View Single Post
  #5  
Old 11-22-2012, 11:14 AM
Helen's Avatar
Helen Helen is offline
Super Moderator
 
Tham gia ngày: Jan 2007
Bài gởi: 3,082
neww Võ lâm ngũ bá - Hồi 8 - 10

Võ lâm ngũ bá


Hồi 8

Kỳ Trận Trên Hoang Đảo


Vương Trùng Dương đi một vòng ở phía Bắc từ Cự Dung Quan ra Trường Thành xuyên vào nội địa Mông Cổ, đến Liêu Đông, lại dạo chơi ở vùng Sơn Đông nửa năm rồi mới trở về bờ biển Liêu Đông. Từ Đinh Khẩu ngồi ghe qua Bột Hải đến Đăng Châu, vừa đi vừa ngắm phong cảnh, vừa dò xét dân tình, đồng thời cũng để kết giao với anh hùng trong thiên hạ. Nếu cứ theo đường lối ấy thì Vương Trùng Dương phải từ Đăng Châu đi sâu vào Liêu Đông, tới Lỗ Nam rồi trở về Hà Nam, Trung Châụ
Nhưng chàng muốn thêm kiến thức nên không đi đường bộ, mà từ Giang Châu dùng thuyền đến Giang Tô, rồi lại từ Trường Giang trở về nội địạ Đi đường này rất xa, phải ngang qua Hồng Hảị Nếu thuận gió thì đi mất mười ngày, còn nghịch gió thì có khi hàng tháng trời mới đến.
Vương Trùng Dương muốn được yên tỉnh nên đã thuê bao cả một chiếc thuyền lớn nói rõ là đến Giang Tô, rồi lại đi Nam Thông.
Trùng Dương giao cho ông lái đò một số tiền trước để mua sẵn lương thực, tích trữ nước uống, rồi chọn ngày tốt để khởi hành.
Từ Đăng Châu thuyền đi vòng qua Lao Thiết Sơn Đầu ở phía Bắc, Sơn Đông bán đảo là Hồng Hảị Vương Trùng Dương sinh trưởng ở Trung Châu, đã mười năm trời nay, đã đi khắp từ Miêu Cương đến Mông Cổ, nhưng chưa từng đi đường thủy, nay thấy trời cao, bể rộng, sơn thủy hữu tình thì trong lòng rất thỏa thích thì nghĩ rằng :
“Ngày xưa đức Khổng Tử đăng Thái Sơn mà thấy thiên hạ, còn hôm nay ta đi biển cả mới biết vũ trụ bao la, thật là “Đọc vạn thư bất như hành thiên lý lộ”.
Mặt trời vừa lặn. Màn đêm rơi xuống, mây nước một màu đen kịt, sóng nước vỗ mạn thuyền rì rào đều đềụ
Đằng sau lái một giọng ca ngâm sang sảng tả cảnh giang hồ vang lên, Trùng Dương thấy muôn phần sảng khoái, bèn mang rượu ra mũi thuyền rồi mời thuyền chủ cùng nhấp nhám.
Cá tươi lấy ở dưới bể đem lên luộc làm thức nhấm, còn gì thú hơn? Xa mút phía chân trời, vầng trăng mới ló ra khỏi mặt nước, chiếu hắt lên không trung một màu trắng xanh trong vắt.
Trên mặt biển lăng tăng sóng gợn, phản chiếu ánh trăng như trăm nghìn con rắn bạc lội nhởn nhơ. Rượu đã ngà ngà, thuyền chủ mới đem chuyện nhà kể lại cho Trùng Dương nghẹ
Ông ta họ Đinh tên Nhị Mao, chuyên sống trên mặt bể từ thưở nhỏ. Đinh Nhị Mao có hai người con trai, người con thứ nhất đặt tên là Đinh Cương, người thứ hai tên là Đinh Nghĩạ
Cả hai tuổi đã trưởng thành mà chưa lập gia đình, cùng theo ông nối nghề đi biển.
Trong lúc tửu hứng, họ Đinh mang những kinh nghiệm trong nghề ra nói như lúc khí trời thay đổi, nhìn mây biết trước được những cơn giông tố hoặc những trận cuồng phong; nhìn chim bay đoán biết được thời tiết sắp đổi thay và kể những loại cá kỳ dị mà trên đất bằng không ai được biết.
Tửu nhập ngôn xuất, liên tu bất tận cho đến lúc cả hai say khướt mới vào trong khoang nghỉ ngơị Con thuyền đi trong biển cả mênh mông chỉ có trời với nước, không trông thấy đâu là bờ.
Họ Đinh cứ theo hướng mặt trời mà đi, đêm thì nhìn sao Bắc Đẩu làm phương hướng. Nước ngọt chứa theo thuyền đã gần cạn.
Người đi biển sợ nhất là nước uống. Hết lương thực còn có thể nhịn được năm, bảy ngàỵ Nhưng hết nước uống thì sẽ chết khát ngaỵ
Họ Đinh nóng lòng lo sợ, cho thuyền ghé vào những hòn đảo nhỏ kiếm nước ngọt. Nhưng đã ghé vào mấy hòn đảo mà không thấy nơi nào có nước ngọt cả.
Lúc bấy giờ nước ngọt mang theo chỉ còn uống độ một ngày nữa là hết.
Mọi người đều hết sức kinh tâm, nhưng không biết làm cách nào, đành phó cho sự may rủị Con thuyền căng gió cứ vùn vụt lướt đi trên mặt nước.
Sự lo âu đều hiên lên trên nét mặt mọi người, họ Đinh, thỉnh thoảng lại chạy ra đầu mũi thuyền nhìn ngó khắp mọi nơi, nhưng lần nào cũng lắc đầu thất vọng.
Qua một đêm dài buồn bã, sáng hôm sau bỗng thấy Đinh Cương reo to :
- Phụ thân ơi! Đằng trước mặt có một hòn đảo lớn lắm.
Đinh Nhị Mao cả mừng lật đật chạy ra ngoài mũi thuyền nhìn theo tay chỉ của Đinh Cương thì quả nhiên về phía Bắc có một hòn đảo lớn hiện rạ
Trên đảo có liên tiếp ba ngọn núi màu xanh xẩm. Đinh Nhị Mao là tay lão luyện trong nghề hàng hải, thoáng trông biết ngay là hòn đảo có nhiều cây cối mọc, cho nên mới có màu xanh thì cả mừng, vội gọi bạn chèo hạ bớt buồm xuống dùng chèo bơi nhằm hướng Bắc tiến tớị
Độ một canh giờ thì quả nhiên đã đến phía đông hòn đảo ấỵ Đinh Nhị Mao sai người con lớn là Đinh Cương lên đảo tìm nước rồi về thuyền báo cho mọi người biết để mang thùng đi lấỵ
Đinh Cương tuân lời, nhưng đi tới hơn một canh giờ mà không trở về. Đinh Nhị Mao nóng ruột vô cùng, lẩm bẩm :
- Thật là đồ vô dụng. Kiếm có một chút nước mà đi tới nữa ngày cũng không xong. Đinh Nghĩa! Con thử lên đảo tìm xem, coi anh con đang ở đâủ
Đinh Nghĩa nghe cha bảo liền đem theo một cái đinh ba, để đề phòng sự bất trắc. Chẳng ngờ, Đinh Nghĩa đi có tới hơn canh giờ nữa mà cả hai cũng chẳng ai trở về.
Đinh Nhị Mao thấy tình hình như thế thì không giấu nỗi cơn lo lắng, tức giận nói lớn :
- Kỳ thật! Sao đứa nào cũng mất hút. Chúng bây hãy ở đây giữ thuyền để ta thân hành đi thử xem saọ
Lúc đó trời đã hoàng hôn, Vương Trùng Dương thấy vậy bèn nói với Đinh Nhị Mao :
- Lão trượng đợi tiểu sinh cùng đi vớị
Đinh Nhị Mao thấy Trùng Dương dáng người nho nhã như một thư sinh, thì nói :
- Đường trên hoang đảo gập ghềnh khó đị Công tử là người văn nhược sợ đi không được.
Vương Trùng Dương mỉm cười :
- Không sao! Tiểu sinh đủ sức. Xin Lão trượng cứ yên lòng.
Nói xong họ Vương nhún mình nhảy vọt lên bờ, nhanh như chim bay không hề phát ra tiếng động. Đinh Nhị Mao giật mình ngạc nhiên nhìn Vương Trùng Dương nói :
- Té ra công tử cũng biết võ nghệ nữa saỏ
Trùng Dương cười :
- Tiểu sinh cũng có học chút đỉnh.
Đinh Nhị Mao lúc đó mới cất tiếng cười ha hả và nói :
- Trông mặt đoán người đôi lúc cũng sai quá. Trông công tử nho nhã thư sinh, trói gà không chặt, chẳng ngờ tài nghệ lại cao cường như thế. Xem cách công tử phi thân vừa rồi cũng đủ biết rõ.
Nói dứt lời họ Đinh bước xuống nước và lội vào bờ. Đi qua một bãi cát, nghe tiếng nước chảy ào ào, Đinh Nhị Mao bèn nói :
- Ở bên đây có thác nước tại sao chúng không tới mà còn tìm ở tận đâu thật là hai thằng vô dụng.
Vương Trùng Dương cùng Đinh Nhị Mao đi tới tận cùng bãi cát, bỗng thấy phía trước có con đường hẹp ở giữa hai cửa núị Ở ngay đường đi có mấy đống đá như có tay người sắp đặt. Mới thoạt trông thật là vô trật tự.
Vương Trùng Dương để ý nhìn một lát, bỗng giật mình kêu lên :
- Lạ thật! Không biết ai đã xếp những hòn đá này theo “Kỳ Môn Bát trận đồ” của “Gia Cát Võ Hầu” đã bày ở Tứ Xuyên?
Họ Vương thấy loạn thạch trận đồ này thì đoán ra ngay sự mất tích của hai anh em họ Đinh.
Đinh Nhị Mao chạy lại trước đống đá thì thấy có một vật sáng loáng nằm dưới đất, vội chạy tới nhặt lên xem thì nhận ngay ra đầu mũi đinh ba của Đinh Nghĩa thì hoảng hốt kêu to :
- Sao lại có mũi đinh ba này ở đâỷ
Nói đoạn ông lấy tay làm loa gọi lớn :
- Bớ Đinh Cương, Đinh Nghĩa!
Tiếng gọi của Đinh Nhị Mao vang vào vách núi đi rất xa rồi dội lạị Họ Đinh gọi luôn một hồi có tới mười câu mà chẳng thấy có tiếng trả lời, thì càng hoảng hốt. Vương Trùng Dương nói :
- Thôi Lão trượng đừng kêu nữa cho uổng công. Tiểu sinh chắc chắn là hai vị anh hùng đã bị vây khốn ở đống đá này rồị
Đinh Nhị Mao lấy làm lạ hỏi Vương Trùng Dương :
- Công tử nói saỏ Đống đá này mà bao vây được người à? Nếu thế thì chắc đảo này có yêu quái rồị
Vương Trùng Dương cả cười :
- Thiên hạ đâu có nhiều yêu quáị Lão trượng cứ đứng yên đây đừng đi đâu, để tôi vào trong kiếm lệnh lang chọ
Nói xong, Trùng Dương tung người dùng thuật khinh công nhảy vào trận đồ.
Đinh Nhị Mao chỉ thấy tà áo vàng thấp thoáng lẫn vào trong đống đá, nháy mắt đã không còn thấy tăm dạng chi nữạ
Vương Trùng Dương lúc ở hang Bách Cầm theo Thanh Hư chân nhân học đạo đã được sư phụ dạy bảo cho biết những Kỳ Môn Thuật Pháp, Ngũ Hành biến hóa nên khi nhìn Bát Trận đồ, họ Vương xem qua đã biết ngay thế phá. Thấy phía Nam là Sinh môn, chàng liền theo cửa đó bước vàọ
Đinh Nhị Mao theo lời dặn của Trùng Dương đứng yên tại đó chờ gần hơn nữa canh giờ mà chẳng thấy họ Vương trở ra thì bắt đầu nóng ruột.
Mặt trời sắp lặn, chỉ còn lấp ló trên mặt nước. Xa xa tiếng vượn hú trong hoang đảo từng hồi nghe não ruột. Đàn chim ríu rít gọi nhau về tổ, cảnh vật thật là vắng vẻ, đượm biết bao nhiêu sự huyền bí hãi hùng. Họ Đinh càng thêm lo sợ chưa biết tính sao, thật là tiến thoái lưỡng nan.
Đang cơn lo lắng ấy, thốt nhiên họ Đinh thấy Trùng Dương từ phía bắc đống đá chạy ra, hai bên nách cắp hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Đinh Nhị Mao cả mừng reo lên một tiếng cực lớn. Thoáng một cái Vương Trùng Dương đã chạy tới trước mặt Đinh Nhị Mao, đặt hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa xuống đất.
Hai người dường như còn say ngũ chẳng biết gì cả. Đinh Nhị Mao lấy làm tức giận quát to :
- Hai tên súc sanh thật là vô dụng. Biết bao người chờ đợi lo lắng cho các ngươi mà lại chui vô đống đá ngủ say như chết thế kia thì lạ thật.
Nói xong, họ Đinh lộ vẻ tức giận xốc tới lấy chân toan đá hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩạ
Vương Trùng Dương thấy thế cản lại và nói :
- Không phải lệnh lang ngủ đâụ Đây là vì lạc vào Bát Trận đồ nên bị hôn mê, để tiểu sinh cứu tỉnh chọ
Nói xong, Trùng Dương ngồi xuống lấy tay chà sát người anh em họ Đinh.
