Ðề tài: Mây mù thế kỷ
View Single Post
  #9  
Old 05-20-2004, 05:18 AM
thuylam's Avatar
thuylam thuylam is offline
Senior Member
 
Tham gia ngày: Mar 2004
Nơi Cư Ngụ: Alameda Ca
Bài gởi: 3,579
Default

:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ

Phần 2



Hiện nay có người chủ trương giữ lá cờ vàng ba sọc đỏ có người nói nên giữ cờ đỏ sao vàng và cũng có người cho rằng nên bỏ cả hai lá cờ đó đi. Thế còn ý kiến của ông?

Đây cũng là vấn đề tôi đã suy nghĩ. ở mỗi nơi có những ý kiến khác nhau. ở Mỹ, ở úc tôi nghe thấy có một số ý kiến, ở châu Âu cũng có những ý kiến này, ý kiến khác về lá cờ. Trong số những anh em gọi là "người Việt Đông Âu[24] cũng có người có ý kiến về hai lá cờ nói trên. Trong người Việt "quốc gia", có người cho rằng, hiện nay việc chống cộng là quan trọng nhất, có chống cộng thì mới có thể cứu vãn được tình thế của đất nước. Lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của cộng sản, vậy thì phải bỏ lá cờ mang tính chất cộng sản đó đi và dùng lá cờ của quốc gia là lá cờ vàng ba sọc đỏ để tập họp lực lượng, làm phương tiện tiêu biểu. Chúng ta biết nguồn gốc lá cờ này từ xa xưa của các thời hoàng triều gọi là lá cờ vàng "long tinh". Sau thời kì Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), xuất hiện lá cờ "quẻ ly". Có người giải thích là sau khi thực dân Pháp "trao trả nền độc lập" cho vua Bảo Đại năm 1948, người ta lấy lại cờ "quẻ ly" nhưng nối liền sọc đỏ ở giữa thành ba sọc đỏ trên nền màu vàng, làm quốc kỳ của Việt nam Cộng hòa. Còn cờ đỏ sao vàng, có người nói đó là "lá cờ do bà Nguyễn Thị Minh Khai đưa ra theo mẫu lá cờ của Nga-sô" từ cuộc khởi nghĩa ở Nam bộ vào năm 1940, sau đó mặt trận Việt Minh lấy lá cờ đó làm lá cờ của mình, rồi nó đã được chấp nhận trong Cách mạng tháng Tám và trở thành quốc kỳ của nước Việt nam Dân chủ Cộng hòa (sau khi thống nhất đất nước đổi thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt nam). Tôi thấy lá cờ đỏ sao vàng đã có một thời kì oanh liệt. Đó là thời kì khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kì kháng chiến chống Pháp và trước đó còn tiêu biểu cho cả cuộc khởi nghĩa Nam bộ năm 1940... Nó có cả một quá trình lịch sử hào hùng và đi cùng với nó là bài quốc ca có tựa đề Tiến quân ca.[25] Nhiều người cho rằng, cần phải giữ lá cờ đỏ sao vàng vì nó tiêu biểu cho một thời kì lịch sử, được Quốc hội của nước Việt nam chấp nhận và được công nhận ở Liên hiệp quốc, là lá cờ chính thức làm lễ chào cờ khi đón các nguyên thủ quốc gia và thay mặt đất nước Việt nam trên trường quốc tế.

Cho đến nay, ngay một số người Việt "quốc gia" đã nghĩ đến một lá cờ khác. Họ không công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là "quốc kỳ" nữa, với lý do nó tiêu biểu cho một thời kì, một chế độ tham nhũng do thực dân, đế quốc dựng lên. Một số người quốc gia còn nói với tôi là không thể chấp nhận cờ vàng ba sọc đỏ, vì nó đại diện cho sự thối nát, cho sự thất trận, bất lực trong cuộc chiến đấu giữ miền Nam khỏi lọt vào tay cộng sản, đến nỗi họ phải bỏ đất nước ra đi.

