ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN
Hồi 706
Tế Thuyết Tùng Tiền
Âm Hiển Hạc toàn thân run bần bật, giống như bản thân đã mất hết sức, Kỷ Thiến phải đưa tay xốc nách y lên, dìu đến mép giường, toàn thân hắn ngã xuống.
“Tiểu Kỷ ở đâu?”
Kỷ Thiến áp má vào đầu Âm Hiển Hạc, nhắm nghiền đôi mắt.
Nước mắt nàng tuôn trào, nghẹn ngào nói: “Ta vốn định không kể với bất cứ ai chuyện quá khứ, cũng không ai có hứng thú muốn biết. Ngày đó Tử Lăng hỏi ta, vì ta sợ hắn là người của Hương gia nên giả vờ không biết. Thực ra Tiểu Kỷ và Tiểu Ưu là tỷ muội tốt nhất của ta, chỉ có ba người bọn ta chạy thoát trong đêm đó, những tỷ muội khác đều bị Hương gia giết sạch diệt khẩu.”
Từ Tử Lăng trầm giọng nói: “Đêm đó xảy ra chuyện gì?”
Kỷ Thiến nhớ lại chuyện đau buồn, vẻ mặt đầy nét đau thương, đôi mắt vẫn nhắm, ôm chặt Âm Hiển Hạc, run run nói: “Hôm đó chẳng có luyện tập như thường lệ, tên ác nhân cai quản bọn ta buộc bọn ta ở lại trong phòng, đột nhiên bên ngoài có tiếng người xôn xao đèn đuốc sáng trưng, lúc đó ta và Tiểu Kỷ, Tiểu Ưu ở cùng phòng. Tiểu Kỷ dũng cảm nhất, đề nghị nhân cơ hội này lập tức bỏ chạy nhưng các tỷ muội khác đều nhát gan, chỉ có ba bọn ta trèo cửa sổ bỏ trốn. Ác nhân quả nhiên đuổi theo, bọn ta nấp trong bụi cỏ ở hoa viên, nghe tiếng kêu cứu thảm thiết của các tỷ muội khác, y như trong giấc mộng đáng sợ nhất. Tên ác nhân phát hiện thiếu mất ba người bọn ta, truy tìm khắp nơi, may lúc đó có người tung cửa xông vào khiến bọn chúng chạy tứ tán, bọn ta nhân cơ hội đó chạy trốn ra cửa sau, hòa cùng dòng người rời khởi Giang Đô. ‘Đừng khóc! Ngồi dậy rồi nói tiếp!’”, nàng nói hai câu đó với Âm Hiển Hạc.
Từ Tử Lăng đỡ y dậy, Kỷ Thiến ngồi bên mép giường, lau nước mắt cho y, Từ Tử Lăng không thể tưởng được một người có tính điêu ngoa như nàng lại có thể ôn nhu dịu dàng đến thế, trong lòng nảy sinh ra ý thương xót.
Không đợi Âm Hiển Hạc hỏi, Kỷ Thiến tiếp tục kể: “Sau khi ra khỏi thành, bọn ta không biết chạy theo hướng nào vì lúc đó chỉ nghĩ chạy càng xa càng tốt. Chao ôi, bọn ta vừa đói vừa mệt, may gặp người tốt không đến nỗi chết đói, bọn ta chạy mãi đến Tương Dương mới ngừng lại.”
Âm Hiển Hạc giật mình nói: “Tương Dương!”, rồi cuối cùng cũng ngừng rơi nước mắt.
Kỷ Thiến gật đầu nói: “Ba bọn ta dựa vào nhau mà sống, không có gì ăn thì đi ăn xin, ăn cắp. Vì sợ người ta thấy chúng ta là nữ nhân sẽ khi dễ nên bọn ta cải trang thành nam nhi. Nhưng đi lên núi nhiều sẽ có ngày gặp hổ, có ngày nọ, khi ăn trộm bị người ta bắt tại trận, chủ nhân của căn nhà đó là danh kỷ xuất sắc nhất Tương Dương, vì thương xót bọn ta nên khai ân thu nhận bọn ta làm con nuôi.”
Âm Hiển Hạc biến sắc nói: “Tức là nhận các người làm đồ đệ?”
Kỷ Thiến không hề phát hiện nét khác lạ trên khuôn mặt Âm Hiển Hạc, nói: “Chỉ có Tiểu Kỷ không chịu theo Doanh di học nghệ, may sao Doanh di cho Tiểu Kỷ làm việc ở phía sau nên không có ai khi dễ nàng. Sau này Doanh di xuất giá, Tiểu Ưu và Tiểu Kỷ ở lại Tương Dương, còn ta đến Trường An tìm cơ hội bởi vì ta biết Trì Sanh Xuân ở Trường An, chỉ cần có cơ hội trả thù cho các tỷ muội đã chết thảm là ta quyết không bỏ qua.”. Rồi nước mắt nàng tuôn trào, nghẹn ngào nói tiếp: “Khi bọn chúng bắt cóc ta đã từng hại chết nhị thúc của ta, nhị thúc là người thân duy nhất của ta, vì vậy ta không cho Tiểu Kỷ và Tiểu Ưu biết mục đích đến Trường An.”. Từ Tử Lăng hiểu ra rằng đây chính là thủ đoạn giữ bí mật xưa nay của Hương gia, giết người bịt miệng để giữ kín tin tức bắt cóc dân nữ để người khác không thể điều tra. Giang Đô có binh biến, Hương gia biết không thể nào dắt theo một đám nữ nhi bỏ đi, bởi vì xưa nay bọn chúng ủng hộ Dương Quảng, cho nên trở thành mục tiêu tấn công của Vũ Văn Hóa Cập, vì nôn nóng muốn bỏ chạy và giữ kín bí mật nên hạ độc thủ giết hại những thiếu nữ đã bắt cóc, thủ đoạn thật là tàn nhẫn.
Gã trầm giọng nói: “Làm sao ngươi biết Trì Sanh Xuân, lại biết y ở Trường An?”
Kỷ Thiến nói: “Bọn chúng bắt cóc ta rồi đưa về Giang Đô nhốt lại, ta đã từng gặp y hai lần, khi y trò chuyện với thủ hạ đã từng nhắc đến đổ trường tại Trường An, ta ghi nhớ trong lòng. Giết hắn cho ta được không? Coi như ta cầu xin các người!”
Âm Hiển Hạc đứng phắt dậy, nói như chém đinh chặt sắt: “Ta lập tức đến Tương Dương, Tiểu Ưu ở thanh lâu nào?”
Kỷ Thiến kéo ống tay áo y, buồn bã nói: “Trước tiên hay giết Trì Sanh Xuân cho ta đã, ta sẽ đưa ngươi đến Tương Dương. Ta mặc kệ Hương gia hay Trì gia, chỉ cần phanh thây y ra muôn đoạn là được.”
Lúc này trông nàng đau đớn như hoa lê gặp mưa, ai thấy cũng xót xa.
Từ Tử Lăng nói: “Chúng ta hãy bình tĩnh bàn kế hoạch kỹ càng trước đã!”
Âm Hiển Hạc cúi đầu nhìn Kỷ Thiến, nói: “Ta nhất định sẽ giết Trì Sanh Xuân cho cô nương, cô nương cứ yên tâm.”
Kỷ Thiến vẫn không chịu buông ống tay áo của hắn, kéo ống tay áo lau nước mắt nói: “Đã biết ngươi là người tốt mà!”
Âm Hiển Hạc bình tĩnh trở lại, ngồi xuống bên cạnh Kỷ Thiến, hướng Từ Tử Lăng nói: “Tử Lăng có đề nghị gì?”
Từ Tử Lăng nói: “Mục tiêu của chúng ta như nhau, đó là buộc con người tán tận lương tâm như Trì Sanh Xuân phải chịu báo ứng, vấn đề là chúng ta phải nhổ cỏ tận gốc cả gia tộc ác ôn này, Trì Sanh Xuân chỉ là một người trong số đó.”
Kỷ Thiến nhìn sang Âm Hiển Hạc với anh mắt cầu xin, Âm Hiển Hạc gật đầu nói: “Tử Lăng nói phải. Gia tộc Trì Sanh Xuân vì tránh sự truy sát của chúng ta cho nên rất có thể đến Trường An lánh nạn, bọn chúng càng muốn xây dựng thế lực và quan hệ ở đây, Trì Sanh Xuân vì muốn thi triển quyền cước vì vậy mới mua Thượng Lâm Uyển!”
Từ Tử Lăng nói: “Lúc này Trì Sanh Xuân có lẽ biết thân phận đã bị bại lộ, cho nên trong tình huống cảnh giác cao độ, vì vậy đang được cao thủ bảo vệ chặt chẽ, muốn giết y không dễ, một khi đánh cỏ động rắn sẽ bất lợi với toàn bộ kế hoạch của chúng ta. Ta có một đề nghị, sáng mai Thiến tiểu thư và Hiển Hạc đến Tương Dương tìm Tiểu Ưu và Tiểu Kỷ, sau đó đến Bành Lương chúng ta sẽ gặp nhau. Đợi kế hoạch đối phó với Hương gia được sắp xếp ổn thỏa, Thiến tiểu thư có thể trở về Trường An tận mắt chứng kiến ngày tàn của Hương gia.”
Kỷ Thiến đưa mắt nhìn Âm Hiển Hạc, gã kiếm khách cô độc nhìn nàng gật đầu.
Kỷ Thiến ngồi sững ra nhìn y một lúc, cho đến khi Âm Hiển Hạc lúng túng, nàng mới gật đầu nói: “Thôi được! Kế hoạch các người đã nghĩ ra ắt hẳn ổn thỏa hơn.”
Từ Tử Lăng dâng lên trong lòng cảm giác lạ lùng, những chuyện thần kỳ giữa Âm Hiển Hạc và Kỷ Thiến đang xảy ra; có thể những chuyện này được xây dựng trên trải nghiệm đau đớn ở quá khứ của họ, khiến họ tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, cũng có thể là vì duyên phận và sự cuốn hút lẫn nhau giữa nam và nữ khiến cho hai con người tính cách khác hẳn nhau chẳng còn khoảng cách gì nữa.
Kỷ Thiến chưa bao giờ chịu tin ai, nhưng đối với Âm Hiển Hạc thì rõ ràng ngoại lệ.
Âm Hiển Hạc nói: “Chúng ta hãy đi ngay bây giờ.”
Từ Tử Lăng hiểu tâm trạng của y, nói: “Tốt nhất Thiến tiểu thư nên công khai rời thành, khi trở về sẽ thuận tiện hơn, ta sẽ đưa các người một đoạn”. Kỷ Thiến nắm tay Âm Hiển Hạc, dịu dàng nói: “Điệp công tử hãy nghỉ ngơi, để Thiến nhi đi nói chuyện với Thanh di, thu xếp hành trang rồi lát nữa sẽ quay lại nói chuyện với hai người. Tiểu Kỷ quả là một nữ nhi khả ái và kiên cường. Ta và Tiểu Ưu luôn luôn nghe lời nàng nói.”
Nói xong nàng hướng về Từ Tử Lăng thi lễ, yểu điệu bước ra.
Hai người đưa mắt nhìn nhau.
Từ Tử Lăng nở nụ cười nói: “Có thể yên tâm rồi chứ gì! Huynh sắp gặp lại lệnh muội, còn có gì sung sướng hơn. Treo giải thưởng tìm người đã không còn thích hợp nữa, bởi vì biết lịnh muội ở dưới hai kẻ có thế lực.”
Âm Hiển Hạc thở dài: “Từ bây giờ đến Tương Dương, một ngày đối với ta dài như cả năm.”
Từ Tử Lăng vươn vai đứng dậy, cười rằng: “Ta thấy ngược lại thì đúng hơn, đối với huynh thời gian trôi qua nhanh chóng, đó gọi là sống vui không biết ngày qua.”. Nói xong gã cười rồi đi ra.
o0o
Khấu Trọng đưa mắt tiễn đưa con thuyền chở Tống Khuyết trôi theo dòng đi xa, trước sau có bốn chiếc thuyền hộ tống và hơn ngàn quân tinh nhuệ.
Từ lúc này trở đi, Khấu Trọng trở thành lãnh tụ cao nhất của Thiếu soái liên quân, trách nhiệm nặng nề rơi trên vai gã.
Tống Lỗ đứng bên cạnh nói: “Chúng ta về thôi!”
Khấu Trọng trầm giọng: “Tình hình đánh Giang Đô như thế nào?”
Tống Lỗ nói: “Pháp Lượng đã hạ được Bì Lăng, ta bảo y không nên làm càn, Giang Đô dẫu sao cũng là đại đô hội, phòng ngự rất mạnh, chỉ nên bao vây chặn đường lương thảo của bọn chúng, không nên tấn công mạnh.”
Khấu Trọng đồng ý nói: “Lỗ thúc cẩn thận như thế là đúng lắm, dẫu sao Dương Châu cũng là quê hương của ta, Lý Tử Thông chỉ là người ngoài thì y làm sao đấu lại ta. Có tin tức gì của Trí Trí không?”
Tống Lỗ nói: “Cứ mỗi mười ngày ta đưa tin tức có liên quan đến Thiếu soái về Lĩnh Nam, nàng vẫn quan tâm đến ngươi.”
Khấu Trọng lắc đầu cười khổ: “Về rồi hẵng nói, ta muốn lập tức mở hội nghị, thời kỳ đóng băng chỉ còn hai tháng, chúng ta phải lợi dụng thời cơ trời ban này.”
o0o
Từ Tử Lăng đưa Âm Hiển Hạc và Kỷ Thiến ra đi rồi lẻn trở về Trường An bằng bí đạo, vào tướng quân phủ gặp Lý Tịnh.
Tuyết đã ngừng rơi từ tối qua, bầu trời vẫn mang vẻ nặng nề, thành Trường An trở thành thế giới màu trắng, nam phụ lão ấu đều ra đường quét tuyết, dấu bánh xe và vết chân ngựa dẫm đạp khắp nơi, xung quanh cuộc sống vẫn ồn ào rộn rã.
Nhưng Từ Tử Lăng chỉ mãi nghĩ đến việc lớn trong thiên hạ như chiến tranh hay hòa bình, gã cảm thấy giữa mình và những người xung quanh như sống trong hai thế giới khác nhau.
Có thể thuyết phục được Lý Thế Dân hay không là cửa ải đầu tiên, cửa ải tiếp theo là Khấu Trọng và Tống Khuyết, trong đó có liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp, nếu chỉ hơi bất cẩn thì toàn bộ kế hoạch sẽ trôi theo dòng nước.
Hắn lẻn vào phủ bằng cửa sau, một gia tướng trẻ tuổi bề ngoài có vẻ trung hậu đang chờ hắn, dẫn hắn vào nội sảnh.
Lý Tịnh đã chờ đợi từ lâu, y mời gã ngồi xuống rồi nói: “Rốt cuộc là có chuyện gì? Ta không dám nói hết lời với Tần vương, chỉ nói ngươi bí mật đến Trường An, có việc quan trọng cần thương lượng với hắn, hắn hứa sau khi bái kiến hoàng thượng sẽ đến đây gặp ngươi.”
