới dám nâng khăn sửa túi cho công tử, bằng như bị ôn cô nương từ chối, sẽ bỏ đi ngay, không dám xen vào hạnh phúc của nhị vị. Công tử thấy thế nào?
Tuấn Hạc giật mình:
- Sao lại cả hai người như vậy?
Hà Khiết Văn mỉm cười:
- Chị em thiếp từ lâu đã nguyện cùng thờ một chồng để khỏi phải xa nhau. Khi gặp ôn cô nương, bọn thiếp sẽ biện minh để nàng không trách công tử.
Tuấn Hạc cũng đang thầm áy náy vì câu lễ nghĩa, tiết trinh nên đành xuôi tay, chấp thuận:
- Nhị vị đã hết lời, tiểu sinh xin phụng ý.
Việc duyên nợ cứ để cho Tiểu Băng định đoạt.
Hàn Khiết Văn kéo tay Khiết Doanh đến nghiêng mình ra mắt:
- Chúng thiếp bái kiến tướng công.
Chàng nhìn hai nữ nhân, thở dài thườn thượt. Khiết Văn cười hỏi:
- Tuy thiếp xấu xí nhưng Doanh muội xinh đẹp như tiên nga, công tử còn buồn chi nữa?
Tuấn Hạc bùi ngùi đáp :
- Tiểu Băng với ta tình thâm như biển, dẫu hai nàng kiều diễm hơn nữa cũng chẳng thể khiến ta quên được người xưa. Hơn nữa, hiện nay nàng trôi dạt phương nào ta cũng chẳng hay, lòng dạ nào mà vui duyên mới?
Khiết Doanh thò tay nhéo vào lưng Khiết Văn nàng nhột nhạt ưỡn người né tránh. Khiết Văn hỏi lại Tuấn Hạc:
- Dám hỏi có phải công tử đang đề cập đến Thiên Độc Thánh Nữ hay không?
- Chính là nàng, ta đi về Đông chuyến này cũng là để tìm Tiểu Băng.
Khiết Doanh đã mạnh dạn hơn, nàng thỏ thẻ:
- Thiếp nghe nói ôn đại thư đã bỏ mình dưới sóng nước Trường Giang rồi mà?
Tuấn Hạc nói như đang hy vọng:
- Không đâu! Ta đoán rằng nàng thoát chết và trở thành Hoài Hạc Bang chủ! Tháng trước, tổng đàn của nàng ở Kim Hoa bị tấn công. Dấu vết để lại cho thấy Hoài Hạc Bang đã rút lui, hoặc bị bắt đi về hướng này. Như thế, hung thủ có thể là Biến Hình Môn.
Khiết Doanh biến sắc cãi ngay:
- Thiếp chính là một đệ tử của Biến Hình Môn, có thể đoan chắc rằng không có việc ấy.
Khiết Văn cũng nói:
- Thiếp đã từng đến Kim Hoa và tình cờ đi ngang qua ngọn đồi Quý Khâu và gặp bang chủ Hoài Hạc Bang. Đó là một nam nhân.
Tuấn Hạc choáng váng, thẩn thờ:
- Thế là hết, ta còn biết dựa vào đâu để tìm Tiểu Băng nữa đây?
Khiết Văn mỉm cười:
- Thiếp vốn là tỳ nữ thân tín của ôn tiểu thư, có mặt trên chiếc thuyền hoa hôm ấy nên có thể đoan chắc rằng nàng vẫn còn sống. Thánh Nữ sinh trướng ở Nghi Xương, bơi lội như cá kình, làm sao chết đuối dược?
Tuấn Hạc mừng rỡ nắm tay nàng hỏi dồn:
- Thật thế sao? Nàng hãy kể rõ sự việc hôm ấy cho ta nghe đi !
Khiết Văn nhăn mặt:
- Thiếp đói bụng lắm rồi, để vừa ăn vừa nói cũng được.
Nàng bước ra ngoài, rú lên cao vút. Lát sau, hai con tuấn mã chạy đến, trên yên còn đầy đủ hành lý.
Trời vẫn còn mưa dai dẳng, không biết lúc nào sẽ ngưng và chiều cũng đã buông. Khiết Văn dắt cả ba con ngựa vào miếu, cho chúng đứng ở nửa miếu tả. Dù dột nát nhưng cũng hơn ở ngoài trời mưa gió.
Tuấn Hạc gom gỗ mục nhóm lửa xong, gọi Tiểu Bạch vào. Chàng chỉ hai nàng rồi bảo:
- Tiểu Bạch, họ là tỳ thiếp của ta đấy.
Thần Viên khệnh khạng vòng tay cúi đầu chào. Khiết Doanh thích thú bước đến vuốt ve Tiểu Bạch:
- ôi chao ! Sao tướng công lại nuôi được con vượn xinh đẹp và thông minh thế này?
