Vina Forums

Vina Forums (http://forums.vinagames.org/index.php)
-   Truyện Kiếm Hiệp (http://forums.vinagames.org/forumdisplay.php?f=39)
-   -   anh hùng đông á dựng cờ bình đông (http://forums.vinagames.org/showthread.php?t=2746)

egeo 06-19-2004 04:29 PM



C27:ĐOÁI THƯƠNG MUÔN DẶM TỬ PHẦN,
HỒN QUÊ THEO NGỌN MÂY TẦN XA XA.
(Đoạn trường tân thanh)

Thuyền rời Thiên trường một ngày thì ra tới biển, rồi đổi hướng lên phía Bắc. Hai ngày sau, khi thuyền sắp qua Đồn sơn thì có mười chiến thuyền, một soái thuyền thuộc hạm đội Thần phù dàn ngang. Một viên võ quan trên soái thuyền phất cờ yêu cầu con thuyền Thiên ưng ngừng lại. Rồi soái thuyền kè vào mạn con thuyền Thiên ưng. Thủ Huy, Đoan Nghi cùng lên trên sàn thuyền quan sát. Thoáng nhìn, Thủ Huy nhận ngay ra viên võ quan phất cờ là đô đốc Trần Bằng. Cạnh Bằng còn có Binh bộ thượng thư Phí Công Tín. Hai người sang con thuyền Thiên ưng. Trần Bằng là thủ hạ cũ của Thủ Huy Đoan Nghi. Y hành lễ quân cách rồi nói :
- Khải điện hạ ! Khải phò mã ! Có Phí thượng thư truyền chỉ dụ của Hoàng thượng đến công chúa điện hạ cùng phò mã.
Thủ Huy mời cả hai vào trong khoang thuyền. Vừa an tọa, Phí Công Tín đã lên tiếng trước :
- Triều đình có nhiều thay đổi. Đỗ thái hậu, Đỗ thái sư, Mạc thiếu sư cùng nghị rằng : Nay bốn phương phẳng lặng, không cần nuôi quân nhiều, khiến quốc sản phải hao phí. Vì vậy triều đình quyết định giải tán mười hai hiệu Thiên tử binh, Kị binh, Ngưu binh. Về Thủy quân, bốn hạm đội chỉ giữ lại một hạm đội Aạu Cơ mà thôi. Để bảo vệ kinh thành, Đỗ thái sư lập thêm mười đội cấm quân, cho đóng quanh Thăng long.
Thủ Huy kinh hãi hỏi :
- Ai đưa ra ý kiến đó đầu tiên ?
- Thần không rõ. Nhưng nghe các võ tướng thì thầm rằng, Tống cử một mật sứ sang gặp riêng Đỗ Thái sư, Đỗ Thái hậu, rồi ít lâu sau có chuyện này.
- Như vậy thì nguy rồi ! Thế Tổng lĩnh Thiên tử binh Kiến Khang vương, Vũ kị thượng tướng quân Tăng Khoa, với Đại đô đốc Phùng Tá Chu ra sao ?
- Kiến Khang vương được chuyển lên tổng trấn Bắc cương, Tăng tướng quân làm phó. Còn Phùng đại đô đốc thì trấn lãnh hải, đóng ở Tiên yên.
Đoan Nghi biết chồng đang bàng hoàng về những suy đồi của nhà mình. Công chúa hỏi :
- Phí binh bộ từng cầm quân. Người biết rằng, bấy lâu nay sở dĩ Tống sợ, Chiêm kính là nhờ binh lực chúng ta hùng mạnh. Khi triều đình nghị việc này, sao thượng thư không phản đối ?
- Thần có biết gì đâu ?
Phí biện luận : Thái hậu, Thái sư, Thiếu sư nghị riêng với nhau, rồi làm chiếu đưa cho Hoàng thượng ký. Triều thần không biết gì cả. Ba người này áp chế Hoàng thượng còn hơn Cảm Thánh thái hậu áp chế đức Anh tông khi xưa nữa. Thái phó Lý Kính Tu phản đối nhưng không ai nghe cả.
- Thế việc Phí binh bộ đón gặp chúng tôi đây có mục đích gì ? Mục đích này là do ý chỉ của Hoàng thượng hay triều đình ?
- Thưa phò mã dường như không không do cả hai, mà do ý riêng của Đỗ thái hậu, Đỗ thái sư và Mạc thiếu sư ! Chiếu chỉ mà lão phu mang theo đây, Hoàng thượng bị bắt buộc ký vào mà thôi. Triều đình có lời dặn lão phu cáo trước với phò mã, công chúa rằng : Nhị vị không phải quỳ gối lĩnh chỉ.
Thủ Huy lại kinh ngạc nữa ! Công tiếp tờ chỉ từ tay Phí Công Tín. Chỉ rất ngắn :
Thái sư thượng trụ quốc,
Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ , xử trí sứ,
An nam đô hộ phủ,
Ngự sử đại phu,
Thượng trụ quốc,
An nam quốc vương.
Nay Thiên quốc đang gặp binh cách. Phía Bắc bọn rợ Nữ chân, phía Tây bọn Nhung Tây hạ luôn phạm cảnh. Thánh thiên tử sai sứ sang An nam phủ dụ, truyền phải chịu binh dịch. Than ôi ! Cô gia được Thiên triều thương như con, ban cho chức tước lớn, cha truyền con nối, không thể làm ngơ khi đấng quân phụ phải lao tâm khổ tứ. Vậy cô gia gửi Tả kim ngô đại tướng quân, Côi sơn quốc công cùng vợ là quận chúa Đoan Nghi đem đội dũng sĩ Long biên sang trợ chiến với binh triều. Quận chúa Đoan Nghi hãy giao hoàn thanh Thượng phương bảo kiếm về cho cô gia.
Niên hiệu Thuần hy thứ mười lăm, mùa Xuân tháng giêng, cát nhật.
Thủ Huy, Đoan Nghi bàng hoàng cả người.
- Thực là nhục nhã.
Đoan Nghi than : Từ cổ đến giờ, Trung nguyên phong chức tước cho các vua ta, chỉ là hình thức ngoại giao. Còn ta vẫn giang sơn nhất khoảnh. Ta vẫn dùng quốc danh Đại Việt. Vua vẫn dùng niên hiệu riêng. Ta vẫn có thân vương. Con vua vẫn là thái tử, công chúa. Chưa bao giờ ta phải chịu binh dịch. Thế mà bây giờ bọn họ Đỗ, họ Mạc nhục nhã đến độ bỏ quốc danh, quốc hiệu, chịu binh dịch. Thực không thể tưởng tượng được. Thế thì ta trở thành quận huyện của Tống rồi !
Phí Công Tín than :
- Tin này lan ra ngoài, chư đại thần các trấn đều kinh hoảng. Võ lâm, hương đảng bàn tán xôn xao. Các gia, các phái định sẽ hội nhau nghị về việc này vào ngày giỗ vua Trưng. Đỗ thái sư lại làm chỉ, ép Hoàng thượng ký, truyền bỏ lễ giỗ vua Trưng vào đầu tháng hai, bỏ lễ hội đền Hùng vào ngày 10 tháng ba.
Thủ Huy than :
- Loạn ! Thế nào cũng có loạn.
- Quả thế, đại công tử của Thái sư Đỗ An Di bị một kẻ lạ đột nhập tư gia, điểm huyệt, khoét mắt, cắt lưỡi, chặt cụt cả tay lẫn chân, rồi đem bỏ ở chợ Tây nhai. Lão mẫu của Mạc thiếu sư bị mổ bụng, dồn trấu vào trong. Tại tẩm cung của Thái hậu, không biết kẻ nào đó đã cắt cái ấy...cái ấy của con ngựa, rồi bỏ lên dường của người. Khi lão phu lên đường, thì nghe đâu các đại môn phái dự tổ chức đại hội vào ngày 15 tháng 8, tại Lộc hà, nhân giỗ Bắc bình vương Đào Kỳ. Một viên thị lang bộ Lễ mới đưa ra ý kiến xin Thái sư ban lệnh cấm tổ chức giỗ Bắc bình vương. Lập tức ngay đêm đó, y cùng vợ con, gia thuộc bị giết hết, kể cả chó mèo, trâu bò, gà vịt. Sát nhân còn để giấy lại hăm rằng, bất cứ kẻ nào xướng xuất ra việc ngăn cản này sẽ bị giết cả nhà như viên thị lang.
- Trước kia, nước loạn do Cảm Thánh, bây giờ lại nảy ra con dâm nữ Đỗ Thụy Châu nữa !
- Thái sư Đỗ An Di làm biểu ép Hoàng thượng ký : Kể từ nay, chỉ quan, quân mới được luyện võ. Cấm các gia, các phái thu nhận đệ tử. Triều đình gửi quân đến tổng đường các phái, bắt giải tán các đệ tử.
- Thế có xẩy ra cuộc xô sát nào không ?
- Các đô thống dẫn quân đi giải tán võ phái, chỉ biết truyền chỉ rồi về Thăng long, chứ không dám thi hành lệnh !
Thủ Huy than :
- Không biết Côi sơn song ưng có còn tại thế không ? Nếu người còn sống, thì liệu người có chịu can thiệp vào chuyện Hoàng thành không ?
- Lão phu sợ là sợ đại hội võ lâm vào tháng tám này. Dường như các đại tôn sư định bàn kế đối phó với Đỗ thái hậu, Đỗ An Di và Mạc Hiển Tích. Trước sự việc đó, Đỗ, Mạc sẽ đem quân tiêu diệt võ lâm. Dù việc tiêu diệt thành hay bại, võ lâm cũng khởi binh. Bấy giờ nước sẽ loạn to.
- Có thể tránh được !
Thủ Huy bàn : Nếu như giết Đỗ hậu , An Di, Hiển Tích, thì bấy giờ quyền phụ chính sẽ vào tay Lý Kính Tu, binh quyền sẽ vào tay Long Ích, Long Tường. Với Kính Tu, Long Ích, Long Tường thì kỷ cương lại tái lập.
Đoan Nghi cau mặt :
- Anh nên giữ lời một chút. Dù sao Chiêu thiên Chí lý cũng là mẫu nghi trăm họ, mà anh lại bàn nên giết đi, thì thực là loạn to rồi.
Thủ Huy bị vợ trách, công ngồi im không nói, không rằng.
Phí Công Tín tiếp :
- Hiện triều đình cho mười chiến thuyền chở đội võ sĩ Long biên với đầy đủ vũ khí, lương thực, để theo phò mã sang trợ chiến với Tống. Mười chiến thuyền hiện đang dàn ra chờ lệnh phò mã.
Tiễn Phí Công Tín về rồi, Đoan Nghi hỏi Thủ Huy :
- Bây giờ chúng ta phải làm gì ?
- Chúng ta bị đẩy vào đường cùng rồi ! Bao nhiêu công trình của chúng ta gây dựng mười mấy năm dài, nay hoàn toàn bị phá hủy trong tay người một con đàn bà ngu xuẩn, tham dâm. Ta chỉnh đốn binh lực, khiến cho thế của tộc Việt hùng mạnh, Chiêm mến, Tống sợ. Bây giờ y thị giải tán Thiên tử binh, Ngưu binh, Kị binh, Thủy quân. Đại Việt phút chốc trở thành một tiểu quốc An Nam. Đại Việt hoàng đế lui về làm An Nam quốc vương. Con mụ họ Đỗ lại bắt con mình từ bỏ cái thế Đại Việt lùi về làm An Nam quốc vương. Chúng ta đang là những người kết thân với Kim, ép Tống, chúng bắt chúng ta phải chịu lệnh Tống, đánh lại Kim. Hà ! Ta phải hành động sao đây ? Không lẽ ta phải mang cái thân lôm lốp đi đâm thuê chém mướn cho Tống ! Hơn nữa đánh những người bạn của ta?
- Anh nên bỏ bớt cái ngôn từ khinh bạc đi có được không ? Cổ kim, chưa bao giờ có một phò mã gọi Thái hậu bằng y thị, rồi mạ lỵ là ngu xuẩn, tham dâm cả.
Thủ Huy hừ một tiếng không nói gì. Công thấy vợ tỏ vẻ mệt mỏi, thì hơi ngạc nhiên. Thình lình Đoan Nghi ọe lên một tiếng rồi mửa ra nước nhờn. Kinh hãi, Thú Thúy vội bắt mạch cho Đoan Nghi. Bất giác nàng bật cười, tay vuốt ngực cho Đoan Nghi rồi nói với Thủ Huy :
- Mừng cho chủ nhân. Công chúa có mang.
Đỡ Đoan Nghi ngồi dựa vào vách thuyền, Thúy Thúy bàn với Thủ Huy:
- Khi Gia Thụy hoàng đế tự bỏ đế hiệu, niên hiệu thì chiếu chỉ trở thành một mệnh lệnh. Chủ nhân là phò mã, là công chúa, ngôi vị cao hơn quốc vương thì không phải tuân lệnh quốc vương. Vậy bây giờ chủ nhân cứ ngao du sơn thủy, chẳng cần sang Tống nữa. Hay chúng ta làm một Côi sơn song ưng cũng đươc.
Đoan Nghi sợ chồng nghe lời Thúy Thúy, nàng xua tay :
- Tỷ tỷ đừng nói vậy. Dù sao Gia Thụy cũng bị mẹ, bị cậu ép buộc, chứ bản tâm đâu có muốn hành xử như vậy ? Hiện trong triều không còn thân vương nào cầm quyền. Họ Đỗ chỉ e sợ vợ chồng tôi mà thôi. Nếu nay chúng tôi vi chỉ, thì họ có cớ xóa tên tôi trong sổ Ngọc điệp. Bấy giờ họ tha hồ thao túng, rồi đi đến cướp ngôi không chừng.
Thủ Huy cho gọi đội trưởng võ sĩ Long biên sang thuyền mình họp. Viên đội trưởng chính là con trai của một trong Đại Việt ngũ tuyệt Trần Tử Giác tên Trần Tử Kim.
Nguyên khi cầm quyền thống lĩnh Thiên tử binh, Thủ Huy bàn với Long Xưởng rằng :
-... Thời vua Thánh tông, ngài đã dùng Long biên ngũ hùng lập đoàn Thần tiễn Long biên. Lại dùng Tây hồ thất kiệt lập đoàn Giao long Tây hồ. Khai quốc vương lấy thuật kị mã của Phù đổng Thiên vương, thuật bắn tên của Cao cảnh hầu Cao Nỗ và võ công Đông a để huấn luyện cho đội võ sĩ Long biên. Lại lấy thuật thủy chiến cùng thuật quy tức của công chúa Gia hưng Trần Quốc, võ công phái Sài sơn luyện đội võ sĩ Giao long. Hai đội này đã gây kinh hoàng cho quân Chiêm, quân Tống, và lập không biết bao nhiêu chiến công. Vậy bây giờ, cũng nên tái lập hai đội ngày Ể.
Long Xưởng đồng ý. Nhưng đội Long biên thì vẫn dùng tên cũ, còn đội Giao long Tây hồ thì đổi là đội Côi sơn. Sau khi thành lập, Thủ Huy gửi cả hai đội về Thiên trường nhờ Đại Việt ngũ tuyệt huấn luyện võ công.
Sau khi các võ sĩ đã có bản lĩnh của một cao thủ bậc trung, thì bắt đầu huấn luyện chuyên môn. Đội Côi sơn trao cho Tá Chu Kim Ngân với Vỵ xuyên ngũ tiên huấn luyện về thủy chiến, về thuật lặn dưới nước. Còn đội Long biên, Thủ Huy nhờ sư thúc Trần Tử Tuệ, nức danh tiễn thủ bậc nhất Đại Việt dạy tiễn thuật. Cuối cùng chính Thủ Huy đem thuật kị mã, cùng phép kị chiến của Phù đổng Thiên vương dạy họ.
Trong ba lần chính biến : Giải cứu vua Anh tông khi bị bọn tế tác Tống uy hiếp, đem quân về lập Long Xưởng làm vua, cứu Long Trác khi bị Long Xưởng mưu hại... Thủ Huy đều dùng lực lượng chính là hai đội võ sĩ này. Khi Thủ Huy cáo quan về điền dã, thì hai đội cũng theo công về sống tại Thiên trường. Lúc đưa Kiến Bình vương Lý Long Tường rời Thiên trường về Thăng long, Thủ Huy lại cho hai đội này theo vương về. Bây giờ, không rõ mục đích gì triều đình lại gửi đoàn võ sĩ Long biên theo công sang trợ chiến với Tống ?
Thủ Huy hỏi Tử Kim :
- Triều đình sai sư đệ dẫn đội võ sĩ Long biên theo ta. Đội võ sĩ Long biên chỉ lợi hại khi ngồi trên mình ngựa. Sao triều đình lại không cho mang ngựa theo mà chỉ cho mang cung tên, áo giáp ?
- Đệ cũng không rõ nữa. Quan Binh bộ thượng thư Phí Công Tín nói rằng, vì đi bằng đường thủy, thì không thể mang ngựa theo. Vả ngựa của ta là ngựa vùng nhiệt đới, nếu mang lên phía Bắc Trung nguyên, e không chịu nổi khí hậu lạnh cắt da thịt. Khi sang Trung nguyên, Tống sẽ cung cấp ngựa cho.

Tử Kim còn trẻ, lại chưa vướng mắc vợ con. Sau khi hỏi qua tình hình, Thủ Huy lệnh cho con thuyền Thiên ưng dẫn dầu, phía sau là mười chiến thuyền chở đội võ sĩ Long biên.
Cuộc hành trình trải qua bẩy ngày, thì đi vào lãnh hải của Quảng Đông. Trong bẩy ngày, Đoan Nghi thấy chồng trầm tư, ít nói, thì biết rằng Thủ Huy cực kỳ bất mãn với triều đình. Nàng tự kiểm lại :
- Họ Lý nhà ta làm vua trải đã 178 năm. Trong gần hai trăm năm ấy, được khoảng 100 năm đầu là thịnh vượng. Kể từ khi vua Thần tông băng đến giờ, chỉ vì cái nạn gà mái gáy, mà uy tín triều đình bại hoại. Ân đức bốn vị Thái tổ, Thái tông, Thánh tông, Nhân tông đối với quốc dân đã hết. Tăng ni, võ lâm, sĩ dân cùng có ý muốn thay đổi triều đình. Cứ cái đà này, chỉ cần một người có đức, phất cờ là triều Lý không còn nữa. Bấy giờ thì e giòng họ mình sẽ bị tru diệt hết. Làm sao bây giờ ?
Nhìn Thủ Huy nằm dài trên tấm ván làm dường, mắt mở trừng trừng nhìn vào không gian, bất giác nàng cảm thấy chua chát :
- Đất nước vẫn đất nước ấy, dân chúng vẫn dân chúng ấy. Nhưng thời gian thính chính của Cảm Thánh thái hậu, làm cho tan hoang, dân chúng đói khổ. Thế rồi, ông nội Thủ Huy cũng như phái Đông a ra công phò tá, trong mấy năm trời kỷ cương lại tái lập, dân chúng giầu có, quốc sản dư thừa, binh lực hùng mạnh, nước lớn sợ, nước nhỏ mến. Thế mà vợ chồng nàng mới rời quyền hành hơn năm, đã bị một người đàn bà tham dâm phá tan nát hết.
Nàng tự nghĩ :
- Giá như người làm vua là ông nội hay phụ thân Thủ Huy, thì có lẽ dân sẽ giầu hơn nữa, nước sẽ mạnh hơn nữa. Vậy có nên nghe lời Thủ Huy mà giết Đỗ thái hậu không ?
Thình lình Trần Tử Kim vào báo :
- Thưa sư huynh, thủy quân Tống dàn ra phía trước. Họ phất cờ ra hiệu cho chúng ta ngừng lại.
- Hạ buồm xuống, báo cho họ biết ta muốn gặp người chỉ huy cao cấp của họ.
Tuy ra lệnh, nhưng Thủ Huy Doan Nghi cũng lên chòi chỉ huy của thuyền để tiếp xúc với thủy quân Tống.
Hai chiến thuyền Tống từ từ ép vào mạn sườn con thuyền Thiên ưng. Nhìn lên soái kỳ của Tống có hàng chữ Nam hải, Lưu đô đốc. Thủ Huy đã biết tông tích viên đô đốc này. Nguyên hai năm trước Thủ Huy Đoan Nghi trấn thủ Bắc cương đã được tế tác cung cấp cho tất cả chi tiết về các quan của Tống ở Nam thùy. Công nói với Tử Kim :
- Chiến thuyền kia thuộc hạm đội Nam hải của Tống. Viên đô đốc chỉ huy tên Lưu Phúc. Nguyên y xuất thân là tướng cướp, chuyên đánh cướp của người giầu, chia cho kẻ khó. Năm năm trước có chỉ chiêu dụ, y về hàng triều đình, được phong làm trưởng đoàn thủy quân. Năm vừa qua y được thăng lên chức đô đốc. Võ công y rất cao, hành xử quang minh lỗi lạc.
Viên thuyền trưởng Tống cầm loa hỏi :
- Các vị là thủy quân Việt, các vị sang đây có việc gì ? Xin cho gặp người chỉ huy cao cấp nhất.
Trần Tử Kim vận nội lực nói lớn :
- Chúa tướng chúng tôi muốn gặp Lưu đô đốc.
Viên thuyền trưởng Tống nhìn sang con thuyền Thiên ưng, thấy hai soái kỳ Đại Việt. Một soái kỳ có hàng chữ Đại Việt, Tả kim ngô đại tướng quân. Một soái kỳ khác có chữ Côi sơn quốc công, phò mã Trần. Y không hỏi gì nữa, vội chạy vào trong khoang. Lát sau y ra với Lưu Phúc. Lưu Phúc đã từng nghe danh Thủ Huy, Đoan Nghi. Y hành lễ với Thủ Huy rồi cung tay tỏ ý mời:
- Không biết đại giá phò mã, công chúa sang đây có việc gì ? Xin mời nhị vị sang thiểm thuyền để tiểu tướng được hầu chuyện.
Suốt mấy năm qua, Thủ Huy, Đoan Nghi tổng trấn biên thùy Đại Việt. Nhờ trị quân nghiêm, quân phong, quân khí cực sắc bén, các biên thần Tống nghe đối với công luôn có thái độ vừa kính vừa sợ. Mỗi khi hai bên có xung đột, công thường đích thân gặp các biên thần để giải quyết. Vì vậy Lưu Vĩnh cung cung, kính kính tiếp công.
Thủ Huy, Đoan Nghi tung mình sang chiến thuyền Tống. Lưu Phúc mời hai người vào trong. Phân ngôi chủ khách xong, Thủ Huy nói :
- Tống triều gửi sứ sang Đại Việt xin Gia thụy hoàng đế gửi võ tướng cùng võ sĩ sang trợ chiến, chống bọn Nữ chân. Cho nên chúng tôi với đội võ sĩ Long biên...
Nghe Thủ Huy nói, Lưu Vĩnh vừa kinh ngạc, vừa vui mừng :
- À ! Tiểu tướng biết rồi. Vì vậy Gia thụy hoàng đế gửi phò mã với đội võ sĩ Long biên sang Trung nguyên. Không biết tiểu tướng đoán có đúng không ?
- Lưu đô đốc thông tuệ khác thường.
- Tiểu tướng chưa biết gì về vụ này cả. Tiểu tướng xin thỉnh phò mã, công chúa, cùng các võ sĩ vào trong căn cứ thủy quân. Tiểu tướng sẽ thông báo cho quan An vũ sứ Quảng Nam lộ.

******
GHI CHÚ CỦA THUẬT GIẢ:
Thời bấy giờ vùng cực Nam của lãnh thổ Tống gồm ba tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam ngày nay. Tất cả gọi chung là Quảng Nam lộ. Viên quan lớn nhất là An phủ sứ coi cả hành chánh, lẫn quân sự. Dưới An phủ sứ, có hai viên phó. Viên coi về hành chánh là Chuyển vận sứ, viên coi về quân sự là Đô giám tuần kiểm. Lãnh thổ này, chia ra làm nhiều khu vực khác nhau : Quảng Đông Nam lộ tức tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây Nam lộ tức Quảng Tây, Quế châu tức tỉnh Hồ Nam ngày nay. Mỗi vùng có một Tuyên vũ sứ cai trị. Trong vùng, tùy theo rộng lớn, lại chia ra thành nhiều quận, huyện.

******
Thủ Huy Đoan Nghi cùng đội võ sĩ Long biên neo thuyền tại Quảng châu, thủ phủ của Quảng Đông Nam lộ. Ban ngày các võ sĩ được lên bờ mua sắm, dạo chơi. Ban đêm họ lại trở về thuyền. Cứ mỗi chiều, Thủ Huy Đoan Nghi lại họp các võ sĩ lại để dậy họ nói tiếng Hoa, giảng cho họ biết về lịch sử, văn minh, phong tục Trung quốc. Nhưng họ là những võ sĩ trẻ, đầy khí lực, khi ở trong nước thì ngày ngày phi ngựa, bắn cung ôn tập. Bây giờ họ bị giam lỏng dưới thuyền, phải xa quê hương, gia đình... họ luôn buông lời bất mãn.
Theo lời yêu cầu của Tuyên vũ sứ Quảng châu rằng để tránh tai mắt tế tác Kim, Tây hạ, cũng như để các võ sĩ Long biên không bị dân Tống kỳ thị ; y xin Thủ Huy cho mọi người mặc y phục như dân Tống. Thủ Huy thấy đề nghị đó dường như muốn làm nhục mình. Công không chấp thuận. Tuyên vũ sứ cũng đành buông xuôi.
Thời gian êm đềm trôi qua, thoáng một cái, mùa hè đã tới, mà cũng không có tin tức gì của Tống triều. Tuy hằng ngày Thủ Huy vẫn luyện võ cho đội võ sĩ Long biên, để giết thời giờ, nhưng các võ sĩ vẫn bất mãn. Họ công khai than với Thủ Huy. Thủ Huy than với Đoan Nghi :
- Em ạ ! Anh không muốn trở thành một thằng ngu trung. Sức chịu đựng của anh chỉ có giới hạn. Em thử nghĩ xem ! Chúng mình đang đường đường ngồi tọa trấn Bắc cương, bọn quan lại Nam thùy của Tống nghe danh đã run sợ. Bây giờ triều đình biến chúng mình thành những tên tù giam lỏng, hằng ngày phải lĩnh lương thực của bọn Tống cung cấp. Nhục đến thế là cùng. Chúng ta phải thoát ra khỏi tình trạng này.
Công không kiềm chế được nữa :
- Vật cùng tắc phản, uốn quá hóa cong. Đất nước là của trăm họ. Sự nghiệp là của vua Hùng, vua An Dương, vua Trưng để lại. Các vị tiên đế bản triều bỏ ra biết bao tâm huyết xây dựng. Thế mà Chiêu Hiếu thái hậu vì tình cốt nhục để cho Anh Vũ phá nát. Rồi Cảm Thánh vì tham dâm mà gây cho trăm họ căm hận đến xương, đến tủy. Bây giờ đến con mụ Đỗ Thụy Châu. Đã tới lúc chúng ta phải gạt bỏ cái gì là phò mã, là công chúa, rút gươm thế thiên hành đạo.
Đoan Nghi an ủi chồng :
- Bây giờ là lúc thanh bình, tại Nam thùy Tống không có hệ thống ngựa trạm. Ta đến đây, Tuyên vũ sứ báo về cho viên trấn thủ ở Quế châu mất hơn tháng. An vũ sứ Quảng Nam lộ báo về triều mất hơn tháng. Rồi triều đình con rùa nghị sự, ban chỉ cũng hơn tháng. Cuối cùng sứ đem chỉ đến ta hơn tháng nữa. Tính chung cần tới bốn tháng. Ta cứ chờ xem.Từ hôm sang đây đến giờ, chúng ta chỉ dùng chim ưng liên lạc với gia đình. Mà gia đình mình thì tuyệt đối bưng tai, nhắm mắt không biết gì đến việc triều đình. Vậy ta thử dùng chim ưng liên lạc với Tô Trung Từ, Phùng Tá Chu xem sao, rồi hãy hành động.
Thủ Huy viết thư, kể rõ tình trạng công với Đoan Nghi, rồi sai chim ưng mang đi liền. Chim ưng đi đã mười ngày, mà không có hồi âm. Thủ Huy càng nóng nảy.
Rồi hơn tháng sau, Tử Kim trình lên Thủ Huy một phong thư, do chim ưng mang từ Đại Việt sang. Thủ Huy mở ra xem, thì là thư của Phùng Tá Chu Kim Ngân. Công trao vào tay Thúy Thúy, để nàng đọc cho Đoan Nghi cùng nghe :
- Trước hết là tin nhà. Tất cả đều mạnh khỏe, vô sự. Trong mùa Xuân vừa qua, số ruộng đất khai hoang thêm được năm vạn mẫu. Dân chúng các nơi kéo về lập nghiệp tăng hơn mười vạn người. Uy tín, đạo đức của bố mẹ, anh chị Lý lên quá cao. Trong triều, bọn họ Đỗ tuy có hơi sợ, nhưng chúng dư biết rằng ngoài cái việc lo cho dân chúng no ấm, thì anh Lý không cần biết đến bất cứ vấn đề gì. Vì dân chúng no đủ, không có nạn người dân bị cường hào ức hiếp, nên trong vùng ảnh hưởng của anh chị Lý, tuyệt không xẩy ra một vụ trộm cắp nào. Triều đình cho rút tất cả binh địa phương, thủy đội ở vùng Trường yên, Thiên trường đi nơi khác. Cho nên suốt một giải Thiên trường cho tới Trường yên, vấn đề an ninh, do nhà ta điều động tráng đinh tự lo lấy.
Về việc triều đình gửi đội võ sĩ Long biên theo anh chị, không phải là thiện ý với Tống đâu, mà vì sợ anh chị đấy thôi. Khi Đỗ An Di đã ép nhà vua ban chỉ tống anh chị đi, nhờ Kim giết dùm. Y lo nghĩ, biết đâu trong lúc cùng đường anh chị không tìm cách giết Thái hậu với y ? Nếu anh chịÔ ra tay thì sẽ dùng đội võ sĩ Long biên, Côi sơn. Nhưng đội Côi sơn chỉ giỏi thủy chiến, y không để tâm. Y chỉ sợ có đội Long biên mà thôi. Đã có người bàn với y nên giải tán đội này. Ngặt vì các võ sĩ võ sĩ Long biên đều là đệ tử Đông a, khi giải tán, thì họ về Thiên trường sống. Mà Thiên trường cách Thăng long có một giờ sức ngựa. Khi anh chị ra tay thình lình, thì y trở tay không kịp. Thế là y tống họ đi cùng với anh chị để mượn tay Kim giết dùm.
Bây giờ tới tin trong triều. Gia thụy hoàng đế bị thái hậu với Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích lấn đến không còn một quyền hành gì. Thái phó Lý Kính Tu phản đối, thì họ lờ đi, coi như không. Hai vương Kiến Khang, Kiến Bình được đưa về triều, sống như những anh nhà giầu, ngay cả việc thiết triều, họ cũng không cho mời.
Về việc anh chị đang là người cầm quyền nghiêng nước, tọa trấn Bắc cương phòng Tống, kết thân với Kim ; chúng biến anh chị thành cống vật dâng cho Tống, đánh lại Kim là mưu của Đỗ An Di với Thụy Châu. Nghe đâu chúng định làm chuyện đại nghịch. Trước hết chúng gửi sứ sang Tống, xin phong cho An Di làm An Nam quốc vương, rồi phế Gia thụy hoàng đế xuống. Chúng cũng xin với Tống làm thế nào đưa anh chị ra trận, để Kim giết chết cho tuyệt hậu hoạn. Nhưng Tống không tin Đỗ An Di. Họ cho rằng việc anh chị bị đưa sang làm cống vật là khổ nhục kế của Đỗ, họ nghi rằng Đỗ giả đưa anh chị sang cống Tống, rồi chờ khi Tốngỳ trao binh quyền cho anh chị, anh chị sẽ trở giáo cùng Kim đánh lại Tống. Trong khi đó Đại Việt đánh từ Nam lên, thì Tống không còn nữa. Tống nghi thế, nên họ tính mưu : Cứ để anh chị nằm dài ở Quảng châu, nhàn cư vi bất thiện. Một mặt phong cho An Di làm An Nam quốc vương để An Di cướp ngôi vua. Bấy giờ anh chị quá uất ức, sẽ trở về Đại Việt đem quân trung hưng Lý triều. Thế là Đại Việt có nội chiến, tinh lực mất hết. Tống không lo mặt Nam thùy nữa. Tất cả tin tức này, ông nội biết hết. Người lệnh cho chư đệ tử tọa thủ bàng quan, mặc họ Đỗ, họ Lý tranh dành nhau. Nhược bằng kẻ nào hại dân, hại nước, thì sẽ thế thiên hành đạo.
Đấy tin nhà chỉ có vậy, tình dân, thế nước như thế đấy. Chúng em báo cho anh chị biết."
Thủ Huy hỏi Đoan Nghi :
- Chúng ta phải làm gì ? Nếu chúng ta chậm trễ thì khi Đỗ An Di cướp ngôi rồi, e cả nhà Long Ích, Long Trát, Long Tường bị giết đã đành, mà cho đến tính mệnh của toàn thể họ Lý và gia thuộc e cũng khó toàn.
- Khó quá !
Đoan Nghi than : Hiện Thiên tử binh, Ngưu binh, Kị binh, Thủy binh bị giải tán hết hồi. Nếu như An Di thoán vị, thì ta đâu còn lực lượng mang về tru diệt chúng ? Ví như những hiệu binh kia có còn chăng nữa, thì chúng ta ra lệnh, họ cũng không nghe theo kia mà ?
- Việc này không khó. Tại sao chúng ta không làm như Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn vọng thê hòa thượng, Côi sơn song ưng ? Kìa, Đỗ Anh Vũ uy quyền biết bao, mà Côi sơn song ưng chỉ làm một mẻ là diệt hết bọn chúng ?
- Vậy ta chỉ cần giết hai tên Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích cũng đủ.
- Đầu giây mối nhợ là con mụ Đỗ Thụy Châu. Phải giết con mụ này với cả nhà hai tên Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích.
Đoan Nghi gắt lên :
- Anh nói như vậy thì còn đạo lý nào nữa ? Anh là phò mã, mà anh định giết Thái hậu ư ? Thái hậu là quốc mẫu, là người tiên đế sủng ái, mà anh định giết ư ?
Thủ Huy nổi cộc :
- Thôi ! Anh không muốn bàn đến chuyện này nữa. Anh buông hết ! Buông hết. Khi vợ muốn cướp sự nghiệp của nhà chồng cho anh mình. Khi mẹ muốn phế ngôi con, muốn giết con, thì anh chả tội gì mà lăn mình vào chỗ hôi tanh. Ngày mai anh sẽ dâng biểu về cho Chiêu thiên Chí lý thái hậu, xin tôn Đỗ An Di lên ngôi vua.
Thấy Thủ Huy nổi cộc, dỗi ra, Đoan Nghi mở to mắt nhìn chồng, không nói, không rằng.
Khi thư tới, Thủ Huy không trao cho Đoan Nghi đọc, mà trao cho Thúy Thúy ; nàng linh cảm thấy vợ chồng chủ nhân đã có cái gì bất hòa cực lớn ở trong rồi. Cái bất hòa đó là : Đoan Nghi thì muốn Thủ Huy giữ phận trung thần, phận một phò mã cúi đầu tuân phục cái triều đình thối tha kia. Ngược lại Thủ Huy quá uất ức, vì những công lao của nhà mình, của mình hơn chục năm qua, nay trở thành một tuồng hư ảo. Lại còn bị con mụ đàn bà tham dâm đưa vào đường cùng. Công muốn làm một cái gì mà vợ không cho.

Bất giác Thúy Thúy đưa mắt nhìn Thủ Huy, Đoan Nghi : Hai người im lặng cùng mở to mắt nhìn nhau, mà không ai nói một câu gì. Để phá tan cái không khí lạnh lẽo đó, nàng bàn :
- Cái thế của chủ nhân bây giờ là : Về thì vi chỉ, Đỗ Thái hậu có thẻ căn cứ vào đó mà hại chủ nhân. Còn cứ nằm chờ mãi, thì chẳng hóa ra ở tù sao ? Tiểu tỳ nghĩ : Trong khoảng trời đất mênh mông này, thiếu gì chỗ cho chúng ta trú chân ? Chủ nhân đã thân quen với Kim, với Mông cổ, chủ nhân còn chờ gì mà không làm một chuyến du ngoạn hai xứ này ?
Thủ Huy như tỉnh ngộ :
- Ừ nhỉ ! Đoan Nghi ! Chúng ta hãy bỏ Quảng châu, sang Kim thăm các bạn cũ một chuyến.
Đoan Nghi biết rằng mình bỏ đi như thế này, thì bọn Đỗ An Di có thể lấy cớ rằng mình bất tuân chỉ, mà bắt Gia thụy hoàng đế ban chỉ xóa tên mình trong sổ Ngocỳ diệp. Nhưng, đứng trước cái uất hận của Thủ Huy, mà nàng không chịu cho chồng thoát cảnh cá chậu chim lồng, không chừng chàng sẽ bỏ Quảng châu, về Đại Việt kéo quân làm loạn, thì tai vạ sẽ không biết đâu mà lường. Vì vậy Đoan Nghi phải tùng quyền :
- Thôi thì trong khoảng trời đất mênh mông này, ở đâu có thể cho chúng ta trú chân, thì chúng ta tới. Nhưng...
- Nhưng gì ?
- Em sợ chúng mình đi như thế này, e họ Đỗ sẽ mưu cướp ngôi thì nguy lắm.
- Vì vậy chúng ta mới phải giết con điếm già Đỗ Thụy Châu với tên hủi Đỗ An Di, tên đĩ đực Mạc Hiển Tích. Nhưng em không cho.
Nghe chồng nói tục, Đoan Nghi phát cáu, nàng nói lớn :
- Em muốn từ nay anh bỏ cái ngôn từ khinh bạc, dùng lời lẽ thô tục với Thái hậu đi, và đừng bao giờ nghĩ đến việc giết Thái hậu nữa !
- Thái hậu ! Bụt ngồi trên tòa, gà nào dám mổ mắt ? Đây tự y thị bỏ cái ngôi vị cao quý, làm đĩ không tiền, để... để... với thằng hủi Mạc Hiển Tích, khắp bàn dân thiên hạ đều muốn băm vằm y thị ra như băm chả.
Thủ Huy, Đoan Nghi nhìn nhau không nói, cả hai biết rằng, nên dừng lại ở đây, bằng không thì tình vợ chồng khó toàn.
- Thưa chủ nhân.
Thúy Thúy bàn : Tiểu tỳ nghĩ họ Đỗ không thể nảy lòng hươu dạ vượn, nếu như võ lâm Đại Việt biết âm mưu của họ...
Đoan Nghi nắm tay Thúy Thúy :
- Cảm ơn tỷ tỷ. Vậy thì thế này. Bây giờ ta viết thư, sai chim ưng mang về cho Tá Chu Kim Ngân, Trung Từ Bảo Bảo, nhờ họ sai đệ tử đi khắp nơi phao tin họ Đỗ mưu phản. Như vậy võ lâm sẽ hội nhau luận bàn. Anh em họ Đỗ bị động, mà bỏ ý định.
Trần Tử Kim chỉ Thủ Huy :
- Sư tỷ ơi ! Làm thế, lỡ ra một đệ tử sơ hở, có thể bị bắt điều tra, e Tá Chu, Trung Từ sẽ gặp nguy hiểm. Em nghĩ, tại sao sư huynh không làm một tờ cáo tri, nhân danh Côi sơn song ưng, âm thầm sai người về dán ở các cổng thành Thăng long, Văn miếu, Chiêu thiền tự, đền thờ vua Trưng. Đỗ thái hậu, Đỗ thái sư, gan có lớn bằng trời cũng không dám làm phản nữa.
Thúy Thúy reo :
- Kế này hay thực. Côi sơn song ưng là sư thúc của chủ nhân, người lại cực kỳ sủng ái chủ nhân. Chủ nhân làm việc này, nếu như người có biết, thì sẽ vui lòng lắm, bởi người đã truyền ngôi Côi sơn song ưng cho chủ nhân rồi. Trước đây sư tỷ Kim Ngân từng nhân danh người nhiều lần.
Thấy Đoan Nghi trì nghi, Thủ Huy biết cô vợ mình không muốn chính tay viết tờ cáo tri kể những xấu xa của Đỗ thái hậu, cũng như triều đình. Công nói với Thúy Thúy :
- Tỷ tỷ có thể viết cho tôi tờ cáo tri không ?
- Tiểu tỳ xin tuân lệnh chủ nhân.
Đoan Nghi cau mày tỏ vẻ khó chịu, nhưng phải chấp nhận. Thúy Thúy lùi ra khoang thuyền phía sau. Không đầy hai khắc nàng trở lại, trình cho Thủ Huy một tờ giấy. Thủ Huy cầm lấy đọc :
Côi sơn song ưng cáo tri với
Quốc dân và võ lâm Đại Việt.
Bảo vệ đất tổ, thế thiên hành đạo, tru diệt kẻ ác là nhiệm vụ chính của người học võ.
Kể từ khi vua Anh tông băng, tiếp theo, Thái sư Tô Hiến Thành hoăng, phò mã Thái úy Trần Thủ Huy, với công chúa Đoan Nghi quy ẩn... Ấu quân không chủ trương được việc lớn, nên đã xẩy ra biết bao nhiêu điều, làm thế nước chênh vênh, tình dân chán nản.
Trước tiên. Trong cung, Đỗ hậu thông dâm với tên gian thần Mạc Hiển Tích, ban cho y quyền cao chức trọng. Y ra vào cấm cung, tự ý ra lệnh cho cung nga, thái giám, không còn coi luật pháp, kỷ cương ra gì. Than ôi, trải lịch đại mấy ngàn năm của Đại Việt ta, có bao giờ hậu cung lại ô uế như vậy đâu ? Có bao giờ một mẫu nghi thiên hạ lại công khai dâm loạn với gian thần như vậy đâu ?
Thứ nhì, Kiến Khang vương, Kiến Bình vương, đều là những bậc tài trí hơn đời, văn mô vũ lược, mà Đỗ hậu không trao cho một chút quyền hành. Quyền hành đều nằm trong tay anh của y thị là Đỗ An Di, và người tình là Mạc Hiển Tích. Trong triều, ngoài trấn, không có một thân vương, quốc thích nào được nắm quyền. Bao nhiêu quyền đều nằm trong tay họ Đỗ, họ Mạc. Hỏi rằng cổ, kim, dù Hoa, dù Việt, có bao triều đại nào như vậy không ?
Thứ ba, tên Đỗ An Di, anh ruột của Đỗ hậu, thu cả quyền hành Tam công vào tay. Y sai chân tay giả làm giặc cướp, giết Bảo Quốc đại vương, cùng toàn thể gia thuộc đến mấy trăm người. Thảm khốc nhất là bẩy người con của vương. Tuổi thơ nào có tội tình gì ? Tất cả đều là những giọt máu của các vị tiên đế. Trời sầu đất thảm. Núi khóc, sông rên. Võ lâm căm hờn. Sĩ dân nghiến răng nuốt hận.
Thứ tư, gần đây Đỗ hậu, An Di, mưu thoán đoạt, sai sứ sang Tống cầu phong. Tống triều ra ba điều kiện. Một là phải giải tán Thiên tử binh, Ngưu binh, Kị binh, Thủy binh. Hai là phải bỏ quốc hiệu, niên hiệu, lùi lại làm An Nam quốc vương. Ba là phải chịu binh dịch. Ba điều này có khác gì Đại Việt bị lệ thuộc, thành quận huyện của Tống rồi không ? Hỡi ơi ! Kể từ khi đức Thái tổ dựng nghiệp rồng, trải qua sáu vị tiên đế, khi thịnh, lúc suy, tuy có khác nhau, nhưng Đại Việt ta vẫn Nam phương một cõi. Có bao giờ phải nhục như bây giờ đâu ?
Nay ta cáo tri với võ lâm, sĩ dân, chỉ rõ lòng hươu dạ vượn của Đỗ hậu, của An Di, của Hiển Tích. Xin tất cả mài gươm, vót tên chờ sẵn, phòng khi bọn Đỗ, bọn Mạc dâng nước cho Tống, còn trở tay kịp.
Ta cũng lệnh cho Đỗ Thụy Châu, Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích phải thi hành ngay ba điều :
- Một là Đỗ thị phải lui về chốn hậu cung, không được tham dự vào việc triều chính.
- Hai là Đỗ An Di phải trao binh quyền cho người có tài. Trao quyền phụ tá Gia thụy hoàng đế cho Thái phó Lý Kính Tu. Trao đại quyền cho Kiến Khang vương, Kiến Bình vương.
- Ba là, lập tức tâu Gia thụy hoàng đế trở lại với quốc danh Đại Việt, niên hiệu một hoàng đế, và bỏ cái việc sang Tống cầu phong.
Nếu như trong ba tháng, những điều trên chưa thi hành, ta sẽ giết tận số họ Đỗ, họ Mạc, cho đến trâu bò, chó mèo, gà vịt cũng không tha.
Niên hiệu Thiên tư Gia thụy tháng sáu, ngày vọng.
Côi sơn song ưng.
Thủ Huy sai sao làm mười bản, rồi viết một lá thư , niêm phong cẩn thận, trao cho Trần Tử Kim :
- Đây là bức thư ta viết cho Phùng sư huynh căn dặn những việc phải làm. Sư đệ chọn mười võ sĩ thân tín, lấy một thuyền, về Đồn sơn. Tới Đồn sơn gặp sư huynh Phùng Tá Chu, xin một lệnh bài, lại hỏi mượn một dân thuyền. Sau đó âm thầm về Thăng long, dán lên năm cửa thành, Văn miếu, chùa Chiêu thiền, chùa Một cột, đền thờ Linh Nhân hoàng thái hậu, đền thờ vua Trưng. Công việc hoàn thành, lập tức trở lại Đồn sơn, rồi sang đây.
Từ trước đến giờ, bất cứ quyết định việc gì, Thủ Huy cũng bàn với Đoan Nghi. Đây là lần đầu tiên công nghe lời bàn của Thúy Thúy, Tử Kim, rồi tự ý hành sự, mà coi như không có Đoan Nghi. Trong lòng cô công chúa này nảy ra niềm chua chát :
- Cũng chỉ vì triều đình Tiêu sơn nhà ta phụ Thủ Huy, phụ gia đình Thủ Huy, mà ra nông nỗi. Con dun đạp mãi cái đầu phải quằn. Con :D con mèo tuy phục tùng chủ, nhưng khi chủ đánh đập, dồn nó vào đường cùng, thì nó cũng phải cắn lại.
Nhưng là người cực kỳ thông minh, nàng lại nghĩ :
- Từ ngày gặp nhau, ông chồng luôn sủng ái mình, bất cứ viết thư cho ai, cũng đưa cho mình đọc. Thế mà bây giờ viết thư cho Tá Chu Kim Ngân lại không cần biết đến mình là tại sao ? Biết đâu thư đó không gửi cho Tá Chu Kim Ngân mà gửi cho anh Trần Lý, hoặc Trung Từ Bảo Bảo cũng nên ? Biết đâu thư đó, không sai bộ hạ cũ giết Thái hậu ? Ái chà ! Ông chồng mình mang trong người giòng máu của họ Trần, tiêu dao tự tại, hành động tự ý không cần biết đến luật pháp đã quen. Việc giết Thái hậu có thể xẩy ra lắm. Làm sao bây giờ ?
Thế rồi hai vợ chồng sống trong cái không khí dằn vặt, căng thẳng suốt hai tháng trời. Hôm ấy, vào buổi chiều thì Tử Kim từ Đại Việt qua. Thủ Huy gọi y sang con thuyền Thiên ưng, để nghe trình bầy tin tức.
Vừa an tọa, Thủ Huy đã hỏi :
- Công việc ra sao ?
Tử Kim thuật :
Đệ cùng mười anh em về tới Thăng long vào buổi chiều. Ngay đêm hôm đó thì thi hành kế hoạch. Các bản cáo tri được dán lên những nơi đã định. Hôm sau anh em đệ len lỏi vào kinh thành nghe ngóng tin tức, thì các cửa thành đóng kín, thị vệ, cấm quân đi lại canh phòng nghiêm mật. Dân chúng tụ nhau bàn tán xôn xao. Rồi thấy quân sĩ di chuyển. Dân chúng hoang mang không hiểu những gì đã xẩy ra.
Hai hôm sau, cửa thành mở rộng, loa tại các phường, các làng rao cho dân chúng biết : Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích làm phản, đã bị dẹp. Bè đảng, gia thuộc của chúng bị Côi sơn song ưng giết sạch. Nghe tin này, biết rằng dù đệ xuất hiện, bị triều đình biết cũng không sao. Đệ tìm đến chỗ đóng quân của đội võ sĩ Côi sơn. Sư huynh Phan Lân cho đệ biết sự việc xẩy ra như sau : Ba ngày trước, khi dân chúng đọc các bản cáo tri của Côi sơn song ưng, cả kinh thành rúng động. Đỗ Thái hậu, Hoàng thượng, Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích đều táng đởm kinh hồn. Hoàng thượng gạn hỏi Đỗ thái hậu về việc cầu Tống phong cho An Di làm An Nam quốc vương. Thái hậu mắng Hoàng thượng như tát nước vào mặt. Thái hậu tuyên triệu Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích vào cấm cung nghị sự. Hai người đưa ra đề nghị :
- Việc đã như thế này, thì ta có chối cũng vô ích. Bây giờ Thái hậu tuyên chỉ triệu hồi các quan vào Hoàng thành, nói rằng để tìm cách đối phó với vụ Côi sơn song ưng phạm tội đại bất kính, vu cáo. Khi các quan hiện diện đầy đủ, Thái hậu tuyên bố nhà vua không xuất ra từ Thái hậu, mà là con của Tuyên phi Từ Thụy Hương. Vì vậy Thái hậu truất phế nhà vua, tôn Thái sư lên ngôi.
Thái hậu đồng ý, người ban chỉ giam Hoàng thượng, Đàm nguyên phi vào cung Long thụy, trao cho bà Đào Như Như, tổng lĩnh cung nga canh phòng, rồi cùng An Di, Hiển Tích họp các quan.
Bà Đào Như Như cùng một số cung nga thân tín phò Hoàng thượng, Đàm nguyên phi, theo đường hầm trốn khỏi Hoàng thành, đến ẩn tại dinh của Kiến Bình vương.
Bà Đào Như Như hành sự quá bí mật, Thái hậu không biết gì, người vẫn ra lệnh họp các quan khẩn cấp. Các quan đều tề tựu đủ. Hai vương Kiến Khang, Kiến Bình không đươc mời. Vắng mặt Thái bảo Đàm Thì Phụng. Thái hậu tuyên chỉ rằng : Hoàng thượng nguyên không phải xuất ra từ Thái hậu. Hoàng thượng là con của một nữ gian tế Tống là Từ Thụy Hương với phản tặc, dâm tặc là... Ể
- Là ai ?
Đoan Nghi hỏi : Không lẽ

egeo 06-19-2004 04:31 PM



C28:ĐẠI ĐẾ THÀNH CÁT TƯ HÃN.