Từ Tử Lăng nói: “Chỉ cần Tần vương chịu chấp nhận dốc hết toàn lực giành lấy ngôi hoàng đế, ta sẽ thuyết phục Khấu Trọng toàn lực giúp hắn lấy thiên hạ.”
Lý Tịnh nghiêm mặt nói: “Khấu Trọng có biết ngươi đến gặp Tần vương không?”
Từ Tử Lăng lắc đầu: “Sau khi chia tay Khấu Trọng, ta mới quyết định chuyện này.”
Lý Tịnh buồn bã nói: “Theo ta thấy ngươi chỉ uổng phí tâm cơ mà thôi, dù ngươi có thể thuyết phục Tần vương, có điều khả năng này rất thấp, nhưng Khấu Trọng làm sao có thể bỏ đi mọi thứ trong tình thế này, hắn làm sao ăn nói với thủ hạ của hắn? Huống chi vẫn còn có cửa ải Tống Khuyết nữa?”
Từ Tử Lăng nói: “Nếu ta không thể thuyết phục Lý Thế Dân thì đành thôi vậy, ta sẽ trở về Bành Luong giúp Khấu Trọng đánh Lạc Dương, nhưng chỉ cần Lý Thế Dân chịu quyết tâm thì ta tin rằng có thể vượt qua cửa ải của Khấu Trọng, còn Tống Khuyết ta nghĩ đến một khả năng, còn có thành hay không chỉ đành xem ý ông trời.”
Lý Tịnh nhíu mày nói: “Khả năng gì?”
Lúc này gia tướng lật đật vào báo có Lý Thế Dân đến.
o0o
Khấu Trọng ngồi xuống chiếc ghế Thái sư đặt trong đại đường của Thiếu Soái phủ, Vô Danh đứng bên trái gã.
Người ngồi đầu tiên bên phải là Tống Lỗ, tiếp theo là Tuyên Vĩnh, Tống Bang, Tống Sảng, Hình Nguyên Chân, Ma Thường, Bạt Dã Cương, Bạch Văn Nguyên; người ngồi đầu tiên bên trái là Hư Hành Chi, sau đó là Vương Trọng Tuyên, Trần Chí Phất, Âu Dương Thiến, Trần Lão Mưu, Tiêu Hồng Tiến và Vương Huyền Thứ.
Những đại tướng khác không phải tham gia chiến dịch vây thành Giang Đô thì cũng bận việc nên không đến Lương Đô.
Trần Lưu do Cao Chiếm Đạo, người xuất thân từ Song Long Quân, Ngưu Phụng Nghĩa và Tra Kiệt ba người chủ trì, bảo vệ thành trì tiền tuyến gần quân Đường nhất của Thiếu Soái quốc.
Khấu Trọng trở về vẻ ung dung tự tin trước sau như một.
Hư Hành Chi phúc trình trước: “Lưu Hắc Thát nhờ có Từ Viên Lãng giúp đỡ, đánh mãi không hạ được, liên tục chiếm được mấy thành. Bây giờ đang nghênh chiến với năm vạn quân Đường do Lý Nguyên Cát, Lý Thần Thông và Lý Nghệ xuất lãnh ở ngoài thành Nhiêu Dương Hà Bắc, thắng thua chưa biết.”
Khấu Trọng nhíu mày nói: “Lý tiểu tử đi đến nơi nào rồi?”
Tuyên Vĩnh đáp rằng: “Nghe nói Lý Uyên bất mãn Lý Thế Dân để quân Thiếu soái phá vây trở về Lương Đô, nên buộc y trở về Trường An giải thích.”
Khấu Trọng chép miệng: “Tánh mạng tên tiểu tử họ Lý gặp nguy rồi!”, rồi gã đổi giọng cả quyết nói: “Vậy miền Bắc không có gì đáng lo nữa, ta dám khẳng định Lý Nguyên Cát không phải là đối thủ của Lưu đại ca, chắc chắn vài ngày nữa sẽ bại.”
Tống Lỗ hỏi: “Chúng ta nên đối xử với Lưu Hắc Thát thế nào?”
Khấu Trọng cung kính đáp: “Lỗ thúc minh xét, chúng ta sẽ mau chóng biết được tình hình phía Lưu đại ca, sau khi hạ được Lý Nguyên Cát, hắn chắc chắn sẽ sai người liên lạc với chúng ta. Là huynh đệ cả thì có gì mà bàn không được? Điều quan trọng nhất là chúng ta tăng thêm binh lực, lúc đó hợp tác sẽ càng dễ dàng hơn.”
Tống gia và Lý Liêu cùng các tướng thấy gã tôn kính Tống Lỗ, đều tỏ vẻ yên tâm, bởi vì cho đến nay, họ vẫn không biết Tống Khuyết tại sao bỏ tất cả trở về Lĩnh Nam, cho nên trong lòng mới sinh nghi. Nhưng bây giờ thấy Khấu Trọng và Tống Lỗ vẫn hòa đồng với nhau, biết rằng không phải Khấu Trọng và Tống Khuyết xảy ra vấn đề cho nên mới yên lòng.
Khấu Trọng nói: “Đều là người nhà cả, có chuyện gì cũng không nên giấu, phiệt chủ lần này vội vàng trở về Lĩnh Nam là vì quyết chiến Ninh Đạo Kỳ, tuy không phân thắng bại nhưng lưỡng bại câu thương, cần phải trở về Lĩnh Nam tịnh dưỡng. Tin này không nên lộ ra ngoài, mọi người biết trong lòng là được.”
Gã vừa nói lời đó, lập tức có tiếng xôn xao, ngoài sự dự liệu của hắn, đó là sĩ khí chẳng sút giảm mà trái lại mọi người càng nâng cao hơn, bởi vì Ninh Đạo Kỳ xưa nay được xem là thiên hạ đệ nhất cao nhân, Tống Khuyết có thể đánh ngang tay với ông ta thì điều đó chẳng khiến tên tuổi tổn thất tí nào.
Sau khi trả lời các câu hỏi, đại sảnh yên tĩnh trở lại, ai nấy đều so quyền mài chưởng đợi Khấu Trọng ban bố đại kế thống nhất thiên hạ.
Khấu Trọng nhìn quanh đại sảnh, biết mọi người tin tưởng hắn chẳng kém gì Tống Khuyết, khiến hắn cần phải điều binh khiển tướng thống nhất phương nam, Thiếu soái liên quân phải coi sĩ khí của tướng sĩ mà tiến hành, hai bờ Trường giang không thể giữ chân hắn.
Hắn quay sang Tống Lỗ nói: “Ba quân chưa động, lương thảo đi trước. Lỗ thúc thấy tình hình sau này cần như thế nào?”
Tống Lỗ mỉm cười: “Dù Thiếu soái chinh phạt phương nào, ta đảm bảo lương thực sẽ đến nơi bằng hai đường thủy, lục.”
Khấu Trọng cười rằng: “Vậy là được rồi! Chúng ta trước gần sau xa. Trước tiên thu thập Lý Tử Thông và Trầm Pháp Hưng, sau đó đạp bằng Phụ Công Hựu, rồi lấy Tương Dương dồn Tiêu Tiễn và Lâm Sĩ Hồng đến bờ nam Trường Giang, dùng phương pháp cô lập và làm bọn họ suy yếu đồng thời dốc hết toàn lực chuẩn bị đánh miền Bắc. Chúng ta có phước cùng hưởng, họa thì không có phần của chúng ta, đúng không?”
Các tướng chẳng phân biệt mình là người của Thiếu Soái quân hoặc Tống gia hoặc Lý Liêu đều đồng thanh hưởng ứng.
o0o
Lý Thế Dân nắm tay Từ Tử Lăng, thở dài: “Xin cho Thế Dân bày tỏ lòng áy náy trước việc Hạ Vương bị hại.”
Hắn một mình vào sảnh, cận vệ đều đứng ở ngoài đại đường để bày tỏ sự tin tưởng đối với Từ Tử Lăng.
Từ Tử Lăng thầm than, Lý Thế Dân để Lý Nguyên Cát mặc tình tung hoành, dùng sự sống chết của Đậu Kiến Đức buộc Khấu Trọng đầu hàng là có nỗi khổ không thể nói ra. Nhưng khi Khấu Trọng nhảy xuống tường thành Trường An, tình hình không thể khống chế được nữa.
Lý Tịnh xuôi tay đứng một bên.
Lý Thế Dân nói: “Tử Lăng ngồi xuống rồi hãy nói”. Rồi nháy mắt với Lý Tịnh, Lý Tịnh hiểu ý lui ra ngoài, y biết con người của Từ Tử Lăng như thế nào nên không lo cho sự an nguy của Lý Thế Dân.
Lý Thế Dân kéo Từ Tử Lăng ngồi xuống chiếc bàn tròn rồi buông tay nói: “Nghe nói con trai của Lương Sư Đô mua một lượng lớn hỏa khí từ Hải Sa Bang, còn Tử Lăng nghi ngờ đó là hoàng huynh có âm mưu đối phó với Lý Thế Dân này, đúng không?”
Từ Tử Lăng gật đầu: “Lương Sư Đô có thể là người của Ma môn, còn Nhĩ Văn Hoán và Kiều Công Sơn từng xuất hiện ở gần thành Ba Đông, lại thêm nhiều manh mối khác, ta hoài nghi không phải là không có căn cứ.”
Rồi gã giải thích mối quan hệ phức tạp của Vân Ngọc Chân cùng Hương Ngọc Sơn với Hải Sa Bang.
Lý Thế Dân trầm ngâm nói: “Vốn là ta không tin lắm, nhưng sau khi Tử Lăng phân tích kỹ càng thì chuyện này không phải là không có khả năng.”
Sau đó Lý Thế Dân nhìn hắn với ánh mắt sâu xa, mục quang đại thịnh, nói: “Tử Lăng mạo hiểm đến Trường An là vì chuyện này sao?”
Từ Tử Lăng trầm ngâm trong chốc lát rồi mới chậm rãi nói từng chữ: “Ta đến Trường An chuyến này là muốn hỏi rõ tâm ý của Thế Dân huynh, rốt cuộc là ngồi chờ chết hay ra sức trả đòn, tạo phước cho muôn dân thiên hạ và bỏ hết mọi thứ, bao gồm cả tình cốt nhục phụ tử huynh đệ và gia tộc, thống nhất thiên hạ trở thành một minh quân yêu nước yêu dân?”
Lý Thế Dân mục quang càng thịnh hơn, nhưng lời lẽ bình tĩnh đến bất ngờ, trầm giọng nói: “Tử Lăng nói những lời này không phải là quá muộn hay sao?”
Từ Tử Lăng nói: “Không giấu gì Thế Dân huynh, ta không thể nào cho huynh một đáp án khẳng định, chỉ biết cố hết sức mình. Mà sự hòa hợp giữa huynh với Khấu Trọng chính là một phương pháp duy nhất để giải quyết đại họa trước mắt ở Trung nguyên.”
Lý Thế Dân nhìn gã không chớp mắt, nói: “Khấu Trọng có biết việc này không?”
Từ Tử Lăng thản nhiên nói: “Ta vẫn chưa có cơ hội nói với hắn.”
Lý Thế Dân đứng phắt dậy, bước thẳng ra ngoài cửa không quay đầu lại.
Từ Tử Lăng nhìn theo bóng dáng của y, da gà rợn lên, trong đầu trống rỗng.
ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN
Hồi 707
Thiên Hạ Vi Tiên
Sau khi Khấu Trọng cùng các mưu thần đại tướng thương nghị kế hoạch tấn công Giang Đô, các tướng đều lĩnh mệnh chia nhau hành sự. Trước tiên Tống Sản, Vương Trọng Tuyên xuất lãnh đội tiên phong lên đường xuống miền Nam bằng đường thủy.
Khấu Trọng đã nhiều ngày vất vả nên về phòng đả tọa nghỉ ngơi. Chưa đầy nửa canh giờ thì có tiếng gõ cửa.
Khấu Trọng giật mình thầm nghĩ chẳng lẽ lại có tin xấu, thầm than thân làm lãnh tụ chẳng dễ chút nào. Gã trả lời: “Hành Chi mời vào!”
Hư Hành Chi đẩy cửa vào nói: “Hạnh Dung của Thanh Trúc Bang có việc gấp cầu kiến!”
Khấu Trọng lật đật ra ngoại đường gặp Hạnh Dung. Tên tiểu tử mặt mày hớn hở, vừa thấy gã đã nói ngay: “Lý Tử Thông muốn đầu hàng lão ca. Tiểu Trọng thật là lợi hại, Lý Thế Dân cũng chẳng làm gì được.”
Khấu Trọng cả mừng đáp: “Đừng nói nhảm nữa! Tại sao Lý Tử Thông đột nhiên lại trở nên nghe lời như thế, tin này từ đâu mà ra?”
Hạnh Dung hạ giọng tỏ ra bí ẩn, nói: “Lão hồ đồ Thiệu Lệnh Châu hạ mình đến cầu xin bọn ta, nhưng bất quá Lý Tử Thông có điều kiện kèm theo.”
Khấu Trọng nhíu mày: “Lý Tử Thông có tư cách gì mà nói điều kiện với ta? Hắn không biết ta chán ghét hắn sao? Không giết hắn đã là phước cho nhà hắn lắm rồi. Con mẹ hắn! Hừ!”
Hạnh Dung nở nụ cười đầy vẻ khoa trương, nói tiếp: “Thiếu soái bớt giận, điều kiện đầu tiên của hắn là thả cho hắn một con đường sống. Con mẹ hắn, Lý Tử Thông đương nhiên không có tư cách nói điều kiện với ngươi, ngươi không biết bây giờ tiếng tăm của ngươi lẫy lừng đến mức nào sao. Chúng ta chỉ đưa ra chiêu bài Khấu Thiếu soái của ngươi là cả miền Đại Giang này ai lại không nể mặt. Biết ngươi không tha cho quân Đường, ta và Tích Lương đều mừng đến suýt khóc. Tử Lăng đâu? Hắn không ở đây sao?”
Khấu Trọng chững lại, bật cười: “Ngươi đã trở nên huênh hoang khoác lác từ lúc nào thế. Tử Lăng có việc phải đi nơi khác rồi. Hãy nói chuyện chính đã, điều kiện của Lý Tử Thông là cái quái gì?”
Hạnh Dung tiếp: “Những điều khác toàn là chi tiết, điều quan trọng nhất là ngươi đích thân hộ tống hắn rời khỏi Giang Đô, hắn chỉ dắt khoảng hai trăm người nhà rời khỏi đây, thành Giang Đô sẽ do ngươi tiếp thu trong hòa bình, đảm bảo không ai dám phản kháng.”
Khấu Trọng ngạc nhiên hỏi: “Do ta hộ tống hắn? Là chuyện gì đây? Có phải âm mưu quỷ kế gì không?”
Hạnh Dung nói: “Hắn còn có thủ đoạn gì nữa đâu? Chẳng lẽ dám một mình đối đầu với ngươi sao, trong thiên hạ ngoại trừ Ninh Đạo Kỳ ra e rằng không có ai dám làm thế. Không ai hiểu rõ thành Giang Đô hơn ta, đây là chọn lựa tốt nhất của Lý Tử Thông, hơn nữa hắn còn có thể đem theo rất nhiều tài sản.”