Một hồi lâu anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa mới ú ớ vài câu rồi mở choàng hai mắt ngồi phắt dậy nhìn quanh và nói :
- Trời! Sao tôi lại ở đâỷ
Đinh Nhị Mao dậm chân gắt lớn :
- Súc sanh! Thật là đồ ăn hạị Ta sai ngươi đi tìm mạch nước từ đầu giờ Mùi đến nay đã bắt đầu giờ Dậu mà cũng chưa chịu về, chúng bây lại chung vào đống đá ngủ say như chết. Nếu không có công tử đây vào bắt chúng bây ra thì có lẽ hai chúng bây ngủ luôn trong đó.
Đinh Cương ngơ ngác hồi lâu, nhìn đống đá và nhìn Đinh Nghĩa không biết trả lời thế nàọ
Vương Trùng Dương thấy tình hình như thế thì cất tiếng cười ha hả nói :
- Đinh nhị huynh vào trong đống đá rồi không biết đường ra có phải không?
Đinh Cương gật đầu và kể lại :
Chàng tuân lời thân phụ lên bờ, đi sâu vào trong hoảng đảọ Vừa qua bãi cát nghe rõ ràng tiếng nước suối chảy róc rách ở trong đống đá, trong lòng hết sức vui mừng, xăm xăm đi tới theo hướng tiếng nước chảỵ
Ở ngoài trong đống đá chồng chất dài ước độ vài chục trượng. Chẳng dè khi Đinh Cương bước vào trong, bỗng nhiên thấy quang cảnh biến đổi một cách kỳ dị.
Chàng cảm thấy hình như mình đang đi vào một cái hang sâu thăm thẳm, chung quanh như có cả trăm ngàn ngọn núi đá vây bọc bầu trời tự nhiên tối sầm lại, âm u mờ mịt.
Đinh Cương hoảng sợ vội quay mình trở lại, theo phương hướng cũ đi rạ
Chẳng ngờ đâu đâu cũng thấy núi đá, trùng trùng, điệp điệp. Quanh quẫn một lúc lại trở về chỗ cũ.
Đinh Cương lại nghe tiếng gió vi vu, dội vào vách đá phát ra những tiếng hú quái dị, ghê gợn thì chẳng còn hồn vía, cắm đầu chạy cho đến lúc quá mệt mõi ngã lăn xuống đất, mê man bất tỉnh.
Còn Đinh Nghĩa thì nói rằng :
- Sau khi nghe lời cha bảo, Đinh Nghĩa cầm chiếc đinh ba rời khỏi thuyền, lội lên bờ. Cũng đi qua đống cát theo vết chân của Đinh Cương tới đống đá, nghe tiếng nước chảy ào ào thì độ Đinh Cương đang ở trong đó.
Đinh Nghĩa gọi to lên nhưng chỉ nghe tiếng chàng vọng lại mà không thấy Đinh Cương trả lờị Đinh Nghĩa trong lòng hết sức lo ngại, sợ rằng có sự gì không tốt xảy ra cho Đinh Cương.
Chàng vội vàng đi vào trong đống đá theo hướng tiếng nước chảy mà thẳng tớị Chẳng dè khi vào trong, Đinh Nghĩa thấy một màu trắng xóa như mây mù nổi lên che kín những đống đá, chập chờn nữa tỏ, nữa mờ ẩn ẩn, hiện hiện như trong đám sương mù.
Đinh Nghĩa lấy làm lạ tưởng mình hoa mắt, lấy tay dụi mắt định thần nhìn kỹ thì dường như đang đứng giữa bãi sa mạc, sương mù bao la như mặt biển mênh mông bát ngát thì thốt nhiên không còn hồn vía, kêu gọi Đinh Cương luôn miệng để mong có người đến cứu mình chăng. Chàng bổng thấy trước mặt có một bóng người mặc áo màu xanh, thấp thoáng đi lạị Đinh Cương gọi đến ba, bốn câu mà bóng ấy vẫn không trả lời mà chập chờn như một bóng mạ
Họ Đinh cầm đinh ba nhắm thẳng bóng xanh đâm tớị Bỗng cảm thấy như có người giật mạnh chiếc đinh ba, chàng gượng không nổi té nhào xuống đất, mê man chẳng biết gì nữạ
Nghe hai anh em họ Đinh kể xong, Đinh Nhị Mao rùng mình sởn gáy, vì những người đi biển phần đông đều mê tín dị đoan nên vội vàng xua tay nói :
- Thôi! Chúng ta mau mau rời khỏi nơi nàỵ Đúng là chúng bây gặp “ma hớp hồn” rồi đấỵ
Đinh Cương, Đinh Nghĩa nghe cha nói thì nhận rằng quả nhiên mình thấy rõ những hiện tượng lạ như thế nên chẳng còn hồn víạ Vâng theo lời cha mà nói họ Vương mau mau trở về thuyền.
Trùng Dương biết họ là những người dân còn chất phác rất mê tín dị đoan.
Dầu có giải thích họ cũng chẳng chịu nghe, nên nói với ba cha con họ Đinh :
- Lão trượng và nhị vị cứ yên trí về trước đi, tiểu sinh vào đó một chút sẽ về.
Đinh Nhị Mao nói :
- Công tử hãy coi chừng, coi chừng bị ma hớp hồn.
- Lão trượng đừng ngại, “chính phải thắng tà”. Tiểu sinh đi tìm nước uống rồi sẽ trở về lập tức.
Cực chẳng đã ba cha con họ Đinh phải quay trở về thuyền. Trước khi giã từ, Đinh Nhị Mao còn dặn Trùng Dương một lần nữa :
- Tiên sinh có vào trong đó thì phải mau mau trở về thuyền, kẻo lão phu lo lắm.
Vương Trùng Dương gật đầu rồi nhắm cửa sinh của Bát Trận đồ mà vàọ
Khi vào tới giữa đống đá, Vương Trùng Dương cất tiếng gọi lớn :
- Vị nào lập Thạch trận xin xuất đầu lộ diện, để kẻ hèn này được diện kiến thì thật lấy làm vinh hạnh.
Vương Trùng Dương nói liên tiếp ba lần, bỗng nghe thấy từ trong trận đồ văng vẳng tiếng ngâm thơ đưa rạ Lời thơ bi thảm, giọng ngâm buồn rầu như khóc như thảm.
Vương Trùng Dương lắng tai nghe thì thấy đây là bài thơ của Lý Hậu Chủ trước tác.
Nguyên trước kia vua Đường họ Lý tên Nhứt đóng đô tại Giang Nam bị đại tướng của Tống Thái Tổ là Tào Bân bắt được biến làm nô lệ.
Nhà vua là một thi nhân nên lúc bị giam cầm đã làm bài thơ vong quốc này để diễn tả nỗi lòng đau khổ của mình và sự điêu linh đồ thán của chúng dân.
Lời thơ thật là ai oán khiến cho người nghe phải bùi ngùi tất dạ. Sau vua Lý Nhất bị nhà Tống bắt uống thuốc độc mà chết.
Tiếng ngâm vừa dứt, Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Tại hạ là kẻ phiêu lưu muốn kết giao cùng các vị anh hùng trong bốn bể.
Ngẫu nhiên tới đây, được thấy Bát Trận đồ của bật cao nhân sắp đặt. Tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, kính mong được gặp mặt, trình bày một đôi câụ
Tiếng nói của họ Vương vang lên như tiếng chuông đồng, và chàng lại dùng mấy câu thơ của Bạch Cư Dị để đáp lại bài hờn vong quốc của đối phương. Những tưởng thế nào người đó cũng ra mặt, chẳng dè không thấy ai trả lời mà cũng chẳng ai xuất hiện.
Bốn bề lặng ngắt. Vầng kim ô đã lặn, ngọc thố mới nhố lên, ánh sáng trăng tỏa ra lung linh huyền ảọ Những tảng đá đen sì nổi bật lên giữa những đám cát trắng phaụ
Cảnh vật càng thêm huyền bí. Bỗng đâu từ xa đưa lại tiếng tiêu bổng trầm thanh thót. Mới đầu âm thanh dịu dàng véo von, réo rắt như ru hồn người vào cõi mộng rồi đột nhiên tiếng tiêu đổi điệu dồn dập như thiên quân vạn mã, hùng tráng như vó ngựa chiến chinh, ào ào như phong ba bão táp.
Vương Trùng Dương nghe tới đây nghe như có một luồng khí nóng từ Đan điền dâng lên hừng hực như muốn nổ tung buồng ngực.
Chàng cả kinh biết ngay đối phương muốn thử công lực của mình. Nếu công lực kém sẽ bị “Tẩu Hỏa Nhập Ma”, có thể chết ngay lập tức.
Trùng Dương vội vàng tĩnh tọa ngay dưới đất. Vận hành nội khí theo cách thức luyện công của Toàn Chân pháị Phút chốc chàng thấy khí huyết điều hòa không còn cảm thấy hồi hộp như trước nữạ
Tiêu thanh không làm cho tâm trí chàng đê mê được, tức thì nhạc điệu khác lại vang lên.
Tiếng tiêu lúc này nỉ non giống như giọng nói của giai nhân êm ái dịu dàng, mơn trớn như nàng mỹ nữ bên đức lang quân trong chốn phòng thẹ
Tiếng tiêu điêu luyện, vô cùng quyến rũ như khêu gợi lửa lòng của người trần tục để đưa vào vòng sắc dục.
Vương Trùng Dương là người tu hành từ thưở nhỏ đã giới sắc cho nên dầu tiếng tiêu như khêu, như gợi vẫn định thần tĩnh trí, tâm hồn thanh tỉnh át được tiếng tiêu đị Vương Trùng Dương bèn nói to :
- Hỡi vị nào dùng tiếng tiêu để làm bấn loạn lòng ngườị Tại hạ là người đã lánh xa trần thế, vinh hoa phú quí, sắc đẹp rượu nồng chẳng hề vương mang, vậy không nên dùng tiếng tiêu làm chi nữạ
Tiếng tiêu tức thì chấm dứt. Một tiếng cười ha hả vang lên :
- Tại hạ đã xa lánh cỏi đời ô trọc, một mình tới nơi hoang đảo hẻo lánh để tĩnh tâm tu luyện, lập “Võ Hầu Bát Trận” để ngăn cản kẻ phàm phu tục tử tới quấy rầỵ Tiên sinh với ngu hạ bất đồng đạo, bất đồng mưu hà tất phải cùng nhau gặp gỡ làm chị Xin mời tiên sinh hãy ra khỏi nơi nàỵ
Vương Trùng Dương ngẫm nghĩ :
- Người này đã bày được “Võ Hầu Bát Trận” ắt cũng không phải kẻ tầm thường, hơn nữa tiếng tiêu của hắn ta vừa thổi biến ảo khôn lường và tỏ ra một bản lĩnh cao siêu, kình lực hơn ngườị Mình không được cùng hắn kết giao cũng thật là đáng tiếc, nhưng cũng thử hỏi tên họ là gì may ra có thể biết ra manh mối tung tích chăng.
Nghĩ đoạn Trùng Dương cất tiếng nói to :
- Vị cao nhân nào nói không cho tiểu sinh được diện kiến thì kính xin cho biết quí tánh cao danh.
Ở trong Bát Trận đồ có tiếng cười ha hả, đồng thời một tiếng nói vang lên như tiếng chuông đồng :
- Dĩ la chôn thần kiếm, tiếng tiêu vạn cổ sầụ
Tiếng nói vừa dứt Trùng Dương thấy một bóng xanh thấp thoáng trong đống đá, chỉ chớp mắt không thấy đâu nữạ
Vương Trùng Dương thấy đối phương không chịu xuất đầu lộ diện lại chẳng chịu nói rõ danh tánh, chỉ để lại hai câu thơ thì chẳng hiểu có ẩn ý gì nên chàng thất vọng vô cùng bèn quay trở về thuyền.
Từ xa thấy từ trong thuyền một luồng khói đen bốc lên nghi ngút, rồi ngọn lửa chập chờn bốc lên caọ
Giật mình, Trùng Dương tưởng có chuyện gì chẳng lành xảy ra, vội vàng tung mình dùng thuật khinh công chạy bay xuống.
Đến nơi nhìn kỹ, họ Vương bất giác phì cườị Té ra cha con Đinh Nhị Mao đang đốt vàng mã cúng bái vì cho rằng hồi nãy hai anh em Đinh Cương, Đinh Nghĩa bị ma hớp hồn. Đinh Nhị Mao nhìn thấy Trùng Dương về tới nơi thì cả mừng reo to :
- May quá Vương công tử đã về đây rồị
Vương Trùng Dương nhún mình nhảy vọt lên mạn thuyền. Đinh Nhị Mao vừa muốn ra lệnh cho bạn chèo nhổ neo chèo đi nơi khác, Vương Trùng Dương vội nói :
- Lão trượng không cho lấy nước uống hay saỏ Không biết bao nhiêu ngày nữa mới tới lục địa, không tích trữ nước uống thì làm thế nào được.
- Trên hòn đảo này có ma, không nên lấy nước uống nữạ Nước uống trên thuyền nếu hà tiện cũng còn được hai ngày nữa, ta nên đi tìm đảo khác là hơn.
