![]() |
Bé Tố Quyên với các thầy hay ai biết giúp giùm nhé, chẳng hiểu nguyên bản thơ có đúng không, tui thì không biết tiếng Hán hay chữ Nôm gì ráo, xài bản dịch nghĩa của người ta để tập dịch thơ, có sai mọi người góp ý giùm nha, thén kìu
VỌNG PHU THẠCH (72/249) Thạnh da? Nhân da? Bỉ hà nhân? Độc lập sơn đầu thiên bách xuân Vạn kiếp điểu vô vân vũ mộng Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ Đài triện trường minh nhất đoạn văn Tứ vọng liên sơn diểu vô tế Độc giao nhi nữ thiện di luân Nguyễn Du (Thanh Hiên thi tập) Chú thích: Vọng Phu Thạch = Đá Vọng Phu , Ở Việt Nam có Đá Vọng Phu tại Lạng Sơn và Bình Định . Bên Trung Hoa ở tỉnh Võ Xương - Bài của Nguyễn Du nói về Đá Vọng Phu ở Lạng Sơn - Vân vũ mộng = mộng mây mưa, mộng ái ân . Vua Tương Vương nước Sở đi chơi ở quán Cao Đường nằm mộng thấy giai nhân đến cùng chung gối . Vua phán hỏi, giai nhân đáp: thiếp là Thần Nữ núi Vu Sơn, sớm làm mây, tối làm mưa chốn Dương Đài . - Tam thu vũ = mưa trong ba tháng thu , ngụ ý là Tương Tư "Nhất nhật bất kiến như tam thu hề " (cổ thi) "Ba Thu dọn lại một ngày dài ghê" (Kiều) -Đài triện : ngấn rêu trông hình chữ triện - Diếu = xa xôi -Di luân = Di là Thiên đạo, Luân là nhân văn = luân thường đạo nghĩa (trích Tố Như Thi, bản dịch Quách Tấn) (Sưu tầm) Bản Dịch nghĩa Đá chăng? Người chăng? Người là ai nhỉ Đứng một mình trên núi đã trăm nghìn năm Muôn kiếp không bao giờ có giấc mộng mây mưa Một tấm thân giữ được chữ trinh mãi mãi Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt Lớp rêu như mãi mãi ghi một đọan văn Nhìn bốn phương núi mênh mông mờ mịt Riêng để người phụ nữ lưu tấm gương đạo lý mà thôi (Bản dịch vủa Vũ Ngọc Khánh) Các bản dịch thơ (sưu tầm) ĐÁ VỌNG PHU Phải là đá đấy hay là người, Đứng sững đầu non bao kiếp rồi? Muôn thuở mây mưa nào tưởng đến, Một gương trinh tiết để chung soi, Lệ ròng chẳng dứt mưa thu thảm, Rêu phủ như ghi chữ triện ngời. Bốn mặt núi giăng mù tít mãi, Riêng nhờ nhi nữ giữ kinh trời. (Bản dịch của Đào Duy Anh) ĐÁ NGÓNG CHỒNG Phải người? Phải đá? Hỏi ai đây? Sừng sững trên núi ngàn năm nay Chẳng mộng mây mưa cả vạn kiếp Cổ kim thanh khiết thân vẫn đầy Dòng lệ mưa thu không ngưng chảy Thảm rêu như khắc đoản văn chương Bốn bề núi dăng hàng lớp lớp Dành riêng phận nữ giữ đạo thường (không rõ tác giả) NÚI TRÔNG CHỒNG Đá hay người chẳng biết là ai ? Đỉnh núi ngàn xuân đứng miệt mài Bỏ mộng mây mưa từ vạn kiếp Giữ thân trinh tiết đến muôn đời Ba thu mưa lệ hoài không dứt Một áng văn rêu mãi tuyệt vời Núi biếc mênh mông trùng điệp điệp Luân Thường phận gái gánh trên vai (Bản dịch vủa Hải Đà) Ai đây? Là đá? Là Người? Trơ trơ đầu núi đội trời bao năm Thân người thanh bạch là thân Nghìn đời mưa Sở mây Tần không ham Mưa thu như lệ chảy tràn Rêu in nét triện thành trang tâm tình Bốn trời đồi núi mông mênh Riêng người phụ nữ gương lành treo cao (Bản dịch của Vũ Ngọc Khánh) Bản chuyển thể từ thơ sang thẩn của Chí :) . Bé Tố Quyên ơi, ai vần thông với ươi đúng ko dzạ, chị chẳng biết sửa làm sao, :) HÒN VỌNG PHU Dáng đá? Hình ai? Ẩn bóng người? Ngàn năm đầu núi đứng chơi vơi Thôi mơ trăng gió đà muôn kiếp Nguyện giữ thân trinh hết một đời Thu đến mưa tuôn dòng lệ đổ Ngày qua tích khắc lớp rêu phơi Non cao bốn phía mênh mang tối Riêng tấm lòng son rạng sáng ngời Trần Lan Chi |
Hic hic ... chị chiconuong ui, trong mấy bài trên đây đâu có thấy bài nào có vần ai đi chung với vần ươi đâu nè ...