Khấu Trọng băn khoăn: “Vậy việc gì hắn phải làm phiền ta hộ tống hắn?”
Hạnh Dung cả quyết: “Bởi vì hắn sợ Tống Khuyết. Nhạc phụ tương lai của ngươi xưa nay nổi tiếng thẳng tay với kẻ địch, chỉ có Khấu đại ca tự thân đảm bảo an toàn cho hắn thì Lý Tử Thông mới yên tâm.”
Khấu Trọng cười cười: “Tên tiểu tử nhà ngươi quả là biết cách vỗ mông ngựa của ta. Được rồi, vì Trầm Pháp Hưng, lão tử tha cho hắn phen này. Ngươi về nói với Thiệu Lệnh Châu, chỉ cần Lý Tử Thông ngoan ngoãn nghe lời thì ta chẳng có hứng thú giết hắn. Trong vòng ba ngày ta sẽ đến ngoại thành Giang Đô, bảo hắn chuẩn bị ổn thỏa, chuẩn bị lên đường, ta không rảnh mà chờ ở ngoài thành đâu.”
Hạnh Dung không hiểu: “Tại sao liên quan đến Trầm Pháp Hưng?”
Khấu Trọng từ tốn đáp: “Đương nhiên là liên quan đến Trầm Pháp Hưng, nếu không phải vì hắn chúng ta cũng đã không tấn công Giang Đô toàn diện như vậy. Đại tướng Côn Lăng của y đã bị chúng ta cắt đường giao thông thủy lục, cho đến lúc chúng ta đến đến ven thành, chắc y cũng chưa biết chuyện gì đang xảy ra.”
o0o
“Bình!”
Lý Thế Dân bước ra cửa, tâm sự trùng trùng vỗ một chưởng lên khung cửa khiến mảnh gỗ văng tung tóe.
Lý Tịnh bất ngờ xuất hiện ở bên ngoài. Lý Thế Dân chắp tay sau lưng, đập trán vào khung cửa, đau khổ nói: “Ta không sao!”
Lý Tịnh nhìn Lý Thế Dân, lại nhìn Từ Tử Lăng vẫn còn ngồi ngẩn trong phòng, rồi lui ra với vẻ mặt nặng nề.
Lý Thế Dân thở hổn hển rồi lê bước trở về ngồi xuống bên cạnh Từ Tử Lăng, nói: “Phụ hoàng đã giết Lưu Văn Tĩnh rồi!”
Từ Tử Lăng kêu thất thanh: “Cái gì?”
Lưu Văn Tĩnh là đại công thần khởi nghĩa của Lý Đường, đã từng mật mưu cùng Lý Uyên dấy binh, lâu nay vốn là một trong những người Lý Uyên tin tưởng nhất, dù ông ta làm sai chuyện gì cũng không đến nỗi mang tội chết.
Lý Thế Dân buồn bã giải thích: “Lưu Văn Tĩnh bị Doãn Tổ Văn và Bùi Tịch vu cáo mưu phản. Phụ hoàng còn cố làm ra vẻ công chính, sai Tiêu Tiệp và Lý Cương điều tra, cả hai người đều chứng minh Lưu Văn Tĩnh vô tội, nhưng vẫn xử cực hình ông ta. Khi ta đông kinh Lạc Dương chuyện này mới xảy ra, Lý Cương vì chuyện này mà chán nản từ quan quy ẩn. Chao ôi! Sao phụ hoàng lại trở nên như thế này?”
Từ Tử Lăng hạ giọng hỏi: “Có phải Lưu Văn Tĩnh thường nói đỡ lời cho Thế Dân huynh không?”
Lý Thế Dân gật đầu: “Đúng là như vậy. Tĩnh thúc đối với Đại Đường ta có công chứ không tội, sai lầm duy nhất có lẽ là bại trận trong cuộc chiến Thủy Nguyên nhưng Bùi Tịch đối mặt với Tống Kim Cương cũng thảm bại chứ có hơn gì, đã làm mất Tấn Châu vốn dùng để trấn Bắc thành. Phụ hoàng chẳng những không trách tội mà còn bảo ông ta trấn giữ Hà Đông. Từ sau khi khởi nghĩa, phụ hoàng thiên vị Bùi Tịch, chức quan của ông ta còn hơn cả Tĩnh thúc, thế mà nay lại còn dồn Tĩnh thúc vào chỗ chết, nếu chỉ vì vì đối phó với Lý Thế Dân này, phụ hoàng đã quá nhẫn tâm!”
Từ Tử Lăng trầm giọng: “Lệnh tôn buộc huynh mưu phản để trị tội chết của huynh.”
Lý Thế Dân giật mình ngẩng đầu.
Từ Tử Lăng nói tiếp: “Thế Dân huynh chẳng phải nói về Trường An sẽ làm rõ hết mọi chuyện với lệnh tôn sao? Có làm như thế không?”
Lý Thế Dân nhìn chằm chặp vào Từ Tử Lăng, nhìn mà cứ như không nhìn, chầm chậm gật đầu.
Từ Tử Lăng nói: “Hôm nay ta nói với Thế Dân huynh như thế chẳng khác gì đề nghị đại nghịch bất đạo, mục đích chỉ có một, đó chính là tránh để Trung nguyên lại rơi vào đại họa chia cắt, ngoại khấu xâm lăng! Nếu Thế Dân huynh gật đầu chấp nhận, mục đích là vì không phải sự vinh nhục hay sinh tử của cá nhân mà vì hạnh phúc cho muôn dân thiên hạ. Vận mệnh tương lai của Trung nguyên nằm trong một suy nghĩ của Thế Dân huynh.”
Lý Thế Dân hai mắt hồi phục thần thái, cất tiếng hỏi: “Vấn đề của Tống Khuyết làm sao giải quyết?”
Từ Tử Lăng đáp: “Trước tiên ta thuyết phục Khấu Trọng, rồi lại tìm cách. Thế Dân huynh hãy bày tỏ quyết tâm trước đã.”
Lý Thế Dân ngẩn ra nhìn gã.
Tiếng bước chân vang lên, Lý Tịnh vội vàng chạy đến, thi lễ bẩm cáo: “Tề vương, Hoài An Vương và Lý Nghệ tổng quản bại trận dưới tay Lưu Hắc Thát ở Nhiêu Dương, năm vạn người chỉ còn lại hơn một vạn người chạy về U Châu. Hoàng thượng triệu Tần vương lập tức vào cung kiến giá”. Lý Thế Dân giật mình, nắm lấy vai Từ Tử Lăng nói: “Có tin tức gì xin hãy đến gặp ta!”
Nói xong cùng Lý Tịnh lật đật bỏ đi.
Từ Tử Lăng bớt đi một nửa tâm sự, nhưng gánh nặng và áp lực vẫn tăng lên chứ không giảm. Gã vẫn không biết mình nên khuyên Khấu Trọng thế nào, để hắn bỏ đi đại kế làm hoàng đế!
o0o
Khấu Trọng ngồi trong phòng đọc các loại văn kiện, các kiểu ban lệnh, truyền lệnh mà tối tăm mặt mũi. Gã không nhịn được quay sang quay sang Hư Hành Chi đang đứng bên cạnh mà cười khổ: “Hành Chi có thể giả chữ ký của ta, như vậy ta sẽ bớt nhiều công sức, hoặc ta chỉ cần ký chứ không phải duyệt lại... Ta thà xung phong đi đánh trận, chứ chẳng ngờ chuyện này lại vất vả như thế?”
Hư Hành Chi mỉm cười: “Nét chữ của Thiếu soái như rồng bay phượng múa, lực thấu qua giấy, người khác không thể nào mô phỏng được, ta làm sao làm được. Muốn trị vì một đất nước, tuy có thể ra lệnh cho thuộc hạ làm, nhưng ít nhất cũng phải hiểu rõ công việc, thì như vậy mới biết ai chấp hành tốt và ai làm việc không tốt.”
Khấu Trọng bật cười: “Ngươi đừng dỗ dành ta. Cả bản thân ta cũng cảm thấy chữ ký của mình chẳng đẹp mắt tí nào.”
Hư Hành Chi thản nhiên nói: “Điều này không thành vấn đề. Chỉ cần là chính tay Thiếu soái ký, đó là mệnh lệnh cao nhất của Thiếu Soái quốc.”
Khấu Trọng cười khổ: “Chắc chắn là chữ ký của ta chẳng giống ai, Hành Chi hãy cứ thẳng thắn.”
Hư Hành Chi khéo léo nói: “Ta không có ý này. Chữ ký của Thiếu soái rất đặc biệt, hơn nữa chính tay Thiếu soái ký, bất cứ khuyết điểm nào cũng trở thành ưu điểm.”
Rồi hắn lại nói tiếp: “Hành Chi có việc muốn nhờ Thiếu soái xem xét. Chuyện này thực ra Hành Chi chỉ nói giùm người trên dưới Thiếu Soái quốc.”
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Có việc gì mà quan trọng đến thế?” Hư Hành Chi đáp: “Bây giờ thời cơ đã chín mùi, toàn thể tướng sĩ Thiếu Soái quốc trên dưới một lòng, khẩn xin Thiếu soái lập tức xưng đế.”
Khấu Trọng giật mình, hoang mang: “Việc này hãy đợi bình định miền Nam xong rồi tính.”
Hư Hành Chi định nói gì nữa, nhưng Tống Lỗ chợt bước vào, tạm thời giải vây cho Khấu Trọng.
Khấu Trọng đứng dậy chào hỏi, ngồi xuống xong xuôi thì Tống Lỗ lên tiếng: “Đã nhận được tin của miền bắc, Lưu Hắc Thát đại phá Thần Thông, Nguyên Cát ở Nhiêu Dương, thanh oai đại chấn, ngày càng có nhiều người đi theo. Quan Châu, Mao Châu đều đã đầu hàng. Cao Khai Đạo người vốn đã đầu hàng nhà Đường cũng công nhiên phản Đường, xưng là Yến Vương. Cựu binh sĩ của Kiến Đức ở các nơi tranh nhau giết quan phủ để hưởng ứng Lưu Hắc Thát. Bây giờ Lưu quân đang đánh Tông Thành ở Hà Bắc, nếu Tông Thành không giữ được, e rằng Lý Đường sẽ mất Tương Châu, Vệ Châu. Như vậy thì Lưu Hắc Thát có thể lấy lại được vùng biên giới cũ Đại Hạ của Kiến Đức.”
Khấu Trọng biến sắc nói: “Lý tiểu tử không có mặt thì trong quân Đường có ai nắm giữ đại cuộc?”
Tống Lỗ đáp: “Thần Thông, Nguyên Cát đã trở thành bại tướng, trước mắt Hà Bắc chỉ có cánh quân Lý Thế Huân mới đủ sức chống chọi, nhưng Tông Thành phòng ngự yếu đuối, mỏng manh, rất dễ bị cô lập. Theo ta thấy Lý Thế Huân chắc chắn không giữ được đâu.”
Khấu Trọng gật đầu: “Không những chẳng giữ được mà còn sẽ đại bại. Chẳng những ta vì có lòng tin với Lưu đại ca, mà còn là vì chuyện Lý Thế Dân bị triệu về kinh, số phận khó đoán, cho nên lòng quân sẽ dao động. Như vậy Lý Thế Huân làm sao lại không bại?”. Hư Hành Chi gật đầu đồng ý.
Tống Lỗ thở dài: “Vậy rốt cuộc chúng ta và Lưu Hắc Thát có mối quan hệ như thế nào?”
Khấu Trọng trả lời với mười phần tin tưởng: “Chúng ta sẽ mau chóng rõ thôi. Lúc mà Lưu đại ca đã lấy lại đất cũ của Đại Hạ, chắc chắn sẽ sai người đến liên lạc với chúng ta để bày tỏ tâm ý.”
Tống Lỗ trầm giọng: “Ta hiểu tình cảm giữa hai người rất sâu sắc, nhưng lòng người khó đoán, hơn nữa Lưu Hắc Thát không còn là đại tướng dưới tay người khác, mà là lãnh tụ tối cao của những người đi theo hắn. Hắn không thể hành sự theo ý riêng của mình mà là phải suy xét đến đại cuộc.”
Hư Hành Chi đứng phía sau Khấu Trọng lên tiếng: “Chỉ cần xem Lưu Hắc Hác đánh lui Lý Thế Huân xong rồi có xưng vương xưng đế hay không thì có thể biết được tâm ý của hắn.”
Tống Lỗ khen: “Hành Chi nói có lý.”
Khấu Trọng thấy lòng mình chùng xuống, nghĩ đến tình cảnh của mình, thầm nghĩ một khi mình hạ lệnh cho toàn quân đầu hàng Lưu Hắc Thát, thì Thiếu Soái quân không lập tức chia năm sẻ bảy thì mới là lạ.
Gã cười khổ: “Chuyện này tạm thời khoan hãy nghĩ tới. Sự thật thì Lưu đại ca đã cứu Lý Thế Dân một mạng, bởi vậy Lý Uyên không còn sự lựa chọn nào khác, chỉ đành phải phái Lý Thế Dân ra quan ải nghênh chiến.”
Hư Hành Chi nói: “Lý Uyên ép Lý Thế Dân trở về Trường An, thật sự đã là sai lầm, không những đã xem thường Lưu Hắc Thát mà còn ảnh hưởng đến lòng quân.”
Tống Lỗ mỉm cười: “Lý Uyên chỉ là thẹn quá hóa giận. Các quí phi của y đều dòm ngó kỳ trân dị bảo ở Lạc Dương, van nài Lý Uyên ban cho bọn chúng. Nào ngờ Tần vương đã đi trước một bước, đã ban thưởng hết của cải cho những người lập công trong trận chiến Lạc Dương, mà chủ yếu lại là người trong phủ Tần vương. Chuyện này khiến Lý Uyên rất bực mình cho nên mới có những chuyện sau này.”
Khấu Trọng kinh ngạc hỏi: “Sao Lỗ thúc có thể biết mọi chuyện xảy ra trong cung Đường vậy? Dù cho có thám tử, theo lẽ bọn chúng cũng không biết được những nội tình như vậy.”
Tống Lỗ nhìn Hư Hành Chi một cách sâu sắc rồi đáp: “Bởi vì trong số đại thần của nhà Đường có nội ứng của chúng ta.”
Khấu Trọng giật mình: “Ai vậy?”
Hư Hành Chi biết ý liền nói: “Hành Chi có việc phải cáo lui.”
Khấu Trọng giơ tay ngăn lại: “Hành Chi không cần thối lui, ta và Lỗ thúc tuyệt đối tin tưởng ngươi.”
Tống Lỗ vội giải thích: “Chúng ta đều là người nhà, có việc gì mà không thể nói rõ. Người này chính là Phong Đức Di.”
