View Single Post
  #8  
Old 08-04-2009, 11:33 AM
AiHoa's Avatar
AiHoa AiHoa is offline
thích gõ đầu trẻ
 
Tham gia ngày: Feb 2005
Bài gởi: 2,072
Default

Mạc Đĩnh Chi đi sứ (tt)

Một buổi chiều hè, trời nắng như đổ lửa, Mạc Đĩnh Chi và mọi người lúc ấy đi ngang qua một quán nước ven đường. Ông cho mọi người nghỉ lại. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đon đả chào khách. Cạnh đấy không xa có giếng nước trong, trên thành giếng có viết 5 chữ : "Ngân bình, kiện thượng tị ". Thấy lạ, ông hỏi duyên do. Bà cụ chậm rãi kể lại rằng khi xưa có một cô gái bán hàng nước học hành giỏi, chữ nghĩa thông làu. Gần đấy, có một anh học trò muốn ngấp nghé, cứ ngày ngày đi học về, lại vào uống nước tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh:
_ Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa. Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện theo nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây làm gì nữa.


Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân trông thấy cái ấm tích bằng bạc, mới ra câu đối rằng:
_ Ngân bình, kiện thượng tị
(Bình bạc, mũi trên vai. Ý nói cái vòi trên cổ ấm ).


Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống giếng đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được.


Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười nói:
_ Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải đành ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm hầu giải oan cho hồn kẻ thư sinh.


Ông bèn đọc :
_ Kim tỏa, phúc trung tu"
(Khóa vàng, râu trong bụng. Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa).


Sau đó, ông bèn sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông đối giỏi.


Tin Mạc Đỉnh Chi, sứ giả An Nam rất hay chữ và đối đáp nhanh nhẹn, đã truyền đến triều đình nhà Nguyên. Cả triều đình xôn xao bàn tán, người thì bảo phải chơi cho y một vố thật đau, kẻ thì bảo phải làm cho y bẽ mặt trước công chúng. Cuối cùng, viên Thừa tướng bày mưu:
_ Tâu bệ hạ, thần nghĩ ra một kế, mấy hôm nữa khi hắn ta đến, cả triều đình mũ áo cân đai chỉnh tề ra đón, sai hết cả cung phi, thị tì ra để mua một trận cười.


Vua Nguyên sốt ruột hỏi :
_ Kế đó ra sao, hãy nói trẫm nghe đi đã.
_ Tâu bệ hạ, trước cổng thành, ta cho đào một cái hố tròn, sâu, trên bịt da thật căng để làm thành một cái trống đất đặc biệt. Chờ khi hắn đến, sai người gõ thật to, tiếng trống sẽ như tiếng động đất, như vậy, hắn ta và tùy tòng phải khiếp đảm, nhớn nhác, ngựa nghẽo kinh sợ chạy tán loạn.


Vua Nguyên và quần thần hí hửng khen kế đó rất hay. Và trống đất được làm rất khẩn trương.


Đoàn sứ giả đi đã lâu ngày, dầm mưa, dãi gió, gội sương đã nhiều. Ai nấy đều mệt mỏi rã rời, nước da rám nắng đen sạm. Con ngựa của Mạc Đĩnh Chi cũng kiệt sức lắm rồi, nó bước đi khấp khểnh, quất roi vào mông đen đét nó vẫn cứ ỳ ra. Khi trông thấy thành trì nhà Nguyên sừng sững trước mắt, mọi người vui sướng reo lên, trong người nhẹ hẳn như trút được gánh nặng, nỗi mệt nhọc dần dần tan biến đi. Họ hân hoan bước tới cổng thành, lúc ấy vào buổi chiều tà. Cửa thành cờ xí rợp trời, người đông nghẹt đứng giạt hai bên. Vua Nguyên mặc áo bào đỏ, ngồi chễm chệ trên đỉnh gác cổng thành.


Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ bộ vừa đi tới, thì bỗng nghe tiếng trống đất dội vang dưới chân. Ai nấy đều ngơ ngác. Con ngựa của Mạc Đĩnh Chi không biết chạy chỗ nào, sợ quá ngã quỵ xuống đất. Cả triều đình nhà Nguyên reo hò ầm ĩ. Vua Nguyên khoái chí cười tít cả mắt lại, và đắc chí lắm. Lúc ấy Mạc Đĩnh Chi cũng bối rối, nhưng trấn tĩnh lại được ngay không thèm đếm xỉa đến vua Nguyên đang ngồi trên cổng thành, cau mặt lại nói:
_ Có gì mà các ngài cười? Tôi biết mùa này làm gì có sấm đất. Có tiếng động lạ, tôi cho ngựa quỳ xuống lắng tai nghe xem có phải sấm đất chăng?


Từ trên lầu cao vua Nguyên phải gật đầu khen :
- An Nam Trạng Nguyên quả là nhanh trí.


Nhân có người ngoại quốc dâng một đôi quạt quý, vua Tàu sai Đĩnh Chi và sứ thần Cao Ly, mỗi người đề một bài tán vào quạt.

Sứ Cao Ly làm xong trước.

Lời tâu rằng:

_ Uẩn lòng trùng trùng, Y Doãn Chu Công,

Vũ tuyết thê thê, Bá Di Thúc Tề.

Nghĩa là: Đang lúc nắng nực, thì như ông Y Doãn, ông Chu Công (ý là đắc dụng với thời). Đến khi mưa tuyết lạnh lùng thì như ông Bá Di, ông Thúc Tề (ý nói là xếp xó một chỗ).

Bấy giờ Mạc Đĩnh Chi chưa nghĩ ra ý tứ làm sao, nhác trông sang bên kia, thấy lời lẽ như thế mới suy ra mà đề một bài như sau này:

_ Lưu kim thước thạch thiên địa vi lô nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho! Bắc phong kì lương, vũ tuyết tái đồ, nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu. Y! Dụng chi tắc hành xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ, hữu như thị phù?

Nghĩa là: Nắng chảy vàng tan đá, trời đất như lò, người về lúc ấy ví như Y, Chu, hai ông quan to. Gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết lấp đường, người về lúc ấy ví như Di Tề, hai người chết đói. Than ôi ! Khi được dùng đến thì ra làm, khi không dùng đến thì cất đi, chỉ ta cùng ngươi là thế ru?


Đề xong dâng lên, vua Tàu cầm bút khuyên chữ "y", phê rằng "Lưỡng quốc trạng nguyên" nghĩa là trạng nguyên hai nước.


Ái Hoa
__________________
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ (Quách Tấn)




Trả Lời Với Trích Dẫn