Vina Forums

Vina Forums (http://forums.vinagames.org/index.php)
-   Truyện Kiếm Hiệp (http://forums.vinagames.org/forumdisplay.php?f=39)
-   -   anh hùng đông á dựng cờ bình đông (http://forums.vinagames.org/showthread.php?t=2746)

egeo 06-19-2004 04:58 PM



C47:PHẢI COI DÂN NHƯ CON ĐỎ

Đoàn quân của các Đô-thống Lê Phẩm, Phạm Long, Nguyễn Bích rút về tới Phù-lỗ, thì được Nguyên-Phong hoàng đế cùng Hưng-Đạo vương ra đón. Đoàn quân mang theo 180 tù binh Mông-cổ. Các tướng tâu trình diễn tiến trận đánh lên hoàng đế. Ngài truyền lập đàn tế vọng tướng quân Phạm Cụ-Chích cùng chư quân. Bọn tướng trâu là 4 Cu, 5 Trâu, 5 Hĩm, 5 Cái cũng làm lễ tế Cu Méo. Chúng vừa tế xong, thì Tuyên-Minh thái hoàng thái hậu cùng hai vương phi, dẫn Vũ Mạc, Mụ Tình và Cu Méo về tới. Bọn tướng trâu reo hò, ôm lấy nhau mừng chi siết kể. Chúng quên cả hành lễ với Thái-hoàng thái hậu.
Sau khi nghe Thái-hoàng thái hậu, hai vương phi tường thuật tình hình quân Mông-cổ :
- Lúc nghị kế, Hưng-Đạo vương đã định rõ rằng chúng ta cũng như các tôn sư võ học chia nhau, tìm cách ẩn thân để biết quân tình giặc. Tuyệt đối không xuất hiện. Chờ lúc phản công hãy ra tay. Nhưng trong trận Bình-lệ-nguyên, vì thấy Hoàng-nhi có thể bị hại, nên Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm Vô Ảnh, Vô Sắc, Vô Huyền phải xuất hiện. Trong trận Cụ-bản, chúng ta ẩn thân từ đầu đến cuối. Nhưng sau cùng không nín được trước sự tàn bạo của Mông-cổ, mà phải xuất hiện giết A Tan, Triệt Triệt Đô. Chúng ta chịu lỗi với Tiết-chế.
Nghe nhắc đến Vô-Huyền bồ tát, tim Nguyên-Phong hoàng đế nhi bị kim đâm vào, ngài cảm thấy đau nhói một cái.
Hưng-Đạo vương chắp tay :
- Muôn ngàn lần thần nhi không dám.

******
Ghi chú của thuật giả.
Tuyên-Minh thái hoàng thái hậu là thái tổ mẫu (cụ) của Hưng-Đạo vương. Nhưng, khi lĩnh nhiệm vụ, Ngài vẫn tự coi mình là người thuộc quyền của vương. Như vậy tỏ ra đức của Ngài cao biết mấy. Nhắc để độc giả nhớ :
Nguyên-tổ Trần Lý, Tuyên-Minh thái hoàng thái hậu sinh Thái-tổ Trần Thừa. Thái-tổ Trần Thừa sinh Anh-sinh vương Trần Liễu. An-sinh vương Trần Liễu sinh Hưng-Đạo vương.

Nguyên-Phong hoàng đế ban chỉ phong chức tước cho các tướng Cụ-bản như sau :
Đô-thống Lê Phẩm thăng lên Vân-ma thượng tướng quân, tước Phong-điền bá.
Đô-thống Nguyễn Bích thăng lên Chinh-thảo thượng tướng quân, tước Nga-sơn bá.
Đô-thống Phạm Long thăng lên Bình-Tây thượng tướng quân, tước Hiệp-sơn bá.
Đại-tư Vũ Mạc thăng lên An-phủ sứ Hồng-châu.
Mụ Tình xin được theo hầu Tuyên-minh thái hoàng thái hậu.
Quách thị Gái được truy phong Thạc-hòa Vũ-liệt Anh-văn công chúa. Sau này, hết giặc, triều đình ban tiền truyền dân làng Cụ-bản lập miếu thờ. Nay không còn di tích.
******

Bọn tướng trâu lại được thăng chức từ Đô-úy lên Vệ-úy, quân hàm Tá-lĩnh. Tuy cách nhau có mấy ngày, nhưng bọn tướng trâu đã biết giá trị của quân giai, chúng tạ ơn nhà vua, vui vẻ nhận sự ban thưởng. Riêng Dã-Tượng, Hĩm Còi, công trạng quá nhiều, chúng được thăng lên cấp Đô-thống. Tổng lĩnh bọn tướng trâu.
Các tướng sĩ nhất nhất đều được thăng chức, tước. Lại truyền tất cả rút về Đông Thăng-long đặt dưới quyền Hưng-Ninh vương để bổ xung quân số, chuẩn bị phản công.
Bọn tướng trâu lại nhao nhao đòi ở lại chiến đấu. Ai nói chúng cũng không nghe. Chúng còn viện dẫn một điều luật của Ngưu-binh, mà chúng được học tại trường Hoa-lư :
%AB Chúng ta là con cháu của Phù-Đổng thiên vương, là hậu duệ của vua Đinh. Khi đối diện với địch quân, chúng ta chỉ tiến mà không lùi. Tiến là vinh, lùi là nhục %BB.
Cuối cùng Hưng-Đạo vương phải can thiệp :
- Ta biết các con là con cháu Phù-Đổng thiên vương, là hậu duệ của vua Đinh. Ta ghi nhận tấc lòng son với xã tắc của các con. Thế nhưng địa thế Phù-lỗ quá chật hẹp, không cần nhiều Ngưu-binh. Vậy trong 20 Vệ-úy, chỉ 5 con ở lại cũng đủ rồi.
Nghe vương ban lệnh, chúng răm rắp tuân theo. Vương tiếp :
- Ta quyết định để Đô-thống Hĩm Còi với 5 Vệ-úy Cái ở lại dự trận Phù-lỗ.
Vương gọi Hĩm Còi vào trướng, rồi ghé miệng vào tai nó dặn dò một lúc. Không biết vương dặn gì, mà chỉ thấy con bé cười rất tươi luôn gật đầu, tỏ ra thích thú vô cùng.
Hưng-Đạo vương ban lệnh cho Phú-lương hầu Trần Tử-Đức:
- Hơn tháng trước, triều đình phái loa đi khắp các phường quanh Thăng-long giảng cho dân chúng biết rõ sự tàn bạo của Mông-cổ, rồi ban lệnh cho dân chúng phải rời khỏi Thăng-long. Thế nhưng có người nghe, có người không. Vì vậy mà đến hôm qua, Thăng-long còn đến ba phần chưa sơ tán. Sau khi Bình-lệ-nguyên thất thủ, tin đưa về, triều đình lại sai loa đi báo cho dân biết, rồi hạ lệnh: Nội trong một hai ngày, quan quân sẽ rút khỏi Thăng-long. Dù Mông-cổ chưa tới, nhưng Thăng-long không có quân canh phòng, e trộm cướp sẽ hoành hành. Thế nhưng bọn người Hoa nhất định không tin, không nghe. Họ cho rằng Mông-cổ sang đây với mục đích đánh vua Việt, dân Việt. Họ là người ngoại quốc, họ vô can. Những người Hoa này ảnh hưởng tới nhiều người Việt.
Trần Tử-Đức than:
- Triều đình cũng như vương huynh đã hết sức lo lắng, yêu thương dân, ngay dù dân đó là người Hoa. Nhưng họ lại không tự biết yêu thương lấy họ, thì mình cũng không làm gì hơn được.
- Đệ luận như vậy là luận theo lý. Phàm làm vua, làm quan, phải coi dân như con đỏ. Con mình, mình dạy năm lần bẩy lượt mà còn không xong, huống hồ dân chúng. Dù họ không nghe triều đình, nhưng triều đình không thể để họ bị giặc giết. Nên Hoàng-thượng truyền Khâm-Thiên đại vương lưu ba hiệu Thiên-thuộc, Thiên-cương, Thiên-thánh, đóng lẫn với dân trong thành Thăng-long, để bảo vệ họ đến giờ :Dt... Tôi cũng đã ban lệnh cho chiến lũy Cụ-bản, bằng mọi giá phải cầm chân giặc trong năm ngày, để dân chúng Thăng-long có thời giờ sơ tán. Nhưng thế giặc mạnh quá, thành ra Cụ-bản thất thủ.
Vương nắm tay Hầu:
- Vậy quân hầu hãy cố gắng cầm cự càng lâu càng tốt, để dân Thăng-long kịp chạy về các vùng quê.
Trần Tử-Đức cam kết:
- Xin Tiết-chế an tâm. Nếu giặc muốn vượt qua Phù-lỗ thì chúng phải bước qua xác thần.
Nguyên-Phong hoàng đế, Hưng-Đạo vương cùng một số đại thần xuống thuyền xuôi về Thăng-long.
Phú-lương hầu họp chư tướng lại, phân nhiệm vụ lần cuối. Hầu nói với chư tướng:
- Từ khi nhập biên đến giờ, giặc bị bất ngờ, bị trúng kế của ta quá nhiều. Tuy chúng bị thiệt hại nặng, nhưng chưa quá 1 phần mười quân số. Bây giờ, Cụ-bản thất thủ, có lẽ sáng mai chúng sẽ đánh ta.
Ông chỉ vào địa thế Phù-lỗ:
- Vị trí của ta hai mặt là sông. Phía sau là cánh đồng. Bên hông trái là rừng lau sậy. Nếu ta phá cầu, thì không dễ gì chúng vượt sông tấn công ta được. Nhưng sông về mùa Đông, nước cạn, có thể chúng lội sang tấn công. Chúng ta hiện chỉ có một hiệu bộ binh Yên-phụ, một đạo Ngưu-binh, một đạo Kỵ-binh. Trong khi giặc có hai chục vạn. Vậy chúng ta phải nghênh chiến như thế nào, để có thể cầm chân giặc ?
Đô-thống Trần Trữ, chỉ huy hiệu binh Yên-phụ đề nghị:
- Theo binh pháp của Hưng-Đạo vương, khi đối phương là quân ngoại quốc, dù dùng chiến thuật nào chăng nữa, ta cũng luôn đặt chúng vào thế bị động. Vì thế, từ khi Mông-cổ nhập biên đến giờ, chúng không bao giờ được yên. Như đoạn đường từ biên giới tới Thảo-lâm do Vũ-Uy vương. Từ Thảo-lâm đến Bình-lệ-nguyên do tướng Lê Phụ-Trần. Từ Bình-lệ-nguyên tới Cụ-bản do tướng Phạm Cụ-Chích. Không lẽ từ Cụ-bản đến đây, ta để cho chúng yên?
Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh đứng dậy :
- Không! Đời nào ta để cho chúng yên nhỉ?
Là người có chí khí hùng tráng, ông phát biểu như thế, nhưng vốn ít mưu, ông hỏi lại cử tọa :
- Vậy chúng ta nên làm những gì?
Cử tọa bật cười.
Đô-thống Trần Trữ nghị:
- Từ Cụ-bản tới đây không quá hai chục dặm. Đường lại rộng, hai bên là cánh đồng lau sậy, cỏ gianh, rất khó ẩn núp. Mông-cổ chỉ cần một khắc là chiến mã của chúng có thể tới đây. Muốn cản chúng ta phải làm gì ? Ta dùng Ngưu-binh đột kích trong đêm, e không hiệu nghiệm nữa. Nã Lôi-tiễn e cũng khó khăn, vì địa thế quanh Phù-lỗ không có vị trí nào an toàn để đặt Lôi-tiễn.
Mọi người đưa mắt nhìn Đô-thống Lý Tùng-Bách, bởi ông nổi tiếng là mưu thần, chước thánh. Lý Tùng-Bách trầm tư một lát rồi đứng lên:
- Trước hết, căn cứ Phù-lỗ này là một ải, hơn là một chiến lũy, cũng không phải là một làng như Cụ-bản. Trong ải chỉ có quân, không có dân. Cũng lại không có hào sâu, lũy tre phòng vệ. Từ bờ đê đến ải có một khu rừng trúc khoảng hơn dặm. Khu này đất cứng. Giặc có thể đặt máy bắn đá, Lôi-tiễn nã vào ta. Vì vậy tôi có đề nghị : Một là, dọc hàng rào, cũng như trong ải, ta đào thực nhiều hố cá nhân, vừa đủ một người ngồi nấp ở dưới. Như vậy, nếu chúng nã Lôi-tiễn, bắn đá vào, thì chỉ khi nào rơi trúng hố, mới khiến quân ta thiệt hại mà thôi. Khi giặc tấn công, ta đợi chúng tới hàng rào, quân hai bên lẫn vào nhau, Lôi-tiễn, máy bắn đá vô dụng. Bấy giờ ta dùng đao-quất phản công, thì có thể giữ được ải lâu hơn. Hai là, ải quá hẹp, giữ Ngưu-binh, Kỵ-binh ở trong vô ích, chỉ làm mồi cho Lôi-tiễn, cho máy bắn đá. Từ lúc nhập biên đến giờ, bọn Mông-cổ chưa được xử dụng Kỵ-binh, chúng cực kỳ ấm ức. Nhân đoạn đường Cụ-bản đến đây, hai bên đường toàn cỏ gianh. Phía sau lớp cỏ gianh khoảng 3 đặm, có khu đất dài 8 dặm, sâu 10 dặm. Sâu nữa là đồng lầy. Tôi sẽ lừa cho chúng đem Lôi-kỵ vào đó, rồi kỵ chiến, ngưu chiến một trận cho chúng biết con cháu Phù-Đổng Thiên-vương giỏi kỵ chiến hơn chúng nhiều. Sau đó chúng ta làm như thế...như thế...May ra ta có thể cầm chân chúng đươc ít ngày, để Thăng-long có thời giờ di tản. Ba là khi chúng tiến quân đến bờ sông, thấy sông nông, chúng sẽ cho Lôi-kỵ lội qua. Ta đào hố cá nhân bên bờ Nam đê, phục binh tại đây, đợi khi Lôi-kỵ vừa tới thì nấp sau khiên-mây, dùng Nỏ-thần, đao-quất, tấn công.
Ông hỏi Đô-thống Ngưu-binh Hĩm Còi:
- Hôm qua bọn em giải 180 tù binh Mông-cổ theo. Lúc về tới đây thì 3 thương binh bị chết. Hiện chưa chôn. Khi rời đây về Thăng-long, Hưng-Đạo vương đã ban lệnh cho em phải làm như thế...như thế...Có đúng không?
- Đúng vậy!
- Ái chà!
Phú-lương hầu xua tay: Làm như vậy thì thành công, nhưng nguy hiểm lắm!

Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh tỏ ra thích thú :
- Nguy hiểm thì nguy hiểm, theo tôi nghĩ chỉ có phương pháp đó thôi. Tôi xin lĩnh nhiệm vụ này.
- Được !
Tử Đức miễn cưỡng gật đầu: Còn trấn thủ ải. Tuyến bờ sông do quận chúa Ý Ninh chỉ huy. Tuyến trái do phu nhân Thiệu Hoa chỉ huy. Tuyến phải do Đô-thống Trần Trữ chỉ huy. Tuyến hậu do Vệ-úy Trần Minh chỉ huy.
Quận chúa Trần Ý Ninh đề nghị:
- Trước sau gì thì chúng cũng cho Kỵ-binh vượt sông. Vậy dưới lòng giòng sông, nửa bên này, ta nên đóng thực nhiều chông, chăng giây ngầm. Khi chúng vừa tới bờ, bị vướng giây, dẵm chông, hàng ngũ hỗn loạn, thì Nỏ-thần, đao quất tấn công mới có hiệu quả.
Đến đó chim ưng mang lệnh của Hưng-Đạo vương đến:
" Phải tối cẩn thận. Quân Mông-cổ đang đóng thêm bè, nhặt những thuyền nhỏ của dân chúng. Có thể sáng mai, khi đánh Phù-lỗ quá khó khăn, chúng sẽ bỏ Phù-lỗ lại sau, rồi tốc thẳng tới Thăng-long. Trường hợp này cần thủ ải cho chắc. Mặt trận Thăng-long đã có Khâm-Thiên đại vương đối phó".