Một số bạn từ trong nước cho biết đã thử thăm dò thì đồng bào trong nước rất ít ai còn nghĩ gì đến lá cờ vàng ba sọc đỏ, vì nhiều nguyên nhân. Số người ở miền Bắc không còn ai nghĩ gì đến lá cờ ấy; số người ở miền Nam một số còn nghĩ đến, nhưng với ít nhiều chua xót, bực bội. Nhưng ở ngoài nước có người lại nói, bao giờ cũng phải có sự tập hợp dưới một lá cờ nào đấy, nếu không thì mất hết ý nghĩa của việc tập hợp ấy. Cũng có người khác cho rằng, hiện nay hãy cứ để tạm thế đã không thể công nhận cả cờ vàng ba sọc đỏ lẫn cờ đỏ sao vàng. Và nên gác các bất đồng sang một bên, khi cuộc thảo luận về lá cờ chưa ngã ngũ, đến khi nào có điều kiện sẽ tiến hành trưng cầu dân ý, duy trì lá cờ này hay lá cờ kia, hoặc nghĩ đến một lá cờ mới. Cũng có người đề nghị nên sớm có một lá cờ mới gồm có các màu: màu xanh nước biển tượng trưng cho biển cả, màu xanh lá cây tượng trưng cho núi rừng và màu vàng - màu truyền thống của dân tộc Việt nam - tượng trưng cho đất đai, lãnh thổ. Có người đề nghị nên dùng màu xanh lá cây, màu vàng và màu đỏ. Tôi nghĩ, đấy là những ý kiến tự do, không ai có quyền cấm đoán, được nêu ra để tham khảo. Theo tôi, hiện nay không nên áp đặt một lá cờ nào. Chúng ta không nên sa lầy vào vấn đề này, không nên chia rẽ vì một lá cờ vốn mang tính hình thức nhiều hơn. Theo tôi, trong lúc này không nhất thiết phải treo, phải chào một lá cờ nào trong các cuộc họp của cộng đồng. Làm như thế vô hình chung là áp đặt đối với những người có suy nghĩ khác. Không nên vì lá cờ mà bài bác lẫn nhau, chụp mũ cho nhau, khó chịu với nhau, chia rẻ, xa lánh nhau... Tôi biết rằng ý kiến này rất khó chấp nhận với nhiều người, vì đã thành thói quen, tập quán việc treo cờ, chào cờ... Không có thì như thiếu một điều gì hệ trọng... Tôi mạnh dạn nói lên điều mà rất đông đảo người trong nước, kể cả các chiến sĩ dân chủ, cũng có ý kiến như thế. Tôi cũng hiểu rằng một ý kiến hợp lý có khi mất nhiều thời gian mới thuyết phục được số đông.

Ông có biết ông đụng đến một vốn đề hết sức nóng bỏng và phức tạp không?

Có chứ. Đây là vấn đề rất gai góc. Vì liên quan đến danh dự, sỹ diện con người, đoàn thể... Vì người ta từng chết và có thể dấn thân vào chỗ chết vì một lá cờ, do tính tiêu biểu và thiêng liêng của lá cờ ấy.

Là quân nhân, chúng ta đều thấu hiểu điều ấy. Là quân nhân chúng ta từng tuyên thệ dưới lá cờ mà ai cũng cho là chứa đựng hồn thiêng của Tổ quốc cô đọng lịch sử đấu tranh của dân tộc, đánh dấu chủ quyền của đất nước. Với đơn vị chiến đấu, lá cờ đánh dấu lãnh thổ quốc gia; cờ cắm ở đâu, đánh dấu cuộc chiến đấu đạt kết quả bảo vệ hoặc giành lại đất đai, quyền làm chủ đến đó, sau biết bao hy sinh, mồ hôi, xương máu của đồng đội. Tôi không ngại đề cập vấn đề này vì hiểu rõ chiều sâu ý nghĩa của nó. Nhất là vì vấn đề này có liên quan đến cuộc đấu tranh cho dân chủ hiện nay của nhân dân ta, ở trong và ở ngoài nước. Không nên vì nó là vấn đề gai góc mà tránh né cấm ky. Chúng ta nên trao đổi, đối thoại vấn đề này một cách ngay thắng, cởi mở, tỉnh táo và bình tĩnh. Không nên nóng nảy, tự ái, mất bình tĩnh, đi đến cãi nhau một cách giận dữ, làm sống dậy những thù hận cũ, chỉ làm cho xa cách nhau thêm.