Nước mắt đầm đìa, Đoan-Nghi vỗ vào vai Long-Tùng Đoan-Thanh, hút độc tố Huyền-âm, rồi than :
- Tục ngữ Việt có câu : Đánh nhau vỡ đầu rồi mới nhận họ, thực không sai. Sáng nay chị thấy hai em theo dõi, lại tưởng là gian tế mưu hại, nên mới phóng độc, để biết tông tích kẻ theo mình. Không ngờ là ruột thịt mình.
Đoan-Nghi hỏi Đoan-Thanh :
- Tiểu muội ! Thế cái gã đánh xe ngựa cho chúng tôi là ai ?
- Y là người của phái Không-động tại Quảng-châu. Thần không rõ y giả làm phu xe với ý định gì ?
Đoan-Nghi cầm tay Đoan-Thanh :
- Em ạ ! Vạn lý tha hương ngộ cố tri còn đáng mừng, huống chi chúng ta là máu mủ. Vậy hai em cứ gọi chúng ta là anh, là chị cho thân mật.
Thủ-Huy quyết định :
- Khả-hãn Mông-cổ đã có lòng tưởng nhớ cố cựu, chúng ta lại đang ở vào cái thế cùng đường. Về nước thì con dâm phụ Đỗ Thụy-Châu sẽ kết tội vi chỉ. Còn như ở đây, thì là tù giam lỏng. Nào ! Chúng ta hãy đi Mông-cổ du ngoạn một lần cho tiêu sầu. Vậy ngay từ ngày mai, hai em dậy tất cả chúng ta nói tiếng Mông-cổ. Không biết tiếng Mông-cổ có khó học không ?
- Rất dễ học.
Đoan-Thanh mỉm cười : Người Mông-cổ học tiếng Việt dễ dàng, thì người Việt học tiếng nói vùng Thảo-nguyên cũng không khó.

Từ khi theo cặp vợ chồng này, Thúy-Thúy thấy bất cứ quyết định gì, dù nhỏ nhặt, Thủ-Huy cũng hỏi ý kiến vợ. Thế mà bây giờ quyết định một việc cực kỳ hệ trọng, Thủ-Huy lại đơn phương hạ lệnh. Nàng không khỏi lo ngại cho hạnh phúc của chủ nhân.
Thủ-Huy hỏi Long-Tùng :
- Hồi chúng ta lên Mông-cổ, thì các em ở đâu, mà chúng ta không gặp ?
- Bấy giờ song thân em đang ở ngọn núi Thiết-sơn tại miền Bắc, để huấn luyện binh pháp Đại-Việt cho binh đoàn Mông-cổ. Sau khi sứ đoàn Mông-cổ đi Đại-Việt kết thân, Khả-hãn mới gọi song thân em về, để hỏi thăm lịch sử, phong tục nước mình.
- Thế từ khi chúng ta rời Mông-cổ đến giờ, Khả-hãn Thiết Mộc Chân với chư vị tướng lĩnh có gì thay đổi không ?
- Thay đổi nhiều lắm !
Long-Tùng thuật : Mông-cổ đang từ một bộộc nhỏ bé, nhờ Khả-hãn Thiết Mộc Chân có tài, có đức mà trở thành một nước đứng hàng thứ ba ở vùng đồng cỏ, nên không thể nào tránh được cái nạn ghen ghét. Lại nữa Khả-hãn Thiết Mộc Chân xuất thân từ một đứa trẻ mồ côi, bị đời khinh miệt, chỉ trong một thời gian ngắn, vươn lên địa vị vị Đại-hãn uy tín bậc nhì, bậc ba vùng cực Bắc, nên phải hứng tất cả những đố kị. Vì vậy, Mông-cổ luôn bị đặt vào thế phải chiến đấu để tự tồn.
Thủ-Huy muốn tìm hiểu tường tận về Mông-cổ, công tỏ mối chân tình :
- Tôi với các tướng Mông-cổ tuy thân với nhau. Nhờ Thái-tử sâm của họ mà tôi còn sống đến ngày nay. Tôi cũng cứu mạng cho họ. Tình nghĩa cực thâm trọng, nhưng tôi lại biết rất ít về họ. Thủa thiếu thời, đọc sử Trung-quốc, tôi chỉ biết rằng, vùng phía Nam Vạn-lý trường thành thì gọi là Quan-nội, tộc Hán sống ở đây. Vùng ngoài Vạn-lý trường thành thì gọi là Quan-ngoại. Các bộ tộc sống theo lối du mục, người Hán gọi là...
- Rợ ! Là Địch ! Là Hung-nô !
Đoan-Thanh cướp lời Thủ-Huy: Nếu cứ gọi theo người Hán, thì những người ở phương Bắc đều là Địch, ở phương Tây đều là Nhung, ở phương Đông đều là Di, và ở phương Nam đều là...
- Man !
Thủ-Huy cũng ngắt lời Đoan-Thanh : Đấy kinh Thư do mấy ông nhà văn hủ lậu viết ra, rồi người sau cứ thế mà tin. Cứ như trong bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên, vào thời Tần Thủy-hoàng, các bộ tộc Hán ở phía Bắc bị những dân du mục vào đánh phá, nên nhà vua cho xây thành để đề phòng. Bộ Hán-thư thuật : Tuy có Trường-thành bảo vệ, nhưng đời Hán, dân Trung-quốc vẫn bị dân du mục vượt qua, vào đánh phá. Vua Hán phải đem những cung nga xinh đẹp cống cho các chúa ở Quan-ngoại để được yên thân. Sang đời Tấn, lại bị năm bộ tộc thay nhau đánh chiếm, rồi cai trị Trung-nguyên, sử Trung-quốc gọi là Ngũ Hồ loạn Hoa...(304-439 sau TL) Đầu đời Tống, bộ tộc Khiết-đan mạnh hơn, thành lập nước Liêu, đánh chiếm nửa giang sơn Tống, bắt Tống tiến cống, dâng đất rất nhục nhã. Cho đến gần đây, bộ tộc Nữ-chân hùng mạnh lên, diệt Liêu, thành lập Kim, tràn vào chiếm Trung-nguyên, bắt vua Huy-tông, Khâm-tông, hoàng hậu, phi tần mang về. Hiện Tống chỉ còn lại từ vùng Trường-giang trở xuống. Đấy, tôi biết có vậy mà thôi. Nguồn gốc tộc Mông-cổ thế nào, tôi mù tịt.
Thấy Thủ-Huy thành thực, Long-Tùng bảo Đoan-Thanh :
- Em hãy thuật tiểu sử Đại-hãn của Mông-cổ cho phò mã biết.
Đoan-Thanh ngồi ngay ngắn lại thuật :
- Kim chỉ cai trị được vùng Bắc Trung-nguyên, cùng một số vùng Quan-ngoại, nơi mà dân chúng sống bằng nghề nông. Còn vùng bình nguyên cỏ hoang mênh mông, đầy thú hoang, nước ngọt, thường gọi tắt là Thảo nguyên, dân du mục sống thành tộc nhỏ, thì Kim chịu thua. Khởi đầu Mông-cổ chỉ là một tộc của vùng Thảo-nguyên. Sau nhiều đời, tộc Mông-cổ chinh phục, hoặc kết nạp một số tộc khác về sống chung thành một bộ tộc. Tại vùng Thảo-nguyên trải qua mấy trăm năm, khi thì các bộ tộc chém giết, thôn tính lẫn nhau. Khi thì đoàn kết chống xâm lăng. Cuối cùng các bộ tộc hình thành nhiều nước. Các nước này nói cùng thứ tiếng, cùng một tổ chức cai trị, sống thành đoàn trại, gọi là tiểu quốc.
Long-Tùng giải thích thêm :
- Bên mình thì đơn vị nhỏ nhất là làng, xã, rồi quận, huyện, cao hơn là châu, lộ. Cuối cùng là nước. Tại vùng Thảo-nguyên thì là tộc, bộ tộc, tiểu quốc. Tuy tên khác nhau, nhưng cũng có hệ thống, thứ bậc.
Đoan-Thanh tiếp :
- Mỗi tộc có một tộc trưởng theo lối cha truyền con nối, họ là những nhà quý tộc. Người cầm đầu của mỗi bộ tộc gọi là Hãn. Hãn có thể do cha truyền con nối, có thể do các quý tộc bầu lên. Mọi luật lệ, mọi quyết định của bộ tộc đều do hội đồng quý tộc quyết định.
Thủ-Huy khen :
- Hay ! Như vậy tránh được cái nạn quyền hành nằm trong tay Hãn, rồi muốn giết ai thì giết, muốn ban phúc giáng họa cho ai thì ban. Thế cái hội đồng quý tộc đó do ai điều khiển ! Hay cũng bầu lên ?
- Người điều khiển hội đồng quý tộc không phải là các Hãn mà là các Đạo-sư. Đạo-sư là các tu sĩ, coi như người đại điện của Thượng-đế Mặt-trời.
Đoan-Nghi thắc mắc :
- Nếu vậy, thì giữa Đạo-sư với Hãn, ai nắm thực quyền ?
- Tùy bộ tộc. Khi các Hãn mạnh thì họ lấn át Đạo-sư. Khi Đạo-sư mạnh thì họ lấn át các Hãn. Có khi các Hãn kiêm luôn Đạo-sư. Trong khoảng hơn ba trăm năm gần đây vì nhu cầu tự vệ để sống còn, các bộ tộc hợp nhau lại thành những nước nhỏ. Thủ-lĩnh các nước nhỏ này gọi là Khả-hãn. Mỗi nước nhỏ đều có hội đồng quý tộc, hội đồng cũng do các Đạo-sư điều khiển. Từ ngày có các nước nhỏ, thì các nước nhỏ thường vượt biên tràn cào các nước văn minh, định cư như Thổ-phồn, Tây-hạ Tây-liêu, Đại-kim cướp bóc. Các nước này muốn có một biên giới phía Bắc yên ổn, đã tìm đủ cách thu phục các tiểu quốc Thảo-nguyên. Khi thì dụ dỗ phong chức tước, khi thì đem quân chinh phạt, khi thì giúp nước này đánh nước kia. Vì vậy chiến tranh giữa các nước vùng Thảo-nguyên không bao giờ ngừng. Sau một thời gian, các nước nhỏ bị chinh phạt, hoặc tự nguyện kết hợp lại thành những nước lớn. Hiện nay toàn Thảo-nguyên còn lại có ba nước lớn theo thứ tự là Nãi-man, Khắc-liệt, Mông-cổ. Mỗi nước có một vua, gọi là Đại-hãn. Cạnh Đại-hãn cũng có một hội đồng quý tộc, do các Tổng Đạo-sư điều khiển.
Đoan-Nghi hỏi :
- Em đã biết Trung-quốc, Đại-Việt. So với Trung, với Việt, vùng Thảo-nguyên này rộng, hẹp thế nào ?
- Về diện tích thì lớn hơn Trung-quốc. Về dân số, thì chỉ bằng ba Đại-Việt mà thôi. Phía Bắc là vùng tuyết phủ quanh năm không có người ở, chưa định được giới hạn. Đông-Nam giáp nước Kim. Nam giáp các nước Tây-liêu, Thổ-phồn, Tây-hạ. Tây giáp vùng đất núi hoang vu của các bộ tộc của rợ tóc đỏ, mũi lõ, tóc quăn (Nay thuộc Trung-Đông).

Nghe Đoan-Thanh thuật, trí nhớ trở về mấy năm trước khi thăm Mông-cổ, Thủ-Huy nắm ngay được vấn đề trước mắt : Các nước vùng Thảo-nguyên, bị những nước lớn xung quanh như Tống, Kim, Liêu, Hạ khinh khi, khi thì bắt tiến cống, khi thì bắt phụ thuộc, để được phong chức tước vô vị... Trước sau gì các nước hoặc bị diệt, hoặc thống nhất về một mối. Nếu như ta giúp cho các nước thống nhất thì họ là mối lo lớn cho tộc Hoa. Tộc Hoa luôn phải đối phó với họ thì tộc Việt ta có thể bớt đi cái họa phương Bắc. Ta thấy, trong ba Đại-hãn, thì Thiết Mộc Chân có chí lớn, lại đang ra sức kết nạp hào kiệt, rõ ràng ông ta muốn làm một chúa của các Đại-hãn. Với tài nguyên trù phú, với tinh thần hiếu chiến, nếu như ba nước này thống nhất thì họ sẽ là một cái hoạ lớn cho Kim, Tây-hạ, Thổ-phồn, Tống. Ta nên gúp họ để họ chia bớt cái họa tộc Hoa với ta.
Nghĩ vậy Thủ-Huy hỏi :
- Thế Khả-hãn của mỗi nước theo lối cha truyền con nối, hay do cách cử người có tài ?
- Thưa lúc đầu thì theo lối cử người tài. Gần đây chuyển sang lối cha truyền con nối cũng có, mà cử người tài cũng có. Trong mỗi nước như vậy, Khả-hãn, Đạo-sư là người có uy quyền tuyệt đối. Dưới Khả-hãn chia làm bốn loại người. Loại thứ nhất là quý tộc, nắm quyền thống trị, gồm có Hãn, tộc trưởng, dũng sĩ , hiền nhân tức người tài giỏi. Lọai thứ nhì là các chiến sĩ. Loại thứ ba là thường dân. Loại thứ tư là tôi tớ, loại này là dân chúng những bộ lạc thua trận, bị bắt về để trồng cấy, chăn nuôi, hầu hạ. Về cuộc sống hằng ngày, dân chúng ở trong những lều trại bằng da thú. Họ di chuyển không ngừng. Nhưng chỉ di chuyển trong vùng thuộc lãnh thổ của họ. Về mùa Hạ thì họ di chuyển khắp nơi. Về mùa Đông thì họ di chuyển về phương Nam. Tuy nhiên họ luôn bám lấy những con sông, những thác nước, những vùng hồ ao. Vì chỉ những nơi này mới có thú. Họ sinh sống bằng canh nông hoặc săn bắn. Họ không có văn tự. Nhiều bộ tộc dùng văn tự Trung-quốc, Tây-hạ, Thổ-phồn. Trẻ con không tới trường học chữ. Ngay từ hồi sáu tuổi, chúng đã được sống tập thể, học bắn cung, cỡi ngựa, săn thú. Khi đến tuổi trưởng thành (12-14) thì mỗi người đều làm sở hữu chủ ít nhất một con ngựa. Dân chúng không theo một tôn giáo nào cả. Họ thờ nhiều thần như thần mặt trời, thần sông, thần núi, thần cây cổ thụ, thần hổ, thần báo...Trong mỗi tộc, bộ tộc đều có một đạo sư. Vị đạo sư này uy quyền ngang với các Hãn. Họ là người nhà trời. Mỗi lời nói của họ đều là lời nói của trời. Dân chúng tin theo răm rắp.
Thủ-Huy muốn biết về Mông-cổ, công kéo Đoan-Thanh trở về câu hỏi của mình :
- Thế Đại-hãn Thiết Mộc Chân được lên làm vua là do cử hiền hay cha truyền con nối ?
- Cả hai.
Đoan-Thanh đáp: Thiết Mộc Chân là hậu duệ đời thứ mười của giòng họ Kỳ-ác-ôn (1) thuộc tộc Ki-dát Bọt-di-linh (2). Giòng họ này tự hào là con cháu của loài Sói-xám, cũng như ta tự hào là con Rồng, cháu Tiên vậy. Ông tổ mười đời tên Bột-đoan Nghĩa-nhi (3) , lập ra nước Mông-cổ, được tôn là Quốc-tổ. Nếu chủ đạo của ta tin việc Quốc-tổ Lạc-long quân lấy Quốc-mẫu Âu-cơ, đẻ ra trăm trứng, nở ra trăm con, thì chủ đạo Mông-cổ cũng có chủ đạo tương tự. Bà mẹ của Bột-đoan Nghĩa-nhi tên A-lan Đông-hỏa kết hôn với ông Thoát-bôn Dương-ly-kiến, sinh ra hai con trai. Con trưởng là Bác-cơ Cát-đáp-hắc, thứ tên Bác-hợp Tát-trực. Sau đó chồng chết. Bà A-lan ở vậy nuôi con. Một đêm, nằm ngủ trong phòng, bà thấy một luồng ánh sáng :Di lọi từ trời chiếu qua song cửa phủ lên người, một thần nhân sắc vàng bay vào nằm trên bụng. Bà kinh hãi, rùng mình, rồi mang thai, sau sinh ra một trai, đặt tên là Bột-đoan Nghĩa-nhi. Lớn lên, Bộ-đoan Nghĩ-nhi có tướng mạo kỳ vỹ, trầm tư ít nói, chúng nhân cho rằng ông là một tên ngốc. Duy bà A-lan nói : Nghĩa-nhi không ngốc đâu. Sau này con cháu nó sẽ là những người đại quý. Khi A-lan qua đời, Nghĩa-nhi thản nhiên nói với các anh : Bần, tiện, phú, quý đều có mệnh, tài vật này thì đâu đáng kể. Rồi không lấy một món nào. Ông rời các anh, cỡi con ngựa trắng đến vùng Bát-lý-truân A-lại cư trú, ngày ngày hái rau, bắt thú làm kế sinh nhai. Về sau, ông kết nạp những bần dân bị ức hiếp, những kẻ vô sở bất chí, mà thành lập một bộ tộc. Chỉ ít năm sau đó, nhờ chăm chỉ, bộ tộc của ông trở thành giầu có. Dân chúng, rồi các tộc khác kéo đến gia nhập, lập thành bộ tộc Ki-dát. O⮧ được bầu làm Hãn. Đây là bộ tộc đầu tiên của người Mông-cổ. Từ đấy, theo chế độ cha truyền, con nối. Đến đời thứ năm, lãnh chúa Hải-đô(4), nhờ thắng nhiều bộ tộc xung quanh, lập ra tiểu quốc Mông-cổ, được tôn làm Khả-hãn. Hải-đô chết, con là Bái-tính Hố-nhi (5) kế vị. Bá-tính Hố-nhi chết, con là Đôn-tất-nãi (6) lên thay. Đôn-tất-nãi chết, con là Cát-bất Luật-cơ (7) kế. Cát-bất Luật-cơ chết, con là Bá-ly-đơn (8) thay. Bát-ly-đơn chết, con là Dã-tốc-cai thế. Dã-tốc-cai lại chinh phục được một số bộ lạc trong vùng, giết Khả-hãn Thát-đát (9), thanh thế nổi bật trên vùng thảo nguyên. Dã- tố-cai chết, con là Thiết-mộc-chân lên thay.

******
Ghi chú của thuật giả.
(1) Kỳ-ác-ôn, NS phiên âm tiếng Mông-cổ. Kỳ nghĩa là khác lạ, ác là giòng nước, ôn là ấm áp. Xin đừng hiểu lầm với chữ ác ôn là dữ tợn, viết khác.
(2) Ki-dát, Bọt-di-linh, Qiyat, Borjinin.
(3) Bột-đoan Nghĩa-nhi, Bodoncar.
(4) Hả-đĐô , Quaidu.
(5) Bá-tính Hốt-nhi, Baiti Hulii.
(6) Đôn-tất-nãi, Dontalaii.
(7) Cá-bất Luật-cơ, Quantulai.
(8) Bát-lý-đơn Ambaqai.
(9) Thát-đát, Tartar, tên một bộ tộc thù nghịch với bộ tộc Mông-cổ, sinh sống ở Bắc Vạn-lý Trường-thành, Nam của Mông-cổ. Sau bị Mông-cổ thôn tính, tộc Mông-cổ, Thát-đát đồng hóa lẫn nhau. Sử Tây-phương cũng như người Trung-hoa dùng cái tên Thát-đát để chỉ Mông-cổ.

******
Từ đầu đến cuối, Thúy-Thúy im lặng ngồi nghe, bây giờ nàng mới lên tiếng :
- Thưa quận chúa ! Tại sao tổ tiên của Thiết Mộc Chân không giữ nguyên họ, mà mỗi đời mang một tên họ khác nhau như vậy ?
- Đó là truyền thống của dân vùng thảo nguyên. Khi sinh ra một người con, thì cha mẹ tự do đặt tên cho, mà không ghép tên với họ. Thường thì họ cứ nhân một biến cố, một giấc mộng, một sự kiện lúc sinh con mà đặt tên. Như khi Khả-hãn Dã Tốc Cai vừa chiến thắng bộ tộc Thát-đát, bắt sống lãnh chúa của họ là Thiết Mộc Chân. Khi trở về, thì vợ là bà Nguyệt-Luân sinh ra người con đầu lòng. Nhân đó người lấy tên Thiết Mộc Chân đặt cho con mình.

Câu chuyện mỗi lúc càng trở thành say mê, Thủ-Huy hỏi :
- Ban nãy muội muội nói rằng Thiết Mộc Chân từ một trẻ mồ côi, bị đời khinh khi. Cái vụ này ra sao ?
- Thiết Mộc Chân mồ côi cha vào năm chín tuổi. Câu chuyện như thế này : Thấy con đã chín tuổi, theo tục lệ vùng thảo nguyên, Dã Tốc Cai dẫn con đi săn, và cũng để đi tìm vợ cho con ở một bộ tộc khác. Trên đường đi, ông gặp Khả-hãn Đài Xếch Sên (1) của bộ tộc Ong Gi Rat (2). Tộc Ong Gi Rát bấy giờ đông dân hơn, giầu có hơn, văn minh hơn bộ tộc Mông-cổ nhiều. Đài Xếch Sên gặp cha con Dã Tốc Cai thì mừng vô hạn. Ông kể : Đêm qua, ông mơ thấy một con chim ưng trắng, mắt đỏ như lửa, to lớn vô cùng, từ mặt trời bay xuống vùng này. Đạo sư của ông đoán rằng hôm nay sẽ có một người con trai, là con của thượng đế Mặt-trời qua đây. Vì vậy ông đi đón. Khi nhìn thấy đôi mắt của Thiết Mộc Chân, Đài Xếch Sên kêu lên : Thiếu niên kia ! Người là con trai của thượng đế Mặt-trời. Rồi ông ta đón cha con Dã Tốc Cai về khu lều trại của ông, đãi cơm. Ông hãnh diện, giới thiệu cha con Đài Xếch Sên với vợ con. Trong các con của ông, có người con gái tên Bật Tê (3) , mười tuổi cực kỳ xinh đẹp. Đêm đó, cha con Dã Tốc Cai ngủ tại khu lều trại của tộc Ong Gi Rat. Thiết Mộc Chân nói với cha : Con đã cảm nàng Bật Tê. Hôm sau, Dã Tốc Cai ngỏ ý hỏi Bật Tê cho con mình. Dĩ nhiên Đài Xếch Sên đồng ý liền. Theo tục lệ của thảo nguyên, thì Thiết Mộc Chân phải ở rể cho đến khi Bật Tê trưởng thành.

******
Ghi chú của thuật giả.
(1) Đài Xếch Sên, Dai Le Sage.
(2) Ong Gi Rat, Qonggirat hay Chunggirates.
(3) Bật Tê, Bota. Sau được phong làm Quang-hiến hoàng hậu. Bà nguyên họ Hoằng Cát Sắc (Angcatthat).

******
- Tuổi trưởng thành của vùng Thảo-nguyên là bao nhiêu ?
Thúy-Thúy hỏi : Tuổi này do luật định hay phong tục ?
- Do phong tục. Nam từ 12 đến 14. Nữ thì lớn hơn, từ 14 đến 16. Không biết ở Đại-Việt thì bao nhiêu ?
Đoan-Nghi trả lời :
- Bên Đại-Việt ta theo luật định thì nam là mười sáu, nữ là mười ba (Nữ thập tam, nam thập lục). Thôi muội muội tiếp đi.
- Thiết Mộc Chân ở rể được ban năm, thì một hôm có sứ giả của Dã Tốc Cai là Muôn Lịch (1) đến báo tin cho Đài Xếch Sên biết Khả-hãn của ông bị bệnh nặng sắp qua đời. Xin cho Thiết Mộc Chân về gặp cha lần cuối. Khi Thiết Mộc Chân về tới nhà, Dã Tốc Cai vẫn còn minh mẫn, ông trối trăn : Gần đây, trên đường đi săn trở về, ông qua khu vực lều trại của bộ tộc Thát-đát, giữa lúc họ đang mở hội. Họ mời ông vào chung vui. Nào ngờ, ông bị họ đánh thuốc độc. Bây giờ ông mới biết thì sự đã trễ. Ông dặn Thiết Mộc Chân ba điều. Một là khi ông chết rồi, các tộc trưởng, các bộ tộc quy phục có thể sẽ bỏ đi. Phải nín nhịn, đợi khi lớn rồi, sẽ chỉnh đốn lại. Hai là phải diệt bọn Thát-đát để trả cái thù cha bị đánh thuốc độc. Ba là phải tối đề phòng bộ tộc Miệ-nhi (2) , vì trước đây Dã Tốc Cai đã xua quân đánh bộ tộc này, bắt một thiếu nữ xinh đẹp của họ là bà Nguyệt Luân (3) về làm vợ...

******
Ghi chú của thuật giả.
(1) Muôn Lịch, Thoát Đoan Hỏa Nhi, Mongliq.
(2) Miệt Nhi, Merkites.
(3) Nguyệt Luân, U Lân, Hoalun.

... Dã Tốc Cai chết đi để lại bà Nguyệt Luân là vợ chính, còn vợ thứ bao nhiêu bà thì không thấy nói đến. Thiết Mộc Chân có người em cùng mẹ là Cát Xa(1), ba người em khác mẹ là Bách Cơ Ta (2), Biên Gô Đài (3), và Tê Mô Gu. (4)
Đoan Nghi nhớ lại chuyện cũ :
- Hồi chị tới Mông-cổ chơi lần trước, đã gặp Cát Xa và Biên Gô Đài. Hai người đều là chiến tướng, khí vũ hiên ngang. Còn Bách Cơ Ta thì không thấy đâu ?
- Y bị Thiết Mộc Chân bắn chết từ hồi còn niên thiếu !
- ! ? ! ? ! ?
- Trước đây đang lúc thịnh thời, Dã Tốc Cai thống lĩnh Mông-cổ, có sự tranh chấp vùng lưu vực sông Long-lý-hà (5) với tộc Diệt-xích-ngột. Nay Dã Tốc Cai chết, các bộ tộc trong đoàn trại Mông-cổ âm thầm bỏ bộ tộc Ki-dát theo bộ tộc Diệt-xích-ngột. Ngay người bạn thân nhất, người mà Dã Tốc Cai trối trăn lúc lâm chung là Muôn Lịch cũng kéo cả tộc Thoát-đoan- hỏa theo bộ tộc Thát-đát. Y còn nói một câu tàn tệ %AB Giòng nước kia sâu mấy rồi cũng có ngày cạn. Viên đá kia rắn mấy rồi cũng có ngày thành cát nụi. Một người đàn bà với mấy đứa con dại, sao có thể thống lĩnh được cả một bộ tộc %BB. Thế rồi hết tộc này này đến tộc khác bỏ đi. Mỗi đoàn trại ra đi lại lùa theo một bầy gia súc của Dã Tốc Cai. Chỉ không đầy một tháng, mà hơn bốn chục nghìn liều trại, chỉ còn lại hai chiếc của gia đình Dã Tốc Cai. Thiết Mộc Chân không vì thế mà nản. Ông cùng các em cố gắng tranh sống, nhất định ở lại vùng đất của tổ tiên là vùng trù phú của lưu vực sông Long-lý-hà: Săn thú, chăn nuôi thú vật. Nhiều khi đói quá phải bắt cả chuột, cả rắn nước mà ăn. Thế nhưng chỉ Thiết Mộc Chân với Cát Xa chịu khó làm việc, còn ba đứa em khác mẹ là Bách Cơ Ta, Biên Gô Đài, Tê Mô Gu thì lười biếng. Chúng ỷ có sức khỏe, cứ đợi anh em Thiết Mộc Chân săn được thú về là cướp lấy. Thiết Mộc Chân căm hận trong lòng, cố nhường nhịn chờ dịp. Một lần ông săn được một con nai nhỏ, Bách Cơ Ta nhảy ra cướp lấy. Lập tức ông bắn vào người y hai mũi tên. Y chết tức thời.

******
Ghi chú của thuật giả.
(1) Cát Xa, Qasar.
(2) Bách Cơ Ta, Baktar.
(3). Biên Gô Đài, Balgutai.
(4) Tê Mo Gu, Taimoghu.
(5) Lý Long Hà, Onon.

******
Thúy-Thúy kinh ngạc :
- Tôi nghe nói tại xứ Mông-cổ có một mỹ tục hơi giống Đại-Việt, là người đàn bà dạy dỗ , quản chế con cái. Mà bà Nguyệt Luân là người phụ nữ siêu việt. Sao bà lại để các con giết nhau như vậy ?
- Vì Thiết Mộc Chân vốn trầm tư, ít nói. Ông hận thằng em lâu ngày mà không nói ra, rồi ông xuống tay thình lình. Trước thảm cảnh nồi da xáo thịt, bà Nguyệt Luân hét lên kinh khủng : Chúng bay thực giống như bầy chó điên, cắn xé lẫn nhau. Máu thịt chúng mày, mà chúng mày cũng không chừa ? Chúng mày có biết rằng làm như vậy là tự chặt chân tay mình không ? Từ đấy anh em Thiết Mộc Chân nhường nhịn nhau.
Thủ-Huy thắc mắc :
- Như vậy, bấy giờ coi như Mông-cổ không còn dân, không còn lãnh chúa, thế lãnh thổ của họ bỏ không sao ?
- Sau khi các bộ tộc bỏ đi hết, thì vùng nước ngọt, nhiều cây lành, lắm thú là bình nguyên sông Long-lý hà bỏ không. Lập tức hai lãnh chúa ở gần nhất là Thát-đá񴠶ới Diệt-xích-ngột đưa dân tới chiếm ngự. Nhưng bấy giờ Thát-đát đang bị Kim đem quân đánh, nên lãnh chúa Diệt-xích-ngột là Tạc Gô Đài họp các bộ tộc thuộc quyền lại, tuyên bố rằng ông ta là Khả-hãn của bộ tộc Bọt-di-linh lẫn Ki-dát. Bất cứ người nào muốn cư trú trong vùng đất cũ của Mông-cổ, đều phải quy phục ông ta. Ông ta cho di chuyển lều trại thuộc quyền chiếm ngự lưu vực Long-lý hà. Thiết Mộc Chân cùng các em không coi lời tuyên bố của Tạc Gô Đài vào đâu. Ông cứ ở nguyên chỗ cũ, xua gia súc vào mục trường của tổ tiên để lại. Được tin báo, Tạc Gô Đài nổi giận, thân đem một đội kỵ mã đi bắt Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân phải trốn vào rừng. Tạc Gô Đài cho quân bao vây. Sau mấy ngày, Thiết Mộc Chân đói quá phải bò ra. Tạc Gô Đài dùng dây thoòng loọng chụp vào cổ ông, rồi kéo đi như kéo con thú. Để làm nhục Thiết Mộc Chân trước mặt các bộ tộc trước đây thuộc Mông Cổ, Tạc Gô Đài sai đóng gông ông, rồi cùng binh tướng mở tiệc ăn mừng. Mục đích làm Thiết Mộc Chân đói quá, phải năn nỉ, cầu khẩn xin ăn, hầu không còn uy tín trước mặt các bộ hạ cũ. Giữa lúc khốn cùng đó, thì thân phụ em xuất hiện cứu ra.
Thủ-Huy suýt xoa :
- À, cái vụ cứu này mới thực đúng là hiệp nghĩa. Cuộc giải cứu ra sao ?
- Bác Nhĩ Hốt cùng song thân em từ Trường-sa về tơí Mông-cổ, thì hỡi ơi, nơi trước kia có hàng mấy chục vạn lều trại, hàng mấy trăm ngàn gia súc, chỉ còn là bãi đất hoang. Bác Nhĩ Hốt đang ngơ ngẩn thì gặp bà Nguyệt Luân. Bà kể hết nguồn cơn, rồi khẩn khoản xin song thân em cứu con bà. Bác Nhĩ Hốt bầy ra một kế : Ông với song thân em trà trộn vào đám dân Mông-cổ quy phục Tạc Gô Đài, len lỏi trong đám người dự tiệc mừng. Phụ thân em dùng chỉ lực bắn vào người Thiết Mộc Chân một viên Định-tâm hoàn, để cho ông ngủ đi, không bị cơn đói hành hạ. Bọn Tạc Gô Đài thấy Thiết Mộc Chân ngủ mê, thì cho rằng ông chết ngất. Chúng sai giam ông lại. Đêm, Bác Nhĩ Hốt cùng song thân em đột nhập lều giam, cởi trói, phá gông cứu Thiết Mộc Chân, đưa lương thực cho ông ăn, rồi trốn khỏi khu lều trại. Nhưng Thiết Mộc Chân quá căm hận Tạc Gô Đài, ông muốn trộm chính con ngựa của y, mang đi. Bác Nhĩ Hốt khẩn khoản xin song thân em dùng khinh công đột nhập lều Tạc Gô Đài lấy thanh đao, cây cung, cái áo khoác của y đi, để y mất hết uy tín. Bởi theo tín ngưỡng dân Thảo-nguyên, người nào bị đối phương lấy mất cây cung, thì coi như bị đánh bại. Bị lấy mất thanh đao, thì coi như mất tính mệnh. Còn như bị lấy cả ngựa, cung , đao, áo khoác thì coi như bị giết, ngôi Khả-hãn bị đoạt, vợ con bị bắt làm tôi tớ. Thấy sự việc ngộ nghĩnh, thân mẫu em nhận lời liền. Hai vị nhập lều Tạc Gô Đài điểm huyệt y với người tỳ thiếp. Lại dùng kiếm gọt đầu, treo y lên cột lều, lấy áo khoác da, cây cung, ống tên và thanh đao, rồi cùng Bác Nhĩ Hốt, Thiết Mộc Chân trộm năm con ngựa riêng của y, trốn khỏi khu lều trại Diệt-xích-ngột.
Đoan-Nghi bật cười :
- Thế thân mẫu của em cũng học võ à ?
- Vâng, người là sư muội của Nam-thiên thần y Lê Thúc-Cẩn.
- Hèn gì bà có sẵn Định-tâm hoàn trong người. Em tiếp đi.
- Hôm sau cái tin Thiết Mộc Chân tự phá vỡ gông, dùng võ công bắt sống Tạc Gô Đài treo lên cột lều, đoạt ngựa, cung, tên, áo, đao mang đi...truyền rất mau khắp năm mươi vạn lều trại, rồi lan sang cả bộ tộc Thát-đát, Khắc-liệt, Nãi-man, Ong-gút, Miệt-nhi. Phụ thân em khuyên Thiết Mộc Chân nên cùng Bác Nhĩ Hốt cỡi ngựa của Tạc Gô Đài, mang cung, tên, đao, áo của y đi chiêu mộ những bộ tộc cũ của Mông-cổ. Chỉ trong vòng một tháng, các bộ tộc cũ lại trở về quy phục. Lưu vực Long-lý hà lại phồn thịnh hơn xưa. Trong dịp này có ba thiếu niên trẻ, nghe huyền thoại về Thiết Mộc Chân, đã dẫn cả bộ tộc mình tới phụ thuộc. Đó là Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Bác Nhĩ Truật. Phụ thân em đem tích Đại-Việt : Khai-Quốc vương nhờ cùng chín người em kết nghĩa với nhau, cùng chung lo quốc sự, mà làm được những chuyện kinh thiên, động địa. Vậy Thiết Mộc Chân cũng nên kết nghĩa huynh đệ với ba người nàyﮠThiết Mộc Chân làm theo ngay.

Nghe chuyện, Thủ-Huy cảm thấy cay đắng trong miệng. Công than thầm:
- Xưa kia Thuận-thiên thập hùng làm lên những công nghiệp vĩ đại như thế, mà nay Đại-Việt thất tiên lại chẳng ra gì. Đầu dây mối nhợ do Thụy-Hương chỉ biết có Tống. Rồi Long-Xưởng không thực lòng với các em. Trong thất tiên, thì Thụy-Hương, Long-Xưởng, Trang-Hòa đã ra người thiên cổ. Nay thì Đoan-Nghi với mình lưu lạc xứ người. Trong nước chỉ còn Tăng Khoa, Như-Như không biết ra sao ?
Đoan-Nghi thấy chồng thừ người ra, thì biết rằng Thủ-Huy đang cảm thán chuyện Đại-Việt thất tiên. Nàng hỏi một câu, để kéo Thủ-Huy khỏi cái buồn :
- Thế tình bạn giữa bốn người có thâm sâu không ?
- Họ đối với nhau còn hơn ruột thịt. Một lần Bác Nhĩ Truật dùng lưng đỡ nhát đao chí mạng của quân thù cứu Đại-hãn. Lần khác Gia Luật Mễ dùng miệng mút độc chất ở vết thương của Thiết Mộc Chân. Cái ngày công chúa với phò mã tới thăm Mông-cổ, Đại-hãn đem tất cả vàng ngọc ra tạ, để xin y sư Phạm Tử-Tuệ trị bệnh cho Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật. Bốn người cực kỳ thân thiết với nhau. Vì vậy Mông-cổ mới có ngày nay.

Chợt Thủ-Huy cau mày hỏi :
- Cứ như em thuật thì hồi ấy từ Tạc Gô Đài, Thiết Mộc Chân, cho tới Tốc Bất Đài... đều chưa biết đến võ công. Thế mà hồi tôi tới Mông-cổ, bốn tướng Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Triết Biệt, Bác Nhĩ Truật đều là những cao thủ hiếm có trên đời. Thế họ học võ từ bao giờ ?
- Sau vụ song thân em cứu Đại-hãn, thì ông mới thấy rằng cung, tên, cỡi ngựa không đủ, mà phải luyện võ công. Vì vậy, ông cho tế tác giả làm thương gia vào Kim, Tống, Liêu, Tây-hạ, Thổ-phồn... dò tìm những cao thủ bậc nhất, chiêu mộ. Nhưng các cao thủ chính phái không ai vì vàng mà truyền võ công ra ngoài. Chỉ có hai phái Trường-bạch, Liêu-Đông là chịu nhậﮠvàng, truyền bản lĩnh cho Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật mà thôi. Về sau Gia Luật Mễ có cơ duyên được một đại tôn sư của Tây-hạ vì thù hận vua nước này giết cả nhà ông, mà truyền kiếm thuật sang Mông-cổ. Sau khi truyền hết bản lĩnh, ông dặn Gia Luật phải diệt triều đình Tây-hạ trả thù cho sư môn.
- Còn việc Thiết Mộc Chân làm con nuôi của Khả-hãn Khắc-liệt uyên nguyên từ đâu ?

