1 sao 2 sao 3 sao 4 sao 5 sao Vote!
Số lần đọc: 115
:::: Bùi Tín ::::
Mây mù thế kỷ
Phần 1
Cách đánh của tên lửa ra sao?
Mắc Na-ma-ra, nguyên bộ trưởng bộ Quốc phòng Mỹ trong thời kì chiến tranh Việt nam, tác giả của "hàng rào điện tử Mắc Na-ma-ra" nổi tiếng.
Có thể nói tỉ lệ máy bay Mỹ bị tên lửa ở miền Bắc hạ là cao nhất, chừng 60%. Đó là tên lửa SAM-2 và nhất là SAM-3 do Liên xô chế tạo. Chúng tôi đã sơn phủ màu xanh và nâu loang lổ trên màu bạc vốn có để ngụy trang. Tên lửa thường được đặt trong ụ công sự, bố trí trên trận địa theo hình tam giác, cách nhau hai, ba kilômét, mỗi trận địa có một xe chỉ huy nối liền với ra-đa. Cái khó nhất của đơn vị tên lửa là máy bay Mỹ thả rất nhiều bó kim loại trải dài và rộng trên trời, làm thành những mục tiêu giả lấp lánh trên màn ra-đa. Rất khó phân biệt chấm nào là của máy bay, chấm nào là của các giải nhiễu. Các chiến sĩ ra-đa, đặc biệt là chiến sĩ tìm mục tiêu trên màn huỳnh quang phải rất nhạy cảm, tích lũy kinh nghiệm lâu ngày, tinh nhạy để "tóm" được mục tiêu thật giữa những chấm hỗn loạn ấy. Họ luyện tập rất kỳ công đôi mắt phân biệt thật-giả mà mắt thường khó làm được. Lại phải hiểu quy luật của đường bay của đối phương, đội hình bay của những F-105, F-4, B-52... độ giãn cách, tốc độ... để sớm nhận ra và bám chặt mục tiêu. Cũng phải hiểu đường bay của máy bay Mỹ là thường phóng đến các điểm chuẩn để đi vào hoặc đi ra vùng châu thổ sông Hồng, vào cửa ngõ thủ đô Hà Nội, chẳng hạn như bay đến điểm chuẩn là :Dnh núi Tam đảo, Ba Vì, hoặc ngã ba sông Lô và sông Thao, cửa sông Hồng... theo lời khai của phi công Mỹ bị bắt. Các chiến sĩ ra-đa trẻ quen nhận ra mục tiêu, có nhiều kinh nghiệm là rất hiếm, rất quý, được coi là "mì chính" của đơn vị, được cho ăn gan lợn, dầu cá (để làm cho mắt tinh), được uống hạt "khải tử" (thuốc Bắc) cũng để sáng mắt.
Khi mục tiêu đã nhận ra rồi thì thời cơ bấm nút phóng tên lửa là quan trọng nhất. Thường hai tên lửa được phóng liên tiếp, nối đuôi nhau bay về hướng mục tiêu. Góc độ tiếp cận máy bay hẹp thì tên lửa sẽ lao theo luồng nhiệt của máy bay phun ra phía sau để tới gần mục tiêu và nổ.
Tên lửa cũng tác chiến theo cách đánh "du kích", tránh trận địa cố định, luôn di động, kết hợp tên lửa thật và trận địa tên lửa giả, tên lửa nghi binh, mang tên lửa đi phục kích, đón lõng máy bay Mỹ ở nơi nào đó theo phán đoán của chỉ huy.
Ông còn nhớ vụ Mỹ định giải thoát tù binh Mỹ ở Sơn Tây như thế nào không?
Tôi nhớ vụ đó xảy ra vào quãng tháng 11 năm 1972. Lúc bấy giờ có một trại giam phi công Mỹ ở miền Bắc đặt tại Sơn Tây. Để thu thập tài liệu cho cuốn sách đang viết là cuốn "Người hùng Mỹ :Dng mặt", tôi đã phỏng vấn gần hai trăm tù binh Mỹ, hầu hết là những phi công lái máy bay.
Trước đó hai tháng, vào tháng 9.1972, tôi lên trại giam ở Sơn Tây và đã ở trại đó hai ngày. Trong trại có khoảng hơn sáu chục phi công Mỹ và tôi còn nhớ có hai người da màu, trong đó còn có một người Mỹ gốc Nhật Bản. Trận giải cứu tù binh Mỹ không thành, khi trong ba máy bay trực thăng của toán giải cứu đổ bộ xuống, có một chiếc hạ xuống sân trại giam bị vướng vào một cây bàng, nên không cất cánh lên được, đành phải bỏ lại. Ngày hôm sau tôi đã lên trại, tận mắt chứng kiến nơi bị biệt kích Mỹ tập kích. Lý do thất bại của phía Mỹ rất đơn giản là số tù binh ở trại đã được chuyển đi trước đó hơn hai tuần. Sự di chuyển này hoàn toàn nằm trong kế hoạch đã định sẵn, không phải do ý định giải cứu của Mỹ bị lộ. Qua tìm hiểu từ các tài liệu của Mỹ, tôi được biết tình báo trên mặt đất của họ rất yếu. Phía Mỹ chỉ dựa vào ảnh chụp được qua máy bay do thám của họ để phân tích, phán đoán ở vùng đó có một trại giam và có người Mỹ ở đó và họ đã quyết định giải cứu. Kế hoạch giải cứu được tổ chức, chuẩn bị rất công phu. Họ đắp sa bàn qua bản đồ khu vực Sơn Tây có trại giam, lập mô hình giống hệt với thực địa, nơi đổ quân giải cứu, gồm có lô cốt, nhà cửa, trại giam. Các đơn vị biệt kích của Mỹ đã được huấn luyện đặc biệt trên một hòn đảo bí mật. Vào lúc nửa đêm, máy bay lên thẳng của Mỹ chở quân biệt kích đi giải cứu xuất phát từ Thái Lan và bay khá cao rồi hạ xuống khu vực đổ bộ. Toán giải cứu hoạt động trong khu vực trại giam khoảng 40 phút. Do không có tình báo mặt đất nắm sát tình hình, nên trong thời gian chuẩn bị tập kích số tù binh đã được chuyển đi mà phía Mỹ vẫn không hay biết. Cuộc giải cứu không thành công, phải bỏ lại một máy bay lên thẳng và bắt mang theo ba, bốn bộ đội địa phương để khai thác tài liệu.