Sáng hôm sau, khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì Ngột-lương Hợp-Thai ban lệnh cho các tướng :
- Trước mặt chúng ta là chiến lũy Phù-lỗ. Từ đây tới Phù-lỗ, đường không quá 20 dặm. Bên phải là sông, bên trái là khu rừng hoang toàn cỏ gianh. Bây giờ đang giữa mùa Đông, cỏ khô héo, lưa thưa, chúng không thể phục binh. Qua Phù-lỗ 20 dặm là tới Thăng-long. Chiếm Thăng-long rồi, thì các phủ, các trấn phải đầu hàng. Vậy lương thực ta để cả ở Cụ-bản. Đợi khi vào Thăng-long, thì ta bắt các quan lại An-Nam phải cung đốn.
Lập tức, y ra lệnh tiến quân. Hơn giờ sau, đoàn Lôi-kỵ đã xuất khỏi Cụ-bản, dàn hàng ba, nối đuôi nhau hướng về Phù-lỗ. Người chỉ huy chính là A Truật, con trai của Ngộﴭlương Hợp-thai.
Sau cái chết của hai đại tướng Triệt Triệt Đô, A Tan, với năm Vạn-phu trưởng, mười Thiên-phu trưởng. Quân Mông-cổ không còn kiêu khí nữa, mà trong thâm tâm những người lính Mông-cổ đều nghĩ rằng, mình đang đi vào vùng đất linh. Thiên-phu dẫn đầu là Thiên-phu do Hòa-Khâm chỉ huy.
Vó ngựa vỗ dòn dã trên đường. Ra khỏi cổng hậu của làng, thì đi vào vùng đất hoang toàn cỏ gianh, lau sậy ở hai bên đường. Bấy giờ là tiết trọng Đông, cỏ khô héo. Mấy hôm nay trời lại không mưa, nên cây cỏ càng hiu hắt.
Thình lình quân ùn lại. Thập-phu trưởng đi đầu quay ngựa báo :
- Thưa tướng quân, giữa đường có năm Lôi-kỵ ngồi quay lưng lại phía ta. Xin tướng quân quyết định.
- Phải cẩn thận ! Coi chừng trúng ma kế của Nam-man.
Y tế ngựa lên quan sát : Năm Lôi-kỵ ngồi bất động. Quân phục trên người còn đầy đủ. Quan sát xung quanh, không thấy có gì đáng ngại. Y hất hàm ra lệnh. Hai Lôi-kỵ xuống ngựa, lại quan sát. Thì ra đó là năm xác tử sĩ, được đặt giữa đường.
- Hãy đem vào bãi đất kia chôn cất tử tế.
Vì là quân tiên phong, không có lao binh theo, nên mười Lôi-kỵ phải xuống ngựa. Ngựa thả bên đường. Vũ khí bỏ cạnh xác tử sĩ , rồi dùng mai đào lỗ. Toàn quân tiếp tục hành trình. Cho đến lúc người lính cuối cùng của Thiên-phu tiên phong đã khuất vào khu rừng cỏ, mà cuộc đào hố vẫn chưa xong.
Bỗng có tiếng quát lớn, rồi ba thây ma đang nằm trên bãi cỏ ven đường, vọt mình dậy, tay chụp đao. Đao vung lên, sáu Lôi-kỵ bị chặt làm hai khúc. Bốn Lôi-kỵ còn lại, chưa kịp phản ứng thì đã bị mười đứa con gái từ bụi rậm xuất hiện. Nhanh không thể tưởng tượng được, chúng dùng gậy tre phang túi bụi. Cả sáu Lôi-kỵ bị bắt.
Hĩm Còi khen :
- Anh Sanh ! Mưu anh hay thực. Bây giờ ta phải làm gì ?
- Đặt sáu xác chết này nằm ngay ngắn thành hàng giữa đường. Rồi ta làm như thế...như thế...
Thiên-phu thứ nhì nối tiếp ra khỏi Cụ-bản, do Thiên-phu trưởng Vương Huy chỉ huy. Vừa ra khỏi làng, viên Thập-phu trưởng đi đầu khám phá ra một hiện tượng kỳ lạ : Giữa đường, sáu xác chết Lôi-kỵ nằm thành một hàng ngay ngắn. Cạnh mỗi xác chết là một cây gậy tre, loại vót nhọn, mà dân binh Việt thường dùng. Sáu cây gậy cắm xuống cạnh sáu xác chết.
Y dừng ngựa lại, tay lăm lăm vũ khí, quan sát xung quanh : Trên bãi đất cạnh đường còn ba xác chết nữa, máu đã khô, đặt cạnh sáu cái hố mới đào. Hiện tượng quái gở này, không sao giải thích được. Y quay ngựa trở lại báo với Vương Huy. Vương Huy cũng kinh ngạc không ít :
- Rõ ràng Thiên-phu đi đầu chưa giao chiến với giặc, mà sao lại có sáu xác mới chết, và ba xác chết đã lâu ?
Bỗng có tiếng kêu cứu từ trong rừng cỏ vọng ra :
- Tôi là Thập-phu trưởng Dược Ca Đa (Jurcãdã). Cứu tôi với.
Tiếng kêu không xa mấy.
Vương Huy hỏi :
- Người ở đâu ?
- Tôi bị bắt, bị trói bỏ vào chỗ cỏ rậm này.
Rừng cỏ mênh mông, biết chỗ nào mà tìm ?
Vương Huy chỉ tay ra lệnh. Ba Lôi-kỵ rẽ ngựa vào rừng cỏ. Tiếng cầu cứu vẫn vọng lại :
- Cứu tôi với.
Ba Lôi-kỵ hướng theo tiếng kêu mà tìm cứu đồng bọn. Gần một khắc qua, không thấy ba Lôi-kỵ trở lại, Vương Huy sốt ruột, y ra lệnh cho một Thập-phu :
- Người hãy vào lục soát xem.
Viên Thập-phu dẫn mười Lôi-kỵ men theo lối đường mòn, tìm dấu chân ngựa mà đi. Gần khắc sau, có tiếng ngựa hý, tiếng quát tháo, tiếng vũ khí chạm nhau vọng ra, rồi im bặt. Vương Huy kinh hãi :
- Như vậy Thập-phu Lôi-kỵ gặp hung hiểm rồi.
Đến đó thì A Truật tới. Vương Huy báo cáo tình hình. A Truật còn đang chần trừ chưa quyết định thì Thám-mã phi tiễn từ Thiên-phu Hòa Khâm trở lại báo cáo diễn tiến từ sáng đến giờ.
Nghe y báo, A Truật kinh hãi :
- Thế thì bọn Dược Ca Đa bị trúng phục binh rồi. Mười Lôi-kỵ của ta e cũng gặp hung hiểm.
Y ra lệnh cho một Bách-phu dàn Lôi-kỵ tiến vào rừng. Đi khoảng hơn dặm, thì thấy đao, lao, cung, tên của Lôi-kỵ vương vãi trên mặt đất với nhiều vết máu. Viên Bách-phu trưởng sai người ra báo cáo tình hình với A Truật. A Truật ra lệnh cho Vương Huy dàn cả Thiên-phu tiến vào rừng cỏ. Vừa tiến sâu vào hơn hai dặm, thì không còn cỏ gianh, lau sậy nữa mà là một bãi đất toàn cỏ gấu. Xa xa Kỵ-binh Đại-Việt dàn ra, cờ xí nghiêm chỉnh. Một cây cờ bay phất phới với hàng chữ
%AB Thống lĩnh hiệu binh Phù-Đổng.
Đô-thống Lý Tùng-Bách %BB.
Vốn tự kiêu về Lôi-kỵ của mình, thế mà từ lúc nhập biên bọn Vương Huy chưa từng thấy Kỵ-binh Đại-Việt, chứ đừng nói được giao chiến. Bây giờ là lần đầu tiên thấy Kỵ-binh dàn trên một cánh đồng bằng phẳng, cỏ chỉ cao tơí đầu gối. Địa thế giống hệt vùng Thảo-nguyên. Lòng kiêu hãnh nổi dậy, y cầm cờ phất , ra lệnh tiến quân, mà quên cả báo cho A Truật biết. Y dùng chiến thuật cố hữu của Mông-cổ : Hai Bách-phu tấn công đợt đầu, phóng lao, bắn cung, rồi cho hai Bách-phu đợt hai chọc thủng phòng tuyến địch, đánh tỏa ra hai bên. Đợt ba hai Bách-phu chọc sâu vào phòng tuyến địch. Đến đây thì cho bốn Bách-phu cuối cùng đánh ép hai bên trận.
Hai Bách-phu Lôi-kỵ hú lên rùng rợn, dàn hàng lao tới như bay. Khi sắp tới trận, chúng phóng lao, bắn cung, rồi quay trở lại, Kỵ-binh Việt dơ khiên-mây lên hứng, bao nhiêu tên, lao bị ghim vào khiên-mây hết. Một hồi tù và nổi lên, thế trận Việt đổi thực nhanh. Kỵ-binh lùi lại sau, bây giờ tuyến đầu là Ngưu-binh, trước mỗi trâu có một khiên-mây lớn. Hai Bách-phu Lôi-kỵ thứ nhì tấn công. Lao, tên ghim vào khiên-mây. Tướng chỉ huy Ngưu-binh là 6 đứa con gái, mặt còn non choẹt.
Đợt tấn công thứ ba của Lôi-kỵ ào ạt lao tới, thế trận Đại-Việt lại đổi thực nhanh, tất cả lùi lại sau hơn trăm trượng, những màng Vạn-thằng dăng ra khắp mặt đất. Hai Bách-phu Lôi-kỵ không dừng ngựa kịp. Ngựa vướng giây ngã lăn ra. Trong khi đó trận Việt tách làm ba : Giữa là Ngưu-binh. Còn Kỵ-binh tỏa thành hai cánh đánh bọc vào trận Mông-cổ. Thế là trận thế Mông-cổ bị hỗn loạn. Bộ binh xông ra dùng đao-quất, không đầy mười cái chợp mắt, hai trăm Lôi-kỵ, hai trăm ngựa bị giết tươi. Giữa lúc đó đợt tấn công thư tư như sóng vỗ ào ạt như thác đổ. Lôi-kỵ vung đao chém bộ binh. Bộ binh lăn tròn dưới đất, đao-quất vung lên, chân ngựa bị chặt. Hàng ngũ Lôi-kỵ bị rối loạn. Vương Huy tung tất cả Lôi-kỵ xông vào. Cuộc chiến đấu kinh khủng diễn ra trong hai khắc, mà thắng bại chưa phân.

Vương Huy tự thị võ công cao, y cùng đội võ sĩ mười người lao tới trung quân định bắt sống Đô-thống Lý Tùng-Bách. Cạnh Lý Tùng-Bách cũng chỉ có mười Kỵ-mã. Vương Huy hú lên một tiếng, bọn võ sĩ của y cùng dương cung bắn tên, nhanh như chớp phóng lao. Tùng-Bách quát lên một tiếng, đám võ sĩ của ông cùng dơ khiên-mây đỡ. Lao, tên bị cản lại. Cũng có võ sĩ không chịu dùng khiên-mây, tay phải rút kếm gạt tên, tay trái bắt lao, rồi thúc chân vào bụng ngựa. Ngựa nhảy lùi liền mười bước. Một trận địa giây dăng ra dưới đất như màng nhện. Biến chuyển xẩy ra đột ngột, bọn Vương Huy không kịp dừng ngựa. Ngựa của y cùng mười võ sĩ bị vấp ngã. Ngưu-binh tung giây ra. Bọn Vương đã bị bắt.
Tuy Thiên-phu trưởng bị bắt, nhưng bọn Lôi-kỵ vẫn chiến đấu ác liệt. Giữa lúc đó thì rừng bốc cháy ngùn ngụt. Rừng cỏ gianh về mùa Đông khô héo, gặp gió, phút chốc lửa lan ra một vùng mênh mông. Khu rừng biến thành biển lửa chặn mất đường về của bọn Mông-cổ.
Ở ngoài con đường cái quan, A Truật không thấy tin báo của Vương Huy, lại nghe tiếng ngựa hý, tiếng quân reo, thì biết rằng đang có cuộc giao tranh. Tự hào về Lôi-kỵ, y cho án binh bất động chờ đợi.
Sau hai khắc, thấy rừng cỏ gianh bốc cháy. Khu cháy ngăn giữa quân Vương Huy với y, thì chột dạ :
- Chết rồi, Nam-man dùng hỏa công.
Y ra lệnh cho ba Thiên-phu xông vào tiếp viện. Nhưng bị ngọn lửa chặn phía trước, thành ra người, ngựa chỉ dàn ra hò hét.
Ngột-lương Hợp-thai đã tới. Nghe báo cáo tình hình, y nghiến răng nghĩ thầm
- Khổ thực ! Bọn Lôi-kỵ của ta đều thuộc nằm lòng rằng phải tránh đồng lầy, rừng rậm, đề phòng hỏa công. Nhưng từ khi nhập biên, bị Nam-man gây bất ổn, sức mạnh không có nơi phát tiết, nên mới bị trúng kế.

Ngọn lửa cháy sang giờ Mùi (13-15 giờ), tự nhiên gó Bắc thổi, mưa phùn mù mịt giăng ra đầy trời. Ngọn lửa mới dứt. Khu rừng cỏ chỉ còn lại những cây cháy xém trơ trọi. Nhìn xa xa, khoảng 6 dặm, y thấy trên một bãi đất rộng mênh mông, đầy xác Lôi-kỵ, xác ngựa. Đích thân Ngột-lương Hợpﭴhai dẫn một Thiên-phu băng qua khu rừng cỏ cháy. Tới chiến trường, y sai gọi hai Thiên-phu lao binh tới thu nhặt xác người chôn cất. Còn xác ngựa, thì sai xẻ thịt làm lương thực. Sau khi quan sát trận địa, nhìn vết chân ngựa của Lôi-kỵ, của quân thù, y rùng mình hỏi Trịnh Ngọc:
- Đây là lần đầu tiên An-Nam dùng Kỵ-binh giao chiến với ta. Không biết tướng nào chỉ huy? Tên này quả là một tướng kỵ binh lỗi lạc.
- Tướng Kỵ-binh giỏi nhất An-Nam là Lê Tần, y được phong Vũ-kỵ thượng tướng quân. Phó tướng là một Đô-thống còn trẻ, có tên Lý Tùng-Bách. Đây là một tên nức tiếng trí dũng hơn đời. Ngoài võ công cao thâm, tài dùng binh như thần, y còn là người nổi tiếng mưu mẹo không biết đâu mà lường. Qua trận đánh này, bằng vào cung cách lừa Vương Huy, lựa địa thế, đốt cỏ...Tôi đoán tướng chỉ huy trận này phải là Lý Tùng-Bách.
- Bọn An-Nam thực can đảm hiếm có. Chỉ nguyên cái vụ chúng giả làm xác chết lừa ta, cũng đáng sợ rồi. Lại nữa, khi Vương Huy dàn hàng ngang một Thiên-phu băng qua rừng cỏ gianh, chúng ẩn thân thế nào mà Lôi-kỵ không khám phá ra...cuối cùng chúng phóng hỏa đốt rừng !
- Thưa Thái-sư ! Cái lối chơi trò ma trò quỷ này có lẽ do tên Nguyễn Thiên-Sanh thực hiện.
- Nguyễn Thiên-Sanh là ai ?
- Y là em kết nghĩa của Trần Tử-Đức với Lý Tùng-Bách. Trong ba tên này thì Trần Tử-Đức đứng đầu. Y thuộc tôn thất nhà Trần, là một trong những tướng tài. Y được cử trấn tại Phù-lỗ. Thứ đến Lý Tùng-Bách. Cuối cùng là Nguyễn Thiên-Sanh. Sanh ít học, nhưng yêu nước cuồng nhiệt, can đảm bậc nhất. Y hành sự xuất quỷ nhập thần. Vì vậy được thăng tới Đô-thống. Hiện y chỉ huy Vệ Tế-tác của Phù-lỗ. Cạnh y, còn có 12 tên, xuất thân từ trộm cướp, võ công khá cao. Cả 12 tên cùng Sanh kết anh em, được vua An-Nam ban cho mỹ danh là Đại-đởm thập tam kiệt. Mười hai tên này với y, thường hành sự táo bạo. Vì vậy tiểu nhân nghĩ, cái vụ giả xác chết, ngoài bọn y không có người thứ nhì nào bạo gan như vậy.
Hoài-Đô đề nghị :
- Thưa Thái-sư , mình có nên cho Lôi-kỵ đuổi theo bọn Lý Tùng-Bách không ?
- Không thể, không nên ! Bởi phía sau bãi chiến trường kia toàn là đồng ruộng lầy lội, không có nơi cho Lôi-kỵ vùng vẫy. Ta đành nhịn nhục chúng. Mục tiêu của chúng ta là Thăng-long kia mà. Chiếm được Thăng-long, thì các trấn, các huyện phải đầu hàng.
Ngột-lương Hợp-thai để lại hai Thập-phu Lôi-kỵ bảo vệ bọn lao binh, rồi ra lệnh rút quân khỏi bãi chiến trường. Khi toàn quân rời khỏi bãi đất, y với các tướng đi theo vẫn còn tần ngần quan sát bãi chiến trường. Y có ý chờ cho cuộc chôn cất xong, mới rút cùng với bọn lao binh.
Thình lình có tiếng hú dài miên miên bất tuyệt, rồi mười ba xác chết quân Mông-cổ đang nằm dài, vùng dậy tung mình lên mình ngựa của Lôi-kỵ, ra roi phi vào con đường mòn của khu rừng. Đám võ sĩ cận vệ của Ngột-lương Hợp-thai thúc ngựa đuổi theo, nhưng khi vừa vào con đường nhỏ, thì tên bắn ra veo véo. Chúng phải dừng ngựa lại.
Tuy ty hí mắt lươn, nhưng tên Trịnh Ngọc cũng kịp nhận ra đám xác chết cướp ngựa. Ychỉ vào xác chết đi cuối cùng :
- Thiên-Sanh ! Cái tên đi sau cùng chính là Nguyễn Thiên-Sanh.
Ngột-lương Hợp-thai giận run người, nhưng y phải khâm phục bọn Đại-đởm thập tam kiệt.
Sau khi chôn cất tử sĩ, Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh tiếp tục tiến binh.
Sang giờ Thân, thì chiến lũy Phù-lỗ hiện ra. Hòa Khâm báo cáo :
- Kìa, chiến lũy nằm trên bờ sông. Vì vậy thuộc hạ phải dừng quân chờ lệnh Thái-sư.
Trời bắt đầu chập choạng tối. Không có bãi đất rộng. Quân Mông-cổ chia thành từng khu, dọc theo con đường từ Cụ-bản tới Phù-lỗ. Mỗi khu đóng không quá 2000 quân. Quân kỵ đóng trước. Phía sau là quân bộ, quân Đại-lý. Thành ra khu vực đóng quân khá rộng. Đèn đuốc đốt sáng chưng một vùng. Lao binh chia nhau vào rừng kiếm củi nấu ăn. Trong khi bên kia sông, chiến lũy Phù-lỗ nằm im lìm trong bóng đêm, không một ngọn đèn leo lét !
Ngột-lương Hợp-thai, A Truật, Hoài Đô chia nhau cỡi ngựa đi kiểm soát lại các khu đóng quân, khu giữ ngựa, khu chứa lương. Thành ra đến hết canh hai, mới trở về trướng. Trời khá lạnh, trong soái lều lao binh đã lấy đất đắp thành cái lò sưởi, chất củi đốt lên sưởi ấm cho chúa tướng.
Lao binh dâng thịt ngựa nướng. Cả ba cùng lấy bầu rượu rót ra uống. Uống hết bầu thứ nhất, Hoài Đô hỏi lao binh :
- Còn rượu không ?
Tên lao binh sang lều kế bên là nơi chứa vũ khí, dụng cụ, của cải của Ngột-lương Hợp-thai, mang sang một bầu rượu khác.
A Truật tiếp lấy, rót ra ba cái bát :
- Nào ! Chúng ta cùng uống, để ngày mai vào Thăng-long.
Vừa uống hớp thứ nhất, cả ba cùng cảm thấy mùi khai nước đái ngựa quen thuộc. Nhưng đã trót nuốt một ngụm. Cả ba nhổ nước bọt, rồi gọi ba lao binh phụ trách nấu ăn, thì không thấy chúng đâu. Hoài Đô gọi tên trưởng toán, cũng không thấy. Linh cảm có gì bất ổn, cả ba ra khỏi lều, thì thấy tên lao binh phục dịch nằm úp mặt xuống đất, lưng bị đâm một nhát dao ngay giữa tim. Máu còn đang chảy xối xả.
Hoài Đô giật mình:
- Kẻ nào dám sát hại thân binh ngay trước soái lều?
Tên Bách-phu trưởng phụ trách hầu cận tới. Nghe Hoài Đô thuật, y kinh hãi, truyền lục soát khắp soái lều, nhưng không thấy gì khác lạ. Khi y cầm bình rượu nước đái ngựa lên, thì thấy dưới đáy vẽ hình cái đầu người méo miệng, với hàng chữ Hán :
%AB Đại-đởm thập tam kiệt bái kiến %BB.
Hoài Đô hét :
- Ngay soái lều của ta là chốn tôn nghiêm, mà bọn Man ra vào giết người ngay trước mắt thì chúng muốn lấy tính mạng ta lúc nào thì lấy hay sao ?
Đến đây quân tuần phòng báo :
- Tìm thấy xác chết của lao binh trưởng toán hầu cận Thái-sư, cùng bốn lao binh thuộc quyền ở trong rừng. Cả bốn đều trần truồng.
A Truật hiểu ngay : Bọn Đại-đởm thập tam kiệt đã giết bọn lao binh, lấy y phục của chúng mặc vào, rồi đột nhập hý lộng quỷ thần. Tuy kinh hãi, tức giận cùng cực, nhưng bọn Ngột-lương Hợp-thai cũng phải khâm phục kẻ thù.
A Truật truyền lệnh đem tên Bách-phu trưởng phụ trách hầu cận ra chém đầu, rồi lấy một tên gốc người Mông-cổ thay thế. Bọn lính hầu cũng thay thế hết. Bàn tiệc thịt nướng khác lại được bầy ra. Để ý thấy tên hầu cận cầm nhưng ống luồng dài, bỏ vào lò sưởi. Hoài Đô hỏi:
- Sao người không lấy củi mà lấy ống luồng? Luồng đâu có nhiều hơi nóng?
- Thưa phò mã, khi chiếm Cụ-bản, quân ta tịch thu được mấy nghìn ống luồng. Trong ống đựng xương thú, rơm tẩm bùn. Khi đốt lên, sức nóng rất mạnh, mà lại lâu nữa.
Hoài Đô cầm một ống luồng lên coi, rồi gật đầu:
- Mình phải học lấy kỹ thuật này, mang về Mông-cổ, dậy dân, để dân biết chế tạo ra chất cháy mà sưởi ấm.
Sẵn thấy mười ống luồng để ngay cạnh đó, y bỏ vào lò sưởi. Thình lình lửa nháng sáng lòe, vốn có võ công cao, Ngột-lương Hợp-thai, Hoài Đô, A Truật tung mình khỏi lều, thì một tiếng nổ kinh hồn động phách phát ra, tiếp theo, bốn tiếng nữa. Soái lều chìm trong ngọn lửa, khói đen bốc lên mù mịt. Ngọn lửa được dập tắt. Ba tên thân binh hầu cận bị banh xác, da cháy đen như bò bị thui.
Tuy thoát chết, nhưng hú hồn. Vốn thông minh, Hoài Đô hiểu ngay: Mấy ống luồng mà chính tay y bỏ vào lò sưởi, là ống luồng chứa chất nổ. Y sai lao binh kiểm lại kho chứa ống luồng, thì chỉ thấy toàn ống luồng chứa xương thú, rơm tẩm bùn phơi khô. Y đoán: Chắc bọn Đại-đởm đã bỏ ống luồng chứa chất nổ vào soái lều của y. Y vô tình, bỏ vào lò!
Tuy uất hận, nhưng y cũng phải bật cười:
- Bọn Đại-đởm thập tam kiệt, quả thực lớn gan, to mật.
Một đêm hoàn toàn yên tĩnh trôi qua.
Sáng hôm sau, Hoài-Đô bàn :
- Dường như quân Man rút chạy khỏi Phù-lỗ rồi thì phải. Bằng không đêm qua, chúng không để cho ta yên tĩnh như vậy đâu. Bây giờ chúng ta chuẩn bị vượt sông. Không biết sông nông, sâu thế nào ?
Tên Trịnh Ngọc bầy tỏ cái hiểu biết của mình :
- Quãng sông này vốn nông. Về mùa Đông dân chúng thường lội qua. Người lội qua được thì ngựa cũng qua được. Xin Thái-sư cứ cho quân vượt sông, không cần thuyền bè.
Tuy tin tên Trịnh Ngọc, nhưng Ngột-lương Hợp-thai cũng ra lệnh cho Tế-tác :
- Người hãy đem một Thập-phu ra bờ sông, dùng tên bắn dò khắp các khu dọc chiên lũy. Hễ chỗ nào thấy tên nổi lên thì là chỗ sâu. Chỗ nào tên không nổi lên thì là chỗ nông.
Lát sau, viên Thập-phu về báo :
- Tất cả lòng sông đều nông cả.
Ngột-lương Hợp-thai gọi A Truật :
- Người hãy xử dụng ba Thiên-phu Lôi-kỵ, dàn ra thành sáu lớp, mỗi lớp 5 Bách-phu, cho vượt sông. Sang sông rồi phải dàn trận chờ đợi khi cánh quân của Phò-mã sang hết, hãy tấn công.
Lại gọi Hoài Đô :
- Phò-mã lĩnh ba Thiên-phu, cũng dàn thành sáu lớp, tiến sau A Truật. Khi sang sông, thì cùng tiến đánh chiến lũy.
Một tiếng tù và lệnh rúc lên.
Năm trăm Lôi-kỵ dàn ra bờ sông, cùng lội xuống. Nước nông, chỉ tới bụng ngựa. Ngựa tới giữa lòng sông thì hàng thứ nhì, đã lội xuống tiếp. Lớp thứ nhất sang
được ba phần tư sông, thì lớp thứ ba đã xuống sông. Lơp thứ tư đang chuẩn bị.
Thình lình, xẹt, xẹt, xẹt, ba vệt khói vọt lên trời, rồi ba tiếng nổ như sấm, tiếp theo, ba trái cầu lửa tỏa ra trên không thành hình ba con chim ưng.
Bên kia bờ sông, tiếng quân reo hò, lẫn tiếng trống vang dội. Quân Đạị-Việt nấp sau những khiên-mây dùng đao-quất phóng vào địch thủ. Mỗi trái cầu bay ra, không phải là ngựa thì là người, ngã lộn xuống sông. Những dàn Nỏ-thần tác xạ từng loạt, từng loạt. Người ngã ngựa, ngựa ngã, kẻ chết, người bị thương, tiếng la hét hỗn loạn cùng cực. Bị bất ngờ, lớp Lôi-kỵ đầu tiên bị tử thương, chặn phía trước, làm lớp thứ nhì, thứ ba, thứ tư bị dồn ứ đọng lại trong lòng sông.
A Truật cùng đội võ sĩ hơn năm chục người, tay cầm đoản đao, tung mình lên bờ. Vừa tới bờ tay y lia đao, đầu một binh Việt bay khỏi cổ. Đám võ sĩ tấn công các xạ thủ Nỏ-thần. Nhưng chợt cảm thấy có luồng gió hắt vào cổ, y vội trầm người xuống, thì một thanh kiếm lướt qua đầu, cắt mất chỏm mũ. Quá kinh hoảng, y nhảy liền hai bước về trái tránh, thì thanh kiếm theo y như bóng với hình. Choang một tiếng, thanh kiếm chặt trúng miếng hộ tâm kính. Tuy kinh hoảng, A Truật phản ứng rất mau, y vung đao gạt kiếm. Nhưng thanh kiếm đã đổi chiều, chặt đứt đầu tên Thiên-phu trưởng dùng đao tấn công đối thủ cứu y.