Vương Trùng Dương cố ý muốn gặp người bày Bát Môn Đồ trận nên gạt đi và nói :
- Không được! Dù cho nước còn được hai ngày nhưng chắc đâu tìm ra hòn đảo khác. Chi cho bằng hãy ở lại đây lấy đầy nước rồi hãy đị Lão trượng hãy yên tâm để việc tìm nước tiểu sinh sẽ lo liệụ
Đinh Nhị Mao thấy trời cũng gần tối, dầu muốn khởi hành cũng không được nữa đành phải cắm thuyền nghĩ lạị
Đêm hôm đó, cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều chui xuống dưới khoang vì sợ con ma trên hoang đảo, chỉ có một mình Trùng Dương ngồi tĩnh tọa trên khoang thuyền.
Chàng thấy mọi người đều có vẻ sợ sệt thì cười thầm. Chàng bèn vận khí luyện tập nội công của Toàn Chân pháị
Trăng đã lên cao, tỏa ra khắp bầu trời một ánh sáng dịu dàng. Biển yên sóng lặng, thỉnh thoảng mới có một luồng gió nhẹ nhàng thổi qua làm cho mặt nước lăn tăn gợn sóng.
Trên mặt bãi cát, ánh trăng chiếu xuống trông trắng toát một màu như một vùng tuyết trắng. Đối cảnh sinh tình, Vương Trùng Dương tức cảnh muốn làm vài bài thơ ca ngợi cảnh đẹp đêm trăng thì bỗng nghe có tiếng động rất nhẹ trên thuyền.
Là một người rất linh mẫn, Trùng Dương biết ngay là có người dùng thuật khinh công nhảy lên thuyền. Người này thuộc vào hàng bản lãnh cao siêu, thân thể nhẹ nhàng, không phát ra tiếng động mạnh.
Chàng lập tức nhún mình phi thân nhảy vọt ra ngoài mạn thuyền nhanh như tên bắn, cất tiếng cười ha hả :
- Qúy khách! Xin mời xuống đây đàm đạọ
Tiếng nói của chàng vang lên như tiếng sấm khiến cho cha con họ Đinh và tất cả bạn chèo đều thức giấc. Họ run sợ vì cho rằng Trùng Dương đang trò chuyện với ma, không ai dám chạy lên thuyền, nằm im không dám cựa quậỵ
Trùng Dương vừa dứt lời, ngước nhìn lên ngọn cột buồm quả nhiên thấy có một người mặc áo màu xanh đang ngồi vắt vẻo trên cái cột ngang trên tít ngọn cột buồm. Người đó cũng cất tiếng cười khanh khách và nói :
- Khá khen cho túc hạ tai rất thính, cũng đáng mặt hào kiệt trong võ lâm. Xin mời lên đây đàm thoạị
Vương Trùng Dương nói to :
- Xin tuân lờị
Nói vừa dứt lời, Trùng Dương tung vút người lên như con chim bay lên ngọn cột buồm. Vừa đưa tay định nắm lấy cây cột ngang trên đó, bỗng Thanh Y nhân quát lên một tiếng :
- Xuống mau!
Thanh Y nhân vừa nói, tả chưởng ở trước ngực hướng xuống dưới đánh ra một thế, đó là “Ép Vân chưởng”. Vương Trùng Dương ở phía dưới nhảy vụt lên chẳng ngờ bị sức chưởng ở trên đánh xuống có hơn vạn cân lực, không còn thể chống chọi vào đâu được, vội vận dụng hết tuyệt kỹ công phu gồng người lên chịụ
Tuy không bị thương tích nhưng cũng bị chưởng phong xô bật ra ngoài biển.
Nhưng không hổ danh là đệ nhất danh gia của Toàn Chân phái, và là Trung Thần Thông của Võ Lâm Ngũ Bá sau này, họ Vương thấy Thanh Y nhân dùng “Ép Vân chưởng” định hạ mình thì đã nhanh tay chụp lấy mảnh cây dằn trên cột buồm dày chừng năm phân, lớn bằng bàn taỵ
Lúc thân chàng rơi xuống, Vương Trùng Dương dùng miếng cây đó đánh mạnh xuống nước, đoạn lấy đà nhảy vút vào mạn thuyền nhanh như làn chớp nhoáng, toàn thân không hề bị một giọt nước nào làm ướt.
Trùng Dương cả giận vì bản thân chỉ muốn kết giao với Thanh Y nhân nên bản thân không chút đề phòng, nếu không nhờ vào bản lĩnh cao siêu thì còn gì là tánh mạng nữạ Chàng quát to :
- Đây là tại vì quí hữu ra tay trước thì đừng trách tại hạ ra tay thất lễ.
Nói xong Vương Trùng Dương đánh ra một chưởng, một luồng gió lớn phát ra uy lực ghê hồn. Chàng đã từng tập luyện “Nhất Dương chỉ” nên tuy cách xa cột buồm có tới một trượng mà chưởng phong vẫn mãnh liệt vô cùng.
Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm vẫn tỏ ý kiêu ngạo không đề phòng, ngờ đâu cột buồm bị chưởng phong của Vương Trùng Dương đánh tới, gẫy ngang làm hai khúc văng xuống biển. Thanh Y nhân ngồi trên cột buồm bị ngã xuống như chiếc lá rụng.
Khi thân hình vừa chấm mặt nước, Thanh Y nhân dùng chân dẫm lên mặt nước nhảy phắt lên bãi cát rồi cắm đầu chạy thẳng.
Vương Trùng Dương cũng vội tung mình nhảy vọt lên bờ, dùng khinh công đuổi theo miệng la lớn :
- Xin hãy dừng chân! Xin hãy dừng chân.
Nhưng Thanh Y nhân vẫn vùn vụt chạy nhanh như bay, biến qua bãi cát và lẩn ngay vào Bát Trận đồ.
Vương Trùng Dương chạy theo tới nơi đứng ngoài cửa nói to :
- Qúi hữu đã có nhã ý đến thăm ngu hạ, xin đừng tránh nữạ
Vương Trùng Dương vừa nói đến đây bỗng thấy bên trong thạch trận vụt bay ra ba hòn đá nhằm thượng, trung, hạ toàn thân của Vương Trùng Dương bay tớị
Nhanh như cắt, Vương Trùng Dương đưa tay lên đã bắt được ba hòn đá đó trong taỵ Vương Trùng Dương cười lên một tiếng to rồi nói :
- Người tưởng Bát Trận đồ của Gia Cát Võ Hầu không ai phá nổi hay saỏ
Nói xong, họ Vương dùng tay bóp vụn ba viên đá trong tay ra làm nhiều hòn đá nhỏ, đoạn vung tay dùng Miêu chưởng ném vút những viên đá nhỏ đó vào trong thạch trận đồ, nếu là thường nhân ném ra thì chẳng khác chi trẻ con nghịch cát.
Nhưng Vương Trùng Dương đã luyện Nhất Dương chỉ nên uy lực thật là ghê gớm. Những viên đá nhỏ mạnh như tên bắn bay vụt vào trong. Không ngờ ở trong thạch trận cũng có nhiều viên đá nhỏ bay ra, nhằm vào những viên đá nhỏ của họ Vương mà ném, hai bên chạm nhau tạo nên những âm thanh chát chúa rồi cùng nhau rơi lả tả xuống đất như trận mưa sa, kỳ ảọ Những bột đá bay tung ra thành những đám bụi mù mịt.


Hồi 9

Khắc Thơ Trên Đá
Thần Long Nhật Hiện Thanh Y Khách


Vương Trùng Dương thầm kính phục bản lĩnh siêu quần của đối phương. Chàng cúi xuống lượm mấy viên đá bóp vụn ra trong tay rồi quát lớn :
- Tại hạ thử dùng cách Mãn Thiên Hoa Vũ thi thố, quí hữu hãy lưu tâm. Nói dứt lời, Vương Trùng Dương vung tay dùng chưởng phong ném vụt những viên đá nhỏ trong tay bay vụt như mưa vào trong thạch trận. Ngờ đâu bên trong cũng có một loạt đá nhỏ bay ra cản lạị Hai luồng chưởng phong gặp nhau đẩy tung những viên đá bật văng trở lại rồi rơi xuống đất. Vương Trùng Dương thấy đối phương chiếm được vị trí trung tâm Tuất thổ, chận giữ mình không cho vào trận thì cả giận nói :
- Đã là một kẻ trượng phu, phải đường đường tỷ thí cho rõ tài cao thấp, chứ cứ lén lúc nấp trong trận đồ, đâu có phải là tay hảo hán. Vương Trùng Dương cố ý dùng lời nói khích, quả nhiên Thanh Y nhân mắc kế từ trong thạch trận nhảy vút ra quát lớn :
- Hay cho họ Vương dám buông lời khinh miệt, coi thiên hạ chẳng ra gì thật là mục hạ vô nhân. Nếu có gan cùng ta tỷ thí vài ba trăm hiệp không? Trùng Dương lưu ý nhìn kỹ, chỉ thấy người này mặc áo toàn xanh, trên mặt đeo một vuông khăn kín chỉ hở đôi mắt sáng quắc như sao nhìn chăm chăm vào Vương Trùng Dương. Họ Vương lấy làm kinh ngạc vì Thanh Y nhân đã biết rõ tên họ của mình thì vội vàng chấp tay nói :
- Túc hạ đã biết tiện danh, vậy cũng xin túc hạ cho tiểu sinh đây biết túc hạ tên họ là gì để tiện bề xưng hô. Thanh Y khách quát lớn :
- Hà tất phải biết tên tuổi của ta làm gì. Hãy coi quyền pháp của tạ Nói dứt lời Thanh Y nhân đã dùng chiêu “Đã Mã Phân Sung” đấm thẳng vào ngực Vương Trùng Dương một quyền hết sức mãnh liệt. Vương Trùng Dương nghĩ thầm trong bụng :
- Chắc người này luyện võ công của Thái Cực phái nên mới sử dụng Thái Cực quyền. Vương Trùng Dương dùng thế “Xuất Vân Thu” ra đối phó. Thanh Y khách lại dùng thế “Nhị Long Tranh Sơn” nhằm đỉnh đầu Vương Trùng Dương đánh xuống, uy lực thật là ghê gớm, sức mạnh như cả trái núi đổ xô đến. Họ Vương bất giác kinh ngạc nghĩ thầm:
- “Sao người này lại sử dụng Ngũ Hành quyền”. Thái Cực quyền là dùng nhu thắng cương, trái lại Ngũ Hành quyền là dùng sức mạnh, càng đánh càng mau, hai thứ sử dụng thật là hoàn toàn trái ngược. Nghĩ như vậy nhưng Vương Trùng Dương cũng vội dùng thế “Sáu Lượng Đổi Cột” của Toàn Chân phái ra đối phó. Thanh Y nhân bỗng biến đổi chiêu thức, chàng ta dùng chiêu “Hồi Quang Phản Chiếu” của “Nhạc Gia Trưởng”. Lúc thì dùng Thiếu Lâm Hổ Quyền, lúc lại quay sang dùng các chiêu thế tối độc của Võ Đương trường quyền. Vương Trùng Dương ngạc nhiên vì thấy Thanh Y nhân luôn luôn biến đổi quyền pháp thì không sao đoán được là người của môn phái nàọ Chàng vẫn sử dụng bài “Thái Ất quyền pháp” của Toàn Chân phái ra đối địch. Thanh Y nhân liên tiếp dùng hết chiêu thức này đến chiêu thức khác tấn công mãnh liệt, khiến Vương Trùng Dương lưu tâm đón đỡ nên chỉ có thủ mà chưa có công. Bỗng thấy Thanh Y nhân cười dài một tiếng và nói :
- Tài nghệ của tại hạ như thế nào chắc túc hạ đã biết rồi, khỏi giao đấu làm gì nữa cho hao phí sức khỏẹ Tại hạ xin kiếu từ, nếu có dịp nào sẽ xin gặp mặt saụ Vừa nói dứt lời, Thanh Y nhân nhảy vụt ra khỏi vòng chiến, tung người lên cao đến ba, bốn trượng như một con chim đại bàng lao vút vào trong Bát Trận đồ. Chỉ thoáng thấy một cái bóng xanh lẩn vào Trung Ương trận, vị trí Tuất Thổ. Hành động của Thanh Y nhân thật là kỳ lạ, võ công hết sức cao siêu, còn hơn lúc Trùng Dương đại náo Thiếu Lâm tự khiến cho họ Vương càng thắc mắc, không hiểu vì cớ gì mà người này ẩn mình trên hòn đảo hoang vu nàỵ Lòng hiếu kỳ càng tăng thêm lên, Trùng Dương nhất định không chịu bỏ qua quyết hỏi ra manh mối, nên quát lớn :
- Chưa phân thắng bại sao túc hạ lại bỏ đị Họ Vương dùng tuyệt kỹ công phu tung mình nhanh như tên bắn nhảy vọt tới đống đá, cung tay định dùng “Sô Ma chưởng” đánh ta đống đá không cho người ấy trốn trong đấy nữạ Thanh Y quái khách đột nhiên nhảy vọt ra ngăn cản chàng lại, vung tay như muốn dùng “Song Chiếu chưởng” đánh ra, họ Vương chuẩn bị đối phó. Nào ngờ trong tay Thanh Y quái khách vụt ra một nắm kim vàng nhanh như tên bắn, tua tủa như mưa nhằm thẳng mặt Trùng Dương bay tớị Chàng giật mình biết không sao tránh khỏi vội vận nội công toàn thân cứng như thép, giơ tay trái lên che lấy mắt và mặt, còn tay phải phất mạnh một cái, một luồng chưởng phong từ trong tay áo bay ra cản những mũi kim vàng rơi xuống đất. Nhưng khiếp thay cho bản lĩnh của Thanh Y quái khách thật vô cùng dũng mãnh, chưởng phong của Vương Trùng Dương chỉ cản được phân nữạ Còn một số kim vàng tới mười ba, mười bốn mũi cứ lao thẳng vào mặt và mình của Trùng Dương. Tuy họ Vương đã vận khí chống cự, những mũi kim vàng không thủng vào da thịt nhưng những chỗ trúng kim cũng thấy hơi đau rát. Khi Vương Trùng Dương buông tay áo xuống đã không thấy Thanh Y quái khách đâu nữạ Trùng Dương phóng mình dùng thuật phi hành chạy quanh Bát Trận đồ mấy vòng mà vẫn không thấy bóng dáng của Thanh Y quái khách thì biết rằng Thanh Y quái khách đã cố tình lánh mặt nên đã lẩn vào trong trận đồ. Họ Vương lượm những cây kim vàng còn dính ở áo bỏ vào tới, hướng vào trong trận đồ nói lớn :