Qua sự kiện nói trên, chứng tỏ người Mỹ không tổ chức được mạng lưới tình báo mặt đất có hiệu quả trong thời kì chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, để cung cấp những tin tức xác thực, giúp cho những hành động quân sự của Mỹ đạt kết quả như họ mong muốn. Kế hoạch tổ chức tập kích giải cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây là một bài học thấm thía đối với Mỹ.
Cuộc chiến của Mỹ ớ Việt nam là bật khả thắng (unwinnable). Một số người nhận định như thế. Ngay cả ông Mắc Na-ma-ra[6] và học giả Sten-/ây Kanốp cũng vậy. Còn ông?
Có điểm tôi đồng ý và cũng có điểm tôi không đồng ý!
Cuộc chiến tranh ở Việt nam đối với Mỹ không thể giành được chiến thắng, vì trước hết là về mặt chính trị. Chính quyền ở miền Nam do Pháp dựng lên trong một cuộc chiến tranh chiếm lại thuộc địa: nhân dân cả hai miền Bắc và Nam lúc đầu đều tham gia cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bảo Đại rồi Ngô Đình Diệm đều là vua, quan thời thuộc địa. Mỹ đã thế chân Pháp sau khi nhận gánh phần chính chi phí của cuộc chiến tranh của Pháp. Do đó chính quyền Ngô Đình Diệm rất khó có danh nghĩa "yêu nước", "cách mạng , "dân tộc" đối với cả nhân dân ở hai miền Nam, Bắc. Chỗ yếu rất cơ bản và không thể khắc phục được này của chính quyền Diệm và của cả Mỹ đã được chính quyền cộng sản ở miền Bắc ra sức khai thác và đã khai thác có hiệu quả, trong khi chính họ cố che giấu bản chất độc đoán và phụ thuộc vào quốc tế cộng sản của họ. Họ giương cao được ngọn cờ "yêu nước", "cách mạng", "dân tộc", chính nghĩa.
Tính chất gia đình trị, quan liêu, phong kiến của chính quyền Ngô Đình Diệm và các cuộc đảo chính của các tướng của quân đội miền Nam (đều do thực dân Pháp đào tạo và đưa lên) chỉ làm cho chỗ yếu ấy càng yếu hơn mà thôi. Cũng cần hiểu rõ một điều trong điều kiện lịch sử hồi đó ở miền Nam Việt nam, không có một tổ chức chính trị, đảng phái nào có đủ thế lực và uy tín để Mỹ có thể dựa vào. Việt nam quốc dân đảng, Đại Việt, Duy Dân... vốn đã yếu lại đã bị đảng cộng sản thanh trừng, các đảng phái như Cao Đài, Hòa Hảo cũng chỉ có thế lực ở một số địa phương...
Như vậy, ông không đồng ý với nhận định Mỹ không thể thắng ớ điểm nào?
Tôi cho rằng, Mỹ không thể giành chiến thắng.
Nhưng như thế không có nghĩa rằng Mỹ đã thua sạch trơn như vừa qua là điều tất yếu? Mỹ có thể tránh được thất bại hoàn toàn, nặng nề như đã thua hồi 1973 và 1975.
Việc Mỹ thất bại trắng tay, không còn gì tại chỗ và chế độ miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện không phải là định mệnh? Theo tôi, Mỹ không thể thắng, nhưng cũng có thể không thất bại như đã thấy. Các ông đã để lỡ mất nhiều thời cơ có thể thắng điểm trong một số keo vật - như các đô vật thường nói - và có thể duy trì một thế cò cưa, dây dưa, bất phân thắng bại, từ đó dẫn đến một cuộc thương lượng để đạt được một thỏa hiệp, nhân nhượng nhau (compromis). Bây giờ chiến tranh đã đi hẳn vào dĩ vãng hơn hai mươi năm, một trang sử mới đã lật qua, hai nước đã bình thường hóa và có thể kết bạn. Với tình bạn, tôi có thể nói điều mà khi còn chiến tranh không thể nói ra giữa hai đối thủ
Theo ông, bằng cách nào Mỹ có thể tránh được những thất bại như của họ ở Việt nam cách đây 20 năm.
Trước hết, với tình bạn, tôi có thể nói thật về cảm tưởng của tôi và một số người chỉ huy cấp cao Quân đội Nhân dân Việt nam về cung cách chỉ huy của phía Mỹ. Các bạn đánh trận theo kiểu nhà giàu. Do đó, các bạn quen phác ra kế hoạch quân sự với hàng chục đến hàng trăm ngàn quân lính, hàng vạn, chục vạn tấn bom, hàng chục vạn quả đại bác, tốn kém hàng trăm triệu, hàng tỷ đô-la, và từ đó tin rằng nắm chắc phần thắng.
Chúng tôi là con nhà nghèo, phải dè xẻn lực lượng, tính toán chi li từng khẩu súng, từng viên đạn, từng cân lương thực... Do đó, chúng tôi luôn nghĩ cách làm sao để có thể đạt hiệu quả cao nhất với ít tổn thất nhất, dùng ít lực lượng nhất, sử dụng ít súng đạn nhất. Chúng tôi phải nghĩ ra cách đánh đặc công, công kích bằng những cách đánh đặc biệt, đánh hiểm. Đánh trúng huyệt, trúng điểm trọng yếu hoặc yếu nhất của đối phương là cách đánh hiểm, không cần nhiều sức mạnh, vũ khí ghê gớm. Chỉ cần điểm đúng huyệt là đối thủ có thể bị tê, liệt, cứng đờ, không còn khả năng phản ứng và lăn kềnh, bất tỉnh. Nói theo cách nói có hình ảnh, chúng tôi buộc đối phương cùng đánh chén, nhưng giấu kỹ dao, nĩa, muỗng, chỉ dùng toàn đũa để tận dụng thế mạnh riêng của mình.