Tuấn Hạc cười đáp :
- Tiểu Bạch còn là sư huynh của ta đấy!
Thần Viên đắc ý, vỗ ngực thọt khét liên hồi.
Khiết Văn tháo hai bọc hành lý, lấy thực phẩm bày trên tấm áo tơi. Họ là nữ nhân nên trữ toàn là bánh kẹo, mứt khô. May mà còn có một con gà nướng dành cho Tuấn Hạc.
Chàng định chia thịt cho họ thì Khiết Doanh bảo:
- Bọn thiếp chỉ ăn chút bánh mứt là đủ rồi.
Tướng công cứ dùng đi.
Tiểu Bạch nếm thử chiếc kẹo hoa quế, gật gù khen ngon. Nó chưa bao giờ được ăn những thứ này.
Tuấn Hạc ăn xong mà hai nàng kia vẫn còn nhấm nháp. Chàng nhìn Khiết Văn bằng cặp mắt van nài. Nàng bật cười khúc khích:
- Tướng công cứ nhìn thiếp chăm chăm như vậy làm sao thiếp nuốt nổi?
Tuấn Hạc bâng khuâng vì nụ cười kia đầy ma lực và thân thiết. Mặt nàng loang lỗ những vết nam đen, nhưng môi đỏ như son, hàm răng đều đặn và trắng như ngọc, khi nàng cười, ánh mắt đầy vẻ đắm say, tình tứ. Chàng bâng khuâng nhớ đến Tiểu Băng.
Khiết Văn thấy dáng điệu ngơ ngẩn của chàng, giận dỗi nói:
- Thôi được! Thiếp chẳng thèm ăn nữa! Nếu không kể ngay chắc tướng công sẽ thầm trách thiếp Khiết Doanh bật cười:
- ôn đại thư quả là tốt phúc !
Nói xong, nàng giật mình. Nhưng thấy Tuấn Hạc không có phản ứng, nàng thở phào nhẹ nhõm. Thực ra, câu này của nàng mang một ý khác Khiết Văn liếc nàng rồi kể:
- Ngày ấy, ôn tiểu thư bị Chấp Pháp Nhị Tướng bắt về Nghi Xương, ép gả cho Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn của Thiên Sư Giáo. Tiểu thư thà chết cũng không chịu.
Giáo chủ bèn phong tỏa võ công của nàng và cho uống Thất Hồn Tán, đưa lên thuyền hoa.
Nào ngờ, trong đêm trước lúc thuyền rời bến, giáo chủ phu nhân đã bí mật cho nàng uống một viên Thiên Độc Đan và giải tỏa kinh mạch. Bà còn dặn dò Tiểu Băng cách hành động để thoát thân. Vì vậy, khi thuyền hoa sắp đến Đại Vân Hà thì tiểu thư vung chướng đả thương Trương ân Tuấn rồi lao mình xuống nước tẩu thoát. Thiếp cũng phóng theo nhưng hai bên lạc nhau nên không biết tiểu thư đã đi đâu Phần thiếp trở về ôn Châu nương tựa biểu thúc là cha của Khiết Doanh. Nhưng thiếp có thể đoan chắc với tướng công rằng Thánh Nữ vẫn còn sống.
Tuấn Hạc mừng rỡ nói:
- Nàng còn sống là đủ rồi ! Ta sẽ lặn lội khắp vùng Giang Nam để tìm cho được.
Khiết Văn bỗng hỏi:
- Thiếp có nghe Thánh Nữ kể về nghi án Văn gia bảo. Chẳng hay tướng công đã giải quyết đến đâu rồi?
Chàng thở dài :
- Gia phụ đã thề độc rằng ông không phải là Văn Chí Khải, và hết mực yêu thương. Vì vậy, chuyện này tạm gác lại. Hiện nay, Văn gia bảo đang bị Thiên Độc Giáo uy hiếp, ta phải tìm người giúp đỡ mới mong địch lại. Hà nhị nương đã bảo ta đến cầu hôn thiếu môn chủ Biến Hình Môn nhưng ta không hề có ý ấy. Ta chỉ lợi dụng chuyến đi này để tìm Tiểu Băng và Vạn Bác Hồ Tinh mà thôi.
Khiết Doanh bẽn lẽn hỏi:
- Nếu chàng không chịu cưới Cổ Doanh Doanh thì làm sao cứu được Văn gia bảo?
Chàng thương nạp được bọn thiếp, sao không nhận luôn thiếu môn chủ? Sau này, ôn đại thư chắc cũng lượng thứ cho tướng công.
Tuấn Hạc khẳng khái đáp :
- Ta gặp hai nàng là do duyên nợ, ràng buộc bởi chữ nhân. Còn việc cầu hôn để lợi dụng, Văn mỗ không làm được.