Khấu Trọng trố mắt há miệng, đồng thời trong lòng chợt hiểu ra. Chẳng trách chút nào hành vi của Phong Đức Di lại kỳ lạ đến vậy, đã đứng về phía Lý Kiến Thành mà lại đặc biệt lo lắng cho Từ Tử Lăng. Chuyện Dương Văn Can làm loạn là do Lý Kiến Thành phụ trách, mà y còn vì Lý Kiến Thành mà mạo hiểm cầu tình.
Tống Lỗ giải thích: “Phong Đức Di và đại ca đã có giao tình thắm thiết, đều là chí đồng đạo hợp, có lòng chấn hưng Hán tộc.”
Rồi lão lại tiếp: “Lý Uyên buộc Lý Thế Dân về kinh, đương nhiên gây nên những hậu quả bất lợi cho Lý Đường, chẳng hạn những tướng lãnh lúc đầu theo Vương Thế Sung sau này đầu hàng nhà Đường đều xôn xao. Đại tướng trấn giữ Thọ An Trương Trấn Châu đã từng sai người bí mật đến gặp Bạt Dã Cương, nói rằng khi Thiếu soái tấn công vào Lạc Dương, y sẽ cất binh phản Đường hưởng ứng. Theo ta thấy cựu bộ hạ của Vương Thế Sung không thiếu những người có lòng này.”
Khấu Trọng từ Trương Trấn Châu chợt nhớ đến Dương Công Khanh, nghĩ đến di nguyện trước khi lâm chung của ông ta, cảm động: “Ta nhất định sẽ giết Lý Kiến Thành!”
Tống Lỗ và Hư Hành Chi đưa mắt nhìn nhau, không hiểu tại sao Khấu Trọng chợt nói ra câu đó.
Khấu Trọng thấy thần tình trong mắt hai người thế, biết mình đã lỡ lời, hỏi rằng: “Tình hình phía Lương Sư Đô như thế nào?”
Tống Lễ ung dung trả lời: “Lương Sư Đô nhờ có người Đột Quyết chống lưng, nhưng bản thân không đáng ngại. Y đã từng nhiều lần xâm chiếm miền nam, bị quân Đường đánh lui, thảm nhất là một lần đánh Diên Châu, bị tướng giữ Diên Châu Đoàn Đức Thao đại phá, Lương Sư Đô chỉ còn lại hơn trăm người phá vòng vây mà bỏ chạy. Nhưng có một tin tức chưa được chứng thực, có lẽ sẽ ảnh hưởng rất sâu xa.”
Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Tin tức gì?”
Tống Lỗ đáp: “Lưu Vũ Châu và Tống Kim Cương đều bị Hiệt Lợi hạ độc thủ hại chết.”
Khấu Trọng lạc giọng: “Cái gì?”
Gã nhớ lại mối giao tình với Tống Kim Cương trước đây, trong lòng không khỏi đau buồn.
Tống Lỗ nói: “Từ xưa đến nay, chim hết thì bẻ cung. Bây giờ Lương Sư Đô đã trở thành tay sai chủ yếu của người Đột Quyết ở Trung nguyên, mà Lương Sư Đô vì muốn giữ mạng, chắc chắn sẽ bợ đỡ người Đột Quyết nhiều hơn, do vậy chỉ nghe lời Hiệt Lợi, trong tình thế này, chắc chắn Hiệt Lợi sẽ xâm chiếm Trung nguyên.”
“Bình!”
Khấu Trọng vỗ chưởng lên bàn, hai mắt sáng rực: “Ta dám đảm bảo Hiệt Lợi sẽ không bỏ qua thời kỳ băng phong này, thông qua Hương gia hắn nắm mọi chuyện ở Trung nguyên như bàn tay. Nếu bỏ qua thời cơ có một không hai này, Hiệt Lợi nhất định sẽ hối hận.”
Hư Hành Chi nói: “Chỉ cần có Lý Thế Dân thì e rằng người Đột Quyết không dễ ngang ngược.”
Khấu Trọng lắc đầu: “Đừng đánh giá thấp Hiệt Lợi. Nếu ta là hắn, sẽ nhân lúc thời kỳ băng phong vừa kết thúc, lúc chúng ta xua quân lên miền Bắc, khiến Lý Thế Dân cố thủ ở Lạc Dương, thì hắn sẽ xua quân xâm nhập, xem Trung thổ như đại thảo nguyên, tránh nặng lấy nhẹ, không tấn công bất cứ thành trì nào, chỉ cướp đoạt ở những làng mạc không có sức chống cự, lấy chiến nuôi chiến, sau đó mới đánh thẳng đến Trường An. Lúc đó sẽ đưa Lương Sư Đô lên ngôi vua kiến lập Ngụy triều, làm loạn Trung thổ của ta.”
Tống Lỗ gật đầu đồng ý: “Rất có khả năng này.”
Khấu Trọng nói: “Còn một cách khác là chia binh đánh xuống miền Nam, lần lượt lấy các thành hai bên Đại Hà. Điều kiện tiên quyết của cách này là trước tiên hại chết Lý Thế Dân, đáng tiếc cuộc khởi nghĩa của Lưu đại ca phá hoại kế hoạch của Hiệt Lợi.”
Tống Lỗ nhíu mày: “Dù Hiệt Lợi dùng cách nào, chúng ta cũng rất khó đối phó.”
Khấu Trọng nghĩ đến Đột Lợi, buồn bã nói: “Chúng ta chỉ đành đi bước nào tính bước đó, không thể tự loạn trận cước. Năng lực của ta có hạn, những chuyện không nghĩ ra, nhất thiết phải đợi bình định miền Nam rồi tính tiếp.”
Tiếng gót ngựa của quân Đột Quyết bỗng như phảng phất trong tai. Gót sắt đến đâu, nơi đó sẽ không còn bình yên nữa.
ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN
Hồi 708
Đại Trị Tam Yếu
Từ Tử Lăng đưa tay định gõ cửa, một giọng nữ dịu dàng vang lên bên tai: “Cửa không cài then, xin mời quí khách cứ tự nhiên.”
Từ Tử Lăng giật mình. Gã hoàn toàn không thể cảm nhận được ngoài sân Ngọc Hạc am đang có người, mà giọng nói đó chắc chắn không phải của trụ trì Thường Thiện ni, vậy thì ai đây? Đương nhiên chẳng phải là hạng tầm thường. Gã đến Ngọc Hạc am chỉ mong muốn có thể gặp được Sư Phi Huyên, dù cho khả năng ấy có mong manh đi nữa nhưng dù sao cũng có thể dò hỏi hành tung của Sư Phi Huyên. Tìm không được nàng, gã cũng có thể cho nàng biết mình đang tận lực và hết sức mong muốn được gặp nàng.
Gã đẩy cửa bước vào Ngọc Hạc am. Trong sân có bảy tám đống tuyết, cành cây ngọn cỏ trong sân đều trĩu nặng tuyết, một màu trắng bạc giăng giăng khắp am vắng.
Bên cạnh một đống tuyết to như quả đồi nhỏ có một nữ ni bình phàm mắt thanh mày tú, mình mặc áo bông màu xám, tay cầm xẻng xúc tuyết nhẹ nhàng bước tới, thản nhiên nhìn gã.
Từ Tử Lăng tiếp xúc với ánh mắt của nữ ni, trong lòng dâng lên cảm giác kỳ dị khó hình dung được, giống như tiếp xúc với một thế giới tâm linh thần thánh vô biên không thể đo lường nổi.
Nữ ni ấy nhìn khoảng ba mươi tuổi, nhưng vẻ mặt hờ hững như đã nhìn rõ thế tục, có vẻ như không còn bất cứ thứ gì trên đời có thể khiến cho nàng động lòng nữa.
Cái đầu trọc lóc càng làm nổi bật khuôn mặt xinh xắn tuyệt trần của nàng, khiến người ta quên cả lòng phàm tục, tựa như chẳng hề nhớ đến thế giới bên ngoài nữa, không gợn trong lòng một chút hành vi bất kính nào đối với nàng.
Từ Tử Lăng giật mình, cung kính thi lễ: “Xin hỏi sư thái xưng hô thế nào?”
Nữ ni nhẹ nhàng đặt cái xẻng xúc tuyết xuống, chắp tay hoàn lễ: “Nếu bần ni đoán không sai, vị này nhất định là Từ Tử Lăng thí chủ, đến đây muốn tìm tiểu đồ Phi Huyên.”
Từ Tử Lăng chấn động: “Thì ra là Phạm Trai Chủ.”
Phạm Thanh Huệ khẽ niệm một tiếng Phật hiệu rồi nói: “Xin mời Tử Lăng theo bần ni!”
o0o
Một bóng người lướt vào như một cơn gió, nhảy chồm lên vai Khấu Trọng, đó chính là Tiểu Hạc Nhi đang cải dạng nam trang, nũng nịu nói: “Tiểu Hạc Nhi phải theo đại ca đến Giang Đô.”
Khấu Trọng tạm ngừng công việc thẩm duyệt sắc lệnh khiến gã khổ não, than rằng: “Muội tưởng ta đi du sơn ngoạn thủy đó sao?”
Tiểu Hạc Nhi không chút khách khí, ngồi xuống trước mặt gã cười nũng nịu: “Đại ca du sơn ngoạn thủy chớ gì nữa. Đâu phải người ta lần đầu tiên lên chiến trường, biểu hiện chuyến trước cũng không tệ mà! Chí ít cũng không cản trở đại ca, còn chịu trách nhiệm chiếu cố bảo bối vô danh cho đại ca.”
Khấu Trọng nhún vai cười: “Muội cứ đòi đi đây đó thì ta cho muội đi đã luôn.”
Tiểu Hạc Nhi vui sướng nhảy lên reo: “Thành công rồi, thắng trận rồi. Muội phải đi báo cho Huyền Thứ công tử.”
Trước khi nàng ra ngoài, Khấu Trọng nhìn nàng cười nói: “Tại sao muội tự gọi mình là Tiểu Hạc Nhi?”
Tiểu Hạc Nhi hơi giật mình, khẽ hỏi: “Đại ca không thích cái tên này sao?”
Khấu Trọng cả cười trêu chọc: “Chân của tiểu muội tử còn dài hơn cả nam nhi, chẳng khác gì con hạc đứng ngạo nghễ giữa bầy gà, ta không những thích gọi là Tiểu Hạc Nhi mà còn cảm thấy tự hào vì có tiểu muội tử như thế này.”
Tiểu Hạc Nhi quay người đi, khẽ nói: “Đại ca là người tốt bụng nhất trên đời.”
Nói xong chạy ào ra ngoài.
Khấu Trọng dâng lên trong lòng cảm giác khó giải thích, y như bắt trúng được một thứ gì đó nhưng lại không thể nói ra được.
Ý nghĩ chỉ thoáng qua rồi gã phải quay trở về án thư với những công văn thư từ đầy như núi.
o0o
Phạm Thanh Huệ liếc nhìn Từ Tử Lăng hớp một ngụm trà rồi từ tốn nói: “Kẻ làm sư phụ này cũng chẳng biết đồ nhi đi đâu. Ngoại trừ Ngọc Hạc am, nơi có thể tìm ra nó là thiền viện của Liễu Không sư huynh ở gần Lạc Dương.”
Từ Tử Lăng ngồi ở một trong những chiếc ghế sắp ở hàng phía nam bên tay trái của bà, trong tri khách thất bốn mặt đều sắp xếp ghế, gã không dám mạo phạm vị lãnh tụ tối cao của huyền môn này cho nên cố ý ngồi xa một chút. Từ vị trí của gã nhìn đi, vẻ mặt thánh thiện cao với của Phạm Thanh Huệ như hòa cùng với cảnh tuyết ở ngoài cửa, chẳng hề nhuốm chút bụi trần.
Phạm Thanh Huệ hơi lộ vẻ buồn bã, rồi giọng bà trầm hẳn: “Có phải thí chủ trách những người xuất gia như chúng ta lòng trần vẫn chưa dứt không? Chúng ta thật sự có nỗi khổ bên trong, từ thủy tổ Địa Ni sáng lập môn phái đến nay đã đặt ra pháp quy, rằng những người tu luyện kiếm phải nhập thế hành hiệp ba năm, bởi vậy bọn ta mới bị cuốn vào thế sự đầy phong ba, không thể tự rút ra được. Có người còn tưởng bọn ta có ý thao túng quốc gia, đó là một điều lầm lẫn. Nếu thí chủ có điều gì bất bình cứ nói ra, đừng kiêng dè vì ta là sư phụ của Phi Huyên. Chúng ta xem như là người một nhà phải không?”
Từ Tử Lăng nghe thế liền trố mắt há hốc miệng. Trước đó mặc dù gã nghĩ đến vỡ đầu cũng không ngờ Phạm Thanh Huệ lại là một vị trưởng giả dễ chịu thân thiết đến vậy, chẳng hề tỏ vẻ mình là một vị trai chủ cao vời.
Gã bất giác cười khổ: “Trai chủ không phải xem ta là một hộ pháp sơn môn như Phi Huyên đấy chứ?”
Ngọc dung của Phạm Thanh Huệ vẫn không đổi, nhìn gã hỏi: “Tử Lăng có biết hộ pháp sơn môn của bọn ta là ai không?”
Từ Tử Lăng ngơ ngác lắc đầu.
Phạm Thanh Huệ dịu dàng nói: “Chính là người đã truyền cho ngươi Chân Ngôn đại pháp, chính là Chân Ngôn đại sư.”
Từ Tử Lăng ngạc nhiên không biết đối đáp ra sao.
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn ra mảnh vườn đầy tuyết trắng phía đối diện, bình thản giải thích: “Hộ pháp sơn môn không cần phải là người tinh thông võ công. Chân Ngôn đại sư phật pháp tinh tường, thiền cảnh siêu thâm, trước khi nhập tịch đã truyền cho ngươi Chân Ngôn ấn quyết, thực ra là có thâm ý, bọn hậu bối như ta không thể nào đoán được duyên phận nhân quả huyền diệu trong đó. Mà bọn ta có quy củ bất thành văn, rằng sơn môn hộ pháp đời tiếp theo là do hộ pháp đời trước tuyển lựa. Trước khi Chân Ngôn đại sư nhập tịch, đã nói cho Phi Huyên biết là đã chọn lựa hộ pháp, cho nên mới cho rằng ngươi là hộ pháp sơn môn kế nhiệm. Song mặc dù Tử Lăng không nhận thân phận này, bọn ta cũng chẳng có ý kiến gì. Nếu Tử Lăng sau này không chọn người kế nhiệm cho mình, như vậy truyền thống chọn sơn môn hộ pháp sẽ biến mất, nhưng như vậy cũng chẳng sao!”
Từ Tử Lăng cuối cùng cũng hiểu ra, trong lòng dâng lên cảm giác khó tả. Năm xưa Chân Ngôn đại sư truyền pháp cho mình, xem ra có vẻ vô tình, nhưng thực sự ẩn chưa huyền cơ không ai có thể lý giải nổi.
Phạm Thanh Huệ lộ thần sắc bất lực, khẽ ngậm ngùi nói: “Nghe Phi Huyên nói, Tử Lăng không chịu tha thứ vì nó dốc hết sức giúp đỡ Lý Thế Dân chứ không phải Khấu Trọng.”