Liệu người Mỹ chúng tôi có thể đánh hiểm không?
Có chứ! Tôi đã đi qua đường mòn Hồ Chí Minh một số lần, từ khi nó mới chỉ là đường mòn, với các đoàn vận tải vác vai, mang gùi sau lưng. Đi qua đường số 9 phải trải bao tải để bước lên, không để lại một dấu vết nào. Về sau thành con đường có thể dùng xe đạp thồ và đẩy bằng tay. Mỗi đơn vị thồ có từ 50 đến 200 xe đạp, cứ sáng thồ đi, chiều đạp xe trở về trạm. Sau năm 1965, con đường đó trở thành đường vận tải cơ giới với nhiều nhánh chằng chịt ngang dọc, với một lực lượng quân đội có quân số bằng hai quân đoàn, có đủ loại binh chủng: vận tải ô tô, xưởng sửa chữa xe, trạm cấp xăng dầu, kho gạo, kho thuốc, kho vũ khí, công binh sửa chữa cầu đường, cả những đơn vị thanh niên xung phong nam nữ đông đảo, rồi pháo binh, cao xạ, quân y với các trạm xá, bệnh viện dã chiến; các đơn vị thông tin, ra-đa, các đơn vị phá mìn, bảo vệ đường vận chuyển...
Tôi nhiều lần gặp tướng Đồng Sỹ Nguyên, tư lệnh đơn vị 559 (thành lập từ tháng 5.1959) là đơn vị chuyên lo việc vận chuyển và bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh. Năm 1972 ông là đại tá, tư lệnh 559. Hai năm sau, ngày 22.12.1974 (nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân) ông được thăng vượt cấp lên trung tướng. Sau này ông vào Bộ Chính trị, giữ chức phó thủ tướng từ năm 1964 đến 1968. Ông Nguyên rất lo quân Mỹ có thể đánh vào đường Hồ Chí Minh. Ông nói với tôi: "Nó đánh bằng bom, không ngại gì, bằng B-52 cũng không đáng lo! Lo nhất là nó dùng bộ binh hoặc quân đổ bộ đường không bằng dù, bằng trực thăng chiếm hẳn một đoạn. Cả mạng lưới tổ chức rất phức tạp sẽ bị đảo lộn. Vận chuyển chắc chắn sẽ bị đình trệ, vì đây là đường độc đạo!
Các bạn tôi, các đại tá và thiếu tướng ở Bộ tổng tham mưu cũng lo lắng nói với tôi hồi năm 1965, 1966: "Nó mà dùng hai hoặc ba sư đoàn Mỹ và Sài Gòn đánh chiếm một đoạn đường Hồ Chí Minh thì gay, gay lắm! Các cụ (nghĩa là những người lãnh đạo cao nhất) lo nhất ở điểm này!"
Đường Hồ Chí Minh đi qua phần lớn vùng rừng núi không có dân hoặc rất thưa dân, có đoạn nằm trên lãnh thổ Việt nam, có đoạn ở đất Lào, đất Căm-pu-chia, nhưng không có cột mốc đánh dấu. Đến tận năm 1970, có cuộc hành quân Lam Sơn 719 vùng Sê-pôn (Tchépone), sát miền Bắc, thì tình thế quân sự đã khác hắn. Mỹ đã rút nhiều quân ra khỏi miền Nam, quân đội miền Bắc đã lớn mạnh hẳn lên.
Vậy mà trong suốt một thời gian dài, từ năm 1964 đến năm 1969, bộ binh Mỹ và quân đội Sài Gòn vẫn không hề dùng bộ binh đánh vào đường vận chuyển chiến lược. Họ chỉ ném bom, thả chất hóa học, tung thám báo tới khu vực đó để thăm dò. Theo tôi, đánh hiểm là đánh vào đường vận chuyển chiến lược, cái cuống nhau (ombilical) nuôi dưỡng cuộc chiến đấu của toàn dân miền Nam. Hồi năm 1965, mỗi ngày cứ đưa được 50 tấn vũ khí đạn dược qua đường mòn Hồ Chí Minh vào miền Nam là đạt yêu cầu. Nếu đưa được 100 tấn hay nhiều hơn là vượt mức, dưới 50 tấn là đáng lo. Đánh vào đường mòn đó là đánh vào dạ dày và là đánh đường độc đạo duy nhất từ Bắc vào Nam. Chỉ chiếm một đoạn thôi, một quãng từ 50 đến 80 cây số, không cần phải chiếm cả đoạn đường dài 800 cây số, cũng đủ làm đảo lộn việc vận chuyển hằng mấy tháng? Không cần dùng quân đông như trong chiến dịch Gian-xơn Xi-ti hay trong chiến dịch Xê-đa Phô tới ba, bốn chục ngàn quân Mỹ. Chỉ cần một phần mười số quân ấy là đủ. Đánh vào đường mòn là đánh hiểm, vì quân của đối phương tập trung xung quanh khu vực đường mòn khá đông, nhưng phần lớn lại là các đơn vị quân hậu cần, giữ kho, sửa đường, vận tải, không phải là những đơn vị quen chiến đấu.
Có điều thật khó hiểu là, tại sao quân Mỹ đã đánh vào Căm-pu-chia bằng bộ binh Mỹ tháng 5.1970, mà họ lại không đánh vào một đoạn nào đó của đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam nói trên!
Đánh vào đường mòn Hồ Chí Minh còn gọi là đánh hiểm, vì ở đó hầu như không có dân chắc chắn dư luận thế giới và dư luận Mỹ sẽ không phản ứng gay gắt như đánh sang Căm-pu-chia hay đánh vào vùng đồng bằng sông Hồng, Hà Nội, Hải Phòng... mà hiệu quả quân sự sẽ lớn, sâu rộng về cả thời gian lẫn không gian.