Bây giờ A Truật mới nhìn rõ đối thủ, đó là một thiếu nữ sắc nước hương trời. Đội võ sĩ của y đang đấu với một đội nữ võ sĩ xử dụng kiếm. Chợt nhớ lại Tế-tác của tên Trịnh Ngọc cung cấp, y lên tiếng hỏi:
- Cô nương! Phải chăng cô nương là quận chúa Ý Ninh?
Thiếu nữ trả lời bằng cái lắc đầu, tỏ vẻ không hiểu tiếng Mông-cổ. Đội nữ võ sĩ tuy nhỏ người, nhưng kiếm thuật cực cao minh, thành ra đội võ sĩ Mông-cổ đã bị đẩy lùi xuống sông.
Dường như thiếu nữ không coi y vào đâu, nàng vung kiếm lên, ánh thép :Di lòa, đầu ba Lôi-kỵ bay khỏi cổ. A Truật thúc đao vào cổ nàng. Thiếu nữ không tránh, cũng không đỡ, nàng đưa kiếm vào cổ y. Kiếm ra sau, mà lại tới trước. A Truật không kịp thu đao về, y lộn một vòng ra sau tránh. Y rơi tõm xuống sông.
Chợt thiếu nữ quát lên một tiếng thanh thoát, tất cả đội nữ võ sĩ cùng nhảy lùi lại, mỗi người tung ra một bọc, bụi trắng bay mị mờ. Võ sĩ, Lôi-kỵ Mông-cổ ôm mặt nhảy lùi lại. Nhưng không kịp, các nữ võ sĩ vung kiếm xông vào, đội võ sĩ Mông-cổ bị bay đầu. Biến cố xẩy ra ngoài dự liệu của A Truật.
Võ sĩ bị giết mặc võ sĩ chết, Lôi-kỵ chết nhiều mặc chết nhiều. A Truật vẫn thúc quân xung phong. Lớp thứ ba, thứ tư dùng tên bắn vào quân Việt, yểm trợ cho lớp thứ nhì vượt sông. Nhưng ngựa sắp tới bờ, bỗng chúng hý lên, rồi con thì nhảy lung tung, con thì ngã lộn xuống nước. Hàng ngũ lớp thứ nhì bị loạn. Trong khi Nỏ-thần trên bờ vẫn tác xạ liên tiếp.
Một Bách-phu trưởng báo cáo với A Truật :
- Thưa tướng quân, nửa lòng sông bên kia, chúng chôn chông, chăng trận địa giây ngầm, ngựa của ta vấp ngã, đạp chông bị thương.
Lòng sông bị nghẹt vì xác người, xác ngựa. Đứng bên này sông quan sát trận địa, Ngột-lương Hợp-thai biết tiến không được. Y ra lệnh lui quân. Đoàn Lôi-kỵ trở về bên kia sông, chúng kéo theo hơn nghìn xác người, xác ngựa.
Ngột-lương Hợp-thai nghiến răng :
- Một chiến lũy nhỏ bằng cái bàn tay, mà mới ra quân, ta đã hy sinh hơn nghìn Lôi-kỵ ! Đau thực ! Ta thề phải chiếm được trong ngày hôm nay.
Thấy con trai run run, y mắng:
- Có gì đâu mà người phải sợ như vậy?
Một thân binh nói nhỏ vao tai Ngột-lương Hợp-thai:
- Thế tử suýt mất mạng vì một nữ tướng Việt.
Y đưa mắt nhìn sang sông, thì quả có một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần đang chỉ huy quân. Tên Trịnh Ngọc lập công:
- Thưa Thái-sư, trong chiến lũy Phù-lỗ có hai nữ tướng, nhan sắc thực hiếm có trên đời, kiếm thuật thần thông. Một tên Bùi Thiệu Hoa, là vợ Trần Tử Đức. Một tên Trần Ý Ninh, em Tử Đức. Cả hai đều là học trò Vô Huyền bồ tát.
- Ban nãy bọn nữ võ sĩ tung cái gì ra, mà quân ta bị cay mắt, rồi bị giết tàn nhẫn như vậy
- Thưa, chúng tung vôi bột.
Thấy con vẫn còn run sợ, Ngột-lương Hợp-thai an ủi :
- Con bình tĩnh lại. Sau khi chiếm chiến lũy, chúng ta sẽ bắt Bùi Thiệu Hoa gả cho phò mã Hoài Đô, bắt Trần Ý Ninh gả cho con làm vợ.
Truyền thống của Mông-cổ là khi thắng đối thủ, thì sẽ bắt vợ, con gái của kẻ bại trận đem về làm vợ. Nghe cha nói, A Truật đưa mắt nhìn sang bên kia sông: Ý Ninh đang đứng chỉ huy quân. Y nói vào tai tên Trịnh Ngọc mấy câu. Tên Trịnh Ngọc nói vọng sang bên kia sông:
- Thế tử A Truật muốn mời Quận-chúa Trần Ý Ninh sang đây chơi!
Tưởng rằng nói đùa cho vui, đời nào Y Ninh sang? Không ngờ Ý Ninh cắt một khúc cây chuối tung ra giữa sông, rồi nàng vọt người theo. Chân sẽ đạp vào khúc chuối, người nàng đã bay bổng lên cao, từ từ đáp xuống cạnh A Truật. Lúc còn lơ lửng trên không, y phục bay phất phới, trông nàng như một tiên nữ múa khúc Nghê-thường. Chân vừa chạm đất, ánh kiếm lóe lên, mũi chĩa vào ngực A Truật. Y quá kinh hãi, vội lộn người ra sau hai vòng, tay rút đao khoa trước ngực. Nhưng y gạt vào quãng không, vì Ý Ninh đã tra kiếm vào vỏ.
Ý Ninh đưa mắt nhìn tên Trịnh Ngọc:
- Hãy dịch cho chủ người nghe.
Rồi nàng nói:
- Tôi nghe danh Thế-tử A Truật võ công cái thế. Không ngờ bản lĩnh chỉ có vậy thôi sao? Người mời tôi sang đây có chuyện gì?
A Truật đã hoàn hồn:
- Tôi thấy Quận-chúa xinh đẹp, muốn làm quen.
- Làm quen? Thế tử là tướng Mông-cổ, tôi là tướng Đại Việt. Hai bên đang chém giết nhau, quen nhau để làm gì?
- Tôi muốn cầu hôn với Quận-chúa.
- Khi tôi bắt đầu học kiếm, đã phát thệ rằng: Nếu có chàng trai nào bước qua được thanh kiếm của tôi, thì tôi nguyện làm vợ người đó. Vậy Thế-tử có dám đơn đấu với tôi không?
- Tôi xin lĩnh giáo cao chiêu của Quận-chúa. Nào mời!
Tưởng rằng ít ra Ý Ninh cũng đối đáp vài câu nữa. Nào ngờ, lấp loáng ánh thép, mũi kiếm của nàng đã đưa vào cổ A Truật. A Truật kinh hãi, y lộn người ra sau hai vòng để tránh chiêu số hiểm độc. Không ngờ Ý Ninh di chuyển thân hình theo, mũi kiếm thủy chung vẫn dí vào cổ y. Quá kinh hãi, y trầm người xuống đất, lăn mình đi mấy vòng, rồi tung người dậy. Y vừa đứng vững thì mũi kiếm vẫn dí vào cổ y đau nhói. Bốn võ sĩ Mông-cổ cùng vung đao tấn công Ý Ninh, để cứu chủ. Ý Ninh bỏ không truy kích A Truật nữa, nàng tung mình lên cao, tay khoa kiếm. Đầu bốn võ sĩ bay khỏi cổ. Vừa đáp xuống đất, tay nàng chụp tên Trịnh Ngọc ném ra giữa sông, rồi tung người theo, nàng đạp vào lưng tên Ngọc, thân hình đã đáp sang bên kia sông.
Tên Trịnh Ngọc đã bơi vào bờ. Ngột-lương Hợp-thai vừa hết kinh hoảng thì một viên Thập-phu Tế-tác báo :
- Phía hạ lưu, bên kia sông không có giặc. Sông chỗ đó lại nông. Ta có thể vượt qua.
Ngột-lương Hợp-thai truyền lệnh cho A Truật :
- Người đem ba Thiên-phu xuống hạ lưu vượt sông.
Lại ra lệnh cho Hoài Đô :
- Phò mã cứ dàn quân, chuẩn bị vượt sông. Lần này ta cho lao binh lội trước, nhổ chông ngầm, dùng dao cắt hết trận địa giây, sau đó cho Lôi-kỵ vượt sông.
Y ra lệnh cho Lôi-tiễn, Pháo-binh :
- Hãy bắn vào tuyến phòng thủ bên kia sông của Nam-man.
Lôi-tiễn của Mông-cổ phỏng theo Lôi-tiễn của Đại-Việt. Sau thời gian dài đánh Trung-quốc, Tây-hạ, các nước phương T

egeo 06-19-2004 04:59 PM



C48:THĂNG LONG DI HẬN

Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh đánh vào Phù-lỗ.
Lôi-kỵ, dàn hàng, reo hò tiến lên. Trong chiến lũy im lìm, không một tiếng động, không một bóng người. Tới hàng rào, Lôi-kỵ bỏ ngựa, cầm đao chặt rào.
Một tiếng pháo lệnh nổ.
Lập tức dưới các hố cá nhân, trong hàng rào, quân Việt nhô đầu lên, dương cung bắn ra. Đao-quất vung lên, những trái cầu sắt đập xuống binh Mông-cổ. Bị bất ngờ, nhưng nhờ mặc áo giáp, một số ít bị thương. Không hổ là đội quân thiện chiến, thoáng một cái, quân Mông-cổ chia làm hai, cứ một người dùng tên bắn yểm trợ, cho một người chặt rào. Cuộc cận chiến diễn ra hơn giờ thì hai lớp rào đã bị phá. Quân Mông-cổ reo hò như sóng vỗ tràn vào trong chiến lũy. Nhưng trong chiến lũy, hầm hố chằng chịt. Chúng phải bỏ ngựa ngoài hàng rào, đánh nhau như bộ binh.
A Truật than với Hoài Đô :
- Bọn Việt quả thực biết lợi dụng địa lợi. Sợ hãi trước Lôi-kỵ, chúng bầy ra trận địa hầm hố, biến Lôi-kỵ thành bộ binh. Lôi-kỵ chỉ vô địch khi ngồi trên mình ngựa. Còn đánh dưới đất thì lại thua bộ binh xa.
Hoài Đô điều lên hai vạn bộ binh Đại-lý, Trung-quốc. Trong chiến lũy, quân Việt không quá một vạn. Nhưng nhờ có đội nữ võ sĩ với Thiệu Hoa, Ý Ninh trấn thủ, nên cuộc giao chiến dằng dai suốt ngày, chưa phân thắng bại. Trận giáp chiến cho đến lúc chập choạng tối, thì Mông-cổ đã lấn được nửa chiến lũy.
Biết rằng nếu tiếp tục đánh nữa, trong lúc trời tối, quân Việt quen địa thế, thì quân mình bất lợi. A Truật ra lệnh rút quân trở ra ngoài hàng rào, nghỉ qua đêm tại rừng trúc.

Trong khi đó, tại chiến lũy Phù-lỗ, Phú-lương hầu họp các tướng, kiểm điểm lại tình hình. Ông sai chim ưng báo cáo về với Hưng-Đạo vương :

%AB Qua ba ngày giao chiến liên miên. Sau trận đánh với Lôi-kỵ, tuy thắng, nhưng cũng mất hơn trăm Kỵ-binh tử thương. Hiện còn 400 chiến mã có thể lâm chiến. Đạo Kỵ-binh, ẩn ở trong rừng tre, cách xa hơn mười dặm. Đô-thống Lý Tùng-Bách xin được đánh một trận nữa.
Về Ngưu-binh. Đô-thống Hĩm Còi cùng 3 Tá-lĩnh Cái vô sự. Hơn ba chục tướng trâu tử trận. Trong ba ngày, Ngưu-binh trải qua bốn cuộc giao tranh. Cuộc ra quân hỗn hợp với Kỵ-binh, thiệt hại năm chục trâu. Tá-lĩnh Cái Lan, Cái Hồng bị thương nặng nhưng vẫn xin ở lại chiến đấu. Hai cuộc đột kích đánh vào nơi đồn trú quân thì không thiệt hại làm bao. Duy cuộc tấn công vào kho lương Cụ-bản, thiệt hại trăm trâu. Hiện chỉ còn hai trăm trâu có thể lâm chiến. Đô-thống Hĩm Còi tùng quyền, ra lệnh lấy hai Vệ Ngưu-binh của Thảo-lâm bổ xung.
Còn lại bộ binh trong chiến lũy, sau ba ngày chiến đấu khủng khiếp, chỉ còn lại phân nửa quân số. Hai Đô-thống Trương Đình, Trần Trữ bị thương nặng, phải đưa về Kinh-Bắc điều trị. Phu nhân Bùi Thiệu Hoa, Quận-chúa Trần Ý Ninh bị thương nhẹ. Thần bị thương nặng, nhưng nhất quyết sống chết với Phù-lỗ %BB.

Hơn giờ sau, chim ưng mang lệnh của Hưng-Đạo vương đến :

%AB Nhiệm vụ cản giặc tại Phù-lỗ coi như hoàn tất. Đạo Kỵ-binh của Đô-thống Lý Tùng-Bách, đạo Ngưu-binh của Đô-thống Hĩm Còi tiếp tục ẩn trong rừng, sẽ được trao nhiệm vụ rất quan trọng. Còn bộ binh, không thể giữ Phù-lỗ được nữa, phải rút về Đông-bộ đầu, đặt thuộc quyền Khâm-Thiên đại vương, chờ bổ xung %BB.