Cần có thái độ có văn hóa, nghĩa là lắng nghe nhau, ngẫm nghĩ cân nhắc cho chín mặt này, mặt khác, tự đặt mình vào chỗ đứng của người đối thoại để hiểu hết ý họ, rồi tự mình tìm ra lẽ phải. Trong khi đối thoại, tranh luận, cần tự tin, tự trọng, lại cần tôn trọng người khác và phục thiện, cái gì đúng thì chấp nhận; lại cần biết kiên nhẫn, biết đợi chờ nhau để suy nghĩ thêm với thời gian.

Thái độ xử sự có văn hóa như thế là biểu hiện của một con người trưởng thành, có nếp sống có văn hóa, xứng đáng với dân tộc Việt nam nghìn năm văn hiến.

Tôi không chấp nhận lá cờ đỏ sao vàng. Thế mà ở một số nơi công cộng bên này, trong sách báo, phản ảnh, trên ti-vi nhìn thấy lá cờ ấy là tôi dị ứng, khó chịu, nên làm thế nào? Tôi rất hiểu tình hình như thế. Vì ở trụ sở Liên Hiệp Quốc, ở quảng trường quốc tế giữa thành phố New York, tôi cũng nhiều lần thấy những lá cờ đỏ sao vàng rất lớn. Trên từ điển, bách khoa toàn thư, sách địa lý, lịch sử cũng vậy. Vì đối với quốc tế, lá cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ chính thức của nước Việt nam thống nhất hiện nay. Những người không thích lá cờ ấy, không chấp nhận lá cờ ấy cũng nên có cách nhìn thực tế, không nên bực bội đến mức có những việc làm như hạ cờ, hủy bỏ... là những việc làm không cần thiết, có thể bị coi là vi phạm trật tự xã hội của đời sống công cộng. Tôi có dự một số cuộc họp, cuộc biểu tình, trong đó, những anh chị em người Việt Đông Âu (từ miền Bắc sang) cùng chung tiến hành với anh chị em "quốc gia" (phần lớn ở miền Nam sang), tại đó người ta chào cờ vàng ba sọc đỏ và đi diễn hành với lá cờ ấy, vậy nên có thái độ thế nào? Tôi không còn ưa gì lá cờ đỏ sao vàng, nhưng lá cờ vàng ba sọc chưa chinh phục được tôi.

ở Berlin, Hanover và Francfurt (Đức) cũng như ở Praha (Tiệp) tôi đã nghe một số anh chị em sinh viên và lao động hỏi như thế. Anh em không còn ưa gì lá cờ đỏ sao vàng, nhưng cũng không cảm thấy ưa thích lá cờ ba sọc đỏ. Theo tôi, mỗi người cần có lập trường, thái độ của mình, theo suy nghĩ, lập luận, tình cảm của riêng mình, theo cái quyền tự do của mỗi người, đồng thời tôn trọng tự do lựa chọn của người khác. Đó là thái độ có văn hóa. Trong khi cần phối hợp, đoàn kết để đấu tranh giành quyền tự do dân chủ trong cả nước thì không nên chỉ vì sự lựa chọn lá cờ mà chia rẽ, đố kỵ, xa cách nhau. Có nên đứng dậy chào cờ hay không thì cũng tùy nếu không thông suốt, có thể lẳng lặng nhẹ nhàng đi ra ngoài; hoặc có thể đứng dậy. Không ai có thể coi việc đứng dậy là một cam kết, một thái độ công nhận lá cờ nào đó; vì đấy còn có thể hiểu là một thái độ ngoại giao đơn thuần, để tỏ lòng tôn trọng đối với người xung quanh theo kiểu lịch sự xã giao mà thôi.