Ngoài ra, phía Mỹ còn có thể đánh hiểm như thế nào nữa?
Có chứ!
Hồi năm 1962 và đầu năm 1963, khi tôi đang ở Vinh, Quân khu 4 giao cho chúng tôi tuyển lựa, huấn luyện quân sự và chính trị những cán bộ quân sự chuẩn bị được đưa vào miền Nam. Lúc ấy, chúng tôi chỉ tuyển chọn từng người một, chủ yếu là từ các đơn vị người miền Nam tập kết ra miền Bắc sau hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 và đưa họ trở lại miền Nam với số lượng thấp, mỗi đợt độ vài chục người. Chúng tôi đưa họ vào ít vì lo rằng nếu đưa đơn vị lớn vào, Sài Gòn sẽ trả đũa và dùng đơn vị lớn đánh ra miền Bắc. Sau khi các đơn vị lớn của Mỹ đổ vào miền Nam, Quân khu 4 được lệnh chuẩn bị, đề phòng quân Mỹ đổ bộ lên miền Bắc, mà trước tiên là khu vực thuộc Quân khu ở phía nam sông Gianh. Tất cả các huyện trong khu vực ấy đều được chuẩn bị. Tự vệ, dân quân đều diễn tập chống quân đổ bộ bằng đường biển và đường không. Các bãi trống đều được cắm chông tre và chông sắt để chống quân nhảy dù, các bờ biển cũng được cắm chông. Hàng năm, Quân khu 4 thường tổ chức diễn tập vào mùa thu. Cứ năm này diễn tập thực binh (có quân của ba sư đoàn và lữ đoàn đóng ở vùng giới tuyến, các trung đoàn bộ đội địa phương của các tỉnh, các tiểu đoàn của các huyện và dân quân các xã tham gia), thì năm sau lại tổ chức diễn tập sở chỉ huy (không có thực binh), dành riêng cho các cơ quan chỉ huy. Bao giờ đề tài diễn tập cũng là chống quân đổ bộ và quân nhảy dù từ miền Nam, từ năm 1963 có thêm đề tài chống quân Mỹ cùng với quân đội Sài Gòn đổ bộ ở phía nam sông Gianh và nhảy dù chiếm các vùng sát giới tuyến như Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình...
Các viên tướng ở Bộ tổng tham mưu từ Hà Nội vào kiểm tra cuộc diễn tập lớn đều cho rằng tình huống đề ra rất sát với thực tế, vì khi miền Bắc đã đưa từng trung đoàn và từ năm 1964 từng sư đoàn vào miền Nam, thì quân Sài Gòn và sau đó quân Mỹ có thể "đáp lại" cũng ở cỡ tương đương. Họ sẽ cho từng sư đoàn đổ bộ hay nhảy dù xuống Quân khu 4, đặc biệt là vùng cán xoong[7] hẹp, bị kẹp giữa một bên là biển, một bên là núi. Hạm đội 7 của Mỹ đang chực sẵn ngoài khơi biển Đông sẽ tham chiến.
Sau này, vào năm 1977, khi tôi đi trong đoàn quân sự do đại tướng Võ Nguyên Giáp[8] dẫn đầu sang Liên xô, Ba Lan, Đông Đức, Hungari, Trung Quốc... tôi có dịp hỏi tướng Giáp về thời kỳ chiến tranh Việt-Mỹ. Trong đoàn còn có thượng tướng Lê Trọng Tấn, Tổng tham mưu trưởng. Tướng Giáp nhắc lại: hồi năm 1964, 1965, ông rất lo là quân Mỹ và quân miền Nam đổ bộ và nhảy dù chiếm một vùng nhỏ ở Quân khu 4. Rất lo vì lúc ấy Liên xô chưa chắc đã có hành động gì, vì ở quá xa. Còn Trung Quốc thì đã nói rõ là họ bất động! Họ bị cuộc chiến tranh Triều Tiên năm 1951-1953 làm nản chí, e ngại. "Chống Mỹ viện Triều" đã quá tốn kém, nay lại "chống Mỹ viện Việt" thì không còn sức nữa? Ông Giáp lo vì Mỹ rất dễ hành động như vậy, không cần nhiều quân, chỉ một, hai sư đoàn với một phần hạm đội 7 và không quân ở miền Nam, ở Thái Lan là thừa sức làm việc ấy. Họ sẽ làm cho miền Bắc khó duy trì được sự chi viện miền Nam, mà phải lo dành lực lượng để bảo vệ miền Bắc, căn cứ hậu phương lớn của cả nước. May quá, điều ấy đã không xảy ra? "Nếu không thì chiều hướng chiến tranh sẽ không thuận lợi như đã xảy ra!", ông mỉm cười kết luận như vậy.
Cũng vào dịp ấy, tôi phỏng vấn đùa tướng Lê Trọng Tấn: "Nếu anh là tướng Mỹ hồi chiến tranh, anh sẽ chỉ huy ra sao, với hành động quân sự gì?
Tướng Tấn vốn ít nói, thâm trầm, nổi tiếng là nhiều kinh nghiệm, có năng khiếu chi huy, đã trả lời tôi:
"Họ có phương tiện cơ động lớn, nhưng họ không có cách đánh hiểm. Tôi mà là chỉ huy quân đội Mỹ, thì hồi năm 1964, 1965, tôi sẽ tiến công chiếm một đoạn đường Hồ Chí Minh, đồng thời đổ bộ lên một vùng nhỏ ở Đồng Hới, Quảng Bình. Có thể làm hai cuộc tiến công đó trước sau một thời gian, cũng có thể đồng thời, thế mới là đánh hiểm. Tất nhiên họ không thể thắng, nhưng họ có thể tránh khôi thua đậm như vừa qua!"