- Thưa phò mã, nguyên lúc còn tại thế ông Dã Tốc Cai có kết huynh đệ với Khả-hãn Khắc-liệt là Vương Hãn. Khi Thiết Mộc Chân cùng với ba nghĩa đệ mới tái phục hồi được bộ tộc, thì không có một đội quân nào cả. Thấy Mông-cổ ngày càng thịnh, các bộ tộc kéo đến quy phục mỗi lúc một đông. Vùng thảo nguyên của Mông-cổ lại trù phú, phụ thân em khuyên Đại-hãn nên tập cho dân tập lối sống định cư, cất nhà mà ở hơn là lối sống lều trại. Khi Đại-hãn họp các tộc trưởng lại đưa ra trưng cầu ý kiến, thì quá ba phần tư chống đối. Họ muốn tiếp tục lối sống lều trại, không muốn cất nhà, cũng như trồng cấy.
Tử-Kim cười :
- Quận chúa! Tôi thử đoán xem có đúng không nghe : Những bộ tộc nghèo thì muốn thay đổi nếp sống. Còn những bộ tộc giầu, thì muốn giữ nguyên. Họ sợ thay đổi !
- Quả đúng như vậy. Đai-hãn ra quyết định : Tùy ý các tộc. Tộc nào muốn sống theo nếp cũ thì cứ tiếp tục. Tộc nào muốn thay đổi thì tùy ý. Các tộc trưởng muốn thay đổi, đa số là các tộc nghèo, và tộc Bọt-di-linh. Song thân em dạy cho họ phương pháp đốt cỏ, phá hoang, trồng ngũ cốc, trồng cây ăn trái, ngăn các ao hồ nuôi cá. Lại dạy họ lấy đất sét nung gạch, lên rừng đốn gỗ về xẻ làm nhà. Sau ba năm, khu lều trại lụp xụp nghèo nàn bằng da, không hàng lối, trở thành những khu nhà gạch, lợp ngói. Giữa nhưng căn nhà đó lại nhô lên những căn nhà lầu khang trang là nơi hội họp của bộ tộc. Bộ tộc Bọt-di-linh cất một ngôi nhà năm tầng, nửa theo lối lều trại, nửa theo kiến trúc Đại-Việt : Tường bằng đá, nóc bằng da. Mặt khác, các bộ tộc trồng cấy trở thành giầu có. Bấy giờ các bộ tộc khác mới chịu cho con em học canh tác. Mông-cổ đang là một bộ tộc nghèo, bỗng trở thành giầu có súc tích, không phải mua ngũ cốc của Tây-hạ, Trung-quốc, Kim nữa. Sang năm thứ tư thì ngũ cốc dư thừa, bán sang cho Thát-đát, Nãi-man, Khắc-liệt. Mông-cổ càng giầu hơn nữa. Bấy giờ Khả-hãn đã lớn, ông đem lễ tới bộ tộc Ong-gút, xin Đài Xếch Sên cho cưới Bật Tê. Trong khi đó mấy người em kết nghĩa cũng lấy vợ. Trong mấy năm ở lều trại, phụ thân em có thu mười đệ tử, rồi dạy võ công cho họ. Đại đệ tử, phụ thân em đặt cho cái tên là Mộc Hoa Lê. Phụ thân em thấy các ba bộ tộc lân cận Thát-đát, Miệt-nhi, Diệt-xích-ngột, đều có quân đội thực hùng mạnh, mà họ nghèo khổ. Trong khi Mông-cổ giầu có, lại chỉ có mấy đội dũng sĩ, thì lấy làm lo ngại có ngày chúng sẽ tràn sang cướp phá. Vậy phải gấp tổ chức trai tráng thành đội ngũ để phòng thủ. Đại-hãn nhờ phụ thân em lập một trường huấn luyện ở chân núi Bourkhane, để huấn luyện, tổ chức quân đội. Đại-hãn ra lệnh : Tất cả trai tráng từ 13 đến 60 tuổi đều phải đến trường học quân sự. Sau khi ra trường thì sung vào đội ngũ của tộc mình. Đợt đầu, huấn luyện ba trăm người, tổ chức thành ba đội. Việc huấn luyện vừa hoàn tất, chưa kịp xuất quân, thì một đêm, Mông-cổ bị địch thình lình tràn tới tấn công, cướp gia súc, bắt người mang đi. Sáng chúng rút hết. Thiết Mộc Chân và các nghĩa đệ, các em thoát nạn, lục tục trở về quy tụ lại dân chúng. Lúc bị tấn công, Thiết Mộc Chân cho rằng bọn Diệt-xích-ngột trả thù. Nhưng dân chúng cho biết, đó là bọn Miệt-nhi (Metkites) chúng đã bắt Bật Tê mang đi. Sở dĩ chúng cướp phá Mông-cổ, do trước đây Dã Tốc Cai đã tiến đánh bộ tộc của chúng, bắt bà Nguyệt Luân về làm vợ. Đại-hãn lên núi tìm phụ thân em, xin đem đội quân mới huấn luyện đánh bọn Miệ-nhi trả thù. Nhưng Tốc Bất Đài can rằng : Với ba trăm người không thể thắng nổi bọn Miệt-nhi đông tới hàng mấy vạn. Vậy cần phải cầu viện. Hai nơi có thể cầu viện là Khắc-liệt (Kétates) và Da-di-ra. Khả-hãn Khắc-liệt là Tô Ha Rin, bạn thân của Dã Tốc Cai. Hồi ông ta bị chú cướp ngôi, nhờ Dã Tốc Cai đem quân về đoạt lại ngôi vua. Hiện ông có trên mười vạn quân. Dân của ông sống cố định, chứ không phải là dân lều trại. Còn Da-di-ra, thì tộc trưởng là Trác Mộc Hợp, người bạn hồi thơ ấu của Thiết Mộc Chân, khi ông mồ côi. O⮧ này không phải thuộc giòng quý tộc. O⮧ xuất thân là nô lệ, đi thu nhặt những dân nghèo, nô lệ, rồi thành lập bộ tộc Da-di-ra. Thiết Mộc Chân nghe theo, đi cầu viện Khắc-liệt, quả nhiên Tô Ha Rin nhớ ơn cũ, nhận Thiết Mộc Chân làm con nuôi, cho mượn một vạn quân kị. Còn Trác Mộc Hợp, thì kéo toàn lực lượng hơn vạn quân nữa, giúp Mông-cổ. Thế là liên quân Mông-cổ, Khắc-liệt, Da-di-ra cùng tiến đánh Miệt-nhi. Quân Miệt-nhi bị phá tan. Dân chúng bị bắt làm nô lệ. Chiến lợi phẩm gồm tất cả gia súc, của cải chia ba cho Mông-cổ, Khắc-liệt, Da-di-ra. Bộ tộc Miệt-nhi bị xóa tên từ đó. Lãnh thổ bị sát nhập vào Mông-cổ. Khi Thiết Mộc Chân đến lều trại của cháu ruột mẹ mình là Sinh Rê Bô Cô (Sintébourcot) thì thấy Bật Tê đang ẵm một đứa con đỏ hỏn. O⮧ đặt tên là Truật Xích (Djoutchi) có nghĩa là không mong đợi. Vì kể từ lúc Bật Tê bị bắt, đến lúc được đem về là 13 tháng, trong khi đứa trẻ mới hai tháng. Như vậy nó không phải là con của Khả-hãn.
- Cứ như em nói, thì dân chúng vùng Thảo-nguyên không trọng cái trinh trắng của phụ nữ. Họ coi đàn bà như một thứ đồ chơi. Nếu là phụ nữ Việt, Chiêm, Hoa, thì khi bị bắt, bà Bật Tê đã tự tử để tạ lòng chồng, và giữ thân thể cho trong sạch. Đây bà chấp nhận làm đồ chơi cho kẻ thù của chồng. Rồi khi được cứu về, nếu là một phụ nữ Việt, bà cũng xấu hổ, tự tử chết. Đây, bà thản nhiên như không có gì xẩy ra ! Rõ chán.
Đoan-Thanh đáp thản nhiên :
- Phò mã luận giống như mẫu thân em. Phong tục vùng Thảo-nguyên là như vậy đó.
- Trong trận này, thân phụ em có tham dự không ?
Đoan-Nghi hỏi : Ba trăm quân mới huấn luyện do ai chỉ huy ?
Đoan-Thanh đáp bằng giọng bùi ngùi :
- Song thân em đã chán công danh, nên chỉ giúp Thiết Mộc Chân, chứ không muốn vì ông ta mà chém giết người không thù, không oán với mình. Người trao ba trăm quân mới huấn luyện cho một người đệ tử là Mộc Hoa Lê. Cái tên Mộc Hoa Lê này do phụ thân em đặt cho anh ấy. Nghĩa là Hoa của gỗ cây Lê. Ngụ ý rằng : Mộc là khúc gỗ, phụ thân em tự ví như là một khúc gỗ, như một cây đã chết. Hoa Lê là hoa cây Lê. Ngụ ý hoàng-hậu của Thái-tổ nhà ta là công chúa của vua Lê, tức là hoa cây lê. Nhờ Hoa cây lê mà có triều Lý. Ba trăm quân do Mộc Hoa Lê tham chiến, đánh tan hơn năm nghìn quân Miệt Nhi, đã làm rung động vùng thảo nguyên. Sau trận đó, Khả-hãn trở thành Đại-hãn. O⮧ thấy rõ cái khác biệt giữa một đội quân được huấn luyện với đội quân chỉ là tráng đinh kết hợp. O⮧ đốc thúc việc huấn luyện khẩn cấp đặt tên cho loại binh này là chính-binh. Nên chỉ hơn năm sau, ông đã có một đội chính binh đông tới mười lăm ngàn người.
- Huynh có một điều thắc mắc.
Thủ-Huy hỏi : Phàm khi luyện quân phải căn cứ vào ba điều. Một là sao cho thích ứng với địa thế, khí hậu, thời tiết chiến trường. Hai là dùng để đối phó với loại địch quân nào ? Ba là tạo thêm sở trường, giảm sở đoản cho quân mình. Phụ thân muội nguyên là một đại tướng, thông hiểu binh pháp của công chúa Thánh-Thiên, của Khai-quốc vương, và cả Tôn Ngô binh pháp. Vậy người luyện quân cho Thiết Mộc Chân thể theo ý kiến ông ta, hay tự ý người ? Người tổ chức quân ngũ ra sao ?
- Thưa theo ý kiến của Đại-hãn ! Như bên mình thì chia năm người thành một ngũ (5 người), năm ngũ thành một lượng (25 người), năm lượng thành một tốt (125 người), năm tốt thành một lữ (625 người), năm lữ thành một sư (3125 người), năm sư thành một hiệu (15.625 người). Đại-hãn với phụ thân em luận bàn rằng việc giao tranh trên đồng cỏ này không có loại binh nào khác ngoài kị binh. Vì vậy chỉ cần thành lập các tốt là đủ. Mỗi tốt là một đơn vị độc lập, gọi là đoàn. Người Mông-cổ, từ năm sáu tuổi đã biết bắn cung, cỡi ngựa, nên phụ thân em đem thuật cỡi ngựa của Phù-Đổng Thiên-vương, cùng phép luyện kị binh ra trình bầy với Đại-hãn, rồi hai người thu thái kinh nghiệm của Mông-cổ, Đại-Việt tạo thành binh pháp mới. Đại-hãn nghe nói vào thời vua Trưng bên Đại-Việt mình dùng nữ tướng, nữ binh. Thời Anh-vũ Chiêu-thắng, Thái-úy Lý Thường-Kiệt cũng dùng nữ tướng, nữ binh, lại tổ chức cho tất cả đàn bà trẻ con luyện tập để khi có giặc thì tự vệ, để quân đội rảnh tay đối phó với giặc. Đại-hãn ban lệnh ngay : Phụ nữ, trẻ con cũng phải học bắn cung, cỡi ngựa, phương pháp phòng thủ dinh trại, bảo vệ người già. Chỉ hơn năm sau, Mông-cổ đang là một bộ tộc bậc trung, vươn mình trở thành một nước hùng mạnh đứng thứ năm trong vùng Thảo-nguyên.
Thúy-Thúy tò mò :
- Thưa quận chúa, bấy giờ vùng Thảo-nguyên có những nước nào hùng mạnh hơn Mông-cổ ?
- Mạnh nhất phải kể Nãi-man, dân đông, sống theo chế độ nông nghiệp , lại du nhập văn minh của Trung-quốc, Tây-hạ, Thổ-phồn. Tổ chức triều đình, chính quyền rất chặt chẽ. Thứ nhì là Khắc-liệt, vừa sống theo lều trại, vừa sống chế độ nông nghiệp. Khả-hãn, các thủ lĩnh địa phương sống trong những thành trì bằng đá. Thứ ba là Thát-đát, nước này s

egeo 06-19-2004 04:31 PM



C29:ĐẠI BÀNG TUNG CÁNH.

Nghe Di Cốc thuật, Thủ Huy thốt lên :
- Chiến thuật đó không ổn trong trường hợp này.
Công giảng giải : Theo như Long Tùng nói thì lãnh thổ Mông cổ bây giờ nằm dọc theo chiều Nam Bắc một nghìn năm trăm dặm (750 km) và Đông Tây một nghìn hai trăm dặm (600 km). Quân số của Mông cổ là năm vạn người. Nhưng thường trực tại bản doanh chỉ có 4600 quân, còn lại thì đóng rải rác ở các bộ tộc, thuộc quyền chỉ huy của các Khả hãn. Nếu như Đại hãn cứ cho tổ chức cố thủ, thì trong một ngày, những bộ tộc ở trong vòng hai, ba trăm dặm sẽ đem quân cứu ứng. Như vậy quân số Mông cổ có thể lên tới hai vạn, dàn ra đợi quân Khắc liệt. Với hai vạn quân tinh nhuệ, cố thủ, thì thừa sức cầm cự với mười vạn quân ô hợp tấn công hai hay ba ngày. Trong thời gian đó, thì quân các nơi xa đã kéo về. Bấy giờ Đại hãn thừa sức chống cự với địch. Trong phép công thủ, thì cứ một thủ phải mười tấn công mới có thể thắng được. Đây quân Khắc liệt chỉ đông gấp đôi, thì không thể tràn ngập. Họ từ xa tới, lương thực giỏi lắm mang theo đủ ăn trong hai ngày. Sau hai ngày tấn công bị tổn thất nhân mạng, bị hết lương, thì quân Khắc liệt phải rút. Bấy giờ Mông cổ truy kích, nếu không diệt được địch, cũng không đến nỗi bại. Đây Đại hãn ra lệnh rút lui, bọn Tang Côn biết rõ Đại hãn yếu thế. Chúng sẽ không ngần ngại gì mà không xua quân truy kích.
Bác Nhĩ Truật tỏ vẻ không tin vào lời bàn của Thủ Huy. Biết thế nhưng Thủ Huy vẫn tiếp :
- Còn như Đại hãn rút chạy, thì rất ít các Khả hãn chịu đem quân về cứu.
Di Cốc kinh ngạc :
- Sao phò mã biết?
Câu hỏi của Di Cốc chứng tỏ lý của Thủ Huy đúng. Thủ Huy giảng giải :
- Các bộ tộc ở xa, đa số mới theo Mông cổ. Trước đây họ quy phục Thát đát, Miệt nhi, Diệt xích ngột. Họ theo Mông cổ một là vì cái thế không theo không được, hai là vì thấy Mông cổ mạnh. Tuy theo Mông cổ, nhưng họ biết Khắc liệt mạnh hơn Mông cổ, ngặt vì họ ở xa Khắc liệt nên không theo Khắc liệt. Bây giờ họ thấy Khắc liệt xua đại quân đánh Mông cổ. Đại hãn rút chạy, ắt họ án binh bất động, chờ đợi. Nếu Đại hãn thắng, họ sẽ đem quân tiếp viện. Còn như Đại hãn bại, thì họ sẽ theo Khắc liệt.
Thủ Huy nhắc lại :
- Cho nên tôi mới nói Đại hãn rút chạy, thì về chiến thuật tuy đúng, nhưng về đại cuộc thì hỏng to!
Bác Nhĩ Truật vẫn không chịu phục Thủ Huy. Y hỏi Di Cốc :
- Rồi sao?
- Phò mã luận đúng. Đại hãn truyền cho Gia Luật Mễ, cùng một đội quân nhỏ ở lại. Trong các lều trại đóng quân đêm vẫn đốt đèn, làm như có quân trú phòng, để lừa địch. Quả nhiên địch mắc mưu. Chúng đợi tới nửa đêm mới ào ạt tấn công, thì chỉ còn trại không. Tang Côn, Trác Mộc Hợp biết mắc mưu, nhưng thấy quân dụng vứt bừa bãi, thì biết rằng Đại hãn rút chạy vội vàng. Chúng cho quân nghỉ lại, sáng hôm sau truy kích. Phải hơn một ngày, chúng mới tới Tuyết nhai (Khingan), nơi Đại hãn dàn quân lại chờ đợi.
Bác Nhĩ Truật hỏi :
- Thế quân các nơi có về cứu ứng không?
- Không!
Bây giờ Bác Nhĩ Truật mới phục Thủ Huy giỏi binh pháp hơn mình gấp bội. Bất giác y nghĩ :
- Ta phải mật báo với Đại hãn, sao kéo người này theo giúp Mông cổ, thì trong có thể làm chúa Thảo nguyên. Ngoài có thể chinh phục Kim, Thổ phồn, Tây liêu, Tây hạ.
Nghĩ vậy y hỏi :
- Rồi trận chiến ra sao?
- Tiền quân Khắc liệt do chính Tang Côn, Trác Mộc Hợp đuổi tới Tuyết sơn. Chúng thấy ta dàn quân dựa vào chân núi, địa thế cực kỳ lợi hại. Nhưng Tang Côn ỷ quân số đông đảo, y ra lệnh tấn công. Sau chín đợt xung sát, quân sĩ chết quá nửa. Y truyền ngừng lại nghỉ ngơi, đợi đoàn tả quân tới. Nửa ngày sau, tả quân Khắc liệt tới, Tang Côn cho lệnh ào ạt tấn công vào tuyến phòng thủ của ta. Khi tuyến phòng thủ của ta bị núng thế, bấy giờ Đại hãn mới cho hai đạo phục binh xuất hiện. Đạo thứ nhất do tướng Dược Sơ Đài, Triết Biệt và trưởng tử Đại hãn là Truật Xích chỉ huy. Đạo thứ nhì do tướng Bác Khô La, Qui Dinh Đa, và con thứ Đại hãn là Oa Khoát Đài chỉ huy. Hai đạo kỳ binh đánh vào hậu quân địch. Tuy quân số đông đảo nhưng bị tấn công phía trước, đánh ép hai bên, quân Tang Côn hỗn loạn, trận thế bị vỡ. Tang Côn bị lão tướng Dược Sơ Đài bắn một mũi tên trúng mặt, thế là đạo tiền quân, tả quân Khắc liệt bị đánh tan. Giữa lúc đó thì đại quân Vương hãn tới, đánh bọc hậu hai đạo kỳ binh của ta. Cả hai phải đánh cảm tử mới tiến lên bắt tay được với đạo quân của Đại hãn. Bấy giờ trời đã về chiều. Quân Khắc liệt hạ trại, qua đêm, cũng để chờ các đạo hậu quân tới.
Thuật đến đây Di Cốc mệt quá, y ngừng lại để uống nước. Di Tôn thuật tiếp :
- Về phía quân ta, thiệt hại thực không nhỏ. Ba đạo thiện chiến nhất, mỗi đạo chỉ còn phân nửa. Kiểm điểm lại thì các tướng Bác Khô La, Qui Dinh Ba, Oa Khoát Đài bị mất tích. Tuy nhiên các tướng Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Bác Nhĩ Hốt và Triết Biệt vẫn vô sự. Các tướng luận rằng, với quân số ít, chưa quá hai nghìn người, không thể địch lại với tám vạn quân Khắc liệt. Họ xin Đại hãn cho rút lui trong đêm. Đại hãn bắt phải chờ tin tức của cánh quân Bác Khô La, rồi mới rút. Gần nửa đêm, Bác Khô La dẫn tàn quân về. Óat Khoát Đài bị thương mê man. Đại hãn ra lệnh rút lui trong đêm. Sau khi rút lui an toàn, người sai các tướng chia nhau đến những bộ tộc miền Đông, tập hợp quân sĩ lại để phản công. Còn Đại hãn, Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Triết Biệt, cùng hơn nghìn quân đóng trại giữa đường, cản hậu cho dân chúng, gia đình kịp di chuyển về miền Đông.
Di Tôn ngừng lại, hít một hơi để lấy sức rồi tiếp :
- Trưa hôm sau, Đại hãn sai A Lý Hải đi sứ, tới yết kiến Vương hãn. A Lý Hải nói với Vương hãn trước hội đồng tướng lĩnh, cùng các quý tộc, các tộc trưởng trực thuộc Khắc liệt :
ị Xưa nghĩa phụ bị chú là Cúc Nhi cướp ngôi, phải bỏ chạy sang Mông cổ. Phụ thân của tôi đem quân đánh Cúc Nhi, đuổi tới Tây hà, tận thu lãnh thổ, dân chúng của y trao cho nghĩa phụ. Đó là một đại công của nhà tôi với nghĩa phụ. Nghĩa phụ bị Nải man tấn công, phải bỏ chạy về phương Tây, không nơi dung thân. Em của nghĩa phụ là Trác a Cam bột ( Gia Gam Bu) phải lưu vong sang Kim. Chính tôi sai người đi đón hai anh em nghĩa phụ về cư trú ở Mông cổ, rồi đem quân phục hồi lãnh thổ, dân chúng cho nghĩa phụ. Đó là hai đại công của nhà tôi đối với nghĩa phụ. Khi Khắc liệt bị dịch, gia súc chết sạch, đói khát khổ sở, tôi đem lương thực sang cứu trợ, nghĩa phụ mới có ngày nay. Bây giờ dân nghĩa phụ no, quân nghĩa phụ khỏe, đều nhờ tôi. Đó là ba đại công của nhà tôi đối với nghĩa phụ. Nghĩa phụ với tôi cùng thề rằng giữa Mông cổ, Khắc liệt liên minh, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Thế mà nghĩa phụ âm thầm đem quân đánh Miệt nhi. Khi thắng, thu biết bao nhiều người, thú vật, mà nghĩa phụ không chia cho tôi dù một con cừu. Tôi cũng không nói gì. Rồi nghĩa phụ bị Nải man đem quân đánh. Trác a Cam bột, Tang Côn đem quân chống trả, bị đánh tan. Khắc liệt tưởng mất đến nơi, nghĩa phụ cầu cứu với tôi. Tôi sai bốn tướng Bác Nhĩ Hốt, Mộc Hoa Lê, Xích Lão Ôn, Bác Nhĩ Truật đem quân tiếp ứng, đánh tan quân Nải man. Đó là bốn đại công của nhà tôi đối với nghĩa phụ. Chúng ta cùng liên binh đánh năm bộ tộc Đóa lỗ ban, Thát đát nhi, Cáp đáp cân, Tán chỉ ngột, Hoằng cát thứ. Chúng tan tác như chim vỡ tổ. Tài vật thu được đếm không siết, chở không hết. Tôi không tơ hào mảy may. Tất cả đều để cho nghĩa phụ. Đó là năm đại công của nhà tôi đối với nghĩa phụ. Bây giờ thình lình nghĩa phụ lấy ân trả oán, đem quân tập kích tôi, đạo lý ở chỗ nào? Ể

Tất cả cử tọa hiện diện đều bất mãn với Vương hãn. Ông quá ngượng, mắng Tang Côn :
- Lời ta nói trước đây có sai đâu? Người làm sao thì làm.
Tang Côn cho rằng chiến thắng vừa qua, đã làm Mông cổ không còn khôi phục được nữa, y bất cần các tộc trưởng. Y nói ngang :
- Sự đã ra thế này, thì dù nói đi, nói lại cũng vô ích. Bây giờ chỉ có một đường là dùng đao kiếm quyết định. Như ta thắng thì hắn làm tôi ta. Hắn thắng thì ta làm tôi hắn.
Y quay lại nói với A Lý Hải :
- Người về nói cho Thiết Mộc Chân biết rằng, y không phục ta, vì quân ta đông. Y lại tự hợm có bốn đại tướng vô địch. Vậy ngày mai, ta sẽ chỉ đem năm trăm quân cùng y đối trận. Ta sẽ cử ra ba người đấu với ba người của y. Nếu y thắng hai trận, thì ta nguyện rút lui, trả lại đất, trả lại của cải cho y. Còn như ta thắng y hai trận, thì y phải quy phục ta. Nhược bằng y sợ hãi, thì nên cuốn vó vào rừng ở với thú vật.
Các tộc trưởng tỏ ý bất phục, Tang Côn không cần biết đến. Đã thế, bao nhiêu tài vật cướp của ta y lấy hết, không chia cho họ một phần nào. Họ bất mãn họp nhau mật nghị bàn kế đối phó với y. Y đe dọa bằng cách giết hai Khả hãn của hai bộ tộc. Việc này làm các Khả hãn càng kinh sợ, y lấy thế làm oai.
Thúy Thúy đưa mắt nhìn Thủ Huy :
- Nếu Đại hãn biết khai thác vụ này, thì có thể gây cho Khắc liệt bị nội chiến.

Bác Nhĩ Truật hỏi Thủ Huy :
- Theo như cao kiến của phò mã, thì Đại hãn có nhận lời không?
- Dĩ nhiên ông nhận lời.
Bác Nhĩ Truật kinh ngạc :
- Tôi nghĩ rằng Đại hãn sẽ không nhận lời. Vì nhận lời thì chẳng hóa ra bưng tính mệnh trao cho Tang Côn ư? Y đâu có dám đối trận với các tướng của ta? Sở dĩ y đưa ra lời thách thức, rồi nhân lúc đối trận, y sẽ xua quân đánh tràn sang hại Đại hãn. Phò mã cho rằng Đại hãn mắc mưu y ư?
- Tôi nghĩ Đại hãn đã quá hiểu Tang Côn. Oạng giả nhận lời, làm như mắc mưu y để kéo dài thời gian cho gia đình các tướng rút xa hơn, rồi hôm sau đối trận, người sẽ dùng bốn đại tướng xông vào trận kiềm chế Vương hãn với Tang Côn.
Bác Nhĩ Truật hỏi Di Cốc :
- Sự việc này Đại hãn quyết định ra sao?
- Người hành sự đúng như lời của phò mã!
Bác Nhĩ Truật bật lên tiếng kêu ủa kinh ngạc.
Di Cốc tiếp :
- Hôm sau, mỗi bên kéo năm trăm quân tới một vùng thực xa nơi đóng quân. Bên Mông cổ cử ra ba tướng là Tốc Bất Đài, Gia Luật Mễ, Mộc Hoa Lê. Bên Khắc liệt cử ra ba tướng là Mã Khắc Khiêm, Trác Hiểm Trung, Kim Du Linh.

Bác Nhĩ Truật kinh hãi :
- Chúng là người thế nào.Ta chưa từng nghe danh?
- Thưa chúng là người của Tống gửi sang, giả làm tướng Khắc liệt!
- À, thì ra thế
Thủ Huy kinh ngạc hỏi :
- Kim cương vương! Tại sao Tống lại giúp Khắc liệt?
- À, vấn đề như thế này! Bấy lâu nay, Mông cổ liên kết với Kim, thế của Kim trở lên mạnh. Tống thấy vậy muốn giúp Khắc liệt diệt Mông cổ, để cắt bớt vây cánh của Kim.
Y hỏi Di Cốc :
- Cuộc đấu kết quả ra sao?
- Trận đầu Tốc Bất Đài đấu với Mã Khắc Khiêm. Chỉ mới một vài chiêu, ai cũng nhận thấy công lực, chiêu số của Khiêm bỏ xa Tốc Bất Đài. Mã dùng một thứ võ công rất lạ, chưa từng thấy ai dùng ở vùng Thảo nguyên. Tướng quân Mộc Hoa Lê nhận ra đó là võ công của phái Đông a bên Đại Việt!
Thủ Huy, Tử Kim cùng bật lên tiếng kinh hoảng :
- Có thực vậy không?
Long Tùng giảng giải :
- Mộc sư huynh là đệ tử của phụ thân đệ nên sư huynh nhận ra võ công Đông a thì ắt không sai đâu.
Di Cốc tiếp :
- Sau năm mươi chiêu thì Tốc Bất Đài bị trúng độc chưởng của Mã. Trận này Mông cổ bị thua. Trận thứ nhì Gia Luật Mễ đấu với Kim Du Linh. Hai bên cùng dùng kiếm. Đấu đến chiêu thứ hai trăm thì Gia Luật Mễ bị bại. Đến đây Tang Côn cho phục binh đông đến hơn vạn xuất hiện đánh tràn sang định bắt Đại hãn. May nhờ đội võ sĩ của Mộc Hoa Lê đánh cảm tử, Đại hãn mới chạy thoát thân. Trong trận đó, chúng tôi bị lạc đến đây, may gặp các vị.
Bác Nhĩ Truật au mày suy nghĩ một lúc rồi hỏi :
- Từ trước đến nay, tám con của Muôn lịch đều tự thị võ ông vô địch vùng Thảo nguyên. Sao không thấy họ tham chiến?
- Tiểu nhân không rõ!
Đoan Nghi thắc mắc :
- Cứ như Đoan Thanh thuật thì Muôn Lịch là cha ghẻ của Đại hãn Thiết Mộc Chân, thì tám con của ông ta phải được trọng dụng vào những chức vụ cao lắm, mà sao trong trận sinh tử, họ không tham dự?
Bác Nhĩ Truật cau mày :
- Trong tám con của Muôn Lịch, thì con cả là Cốc Chu, lĩnh Tổng Đạo sư, coi như giáo chủ trên toàn lãnh thổ Mông cổ. Uy quyền của y lấn át cả Đại hãn. Con thứ nhì là Thát Minh lĩnh Tổng Đạo sư vùng lãnh thổ Thát đát cũ, con thứ ba là Miệt Hát lĩnh Tổng Đạo sư vùng lãnh thổ Diệt xích ngột cũ. Con thứ ba là Ngột Thai lĩnh Tổng Đạo sư của vùng lãnh thổ Miệt nhi cũ. Tám anh em nhà này võ công cao thâm không biết đâu mà lường.
- Thế võ công của họ phát xuất từ đâu?
- Họ là những Đạo sư, thuộc thành phần tôn kính, thiêng liêng, nên không ai dám thắc mắc. Chỉ biết rằng trong trận chinh phạt bộ tộc Ong gút một tướng giặc đấu với Mộc Hoa Lê trăm chiêu bất phân thắng bại, thế mà Ngột Thai chỉ đánh ba chiêu khiến tướng giặc bỏ mạng.
Ông nói với Thủ Huy :
- Đợi phò mã tới Mông cổ, phò mã thử dò xem võ công anh em y thuộc môn phái nào... Hà, biết bao nhiêu lần Đại hãn muốn làm giảm thế lực của bọn này mà không dám, vì chúng là người nhà trời. Các quý tộc, các Hãn, chư tướng đều phục tùng chúng. Riêng anh em tôi thì không tin chúng là người nhà trời.

Trước tin nước mất, nhà tan, mà Bác Nhĩ Truật vẫn bình tĩnh, nói với Thủ Huy :
- Việc trước mắt, chúng tôi phải đi tìm xem Đại hãn ở đâu, rồi mới quyết định sẽ làm gì. Vậy phò mã với công chúa nên trở về Liêu Đông chờ đợi, chứ không nên mạo hiểm với chúng tôi trong cảnh này làm gì!
Máu anh hùng trong lòng Thủ Huy bốc lên ngùn ngụt. Công tỏ vẻ cương quyết nói với các võ sĩ Long biên:
- Đại hãn vì nhớ tình cố cựu mà mời chúng ta. Nay chẳng may Đại hãn gặp nạn chúng ta há lại bỏ đi ư? Anh em nghĩ sao?
Các võ sĩ cùng nói :
- Kim vương! Chúng tôi quyết chiến đấu cạnh các vị.
Bác Nhĩ Truật mừng lắm. Ông nói với các võ sĩ Mông cổ :
- Bây giờ chúng ta đi tìm Đại hãn.
Ông phất tay ra lệnh. Đoàn người tiếp tục lên đường. Đi được hơn giờ thì có tiếng quân reo, bụi bay mù mịt bốc lên từ phía trước. Bác Nhĩ Truật hạ lệnh cho một võ sĩ Mông cổ leo lên cây cao quan sát. Tên võ sĩ phóng mắt nhìn về phía bụi bay, rồi nói lớn :
- Phía trước có cuộc giao tranh giữa quân nhà với quân Khắc liệt. Quân Khắc liệt đông gấp bội, đang đuổi theo quân nhà.
Thủ Huy chỉ hiểu được có mấy câu đó, còn mấy câu sau, thì không biết viên võ sĩ nói gì. Công đưa mắt cho Tử Kim. Tử Kim ra lệnh cho một võ sĩ Long biên tên Trọng :
- Em thử lên quan sát xem tình hình ra sao?
Trọng dạ một tiếng, rồi thoăn thoắt leo lên cành cao nhất của một cây cổ thụ. Y nói vọng xuống :
- Quân đuổi toàn là kị mã chia làm ba đội, mỗi đội dẫn đầu bởi năm viên tướng. Các đội đều dàn thành mười hàng. Tổng cộng khoảng ba nghìn người. Còn quân chạy thì hỗn độn, không có hàng ngũ gì cả, ước khoảng năm trăm người, có mười tám viên tướng đi cản hậu.
Bác Nhĩ Truật ra lệnh cho đội Mông cổ :
- Chuẩn bị tác chiến, cứu đồng đội.
Các võ sĩ Mông cổ cùng hú lên một tiếng dài, rồi họ dàn ngang thành ba hàng. Người người cầm cung, chuẩn bị tác chiến.
Bác Nhĩ Truật nhìn Thủ Huy định nói gì, rồi lại thôi. Thủ Huy biết người bạn mới muốn nhờ mình cứu đồng đội. Công lên tiếng:
- Người Việt chúng tôi có câu : Cùng đi một chuyến đò, cũng có nghĩa với nhau. Huống hồ trong quá khứ, giữa chúng ta có mối thâm tình, rồi chúng ta sống bên nhau hơn bốn tháng qua. Anh em chúng tôi sẵn sàng chiến đấu bên các bạn.
Long Tùng dịch lại cho các võ sĩ Mông cổ nghe. Họ cùng reo lên một tiếng, bầy tỏ lòng khâm phục.
- Chúng ta tiếp cứu như thế nào?
Tử Kim hỏi : Đánh vào hông địch, hay dàn ra nghênh chiến phía trước?
Bác Nhĩ Truật đề nghị :
- Chúng ta dàn ra hai bên để quân bại của ta rút vào giữa, bấy giờ họ thấy ta là bạn, họ sẽ dừng lại. Đội hình của ta thành ba đoàn. Trung quân là đám bại quân. Đoàn của tôi thành tả quân, đánh vào hông trái. Đoàn đệ thành hữu quân, đánh vào hông phải. Như vậy thì cứu được quân nhà.
Thế là hai đội dàn ra chờ sẵn.
Tiếng reo hò mỗi lúc một gần, rồi quân đuổi, quân chạy cũng đã xuất hiện phía trước. Bác Nhĩ Truật la lên :
- Đoàn quân nhà có cả Đại hãn với các tướng. Còn quân đuổi thì do chính Tang Côn, Trác Mộc Hợp chỉ huy.
Thủ Huy ra lệnh cho Tử Kim :
- Chúng ta chia võ sĩ làm bốn đội, đánh bọc hông địch, cùng sung vào bắt sống Tang Côn thì có thể lật lại được thế cuộc. Ta chỉ huy một đội đánh vào giữa, Đoan Nghi chỉ huy một đội đánh vào bên phải, Thúy Thúy chỉ huy một đội đánh vào bên trái. Tử Kim chỉ huy một đội tùy nghi tiếp ứng.
Cả hai đoàn quân đuổi chạy, đã nhìn thấy hai đoàn của Bác Nhĩ Truật, Thủ Huy dàn ra hai bên phải, trái. Một hồi tù và rúc lên, đoàn quân Mông cổ đang chạy lập tức ngừng lại, dàn ra nghiêm chỉnh. Thiết Mộc Chân thấy Bác Nhĩ Truật, Thủ Huy thì reo lên :
- Kim vương! Trần phò mã! Các người cứu ta đúng lúc.
Quân Khắc liệt cũng đã ngừng lại, dàn trận. Tang Côn gò ngựa ra trước trận, y cười nhạt :
- Tưởng phục binh, cứu binh thế nào, hóa ra không tới một ngàn người! Thiết Mộc Chân! Người mau hàng đi thôi!
Thủ Huy nói với Thiết Mộc Chân :
- Anh em chúng tôi sung vào trung quân tấn công Tang Côn, nhưng không bắt, không giết y, chỉ làm cho y bở vía bỏ chạy. Bấy giờ trận thế của y loạn, Đại hãn nhân đó đánh tràn sang.
Thiết Mộc Chân chưa kịp quyết định, thì Thủ Huy, Đoan Nghi, Thúy Thúy hú lên một tiếng dài liên miên bất tận, đội võ sĩ Long biên cùng giương cung bắn. Quân Mông cổ thấy vậy thì kinh ngạc, còn quân Khắc liệt thì cười rộ, vì khoảng cách giữa đội võ sĩ Long biên với Khắc liệt quá xa, sao có thể bắn tới? Nhưng tiếng cười chưa kịp tắt thì ngựa vọt lên, rồi buông tên. Các võ sĩ Long biên đều có công lực cao, tầm tên đi xa gấp đôi người thường. Những mũi tên đầu bọc thép rít lên vi vu, quân Khắc liệt chưa kịp phản ứng thì hơn ba trăm kị mã hàng đầu trúng tên.
Nguyên lối bắn của đội võ sĩ Long biên vốn được lưu truyền trong phái Sài sơn trải gần hai nghìn năm, mỗi đời lại sửa đổi, nên nay trở thành cực kỳ tinh diệu. Xạ thủ có thể bắn một lúc ba mũi tên.
Đoàn võ sĩ Long biên giương cung bắn, ngựa vọt tới quá nhanh. Hai lớp quân Khắc liệt kế tiếp trúng tên. Tang Côn chưa kịp phản ứng, thì võ sĩ Long biên đã tới trước mặt y. Kinh hoàng, y quay ngựa bỏ chạy vào trung quân. Thủ Huy dẫn đầu, hơn trăm võ sĩ xông thẳng vào trận Khắc liệt. Trong khi đội của Đoan Nghi đánh quặt sang phải. Thúy Thúy đánh quặt sang trái. Thế là trận tuyến Khắc liệt bị loạn. Tang Côn lui vào trong trận, nhưng trận bị võ sĩ Long biên bắn loạt thứ nhì đã bị vỡ. Thủ Huy tung người lên cao, phóng một chỉ trúng ngực y, chạm vào miếng hộ tâm kính đến choang một tiếng. Dư lực hất y ngã lăn xuống đất. Đội cận vệ lăn xả vào cứu y. Y nhảy lên một con ngựa khác, thì đội cận vệ bị giết hết. Kinh hoảng y xả ngựa bỏ chạy. Thủ Huy với trăm võ sĩ đuổi rà rà phía sau. Bọn tướng Khắc liệt hô vệ sĩ đuổi theo đoàn võ sĩ Long biên cứu chúa tướng. Thế là Tang Côn chạy trước, Thủ Huy với đội võ sĩ Long biên đuổi theo. Phía sau, đội vệ sĩ Khắc liệt reo hò đuổi theo cứu chúa tướng. Đuổi nhau được khoảng hơn hai chục dặm, Thủ Huy hú lên một tiếng dài. Đội võ sĩ Long biên cùng tung mình lên khỏi lưng ngựa, thân họ quay tròn. Khi quay được nửa vòng, họ buông một loạt tên về sau, rồi quay tiếp nửa vòng nữa, đáp lên mình ngựa. Đám vệ sĩ đuổi theo, bị trúng loạt tên, lớp đầu hơn trăm người ngã lăn xuống ngựa. Lớp thứ nhì, thứ ba kinh hoảng gò ngựa lại, lưỡng lự một lúc rồi mới đuổi tiếp, thì khoảng cách với đội võ sĩ Long biên đã khá xa.
Đuổi trên hai trăm dặm, thấy như vậy đã đủ, Thủ Huy hú lên một tiếng, đội võ sĩ Long biên cũng ghìm cho ngựa từ từ chậm lại. Đám võ sĩ Long biên lại tung mình lên cao, quay một vòng, bắn về sau loạt tên nữa. Sau loạt tên này số võ sĩ Khắc liệt chỉ còn hơn năm chục tên. Lập tức đội võ sĩ Long biên bao vây vào giữa. Loạt tên nữa bắn ra, đám võ sĩ Khắc liệt bị giết sạch. Thủ Huy vẫy tay, ra hiệu, đoàn võ sĩ Long biên quay trở về. Mỗi võ sĩ đều bắt được bốn ngựa của Khắc liệt, dắt theo.
Các võ sĩ Côi sơn, Long biên đều là đệ tử phái Đông a, võ công cao cường. Họ được huấn luyện để chuẩn bị cho cuộc Bắc chinh, đòi lại cố thổ. Chưa bao giờ họ có dịp sử dụng hết khả năng. Họ như những con chim đại bàng, bị giam trong lồng. Bây giờ họ mới được tung cánh trên nền trời bao la. Lần đầu tiên họ xuất trận, vó ngựa sải những bước dài trên đồng cỏ mênh mông. Họ được đối trận với những địch quân toàn kị mã thiện chiến. Khả năng của họ được dịp phát tiết tối đa. Người nào cũng hỉ hả.

Thủ Huy dẫn đội võ sĩ Long biên trở về được hơn năm chục dặm thì gặp đội võ sĩ của Thúy Thúy. Công hỏi :
- Thúy Thúy! Tình hình thế nào?
- Công chúa, Tử Kim với tiểu tỳ xông vào phá vỡ trận tuyến của Khắc liệt. Phía sau Đại hãn với các tướng cũng đánh tràn sang. Đám quân Khắc liệt không người chỉ huy, chúng đều đầu hàng. Một võ tướng của Khắc liệt đi cản hậu cho Trác Mộc Hợp chạy, thì đụng phải công chúa. Võ công y rất cao cường, kiếm thuật thần thông. Phải trên một trăm hiệp công chúa mới đánh rơi được kiếm của y. Y bị bắt sống.
- Tỷ tỷ có nhận ra võ công của y không
- Y dùng võ công Hoa sơn, mà lại là võ công Hoa sơn trong bộ Vô trung kinh.
- AÔi chà! Nhất định bọn này có liên hệ với Vương Cương Trung. Phải rồi, chỉ có kiếm thuật trong Vô trung kinh mới có thể chống lại Mê linh kiếm pháp trong vòng một trăm hiệp. Ta phải thẩm vấn xem y là ai?
Thủ Huy gò ngựa cùng Thúy Thúy đi song song, hơn khắc sau thì gặp bọn Thiết Mộc Chân. Đại hãn Mông cổ cảm động :
- Muôn nghìn lần tôi không bao giờ nghĩ rằng mình bị cùng đường. Cũng không bao giờ nghĩ rằng lại được huynh đệ cứu mạng.
Ông chỉ vào đám hàng quân :
- Đám đuổi theo phò mã là vệ sĩ của Tang Côn. Còn đám này nguyên là quân của tôi, Đa Di Đài mang về theo Vương hãn. Tuy họ bất mãn, nhưng phải nín nhịn. Bây giờ có dịp, họ lại trở về với tôi.
Ông chỉ vào mấy tên tù binh :
- Trong mấy viên tướng Khắc liệt bị bắt, có một tên cực kỳ quan trọng. Y là người Tống sang giúp Tang Côn. Kiếm thuật y rất cao minh. Nghĩa đệ của tôi là Gia Luật Mễ bị bại dưới tay y. Trong trận đánh hai hôm trước, y chỉ huy một trăm võ sĩ thuộc quyền, người nào võ công cũng cao cường. Bọn y đi đến đâu, là người của chúng tôi ngã đến đó. Không ai chịu nổi của y quá mười chiêu. Bẩy viên tướng của tôi bị y giết. Hôm nay nhờ công chúa xuất thủ mới bắt được y và ba tùy tùng. Ta thử thẩm vấn xem y là ai?
Thúy Thúy bàn :
- Thưa Đại hãn, bọn y là người phái Hoa sơn. Mà phái Hoa sơn với chúng tôi đã có rất nhiều ân oán trong quá khứ. Tôi xin Đại hãn cho chúng tôi dấu thân phận, như vậy mới hy vọng tìm ra sự thực.
Thiết Mộc Chân cười ha hả :
- Được chứ. Ngặt vì chúng ta tuy thắng trận này, nhưng tại đây, kể cả quân của phò mã, của tôi, của Bác Nhĩ Truật cũng chỉ độ hai nghìn, thêm năm nghìn hàng binh là bẩy nghìn. Lát nữa ắt Tang Côn sẽ đem đại quân đến thì ta đương sao nổi? Vậy chúng ta phải mau rút chạy về phía Đông, rồi từ từ tìm kế phục hồi lại cố thổ. Bây giờ trời đã về chiều, chúng ta tạm về khu đóng quân, rồi mai sẽ lên đường.
Hôm sau.
Đoàn người ngựa theo hướng Đông mà đi. Họ vượt qua hàng chục bộ tộc khác nhau, cho tới khi tới chỗ giáp giới với bộ tộc Nữ chân, là nơi phát tích của người Kim mới dừng lại. Đây là khu vực đồn trú quân của Mông cổ. Thiết Mộc Chân mời bọn Thủ Huy vào trong căn soái lều, lại trao cho Di Cốc cung cấp lều trại, người chăn ngựa, lương thực cho đội võ sĩ Long biên.
Mấy năm trước, trong lần thăm Mông cổ, giữa Thủ Huy với Tốc Bất Đài rất hợp chuyện. Nay nghe y bị trúng độc chưởng. Thủ Huy xin được thăm y. Bác Nhĩ Truật dẫn Thủ Huy, Đoan Nghi sang lều của y. Cả lều vừa mở, hơi nóng từ trong tạt ra, làm mọi người phải lùi lại một bước. Tiếp theo tiếng rên xiết của Tốc vọng ra. Một người đàn bà nước da tươi hồng mở cửa chào khách. Bà ta nói với Bác Nhĩ Truật:
- Chồng tôi bị trúng độc gần giống như bác hồi xưa. Ông ấy cố vận công chống lạnh, nhưng cũng không chịu nổi. Tôi đã cho đốt củi xung quanh chỗ anh ấy ngồi, mà anh ấy vẫn còn lạnh.
Thủ Huy biết đây là bà vợ Tốc Bất Đài. Bác Nhĩ Truật giới thiệu Thủ Huy, Đoan Nghi, Thúy Thúy với người đàn bà, rồi nói :
- Quý khách trước đây có giao tình với anh nhà. Nên muốn thăm anh ấy.
Tốc Bất Đài ngồi trên phiến gỗ vận công, xung quanh có đến bốn cái lò sưởi, củi bốc lửa sáng rực, nhưng cái lạnh vẫn làm y run run. Dù y nhận ra Thủ Huy, Đoan Nghi, nhưng chỉ gật đầu chào chứ không nói lên lời. Chỉ thoáng nhìn thấy tình trạng Tốc Bất Đài, Thủ Huy đã biết y bị trúng Huyền âm chưởng của phái Trường bạch. Công hỏi :
- Hỏa liệp đại lang vương! Huynh có biết căn cước của kẻ đánh huynh không?
- Nó... Nó xưng tên là Mã Khắc Khiêm. Công lực của nó thực phi phàm hơi giống nội công Đông a của phò mã, lại pha lẫn một thứ nội công cực kỳ bá đạo. Thực trên đời tôi chưa hề thấy ai có công lực mạnh như vậy!
Thủ Huy bắt mạch Tốc Bất Đài xong, công gọi vợ :
- Em thử xem mạch Đại lang vương xem!
Đoan Nghi nắm lấy cổ tay Tốc, rồi nàng ngơ ngẩn xuất thần nhìn chồng :
- Kẻ địch đã dùng nội công Đông a nhà ta pha lẫn nội công phái Trường bạch. Chỉ y... mới có hai thứ nội công này mà thôi.
- Anh cũng nghĩ vậy. Có là y...
Thiết Mộc Chân cũng đã vào trong lều :
- Nhị vị tìm ra căn cước tên Mã Khắc Khiêm rồi à?
- Tôi không chắc lắm.
Thủ Huy trả lời : Có một đại ma đầu học được võ công của nhà tôi, rồi lại luyện Huyền âm nội lực của phái Trường bạch. Y đã tuyệt tích hơn mười năm ở Đại Việt. Không lẽ y lại lên đây?
Nói rồi công thuật chi tiết gốc tích Mao Khiêm cho mọi người nghe. Gia Luật Mễ bàn :
- Có thể là y! Bởi sau khi y rời Đại Việt về Tống. Tống đế phong chức tước, rồi sai y trợ chiến cho Khắc liệt.
Thiết Mộc Chân kinh hãi :
- Bản lĩnh của y so với phò mã ra sao?
- Y ngang vai với ông nội tôi. Cách đây hơn mười năm thì võ công của y bỏ xa tôi. Bây giờ thì tôi không biết
- Nếu đúng là y, thì phò mã có thể hút độc tố cứu Đại lang vương không?
Nói dứt Thiết Mộc Chân chắp tay vái Thủ Huy :
- Ngôi Đại hãn tôi có thể bỏ, nhưng nghĩa đệ Tốc Bất Đài của tôi thì muôn ngàn lần tôi không thể để y chết được. Bằng mọi giá, tôi xin phò mã cứu y.
Thủ Huy cảm động :
- Tôi không chắc. Nhưng ta cứ thử xem!
Nói rồi Thủ Huy hít một hơi, để bàn tay lên huyệt Bách hội của Tốc, rồi vận công hút. Không đầy năm tiếng đập tim, Tốc Bất Đài đã cảm thấy cái lạnh giảm đi quá nửa. Y lên tiếng :
- Kỳ điệu!
Thủ Huy biết đã có kết quả, tiếp tục hút một khắc nữa, thì cảm thấy người hơi lạnh, công vội ngừng lại, ngồi nhắm mắt điều tức để đẩy độc tố ra khỏi bàn tay. Còn Tốc Bất Đài thì cảm thấy chỉ còn hơi lạnh mà thôi. Y rùng mình đứng dậy, chắp tay hướng Thủ Huy :
- Đa tạ phò mã đã cứu mạng.
Phải hơn một khắc Thủ Huy mới đẩy hết chất độc ra khỏi bàn tay. Công rùng mình :
- Huyền âm độc thực khủng khiếp. Theo như di thư của tổ tiên tôi để lại, thì ai trúng phải chưởng này thì một là có thuốc giải của bọn Trường bạch, mà phải uống trong 49 ngày liền. Còn như người luyện Huyền âm công đến trình độ tối cao, thì có thể hút độc tố cứu người. Nhưng phải hút ba ngày liền. Vậy tôi phải hút hai lần nữa Đại lang vương mới khỏi hẳn.
Tốc Bất Đài chửi tục :
- Tổ bà nó! Không ngờ bọn Tống khả ố lại ngầm giúp Tang Côn. Chúng ta bị bất ngờ. Cái tên Kim Du Linh kiếm thuật thực thần thông. Nhị đệ kiếm thuật là thế, mà bị bại dưới tay nó. Suốt thời gian qua chúng tung hoành, không coi chúng tôi ra gì. Tướng sĩ của chúng tôi không ai đương nổi ba tên Tống khả ố. May sao công chúa bắt được y. Ta phải thẩm vấn y để biết rõ tình hình.
Đến đó thân binh báo :
- Tổng Đạo sư Cốc Chu cùng ba Tổng Đạo sư Thát Minh, Miệt Hát, Ngột Thai dẫn các tiểu Đạo sư đã tìm về.
Thiết Mộc Chân vội cùng chư tướng, Đại hãn các bộ tộc cùng ra đón. Thủ Huy phóng mắt nhìn về phía xa xa, dân chúng, các tộc trưởng, tướng sĩ, các Hãn, Khả hãn đứng hai bên đường cúi rạp người xuống chào đón bốn người đang đi ngựa phía trước. Phía sau có hơn năm trăm tùy tùng cỡi ngựa cờ xí ngất trời.
Bác Nhĩ Truật nói nhỏ với Thủ Huy :
- Gã cỡi ngựa đi đầu là Cốc Chu, ba gã đi phía sau là ba em gã. Còn đám tùy tùng toàn là tiểu Đạo sư. Trong trận chiến kinh hoàng vừa rồi, không hiểu chúng trốn đâu, bây giờ mới chui ra.
Mặc mọi người rạp người chào, Cốc Chu cùng ba em sóng vai với Thiết Mộc Chân cùng các tướng vào căn soái lều, rồi truyền giải tù binh vào. Thiết Mộc Chân giới thiệu Thủ Huy, Đoan Nghi, Thúy Thúy, Tử Kim với Cốc Chu. Y lãnh đạm gật đầu, rồi ngồi vào ghế ngang với Thiết Mộc Chân.
Kim Du Linh cùng ba võ sĩ Tống bị điệu tới. Chúng đứng sững, tỏ vẻ quật cường. Vừa trông thấy bọn võ sĩ Tống, Thúy Thúy bật rùng mình, mặt tái xanh. Thủ Huy kinh ngạc, công dùng lăng không truyền ngữ hỏi nàng :
- Thúy Thúy! Có gì bất ổn không?
Thúy Thúy như không nghe tiếng Thủ Huy hỏi, hai mắt nàng dán vào Kim Du Linh.
Trong ba võ sĩ Tống, thì một tên cao mà gầy, một tên béo tròn, còn một tên thì nhỏ bé. Thủ Huy nhận ngay ra rằng Kim Du Linh với tên võ sĩ nhỏ bé là đàn bà. Công dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật mỉm cười gật đầu tỏ ý nắm vững vấn đề. Ông quát bằng tiếng Trung quốc:
- Quỳ gối!
Kim Du Linh mỉm cười tỏ vẻ quật cường, không trả lời. Trong khi tên béo tròn cười nhạt :
- Sĩ khả dĩ sát, bất khả dĩ nhục. (Kẻ sĩ có thể giết, chứ không thể làm nhục).
Thấy Bác Nhĩ Truật định lấy hình cụ tra khảo. Thủ Huy lại dùng Lăng không truyền ngữ nói vào tai ông : Dùng hình cụ đối với bọn này e vô dụng. Tứ lang vương phải làm như thế...như thế. Bác Nhĩ Truật tỉnh ngộ, ông ta cười ha hả :
- Khá lắm! Người là kẻ sĩ, ta trọng khí phách của người.
Nói rồi ông rút kiếm, tay vung lên, dây trói gã béo tròn đứt hết. Ông chỉ vào cái ghế, tay rót một bát rượu đưa cho gã:
- Người hãy ngồi đó đi, và uống bát rượu này. Rồi trả lời cho ta mấy câu hỏi.
Gã béo tròn bưng bát rượu uống một hơi hết sạch, rồi ngang nhiên ngồi xuống :
- Người hỏi gì!
- Người cho ta biết tên họ, cùng chức tước.