Trần Tử-Đức ra lệnh :
- Suốt ba ngày qua chúng ta chiến đấu quá mệt mỏi. Vậy chư tướng cho quân nghỉ ngơi. Sáng mai ta rút sớm.
Hôm sau, giờ Dần, Hầu ra lệnh cho thương binh rút trước. Rồi gọi phu nhân, Hầu nắm tay bà, nói bằng giọng cực kỳ đầm ấm:
- Quân của ta là bộ binh, di chuyển chậm chạp. Ta rút rồi, bọn Mông-cổ khám phá ra, tất chúng dùng Lôi-kỵ đuổi theo. Vậy con đường phía Nam cách Phù-lỗ 4 dặm, có cây cầu nhỏ tên cầu bà Do. Phu nhân mang một Vệ quân chờ ở đấy. Khi quân ta rút qua cầu rồi, thì phá cầu, phục trong lũy tre. Đợi Lôi-kỵ tới, thì dùng cung bắn chết ít tên, sau đó len lỏi theo mấy khu vườn cây, rút ra cánh đồng phía trái mà về Thăng-long.
Hầu hôn phớt lên mái tóc phu nhân, rồi gọi Quận-chúa Ý Ninh. Hầu cũng nắm tay em, tay tát yêu lên hai má :
- Phía sau cầu bà Do, hơn 5 dặm có con sông nhỏ chảy song song với đường cái quan. Bên này sông là khu vườn chuối. Tại đây có một gia đình chuyên nuôi ong. Họ nuôi tất cả năm tổ ong. Mỗi tổ là một cái bồ. Em chặt chuối, lập một ụ lớn chắn ngang đường. Trên đặt 5 cái tổ ong. Còn quân thì phục trong rừng cỏ hoang bên kia sông. Khi Lôi-kỵ đuổi tới, chúng phải ùn lại quan sát, rồi phá ụ. Ong sẽ bay ra đốt chúng. Bấy giờ em cho bắn cung, giết mấy tên. Sau đó chạy vào rừng, theo đường mòn về Thăng-long.
Cũng như đối với phu nhân, hầu hôn phớt lên mái tóc em gái.
Phu nhân hỏi :
- Thế còn anh ? Bao giờ anh rút ?
- Anh ở lại, làm một khổ nhục kế, rồi rút sau.
Bùi Thiệu Hoa, Trần Ý Ninh thấy trong khi ra lệnh, Hầu tỏ cử chỉ quá thân thiết, quá nhu nhã trước tướng sĩ. Đôi mă鴠của Hầu dường như có ẩn tàng một cái gì, mà trong nhất thời hai người không đoán ra.
Hầu ra lệnh cho tất cả quân sĩ còn lại :
- Chư quân theo thứ tự rút ngay.
Hầu đứng chỉ huy từng Vệ một lui quân. Khi Vệ cuối cùng ra khỏi Phù-lỗ, Hầu bảo viên Vệ-úy Trần Minh chỉ huy đội võ sĩ cận vệ :
- Thôi các em lên đường thôi !
Trần Minh kinh ngạc :
- Sư huynh đi trước bọn em theo sau.
- Không ! Ta không rút ! Vì ta bị thương quá nặng, nếu lết về tới Thăng-long, thì cũng chết. Vì vậy ta ở đây cản trở giặc được giờ nào hay giờ ấy !
Trần Minh cương quyết :
- Nếu anh không rút, thì em cũng không rút. Anh em mình sống chết có nhau.
Tử-Đức quát lên :
- Minh ! Tuy ta với em tình nghĩa là huynh đệ. Nhưng ta là chúa tướng. Ta ra lệnh : Em phải rút ngay.
- Em xin lỗi anh ! Em không tuân lệnh anh một lần trong đời thôi.
Biết không lay chuyển được ý chí của người em kết nghĩa, Hầu thở dài :
- Thôi đành !
Hầu gọi 12 vệ sĩ lại gần dặn dò chi tiết, rồi tất cả ngồi chờ. Hơn ba khắc sau, quân Mông-cổ dàn hàng reo hò tiến vào chiến lũy. Chúng ngạc nhiên vô cùng khi không thấy bóng một quân Việt. Vì bị trúng kế nhiều lần, Hoài Đô ra lệnh :
- Phải cẩn thận ! Tiến từng bước một.
Hàng quân vừa tiến, vừa nhìn phải, nhìn trái, không bóng người, không một bóng thú. Hoài Đô cùng ba mươi sáu võ sĩ hộ vệ đã tiến đến trung ương chiến lũy. Một cảnh tượng lạ lùng bầy ra trước mắt : Trong căn nhà hình bát giác, Phú-lương hầu Trần Tử-Đức đang ngồi trước một bàn đầy thức ăn, với rượu. Hai bên, mỗi bên có 6 võ sĩ đứng hầu. Một võ sĩ trang phục Vệ-úy, trên mình không vũ khí, tiến tới trước mặt y cung tay nói mấy tiếng Việt. Y không hiểu, vội sai gọi thông dịch. Vết thương bị thiến của tên Trịnh Long đã khỏi. Y hách dịch hỏi :
- Tên Nam-man kia muốn gì ?
- Tôi là Vệ-úy Trần Minh, được lệnh Phú-lương hầu ra tiếp đón chúa tướng Thiên-quốc.
Trịnh Long dịch lại. Y chỉ vào Hoài Đô :
- Vị này là Phò-mã, phó nguyên soái.
- Phú-lương hầu mời Phò-mã vào xơi rượu.
Hoài Đô là người sinh trưởng trên đất Trung-quốc, nên y nhiễm được cái tính phong nhã của văn nhân Hoa-hạ. Y nghĩ thầm :
- Dù tên Trần Tử-Đức làm trò ma, trò quỷ gì chăng nữa, y chỉ có 14 người, trong khi ta có hằng vạn quân. Ta há sợ sao ?
Y vẫy tay cho Hòa Khâm vẫn tiến quân, còn y với đám võ sĩ tiến đến căn nhà bát giác. Phú-lương hầu đứng dậy chắp tay vái :
- Thỉnh Phò-mã an tọa. Tôi bị thương do đá của Phò-mã bắn phải, đi đứng khó khăn, không ra ngoài tiếp đón được. Mong Phò-mã khoan thứ.
Hầu rót một chung rượu uống trước, tỏ ra rượu không có thuốc độc ; rồi rót rượu nay nâng ngang mày :
- Xin mời Phò-mã.
Hoài Đô cạn chung, tay cầm đùi gà nướng ăn. Tử-Đức nói :
- Lôi-tiễn, máy bắn đá của Phò-mã nã suốt đêm hôm kia, rồi hôm qua hùng binh tiến đánh. Quân trong chiến lũy chết ba phần, còn lại một phần, đêm qua chúng trốn hết rồi. Tôi bị thương nặng, có trốn, thì đi dọc đường vết thương vỡ ra cũng chết, nên tôi quyết định ở lại đón Phò-mã.
Đến đó Hòa Khâm trở lại báo :
- Trong chiến lũy không còn một người nào khác.
Hoài Đô tin tưởng vào lời Tử-Đức. Y hỏi :
- Thế bọn Kỵ-binh, Ngưu-binh, bọn Đại-đởm thập tam kiệt đâu rồi ?
- Phò-mã hỏi làm gì ? Sau mấy trận đánh, quân sĩ, ngựa, trâu chết gần hết. Bọn sống sót bỏ trốn hết rồi.
Nói đến đây mệt quá, ông phải dựa lưng vào cột nhà. Ông nói thều thào :
- Giữa Phò-mã với Đức này vốn không thù không oán. Chúng ta phải chém giết nhau là do mệnh vua. Nay tôi biết mình sắp chết, cố lấy tàn hơi, ở lại tiếp Phò-mã. Tôi xin Phò-mã ban cho một đặc ân.
- Quân hầu cứ nói.
Tử-Đức chỉ vào Trần Minh :
- Sau khi tôi chết, Phò-mã để chú em đây chôn tôi cạnh những nấm mồ tướng sĩ của tôi đã tử trận mấy ngày qua. Còn y với 12 võ sĩ, xin Phò-mã cho họ được quy hàng, làm hướng đạo cho Phò-mã.
- Được ! Tôi hứa.
Đến đây Ngột-lương Hợp-thai cùng các tướng đã tới. Trịnh Long báo cáo tình hình. Bị trúng kế nhiều lần, Ngột-lương Hợp-thai tỏ ra nghi ngờ :
- Người tuy bị thương nặng nhưng đâu đã chết ? Ta muốn người theo quân ta tiến về Thăng-long.
Tử-Đức gượng gạo đứng dậy tay ông chỉ vào mạn sườn :
- Sườn của tôi bị gẫy, làm sao tôi theo Thái-sư được ?
Nói rồi, nhanh như chớp, hầu rút thanh dao trủy thủ bên lưng, tự đâm vào ngực mình. Hoài Đô tuyệt không ngờ Hầu lại tự tử. Nên tuy võ công cao, y cũng không cản trở kịp.
Trần Minh cùng 12 võ sĩ lấy cái chăn của Hầu, bọc xác Hầu, rồi đem ra khu mộ tử sĩ, đào lỗ chôn. Lại lấy một thanh gỗ, viết lên :

Phú-lương hầu Trần Tử-Đức,
Sinh ư Kiến-trung đệ tứ niên,
Nhị thập tứ nhật, thất nguyệt, Ngọ thời.
Vị quốc vong thân ư Nguyên-Phong thất niên,
Vọng nhật, thập nhị nguyệt, Thìn thời.
( Sinh niên hiệu Kiến-trung thứ tư, ngày 24, tháng 7, giờ Ngọ. Chết vì nước vào niên hiệu Nguyên-Phong thứ 7, ngày rằm, tháng Chạp, giờ Thìn).

Ngột-lương Hợp-thai hỏi Trần Minh :
- Từ đây về Thăng-long còn chiến lũy nào không ?
- Thưa Thái-sư không. Tuy vậy quãng đường từ đây tới Bắc-ngạn do Hưng-Ninh vương trấn nhậm, ẩn vào dân chúng. Phải cẩn thận lắm mới được.
- Hưng-Ninh vương là người thế nào ?
- Vương là con trưởng của Yên-sinh vương Trần Liễu, là anh Hưng-Đạo vương. Cũng giống Hưng-Đạo vương, vương là người cực kỳ thông minh, học một biết mười, nhớ giai, giỏi biện thuyết. Vương khác Hưng-Đạo vương ở điểm, người rất uyên thâm Phật-pháp. Tính tình khoan nhân đại độ, thương người dưới như con, nên binh tướng dưới quyền người đều một lòng với chúa tướng.
- Dưới quyền y hiện có bao nhiêu quân ?
- Dưới quyền vương hiện có ba hiệu binh Tứ-thiên, Tứ-thần, Tứ-thánh. Ba hiệu binh này giỏi xung trận, chứ không giỏi trấn thủ.
- Bây giờ ta ra lệnh cho người với 12 tên thuộc quyền làm hướng đạo, đi theo Phò-mã Hoài Đô.
Trần Minh gãi đầu :
- Đẳng trật của tôi là Vệ-úy, 12 chú em đây đều là Đô-úy. Vậy không biết bây giờ Thái-sư ban cho chúng tôi chức tước gì ?
- Ừ nhỉ ! Ta quên. Ta cho người hàm Thiên-phu, còn các võ sĩ này hàm Bách-phu. Thôi, các người lên đường.
Vì Thiên-phu của Sung Di, Vương Huy, Hòa Khâm, dự nhiều trận, tổn thất khá nhiều, tuy đã bổ xung, nhưng tinh thần binh sĩ dao động vì Sung Di bị giết, Vương Huy bị bắt. Hoài Đô truyền lấy ba Thiên-phu của bọn Tăng Phúc, Triệu An, Di Hòa thay thế tiến trước.
Trần Minh cùng 12 võ sĩ cỡi trâu đi trước. Phía sau là đội võ sĩ của Hoài Đô. Đi khoảng năm dặm thì Trần Minh chỉ về phía trước :
- Sau lũy tre kia, có con sông nhỏ chảy ngang, rộng khoảng ba trượng. Trên sông có cây cầu đá, tên làcầu Bà Do. Coi chừng có phục binh.
Một Lôi-kỵ vọt ngựa lên quan sát rồi trở lại báo cáo :
- Cầu đã bị phá. Xung quanh không có dấu vết phục binh.
Hoài Đô truyền dừng quân lại. Đội Công-binh Trung-quốc được đưa lên bắc cầu. Binh sĩ đào đất, ném xuống lấp sông. Phải hơn giờ mới lấp xong.
Trần Minh đề nghị :
- Ngựa nhẹ hơn trâu. Để tôi cho trâu sang trước. Hễ trâu không bị lún chân thì ngựa qua được.
Trần Minh cùng 12 võ sĩ, tên Trịnh Long sang sông yên lành. Hoài Đô phất tay ra lệnh. Một Bách-phu Lôi-kỵ sang yên ổn. Bách-phu thứ nhì vừa đi đến giữa cầu, thì một tiếng tù và rúc lên. Tên từ trong bụi tre bắn ra rào rào. Bách-phu thứ nhì ngã lăn xuống sông. Người, ngựa chết, nằm la liệt trên hai bên mố cầu. Bùi Thiệu Hoa cùng đội nữ võ sĩ xuất hiện. Kiếm vung lên lấp lánh như sao sa. Mỗi ánh kiếm là một đầu Lôi-kỵ rơi xuống. Trong khi phía bên kia, Trần Minh cùng đám võ sĩ xua trâu xông vào Bách-phu thứ nhất. Đao-quất vung lên. Thoáng một cái, cả Bách-phu đã bị hạ hết. Tên Trịnh Long đang hoảng hốt, thì Bùi Thiệu Hoa túm cổ y điểm huyệt rồi cặp vào nách. Khi Thiên-phu Triệu An phản ứng, thì Thiệu Hoa, Trần Minh và đội nữ võ sĩ đã xua trâu chạy vào con đường mòn nằm giữa các lũy tre.
Tên trong lũy tre ngừng bắn ra. Triệu An ra lệnh cho Lôi-kỵ tiến lên lục soát, thì không một bóng người, không một bóng thú. Hoài Đô xấu hổ vì bị trúng kế. Y chửi :
- Tổ bà nó ! Biết rằng bị thương nặng, trước sau gì cũng chết, tên Trần Tử-Đức muốn tự tử. Nghĩ rằng tự tử tối vô ích, xác bị phơi nắng phơi mưa, y bầy trò ma, trò quỷ. Kết quả, xác y được chôn cất chu đáo. Y để mưu kế sai con vợ xinh đẹp với bọn Trần Minh phục kích ta. Được ! Sau khi chiếm Thăng-long, ta sẽ cho quật mồ y, đem xác vứt xuống chuồng hôi cho dòi, bọ ăn thịt.
Xác tử sĩ Mông-cổ được chôn tại chỗ. Hoài Đô ra lệnh tiếp tục tiến quân. Lần này y không tiến trước nữa. Y để bọn Triệu An đi tiên phong. Đi được 5 dặm, thì Thập-phu đi đầu quay lại báo :
- Có một cái ụ bằng chuối chắn ngang đường. Trên ụ có năm cái bồ, hương bốc ra thơm ngát. Phía sau có bao nhiêu quân không rõ.
Hoài Đô ra lệnh :
- Đánh chiếm ụ.
Lôi-kỵ dương cung lao lên. Nhưng sau ụ không một bóng người. Triệu An ra lệnh phá ụ. Chùy vung lên, đao phạt ngang. Năm cái bồ bị chém làm hai, bị đập bẹp. Từ trong bồ hàng vạn, hàng triệu con ong bay ra. Thấy người phá tổ của chúng. Lòng hận thù ngùn ngụt, chúng nhào xuống đốt. Giữa lúc đó tên từ bên kia sông bắn sang ào ào. Lôi-kỵ ôm đầu lui trở lại. Bọn lao binh mách :
- Đốt lửa lên, thì ong phải chạy.
Chúng lấy cỏ, châm lửa đốt. Phải mất hơn một giờ bầy ong mới bay đi hết. Kiểm điểm lại, ong không làm chết người , nhưng hàng nghìn quân bị ong đốt, đau nhức rên la khốn khổ. Hơn trăm quân, ngựa bị trúng tên.
Hoài Đô chửi thề :
- Tụi Nam-man này thực kinh khủng. Cái gì chúng cũng có thể dùng vào chiến tranh được. Có 5 cái tổ ong, mà nó làm cho mấy nghìn người xính vính.
Hơn giờ sau, Triệu An được báo :
- Đã thấy sông Hồng trước mặt. Trên bến Bắc-ngạn, dân chúng xếp hàng hai bên đường, thắp hương đón quân Thiên-triều.
Hoài Đô sai người báo với Ngột-lương Hợp-thai. Y kinh ngạc hỏi gã Trịnh Ngọc :
- Có sự ấy được ư ?
- Thưa Thái-sư tôi không tin. Vì bọn An-Nam kinh sợ Lôi-kỵ của Thiên-triều, từ hơn tháng nay, Trần Cảnh đã ra lệnh cho dân chúng phải rời khỏi Thăng-long. Còn triều đình, thì bỏ trốn hết. Dân chúng có gan bằng trời, cũng không dám ở lại. Vùng này thuộc quyền trấn nhậm của Trần Khánh-Dư , tước phong Nhân-Huệ vương hiện lĩnh Phiêu-kỵ thượng tướng quân, Tổng-trấn Thăng-long. Tôi nghi đây là quỷ kế của y.
- Trần Khánh-Dư à ? Tại sao ta chưa từng nghe qua tên y ?
- Y là cháu nội của Thiên-sứ Trần Thủ-Huy.
- Cháu nội Phò-mã Thiên-sứ Trần Thủ-Huy ư ? Như vậy y là con của nhị ca Thủ-Độ sao ? Lẽ nào ?
- Không hẳn thế.
Trịnh Ngọc giảng giải : Thái-sư không nhớ việc Phò-mã Thiên-sứ Thủ-Huy tục huyền với Vương Thúy-Thúy ư ? Vương Thúy-Thúy sinh ra một trai tên Trần Thủ-Minh, một gái tên Trần Như-Lan. Khi tướng quân Thủ-Độ đi sứ An-Nam có dẫn hai người em về. Trần Thủ-Minh sau làm đại tướng, cầm quân đi dẹp giặc, bị tử thương, để lại một con còn thơ tên Trần Khánh-Dư. Thái-tổ nhà Trần là Trần Thừa nhận làm con, đem về nuôi trong cung. Cho nên Dư được phong vương.
- Tài năng y ra sao ?
- Y được bà nội là Vương Thúy-Thúy dạy võ công Hoa-sơn, rồi lại được vợ Trần Lý là Tuyên-minh thái hoàng thái hậu trực tiếp truyền thụ, nên y là một trong những võ tướng có võ công cao nhất. Y rất thông minh, lầu thông binh pháp Trung-quốc, Đại-Việt, Mông-cổ. Tài trí y chỉ thua có Hưng-Đạo vương với Hưng-Ninh vương mà thôi. Phải đối đầu với y là một điều đáng ngại.
- Y có uy tín không ?
- Không ! Y thâm nhiễm phong tục vùng Thảo-nguyên của cha, vì vậy hành vi của y cực kỳ phóng túng, bị người Việt kết tội.
Đến đây Triệu An trở lại báo :
- Dân chúng thắp hương, đem trâu, lợn đón ta là người Hoa-kiều. Người Hoa ở Đại-Việt cho rằng chiến tranh này là chiến tranh giữa người Việt với Mông-cổ, họ vô can. Họ lý luận rằng, trong quân của ta có nhiều võ tướng, có nhiều binh lính gốc Trung-quốc, thì chắc rằng họ không bị giết hại. Họ không theo dân Việt trốn đi, mà ở lại. Vì vậy họ mới đi đón.
Nghe báo, trong lòng Ngột-lương Hợp-thai mở ra một ý mới : Dùng người Hoa làm tai mắt chống người Việt. Y ban lệnh :
- Hãy dùng các Thập-phu, Bách-phu Thiên-phu trưởng gốc Trung-quốc phủ dụ chúng. Hứa bảo vệ tài sản, nhân mạng chúng. Tuyển lấy những đứa có tài làm tai mắt, chân tay, rồi lấy lợi nhử chúng, cho phép chúng tự do cướp của, bắt đàn ông làm tôi mọi, bắt đàn bà con gái làm tỳ thiếp. Cho giết người tùy thích.
Bọn tướng sĩ gốc người Hoa theo Mông-cổ, vốn là loại đầu trộm đuôi cướp, bị quan quân Tống triều truy lùng, chúng bỏ theo Mông-cổ. Trong suốt bao năm chinh chiến, đánh phá chính quê hương chúng, chém giết đồng bào chúng, cướp của người dân của chúng...đi đến đâu chúng cũng bị người Hoa khinh khiến, nhục mạ, gọi là Hán-gian, riết rồi chúng coi người Hoa như những kẻ thù không đội trời chung. Bây giờ tới Đại-Việt, chúng được người Hoa tiếp đón ân cần, quỳ lụy, coi chúng như những anh hùng hiệp sĩ, cứu khốn phò nguy... Tự nhiên chúng thấy mình là anh hùng. Chúng tập họp Hoa kiều lại, hứa hẹn những gì mà Ngột-lương Hợp-thai đã hứa.
Bọn người Hoa được hứa hẹn, thì vui mừng chi siết kể, chúng dẫn bọn Hán-gian đi vào khắp các lạch, ngòi trưng thu thuyền bè. Không đầy nửa buổi, chúng đã kiếm được hàng nghìn thuyền lớn nhỏ, rồi thân chở quân Mông-cổ sang sông.
Chiều hôm đó, phân nửa quân Mông-cổ đã ở ngoài thành Thăng-long. Bọn người Hoa báo :
- Vua, quan An-Nam trốn hết rồi. Thành bỏ không.
Hoài Đô trì nghi :
- Chắc chúng mới trốn sáng nay. Chứ nếu chúng trốn hôm qua, thì trong thành đã có nạn cướp bóc khủng khiếp diễn ra. Trốn như vậy thì ắt có cơ mưu, chứ trốn vì sợ hãi thì chúng trốn từ lâu rồi.
Tuy vậy y vẫn truyền lệnh cho ba Thiên-phu trưởng Tăng Phúc, Triệu An, Di Hòa, chia nhau tiến quân vào Thăng-long. Nhờ có bọn Hoa-kiều dẫn đường, ba Thiên-phu nhanh :Dng chia nhau trấn đóng các cung điện, Lục-bộ, Khu-mật viện, rồi sai người báo với Ngột-lương Hợp-thai. Ngột-lương Hợp-thai dẫn Hoài Đô, A Truật nhập thành.
Sau khi lục soát hết các cung điện, Triệu An báo cáo :
- Trong thành không một bóng người, không một bóng thú. Lương thảo, kho lẫm trống rỗng. Duy nhà ngục đông nghẹt tù nhân.
Hoài Đô ra lệnh :
- Thả tất cả tù ra, cấp vũ khí cho chúng, thu dụng chúng làm quân Tế-tác dẫn đường.
Lát sau, Triệu An trở lại báo :
- Tìm thấy ba Thiên-phu trưởng, được cử làm sứ thần, bị trói bằng lạt. Đã cắt lạt cứu ra, nhưng chỉ hai còn sống. Thiên-phu trưởng Bật Triệt (Bourteck) bị chết cứng từ bao giờ.
Ngột-lương Hợp-thai nghiến răng :
- Thế này thì đừng ai trách ta tàn ác nhé.
Y chỉ tay lên trời :
- Đại quân chúng ta tiến đánh Tây-vực, bất cứ tới thành nào, là dù vua, dù tướng, dù dân đều răm rắp mở cửa thành, khom mình quy hàng, cung ứng lương thảo. Bất cứ nơi nào chống lại, thì sẽ giết tuyệt, dù già, dù trẻ, dù con đỏ cũng không tha. Từ hôm nhập biên đến giờ, chúng ta mải tiến quân, chưa có dịp ra oai. Bây giờ ta đã chiếm được kinh đô của An-Nam, ta phải giết hết dân Thăng-long, để các nơi khác lấy đó làm gương. Như vậy, khi ta tiến quân đến đâu, mới mong chúng quy hàng.
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng, từ năm cửa thành Thăng-long, mỗi cửa thành có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, năm Thiên-phu vừa lao binh, vừa binh Đại-lý tràn ra. Chúng dùng bọn tù nhân, bọn người Hoa chỉ đường, nhanh :Dng lùa tất cả dân chúng vào năm khu. Trước hết chúng lựa những thợ mộc, thợ nề, thợ khắc, thợ rèn, thợ vàng bạc cho
đứng riêng ra. Lại lựa những nhạc công, ca nhi cho đứng riêng ra chỗ khác. Cuối cùng, chúng lựa đàn bà con gái đẹp, tuổi từ mười tới ba mươi, cho đứng riêng ra một chỗ khác nữa. Tên Thiên-phu Triệu An đứng lên tuyên án :
- Từ xưa đến giờ, Thiên-binh đi đến đâu, thì dù vua, dù quan, cũng phải mở cửa thành quy phục. Bất cứ nơi nào chống lại sẽ bị giết tuyệt, dù con :D con mèo cũng không tha. Khi đại quân dàn ra biên giới, Thái-sư đã ba lần sai sứ sang chiêu hàng, vua các người không quy phục, còn đem quân chống trả, bắt giam sứ thần. Vì thế hôm nay, ta giết tất cả các người. Tuy vậy, bọn gái đẹp cần giữ lại làm đồ chơi cho quân sĩ ; bọn ca nhi, nhạc công cần để sống để hầu hạ binh tướng. Bọn thợ giỏi cũng được tha để làm việc.