Chàng chợt thắc mắc :
- Ta quên chưa hỏi vì sao bọn cao thủ Thiên Sư Giáo lại vây đánh hai nàng?
Khiết Văn sửng sốt:
- Họ là người của Thiên Sư Giáo đấy sao?
Gã họ Trương này quả là đốn mạt.
Khiết Doanh tiếp lời:
- Cách đây hơn chục dặm có một trấn lớn tên gọi Thanh Tuyền. Trưa nay, chị em thiếp đi ngang qua đấy thì gặp đoàn nhân mã của Tích Ngọc Lang Quân. Nghe nói gã mang lễ vật đến cầu hôn thiếu môn chủ bổn môn. Khi thấy thiếp gã buông lời chọc ghẹo. Bọn thiếp nhẫn nhịn bỏ đi, nhưng không ngờ gã lại cho người đuổi theo để vây bắt.
Khiết Văn nghiêm giọng:
- Tướng công không muốn kết duyên với Cổ Doanh Doanh cũng chẳng sao. Tuy nhiên, chàng phải giết gã họ Trương kia. Trước là báo thù cho Thánh Nữ, sau là phá vỡ âm mưu thống trị của Thiên Sư Giáo. Nếu họ liên kết được với Biến Hình Môn thì giang hồ sẽ đại loạn ôn tiểu thư đã từng nói với thiếp về dã tâm của Trương giáo chủ.
Tuấn Hạc tư lự:
- Ta sẽ vì Tiểu Băng mà giết cái gã bại hoại ấy Còn chuyện võ lâm ta không dám lạm bàn.
Đã đầu canh một mà trời vẫn mưa như trút nước. Gió lạnh lùa qua khung cửa không cánh của tòa phế miếu.
Tuấn Hạc đi tìm thêm củi nhưng trong miếu chẳng còn khúc gỗ nào. Đống lửa thoi thóp kia không đủ sưởi ấm cho hai nữ nhân.
Thế mà hai nàng còn rủ nhau ra tắm rửa dưới trời mưa. Thay áo xong, họ run lên cầm cập Tuấn Hạc cau mày trách:
- Hai nàng mới thọ thương, dầm mưa làm gì?
Khiết Doanh thẹn thùng đáp:
- Bọn thiếp là nữ nhân, không chịu được cảm giác dơ bẩn.
Họ trải áo choàng xuống nền gạch nằm ôm nhau mà run rẩy. Tuấn Hạc cũng ngã mình xuống bên kia đống lửa. Chàng luyện thần công đến lớp thứ bảy, cơ thể tự điều hòa lúc nào cũng bình thường, nên không nghe lạnh, Tiểu Bạch nhảy tót lên xà gổ cì nó chẳng bao giờ chịu nằm dưới đất.
Tuấn Hạc không ngủ được, thao thức suy nghĩ mãi. Chàng nghe tiếng rên của hai nữ nhân chạnh lòng nhớ đến kỹ niệm ngày nào.
Tiểu Băng đã đem tấm thân nóng ấm để sưởi cho chàng. Nàng quả là người nhân hậu hiếm có Nay hai nàng kia đã là tỳ thiếp của chàng, chẳng lẽ chàng lại để họ chịu cảnh giá lạnh như thế? Cơ thể họ, chàng đã đụng chạm đến thì còn giữ lễ nghi làm gì nữa?
Chàng lưỡng lự một lúc rồi bước sang phân khai hai người, chui vào giữa mà nằm. Họ thẹn thùng và sợ hãi vì tướng chàng đã động tình.
Tuấn Hạc xiết hai nàng vào thân mình rồi trầm giọng:
- Ta gặp Tiểu Băng năm mới mười lăm tuổi, nhỏ bé và yếu đuối. Nàng đã không nề hà lễ giáo, ôm ta vào lòng mà sưởi ấm. Hai nàng yên tâm ngủ đi.
Nói xong, chàng đẩy chân khí lưu chuyển khiến cơ thể nóng rực lên. Hai nàng nghe ấm áp rụt rè ôm lấy chàng mà thiếp đi.
Nhưng Khiết Doanh chỉ nhắm mắt mà không ngủ. Tử đôi mắt đẹp, gióng lệ sung sướng ứa ra. Nàng vẫn tự hào mình là người quốc sắc, vì hoàn cảnh mà lấy Tuấn Hạc nên lòng khiêm cưỡng. Nay thấy thái độ nhân hậu, quân tử của chàng, nàng vô cùng ngưỡng mộ. Mấy ai có thể ôm người ngọc trong lòng mà không nổi tà tâm?
* * * sáng ra, cơn mưa đã tạnh, vần thái dương ló dạng, chiếu những tia nắng ấm qua cửa miếu, như cười cợt hai nữ nhân kia. Họ đã thức giấc, thẹn thùng nhìn nhau.