- Hôm nay tại hạ được lãnh giáo võ công của quí hữu rất lấy làm ngưỡng mộ. Xin hẹn hôm khác sẽ tái kiến. Nói xong, Trùng Dương thoát ra khỏi kỳ môn thạch trận trở về thuyền. Ba cha con Đinh Nhị Mao sợ ma nằm dưới khoang thuyền, thấy Vương Trùng Dương nói chuyện với yêu quái và đánh đuổi nhau trên mũi thuyền. Lúc họ Vương bị đánh rớt xuống biển và chàng dùng chưởng lực đánh gẫy cột buồm khiến cho con ma té xuống, rồi họ Vương đuổi theo yêu quáị Ba cha con Đinh Nhị Mao và một số bạn chèo đều biết nhưng không ai dám bước ra khỏi khoang thuyền để xem cho rõ ràng. Mãi không thấy Trùng Dương trở về ai nấy đều lo sợ cho rằng chàng đã bị yêu quái sát hại rồị Ba cha con đều lo lắng không hề ngũ được, đến khi thấy có người nhảy xuống thuyền lên tiếng hỏi và nghe tiếng Trùng Dương trả lời, Đinh Nhị Mao mới dám mở cửa bước ra khoang thuyền nói :
- Vương công tử phúc tinh lớn lắm nên bọn ma quỷ dữ tợn như thế mà không hớp hồn được thật là may mắn lắm. Vương Trùng Dương thấy Đinh Nhị Mao hãy còn mê muội cho rằng Thanh Y nhân là ma quỷ thì không sao nhịn được cười, nên cất tiếng cười khanh khách nói :
- Không phải là ma quái đâụ Chính là vị ẩn sĩ bày ra Bát Trận đồ để ngăn cản không cho ai tới hòn đảo nàỵ Vương Trùng Dương kể lại đầu đuôi câu chuyện giao đấu với Thanh Y quái khách cho cha con họ Đinh nghe và chàng lấy ra mấy cây kim vàng cho Đinh Nhị Mao xem. Cầm chiếc kim vàng trên tay, Đinh Nhị Mao ngẫm nghĩ một hồi rồi nói :
- Những chiếc kim vàng này làm bằng nguyên chất, ít nhất cũng nặng đến mấy tiền, người này chắc phải giàu sang lắm. Hai anh em họ Đinh và mấy người bạn chèo nghe Đinh Nhị Mao và Vương Trùng Dương nói chuyện, lúc đó mới kéo nhau lên mũi thuyền xúm vào xem mấy cây kim vàng. Trùng Dương lại nói :
- Hẳn Lão trượng và liệt vị đây đã biết rõ trên đảo có một cao nhân ẩn cư tại đây để luyện võ công đã lập ra trận đồ làm rối loạn tinh thần những người không biết. Ý chỉ không muốn cho ai quấy rầy chứ làm gì có ma quáị Vậy các người cứ yên tâm mà ngũ cho kỹ. Sáng mai hãy cùng nhau lên đảo lấy nước uống. Đinh Nhị Mao và tất cả mọi người lúc đó mới hiểu rõ nên vui vẻ vào khoang thuyền ngũ một giấc ngon lành. Sáng hôm sau, trời vừa hừng sáng, ba cha con họ Đinh và các bạn chèo đã sửa soạn sẵn đồ đựng nước, theo Vương Trùng Dương lên hoang đảo lấy nước. Vương Trùng Dương đi trước hướng dẫn một số người theo saụ Qua bãi cát, tới những đống đá, Vương Trùng Dương ngạc nhiên nhìn thấy trận đồ đã bị phá vỡ. Những đống đá nằm ngổn ngang không còn hàng lối như hôm qua nữạ Đứng nhìn hồi lâu, Trùng Dương bỗng nói :
- Lạ thật! Lạ thật! Đây đúng là Thanh Y ẩn sĩ đã tự phá vỡ Kỳ Môn Bát Trận và nhất định cao nhân này đã ra khỏi đảọ Chàng bước đi thẳng vào trận. Trông đống đá hôm qua dựng lên làm Trung Ương Tuất Thổ, hôm nay cũng rời rã, rối loạn không còn trật tự nữạ Chàng chợt thấy có mấy hàng chữ lõm sâu vào một tảng đá, mọi người đều tới gần xem thấy nét chữ đẹp vô cùng, như được một người thợ điêu khắc lành nghề tạo nên. Chỉ có Trùng Dương biết ngay Thanh Y nhân đã dùng thuật “Thiết Chỉ công”, vận dụng nội công vào đầu ngón tay mà viết nên nét chữ lõm sâu vào đá chừng năm phân, nét rất sắc xảo, đủ biết rằng Thanh Y nhân là người có học thức uyên thâm, thật là văn võ toàn tàị Ba cha con họ Đinh và bọn thủy thủ là những người ít học nên chẳng hiểu gì cả. Vương Trùng Dương lưu ý đọc suốt từ đầu đến cuối, đó là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt, ý nói rằng :
- “Thanh Y nhân đã giang hồ lưu lạc hơn ba mươi năm, coi cuộc đời như phù vân nên đến ẩn cư tại hoang đảo, chẳng muốn liên lạc gì với giang hồ nữạ Nào ngờ đâu gặp tay cao thủ phá vỡ thạch đồ trận, nên không ở lại hoang đảo nữa mà dùng thuyền đi nơi khác.” Toàn thể hai bài thơ đều do Thanh Y nhân dùng “Thiết Chỉ công” khắc vào, công phu thật là điêu luyện. Họ Vương nhìn những dòng chữ và những tảng đá của thạch đồ trận ngổn ngang trên mặt đất thầm nghĩ :
- Không dè ở trên hoang đảo mà có một kỳ nhân võ công trác tuyệt, tài ba quán thế mà mình không được cùng kết giao thật là đáng tiếc. Chàng cứ đứng ngẩn ngơ, lẩm bẩm một mình, than thở tiếc rẻ mãi không thôị Đinh Nhị Mao thấy thế liền hỏi :
- Vương công tử. Quái nhân ấy đã đi khỏi nơi đây rồi saỏ Vương Trùng Dương lúc đó mới giật mình, chép miệng thở dài :
- Vị ẩn sĩ đó đã đi rồi thật là đáng tiếc. Trước khi đi ông ta đã phá hết Bát Trận đồ, không có gì trở ngại nữa và không còn sợ lạc đường như ngày hôm qua nữạ Liệt vị hãy mau mau vào trong lấy nước. Tất cả mọi người đều đi thẳng vào thạch động. Quả nhiên đi độ năm, sáu mươi thước thì thấy có một dòng nước suối từ trên núi chảy xuống. Mọi người đều đổ xô cả lại hứng nước mang về thuyền. Họ chuyền nhau lấy đầy đủ nước uống, rồi mới rời hoang đảọ Thanh Y quái khách ở trên hoang đảo này chính là Hoàng Cố. Sau này cũng là một trong Võ Lâm Ngũ Bá, gọi là Đông Tà Hoàng Dược Sư. Hoàng Cố người tỉnh Triết Giang, tỉnh Hải Ninh, gia cư giàu có. Tổ tiên của Hoàng Cố là một người nổi danh cùng thời với Tô Đông Pha thời Bắc Tống, tên là Hoàng Lỗ Trực. Đời đời truyền nối đều là những người nho phong nề nếp, thân sinh của Hoàng Cố là Hoàng Uẩn Thạch. Hoàng Cố là con trai duy nhất nên được nâng niu, chiều chuộng coi như ngọc báụ Hoàng Cố bản chất thông minh, nổi danh là thần đồng. Vì mới năm tuổi đã biết làm thơ, bảy tuổi đã sáng tác được nhiều bài ca, khiến cho mọi người đều thán phục. Hoàng viên ngoại thấy Hoàng Cố tuổi còn nhỏ mà trí tuệ đã xuất chúng, siêu phàm như thế thì không khỏi lo âu, vì từ xưa đến nay các bậc thần đồng đều chết non như trường hợp Cam La mới mười hai tuổi đã làm nên thừa tướng, nhưng chẳng được hưởng thọ tuổi trờị Nhan Uyên thông minh tuyệt thế, cũng bị yểu tử, sống không được quá ba mươị Hoàng viên ngoại e con mình quá thông minh, lại bị chết sớm nên thường thường dẫn Hoàng công tử đến các nơi chùa chiền, lễ bái đầu khấn phật trời ban phước cho họ Hoàng. Ở quận Hải Ninh có một ngôi Thiên Đồng tự, là một trong những danh xá trong tỉnh Triết Giang. Vị chủ trì ngôi chùa này Hiểu Vân thiền sư, tuổi đã cao nhưng tinh thần còn quắc thước, biết đoán quẻ âm dương và tính toán quá khứ vị laị Một hôm Hoàng viên ngoại và Hoàng Cố đến chiêm bái Thiên Đồng tự. Sau khi lễ phật, Hoàng viên ngoại dẫn Hoàng Cố vào ra mắt Hiểu Vân thiền sư. Vừa trông thấy mặt của Hoàng Cố, Thiền sư lộ vẻ vui mừng nói :
- Hoàng thí chủ thật là phước lớn, Công tử có nhiều quí tướng. Sau này chắc chắn là một người tài ba quán thế, danh tiếng để lại cho ngàn thụ Hoàng viên ngoại đã nghe danh Thiền sư là một cao tăng đắc đạo, không bao giờ nói dối, nên nghe Thiền sư nói như thế bỗng cau mày thở dài nói :
- Bạch thượng tọạ Lão phu chỉ sinh hạ được một tiểu nhi này mà thôị Thiên tính rất thông minh, năm tuổi đã làu thông kinh xử, biết cả làm thơ nên thiên hạ tặng khen là thần đồng. Vì người ta vẫn có câu tài cao mệnh yểụ Thượng tọa cao minh xin xem kỹ lại cho lão phu được nhờ. Hiểu Vân thiền sư bảo Hoàng Cố lại gần xem kỹ nét mặt, thốt nhiên Thiền sư kêu lên :
- Ồ lạ thật! Sao lại có thể thế được. Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như thế thì giật mình biến sắc, chắp tay thưa :
- Bạch thượng tọạ Người mới phát giác ra được điều gì? Hung hay kiết? Cúi xin chỉ giáo cho lão phu biết để lão phu đề phòng. Hiểu Vân thiền sư cười nói :
- Bần tăng tuy bất tài nhưng nếu thí chủ có lòng tin cậy thì bần tăng thấy sao nói vậỵ Nếu có điều gì thất thố cũng mong thí chủ bỏ qua chọ
- Bần tăng nhìn kỹ tướng mạo Công tử ắt Công tử không được thọ lắm, tới mười lăm tuổi phải cần tránh lửa, không sẽ bị nạn hỏa đốt chết. Hoàng viên ngoại nghe thấy Thiền sư nói như vậy càng thêm sợ hãi vô cùng vì Hoàng Cố tính ra năm đó đã được mười hai tuổi, chẳng hóa ra chỉ còn ba năm nữa là đã đến số phải lìa bỏ cỏi đờị Viên ngoại không cầm được hai hàng lệ dâng lên khóe mắt. Hiểu Vân thiền sư nói thêm :
- Nhưng bần tăng thấy ở nhân trung của tiểu chủ một luồng tử sát mang vân có thể thoát được đại nạn. Nếu qua khỏi được năm đại nạn thì Công tử đây sẽ trở thành một bậc kỳ tài danh lừng bốn bể. Bần tăng mấy chục năm trời nghiên cứu tướng số chưa hề thấy qua một người như thế, chẳng lạ lắm saọ Hoàng viên ngoại nghe Thiền sư nói như vậy cũng an tâm được đôi chút vẫn còn thắc mắc bèn hỏi :
- Bạch thượng tọạ Tiểu nhi của lão phu có thể nào thoát khỏi được nạn lửa không?
- Mô Phật. Việc tướng số rất huyền bí nên có câu phúc năng thắng số. Cũng như đời nhà Hán có một viên ngoại họ Đặng tên Thông, gia sản hàng muôn triệu thế mà có một người coi tướng lại dám cả quyết rằng sau không bát ăn phải nhịn đói chết. Đặng viên ngoại và tất cả mọi người không ai tin cả và cho người coi tướng đó là kẻ điên khùng, ăn nói quàng xiên. Đến sau vua Cảnh Đế nghe lời gian thần sàm tấu vu cho viên ngoại tư thông với giặc liền bắt viên ngoại hạ ngục, bao nhiêu gia cư điền sản đều bị tịch thu xung công hết. Bọn gian thần lại hạ lệnh cho bọn cai ngục bỏ ông nhịn đói chết ở trong tù. Lúc ấy người ta mới thấy lới tiên đoán của người thầy coi tướng quả là linh nghiệm.