Tuyên án xong, hằng trăm Lôi-kỵ vung đao lăn vào đám dân chúng khốn cùng. Mỗi đao vung lên, một cái đầu rơi xuống. Tiếng kêu khóc vang lên đến trời, máu ngập kinh thành. Giết xong, chúng ném xác xuống sông. Con đầu thì chúng xếp thành từng đống, theo hình tháp, mỗi đống một nghìn đầu. Tất cả 200 đống.
Kinh nghiệm trong những lần tàn sát tại các nước Tây-vực, sau cuộc lùa bắt, thế nào cũng còn nhiều người lẩn trốn. Ngột-lương Hợp-thai cho rút quân vào thành, rồi hai giờ sau tung quân ra bao vây lục soát. Y lại bắt được hơn vạn người trốn tránh. Lần này y không giết, mà truyền đốt nhà, rồi quẳng vào đống lửa. Bọn Lôi-kỵ, bọn Hán-gian đứng nhìn cảnh kêu khóc tuyệt vọng, cảnh ném người vào biển lửa, lăn lộn, mà khoan khoái, reo hò như nhìn một cảnh diễn trò chơi. Thành Thăng-long cháy trong ba ngày chưa tắt ngọn lửa. Trong thành chỉ mấy phường của Hoa-kiều là còn nguyên.

Đúng lúc đó, các đạo quân từ Phù-lỗ rút về tới Đông-bộ đầu. Nguyên-Phong hoàng đế cùng Thái-tử, Hưng-Đạo vương, Hưng-Ninh vương thân dẫn các quan ra đón, ủy lạo thương binh, đem về Thiên-trường điều trị. Ngài truyền lập đàn tế vọng chư tướng sĩ tuẫn quốc, rồi ban sắc chỉ phong chức tước.
Nghe Trần Minh thuật lại về cái chết oanh liệt của chồng, sắc mặt Bùi Thiệu Hoa không hề thay đổi. Phu nhân bước tới hành lễ với Nguyên Phong hoàng đế, với Hưng Đạo vương. Lại quỳ trước linh vị chồng lạy bốn lạy, rồi rút kiếm đưa lên cổ tự tử.
Nguyên Phong hoàng đế thương tiếc vô cùng. Ngài truyền khâm liệm thi hài phu nhân, đem về Yên-bang an táng.
Phú-lương hầu Trần Tử-Đức được truy phong :
Dao-thụ thái phó,
Phụ-quốc thượng tướng quân,
Kinh-Bắc tiết độ sứ,
Quan sát sứ,
Xử trí xứ,
Minh tâm tĩnh lự công thần.
Nghĩa-hòa vương.

Sang triều Lê được cải phong là :
Bản cảnh thành hoàng, chiêu sinh hiến
đức thượng đẳng đại vương.

Đến triều Nguyễn, được cải phong :
Linh-quang hộ quốc, bảo cảnh, hùng uy bệ hạ, anh linh đại vương, thượng đẳng thần.

Phu nhân được phong :
Hiếu-khang, Linh-anh, Trinh nhất công chúa.
Sang triều Nguyễn, phu nhân được cải phong là :
Hoàng-phi, Trí-tuệ, Bồ-quân, Anh linh công chúa.

Triều Trần truyền lập đền thờ vương và công chúa, phối thờ vào Thái-miếu. Sau khi hết giặc lại cho cải táng thi hài của Vương, đem về Yên-sinh, chôn cạnh mộhu nhân.
Các tướng được phong thưởng như sau :
Quận chúa Trần Ý Ninh được phong Hồng-đức, Trang-duệ, Vũ-thắng công chúa. Truyền gả cho Vũ-Uy vương.
Đô-thống Lý Tùng-Bách được phong Vũ-kỵ thượng tướng quân, tổng lĩnh Kỵ-binh, tước Kiến-phong bá.
Đô-thống Trần Trữ được thăng Phá-lỗ thượng tướng quân, Phù-lỗ bá.
Đô-thống Trương Đình được phong Hoài-hóa thượng tướng quân, tước Siêu-loại bá.
Đô-thống Nguyễn Thiên-Sanh được phong Đại-đởm thượng tướng quân, tước An-xuyên bá.
Tá-lĩnh Trần Minh được thăng Đô-thống, tước Vị-thanh tử.
Ngoài ra tất cả tướng sĩ đều được thăng một đẳng.

******
Ghi chú của thuật giả.
Trong suốt năm kỳ hè, từ 1994 đến 1998, tôi lần mò đến hầu hết những vùng là chiến trường cũ thời Trần, nhưng không tìm thấy đền thờ Nghĩa-hòa vương.
May thay, trong gia phả của chi 1, giòng dõi Chiêu-quốc vương Trần Ích Tắc tại trấn Nhạc-dương, thị xã Trường-sa Trung-quốc có ghi vắn tắt:
"Phú-lương hầu Trần Tử-Đức cùng vợ tuẫn quốc tại Phù-lỗ được phong Nghĩa-hòa vương. Đức là con Trần Hiến và Lê thị. Đền thờ lập gần Vạn-kiếp".
Tra trong Hải-dương tỉnh thần tích, tôi thấy chép: làng Khê-khâu, huyện Chí-linh, tỉnh Hải-dương có đền thờ ba vị thần thành hoàng là:
- Linh-quang hộ quốc Bảo-cảnh hùng uy bệ hạ, anh linh đại vương húy Trần Hiến-Đức.
- Hoàng-phi, Trí tuệ, Bồ-quân, Anh-linh công chúa.
Không ghi tên họ, tôi biết đây là chức tước phong cho vương phi Bùi Thiệu Hoa.
- Thiên-uy, Thái trưởng, Từ-lang, Anh-linh công chúa.
Không ghi tên họ. Nhưng tôi biết đây là chức tước phong cho Quận-chúa Trần Ý Ninh. Sẽ thuật ở hồi sau.

À, thì ra vẫn còn đền thờ Nghĩa-hòa vương, nhưng có đôi chút khác biệt. Phổ Chiêu-quốc vương chép là Trần Tử-Đức, còn Hải-dương tỉnh thần tích chép là Trần Hiến-Đức.Còn chức tước có hơi khác, vì chức tước này do triều Nguyễn cải phong.
Hè 1988, tôi tới tận nơi sưu khảo, có trao đổi ít câu với người giữ đền, thì nảy ra khá nhiều khác biệt. Phổ chép: Thân phụ ngài là Trần Hiến công, thân mẫu là Lê thị Đạt. Đời Trần Nhân-tông, ngài làm phó nguyên súy đại vương, có công chém Toa Đô, bắt Ô Mã Nhi. Những chi tiết này hoàn toàn sai với lịch sử, nên tôi gạt thẳng những gì cuốn phổ chép, mà ghi theo phổ Chiêu-quốc vương.
******

Mọi việc vừa hoàn tất, thì tin Tế-tác báo về cuộc thảm sát trong thành Thăng-long. Nguyên-Phong hoàng đế chắp tay hướng lên trời :
- Thảm thay ! Ta đã nhiều lần sai lính vác loa đi gọi các người. Khuyên các người hãy tạm lui về quê. Các người không theo lời khuyên của ta, nên mới ra nông nỗi !
Sáng hôm sau, tin Tế-tác báo :
- Bọn Hoa-kiều xui Ngột-lương Hợp-thai tiến quân về Thiên-trường, tàn phá mồ mả, lăng tẩm của các tiên đế.
Tin này làm cả triều đình rúng động.
Phía Nam Thăng-long là vùng trấn nhậm của Khâm-Thiên đại vương. Hưng-Đạo vương vội sai sứ báo tin này cho vương, với lệnh như sau:
%AB Từ Thăng-long về Thiên-trường chỉ có hai đường đi. Một là đường thủy, dễ đi. Nhưng Mông-cổ không có thủy quân. Ngược lại hạm đội Âu-Cơ đang phong tỏa Đông Thăng-long, chúng không thể dùng thuyền. Hạm đội Động-đình đang phong tỏa các cửa sông. Hạm đội Thần-phù đang phong tỏa sông ngòi vùng Thiên-trường. Hạm đội Bạch-đằng đang trấn vùng lãnh hải phía Bắc. Còn đường bộ, thì phải qua 41 xã. Hãy dùng ba hiệu binh trực thuộc Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh chia ra thành từng Vệ, ẩn vào các xã, chống giặc. Muốn đánh phá 41 xã, thì giặc phải mất ba đến bốn năm. Bấy giờ ta đã phản công rồi %BB.
Tuy ra lệnh như vậy, nhưng Hưng-Đạo vương vẫn không yên tâm. Vương gọi Tả Kim-ngô thượng tướng quân Lê Phụ-Trần :
- Tôi sợ Khâm-Thiên đại vương không chịu chia quân ẩn vào các xã, lợi dụng địa thế xã chống giặc, mà dàn quân đại chiến. Dàn quân đánh với Mông-cổ là lấy sở đoản, chống sở trường, thì thất bại đã thấy trước rồi. Vậy phiền Thái-bảo dẫn 10 tướng Ngưu-binh gồm 5 Vệ-úy Cu, 5 Vệ-úy Trâu, cùng 3 hiệu binh Tiên-yên, Yên-bang, Yên-phụ... Xuống hạm đội Động-đình, theo đường thủy về trấn tại Thiên-trường, phòng khi Khâm-Thiên vương thất bại, còn cứu ứng kịp.
Thái-bảo Lê Phụ-Trần vâng lệnh lên đường ngay.
Quả như Hưng-Đạo vương ước tính. Khâm-Thiên đại vương là chú ruột vương. Hơn chục năm nay, vương lĩnh chức Phụ-quốc Thái-úy, một chức coi toàn bộ binh mã Đại-Việt. Thế nhưng trong trận giặc này, biết vương không có tài, Nguyên-Phong hoàng đế phong Hưng-Đạo vương làm Tiết-chế. Chức Tiết-chế cũng như Nguyên-soái, lĩnh nhiệm vụ tư lệnh trong một trận đánh, một chiến dịch. Khâm-Thiên đại vương ấm ức rằng, đáng lẽ chức Thái-úy đã là Tiết-chế rồi, mà sao còn cử Hưng-Đạo vương vào làm gì ? Vương cảm thấy bị nhục nhã. Từ mấy tháng nay, vương phải nhận lệnh Hưng-Đạo vương, mà trong lòng phiền muộn.
Bây giờ, một lần nữa Hưng-Đạo vương gửi lệnh cho vương. Vương tập họp tướng sĩ lại, rồi nói :
- Ngột-lương Hợp-thai sai con y là A Truật, mang năm Thiên-phu đánh Thiên-trường. Trong khi ta có ba hiệu binh, tới ba vạn quân. Nghĩa là quân số của ta đông gấp sáu lần. Thế mà Hưng-Đạo vương không cho ta đánh, bắt ta xé nhỏ quân thành từng vệ thủ trong các lũy tre. Ta không thể chịu nhục như vậy. Ta quyết định dàn quân đánh một trận cho bọn Mông-cổ biết tài, cho Hưng-Đạo vương biết rằng ta không phải là một Thái-úy bù nhìn.
Lập tức vương dàn quân tại cánh đồng Văn, cách Thăng-long 60 dặm, nằm trên đường Thăng-long đi Thiên-trường. Hiệu binh Thiên-thuộc bên trái, hiệu binh Thiên-cương bên phải. Hiệu binh Chương-thánh phía sau. Mười hàng đầu là chiến xa, trên đặt Lôi-tiễn, Nỏ-thần. Mười hàng thứ nhì là quân xử dụng giáo dài. Mười hàng thứ ba là quân xử dụng đao. Phía sau là các chúa tướng cỡi ngựa, chỉ huy.
Quân dàn ra từ giờ Dần. Đến cuối giờ Mão, thì Lôi-kỵ Mông-cổ xuất hiện, từ xa rần rộới. A Truật tiến lên quan sát trận địa rồi trở lại họp các Thiên-phu, Bách-phu trưởng :
- Không biết tướng nào chỉ huy trận này ?
Bọn Hoa-kiều đáp :
- Là Khâm-Thiên đại vương, y hiện lĩnh chức Phụ-quốc Thái-úy. Ba hiệu quân dàn ra kia có tên Thiên-thuộc, Thiên-cương, Chương-thánh. Đây là ba hiệu quân thiện chiến nhất của Đại-Việt.
A Truật bật cười :
- Lối dàn quân của y không khác gì bọn Kim, bọn Tống. Từ ngày sang An-Nam, đây là lần đầu tiên chúng ta được giao chiến, được trổ tài.
Y cầm cờ phất. Thiên-phu thứ nhất do Triệu An chỉ huy, chia làm hai. Năm Bách-phu dàn hàng hú lên rùng rợn, rồi lao tới như bay. Khi còn cách trận Việt trăm trượng, thì cùng dương cung bắn một loạt, rồi quay ngựa trở về. Quân Việt dùng Lôi-tiễn, Nỏ-thần bắn vào hàng ngũ Lôi-kỵ. Năm Bách-phu thứ nhì nối tiếp năm Bách-phu thứ nhất, cũng bắn một loạt tên, rồi quay ngựa chạy. Quân Việt cũng bắn trả.