- Ta không phục bọn mi. Ta không nói.
- Phải thế nào người mới phục?
- Ta là thần tử Tống triều, không khuất phục bọn rợ Hung nô các ngươi.
- Phải thế nào người mới phục?
- Chúa người nhận sắc phong Bắc cường chiêu thảo sứ của bọn rợ Kim, thì sao còn ngửa mặt nhìn ai? Nếu như chúa người quy phục Tống Thiên tử, nhận sắc phong, thì ta mới coi người là đồng liêu. Bấy giờ người không cần hỏi ta cũng nói.
Thủ Huy dùng lăng không truyền ngữ nói vào tai Bác Nhĩ Truật mấy câu. Bác Nhĩ Truật cười :
- Thôi được. Ta tha các người về với Khắc liệt. Nhưng có điều khi người ra khỏi đây, thì quân sĩ của ta sẽ nhận lầm người là tế tác, họ sẽ giết chết người. Vậy thì như thế này...Ta sẽ khắc lên mặt mi hình hai con heo mập, như vậy quân sĩ ta mới cho người đi.
Ông phóng tay điểm vào huyệt Đại chùy của y, lập tức người y cứng đơ. Nhanh như chớp, Gia Luật Mễ rút kiếm khỏi vỏ, ánh thép lóe lên, mặt tên võ sĩ Tống đã bị khắc hình hai con heo mập hai bên má. Máu chảy ròng ròng nhưng y vẫn quật cường, nhìn mọi người với con mắt khinh bỉ.
Đoan Thanh lấy thuốc rịt vết thương rồi giải huyệt cho y, dẫn y ra ngoài.
Bác Nhĩ Truật hỏi tên võ sĩ cao mà gầy :
- Còn người?
- Mi cứ khắc hình vào mặt ta đi. Ta mà có nhăn mặt một cái thì không phải là Hán tử đại trượng phu.
- Được!
Gia Luật Mễ lại vung kiếm lên, lần này mặt tên võ sĩ Tống bị khắc vào hình con chó chổng mông đang ỉa! Đoan Thanh lại rịt thuốc, dẫn y ra ngoài.
Bác Nhĩ Truật hỏi tên võ sĩ bé nhỏ :
- Còn người! Dù người đã cải trang, nhưng ta cũng biết người là gái. Ta không khắc hình lên má người, mà lột quần áo người, để lộ cái mả tổ tên vua Tống ra xem nó to, hay nhỏ?
Thủ Huy rút kiếm, công ra một chiêu trong Hoa sơn kiếm pháp. AÔnh thép lóe lên như muôn nghìn tia sáng bao phủ quanh người tên võ sĩ nhỏ bé. Lập tức quần áo trên người y bị khoét hằng trăm lỗ tròn trịa. Trong căn lều bật lên nhiều tiếng kêu. Kim Du Linh thì bật ra tiếng ủa kinh ngạc. Đám võ sĩ Mông cổ thì vỗ tay hoan hô.
Nhìn thân thể tên võ sĩ nhỏ bé, bất giác Đoan Nghi đưa mắt nhìn Thúy Thúy. Trong khi Thúy Thúy thẹn thùng cúi mặt xuống. Bởi đây chính là chiêu kiếm Thủ Huy đã dùng để khống chế Thúy Thúy mấy năm trước tại Đông cung.
Kim Du Linh hỏi Thủ Huy bằng tiếng Hàng châu:
- Coi phong thái các hạ, thì dường như các hạ là người Hán thì phải. Các hạ lại biết sử dụng Hoa sơn kiếm pháp đến chỗ tinh diệu. Vậy các hạ là đệ tử của cao nhân nào trong bản phái? Là đệ tử danh môn chính phái, tại sao các hạ lại khuất thân làm tôi tớ cho bọn Hung nô?
Thủ Huy cũng đáp lại bằng tiếng Hàng châu:
- Tại hạ không phải là người Hán, cũng chẳng phải đệ tử của Hoa sơn. Tại hạ lại cũng không phải là bộ hạ của Đại hãn Mông cổ. Tại hạ là khách của Đại hãn mà thôi.
Thủ Huy lại vung kiếm lên, như định cắt hết y phục của tên võ sĩ nhỏ bé. Tên võ sĩ nhỏ bé thét lên đầy kinh hoàng :
- Bọn Hung nô khả ố kia! Mi giết ta đi chứ đừng làm nhục ta thế này!
Bác Nhĩ Truật cười ha hả :
- Ta không giết người! Nếu người chưa khuất phục, thì người bạn ta sẽ ra một chiêu nữa, bấy giờ quần áo cả người không còn mảnh nào trên thân thể. Rồi...
Ông ta chỉ vào một tên cận vệ Mông cổ to lớn, râu tóc, lông lá rậm rạp :
- Ta sẽ giao người cho gã này, y đem người dẫn đi khắp nơi cho quân sĩ coi.
Tên võ sĩ nhỏ bé cúi đầu xuống :
- Tôi khuất phục. Tôi xin khai!
Bác Nhĩ Truật phất tay, lập tức Di Cốc đem y sang lều bên cạnh lấy cung. Ông ta hỏi Kim Du Linh :
- Còn người! Dù người cải trang, dù người cố giả giọng đàn ông, ta cũng biết người là đàn bà. Nếu người không khuất phục, thì ta sẽ gọt hết tóc người, rồi lột quần áo, đem đi khắp các trại cho binh sĩ giải trí.
Kim Du Linh kinh hoàng, mụ nghĩ thầm : Bọn rợ này nói được thì chúng làm được. Ta phải làm sao đây. Mụ quát :
- Quân mọi rợ mặt dầy. Người giết ta đi cho rồi.
- Ta không giết người mà chỉ lột trần truồng người ra mà thôi. Người có chịu khuất phục không?
- Ta không khuất phục.
- Vậy thì được!
Bác Nhĩ Truật vẫy tay ra lệnh cho Đoan Thanh.
Đoan Thanh đứng lên. Nàng dùng khăn lau mặt Du Linh, lại bóc ba miếng da trên má, trán của y, lập tức khuôn mặt sần sùi tròn trịa, hiện ra một khuôn trái xoan cực kỳ xinh đẹp. Thủ Huy, Đoan Nghi, Thúy Thúy cùng bật lên tiếng ái chà đầy kinh ngạc, đầy thương cảm. Bởi Kim Du Linh chính là Giai phi Chế bì La bút, khuê danh Hàn Dũ Linh, quản lĩnh ngọn núi Mao nữ của phái Hoa sơn.
Thủ Huy nghĩ rất nhanh : Dù Hàn Dũ Linh đã phản Đại Việt, làm hại Đại Việt trong quá khứ. Nhưng việc của bà làm chẳng qua cũng vì Tống. Ai vì nước ấy. Trước đây không thiếu gì anh hùng Đại Việt, làm quan với Trung quốc, nhưng luôn luôn ám trợ Đại Việt. Thời vua Trưng có Mã Vũ, Chu Tường Quy, Lương Tùng. Gần đây nhất là tổ Trần Tự Mai của Thủ Huy, tuy chức tới Thái sư, được làm phò mã, tước tới Kinh Nam vương của Tống triều, mà luôn luôn làm lợi cho Đại Việt. Đồng thời với Kinh Nam vương còn có Trần Phụ Quốc làm lĩnh Đô đốc Tương giang Động đình, sau lên tới Phụ quốc đại tướng quân, tổng lĩnh Ngự lâm quân; Trần Trung Đạo, lĩnh Kinh châu Tư mã, sau lên tới Phiêu kị đai tướng quân, tổng lĩnh Thị vệ. Bà là người Tống, thì việc bà làm hại Đại Việt, làm lợi cho Tống, ta không nên trách bà. Ta phải cứu bà. Huống hồ, Hàn Dũ Linh lại là người mà phụ hoàng Anh tông cực kỳ sủng ái.

Thủ Huy tiến lên, xoa tay vào mặt, nào râu, nào đất hóa trang rơi xuống lả tả. Công bấu tay một cái, dây trói của bà đứt hết. Công cùng Đoan Nghi h

egeo 06-19-2004 04:33 PM



C30:SỨ GIẢ NHÀ TRỜI.

Thiết Mộc Chân đưa mắt cho Bác Nhĩ Truật. Bác Nhĩ Truật nắm lấy tay Thủ Huy :
- Không nói dấu gì phò mã. Khi chúng tôi đón được Tuyên uy đại tướng quân Lý Long Phi sang Mông cổ, tuy chúng tôi khâm phục người, mà chỉ khâm phục về võ công, nên chúng tôi xin người dạy võ cho tướng sĩ, mà không nhờ người luyện quân. Phải đợi cho đến khi đi sứ Đại Việt, tôi được phò mã cho xem hai hiệu Thiên tử binh Ngự long, Quảng vũ thao diễn, lại được xem hiệu Kỵ binh Phù đổng tập trận. Tôi như người mù được mở mắt. Trở về Mông cổ, tôi thuật cho Đại hãn nghe. Bấy giờ Đại hãn mới nhờ Long Phi luyện quân cho. Mông cổ hùng mạnh từ ngày ấy.
Thiết Mộc Chân trịnh trọng cắt một miếng thịt nướng, bưng một bát rượu trao cho Thủ Huy để bầy tỏ một cữ chỉ kính trọng. Chờ Thủ Huy ăn thịt, uống rượu xong, ông mới nói :
- Tôi được biết mười hai hiệu Thiên tử binh, hiệu Kỵ binh Phù đổng, hiệu Ngưu binh Hoa lư, đội võ sĩ Long biên, Côi sơn, đều do một tay phò mã đào tạo ra. Khi nghe Bác Nhĩ Truật ca tụng hiệu binh Phù đổng, tôi tuy khâm phục, nhưng vẫn có ý coi thường. Cho đến mấy hôm nay, được thấy đội võ sĩ Long biên xuất chiến, tôi mới tự thẹn rằng Kị binh của mình chỉ là một bầy cừu trước bầy sư tử. Bây giờ...
Oạng nói chậm lại :
- Nếu như phò mã giúp chúng tôi, huấn luyện được khoảng vài chục đội kị mã như đội Long biên, thì những cái gọi là Đại kim quốc hùng mạnh, Nải man sấm sét, Tây hạ vô địch, Đại vương quốc Khắc liệt... kia tôi có coi ra gì.
Thấy Thiết Mộc Chân hết sức cầu khẩn, Thủ Huy đáp bằng lời lẽ thành thực :
- Hiện tôi không thể trở về Đại Việt, trượng phu bốn bể là nhà, Đại hãn đã đem lòng của kẻ sĩ ủy thác, thì tôi nhận lời. Tuy nhiên tôi xin thưa trước, muốn huấn luyện xong hai mươi đội, phải cần thời gian là bốn tháng.
- Chỉ bốn tháng thôi sao ? Trước tôi nghe nói, phò mã phải huấn luyện trong 18 tháng mơiÔ xong kia mà ?
- Trước kia tôi cần 18 tháng, vì những người được tuyển chưa từng biết cỡi ngựa, chưa từng biết bắn cung, cũng chưa từng sử dụng vũ khí. Lại nữa, về người huấn luyện, bấy giờ ngoài tôi ra, chỉ có năm vị sư thúc của tôi là Đại Việt ngũ tuyệt mà thôi. Còn bây giờ binh sĩ của Đại hãn đã thành đội ngũ, phối hợp tác chiến thành thạo. Họ là những kị mã, tiễn thủ đại tài rồi. Trong khi đó, tôi có tới ba chục trưởng toán võ sĩ Long biên, ba đội trưởng cùng huấn luyện thì mau lắm.
Thiết Mộc Chân suy nghĩ một lúc rồi hỏi các tướng :
- Từ trước đến giờ, tổ chức các đội quân của vùng thảo nguyên này thường không giống nhau. Nguyên do chỉ vì mỗi tộc có quân số không đồng đều, mỗi tộc trưởng có một sáng kiến riêng. Từ sau khi Lý Long Phi cùng phu nhân giúp chúng ta, thì người tổ chức các đội quân theo Đại Việt. Năm người thành một ngũ, năm ngũ thành một lượng, năm lượng thành một đội. Mỗi đội là một đơn vị độc lập. Bây giờ tôi thấy các võ sĩ Long biên lại tổ chức hơi khác. Mười người là một thập (10), mười thập là một bách (100). Năm bách thành một đoàn (500). Vậy chúng ta nên giữ nguyên tổ chức cũ hay theo đoàn Long biên ?
Bác Nhĩ Truật từng sang Đại Việt, từng xem Thủ Huy thao diễn cho xem. Ông trình bầy :
- Binh đội Đại Việt chia ra làm Thiên tử binh, Thủy binh, Kỵ binh, Ngưu binh với hai đội võ sĩ Long biên, Côi sơn. Sáu loại binh đoàn, đều có tổ chức khác nhau. Lối tổ chức mà tiên sinh Long Phi luyện cho ta là theo Thiên tử binh. Còn tổ chức đội võ sĩ Long biên, Côi sơn thì là một sáng kiến của huynh trưởng Trần phò mã là Thần nông sứ Trần Lý. Mục đích của hai đội võ sĩ này không phải để tác chiến, mà để chọc thủng phòng tuyến địch bắt chúa tướng địch và bảo vệ chúa tướng mình khi đối diện với địch quân.
Tốc Bất Đài khen :
- Tôi thấy lối tổ chức của đội Long biên hợp với chiến trường vùng Thảo nguyên. Vậy ta nên cải tổ toàn bộ các binh đội của ta theo đội Long biên thì hơn. Nhưng nay, vì chiến trường cần tới đội quân độc lập lớn hơn, ta chia ra thập, bách và thiên. Với một đơn vị biệt lập nghìn người mới có thể thi hành những nhiệm vụ lớn.
Thiết Mộc Chân đưa mắt nhìn Thủ Huy với tất cả khẩn cầu :
- Phò mã ! Trời đã đem tiên sinh Long Phi cho Mông cổ. Bây giờ trời lại đem phò mã cho Mông cổ nữa. Trước kia chúng tôi chỉ có những đội quân ô hợp. Sau khi tiên sinh Long Phi giúp chúng tôi huấn luyện binh đội, thì chúng tôi có hai loại binh. Loại ô hợp cũ gọi là binh đội bộ tộc. Loại có tổ chức huấn luyện, gọi là chính binh. Bây giờ phò mã giúp chúng tôi luyện quân theo đội Long biên, thành ra chúng tôi có ba loại binh là binh bộ tộc, chính binh, và loại mới. Cái loại binh mới nên đặt tên là Lôi kị. Không biết phò mã nghĩ sao ?
- Lời Đại hãn luận thực phải. Có điều đây chỉ là tạm thời. Tương lai, Đại hãn phải huấn luyện lại tất cả các binh chủ lực thành Lôi kị hết. Lại cũng phải luyện binh bộ tộc theo lối luyện Hoàng nam của Đại Việt.

Thế rồi Thiết Mộc Chân rút quân về vùng núi non miền Đông, giáp giới với Kim. Ông truyền binh tướng Mông cổ gọi Thủ Huy, Đoan Nghi, Tử Kim là Thiên sứ, tức khách trời ban cho Mông cổ. Đích thân ông cùng các tướng điều động việc huấn luyện, trang bị cho kị binh. Thủ Huy trao việc huấn luyện bắn cung, phi ngựa, tác chiến cho các trưởng toán, đội trưởng. Còn chính mình, Đoan Nghi, Thúy Thúy, Tử Kim luyện võ cho họ. Sau hơn ba tháng thì việc huấn luyện cá nhân hoàn tất. Công bắt đầu cho huấn luyện tác chiến, phối hợp tác chiến cấp thập phu (10 người), bách phu (trăm), thiên phu (nghìn). Một tháng sau qua đi, công việc hoàn tất. Mông cổ đã có một lực lượng chín Thiên phu phối hợp tác chiến nhịp nhàng, không thua đội võ sĩ Long biên làm bao. Bên cạnh đó, có chín Thiên phu nữa đang trong vòng thụ huấn phối hợp tác chiến.
Cuối cùng là việc cử tướng chỉ huy các Thiên phu, khiến cho Thiết Mộc Chân phân vân ! Ai sẽ là Thiên phu trưởng ? Bởi cử người này, thì người khác không hài lòng. Cối cùng ông nhờ Thủ Huy. Thủ Huy căn cứ vào phép tuyển tướng thời vua Trưng, thời vua Lý Thánh tông, Nhân tông, trình bầy cho ông. Sau khi ông bàn với Thủ Huy ba ngày liền, rồi quyết định. Chính Thiết Mộc Chân với Thủ Huy tổng chỉ huy chín đại tướng. Mỗi đại tướng chỉ huy một Thiên phu :
Bác Nhĩ Truật chỉ huy đệ nhất Thiên.
Tốc Bất Đài chỉ huy đệ nhị Thiên.
Mộc Hoa Lê chỉ huy đệ tam Thiên.
Xích Lão Ôn chỉ huy đệ tứ Thiên.
Gia Luật Mễ chỉ huy đệ ngũ Thiên.
Triết Biệt chỉ huy đệ lục Thiên.
Bác Nhĩ Hốt chỉ huy đệ thất Thiên.
Dược Sơ Đài chỉ huy đệ bát Thiên.
Bác Khô La chỉ huy đệ cửu Thiên.
Thiết Mộc Chân gọi chín đại tướng là Cửu đại sơn điêu. Ông truyền lấy quốc kỳ mầu anh. Trên quốc kỳ, ông truyền vẽ hình con chim ưng bay ngang mặt trời, tượng trưng cho cái tên Thiên hỏa điêu đế của ông. Phía dưới quốc kỳ móc chín cái đuôi trâu, tượng trưng cho Cửu đại sơn điêu.

Còn chín Thiên phu đang thụ huấn, khi tác chiến sẽ là lức lượng trừ bị với mục đích khi Thiên phu chính bị tổn thất, thì sẽ dùng người của chín Thiên phu trừ bị bổ sung. Chín Thiên phu này trao cho Trần Tử Kim chỉ huy gọi là Thân binh. Chín người được cử chỉ huy gồm Lý Long Tùng ; ba em của Thiết Mộc Chân là Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu ; bốn người con là Truật Xích, Oa Khoát Đài, Sát Hợp Đài, Đà Lôi ; con rể là Đô Gu Sa.

******
Ghi chú của thuật giả.
Các sử gia Trung quốc, Liên sô, Đức, Iran, Irac, Ba lan, Hung gia lợi, Afghanistan đương thời cũng như sau này chỉ biết rằng Mông cổ có chín đại tướng, được Thành cát Tư hãn coi như chân tay, trao cho chỉ chỉ huy chín binh đoàn. Sau được phong thân vương. Lại được ông ban cho vinh dự biểu hiệu trên quốc kỳ. Nhưng không sử gia nào biết rằng đầu tiên họ chỉ là Thiên phu trưởng. Rồi dần dần theo nhu cầu chiến trường, các Thiên phu thành Vạn phu, rồi Vạn phu thành Binh đoàn (Binh đoàn tương đương với ngày nay là quân đoàn). Họ lại càng không biết ai đã huấn luyện, đã tuyển chọn các tướng này cho Mông cổ. Chỉ độc giả Anh hùng Đông a mới biết rõ mà thôi.

******
Trong thời gian ấy, Thiết Mộc Chân sai mật sứ đi liên lạc với các tộc trưởng trung thành, thuyết phục các tộc trưởng bị Khắc liệt đàn áp.
Tin tức tế tác báo : Tang Côn cho rằng việc bình định Mông cổ đã xong, y trở mặt với Tống. Y sai sứ sang Kim, xin Kim cùng ra quân tiến váo các bộ tộc miền Đông để tận diệt Mông cổ. Lập tức Thiết Mộc Chân sai sứ sang Kim cáo việc Tống giúp Khắc liệt đánh Mông cổ. Khi Mông cổ không còn nữa, thì Khắc liệt sẽ liên binh với Tống đánh Kim. Trước Kim đã được tin này, nhưng cho rằng chưa chính xác. Bây giờ trước những tin tức xác thực, Kim chúa nổi giận. Một mặt ừ hự hứa cùng ra quân với Khắc liệt, một mặt ngầm giúp Mông cổ.
Tang Côn tưởng Kim sẽ ra quân, y cho các tộc trưởng đem quân về. Y chỉ giữ lại năm vạn quân cơ hữu đóng rải rác làm năm doanh, chờ Kim cùng xuất quân. Quân Khắc liệt phải đóng ở vùng xa đất của mình gần hai nghìn dặm (1000 Km), tiếp tế khó khăn, chúng tràn vào các bộ tộc gần nơi đóng quân cướp bóc. Các tộc trưởng phẫn uất, nhưng phải cắn răng nín nhịn. Họ âm thầm cử sứ giả đến xin Thiết Mộc Chân xuất binh.

Thiết Mộc Chân bèn tổ chức đại hội các Hãn, Khả hãn, tộc trưởng, tướng lĩnh để nghị việc xuất quân. Ông lên tiếng trước :
- Bây giờ sắp vào Thu rồi. Nếu ta không phục hồi lại lãnh thổ, mùa Đông đến, dân chúng, binh tướng phải sống lang thang, thì e rằng không chịu nổi cái lạnh kinh khủng. Vậy anh em nghĩ sao ?
Tổng Đạo sư Cốc Chu cau mặt lại tỏ vẻ bất mãn. Vì thông thường những buổi họp như thế này, bao giờ y cũng là người lên tiếng trước. Thế mà bây giờ Thiết Mộc Chân lại dành mất cái danh dự đó.
Lão Muôn Lịch (ghi chú, ông này là bạn của thân phụ Thiết Mộc Chân, cũng là bố ghẻ của Thiết Mộc Chân), bàn :
- Hiện ta mới tổ chức được 18 Thiên phu Lôi kỵ. Quân số một vạn tám nghìn của ta tuy hùng mạnh, liệu ta có thể địch lại mười vạn quân của Tang Côn, với mười vạn của các bộ tộc quy phục y không ?
Gia Luật Mễ bác ý kiến Muôn Lịch :
- Bàn về quân số thì lúc khởi đánh ta, Khắc liệt có mười vạn quân. Khi ta rút chạy, y thu thập quân của các bộ tộc theo ta đầu hàng thêm mười vạn nữa. Nhưng sau khi ta rút chạy thì y đã đem năm vạn chính binh về trấn ở đất của ta, vì sợ dân nổi dậy. Còn mười vạn quân của các bộ tộc, thì y mang năm vạn trở về, rải ra một vùng dài trên ba nghìn dặm, rộng trên hai nghìn dặm. Rút lại, ngay trước mặt ta, y chỉ có năm vạn chính binh do Tang Côn chỉ huy, năm vạn quân bộ tộc ô hợp do Trác Mộc Hợp chỉ huy, cách ta tám trăm dặm. Nếu ta tung quân đánh Tang Côn, thì chỉ phải đối phó với năm vạn chính binh mà thôi này mà thôi.
Tổng Đạo sư Mông cổ là Cốc Chu, con của Muôn Lịch lên tiếng :
- Như Gia Luật Mễ nói, ngay trước mặt ta có năm vạn quân tinh nhuệ của Tang Côn. Trong khi ta chỉ có lực lượng một vạn tám nghìn. Nếu ta xuất quân, thì vừa dàn trận đã bị bị năm vạn của Tang Côn tiêu diệt rồi. Ta không thể xuất quân trong lúc này. Bần đạo đã hỏi nhà trời, Thượng đế mặt trời truyền rằng Hãy im lặng chờ đợi.

Khi chưa tới Mông cổ, Thủ Huy Đoan Nghi đã được Long Tùng, Đoan Thanh cho biết :
Ở Đại Việt, Phật giáo là quốc giáo. Quốc sư nhận sắc phong của Hoàng đế, được tôn kính cực kỳ. Quốc sư là những vị thông kim bác cổ, võ công tuyệt thế. Nhưng Quốc sư ít khi can thiệp vào việc triều chính. Tăng chúng trong nước cũng không phải phục tùng Quốc sư. Quốc sư luôn là người đạo cao đức trọng, chỉ chú ý đến việc giáo hóa dân chúng. Hầu hết các Quốc sư đều ngày đêm lo bảo vệ đất nước, trấn Bắc, bình Nam.
Ngược lại, tại vùng Thảo nguyên, vốn không có văn tự. Kiến thức về thần linh của họ rất nông cạn. Một số người học văn tự Thổ phồn, Trung quốc, đọc mấy sách ma trâu, đầu rắn của các nước này, rồi trở thành Đạo sư. Hiện nay, mỗi bộ tộc có một Đạo sư. Mỗi nước có một Tổng Đạo sư. Đạo sư là người đầy uy quyền, chỉ thua có Khả hãn, Hãn, tộc trưởng trong một số lãnh vực mà thôi. Đạo sư chủ tọa tất cả các cuộc hội họp quý tộc, quân sự, kể cả các cuộc xử án. Trong các buổi họp đó, bao giờ đạo sư cũng lên tiếng trước, rồi các nhà quý tộc, tướng lĩnh mới dám bàn luận. Đạo sư không phải tuân thủ bất cứ luật lệ nào, không uy quyền nào có thể bắt Đạo sư phải khuất phục. Ngược lại đạo sư có quyền thay đổi, đặt ra luật lệ.
Tổng Đạo sư Mông cổ Cốc Chu là người có uy quyền ngang với Khả hãn Thiết Mộc Chân. Y còn rất trẻ, là con trai của Muôn Lịch. Y có tám anh em, đều có võ công thâm hậu. Trong tám người thì hết bốn người làm Tổng Đạo sư. Trên hết y làm Tổng Đạo sư của toàn lãnh thổ Mông cổ, coi như là giáo chủ. Dưới quyền y, em kế tên Thát Minh làm Tổng Đạo sư của Thát đát ; Miệt Hát làm Tổng Đạo sư của Miệt nhi ; Ngột Thai làm Tổng Đạo sư của Diệt xích ngột. Trong lãnh thổ thuộc quyền, các em y thống lĩnh các Đạo sư của những bộ tộc trung vùng. Các Đạo sư đều có một đoàn tùy tùng trang bị như chính binh. Bọn này coi như một thứ quân nhà trời. Khi Đạo sư kết tội ai, thì sai chúng đi bắt về xử. Nếu tội nhân bị xử tử hình, thì cũng chính bọn này làm đao phủ. Ba vùng Thát đát, Miệt nhi, Diệt xích ngột là ba nước lớn nhất bị Mông cổ thu tóm.. Vì vậy, thế lực của gia đình Cốc Chu ngày càng thịnh. Thịnh đến độ, anh em y lấn át cả các em, các con Thiết Mộc Chân. Cả tám anh em y đều là những cao thủ bậc nhất Mông cổ. Không biết anh em y học võ với ai, thuộc môn phái nào. Có người thắc mắc về nguồn gốc võ công của anh em y, thì y nói rằng : Chúng ta học võ ở trên trời. Vì làm Tổng Đạo sư, địa vị cực tôn quý, nên không ai dám đấu với anh em y. Họ chỉ thấy y hiển lộ võ công trong trận đánh với Diệt xích ngột. Trong trận này, một mình một ngựa, y xông vào trận địch trên vạn quân, chém tướng rồi ra khỏi vòng vây dễ dàng. Y có thể ngồi trên tuyết luyện công hằng tháng mà không thấy lạnh. Mỗi người trong anh em y thu dụng một trăm đệ tử, đó là những tiểu đạo sư. Các tiểu đạo sư đều có võ công khá cao.
Là cha của bốn Tổng Đạo sư, Muôn Lịch cùng các con mình lấn dần sang quyền hành của các Đại hãn. Chúng muốn nắm quyền cai trị luôn các nước mà chúng làm Tổng Đạo sư. Vì vậy trong khi Thiết Mộc Chân chinh phạt các nước Miệt nhi, Ong gút, Thát đát, Diệt xích ngột sát nhập vào Mông cổ thành một nước lớn ; thì Muôn Lịch lại muốn Mông cổ chỉ là một nước hùng mạnh, giữ nguyên các nước nhỏ, các nước nhỏ phải quy phục mà thôi. Y muốn Thiết Mộc Chân cho các con y làm Khả hãn các tiểu quốc, rồi dần dần sẽ đi đến chỉ các đạo sư mới được làm tộc trưởng, Hãn, Khả hãn, Đại hãn. Mưu đồ của y, Thiết Mộc Chân biết hết, ngặt vì thế lực cha con Muôn Lịch quá mạnh, khiến ông cứ phải im lặng.
Nhưng các em, các con Thiết Mộc Chân thì ra mặt chống đối. Họ thường nêu tội trạng của gia đình cha con Muôn Lịch ra để làm giảm uy thế của chúng. Tội nặng nhất họ thường nêu ra : Muôn Lịch là bạn thân của cha Thiết Mộc Chân. Khi Dã Tốc Cai hấp hối, ủy thác con côi cho y. Thế nhưng khi ông qua đời rồi thì y đem cả bộ tộc bỏ theo Thát đát là kẻ thù của Mông cổ. Trong thời gian ở với Thát đát, bốn con y được truyền chức Đạo sư, được học võ, thì cái danh Đạo sư, cũng như võ công đó là của Thát đát ban cho. Khi Thát đát bị Thiết Mộc Chân diệt, ông không truy cứu tội trạng của y, mà lại thu nhận bộ tộc của y, cho y ngồi vào hàng quý tộc như vậy là không xứng đáng. Tuy vậy, các em, các con của Đại hãn vẫn chưa dám lật đổ gia đình Muôn Lịch, vì bà U Luân là vợ của y, hơn nữa trong các em, các con Đại hãn không ai đủ võ công đánh lại các con của y.
Cũng vì thế lực của Muôn Lịch mạnh, mà Thiết Mộc Chân gả mẹ mình là bà U Luân cho y, khiến y trở thành người thân nhất với ông. Bây giờ giữa lúc chư tướng bàn xuất quân, thì Cốc Chu lại nhân danh người nhà trời cản trở. Cái mục đích cản trở, Thủ Huy đã nhìn rõ : Y biết rằng ra quân kỳ này, tất Mông cổ thắng. Mà Mông cổ thắng thì sẽ gồm thâu cả Khắc liệt, bấy giờ Thiết Mộc Chân quyết không chịu để tình trạng lãnh thổ dưới quyền mình chia thành nhiều nước, dễ sinh nội loạn.
Từ ngày Thủ Huy, Đoan Nghi tới Mông cổ, thì cha con Muôn Lịch giữ thái độ dè đặt, nhũn nhặn, tránh né tiếp xúc cũng như đụng chạm.

Thủ Huy nghĩ thầm :
- Mình chỉ là khách du lịch Mông cổ, nhân cảm tấm lòng Thiết Mộc Chân mà giúp ông, thì việc gì phải tranh giành với người ?
Vì vậy công mỉm cười, mặc Cốc Chu với các tướng tranh luận.
Tốc Bất Đài hùa theo Gia Luật Mễ :
- Thưa Đạo sư, tôi thì tôi nghĩ khác. Ta có một vạn tám ngàn người đây là những võ sĩ, là Lôi kỵ chứ không phải binh sĩ bình thường. Ngoài ra, tổng số chính binh của ta còn hơn năm vạn. Chính binh của ta đã được Lý tiên sinh cùng phu nhân từ Đại Việt sang huấn luyện, chỉ cần một thiên có thể thắng một vạn quân Khắc liệt. Cạnh chính binh, ta còn năm vạn quân của các bộ tộc kia mà ? Vì vậy, tôi thấy rõ ta nên xuất quân ngay bây giờ. Bởi Tang Côn tưởng ta không ngóc đầu dậy được nữa nên y đã cho di chuyển vợ con tướng sĩ về sống chung. Nếu ta ra quân thình lình, thì binh tướng của y mải lo bảo vệ gia đình, ta có thể thắng dễ dàng.
Thiết Mộc Chân hỏi Thủ Huy :
- Xin phò mã cho biết ý kiến.
Thủ Huy nghĩ thầm : Cái thế ta đứng ngoài không được nữa rồi. Đại hãn đã hỏi, tức là đem mạng sống của cả nước Mông cổ trao vào tay ta. Ta phải trả lời thực sự. Mà thức sự thì rõ ràng ta phải gạt cái tên Cốc Chu nàợy ra ngoài. Công đứng dậy nói :
- Ta có ba thế tất thắng. Tang Côn có ba thế tất bại. Ta nên ra quân. Nếu ta ra quân lúc này, tất thắng.
Các tướng vỗ tay hoan hô.
Cốc Chu bực mình :
- Ý kiến phò mã lại sáng suốt hơn Thượng đế mặt trời ư ?
Thủ Huy chưa kịp trả lời Cốc Chu, thì nghe tiếng Thiết Mộc Chân dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai :
- Phò mã ! Tôi khẩn thiết xin phò mã làm cách nào giảm uy tín của anh em Cốc Chu. Chỉ cần sao uy tín anh em y xuống thấp, chứ đừng làm mất cái danh Tổng Đạo sư của chúng. Tôi còn phải nhờ chúng nhân danh sứ giả nhà trời, thu phục nhân tâm.
Nghe Thiết Mộc Chân nói, Thủ Huy nhũn nhặn trả lời Cốc Chu :
- Thưa Tổng Đạo sư ! Điều tôi sắp bàn đây, mới là ý của Thượng đế !
Cốc Chu quát lên :
- Hôm qua tôi bay lên trời, nghe Thượng đế phán : Hãy bảo Đại hãn Thiết Mộc Chân án binh chờ đợi !
Nghe Cốc Chu nói, một số các Khả hãn, Hãn, tộc trưởng cúi đầu xuống tỏ vẻ tôn phục.
Thủ Huy nghĩ thầm :
- Cái tên ngu dốt này bịp bợm ai, ta cũng mặc kệ y. Nhưng y đem cái bịp bợm đó mà dọa ta, lấn át ta thì y chết.