Kẻ thù cũ nay ta có thể bắt tay. Đất nước thù địch cũ nay ta có thể kết bạn. Huống chi đó là lá cờ của một bộ phận của dân tộc ta, dưới lá cờ ấy từng có những con người có lý tưởng, có tư cách hy sinh cho những giá trị mà nó từng tiêu biểu, thì việc làm như thế không có gì có thể làm cho ta ân hận hay e ngại cả.

Tháng 4-1998 này, một số bài báo ở hải ngoại lại nói đến "tháng 4 đen", đến "ngày quốc hận, đến hận "mất nước"... Ông có đồng ý với những danh từ ấy không?

Tôi có cách nhìn khác. Tôi vẫn cho ngày 30-5-1975 là một ngày vui, với cái ý nghĩa là chấm dứt chiến tranh, không còn quân đội nước ngoài nào trên đất Việt nam và đất nước ta được thống nhất liền một giải. Sau 30 năm chiến tranh với biết bao hy sinh, tổn thất, tàn phá, hòa bình trở lại chẳng lẽ không phải là niềm vui lớn sao?

Sự lãnh đạo sai lầm ngay sau đó đã triệt tiêu dần niềm vui trong tôi, với những sự kiện bị thảm liền trong 10 năm sau đó. Các trại giam chật cứng, tới tấp mọc lên; xóa bỏ giai cấp tư sản; cưỡng bức hợp tác hóa gấp; cả nước đói khổ; chiếm đóng lâu dài Cam Bốt; đất nước bị cấm vận... Làm sao vui được nữa.

Khá nhiều bạn tôi, là người phía "quốc gia" cũng nói rằng: nếu như sau 30-4-1975 họ thực hiện hòa giải hòa hợp như họ từng hứa, không có trả thù, mọi người là anh em với nhau, tận dụng sức lực nhân dân mọi nơi, mọi gia đình để xây dựng đất nước thì chúng tôi có thể chấp nhận họ, sẵn sàng bỏ qua quá khứ để sắn tay xây dựng hiện tại, hướng tới tương lai đẹp cho mọi người, mọi nhà.

Những bất hạnh liên miên xảy ra từ sau 30-4-1975 càng làm cho những ai coi đó là "tháng tư đen", là "ngày quốc hận", là bị "mất nước" thấm thía thêm. Tôi tôn trọng những nỗi đau ấy, cảm thấy đó là nỗi đau của chính mình, nhưng riêng tôi tôi không coi đó là "hận mất nước" vì nước ta còn đó, không ai có thể lấy mất đi được. Đất nước Việt nam, quốc gia Việt nam, dân tộc Việt nam là trường tồn với hồn thiêng của sông núi, lãnh thổ. Tôi tin rằng những bất hạnh do sự lãnh đạo độc đoán, giáo điều, bảo thủ dù kéo dài thêm cũng chỉ là tạm thời, không thể trường tồn được. Chính quyền độc đoán bảo thủ đang trên quá trình rã đám không ai cưỡng lại nổi.

Một số người lên án miền Bắc đã cưỡng chiếm miền Nam, ông có đồng tình với chính kiến ấy không?

Đây là một vấn đề quan trọng trong nhận định về cuộc chiến tranh trên đất nước ta. Nó không đơn giản. Hai năm qua tôi có dự một số cuộc hội thảo khoa họe về chiến tranh do Lầu Năm Góc tổ chức. Vấn đề này cũng được bàn đến, như là một vấn đề của khoa học lịch sử.

Trước hết tôi nói nhận thức của tôi khi còn ở trong nước.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, lẽ ra cả nước đã có tổng tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước. Miền Nam và Pháp, Mỹ đều không muốn thi hành điều khoản ấy vì vào lúc ấy uy tín của chính phủ Kháng chiến ở Hà Nội còn mạnh trong phạm vi cả nước. Ai cũng đoán nếu có bầu cử với kiểm soát quốc tế thì ông Hồ Chí Minh sẽ thắng. Ngay sau đó, chính phủ Ngô Đình Diệm thực hiện các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, với sắc lệnh 10-59, đưa máy chém khắp các vùng để trừng trị lực lượng cộng sản đang ẩn dấu trong dân. Hà Nội gọi đó là cuộc chiến tranh một bên trong các tài liệu tổng kết.