p/s: Chị có còn chơi bên Phi Gia Cổ Mộ nữa hay không ? Trong bài Liên hoàn lê thê khúc của chị, đoạn nói về tỉnh Tiền Giang, chị đã viết sai về địa danh Kiến Phúc (Vàm Láng). |
Trích:
hỏi sư phò chị ấy :D hông biết , bài đó chị hông mần hông biết hí hí Cái liên hoàn lê thê khúc đó cũng có mấy chỗ khổ độc, nhịp điệu thì không hay nhưng thế chị cũng mãn nguyện gần chết rùi, hic hic . Lực bất tòng tâm :D |
Trích:
nhiều ngừ đọc tới bài nói về tỉnh Tiền Giang mà thấy nói Vàm Láng thuộc Gò Công tên là xã Kiến Phúc đó, ai nấy cười bò lăn cả, họ nói làm gì có xã Kiến Phúc, từ đó họ suy ra toàn bài (liên hoàn) cũng chỉ là tưởng tượng ra các địa danh để cho chỉnh luật, đối ... mà thôi. vị sư phò đó đã từng đi tới Vàm Láng chưa dzị ? :P :P :P |
Trích:
Chị có 1 vị thầy đầu tiên rất giỏi về Đường luật là Viết Ý đã chỉ dẫn những chỗ sai và cách chơi thơ. Tuy chị nhận ông Gái Làng chơi làm thầy nhưng học được từ em ấy là nhiều. Sau đó nhận một ông sư phò chơi, vì thích thơ lịch sử của ông này, sư phò chị nếu em đọc bài lê thê khúc đó thì biết rồi, còn hỏi làm gì thế ? |
Trích:
|
Trích:
Thí dụ: NHỚ NHÀ Vàng tỏa non tây bóng ác tà Ðầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa Ngàn mai lác đác chim về tổ Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà Còi mục thét trăng miền khoáng dã Chài ngư tung gió bãi bình sa Lòng quê một bước càng ngao ngán Mấy kẻ tình chung có thấu là Bà Huyện Thanh Quan QUA ĐÈO NGANG Bước tới đèo ngang bóng xế tà Cỏ cây chen đá lá chen hoa Lom khom dưới núi tiều vài chú Lác đác bên sông rợ mấy nhà Nhớ nước đau lòng con quốc quốc Thương nhà mỏi miệng cái gia gia Dừng chân ngoảnh lại trời non nước Một mảnh tình riêng ta với ta Bà Huyện Thanh Quan Bài trước bị khổ độc, bài sau bị phong yêu hạc tất. Và, còn một số thi sĩ tiền bối nữa cũng vẫn thỉnh thoảng bị phạm một hoặc hai trong hai lỗi trên. Tố Quyên |
Trích:
Giống như em khi làm thơ, có điển tích mà em không nhớ, hẳn nhiên em phải đọc lại, chị cũng vậy, không có điều kiện đi hết đất nước mình thì đọc sách báo và tra tư liệu để viết vậy thôi, và đôi khi cũng tưởng tượng mình đang đứng trước địa danh đó để kiếm tìm cảm hứng để viết, thiết nghĩ chẳng có gì là sai cả :) Truyện Kim Dung quá hay không phải vì vẽ "y như thiệt" mà là dựa trên các chuyện thật trong lịch sử, những địa danh có thật... để khiến các nhân vật gần gũi hơn với người đọc, thật là đáng học tập. Nhắn phò nghe phò, Nếu có sai ở bài sư phò, thì sư phò sửa đi nhé hì hì , :) Em ơi chị chưa hiểu rõ lỗi phong yêu hạc tất trong bài của bà huyện thanh quan ? đâu có thấy vần đâu |
Trích:
Trích:
|
Trích:
Có nghĩa là nếu chữ thứ 4 không dấu thì chữ thứ 7 phải dấu huyền và ngược lại thì mới không phạm lỗi này. Hầu hết những bài thơ của các thi sĩ tiền nhân (tiền bối) đều làm theo qui luật này. Thí dụ: Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà (không phạm lỗi phong yêu hạc tất) Một mảnh tình riêng ta với ta (bị phạm lỗi phong yêu hạc tất). Tố Quyên |
Trích:
|
Trích:
Trong toàn bài không hề nói Vàm Láng tên là xã Kiến Phúc . Lễ hội Vàm Láng là lễ hội rước cá voi của ngư dân tổ chức vào tháng 9 âm lịch tại xã Vàm Láng huyện Gò Công Đông . Chiến khu Bình Xuân - Kiến Phước là căn cứ của Trương Công Định kháng Pháp dựa theo tài liệu của xuquang.com. http://xuquang.com/dialinhnk/danhnha...gcongdinh.html AH nhớ là hồi nhỏ học sử cũng thấy nói là Trương Công Định bị giặc bắn gãy xương sống ở Kiến Phước, tra tài liệu thì ở Gò công có xã Kiểng Phước, không biết có phải cùng chỗ mà do biến âm không . |
Trích:
Thơ BHTQ được coi là mẫu mực tiêu biểu của thể thơ ĐL. Thơ của các thi nhân danh tiếng thời xưa mà AH đã đọc qua không bao giờ phạm lỗi khổ độc . Hoạ hoằn lắm mới có bài thơ phá luật như bài "Đèo Ba Dội" của HXH và bài "Tự trào" của Tản Đà . Thơ HXH thì AH đã góp ý kiến, còn Tản Đà thì sống buổi giao thời nên phần nào chịu ảnh hưởng trào lưu thơ mới, không muốn gò bó trong luật lệ Đường Luật (Tản Đà cũng có những bài thơ làm theo thể cổ phong). |
Trích:
|
Trích:
Ở Gò Công không có xã nào tên là xã Vàm Láng cả. Vàm Láng là một địa danh chứ không phải tên xã. Bình Xuân thì có mà Kiến Phước (Phuớc hay Phúc cũng vậy, thí dụ: Nguyễn Phước Ánh = Nguyễn Phúc Ánh) thì không. Đúng, ở Gò Công chỉ có xã Kiểng Phước (mà chữ Hán viết là Cảnh Phúc) tức là tên chữ của địa danh Vàm Láng. Kiểng Phước giáp ranh với Bình Xuân. Cảnh Phúc là chữ Hán nhưng viết ra chữ quốc ngữ thì đọc trại là Kiểng Phước vì cử tên Hoàng tử Cảnh (cho nên Cảnh thành Kiểng), thí dụ cây cá cảnh ở miền Nam đọc là cây cá kiểng. Còn chữ Phúc hay Phước đã giải thích như trên. Tóm lại Cảnh đọc trại ra Kiểng chứ không phải "biến âm" ra Kiến, vì chữ Kiến (chữ Hán) viết hoàn toàn khác nét với chữ Cảnh (Kiểng). Dĩ nhiên chữ Cảnh (Kiểng) và chữ Kiến khác nghĩa nhau rất xa. Trước cổng đình xã "Kiểng Phước" (Vàm Láng) có tấm bảng sơn son thếp vàng đề ba chữ đại tự bằng chữ Hán là Cảnh Phúc Đình, cạnh đó có chua nghĩa chữ quốc ngữ là Đình Kiểng Phước. Ngoài ra ở Kiểng Phước hoàn toàn không thấy có điện Tướng Công nào cả. Nếu Tướng Công đó là Ông Trương Công Định thì điện thờ không phải ở Kiểng Phước mà là ở tại thị xã Gò Công từ xưa tới nay. Những người viết bài cho website xuquang.com viết sai rất nhiều sự kiện lịch sử miền Nam, vì họ không phải là người địa phương cũng như chưa hề đặt chân đến thực địa. Cũng cần nói thêm ở Tiền Giang từ xưa đến nay hoàn toàn không có bất cứ địa danh nào có tên là Rạch Gầm cả, dĩ nhiên cũng không hề có địa danh Xoài Mút bao giờ. Lịch sử là lịch sử, không thể thay đổi tùy tiện. |
Trích:
Luật phong yêu hạc tất: chữ thứ tư và chữ thứ bảy trong thơ thất ngôn trùng một âm là phạm luật phong yêu hạc tất (nguyên văn) Xét theo đây thì hai bài trích dẫn trên của Bà Huyện Thanh Quan đều phạm phải hai lỗi đã dẫn chứng. Rât nhiều bài thơ bị phạm lỗi phong yêu hạc tất. Tài liệu của bro hoangutluadoi đã chép vô CD nguyên bản quyển sách Thi Luật Giảng Nghĩa của Đoàn Trung Còn, NXB Tín Đức Thi Xã, in lần thứ 2, Saigon 1932. p/s: sách dịch từ Thi Luật Giảng Nghĩa của Tra Y Quán, Trung Hoa Dân Quốc đệ thập nhị niên. Bro Ái Hoa có thể đọc kỹ lại hai bài xướng họa lừng danh trong văn học sử Việt Nam: - Tôn Phu Nhân Qui Thục, bài xướng của Tôn Thọ Tường. - Tôn Phu Nhân Qui Thục, bài họa của Phan Văn Trị. Đây là hai bài mẫu mực về kỹ thuật Thơ Đường Luật, không phạm lỗi khổ độc, không phạm lỗi phong yêu hạc tất. Làm thơ theo chính luật thì không thể nào phạm lỗi khổ độc, nhưng rất dễ dàng phạm lỗi phong yêu hạc tất. Phạm lỗi khổ độc và phong yêu hạc tất thì bài thơ vẫn đúng luật, vần, niêm, đối (căn bản). Nhưng kém phẩm chất về kỹ thuật thơ. Ngày xưa các sĩ tử đi thi, bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật cũng quyết định quan trọng cho việc đậu hay rớt. Bài thơ không những phải đúng luật mà còn đúng kỹ thuật nữa. Bài họa cũng rất quan trọng, phải đúng kỹ thuật (xem 2 bài xướng họa Tôn Phu Nhân Qui Thục nói trên - xin xem giáo trình thạc sĩ khoa Văn, Việt Nam hiện tại, TQ không nhớ địa chỉ website. Để khi nào tìm lại được TQ sẽ cho đường link dẫn). Bro Ái Hoa cũng có thể check với chú glc về vấn đề này. Tố Quyên |
Trích:
Dưới đây là một bản tin của VNN Dầu Của Tàu Bị Chìm Đã Tràn Đến Vùng Biển Gò Công VNN (Tiền Giang - VNN) Chính quyền cộng sản tại Gò Công, Tiền Giang, vừa cho biết, dầu chảy ra từ tàu Hồng Anh đã trôi tới các xã Vàm Láng, Tân Điền, Kiểng Phước, Tân Thành, Phú Tân thuộc huyện Gò Công Đông. Mặc dù, người dân thu gom được 200 kg dầu và 3 tấn rác nhưng nạn ô nhiễm nguồn nước vẫn không tránh khỏi. Huyện Gò Công có tới 2.000 hecta nuôi nghêu và 3.000 hecta nuôi tôm. Vì thế, dù lượng dầu tràn không nhiều so với huyện Cần Giờ Sài Gòn, chính quyền CSVN tại địa phương vẫn không biết làm gì hơn ngoài chuyện đề nghị với các hộ nuôi tôm không nên lấy nước vào các ao đầm. Đến nay, chính quyền huyện Cần Giờ, Sài Gòn đã nhận được gần 370 đơn khiếu nại và xin hỗ trợ của các hộ dân tại xã Thạnh An, Cần Thạnh, Long Hòa. Trong số này, ngoài các gia đình nuôi nghêu, tôm, hào... còn có gần 230 hộ dân chuyên bắt cua, ốc, chem chép... Được biết, có 567 tấn dầu (có lẫn nước) đã được thu hồi. Ước tính, lượng dầu thất thoát ra ngoài sông là 100 tấn trong số 640 tấn dầu FO vận chuyển trên tàu Hồng Anh. Tưởng cũng cần nhắc lại, trưa ngày 21/3 vừa qua, tàu Hồng Anh thuộc công ty Trọng Nghĩa chở 600 tấn dầu F.O đi từ Cát Lái tới Vũng Tàu, nhưng khi đến phao số 8 (Vũng Tàu) thì bị sóng lớn đánh chìm. Dầu bắt đầu loang rộng ra vùng biển Cần Giờ và đã lan dần trong các khu vực nêu trên. Tàu này đã được trục vớt lên nhưng hậu quả tai hại vẫn đang tồn tại, các nguy cơ nhiễm độc vẫn chưa biết đâu mà lường. http://www.lenduong.net/print.php3?id_article=3180 Các bản tin của vnexpress và vietnamnet đều nhắc tới xã Vàm Láng huyện Gò Công Đông: http://vnexpress.net/Vietnam/Phap-lu...2/05/3B9BC495/ http://vietnamnet.vn/kinhte/toancanh/2003/3/6300/ Trên 1 website du lịch của chính quyền VN nói về Whale Greeting Festival tổ chức tại Vam Lang Village, Go Cong Dong District http://www.tiengiangtrade.gov.vn/Travel/Bansac.htm Các nguồn tư liệu khác nhau không biết đâu mà mò! Dù sao cũng cám ơn Tố Quyên rất nhiều . |