Tôi nhớ lại hồi ấy, nghị quyết của Quân ủy Trung ương có một điểm nói rõ: Phải cố gắng kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, ngăn chặn chiến tranh lan rộng, buộc địch phải thua trên chiến trường miền Nam, không để cho chiến tranh trên bộ lan ra miền Bắc, hạn chế cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và kéo địch phải xuống thang ớ cả hai miền.
Đọc những tài liệu, hồi ký của Mỹ, gặp các nhà chính trị, quân sự Mỹ, tôi thấy họ hiểu đối phương còn thiếu sâu sắc, có thể nói là hời hợt?
Có học giả Mỹ cho rằng, Hoa Kỳ thua ở Việt nam vì đã không dám động đến Lào đang bị ràng buộc bởi Hiệp định năm 1962 về Lào. Do đó Hoa Kỳ đã không dám tiến công thẳng vào đường mòn Hồ Chí Minh, mà phần quan trọng nhất của nó nằm trên đất Lào?
Theo tôi biết, đây là chính kiến của ông Noóc-man Han-na (Norman B. Hannah), năm 1962 là phó vụ trưởng Vụ Đông Nam á, Bộ Ngoại giao Mỹ, sau đó là cố vấn chính trị cho Tư lệnh quân Mỹ ở Thái Bình dương (Political advisor to the Commander in Chief pacific, CINCPAC). Ông Noóc-man Han-na từng viết cuốn sách có nhan đề: "Chìa khóa của thất bại: Lào và cuộc chiến tranh Việt nam" (The key of failure: Lao and the Vietnam war -Madison Books, 1987). Hen-ry Kít-xinh-giơ[9] trong cuốn hồi ký "Nền ngoại giao" (Diplomacy), xuất bản năm 1996, đã kể lại rằng Ken-nơ-đi (J. Kennedy)[10] khi nhậm chức tổng thống đã theo ý kiến người tiền nhiệm của mình là Ai-xen-hao (Eisenhower) rất quan tâm đến nước Lào. Ken-nơ-đi cho rằng nền độc lập và trung lập của Lào là cần thiết cho sự ổn định của Đông Nam á. Sau thất bại ở vịnh Con lợn (thuộc Cuba), Ken-nơ-đi có ý định dùng thương lượng để bảo vệ nền trung lập của Lào. Cuộc thương lượng về Lào kéo dài hơn một năm và kết thúc với một hiệp định quốc tế vào tháng 7.1962. Tất cả cố vấn và nhân viên quân sự nước ngoài Mỹ, Thái Lan, Việt nam đều phải rút khỏi Lào dưới sự kiểm soát quốc tế. Mỹ và Việt nam đều cam kết tôn trọng quy chế trung lập của Lào.
Tôi đã nhiều lần đi qua các vùng Thượng Lào và Hạ Lào, ở cả phía tây Trường Sơn lẫn đông Trường Sơn. Dân Lào ở vùng này rất thưa thớt và lạc hậu. Họ không dùng tiền, mà trao đổi vật phẩm lấy những hàng hóa mà họ cần, như mang gà đổi lấy kim chỉ, mật ong đổi lấy khăn mặt, ngô, thịt rừng đổi lấy thuốc men v.v... Nhân dân ở đây không hiểu gì về tình hình trong khu vực và trên thế giới. Họ không có giao lưu với bên ngoài nơi họ ở. Khái niệm nước Lào ở họ cũng rất mơ hồ.
Lính Bắc Việt nam chúng tôi có thể sống trong rừng Lào rộng bạt ngàn mà ít ai biết. Nhưng khi quân Mỹ đến Lào thì cả thế giới biết ngay qua các hệ thống truyền tin, săn tin của phương Tây.
Sau Hiệp định về Lào, chúng tôi tuyên bố phía Việt nam đã thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, rút hết quân về nước. Thực ra, lúc đó quân chiến đấu Việt nam chỉ rút một ít để tượng trưng. Núi rừng bạt ngàn, không có doanh trại, chỉ đóng quân trong rừng rậm, làm sao mà biết được! Có lúc quân đội Việt nam ở Lào vẫn còn đến ba, bốn chục nghìn, hàng chục tiểu đoàn và nhiều trung đoàn. Các đơn vị ấy hoạt động ở Sầm Nưa, Phong Xa Lỳ, Xiêng Khoảng, quanh Viên Chăn, Luang Pha Bang, Khăm Muộn, Bô-lô-ven... Bằng chứng sự về có mặt của bộ đội Việt nam? Tuy có, nhưng Hà Nội phủ nhận hết. Hà Nội luôn lập luận: lừa được đối phương, giấu được dư luận quốc tế là thành tích, vì tuy lừa dối, nhưng đã là vì cách mạng, vì chính nghĩa thì không cần phải phân vân, băn khoăn.
Theo ông, Hoa Kỳ có thể có một cách tác chiến khác với những cách đã làm không?
Tôi nghĩ, chiến tranh đã kết thúc, không thể làm lại những gì đã qua. Không thể như đánh bài, thua ván này, xóa đi chơi ván khác. Chiến tranh là một thử thách ghê gớm cho toàn xã hội về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và truyền thông trong khu vực và trên lĩnh vực quốc tế.
Do điều kiện lịch sử, tôi đã ở một phía của chiến tranh và phía ấy đã thắng. Dù sau khi chiến thắng, tôi trở thành người đối lập với chế độ chính trị độc đoán của đảng cộng sản, nhưng không vì thế tôi lại đặt ra vấn đề mong muốn chiến tranh kết thúc một cách khác như nó đã kết thúc. Đây là việc đã rồi. Tuy nhiên, có ý kiến của tướng Bruce Palmer trong cuốn "Chiến tranh 25 năm -- vai trò quân sự của nước Mỹ ở Việt nam" do nhà xuất bản Báo chí thuộc trường đại học Kentucky (The University Press of Kentucky) phát hành năm 1984, tôi cho là xác đáng. ở phần cuối cuốn sách, trong các trang 183, 184, 185, tướng Pan-mơ đã có những suy nghĩ độc đáo sâu sắc, hợp lý. Đại thể là:
Quân Mỹ tập trung đại bộ phận ở phía bắc vùng chiến thuật I, sát giới tuyến quân sự tạm thời (khu phi quân sự - demilitarized zone DMZ). Lực lượng đồng minh của Việt nam Cộng Hòa gồm hai sư đoàn Đại Hàn (Nam Triều Tiên) cũng đóng tại đây và mang tên là lực lượng quân sự quốc tế với việc tổ chức phòng thủ vững chắc bằng công sự, hỏa lực pháo binh trải dài từ ven biển lên đến biên giới Lào hoặc khi cần có thể kéo dài sang đất Lào.