Nghĩ vậy công hỏi :
- Thưa Tổng Đạo sư, từ trước đến nay Tổng Đạo sư vẫn khẳng định rằng Đại hãn Thiết Mộc Chân là con của Thượng đế Mặt trời có đúng không ?
- Dĩ nhiên là đúng.
Thủ Huy cười lớn :
- Như vậy cái vụ mà Tổng Đạo sư nói rằng, hôm qua Tổng Đạo sư bay lên trời hỏi Thượng đế là không đúng. Chắc Tổng Đạo sư nằm mơ rồi tưởng là thực !
Cốc Chu vận nội lực quát :
- Mi không được vô phép. Câm cái mồm lại.
Thủ Huy cười nhạt :
- Này Tổng Đạo sư ! Tôi là khách phương xa. Tôi tới đây do lời mời của Đại hãn. Tôi không cần biết Tổng Đạo sư. Tổng Đạo sư không có quyền gì với tôi.
Cốc Chu ra lệnh cho đệ tử :
- Bắt trói nó cho ta !
Mười đệ tử của y rời chỗ ngồi, rút đao bao vây Thủ Huy. Thoáng nhìn, Thủ Huy giật mình đến thót một cái, vì từ chiêu thức cho tới thân pháp của chúng, đều là võ công Đông a. Thấy sư phụ bị kiềm chế, các Thiên phu, Bách phu do Thủ Huy huấn luyện cùng rút vũ khí, định nhập cuộc bênh sư phụ, thì bóng hồng thấp thoáng, rồi những tiếng loảng xoảng phát ra, cùng ánh thép lấp lánh. Mười thanh đao bay đến trước mặt Cốc Chu, cắm thành một hàng ngay thẳng. Còn mười tiểu đạo sư, thì nằm dài dưới đất thành vòng tròn quanh Thủ Huy, không biết còn sống hay chết. Mọi người nhìn lại, thì ra Thúy Thúy đã ra tay.
Miệt Hát tung người lên, y dùng một thức hổ trảo chụp Thúy Thúy. Thúy Thúy trầm người tránh khỏi, rồi trả lại bằng chiêu Hoa sơn chưởng. Muôn ngàn lần Cốc Chu không thể tin rằng Thúy Thúy dám chống lại một Tổng Đạo sư như em mình. Miệt Hát phát chiêu đỡ chưởng của Thúy Thúy. Bùng một tiếng cả hai lảo đảo bật lui, làm mọi người kinh ngạc không ít. Các tướng Mông cổ kinh ngạc vì xưa nay họ tin rằng Miệt Hát là người nhà trời, phép tắc vô cùng, mà vừa rồi, đối chưởng với giai nhân tuyệt thế này, dường như chỉ ngang tay. Còn Thủ Huy cũng ngạc nhiên vì Miệt Hát đã sử dụng võ công Đông a chính tông từ chiêu thức cho tới nội công. Chiêu vừa rồi chính là chiêu Phong ba hợp bích.
Thấy Thiết Mộc Chân không lên tiếng can gián, Thủ Huy biết rằng ông muốn mình làm tới nữa để giảm uy tín của bọn Đạo sư. Công cũng mặc cho Thúy Thúy đấu với Miệt Hát để dò xem y đã học võ công với ai ? Bản lĩnh võ công của y tới đâu ? Hai người đấu với nhau trên dưới trăm hiệp, thì Cốc Chu , chỉ tay vào mặt Thúy Thúy nói với các tướng :
- Các người thấy không ? Con nhỏ kia, dám chống lại với Thiên sứ, thì chỉ lát nữa y thị sẽ bị hộc máu miệng ra mà chết !
Nghe y nói, Thủ Huy nghĩ thầm :
- Cứ như lời tên này nói thì dường như chúng được học cả Bức mạch công của nhà mình, cho nên y mới đe dọa đánh Thúy Thúy hộc máu ! Hà, bản lĩnh tên này không tầm thường, dường như ngang với Vỵ xuyên ngũ tiên!
Nghĩ vậy công dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai Thúy Thúy :
- Thúy Thúy ! Coi chừng Miệt Hát dùng Bức mạch chưởng. Vậy Thúy Thúy hãy vận Cổ loa tâm pháp đề phòng. Nhưng đừng sử dụng, chỉ đỡ thôi. Nếu thấy tôi can thiệp, bảo Thúy Thúy ngừng tay, Thúy Thúy vờ như không tuân lệnh cứ tiếp tục giao chiến !
Nghe Thủ Huy nhắc, Thúy Thúy tỉnh ngộ, vội vận Cổ loa tâm pháp, thì cũng đúng lúc đó Miệt Hát đánh ra chiêu Phong hoa suy lạc. Y đã vận Bức mạch chưởng. Bình một tiếng, cả hai cùng lảo đảo bật lui lại.
Thủ Huy lách mình một cái, công nắm lấy tay Thúy Thúy ném nàng lên không :
- Không nên dùng võ công trước mặt Đại hãn !
Trong khi nói, công nhả mộỳt ít Hàn băng nội lực vào tay nàng. Thúy Thúy lộn người trên không hai vòng. Ở trên cao, lưng nàng uốn cong, y phục bay phất phới như tiên nga múa vũ khúc Nghê thường, đẹp không thể tưởng tượng được. Cao nhất là Thiết Mộc Chân, xuống tới bọn vệ sĩ hiện diện đều xuýt xoa. Vừa rơi xuống đất, nàng phóng một chiêu Hoa sơn chưởng vào người Miệt Hát. Y lại phát chiêu đỡ. Bùng một tiếng, rồi nhảy lài lại cười lớn :
- Con tiện tỳ kia,bao nhiêu mạch máu trong người mi vỡ hết rồi. Trong ta đếm bảy tiếng thì mi sẽ chết.
Rồi y đếm :
- Một.
Thúy Thúy cười lớn :
- Chú bé bịp bợm ơi ! Sau khi chú đếm bẩy tiếng mà chị không chết, thì chú không phải là sứ giả nhà trời. Ngược lại chú đau đớn đến chết, thì rõ ràng chú bị trời phạt.
- Hai ! Ba !
Thúy Thúy vẫn cười.
- Bốn ! Năm.
Thình lình Miệt Hát cảm thấy như có con dao đâm vào ngực, đau thấu tâm can, rồi người lạnh kinh khủng. Y cố không phát ra tiếng kêu, đếm :
- Sáu ! Bẩy ! Mi chết này...A񩠡 AÔi !
Y hét lên như con lợn bị thọc huyết. Rồi lăn lộn trên mặt đất. Thát Minh, Ngột Thai cùng phát chưởng đánh vào hai bên Thúy Thúy, vì sợ nàng giết Miệt Hát. Thấy chưởng phong đối thủ cực kỳ hùng hậu, Thúy Thúy dùng cả hai chưởng quay một vòng rồi nhảy lùi về sau hai bước. Vô tình nàng đứng trước mặt Thủ Huy. Anh em Thát Minh, Ngột Thai quyết giết cho bằng được Thúy Thúy. Cả hai cùng xê dịch theo, đẩy vào người nàng hai chưởng. Thúy Thúy nghiến răng đỡ.
Lúc đầu Thủ Huy chỉ muốn để cho Thúy Thúy làm giảm uy tín của anh em Cốc Chu. Bây giờ thấy chúng quá đê tiện, dùng hai người đánh một. Công vờ cúi xuống, dùng tay phải nắm lấy chân Thúy Thúy rồi truyền nội lực sang. Thúy Thúy đang miễn cưỡng đỡ chưởng của Thát Minh, Ngột Thai trong tuyệt vọng, bỗng thấy một luồng nội lực mạnh như bài sơn, đảo hải tràn vào người mình. Bình, bình ! Hai em của Cốc Chu bị bật tung lên, bay ra khỏi lều, nằm thẳng cẳng, hai mép ri rỉ tuôn máu ra.
Muôn Lịch vội đứng lên, sai tùy tòng đỡ ba con, đem ra khỏi lều. Mặt Cốc Chu tái đi vì giận.
Thúy Thúy chỉ theo ba em Cốc Chu :
- Đại hãn là con trời. Bởi ba Tổng Đạo sư dùng võ công trước mặt Đại hãn là hành vi cực kỳ vô lễ nên trời phạt. Chứ người con gái như tôi, đâu đủ phép tắc thắng ba Tổng Đạo sư !
Thủ Huy thấy như vậy cũng đủ bịt miệng Cốc Chu rồi, công nói với y bằng giọng ôn tồn :
- Như Tổng Đạo sư nói : Đại hãn Thiết Mộc Chân là con của Thượng đế, tôi mới khẳng định Tổng Đạo sư nằm mơ. Tại sao ? Vì Đại hãn là con của Thượng đế, mà Đại hãn không nghe thấy Thượng đế phán về việc xuất quân này, có nghĩa là Thượng đế đã sai con người giáng thế, thì chư sự do Đại hãn đưa ra mới chính là ý của Thương đế. Tục ngữ Mông cổ ta có câu : Của cha là của con, trong việc cai trị dân thì ý cha là ý con, ý con sở dĩ có là do là ý cha dạy dỗ. Ý của Đại hãn muốn xuất binh, thì chính là ý của Thượng đế.
Các em, các con của Thiết Mộc Chân, các tướng, các đệ tử của Thủ Huy vỗ tay hoan hô.
Mông cổ không có văn tự. Cha con Muôn lịch nhờ học văn tự Thổ phồn, đọc được một số sách của nước này, nên có một ít tư tưởng về thần linh, mà trở thành Đạo sư. Bây giờ y bị Thủ Huy, một bác học đa năng, thâm cứu toàn bộ tư tưởng chủ đạo tộc Việt, cùng Cửu lưu, Tam giáo, Bách gia chư tử của Trung hoa, thì cái mớ kiến thức hủ lậu của anh em Cốc Chu đấu sao lại ?
Cốc Chu cúi mặt xuống không nói được lời nào. Thủ Huy tiếp :
- Tang Côn tưởng ta bị diệt rồi, binh tướng chỉ lo hưởng thụ sa đọa, tranh giành của cải với nhau, không luyện tập, không đề phòng, lại đóng dàn ra một diện tích quá lớn. Đó là thế tất bại thứ nhất của y. Trong khi đó, ta luyện được một vạn tám nghìn Lôi kỵ. Khi đối trận, chiến đấu đơn độc thì một võ sĩ của ta chỉ có thể thắng năm hay mười binh sĩ của họ. Nhưng nếu chiến đấu thành đội ngũ, thì mười người của ta có thể thắng hai trăm địch. Một trăm của ta không phải thắng một nghìn địch, mà có thể thắng năm nghìn địch. Hiện ta đã luyện tập, mỗi Thiên Lôi kỵ của ta là một đơn vị chiến đấu độc lập, lúc cần thì tập trung thực nhanh, phân tán cũng thực nhanh, lưu động thần tốc, trang bị đặc biệt... Khi tấn công thì như sét nổ, không vướng vít gia đình, người người đều hận thù ngút trời...Có thể thắng hai vạn địch. Đó là thế tất thắng thứ nhất của ta.
Các tướng cùng vỗ tay hoan hô lời kiến giải của Thủ Huy. Mặt cha con Muôn Lịch tái đi vì giận.
Thủ Huy tiếp :
- Từ khi đánh bại ta, Tang Côn kiêu căng, coi các tộc trưởng, tướng sĩ như tôi tớ, cai trị độc đoán. Họ đều bất mãn, các tộc trưởng rút quân về lãnh thổ của họ. Nếu ta xuất quân, đánh tan chủ lực của Tang Côn, y có sai sứ gọi các tộc trưởng đem quân về cứu viện, tất họ không tuân. Đó là thế tất bại thứ nhì của Tang Côn. Ngược lại các tộc trưởng của ta, phải quy phục Tang Côn trong cái thế không quy phục không được. Đại hãn đã sai sứ liên lạc với họ. Họ hứa khi ta khởi binh, là họ sẽ đem quân đánh bọc hậu Tang Côn. Đó là thế thắng thứ nhì của ta.
Các tướng lại vỗ tay. Cốc Chu quắc mắt nhìn các tướng, tỏ vẻ bực mình khi họ tán thành ý kiến của Thủ Huy.
- Khi đánh ta, Tang Côn dùng các võ sĩ Tống để khống chế chư tướng, làm rối loạn hàng ngũ ta. Nay thì võ sĩ Tống bất mãn vì Tang Côn bỏ lời ước quy phục Tống, đánh Kim. Võ sĩ Tống tuy vẫn còn đó, nhưng họ hứa sẽ làm nội ứng cho ta. Vì vậy họ trở thành mối đe dọa cho Tang Côn, hơn là trợ thủ. Đó là cái thế tất bại thứ ba của Tang Côn. Ngược lại, vợ chồng tôi, Thúy Thúy, Tử Kim cùng đội võ sĩ Long biên đến trợ giúp Mông cổ. Khi lâm trận, chúng tôi sung vào trận địch, khống chế tướng Khắc liệt, làm tan nát hàng ngũ quân Khắc liệt. Đó là thế thắng thứ ba của ta.

Cốc Chu hừ một tiếng, im lặng. Trong khi Thiết Mộc Chân cùng chư tướng vỗ tay hoan hô.
Thiết Mộc Chân tiếp lời Thủ Huy :
- Ta ra quân lần này không phải để phục hồi Mông cổ không thôi đâu, mà phải diệt Khắc liệt. Có như vậy trong tương lai Mông cổ mới sống còn. Tôi với Trần phò mã đã có kế hoạch bí mật diệt Khắc liệt chỉ trong vòng một tháng. Nhưng sợ địch biết, chúng tôi giấu kín. Đợi khi khởi sự tấn công, sẽ mới công bố.
Cốc Chu hỏi Thiết Mộc Chân :
- Đại hãn nhất định xuất quân ư ? Nhất định Đại hãn làm trái với ý trời ư ?
Thiết Mộc Chân im lặng tỏ vẻ bực tức thì em là Cát Xa nổi cáu :
- Ý của Đại hãn là ý trời. Ý trời muốn cho ta diệt Khắc liệt lúc này, nên Đại hãn mới ra quân. Đạo sư nói sai ý trời rồi.
Cốc Chu đập tay xuống bàn :
- Ta truyền cho người phải im lặng. Người chống lại lời ta là chống với trời.
Nhìn các tướng, các Khả hãn, các Hãn, các nhà quý tộc đều cúi đầu cung cung, kính kính tỏ ý tuân phục Cốc Chu. Thủ Huy dùng Lăng không truyền ngữ nói vào tai Tốc Bất Đài mấy câu. Tốc Bất Đài lên tiếng :
- Thưa Đại hãn. Đại hãn là con của Thượng đế Mặt trời thì ý của Đại hãn phải hơn Tổng Đạo sư sứ giả Cốc Chu chứ? Vì con bao giờ cũng hiểu ý cha hơn là sứ giả! Không biết bao giờ thì ta khởi sự ?
- Hôm nay là ngày 20 tháng 8, ta sẽ tấn công vào đêm mùng 1 tháng 9 là đêm trời tối.
Muôn Lịch, cùng các con đỏ mặt đứng dậy, bỏ ra khỏi lều. Cốc Chu còn cố nói vọng lại :
- Đại hãn không tuân lệnh Thượng đế Mặt trời, xuất quân trong lúc này sẽ bị đại bại.
Chiều hôm đó, Thiết Mộc Chân, Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài âm thầm tới lều của Thủ Huy Đoan Nghi. Phân ngôi chủ khách xong, Thủ Huy hỏi :
- Phải chăng Đại hãn cùng các vị đến đây vì ba người em của Cốc Chu bị trúng Hàn băng nội lực ?
Tốc Bất Đài chỉ Thúy Thúy :
- Tôi có thắc mắc xin hỏi phò mã. Mấy hôm trước, trong khi luận võ với tiểu cô nương đây. Người nói, chỉ có phò mã, công chúa là có Hàn băng nội lực thôi. Thế mà sáng nay, tôi không thấy phò mã ra tay, mà sao Miệt Hát lại bị trúng loại độc chưởng này ?
Thủ Huy giảng giải bí mật cho mọi người nghe.
Bác Nhĩ Truật hỏi :
- Nếu như phò mã không trị cho chúng, liệu chúng có chết không ?
- Chết ! Chúng sẽ chết sau 49 ngày. Nhưng tôi không cứu y vội, vì tôi muốn tìm hiểu xem, ai là người đã dạy võ công Đông a nhà tôi cho chúng ? Luật lệ phái Đông a nhà tôi rất nghiêm, cấm không được dạy võ công cho người ngoài môn phái. Vậy ai đã làm cái công việc này ? Đó là một vấn đề. Vấn đề thứ nhì, tôi cũng phải giám sát, không thể để Thúy Thúy giết chúng, vì môn quy nhà tôi cũng cấm không được hại người cùng phái, không để người ngoài giết đồng môn trước mặt mình. Tôi sợ , là sợ anh em Cốc Chu là để tử một cao nhân nào trong phái Đông a, mà tôi để y chết vì Hàn băng nội lực của mình, thì dù ông tôi có là chưởng môn, tôi cũng bị xử tử hình để đền mạng cho chúng.
Bác Nhĩ Truật cũng nghi ngại :
- Từ trước đến giờ, chúng tôi chỉ biết các con của Muôn Lịch có võ công cao, mà không bao giờ thấy chúng sử dụng. Hôm nay nhờ Thúy Thúy, chúng tôi mới biết y đã học một cao nhân nào của phái Đông a.
- Tôi đoán, với bản lĩnh của chúng, chúng có thể đấu ngang tay với Tốc Bất Đài, Bác Nhĩ Truật thì ít ra chúng đã luyện tập trên mười năm. Tôi nhả nội lực vào bàn tay Thúy Thúy, rồi Thúy Thúy truyền vào người chúng. Như vậy bắt buộc chúng phải đi tìm sư phụ để nhờ người đẩy Hàn băng độc ra khỏi người chúng. Bây giờ Đại hãn cứ sai người âm thầm theo dõi chúng thì tìm ra tông tích người này.
Thế nhưng, trong suốt bẩy ngày, thân binh của Thiết Mộc Chân hết sức theo dõi, cũng không thấy anh em Cốc Chu tiếp xúc với ai khác lạ. Mỗi chiều, ba tên Thát Minh, Miệt Hát, Ngột Thai bị lên cơn, người rét run trong vòng một giờ thì hết.


Bẩy ngày sau.
Trong căn lều da cực lớn của Thiết Mộc Chân. Các tướng, các tộc trưởng, bộ tham mưu của Mông cổ đều tềợ tựu. Tổng cộng có đến hơn trăm người, mà không một tiếng động.
Đạo sư Cốc Chu lên tiếng trước :
- Các người không tuân theo ý trời, nhất định xuất quân ư ?
Cát Xa cáu :
- Đạo sư nói sai ý trời. Chúng ta cứ xuất quân. Nếu ta bại thì tôi xin nộp đầu. Còn ta thắng, thì đúng là Đạo sư nói sai ý trời. Chúng tôi xin chờ lệnh Đại hãn.
Thiết Mộc Chân đứng dậy dõng dạc nói :
- Chúng ta uống hận ẩn thân bấy lâu chỉ để chờ phục hồi cố thổ. Hôm nay chúng ta xuất quân, một là chiếm lại đất cũ, hai là trả hận. Từ trước đến giờ tôi quen lối chỉ huy dàn trận, chứ chưa bao giờ dùng tới lối đánh kỳ mưu. Vì vậy, trận này, tôi đã mời những vị khách mà trời đem đến cho ta tổng chỉ huy.
Nói rồi ông trịnh trọng chỉ vào Thủ Huy :
- Xin kính mời Trần phò mã.
Thủ Huy đứng dậy đưa mắt nhìn cửu tọa một lượt, rồi nói :
- Chúng tôi với quý vị là chỗ thâm giao hơn mười năm trước. Khi vợ chồng tôi cáo quan về điền dã, thì Đại hãn nhớ tình cố cựu, mời tôi lên đây săn bắn nhân mùa Xuân hoa nở. Không ngờ khi tôi lên đây thì là lúc mà Mông cổ bị cái vạ quốc phá. Người Việt tôi có câu : Cùng đi trên chuyến đò cũng là nghĩa. Huống hồ giữa Đại hãn với chúng tôi. Giữa chúng tôi với các vị có cái tình gắn bó cứu mạng nhau bấy lâu. Hôm nay, được Đại hãn trao cho cái vinh dự này. Tôi xin nhận lĩnh.
Công ngừng lại chờ cho các tướng vỗ tay dứt, rồi tiếp :
- Khắc liệt hiện đóng quân làm ba khu vực chính. Khu thứ nhất, gần chúng ta, là lãnh thổ cũ của Thát đát, có năm vạn quân, nhưng chỉ có hai vạn ngựa, do Trác Mộc Hợp cùng Đa Di Đài chỉ huy. Đây là quân ô hợp của các tộc lẻ tẻ. Cách chúng ta hơn năm trăm dặm, là lãnh thổ của Diệt xích ngột do Tang Côn chỉ huy với hơn năm vạn quân. Đây mới là lực lượng chính của Vương hãn. Tại Long lý hà, lãnh thổ của Mông cổ chúng ta, do chính Vương hãn chỉ huy với năm vạn quân. Nhưng chỉ có hai vạn tập trung, còn lại thì đóng rải rác. Ta cũng chia quân làm ba, tiến đánh cùng một lúc.
Các tướng cùng im lặng. Thủ Huy hướng Bác Nhĩ Truật :
- Đạo thứ nhất lĩnh nhiệm vụ cực quan trọng. Bất cứ giá nào cũng không được thất bại. Bởi đạo thứ nhất thất bại, thì đạo thứ nhì, thứ ba sẽ thất bại theo. Đạo này do ba tướng tài ba bậc nhất của ta là Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Triết Biệt chỉ huy. Phụ cho ba đại tướng có hai vương tử Truật Xích, Oa Khoát Đài và Trần Tử Kim. Lực lượng gồm có ba Thiên phu Lôi kỵ, ba Thiên phu Thân binh trực thuộc, và sáu Thiên phu chính binh.
Sáu tướng đứng dậy chờ lệnh.
- Tổng chỉ huy đạo này là Bác Nhĩ Truật.
Bác Nhĩ Truật hỏi :
- Chúng tôi được trao nhiệm vụ gì ?Xin phò mã ban lệnh !
- Vương hãn cũng như Tang Côn tiến đánh chúng ta, bao nhiêu quân tinh nhuệ mang đi hết. Họ chỉ để lại trên lãnh thổ họ những đội quân của các tộc trưởng. Nếu như ta đi vòng xuống Nam, đánh úp kinh đô của Khắc liệt rồi khống chế vợ con của họ...thì Vương hãn, Tang Côn mất đường về đã đành, mà tướng sĩ, quý tộc, tộc trưởng của họ hiện đang theo trong quân cũng phải đầu hàng.
Từ Thiết Mộc Chân cho tới chư tướng đều tưởng rằng khu vực quan trọng nhất là tổng hành dinh của Tang Côn. Họ tuyệt không ngờ, không nghĩ tới việc đánh kinh đô Khắc liệt.
Thủ Huy tiếp :
- Chiếm kinh đô Khắc liệt rồi, thì các vị hết sức bảo vệ gia đình tài sản của các tướng sĩ, tộc trưởng. Sau đó ba chánh tướng Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, Triết Biệt đem theo đội võ sĩ Long biên tiến về vùng Hàn thủy. Còn kinh đô Khắc liệt thì trao cho vương tử Truật Xích cùng các phó tướng trấn đóng, bình định. Sông Hàn thủy, nằm giữa đường Khắc liệt đi kinh đô Hoa lâm của Mông cổ. Các vị dàn quân ra tại đây chờ bại quân Vương Hãn rút về, thì chặn đánh. Lúc đi, các vị lựa chọn trong vợ con các tướng, tộc trưởng Khắc liệt, mỗi gia đình một người đem theo. Khi thấy quân Vương hãn dàn ra, thì các vị thả đám người này về với chồng, cha họ. Họ sẽ thuật cho bi

egeo 06-19-2004 04:34 PM



C31:AI HAY VĨNH QUYẾT LÀ NGÀY CHIA LY
(ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH)

- Bắn!
Mũi tên xé gió hướng vào con thỏ đang chạy phía trước. Bị trúng tên, con thỏ lật ngược, bốn chân hướng lên trời, dãy loạn xạ.
- Cháu tôi bắn giỏi quá!
Thúy Thúy cất tiếng khen: Thôi đủ rồi. Hôm nay Thủ Độ của cô bắn được hai con thỏ, một con ngỗng trời, giỏi quá! Giỏi hơn con chó Quít nữa.
Thủ Độ nhảy xuống ngựa, cầm lấy con thỏ, bỏ vào cái túi bên hông, rồi nó tung mình lên cao, tà tà đạp xuống lưng con tuấn mã mầu đen tuyền. Nó gò cương cho ngựa đi song song song với Thúy Thúy, rồi hỏi:
- Cô ơi! Ở quê mình có thỏ, có ngỗng không?
- Có chứ! Thỏ ở quê mình không nhiều bằng ở đây, nhưng ngỗng thì nhiều hơn.
- Thế quê mình có beo không?
- Beo ở quê mình nhiều hơn ở đây.
Nó chỉ vào cánh đồng đầy hoa hỏi:
- Thế quê mình có nhiều hoa không?
- Nhiều, nhiều lắm. Quê mình có nhiều trái ngọt, mà ở đây không có. Những trái thơm ngọt như mít, như dứa thì ở đây chả có trái nào có thể so sánh. Kỳ này về quê, con tha hồ mà ăn.
- Bố nói, về quê con sẽ được gặp ông bà nội, gặp bác Lý, gặp cô Kim Ngân, gặp anh Thừa, anh Khánh. Mẹ bảo, về quê con được gặp bà ngoại. Con có ba người cậu. Một người là vua, còn hai người là vương. Con sẽ được gặp nhiều em, con của các cậu. Chúng nó với con tha hồ chơi đùa. Cậu sẽ phong tước cho con. Ông nội sẽ dậy võ. Võ công con sẽ cao bằng bố... Tại sao cô không về với con?
- Vì cô không thể về được! Cô mà về thì sẽ bị giết.
Đến đó, bốn con ngựa cùng phi như bay tới. Trên lưng ngựa là bọn thiếu niên ngang tuổi, bạn thân của Thủ Độ. Đây là đám con cháu của Thành cát Tư hãn với con của các Đại hãn, Thân vương. Chúng rủ Thủ Độ đi săn lần cuối, trước khi lên đường về Đại Việt.
Trong đám trẻ đó, Thành cát Tư hãn đã sắp xếp thứ tự như sau: Đứng đầu là con của Thái tử Oa Khoát Đài tên Hốt Tất Liệt. Thủ Độ đứng thứ nhì. Thứ ba là Ngột Lương Hợp Thai, con của Tốc Bất Đài. Thứ tư đến Bạt Đô, con của Bác Nhĩ Truật. Cuối cùng là A lý Hải nha, con của quân sư A lý Hải. Ông gọi năm trẻ bằng mỹ danh Thảo nguyên ngũ điêu (Năm con chim điêu bằng thép của Thảo nguyên).
Ngột Lương Hợp Thai dơ lên một con trĩ:
- Này anh em! Tôi bắn được con trĩ, lát nữa chúng ta nướng lên, tiễn Thủ Độ về nước.
Hốt Tất Liệt cũng đưa ra một con chồn hương:
- Này Thủ Độ coi! Hơn năm nay, loại chồn hương tưởng tuyệt giống, không ngờ ta bắn được một con. Trước đây ông nội ta bắn được con chồn hương, ai cũng bảo đó là đềm người sẽ lập ra một nước hùng mạnh. Sau quả đúng như thế. Bây giờ chúng ta tiễn Thủ Độ về, mà bắn được chồn hương này. Biết đâu Thủ Độ về Đại Việt không lập ra một nước lớn.
Năm trẻ cười nói, đầy hỉ khí. Chúng rong ngựa, vừa đi, vừa đùa với nhau.
- Anh Thủ Độ này.
Ngột lương Hợp thai chỉ Thúy Thúy: Nghe sư phụ nói, ở Đại Việt có nhiều hoa thơm, trái ngọt, lại có nhiều sông hồ. Dưới sông tôm cá nhúc nhúc. Trên rừng có không biết bao nhiêu loại thú mà kể. : Hay là anh nói với công chúa, công chúa mang cả năm đứa chúng mình về Đại Việt chơi đi.
A lý Hải Nha reo lên:
- Phải đấy.
Thúy Thúy can thiệp:
- Các con có biết đường từ đây về Đại Việt xa diệu vợi không? Vừa đi vừa về cũng mất ba tháng. Đời nào Thành cát Tư hãn cho các con đi nhỉ!
Đám trẻ xịu mặt xuống. Bạt Đô quay sang Thủ Độ:
- Như vậy anh hai đi bao lâu thì về?
- Mẹ nói, ít ra là ba năm!
- Ái chà!
Nhìn lên trời, thấy vầng kim ô đã ngả về Tây, Thúy Thúy nhắc bọn trẻ:
- Ta về thôi! Dễ thường gần Ngọ rồi.
Đám trẻ ngoan ngoãn:
- Tuân lệnh sư mẫu.
Thủ Độ ra roi quát lên một tiếng:
- Mau!
Năm con ngựa vọt lên như tên bắn. Thúy Thúy vội phi ngựa theo.
Nàng ngửa mặt nhìn về chân trời xa xa, bất giác buông một tiếng thở dài!

Cho đến hôm nay Thúy Thúy theo Thủ Huy Đoan Nghi lên vùng Thảo nguyên đã sáu năm, Trần Thủ Độ đã sáu tuổi. Sau khi Thủ Huy giúp Thiết Mộc Chân thắng Khắc liệt, không những khôi phục lại lãnh thổ, mà còn chiếm luôn lãnh thổ của Vương hãn, nước Mông cổ trở thành rộng lớn bao la, dân chúng đông đúc hơn ba nước láng giềng là Nải man, Thổ phồn, Tây liêu, chỉ thua có Tây hạ với Đại kim mà thôi.
Thiết Mộc Chân ngỏ ý muốn dựng cho Thủ Huy một dinh thự theo ý muốn của công. Công nhờ Thúy Thúy vẽ lại điện Uy viễn là nơi đặt Khu mật viện, để làm nơi nghị sự. Lại vẽ cung Long thụy là nơi nhà vua ngủ, để làm chỗ ở. Cả hai dinh thự xây bằng đá, mái cong, lợp ngói xanh, xung quanh trồng kỳ hoa dị thảo. Thiết Mộc Chân cấp cho Thủ Huy đủ mọi tiện nghi như một Đại hãn. Dinh thự của Thủ Huy Đoan Nghi nằm cạnh dinh thự của Tử Kim, Long Tùng, Đoan Thanh.
Trần Tử Kim được phong cấp đại tướng, ngang hàng với bọn Bác Nhĩ Truật, Tốc Bất Đài, phụ trách toàn bộ việc luyện quân của Mông cổ. Đoan Nghi gả Đoan Thanh cho Tử Kim. Lễ cưới lớn chưa từng có.
Một trong những điều khó khăn của Thủ Huy là Thúy Thúy. Ngay từ hôm gặp nhau đầu tiên, Long Tùng đã say mê nàng đến điên đảo thần hồn. Thúy Thúy biết thế, nhưng nàng dửng dưng. Một lần Đoan Nghi nói thẳng với nàng. Nàng đáp :
- Tấm lòng của thế tử Long Tùng tiểu tỳ đã biết từ lâu. Tiểu tỳ đâu phải gỗ đá mà không cảm động? Công chúa lại có lòng tốt, xây dựng lại cuộc đời cho tiểu tỳ. Tiểu tỳ thâm cảm vô cùng. Nhưng...nhưng... trong tâm tiểu tỳ không còn chỗ nào để nhận đóa hoa hải đường của thế tử cả.
Theo đề nghị của Thủ Huy, Thành cát Tư hãn phong cho Thúy Thúy làm Thảo nguyên tiên tử. Nàng được kính trọng bằng một đại tướng quân. Hoàng hậu Bật Tê nhờ nàng dạy chữ, luyện võ cho con cháu các Đại hãn, Thân vương.
Các võ sĩ thuộc đội Long biên được phong cấp Thiên phu trưởng. Mỗi người đều được cấp quân hầu, nô lệ. Trong cuộc đánh chiếm Khắc liệt, các chiến lợi phẩm thu được không biết bao nhiêu mà kể. Trong số đó có trên năm nghìn thiếu nữ xinh tươi. Thiết Mộc Chân truyền lệnh tặng cho các võ sĩ Long biên, mỗi người mười mĩ nữ, tùy ý lựa chọn. Song Đoan Nghi chỉ cho mỗi người chọn một mĩ nữ làm vợ mà thôi. Người nào cũng có nô lệ, tỳ nữ, lều trại sang trọng. Họ được chia thành mười đội, mỗi đội năm chục người, gửi đến các bộ tộc, huấn luyện binh tướng cho các Đại hãn.

Sau khi bị Khắc liệt đánh phá, khi phục hồi lãnh thổ, Thiết Mộc Chân cùng các con, em, các tướng phải làm việc ngày đêm để kiến thiết lại, lại cũng phải lo tổ chức cai trị Khắc liệt. Trước chiến thắng, trước thành công, nhưng các Đại Hãn, các tướng vẫn thấy Thiết Mộc Chân thường đăm chiêu, lo lắng, mất ngủ. Hơn nữa hay gắt gỏng. Ông thường đóng cửa, ngồi một mình, đôi khi nói lảm nhảm. Ngự y cắt thuốc cho ông uống, ông ừ hự rồi đổ thuốc đi. Chín đại tướng, ba người em, bốn người con của ông tìm đến dinh Thủ Huy Đoan Nghi để vấn kế. Phân ngôi chủ khách xong, Mộc Hoa Lê lên tiếng:
- Thành cát Tư hãn thình lình lâm bệnh. Tôi nghe sư phụ nói rằng, cách đây gần trăm năm, Thánh tăng Minh Không có chế ra một loại thần dược mang tên Kiên não định thần hoàn hay Định tâm hoàn, Chúng tôi xin phò mã sai chim ưng về Đại Việt xin ít viên để trị cho người.
Thủ Huy mỉm cười:
- Bệnh của Thành cát Tư hãn tôi e Định tâm hoàn cũng vô phương.
Cát Xa kinh hãi:
- Thưa phò mã, không lẽ cứ để anh tôi trong tình trạng này ư?
- Bệnh nao cũng có căn. Nếu ta trừ đước cái căn của nó, thì khỏi ngay. Hồi ở Đại Việt tôi cũng học qua y lý. Tôi xin trị cho người. Tuy nhiên, dược liệu hơi khó tìm đấy. Nếu như mọi người trong chúng ta cùng cố gắng thì khó gì.
Tốc Bất Đài chắp tay:
- Đại huynh, dù khó khăn đến mấy, chúng tôi cũng xin cố gắng.
- Vậy thì được. Chúng ta hãy đến dinh của người.

Nghe chồng nói, Đoan Nghi ngẩn người ra, nàng dùng Lăng không truyền ngữ hỏi chồng:
- Từ hồi nào đến giờ, em có nghe nói anh học y đâu, mà đòi trị bệnh? Anh đừng có đùa như vậy!
- Em yên tâm.
Thủ Huy Đoan Nghi thay y phục, cùng mọi người đến căn lều vĩ đại của Thành cát Tư hãn. Viên trưởng toán cận vệ ngăn lại:
- Thành cát Tư hãn có lệnh, tuyệt đối không cho ai vào. Người không được khỏe.
Cát Xa ra lệnh:
- Người vào báo rằng có phò mã, công chúa đến thăm.
Tên đội trưởng ngần ngừ một lát rồi trở vào. Lát sau y ra, mở rộng cửa doanh, mời mọi người nhập đại doanh. Bên trong, Thành cát Tư hãn đứng chờ khách. Quanh ông, ngoài chánh cung Bật Tê còn có mười hai sủng phi chầu chực hầu hạ. Lại có cả Tổng Đạo sư Cốc Chu với các em đang ngồi trước bàn thờ Thượng đế Mặt trời, để xin ngài chữa bệnh cho Tư hãn.
Tư hãn nói bằng âm thanh trầm trầm, dáng mệt mỏi cùng cực:
- Phò mã, công chúa! Tôi không được khỏe, đâu dám phiền các vị phải giá lâm.
Ông nói với các tướng:
- Anh em đừng quá lo nghĩ cho sức khỏe của tôi. Nào mời các vị ngồi.
Bác Nhĩ Truật đứng dậy:
- Thành cát Tư hãn khó ở khiến chúng tôi không yên. May mắn thay, Trần huynh đệ nói rằng người biết rõ căn bệnh huynh trưởng, nên chúng tôi mới thỉnh đại giá người tới đây.
Tổng Đạo sư Cốc Chu gạt ngang:
- Rõ ràng Thượng đế Mặt trời bảo rằng Tư hãn phải bị bệnh trong một năm. Nay mới được bẩy tháng, thì ai mà chữa được? Không lẽ Trần Thủ Huy lại hơn cả Thượng đế?
Cát Xa nổi cáu:
- Tư hãn lâm bệnh hơn nửa năm qua. Lúc đầu Đạo sư nói rằng đã xin Thượng đế trị cho người chỉ trong vòng mười ngày thì khỏi. Rồi sau lại nói một tháng! Bây giờ lại nói một năm! Rõ ràng Đạo sư nói dối.
Cốc Chu quát:
- Người không được hỗn.
Cát Xa cũng quát lại:
- Tôi nhắc lại, Đạo sư nói láo chứ không phải nói dối. Trong trận đánh Vương hãn, Tang Côn, Đạo sư luôn miệng nói rằng Thượng đế truyền án binh bất động, ra quân tất bại. Thế sao chúng tôi ra quân lại thắng???
Tư hãn bão Cát Xa, Cốc Chu:
- Hãy ngừng tranh luận! Để phò mã thử nói căn bệnh của tôi xem sao?
Ông hỏi Thủ Huy:
- Phò mã đã biết cái căn bệnh của tôi. Tôi xin nghe cái căn mà phò mã cho rằng nó tạo thành bệnh của tôi.
Thủ Huy đưa mắt nhìn các tướng, các em, các con của Thiết Mộc Chân rồi nói:
- Bệnh của Tư hãn có ba cái căn. Căn thứ nhất gọi là Tâm hư. Tâm hư đây chẳng qua do lo nghĩ quá độ mà sinh ra. Y kinh nói rằng: Tâm tàng thần, tâm chủ thần chí. Khi tâm hư, thì thần không định, chí không kiên, do vậy mới sinh ra mất ngủ, người mề mệt.
Thành Cát Tư hãn ngồi nhỏm dậy:
- Phò mã đã nói đúng căn bệnh của tôi. Vậy thì phải dùng thuốc gì mà trị?
- Muốn trị căn bệnh của Tư hãn, phải dụng lối Dĩ loại bổ loại. Nghĩa là muốn bổ tim thì phải ăn tim. Nếu như người thường bị bệnh thì chỉ cần ăn tim ngựa, tim heo, tim cừu, tim trâu và tim bò là đủ. Nhưng Tư hãn là con nhà trời thì dùng tim thú trị sao cho khỏi? Phàm muốn cứu mạng của một người mệnh lớn như Tư hãn đây, thì cần tới năm trái tim của năm người làm vị thuốc chính.
- Năm người? Vậy thì đâu có gì khó!
Cát Xa nói: Ta bắt năm tên nô lệ, giết đi lấy tim làm thuốc.
- Khó chứ không dễ đâu. Người thế mạng cho Tư hãn gồm năm loại khác nhau. Tim người thường thì không cứu nổi mệnh Tư hãn được.
Hoàng hậu Bật Tê hỏi:
- Thưa phò mã, thế phò mã cần tim của loại người nào?
- Người thứ nhất, là một phi tần, mà Tư hãn sủng ái.
Mọi người đưa mắt nhìn mười hai sủng phi của Tư hãn. Các sủng phi này đều là công chúa, con các Đại hãn của những tiểu quốc trực thuộc Mông cổ. Tất cả các nàng đều cúi gầm mặt xuống. Trong căn lều có đến hơn trăm người mà không một tiếng động.
Thành cát Tư hãn hỏi:
- Có nàng nào chịu cho ta trái tim để trị bệnh không?
Các phi tần đều cúi gầm mặt xuống. Chánh cung Bật Tê liếc con mắt lạnh lùng nhìn các sủng phi một lượt rồi nói:
- Thưa phò mã, không biết trái tim của tôi có dùng được không?
- Thưa nương nương được chứ!
- Tôi xin tình nguyện chết cho Tư hãn sống. Còn bốn trái tim nữa là của những loại nào?
- Loại thứ nhì thì phải là một đạo sư. Mà là một đạo sư chưa từng phạm giới. Không biết trong các Đạo sư đây có đạo sư nào chịu hy sinh cho Tư hãn sống không?
Các Đạo sư hiện diện đều cúi gầm mặt xuống, không ai dám ngửa mặt lên. Thủ Huy thở dài:
- Nếu như không có vị nào tình nguyện, thì chúng ta cho rút thăm.
Bốn anh em Cốc Chu cùng giẫy nẩy lên:
- Trái tim chúng tôi dùng e vô ích, vì...vì... chúng tôi đã ngủ với đàn bà, không phải ngủ một lần, mà nhiều lần. Không phải một người mà nhiều người.
Cát Xa cười nhạt:
- Hừ! Cháy nhà ra mặt chuột. Thì ra các người phạm giới từ lâu!
Thủ Huy nói với Cốc Chu:
- Không hề chi! Nếu như các vị đã phạm giới thì phải dùng hai trái thay cho một trái. Lát nữa đây chúng ta sẽ cho các vị rút thăm. Hai đạo sư nào trúng, thì tôi sẽ mổ ngực lấy trái tim ra làm thuốc!
Tốc Bất Đài hỏi:
- Thế loại người thứ ba là loại nào?
- Loại này phải là con của Tư hãn. Không biết trong bốn vị vương tử đây, vị nào chịu dâng trái tim để cứu phụ hoàng?
Trong khi Truật Xích, Sát Hợp Đài, Đà Lôi cúi mặt xuống thì Oa Khoát Đài đứng dậy:
- Thưa sư phụ, đệ tử nguyện dâng trái tim cứu phụ hoàng.
- Tốt lắm. Bây giờ tới loại thứ tư. Loại này phải là một trong các đại tướng thân thiết của Tư hãn. Không biết trong chín vị đây, vị nào tình nguyện?
Cả chín đại tướng cùng lên tiếng:
- Tôi! Tôi tình nguyện.
- Hay lắm! Lát nữa tôi sẽ cho rút thăm, xem vị nào sẽ được cái hân hạnh cứu sống Tư hãn. Bây giờ tới loại thứ năm. Loại này là một trong các em của Tư hãn!
Biên Gô Đài, Cát Xa, Tê Mô Gu cùng lên tiếng:
- Tôi! Tôi xin dâng trái tim cứu anh tôi.
- Tốt lắm. Nào bây giờ chúng ta cho các Đạo sư rút thăm trước.
Nhưng bốn anh em Cốc Chu nhân lúc mọi người không để ý, đã chuồn mất từ bao giờ.
Có tiếng cãi vã ngoài viên môn. Cát Xa đưa mắt cho một vệ sĩ. Tên vệ sĩ chạy ra một lát rồi vào cung tay:
- Thưa hoàng đệ. Tiểu Đạo sư Cô Tô Cô đòi vào yết kiến Trần phò mã, mà viên đội trưởng không cho vào, rồi xẩy ra cuộc cãi vã.
Thủ Huy ra lệnh:
- Người dẫn Cô Tô Cô vào đây.
Cô Tô Cô vào, quỳ gối trước Thủ Huy:
- Sư phụ! Tất cả các Tổng Đạo sư đều từ chối không chịu dâng trái tim cứu Tư hãn. Đệ tử tự biết thân phận nhỏ bé, nhưng giữ giới cẩn thận. Đệ tử đi tu từ năm sáu tuổi, đến nay trải qua 14 năm, đệ tử nguyện dâng trái tim cứu Tư hãn. Mong sư phụ nhận cho.
- Được! Sư phụ nhận sự hy sinh của con.
Thủ Huy đứng dậy nói với Cát Xa:
- Xin hoàng đệ giữ lại những ai tình nguyện dâng trái tim cho Tư hãn trong doanh mà thôi. Còn tất cả phải ra ngoài.
Thế là trong doanh còn lại chánh phi Bật Tê, vương tử Oa Khoát Đài, ba hoàng đệ, chín đại tướng, và Cô Tô Cô. Thủ Huy nói với Tư Hãn:
- Một vị Vạn thế sư biểu là Khổng tử nói rằng: Khi nhà có sự mới biết con hiếu. Khi nước có biến mới biết tôi trung. Làm gì có việc dùng tim người chữa bệnh? Chẳng qua là tôi bịa ra, để Tư hãn biết ai trung, ai hiếu, ai để mà thôi. Tôi biết, Tư hãn đang thành công, nhưng trước một rừng người, ai cũng tự xưng là người trung thành nhất, thành ra Tư hãn phân vân, nghi ngờ. Do vậy tôi mới nặn ra việc dùng tim trị bệnh, để giúp Tư hãn biết người mà thôi. Này! Thưa Tư hãn, chỉ mấy hôm nữa, Tư hãn phải quyết định chọn ai làm Hoàng hậu, ai làm Thái tử, ai được phong Thân vương. Qua việc này Tư hãn có thể biết ai trung, ai nịnh mà quyết định đãi ngộ.
Thiết Mộc Chân tươi hẳn nét mặt lên:
- Nhờ phò mã, mà tôi biết ai là người thực tình với mình.
Ông nói với các em, các tướng:
- Từ trước đến nay, ta biết giữa các em, các tướng có sự bất hòa với các Đạo sư. Ta phân vân không biết ai phải, ai trái. Bây giờ thì rõ ràng như ban ngày rằng các em, các tướng hết lòng với ta. Bọn Đạo sư chuyên bịp bợm. Này Bật Tê! Này chư tướng! Này các em! Này Oa Khoát Đài! Cô Tô Cô! Kể từ nay, chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu.

Ông nắm tay bà Bật Tê:
- Hậu là người mà cha ta chọn cho ta. Từ nay, tất cả các phi tần, đều phải dưới quyền cai quản của hậu.
Ông chỉ vào Oa Khoát Đài:
- Mẹ người có với ta bốn con trai, một con gái. Các phi cho ta mười tám con trai, hai mươi con gái. Qua việc này, ta mới biết con là đứa con có hiếu. Sự nghiệp vĩ đại này, sau ta sẽ trao cho con.
Ông vẫy tay gọi Cô Tô Cô:
- Con là đứa trẻ mồ côi, ta đem về nuôi. Con xin đi tu, rồi trở thành Tiểu Đạo sư. Nhờ phò mã, mà ta biết các Tổng Đạo sư toàn một phường giả dối. Hôm trước, sau trận đánh Khắc liệt, mới nảy ra vụ anh em Cốc Chu âm thầm học võ công với tên ma đầu Mao Khiêm, mưu lập nó làm Đại hãn toàn Thảo nguyên, và anh em chúng muốn làm Đại hãn Thát đát, Miệt nhi, Diệt xích ngột. Vì chúng là Đạo sư, ta không có quyền xử tội chúng. Nên ta phải nhân vụ này, xin hội đồng quý tộc tước quyền xử án của các Đạo sư. Ta phân vân không biết cử ai thay ta giữ việc xét xử. Bây giờ ta cử người. Người hãy ghi chép những luật lệ của Mông cổ thành từng loại, từng chương, từng mục, rồi thiết lập cơ chế xét xử cho công bằng.
Sau khi Tư hãn ngừng nói, ai cũng nhận ra rằng mới đây khi họ vào lều, thì cử chỉ của Thiết Mộc Chân chậm chạp, đôi mắt lờ đờ, tiếng nói rời rạc. Thế mà chỉ qua việc Thủ Huy đòi lấy năm quả tim trị bệnh, mà tình trạng tâm thần ông thay đổi rất nhanh. Tiếng nói của ông sang sảng, hùng hồn, gẫy gọn, da mặt trở thành hồng hào, ánh mắt chiếu ra sáng ngời, chứng tỏ thần thái linh mẫn,
Khi thấy Thủ Huy nhận lời chữa bệnh cho Thiết Mộc Chân, Đoan Nghi cho rằng chồng đã làm công việc ngoài tầm tay. Rồi Thủ Huy còn bầy ra việc lấy năm trái tim... nàng càng lo nghĩ. Bây giờ nàng mới biết Thủ Huy hiểu rõ trong lòng Thiết Mộc Chân có những ưu tư, chỉ cần giải cái ưu tư là bệnh tự khỏi. Cái ưu tư thứ nhất, là ông phải cắt đất phong thân vương cho các Tổng Đạo sư vốn có uy tín với đa số quần chúng; hay cho các em, các tướng? Ông lại càng không biết trong năm loại người thân: Phi tần, huynh đệ, con cái, tướng sĩ, Đạo sư...giới nào, người nào trung thành với ông? Trong các con, ông phải đặt người nào vào ngôi trừ quân, để khi ông qua đời còn thay thế ông. Vì những lý do đó, ông sinh ra chứng ưu tư, uất kết. Thủ Huy hiểu thấu tâm tư ông, công bầy ra việc lấy tim trị bệnh, giúp Thiết Mộc Chân hiểu các bà vợ, hiểu các em, hiểu các con, hiểu các tướng và nhất là biết rõ sự thực về các Đạo sư, hằng vỗ ngực trung thành với ông.
Thiết Mộc Chân là người thông minh tuyệt :Dnh. Chỉ qua việc dùng năm quả tim trị căn, ông biết rằng Thủ Huy đã hiểu rõ tâm can ông. Ông hỏi:
- Như phò mã nói, bệnh của tôi có ba cái căn. Căn thứ nhất, phò mã trị xong rồi. Vậy còn căn thứ hai, thứ ba?
Thủ Huy hỏi cử tọa:
- Các vị tìm ra chưa?
-!!!???!!!
- Căn thứ nhì là Tâm ưu, khiến Tư hãn tư lự lo lắng, phập phồng. Y kinh nói: Tư thương tỳ. Phàm tư lự quá, làm tỳ bị tổn thương. Tỳ bị tổn thương thì ăn vào đầy ứ, bụng chướng, đầu nặng, vùng ngực căng trướng.
Xích Lão Ôn hỏi:
- Xin phò mã giảng rõ ràng hơn.
- Hiện Vương hãn, Tang Côn, Trác Mộc Hợp vẫn còn sống, đang lưu vong ở Nải man, Thổ phồn. Họ nhờ mấy nước này giúp đỡ để trở về chiếm lại lãnh thổ. Cái căn này thực nguy hại vô cùng, nhưng Tư hãn không biết giải quyết sao cho ổn, nên ngày đêm lo lắng, làm tổn thương tỷ vị, thành căn Tâm ưu.
- Thực là phò mã đọc được tim gan tôi. Thế còn căn thứ ba?
- Căn thứ ba là Tâm phiền.
-???
- Căn thứ ba, là mấy nghìn tộc, mấy trăm bộ tộc thuộc Khắc liệt, tuy đầu hàng quy phục, nhưng chúng vẫn chân trong, chân ngoài, chờ Vương hãn, Tang Côn trở về. Tư hãn nghĩ không ra phương thức trấn an, lôi kéo được các Đại hãn, Khả hãn, Hãn trung thành với mình! Hơn nữa, Mông cổ đang từ một nước nhỏ. Sau khi chiếm Khắc liệt bỗng biến thành cường quốc, trở thành mối lo cho các nước Đại kim, Thổ phồn, Tây hạ, Tây liêu, Nải man. Cả bốn nước đều muốn ra quân dưới danh nghĩa giúp Vương hãn phục quốc. Trong khi đó thì Mông cổ mới trải qua một năm chiến tranh, nhân tâm chưa yên, quốc sản khánh kiệt. Quân đội không đủ sức chống với binh lực bất cứ nước nào trong năm nước trên. Vì nghĩ không ra kế, trong lòng phiền táo, đứng ngồi không yên, giấc ngủ chập chờn, gọi là Tâm phiền. Có phải thế không?
Thành cát Tư hãn run run:
- Ba căn bệnh của tôi, phò mã nêu ra đều đúng cả. Căn đầu phò mã đã trị rồi. Không biết phò mã có thể trị được hai căn sau không?
Thủ Huy cười hỏi các tướng:
- Chư vị nghĩ sao?
Các tướng đều lắc đầu:
- Xin phò mã cứu chúng tôi một phen nữa.
Thủ Huy đứng dậy:
- Trước hết tôi giúp Tư hãn lấy cái đầu của Vương hãn với Tang Côn đã. Lấy được hai cái đầu này rồi, thì không nước nào có thể nhân danh giúp Khắc liệt phục quốc mà ra quân nữa. Các Đại hãn, Khả hãn, Hãn của Khắc liệt không còn chân trong, chân ngoài nữa, họ yên tâm, dốc lòng với Mông cổ. Thế là ta giải được căn hai, căn ba một lúc!
- Nhưng làm sao lấy được đầu Vương hãn, Tang Côn?
- Vương hãn hiện đang ở Nải man. Tang Côn ở Thổ phồn. Cả hai người cùng với đám tàn quân được hai nước ấy cho trú đóng trong một khu rừng, để chiêu tập binh tướng bị thất lạc. Nghe nói, Vương hãn sai sứ về mật liên lạc với các Đại hãn của Khắc liệt. Đặt vấn đề, suốt mấy trăm năm qua, Khắc liệt với hai nước này ở vào thế thù nghịch nhau, tại sao bây giờ họ lại cưu mang cha con Vương hãn? Dễ hiểu! Vì họ muốn giúp Vương hãn phục hồi cố thổ, với nhiều điều kiện. Bây giờ ta phải làm gì để mượn tay hai nước này giết cha con Vương hãn?
Mộc Hoa Lê đưa ý kiến:
- Ta sai người sang Nải man, Thổ phồn, với lễ thực hậu, xin họ trao cha con Vương hãn cho ta!
- Không ổn! Ta làm thế, thì Thổ phồn, Nải man càng ra sức giúp Vương hãn để đòi nhiều lợi lộc hơn.
Oa Khoát Đài hỏi:
- Thưa sư phụ, vậy ta phải làm gì?
- Ta làm ngược lại.
- Nghĩa là???
- Ta sai sứ mang trọng lễ sang, xin yết kiến Vương hãn, xin tạ tội, rồi khẩn khoản mời về làm vua Khắc liệt. Tư hãn vẫn là nghĩa tử của ông, Mông cổ vẫn thần phục Khắc liệt. Dĩ nhiên tin này tới tai triều đình Nải man, thì tôi e từ hoàng đế Thái Dương cho đến quần thần đều sợ hãi đến rụng rời chân tay. Phản ứng tự nhiên, họ phải giết Vương hãn ngay.
Oa Khoát Đài ngồi nhổm dậy:
- Trí của sư phụ thực siêu phàm. Vì từ trước đến giờ Nải man vẫn nơm nớp sợ Khắc liệt. Thế mà bây giờ nghe tin ta đưa Vương hãn về, lại phụ thuộc Khắc liệt, thì họ phải giết ông ta.
Thành cát Tư hãn thở phào nhẹ nhõm, bao nhiêu ưu tư biến mất. Chỉ năm ngày sau, ông bình phục như thường. Lập tức ông cho thi hành kế hoạch của Thủ Huy. Quả nhiên hơn tháng sau, có tin đưa về: Thổ phồn giết chết Tang Côn. Nải man giết chết Vương hãn.
Thành cát Tư hãn mở đại hội các Hãn, rồi phong bà Bật Tê làm chánh cung Hoàng hậu, Oa Khoát Đài làm Thái tử. Chín đại tướng đều được phong thân vương.