Trích:
Bài đó viết theo tư liệu mới bé ui, chị đã tra danh bạ điện thoại, giờ có xã Vàm Láng đó , thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Đồng thời vẫn có xã Kiểng Phước :) Và ở Tiền Giang bây giờ có khu di tích lịch sử Rạch Gầm - Xoài Mút Chắc gia đình em đi lâu rồi nên có những thay đổi mà ko biết. Ví dụ như quê chị, hết Hà Nam rồi Hà Nam Ninh rồi Nam Định chuyển tên tùm lum cả :) Mọi người ko góp ý cho Chí à, để còn làm bài khác ặc ặc |
Trích:
Thơ BHTQ không phạm lỗi khổ độc . Luật phong yêu hạc tất thì đúng : chữ thứ tư và chữ thứ bảy trong thơ thất ngôn trùng một âm, nhưng không phải là dùng trùng một thanh bằng (cùng là phù bình thanh hoặc cùng là trầm bình thanh) như TQ đã viết ở post phía trên . Chẳng lẽ TQ không phân biệt được sự khác nhau giữa âm và thanh hay sao ? Cho nên AH thấy là thơ BHTQ cũng không phạm lỗi "phong yêu hạc tất" . AH không biết trong sách của Đoàn Trung Còn có thí dụ về 2 lỗi này chăng, nếu có thì chắc chắn TQ sẽ hiểu rõ hơn . |
Trích:
|
Trích:
|
Trích:
Nhưng thui, bỏ qua vấn đề này đi. Nói tới nói lui hoài mất vui ... phải hông chị chiconuong của em ? |
Trích:
|
Trích:
Người ta đã gọi chiến thắng của Nguyễn Huệ trước quân Xiêm là chiến thắng Rạch Gầm Xoài Mút, em có thể cho biết xuất xứ của hai tên riêng này nếu nó không là sông hay rạch gì đó thì nó nghĩa là gì không? Và tại sao em có thể khẳng định từ xưa người ta đã chẳng gọi 2 con rạch là thế không ? Cũng ko muốn viết nữa, nhưng chị nghe Rạch Gầm Xoài mút quen tai rồi, muốn tìm hiểu thêm một chút, thực chất nó là gì ? |
Copy cái này về cho chiconuong đọc chơi :
La bataille de Rach Gâm - Xoài Mut au XVIIIe siècle Rach Gâm et Xoài mut sont deux arroyos du sông Cuu long (fleuve des neuf dragons). Ils se jettent dans le fleuve My tho. Le sông Xoài mut porte un autre nom : sông An duc, car il se jette dans le fleuve My tho dans la région de An duc. On l’appelle sông Xoài mut car sur les deux bras de fleuve, surtout sur la rive droite, existent les bois de manguiers sauvages dont le fruit est petit, la pellicule intérieur mince et le noyau gros. Comme le noyau est gros, ce fruit porte le nom Xoài hôt (mangue à noyau) ou Xoài mut (mangue à sucer). Le fleuve qui coule à travers de ces bois porte le nom de ce manguier : Xoài mut. "En juillet 1784, Bangkok envoya un corps expéditionnaire de 50 000 hommes au Vietnam : 30 000 fantassins passant par le Cambodge par voie de terre, et 20 000 marins montés sur 300 jonques de guerre, par voie de mer 44. "Plus tard, dans les lettres en caractères démotiques de Nguyên Anh recueillies par le père Cadière, le traitre lui-même était obligé de le reconnaître. "Les siamois donnent libre cours à leur sauvagerie et leur arrogance : ils violent les femmes, pillent les biens, massacrent sans pitié les gens. Même les vieillards et les enfants ne trouvent grâce devant eux !" 45 Dans un édit impérial au peuple des deux préfectures de Quang Ngai et Quy nhon en 1792, Nguyên Huê a écrit : "D’où que je conduise la grande armée, les ennemis perdront ou s’anéantiront. D’où que j’élargisse la bataille, les armées cruelles des Siamois ou des Qing doivent être soumises" 46. Sa stratégie navale est décrite par Lê Thành Khôi : "Il rechercha en premier lieu la destruction de l’ennemi et non l’occupation de territoire. Il l’obtint en concentrant ses forces successivement contre chacune des armées adverses et en gardant toujours l’initiative. Il coordonna étroitement l’action terrestre et navale, s’appuyant principalement tantôt sur l’une, tantôt sur l’autre. Il fit preuve d’une mobilité étonnante, passant rapidement d’un champ de bataille à un autre et frappant très vite". "Huê mit à profit les facteurs naturels. Pour attaquer la flotte de Nguyên Anh qui défendait Gia dinh, il attendit le flux et que le vent soufflât de la mer vers la terre (...) Sur terre, Huê innova en lançant dans la bataille ses éléphants qu’il avait fait