- Còn một người nữa tên là Bùi Tịch, ở đời nhà Đường. Lúc nhỏ thật là nghèo khổ, tướng mạo xấu xa, một thầy tướng coi ông và quả quyết rằng:
- “Số ông ta suốt đời nghèo khổ, không có lúc nào sung túc”. Bùi Tịch nghe nói như thế chẳng những không lấy thế làm buồn mà thường nói với mọi người:
- “Nếu số trời đã định thì tránh sao cho khỏị Kiếp trước ắt có làm điều gì gian ác lắm cho nên kiếp này mình phải chịu nghèo hèn. Thôi kiếp này đã lở, phải tu sửa để dành kiếp sau”. Từ đó Bùi Tịch ăn chay niệm phật, hết sức giữ lòng ngay thẳng, không ăn gian nói dối, hết sức giữ lòng trong sạch, cam chịu cảnh bần hàn. Một hôm Bùi Tịch lượm được một gói bạc không biết của ai đánh rớt. Bùi Tịch ngồi ở lề đường giữ gói bạc quyết đợi thất chủ để hoàn lạị Bùi Tịch ngồi đợi từ sáng sớm đến quá ngọ mà vẫn không thấy ai có vẻ tìm kiếm của rơi cả, bụng chàng đói như cào đã định bỏ đi tìm hàng ăn cho đỡ đóị Nhưng nghĩ lại nếu bỏ đi lỡ người bị mất của qua đây không tìm thấy thì mình biết ai mà trả lại, nghĩ vậy nên chàng ráng ngồi chờ đợị Cho đến gần đầu giờ mùi, họ Bùi vừa đói vừa mệt, hai mắt lim dim muốn ngồi ngũ gục. Bỗng nghe tiếng khóc thảm thiết của một người đàn bà vừa khóc vừa kể lễ:
- Chồng chết không có tiền chôn, đến thị trấn vay được một số đem về làm tang, chẳng may lúc bối rối làm mất dọc đường. Bùi Tịch choàng tỉnh dậy hỏi đầu đuôi gốc ngọn và trao trả bạc lại cho bà ta không thiếu một đồng nàọ Thấy Bùi Tịch ăn mặc rách rưới, người đàn bà định đưa cho một số bạc để tạ Ơn, nhưng Bùi Tịch nhất định không lấy, cam chịu đói một buổị Sau này ngờ đâu Bùi Tịch làm tới chức Thừa tướng. Thế nên người ta mới có câu “Đức Năng Thắng Số”. Vậy bần tăng khuyên thí chủ hãy về nhà chuyên làm việc thiện và cho Công tử tránh nơi có lửa, may ra có thể tránh được tai nạn.


Hồi 10

Coi Thủy Triều Gặp Tai Nạn


Hoàng viên ngoại từ khi nghe Hiểu Vân thiền sư giảng giải về nhà hết lòng làm điều thiện. Những nơi tô tượng, đúc chuông, xây chùa, đắp đường, làm trường học việc gì viên ngoại cũng tham gia đóng góp.
Đối với Hoàng Cố, viên ngoại càng hết sức thương yêu, những nơi nào có lửa tuyệt đối không cho lại gần, nhất là những chốn bếp nước, hay những chỗ đốt vàng mã, đều bắt Hoàng Cố tránh cho xạ
Cả đến lúc nhúm lửa đốt đèn cũng không cho Công tử lại gần. Thật là Hoàng viên ngoại đã làm hết sức của mình để tránh tai nạn theo như lời Hiểu Vân thiền sư đã nóị
Hoàng viên ngoại là người rất tin ở số mệnh, nên hết lòng gìn giữ và dặn bảo lũ gia nhân phải theo lời của viên ngoại mà ngăn giữ Hoàng Cố.
Vì sự giữ gìn săn sóc chu đáo như vậy nên Hoàng Cố cũng rất sợ lửa, trông thấy lập tức Công tử lánh xạ
Quang âm thấm thoát, ngày tháng như thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua ba năm, Hoàng Cố đã được mười lăm tuổi, tức là năm mà Hiểu Thiện thiền sư xem tướng và nói trước Hoàng Cố sẽ gặp nạn lửa mà chết yểụ
Hoàng viên ngoại càng hết sức đề phòng, không rời Công tử một phút nàọ
Từ bữa ăn, đến giấc ngủ, viên ngoại tự mình coi sóc từng tý một.
Ngay cả chiếc đèn thắp trong phòng của Công tử, viên ngoại cũng không cho thắp lên nữa, qua hạ sang thu chỉ còn mấy tháng nữa là Hoàng Cố sẽ thoát nạn. Hoàng viên ngoại hết sức vui mừng.
Hàng năm cứ đến ngày Trung Thu là tất cả những người vùng Chiết Đông đều kéo đến bò sông Tiền Đường xem nước thủy triều lên xuống.
Sông Tiền Đường ở gần huyện Hải Ninh lại còn có tên là Chỉ Giang nữạ Từ phía đông chảy ra biển, hình như cái loa kèn ngoài rộng trong hẹp.
Ngoài cửa Tiền Đường lại có mấy hòn đảo nhỏ nhô lên khỏi mặt nước, những lúc nước triều lên sóng đánh vào những hòn đá đó thành những con nước cao lên đến mấy chục trượng trông rất là ngoạn mục.
Người dân ở tỉnh Triết Đông lại có những lời tương truyền rằng đến xem thủy triều có thể bớt được sự tai nạn.
Dĩ nhiên Hoàng viên ngoại cũng mang Hoàng Cố đến xem thủy triều sông Tiền Đường.
Bằng hữu Vào ngày mười sáu tháng tám, hai cha con viên ngoại và người nhà đến bờ Tiền Đường giang, trên đường đi gặp biết bao nhiêu du khách các nơi đổ đến.
Người đi, kẻ lại dập dìu như đám hộị Nhiều căn liều mới dựng làm chỗ bán các thức ăn và giải khát.
Hoàng viên ngoại tìm một tiệm ăn trong sạch, dẫn Hoàng Cố và gia nhân vào chọn chỗ ngồi khoáng khoát.
Bọn tửu bảo lăng xăng chạy đến mang nước trà và các món điểm tâm lại, hai cha con viên ngoại vừa ăn vừa chuyện trò rất vui vẻ.
Hoàng Cố bẩm chất rất thông minh, tài văn thơ đã nổi tiếng, thấy cảnh sinh tình, chỉ phút chốc đã làm liền mấy bài thơ, ý tứ thanh cao, lời thơ lưu loát. Hoàng viên ngoại nghe Công tử bình thơ thì trong lòng tự nghĩ :
- Xưa kia Lý Hà cỡi lừa du ngoạn, lúc trở về đã sáng tác được nhiều bài thơ bất hủ, tiếc thay mệnh bạc, chỉ sống đến năm 23 tuổị Hoàng Cố mới thấy cảnh đã xuất khẩu thành chương thực là thiên tài, e không thoát khỏi yểu mệnh.
Hoàng viên ngoại nghĩ như thế, thốt nhiên buồn rầu, thở dài một tiếng.
Hoàng Cố thấy viên ngoại đang vui vẻ, bỗng nhiên thay đổi như thế không hiểu vì lẽ gì, chàng muốn cho viên ngoại khuây lãng nên reo to :
- Phụ thân, nước thủy triều đã lên kìa, thật là thập vạn quân thanh bán dạ triềụ
Hoàng viên ngoại và tất cả mọi người đều nhìn ra ngoài sông lúc bấy giờ mặt trời đã xế về Tâỵ
Mặt trăng mới mọc phía đông, từ đàng xa bỗng tuôn lên một luồng sóng bạc trắng xóa, cuồn cuộn chảy vào, nhọn gió đưa theo mát lạnh.
Ngọn sóng càng đến gần, càng nghe thấy tiếng ầm ầm, vang dậy như thiên binh vạn mã. Ngọn sóng cao lên bảy tám trượng như trái núi đổ xô tới reo vào bờ, bọt tung lên trắng xóa, cảnh vật bỗng huyên náo cả lên, Hoàng viên ngoại cầm tay Hoàng Cố dắt ra khán đài cho mãn nhãn.
Hai cha con đang mải mê ngắm cảnh những hòn đảo nhỏ ở ngoài xa bị những luồng sóng lớn bao phủ như chìm hẳn xuống đáy biển.
Mặt trăng đã lên cao, chiếu xuống mặt nước lấp lánh, nhô lên nhô xuống trông như trăm ngàn con rắn bạch.
Ngờ đâu tai nạn lại mang đến thình lình, đằng sau hai cha con có một lão trượng ăn mặc tỏ ra một bực giàu có, hút ống điếu dài ngoằng.
Ông ta nhét đầy thuốc vào ống, mang đá lửa ra đánh để hút thuốc, gió thổi thật mạnh, phải đánh đến bốn năm lấn mới mồi được điếu thuốc.
Lão trượng hít một hơi thật dài, bất ngờ có một luồng gió mạnh thổi đến, tàn thuốc trong ống bay ra, rớt ngay vào cỗ áo của Hoàng Cố, chỉ một loáng, tàn lửa đã cháy loang một mảng áo khá lớn, mùi vải khét nghẹt.
Một tên gia nhân đứng đằng sau Hoàng Cố kêu to :
- Nguy to! Nguy to! áo của thiếu chủ nhân cháy rồị
Vừa kêu vừa chạy lại đập đập vào vai áo để dập tắt lửa đi, Hoàng Cố đang say sưa ngắm cảnh thiên nhiên, thốt nhiên thấy tiếng kêu của tên gia nhân, thấy nóng ở sau cổ, ngoảnh lại, thấy khói bay và thấp thoáng có ánh lửa, thì hoảng kinh chẳng còn hồn vía, đáng lẽ Hoàng Cố cởi áo ra và để gia nhân dập một chút thì hết ngaỵ
Nhưng đã ba năm nay Hoàng Cố bị ám ảnh bởi câu nói của vị thiền sư chủ trí tại Thiền Đông tự là sau đây mình sẽ chết vì nghiệp lửa, cho nên khi thấy lửa cháy ngay ở cổ áo mình thì hốt hoảng không còn bình tỉnh, lập tức nhảy xuống khán đài, nhắm thẳng bờ biển chạy tớị
Từ khán đài đến biển chỉ cách độ mười trượng, Hoàng Cố tâm thần bất định, cắm cổ chạy tới như bay, nhào ngay xuống nước, với mục đích dập tắt lửa mà thôị
Hoàng viên ngoại cùng mấy tên gia nhân trong lúc bất ngờ thấy Hoàng Cố phóng mình xuống khán đài, không kịp ngăn trở.
Đến khi Hoàng công tử chạy xuống bờ biển, thì Hoàng viên ngoại cũng vội vã, tất tả đuổi theo, nhưng Hoàng Cố đã lao vụt xuống mặt nước đánh “Ùm” một tiếng, đồng thời lúc đó nước thủy triều lại dâng lên, ngọn nước trắng xóa cao bằng nóc nhà đổ tới ầm ầm, kéo luôn Hoàng công tử ra ngoài biển khơi, Hoàng viên ngoại cả kinh kêu to :
- Hoàng Cố! Hoàng Cố!
Nhưng than ôi! Ngọn nước vô tình đã mang đứa con độc nhất của họ Hoàng ra biển cả không còn tung tích nữạ
Hoàng viên ngoại gào thét như điên cuồng nhắm mắt định gieo mình tự tử, kẻ gia nhân chạy tới ôm chặt lấy viên ngoại kéo vào, can gián chẳng dứt. Hoàng viên ngoại vừa la vừa khóc, khi thấy ông già hút thuốc làm cháy áo của Hoàng Cố thì không nén được cơn giận dữ nắm ngay lấy ngực áo ông quát to :
- Lão già khốn kiếp, mau thường mạng cho con tạ
Nói dứt lời, Hoàng viên ngoại tay đấm, chân đá, xé rách cả quần áo của ông già nọ. Lão trượng họ Kim không thể ngờ có sự xảy ra như vậy, cố gỡ mà không được, bị Hoàng viên ngoại nắm được chòm râu cứ thế mà rứt, lão già họ Kim đau kêu trời như bọng!
Mọi người chung quanh thấy thế vừa thương hại, vừa buồn cười, xúm lại gỡ mãi Hoàng viên ngoại mới chịu rời tay rạ
Quần áo lão trượng họ Kim đã rách nát tả tơi, bộ râu đẹp đẽ đã bị vặt trụi quá nửạ
Vừa đau, vừa tức, lại vừa sợ, họ Kim chưa kịp nói năng gì thì Hoàng viên ngoại đã chỉ tay vào mặt quát mắng :
- Lão già gần kề miệng lỗ kia, mi thật là vô dụng, hút làm gì mà để cho lửa tạt cháy áo con ta, khiến nó sợ hãi chạy nhào xuống biển, mới bị nước cuốn đi, mi phải thường mạng cho con ta nếu không ta cũng quyết liều cái mạng già này với mị
Nói rồi Hoàng viên ngoại lăn sả vào toan đánh họ Kim một trận nữạ Mọi người đều xúm vào can ngăn, mỗi người một lời khuyên giảị
Còn Hoàng Cố trong lúc thảng thốt, không kịp suy nghĩ cho là nhảy xuống nước sẽ dập tắt được ngọn lửa, chẳng dè bị luồng sóng lớn cuốn ra biển, nhồi lên nhồi xuống, như có sức ép ngàn cân dồn vào ngực không kịp kêu lên một tiếng nào, ngất xỉu đị
Tâm hồn phiêu phiêu, chẳng biết ỏ dưới biển cả bao lâu, bỗng giật mình choàng tỉnh, thấy nằm trong một cái khoang thuyền, sực nhớ lại chuyện vừa qua không hiểu mình còn sống hay đã chết, ngước mắt nhìn quanh, thấy bên cạnh một lão trượng đang ngồi uống rượu, trước mặt còn có một cuốn sách viết một hàng chữ lớn: “Châu Dịch Kinh Thi”. Hoàng Cố chống tay ngồi dậy thì đầu hoa mắt choáng, kêu sẽ lên hai tiếng :
- Ối chao!