Khâm-Thiên đại vương cầm cờ phất, chiến xa Đại-Việt, rời hàng ngũ, đuổi theo Lôi-kỵ. Thì vừa lúc ấy Thiên-phu của Di Hòa tới. Hai bên giáp chiến khoảng môt khắc, rồi Lôi-kỵ lại bỏ chạy. Quân Việt xua chiến xa đuổi theo. Nhưng Lôi-kỵ đã biến mất vào khu đồng cỏ. Khâm-Thiên vương phất cờ cho quân Việt ngừng lại. Vương nói với chư tướng :
- Từ trước đến giờ người ta cứ sợ bóng, sợ gió Lôi-kỵ như con ngáo ộp. Đó ! Bây giờ mới có mấy đợt chúng đã bỏ chạy rồi.
Thình lình có hàng muôn ngàn tiếng hú, tiếng ngựa hý. Quân Mông-cổ trở lại, với năm hàng ngang. Chúng lao tới như bay, dương cung bắn. Quân Việt bắn trả. Nhưng lần này Lôi-kỵ không chạy, mà xung thẳng vào trận Việt. Sau một khắc giao tranh, chúng phá vỡ năm hàng đầu của chiến xa, rồi đánh tỏa ra hai bên. Lớp thứ nhì tiếp lớp thứ nhất, đánh thẳng về sau, cắt đứt năm hàng quân giáo dài của Đại-Việt. Quân hai bên lẫn lộn vào nhau kịch chiến.
Giữa lúc đó, hai Thiên-phu Lôi-kỵ thình lình xuất hiện, đánh vào hai bên hông. Tuy bị bất ngờ, nhưng quân Việt gan dạ chống trả. Cuộc hỗn chiến giữa năm nghìn Lôi-kỵ với ba hiệu binh thực khủng khiếp. Một bên là Kỵ-binh bách chiến bách thắng, gặp đồng bằng thả sức tung hoành. Một bên là ba hiệu binh tinh nhuệ, chết sống bảo vệ quê hương. Cuộc chiến kéo dài tới Ngọ vẫn chưa ngã ngũ. Lôi-kỵ chết quá hai nghìn. Trong khi bộ binh Đại-Việt chết hằng vạn.
Sang giờ Mùi, thình lình năm Thiên-phu Lôi-kỵ xuất hiện từ phía sau, đánh vào hậu quân Đại-Việt. Khâm-Thiên vương kinh hãi:
- Rõ ràng chúng chỉ có năm Thiên-phu, mà sao bây giờ lại có năm Thiên-phu khác nữa?
Chư tướng đáp:
- Từ đây về Thăng-long có 20 dặm. Chỉ cần một khắc sức ngựa, thì Ngột-lương Hợp-thai sẽ phái thêm năm Thiên-phu nữa tiếp viện. Không chừng còn mười Thiên-phu khác cũng sắp tới.
Lôi-tiễn, máy bắn đá Mông-cổ đã được xe kéo đến, đồng loạt nã vào trận Việt. Dù can đảm, dù thiện chiến, nhưng quân Việt bị sức mạnh Lôi-kỵ đánh từ ba phía, bị đá bắn lên đầu, dần dần tử thương gần hết.
Trận Việt bị vỡ.
Lôi-kỵ ép ba phía mỗi lúc càng chặt. Các võ sĩ nói với Khâm-Thiên vương :
- Một là xin vương gia tự tử. Hai là xin vương gia bỏ chạy. Đừng để giặc bắt.
Thấy Lôi-kỵ đã tiến sát tới chỗ mình đứng. Khâm-Thiên vương đành phất cờ cho quân lùi lại, còn vương thì theo đoàn võ sĩ bỏ chạy vào cánh đồng lầy lội bên cạnh.
Mông-cổ toàn thắng.
A Truật kiểm điểm lại : Hơn ba nghìn Lôi-kỵ bị giết. Y ra lệnh chỉnh đốn lại binh mã, để tiếp tục lên đường. Ngột-lương Hợp-thai đã đến. Quan sát thế trận, nhìn xác quân Việt nằm trải dài trên cánh đồng, y lắc đầu :
- Quả thực ba hiệu binh này vừa thiện chiến, vừa can đảm. Quân Kim, quân Tống, quân Tây-vực bì thế nào được? Nhưng tướng chỉ huy là tên Nhật-Hiệu, y ngu như con bò, nên bị ta phá. Thôi, người hãy mang năm Thiên-phu Lôi-kỵ tiếp tục lên đường tiến về Thiên-trường.
Thừa thắng, dù mặt trời đã ngả bóng, A Truật thúc quân lên đường. Quân trẩy được mươi dặm, thì gặp một làng chặn ngang đường đi. Địa thế giống hệt Cụ-bản. Y kinh hãi hỏi bọn hướng đạo:
- Từ đây về Thiên-trường còn bao nhiêu chiến lũy như thế này nữa?
- Thưa có tất cả 41 cái.
A Truật tiến lên quan sát: Trong chiến lũy cờ xí bay phất phới. Lũy tre cao vút, dầy đặc, hào sâu, chông chà chơm chởm. Y ra lệnh cho Triệu An:
- Quân của Nhật Hiệu vừa bị phá. Nhân thế thắng như chẻ tre, người chỉ huy Thiên-phu cơ hữu, với năm Thiên-phu quân Đại-lý, một Thiên-phu tân lập, gốc người Hoa ở An-Nam thử tấn công xem sao?
Triệu An chia quân làm hai. Lôi-kỵ theo con đường chính tấn công vào cổng trước. Bộ binh dàn ra, lội ruộng tấn công dọc theo con lạch, lũy tre. Y dùng lại phương pháp đánh Cụ-bản.
Nhưng khi bộ binh vượt qua con lạch, dùng dao chặt lũy tre, thì một hồi tù và nổi lên, rồi các cổng phụ mở rộng. Mỗi cổng một đoàn trâu hàng năm lồng ra, rồi nhanh :Dng đánh bọc phía sau. Bọn tướng trâu cũng lại là bọn ở Bình-lệ nguyên, Cụ-bản, đó là năm Cu. Đám bộ binh kinh hãi, bỏ chặt rào, quay lại chống Ngưu-binh. Bấy giờ quân trong lũy tre mới phản công. Bị đánh ép phía sau, chặn đầu phía trước. Không đầy hai khắc đám bộ binh bị giết gần hết. Phần còn lại bỏ chạy tán loạn trên cánh đồng lúa.
Trên con đường chính đến cổng trước. Bọn võ sĩ, nấp sau các lá chắn xông vào. Khi còn cách cổng hơn dặm, thì cổng mở rộng, Ngưu-binh tiến trước với Khiên-mây che thân. Lúc cuộc giao chiến bắt đầu, thì hai đội Ngưu-binh khác lội xuống ruộng đánh bọc hai bên.
Sau ba đợt tấn công, quân chết hơn nửa, mà chiến lũy vẫn vô sự. Triệu Anh truyền quân lưu lại, báo cáo với A Truật.
Kinh nghiệm trận Cụ-bản, Phù-lỗ, A Truật biết rằng muôn ngàn lần mình không thể nhổ được 41 chiến lũy, để tiến về Thiên-trường. Y báo với Ngột-lương Hợp-thai.
Chính lúc đó, tên Trịnh Ngọc, Trịnh Đức, cùng với bọn bang trưởng các bang Hoa-kiều đang họp với Ngột-lương Hợp-thai trong thành Thăng-long. Bọn chúng dò được nhiều tin tức, cung cấp cho Mông-cổ.
Bọn du thủ, du thực của anh em họ Trịnh báo động :
%AB Trên đường từ Thăng-long về Thiên-trường, có 41 xã. Dân trong các xã này gốc do Nguyên-tổ Trần Lý của triều đình, khi còn là Thần-nông sứ đã quy dân lập lên, gần bẩy mươi năm. Xã được tổ chức rất quy củ, có hệ thống phòng vệ cực chu đáo. Gần đây dân chúng được tổ chức phương pháp phản tấn công của Mông-cổ. Họ có khả năng chiến đấu như những đạo quân thiện chiến. Hai hôm trước, Thái-bảo Lê Phụ-Trần dẫn ba hiệu binh Tiên-yên, Yên-bang, Yên-phụ, cùng bọn tướng Ngưu-binh ưu tú, năm Cu, năm Trâu, năm Hĩm về đây. Bộ binh, Ngưu-binh chia thành từng vệ, tản vào, cùng dân chúng trấn thủ. Không thể, không nên đánh về Thiên-trường %BB.

Bọn các bang hội người Hoa báo :
%AB Khi Hưng-Đạo vương thiết kế, đã chia cho mỗi đại tướng một vài hiệu binh trấn thủ vùng trách nhiệm. Các hiệu binh sẽ chia thành Vệ, tản vào xã cùng dân chống quân Thiên-triều. Thế

egeo 06-19-2004 05:01 PM



Chương kết:Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên-Phong.
(Trần Nhân-tông)

(Người lính già đầu bạc,
Kể mãi chuyện Nguyên-Phong).

Ngày 21 tháng Chạp, năm Đinh Tỵ nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ bẩy đời vua Thái-tông nhà Trần (26 tháng 1 năm 1958).

Hôm nay là ngày Thái-sư Mông-cổ Ngột-lương Hợp-thai, phò mã Hoài Đô, cùng chư tướng mở đại tiệc trong Hoàng-thành Thăng-long. Đây là bữa tiệc mừng chiến thắng trận cánh đồng Văn. Hoài Đô nói với cử tọa :
- Ta ra quân lần đầu, chỉ một trận, phá tan ba hiệu binh thiện chiến bậc nhất Đại-Việt, đuổi Thái-úy An-Nam là Khâm-Thiên đại vương chạy bán mạng. Toàn quốc rúng động. Nhiều xã mở cổng quy hàng. Ta lại chiếm được 10 huyện, đã đặt quan cai trị. Đợi qua Tết, chúng ta tiếp tục truy lùng Trần Cảnh, Trần Quốc-Tuấn, chiếm nốt các huyện còn lại. Bấy giờ ta đặt một tên khờ nào đó lên là vua, để y có thể cung ứng lương thảo, lao binh cho ta. Ta sẽ tiến lên đánh vào sau lưng bọn Tống.
Ngột-lương Hợp-thai nói với các võ sĩ Trung-quốc :
- Đối với các nước khác, bắt vua, chiếm thành là xong. Nhưng ở An-Nam làm như vậy thì chưa đủ, bởi bọn võ lâm rất có uy tín với dân. Chúng sẽ cầm đầu dân chúng nổi lên chống đối. Ta khó mà ở yên với chúng. Vậy cần thu thập bọn võ lâm trước.
Hoài Đô chỉ vào đám võ sĩ phái Côn-luân, Võ-đang :
- Tôi nghĩ, muốn trị bọn võ lâm An-Nam thì không khó. Ở đây có hai vị Thái-sơn Bắc-đẩu võ lâm Trung-quốc là Trấn-thiên kiếm Phùng tiên sinh thuộc phái Côn-luân, cùng Càn-nguyên trấn thiên chưởng của phái Võ-đang. Hai vị dẫn chư đệ tử đi đánh phá tổng đường các võ phái. Việc này phải làm song song với việc chúng tôi đem quân chiếm các huyện.
Tiêu-Hư đạo sư của phái Võ-đang từng qua lại một vài chiêu với Tuyên-minh Thái-hoàng thái hậu. Bây giờ nghĩ lại, ông vẫn cảm thấy ơn ớn. Ông hỏi tên Trịnh Ngọc :
- Không biết võ lâm An-Nam hiện có những phái nào ? Thực lực của họ ra sao ?
- Thưa đạo trưởng.
Tên Trịnh Ngọc trả lời : An-Nam có 6 đại môn phái chính. Môn phái lớn nhất là Đông-a, gốc của triều đình nhà Trần. Cao thủ như rừng, kể không siết. Thứ đến phái Yên-tử, tuy mới thành lập, nhưng thế cực mạnh ; cao thủ phái này có Tiêu-Dao đại sư, Lung-Á đại sư. Hưng-Ninh vương là đệ tử của Tiêu-Dao đại sư. Thứ ba đến phái Mê-linh có Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm.
Nghe đến Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm, mặt Ngột-lương Hợp-thai, Hòai Đô, A Truật cau lại thực khó coi. Hình ảnh ba ni sư này kiếm thuật thần thông, xung vào giữa đội hình Lôi-kỵ như chỗ không người. Với bản lãnh ấy thì khi ba bà xuất trận, làm thế nào mà kiềm chế được?
Tên Trịnh Ngọc vẫn lải nhải :
- Thứ tư tới phái Tản-viên. Phái này có hai đại cao thủ nức danh là Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng, chưởng lực cao thâm không biết đâu mà lường. Còn phái Sài-sơn, thì đời nào cũng có những anh tài ở trong quân ngũ. Hiện phái này có ba đại cao thủ là Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn, Lê Phụ-Trần. Lê Phụ-Trần là người chỉ huy trận Bình-lệ-nguyên. Cuối cùng là phái Tiêu-sơn. Tuy những năm gần đây phái này chuyên nghiên cứu Phật pháp, nhưng vẫn nảy ra một thiên tài là Y-Sơn đại sư. Võ lâm Lĩnh Nam gọi Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng, Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn, Tiêu-Dao, Lung-Á, Y-Sơn là Đại-Việt thất tuyệt.
Phùng Tập tỏ ý lo lắng :
- Thái-sư muốn chúng tôi thu thập bọn võ lâm. Nhưng chúng đông quá, trong khi chúng tôi chỉ có hai người thì địch sao lại ?
- Phùng tiên sinh ơi !
Hòa Đô mỉm cười :
- Tôi có bảo tiên sinh thu thập tất cả bọn chúng một lúc đâu ? Tôi muốn : Khi chúng tôi đánh tới huyện nào, mà trong huyện đó có tổng đàn một võ phái, thì nhị vị dùng lễ võ lâm gặp chưởng môn của chúng. Tiên sinh đem đại nghĩa, đem danh lợi ra chiêu dụ chúng. Chúng theo gió mà quy hàng thì tôi sẽ ban chức tước, ruộng đất cho chúng. Còn như chúng không theo, thì ta dùng quân giết tuyệt, rồi tiêu hủy tổng đàn của chúng.
Y hỏi tên Trịnh Ngọc :
- Theo ý người thì nên thu thập phái nào trước ?
- Phái Đông-a là gốc họ Trần, thì chiêu mộ e vô ích. Phái Sài-sơn cùng phái Đông-a gắn bó với nhau có trên 3 trăm năm, muốn chiêu dụ cũng khó. Còn lại, theo tiểu nhân, ta nên chiêu mộ bọn Tiêu-sơn. Vì phái Tiêu-sơn là nơi phát tích ra triều Lý. Bọn họ Trần thay bọn họ Lý, thì phái Tiêu-sơn thất sủng. Chiêu mộ dễ nhất.
Ngột-lương Hợp-thai cầm chung rượu dơ lên :
- Chúng ta hãy say một bữa, rồi sau Tết sẽ tiến quân.
Quan, quân Mông-cổ đang ăn thịt, uống rượu, được bọn ca nhi gốc người Hoa hầu hạ, ca hát vui mừng, vì chiếm được 10 huyện của An-Nam, thì thân binh vào báo :
- Thưa Thái-sư, đại tướng chỉ huy binh đoàn Phương-Đông Trần Thủ-Độ, cùng với Vạn-phu trưởng Trần Tử-An xin cầu kiến.
Ngột-lương Hợp-thai buông chung rượu hỏi lại :
- Người có nghe lầm không ? Nhị ca của ta qua đời đã lâu rồi, có đâu y...y...đội mồ sống lại ?
- Thưa Thái-sư, ông ta xưng như vậy, nhưng ông ta mặc y phục Thái-sư của Đại-Việt. Cạnh ông còn có 10 mười tùy tùng. Bọn này gồm tăng, tục, già, trẻ, nam, nữ khác nhau. Họ nói tiếng Mông-cổ rất văn vẻ.
Ngột-lương Hợp-thai nói với Hoài Đô :
- Chúng ta cùng ra xem sự thực thế nào?
Vừa tới Nam-môn Hoàng-thành, tuy cách xa nhau mấy chục năm, mà nhác trông đám khách, Ngột-lương Hợp-thai đã nhận ra người anh kết nghĩa Trần Thủ-Độ. Y reo lên :
- Nhị ca !
Cả hai nắm lấy tay nhau, lặng đi một lúc, rồi Ngột-lương Hợp-thai lên tiếng :
- Người ta...Người ta nói láo rằng nhị ca chết rồi. Không ngờ nhị ca vẫn còn tại thế. Bây giờ nhị ca làm quan với An-Nam à ?
- Đúng vậy. Không những huynh làm quan mà còn là Thái-sư của Đại-Việt nữa.
Thủ-Độ giới thiệu những người cùng đi gồm Đại-Việt thất tuyệt: Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng, Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn, Tiêu-Dao, Lung-Á, Y-Sơn. Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm, nhưng hiện diện chỉ có hai vị Vô-Sắc, Vô-Ảnh. Cuối cùng là Trần Tử-An.
Phân ngôi chủ khách xong, Hoài Đô nói với Thủ-Độ :
- Thưa Trần tiên sinh ! Tôi nghe phụ hoàng nói rằng, xưa người cùng tiên sinh, Thái-sư đây, Đại-vương Bạt-Đô, Đại-vương A-lý Hải-nha kết thành Thảo-nguyên ngũ thiết điêu, nức danh Thảo-nguyên. Đức Thái-tổ phong tiên sinh làm tướng chỉ huy đạo binh Phương-Đông. Không biết hôm nay tiên sinh tới đây với tư cách là đại tướng của Mông-cổ hay là Thái-sư của An-Nam ?
Thủ-Độ biết tên nhãi con này muốn kiếm chuyện đây, ông cười nhạt:
- Khi chúng ta lừng danh Thảo-nguyên thì dường như Phò-mã chưa ra đời thì phải ? Cho nên Phò-mã mới đặt câu hỏi đó với ta. Để trả lời câu hỏi của Phò-mã, ta khẳng định, ta đến đây không nhân danh đại tướng Mông-cổ, mà cũng không nhân danh Thái-sư Đại-Việt. Ta đến đây với hai chủ đích. Một là nhân danh một con dân Đại-Việt, muốn nói chuyện với một Thái-sư thống lĩnh hành quân chinh thảo Nam-thiên. Hai là để thăm người em kết nghĩa Ngột-lương Hợp-thai.
Ông chỉ 9 vị đại tôn sư võ học Đại-Việt :
- Còn chín vị này, các người nghe tin có hai vị đạo cao đức trọng nhất trong võ lâm Trung-quốc là Tiêu-Hư đạo sư phái Võ-đang ; Trấn-thiên kiếm Phùng tiên sinh phái Côn-luân giá lâm Đại-Việt, nên tới để tiếp rước, để tỏ lòng ngưỡng mộ bấy lâu.
Coi như không biết tới Hoài-Đô, ông hỏi Ngột-lương Hợp-thai :
- Dường như tam đệ đang ăn tiệc mừng chiến thắng phải không ?
- Đúng vậy ! Xin nhị ca, cùng chư vị cùng nâng chung với đệ.
Nói rồi y ra lệnh cho ca nhi dâng rượu, tấu nhạc. Đó là nhạc chiến thắng Mông-cổ. Bọn nhạc công xử dụng toàn nhạc cụ Đại-Việt. Bọn vũ công vừa ca, vừa múa nhịp nhàng. Bản nhạc dứt, Hoài Đô hỏi :
- Khúc nhạc này thế nào ? Xin các vị cho lời bình phẩm.
Lê Ngân Sơn mỉm cười :
- Xin Phò mã cho nghe một lần nữa, lão phu sẽ tấu Độc-huyền cầm (đàn bầu), để phụ họa cho vui.
Hoài Đô phất tay, bọn ca nhi lại vừa hát vừa múa. Lê Ngân Sơn cầm cây đàn bầu treo trên tường. Lê Kim Sơn rút trong bọc ra môt ống tiêu. Kim Sơn đưa tiêu lên miệng, tiếng tiêu cất lên véo von. Ngân Sơn bật lên mấy tiếng, âm ba rung động, truyền đi rất xa. Lập tức các ca nhi bị choáng váng, lời ca nhịp múa hỗn loạn. Từ Ngột-lương Hợp-thai cho chí tên nhạc trưởng đều kinh hoàng.
Tên nhạc trưởng nghiến răng phất tay ra lệnh, tiếng đàn, tiếng phách, tiếng sênh...lại tiếp tục. Bọn vũ nữ, ca nhi ca múa lại từ đầu. Sau khi dạo mấy tiếng, lần này Ngân Sơn, Kim Sơn tấu một bản nhạc, đó là bản Động-đình ca. Đám vũ nữ không làm chủ được, chúng múa theo nhịp đàn của Ngân Sơn, tiếng sáo của Kim Sơn. Bản nhạc dứt, Ngân Sơn hỏi Hoài Đô :
- Phải chăng bản nhạc vừa rồi là nhạc Thảo-nguyên ?
Hoài Đô từng nghe nói : Phái Sài-sơn của Đại Việt ngoài võ công, kỵ mã, tiễn thủ...còn nổi tiếng về Lịch-số, Âm-nhạc. Bây giờ hai đại tôn sư dùng nội công thượng thừa truyền vào âm thanh, khiến các ca nhi, vũ nữ bị lạc nhịp, rồi không tử chủ được, phải múa theo nhịp do anh em họ Lê muốn. Y nói ngang:
- Đây là âm nhạc của rợ phương Nam. Vùng Thảo-nguyên anh hùng đời nào có loại nhạc này nhỉ.
Ngân-Sơn, Kim-Sơn lại tiếp tục tấu nhạc. Tiếng đàn, tiếng tiêu vừa phát ra thì tất cả nhạc công, vũ nữ đều bị âm ba khích động, chúng múa theo điệu nhạc. Lúc đầu các tướng Mông-cổ còn tự chủ được, nhưng chỉ lát sau, cao nhất là Ngột-lương Hợp-thai, cho tới bọn quân hầu, đều không tự chủ được, cũng múa may rối loạn cả lên. Hoài-Đô, A Truật lấy tay bịt tai lại, nhưng âm thanh vẫn cứ lọt vào trong, chân tay cứ mua may, quay cuồng. Bản nhạc dứt, thì đám ca nhi, nhạc công mệt quá, ngã ngồi xuống đất.
Thế là cuộc tấu nhạc chấm dứt.