transporter par mer (ce qui impliquait une bonne organisation logistique). La bataille décisive se déroula le 20 janvier 1785. Les forces alliées des Siamois et des Nguyên la déclenchèrent à l’aube. Le moment avait été choisi, non seulement pour faire jouer à plein l’effet de surprise, mais encore pour profiter de la marée descendante et de la direction du vent, qui poussaient les eaux vers la mer, à l’avantage des attaquants, mais au détriment des attaqués dont les forces étaient massées en aval du fleuve. L’ennemi projetait de détruire par le feu les jonques de guerre Tây son qui barraient le fleuve Tiên et, ensuite, de porter ses coups décisifs sur My Tho. Mais la bataille suivit un scénario différent. Après avoir forcé le barrage et mis hors combat un certain nombre de jonques vietnamiennes, qui ne jouaient qu’un rôle d’amorce pour attirer la flotte ennemie dans l’embuscade, les 300 jonques siamoises se lancèrent à la poursuite de celles qui s’enfuyaient, tombant dans le piège qui leur était tendu. Quand il fit jour, l’avant-garde siamoise avait dépassé l’embouchure du Xoài mut et filait en direction de My tho. Juste à ce moment, les eaux du fleuve revenaient à la marée montante et le vent avait aussi changé de direction, soufflant de la mer vers la terre. Au signal donné, les forces vietnamiennes embusquées sur le Xoài mut surgirent pour lui couper la route, la destruction en étant confiée aux comités partant de My Tho. Elles tombèrent sur la flotte siamoise juste au moment où les forces embusquées sur le Rach Gâm, sorties de leur cachette, lui coupèrent la retraite. L’ennemi fut comme pris dans une nasse. Les fantassins et les artilleurs vietnamiens massés dans les îles et sur les rives du fleuve, faisaient pleuvoir sur lui toutes sortes de projectiles. Les unités siamoises furent presque toutes anéanties, à l’exception d’un petit nombre de fuyards, dont les généraux siamois Chieu Tang et Chieu Suong et le traitre Nguyên Anh. "Nguyên Huê, le plus grand chef militaire vietnamien au XVIIIe siècle, avait 32 ans lorsqu’il remporta la victoire de Rach Gâm Xoài mut. Quatre ans plus tard, à l’occasion du Têt de 1789, il fera faire à ses forces armées une marche-éclair jusque dans le delta du fleuve Rouge, ou il écrasera en dix jours une armée d’agression chinoise de 290 000 hommes dépêchée par la Cour des Qing" 47. Après ces victoires, il devient empereur en 1789. Dans l’histoire vietnamienne, les bons généraux sont souvent les meilleurs hommes d’Etat. ________ Notes: 1 Phan Huy Lê, Môt sô trân quyêt chiên chiên luoc trong lich su dân tôc (Un certain nombre de combats stratégiques dans l’histoire nationale), éd. de l’Armée populaire, Hanoï, 1976, p. 12. On compte du IIIe siècle A.C. jusqu’en 1789, 10 guerres d’indépendance : 2 (Nguyên su = Histoire des Yuan), livre 14 (Ban ky) p. 10, cité dans Cuôc Khang chiên chông xâm luoc Nguyên-Mông (La Résistance contre l’invasion des Yuan-Mongols au XIIIe siècle), Hanoi, Ed. des Sciences sociales, 1972, p. 260. 3 Chronologie des quatre premières occupations des Chinois : 4 * La résistance menée par Mme Triêu à l’occupation chinoise (en 248). 5 La guerre conduite par Lê Hoàn contre les Song du Nord (Bac Tông). 6 La guerre conduite par Trân Hung Dao contre les Yuan-Mongols. 7 Dào Duy Anh, Viêt Nam Van Hoa Su cuonq, et Pham Van Son, Viêt Su Toàn Thu. 8 Lê Hoàn deviendra en 980 le roi Lê Dai Hành après l’assassinat du roi Dinh Tiên Hoàng et de son fils aîné. 9 Trân Trong Kim, Viêt Nam Su Luoc, (Abrégé de l’histoire du Viet-Nam) Hanoï, Imprimerie Vinh Thành, 1928, p. 70. 10 repris par Pham Van Son, Viet Su Tân Biên, p. 162. 11 La dynastie des Dinh (968) coïncide avec la fin de la période dite des Cinq Dynasties" (VN = Ngu dai) dont la dynastie des Zhou (960). 12 Quan thuy trong lich su chông ngoai xâm, p. 92. 13 Parmi les pays du "monde chinois", Tuong quân (troupes à éléphant) est l’une des caractéristiques de l’armée vietnamienne d’autrefois. L’éléphant est le plus gros animal terrestre avec sa hauteur de 2 à 3,70 mètres et sa peau épaisse. Il est utilisé dans l’armée vietnamienne comme un "blindé". 14 Phan Huy Chu, dans son ouvrage Lich triêu Hiên chuong Van tich chu, a dressé une liste des ouvrages capturés. Beaucoup d’entre eux ne sont plus en possession de l’Etat vietnamien. 