Khi ba người rửa mặt xong thì Tiểu Bạch đã đi săn về Nó vác một con lươn non - đã bị bẻ gãy cổ - quăng xuống sàn miếu, thọt khét để kể công lao.
Hàn Khiết Văn mừng rỡ, xách ra sau miếu.
Nơi đây có chiếc lu mẻ miệng đầy ắp nước nhờ cơn mưa đêm qua. Nàng vung kiếm chặt đứt hai đùi sau, cạo lông, rửa sạch rồi đem vào miêu.
Tuấn Hạc và Khiết Doanh đã phá hai cánh cửa sổ cuối cùng. Đêm qua, họ không dám đốt vì sợ mưa gió tạt vào. Số gỗ ấy vừa đủ để nướng hai đùi lươn.
Khiết văn vừa chia thịt vừa hỏi:
- Tướng công chưa kể cho bọn thiếp nghe việc chàng rơi xuống vực thẳm mà không chết?
ôn tiểu thư đã tốn biết bao nước mắt vì tướng chàng đã vong mạng.
Tuấn Hạc bèn kể lại cho họ nghe. Kể cả cuộc chiến với Thiên Độc Giáo ở Động Đình Hồ .
Khiết Văn mừng rỡ nói:
- Không ngờ chàng lại là truyền nhân của Cuồng Kiếm Thần Y. Bọn thiếp may mắn được gởi thân cho bậc anh hùng.
Chàng ngượng ngùng đáp :
- Ngoài võ công, ta chẳng có chút kinh nghiệm giang hồ nào cả. Vì vậy, khi đối phó với bọn tà ma sẽ chịu thiệt thòi.
Khiết Doanh nổi hào khí:
- Bọn tiện thiếp tuy bản lãnh không bằng tướng công nhưng lại thông thuộc mọi thủ đoạn của phe hắc đạo, sẽ tận lực giúp chàng.
Chỉ cần về đến Văn gia bảo, thiếp sẽ nói cho chàng biết Thiết Long kia là giả hay thực.
Tuấn Hạc đang rầu rỉ vì nghi án, nghe vậy lòng hoan hỉ vô cùng.
ăn xong, họ khởi hành ngay, chiều hôm ấy đã đến ôn Châu. Hai nàng dẫn Tuấn Hạc vào một trang viện đồ sộ ở cửa Tây. Họ bảo chàng đứng ngoài chờ một lát, để họ vào thưa chuyện với Hàn lão gia trước đã.
ôn Châu nằm ở sát bờ biển Triết Giang nên khí hậu mát mẻ, cây cối xanh tươi. Tuấn Hạc đứng trên chiếc cầu gỗ sơn son trước cửa trang viện, thướng lãm phong cảnh.
Cơ ngơi này không có chiêu bài và được xây dựng theo một thiết kế lạ mắt. Tường vây chỉ cao đến ngực người lớn nhưng chung quanh lại có hào nước rộng hai trượng, thả sen và súng.
Làn nước trong vắt, nhìn rõ cả đàn cá chép đỏ hồng đang bơi lội. Cây cầu gỗ là lối xuất nhập duy nhất.
Cạnh bờ hào nước là hàng dương liễu rủ tóc soi bóng, khiến cảnh vật càng thêm phần mơ mộng.
Bỗng từ sau bức tường phía Nam, một chiếc thuyền con xuất hiện. Trên ấy có một cô gái tuổi độ mười bốn, mười lăm, tóc thắt bím. Tấm áo ngắn màu hồng nhạt kia chứng tỏ nàng không phải là tỳ nữ.
CÔ gái vừa chào, vừa thò cánh tay trắng nuốt, hái những đóa sen, miệng ngâm nga một điệu hát vui.
Chợt phát hiện Tuấn Hạc đang đứng tựa lan can cầu nhìn mình. CÔ gái thẹn thùng cúi mặt cho thuyền quay lại.
Tuấn Hạc nổi tính trẻ con, ngâm bài Việt Nữ Tử của Lý Bạch:
"Da Khê Thái liên nữ.
Kiến khách trạo La Hồi.
Tiếu nhập hà hoa khú.
Đương tu bất xuất lai.".
Tạm dịch:
"Gái da khê hái sen.
Thấy khách, hát quay thuyền.
Cười nấp vào sen lánh.
Thẹn thùng bước chăng lên.".
CÔ bé đi khuất rồi mà tiếng ca còn vọng lại.
Vừa lúc Hàn Khiết Văn bước ra đến, nàng vui vẻ hỏi:
- Tướng công cao hứng vì sắp được gặp nhạc phụ hay sao mà ngâm nga như vậy?
Tuấn Hạc ngượng ngùng chẳng biết đáp sao.
Chàng lầm lùi đi theo nàng vào trang.