Từ Tử Lăng đáp: “Đó là chuyện lúc trước, hôm nay tại hạ đã hiểu ngọn nguồn.”
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn gã, dịu dàng nói: “Doanh Chính và Dương Kiên đều là những hoàng đế thống nhất đất nước từ cảnh chia năm xẻ bảy về một mối, nhưng cũng trải qua hai đời mà dứt. Có thể họ tuy có ‘thiên hạ chi chí’, nhưng lại thiếu ‘thiên hạ chi tài’ hoặc là thiếu ‘thiên hạ tri hiệu’”
Từ Tử Lăng khiêm nhường hỏi: “Dám mong trai chủ ban dạy.”
Phạm Thanh Huệ hai mắt sáng lên ánh trí tuệ, giải thích: “Thiên hạ chi chí có nghĩa là chí hướng và thực lực thống nhất và trị vì thiên hạ. Thiên hạ chi tài có nghĩa là có tài năng trị vì thiên hạ, thiên hạ chi hiệu là hiệu quả đại trị thiên hạ. Tần Thủy Hoàng có thiên hạ chi chí, nhưng sau khi thống nhất sáu nước không biết lấy cái nhân để vỗ yên đất nước mà dùng thủ đoạn trấn áp để đối phó nhân dân, khiến nhân dân nổi dậy. Sau khi Dương Kiên lên ngôi thực hiện cải cách mạnh mẽ, mở ra thời thịnh thế, sau đó dần dần tiến tới đạp bằng miền nam, quả đúng là bậc hùng tài đại lược. Lúc đó trong thiên hạ chỉ có một mình Tống Khuyết có thể đối phó với y, nhưng Tống Khuyết tự phụ, vẫn ẩn mình ở Lĩnh Nam, chịu sự sắc phong của y. Nhà Tùy của họ Dương vốn đã có thành công, nhưng đáng tiếc lại bại trong tay Dương Quảng, đó là vì tại sao?”
Từ Tử Lăng gật đầu đồng ý: “Phi Huyên chọn Thế Dân huynh chính vì y không những có thiên hạ chi chí, thiên hạ chi tài còn có cả thiên hạ chi hiệu.”
Phạm Thanh Huệ khẽ thở dài: “Bọn ta đâu có tư cách chọn lựa minh quân cho tương lai, chỉ mong có thể góp chút công sức giúp cho bá tánh bớt khổ. Bây giờ thời cơ thống nhất thiên hạ không phải nằm trong tay Tần vương thì ở Tử Lăng và Thiếu soái, quyết định chỉ do một ý nghĩ của các người.”
Từ Tử Lăng than rằng: “Không giấu gì trai chủ, nếu là trước đây tại hạ không thể nghe được những lời này, nhưng bây giờ trong tình thế trong loạn ngoài giặc, tại hạ mới hiểu được nỗi lo của trai chủ. Lúc nãy tại hạ đã gặp Tần vương, nói rằng chỉ cần y chịu lấy thiên hạ làm đầu, gia tộc làm thứ, ta sẽ dốc hết sức mình khuyên Khấu Trọng giúp y lên ngôi.”
Phạm Thanh Huệ không hề tỏ ra bất ngờ, chỉ để lộ một chút niềm vui hiếm hoi trên ngọc dung, rồi gật đầu nói: “Hảo đồ nhi của ta không nhìn nhầm Tử Lăng.”
Tử Lăng cười khổ: “Nhưng tại hạ tỉnh ngộ ra thì hình như đã quá muộn, bây giờ Thiếu Soái quân sắp đánh nhau với dại Ðường, xung đột không thể không phát ra. Tại hạ không biết có ngăn chặn được hay không!”
Phạm Thanh Huệ buồn bã: “Tử Lăng muốn nói đến Tống Khuyết phải không?”
Từ Tử Lăng gật đầu.
Phạm Thanh Huệ bình tĩnh trở lại, nhẹ nhàng nói: “Ta vừa mới nhận được phi cáp truyền thư của Phi Huyên từ Tịnh Niệm thiền viện gởi về, đạo huynh và Tống Khuyết đều bị thương trong cuộc chiến ở thiền viện.”
Từ Tử Lăng chấn động, lạc giọng kêu lên: “Cái gì?”
Thạch Chi Hiên đã tính rất đúng, một khi Tống Khuyết sa chân vào cuộc chiến tranh thiên hạ, Từ Hàng Tịnh Trai chắc chắn không ngồi nhìn để cho thiên hạ chia năm xẻ bảy. Có điều cả Thạch Chi Hiên cũng không đoán được hành động lúc này của Phạm Thanh Huệ là mời Ninh Đạo Kỳ khiêu chiến Tống Khuyết.
Cuối cùng gã hiểu được tại sao Phạm Thanh Huệ lại lộ ra vẻ buồn bã, bởi vì bà vẫn chưa dứt tình với Tống Khuyết, thực ra bà cũng không muốn làm điều này, đó chỉ là nước cờ nguy hiểm bất đắc dĩ mà thôi. Hai bên đều bị thương là tốt, nếu hai bên đều chết hoặc một bên chết, Phạm Thanh Huệ sẽ mãi mãi chẳng ngẩng mặt lên được.
Phạm Thanh Huệ đưa mắt nhìn ra ngoài cửa, cất giọng buồn bã: “Tống Khuyết hẹn với đạo huynh đánh chín đao, nếu y không thể làm gì được đạo huynh thì sẽ lui ra để mặc cho Khấu Trọng và Lý Thế Dân tranh nhau. Nhưng y không đánh ra đao thứ chín mà vẫn giữ lời lui ra. Chao ôi, trong tình huống này, Tống Khuyết vẫn nghĩ cho Thanh Huệ, khiến ta làm sao không nhớ mãi trong lòng?”
Giả sử Khấu Trọng ở đây, khi biết Phạm Thanh Huệ tuy không có mặt nhưng vẫn tâm ý tương thông, hiểu được tâm ý của Tống Khuyết, thì không biết gã sẽ cảm giác ra sao. Thực ra Ninh Đạo Kỳ vì bỏ qua cơ hội ôm nhau cùng chết với kẻ địch, lọt xuống thế hạ phong, tình huống này thật là bi diệu.
Từ Tử Lăng nghe mà ngơ ngác khó tin, thấy bà có vẻ đau buồn, nhưng lại không dám cất tiếng hỏi. Chuyện này liên quan đến cảm giác giữa nam và nữ, mà cảm giác đó lại xuất hiện ở một vị cao nhân xuất thế, khiến người ngoài không khỏi cảm động.
Phạm Thanh Huệ nhìn gã, chắp tay nói: “Tội lỗi, tội lỗi, vật vật giai chân hiện, đầu đầu tổng bất thương; bổn chân bổn không, vô phi diệu thể.”
Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn bà, không biết nói gì hơn.
Phạm Thanh Huệ trở lại thần thái an nhiên, mỉm cười: “Có phải Tử Lăng đến đây tìm Phi Huyên không?.”
Từ Tử Lăng tỏ vẻ ái ngại: “Tại hạ biết trai chủ không muốn vướng vào nỗi phiền não của thế tục, nhưng có một chuyện đành phải cầu xin trai chủ.”
Phạm Thanh Huệ điềm nhiên nói: “Tử Lăng đừng lo cho ta, có phải muốn ta thuyết phục Tống Khuyết không?”
Từ Tử Lăng sững ra: “Pháp nhãn của trai chủ quả là không sai.”
Phạm Thanh Huệ bình thản nói: “Không gặp vẫn phải gặp, có nhân tức là có quả, ngày Tử Lăng thuyết phục được Khấu Trọng, tạo đại công đức cho mọi người chính là thời cơ ta đến Lĩnh Nam gặp bằng hữu cũ. Tử Lăng hãy đi đi! Hạnh phúc và hòa bình của trăm họ trong thiên hạ đều trong tay ngươi đấy.”
ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN
Hồi 709
Đại Nghĩa Vi Tiên
Từ Tử Lăng ở lại Trường An bốn ngày chờ Lý Thế Dân cầm quân chinh phạt Lưu Hắc Thát, rồi gã mới từ bí đạo âm thầm ra đi, đến Tịnh Niệm thiền viện.
Gã sợ khi gặp lại Phi Huyên sẽ không kìm chế được tình cảm, nhưng lại mong muốn gặp nàng, nói cho nàng biết nỗi ân hận của mình, nói cho nàng biết rằng mình sẽ cố gắng hết sức vì thiên hạ, để nhìn thấy niềm vui của nàng khi mình thay đổi.
Lý Thế Dân tuy không nói thẳng với gã, nhưng từ việc y dùng lại Lý Tịnh, phong Lý Tịnh làm Hành Quân Tổng Quản trong trận đánh lần này chính là dùng hành động để nói với Từ Tử Lăng rằng y chấp nhận đề nghị của gã.
Khi gã đến Tịnh Niệm thiền viện thì chiến tranh ở hai chiến tuyến nam bắc đã bắt đầu kịch liệt.
Lưu Hắc Thát đại phá Lý Nguyên Cát và Lý Thần Thông, cùng Cao Khai Đạo và Trương Kim Thụ kết minh để tránh mối họa sau lưng, sau đó cầm quân tiến đến Tông Thành ở Hà Bắc.
Tướng thủ thành Lý Thế Tích thấy tình thế không ổn, bỏ thành mà chạy với ý đồ giữ lại Lạc Châu. Lưu Hắc Thát đuổi theo chém được năm ngàn người, Lý Thế Tích cũng mất mạng.
Trận này chấn động cả Trường An.
Tiếp theo Lưu Hắc Thát đánh hạ Tương Châu, Vệ Châu với thế chẻ tre, đoạt hết những nơi Đậu Kính Đức đã mất về tay Lý Đường. Các tướng Đường như Tần Võ Thông, Trần Quân Bình, Trình Danh Chấn buộc phải chạy đến Quan Trung.
Lưu Hắc Thát xưng là Hán Đông Vương, đổi niên hiệu là Nguyên Thiên Tạo, đặt kinh đô ở Lạc Châu, khôi phục lại quan chế, văn võ thời Kiến Đức.
Lúc này Lý Thế Dân và Lý Nguyên Cát hợp nhau thành tám vạn quân, phản kích toàn diện.
Lưu Hắc Thát không giữ nổi Tương Châu, phải lui về kinh đô Lạc Châu.
Lý Thế Dân lấy xong Tương Châu liền chia binh thành nhiều đường đánh Lạc Châu, khiến Lưu Hắc Thát gặp nhiều khó khăn. Ai có kiến thức cũng hiểu rằng Lý Thế Dân định trước khi Khấu Trọng tiến lên phía bắc đánh Lạc Dương, bình định miền Bắc trước.
Trong khoảng thời gian Lưu Hắc Thát phá Lý Thế Tích, Khấu Trọng ở miền nam tiếp thu Giang Đô từ tay Lý Thần Thông, rồi giữ lời hứa để Lý Thần Thông bỏ chạy.
Cha con Trầm Pháp Hưng vẫn không hề biết Giang Đô đã lọt vào tay Khấu Trọng.
Nhờ có Trần Trường Lâm, Khấu Trọng hoàn toàn nắm được nội bộ của Trầm Pháp Hưng và nhờ sự giúp đỡ ngầm của các tướng lĩnh có ý muốn phản Giang Nam, nên gã đánh thẳng đến Côn Lăng nhanh như sấm sét.
Cho đến khi Thiếu Soái quân vào thành cha con Trầm Pháp Hưng mới hiểu ra đại thế đã mất, lật đật bỏ chạy. Trên đường đào thoát bị Trần Trường Lâm phục kích, Trần Trường Lâm chính tay giết chết cha con Trầm Pháp Hưng để báo mối huyết hải thâm thù.
Trong vòng nửa tháng, Thiếu Soái quân đã buộc Lý Tử Thông đầu hàng, giết chết Trầm Pháp Hưng, chấn động thiên hạ, thế dâng như nước lũ vượt cả Lý Thế Dân.
Các tướng lãnh dưới cờ Lâm Sĩ Hồng, Tiêu Tiễn, Phụ Công Hựu lần lượt dâng thành đầu hàng khiến ba người Lâm, Tiêu, Phụ càng cô thế hơn.
Từ Tử Lăng đến Tịnh Niệm thiền viện nhưng không gặp được Sư Phi Huyên. Nàng đã ra đi trước đó hai ngày, trước khi đi có nói với Liễu Không rằng sẽ gặp Lý Thế Dân. Từ Tử Lăng thất vọng chỉ đành đến Lương Đô.
Nào ngờ chuyện thất ý không đi riêng lẻ, đến Lương Đô không những chẳng thể gặp lại Âm Hiển Hạc và Kỷ Thiến mà cũng chẳng nghe được tin tức của hai người. Gã tuy lo lắng suýt nữa quay về Tương Dương, nhưng sau đó cân nhắc nặng nhẹ nên cuối cùng bỏ ý nghĩ này, nhờ Tống Lỗ sai người đến Tương Dương dọ hỏi, còn mình thì ngồi thuyền thủy sư của Thiếu Soái quân để xuống miền nam gặp Khấu Trọng.
Khi gã ngồi thuyền từ Vận Hà xuống miền nam, Khấu Trọng cũng đang chạy đua cùng với thời gian, hội sư với Đỗ Phục Uy ở Lịch Dương, cấp quân tấn công Phụ Công Hựu.
Trong cơn hấp hối cuối cùng, Phụ Công Hựu sai tướng là Mã Huệ Lượng, Trần Đương cầm ba vạn quân đóng ở núi Bác Vọng, ngoài ra dùng Trần Chính Thông, Từ Thiệu Ninh cầm ba vạn quân đóng ở núi Thanh Lâm, cách núi Bát Vọng một con sông, khóa chặt đường sông, chống cự Khấu Trọng. Đây là một chiến lược cả công lẫn thủ, dựa vào sự hiểm trở của địa thế để chống cự.
Liên quân của Khấu Trọng và Đỗ Phục Uy trước tiên chặt đường lương thảo của bọn chúng, cô lập phong tỏa Đơn Dương rồi sai người dụ bọn Mã Huệ Lượng rời khỏi nơi hiểm yếu, sau đó dùng quân chủ lực đại pháp công phá.
Không còn trở ngại nữa, Khấu Trọng và Đỗ Phục Uy thừa thắng tấn công Đơn Dương. Phụ Công Hựu còn tưởng chạy đến Cối Kê hội họp với Tả Du Tiên với ý đồ phản công, nhưng bị Khấu Trọng và Đỗ Phục Uy dùng khinh kỵ truy đuổi. Cuối cùng Đỗ Phục Uy cũng tận tay giết chết Phụ Công Hựu.
Từ Tử Lăng đến Đơn Dương thì Thiếu Soái quân đang thu thập tàn cuộc, sửa sang lại tường thành, thu nhận hàng quân, mau chóng lập lại trật tự cho dân thành Đơn Dương sinh hoạt lại như thường. Người phụ trách chuyện này là Nhậm Mi Mi, biết Từ Tử Lăng đến, liền cho người phi báo Khấu Trọng.
o0o
Khấu Trọng lập tức ra đón, đi cùng còn có Lôi Cửu Chỉ và Hầu Hi Bạch. Huynh đệ lâu ngày gặp nhau nên vô cùng hoan hỷ.