15 D’après la revue spécialisée Nghiên cuu Su hoc (Etudes historiques) N° 5 (176) (septembre + octobre 1977), "Vai tro cua Thuy quân Viêt Nam trong lich su dân tôc" (Le rôle de la marine dans l’histoire du Vietnam). 16 La terminologie contemporaine Nai quân est un néologisme. Il s’agit du nom officiel de la marine vietnamienne écrit dans l’Edit n° 2 en date du 6 mars 1952 de S.M. Bao Dai relatif à la création de la Hai quân Viêt Nam (Marine vietnamienne). 17 Quân luc Viêt Nam Công hoà trona giai doan hinh thành (1946-1955) (La naissance des forces armées de la République du vietnam), édité par 5e Bureau de l’état-major des Forces armées de la République du Vietnam (Section d’Histoire militaire), Saïgon, 1972, p. 351. 18 Du Champa, royaume qui occupe les hauts plateaux de l’Annam. 19 Lê Thành Khôi, Histoire du Viet Nam, Sudestasie, 1981, p. 165. 20 L’Etat du monde 1987-1988 (Annuaire économique et géopolitique mondial), La Découverte, 1987, pp. 96 et 256. 21 Jacques Dars, La Marine chinoise du Xe siècle au XIVe siècle, CFHM-Economica, 1992. 22 Lê Thành Khôi, op. cit., pp. 159-160. 23 Ibid. 24 Ibid. 25 En 1954, dans le cadre de la Conférence de Genève, Bao Dai a demandé au gouvernement français d’intervenir pour fixer au 17e parallèle de latitude la limite entre le Nord et le Sud Vietnam. La raison est l’existence des tombeaux des Nguyên aux environs de Huê, ancienne capitale du Vietnam. Cette ville se trouve au dessous du 17e parallèle. 26 Lê Thành Khôi, op. cit., p. 160. 27 Lê Thành Khôi, op. cit., p. 161. 28 Lê Thành Khôi, op. cit. p. 182. 29 Ibid. 30 Le terme Binh bô (Binh = avant Bô) = ministère de l’armée) qu’on a utilisé autrefois est complètement différent du terme Bô binh armée de terre ou infanterie. 31 "Nos traditions militaires", Etudes vietnamiennes, n° 55 (1958), Hanoï, p. 37. 32 Jung Pang lo, "The Emergence of China as a sea power during the late Song and early Yuan Periods", The Far Eastern Quarterly, n° 4, vol. XIV, 8/1955, p. 503. 33 J. de Goldfiem, Histoire des techniques militaires en Chine (polycopié), p. 109. 34 Nos traditions militaires, p . 38. 35 ibid, p. 52. 36 ibid, p. 50, les mots de l’ambassadeur Yuan écrits dans An Nam Tuc su (Affaires d’Annam) (Annam = Vietnam). 37 Ibid, p. 50. 38 Nguyên su, Histoire des Yuan, écrite par les historiens chinois. 39 Nos traditions militaires, pp. 59-63. 40 Lê Thành Khôi, op. cit., p. 2 9. 41 Dai Viêt Su Ky Toàn Thu, tome III, p.195. 42 L. Cadière, Le mur de Dônq hoi (Etudes sur l’établissement des Nguyên en Cochinchine) BEFEO, VI, 1909, pp. 95 ss, cité par Lê Thành Khôi, op. cit. 43 L. Cadière, cité dans lê Thành Khôi, op. cit., p. 257. 44 Dai Dông, "La bataille de Rach Gâm-Xoài mut", Courrier du Vietnam, 1-1985, p. 15. 45 Tâp san Su dia (Bulletin d’histoire et de Géographie), n° 11, Saïgon, 1968, cité in idem. 46 Nguyên Luong Bich, Tim hiêu thiên tài quân su cua Nguyên Huê, (Recherches sur les dons militaires de Nguyen Huê), Hanoï, Ed. armée populaire, 1971, p. 422. 47 Dai Dông, op. cit., p. 16. http://www.stratisc.org/pub/mo/pub_mo3_LEDINHTHON.html Tác giả dẫn rất nhiều tài liệu lịch sử, chắc không phải là nói không có chứng cứ đâu nhỉ ? |
ặc ặc, ông chơi tui nha, biết là tui mù chữ mà huhu , Pháp Phiếc gì chết đi còn hơn :angry:
Nghe tui dịch đây nè, 1 câu thui, lần sau rùi đừng bắt tui đọc mấy cái nì Rach Gâm et Xoài mut sont deux arroyos du sông Cuu long <<< Đến Rạch Gầm vừa ăn vừa mút Xòai xong đau bụng phải đi xuống sông Cửu Long <_< |
Trích:
TôQuyến |
:( em ui, nếu mà có thời gian trả lời cho chị nhé, gửi private mess cũng được, tại chị cũng muốn biết mà chẳng hỏi được ai :)
|
Trích:
không bàn về việc dịch nha, đâu có biết tiếng Hán nà ! chỉ góp ý về bài thơ ĐL câu đầu : viết không rõ nghĩa 2 câu thực : trăng gió không đối với thân trinh câu 6: rêu phơi nghe hơi kỳ câu 7: chữ tối không hợp bảo góp ý thì góp, đừng có cãi cối à ? hong rảnh đâu mà cãi lộn ! |
Trích:
câu 3,4 : ò, không đối từng từ nhưng đối kiểu nghĩa không được à <_< thế đổi thành gì bây giờ phò, động não giùm coi :lol: tại sao rêu phơi và tối ko hợp ? hung hiểu, nghĩa đúng mà , mờ mịt cho là tối luôn, khi đó tấm gương mới thấy sáng mà <_< , rêu ko phơi ngoài trời thì trong nhà chắc <_< Lói chung là dịch quá thoáng kaka, 2 câu này ko sửa đâu cha :P |
Thiệt tình không ngờ Chí Mè Phủ rành tiếng Tây pạo nha . Dịch như thế thì thông dịch viên cũng bò lăn :lol:
|
Hai thầy TQ với AH,
Glc không biết thơ BHTQ có dùng "phù bình thanh" hay có bị "khổ độc" không chứ chỉ thấy Glc phù mỏ vì khổ tâm. Hai thầy mần ơn thoả thuận dắt tay nhau vô phòng riêng khoá trái cửa lại rồi bầm chém, đè nhau hay gì gì thì làm . Hai thầy cứ thọt cù lét hoài làm sao học trò biết đâu mà rờ . Tuy nhiên nếu hỏi ý kiến của Glc thì Glc nói,nhưng chỉ là ý kiến của Glc thui nha, đúng sai khó mà kiểm chứng vì Glc ra xứ ngoài nầy gần 30 năm rồi (pháo nầy nổ như pháo đại à nha) , không sách vở, không dử liê(u chỉ nói những gì mình nhớ còn lại trong đầu thôi . Quí vị không đồng ý thì cứ ngậm bồ hòn kêu đắng đi há . - Nếu Glc chưa đến nỗi già lú lẫn (mà cũng dám lắm, ở với bà Lú Lỳ mà không Lú Lẫn cũng không được :lol: ) Nguyễn Huệ đánh trận Xoài Mút, Rạch Gầm ở miệt trong của Mỹ Tho . Rạch gầm không có nghĩa là có con rạch đâu . Ngày trước phần lớn miền Nam thuộc về của người Miên bây giờ nên tên Xoài Mút là lấy từ tên củ của người Miên . Sau nầy Việt Hoá và qua 2 thời đệ nhất và đệ nhị cộng Hoà lại cộng thêm chính phủ bây giờ, qua bao thời đại có lẽ tên và vùng đã thay đổi và sát nhập với vùng khá để có 1 tên khác . Kiến Phước hay Kiểng Phước, thật ra Glc đi cũng khá miền Nam nhưng chưa nghe Kiến Phước bao giờ,chỉ nghe Kiểng Phước thôi . - "Khổ độc" :Trong bài thơ TNBC, chử thứ ba các câu chẵn và chữ thứ 5 các câu lẻ đúng ra là từ bằng mà làm thành từ trắc . - Phong yêu hạc tất (Lưng ong gối Hạc): Từ thứ 4 và từ thứ 7 trùng một âm . Trong luật làm bài Phú cũng có phần Hạc Tất nầy . - Phù trầm Thanh thật ra Glc không có nghe, chỉ biết là Phù bình Thanh(chử không có dấu) và Trầm thượng Thanh(chử có dấu huyền) mà thôi . Những danh từ Hán Việt nầy khi dạy học trò về thi luật sẽ nói đến . Hai thầy có không hài lòng chổ nào xin PM cho Glc,Hichic vì ngày mai Glc đi thăm gíp những em nghèo khổ gòi :rolleyes: Thân |
Trích:
|
Trích:
Trích:
Phòng riêng cho em thì thầy lúc nào cũng có sẵn :P Chỉ e là nữa đêm em không dám bỏ vườn tulipe mà trốn đi đàm luận chuyện đời ... Thầy thui :lol: |
Trích:
|
Trích:
Hôm nào rảnh TQ sẽ viết lại để thấy rằng không phải là "Rạch Gầm" và "Xoài Mút". Đó là tên do người Việt (di dân vào thời các chúa Nguyễn) đặt chứ không phải tên Miên. |
Trích: Nhà Tây Sơn (của Quách Giao) Quân Xiêm kéo vào Gia Ðịnh một cách rầm rộ. Trấn thủ Gia Ðịnh là Trương Văn Ða thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho các nơi vừa chận đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng. Quân Tây Sơn giữ đạo Kiên Giang ở Rạch Giá và đạo Châu Ðốc ở biên cương rút về Cần Thơ. Quân giặc đuổi theo. Quân Tây Sơn theo bờ sông Bassac lui dần xuống Ba Thắc. Ba Thắc là một vùng rộng lớn bao trùm Sóc Trăng, Bạc Liêu... Dân cư phần đông là người Cao Miên. Ðất đai phần lớn là rừng và bưng biền nước ngập. Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc bị quân Tây Sơn phục kích đánh cho một trận tơi bời phải thối lui. Quân Tây Sơn thừa thế vượt sông Bassac sang Trà Ôn để rồi lui về Ðông Khấu đạo ở Sa Ðéc. Quân đóng ở An Xuyên đạo (Cà Mau) bị cô thế cũng rút về Trà Ôn. Giặc lại đuổi theo... Nhưng đến Mang Thít thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo quân của Trương Văn Ða từ Sa Ðéc kéo xuống đánh kịch liệt. Tướng giặc bị Trương Văn Ða chém chết. Quân giặc rút lui xuống Trà Cú. Nhưng Trương Văn Ða liệu thế không thắng nổi giặc bèn bỏ vùng đất miền Tây về phía hữu ngạn sông Mekong, kéo đại binh về đóng ở Định Tường. Vì mất người hướng đạo, giặc Xiêm không dám sang sông, lấy Ðông Khấu đạo ở Sa Ðéc làm Tổng Hành Dinh. Sau trận kịch chiến ở Mang Thít vào khoảng trung tuần tháng 10 năm Giáp Thìn (tháng 11/1784) có vài trận nhỏ kế tiếp, đáng kể là trận tháng 11 năm Giáp Thìn (tháng 12 năm 1784) tại đồn Ba Lai ở giữa Ðịnh Tường và Vĩnh Long. Giặc đương tính đem quân đánh úp quân Tây Sơn. Chẳng ngờ bên Tây Sơn đã phòng bị trước, cho phục binh ở ngoài, đợi quân Xiêm vào đồn rồi trong đánh ra ngoài đánh vô. Khí thế quân Tây Sơn rất mạnh, quân Xiêm không chống nổi bị giết gần hết. Tướng giặc bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Kim chém chết. Từ đó quân Xiêm đóng yên một chỗ. Trương Văn Ða với số quân không quá 10 ngàn, phải tận lực giữ vững nửa phần đất còn lại ở phía Ðông từ sông Mekong trở ra. Vùng đất phía Tây từ sông Mekong, Bassac trở vô đều thuộc quyền kiểm soát của quân Xiêm. Chiếm