Qua hết cây cầu nhỏ là một sân gạch rộng rãi, hoa cảnh rất nhiều. Cuối sân là một tòa khách sảnh hai tầng đồ sộ, đường nét giản dị, thanh thoát chứ không màu mè, cầu kỳ của đám trọc phú. Tuấn Hạc thầm ngưỡng mộ nhân cách của Hàn trang chủ.
Vào đến nơi, Tuấn Hạc thấy một lão nhân áo xanh lục tuần. Tướng mạo phương phi, tuấn tú, râu ba chòm đen nhánh, dù tóc đã hoa râm.
Cạnh ông là một phụ nhân tuổi sáu mươi, tóc bới cao, cài cây Phụng Đầu Thoa bằng bạc.
(Quy định của triều Minh: Thứ dân không được dùng vàng trang sức trên đầu.) Gương mặt của phụ nhân này rất giống Hàn Khiết Doanh, chỉ già dặn hơn. Còn Hàn Khiết Doanh thì đứng sau lưng bà ta.
Hàn Khiết Văn hớn hở giới thiệu:
- Thúc thẩm! Đây chính là ân nhân của bọn hài nhi.
Tuấn Hạc kính cẩn vòng tay:
- Tiểu sinh Văn Tuấn Hạc, bái kiến trang chủ và phu nhân.
Hai người ấy chăm chú nhìn chàng, nở nụ cười hòa dịu, Hàn trang chủ cười ha hả:
- Nghe danh nhị công tử đã lâu, không ngờ nay lại được hạnh ngộ. Lão phu đã nghe hai liễu đầu kia cáo tường sự việc, lòng vô cùng hoan hỉ. Giá mà công tử hạ cố, gọi ta và bà lão đây một tiếng nhạc phụ, nhạc mẫu thì còn gì sung sướng bằng.
Tuấn Hạc bối rối đến ngẩn người, chàng ấp úng thưa:
- Bẩm trang chủ! Tiểu sinh biết ơn lòng ưu ái của nhị vị. Nhưng . . . chưa tìm được ôn Tiểu Băng, kẻ hèn này không dám . . . !
Khiết Doanh đỏ mặt đỡ lời:
- Cha! Hài nhi đã nói tận tường, sao người còn ép uổng tướng công làm gì?
Hàn lão cười xòa:
- Phải phải ! Ta vì quá nóng ruột nhận rể quý nên lỡ lời.
Hàn phu nhân khen ngợi :
- Văn công tử chung tình như vậy, quả là thế gian hiếm có. Xin mời an tọa.
Tiểu vế được dọn ra, chủ khách thù tạc vui vẻ Vợ chồng trang chủ càng lúc càng mến mộ chàng công tử văn võ song toàn.
Khi bàn đến việc giết Tích Ngọc Lang Quân Trương ân Tuấn để trả thù cho Tiểu Băng, Hàn trang chủ cau mày bảo:
- Đây là địa phận của Biến Hình Môn, họ Trương đến cầu hôn được coi là thượng khách.
Nay công tử giết y thì chẳng phải đã giá họa cho Cổ môn chủ hay sao? Thiên Sư Giáo có công đầu trong cuộc chiến đánh đuổi quân Mông Cổ, được triều đình sủng ái nên thế lực vô cùng hùng mạnh, Biến Hình Môn chẳng cách nào địch lại được. Vì vậy, theo ý lão phu là công tử hãy tạm gác ân oán, tìm cách hạ nhục để y bẽ mặt bỏ chạy khỏi ôn Châu là đủ roi.
Tuấn Hạc cung kính vâng lời. Hàn Khiết Văn bỗng góp ý:
- Hiện nay cả Thiên Độc Giáo và Thiên Sư Giáo đều nuôi mộng xưng hùng, sao ta không bày kế ly gián để họ tương tranh? Nhị phu nhân của Thiên Độc Giáo - Giang Lăng Thần Nữ - có một người con riêng tên là Doãn Tự Vân Gã hai mươi sáu tuổi và được phong là thiếu giáo chủ, tính tình háo sắc không kém họ Trương. Nếu Văn công tử hóa trang làm Doãn Tự Vân mà đánh đuổi Trương ân Tuấn thì hai giáo phái kia sẽ hiểu lầm nhau. Lúc ấy, Thiên Độc Giáo sẽ chẳng còn thời gian mà uy hiếp Văn gia bảo nữa.
Hàn trang chủ vỗ đùi khen phải. ông bảo gia nhân đi điều tra xem Tích Ngọc Lang Quân hiện đang ở đâu. Gã đã đến được mấy hôm nhưng lại đưa thiếp hẹn đến ngày sáu tháng bảy này mới đế bái kiến và bàn chuyện hôn sự - ngày tốt nhất trong tháng - nghĩa là còn hai hôm nữa.