- Hải quân Mỹ thường xuyên duy trì sự đe doạ vùng ven biển miền Bắc Việt nam, các đơn vị hải quân và thủy quân lục chiến có thể đổ bộ bất cứ lúc nào vào một số địa phương quan trọng ở miền Bắc, không quân và hải quân Mỹ có thể phong tỏa các hải cảng của miền Bắc.
- Quân đội Việt nam Cộng hòa, được phía Mỹ trang bị và huấn luyện, đảm nhận bảo vệ an ninh lãnh thổ miền Nam Việt nam, một khi có thêm lực lượng quốc tế (gồm Mỹ và đồng minh) hỗ trợ, thì sẽ là cái lá chắn che chở hữu hiệu cho miền Nam ở phía cực Bắc.
- Do vậy, không cần có quân Mỹ tác chiến trên lãnh thổ khác của miền Nam. Quân Mỹ không gây mâu thuẫn với dân sở tại, quân đội Việt nam Cộng hòa cũng không ỷ vào quân Mỹ và có thể tự lực, trưởng thành. Không quân Mỹ không cần ném bom các vùng dân cư ở miền Bắc, gây chấn động dư luận quốc tế và ở hậu phương Mỹ.
- Lực lượng Mỹ ở phía cực Bắc của miền Nam Việt nam ước tính tương đương với bảy sư đoàn vào cuối năm 1966, nỗ lực hậu cần, làm đường quân sự của Mỹ cũng tập trung ở vùng cực Bắc này, không cần xây căn cứ hậu cần quá lớn ở Cam Ranh và ở Long Bình như đã làm, sự có mặt về quân sự của Mỹ ở phía Nam (Nam của vùng chiến thuật I, vùng chiến thuật II, vùng chiến thuật III, vùng chiến thuật IV) sẽ hết sức hạn chế.
Chủ trương này luôn buộc Bắc Việt nam phải dành một đội quân lớn ở miền Bắc để phòng thủ, vì thế sẽ ngăn được quân đội từ Bắc Việt nam thâm nhập với qui mô lớn qua đường mòn Hồ Chí Minh. Nếu Bắc Việt muốn đưa nhiều quân vào miền Nam, họ phải vượt qua được hệ thống phòng thủ đã được thiết lập. Như vậy chi phí chiến tranh đối với Mỹ sẽ thấp hơn nhiều. Số quân Mỹ có mặt ở miền Nam Việt nam sẽ thấp hơn nhiều con số nửa triệu.
- Tác giả cho rằng, với chiến lược lá chắn và can thiệp có lựa chọn và hạn chế như thế, thì thế cân bằng Bắc-Nam có thể được duy trì lâu dài như ở hai miền Bắc-Nam của Triều Tiên và sẽ đưa đến một giải pháp hòa bình thông qua thương lượng trong tương lai.
Sáng kiến "chậm trễ", "vuốt đuôi" của tướng Pan-mơ cho thấy từ đầu nhà cầm quyền Mỹ, giới quân sự cấp cao Mỹ không có lề lối dân chủ, không thảo luận rộng rãi dể tìm ra một quyết định hợp lý nhất. Tôi nghĩ đây là bài học sâu sắc nhất, thích đáng nhất trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ. Mỹ chưa huy động được trí tuệ của nhiều người để có một quyết định tối ưu, chọn ra một phương án hợp lý, khôn ngoan nhất trong nhiều phương án đã được kiến nghị.
Ông có thể cho biết một vài kỷ niệm sâu sắc của ông về con đường vận chuyển chiến lược đó?