được nửa phần đất Gia Ðịnh, tướng sĩ Xiêm sanh ra kiêu căng. Chúng xem thường quân Tây Sơn, không lo chiến đấu mà chỉ lo tìm cách cướp bóc của cải, hãm hiếp phụ nữ, sát hại những người Việt Nam tỏ thái độ hay có hành động chống đối. Chúng đã dùng chiến thuyền chở về Xiêm không biết bao nhiêu con gái, vàng bạc của cải đã cướp được. Nhân dân ta thán. Hành động bạo ngược của quân giặc đã gây lòng căm thù của toàn dân miền Tây và cả miền Ðông Gia Ðịnh, căm thù quân Xiêm và hết lòng ủng hộ tướng sĩ Tây Sơn. Nhờ lòng dân ủng hộ mà Trương Văn Ða với một số quân ít ỏi có thể chặn đứng được bước tiến của giặc. Nhưng liệu thế không thể kéo dài được mãi. Cuối năm 1784 Trương Văn Ða sai Ðô úy Ðặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo rõ tình hình ở Gia Ðịnh. Nghe qua lời tấu của Ðô úy Ðặng Văn Trấn, triều đình Tây Sơn biết rằng lực lượng của giặc mạnh hơn mấy lần trước thập bội, Vua Thái Ðức liền sai Nguyễn Huệ, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu cùng bộ tướng đem đại binh vào tảo trừ. Bùi Thị Xuân xin tòng chinh. Binh Tây Sơn xuống thuyền vào Nam khoảng hạ tuần tháng 11 năm Giáp Thìn (tức khoảng đầu năm 1785). Quân thiện chiến chừng 2 vạn, danh tướng, ngoài Võ, Trần, Bùi, còn có Ðô úy Ðặng Văn Trấn và một số thuộc tướng. Thủy binh Tây Sơn vào cửa Cần Giờ, nhưng không vào Vũng Tàu để lên Gia Ðịnh như mấy lần trước, mà đi thẳng vào Nam theo cửa sông Mekong kéo đến Định Tường. Chủ lực của Tây Sơn do Trương Văn Ða chỉ huy đóng tại thành Mỹ Tho là lỵ sở của Định Tường. Nguyễn Huệ sai Trương Văn Ða ra giữ thành Gia Ðịnh, còn mình thì đóng quân tại thành Mỹ Tho quyết một trận tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm. Trước hết Nguyễn Huệ thân hành đi xem xét địa hình địa thế, và cho người do thám tình hình của giặc. Thành Mỹ Tho lúc bấy giờ gọi là Trường Ðồn, đất đai phì nhiêu, rừng núi hiểm trở, sông ngòi lưu thông. Có thành bằng đất, chu vi độ bốn dặm, có hai cửa tả hữu, hào rộng 4 trượng, ngoài cửa có cầu ván vững chắc để qua hào, ngoài hào còn có lũy che chở. Trước mặt đồn có sông Ðại Giang tục gọi là sông Mỹ Tho, một chi lưu của sông Mekong. Mặt sau có sông Vàm Cỏ Tây. Nước sông theo thủy triều mà lên xuống, rất tiện cho việc giao thông. Ở phía tây đồn lại có một cánh rừng rộng làm hào thành. Rừng ngập sình lầy và mọc toàn dừa nước, nên tục gọi là Rừng Dừa. Ðịa thế khá hiểm trở. Trên sông Ðại Giang tức sông Mỹ Tho lại có một khúc vừa sâu vừa rộng vừa dài. Ðó là nhờ nước sông Sầm Giang và sông Hiệp Ðức chảy vào tăng lưu lượng cho nước sông Mekong. Từ sông Sầm Gang đến sông Hiệp Đức dông dài 5 dặm (khoảng 6 cây số), và rộng gần cả dặm (1 cây số). Thủy triều lên thì tràn đầy, khi xuống vẫn không cạn. Giữa sông có một gò đất bồi chu vi khoảng 5 dặm, gọi là Cù lao Thới Sơn và một cù lao nhỏ gọi là cù lao Hộ hay bãi Tôn. Hai bên bờ sông và trên cù lao lau lách và cây bần mọc um tùm và không có vết chân người qua lại. Nguyễn Huệ dùng khúc sông Sầm Giang - Hiệp Đức và Rừng Dừa làm trận địa để tiêu diệt quân Xiêm. Vì quân Xiêm tập trung toàn bộ lực lượng, cả thủy quân tại đạo Ðông Khấu ở Sa Ðéc, lực lượng quá lớn (300 chiến thuyền và 5 vạn thủy lục quân), không thể nào đánh thẳng vào đại doanh của giặc với số quân không đầy một nửa. Nguyễn Huệ phải dụ địch ra ngoài nơi có lợi thế cho mình. Nguyễn Huệ cho thủy binh mai phục trong các nhánh sông Sầm Giang, Hiệp Đức và trong các con sông nhỏ chảy quanh các cù lao. Còn bộ binh thì một đạo mai phục ở hai bên bờ sông và trên cù lao Thới Sơn, trên bãi Tôn, một đội mai phục nơi Rừng Dừa. Thủy binh do Nguyễn Huệ và Võ Văn Dũng chỉ huy. Bộ binh do vợ chồng Trần Quang Diệu điều khiển. Vạn sự cụ bị Nguyễn Huệ cho Võ Văn Dũng kéo binh đến khiêu chiến. Ðó là chiều ngày mùng 9 tháng chạp năm Giáp Thìn, tức 19 tháng 11 năm 1785. Quân Xiêm khi được tin binh Tây Sơn kéo đến Mỹ Tho thì liền chuẩn bị sẵn sàng để đối phó. Nhưng do chưa biết được rõ lực lượng của địch mạnh yếu thế nào nên chưa tấn công. Bị khiêu chiến, Chiêu Tăng liền cắt Sạ Uyển cùng một vạn bộ binh ở lại giữ đại bản doanh và các nơi hiểm yếu, còn mình thống lãnh đạo thủy lục quân đi đánh Tây Sơn. Bộ binh do Lục Côn chỉ huy theo tả ngạn sông Mekong đi xuống. Thủy binh do Chiêu Sương làm tiên phong kéo thẳng xuống sông Mỹ Tho. |
Múi giờ GMT. Hiện tại là 03:44 PM. |
Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.