Trong thời gian chờ đợi, gã thản nhiên thăm thú các kỹ viện ở ôn Châu. Gã cho rằng Biến Hình Môn không dám từ chối và sẽ rất vinh hạnh được kết thông gia với Thiên Sư Giáo.
(Quả thực là Thiên Sư Giáo - tức Đạo giáo - đã có công rất lớn với Chu Nguyên Chương.
Mấy chục vạn nông dân nghèo khổ - theo họ Chu kháng nguyên - đều là tín đồ Thiên Sư Giáo. Bản thân giáo chủ Trương Tỳ Vân cũng là cận tướng của họ Chu. Khi đại công cáo thành, Chu Nguyên Chương lên ngôi thiên tử liền ban chức và phong chức tước cho những thủ hạ dầy công hạn mã. Nhưng Trương giáo chủ hiểu rõ bản chất tiểu nhân hẹp hòi, phản phúc của Chu Nguyên Chương nên không nhận sắc phong. ông chỉ lãnh mấy vạn lượng vàng về Giang TÔ xây dựng tổng đàn, phát triển Thiên Sư Giáo.
Sau này, Minh Thái TỔ lần lượt giết những người đã từng theo mình dựng nghiệp. Lúc ấy, bá quan mới khâm phục đầu óc của Trương giáo chủ. Tổng đàn của Thiên Sư Giáo nằm ở huyện Cú Khúc, tỉnh Giang Tô. Vào thời Nam triều đạo sĩ Đào Hồng Canh đã tưng xây đạo quán trên núi Cú Khúc. Tương truyền trước đó - đời Tây Hán Canh Đế - ba anh em Mao Doanh, Mao Cổ, Mao Lý đã tu luyện thành tiên ở núi này, nên được tôn là tổ sư. Gọi chung là Tam Mao Chân Quân. vì vậy núi Cú Khúc cũng được đổi thành Tam Mao Sơn (gọi tắt là Mao Sơn) phái này còn có tên là Thượng Thanh Phái.
Trương Tỳ Vân đến núi Cú Khúc, xây một tòa Đạo Cung thật vĩ đại, gọi là Thượng Thanh Cung. Trên đỉnh - chung quanh sườn núi là hàng trăm kiến trúc để các giáo đồ thân tín cư ngụ. Họ là những cao thủ Đạo Giáo đã từng theo ông chiến đấu với quân Nguyên.
* * * Tối hôm ấy, bọn gia nhân về báo rằng Tích Ngọc Lang Quân đang trọ trong Chiết Giang đệ nhất khách điếm, cùng với mười bốn thủ hạ.
Hàng ngày, họ Trương la cà khắp chốn yên hoa, lâu quá, đổ trường. Muốn gặp chẳng phải chuyện khó.
Sáng hôm sau, Hàn Khiết Doanh dựa theo bức họa chân dung - mà Khiết Văn đã vẽ ra - hóa trang Tuấn Hạc thành thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.
Bản thân hai nàng cũng dịch dung thành hai gã hán tử nhỏ thó, tháp tùng Tuấn Hạc.
Gần trưa, trinh sát cho biết Trương ân Tuấn đang ăn nhậu trên tòa ôn Châu đại tửu lâu.
Ba người lập tức khởi hành, ngay hông Tuấn Hạc giờ đây có thêm một thanh trường kiếm.
Bạch Viên phải ở nhà để bảo toàn lai lịch.
Để đóng vai họ Doãn, Tuấn Hạc phải cạo sạch bộ râu mép cho đúng dung mạo của gã.
BỘ y phục hai màu trắng xanh diêm dúa và chiếc quạt lụa nan xương tạo ra vẻ hào hoa phong nhã. Gia dĩ Doãn Tự Vân cũng rất anh tuấn Ba người ung dung xuống ngựa, bước lên lầu trên của tửu lâu. Họ chọn một bàn cách bọn Trương ân Tuấn không xa. Họ Trương đang mãi mê chọc ghẹo ả ca nhi xinh đẹp nên không để ý đến.
Aû ca nhi đang ôm trong lòng một cây đàn tỳ bà có bốn dây. Loại đàn này được truyền từ Thiên Trúc vào miền Bắc Trung Hoa từ thời nhà Tấn. Và đến thời Bắc triều thì truyền xuống miền Nam. Còn có một kiểu đàn Ngũ Huyền tỳ bà nữa, nhưng đã thất truyền từ đời Tống.
So dây xong, ả gầy đàn, hát bài Tử Sơn Hoa Tử của Nam Đường Trung Chủ Lý Cảnh:
"Hàm Thiều Hương Tiêu, Thúy Diệp tàn.
Tây phong sầu khởi lục ba gian.
Hoàn dữ thiêu quang cộng tiều tụy.