Thái-sư Thủ Độ hỏi Ngột-lương Hợp-thai :
- Xưa tiên phụ cùng Thái-sư thúc Phạm Tử-Tuệ trị Huyền-âm độc chưởng cho phụ thân nhị đệ là Tốc Bất Đài. Sau khi phụ thân đệ khỏi bệnh, Thành-cát Tư-hãn có thề với tiên phụ rằng : Trọn đời, và di ngôn cho con cháu mãi mãi nhớ ơn Đại-Việt. Vậy không biết lời di chúc đó có còn giá trị không ?
Ngột-lương Hợp-thai biết người anh kết nghĩa này trí tuệ vô song. Muôn ngàn lần y không thể dùng ngôn từ mà thắng nổi. Y trả lời cho qua :
- Dĩ nhiên lời thề đó đến nay vẫn có giá trị.
Thủ-Độ nắm lấy tay Ngột-lương Hợp-thai :
- Vậy tại sao tam đệ lại mang quân tàn phá Đại-Việt ? Như vậy là nhớ ơn ? Là ghi ơn ư ?
Hoài Đô biết rằng đấu lý, đấu võ, đấu gì chăng nữa, Ngột-lương Hợp-thai đều không phải là đối thủ của Thủ-Độ. Y xen vào :
- Thưa tiên sinh. Khi Thành-cát Tư-hãn hứa những lời trên, thì người chỉ là một Khả-hãn bộ tộc Mông-cổ nhỏ xíu ở Lý-long hà. Còn người ban chỉ chinh tiễu An-Nam bây giờ là một đại hoàng đế Mông-cổ. Không thể mang lời hứa của một chúa bộ tộc, bắt một đại hoàng đế phải thi hành.
Y ngừng lại cười nhạt :
- Tiên sinh nên nhớ, khắp gầm trời này từ Đông sang Tây, từ Bắc uống Nam, hằng trăm nước, nhất nhất đều phải quy phục Mông-cổ. Tiên sinh từng là đại tướng của Mông-cổ, tại sao tiên sinh không bắt Trần Cảnh hạ cờ theo về Thiên-quốc. Hơn nữa tiên sinh còn giúp y đem quân chống Thiên-triều?
Đặng Kiếm-Anh cười nhạt :
- Phò mã lý luận như vậy là lối lý luận của bọn man mọi, bọn không văn hóa. Lão phu hỏi phò mã câu này nhé : Có lý nào Mông-cổ bắt tất cả các nước phải quy phục không ? Nếu như lão phu cũng đòi Mông-cổ phải quy phục Đại-Việt thì phò mã nghĩ sao ?
- Nghĩ sao ?
Hoài Đô vẫn ương ngạnh : Tại vì Mông-cổ có hàng vạn vạn Lôi-kỵ mạnh nghiêng trời lệch đất. Tại vì...
Y vung tay một cái, hai mũi phi tiễn hướng hai vị trí trên người Kiếm Anh : Huyệt Ấn-đường ở trán, huyệt Đản-trung ở ngực. Kiếm Anh cười nhạt ông phất tay một cái, hai mũi phi tiễn đổi chiều hướng người Hoài-Đô, kình lực rít lên vo vo. Kinh hãi, Hoài Đô phất tay gạt, nhưng y gạt vào quãng không. Vì hai mũi phi tiễn đã đổi chiều trúng vào cây cột gỗ, ngập tới tận chuôi. Kiếm Anh cười nhạt :
- À, thì ra phò mã cho rằng mình mạnh, thì muốn bắt ai quy phục thì bắt sao ? Cũng được ! Thôi chúng ta không cần lý luận nữa. Ngày mai chúng ta cùng đem quân quyết chiến. Chúng tôi xin chờ phò mã ở Đông-bộ đầu.
Hoài Đô run run cười gằn :
- Quyết chiến ư ! Được ! Ngày mai.
Y rút thanh kiếm trao cho một võ sĩ :
- Người là đại diện cho Mông-cổ làm giám quan. Trong bữa tiệc hôm nay chỉ nói tình nghĩa huynh đệ, đàm văn, luận võ. Hễ ai nói đến chuyện Mông-cổ, An-Nam thì chém ngay.
Đặng Kiếm-Anh cũng nói với Trần Tử-An :
- Đại-huynh! Trong anh em chúng tôi đây, duy Đại-huynh nghe, hiểu tiếng Mông-cổ, Đại-Việt, Trung-quốc. Đại-huynh làm giám quan cùng với vị huynh đệ đây.
Tiệc bầy ra, có cả món chay lẫn món mặn. Thái-sư Trần Thủ-Độ cùng Ngột-lương Hợp-thai kể cho nhau nghe những gì đã xẩy ra trong mình trong thời gian qua. Trong khi đó các tôn sư Đại-Việt cùng Phùng Tập, Tiêu-Hư tử toàn luận về võ công. Còn Hoài Đô, A Truật thì chỉ biết vểnh tai ra nghe.
Khoảng hơn giờ sau, viên Bách-phu trưởng hầu cận Ngột-lương Hợp-thai chạy bổ vào. Lập tức y bị Tử-An cản lại :
- Thái-sư có lệnh, người đang mời nghĩa huynh là Thái-sư Trần Thủ-Độ dư tiệc, ôn chuyện xưa, tuyệt đối không ai được quấy rầy.
Lát sau, tới viên Thiên-phu trưởng phụ trách việc Tế-tác nhảy bổ vào. Y nói :
- Tôi muốn được báo việc cơ mật với Thái-sư.
Tử-An đẩy y ra cửa :
- Thái-sư có lệnh : Người đang hàn huyên với nghĩa huynh. Tuyệt đối không ai được quấy nhiễu.
Cho đến giờ Thân, tiệc tàn. Thái-sư Trần Thủ-Độ đứng dậy cáo từ :
- Tam đệ ! Hôm nay tam đệ đãi chúng ta. Ngày mai, ta cũng mời tam đệ cùng các vị đây tới Đông-bộ đầu. Ta xin làm chủ nhân, mời quý vị cùng uống một bữa thực say, rồi sang năm mới sẽ quyết chiến một trận.
Khi Thái-sư Trần Thủ-Độ cùng phái đoàn Đại-Việt ra về, thì viên Thiên-phu trưởng phụ trách Tế-tác chạy bổ vào :
- Thưa Thái-sư ! Nguy rồi !
- Nguy gì ?
Hoài-Đô hỏi : Trong khi chúng ta tiếp khách, mục đích dò xem vua An-Nam ở đâu, còn đem quân bắt, thì bọn mi cứ quấy rầy hoài ! Cái gì mà nguy rồi ?
- Trình Phò-mã, đêm qua, lúc giờ Tý, Thiên-phu phụ trách tuần hành từ biên giới tới Thảo-nguyên, bị quân Việt đánh úp. Toàn bộ quân ta bị bắt, bị giết sạch.
- Vô lý ! Người kể cho ta nghe chi tiết nào !
- Quân Việt từ trong rừng, từ dưới sông, từ trong các lũy tre, đông như kiến, liều như sư tử. Chúng được ba ni sư, chỉ huy đội võ sĩ hơn 3 trăm người dẫn đầu. Chúng tràn vào nơi đóng quân. Quân ta không trở tay kịp. Thiên-phu trưởng bị một ni sư sát hại. Còn lại các Bách-phu trưởng, Thập-phu trưởng bị ba ni sư giết. Ba mụ ni sư vơí đội võ sĩ này thực kinh khủng. Chúng đi đến đâu, thì đầu Lôi-kỵ rơi đến đó. Sau khi chiếm được trại, chúng thả một Lôi-kỵ ra, bắt y mang thư về cho Thái-sư.
- Có biết ba mụ ni sư đó là ai không ?
- Nghe nói là Lĩnh-Nam tam đại thần kiếm Vô Ảnh, Vô Sắc và Vô Huyền !
- Tổ bà nó ! Lại cũng ba con mụ ni sư thối tha đó. Người nói chúng gửi thư cho ta. Đâu ? Thư đâu ?
Ngột-lương Hợp-thai tiếp thư mở ra : Trên phong bì vẽ hình một đứa trẻ chăn trâu đang cầm...cò đái. Thư như sau:
%AB Văn-mẫn thượng tướng quân,
Thống lĩnh hiệu binh Hữu Thánh-dực,
Kiêm thống lĩnh đội võ sĩ Trấn-quốc,
Tước Kiêu-kỵ bá là Hoàng Vui,
Thư cho
Kiểm-hiệu Thái-sư,
Thống lĩnh hành quân,
Chinh thảo Nam-thiên,
Tứ-xuyên đại vương là Ngột-lương Hợp-thai.
Thừa lệnh của Vũ-Uy vương, thống lĩnh mặt trận biên giới phía Bắc, ta báo cho người biết. Người từng ruổi ngựa khắp bốn phương, anh hùng cái thế. Nay tước tới Đại-vương, thế mà khi nhập biên, người không biết rằng chúng ta ém quân trong khắp trang, động vùng biên giới. Người chỉ để lại có một Thiên-phu bảo vệ con đường tiếp tế lương thảo. Người đem đại quân xuống Thăng-long, là tự chui đầu vào giỏ cá. Bây giờ, ta diệt Thiên-phu Lôi-kỵ của người, rồi phá cầu, đặt chông, đắp lũy suốt từ biên giới tới Thảo-lâm, giống như thắt cái hom giỏ. Người không còn đường về nước. Hỡi ơi ! Bây giờ người tiến lên thì không thể đánh từng xã, từng làng. Đóng quân lại thì lương thảo không còn. Con đường về thì bị chặn mất. Vậy ta có lời khuyên người. Một là cởi giáp tới Đông-bộ đầu xin nghĩa huynh là Thái-sư Trần Thủ-Độ, để người nghĩ tình xưa, nghĩa cũ, ban cho một ngựa, sai binh dẫn về biên giới. Hoặc người có liêm sỉ, hãy tự tử để bảo toàn danh tiết cho thằng bố mi là Tốc Bất Đài %BB.

Mặt Ngột-lương Hợp-thai tái mét, y giận đến nỗi chân tay phát run.
Vừa lúc đó, lại một mã khoái Phi-tiễn báo :
- Giờ Tý đêm qua, căn cứ Bình-lệ nguyên bị đánh úp ! Toàn bộ quân ta bị giết, bị bắt. Hiện quân Việt đóng chặn mất đường rút lui, cũng như đường tiếp tế lương thảo của chúng ta.
Hoài Đô kinh hãi hỏi :
- Tướng Việt nào chỉ huy trận đánh đó ?
- Nghe đâu là Lê Phụ-Trần.
- Làm sao chúng đánh dễ dàng như vậy ?
- Thưa chúng đánh đâu có dễ ? Giữa đêm, quân ta đang ngủ, thì quân Việt từ những cánh đồng, thình lình xuất hiện. Chúng liều mạng lăn xả vào chém giết. Chúng được ba nhà sư dẫn đầu một đội võ sĩ 5 trăm người. Bọn này lợi hại không thể tưởng tượng nổi. Chúng dùng đoản đao. Cứ mỗi đao vung lên là một người bên ta bị giết. Sau hơn hai giờ chiến đấu ác liệt, quân ta bị Ngưu-binh, Bộ-binh của chúng giết sạch.
Ngột-lương Hợp-thai hỏi :
- Ba thằng trọc ăn thịt chó đó là ai vậy ?
- Nghe nói là Tiêu-Dao, Lung-Á và Y-Sơn.
Hoài Đô chửi :
- Mẹ cha nó, đêm qua ba thằng trọc đó dự trận Bình-lệ nguyên, mà sao sáng nay chúng lại có mặt ở đây ?
- Phò mã gia ơi ! Có gì lạ đâu ? Sau khi chiếm Bình-lệ nguyên, chúng dùng thuyền xuôi giòng về đây, chỉ mất có vài giờ !
Chợt nghĩ ra một chuyện, Ngột-lương Hợp-thai gọi A Truật :
- Con mau đem một Vạn-phu Lôi-kỵ hỏa tốc tiến lên phòng thủ Cụ-bản. Bằng không chúng chiếm kho lương này thì chúng ta chết đói hết.
A Truật lệnh cho quân sĩ chuẩn bị lên đường, thì quân báo :
- Căn cứ Phù-lỗ bị quân Việt chiếm đêm qua. Thiên-phu Lôi-kỵ, hai Thiên-phu Đại-lý bị giết sạch !
A Truật kinh hãi :
- Làm thế nào mà chúng thắng ta dễ dàng như vậy ?
- Thưa Bộ- binh của ta đóng ở cánh đồng. Giữa đêm bị Ngưu-binh, Bộ-binh Việt đột nhập. Chúng được dẫn đầu bởi 3 trăm võ sĩ, do hai lão đầu bạc chỉ huy. Thực là kinh khủng, bọn này tiến tới đâu, thì quân ta bị giết tới đó. Trong khi hai bên đang xung sát, thì Lôi-kỵ được báo. Thiên-phu Lôi-kỵ vượt sông tiếp viện. Khi vừa sang sông thì Kỵ-binh Việt xuất hiện. Hai bên giao chiến trong nửa giờ, Kỵ-binh Việt bị thua bỏ chạy. Lôi-kỵ đuổi theo, bị trúng trận địa Vạn-thằng, bị Bộ-binh từ hai bên hông xông ra chém giết. Phía trước, Kỵ-binh Việt quay trở lại tấn công. Hơn giờ sau, cả Lôi-kỵ lẫn Bộ-binh của ta bị tràn ngập.

Hoài Đô phát hoảng :
- Tướng Việt nào chỉ huy trận này ?
- Thưa là Vũ-kỵ thượng tướng quân Lý Tùng-Bách và Phá-lỗ thượng tướng quân Trần Trữ, Hoài-hóa thượng tướng quân Trương Đình. Còn hai lão võ sĩ là là Đặng Kiếm-Anh, Đặng Kiếm-Hùng của phái Tản-viên.
Hoài Đô nhìn Phùng Tập, Tiêu-Hư tử :
- Lạ lùng ! Kế hoạch của ta là ém không cho võ sĩ xuất hiện. Đợi trận đánh cuối cùng mới tung ra, để bắt vua An-Nam. Dường như bọn chúng biết trước. Chúng biết các đội quân của ta không võ sĩ, chúng ra tay trước, thành ra ta thất bại.
Ngột-lương Hợp-thai hỏi Hoài Đô :
- Làm sao bây giờ ? Tôi lo cho kho lương Cụ-bản quá.
Giữa lúc đó tên Trịnh Ngọc chạy vào trình :
- Thưa Thái-sư, Cụ-bản bị tấn công dữ dội !
- Sao người biết ?
- Khi Cụ-bản bị đánh, người của chúng tôi phi ngựa về Thăng-long cáo cấp. Ngặt vì đường Cụ-bản về đây bị nghẽn ở Phù-lỗ, nên chúng phải dùng thuyền.
- Gọi tên Tế-tác đó vào đây cho ta hỏi.
Tên Tế-tác người Hoa được trình diện. Y nói tiếng Trung-quốc với Ngột-lương Hợp-thai.
- Người báo danh đi.
- Tiểu nhân tên Lâm Định.
- Tình hình Cụ-bản ra sao ?
- Không biết bằng cách nào một đội võ sĩ cảm tử An-Nam, do tên Đô-thống Trần Minh đột nhập vào kho lương. Chúng phóng hỏa khắp nơi. Trong khi đó bọn Đại-đởm thập tam kiệt đột nhập giết quân canh, mở cổng cho Ngưu-binh tràn vào. Chúng được năm người đàn bà đẹp dẫn 3 trăm võ sĩ trợ chiến. Bọn này đi đến đâu, đầu các tướng soái rơi đến đó. Bấy giờ quân ta mới báo động, choàng dậy, trong khi quân của chúng đã vào trong căn cứ. Hai bên lẫn vào nhau, lửa cháy khắp nơi. Khi tiểu nhân phi ngựa cấp báo về đây, thì hai bên vẫn còn đang chém giết nhau.
Đến đây, Hoài Đô tỉnh ngộ:
- Thái-sư! Chúng ta bị mắc mưu giặc rồi!
- Mắc mưu!
- Đúng thế! Khi nghe Thái-sư mang đại quân sang chinh tiễu, Thủ-Độ sai người phao rằng y chết rồi, để Thái-sư không đề phòng. Vì vậy...
- Mình đáng chết thực!
Ngột-lương Hợp-thai than: Đúng rồi! Từ lúc nhập Việt, Triệt Triệt Đô cũng như A Tan đều nghi rằng trong quân An-Nam ắt có một nhân vật lỗi lạc biết rất rõ binh pháp Thái-tổ, rồi nhân đó đưa ra binh pháp mới chống lại. Tôi không tin. Thì ra nhị sư huynh của tôi! Hỡi ơi! Tôi làm sao mà chống lại người.
- Cách đây một ngày, An-Nam hội quân tại Đông-bộ đầu, ra lệnh đánh vào các căn cứ quân ta. Họ ước tính rằng sáng nay, tin tức các nơi sẽ gửi về, nên mới cho Trần Thủ-Độ sống dậy. Thủ-Độ dẫn bọn tôn sư võ học An-Nam theo, giả thăm Thái-sư, nhưng thực ra...
- Đúng ! Chúng cầm chân ta, không cho tiếp xúc với tướng sĩ, để kịp phản ứng. Bây giờ thì tình trạng quá tồi tệ.
- Thưa Thái-sư, bây giờ đã muộn rồi. Ngày mai mình phải đem đại quân đi mở đường. Mở đường rồi, mới hy vọng có lương thực.
Tính cương quyết nổi dậy, Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh :
- Trần Cảnh với Hưng-Đạo vương hiện tập trung quân ở Đông-bộ đầu. Ngày mai, chúng ta dồn hết lực lượng đánh một trận, bắt bằng được hai người này, thì các phủ, các trấn, các xã phải quy hàng. Chúng quy hàng thì thiếu gì lương thực.
A Truật than :
- Thưa phụ thân. Đợi bắt được Trần Cảnh, thì e phải mấy ngày. Kho lương Cụ-bản bị chiếm. Đường tiếp tế bị cắt. Lương tại đây chỉ còn một hai ngày. Vậy mình phải làm gì ?
Ngột-lương Hợp-thai gọi gã Trịnh Ngọc :
- Người sai bọn thân binh Hoa-kiều ra lệnh cho bọn người Hoa phải cung ứng lương thực cho quân ta.
- Thưa Thái-sư, nếu như chúng không chịu nộp thì sao ?
- Mi ngu thế ! Mi sai người đi rao : Nhà nào có lương phải nộp ! Dù trong nhà chỉ còn một con gà, một đấu gạo, thì cả nhà sẽ bị giết. Ta cho mi muốn giết ai thì giết.
- Thưa Thái-sư không nên!
Phùng Tập cản: Khi đại quân sắp tới Đại-Việt, Hoa-kiều đã bảo nhau, làm nội ứng, làm Tế-tác, làm hướng đạo, tiếp đón chúng ta. Hiện họ đã lập một hiệu quân, theo trợ giúp chúng ta. Mà nay Thái-sư lại ra lệnh cướp lương thực, tàn sát họ, thì còn trời đất nào nữa?
Ông chỉ hơn nghìn võ sĩ Trung-quốc:
- Huống hồ các võ sĩ này đang mài gươm chờ lệnh Thái-sư. Những người Hoa đều không ít thì nhiều hãnh diện vì họ. Nếu như nay quân sĩ tàn sát người Hoa, thì họ còn mặt mũi nào nữa?
- Truyền thống của Mông-cổ, là khi quân đi đến đâu, dân chúng phải dâng hiến lương thực. Người Hoa là ngoan dân, thì phải biết tuân lệnh của ta!
Suốt đêm hôm đó, quân Mông-cổ, quân Đại-lý kéo nhau đến các phường trong thành Thăng-long cướp lương thực. Nhà nào không chịu nộp, thì bị giết liền.
Từ hôm quân Mông-cổ nhập Thăng-long, bọn thủ lãnh Hoa-kiều hô hào dân chúng nổi lên làm nội ứng, để mưu cầu danh lợi, mưu cầu an ninh. Chúng đã thành công. Ngột-lương Hợp-thai cho chúng làm An-phủ-sứ, Tuyên-vũ-sứ các huyện, các phủ. Chúng hét ra lửa mửa ra khói. Người Việt thấy Hoa-kiều đều phải cúi đầu xuống lễ phép. Hoài Đô cho chúng thành lập một Thiên-phu thân binh, kéo nhau vào các phường người Việt cướp bóc, hãm hiếp mặc sức. Khi Ngột-lương Hợp-thai ra lệnh tàn sát dân Việt trong thành Thăng-long. Bọn này là lực lượng chính đi bao vây, lùa dân chúng thành từng khu. Rồi chính bọn chúng chém giết, hãm hiếp, cướp của. Những khu nhà cửa bằng tranh, bằng gỗ thì chúng đốt sạch. Còn những nhà gạch ngói thì chúng cướp lấy ở. Suốt mấy ngày qua, chúng kéo nhau về các làng xóm mua lương thực đem về Thăng-long bán. Từ khi có lệnh của Hưng-Đạo vương, dân chúng không bán lương thực cho chúng nữa. Tại các cửa hàng của Hoa-kiều, lương thực từ từ biến dần. Bây giờ có lệnh của Ngột-lương Hợp-thai, bọn binh Đại-lý, Trung-quốc kéo nhau đi cướp lương. Bất đắc dĩ họ phải nộp. Vì họ nghĩ, cứ nộp, để giữ mạng sống, rồi đem tiền vào các vùng quê mua sau.
Sáng hôm sau, tên Trịnh Ngọc báo :
%AB Đã thu được số lương thực, có thể nuôi quân trong vòng 5 ngày %BB.