Lão trượng giật mình quay lại, hai mắt sáng quắc như hai ngôi sao lóng lánh nhìn Hoàng Cố mỉm cười, cất tiếng sang sảng như tiếng chuông đồng dịu dàng nói :
- Con đã tỉnh dậy đấy ư, hãy nằm im một chút cho khỏe hẳn đã. Cớ sao con lại bị rơi xuống bể?
Hoàng Cố hãy còn ngơ ngẩn giây lát tâm thần ổn định thì thuật lại hết đầu đuôi gốc ngọn. Lão nhân nghe xong vuốt râu cười khanh khách :
- Số con chưa chết, nên con gặp được ta giải cứu, thôi con còn yếu sức hãy nằm yên nghỉ.
Hoàng Cố vâng lời nằm yên, chàng liếc mắt quan sát thấy con thuyền, chẳng được lớn lắm, không phải thuyền câu, ngoài ông lão ra còn có một người trai tráng đang chèọ
Lão nhân cầm bình rượu tu một hơi, đoạn cất tiếng sang sảng ngâm bản “Hái Dâu” của Âu Dương Tu, giọng lão trượng rất tốt vang lên tiếng trong, tiếng đục, trầm bổng du dương.
Trong lúc tửu hứng, nguồn thơ lai láng, bỗng nhiên lão trượng nói to :
- Rượu suông không có đồ nhắm còn gì buồn hơn, đề ta bắt mấy con cá lên làm đồ nhắm và nấu bát cháo ăn chơị
Nói dứt lời, lão trượng bước khỏi khoang ra mũi thuyền nhìn xuống mặt biển.
Ông ta giơ tay phóng hờ xuống mặt nước, một tiếng “ùm” vang lên, chiếc thuyền tròng trành muốn đắm.
Hoàng Cố thất kinh, vội vàng nhỏm dậy giữ chặt lấy mạn thuyền nhìn ra, thấy khi ba đào sóng lặng mặt biển trỏ lại bình thường thì ở dưới nước bỗng nổi lên một đôi cá dài chừng hai thước, ngửa bụng lên trời, thoi thóp cựa quậỵ
Người chèo thuyền tức thì ngưng tay, vớt cặp cá đó lên. Hoàng Cố là một đứa trẻ thông minh, chuyên cần đọc sách, làu thông kinh sử, tuy không biết một chút gì về võ nghệ, nhưng đã được xem nhiều trong sách vở, biết rằng loại cá này thường ở dưới nước tới hơn mười thước.
Lão nhân chẳng những đã nhìn thấy, lại còn dùng chưởng phong đánh xuống chết luôn hai con một lúc thì biết rằng võ công của ông ta rất cao siêu nên reo to :
- Chà! Lão trượng sử dụng miếng “Phách Không chưởng” thật là quá ư lợi hại!
Lão trượng ngoảnh lại cất tiếng cười ha hả :
- Tiểu tử, mi cũng biết sử dụng “Phách Không chưởng” saỏ
Hoàng Cố lật đật trả lời :
- Bẩm lão trượng, tiểu nhi chẳng biết võ nghệ, nhưng thường xem sách thấy nói rằng “Phách Không chưởng” nếu luyện tới đợt nhất, có thể cách một bức tường mà làm tắt cây đèn cầy, đánh vỡ bụng một con bò cách xa một trượng, còn lão trượng đánh xuống mặt nước mà chết cá không phải là “Phách Không chưởng” hay saỏ Chẳng hay lão trượng cao danh quí tính là chi xin cho tiểu nhi được biết.
Lão trượng vuốt râu cả cười :
- Ta họ Châu, khá khen cho con cũng thông minh đấỵ Nhưng sai mất rồi, “Phách Không chưởng” là dương cương, chỉ có thể phá hoại được vật cứng, nhưng đối với nước biển là chất lỏng thì vô dụng, nên không thể giết chết con cá trong nước, miếng võ của ta gọi là “Hỗn Nguyên Nhất Khí chưởng” so với “Phách Không chưởng” còn cao siêu hơn nhiều, con có muốn học không?
Lão trượng họ Châu là một vị danh tướng ở cuối đời Bắc Tống, tên gọi là Châu Đồng là sư phụ của Nhạc Phi, văn học và võ công của họ Nhạc là do Châu Đồng truyền dạỵ Sau này đại phá quân Kim, trở thành một anh hùng của dân tộc Trung Hoạ Mọi người đều sùng bái, đã có nhiều người nhầm tưởng Châu Đồng chỉ có một đồ đệ là Nhạc Phị
Thật ra, trước khi Châu Đồng thu Nhạc Phi làm đồ đệ, thì Châu lão anh hùng đã có mấy đệ tử trước rồị Trong đó, Hoàng Cố là một trong những đồ đệ đó.
Lúc Hoàng Cố xem nước thủy triều vì sợ bị lửa cháy nên nhảy liều xuống nước để dập tắt đi chẳng dè bị giòng nước cuốn ra ngoài biển, nhưng số mệnh không chết nên gặp Châu Đồng ngồi thuyền đi thăm bạn ỏ Định Hải trở về cứu thoát.
Lúc đó, Hoàng Cố đã bị uống nhiều nước, nên đã bất tỉnh nhân sự, hơi thở thoi thóp.
Châu Đồng dùng phương pháp cấp cứu riêng cứu tỉnh và ngắm dung mạo của Hoàng Cố thấy tướng mạo khôi ngô, dung nhan khác tục, thì ý muốn thu làm đồ đệ truyền dạy võ công cho chàng.
Khi Hoàng công tử nghe Châu Đồng nói thế thì cũng có vẽ mừng rỡ phục xuống lạy Châu Đồng và nói :
- Ơn Châu lão bá đã cứu tử hoàng sanh, nay lại thu làm đồ đệ, tiểu bối tuy học văn nhưng vẫn ưa nghề võ, nếu được lão bá truyền dạy thì tiểu bối xin hết sức theo học cho thành tàị
Châu Đồng lại cười nói :
- Con tên họ là gì, quê quán ở đâu, song thân còn hay mất?
Hoàng Cố lại đem gia thế kể lại cho Châu lão trượng nghẹ
Châu Đồng vui mừng lộ ra nét mặt cười nói :
- Té ra con là cháu nội của Lỗ Trực Công, một gia đình nho phong nề nếp, để ta đưa con về Hải Ninh, cho phụ thân con được an lòng và xem người có chịu cho ta thâu nhận con làm đệ tử hay không, rồi sau sẽ quyết định.
Nói xong Châu Đồng ra lệnh cho người chèo thuyền quay trở lại, hướng về phía Hải Ninh rong ruổị Nửa ngày sau thuyền đã cặp bến, Hoàng Cố lên bờ dẩn Châu Đồng về gia trang.
Gia nhân thấy Hoàng Cố về thì trợn tròn đôi mắt, mồm há hốc không người nào nói được một câu nào, Hoàng Cố thấy vậy thì hiểu rõ một phần nào liền nói lớn :
- Sao chúng bây đứng ngây người ra như phỗng vậy, mau mau vào báo với lão gia, ta được Châu bá phụ cứu thoát khỏi nạn thủy tai rồi...
Lúc đó, gia nhân mới reo to lên :
- Té ra thiếu chủ, chúng con cứ ngỡ là...
Tên đó nói chưa dứt câu đã cắm đầu chạy vào trong nhà. Hoàng viên ngoại đang than khóc, nghe tên gia nhân vào báo tin lành thì quá ư mừng rỡ đầu chẳng kịp đội khăn chân không kịp xỏ giầy, cứ thế chạy tới ra ngoàị
Mới tới phòng tiếp khách đã thấy Hoàng Cố và Châu Đồng vào tới nơị Lão viên ngoại đưa cả hai tay ra ôm chặt Công tử vào lòng nghẹn ngào không ra tiếng, nước mắt chảy dài trên má, nửa khóc nửa cười, bấy lâu chỉ thốt được mấy tiếng :
- Trời! Con con...
Hoàng Cố thấy viên ngoại quá tiều tụy không sao cầm lòng cho được cũng òa lên khóc. Thế là hai cha con cứ ôm chặt lấy nhau mà khóc om sòm.
Châu Đồng trông thấy tình của hai cha con viên ngoại như thế cũng phải cảm động, đứng im lặng chẳng nói câu nàọ
Một lúc, Hoàng viên ngoại mới chợt nhớ ra, vội buông Công tử hướng vào Châu Đồng chắp tay xá dài một cài thật sâu :
- Lão phu cam thất lễ, xin quí khách lượng thứ đi cho, ơn tiên sanh cứu tử cho tiểu nhi chẳng khác nào cải tử hoàn sinh cho cả thân già này nữạ Kính mời quí khách ngồi chơị
Châu Đồng vội đáp lễ và nói :
- Xin viên ngoại chớ bận lòng, đó là nhờ hồng phúc của viên ngoại cao dày, nên khiến xui cho tôi gặp gỡ lệnh lang chớ có chi gọi là ơn nghĩạ
Hoàng viên ngoại kéo ghế mời Châu Đồng ngồi và sai gia nhân pha trà giải laọ Những đồ tang chế mang ra vườn sau đốt hết. Mở tiệc ăn mừng, giết bò, mổ heo thết đãi họ hàng và lân bang hàng xóm.
Hoàng Cố mang câu chuyện mình bị giòng nước kéo ra bể, mười phần chết chín, đã mê man hồn quế. May nhờ Châu Đồng vớt lên và đã tốn bao nhiêu sinh lực mới cứu được thoát khỏi tay tử thần.
Hoàng viên ngoại lại toan sụp lạy Châu Đồng để tạ Ơn, họ Châu vội vàng do tay ngăn lại và nói :
- Xin viên ngoại chớ nên làm thế, khiến cho tiểu đệ giảm thọ mất thôị Đây cũng là do số trời định trước, tai ương của Công tử chỉ có thế. Tiện đây, tiểu đệ cũng muốn yêu cầu viên ngoại một việc.
Hoàng viên ngoại sốt sắng trả lời :
- Vâng! Vâng! Ân nhân muốn điều chi, xin cứ dạy bảo, lão phu hết sức tuân theọ Ân nhân muốn bao nhiêu tài vật cứ chỉ giáo, lão phu không dám tiếc chút nàọ
Châu Đồng cả cười nói :
- Không, không, viên ngoại chớ có tưởng nhầm ý của đệ, không bao giờ đệ nghĩ đến tiền tài đâụ
Nói đến đây họ Châu bỗng nghiêm nét mặt nói tiếp :
- Đây cũng là duyên trời rủi khiến cho đệ cứu được điệt nhị Đệ ngắm tướng mạo của lệnh lang, thật là phi phàm xuất chúng, tướng mạo hơn người, ắt sao trở thành người hữu dụng, nên ý ngu hạ muốn thâu nhận lệnh lang làm đồ đệ. Chẳng hay viên ngoại nghĩ saỏ
Hoàng viên ngoại đã nghe danh Châu Đồng là giáo sư của kinh thành cấm quân võ nghệ cao siêu, danh tiếng vang lừng trong thiên hạ.
Nay thấy Châu Đồng tự ý yêu cầu thâu nhận Hoàng Cố làm môn đồ thì còn gì mừng hơn nữa, vội vàng chấp tay vái tạ và nói :
- Ơn đại huynh cải tử hoàn sinh, gia đình tiểu đệ chưa biết lấy gì báo đáp cho xứng đáng, nay mong ơn đại huynh lại quá thương tiểu nhi cho được thụ giáo thì phúc đức họ Hoàng thật là to tát.
Châu Đồng cũng dùng lời khiêm nhượng đáp lạị Hoàng viên ngoại chọn ngày lành tháng tốt mổ heo làm lễ cho Hoàng Cố bái lạy Châu Đồng nhận làm sư phụ.
Châu Đồng từ đó lưu lại Hoàng gia trang, mang tài nghệ ra truyền bảo cho Hoàng Cố cả văn lẫn võ.
Cách dạy của họ Châu cũng khác thường, ngày lẻ học văn, ngày chẵn học võ, về văn không chú trọng đến văn thơ ca nhạc, mà chỉ quan tâm đến luận văn Cổ, Kim và làm những bài phê bình cuộc thế trong thiên hạ.
Châu Đồng dạy cho Hoàng Cố biết Thái Công, am phù Tôn, Ngô binh pháp, về võ không trọng luyện về quyền, chưởng, đao, kiếm mà chỉ chuyên chú về nội công.
Quang âm thấm thoát, ngày tháng tựa thoi đưa, chẳng mấy chốc đã qua một năm, tài văn, võ của Hoàng Cố đã có căn cơ.
Châu Đồng lại dạy thêm cho Hoàng Cố các cách tế thế an bang, còn võ công thì tập luyện thêm gân cốt.