Khấu Trọng thấy Từ Tử Lăng tâm sự trùng trùng, còn tưởng rằng gã thấy cảnh sinh tình, nhớ lại năm xưa cùng Phó Quân Sước vào thành.
Thấy vậy gã đề nghị: “Hay là chúng ta xuống ngựa đi bộ, ôn lại chuyện năm xưa cùng mẫu thân vào thành cầm cố đồ đạc lấy ngân lượng chữa bệnh rỗng dạ dày.”
Lôi Cửu Chỉ cười nói: “Vài ngày nữa tiệm buôn mới mở cửa lại, Lôi Cửu Chỉ này phá lệ một phen, đích thân xuống bếp nấu vài món ăn để mọi người cùng thưởng thức, chúc mừng ngày gặp lại.”
Hầu Hi Bạch thích thú: “Ta và Lôi đại ca đi tìm nguyên liệu, các người vào tiệm rượu ngồi trò chuyện, đảm bảo tối nay sẽ có tiệc.”
Nói rồi ha hả cười Hầu Hi Bạch và Lôi Cửu Chỉ cùng vào thành.
Khấu Trọng, Từ Tử Lăng xuống ngựa, giao ngựa cho thân binh dắt đi.
Băng qua cửa thành, quân giữ thành cất tiếng chào vang dội, sĩ khí hiên ngang đến cực điểm, ai nấy đều vui niềm vui đại thắng, khiến Từ Tử Lăng muốn thuyết phuc lại càng khó mở lời.
Thành Đơn Dương vẫn như xưa, sông ngòi chằng chịt, cầu đá khắp nơi, mang đậm đặc sắc của miền quê sông nước Giang Nam. Chỉ có điều là dân cư không dám ra đường nên ngoài đường người đi lại vô cùng thưa thớt. Còn lại thì chỉ có Thiếu Soái quân đang thu dọn đường xá. Trên đường đầy những binh khí, cung tiễn, giáp trụ hư hỏng, gãy đổ tạo một quang cảnh vô cùng kỳ dị.
Khấu Trọng nhìn quán rượu cao hai tầng, cười nói: “Hình như là quán này đây. Người đâu, mau mở cửa cho huynh đệ bọn ta khai trương nào.”
Thân vệ tả hữu lập tức làm theo răm rắp.
Khấu Trọng lắc đầu, chép miệng: “Năm xưa khi chúng ta vào thành, nào có nghĩ đến cảnh vẻ vang hôm nay. À này, Âm tiểu tử không đi cùng với ngươi sao? Tại sao không thấy hắn?”
Từ Tử Lăng đáp: “Lên lầu rồi nói.”
Hai người lên lầu, quán rượu trống trơn, chẳng có một bóng người nào. Cả hai người ngồi xuống chiếc bàn gần cửa sổ như năm xưa, nhìn chiếc ghế trống, nơi mà Phó Quân Sước năm xưa đã ngồi, bất giác cảm xúc tràn về.
Từ Tử Lăng kể lại việc không tìm thấy Âm Hiển Hạc. Khấu Trọng nghe vậy nhíu mày, thắc mắc: “Không lý gì hắn vẫn chưa quay về? Thật khiến cho người ta lo lắng! Chả trách gì ngươi ưu tư như thế, rốt cuộc hắn đi đâu tìm muội muội của hắn đây?”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Đây chỉ là một trong những tâm sự của ta thôi!”
Vừa lúc này thân binh cũng vâng lệnh Nhậm Mi Mi đem rượu đến mừng, khiến hai người tạm ngừng tâm sự.
Đợi khi tên thân binh lui ra, Khấu Trọng đưa mắt nhìn xuống đường, nhìn các thủ hạ đang siêng năng làm việc, nói: “Rốt cuộc ngươi có tâm sự gì, tại sao có vẻ muốn nói nhưng lại thôi? Ta và ngươi có gì mà không nói được? Cho dù ngươi có mắng ta, thì kẻ làm huynh đệ này cũng chỉ đành lắng nghe.”
Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn xa xăm, nhìn ánh tà dương phản chiếu lấp lánh trên mặt nước, cất tiếng hỏi: “Lão gia đâu?”
Khấu Trọng quay đầu nhìn theo gã, đáp: “Sau khi Lão gia trừ xong Phụ Công Hựu, lập tức trở về Lịch Dương chủ trì đại cuộc. Thời gian của chúng ta không nhiều, cần phải tấn công Tương Dương trước khi mùa xuân đến. Chuyện này ta đã suy nghĩ lâu lắm rồi, vì Trương Trấn Châu đã đáp ứng đứng về phía chúng ta.”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Chúng ta? Ôi!”
Khấu Trọng giật mình nói: “Rốt cuộc là chuyện gì, tại sao ngươi không chịu nói với ta?”
Từ Tử Lăng từ tốn trả lời: “Ta đã biết cuộc chiến giữa Tống Khuyết với Ninh Đạo Kỳ! Ta không những đã đến Tịnh Niệm thiền viện mà còn gặp Phạm Thanh Huệ.”
Khấu Trọng kêu thất thanh: “Cái gì?”
Tiếng bước chân vang lên phía cầu thang.
Giọng nói của Bạt Phong Hàn vọng lên: “Vì sao Thiếu soái ngươi bỏ Hán Trung mà lấy Tương Dương? Ta sợ mất cơ hội đánh Lạc Dương nên đi cả ngày đêm để đến đây.”
Khấu Trọng và Từ Tử Lăng vội vàng đứng dậy, nhưng cả hai lại có tâm trạng khác nhau.
Bạt Phong Hàn xuất hiện trước mắt, hai mắt ánh những tia thần quang rực rỡ, vẻ mặt vui mừng hớn hở.
Khấu Trọng cười ha hả: “Lão Bạt biết tâm ý của ta, đúng là chúng ta sắp sửa đánh Tương Dương. Còn vụ tại sao bỏ Hán Trung mà lấy Tương Dương thì một lời khó mà nói hết. Mong lão ca ngồi xuống uống chén rượu trước, sau đó tiểu đệ sẽ bẩm cáo kỹ càng, lát nữa Lôi Cửu Chỉ sẽ đích thân làm món ngon, vừa vặn bày tiệc tẩy trần cho lão ca và Tử Lăng.”
Bạt Phong Hàn ngồi xuống đối diện hai người, nhìn Khấu Trọng rót rượu cho mình, ngạc nhiên hỏi: “Tử Lăng cũng vừa đến phải không?”
Từ Tử Lăng thấy hai người đang vui sướng vì sắp đánh nhau với Lý Thế Dân, còn mình lại sắp tạt một gáo nước lạnh vào mặt, trong lòng cảm thấy áy náy, cười khổ rằng: “Đệ cũng vừa đến trước huynh một bước thôi.”
Bạt Phong Hàn ngạc nhiên: “Tử Lăng đang có tâm sự gì à?”
Khấu Trọng chen vào nói: “Đây chính là chuyện ta cũng đang muốn hỏi hắn.”
Từ Tử Lăng buồn bã trả lời: “Ta vừa đến Trường An gặp Lý Thế Dân, thuyết phục y phản gia tộc, dốc hết sức mình giành lấy ngôi vua.”
Khấu Trọng và Bạt Phong Hàn đều sững người ra, ngừng hết mọi động tác, cứ hệt như thời gian đang dừng lại. Cả ba nhìn nhau, tòa lầu rộng thênh thang bỗng yên lặng như tờ, chỉ còn nghe thấy tiếng ồn từ dưới đường vọng lên.
Một lúc sau, Khấu Trọng buông bình rượu xuống, ngồi ngẩn ra.
Bạt Phong Hàn lên tiếng phá vỡ không khí im lặng: “Lý Thế Dân có sợ không?”
Từ Tử Lăng đáp: “Y đúng là sợ, nhưng không phải là sợ chúng ta mà là phụ vương và huynh đệ của y, sợ nửa mảnh giang sơn mất trong tay họ. Lý Uyên nhân lúc Lý Thế Dân không có ở Trường An đã dùng tội danh mơ hồ xử tử Lưu Văn Tĩnh, vì ông ta có quan hệ mật thiết với Lý Thế Dân.”
Khấu Trọng gật đầu: “Đó gọi là giết một dọa một trăm. Lý Uyên muốn tỏ ý bảo quần thần rằng y ủng hộ Kiến Thành, nếu tên tiểu tử họ Lý không chịu tỉnh ra, chắc chắn là một kẻ ngốc nghếch.”
Bạt Phong Hàn không nói gì nữa, ngồi thừ ra nhìn ly rượu.
Khấu Trọng nhìn Từ Tử Lăng, vừa khéo Từ Tử Lăng đưa mắt nhìn sang gã, ánh mắt hai người chạm nhau.
Từ Tử Lăng chép miệng than: “Những chuyện khác có cần ta nói ra nữa không?”
Khấu Trọng cười khổ nói: “Nếu ta vẫn còn là một tên tiểu lưu manh lăn lộn giang hồ cùng ngươi như lúc trước, Từ đại ca ngươi muốn thế nào thì thế ấy, ta chỉ cần tuân theo là xong. Nhưng đã trải qua trăm cay ngàn đắng, lại xây dựng được Thiếu Soái quân, biết bao binh sĩ đã đổ máu, ai cũng vì Khấu Trọng này vào sinh ra tử, bây giờ ta đột nhiên nói với họ, ta không làm nữa, bởi vì Lý Thế Dân chịu hứa làm hoàng đế. Nếu ngươi là ta, có nói ra được những lời đó không? Họ chịu đi theo ta là vì tin Khấu Trọng này, tin ta không những chẳng bán đứng họ mà sẽ thống lãnh họ thống nhất thiên hạ, dựng nghiệp ngàn thu, để lại oai danh cho hậu thế.”
Từ Tử Lăng trầm mặt, đưa tay bưng ly rượu, trong mắt hiện lên thần sắc đau khổ vô cùng.
Khấu Trọng vỗ vai gã, nghiêm mặt nói: “Nhất là Tống Khuyết bị thương vì Ninh Đạo Kỳ, ta lại càng không thể phụ lòng mong mỏi của y.”
Bạt Phong Hàn lập tức chấn động hỏi nhanh: “Hai người Tống, Ninh quyết chiến thắng thua thế nào?”
Khấu Trọng đáp rằng: “Tình hình lúc đó cực kỳ vi diệu, cũng có thể nói là không phân thắng thua, nhưng Tống Khuyết đã giữ lời hứa rời khỏi cuộc đại chiến tranh bá thiên hạ.”
Từ Tử Lăng bình thản nói: “Phạm Thanh Huệ sẽ đích thân thuyết phục Tống Khuyết.”
Bạt Phong Hàn cảm thấy không rõ, ngơ ngác: “Tại sao lại có Phạm Thanh Huệ ở đây?”
Khấu Trọng nâng ly nhìn chén rượu trong tay Từ Tử Lăng, cười nói: “Cạn chén rượu rồi nói tiếp đi.”
Ba gã ngửa cổ uống cạn chén rượu, không khí vẫn còn nặng nề.
Khấu Trọng lấy tay quệt rượu trên mép, buồn bã cười rằng: “Thực ra Tử Lăng cũng nghĩ cho ta thôi, biết ta không muốn làm hoàng đế, nhưng có ai chịu chấp nhận phương pháp giải quyết này không? Chả lẽ Thiếu Soái quân đang lúc sĩ khí lên cao, uy phong chấn bốn phương tám hướng mà lại đầu hàng Lý Thế Dân sao?”
Từ Tử Lăng cười chua chát, trầm giọng nói: “Đây có lẽ là biện pháp duy nhất khiến Tống Ngọc Trí hồi tâm chuyển ý đối với ngươi, chính là vì Khấu Trọng ngươi không phải kẻ tham công danh lợi lộc, là kẻ vì làm hoàng đế mà bất chấp mọi thủ đoạn. Thậm chí có thể làm cho nàng nhận thức rõ rằng ngươi sẽ không vì sự vinh nhục cá nhân mà đi tranh đoạt thiên hạ, ngươi chỉ nghĩ cho trăm họ nơi Trung thổ mà thôi. Ta không phải muốn ngươi đầu hàng mà chỉ muốn ngươi tích cực giúp Lý Thế Dân, giúp y ngồi lên ngai vàng, chống lại âm mưu của Lý Uyên, Ma môn và Hiệt Lợi đang dồn y vào chỗ chết.”
Khấu Trọng nghe mà trố mắt há hốc mồm, một lát sau mới có phản ứng, quay sang Bạt Phong Hàn nhờ giúp đỡ: “Lão ca là bằng hữu tốt nhất của hai huynh đệ chúng ta, có thể nói cho ta một lời công bằng không?”
Bạt Phong Hàn buồn bã: “Ta có thể bênh ai, bỏ ai đây? Trái tim ta chia làm đôi, vừa mong muốn cùng Thiếu soái ngươi sánh vai tác chiến, đánh thẳng vào Lạc Dương, đạp bằng Quan Trung; mặt khác lại hiểu tấm lòng cao thượng của Tử Lăng, hiểu hắn đã thấy cái đại họa khi Hiệt Lợi đánh vào Trung nguyên! Mà Tử Lăng cũng là huynh đệ bằng hữu mà Bạt Phong Hàn này kính mến.”
Ngừng một lát, gã tiếp: “Vì một nữ nhân mà buông bỏ thiên hạ, nghe có vẻ hoang đường quái dị, nhưng lời của Tử Lăng không phải là không có lý, chỉ có như thế mới cho thấy nàng trong lòng ngươi quan trọng đến chừng nào.”
Khấu Trọng ngạc nhiên: “Huynh đang giúp Tử Lăng đó sao?”
Bạt Phong Hàn xua tay: “Ta không nói nữa đâu!”
Khấu Trọng sững người nhìn Bạt Phong Hàn một lát, rồi đưa mắt nhìn xuống chén rượu của mình, đột nhiên bật cười, từ cười nhỏ trở thành cười lớn tiếng.
Đến lượt Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn cũng nhìn nhau, không biết tại sao gã lại cười như vậy.
Khấu Trọng cười đến mức thở hổn hển: “Châm rượu!”
Bạt Phong Hàn vội châm rượu cho gã.
Khấu Trọng đợi rượu đầy, nâng ly đổ ực vào miệng, rồi vui vẻ nói: “Rượu ngon!”
Gã đưa tay kéo vai Từ Tử Lăng, chép miệng than: “Nếu có thể bỏ mọi ân oán với Lý Thế Dân, chiêu này của Tử Lăng đúng là tuyệt diệu, nếu thành công thì đúng là có thể tránh được cục diện nam bắc phân liệt. Ta cũng không cần khổ sai làm hoàng đế, mà vẫn có thể lấy được tấm lòng của Ngọc Trí. Chao ôi, con bà nó, Tử Lăng đang nghĩ tốt cho ta, đúng không?”
Từ Tử Lăng bình tĩnh nói: “Lý Thế Dân và ngươi có thù oán gì không thể gỡ chứ?”