Về đường mòn Hồ Chí Minh, tôi đã đi qua vài lần. Kể từ khi nó bắt đầu được xây dựng vào quãng cuối năm 1961, đầu năm 1962 ở tỉnh Bình Trị-Thiên. Lúc đó, người ta chỉ có thể đi bộ vận chuyển bằng gùi thô sơ trên vai. Đặc biệt thanh niên dân tộc người Ka-ho quen gùi từ bé nên họ gùi qua suối, qua cầu hẹp rất nhanh. Sau này con đường được mở rộng, đến năm 1963 người ta có thể đi được bằng xe đạp và tôi cũng có dịp đi qua đó. Năm 1972, tôi lại đi qua đường mòn. Lúc ấy nó đã trở thành con đường vận chuyển bằng xe cơ giới. Tôi có nhiều kỷ niệm về con đường này. Trước hết, việc vượt qua con đường này là hết sức gian khổ, chưa kể đến nguy hiểm do bom đạn của đối phương gây ra bất cứ lúc nào. Khi đi qua đấy, theo chúng tôi biết, binh sĩ có đến mười kiểu chết khác nhau. Chết vì đau ốm bất ngờ giữa đường mà không kịp đưa đi viện, như đau ruột thừa cấp tính. Chết do cây đổ. Chết do bị rắn độc cắn. Chết do bị hổ vồ. Chết do lạc đường. Chết do bị nước lũ cuốn di hoặc do bị đói. Chết do sốt rét ác tính. Chết do bị kiết lỵ mãn tính rồi kiệt sức. Chết do trượt chân khi mưa gió, rơi xuống vực thẳm. Chết do bão, lụt, nước dâng bất ngờ. Chết do qua cầu, cầu gãy, bị nước lũ cuốn. Chết do đất lở, đá đè. Đấy là chưa kể chết do bom, mìn muỗi, mìn dây. Rồi đi bộ. Mỗi ngày đi độ mười ba, mười bốn giờ đồng hồ. Khi đó không muốn mang theo bất cứ cái gì trên người, mà chỉ muốn bỏ lại cho nhẹ, càng nhẹ càng tốt, tính từng gram một. Thậm chí, đồ ăn không để trong hộp, mà dồn vào túi ni-lon cho nhẹ, gồm lương thực, ít đường, ít sữa, ít muối, thịt cá rang thật mặn để ăn dè và để được lâu. Quần áo mặc thật gọn, đủ mức tối thiểu, mỗi người chỉ mang hai bộ để thay đổi, một chiếc võng và một túi thuốc men cần thiết v.v... Cho nên, thường mỗi người có thể mang ba chục cân, có người mang bốn chục cân và bao giờ cũng phải có dự trữ mười cân gạo. Đường mòn không bằng phẳng, thường phải lội suối, leo dốc trong rừng rậm, trên lưng lại đeo nặng nên mỗi người dùng một chiếc gậy chống để đi. Tôi đi có khi ròng rã sáu, bảy tháng trời, có những lúc thịt ăn không hết, do bắn được một hai chú voi. ăn không hết thì cho vào túi ngâm xuống suối cho lạnh để giữ thêm một vài tuần cho những toán đi sau có thể ăn tiếp. Có khi đánh bắt được cá to nặng tới chục cân ở những con suối lớn, có khi bắn được đàn khỉ nhưng lại thiếu gia vị hành tỏi.. để chế biến cho ngon. Đấy là một vài kỷ niệm trên đường mòn Hồ Chí Minh. Tuy gian khổ, nguy hiểm luôn đe dọa, nhưng cũng rất vui. Anh em lính trẻ hát hò, kể chuyện, ghi nhật ký, nghe đài để biết tin tức thời sự. Từng đoàn xe vào ra nhộn nhịp, sống động thôi thúc:
"Xe không kính không phải vì xe không có kính, Bom giật, bom rung, kính vỡ mát rồi..."[11]
Ông có thể cho biết chút " về đường ống dẫn dầu của quân đội Bắc Việt?
Vào cuối năm 1963, ở Bộ Tổng Tham Mưu có cuộc thảo luận về phương án mở rộng, hiện đại hóa đường mòn Hồ Chí Minh - đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam. Có hai quan điểm đối chọi nhau:
- Duy trì đường mòn; chủ yếu là thồ bằng xe đạp và gùi bằng sức người. Trung bình sức người gùi được 60 đến 80 kg, xe đạp thồ được 180 đến 220 kg mỗi chuyến. Theo phương châm kiến tha lâu đầy tổ. Đường hẹp, ẩn trong rừng rậm, tránh được máy bay địch đánh phá. Mở rộng sẽ dễ bị phơi trần, bị đánh phá, cắt đứt.
- Mở rộng, cơ giới hóa, lập thành binh đoàn lớn, tổng hợp, có cao xạ, pháo binh, công binh, vận tải hệ thống kho hàng, trạm sửa chữa và đường ống dẫn dầu. ý kiến này thắng thế, phê phán ý kiến trên là du kích, cò con, bảo thủ, lạc hậu. Được thực hiện từ cuối năm 1968.
Lúc đầu xăng chở bằng thùng phuy lớn, chở bằng xe tải, có nơi thả cho trôi, chảy theo các dòng sông.
Đến 1968, được chở từ Liên xô sang một bộ đường ống dã chiến dài 200 km với hơn 20 máy bơm PNU 35/7 0.
Vùng đầu tiên được đặt là Vinh - Nam Đàn - Linh Cảm (Nghệ Tĩnh). Ngày 22-6-1968, bắt đầu đặt qua sông Lam 500 mét đường ống đầu tiên.
Đoạn đầu tiên dài 42 km từ xã Nam Thanh, vào đến xã Nga Lộc đặt xong và bơm thử có kết quả ngày 10-8-1968. Cuối năm 1968, đường ống được đặt qua đèo Mụ Giạ (qua biên giới Việt-Lào) trên đường số 12.
Đầu năm 1969, đường ống vượt Trường Sơn đến kho Na Tông trên đất Lào cung cấp xăng dầu cho trạm 31 của đường vận chuyển chiến lược Bắc-Nam. Tháng 3-1969 đường ống vươn đến điểm Ka-vat (Mụ Gia - Ka-vat dài 350 km). Từ đó đường ống được kéo dài theo trục đường 18, vượt qua đường số 9 đến Hạ Lào rồi hướng về phía Nam.
Đầu năm 1971 xăng dầu đã có thể chảy từ Vinh vào đến phía nam đường số 6. Đến cuối năm 1972, 65.000 tấn xăng dầu đã được bơm vào Nam; từ tháng 2-1973 (sau hiệp định Paris) đường ống vươn nhanh hơn dọc đường 14, cả phía Đông và phía Tây Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba biên giới.
Tháng 1-1975, đường ống vào đến Búp Răng, rồi đến Lộc Ninh. Thế là đường ống xăng dầu đi từ biên giới Việt Trung vào đến tận Bù Gia Mập ở miền Đông Nam Bộ, chiều dài là 4.900 km (do nhiều đoạn phải đặt quanh co theo địa hình), với 316 trạm vừa bơm vừa đẩy, với 101 kho bể hàn cố định và bể hàn dã chiến, có sức chứa cộng lại là 880.000 mét khối xăng dầu.
Đội ngũ cán bộ, công nhân của binh chủng đường ống dẫn xăng dầu từ 30 người buổi đầu đến đầu năm 1975 lên đến 14 ngàn người, bao gồm 2 trung đoàn công binh, 9 trung đoàn đường ống, phục vụ cho vận tải quân sự thông suốt trong chiến tranh.