Thế rồi vùng thảo nguyên yên tĩnh được mấy năm. Thủ Huy Đoan Nghi, Tử Kim, Thúy Thúy tiếp tục huấn luyện chính binh Mông cổ, thành Lôi kỵ. Trước kia, đơn vị chiến đấu biệt lập là Thiên phu, bây giờ là Vạn phu. Chín đại tướng, được phong làm chín Vạn phu. Bác Nhĩ Truật được cử làm tư lệnh chín Vạn phu này. Ngoài ra còn chín Vạn phu trừ bị, gọi là Thân binh đang trong vòng huấn luyện, do Lý Long Tùng chỉ huy. Hai Vạn phu nữ do Đoan Thanh chỉ huy.

Hôm ấy, Thiết Mộc Chân cùng các tướng chỉ huy Vạn phu đang ngồi nghe Thủ Huy giảng về binh pháp của Phù đổng Thiên vương, của công chúa Thánh thiên, thì thân binh vào báo:
- Thưa phò mã, có một đoàn chín người, xưng là sứ thần của Đại Việt xin vào yết kiến phò mã với công chúa.
Thành cát Tư hãn ra lệnh:
- Sứ của Hoàng đế Đại Việt ban chỉ cho phò mã ắt là chuyện quốc gia đại sự. Chúng ta tạm lui, để phò mã tiếp sứ.
Thủ Huy xua tay:
- Tôi tuy là phò mã Đại Việt, từng là Phụ quốc Thái úy của Đại Việt...Nhưng khi tôi lên đây, Tư hãn cùng các bạn đã lấy lòng mà đãi nhau, coi tôi như ruột thịt. Tôi cũng đem tâm huyết ra để giúp Tư hãn cùng các vị. Tất cả những cơ mật của Mông cổ tôi đều biết hết. Vậy thì những gì cơ mật của tôi, tôi cũng phải để Tư hãn cũng như các bạn biết.

Công bảo thân binh :
- Người ra mời sứ đoàn vào bái kiến Tư hãn trước đã.
Thành cát Tư hãn vội cho thiết triều.
Sứ thần là một viên quan trẻ cùng sứ đoàn vào hành lễ. Thành cát Tư hãn truyền mời sứ đoàn ngồi, ân cần hỏi thăm sức khỏe hoàng đế Đại Việt. Đoan Thanh làm thông dịch. Đoan Nghi hỏi chánh sứ :
- Người báo danh đi.
- Khải điện hạ thần là Vũ Khải, lĩnh Tham chi bộ Lễ.
- Hiện giờ bên Đại Việt là niên hiệu gì?
- Khải, vẫn là Thiên tư Gia thụy. Năm nay là năm thứ 15 ( DL.1200, Canh Thân).
- Tình hình triều đình ra sao?
- Thái phó Ngô Lý Tín hoăng. Binh bộ thượng thư Đàm Dĩ Mông thăng lên Thái sư coi việc văn. Lấy quốc trượng Đàm Thì Phụng làm Thái úy coi việc võ. Trong triều, thế lực của họ Đàm lại lên cao như họ Đỗ hồi Đỗ Anh Vũ cầm quyền. Trong cung thì An toàn hoàng hậu Đàm thị lũng đoạn. Họ Đàm lộng hành hơn bọn Đỗ Anh Vũ, Đỗ An Di hồi trước.
- Thế hai vương Kiến khang, Kiến bình đâu ?
- Hai vương bị gọi về triều, không được giữ một chức vụ gì. Một số thân vương, hoàng tộc lên tiếng về việc này. Đàm hoàng hậu với Đàm Dĩ Mông giả chiếu chỉ giết cả nhà. Chưa bao giờ hoàng tộc bị giết nhiều như thời gian này !
- Thế Đỗ Thụy Châu đâu, mà để cho anh em họ Đàm lộng quyền như vậy ?
- Chiêu thiên chí lý hoàng thái hậu băng lâu rồi. Nghe nói Hoàng thượng đã biết rõ người không xuất ra từ Đỗ thái hậu, mà xuất ra từ Tuyên phi Vương Thụy Hương. Người cật vấn Thái hậu, ngay đêm đó Thái hậu uống thuốc độc tự tận.
Thủ Huy than :
- Tiếc rằng ta không đích thân chặt đầu con dâm phụ này. Còn gì lạ không ?
- Hoàng thượng sủng ái một đạo cô, tôn làm sư phụ. Người phong cho đạo cô làm Nam thiên huyền quân, truyền sửa cung Ngọc lan cho ở. Đạo cô là người phụ chính cho Hoàng thượng. Đạo cô nhận thấy cái nguy họ Đàm, người đích thân thu dụng đệ tử, truyền thụ võ công, rồi trao cho những chức vụ trọng yếu !
- À ! Bọn này có khá không ?
- Tương đối khá hơn bọn họ Đàm. Trước hết là Lĩnh Nam ngũ hổ tướng gồm Đoàn Văn giữ chức Tổng lĩnh thị vệ cấm quân. Thứ nhì là Nguyễn Dư, giữ chức An phủ kinh lược sứ Kinh Bắc. Thứ ba là Phạm Bỉnh Di, giữ chức Vũ kỵ thượng tướng quân, lĩnh An phủ kinh lược sứ Trường yên. Thứ tư là Phạm Du lĩnh Tả Kim ngô thượng tướng quân Tổng trấn Thăng long. Thứ năm là Quách Bốc giữ chức Hổ uy đại tướng quân, quản Khu mật viện.
- Lý lịch đạo cô ra sao ?
- Khắp triều, ngoài Đàm Dĩ Mông, Đàm Thì Phụng và Đàm hậu ra không ai biết. Dường như đạo cô có lý lịch không minh bạch. Cho nên bề trong Đạo cô âm thầm chống họ Đàm, nhưng bề ngoài vẫn không dám ra mặt.
- Thế là triều đình có hai thế lực tranh giành nhau ?
- Thưa phò mã không phải hai, mà là ba !
- Ba ? ! ? ! ? !
- Thế lực thứ ba gồm hai vương Kiến khang, Kiến bình, Tiên yên quốc công Phùng Tá Chu, cùng Hoàng tộc. Thế lực này tuy không nắm đại quyền, nhưng có phái Đông a đằng sau, thành ra hai thế lực kia chỉ hằm hè, mà không dám mó tay vào cái hang cọp này. Thái sư Đàm Dĩ Mông...
Thủ Huy cau mặt:
- Cứ mỗi lần nhắc đến tên mặt bột luộc này, là ta lại buồn nôn. Bộ người Việt chết hết rồi hay sao mà dùng tên này? Mấy trăm năm nay rồi, cái nạn gà mái gáy trong hậu cung không bao giờ hết. Bất cứ bà Hoàng hậu, Thái hậu nào cũng có thể giết anh em, chú bác của nhà vua. Phải thay đổi hết! Phải giết hết bọn quan lại ù lỳ thì Xã tắc mới ngóc đầu dậy được.
Biết chồng quá phẫn hận, Đoan Nghi hỏi sang việc khác:
- Hoàng thượng đã có hoàng nam chưa?
- Khải, có rồi. Tuyên phi sinh ra hoàng tử Long Thẩm, Hoàng thượng định lập làm thái tử. Thái phó Đàm Dĩ Mông can, xin đợi mấy năm nữa, biết đâu Đàm hậu không sinh hoàng nam.
- Dĩ nhiên tên họ Đàm này phải làm thế. Khi cháu y sinh hoàng nam, được phong Thái tử, thì họ Đàm mới nắm được quyền chứ!
- Hai năm sau, Đàm hoàng hậu sinh ra hoàng tử Long Xảm, lập tức được phong làm Thái tử ngay.
Thủ Huy hỏi:
- Tình hình võ lâm ra sao?
- Từ sau vụ Côi sơn song ưng giết cả nhà Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích thì triều đình ban chỉ cấm các võ phái không được thu đệ tử, cũng tước quyền không cho các phái cử người làm giám khảo trong các cuộc tuyển võ.
- Thế các phái có tuân chỉ không?
- Bề ngoài thì tuân, còn thực sự vẫn như cũ.
Thủ Huy chửi đổng:
- Cũng vẫn do bọn ngoại thích, mà xẩy ra cái nạn này.
Đoan Nghi không muốn chồng chửi triều đình. Nàng hỏi:
- Triều đình sai người lên đây có việc gì?
- Hoàng thượng được tin phò mã cùng điện hạ đang săn bắn trên vùng Thảo nguyên. Người sai thần lên đây khẩn khoản mời phò mã cùng điện hạ trở về để trao trọng quyền. Vì từ võ lâm cho tới sĩ dân đều nghĩ rằng chỉ phò mã với công chúa mới đủ tài an định thiên hạ.
Thủ Huy cau mày :
- Thế có chiếu chỉ không ?
- Thưa không ! Chỉ có thư riêng thôi.
Nói rồi y trình ra một phong thư. Thủ Huy bóc thư, công liếc qua, rồi nói với Đoan Nghi :
- Đúng là thủ bút của Long Trát. Công chúa đọc lên, Đoan Thanh dịch cho chư vị cùng nghe.
Đoan Nghi đọc lớn :

%AB Đứa em út cô độc Long Trát thư cho người chị khả kính là Đoan Nghi.
Từ khi anh chị rời Đại Việt ra đi, em cảm thấy cô độc vô cùng. Tuy cạnh em có Long Ích, Long Tường, nhưng không thể nào bằng anh chị. Việc triều chính em không chủ trương được gì cả. May sao, vừa rồi Côi sơn song ưng ra tay, em mới nắm được quyền bính.
Nghi tin anh chị đang đi săn ở Mông cổ, em sai sứ lên mời anh chị về giúp em, lập lại thời thịnh trị của đức Thái tổ, Thái tông, Thánh tông, Nhân tông %BB.

Sứ thần lại đưa ra một phong thư :
- Đây là thư riêng của Bùi thái phi cho điện hạ. Đoan Nghi mở ra đọc :

%AB Mẹ bị bệnh không biết sẽ qua đời lúc nào. Mẹ nhớ con quá. Nếu con có còn tưởng nhớ đến mẹ thì mang Thủ Độ về cho mau, may ra thấy mặt mẹ lần cuối %BB.

Đoan Nghi bật lên tiếng khóc, rồi nói với Thành cát Tư hãn :
- Đa tạ Tư hãn. Đa tạ các bằng hữu đã tin tưởng chúng tôi, lấy lòng đãi chúng tôi. Việc thống nhất các nước trong vùng Thảo nguyên đã xong. Bây giờ chúng tôi xin cáo từ Tư hãn trở về Đaiỳ Việt.
Thủ Huy xua tay :
- Khoan ! Chúng ta ở đây đã sáu năm có dư. Khi đi thì em với anh đã họp Tử Kim, Thúy Thúy cùng các võ sĩ trong đoàn Long biên tham khảo ý kiến. Nay Tử Kim là đại tướng cầm quân nghiêng nước của Mông cổ, các võ sĩ Long biên đều giữ chức Thiên phu trưởng. Họ đâu có thể bỏ đi được ? Bỏ đi ngang xương như vậy thì còn gì là đạo lý nữa ? Bây giờ chúng ta hãy trở về dinh, họp anh em để hỏi ý kiến họ đã.
Đoan Nghi nghe chồng nói, nàng sa sầm mặt xuống. Nhưng nàng chợt nhớ rằng từ Tử Kim cho đến các võ sĩ Long biên đều là đệ tử phái Đông a, họ chỉ giúp triều Lý chứ không ăn lương, lĩnh bổng. Nàng không có quyền gì với họ.
Thủ Huy Đoan Nghi trở về dinh, công phát lệnh sai mã khoái đi khắp nơi triệu tập các võ sĩ Long biên lại. Hai hôm sau họ có mặt đầy đủ. Thủ Huy mời thái tử Oa Khoát Đài tham dự buổi họp. Sau khi khai mạc, Đoan Nghi mang thư của Đại Việt hoàng đế ra đọc. Rồi nàng yêu cầu mọi người cho biết ý kiến.
Thúy Thúy nói :
- Khải điện hạ ! Khi đoàn Long biên lên đường là do chỉ dụ của triều đình, đem cống cho Tống để đánh Kim. Rồi điện hạ với phò mã quyết định dẫn họ lên đây. Như vậy theo quân luật thì họ vi chỉ, bị tội giết cả nhà. Nay Hoàng thượng viết thư cho điện hạ, người nhân danh ông em viết thư mời anh rể chị gái về, chứ không nói gì đến bọn họ cả. Nếu như bọn họ về, thì không khỏi bị giết.
Tử Kim phát biểu :
- Bọn thần xả thân vì triều đình quá nhiều. Triều đình phụ bọn thần cũng quá nhiều. Người xưa nói nam nhi đại trượng phu bốn bể là nhà, khi lên đây, bọn thần được Mông cổ hậu đãi. Lại lấy vợ, sinh con vùng thảo nguyên, thì xin lấy Mông cổ làm quê hương thứ nhì.
Oa Khoát Đài vỗ tay hoan hô. Các võ sĩ Long biên cũng vỗ tay theo. Đoan Nghi tái mặt hỏi Thủ Huy :
- Vậy thì chỉ có vợ chồng chúng ta về mà thôi. Đành vậy. Phải mau mau lên đường, bằng không thì không còn thấy mặt mẫu thân, em sẽ ân hận suốt đời.
Thủ Huy nắm tay Đoan Nghi :
- Em về thì em cứ về. Anh thấy trong vụ này có điều gì không ngay thẳng. Chúng ta âm thầm lên đây. Tại sao Long Trát biết ? Chúng ta sinh Thủ Độ đến bố mẹ anh cũng chưa biết, tại sao mẫu thân lại biết ? Tại sao triều đình không ban chỉ ? Anh không về đâu.
- Anh cho rằng cái không ngay thẳng từ đâu mà ra?

- Từ Tống! Giai phi cho chúng ta biết rằng Vân đài Trịnh Nam Phương, Công chúa Vương Thụy Hương trở về Đại Việt làm gian tế từ lâu. Mới đây vô tình chúng ta phá vụ Tống phong cho Mao Khiêm làm vua vùng Thảo nguyên, phong các con của Muôn lịch làm Khả hãn bốn nước Thát đát, Mông cổ, Miệt nhi, Diệt xích ngột. Nhất định Mao Khiêm, Vương Cương Trung tấu về triều. Khu mật viện Tống ban chỉ cho Nam Phương, Thụy Hương. Hai người này, bằng cách nào đó khiến Long Trát viết thư gọi chúng ta về. Họ cho rằng nếu Mông cổ không có chúng ta, thì bọn Mao Khiêm, Muôn Lịch với các Tổng Đạo sư có thể chiếm được vùng Thảo nguyên. Nói thực, anh là kẻ sĩ có tâm huyết, đem tấc lòng son ra khuông phò Xã Tắc. Phụ hoàng sủng ái anh, trao quyền cho anh. Anh đã làm không biết bao nhiêu lợi ích cho triều Lý. Nhưng hỡi ơi! Quả núi Tiêu sơn đã hết phúc, nên trong cung thì cái họa gà mái gáy nối tiếp nhau. Tại triều, thì bọn quan lại toàn một lũ ăn hại, chỉ mong chui đầu vào váy mấy mụ phi tần ngu xuẩn, tham dâm. Vì vậy, những gì anh xây dựng, đều bị phá nát hết.
Công nắm tay vợ trước cử tọa:
- Một là vì tình, hai là vì nghĩa, anh khẩn thiết xin em đừng về. Anh biết khi em về, thì mẫu thân, cũng như em sẽ bị hại. Bấy giờ, anh sẽ về khởi binh giết sạch bọn quan lại ù lỳ, bọn hậu cung dơ bẩn, và lập một triều đại mới ít ra cũng nhẹ nhàng, cũng vì dân như triều đại Mông cổ đây. Vậy em về thì coi như triều Lý không còn !
- Còn ước tính của anh sai, khi em trở về, rồi triều đình ban chỉ mời giữ trọng quyền...Thì sao?
- Anh sẽ về! Anh sẽ đi bằng tay từ bến Tiềm long vào điện Càn nguyên.
Đoan Nghi biết chồng quá căm hận họ Lý nhà mình. Nàng nghĩ thầm :
- Aạu là ta cứ về trước, rồi nói với triều đình ban chỉ ân xá cho Thủ Huy, Tử Kim, cùng đoàn võ sĩ Long biên sau. Như vậy ắt họ sẽ trở về.

Tin Đoan Nghi dẫn Thủ Độ về Đại Việt truyền rất nhanh. Đám bạn của Thủ Độ xin Thúy Thúy cho chúng cùng đi săn với nhau trước khi xa cách.
Hôm ấy, đích thân Thành cát Tư hãn, dẫn Hoàng hậu Bật Tê, bốn vương tử, ba vương đệ, các công chúa, phò mã cùng chư tướng dàn ba vạn người ngựa, tiễn công chúa hồi hương.
Chín phát Lôi tiễn tiễn được bắn lên trời.
Đoàn hộ vệ công chúa từ Hoa lâm đến biên dối Kim gồm hai Thiên phu nữ, do Đoan Thanh chỉ huy. Thành cát Tư hãn sai lấy da điêu, ngọc, vàng, sâm chất đầy hai xe, gọi là chút lễ tặng Đại Việt hoàng đế. Oạng cùng hoàng hậu Bật Tê, các em, các con, các tướng theo tiễn hơn trăm dặm mới trở về.
Bốn đứa trẻ Hốt Tất Liệt, Bạt Đô, Ngột lương Hợp thai, A lý Hải nha cỡi ngựa đi cạnh Thủ Độ suốt lộ trình trăm dặm. Bây giờ phải chia tay, chúng bịn rịn không muốn quay về. Hốt Tất Liệt tặng Thủ Độ một con dao, cán bằng vàng. Ngột lương Hợp thai tặng Thủ Độ cái cung với mười mũi tên đầu bịt bạc. A lý Hải nha tặng Thủ Độ cái túi bằng da điêu. Bạt Đô tặng Thủ Độ cái khánh ngọc.
Thấy năm trẻ bịn rịn không nỡ rối nhau, Đoan Nghi an ủi:
- Thủ Độ chỉ về nước một thời gian, rồi lại sang. Các con sẽ lại gặp nhau.

Suốt dọc đường từ Hoa lâm đến Vạn lý trường thành, Thủ Huy Đoan Nghi không nói với nhau một lời. Cũng may Thủ Độ luôn miệng hỏi cha hỏi mẹ về Đại Việt, làm giảm cái không khí căng thẳng.
Đoàn người ngựa đi trong hơn hai mươi ngày thì tới Vạn lý Trường Thành. Tất cả ngừng lại qua đêm, để sáng hôm sau sẽ vượt cửa ải vào đất Trung quốc. Sáng hôm sau, tất cả đoàn người tiễn đưa phải ngừng lại cách quan ải hai mươi dặm. Chỉ có Th

egeo 06-19-2004 04:36 PM



C32:LỜI NGUYỀN CHÂN GIÁO


Đám tang Thái phi Bùi Triêu Dương qua đi thực giản dị. Còn Thủ Độ thì Đàm hoàng hậu trao cho một cung nga già tên Thụy Nga trông coi với chỉ dụ :
Tuyệt đối không được tiết lộ thân thế của nó với bất cứ ai. Ngay cả Ngự y Trần thị Phương Thanh cũng không được vào thăm bệnh nó. Ai hỏi, nói dối rằng nó là cháu xa đời của ta, mồ côi cả cha lẫn mẹ, ta đem về nuôi.

Thủ Độ được ở ngay trong cung của thân mẫu hồi chưa lấy chồng. Hơn tháng sau, chợt nhà vua nhớ đến nó. Oạng cậu cho triệu hồi nó đến để hỏi han tình hình sức khỏe. Nó biết rằng nếu mình tỏ ra tỉnh táo, thì khó mà toàn mạng. Vì vậy gặp nhà vua, nó mở mắt thao láo nhìn, không nói không rằng, rồi thình lình méo miệng cười một mình.
Nhà vua ôm nó vào lòng :
- Cháu ! Cháu có nhớ bố cháu tên gì không ?
Thủ Độ nhe răng, mở to mắt, rồi cười sằng sặc :
- Bố à ! Bố là gì ?
- Tên cháu là gì nào ?
Nó lắc đầu tỏ vẻ không biết.
Nhà vua tin rằng đó là thằng điên. Nhà vua hỏi cung nga già Thụy Nga về cuộc sống hàng ngày của nó. Người cung nga tâu rằng tuy nó ít nói, nhưng lại rất chăm đọc sách. Nhà vua truyền cho nó vào trường Quốc tử giám học.
Ba hôm sau, Thủ Độ được đưa vào trường Quốc tử giám. Trường này thành lập từ thời vua Thánh tông. Trường dành cho các hoàng tử, các thế tử, con các đại thần. Nếu còn chỗ thì nạp thêm những sĩ tử giỏi của các trấn, các huyện. Ngày đầu tiên Thủ Độ phải qua một kỳ sát hạch để biết trình độ học vấn. Vị Kinh diên quan tuổi còn trẻ, tên Phạm Kính Ân. Ông trao cho Thủ Độ bộ Văn lang giản sử bảo nó đọc. Quyển này nó đã được Đoan Nghi giảng rất kỹ trong ba tháng lênh đênh trên mặt biển. Nó chắp tay :
- Thưa thầy bộ này con đọc rồi.
Kính Ân kinh ngạc, ông hỏi :
- Con đã học, vậy học với ai ?
- Con tự đọc.
- Vậy con có hiểu không ?
- Con hiểu rất kỹ.
Kính Aạn không tin, :
- Nếu con đọc rồi, vậy thầy hỏi con một câu: Văn minh thời Văn lang có ba đặc tính vượt Trung quốc. Đó là những đặc tính gì ?
- Thưa thầy, thứ nhất, về Lịch số ta bỏ xa Trung quốc. Nên vua Hùng đã sai chép phép làm lịch vào lưng một con rùa, rồi sai sứ sang tặng Trung quốc. Vua Trung quốc sai quan Thái sử lệnh chép lại. Vì vậy lịch đó gọi là Quy lịch.
- Giỏi ! Thế đặc tính thứ nhì là gì ?
- Thưa là thuật luyện kim. Bằng cớ vào thời này Trung quốc chưa biết đúc đồng. Thế mà ta đã đúc trống đồng. Trên trống đồng khắc hoa văn rất tinh xảo !
- Đúng ! Thế còn đặc tính thứ ba ?
- Đặc tính thứ ba, là Trung quốc chỉ có chữ tượng hình, học rất khó, lại rất lâu. Trong khi ta có văn tự Khoa đẩu tượng thanh. Học rất dễ, rất mau.
Kính Ân kinh ngạc về trí thông minh, về tài ứng đối nhanh :Dng của Thủ Độ. Ông ta nghĩ thầm :
- Đứa trẻ này là con của ai ? Theo như trong sổ ghi, thì nó là đứa con mồ côi thuộc họ xa của Đàm hoàng hậu. Nó bị bệnh ngẩn ngờ. Ngẩn ngờ mà sao lại thông minh thế này ? Ta phải tìm hiểu mới được.
Kính Ân lấy quyển binh pháp Kinh Nam vương ra trao cho nó. Bộ này Thủ Độ đã thấy bố nó mang ra giảng cho cacÔ tướng Mông cổ nhiều lần. Nó ngồi cạnh, cũng hiểu được mấy phần. Nó mở ra trúng chương chín. Đó là chương nói về việc luyện kị binh. Nó cất cao giọng đọc. Nó vừa đọc xong, thì Kính Ân hỏi nó :
- Trong phép dùng kị binh, thì những điều kị nhất là gì ?
- Có ba điều phải tránh. Thứ nhất tránh đồng lầy. Thứ nhì tránh rừng núi. Thứ ba tránh nơi có nước dơ bẩn.
Như thế đủ rồi, Kính Ân thấy Thủ Độ quá thông minh, lại có căn bản vững vàng. Ông đề nghị với quan Quốc tử giám tế tửu cho nó học cùng nhóm với Thái tử Long Xảm. Ngay buổi học đầu, vừa trông thấy Thủ Độ, lập tức Long Xảm nhảy dựng lên :
- Thưa thầy, trong chín người cùng học với con, năm đứa chúng con là Gia thụy ngũ anh, ngoài ra còn bốn người đều là những học trò giỏi nhất của các trấn. Tại sao thầy cho thằng khùng này cùng học ?
Kính Ân hỏi :
- Gia thụy ngũ anh là những ai vậy ?
- Thưa thầy đứng đầu là con, thứ nhì là em Long Thẩm của con. Thứ ba là Đoàn Thượng, con của Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Thứ tư là Nguyễn Dư, con của quan Kinh lược sứ Kinh Bắc Nguyễn Nộn. Thứ năm là con của Vũ kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh Di tên Phạm Bỉnh Du.
- Có phải Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh Du là Thiện nhân không ?
- Dạ.
Kính Ân biện luận :
- Xin điện hạ cứ coi Đàm Độ như một hình bù nhìn. Y có theo kịp hay không cũng không cần biết.
Thấy qua việc trắc nghiệm, mình đã để lộ chân tướng ra nhiều quá, Thủ Độ tự nhủ :
- Đã vậy thầy giảng, ta cứ im lặng nghe, để không ai chú ý đến ta.
Thể lệ của trường Quốc tử giám, là sau mỗi tháng, các Kinh diên quan họp nhau lại để cùng nhận xét về các học sinh. Khi bàn về nhóm học cùng với Thái tử, thì họ tranh cãi đến hết một buổi mà không hiểu nổi Thủ Độ. Vì khi thầy giảng, hầu hết học trò hiểu thì gật đầu. Không hiểu thì chau mày. Còn Thủ Độ thì trầm tư không tỏ ra hiểu hay không. Ngược lại, khi làm bài thì bài của Thủ Độ bao giờ cũng được chấm ưu. Chữ viết rất đẹp. Trong sáu Kinh diên quan, thì ba người cho rằng Thủ Độ điên khùng. Còn ba người thi lại cãi rằng nó là đứa trẻ thông minh.
Phạm Kính Ân là người đứng về phía cho rằng Thủ Độ thông minh. Một hôm, ông gọi riêng Thủ Độ vào thư phòng, đóng cửa lại, rồi ông hỏi nó :
- Con có tin rằng thầy yêu thương con không ?
- Thưa thầy con tin.
- Vậy thầy hỏi câu nào con phải nói thực câu đó.
- Vâng !
- Hoàng hậu bảo rằng con là cháu của người. Con là đứa trẻ mất trí, khật khùng. Thầy không tin. Vậy nguồn gốc con ra sao ?
Thủ Độ nghĩ :
- Ông là thầy ta, không thụ một chút ân huệ nào của cha mẹ ta, mà ông yêu thương ta còn hơn các ông cậu bà mợ của ta. Ta chẳng nên nói dối ông.
Nghĩ vậy, nó nói :
- Thưa thầy, con họ Trần tên Thủ Độ. Cha con trước đây là Phụ quốc Thái úy phụ chính đại thần Trần Thủ Huy. Mẹ con là Trưởng công chúa Đoan Nghi.
Kính Ân kinh ngạc :
- AÔi chà ! Thế hiện thời phò mã với công chúa ở đâu ?
Thủ Độ tường thuật chi tiết vụ bố mẹ nó bị đem cống cho Tống, rồi bỏ lên Mông cổ, giúp Mông cổ lập quốc ra sao. Cuối cùng mẹ nó vì nghe lời nhà vua, về giúp nước mà bị giết. Nó phải giả khùng để tránh bị họa sát thân.
Hai giọt nước mắt chảy trên gò má, Phạm Kính Ân than :
- Thì ra thế.
Thủ Độ hỏi :
- Thưa thầy, cứ như minh kiến của thầy thì ai đã sát hại mẹ con ?
Kính Ân giảng giải :
- Khu mật viện cũng như Phủ thừa Thăng long tâu rằng bọn trộm cướp đã ra tay. Ta phải gạt cái lý luận ngớ ngẩn này ra ngoài. Việc công chúa bị ám hại, không thể do bọn cướp. Bọn cướp lớn đến mấy cũng không có khả năng mạnh đến như vậy. Để có thể làm việc này, phải là một thế lực uy quyền bao la. Tại sao ? Một là trộm cướp không thể biết rõ việc công chúa về nước. Hai là không biết ngày giờ công chúa về tới Thăng long. Ba là điều động hai đội tiễn thủ phục sẵn gần bờ hồ Tây. Chỉ một thế lực lớn lao mới có khả năng đó. Chúng lại cũng đoán ra rằng công chúa xa quê hương lâu ngày. Khi về Thăng long vào lúc trời tối ắt không kiềm chế nổi lòng rộn rực, người sẽ lấy xe dạo chơi. Dạo chơi thì phải ăn uống. Chúng cũng biết công chúa kiếm thuật thần thông, chúng không đủ sức ám toán. Cho nên chúng mới bầy ra bọn mãi võ để bắt cóc con, rồi dẫn dụ công chúa vào trận loạn tiễn.
Thủ Độ như người mù được mở mắt ra. Nó hỏi :
- Theo thầy, thì kẻ nào đứng chủ trương ?

- Thầy đoán như thế này : Kẻ nào đó biết rõ Thái phi, Hoàng thượng thỉnh công chúa hồi hương. Khi công chúa hồi hương bình an, ắt phò mã sẽ về. Phò mã với công chúa sẽ được Hoàng thượng trao đại quyền, lập lại thịnh trị như hồi các vị Tiên đế. Bấy giờ bọn chúng sẽ mất hết quyền hành, hay gặp nguy hiểm. Chúng bàn với nhau bầy mưu ám toán công chúa. Một là chúng dùng quyền lực đe dọa, hai là chúng mua chuộc sứ đoàn với thủy đoàn. Khi công chúa về đến lãnh hải Đại Việt, sứ đoàn, thủy thủ đoàn báo cho chân tay bọn sát nhân biết. Bọn này phi ngựa khẩn cấp về Thăng long trình lên chánh phạm. Chánh phạm mật ra lệnh cho thủy thủ đoàn ghìm sao để thuyền tới Thăng long vào giờ cổng thành đóng. Rồi chúng cho người giả làm bọn mãi võ, đưa công chúa đến chỗ chúng phục tiễn thủ.
- Không lẽ Thái phi hay Hoàng thượng làm việc này ?
- Thầy nghĩ Thái phi không thể nào giết con. Hoàng thượng muốn thỉnh công chúa về, thì người đâu có hại công chúa ? Thái phi, Hoàng thượng sai Vũ Khải thỉnh công chúa, phò mã mà triều đình không biết gì. Người ngoài duy nhất được biết là viên sứ thần Vũ Khải. Nhân viên sứ đoàn cũng không biết nốt. Vậy chỉ cần điều tra viên sứ thần Vũ Khải với thủy thủ đoàn thì ra manh mối.
Kính Ân nắm tay Thủ Độ :
- Con giả ngây như vậy cũng phải. Ở đây là chốn miệng hùm, nọc rắn. Con liệu mà trốn về Thiên trường với ông nội con càng sớm càng tốt.
Từ đấy, Kính Ân không bao giờ nghị tới việc Thủ Độ điên hay tỉnh nữa.

Trên toàn Đại Việt có năm trường dạy võ của triều đình, do Lĩnh Nam ngũ hổ tướng trự tiếp điều động. Trường lớn nhất, mở trong Hoàng cung. Trường này dành riêng cho hoàng tử, thế tử và con các đại thần.. Người phụ trách dậy võ là quan Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Thủ Độ được vào học lớp này. Chỉ nhìn cảnh thầy dậy trò tập, Thủ Độ thấy ngay, họ là những con vua, cháu chúa. Học chỉ để làm cảnh. Cho nên sau khi học buổi đầu, nó đóng kịch, uể oải múa may loạn xạ, rồi lên cơn điên nói lảm nhảm.
Thái tử Long Xảm nói với anh là Long Thẩm :
- Anh xem ! Thằng mọi này vốn bị bệnh điên, mà đi học văn với bọn mình nên thành điên thêm. Bây giờ lại học võ thì chỉ có chết non.
Tuy vậy mỗi buổi chiều Thủ Độ cũng phải học võ. Nó cứ đóng kịch, múa may không ra bài bản gì. Nhưng tối tối, nó đóng cửa lại, tự luyện nội công. Ôn lại bộ quyền, chưởng mà bố nó dạy nó. Vì không có việc gì khác, cũng như không được chạy nhảy, đùa nghịch ; Thủ Độ chăm chỉ luyện công không ngừng.
Hai năm dài qua đi, Thủ Độ đã luyện hết yếu quyết nội công Đông a mà bố nó dạy nó. Trong thời gian này, nó nghe người ta nói nhiều về những việc mà trước đây bố mẹ nó đã làm, ai cũng tỏ vẻ kính phục. Nó lại nghe các ông thầy dạy võ nói nhiều về phái Đông a của bố nó. Trong óc nó lóe lên một ý nghĩ :
- Không ngờ danh tiếng ông bà ta lại lớn như vậỳy ! Hay là ta thử về Thiên trường tìm ông bà nội, tìm bác Lý, tìm cô Ngân của ta, ta sẽ nói với ông bà ta những lời mẹ ta trối trăn lúc lâm chung, rồi xin các người đưa ta trở về Mông cổ gặp bố ta.
Nhưng những tàn nhẫn của Đàm hoàng hậu, của anh em Long Xảm, Long Thẩm lại khiến nó suy nghĩ :
- Biết đâu bác Lý, cô Ngân cũng như con của họ lại giống Đàm hoàng hậu vơiÔ các con bà ?
Hôm ấy là ngày rằm tháng tám, nhà vua cùng Hoàng hậu, phi tần, thân vương mở tiệc trung thu trong Hoàng thành để khoản đãi các thân vương, công chúa. Trong buổi tiệc này, nhà vua sẽ cho các thiếu niên trong hoàng tộc đấu võ. Ai thắng giải nhất sẽ được thưởng một thanh kiếm, chuôi nạm vàng. Ai thắng giải nhì, sẽ được thưởng một cái roi da, chuôi bằng bạc. Ai thắng giải ba, sẽ được thưởng một cây cung, với ba mũi tên đầu bịt bạc. Thủ Độ bị coi như đứa trẻ ngẩn ngờ, không được tham dự. Nhưng nó vẫn phải cùng các bạn đồng học, ngồi xếp hàng trước võ đài xem tranh giải.
Ngồi trước võ đài, mà trong tâm Thủ Độ nghĩ tới những ngày ở Mông cổ với cha mẹ, phi ngựa với bọn Ngột Lương Hợp Thai, bọn Bạt Đô, bọn A Bát Xích trên đồng cỏ mênh mông. Khi nhà vua cùng chư vương đến, nó mới trở về thực tại. Nhìn lên đài, thấy hai vương Kiến khang, Kiến bình ngồi cạnh nhà vua, trong lòng nó chua chát :
- Ba ông cậu kia, đều là em của mẹ ta. Hai ông thì do cha mẹ ta dậy dỗ nuôi nấng. Một thì chết đến ba lần, đều do cha mẹ ta mà còn sống đến nay. Thế nhưng, họ bắt ta cải họ, giam giữ ta như thế này đây ! Ta phải cố tranh sống. Sau này ta mà ngóc đầu lên được, thì ta cũng không nghĩ đến tình cậu cháu nữa.
Ai đấu với ai, Thủ Độ cũng không cần để ý. Cho đến khi phát thưởng nó mới biết, người đoạt giải nhất là Đoàn Thượng, con trai của quan Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn. Người đoạt giải nhì là Nguyễn Dư, con trai quan An phủ sứ Đăng châu Nguyễn Nộn. Người đoạt giải ba là Phạm Bỉnh Du, con trai của Vũ kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh Di. Sau khi nhà vua trao thưởng cho ba thiếu niên, thì Kiến khang vương hỏi Thái tử Long Xảm :
- Thế nào ? Cháu luyện võ đến đâu rồi ? Cháu thử đi một bài quyền cho chú xem nào ?
Long Xảm vâng lệnh, bước ra bái tổ, hành lễ với cử tọa, rồi đi một bài quyền. Thủ Độ nhận ra đó là một bài quyền của phái Hoa sơn. Bất giác nó nảy ra ý khinh bỉ, trán hơi nhăn lại, rồi quay đầu nhìn đi chỗ khác. Hành động của nó không qua được mắt Đàm hoàng hậu. Bà vẫy tay gọi nó :
- Đàm Độ, người hãy lên đài.
Thủ Độ không đừng được, nó phải lên đài, cung tay hành lễ. Hoàng hậu bảo Long Xảm :
- Đàm Độ học võ cùng với con. Vậy con hãy đấu với nó mấy chiêu cho phụ hoàng cùng các hoàng thúc xem nào.
Long Xảm dạ một tiếng rồi đứng đối diện với Thủ Độ. Đoàn Văn hô :
- Xuất chiêu!
Long Xảm tung vào người Thủ Độ một chiêu Hoa sơn quyền. Thủ Độ giả như người không biết võ, nó ôm đầu trầm người xuống tránh. Long Xảm đánh vào quãng không. Xấu hổ, Long Xảm lại dùng tay phải đành thẳng vào ngực Thủ Độ trong khi tay trái chém ngang vào cổ nó. Thủ Độ trầm người xuống, rồi bước ra sau Long Xảm. Long Xảm đánh hụt, người lảo đảo suýt ngã. Tức giận y quay người về sau, trong khi chân đá vòng vào bụng Thủ Độ. Thủ Độ không tránh kịp, nó đành vận công chịu đòn. Bộp một cái, Long Xảm có cảm tưởng như mình đá phải cái cột gỗ, chân y đau đớn , mặt nhăn nhó cực kỳ khó chịu.
Thấp thoáng một cái, Kiến bình vương đã nhảy ra giữa đài, ông túm áo Long Xảm, Thủ Độ ném hai trẻ ra xa rồi nói :
- Đàm Độ ! Phàm khi đấu võ thì không kể đến chúa tôi, thầy trò. Cháu phải trả đòn đi chứ !
Nói dứt ông hô :
- Phát chiêu.
Long Xảm lại dùng Hoa sơn quyền tấn công Thủ Độ. Vốn đã chủ tâm, Thủ Độ cứ giả như người không biết võ, nó xuyên bên Đông, lách bên Tây, khiến Long Xưởng không sao đánh trúng được nó. Nhưng sau mười tám chiêu, thì nó lùi đến mép đài. Long Xảm dùng cả hai tay thúc vào ngực nó, mong đẩy nó xuống đài. Không đừng được, Thủ Độ phải chụp hai vai Long Xảm, rồi lộn một vòng trên không, nó tung mình đáp xuống giữa đài. Vô tình nó đã sử dụng chiêu Kình ngư thuận phong một chiêu trong Đông a chưởng pháp. Khán giả vỗ tay hoan hô.
Long Xảm quá xấu hổ, nó rút trong bọc ra một thanh trủy thủ vung tay đâm vào ngực Thủ Độ. Kinh hoảng, Thủ Độ xuống đinh tấn, tay trái gạt tay phải Long Xảm, rồi tung mình lên cao, quay một vòng, chân phải đá vào vai phải Long Xảm. Đó là một chiêu trong Đông a quyền pháp. Binh một tiếng, Long Xảm bay tung xuống đài, nằm thẳng cẳng, không bò dậy được nữa.
Có nhiều tiếng la thét :
- Võ công Đông a chính tông.
Biến cố đột ngột xẩy ra, ngoài sự tưởng tượng của mọi người, Phạm Bỉnh Di nhảy ra túm tóc Thủ Độ, tát nó hai cái, rồi quát :
- Mi học đâu những võ công sát nhân này ?
Kiến bình vương nhảy ra can thiệp :
- Bỏ đứa trẻ này xuống.
Vương đưa con mắt nghiêm khắc nhìn Bỉnh Di:
- Võ công mà đứa trẻ này dùng là võ công thuộc danh môn chính phái. Người liệu mà giữ mồm, bằng không thì cả nhà người sẽ bị tru diệt, cả đến con gà, con chó cũng không thoát chết đâu.
Phạm Bỉnh Di tái mặt, y lùi lại góc đài, chân tay y phát run.
Kiến bình vương xoa má cho Thủ Độ rồi hỏi :
- Cháu là con của vị quan nào trong triều ?
Đàm hoàng hậu trả lời thay Thủ Độ :
- Nó là đứa trẻ mồ côi, bị bệnh điên trong họ tôi. Tôi mang về nuôi trong Hoàng thành.
Lời nói của Hoàng hậu, cũng như những chiêu thức hỗn loạn của Thủ Độ không qua mắt được Kiến bình vương. Bởi quan sát cuộc đấu, ngay từ đầu, ông thấy rõ Thủ Độ giả không biết võ, ra chiêu lộn xộn, nhưng những chiêu đó đều bao hàm những sát thủ kinh nhân của võ công Đông a. Ông biết ngay Thủ Độ đã đước huấn luyện căn bản cực kỳ tinh vi. Như vậy nó phải học võ với những người ngang hay cao hơn ông một vai.
Ông hỏi Thủ Độ :
- Cháu là đệ tử của cao nhân nào trong phái Đông a ?
Thủ Độ không dám nói thực, nó trả lời :
- Cháu học võ trong Hoàng thành. Vừa rồi cháu gặp nguy hiểm, thuận tay múa loạn lên, chứ có ai dạy cháu đâu ?
Kiến bình vương hỏi Phạm Bỉnh Di:
- Phải chăng tướng quân chỉ dạy võ công Hoa sơn cho đám trẻ này ?
- Khải vương gia vâng.