Khấu Trọng hơi ngạc nhiên rồi lộ vẻ suy tư.
Từ Tử Lăng cười khổ: “Giả sử tình huống cứ phát triển như thế này, thì chẳng biết ngày nào thiên hạ mới thái bình? Hoặc là Trung thổ sẽ vĩnh viễn phân liệt, lặp lại cục diện ngũ hồ phân tranh! Nhưng ta biết chỉ cần chúng ta liên kết với Lý Thế Dân, phá vỡ liên minh giữa Kiến Thành với Ma môn, Hiệt Lợi, khiến Lý Thế Dân hiểu được lòng quân và biết cách trị dân sẽ trở thành một vị hoàng đế tốt yêu thương dân lành, thiên hạ lại trở về một mối, đánh lui kẻ ngoại địch, trăm họ sẽ sống trong yên lành. Cân nhắc nặng nhẹ, ta biết rõ dù đã làm khó ngươi, nhưng cũng phải bày tỏ tấc lòng này.”
Khấu Trọng buồn bã gật đầu: “Những lời của Tử Lăng làm ta phải suy nghĩ, nhưng ngươi làm sao đảm bảo Phạm Thanh Huệ có thể thuyết phục được Tống Khuyết? Đã mười năm qua bà không làm được điều này, tại sao hôm nay lại có thể chắc chắn?”
“Bình!”
Khấu Trọng đột nhiên vỗ mạnh xuống bàn, khiến ly tách trên bàn vỡ nát, rượu đổ ra tung tóe, kêu lớn: “Thật không công bằng! Bắt đầu từ cuộc chiến Từ Giảng, chúng ta cố gắng sinh tồn trong tuyệt cảnh, lấy máu để đổi lấy cơ hội, khó khăn lắm mới lấy được thành quả hôm nay, tại sao không phải Lý Thế Dân đầu hàng ta mà ta phải đi theo Lý Thế Dân?”
Từ Tử Lăng bình tĩnh nói: “Ngươi thật muốn làm hoàng đế ư? Lại có thể làm một hoàng đế tốt ư? Phải biết võ công của ngươi và tài thao lược dù có thể thắng được Lý Thế Dân nhưng ngươi có tài kinh bang tế thế như y không?”
Khấu Trọng ngẩn ra nhìn những mảnh vỡ trên bàn, tay phải vẫn án trên bàn, tay còn lại gãi đầu nói: “Câu này của ngươi còn lợi hại hơn cả Thiên Đao của Tống Khuyết. Chao ôi! Tại sao ta cứ nói không lại ngươi? Con bà nó, lão Bạt, huynh nói thế nào đây?”
Bạt Phong Hàn từ tốn nói từng từ một: “Nói thẳng ra, nếu ta là Khấu Trọng, không ai có thể lay động lòng tin của ta, chỉ có một người là ngoại lệ, đó chính là Từ Tử Lăng, bởi vì ta hiểu hắn tuyệt đối không hại Khấu Trọng ngươi. Thực ra làm hoàng đế có gì hay đâu? Đâu bằng ba huynh đệ chúng ta lang thang nơi chân trời góc biển, uống rượu ăn thịt sống vui qua kiếp này. Nói đến cùng, tài trí của Lý Thế Dân dù là đối thủ hay bạn bè cũng đều phải tôn kính!”
Khấu Trọng im lặng không nói, chỉ thấy ánh thần quang trong mắt đại thịnh, gã chạm phải ánh mắt của Từ Tử Lăng, rồi lại cười khổ: “Ngươi đã làm ta động lòng. Có lẽ đây là cách duy nhất để tránh khỏi mối đại họa làm hoàng đế, lại có thể lấy được lòng mỹ nhân, nhất cử lưỡng đắc. Ai! Con bà nó! Ta vẫn không thể gật đầu chấp thuận ngươi được, vì trước hết phải hỏi ý Tống Khuyết lão nhân gia cái đã, nếu không ta làm sao ăn nói với y. Thứ đến ta phải bàn bạc điều kiện với tên Lý tiểu tử đó, nếu đàm phán bất thành tất phải khai chiến. Tử Lăng chớ trách ta không lập tức đáp ứng ngươi, bởi vì ta cần phải gánh vác trách nhiệm dẫn dắt Thiếu Soái quân.”
Từ Tử Lăng nhìn gã trong khoảnh khắc, gật đầu đồng ý: “Hai chuyện này rất hợp lý, ta chẳng những không trách ngươi mà còn rất cảm động, bởi vì ngươi đã không làm ta thất vọng.”
Bạt Phong Hàn xen vào: “Cứ quyết định như thế. Đêm nay đừng nói chuyện mất hứng nữa, chúng ta chỉ uống rượu thôi. Bây giờ Thiếu soái ngươi hãy kể lại cuộc chiến giữa Tống Khuyết và Ninh Đạo Kỳ, đừng bỏ sót một chi tiết nào cho ta.”
Tiếng bước chân vang lên, Hầu Hi Bạch hớn hở bưng thức nhắm lên bàn. Y không biết vận mệnh thiên hạ đã thay đổi sau cuộc trò chuyện của ba gã.
ĐẠI ĐƯỜNG SONG LONG TRUYỆN
Hồi 710
Đạp Phá Thiết Hài
“Cạch”
Năm cái ly chạm vào nhau, mọi người đều ngửa cổ uống cạn, không khí trở nên sôi nổi.
Mặt bàn được dọn dẹp sạch sẽ y như thành Đơn Dương sau cuộc chiến, bây giờ bày trên bàn là chín món nhắm của Lôi Cửu Chỉ, hương sắc vị đều có đủ, khiến bất cứ ai ăn cũng phải tấm tắc khen ngon.
Khấu Trọng kể lại hiệp nghị giữa gã với Từ Tử Lăng cho Hầu Hi Bạch và Lôi Cửu Chỉ. Cả hai đều thấy bất ngờ, không nghĩ rằng một biến hóa trời long đất lở lại vừa xảy ra.
Hầu Hi Bạch là người đầu tiên khen hay, nói: “Biết chuyện này Phi Huyên sẽ rất an ủi, Tú Ninh công chúa cũng thế, nhưng bất quá tâm trạng của nàng sẽ rất phức tạp, chắc là mừng mừng tủi tủi!”
Mọi người đều hiểu ý của y, nếu Khấu Trọng giúp Lý Thế Dân đoạt ngôi vua, chắc chắn phe họ Lý sẽ xảy ra tình trạng chia cách không thể tránh khỏi. Mặt bàn tay là thịt, lưng bàn tay cũng là thịt, Lý Tú Ninh sẽ cảm thấy khó xử vô cùng.
Lôi Cửu Chỉ trầm ngâm: “Chuyện này cần phải xử lý cẩn thận, nếu không lòng quân bất ổn, sẽ dẫn đến nội loạn. Cho nên trước tiên phải giữ bí mật, chỉ cho một số người biết mà thôi.”
Khấu Trọng vô cùng ngạc nhiên: “Trước tiên là lão Bạt, sau đó là các người, đều đứng về phía Tử Lăng, điều này thật khiến ta khó hiểu! Thật đau đầu!”
Bạt Phong Hàn hai mắt lộ sát cơ, nhưng lời lẽ vẫn vô cùng bình tĩnh: “Ta chỉ nói cho bản thân mình thôi, bởi vì kẻ địch chân chính của ta không phải là Lý Thế Dân mà là Tất Huyền, Hiệt Lợi, Triệu Đức Ngôn, là những kẻ cầm đầu Kim Lang tộc. Nói như vậy Thiếu soái có hiểu chưa?”
Lôi Cửu Chỉ cười quái dị nói thêm: “Tiểu Trọng có lẽ là thống soái vô địch thiên hạ nhưng không phải là người có thể làm hoàng đế. Ý ta không phải nói ngươi thiếu tài hoặc không có lòng yêu dân mà là thiếu tính nhẫn nại. Ngươi chẳng khác gì một kẻ lãng tử, giam ngươi ở chốn thâm cung như vậy thì thật tàn nhẫn, giống như là tước đoạt hết tự do, cũng như bản năng thiên tính của ngươi!”
Khấu Trọng cười khổ thừa nhận: “Ở trong chăn mới biết chăn có rận, mỗi lần ta ngồi đối diện với đống công văn to như núi trên bàn mà ta phải phê duyệt đông tây là ta đã thấy đầu mình nhức nhối, muốn hoá thành khí mà bay đi. Hà! Cách hình dung này thật sát thực.”
Hầu Hi Bạch cả cười: “Bọn ta lấy làm vui mừng vì ngươi có thể thoát khỏi biển khổ, thử hỏi nhờ ngôi hoàng đế ngươi có thể khiến tiểu thư họ Tống hồi tâm chuyển ý. Quyết định của ngươi có thể làm cho tiểu thư họ Tống quên đi những hành động sai trái lúc trước, ta nghĩ đây là một phương pháp vĩ đại nhất.”
Bạt Phong Hàn vui vẻ cười: “Đa Tình Công Tử mãi không thoát khỏi bản sắc đa tình, cả lý do cũng đều có liên quan đến mỹ nhân.”
Lôi Cửu Chỉ quay sang Từ Tử Lăng: “Chưa có cơ hội hỏi ngươi, chẳng phải Hiển Hạc cùng ngươi đến Trường An sao? Tại sao bây giờ chỉ có mình ngươi quay về?”
Hầu Hi Bạch nhíu mày: “Chắc chắn Hiển Hạc vẫn chưa tìm được muội muội. Cách treo thưởng này không có tí hiệu quả nào, thật là khó hiểu.”
Từ Tử Lăng chép miệng than: “Việc này nói ra thì dài, cũng may mà Kỷ Thiến đúng là một trong ba thiếu nữ may mắn thoát khỏi ma trảo của Hương gia năm xưa, trong đó có một người tên là Âm Tiểu Kỷ. Họ lưu lạc đến Tương Dương, được một danh kỹ thanh lâu tốt bụng thu nhận. Tiểu Kỷ cải dạng nam trang kiếm ăn đầu đường xó chợ, Kỷ Thiến và một người khác tên là Tiểu Ưu được dạy dỗ trở thành tài nữ bán nghệ không bán thân.”
Khấu Trọng chấn động: “Tương Dương!”
Mọi người vẫn không để ý.
Lôi Cửu Chỉ cả mừng nói: “Chính vì nơi bên ngoài thế lực của chúng ta nên không thể treo giải thưởng để tìm kiếm. Hiển Hạc mà có thể gặp lại muội tử thì bọn ta thật sự vui mừng.”
Từ Tử Lăng cười khổ: “Kỷ Thiến đích thân đưa Hiển Hạc đến Tương Dương tìm muội tử, nhưng mấy ngày trước vẫn chưa quay về Lương Đô. Ta thật là lo lắng cho họ, Lỗ thúc đã sai người đến Tương Dương dò thám tin tức của họ.”
Bạt Phong Hàn thấy vẻ khác lạ của Khấu Trọng trước nhất, trầm giọng hỏi: “Thiếu soái nghĩ gì vậy?”
Khấu Trọng nhìn xa xăm phía trước, từng chữ từng chữ nói: “Tương Dương…... tiểu hỗn nhi... chân dài... Tiểu Hạc Nhi....”
“Bình!”
Bạt Phong Hàn vỗ chưởng xuống bàn, may mà đã kìm lực lại chứ nếu không tất cả chén đĩa trên bàn lại vỡ thêm lần nữa, rồi y lướt ra cửa sổ nhanh như chớp, quát xuống bên dưới: “Thiếu soái có lệnh, lập tức đưa Tiểu Hạc Nhi hỏa tốc đến gặp.”
Khấu Trọng vỗ trán thở hào hển kêu: “Ta thật ngốc! Rõ ràng tên là Tiểu Hạc Nhi, lại có đôi chân thon dài, cớ gì ta chẳng hỏi một câu?”
Từ Tử Lăng, Lôi Cửu Chỉ và Hầu Hi Bạch đưa mắt nhìn nhau, lờ mờ nghĩ đến mối quan hệ của Âm Tiểu Kỷ.
Bạt Phong Hàn lui lại chỗ ngồi, cười lớn: “Đây gọi là đi mòn gót sắt tìm chẳng ra, đến nay kiếm được chẳng tốn sức người. Tiểu Hạc Nhi chính là Âm Tiểu Kỷ, cô ta vẫn ở bên cạnh chúng ta, cho nên Âm huynh đến Tương Dương khổ công tìm kiếm mà lại tìm không ra.”
Khấu Trọng vỗ trán nói: “Ta đã sớm có cảm giác đối với Tiểu Hạc Nhi, chỉ là việc quân bận rộn, không có thời gian suy nghĩ kỹ. Con bà nó, hy vọng Âm tiểu tử người tốt gặp may, có thể quay về gặp lại Tiểu Kỷ thì ta cũng cảm ơn trời đất.”
Từ Tử Lăng vội đứng dậy: “Hỏi cho rõ rồi mới nói, sợ nhất là hiểu lầm một trận.”
Bạt Phong Hàn lắc đầu: “Làm gì có chuyện trùng hợp như thế?”
Hầu Hi Bạch mơ hồ đáp: “Đây chính là điều đáng sợ của thời loạn, thật ít ai may mắn hơn huynh muội họ.”
Khấu Trọng gật gù đồng ý: “Đêm nay cho đến thời khắc này, ta vẫn chân thành hy vọng Lý Thế Dân có thể chấp nhận điều kiện giảng hòa của ta, còn nhạc phụ tương lai của ta thì hy vọng Phàn Thanh Huệ thuyết phục được. Trăm họ đã khổ lắm rồi!”
Lôi Cửu Chỉ châm rượu cho mọi người, cười dài: “Hôm nay đúng là có chuyện vui. Các huynh đệ! Chúng ta cạn thêm một chén nào!”
Mọi người nâng ly mời nhau.
Giọng nói trong trẻo của Tiểu Hạc Nhi vang lên ở cầu thang lên lầu: “Ta không chịu đâu! Đại ca ở đây uống rượu mà lại không có phần của người ta với Huyền Thứ công tử!”
Khấu Trọng đứng dậy kêu lớn: “Tiểu Kỷ đến đây mau! Sao lại không có phần của muội!”
Tiểu Hạc Nhi vẫn mặc đồ nam nhi, cùng Vương Huyền Thứ xuất hiện nơi cầu thang, nghe thế thì ngừng bước, sắc mặt trắng bệt, nhìn Khấu Trọng ngơ ngác, môi mấp máy, thốt không nên lời.
Vương Huyền Thứ đứng ở phía sau, sững ra hỏi: “Hạc Nhi muội làm sao vậy? Sao không đến bái kiến Từ đại ca?”
Tiểu Hạc Nhi đứng nhìn Khấu Trọng chằm chặp, run giọng hỏi: “Đại ca gọi muội là gì?”
Từ Tử Lăng như bỏ được tảng đá trong lòng, sự thật đã hiện ra rành rành trước mắt. Gã nhìn Âm Tiểu Kỷ chăm chăm, ngẩn người ra chứ cũng chẳng biết nói gì.