Trong thời gian đó, có phương án hành động nào khả dĩ có hiệu quả của phía Mỹ mà ông được biết không?
Tôi đã dự hai cuộc họp có chủ đề "Nhìn lại cuộc chiến tranh Việt nam" tổ chức vào đầu năm 1996 và đầu năm 1997 ở Si-ca-gô (vùng Ken-tích-ny, Cantiglly), do Học viện hải quân Mỹ cùng ủy ban Rô-bớc Mắc Co-mích (The Robert Mc Cormick Tribune Foundation) tổ chức. Tôi có dịp trao đổi ý kiến rất bổ ích với nhiều sĩ quan và chính trị gia của Mỹ, như cựu tổng thống Giê-rôn Pho, đại tướng Oét-mo-len[12], trung tướng Giôn Cát-sman và Ha-rôn Mo, đô đốc Dum-oan (E. Zumwalt), thiếu tướng Xim-mơns (E. Simmons)..., các nhà viết sách, viết báo Đa-vít Hát-man (David Hartman), Pi-tơ Brét-xtrắp (Peter Brestrup), ê-li-da-bét Bếch-cơ (Elizabeth Becker), Ro-bớt Thim-béc (Robert Timberg), Brai-ơn van Đê-mác (Brian van Demark)...
Năm 1997 tôi cũng được mời ghé thăm Trung tâm nghiên cứu xung đột ở Việt nam tại Lúp-bốc (Lubbock), thuộc tiểu bang Tếch-dớt (Texas) và Học viện hải quân Mỹ (US Naval Academy) ở An-na-pâu-lítx (Annapolis), thuộc tiểu bang Me-ry-lan (Maryland).
Trung tướng Giôn Cát-xman, vào tháng 3.1965, sau một thời gian làm cố vấn cho chương trình "bình định,, của Sài Gòn ở đồng bằng sông Cửu Long và trở về Mỹ, ông đã viết một tập tài liệu nhan đề: "Sự yểm trợ từ bên ngoài của Việt Cộng: Phân tích và đề nghị" (External Support of the Viet Cong: an analysis and a proposal) và gửi cho Học viện quốc gia về chiến tranh (National War College). Đó là tập tài liệu nghiên cứu khá sâu sắc về mười bốn cuộc nổi dậy của nhân dân ở nhiều nước, một nửa thất bại và một nửa có kết quả, từ đó rút ra những kinh nghiệm để đề nghị hành động chiến lược ở Việt nam nhằm chiến thắng gồm hai điểm ("A Winning strategy: Block the Ho Chi Minh trai and excute a massive Pacification Proglam"). Một chi tiết đáng chú ý của Cát-xman là không dùng quân chiến đấu Mỹ ở nông thôn miền Nam Việt nam, mà cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh và thực hiện chương trình bình định miền Nam với qui mô lớn. Đến nay ông vẫn còn tiếc rằng chiến lược ấy đã không được thực thi. Tôi cho rằng, kiến nghị của tướng Cát-xman là có cơ sở thực tế. Nó không được chấp nhận hồi ấy có lẽ vẫn do căn bệnh chủ quan, cứ như thế mà làm thêm (incrementalism), do tệ sùng bái vũ khí, hỏa lực của phía Mỹ.
Tôi có nói với tướng Cát-xman rằng, ý kiến của ông là rất đáng chú ý. Chiến tranh là hành động và là phản ứng của hành động, một chuỗi dài các hành động và phản hành động. Nếu phía Mỹ áp dụng kế hoạch Cát-xman thì diễn biến chiến tranh đã có thể khác đi, cũng có thể khác hẳn với năm 1975. Tuy Mỹ khó chiến thắng, nhưng có thể sẽ ở vào thế giằng co, để đi đến một giải pháp chính trị tương xứng.
Trong chiến tranh, những cuộc tiếp xúc cấp cao giữa chính quyền miền Bắc và miền Nam đã diễn ra như thế nào? Đã có khả năng hòa giải và bình thường hóa nào đó giữa hai miền không?
Theo tôi thì không. Vì từ năm 1959, với nghị quyết 9, lãnh đạo đảng cộng sản ở miền Bắc đã theo đuổi con đường bạo lực. Từ năm 1967, con đường chung sống hòa bình giữa các chế độ chính trị khác nhau, do đảng Cộng sản Liên xô đề ra, đều bị lãnh đạo đảng Cộng sản Việt nam coi là hữu khuynh, xét lại, sai lầm đi chệch khỏi chủ nghĩa Mác-Lênin. Đã có một số thăm dò gián tiếp giữa Ngô Đình Nhu, cố vấn của Ngô Đình Diệm với ông Phạm Hùng, lãnh đạo đảng cộng sản ở miền nam hồi năm 1963, hay giữa tướng Nguyễn Khánh, thủ tướng Việt nam Cộng hòa với kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, chủ tịch chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam vào năm 1965... Tôi được biết đó không phải là những ý định rõ ràng, nghiêm chỉnh để hòa giải, để chấm dứt chiến sự.
Hồi ấy ý định của Hà Nội là vận động, lôi kéo thật nhiều trí thức ở Sài Gòn nhằm lập ra lực lượng thứ ba. Họ tiếp cận, tranh thủ được các nhân vật như: luật sư Trịnh Đình Thảo, tiến sĩ Lê Văn Hảo, nhà báo Ngô Công Đức, thượng tọa Thích Đôn Hậu, bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, linh mục Lê Khắc Từ... và khá nhiều nhân vật khác.
Đối với các ông Diệm, Nhu, Thiệu, Kỳ, Khánh, Dương Văn Minh..., theo tôi, chính quyền cộng sản không có ý định nghiêm chỉnh để tiếp xúc và hòa giải. Lãnh đạo đảng cộng sản coi những người ấy là "không thể cải tạo được", là tối nguy hiểm, chỉ có diệt bỏ, lật đổ chứ không thể bắt tay. Họ cũng rất kỵ với những người lãnh đạo các đảng phái chính trị khác như Đại Việt, Việt nam q
|