Kiến bình vương càng áy náy. Ông nói với Hoàng hậu:
- Thưa nương nương, việc này không giản dị đâu. Ngày mai, thần xin phép nương nương cho đón đứa trẻ này đến tệ phủ, để tìm hiểu rõ sự thực.
Hoàng hậu đáp bằng giọng run run:
- Hoàng thúc cứ tự tiện.
Long Xảm chỉ bị ngã đau, chứ không bị thương. Nó đã lên đài, định xông vào đánh Thủ Độ nữa. Kiến bình vương tuyên bố :
- Trận vừa rồi Long Xảm thua, Đàm Độ thắng. Trận đấu chấm dứt.
Thế là cuộc đấu võ xong. Nhà vua tuyên bố ban tiệc cho các thiếu niên. Vì Thủ Độ không phải là tôn thất, cũng không phải là con quan, nên nó không được dự tiệc Trung thu. Nó chỉ được gói quà, gồm một quả hồng, một quả na, một gói ngô rang và một cái bánh dẻo. Nó ngồi ăn bên cạnh những đứa trẻ mà cha mẹ làm những nghề hèn hạ trong Hoàng thành như cắt cỏ, gánh phân, chăn ngựa. Ăn xong, nó thui thủi trở về chỗ ngủ.
Vừa về đến nơi, thì trước mặt nó, bọn Gia thụy ngũ anh đã dàn hàng ngang đứng chờ. Không nói không rằng, cả năm xông vào tấn công nó. Thủ Độ kinh hoàng, không kịp phản công, thì bị đánh ngã. Sau khi nó ngã, Nguyễn Dư, Đoàn Thượng khóa tay nó, còn Long Xảm thì chân đấm, tay đá vào khắp người nó. Nó nghiến răng chịu đau, không kêu, không khóc cho đến khi ngất đi mới thôi. Long Xảm bảo đồng bọn :
- Chúng ta đái vào đầu nó cho bõ ghét.
Cả bọn xúm vào đái khắp người Thủ Độ, rồi cười khoái trá, kéo nhau đi.
Thủ Độ tuy đau đớn, nhưng vốn có nội công thâm hậu, chỉ lát sau, nó đã đứng dậy đi được. Nó vào nhà tắm rửa, thay quần áo rồi nghĩ thầm :
- Tình thế này, ta không thể ở đây được nữa. Nhân đêm Trung thu, các cổng thành đều mở cả đêm, ta phải trốn đi, rồi tìm đường về Thiên trường mới hy vọng sống sót.
Nghĩ vậy, nó lấy quần áo cho vào cái túi da, mà nó mang từ Mông cổ về, cùng với mấy di vật của mẹ, rồi lết ra khỏi Hoàng thành. Nó thẫn thờ đi gữa kinh thành rực ánh trăng.
Bấy giờ Đại Việt đang lúc thời bình, biên cương không ngoại xâm, trong nước không loạn. Dân chúng Thăng long lũ lượt kéo nhau ra đường chơi trăng Trung thu. Chỗ này một đoàn xiếc biểu diễn. Chỗ kia một đoàn hát chèo. Chỗ khác, trai, gái chia toán hát Trống quân. Trai thanh, gái lịch cười đùa, tưởng như thiên cung. Trong cái không gian vui vẻ ấy, đứa trẻ mồ côi Thủ Độ lầm lũi lê bước, khắp thân thể đau đớn cùng cực. Bất giác nó ngửa mặt nhìn trời :
- Trăng đẹp thế kia, người vui thế nọ, còn ta ? Trời đất mênh mông, ta đi về đâu ? Hỡi ơi !
Thình lình mây đen kéo đến che khuất mặt trăng, rồi sấm, chớp rung động trời đất. Cơn mưa đổ ụp xuống. Người người bỏ chạy. Thủ Độ ẩn thân vào dưới một mái hiên. Được một lát, gió thổi ào ào, mưa tạt khắp người nó. Nó cố nép mình vào tường, nhưng cũng bị ướt. Tuy ướt, nhưng vốn sinh trưởng ở vùng băng tuyết, nó không cảm thấy lạnh. Gió lại thổi, mưa lại tạt vào người, cảm thán nó làm bài thơ cổ phong:

Trung thu vọng nguyệt !
Vũ như cương la !
Ta hồ, thống khổ !
Thùy khả tri tâm !
Không gian vô tận hà vi tiểu ?
Bất nghi nhất thốn khả dung thân !

Rồi nó tự dịch sang tiếng Việt :

Trung thu ngắm trăng,
Mưa như lưới giăng :
Than ôi, đau đớn !
Ai hiểu ta chăng ?
Vô tận không gian sao hẹp quá ?
Không đầy một chỗ để dung thân.

Ghi chú của thuật giả.
Về nguồn gốc bài thơ này, trong gia phả các chi họ Trần chép không giống nhau. Chi hai, thuộc dòng Hưng Nhượng vương chép :
ị Thủa thiếu thời mồ côi mẹ, Thái sư Thượng phụ, Hóa thiên, Trung vũ, Long công, Liệt đức, Từ huệ, Đại vương, bị Huệ Quang đại sư làm nhục, đánh đậỳp thương tích đầy người đến chết đi sống lại, phải ăn mày ở Thăng long, làm thơ này Ể. Trung vũ Đại vương là chức tước của Trần Thủ Độ. Huệ Quang đại sư là pháp danh của vua Lý Huệ tông.
Còn gia phả của con cháu Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc lại chép là ông làm trong lúc hàng Mông cổ. Vua Mông cổ phong cho ông làm An nam quốc vương, sai quân đưa về nước, bị quân Trần đánh tan, phải bỏ chạy dưới trời mưa tầm tã.
Xét văn phong cùng thi tứ của Chiêu quốc vương, vốn điêu luyện bậc nhất đương thời, dù trong lúc chạy...chí chết, ông cũng không thể làm một bài thơ quá mộc mạc như trên. Thơ khô khan, mộc mạc như bài này, chỉ có thể là của Trung vũ Đại vương Trần Thủ Độ.
Vả lại, trong hai gia phả thì gia phả của dòng Hưng Nhượng vương đáng tin hơn, vì người khởi chép là con trai của vương, một thi sĩ đương thời. Còn gia phả của Chiêu quốc vương, khởi chép từ con của vương là Trần Hữu Lượng, lưu vong ở Trường sa bên Trung quốc.

Trời tạnh, Thủ Độ lại lê bước lầm lũi đi trong đêm. Đau quá, kiệt lực nó ngã sóng soài trên vũng nước. Giữa lúc đó một chiếc xe ngựa bon bon chạy tới. Có tiếng thiếu nữ kêu thét lên:
- Ai chết giữa đường. Dừng xe lại !
Người đánh xe ghì cương khẩn cấp. Con ngựa hý lên một tiếng dài, cất cao hai vó. Trên xe có một thiếu phụ nhan sắc diễm lệ ngồi cạnh một thiếu nữ. Người phu xe tung mình xuống đất. Y sờ tay lên đầu Thủ Độ, rồi tỏ vẻ mừng rỡ:
- Là một đứa con trai, thương tích đầy người. Nó chưa chết.
Thiếu nữ cuống lên:
- Mẹ! Mẹ! Mình có cứu nó không?
- Cứu chứ. Mau đem nó lên xe.
Gã phu xe bồng Thủ Độ để nằm ở ghế sau, rồi ra roi cho ngựa chạy. Tới bờ sông Hồng, thiếu phụ ra lệnh:
- Đem nó vào khoang chính cho ta.
Nói rồi bà với cô gái leo lên tấm ván làm cầu, xuống con thuyền cực lớn. Thủ Độ được đặt nằm dài trên cái ổ rơm. Thiếu phụ cởi áo Thủ Độ ra xem, rồi nói:
- Cứ như y phục, thì đứa trẻ này không phải là ăn mày. Nó bị năm đứa trẻ khác dùng võ công Hoa sơn đả thương, rồi lại đái trên người. Song nó chỉ bị ngoại thương thôi. Bóp rượu thuốc vài lần thì khỏi.
Thủ Độ đã tỉnh, nó rên lên mấy tiếng. Thiếu phụ bảo gã phu xe:
- Người đem nó đi tắm, ta sẽ dùng rượu thuốc trị các vết thương cho nó.
Trong khi thuyền phu đưa Thủ Độ ra phía sau thuyền múc nước sông tắm cho nó, thì thiếu nữ giặt quần áo rồi hơ khô.
Thiếu phụ, thiếu nữ cùng dùng rượu thuốc thoa bóp cho Thủ Độ. Khoảng một khắc sau, nó cảm thấy bớt đau. Thiếu phụ hỏi:
- Cháu tên là gì? Bố mẹ cháu là ai?
Thấy thái độ từ ái của thiếu phụ, Thủ Độ không muốn nói dối. Nó nói thực:
- Mẹ cháu chết rồi. Còn bố cháu thì ở xa...xa lắm. Cháu ở với cậu mợ cháu.
- Ai đã hành hung cháu thế này?
- Cháu bị hai đứa em con cậu cùng ba đứa bạn nó xúm vào đánh cháu.
- Thương thế của cháu rất trầm trọng. Ta muốn đưa cháu về nhà ta, rồi mời thầy lang trị bệnh cho cháu. Ngặt vì luật nước rất nghiêm, chỉ người trong gia tộc mới có quyền nuôi trẻ. Vì vậy, ta mà đưa cháu về nhà ta, thì cậu mợ cháu sẽ kiện ta về tội dụ dỗ trẻ con. Vậy nhà cháu ở đâu, để sáng mai ta đưa cháu về ?
Thủ Độ nói dối:
- Nhà cháu ở phố hàng Trống.
Bấy giờ Thủ Độ mới chú ý đến thiếu nữ. Nàng ngang tuổi với nó. Nó đã từng thấy biết bao nhiêu người đẹp mà Thành cát Tư hãn bắt từ các nước đem về, thưởng cho các tướng. Nó cũng biết mẹ nó là công chúa đẹp nhất Đại Việt. Thời gian ở trong Hoàng thàn, nó từng thấy Hoàng hậu, Phi tần, người nào cũng đẹp... nhưng thiếu nữ này có sắc đẹp diễm ảo, như có, như không. Đôi mắt nàng đen, to, thực nhu mì. Nhưng khi nàng nhìn thẳng vào nó thì chiếu ra tia hàn quang cực mạnh. Mỗi cử chỉ, mỗi hoạt động của nàng như muôn nghìn đóa hoa đang nở.
Thiếu nữ hỏi nó :
- Này ! Người tên gì vậy ?
- Tôi...tôi tên Độ ! Độ là bến đò.
- Thế còn họ ?
- Tôi họ Đàm.
- Họ Đàm hả. Vậy người có bà con gì với Thái sư Đàm Dĩ Mông, Thái úy Đàm Thì Phụng không ?
- Không.
- Người đói rồi đây. Để ta lấy cái gì cho người ăn nhe.
Thiếu nữ vào khoang thuyền sau, lát sau nàng mang ra một bát cơm nóng, với cá bống mít kho. Thủ Độ ngồi dậy, nhưng nó vừa cử động, chạm đến vết thương, đau thấu tâm can. Nó lại rên lên một tiếng, rồi nằm xuống. Thiếu nữ an ủi :
- Người nằm đó đi. Ta...Ta đút cho người ăn.

Thiếu nữ lau tay rồi bốc cơm, nắm thành viên nhỏ, đút cho Thủ Độ. Tuy đau đớn khắp người nhưng được thiếu nữ tuyệt sắc đút cơm. Thủ Độ ăn ngon lành. Nó ăn hết hai bát cơm. Thiếu nữ lại lấy nước vối cho nó uống.
Thiếu nữ nói với thiếu phụ :
- Mẹ ơi ! Y đau đớn quá thế này, thì sao ngủ được ?
- Con cho y uống hai viên Định tâm hoàn.
Thiếu nữ lấy thuốc bỏ vào miệng Thủ Độ, rồi cầm bát nước kê lên môi nó. Nó hớp một hớp, hai viên thuốc trôi xuống bao tử. Thiếu nữ nói với mẹ :
- Phải chi mẹ đem y về nhà mình nuôi. Con dẽ chăm sóc y, rồi dẫn y đi trồng hoa, nuôi cá thì vui biết bao.
Thiếu nữ nói với Thủ Độ :
- Độ ơi ! Để ta ru người ngủ nhe.
Nàng cất tiếng hát :

Ạ ời ơi.
Phượng hoàng đậu chốn cheo leo,
Gặp khi bão táp a à a phải theo đàn gà.
Ạ ời ơi.
Bao giờ mưa thuận á à gió hòa.
Thay lông đổi cánh...ạ à lại ra phượng hoàng.
Ạ ời ơi.

Thủ Độ tỉnh giấc thì mặt trời đã lên cao. Thiếu nữ thấy nó thức thì reo lên :
- Tỉnh rồi ! Độ tỉnh rồi. Này Độ ơi ! Mẹ ta có việc phải vào thành. Mẹ bảo ta ở lại để chăm sóc người. Người thử ngồi dậy xem nào !
Thủ Độ cố gắng ngồi dậy, thiếu nữ reo :
- Khá lắm ! Để ta lấy cháo cá cho người ăn.
Thiếu nữ bưng ra bát cháo, nói :
- Cháo cá quả đấy. Ngon lắm, người ăn đi.
Thủ Độ ăn liền một lúc ba bát. Nó hỏi :
- Cô nương phương danh quý tính là gì ?
- Ta ấy à ! Ta họ Trần tên Kim Dung. Kim là vàng, Dung là cái bông hoa... À, tại sao mấy đứa con cậu của người lại đánh người ?
- Một trong năm đứa đanh nhau với tôi bị thua, rồi chúng kéo cả năm đứa đánh tôi để trả thù.
- Trước khi đi mẹ ta dặn rằng, sau Ngọ mẹ chưa về, thì ta đưa người về. Bây giờ quá Ngọ rồi, ta đưa người về thôi.
Thiếu nữ dắt Thủ Độ lên khỏi con thuyền. Nàng chỉ chiếc xe ngựa :
- Người lên xe đi. Ta đưa người đến phố hàng Trống. Bây giờ chúng ta tạm chia tay. Sau này có dịp về Thăng long, chúng ta lại đánh ngựa đi chơi khắp nơi.
Nghe thiếu nữ nói, Thủ Độ mất tự nhiên :
- Đó...là điều tôi... ước mong.
Hai người vừa lên xe, thì Thủ Độ bóp miệng hí lên mấy tiếng. Đó là tiếng của loài ngựa mà nó học đước khi còn ở Mông cổ. Con ngựa vỗ móng chạy về phía trước.
Thiếu nữ kinh ngạc :
- Đàm Độ này ! Người biết nói tiếng ngựa đấy à ?
- Tôi học được mấy trăm tiếng mà thôi.
- Người thử bảo nó quẹo phải xem nào !
Thủ Độ hí lên một tiếng. Con ngựa từ từ quẹo phải.
- Người bảo nó quẹo trái đi !
Thủ Độ lại hí, ngựa quẹo trái.
Hai trẻ cho ngựa chạy khắp phố phường. Kim Dung tỏ ra thông thạo đường lối. Mỗi khi qua một ngôi chùa mộỳt ngôi đền nàng lại giảng giải cho Thủ Độ nghe.
Khi xe đang chạy qua khu Văn miếu, thình lình phía trước có tiếng la hét náo loạn. Dân chúng tránh dạt ra hai bên. Giữa đường có chiếc xe bốn ngựa phi như bay. Thoáng nhìn Thủ Độ đã nhận ra bọn Gia thụy ngũ anh ngồi trên xe. Nó vội kéo cái nón che mặt, rồi ra lệnh cho ngựa ép sát vào bên đường. Khi hai xe giao nhau, gã Đoàn Thượng nhìn thấy Kim Dung thì reo lên :
- Trời ơi ! Người đâu mà đẹp như tiên thế kia. Quay xe lại.
Gã phu xe gò cương cho bốn ngựa dừng lại, rồi quay đầu. Thủ Độ quát liền ba tiếng, ngựa vọt lên như tên bắn. Phía sau gã Đoàn Thượng ra lênh cho mã phu :
- Đuổi thực gấp.
Phút chốc chiếc xe bốn ngựa đã đuổi gần kịp chiếc xe của Thủ Độ. Thủ Độ quay lại phía sau hí lên một tiếng ra lệnh cho bốn ngựa dừng lại. Bốn con ngựa đang phi, nghe hiệu lệnh, chúng cất cao vó trước lên rồi ngừng lại. Nhưng tên mã phu lại giật cương, ra roi. Bốn con ngựa sải bước đuổi theo ngựa Thủ Độ. Khi hai xe chạy song song với nhau, Long Xảm vẫy tay nói với Kim Dung :
- Xin tiên tử ngừng xe lại, ta có mấy lời muốn nói.
Kim Dung nhoẻn miệng cười :
- Người muốn nói gì thì nói đi !
- Tôi muốn thỉnh tiên tử sang xe bên này, rồi chúng ta cùng đi Cổ loa chơi.
- Không được đâu. Mẹ tôi bảo tôi phải về trước giờ Thân. Tôi mà đi như vậy, e mẹ đánh què.
- Phu nhân là ai ? Để tôi đến thưa chuyện với phu nhân.
Kim Dung hỏi ngược lại :
- Công tử là ai ? Mẹ tôi khó lắm, không phải ai cũng xin gặp được đâu.
Long Xảm cười lớn :
- Cô nương cứ đưa tôi đến yết kiến phu nhân. Cam đoan phu nhân nghe tên tôi, người sẽ cho cô nương theo tôi trọn đời.
- Công tử nói lớn lối quá vậy ? Công tử là ai ?
Nghe Kim Dung đối đáp với Long Xảm, Thủ Độ nổi cơn ghen, nó hí lên một tiếng dài, con ngựa của nó cất cao vó, thế là chiếc xe tứ mã vọt lên trước, chiếc xe của nó ở phía sau. Nó lại hí một tiếng, chiếc xe của nó quẹo sang trái, rồi vọt lên như tên bắn. Nó khoái trá cười ha hả. Kim Dung thấy trò chơi của Thủ Độ, nàng cực kỳ cao hứng, hướng chiếc xe bốn ngựa vẫy tay :
- Non xanh chưa hết củi, sông dài chưa cạn nước. Sẽ có ngày tái ngộ.
Gã đánh xe cho Long Xảm là một mã phu giỏi nhất của Kỵ binh Đại Việt, thoáng một cái, y đã cho ngựa quay đầu lại, đuổi theo xe Thủ Độ. Đến đây, gió thổi bay mất cái nón. Long Xảm đã nhận ra Thủ Độ. Nó hét lên :
- Anh em ơi ! Thằng khùng đây rồi.
Chiếc xe bốn ngựa đã đuổi kịp xe Thủ Độ. Long Xảm ra lệnh cho Nguyễn Dư :
- Hãy tung người sang bắt lấy nó.
Nguyễn Dư nhảy sang xe Thủ Độ. Khi y còn lơ lửng trên không, thì Kim Dung vung roi ngựa một cái, chiếc roi cuốn lấy cổ y. Kim Dung co tay một cái, Nguyễn Dư rơi tõm xuống cái hồ bên cạnh. Từ Thủ Độ cho tới bọn Long Xảm đều kinh ngạc, vì không ngờ võ côngKim Dung lại cao như vậy. Mặc Nguyễn Dư bơi lóp ngóp dưới hồ, Long Xảm vẫn hò hét bắt phu xe ra roi cho ngựa đuổi theo xe Thủ Độ.
Hai xe đã chạy song song. Long Thẩm cười ha hả :
- Thằng khùng ! Mày có chạy lên trời !
Đoàn Thượng, Bỉnh Du cùng phi thân sang bắt Thủ Độ. Kim Dung lại vung roi ngựa, hai đứa bay trở lại chiếc xe tứ mã, rơi trên đầu tên mã phu. Lập tức chiếc xe tứ mã chạy chậm lại.
Kim Dung hỏi Thủ Độ :
- Có phải năm đứa ban nãy nó đánh anh hôm qua không ?
- Đúng đấy.
Kim Dung cầm lấy dây cương, nàng đánh xe. Xe chạy một lúc thì tới hàng Trống, nàng gò cương cho ngựa dừng lại :
- Tôi chỉ có thể đưa anh tới đây thôi. Tôi phải đem xe đi rước mẹ tôi. Nếu chúng ta có duyên thì sau này gặp lại.
Thủ Độ bước xuống xe. Kim Dung ra roi cho ngựa chạy, nàng quay đầu lại :
- Mong tái hồi.
Chiếc xe quẹo sang phải, khuất vào cuối phố. Thủ Độ tần ngần đứng nhìn theo. Nó ngơ ngẩn như người mất hồn.
Thình lình có ai nắm tóc nó nhắc bổng lên :
- Mày chạy đằng trời con ạ.
Thì ra tên thị vệ Đông cung chuyên theo hầu cận Long Xảm tên Cao Kinh. Cao Kinh lấy dây trói Thủ Độ, rồi ném nó lên xe. Xe chạy tới đền Trấn võ, thì đã có bọn Gia thụy ngũ anh đang chờ. Cao Kinh cởi trói cho Thủ Độ, túm tóc nó ném xuống đất.
Long Xảm hô :
- Tẩm quất đi anh em ơi.
Thế là cả năm tên xúm vào tay đấm, chân đá cho đến khi Thủ Độ ngất đi mới thôi. Thủ Độ mơ mơ tỉnh tỉnh, khi trời gần sáng thì nó ngồi dậy được. Nó cố lê bước đi trong đêm.
Khi tới một ngôi chùa, nhìn tấm bảng trước chùa, nó bật lên tiếng kêu nhỏ :

- Thì ra chùa Chân giáo. Mẹ ta nói chùa này ông ngoại ta là vua Anh tông mới cho trùng tu. Ta vào đây qua đêm, rồi mai lên đường.
Nó vào sân chùa. Sân lát gạch, nên tuy trời mưa, mà không bị nước đọng. Trong chùa không có ai. Nó nằm dài ra dưới một gốc cây mà ngủ. Suốt đêm cơn đau hành hạ, nó lên cơn sốt, mê mê, tỉnh tỉnh. Khi trời gần sáng, đau quá, nó ngồi dậy, ngửa mặt nhìn lên, thì thấy mình nằm dưới gốc một cây đề lớn. Nó nghiến răng, ngửa mặt lên trời mà khấn:

"- Xin thần linh Đại Việt chứng cho. Tôi là Trần Thủ Độ, cha tôi là Trần Thủ Huy, mẹ tôi là Lý Đoan Nghi. Cụ tôi, ông bà tôi, bố mẹ tôi, chú bác tôi, cô dì tôi, đều đem hết tâm can ra để phù trợ họ Lý. Cha mẹ tôi đã cứu mạng Lý Long Trát ba phen... Tất cả những công ơn ấy, họ Lý trả ơn bằng cách đem cha mẹ tôi cống cho Tống. Bây giờ họ còn đánh lừa, gọi mẹ tôi về để giết chết. Tôi không thù, không oán với anh em Lý Long Xảm, Lý Long Thẩm, mà chúngỳ khinh miệt, hành hạ, đánh đập tôi đến như thế này. Xin thần linh phù hộ cho tôi. Nếu như quả họ Lý hết phúc, may mà tôi sống được, tôi thề sẽ giết tuyệt dòng họ Lý để trả cái hận này. Hôm nay, tôi bị Long Xảm đánh đến chết đi sống lại, phải nằm đây, thì sau này Long Xảm sẽ phải chết tại chỗ này. Kể từ khi cha tôi rời Thiên trường về Thăng long đến nay là 26 năm, thì đúng 26 năm nữa họ Lý sẽ tuyệt tử tuyệt tôn, Long Xảm cũng chết tại đây".

Khấn xong, thì trời sáng. Nó thấy dường như trên thân cây đề có chữ khắc vào đã lâu, vỏ hằn lên những nét sâu. Nó mở to mắt ra đọc:

" Thiên địa huyền hoàng,
Cương la mang mang.
Dĩ oán báo đức,
Thập bát tử thành.
Long xa thử địa,
Ty thằng u hoang
Ta hồ! Thống khổ,
Nhụ tử đoạn trường".

Nó cau mặt lại suy nghĩ, nhưng không hiểu ý nghĩa bốn câu đó.

Ghi chú của thuật giả.
Bài sấm này, tôi lấy trong gia phả của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc.
Sấm ký vào thời Lý Trần rất thịnh. Khi một bài sấm truyền ra, đương thời rất ít ai hiểu nổi. Phải chờ đến khi sự việc diễn ra xong, người ta mới vỡ lẽ.
Bài sấm này, xuất hiện vào năm Thiên tư Gia thụy thứ năm (DL.1194, Giáp Dần) khắc vào cây đề ở sau chùa Chân giáo trong thành Thăng long. Bấy giờ quan Thái phó Lý Kính Tu sai chép lại, rồi giải đoán, nhưng không ra. Phải chờ cho đến niên hiệu Kiến trung thứ nhì đời vua Trần Thái tông (DL.1226, Bính Tuất), khi vua Lý Huệ tông thắt cổ trên cây ổi này chết, người ta mới hiểu rõ nghĩa.
Sự thực nghĩa tám câu này như sau: Trong khoảng trời đất mênh mông này, lưới trời lồng lộạng. Kẻ lấy oán thù mà báo đức của trăm họ chính là triều Lý (chữ thập, chữ bát, chữ tử thành chữ Lý). Rồng sẽ sa ở đây, bởi sợi dây tơ oan nghiệt vào lúc mặt trời lặn. Than ôi, Đau khổ biết bao! Thương thay đứa trẻ khổ sở, đến đứt ruột ra được.
Lời nguyện của Thủ Độ vào đúng giờ linh, tại nơi có bài sấm định mệnh. Nên sau này Long Xảm lên ngôi vua, tức Lý Huệ tông, bị mất ngôi vua về họ Trần. Rồi sau 26 năm, vua Lý Huệ tông treo cổ tại cây ổi này mà chết.(Ty là tơ, thằng là giây, u hoang nhật là mặt trời lặn, nghĩa là chữ xảm).

Chân giáo là ngôi chùa nằm trong thành Thăng long, được kiến tạo vào tháng 9 niên hiệu Thuận thiên thứ mười lăm, đời vua Lý Thái tổ (1024) để hằng ngày vua ra đó niệm Phật. Đến niên hiệu Chính long Bảo ứng thứ 7 thời vua Lý Anh tông (1169), vua đã cho trùng tu lại. Thành ra ngôi chùa này gần như dành cho Hoàng tộc đến lễ Phật, nghe kinh. Hôm ấy, tuy là ngày mười sáu, nhưng từ sáng sớm, các bà phi, cung nga, phu nhân đã tấp nập đến lễ bái. Ngoài cổng chùa, tiếng ngựa hí, tiếng người chào hỏi nhau ồn ào. Ăn mày xếp hàng chờ thập phương bố thí. Trong chùa tăng chúng chia nhau ra đón khách.
Trên người Thủ Độ đầy những vết thương thâm tím, có chỗ chảy máu. Nó nằm co ro dưới gốc cây đề sau chùa, không ai để ý đến nó. Khoảng giờ Ngọ, khi chuông chùa đổ, nó mới giật mình thức giấc. Trong cơn mơ mơ tỉnh tỉnh, nó bật lên tiếng kêu:
- Khát nước! Xin cho uống nước!
Một phụ nữ lớn tuổi làm công quả trong chùa, nghe tiếng kêu, phát hiện ra nó. Bà chạy lại sờ trán nó, thấy trán nó nóng bỏng, bà vội dụt tay lại. Bà lên tiếng gọi:
- Sư bác ơi! Có th

egeo 06-19-2004 04:38 PM



C33:BÓNG MA LONG THÀNH.


Một buổi trưa, Thủ ĐộÔ rửa chuồng ngựa, rồi dùng khăn lau mấy cái cột. Lớp bụi bám trên cột tróc ra, nóÔ thấy trên cột xuất hiện những chữ li ti. Tò mò nó đọc, bất giác tim nó đập thình thình, vì rõ ràng đây là yếu quyết luyện công. Nó đọc qua, thì thấy dường như trái với tâm pháp Đông a mà bốÔ nó dậy nó. Nó nghĩ thầm:
- Tâm pháp gì đây mà lại có 99 câu? Trong khi ta không biết gốc tích, thì cứ gọi là Tâm pháp Chuồng ngựa vậy.
Vốn thông minh, nó nhẩm hơn nửa buổi thì thuộc làu. Sau khi kiểm lại, nó dùng dao, cạo xóa hết những chữ trên cột chuồng ngựa:
- Cứ như mẹ ta nói, các đời trước, họ Lý có không biết bao nhiêu anh hùng, tài trí. Tâm pháp võ công này, ai đã khắc vào đây? Rõ ràng là tài sản của anh em Long Xảm, thế nhưng chúng không thèm biết tới, thì ta hủy đi cho đỡ tủi vong linh người quá cố.
Chiều hôm đó, nằm trong chuồng ngựa ngủ, Thủ Độ lên cơn đau gan. Người nó nóng như cục than hồng. Nó nghiến răng vận công chống đau, nhưng cơn đau vẫn làm nó gập đôi người lại. Trong lúc mơ mơ hồ hồ, nó vận công theo Tâm pháp Chuồng ngựa, thì thấy cái đau đớn giảm đi rất nhiều, nhiệt độ hạ xuống rất mau. Không cần biết có nguy hiểm hay không, nó cứ tiếp tục vận công, lát sau, thì người nó cảm thấy rét run. Rét kệ rét, nó tiếp tục vận công cho đến khi ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, tiềm thức thúc đẩy, nó vận công tiếp.
Sáng hôm sau thức dậy, nó cảm thấy bụng phình lên đầy nước tiểu, nó phóng ra một hơi dài, rồi suốt ngày, nó cứ đi tiểu đều đều. Đến chiều thì bụng nó không còn chướng lên như cũ nữa. Người nó cảm thấy mát mẻ dễ chịu kỳ lạ. Nó án tay vào vùng gan, vùng tim, vùng lá lách, thì thấy cảm giác đau đớn chỉ còn hơi hơi mà thôi. Nó nghĩ thầm:
- Không cần biết Tâm pháp Chuồng ngựa là tâm pháp nào, ta luyện, mà thấy khỏi bệnh, thì ta cứ luyện.
Từ đấy, ngoài những lúc tắm ngựa, quét dọn, nó tiếp tục luyện Tâm pháp Chuồng ngựa. Bọn Gia thụy ngũ anh lôi nó ra đấu võ, nó không trả đòn, cứ để mặc chúng muốn đấm, muốn đá gì nó chỉ vận công chịu trận. Sau đó chúng dùng roi, dùng gậy đánh nó, nó không còn thấy đau nữa. Ít lâu sau chúng chán nản, không hành hạ Thủ Độ nữa.
Từ hôm chia tay với Kim Dung, hình bóng của người thiếu nữ ôn nhu, văn nhã luôn hiện lên trong tâm nó. Những lúc nhớ nhung quá, không chịu nổi, nó lại ra thuê xe ra bến sông Hồng, nơi con thuyền neo, mà bà mẹ Kim Dung đưa nó xuống trị bệnh. Nhưng lần nào cũng như lần nào, nó chỉ thấy nước sông đỏ ngầu, cuồn cuộn trôi về cuối dòng mịt mờ. Còn bóng hồng thì tuyệt vô âm tín.
Thời gian một năm trôi qua. Thủ Độ đã luyện xong 99 câu quyết. Nó nhẩm tính, cái thời hạn một năm mà Vũ Phòng Phong bảo nó chết đã qua rồi. Nó định bụng hôm nào có dịp sẽ trốn ra ngoài thành thăm ông, để xin ông chẩn bệnh lại cho nó.
Hôm ấy, như thường lệ, Cao Kinh mở khóa, mở xích chân Thủ Độ, rồi ra lệnh rằng nó phải dẫn đoàn ngựa ra ngoài Ngự xạ đài ở ngoài thành Thăng long, thả ngựa phi, để khỏi bị mỡ đọng ở bụng. Ngựa vừa tới nơi, thì một con giật dây cương, phi nước đại. Lập tức chín con khác cũng phi theo. Thủ Độ bật cười, nó dùng tiếng loài ngựa gọi chúng lại, nhưng chúng vẫn hí inh ỏi rồi thi nhau phi. Thủ Độ chờ chúng phi hết một vòng sân, khi chúng phi ngang trước mặt nó, nó nhảy theo, chụp dây cương con đầu đàn. Con ngựa này hí lên, lách sang một bên, khiến Thủ Độ chụp hụt. Nó lao mình vọt theo đàn ngựa, thì lạ lùng chưa, chỉ nửa khắc nó đã đuổi kịp. Đàn ngựa thấy có đồng bạn mới, chúng càng ra sức sải bước, thế nhưng Thủ Độ vẫn theo kịp. Phi khoảng mười vòng Ngự xạ đài, thì đàn ngựa từ từ phi chậỳm lại, rồi ngừng hẳn. Thủ Độ cũng ngừng lại. Nó kinh ngạc:
- Tại sao khinh công ta lại mau thế này? Hồi ở Mông cổ, khinh công cao nhất là mẹ ta, mà cũng chỉ có thể chạy ngang với ngựa trong vòng 50 dặm mà thôi. Cái vòng sân này, mỗi vòng tới 20 dặm, mà ta chạy tới mười vòng, thì trải qua 200 dặm mà ta không hề mệt mỏi là tại sao?
Sau khi dẫn ngựa ra bờ sông tắm, rồi lùa bầy ngựa trở về. Trên đương đi, thấy có một lò rèn nó ngừng lại hỏi:
- Ông ơi, ví thử tôi có cái khóa, mà mất chìa, thì ông có thể làm cho tôi cái chìa khác không?
Người thợ rèn mở to mắt nhìn Thủ Độ, gật đầu:
- Dĩ nhiên là được. Vậy khóa của cậu đâu?
- Tôi sẽ mang ra sau.
Trưa hôm ấy, Thủ Độ trở về Đông cung thì Cao Giới dùng xích khóa chân nó như thường lệ. Đợi Cao Giới cũng như bọn Gia thụy ngũ anh đi rồi, Thủ Độ trốn ra gặp người thợ rèn, xin làm chìa khóa. Không đầy hai khắc, người thợ rèn đã làm xong hai cài chìa khóa. Thủ Độ không về Đông cung, nó đến Đệ nhị y viện Hồng lĩnh tìm y sư Phòng Phong. Sau hơn một năm xa cách, Thủ Độ đã lớn lên, nhưng Phòng Phong, cũng nhận ra nó. Ông kinh ngạc:
- Đàm Độ! Từ hồi ấy đến giờ cháu đi đâu?
Ong lên tiếng gọi vợ:
- Em ra mà xem này! Thằng bé đó còn sống này!
Bà Bạch Hạc từ sau vườn chạy lên, thấy Thủ Độ, bà reo:
- Từ hồi ấy đến giờ cháu ở đâu?
- Cháu bị tù khổ sai.
- Khổ sai? Ta không tin!
Bạch Hạc kể: Sau khi cháu và Ba Huy đi rồi, thì ta không được tin tức gì của cháu cả. Hơn tháng sau, ta trở về Thiên trường thăm song thân, người kinh ngạc vô cùng, vì không thấy cháu cũng như Ba Huy về. Trong câu chuyện, hai đứa con của em Lý ta là Tự Thừa, Tự Khánh thuật lại một việc: Cũng ngày hôm đó, ba đứa từ Kinh Bắc về Thiên trường. Khi qua ngã ba Thăng long, Trường yên, Thiên trường chúng gặp một thiếu niên, đấu võ với bọn Gia thụy ngũ anh. Ta đoán ngay ra là cháu. Thái tử Long Xảm truyền bắt giam cháu, vì cháu là nô bộc của y, phạm tội ăn cắp rồi bỏ trốn. Tự Thừa không cho Tự Khánh can thiệp vào chuyện của triều đình, nhất là dây dưa với nô bộc của họ. Hơn nữa, nô bộc phạm tội ăn cắp. Song thân ta, cũng như vợ chồng Lý đều không quan tâm tới vụ này, bởi ai cũng tưởng cháu là tội phạm của triều đình. Nhưng có một điều lạ lùng ta không hiểu: Ba Huy đi đâu mà không thấy y trở về?
Thủ Độ hỏi lại:
- Ông Ba Huy không về đây, vậy ông í đi đâu? Không lẽ ông ta bị bọn Long Xảm bắt giam.
- Không chừng như vậy!
Phòng Phong vẫy tay cho vợ im lặng, rồi ông bắt mạch Thủ Độ. Trán ông cau lại tỏ vẻ đăm chiêu. Cuối cùng ông nói:
- Cháu đã muốn dấu thân thế, để giữ lời hứa với người dạy võ công cho cháu, thì ta cũng không muốn cật vấn cháu. Bây giờ ta chỉ luận về bệnh của cháu mà thôi.
Ông nói với vợ:
- Năm trước, anh nói, muốn trị nội thương của Đàm Độ, thì phải có hai người luyện nội công tới trình độ thượng thừa. Một người luyện nội công âm nhu, một người luyện nội công dương cương, hỗ tương cứu nó. Nội công dương cương, thì trong phái Đông a nhà ta không thiếu. Còn nội công âm nhu thì chỉ có Đoan Nghi. Thế nhưng trong năm qua, không biết cơ duyên nào đưa đến, mà cháu nó lại luyện trọn vẹn tâm pháp của phái Đông a, rồi lại luyện nội công âm nhu chính tông của phái Mê linh nữa. Không những bệnh của cháu khỏi hẳn, mà công lực của nó bây giờ hiếm người so sánh!
Bạch Hạc nắm lấy tay Thủ Độ bắt mạch. Muốn thăm dò công lực nó, bà dồn chân khí vào người nó. Một nguồn nội lực âm dương hỗ tương hợp với nhau chống trả rất mãnh liệt. Thấy vậy, bà dồn thêm chân khí sang, thì nội lực của nó càng chống lại mạnh hơn, rồi thình lình một nguồn nội tức mạnh không thể tưởng tượng nổi phản ứng, khiến bà không tự chủ được, người bật tung lại sau đến hơn trượng. Bà phải dùng thiên cân trụy mới đứng vững.
Phòng Phong hỏi vợ:
- Em thấy thế nào?
- Nội lực của nó mạnh quá. Có lẽ chỉ sư phụ mới luyện tới mức này mà thôi. Cũng may đây là phản ứng tự nhiên, chứ nếu nó dùng công lực tấn công, thì em đã bị thương rồi.
Phòng Phong suy nghĩ một lúc, người ông đờ ra:
- Ta thấy dù cháu nó có luyện cả nội công âm nhu, dương cương, thì ít ra phải mười năm mới thành công. Với tuổi của nó chưa thể luyện đến trình độ này. Nhưng trên thực tế, thì lại có...
Ông nói một mình:
- Trong lịch sử võ lâm Đại Việt, chỉ có hai người hợp được cả âm dương, thì một là Vạn tín hầu Lý Thân. Hai là Bắc bình vương Đào Kỳ. Nhưng đó chẳng qua là truyền thuyết. Chứ thực tế, xưa bác học như tổ Tự An, Thông Mai, Tự Mai của phái Đôngậ a cũng không thể làm được!
Ông hỏi Thủ Độ:
- Cháu tìm đâu ra tâm pháp nội công âm nhu?
Thủ Độ thuật lại vụ nó tìm ra trong trường hợp nào, tại chuồng ngựa!
Phòng Phong, Bạch Hạc cùng lắc đầu không hiểu.

Phòng Phong, Bạch Hạc, Thủ Độ không hiểu là phải. Nguyên nội công âm nhu do Vạn tín hầu Lý Thân tìm ra từ thời vua An Dương. Đến thời Lĩnh Nam chỉ có Bắc bình vương Đào Kỳ, Tể tướng Nguyễn Phương Dung, công chúa Phật Nguyệt là luyện thành. Sau khi Lĩnh Nam bị Hán đô hộ, thì nội công này bị tuyệt tích. Đến thời vua Lý Thái tổ, công chúa Bình Dương tìm được bia đá do công chúa Trần Năng để lại, rồi luyện thành. Sau công chúa Bình Dương truyền cho đệ tử là Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân hoàng thái hậu chép vào cái áo hồ cừu. Hai mươi năm trước, Thái tử Long Xưởng chép từ áo hồ cừu vào cái cột ở phòng luyện võ Đông cung, để dạy cho công chúa Đoan Nghi, quận chúa Từ Thụy Hương. Nhưng chỉ mình Đoan Nghi luyện thành. Bây giờ vô tình Thủ Độ tìm ra, rồi luyện thành. Vấn đề khúc mắc như vậy, thì ai hiểu nổi?

Phòng Phong hỏi:
- Ví dù công chúa Đoan Nghi có truyền tâm pháp âm nhu cho cháu đi. Nhưng, làm sao cháu có thể tổng hợp cương nhu làm một! Hà! Cháu đã gặp may trong trường hợp nào? Cháu nên nhớ từ bao nhiêu năm nay, các đại tôn sư đều mơ màng, sao có thể hợp được hai loại nội công cương, nhu, song vô ích.
Thủ Độ thuật lại chi tiết việc nó tìm thấy nội công chuồng ngựa, rồi trong lúc lên cơn đau đớn, nó dùng để chống lại cơn đau gan, tỳ, tâm, do bọn Long Xảm đánh nó.
Phòng Phong à lên một tiếng:
- Ta hiểu rồi! Trường hợp của cháu cũng giống như Bắc bình vương Đào Kỳ khi xưa! Âu là cái duyên.
- Thưa đại phu Bắc bình vương đã luyện thành trong hoàn cảnh nao ?
- Cháu nên nhớ, âm dương là hai thể tố được hình thành do trời đất, hỗ tương xung khắc nhau, hỗ tương kiềm chế nhau, hỗ tương sinh ra nhau mà tồn tại. Trong âm có dương, trong dương có âm. Mặt trời, ánh sáng, đàn ông, ban ngày, phía trên, hoạt động, phía sau, bên phải, phía trên là dương. Mặt trăng, bóng tối, đàn bà, ban đêm, phía dưới, tĩnh chỉ, phía trước, bên trái, phía dưới là âm.
- Cháu không hiểu thế nào là âm sinh ra dương ; dương sinh ra âm cũng như trong âm có dương, trong dương có âm.
- Để ta cho cháu một tỷ dụ. Aạm sinh ra dương là gì ? Như khi ta ăn uống. Thức ăn là vật chất, thuộc âm. Ta ăn vào, trong cơ thệ sinh ra khí. Khí là dương. Thế có phải âm sinh ra dương không ! Hay cụ thể hơn, bà mẹ là âm, sinh ra đứa con trai là dương !
- Thế còn dương sinh ra âm ? Oạng bố là dương, có thể sinh ra con gái là âm. Trong cơ thể, khí là dương, tuần lưu khiến cho can, tỳ sinh ra huyết. Huyết là âm. Còn như trong âm có dương, trong dương có âm...
Thủ Độ reo lên :
- Cháu hiểu rồi !
- Cháu thử nói ta nghe xem có đúng không nào ?
- Như đại phu nói, phía trước là âm phía sau là dương. Phía trên là dương phía dưới là âm. Như vậy lưng là dương. Nhưng chia lưng làm hai phía trên là dương, phía dưới là âm.
- Giỏi. Cháu đã học về Âm Dương rồi à?
- Vâng! Thầy Phạm Kính Ân dạy cháu về học thuyết Âm Dương Ngũ hành trong kinh Dịch.
Phòng Phong vồ tay reo:
- Hay! Còn như cháu luyện nội công dương cương từ nhỏ. Bây giờ trong lúc ngủ, nội tức dương cương chạy về đơn điền. Ttong cơ thể của cháu trống rỗng. Vì đau đớn, tiềm thức làm việc, luyện nội công âm nhu. Thế là âm nhu, dương cương hợp với nhau, thành một thứ nội công tổng hợp.
- Giỏi. Còn một điều cháu không biết nữa, là phàm khi luyện nội công dù dương hay âm, khi nội tức sinh ra mười phần thì chỉ lưu lại cơ thể có một phần thôi. Khi cháu luyện thành âm dương hòa hợp, thì lúc luyện nội công âm nhu sinh ra bao nhiêu chân khí, sẽ hợp với chân khí dương cương, thành nội lực của cháu. Ngược lại, cháu luyện nội công dương cương, bao nhiêu chân khí dương cương sinh ra sẽ hợp với chân khí âm nhu thành nội lực của cháu. Thành ra cháu chỉ luyện một năm bằng người ta luyện mười năm.
Phòng Phong nắm tay Thủ Độ :
- Phép luyện công của các phái trong thiên hạ, hoặc là cương, hoặc là nhu. Ít khi có phép luyện cương nhu hợp nhất. Thiền công là thứ cương nhu hợp nhất. Trong các môn phái của Đại Việt, thì nội công của phái Sài sơn, Tản viên, Mê linh hoàn toàn gốc từ tổ tiên để lại. Duy phái Tiêu sơn thì gốc do Bồ tát Tỳ ni Đa lưu chi truyền Thiền công vào, rồi các tổ Đại Việt sửa đổi, phát minh thêm mà thành. Nội công phái Đông a phát xuất từ Thiền công Tiêu sơn, rồi các đời sau tục gia hóa đi...Thế nhưng cương, hay nhu đều là nội công thuộc dương tính cả. Duy phái Mê linh là có pho nội công âm nhu, gồm 99 câu tâm pháp, rất ít người luyện được trọn vẹn. Thế hệ nào đông nhất, thì cũng chỉ có đâu mươi người là cùng. Còn nhưng luyện được cả âm lẫn dương thì từ sau Bắc bình vương Đào Kỳ đến giờ, mới có mình cháu. Ngài có thời thơ ấu hơi giống cháu. Ngài học võ với cha mẹ. Cả cha lẫn mẹ đều luyện nội công dương cương. Khi phải xa bố mẹ , ngài mới có mười tuổi, công lực dương cương không làm bao. Rồi cơ duyên đưa đẩy, ngài lại được lão đại hiệp Nguyễn Phan truyền nội công âm nhu cho. Rồi ngài cũng luyện trong lúc ngủ, mà hòa hợp làm một.
Nghe Phòng Phong nói, trong tâm Thủ Độ nghĩ :
- Cứ như lời vị y sư này, với công lực của ta hiện thời, ta thừa sức thắng bọn Gia thụy ngũ anh. Ta muốn trả hận lúc nào cũng được. Ta không cần đi Thiên trường nhờ ông bà ta, bác ta truy tầm thủ phạm trả thù mẹ nữa. Ta có thể tự làm lấy, mà không cần nhờ vả ai.
Bạch Hạc hỏi Thủ Độ:
- Bây giờ cháu có về Đông cung nữa không? Hay cháu đi Thiên trường?
- Hiện cháu còn một vài việc phải làm, nên cháu cần phải trở về Đông cung. Sau đó cháu sẽ đi Thiên trường.
Bạch Hạc vuốt má Thủ Độ:
- Mừng cho cháu. Bây giờ với công lực này, thì võ lâm thiên hạ không mấy người bằng cháu. Thế thì cái bọn bị thịt Gia thụy ngũ anh không còn bắt nạt cháu được nữa. Hôm trước chúng nói, cháu là tôi tớ của chúng. Vậy cha mẹ cháu bán cháu cho chúng chăng?
Nghe Bạch Hạc nói, Thủ Độ mừng lắm. Nó nghĩ thầm:
- Bây giờ ta đã biết chắc bà này là chị của bố ta. Bà là cô ta. Ta cũng đã thấy các anh Thừa, Khánh. Họ là những người hiệp nghĩa, chứ không ác độc như bọn Long Xảm. Ta cần xuất hiện để nhận họ hàng, để tìm ra thủ phạm đã sát hại mẹ ta. Ta cũng chẳng cần giấu giếm thân phận nữa.
Nghĩ vậy nó nhìn Bạch Hạc bằng con mắt thiện cảm:
- Thưa cô, bố mẹ cháu là những người có thân phận cực lớn, lại có thâm tình với cô. Hiện bố cháu ở xa. Còn mẹ cháu thì qua đời rồi. Cái người mà cháu nói rằng bà qua đời, nhờ cháu chuyển di chúc cho năm người... là nói dối. Người qua đời chính là mẹ cháu. Mẹ cháu bị người ta dùng loạn tên bắn chết. Trước khi chết, mẹ cháu dặn cháu chuyển di chúc cho năm người, để truy lùng thủ phạm, trả thù cho mẹ cháu!
Nó nghiến răng:
- Còn bọn Gia thụy ngũ anh, thì hai đứa thuộc loại thâm tình của cháu. Không thù, không oán, chả hiểu sao mà từ khi mới gặp nhau, chúng đã tỏ ra ác độc với cháu. Cháu đâu có là gia bộc của chúng? Thế mà, trên đường đi Thiên trường, chúng bắt cháu về, rồi hành hạ vô cùng tàn nhẫn.
Thủ Độ thuật lại tất cả những phương cách Long Xảm hành hạ nó một lượt. Nghe Thủ Độ kể, muôn ngàn lần Bạch Hạc không thể tưởng tượng nổi nó là con của Thủ Huy với Đoan Nghi. Căn cứ vào câu Long Xảm, Long Thẩm với nó là chỗ thâm tình, nàng lại tưởng nó là cháu của Minh Đạo vương. Bà rùng mình, than:
- Xưa, Thái tổ nhà Lý là Công Uẩn, nhân vua Ngọa triều ác độc, mà được thiên hạ. Vì vậy khi lên ngôi vua, ngài lấy đức từ bi, hỷ xả của nhà Phật mà trị dân. Bây giờ trong triều thì Thiên gia Bảo hựu hoàng đế vô đạo, hoang chơi, dâm dật. Tất cả việc triều chính phó cho Đàm Dĩ Mông. Y vốn vô tài, mà lại muốn chuyên quyền, vì vậy những người có tâm huyết bỏ đi hết. Quyền hành lại vào tay họ Đàm. Hai vương Kiến khang, Kiến bình không được trao quyền. Tương lai, khi nhà vua băng, thì Đàm hậu lại chuyên quyền, cái tệ gà mái gáy có cơ trở lại. Đàm hậu chọn cho Long Xảm ba Thiện nhân, đều là những đứa trẻ vô học bất thuật, xúi Long Xảm làm những việc ác độc còn hơn vua Ngọa triều...
Bà thở dài:
- Hỡi ơi! Trước đây gần hai chục năm, em ta là Thủ Lý đã sớm nhìn ra. Y trình với ông nội ta, phụ thân ta sớm rút chân ra khỏi vũng lầy của triều đình. Còn Thủ Huy thì muốn giết tuyệt bọn quan lại vô lương, giết tuyệt bọn ngoại thích. Vì chỉ có thế mới thay đổi được cục diện của Xã tắc. Làm thế thì có khác gì thay đổi triều đình? Ta nghe em ta hiện ở nước Mông cổ xa xôi, gác kiếm không lý gì đến triều đình Đại Việt. Tình dân, thế nước như vậy, nên trong triều, ngoài dã, ai cũng mong Thủ Huy trở về cầm quyền.
Bà nắm tay Thủ Độ:
- Con đang gọi ta là bà, thình lình đổi cách xưng hô, gọi ta là cô, ắt phải có nguyên do. Khi con không phải là tôi tớ của Long Xảm, thì con có thể bỏ đi khỏi Đông cung, mà không ai nói năng gì được.
- Vâng. Con đoán, hung thủ giết mẹ con ắt thuộc bọn quyền quý ? Con con chưa tìm ra hung thu, con phải ở lại Đông cung ít lâu nữa.
- Vậy, con cần dấu thân phận kỹ hơn nữa. Khi bọn Gia thụy ngũ anh thách đấu, con đừng vận công chống trả, cũng đừng phản công. Như vậy hung thủ khinh thường con, con mới có thể dò ra tung tích chúng... À, con đã học được những võ công gì của Đông a?
- Bố con dạy con tất cả tâm pháp nội công. Còn ngoại công thì chỉ mới có quyền pháp, chưởng pháp, kiếm pháp.
- Tuy ta không biết rõ song thân con là ai, ta vẫn dạy con một pho võ công liệt vào hàng trấn môn, đó là Cương la thập bát thức.
- À!
- Con đã nghe nói về Cương la thập bát thức rồi à?
- Vâng.