Bạt Phong Hàn chép miệng than dài: “Tiểu Kỷ! Muội có biết lệnh huynh Âm Hiển Hạc tìm muội khổ biết chừng nào không!”
Tiểu Hạc Nhi giật mình, nước mắt tuôn trào, lắc đầu không ngừng: “Không thể! Không thể được!”
Khấu Trọng bước đến bên nàng, ôm nàng vào lòng, dịu dàng nói: “Thân huynh của muội không hề bị kẻ ác đánh chết, hắn đã kết huynh đệ với chúng ta, bây giờ đang cùng một người tỷ muội khác của muội đến Tương Dương tìm muội.”
Tiểu Hạc Nhi không kìm được nữa, khóc òa lên.
Khấu Trọng để mặc cho nàng phát tiết những đau buồn, bước đến bên Từ Tử Lăng nói: “Xem ra chúng ta phải đi Tương Dương một chuyến, tìm không ra Tiểu Kỷ, Hiển Hạc chắc chắn sẽ không chịu trở về Lương Đô.”
Từ Tử Lăng nói: “Để ta dắt Tiểu Kỷ đi với Huyền Thứ, còn ngươi thì đến Lương Đô gặp Lỗ thúc. Chúng ta chia nhau hành sự.”
Khấu Trọng hiểu ra, biết rằng Từ Tử Lăng giải quyết xong công việc ở Tương Dương sẽ đi gặp Lý Thế Dân.
Khấu Trọng nắm tay Từ Tử Lăng, nhìn gã thật sâu rồi nói như chém đinh chặt sắt: “Chỉ cần là chuyện có lợi cho bá tánh thiên hạ, dù có trăm vạn người theo ta, những chuyện khác cũng là phụ thôi. Huynh đệ, Khấu Trọng sẽ không làm ngươi thất vọng!”
Bạt Phong Hàn reo lên: “Hảo hán tử!”
Khấu Trọng trao Tiểu Hạc Nhi cho Vương Huyền Thứ, rồi quay đầu cười khổ nói: “Anh hùng hảo hán chân chính mới là Lăng thiếu gia, ta chỉ là kẻ ăn theo thôi. A! Tiểu Hạc Nhi đừng khóc nữa, phải cười mới đúng chứ. Muội làm ta cũng muốn khóc một trận đây.”
Tiểu Hạc Nhi dựa vào lòng Vương Huyền Thứ, nghẹn ngào nói: “Muội phải đi gặp đại ca!”
Lôi Cửu Chỉ hai mắt đỏ ửng, đứng dậy nói lớn: “Ta đi với muội!”
Hầu Hi Bạch cũng đứng phắt dậy: “Ta cũng muốn đi!”
Khấu Trọng cười ha hả: “Chúng ta lập tức hành động! Từ khi làm con mẹ nó Thiếu soái cái gì đó, ta chưa bao giờ được nhẹ lòng như hôm nay. Tử Lăng chẳng những là hảo huynh đệ của ta mà còn là phụ mẫu tái sinh của ta! Hà! Phụ mẫu tái sinh! Con bà nó!”
Từ Tử Lăng xúc động trong lòng, gã chưa bao giờ thích lối ăn nói khoa trương của Khấu Trọng, nhưng lúc này lại cảm thấy vô cùng thân thuộc. Gã tưởng rằng thuyết phục Khấu Trọng khó như lên trời, nhưng thực sự dễ đến bất ngờ.
Tình huynh đệ của bọn gã có thể vượt qua bất cứ sự khảo nghiệm nào.
Cơ hội hòa bình thống nhất cuối cùng đã xuất hiện vào thời điểm trước khi trận chiến ác liệt nổ ra.
o0o
Trong thư phòng của Thiếu Soái phủ tại Lương Đô, Tống Lỗ im lặng nghe Khấu Trọng thuật lại tường tận những biến đổi trời long đất lở đó.
Khấu Trọng kết luận: “Nếu như thành công, thì đây là phương pháp duy nhất giúp Trung thổ đánh lui ngoại địch, tránh được họa lớn, đạt đến hòa bình thống nhất.”
Tống Lỗ lắc đầu: “Ta hiểu tính cách của đại ca, không ai có thể lay động lòng tin của y. Trước đây Phàn Thanh Huệ đã không làm được, thì hôm nay cũng thế. Dù cho ngươi với Tử Lăng đứng về phía Lý Thế Dân, chúng ta vẫn có đủ thực lực để chiếm cả miền nam. Kiếp nạn chia cắt của miền nam là khó có thể tránh khỏi.”
Khấu Trọng biến sắc hỏi: “Vậy phải làm sao đây?”
Tống Lỗ than rằng: “Ngươi đã quên một nhân vật quan trọng, đó chính là Tống Trí. Y có địa vị chỉ kém đại ca, lại cũng có lòng thống nhất thiên hạ như đại ca, điều khác là đại ca có ý tưởng cao xa, còn nhị ca thì muốn Tống gia trở thành Trung nguyên đệ nhất thế phiệt, cho nên chuyện thuyết phục y cũng đã rất khó khăn.”
Khấu Trọng cảm thấy nhức đầu, hỏi tiếp: “Vậy ý kiến riêng của Lỗ thúc như thế nào?”
Tống Lỗ im lặng trong chốc lát, rồi cười khổ: “Nói thẳng ra, ta cũng đồng tình cách làm của ngươi, ngươi đặt hạnh phúc của trăm họ trong thiên hạ cao hơn sự vinh nhục của cá nhân. Ngọc Trí đã nghĩ đến cục diện hôm nay cho nên vẫn phản đối Tống gia xen vào các cuộc phân tranh.”
Khấu Trọng cảm động vì sự cổ vũ của y, vui mừng: “Lỗ thúc không xem ta là người lâm trận rút lui, đó là một khích lệ rất lớn đối với ta.”
Tống Lỗ gượng cười: “Không ai dám xem ngươi là kẻ hèn nhát đâu. Dẫu cho không đồng ý với quyết định này cũng phải thừa nhận Khấu Trọng ngươi là hảo hán đại nhân đại dũng. Nếu là người khác ở vị trí của ngươi thì đã không dễ dàng bỏ bá nghiệp hoàng đế như ngươi.”
Khấu Trọng nhăn mặt đáp: “Kẻ đại nhân đại dũng mới là Tử Lăng. Ta chỉ cho rằng lời hắn nói có lý thôi. Ồ! Xin thỉnh giáo Lỗ thúc, đặc biệt là trong tình huống hiện nay, ta tuyệt không thể chọc giận phiệt chủ.”
Tống Lỗ trầm giọng: “Về mặt này thì ngươi cứ yên tâm, đại ca có chấp nhận hay không thì cũng không nổi nóng mà ảnh hưởng đến việc trị thương đâu. Trước tiên phải tìm cách thuyết phục đại ca, về mặt nhị ca ta sẽ cố gắng, lâu nay bọn ta cũng rất thân thiết nhau.”
Khấu Trọng cả mừng: “Không ngờ Lỗ thúc chịu đứng về phía của ta, giúp ta càng thêm tin tưởng.”
Tống Lỗ cười khổ: “Điều quan trọng vẫn là ở đại ca, chúng ta phải cẩn thận sắp xếp mới được. Trước tiên tạm hoãn tấn công Tương Dương, quay sang dốc hết toàn lực quét sạch bọn Lâm Sĩ Hồng. Điều quân của Tống gia về miền nam tác chiến, còn ở miền Bắc thì chỉ còn lại Thiếu Soái quân của ngươi. Chỉ cần đại ca chấp nhận, tất cả đều y kế hành sự, rồi sẽ giúp Lý Thế Dân bước lên ngôi hoàng đế.”
Khấu Trọng đau đầu hỏi: “Nếu bây giờ nói thẳng với phiệt chủ ý nghĩ này, Lỗ thúc đoán phiệt chủ sẽ có phản ứng gì?”
Tống Lỗ đáp: “Khả năng lớn nhất là y sẽ đuổi ngươi ra khỏi Lĩnh Nam, sau đó ra lệnh cho nhị ca toàn lực củng cố miền nam, chiếm lĩnh toàn bộ các thành trì quan trọng ở hai bờ Đại Giang.”
Khấu Trọng lắc đầu: “Tình huống này sẽ không xảy ra, ta là người có trách nhiệm lại trọng nghĩa khí, nếu phiệt chủ không đồng ý, ta vẫn theo lời y cầm quân đánh lên phía bắc, cố hết sức hoàn thành đại nghiệp thống nhất thiên hạ, đó là một trong những điều kiện tiên quyết mà ta nói với Tử Lăng.”
Tống Lỗ nhíu mày suy nghĩ, đề nghị rằng: “Sao ngươi không tìm Ngọc Trí thương lượng, có lẽ nó sẽ có biện pháp.”
Khấu Trọng liền phần chấn tinh thần: “Ta lập tức đi Lĩnh Nam.”
Tống Lỗ cười vang: “Đừng nóng vội chứ. Ngươi phải ở đây chủ trì đại cuộc, hãy để Ngọc Trí đến gặp ngươi. Ta sẽ lập tức viết một bức thư, bảo nó đến Lương Đô. Ngươi nghĩ sao?”
Khấu Trọng thấy lòng lâng lâng, vội tán thành: “Tất cả cứ làm theo lời Lỗ thúc, ta còn muốn gởi lời thăm lão gia, để người biết tình hình hiện nay công hãm Tương Dương đã diễn tiến rất tốt.”
Tống Lỗ hạ giọng: “Chuyện này rất quan trọng, tạm thời không nên để lộ bất cứ tiếng tăm gì, nhưng giấu hết mọi người cũng không ổn. Cho nên ngươi có thể chọn vài đại tướng tâm phúc, dò hỏi ý kiến của họ để cho họ không có cảm giác bị bán đứng.”
Khấu Trọng gật đầu thụ giáo: “Ta hiểu rồi!”
Tống Lỗ nở nụ cười hiền từ: “Từ ngày gặp hai tên tiểu tử nhà ngươi, ta và Tiểu Thanh đều thấy có duyên, các ngươi thật không làm bọn ta thất vọng. Cho đến hôm nay vẫn mang một trái tim nóng bỏng. Yên tâm đi! Lỗ thúc sẽ toàn lực giúp đỡ các ngươi!”
Lúc này thân binh vào báo, Sư Phi Huyên cầu kiến.
Khấu Trọng và Tống Lỗ đưa mắt nhìn nhau, rồi Khấu Trọng mới đứng bật dậy, chạy nhanh ra gặp Sư Phi Huyên.
o0o
Từ Tử Lăng, Lôi Cửu Chỉ, Hầu Hi Bạch, Tiểu Hạc Nhi, Vương Huyền Thứ cải trang thành khách thương, dùng văn kiện chính thức nạp thuế vào thành Tương Dương.
Tiểu Hạc Nhi cứ lặng lặng lẽ lẽ chẳng còn vẻ hoạt bát tràn đầy sức sống như bình thường. Mọi người nhìn vào đôi mắt của nàng đều hiểu rằng chỉ khi gặp được Âm Hiển Hạc, nàng mới bình thường trở lại.
Tiểu Hạc Nhi đi trước dẫn đường, Vương Huyền Thứ đi bên cạnh, bọn ba người Từ Tử Lăng đi phía sau.
Đột nhiên tiếng vó ngựa vang lên như sấm, một toán quân Đường rẽ ngoặt vào con phố lớn, kẻ đi đầu là Tần Thúc Bảo. Từ Tử Lăng muốn tránh cũng không kịp, đã bị y nhìn thấy.
Từ Tử Lăng lộ vẻ ngạc nhiên không hiểu. Lôi Cửu Chỉ kéo tay gã ở phía sau Tiểu Hạc Nhi hỏi: “Y là ai vậy?”
Từ Tử Lăng đáp rằng: “Tần Thúc Bảo!”
Hầu Hi Bạch ở bên cạnh mỉm cười: “Y vạch mặt ngươi, rõ ràng y rất trọng nghĩa khí!”
Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Y là người công tư phân minh. Ta nghĩ rằng có lẽ Lý Thế Dân đã cho y biết hiệp định của chúng ta.”
Lôi Cửu Chỉ gật đầu đồng ý: “Có lý lắm. Lý Thế Dân sai y trấn giữ Tương Dương là kế hoạch sáng suốt, để mọi người khỏi hiểu lầm và tránh xung đột.”
Từ Tử Lăng thấy rất an ủi, bởi vì mối quan hệ giữa đôi bên đã thay đổi. Những tướng lãnh vốn có quan hệ mật thiết với bọn gã đều đã được Lý Thế Dân trọng dụng lại.
Lôi Cửu Chỉ kéo gã ngừng lại: “Vào đây đi!”
Từ Tử Lăng nhìn sang con phố đối diện, chỉ thấy có một mình Vương Huyền Thứ đứng ngoài cửa một tòa thanh lâu có treo bảng “Thanh Lệ Uyển.”
Lúc này, thanh lâu vẫn chưa mở cửa, chỉ có người quen như Tiểu Hạc Nhi mới có thể tùy tiện ra vào.
Tình hình Tương Dương không còn như lúc trước, trên đường người xe thưa thớt, có thể thấy được dưới bóng đen của chiến tranh, đa số dân cư đều di tản sang nơi khác để tránh họa.
Một lúc sau Tiểu Hạc Nhi đi ra một mình, rồi cùng Vương Huyền Thứ đến bên cạnh họ, nghẹn ngào nói: “Đã hơn mười ngày Tiểu Ưu không về thanh lâu, chắc chắn là đại ca có chuyện rồi!”
Nói rồi nàng bật khóc òa lên khiến người đi đường cũng phải quay sang nhìn.
Cả bốn gã nam nhân chỉ biết đứng đó lúng ta lúng túng.
Lôi Cửu Chỉ vội an ủi: “Đừng khóc! Bình tĩnh đã nào! Nhà của Tiểu Ưu ở đâu?”
Tiểu Hạc Nhi mắt ngấn lệ chỉ tay về hướng thành nam.
Mọi người đều thở phào, vì nếu nhà của Tiểu Ưu ở trong thanh lâu thì rất không ổn. Bây giờ nàng không trở về, có lẽ có thể là đang ở nhà.
Đương nhiên không ai trách Tiểu Hạc Nhi, bởi vì họ hiểu tâm trạng của nàng.
Tiểu Hạc Nhi không đợi ai lên tiếng đã đi trước dẫn đường. Băng qua những đường lớn ngõ nhỏ, rồi đến một căn nhà ở thành nam. Căn nhà tuy không lớn nhưng có thể nhận thấy Tiểu Ưu sống khá tốt.
“Cốc! Cốc!”
Vương Huyền Thứ gõ cửa.
Tiếng bước chân vang lên, một ả nha hoàn đi ra mở cửa.
Ả tiểu nha hoàn vừa mở cửa liền thấy trước mặt có một đám đông người, đang hơi ngạc nhiên, chợt ánh mắt ả dừng lại ở Tiểu Hạc Nhi, vẻ ngạc nhiên liền biến thành vui mừng, vội kêu lớn: “Tiểu thư! Cám ơn trời đất! Hạc Nhi tiểu thư đã về rồi! Tiểu thư đừng khóc nữa!”