Thời gian thấm thoát lại trải qua ba năm nữạ Hoàng Cố lúc đó được mười chín tuổị Hoàng viên ngoại giục chàng thu xếp hành trang để đi thi huyện, hy vọng có thể đậu cử nhân, làm vinh quang cho tổ tông. Ngờ đâu, Hoàng Cố nhất định chối từ không đi thị
Hoàng viên ngoại thấy chàng từ chối, thì hết sức ngạc nhiên hỏi rằng :
- Sao con lại không chịu đi thi, như thế chẳng uổng công bao nhiêu ngày nấu sử sôi kinh, lại phụ lòng sư phụ con truyền dạỵ
Hoàng Cố cung kính đáp :
- Dám thưa phụ thân, có phải đâu học hành là để được làm quan. Hiện nay trong triều gian thần đang lộng hành, không bà con thân thích ắt không được thu dụng, nếu không dùng tiền tài đút lót ắt không bao giờ thi đậụ Trong triều bại hoại, phần đông là tụi giá áo túi cơm, chỉ muốn vơ vét cho đầy túi tham để tha hồ xa hoa phung phí, hầu non, gái đẹp mặc cho lê dân đồ thán. Con ứng thi nào có ích gì? Nếu may mà đỗ đạt thì cũng ra lòn vào cúi nào có vinh chị Con học để biết cách xử thế, phải đâu ra làm quan mới làm nên công việc vĩ đạị Xưa kia Tín Lăng Quân cướp Phù cứu Triệu, Trương Tử Phòng giúp Lưu Bang đại phá Hạng Võ dựng lên Hán triều cả bốn trăm năm, đâu có phải ra làm quan mới lưu danh muôn thưở.
Hoàng viên ngoại biết tính Hoàng Cố cương cường ý đã quyết thì dù có mắng chửi hay bắt ép cũng không được.
Nghĩ mình sinh con có một mống mà bảo không được, quá suy nghĩ, uất ức thành bệnh, được mấy tháng thì mất.
Hoàng Cố thương cha khóc chảy ra máu mắt. Tống tang cho Hoàng viên ngoại xong xuôi, theo thể chế của người xưa họ Hoàng cự tang ba năm.
Trong ba năm ấy Châu Đồng lại dạy chàng thêm nhiều kiến thức. Nhưng tánh của Hoàng Cố càng lớn càng quái dị chỉ mãi mê theo môn học của Hoàng lão lấy thuyết vô vi mà trị quốc, lại theo cách sống của Trúc Lâm thất hiền đời nhà Tấn, chơi bời trong thế gian, lấy sự phong lưu làm thú, tư tưởng rất là siêu thoát.
Ý Châu Đồng thì muốn truyền thụ tất cả sở học cho Hoàng Cố, khiến cho Hoàng Cố trở nên một người văn võ kiêm toàn, mai sau giúp nước.
Ngờ đâu, chàng chán cả người đời, chán cả vũ trụ, chỉ thích sống riêng biệt thì đâu phù hợp với ý nguyện của tôn sư.
Bởi vậy cho nên sau khi đã dạy cho chàng suốt mười năm trời, Châu Đồng đành âm thầm rời khỏi nhà họ Hoàng.
Từ đó Hoàng Cố vẫn chứng nào tật ấy, trước hết giải tán gia đinh, bán sạch cửa nhà, đồng ruộng lấy tiền đi chu du năm hồ bốn biển cho thỏa chí bình sinh, thỉnh thoảng cũng có đôi ba lần hành hiệp tác nghĩạ
Chưa đầy một năm phung phí hết tiền, Hoàng Cố phải nghĩ đến giúp việc cho các tiêu cục để kiếm tiền độ nhựt. Nhưng chàng thường đòi hỏi thái quá mỗi lần lấy tám trăm, một ngàn lạng vàng.
Có lần chàng đi đến tỉnh Sơn Đông huyện Lịch Thành (tức là Tế Nam phủ ngày nay) ghé thăm tổng tiêu đầu Hà Chấn Viễn là một người tiếng tăm lừng lẫy ở Sơn Đông, Hà Chấn Viễn tước hiệu Kim Đao vô địch, thường được xưng tụng là: Thần Quyền Trấn Sơn Đông.
Hoàng Cố đưa danh thiếp xin yết kiến, gặp mặt Hà Chấn Viễn Hoàng Cố vừa mở miệng là ngỏ ý muốn lấy hai ngàn lạng vàng.
Hà Chấn Viễn tức giận, nhưng cố nén mỉm cười mà rằng :
- Các hạ với tôi chưa từng quen biết, nay muốn lấy hai ngàn lạng vàng tôi khó lòng vâng chịụ Nếu muốn lấy tiền xin các hạ vui lòng biểu diễn võ công cho tôi được thưởng thức tài năng quán thế của các hạ.
Hoàng Cố lạnh lùng đáp :
- Ngài muốn xem võ công của tôi saỏ Được, xin thứ lỗi cho!
Vừa nói dứ lời, Hoàng Cố đưa tay đập mạnh trên bàn, ngón tay như móc sắt móc ra một mảnh gỗ, rồi ném vào giá để làm binh khí làm gãy ba cây đinh ba thành hai đoạn.
Ngón tuyệt kỹ ấy của chàng làm Hà Chấn Viễn giật mình khâm phục.
Thường thường chỉ có sắt chém đứt gỗ chứ có bao giờ lại xảy ra sự ngược đời gỗ làm đứt sắt?
Vậy mà Hoàng Cố đã có thể dùng mảnh gỗ nhỏ ném gẫy ba cây đinh ba một lúc đủ hiểu võ công của chàng cao siêu đến bực nàọ
Hoàng Cố bỗng quát to lên rằng :
- Một mảnh gỗ này liệu nhà ngươi tính xem có đáng hai ngàn lạng vàng hay không?
Hà Chấn Viễn thấy tuyệt kỹ của họ Hoàng bụng sợ hãi nhưng trước thái độ xấc xược của Hoàng Cố, cũng nổi giận lớn tiếng mắng :
- Sao lại ngang ngược như thế được? Ngươi phá hoại binh khí của ta, rõ ràng là cố ý gây sự hãy tiếp một quyền này!
Chưa dứt lời, đã sử dụng thần quyền tuyệt kỹ với thế “Mãnh Hổ Hạ Sơn” Hà Chấn Viễn vung tay quyền đánh thẳng vào ngực Hoàng Cố.
Hoàng Cố cười ha hả tường chừng như không cử động mà thân mình đã rời khỏi chiếc ghế từ lúc nàọ Ngọn quyền Hà Chấn Viễn đánh ra đụng vào chiếc ghế làm nát vụn ra như cám.
Hoàng Cố cười gằn mà rằng :
- Tài nghệ có như thế mà đã gọi là Thần Quyền Vô Địch ư? Thật là nghe tiếng chẳng bằng gặp mặt! Hãy coi ta đây!
Vừa nói vừa đưa chân đá nhẹ vào những mảnh gỗ vụn dưới đất, tung lên như đạn bắn vào mặt Hà tổng tiêu đầụ
Hà Chấn Viễn không ngờ võ công của đối phương ảo diệu đến bực ấy, vội chuyển mình tránh cho làn đạn gỗ vụn khỏi trúng mặt, nhưng cũng không tránh khỏi mấy mảnh.
Nên nhớ rằng không thể coi thường cú đá của Hoàng Cố. Chỉ có một mảnh gỗ vụn nhỏ bắn vào người cũng đau nhức vô cùng.
Hà Chấn Viễn thét to lên một tiếng, rút thanh Kim đao quý ra dùng thế “Đại Bàng Triển Dực” chém vào đỉnh đầu Hoàng Cố.
Ngờ đâu đao vừa chém xuống đã nghe vang “bốp bốp” hai tiếng, mặt đã bị Hoàng Cố đánh trúng một bốp tay, đao trong tay cũng bị chàng giựt được bẻ gãy làm đôi, liệng xuống đất.
Kim Đao Hà Chấn Viễn, Thần Quyền Trấn Sơn Đông, chỉ trong một hiệp, đã liên tiếp bị thiệt hại ba lần.
Hoàng Cố võ công cao siêu đến bực ấy thật là thần xuất, quỷ mạt, thế gian chưa từng mắt thấy tai nghẹ
Hà Chấn Viễn tức giận thét lớn :
- Tiểu tử này phải chăng dùng tà thuật! Bạn hữu ta đâu! Hãy giúp ta bắt lấy nó!
Hơn mười người giúp việc tiêu cục, thảy đều là những nhân vật võ nghệ siêu quần nổi tiếng võ lâm, lập tức đổ xô lại bao vây Hoàng Cố.
Hoàng Cố quát lớn lên một tiếng, hai tay vung lên, xông vào đám đông ngườị Bốp, bốp mấy tiếng liên tiếp, bảy người bị Hoàng Cố bốp tai, giựt mất binh khí, bẻ liệng đi, đồng thời dùng chân đá ngã những người khác.
Chỉ trong khoảnh khắc hơn mười vị tiêu sư oai dũng đều mặt mày sưng vù, la lối om sòm, chen nhau cạy ra ngoài cửạ
Hoàng Cố cười ha hả nói :
- Võ công như thế mà cũng xưng là giang hồ hảo hán! Thôi tôi cũng không nhận số tiền hai ngàn lượng nữa đâụ Hẹn lần khác sẽ gặp lạị
Dứt lời, liền bước ra cử đi thẳng.
Sau vụ đại náo Tổng tiêu cục của Kim Đao Hà Chấn Viễn, Hoàng Cố đã nổi tiếng trong giới giang hồ. Mỗi khi chàng ghé lại tiêu cục nào nhờ giúp đỡ thì các tiêu cục đầu ai nấy đều nén lòng cam giận, giả bộ tươi cười, hai tay đưa tiền dâng nạp không dám bớt một đồng.
Hoàng Cố lấy được tiền không tốn mồ hôi nước mắt như vậy, lại tha hồ tiêu xài phung phí.
Cứ như vậy ba năm liền, các tiêu cục phía Bắc Đại Hà, đều coi Hoàng Cố như thần, một lòng sợ phục, tuy thù ghét chàng nhưng không một ai dám hé răng, đừng nói chi đến tỉ thí võ nghệ với chàng.
Sau đó, có lẽ Hoàng Cố cảm thấy chán nản vì suốt mấy tỉnh miền Bắc, võ lâm hào kiệt không một ai dám chống trả chàng nữa, nên bỗng đi biệt tăm biệt tích. Từ đó các tiêu cục mới được yên vì không bị người đến quấy nhiễu tống tiền.
Hoàng Cố vắng bóng giang hồ như vậy là đi về phương nàỏ Thì ra chàng trở về quê cũ ẩn cư ở núi Nhạn Đãng phía Tây Triết Giang, chuyên tâm luyện tập về dịch lý, theo mấy cuốn sách của sư phụ là Châu Đồng để lại cho, nhất là về tiên thiên dịch ý, thái công âm phù và ngũ hành kỳ môn.
Những phép tắc vừa kể, trong cổ thư của Trung Hoa, gọi là “Kỳ Môn thuẫn pháp”, tuyệt nhiên không phải là dùng để gạt người, cổ nhân hành quân dàn trận đều có sử dụng.
Danh tiếng nhất trong lịch sử là vào đời Xuân Thu Chiến Quốc, Tôn Tẫn đại phá Bàng Quyên đã có lần sử dụng “Lục Giáp trận pháp”.
Tiếc thay từ ngày Tần Thủy Hoàng đốt sách chôn học trò, làm tan hết nền văn hóa nước Tàu, phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” này cũng đã thất lạc, cùng với bao nhiêu sách khác, có chăng chỉ còn một vài người nhớ được ít nhiều bí truyền cho con cáị
Mãi đến đời Ngụy, Thục, Ngô, Tam Quốc.
Gia Cát Lượng được cha vợ truyền thụ phép “Kỳ Môn thuẫn pháp” tuy không đầy đủ như trước, song cũng đã dàn được “Bát Quái Trận Đồ” bao vây đại tướng của Đông Ngô là Lục Tốn. Nhưng sau đời Tam Quốc không còn thấy một ai thông hiểu phép bày bố “Kỳ Môn Bát Trận” nữạ
Hoàng Cố tự phụ là thông minh tuyệt thế, quyết tâm luyện cho được “Kỳ Môn thuẫn pháp” nên lui về một vùng thâm u là núi Nhạn Đãng, xếp đá bày trận, chuyên tâm luyện tập nửa năm, liền tìm ra phương hướng của Kỳ môn bát trận, lại nghiên cứu thêm sáu tháng nữa mới nghĩ ra cách bày bốn trọng môn đảo đi nghịch lại, không thấy sai lầm.
Bấy giờ chàng mới bắt mấy con thú nhỏ, thả vào Kỳ môn thạch trận ấy, thấy chúng xông xáo chạy quanh tìm đường ra mà không thoát.
Thấy vậy tự biết là đã học thành công, Hoàng Cố sung sướng quá đỗi, vùng cười lên như phát cuồng dạị
Sau đó chàng bèn nảy ra một ý nghĩ kỳ dị là nếu dùng võ công trác tuyệt của mình, tìm ra biển cả, chiếm một hải đảo làm bá chủ một vùng hải ngoại, thu nạp môn đồ dựng lên một môn phái riêng biệt, dẫu không lưu danh vạn đại cũng có thể nổi tiếng võ lâm.
Quyết định rồi, Hoàng Cố liền rời ngay Nhạn Đãng sơn, tiến về phía bể, mong tìm được hòn đảo hợp ý nguyện.
Chàng lần theo ven biển Sơn Đông, từ bán đảo này, đi ngược lên phía trên, trước tiên Trường Sơn bát đảo, Triều đảo quần, đến vịnh Giao Châu, qua các đảo Lao Sơn, Thất Tinh, kiếm tìm, lựa chọn hơn ba chục hòn đảo, không tìm được đảo nào vừa ý.