Ngày 22 tháng Chạp năm Đinh Tỵ nhằm niên hiệu Nguyên-Phong thứ bẩy đời vua Thái-tông nhà Trần (27 tháng 1 năm 1958).

Trời vừa hừng sáng, Ngột-lương Hợp-thai tập họp tướng sĩ ra lệnh :
- Hiện vua An-Nam tập trung quân ở Đông-bộ đầu, thách thức chúng ta tới quyết chiến. Gì chứ dàn quân, thì chúng lại thất bại như trận Bình-lệ nguyên, trận cánh đồng Văn mà thôi.
Y gọi A Tan :
- Con đem năm Thiên-phu Lôi-kỵ đi trước, dàn quân tấn công làm ba đợt. Sang đợt thứ tư thì cho Lôi-tiễn, Thạch-xa bắn vào trận giặc, rồi tấn công thực sự.
Y ban lệnh cho Hoài Đô :
- Phò mã đem sáu Thiên-phu Lôi-kỵ, chờ khi A Tan với giặc đang giao chiến, thì tung vào mỗi hông trận địch ba Thiên-phu. Tôi sẽ đem đại binh tiếp ứng. Bằng mọi giá phải phá tan quân giặc, bắt cho được Trần Cảnh.
Lại gọi Vạn-phu trưởng Hoặc Hoặc Mãn (Hoarcgoar- mann) :
- Ta để lại cho người một Thiên-phu Lôi-kỵ, 3 Thiên-phu quân Đại-lý. Để đề phòng bọn võ lâm An-Nam, ta để hai vị tôn sư Phùng Tập, Tiêu-Hư tử với đội võ sĩ. Người phải cẩn thận đừng để chúng cướp, đốt lương thảo.

Quân đang chuẩn bị lên đường thì Tế-tác báo với Thái-sư Ngột-lương Hợp-thai :
- Cuộc chiến tại Cụ-bản chấm dứt. Quân Việt đã chiếm được toàn bộ kho lương. Binh, tướng Mông-cổ hoặc bị bắt hoặc bị giết.
Ngột-lương Hợp-thai nhảy phắt lên :
- Có lý nào ? Tại Cụ-bản ta có ba Thiên-phu Lôi-kỵ, một Vạn-phu vừa quân Trung-quốc, vừa quân Đại-lý. Làm sao chúng đánh được ? Người thuật chi tiết trận đánh cho ta nghe nào !
- Thưa Thái-sư, nửa đêm hôm qua, bọn cảm tử quân do Đại-đởm thượng tướng quân Nguyễn Thiên-Sanh, Vệ Tế-tác do Đô-thống Trần Minh từ một đường mật, nhập vào Cụ-bản. Chúng mặc y phục như quân Trung-quốc, Đại-lý. Khởi đầu chúng phóng hỏa khắp nơi. Tất cả các kho lương đều bị bốc cháy. Khi Lôi-kỵ thức dậy, thì bị chúng lăn xả vào chém giết, miệng hô Sát Đát hoặc gào lên Chúng ta vì Tống Thiên-tử, Sát Đát. Lôi-kỵ tưởng quân Trung-quốc, Đại-lý làm phản, tất cả xông vào khu đóng quân Đại-lý, Trung-quốc chém giết. Thế bắt buộc, quân Đại-lý, Trung-quốc cũng phải chống lại. Giữa lúc đó Nam-thiên ngũ long xuất hiện với ba trăm võ sĩ, trợ chiến với quân Trung-quốc. Không đầy một giờ, bọn này giết hầu hết các Thiên-phu trưởng, Bách-phu trưởng cho chí Thập-phu trưởng Lôi-kỵ. Vì vậy đến khi trời sáng thì Lôi-kỵ hoàn toàn bị giết hết. Bấy giờ quân An-Nam do tướng Vân-ma thượng tướng quân Lê Phẩm, Chinh-thảo thượng tướng quân Nguyễn Bích, Trấn Tây thường tướng quân Phạm Long... chỉ huy Ngưu-binh, Tượng-binh, hiệu binh Tiên-yên từ ngoài đánh vào. Hầu hết quân Trung-quốc, Đại-lý đầu hàng.
Hoài Đô thẫn thờ hỏi gã Trịnh Ngọc :
- Nam-thiên ngũ long là những đứa nào ?
- Thưa là vợ của Trần Lý, Tô Trung-Từ, Phùng Tá-Chu, Trần Tự-Khánh và Trần Thủ-Độ. Chính vợ Trần Lý với vợ Phùng Tá-Chu đã sát hại A Tan và Triệt Triệt Đô. Trong trận Cụ-bản, vợ Trần Lý từng đối chưởng với đạo sư Tiêu-Hư tử.
Đạo-sư Tiêu-Hư tử khen ngợi :
- Nói ra thực xấu hổ. Trọn đời bần đạo, chưa từng thấy ai luyện nội lực tới trình độ như Tuyên-Minh thái hoàng thái hậu. Hôm đó, Thái-hậu chỉ vận có 5 thành công lực. Bằng không thì bần đạo đã mất mạng rồi.
Hoài Đô tỏ vẻ kinh hãi :
- Ngũ-long ư ! Phải gọi năm mụ này là An-Nam ngũ quái hay Giao-chỉ ngũ hồ ly. Bởi hồi niên thiếu, năm mụ đều là những thiếu nữ sắc nước hương trời. Cho đến nay, tuổi già mà võ công còn kinh thế hãi tục như vậy.

Giữa lúc đó thân binh báo :
- Có sứ giả An-Nam tới.
Sứ giả là một thương binh Mông-cổ được thả về. Y trình thư cho Ngột-lương Hợp-thai. Thư rất văn vẻ :

%ABThái-phó thượng trụ quốc,
Lĩnh Trung-vũ quân tiết độ sứ.
Khai-phủ nghị đồng tam tư,
Khu-mật viện sứ, xử trí xứ,
Phụ-quốc thượng tướng quân của Đại-Việt là Hưng-Ninh vương.
Kính đệ thư tới :
Kiểm-hiệu Thái-sư,
Thống lĩnh hành quân chinh thảo Nam-thiên, Tứ-xuyên vương của Mông-cổ quốc là Ngột-lương Hợp-thai.

Từ hôm đem quân nhập Việt, ngài thường than thở rằng quân Đại-Việt không dám dàn trận đối địch với Lôi-kỵ. Hôm nay, chúng tôi đã dàn quân ở Đông-bộ đầu, chờ đợi Lôi-kỵ tới, để Kỵ-binh Đại-Việt được so tài %BB.

Dưới thư vẽ một hòa thượng bụng to, cười toe toét.
Tế-tác của gã Trịnh Ngọc báo :

%AB Vua An-Nam là Trần Cảnh, cùng Hưng-Ninh vương đã dàn Kỵ-binh, Ngưu-binh, Tượng-binh, Bộ-binh ở Đông-bộ đầu. Quân số ước khoảng ba vạn. Chúng dọa rằng, nếu Thái-sư với phò mã tới, chúng sẽ bắt đem xuống sông Hồng trấn nước %BB.
Ngột-lương Hợp-thai thúc A Tan tiến quân gấp. Quân tới Đông-bộ đầu, Tế-tác báo :
- Giặc dàn quân như sau : Ở giữa là đội Thị-vệ, có cờ xí, tàn lọng của vua An-Nam. Hai bên, hàng đầu cứ một Vệ Ngưu-binh, một Vệ Kỵ-binh, Tượng-binh. Phía sau là bộ binh. Không thấy chiến xa, Lôi-kỵ, Thần-nỏ.
Tế-tác trình cho A Tan địa thế : Phía sau trận quân Việt có 5 con đường lớn, dẫn vào những xóm làng xa xa, không biết rõ có quân hay không. Bên trái là sông. Dưới sông không thấy thuyền bè. Bên phải một khu đồng trồng lúa rộng khoảng trăm trượng. Sau thửa ruộng là những lũy tre cao vút của mấy ngôi làng. Không thấy dấu hiệu trong làng có quân.
Chẳng cần đối thoại với bên địch, A Tan phất cờ, 5 Bách-phu Lôi-kỵ hú lên rùng rợn, rồi lao vào trận Việt. Khi còn cách khoảng năm chục trượng, chúng đồng bắn tên, rồi quay ngựa chạy trở về. Trận Việt biến rất nhanh, Kỵ-binh, Ngưu-binh, Tượng-binh lùi lại. Bộ- binh tiến lên, dùng khiên mây hứng tên.
Đợt hai, 5 Bách-phu Lôi-kỵ lại tấn công nữa. Đến đợt ba, sau khi Lôi-kỵ bắn tên, vừa quay ngựa chạy, thì Bộ-binh nằm rạp xuống, trận mở ra, Nỏ-thần tác xạ ba loạt. Lôi-kỵ bị trúng tên, ngã lổng chổng. Bộ-binh Việt lăn mình dưới đất dùng đao quất chặt chân ngựa. Thoáng một cái, 5 Bách-phu bị giết sạch.
Đứng xa xa chỉ huy, A Tan kinh hãi. Y dậm chân :
- Trời ơi ! Tại sao bọn An-Nam biết trước kế hoạch của ta, mà phản công vào đợt ba ? Thế là kế hoạch bị loạn. Lôi-tiễn Thạch-xa vô dụng rồi.
Y đành phất cờ cho cả 5 Thiên-phu Lôi-kỵ dàn làm mười hàng tấn công. Thế trận Việt biến đổi thực nhanh, các cánh quân tỏa vào 5 con đường phía sau. Chông, chà kéo đầy đường, Lôi-kỵ không tiến được. A Tan sai kéo chông, chà, để đuổi theo quân Việt.
Vừa lúc đó thì đại quân Ngột-lương Hợp-thai tới. Lôi-kỵ ùn lại trên một bãi đất rộng. Y quyết định : Mỗi con đường, cho 2 Thiên-phu Lôi-kỵ đuổi theo. Còn đại quân thì dừng lại chờ đợi.
Lát sau quân báo :
- Hai đạo quân đánh bọc hông quân Việt của phò mã Hoài Đô đang giao chiến với Ngưu-binh giặc. Bọn Ngưu-binh này do tên Dã Tượng với bốn tên Cu chỉ huy.
- Năm đạo quân đuổi theo bắt vua An-Nam đang giao chiến với Kỵ-binh, Ngưu-binh giặc. Bọn Ngưu-binh này do 5 tên Trâu chỉ huy.
Đến đó, trống thúc vang lừng. Thủy-quân Việt từ hạ lưu dàn hàng hai, đang tiến lên. Trên các chiến hạm, Lôi-tiễn nã vào đội hình Lôi-kỵ. Lôi-tiễn của Mông-cổ cũng phản pháo. Nhưng chiến hạm thì lưu động, khó trúng mục tiêu. Trong khi Lôi-tiễn Thủy-quân đã tính từ trước, nã vào khu trú quân Mông-cổ.
Trời dần dần về chiều. Tin tức báo về liên tiếp :
- Hai cánh quân của phò mã Hoài-Đô giao chiến với quân của Trần Khánh-Dư bị thất bại. Xin tiếp viện.
Ngột-lương Hợp-thai viện cho Hoài Đô 5 Thiên-phu Lôi-kỵ. Tế-tác lại báo :
- 5 đoàn quân đuổi theo vua An-Nam, thì ba đoàn bị đánh bại. Bọn võ lâm An-Nam xuất hiện giết hết Thiên-phu, Bách-phu trưởng. Quân không tướng chỉ huy, bị hỗn loạn.
Ngột-lương Hợp-thai truyền tiếp viện cho mỗi đoàn một Thiên-phu. Quân lên đường khoảng hơn giờ sau, thì tin báo : Cả năm đoàn quân bị bại. Chúng vừa đánh vừa lui. Bao nhiêu Thiên-phu trưởng, Bách-phu trưởng cho chí Thập-phu trưởng đều không còn. Ngưu-binh, bộ binh Đại-Việt đuổi theo rất gấp.
Trong 5 con đường mà 5 đoàn quân Việt đuổi theo Lôi-kỵ, thì mỗi đoàn do một tướng dẫn đầu, với đội võ sĩ. Năm tướng đó là Nguyên-Phong hoàng đế, Thái-sư Trần Thủ-Độ, Hưng-Ninh vương Trần Quốc-Tung, Lê Ngân-Sơn, Lê Kim-Sơn.
Ngột-lương Hợp-thai tung quân lên quyết bắt cho được Nguyên-Phong hoàng đế. Nhưng đội võ sĩ do Vũ-vệ thượng tướng quân Đỗ Thanh dàn trận như thành đồng vách sắt. Mỗi võ sĩ tay cầm khiên mây, tay cầm đao quất. Mỗi lần đao vung lên là y như không một kỵ mã thì một ngựa bị đánh ngã. Lôi-kỵ không còn dùng cung tên được nữa, đành phải dùng đao, dùng lao thì đấu sao lại những võ sĩ ?
Cuộc chiến mỗi lúc một thêm rùng rợn. Bỗng từ khu làng bên hông phải của trận Mông-cổ, trống thúc vang dội, Ngưu-binh từ trong các làng ào ào tiến ra, đếm không siết. Tế tác chỉ các tướng trâu, báo với chúa tướng:
- Thưa Thái-sư, bọn Ngưu-binh này do 5 con Hĩm chỉ huy.
Trong khi đó Thủy-quân đổ bộ đánh vào bên trái.
Ngột-lương Hợp-thai đã quen với lối dàn quân. Y bình tĩnh chia quân chống trả. Trận chiến diễn ra thực khủng khiếp. Lôi-kỵ, Ngưu-binh lẫn lộn vào với nhau. Tên bay, đao quất vung, trận địa giây, bộ binh lăn dưới đất chặt chân ngựa...chém giết thực rùng rợn. Giữa lúc đó, Tế-tác từ Thăng-long về báo :
- Đạo quân đóng ở cánh đồng Văn bị Thái-tử An-Nam đánh tan. Tàn binh rút về Thăng-long.
Ngột-lương Hợp-thai kinh hoảng. Y quyết đốc quân chiến, để bắt cho được Nguyên-Phong hoàng đế.
Khi trời chập choạng tối, thì quân báo :
- Thành Thăng-long bị quân An-Nam chiếm mất rồi!
Ngột-lương Hợp-thai rụng rời chân tay :
- Làm sao chúng chiếm được ? Chúng lấy quân ở đâu mà tấn công vào thành ?
- Quân của chúng không nhiều. Chúng chỉ có một Vệ Tế-tác do Đại-đởm thập tam kiệt chỉ huy với một Vệ võ sĩ của Đô-thống Trần Minh. Chúng đi theo đường hầm, thình lình xuất hiện như thiên tướng giáng hạ. Giữa lúc quân ta giao chiến với chúng thì hiệu binh Hoa-kiều làm phản, quay giáo đánh lại ta. Hoặc Hoặc Mãn cầu cứu với Phùng Tập, Tiêu Hư tử và đội võ sĩ Trung-quốc. Thì đám này cũng quay lại làm phản. Vì vậy, không đầy một giờ, thành Thăng-long bị chiếm. Thái-tử An-Nam dẫn quân từ cánh đồng Văn kéo về trấn trong thành.
- Bọn võ sĩ Trung-quốc làm phản?
- Vâng, chính Phùng Tập, Tiêu-Hư tử chỉ huy võ sĩ Côn-luân, Võ-đang đánh Lôi-kỵ. Vì vậy thành mới bị mất.

Trời đã tối hẳn. Quân Đại-Việt lùi lại, chăng chà khắp nơi, bao vây trận địa Mông-cổ. Lôi tiễn của Thủy-quân trên sông, của bộ binh từ trong làng ; vẫn nã đều đều vào đội hình Mông-cổ. Quân Mông-cổ cũng nã Thạch-xa, Lôi-tiễn vào làng.
Ngột-lương Hợp-thai truyền lệnh, thu quân, tạm đóng quân tại chỗ chờ qua đêm, rồi ngày mai sẽ tái chiếm Thăng-long.
Gặp lại Hoài Đô, Ngột-lương Hợp-thai hỏi :
- Phò mã ? Trước tình thế này ta phải làm gì ? Không biết cánh quân đóng ở Kinh-Bắc, Gia-lâm thế nào ?
- Hai cánh quân này cũng bị tấn công. Cả hai bị quân của Trần Khánh-Dư đánh cắt đường liên lạc. Chúng ta bị cắt làm ba rồi. Ngày mai lương thực hết, thì làm sao đây ? Tôi nghĩ, trước tình thế này, chỉ có cách rút quân về Đại-lý, rồi sẽ phục thù sau.
- Rút ! Nhưng đường rút quân bị chặn ở Phù-lỗ, Cụ-bản, Bình-lệ nguyên, Thảo-lâm... Làm sao bây giờ ?

Bất giác y đưa mắt nhìn :Phía hông phải, sau lũy tre, đèn đuốc sáng rực. Bên trong vọng ra những tiếng nhã nhạc, mà lại là nhạc chiến thắng của Mông-cổ. Phía trước, dọc năm ngả đường, không một chút ánh sáng, nhưng trống quân Việt thúc nhịp nhàng. Phía hông trái, trên sông, Thủy-quân Đại-Việt dàn ra san sát, đèn đuốc thắp sáng rực. Chỉ còn phía sau, là con đường về Thăng-long, là do quân Mông-cổ trấn đóng qua đêm.
Nhìn ra sông. Bất giác y nổi giận cành hông : Trên mặt một soái thuyền, Nguyên-Phong hoàng đế ngồi trên một chiếc ng


Múi giờ GMT. Hiện tại là 11:12 AM.

Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.