Các chiến dịch tố cộng ở đồng bằng sông Cửu Long, ở khu 5, bắt vợ con những người "cộng sản" (thật ra phần lớn chưa, hoặc không phải cộng sản, chỉ là người kháng chiến chống thực dân Pháp) tù bỏ những người chồng đi tập kết ra Bắc; những người kháng chiến cũ, gia đình họ bị quản thúc, kiểm soát gắt gao, gây nên một không khí rất căng thẳng. Họ bắt buộc phải tự vệ... Có nơi họ tự động đào súng lên lập tổ chức canh gác, chiến đấu để tự bảo vệ. Thế là nổ ra các cuộc chiến đấu do những người kháng chiến cũ nằm vùng chỉ huy, được gọi là các cuộc đồng khởi ở Bắc ái (Nam Tây Nguyên 20-1-1959), ở Trà Bồng (Bình Định tháng 8-1959) và Bến Tre (tháng l-1960).

ở Hà Nội hồi ấy Đảng cộng sản tập trung sức lãnh đạo vào công cuộc sửa sai trong cải cách ruộng đất chống đói, hồi phục kinh tế, chống nạn vỡ đê lớn ở Mai Lâm (bắc Hà Nội), chống phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nên chưa tập trung sức vào tình hình ở miền Nam. Sau khi được tin đồng khởi, ban chấp hành trung ương họp và ra nghị quyết gọi là Nghị Quyết Trung ương 15, nhận định rằng đối phương đã chủ trương dùng bạo lực nên đấu tranh chính trị là không còn phù hợp, phải chuyển sang dùng bạo lực, xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ, bảo vệ và phát triển lực lượng mọi mặt ở miền Nam.

Các cuộc tố cộng, diệt cộng ở miền Nam được tiến hành mạnh mẽ, rộng khắp và quyết liệt hơn. Cuộc chiến đấu vũ trang của cả hai bên đều mở rộng dần, và mỗi bên đều lần lượt có những bước leo thang tương ứng. Tôi nói một vài cột mốc để các bạn trẻ có thể hình dung. Miền Nam đề cao chống Cộng thành quốc sách, phù hợp với chiến lược chung của phương Tây là ngăn chặn phong trào cộng sản bành trướng thêm. Việc khai báo lý lịch, khai báo hộ khẩu, kiểm tra người ở từng gia đình là hết sức chặt chẽ, nghiêm ngặt.

Đại hội 3 đảng cộng sản Việt nam họp vào tháng 9-1960 thành lập Trung ương Cục Miền Nam để lãnh đạo toàn miền Nam. Ngày 20-12-1960 thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt nam. Ngày 15-2-1961 thành lập Quân Giải Phóng Miền Nam, lúc đầu gồm toàn bộ những chiến sĩ, thanh niên thực sự ở miền Nam. Cuối 1961 bắt đầu đưa lực lượng vũ trang tập kết, thuộc các sư đoàn 305, 825, 324... trở về theo từng tốp nhỏ và một số người chỉ huy cấp đại đội, tiểu đoàn...

Tháng 8-1961 ở miền Nam, lập trung đoàn chủ lực đầu tiên tại miền Đông Nam Bộ, trong khi phía Sài Gòn đã có hàng mấy chục trung đoàn chính quy. Sang năm 1962 mới lập chủ lực miền Nam gồm có 2 trung đoàn bộ binh, ngay sau đó ở khu 5 cùng với Tây Nguyện có 3 trung đoàn.

Sau trận ấp Bắc (2-l-1963) ở tỉnh Mỹ Tho lực lượng Quân Giải Phóng phát triển nhanh. Theo thống kê của Bộ Tổng Tham Mưu ở Hà Nội thì vào năm 1959 và 1960 khi Hoa Kỳ đưa vào miền Nam Việt nam 1.800 cố vấn, cán bộ kỹ thuật quân sự thì trong thời gian ấy, miền Bắc đưa vào miền Nam cũng chỉ gần 1.800 người, gần bằng con số ấy. Không thể đưa thêm vì miền Nam chưa đủ sức tiếp thu, vùng giải phóng còn nhỏ, kiểu xôi đỗ, co sở dân chưa rộng. Đến năm 1968, Mỹ đưa vào 4.200 cố vấn và nhân viên kỹ thuật, miền Bắc đưa vào hơn gấp đôi: 8700 người.