Bất khan khan.
Tế vũ mộng hồi kê tái viễn.
Tiêu lâu xung triệt ngọc sinh hàn.
Đa Thiều lộ Châu hà hạn hạn.
Y lan can.".
(Dịch thơ) "Hương nhạt sen phai lá lục tàn.
Gió thương sầu gợn bóng hồ lan.
Cùng bóng Thiều quang chung ảm đạm.
Ngắm khân đang.
Mưa nhỏ mộng hồn về ải quốc.
Lầu con, sênh lạnh, tiếp tiêu ngừng.
Bấy nhiêu nước máy bao nhiêu hận.
Dựa lan can.".
Giọng hát của nàng trong trẻo nhưng ảo não, diễn tả được hết nổi buồn vời vợi của lời thơ, nhưng Tích Ngọc Lang Quân lại không thích như vậy gã cau mày mắng:
- Đang lúc bổn công tử vui vẻ, khoan khoái thế này, sao ngươi lại hát cái bài buồn như đưa đám đó?
Tuấn Hạc đang tán thướng tài nghệ của ả ca nhi nên phật lòng trước thái độ dung tục của họ Trương. Chàng lạnh lùng hừ nhẹ, nhưng khi lọt vào tai Trương ân Tuấn thì như tiếng sấm. Gã giật mình và điên tiết nhìn quanh rồi hậm hực hỏi:
- Kẻ nào vừa làm bẩn tai ta vậy?
Tuấn Hạc đứng lên, ra vẻ khinh miệt:
- Hạng phàm phu tục tử như ngươi làm sao thướng thức được cái thần diệu của thi nhạc?
Bài Tử Sơn Hoa Tử kia chính là kiệt tác văn chương thời nhà Đường. Tài cầm ca của vị cô nương đây cũng rất tài hoa, thế mà ngươi còn chê bai, thật đáng gọi là lỗ tai trâu.
Tích Ngọc Lang Quân giận tím mặt, nhưng là người gian hiểm nên gã phải hỏi lai lịch trước đã :
- Ngươi hãy xưng danh tính, kẻo không lại chết oan.
- Ta là thiếu giáo chủ Thiên Độc Giáo Doãn Tự Vân.
Trương ân Tuấn ngửa cổ cười vang:
- Té ra ngươi là em vợ hụt của ta! Bổn công tử là thiếu môn chủ Thiên Sư Giáo đây.
câu nói của gã đánh động mối thương tâm trong lòng Tuấn Hạc. Vì gã mà Tiểu Băng trôi dạt phương nào không rõ. Chàng cười nhạt:
- Ngươi chỉ là tên dâm tặc bại hoại, đâu có dây mơ rễ má gì với bổn thiếu gia?
Trương ân Tuấn đỏ mặt vì nhục nhã, quát vang :
- Giết hắn cho ta.
Mười bốn tên thủ hạ của gã lập tức xông đến vây chặt và tấn công.
Hai nữ lang chẳng hề khách sáo, tung ngay đòn sát thủ. Khiết Văn rải độc phấn và Khiết Doanh rắc kim vàng. Đòn phủ đầu này đã loại ngay được bốn tên.
Tuấn Hạc thì rút kiếm lao vào hai gã trước mặt. Chiêu Bất Kiến Bạch Đầu - trong pho Cuồng Kiếm - để lại hai lỗ trên huyệt Mi Tâm của chúng. Cả hai ngã xuống và chết khi tóc vẫn còn xanh.
Trương ân Tuấn chứng kiến chiêu kỳ tuyệt kia, giật mình kinh hãi. Nhưng gã cũng rất tự hào về bản lãnh của mình nên xông vào ngay.
Nếu không, đối phương sẽ giết chết thủ hạ của gã Tích Ngọc Lang Quân cũng là một tay kiếm sĩ lợi hại. Thanh kiếm của gã cũng hoa lệ, diêm dúa như chủ nhân. VỎ kiếm bằng bạc, cẩn chín viên lam ngọc. Chuôi kiếm bằng vàng khối, khắc hoa văn tinh xảo. Lưỡi kiếm được đúc bằng thép Miến Điện, tỏa ánh xanh biếc. Với cây Kim Ngân bảo kiếm này, Trương ân Tuấn đã giết gần trăm cao thủ, dương danh thiên hạ - khi tuổi mới ba mươi.
Gã được chân truyền pho Thái Thanh Kiếm Pháp của Trương giáo chủ, từ ngày xuất đạo chưa hề gặp đối thủ xứng tay nên không khỏi mục hạ vô nhân.
Trương ân Tuấn gầm lên, bốc cao hơn trượng, bủa lưới kiếm xuống đầu đối phương.