Về sau, đi tới một hòn đảo ở tận ngoài Hoàng Hải, thấy hợp ý mình nên xếp đá thành “Kỳ môn bát trận” nào ngờ lại gặp Vương Trùng Dương đi ngang qua, vì dùng thuyền lấy nước ngọt mà phá rối thạch trận của chàng.
Hoàng Cố vốn tính tình kỳ quái, tức giận phá nát Kỳ môn thạch trận, khắc thơ trên đá, ngồi thuyền đi thẳng.
Đó là nguyên nhân tại sao Hoàng Cố lại dấn thân ra hoang đảo, nhưng chuyện đó hãy tạm gác lại một bên.
Nói về Vương Trùng Dương, đáp thuyền của Đinh Nhị Mao, vượt qua Hoàng Hải, đến tận cùng cửa biển nầy, tức là phía Bắc Đông Hải, Đinh Nhị Mao bỗng lấy ra từ đáy thuyền một lá cờ đen hình tam giác buộc giây kéo lên ngọn cột buồm.
Vương Trùng Dương nhìn thấy lá cờ này không khỏi giật mình kinh ngạc vì ngay giữa cờ có thêu một chiếc đầu lâu màu trắng, phía dưới có hai cái xương giao nhau, rõ ràng là lá cờ hiệu của bọn hải tặc.
Vương Trùng Dương bèn hỏi Đinh Nhị Mao :
- Vì cớ gì bọn ngươi lại dương lá cờ kỳ quái này lên như vậỷ
- Kỳ quái ư?
Hai người con Đinh Nhị Mao vội vàng đáp :
- Lá cờ này đối với bọn thương thuyền chúng tôi đắt giá lắm, xin quý khách biết cho rằng mỗi năm chúng tôi phải nộp năm lạng vàng mới được cấp phát lá cờ này đấy!
Vương Trùng Dương không khỏi kinh ngạc mà rằng :
- Năm lạng vàng mua một lá cờ? ích lợi của nó ra sao mà phải trả đắt giá như vậỷ
Đinh Nhị Mao thở dài đáp :
- Qúy khách không rõ, vì mới đi đường bể lần đầu nên không hiểu luật lệ trên mặt bể!
Vương Trùng Dương bỗng tỉnh ngộ :
- À! Thì ra đây là cờ hiệu của bọn giặc bể, cấp phát cho các ngườị
Đinh Nhị Đao run sợ nói :
- Xin quý khách giữ lời, chớ gọi là giặc bể, mà phải gọi là... hảo hán.
Vương Trùng Dương mỉm cười nói :
- Vâng thì gọi là hảo hán. Vậy những hảo hán có lá cờ này dữ dằn lắm phải không?
Người con lớn của Đinh Nhị Mao nhanh miệng đáp :
- Đúng lắm. Qúy khách nói không saị Bao nhiêu thuyền qua lại miền Đông Hải này đều phải nộp tiền cho Nữ Đại Vương, nhận lấy cờ hiện nàỵ
Vương Trùng Dương nghe thấy ba tiếng “Nữ Đại Vương” không khỏi lấy làm kỳ thú, mỉm cười nỏi :
- À, té ra người cầm đầu các hảo hán là một vị Nữ Đại Vương? Nữ Đại Vương chắc là xinh đẹp lắm phải không?
Đinh Cương thuận miệng, liền thuật cho Vương Trùng Dương nghe mọi chuyện.
Thì ra từ ba năm nay, tại Đông Hải đã xuất hiện một “Nữ Đại Vương”, họ Tôn tên Phượng Cô nhan sắc hoa nhường nguyệt thẹn, tuổi mới đôi mươi nhưng ác độc không ai bằng, giết người không sờn tay, nhắm mắt.
Bọn hải tặc thần phục, tôn Phượng Cô lên làm nữ chúa cầm đầu cả một bọn cướp bể gọi là Hắc Phượng bang.
Thế lực Hắc Phượng bang rất hùng mạnh, thuyền bè có hàng trăm chiếc, lâu la kể đến hai ngàn.
Khu vực hoạt động của bọn hải tặc này bao trùm cả một vùng biển phía Bắc từ Hoàng Hải Tề Lỗ, phía Nam sát Châu Sơn quần đảo ở Triết Giang. Sào huyệt của chúng, cứ như thiên hạ nói, hình như ở gần Trường Giang Khẩu, Giang Tô.
Cả một vùng bể này bất luận là thuyền buôn hay thuyền đánh cá, gặp thuyền của Hắc Phượng bang đều chắc chắn là hàng hóa bị cướp, người bị sát hạị
Tôn Phượng Cô lại thường dẫn “Hắc Phượng bang” lên đất liền đánh cướp, xung đột với quan binh ở ven biển.
Trong các trận giao tranh, Phượng Cô đầu thắt khăn đỏ hai tay đao, xông pha lãnh đạo bộ hạ.
Chớ tưởng lầm cô là phận nữ nhi, sự hung dữ của cô đã khét tiếng cả một vùng.
Có lần đụng độ với quan binh, một mình cô đã giết ba Thống chế, một viên Đề hạt, uy danh lừng lẫy, khiến quan binh trông thấy cô là đã chạy tán loạn không dám cự địch.
Sau này Phượng Cô đặt ra quy lệ Ở trên mặt biển, thuyền bè nào đi qua Đông Hải, mỗi chiếc phải dâng nạp cho “Hắc Phượng bang” năm lạng vàng, nộp tiền rồi sẽ được cấp phát một lá cờ tam giác màu đen thêu sọ và xương người màu trắng, đi qua Đông Hải phải treo lá cờ lên ngọn cột buồm.
Hải tặc thấy cờ hiệu, biết là đã nộp tiền sẽ không đánh cướp nữạ Cha con Đinh Nhị Mao mới tới Ngao Đẩu dương đã vội lấy cờ treo lên, nguyên do là như vậỵ
Vương Trùng Dương nghe rõ đầu đuôi, nhìn kỹ lá cờ ghê gớm ấy rồi vụt nói :
- Lá cờ này quả thật giúp người ta đi lại yên ổn ở Đông Hải ư? Nếu muốn giả mạo thì làm bao nhiêu lá cờ như thế mà không được?
Đinh Nhị Mao cười nói :
- Mang cờ giả mạo đâu phải là chuyện dễ? Nếu Nữ Đại Vương biết được chắc chắn sẽ toi mạng. Đừng tưởng lá cờ ấy cũng giống như muôn ngàn lá cờ khác, đầu mỗi cái xương có in một dấu nhỏ hình chim phượng hoàng chắp cánh không ai giả mạo được. Năm vừa qua Sùng Minh đảo thuộc tỉnh Giang Tô có một người đánh cá làm giả một lá cờ ra biển đánh cá đến lần thứ ba bị bọn hải khấu hay biết lập tức báo cáo với Nữ Đại Vương. Thế là bao nhiêu người trên thuyền đều bị quăng xuống bể làm mồi cho cá. Từ đó không còn một ai bạo gan nghĩ đến chuyện giả mạo lá cờ nữạ
Đinh Cương nói tiếp :
- Chúng tôi nộp tiền ngày nào tháng nào họ cũng đều ghi rõ không hề lầm lẫn.
Trùng Dương nghe xong câu chuyện của cha con Đinh Nhị Mao bỗng sinh lòng mến phục Tôn Phượng Cô, tuy là hải tặc nhưng bản lãnh phi thường, tài năng xuất chúng, nếu điểm hóa cho nàng, khuyên nàng cải tà quy chánh chắc có thể trở nên người hữu dụng.
Chàng đương nghĩ ngợi bỗng nghe Đinh Nhị Mao la lớn :
- Hảo hán tới kia rồi!
Mọi người hoang mang xao xuyến. Vương Trùng Dương đưa mắt nhìn về phía trước thấy xa xa xuất hiện một chiếc thuyền lón phăng phăng rẽ sóng tiến đến, trên ngọn, một trong ba cột buồm phất phới một lá cờ tam giác màu đen thêu đầu lâu và xương trắng. Đinh Nhị Mao cuống quýt nói với Trùng Dương :
- Hảo hán đến xét thuyền đấỵ Kính xin tôn ông vui lòng tạm lánh xuống đáy thuyền một lát.
Vương Trùng Dương biết rằng đấy là luật lệ trên mặt biển nên mỉm cười vào trong ghe lánh mặt.
Một lát sau, chiếc thuyền ba buồm kia càng ngày càng xáp lại gần. Cách thuyền của Đinh Nhị Mao chừng mấy trượng bọn thủy thủ quăng móc sắt móc vào mạn thuyền của Đinh Nhị Mao rồi mấy tên hải khấu nhảy ào sang hung năng quát lớn :
- Mau hạ cờ xuống cho ta xét.
Đinh Nhị Mao vâng lệnh kéo cò xuống. Bọn hải khấu tất cả bốn tên chuyền tay nhau xét soi tìm dấu đỏ hình chim phượng hoàng in trên lá cờ. Chúng lại lật sổ kiếm tìm rồi quát hỏi :
- Mi là Đinh Nhị Mao phải không? Năm ngoái có nộp năm lạng vàng tính đến tháng sau là hết hạn, lần sau đi ngang qua đây phải nạp tiền lệ nghe không?
Đinh Nhị Mao vâng dạ luôn mồm, tiễn đưa bọn hải khấu lui về thuyền của chúng.
Ngờ đâu lúc thuyền hải tặc sắp khởi hành bỗng một cột buồm gãy làm hai đoạn. Cờ và buồm đều rơi xuống bể, thuyền tròng trành muốn chìm làm cho mấy tên hải khấu té ngang té ngửạ
Đinh Nhị Mao biết là Vương Trùng Dương đánh gãy và chính bọn hải khấu cũng nhận biết, lớn tiếng quát :
- Bọn này táo gan thật, dám ẩn giấu gian tế dưới thuyền.
Chúng chưa dứt lời, Trùng Dương đã từ từ bước ra cười ha hả :
- Bọn giặc cỏ này muốn thu tiền lệ phí chăng? Được ta cũng muống bọn mi hàng năm phải dâng nạp cho ta một số tiền biết chưả
Nghe Vương Trùng Dương nói vậy, bọn hải tặc đều căm gan tím ruột hè nhau rút binh khí ra, vù vù hai tiếng, hai ngọn phi tiêu bay thẳng vào mặt Trùng Dương, chàng cười to hơn nữa :
- Thứ đồ rỉ sét này thì làm gì được ai mà dám hung hăng làm bậỵ
Vừa nói, Trùng Dương vừa vung tay bắt hai ngọn phi tiêu rồi trở tay phát ra hai mũi phi tiêu liền bay ngược lại phía bọn hải khấu găm vào giữa ngực hai tên giặc.
Chúng la lớn lăn xuống mạn thuyền không cựa quậỵ Ngờ đâu chúng không chết, Vương Trùng Dương chỉ dùng cán phi tiêu ném trúng huyệt đạo, chúng chỉ cảm thấy tê buốt ngã xuống không vùng vẫy được mà thôị
Trên thuyền giặc, tất cả có hơn hai chục tên hải khấu thấy đồng bọn bị đã thương vừa sợ vừa giận. Ai nấy đều muốn nhảy sang vây đánh Vương Trùng Dương.
Chàng bỗng quát lớn lên một tiếng, cấm chiếc neo ở trên boong giơ cao lên, tính cả giây xích dài chừng mấy trượng, chiếc neo phải nặng tới một trăm năm mươi cân.
Bọn hải tặc thấy chàng là một thư sinh nhỏ thó, mà có sức cầm nổi cái neo giơ lên ngang mặt coi nhẹ như không thì cũng không khỏi giật mình kinh sợ.
Vương Trùng Dương lớn tiếng nói :
- Bọn mi thật là phường túi cơm giá áo mà đòi chống cự với ta sao nổỉ
Nói rồi liền cầm chiếc neo ném sang phía thuyền giặc làm bọn chúng hoảng hồn né tránh về phía saụ
Chiếc neo như theo lệnh Trùng Dương rơi đúng vào mạn thuyền của bọn hải khấu làm thủng một lỗ vuông hàng thước. Bọn chúng la hoảng, sợ thuyền chìm.
Vương Trùng Dương lại giơ tay trái cầm dây xích quay ba vòng quát lên một tiếng “trúng” đánh ngang vào chiếc thuyền khiến cột buồm và mui thuyền đều bay vọt lên không trung, rơi xuống biển. Thân thuyền rung động. Bọn cướp la lớn :
- Xin đại hiệp tha tội chọ
Trùng Dương thấy chúng biết sợ, liền kéo chiếc neo lại nói :
- Bọn mi hãy mau xa chạy cao bay cho khuất mắt tạ
Chiếc thuyền đã bị hư hại không tài nào bơi đi được nữạ
Trùng Dương lại nói :
- Ta đã bảo bọn mi phải đi cho mau, sao còn chùng chình chưa ra khỏi thuyền. Trên thuyền phải chăng có hai chiếc tam bản, hãy mau thả xuống bơi đi cho mau, nếu không ta đánh chìm thuyền đừng oán trách.
Bọn hải khấu nghe chàng nói như vậy hoảng kinh, vội vã chen nhan hai mươi mấy con người chia làm hai tốp xuống ghe chạy trốn.
Vương Trùng Dương cười nói với Đinh Nhị Mao :
- Này ông chủ thuyền họ Đinh, lần này tôi đã kiếm cho ông được một chiếc tàu lớn, chỉ đem tháo ra bán gỗ cũng có thể được năm chục lạng vàng đủ nộp lệ phí trong mười năm.
__________________
Trả Lời Với Trích Dẫn