Từ cuối 1963, sau khi ông Diệm chết, Tổng Thống Kennedy bị ám sát, miền Bắc mới cho là thời cơ đã thuận để đưa các đơn vị cỡ sư đoàn gồm cả người miền Nam và người miền Bắc vào miền Nam. Đến khi Mỹ đưa vào miền Nam 543 ngàn quân (hơn nửa triệu) vào cuối năm 1967, thì số quân miền Bắc có mặt ở miền Nam (chưa kể đường vận chuyển chiến lược mang tên Hồ Chí Minh) là 21 vạn. Đó là phản ứng của các bên trong từng thời gian một. Vậy là trách nhiệm của cả hai bên, với cách nhìn của mỗi bên gắn bó với một phe trong chiến tranh lạnh, trong cuộc đọ đầu lịch sử giữa hai hệ thống thế giới đối lập. Cả hai bên đều không còn lập trường độc lập tự chủ, đổ lỗi cho nhau... Phía Mỹ và Việt nam Cộng Hòa tố cáo Bắc Việt xâm lược, gây sự trước. Hai phía đều leo thang chống đối nhau. Phía Bắc Việt nam tố cáo do Việt nam Cộng Hòa và Mỹ khởi sự, khủng bố, leo thang trước.

Cho đến mùa xuân 1975 khi chiến tranh sắp kết thúc, số quân các loại (chủ lực, địa phương quân, cảnh sát võ trang, biệt động, hải quân, không quân, bảo an vũ trang:..) của miền Nam có tất cả là 1 triệu 10 vạn quân sĩ. Còn quân Bắc Việt nam chính cống nghĩa là từ Bắc Việt nam đưa vào là 26 vạn cùng với một số quân vốn ở miền Nam (cả du kích vũ trang) là 15 vạn (do tổn thất khá lớn trong những năm 1968, 1969 và 1970 qua ác chiến dịch Phượng Hoàng, Bình Định cấp tốc). Lúc ấy, quân Việt nam Cộng Hòa tuy đông, nhưng phải rải khắp các tỉnh thành, làng xã để phòng thủ, còn quân đội Nhân Dân Việt nam thì có thể tập trung cơ động bằng cơ giới, với tổ chức quân đội cao nhất lên đến cấp quân đoàn (gồm 8 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn thiết giáp) trong khi tổ chức cao nhất của quân đội Việt nam Cộng Hòa là cấp sư đoàn; còn huy động lớn nhất của quân đội Việt nam Cộng Hòa cho một chiến dịch là 1 chiến đoàn (gồm 2 đến 4 sư đoàn) còn của quân đội Nhân Dân là 1 tập đoàn quân (gồm đến 5 quân đoàn, tức là chừng 20 sư đoàn như trong chiến dịch cuối cùng).

Sỹ quan và binh sỹ Việt nam Cộng Hòa chúng tôi vẫn giữ chính kiến là miền Nam bị cộng sản cưỡng chiếm bằng vũ lực, chúng tôi chỉ chiến đấu để tự vệ.

Tôi rất hiểu chính kiến ấy.

Bộ máy chính trị và tuyên truyền của miền Bắc cực lực bác bỏ quan điểm ấy, với lý lẽ rằng: không thể có hai nước Việt nam, chỉ có một nước và tạm thời hai miền. Không thể có chuyện người nước Việt nam xâm lược nước mình. Phía Sài gòn đã vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ chống lại tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, còn mở chiến dịch tố cộng, diệt cộng, tiêu diệt người kháng chiến cũ, lê máy chém khắp miền Nam theo luật 10-59, hò hét lấp sông Bến Hải, rồi còn mời hơn nửa triệu quân Mỹ với hàng chục triệu tấn bom đạn tàn phá đất nước, giết hại dân hai miền.


Trả Lời Với Trích Dẫn