Tuấn Hạc không đón chiêu kiếm mà lao thẳng vào hàng ngũ bọn thuộc hạ. Tả thủ vẻ nửa chiêu Tam Dạ Hàn Tinh. Chướng kình xuyên qua màn kiếm quang, giáng vào ngực một tên.
Đồng thời, mũi kiếm lướt nhanh vào cổ họng tên thứ hai.
Tích Ngọc Lang Quân mất mục tiêu, sa xuống lao vào lưng kẻ dịch. Thanh kiếm xé gió, phát ra những tiếng ngân nho nhỏ.
Tuấn Hạc quay ngoắt lại đón chiêu, tiếng thép chạm nhau chan chát. Họ Trương nghe hổ khẩu tê chồn, kinh ngạc không hiểu vì sao đối phương kém mình nửa con giáp mà công lực lại thâm hậu hơn. Gã cắn răng vận toàn lực, đem hết sở học ra thi thố.
Tuấn Hạc cũng phấn khởi dùng pho Cuồng Kiếm mà đối phó. Đây là dịp để chàng rèn luyện thêm kiếm pháp. Trong bốn năm ở dưới vực thẳm, chàng dùng cành cây thay kiếm nên không phát huy được hết uy lực của pho tuyệt học. Nay gặp kẻ có kiếm pháp cao cường, là dịp để chàng thử nghiệm.
Mười tám chiêu của pho Cuồng Kiếm có thể biến hóa thành ngàn chiêu và chiêu nào mãnh lực cũng tựa cuồng phong và nhanh như thiểm diện. Càng đánh, chàng càng thông thuộc, và ngược lại, họ Trương càng tơi bời thiểu não.
Búi tóc trên đầu gã đã bị tiện đứt, bộ trường bào màu lam bàng gấm Hồ Châu thượng hạng bị rách nát te tua.
Sáu tên thủ hạ sợ thiếu giáo chủ bỏ mạng, liền để hai tên cầm chân Khiết Văn và Khiết Doanh, còn bốn tên xông vào hỗ trợ cho họ Trương. Họ là cao thủ có hạng trong Thiên Sư Giáo nên võ công rất cao siêu. Tuổi của họ đều ở khoảng ngũ tuần nên công lực cũng chẳng kém. Chính vì vậy mà Tuấn Hạc rơi vào thế hạ phong.
Bọn Thiên Sư Giáo dùng phép xa luân chiến, thay phiên nhau tấn công và không đón những đòn trực diện. Khi Tuấn Hạc xông đến phía ai thì kẻ ấy lùi xa và đám còn lại sẽ tập kích.
Lúc đầu, vì thiếu kinh nghiệm hỗn chiến nên Tuấn Hạc lúng túng. Nhưng cuối cùng, chàng cũng tìm ta cách giải phá. Chàng thi triển pho khinh công Thiên Tinh Quá Hải đến độ chót, lướt nhanh như bóng u linh thành một vòng tròn. Thân hình chàng chỉ còn là cái bóng mờ.
Bất chợt, chàng nhảy xổ vào một gã. Chiêu Đông Phong Đoạn Liễu chỉ gồm có chín kiếm ảnh, uy hiếp thượng bàn đối phương. Gã kia vội múa tít trường kiếm chống đỡ nhưng chỉ chạm vào ma ảnh. Kiếm của Tuấn Hạc âm thầm lướt ngang hông gã, không chờ kẻ địch ngã xuống, chàng vung tả thủ giáng một chướng vào ngực y. Cả thân hình to lớn ấy, văng vào gã thứ hai. Đồng thời, chàng đã nương theo cái xác ấy mà tiến lên. Tên hán tử rậm râu này đang bối rối vì đâm trứng đồng bọn liền bị một kiếm vào mắt phải.
Trương ân Tuấn căm hận gầm lên, ôm kiếm lăn xả vào chiêu kiếm của gã cực kỳ hiểm độc.
Tuấn Hạc đang ung dung đẩy bạt trường kiếm của tên hán tử gầy gò, chân lực dồn vào thân kiếm, chỉ còn một nửa nên thất thế. Kim Ngân kiếm rạch một đường dài trên ngực Tuấn Hạc.
Trương ân Tuấn đang đắc ý thì chàng trợn mắt quát vang, xuất chiêu NỘ Phát Xung Quan.
Đúng như tên gọi, đường kiếm chứa đầy nộ khí nên mãnh liệt vô song, chiêu thức đơn giản nhưng đối phương không sao cản nổi. Trương ân Tuấn trứng liền ba kiếm vào ngực, rú lên đau đớn rồi tung mình qua cửa sổ mà đào tẩu.
Ba thủ hạ của gã cũng phóng theo.
Khiết Doanh ném cho gã tiểu nhị - đang núp dưới gầm bàn trong góc lầu - nén bạc mười lượng rồi gọi Tuấn Hạc và Khiết Văn rút mau.