- Pho võ công này là tâm huyết của cả đời thái sư phụ ta đã chế ra. Muốn học bộ võ công này, trước nhất phải luyện hết phần căn bản võ công bản phái, lại phải thông Dịch lý. Phần căn bản thì con đã học rồi. Vậy từ mai, con cố gắng tìm dịp ra đây, ta sẽ giảng Dịch lý cho con trước.
- Thưa cô, con đã học kinh Dịch rồi. Con học rất kỹ.
- Con học ở đâu? Ai đã dạy con?
- Con học ở Quốc tử giám. Thầy dậy con là Kinh diên quan Phạm Kính Ân.
- Vậy thì con có thể học ngay từ ngày hôm nay.
Bạch Hạc dẫn Thủ Độ ra sau y viện. Vừa trông thấy khu vườn rộng ước hơn mẫu (3600 mét vuông ngày nay), trồng hoa, cỏ. Cạnh đó có cái ao khá lớn. Thủ Độ bậỳt lên tiếng kêu:
- Chà! Cô trồng cỏ thành hình Cửu cung Bát quái đẹp quá.
Muốn thử Thủ Độ, Bạch Hạc hỏi:
- Trong hai khu trồng cỏ này, một khu theo hình Tiên thiên, một khu theo hình Hậu thiên. Vậy trước hết cháu hãy đi theo hình Hậu thiên. Khởi đầu bằng quẻ Càn.
Thủ Độ tung mình vào khu hình vuông, đặt chân vào sáu vạch liên tục, đứng chờ.
Bạch Hạc hô:
- Thiên phong cấu.
Thủ Độ vừa di chuyển, thì Bạch Hạc hô tiếp:
- Cung Cấn , Địa Thiên thái.
Sau hơn hai khắc, Bạch Hạc bắt Thủ Độ di chuyển suốt 64 quẻ. Nó cảm thấy chân khí cuồn cuộn lưu thông khắp cơ thể, người nó nhẹ nhưng bông.
Bạch Hạc chỉ lên một bức tường. Trên tường treo đủ các dụng cụ đánh cá như: Cụp, vó, rộng, te, nơm, lưới, chài, lờ, đó. Bà giảng:
- Tổ tiên của dòng họ Đông a nhà ta tại vùng Khúc giang, xuất thân làm nghề đánh cá. Nay thuộc Quảng Đông bên Trung quốc. Thời vua An Dương, viễn tổ Trần Tự Minh được phong tước Phương chính hầu, lĩnh chức tể tướng. Khi vua Thủy Hoàng nhà Tần, sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân sang đánh Âu lạc. Vua An Dương truyền rút khỏi ba quận Nam hải, Quế lâm, Tượng quận. Ba chi của họ Trần bất khuất, bỏ Khúc giang di chuyển xuống vùng Lục hải. Con có biết Lục hải hiện nay là vùng nào không?
- Là vùng bờ biển từ Tiên yên tới Thanh hóa. Như vậy tổ tiên dòng họ Trần ở Thiên trường với Khúc giang là một.
- Rời Khúc giang, tổ tiên ta vẫn giữ nghề đánh cá. Vì vậy, cho nên môn phái Đông a rất giỏi thủy chiến, đấu võ trên thuyền, dưới nước. Dĩ nhiên đứng đầu thiên hạ về việc dùng dụng cụ đánh cá làm vũ khí... Cho nên thái sư phụ của ta mới chế ra Thiên la thập bát thức. Thiên la là lưới nhà trời, ở đây vũ khí là cái chài.
Bà lấy cái chài ra trao cho Thủ Độ:
- Cái chài có nhiều mắt lưới, nhỏ, to, rộng hẹp tùy theo loại. Chài đan theo hình cái nơm, gồm tám múi. Mỗi múi ngăn cách với nhau bằng một sợi dây lớn gọi là cương. Một đầu tám sợi dây buộc chặt vào một sợi dây cái, rất lớn, dài từ một tới ba trượng. Một đầu được buộc vào một sợi dây cương nữa. Sợi dây này hình tròn. Trong tám múi, mỗi múi móc tám viên chì hình trám. Tổng cộng 64 viên chì mang tên 64 quẻ Tiên thiên. Khi đánh cá, ngư phủ cầm chài vung ra, tỏa thành hình tròn bát quái, úp xuống nước. Trong phạm vi vòng tròn, bao nhiêu tôm cá bị úp vào trong. Ngư phủ cầm sợi dây kéo lên thuyền, gỡ tôm cá ra.
Giảng xong, Bạch Hạc cầm cái chài đến bờ ao. Bà vung tay lên, cái chài xòe ra, chụp xuống mặt nước đến rào một tiếng. Chờ cho chài chìm xuống nước, Bạch Hạc cầm sợi dây cái kéo lên. Trong chài, hàng chục con cá lớn nhỏ mắc vào. Thủ Độ reo lên, nó gỡ những con cá ném xuống ao. Bạch Hạc nghĩ thầm:
- Đứa nhỏ này có bản tính hiền hậu đây.
Bà giảng:
- Cương la thập bát thức như tên mang, có 18 thức. Mỗi thức biến hóa ra âm dương, thành 36. Khi sử dụng thì âm là hư, dương là thực, biến hóa ra 36.
Bà ngừng lại:
- Còn như con, con luyện được cả nội công dương cương lẫn âm nhu, thì con có thể sử dụng chiêu âm thành thực, triêu dương thành hư. Cũng có thể cả âm, lẫn dương đều hư, đều thực. Thế là 36 thành 216. Đối thủ không biết đâu mà lường. Nhưng Âm dương chia ra Thái âm, Thiếu âm, Khuyết âm. Dương chia ra Thái dương, Thiếu dương, Dương minh, bây giờ 216 thành 1296 chiêu. Mỗi hư, thực lại biến theo 64 quẻ thành 82.944 chiêu. Uy lực vô song.
Thủ Độ cầm cái chài, vận khí, tay vung lên, chân bước theo 64 quẻ Bát quái. Khoảng hai giờ (4 giờ ngày nay) nó đã thành thuộc 18 thức căn bản.
Trời đã về chiều, Bạch Hạc dặn nó:
- Trở về, con tìm chỗ vắng, tiếp tục luyện tập. Mai lại ra đây, ta sẽ kiểm lại, rồi dạy tiếp.
Thủ Độ từ biệt ông bà Phòng Phong, trở về Đông cung. Trên đường đi, qua chợ, trước cửa hàng bán đồ chơi cho trẻ con. Một thiếu niên ngang tuổi với nó nắm áo nó kéo lại :
- Này, đằng í có tiền, mua ít đồ chơi đi.
Tò mò nó dừng chân bước vào trong. Đứa trẻ bán hàng chỉ cho nó những đồ bằng đất nung như voi, trâu, ngựa, :D mèo, cọp. Nó lắc đầu. Thằng bán hàng lại chỉ cho nó xem mấy cái mặt nạ : Mặt nạ khỉ, mặt nạ trâu, mặt nạ lợn, mặt lạ :D mặt nạ quỷ Vô thường, mặt nạ quỷ đầu trâu, mặt nạ quỷ mặt ngựa, mặt nạ ma đói. Chợt động tâm tư, nó nghĩ :
- Ta mua mấy cái mặt nạ này, đợi đêm tối, nhát bọn Gia thụy ngũ anh cho chúng sợ té đái, vãi phân ra.
Nó mua một cái mặt quỷ Vô thường, quỷ đầu trâu, quỷ mặt ngựa rồi trở về Hoàng thành.
Nó nghĩ thầm:
- Bây giờ võ công ta cao, ta lại khôn ngoan hơn xưa. Trước hết ta phải dò thám trong Hoàng thành, để tìm ra kẻ đã sát hại mẹ ta, rồi giết cả nhà nó đến con :D con mèo cũng không tha. Nếu như ta không tìm ra thủ phạm, bấy giờ ta mới đem lời trối trăn của mẹ ta nói với ông bà nội, bác Lý, cô Ngân, để các người giúp ta tìm kiếm...
Nghĩ đến bọn Long Xảm, nó nghiến răng:
- Còn bọn Long Xảm, ta không thể cho chúng chết dễ dàng. Ta phải làm cho nó đau đớn tinh thần, thể xác, chết không xong, mà sống cũng không nổi. Cái bọn Gia thụy ngũ anh, ta làm cho nó tàn sát lẫn nhau, làm cho giang sơn của họ Lý nát ra như tương, rồi giết tuyệt dòng họ Lý, mới hả cái giận này!
Thủ Độ về tới Đông cung, không thấy bọn Gia thụy ngũ anh, nó dò hỏi, thì được biết bọn này vào Hoàng thành chầu hầu Hoàng hậu theo định kỳ hàng tháng. Nó ăn cơm xong, thì Cao Giới tới khóa chân nó, rồi lên ngựa ra đi. Chỉ chờ có thế, nó lấy chìa khóa mở xích chân, mang chài ra luyện Cương la thập bát thức. Luyện đi, luyện lại năm lần thành thuộc, nó cất chài vào một chỗ kín.
Ý tưởng điều tra kẻ sát hại mẹ lại lởn vởn trong tâm:
- Ta phải dò la cung An toàn xem, biết đâu chẳng tìm ra ánh sáng ?
Nghĩ vậy, Thủ Độ mang rơm cuộn lại thành bó như hình người, đặt vào chỗ nó vẫn nằm ngủ, lấy chăn phủ lên. Như vậy nếu có ai kiểm soát, vẫn tưởng nó ngủ. Nó lén lên phòng viên thái giám gia Đỗ Viện, lấy trộm bộ quần áo mặc vào. Nó lại lấy cái mặt nạ quỷ Vô thường, dùng mực bôi đen nửa mặt bên trái, lấy son bôi đỏ nữa mặt bên phải, lấy vôi bôi trắng cổ, trán. Nó đeo thử. Nhìn vào gương, nó thấy mình ba phần giống người, bẩy phần giống quỷ. Nó bật cười, rồi hướng Hoàng thành, dùng khinh công phóng tới. Nó biết tại góc Đông thành, không có thị vệ gác, nó hít một hơi, rồi tung mình nhảy qua tường, đáp vào trong nhẹ nhàng. Nó nhắm cung An toàn là nơi Hoàng hậu ở dò dẫm tới.
Bên ngoài cung, có một thị vệ đứng gác. Nó len lén đến phía sau y. Thình lình y quay lại, thấy nó. Y tưởng là quỷ, kinh hoảng y ngất xỉu. Thủ Độ phóng chỉ điểm vào huyệt Á môn của y. Nó dấu y vào bụi hoa, rồi tung mình nhảy lên nóc cung. Nó vận âm kình dùng ngón tay sẽ chọc một lỗ, ghé mắt nhìn xuống : Bên trong, Đàm hoàng hậu ngồi trên một cái ngai, chạm hai con phụng. Bà im lặng đọc sách. Cạnh bà, Gia thụy ngũ anh ngồi trên năm cái ghế.
Có tiếng trong trẻo của ai đó nói :
- Trung thu sang năm, Hoàng thượng mở cuộc thí võ. Ai trúng tuyển sẽ được bổ nhiệm làm quan võ, thay cho bọn tướng sĩ già nua. Như vậy, mai này Xảm nhi lên ngôi, sẽ có nhiều thiếu niên anh tài phò tá.
Thủ Độ hướng mắt theo tiếng nói, thì thấy một đạo cô ngồi trên chiếc sập sơn son thiếp vàng. Bất giác nó cau mặt nghĩ :
- Người này là ai, mà đẹp đến thế kia ? Bà ta đẹp không kém gì mẹ ta, hơn cả Đàm hoàng hậu. Có lẽ chỉ thua có chị Kim Dung con bác Lý mà thôi !
Chợt nó nhớ lại: Hồi mới vào ở trung cung của bà ngoại nó, nó có gặp đạo cô này một lần. Cung nga Thụy Nga giảng cho nó biết rằng, đạo cô này có tên Nam thiên huyền quân. Bà là sư phụ của nhà vua với hoàng hậu. Nhà vua đã lấy cung Ngọc lan của Tuyên phi thời vua Nhân tông, sửa thành am cho bà tu luyện. Trong am Ngọc lan, nhà vua cung cấp cho bà đầy đủ cung nga, thái giám như một thái hậu. Các võ quan cầm binh quyền hiện thời như Đoàn Văn, Nguyễn Nộn, Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc đều là đệ tử của bà. Uy tín bà cực lớn, bất cứ hoàng thân, quốc thích, đại thần nào thấy bà cũng phải rạp người xuống.
Đạo cô hỏi Hoàng hậu :
- Chiếu chỉ dự tuyển bao nhiêu người ? Thể thức ra sao ?

- Tâu mẫu hậu, chiếu chỉ định rõ như sau. Các sĩ tử trong nước chia làm hai loại. Một là loại dân dã. Hai là con cháu trong Hoàng tộc, Ngoại thích, con các quan. Trước hết là loại dành cho dân gian. Các trấn, các phủ các huyện tổ chức sơ tuyển. Môn thi gồm cả văn lẫn võ. Sau đó tất cả thí sinh phải về Thăng long thi hội. Thi hội do Binh bộ đảm trách, lấy trúng tuyển 72 dũng sĩ. Còn thí sinh trong Hoàng tộc thì do quan Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn tuyển chọn, rồi cho thi hội, cũng tuyển 72 dũng sĩ. Đến ngày rằm tháng tám, thì tatã cả 144 dũng sĩ cùng vào thi đình thí. Đình thí sẽ do Hoàng thượng đích thân chấm, cùng với ba giám khảo là Kiến khang vương, Kiến bình vương, Đại đô đốc Phùng Tá Chu. Trong 144 dũng sĩ, sẽ lấy 36 Tiến sĩ dân gian, 36 Tiến sĩ Hoàng tộc. Cuối cùng trong 36 Tiến sĩ đó sẽ lấy ba người đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dân gian, và ba Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa Hoàng tộc.
Đạo cô đưa mắt nhìn bọn Long Xảm :
- Trước đây ta để cho đệ tử của ta là Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc dạy các cháu, thành ra Trung thu năm trước, Xảm nhi mới bị tên giặc non làm nhục. Sau đó các cháu đánh nó bị trọng thương, làm hỏng việc của ta. Ý ta muốn lưu nó trong cung, làm nó nhục nhã, ê chề, sống không nổi chết không xong. Thế nhưng các cháu lại đánh nó quá tay, đến nỗi nó chết đi sống lại. Bây giờ nó ra sao ?
Thủ Độ giật mình:
- Thì ra họ đang nói chuyện mình!
Nó quy tức, lắng tai nghe, tự hỏi:
- Mụ này là một đạo cô, mà giọng nói hách dịch như thái hậu vậy? Có gì bí ẩn không?
Nguyễn Dư thuật lại những phương cách chúng đã hành hạ Thủ Độ một lượt. Đạo cô cau mày :
- Ta ra lệnh cho cac cháu làm nhục nó mà các cháu đánh đến nỗi nó bị nội thương. Ta nghe tên Vũ Phòng Phong chữa bệnh cho nó nói rằng chỉ nội trong tháng này nó sẽ chết. Hà... như vậy thì sao có thể dụ bố nó về nước để ta xử lăng trì về tội vi chỉ ?
Long Xảm xua tay :
- Tâu tổ mẫu, hài nhi thấy dường như nó khỏi bệnh rồi, vì khi đi, lúc gánh phân, nó không tỏ ra đau đớn gì cả!
Thủ Độ cau mặt suy nghĩ:
- Tại sao Long Xảm lại gọi đạo cô là tổ mẫu? Người mà Long Xảm phải gọi là tổ mẫu chỉ có Chiêu Linh thái hậu mẹ đẻ ra Thái tử Long Xưởng và Chiêu Thiên thái hậu, mẹ đẻ nhà vua. Cả hai bà đều băng hà rồi! Đạo cô này là ai?
Đạo cô lên tiếng:
- Có thực thế không? Một người bị đánh giập lá lách, giập gan, nghẽn tâm mạch mà khỏi được sao? Thôi cũng được! Bây giờ ta có chỉ dụ cho năm cháu!
Cả Gia thụy ngũ anh đều ngồi ngay ngắn lại:
- Bọn thần nhi xin kính cẩn nghe chỉ dụ của tổ mẫu!
- Từ hôm mấy cháu bị nó đánh bại ở quán Bích động đến giờ, các cháu có thấy nó luyện võ công không?
- Không!
- À được đấy! Như vậy bản lĩnh của nó cho đến rằm tháng tám sang năm cũng không thay đổi. Trong khi đó, suốt mấy tháng qua, ta âm thầm luyện võ cho các cháu. Vậy các cháu phải luyện ngày, luyện đêm, sao cho đến rằm tháng tám sang năm, ba cháu Bỉnh Du, Nguyễn Dư, Đoàn Thượng phải đoạt giải trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa. Còn Long Xảm, ta sẽ cho tái đấu với thằng giặc non đó. Cháu phải thắng nó, làm cho nó nhục nhã trên đài, đánh cho nó thành tàn tật. Như vậy, dù nín nhịn đến đâu, bố nó cũng phải về nước, cũng phải xuất hiện. Bấy giờ ta sẽ xử lăng trì y... Hôm nay, ta dạy các cháu luyện bộ Hoa sơn chưởng pháp.
Nói dứt bà ta giảng yếu quyết, cách vận công, cách biến hóa. Sau đó bà từ từ diễn từng chiêu một. Bọn Gia thụy ngũ anh cũng luyện theo bà ta. Luyện một lúc, đã thuần thục, bà ta ra lệnh:
- Bây giờ các cháu bắt đầu vận khí phát chiêu. Trước hết là chiêu Thương tùng nghênh khách.
Cả Gia thụy ngũ anh cùng phát chiêu. Nhưng chân khí không ra. Đạo cô bực mình:
- Ta đã giảng, khi phát chiêu đầu thì khí trầm đơn điền, rồi đưa xuống hạ tiêu, thì lực mới ra. Làm lại!
Năm đứa hít hơi, vận khí. Nhưng lực cũng không ra. Đạo cô không tỏ ra bực mình:
- Các cháu phải biết rằng, đây là bộ chưởng vô thượng của Trung nguyên. Không phải ai cũng luyện thành. Khi thành rồi, thì trở thành anh hùng vô địch.
Năm trẻ lại vận khí, nhưng lực vẫn không ra. Chúng phải luyện đến hơn hai khắc sau, chưởng mới có gió. Đạo cô an ủi:
- Nếu bộ chưởng này dễ luyện, thì ai cũng thành vô địch cả sao? Phàm đệ tử học chưởng này, chia làm hai bậc. Bậc một chỉ học chiêu số, phát lực thôi. Sau khi các cháu luyện thành rồi, ta mới giảng Dịch lý áp dụng, cùng biến hóa Cửu cung trong Vô trung kinh, đấy mới là cái ảo diệu. Bây giờ các cháu trở về tự luyện. Trong ba ngày nữa, các cháu vào đây để ta kiểm lại.
Bà ta hỏi Đoàn Thượng:
- Phụ thân cháu đã tìm ra ngôi mộ đó chưa?
- Thưa, rồi!
- Ở đâu?
- Ở Mê linh, trong khu mộ dành cho liệt tổ phái Mê linh.
Người đàn bà áo vàng đập tay xuống sập, hỏi Đàm hoàng hậu:
- Sao? Sao? Sao lại chôn ở đó?
Mặt Đàm hoàng hậu tái xanh, bà nói bằng giọng run run, tỏ ra cực kỳ sợ hãi:
- Hồi ấy, Hoàng thượng ban chỉ đem về Cổ pháp chôn vào khu vực dành cho con cháu trong hoàng tộc. Song Thái phi Bùi Triêu Dương xin đem về quê ấp phong của thị ở Côi sơn chôn. Thần nhi ban mật chỉ cho bọn thái giám Phạm Bố, Đỗ Quảng đem một cỗ quan tài giả, trong chỉ có khúc gỗ, đưa về chôn ở Côi sơn. Còn quan tài thực, thì đem quẳng xuống sông Hồng. Không ngờ hai hôm sau quan tài nổi lên, trôi vào bãi sông đền thờ vua Trưng. Một số đệ tử Mê linh thấy quan tài lạ dạt ở bãi Đồng nhân, thì cho rằng thi thể người trong quan tài được vua Trưng phù hộ, vì vậy, họ đem về Mê linh chôn.
Nghe đối đáp, Thủ Độ kinh hoàng, vì nó biết rằng người ta đang nói đến việc chôn cất mẹ nó. Hồi ấy nó còn nhỏ, mẹ nó bị giết, rồi đem chôn cất vội vàng. Tuy nhiên nó cũng được theo linh cữu về Côi sơn. Sau Bùi thái phi cho nó biết linh cữu đó là linh cữu giả. Còn linh cữu thực, thì Đàm hậu đem quẳng xuống sông... rồi nổi lên ở đền thờ vua Trưng. Rồi phái Mê linh đem về tổng đường của phái này ở núi vua Bà chôn vào một nơi bí mật. Họ lại làm một mộ giả, để đánh lừa kẻ thù. Nó nghĩ thầm:
- Người đàn bà mặc áo vàng là ai? Võ công bà ta đến trình độ nào, mà lại miệt thị bọn Phạm Bỉnh Di ? Tại sao bọn Gia thụy gọi là Thái hậu? Tại sao Đàm hậu tỏ ra sợ hãi bà ấy như vậy? Cho đến nay, cái chết của mẹ ta chưa hé lộ một chút ánh sáng! Mẹ ta tuân chỉ của nhà vua, về để xây dựng lại kỷ cương Xã tắc, rồi bị giết, có thù oán gì với Đàm hậu, mà bà lại quẳng linh cữu xuống sông?
Đao cô hất hàm ra lệnh cho Đàm hoàng hậu:
- Ta tính số Tử vi của thằng giặc non thì thấy cung phúc của nó đóng tại Tuất, có Thái âm tọa thủ. Như vậy, nó được hưởng phúc ngôi mộ của mẹ nó. Ngôi mộ mẹ nó chắc là kết phát tốt lắm, nên các người đánh nó như vậy, mà nó vẫn sống nhăn. Bây giờ thế này: Người ban chỉ cho Đàm Dĩ Mông mật sai người đi Mê linh, đào mả mụ ấy lên, bỏ vào đó một con chó đen chết. Như vậy thì thằng giặc non không thể chết, nhưng đời đời, nó là một tên tàn tật, làm tôi tớ mà thôi.
Bà ta nghiến răng:
- Phải làm ngay, mả mẹ nó bị động, thì trong cuộc đấu võ ngày tết Trung thu sắp tới, Long Xảm mới thắng nó.
Đàm hoàng hậu líu ríu :
- Thần nhi kính cẩn tuân chỉ của mẫu hậu !
Đến đấy, đạo cô đứng lên. Đàm hậu cùng Gia thụy ngũ anh rạp người xuống tiễn đưa. Đạo cô vẫy tay :
- Miễn lễ !
Rồi mụ ra khỏi cung An toàn. Thấp thoáng một cái, mụ đã biến vào trong bóng đêm. Thủ Độ nhảy xuống vườn, rồi dùng khinh công theo mụ bén gót. Tới am Ngọc lan, nó ẩn vào sau bụi mẫu đơn nghe ngóng. Không thấy có thị vệ canh phòng bên ngoài, nó tung mình lại bên cửa sổ, dùng ngón tay chọc thủng giấy, ghé mắt nhìn vào, bất giác nó rùng mình: Đạo cô trần truồng. Bà ta đang nằm gọn trong tay một người đàn ông cũng trần truồng. Người đàn ông đó chính là quan Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn.
Thủ Độ tự hỏi:
- Cứ như ta biết, thì Đoàn Văn là em sữa của nhà vua. Nhờ nuôi sửa nhà vua hồi trước, mà mẹ của Văn hiện được phong tới nhất phẩm phu nhân. Lúc Văn mới mười lăm tuổi được tuyển làm trưởng toán thị vệ canh giữ Hoàng thành. Dần dần, Văn được cất nhắc lên chức Tổng lĩnh thị vệ. Gần đây vợ của Đoàn Văn lại nuôi sữa Long Xảm. Thành ra Đoàn Thượng với Xảm lại thành anh em sữa. Văn với Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc đều là đệ tử của Nam thiên huyền quân đạo cô. Thế sao y vơiÔ đạo cô lại ???
Thủ Độ tuy thông minh, lại trải qua những nhục nhằn, những nguy nan, nên nó đã khôn ngoan như một người trưởng thành. Thế nhưng, chuyện trai gái thì nó không biết một chút gì! Nó nghĩ thầm:
- Không biết đạo cô với Đoàn Văn đang luyện tâm pháp thượng thừa gì ? Đoàn Văn là đệ tử của đạo cô, chắc đạo cô trực tiếp truyền chân khí cho đệ tử giống như khi xưa Bồ tát Sùng Phạm đã truyền cho phò mã Thân Thiệu Thái đây.
Thấy trời về khuya, nó dùng khinh công trở về Đông cung. Chợt nhớ đến bộ chưởng Hoa sơn, mà đạo cô nói rằng đó là bộ chưởng trấn môn của phái này ; bây giờ bà ta đem dạy Gia thụy ngũ anh. Nó vận khí, rồi luyện thử. Không khó khăn, nó chỉ hai lần thì thành công. Nó nghĩ thầm :
- Trước đây ta nghe bố mẹ ta thường bàn rằng: Bộ Hoa sơn chưởng này uy vũ thực không tầm thường, chính nó làm cho phái Hoa sơn lừng danh Trung nguyên ! Nếu so sánh với bộ Phục ngưu thần chưởng của phái Tản viên, Mục ngưu thiền chưởng của Bố Đại hòa thượng, Đông a chưởng pháp của phái Đông a, thì bên tám lạng, bên nửa cân. Nó chỉ thua bộ Tán lạc hồn chư

egeo 06-19-2004 04:39 PM



C34:Đại hãn Long thành

Cả cung Ngọc lan, ai cũng tưởng Thủ Độ là thằng điên, nên không người nào chú ý đến nó. Nó được tự do. Không có bạn cùng lứa tuổi, nó ra ngoài kinh thành một mình dạo chơi. Nó làm quen với bọn ăn mày. Nó thường mua bánh, kẹo phát cho đám trẻ cùng khổ này. Bọn ăn mày thích nó vì được nó cho ăn cũng có, được nó kể chuyện lịch sử cho nghe cũng có. Mỗi khi chúng xích mích nhau, nó đứng ra dàn hòa. Khi chúng bị người ta bắt nạt, thì nó bênh vực. Võ công của nó cao, nên bọn du côn đều nể sợ nó. Chỉ một thời gian ngắn , nó đã lựa được 18 đứa rất thông minh, gồm chín đứa con trai, chín đứa con gái kháu khỉnh. Nó thu tất cả làm đệ tử, đặt tên là Tây hồ thập bát anh hào. Chín đứa con gái nó đặt tên Cửu anh. Chín đứa con trai, nó đặt tên là Cửu hào. Căn cứ theo tuổi lớn nhỏ, nóÔ đặt tên Cửu anh là Nhất Anh, Nhị Anh cho đến Cửu Anh ; Cửu hào cũng tương tự, gồm Nhất Hào, Nhị Hào...cuối cùng là Cửu Hào.
Nhớ lại tích cũ thời vua Thánh tông : Long biên ngũ hùng, Tây hồ thất kiệt đều xuất thân cùng khổ. Nhờ có chút lòng son, mà sau đều trở thành những danh tướng, thanh sử ghi tên. Nó muốn bỏ tiền ra mua một căn nhà bên bờ hồ Tây, rồi tập họp Tây hồ thập bát anh hào về ở chung, nhưng không có tiền.
Nó nghĩ thầm :
- Đường đi nước bước trong Hoàng thành, ta đều biết hết. Trong Hoàng thành này, từ Hoàng hậu cho tới các phi tần, hoàng tử, công chúa... Người nào cũng giầu có, vàng bạc cất đầy kho, mà không giúp ích gì cho dân chúng. Tại sao ta không lấy tiền bạc đó dùng vào việc này ?
Một đêm, nhân lúc bọn Gia thụy ngũ anh sang cung An toàn luyện võ, nó biết rằng Hoàng hậu phải ngồi dự thính. Nó lẻn vào tẩm phòng của bà lấy trộm mấy nén vàng. Nó đem vàng ra hiệu kim hoàn đổi lấy bạc. Có bạc trong tay, nó mua một căn nhà tọa lạc trên thửa đất hơn hai mẫu (7200 mét vuông), nằm ngay bên bờ hồ. Căn nhà này nguyên của một vị quan về hưu. Phía trước trông ra đền Trấn quốc. Phía sau có bến đậu thuyền. Chủ nhà bán luôn cả con thuyền mà ông dùng để câu cá giải khuây. Mọi sự hoàn tất, nó đem bọn Tây hồ thập bát anh hào về đó ở. Nó đặt cho căn nhà này cái tên Tây hồ thủy trang. Nó dùng kinh nghiệm học được ở Mông cổ, để tổ chức lối sống tập thể như anh em. Nó mượn một thầy đồ dạy chữ cho Tây hồ thập bát anh hào. Còn nó, đích thân nó dạy võ, bắn cung cho chúng.
Trong Thập bát anh hào, thì Nhất Anh, Nhất Hào là hai đứa có trình độ học vấn cao nhất. Chúng là hai chị em ruột. Nguyên cha chúng là một vị túc nho, khinh thế ngạo vật, không ra làm quan. Khi ông bà chết, thì chúng mới mười hai tuổi. Nhà nghèo, hai chị em làm nghề bắt rắn tranh sống. Thời bấy giờ, những khu vườn cạnh hồ Tây có rất nhiều trăn, rắn đủ loại. Ngay ngày đầu vào ở trong Tây hồ thủy xá, chị em Nhất Anh đã ra tay bắt mấy trăm con vừa trăn, vừa rắn. Nhân chủ nhân cũ để lại hơn chục cái bể cạn, dùng để hứng nước mưa. Nhất Anh dùng hai cái bể, để nuôi rắn.
Nhị Anh, Nhị Hào mồ côi cha mẹ rất sớm. Chúng là hai trẻ cực kỳ thông minh. Nhưng cũng có đủ thói lưu manh dân dã. Cha mẹ chúng nguyên làm nghề mãi võ bán thuốc. Chẳng may, trong khi bệnh dịch hoành hành, ông bà bị chết cùng một lúc. Anh em chúng phải lang thang ăn mày.
Tam Anh, Tam Hào là con của các ngư dân, mà cha mẹ bị chết vì trong khi đánh cá gặp bão. Chúng bơi lội rất giỏi. Thủ Độ trao cho hai đứa huấn luyện bơi lội, đánh nhau dưới nước cho cả bọn.
Sau một thời gian ngắn, bọn Tây hồ thập bát đã có trình độ võ công cũng như chữ nghĩa kha khá. Thủ Độ chia kinh thành Thăng long làm mười tám khu. Mỗi khu nó trao cho một Anh, hay một Hào cái nhiệm vụ cai quản bọn ăn mày. Nó đặt ra luật lệ : Cấm không được nói tục, không được đánh lẫn nhau. Phải bênh che cho nhau, đừng để người đời khinh khi, bắt nạt. Lúc đầu có nhiều tên không phục, không tuân theo luật lệ. Nhưng, sau ít tháng, mấy tên này bị cô độc, nên đành nhập bọn. Thủ Độ bỗng dưng biến thành một ông vua ăn mày kinh thành Thăng long, mà quan quyền không ai biết gì !
Thủ Độ không có kiến thức nhiều về tổ chức chính quyền Trung quốc, Đại Việt. Nó rập khuôn theo vùng Thảo nguyên. Nó phong cho mỗi tên ăn mày coi một chợ chức Tiểu hãn. Bọn Tây hồ Anh hào thì nó phong cho làm Khả hãn. Còn nó, nó bắt tụi ăn mày gọi nó bằng danh tự Đại hãn.
Tuy bận rộn, nhưng trong lòng Thủ Độ luôn tưởng nhớ đến Kim Dung. Hằng ngày nó ra bến sông, nơi con thuyền của gia đình Kim Dung đậu thủa nào để hy vọng gặp lại nàng. Nhưng tuyệt vô âm tín.
Trong những lần tìm chim như vậy, nó được biết, dọc theo bờ sông Hồng, mỗi khu thuộc sở hữu của một gia đình. Khu của ai, người ấy mới có quyền đậu thuyền. Thành ra mỗi bến đều có cọc, cây, trụ đá, cầu tầu khác nhau. Trong hàng trăm bến ấy, nó thấy ai cũng trầm trồ khen ngợi bến của quan An phủ Kinh lược sứ Kinh Bắc Nguyễn Nộn. Trên mặt bến cũng như bờ sông đều xây bằng những viên đá vuông vức mỗi chiều bằng gang tay. Mặt bến còn xây bốn cái bồn, trong trồng hoa rất đẹp. Trên bến của gia đình Kim Dung chỉ có hai cây bàng, với một viên đá khắc hình con chim ưng đang bay.
Nó nghĩ:
- Bà mẹ Kim Dung với nàng đã cứu mạng ta, ta không biết đền ơn cách nào, tại sao ta không xây bến đò nhà nàng để đáp nghĩa ?
Có tiền trong tay, nó thuê thợ, mua đá lát dọc khu bờ sông ấy dài tới năm mươi trượng. Lại chờ nước cạn, xây đá cho bờ sông khỏi lở. Trong khu năm mươi trượng, nó xây bốn cái bệ đá thành hình vuông. Ở giữa đổ đất, trồng hoa. Giữa bốn cái bồn hoa, nó xây một cái đài cao hai trượng, trên đặt một viên đá dài một trượng, rộng nửa trượng. Mặt viên đá nó sai khắc hình con chim ưng đang bay. Nó đặt cho khu bến sông này tên là Tương Dung độ, sai khắc ba chữ đó dưới con chim ưng. Độ là tên nó, cũng có nghĩa là bến đò. Dung là tên Kim Dung. Còn Tương thì lấy điển cố cũ: Quốc tổ Lạc Long quân, Quốc mẫu Âu Cơ chia tay nhau ở đầu sông Tương, thông với hồ Động đình, hẹn nhau, cứ mỗi năm tái ngộ trên cánh đồng Tương một lần.
Công việc hoàn tất, Thủ Độ truyền lệnh cho Khả hãn Tây hồ thay phiên nhau, mỗi ngày một đứa ra Tương Dung độ quan sát, hễ thấy con thuyền mà mũi có vẽ hình con chim ưng đậu ở đó, thì phải báo cho nó biết ngay.

Ở với bọn ăn mày thì Thủ Độ là lãnh chúa, nhưng khi trở về cung Ngọc lan, nó lại giả ngây, có khi nó nằm ngay giữa sân mà ngủ. Thành ra nhiều lần nó bỏ cung Ngọc lan đi hằng mười ngày, mà lúc nó trở về, cũng không ai chú ý đến nó. Tuy bận rộn như vậy, nhưng trong lòng nó luôn luôn nghĩ đến hai việc. Một là truy tầm thủ phạm giết mẹ nó. Hai là giết tuyệt họ Lý, lập một triều đình mới.
Nó biết rõ một điều : Cứ hai ngày một lần, đạo cô sang An toàn dạy võ cho bọn Gia thụy ngũ anh. Mỗi khi mụ vừa đi, thì cung nữ Thụy Nga cũng ra đi.
Một hôm Thủ Độ ra chợ Tây nhai chơi, nó thấy người ta bán những quả bầu già phơi khô, rỗng ruột. Có nhiều quả cuống dài, cầm lên giống cái đầu người có cổ. Nghĩ ra một chuyện, nó mua hai quả , lại may một bộỳ quần áo trắng, rồi chờ đêm tối, nó lẻn vào Đông cung cất tại nóc chuồng ngựa. Nó quyết định đêm nay giả hồn ma Thái tử Long Xưởng nhát bọn Gia thụy ngũ anh, để điều tra tông tích kẻ giết mẹ nó.

Chiều hôm ấy, như thường lệ, đạo cô, cung nữ Thụy Nga vừa ra đi, chờ sang canh hai, Thủ Độ phóng mình vào Đông cung. Nó đeo cái mặt nạ quỷ Vô thường vào mặt, đeo cái mặt nạ quỷ đầu trâu vào một quả bầu, đeo cái mặt nạ quỷ mặt ngựa vào một quả bầu khác. Nó buộc hai quả bầu phía sau vai. Người ngoài nhìn thấy, tưởng đâu là quỷ ba đầu. Từ chuồng ngựa nó ra sân, thì đụng tên thái giám Đỗ Viện. Đỗ Viện tưởng nó là quỷ ba đầu. Y rú lên, rồi té xỉu xuống đất. Thủ Độ phóng tay điểm huyệt y với năm con chó gác sân, đặt tất cả ngồi thành hàng ngay cổng vào. Nó đi một vòng Đông cung, cung nga, thái giám gặp nó đều rú lên rồi ngất đi. Nó điểm huyệt hết.
Cuối cùng nó lên Ngự thiện đường. Trong Ngự thiện đường, hai cung nga chầu hầu đã bầy thức ăn gồm bánh dầy chả, bánh giò, chờ bọn Gia thụy ngũ anh luyện võ xong, trở về ăn đêm. Hai cung nga nghe tiếng bước chân người, ngửng đầu lên, thấy con quỷ ba đầu ; chúng thét lên, rồi ngất xỉu. Thủ Độ điểm huyệt chúng, đặt chúng ngồi trên hai cái ghế. Mọi việc xong xuôi, nó lấy bánh dầy giò ăn. Nó vừa ăn xong, thì có tiếng xe kêu lọc cọc.

Biết bọỳn Gia thụy ngũ anh đã trở về. Nó leo lên bàn ngồi im chờ đợi.
Tên thị vệ Cao Kinh đánh xe cho bọn Gia thụy ngũ anh về đến Đông cung, không thấy tên thái giám Đỗ Viện mở cửa như thường lệ, có hơi ngạc nhiên. Gã ra hiệu, Cao Giới xuống xe mở cổng. Cổng vừa mở , một cảnh tượng quái gở đập vào mắt mọi người: Tên thái giám Đỗ Viện trong tư thế quỳ. Cạnh y là năm con chó ngồi ngay ngắn. Tất cả đều bất bất động như những pho tượng.
Long Xảm hỏi :
- Đỗ Viện ! Người làm trò gì vậy ?
Đỗ Viện vần bất động. Long Thẩm gọi năm con chó :
- Hú u..u..u..u.
Năm con chó cũng bất động.
Cao Kinh đánh xe vào sân. Cả bọn cùng xuống xe. Trong tâm chúng biết có sự gì bất thường đã xẩy ra. Cao Kinh sờ lên đầu Đỗ Viện, y nói :
- Dường như y còn sống.
Y lại sờ mấy con :D Con nào cũng còn thở. Cả bẩy tên cùng tới Ngự thiện đường. Ngay cửa, hai cung nữ phụ trách chầu hầu, trong tư thế quỳ giống hệt Đỗ Viện. Long Xảm đẩy cửa, bẩy người cùng bước vào. Bất giác chân tay cả bọn bủn rủn, miệng mở không ra : Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn nến, trên bàn ăn, một con quỷ ba đầu, mặt nửa đen, nửa đỏ, cổ trán trắng; ngồi bất động. Con quỷ rên lên tiếng hù...hù...hù... đầu lắc lư !

Cao Kinh, Cao Giới rút đao ra quát :
- Mi...mi...là quỷ hay là ma ?
- Là quỷ.
- Mi ở đâu tới đây ?
- Diêm vương sai ta lên trần thế điều tra những án mạng oan khuất.
- Đây là Đông cung ! Người hãy đi chỗ khác.
Hai anh em họ Cao cùng xả đao chém xuống cổ con quỷ ba đầu. Thủ Độ vung tay kẹp cứng hai thanh đao, rồi dồn chân khí ra. Hai chuôi đao bật tung lại trúng huyệt Đản trung. Cả hai anh em họ Cao bị tê liệt đứng như trời trồng. Thấp thoáng một cái, Thủ Độ đã chĩa tay điểm huyệt Gia thụy ngũ anh. Cả năm tên khuỵu xuống như quỳ gối vậy. Ba tên Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh Du còn bị điểm huyệt Á môn, Nội quan, chúng mê man, không nói được. Còn anh em Long Xảm, Long Thẩm chỉ bị điểm huyệt Dương lăng tuyền, Khúc trì, khiến chân tay bị tê liệt mà thôi.
Đúng ra với bản lĩnh của chúng, Thủ Độ không thể kiềm chế dễ dàng như vậy. Chẳng qua, chúng thấy con quỷ ba đầu, thì hồn phách bay mất, Thủ Độ mới thành công.
Thủ Độ rút thanh đao của Cao Kinh, nó múa một vòng rồi chĩa vào cổ Long Xảm. Long Xảm rú lên :
- Xin ông quỷ tha cho tôi.
- Mi có biết ta là ai không?
- Không!
- Ta là oan hồn của Vô thượng Chí tôn Đại thánh hoàng đế!
- Như vậy...người là Thái tử Long Xưởng, anh của phụ hoàng sao?
- Đúng thế !
- Xin...quan lớn dung tình đừng bắt hồn tôi!
- Mi nói gì ?
- Dạ... dạ... Vô thượng Chí tôn Đại thánh hoàng đế đừng bắt hồn thần nhi.
Thủ Độ nghĩ thầm :
- Bây giờ nếu ta khoét mắt, cắt lưỡi, cắt gân chân tay, chọc thủng tai, khiến chúng vừa câm, vừa điếc, vừa mù, vừa tê liệt thì chỉ hả giận trong chốc lát. Ta phải để chúng sống, sau này dùng chúng làm cho triều Lý bị diệt vong mới hả cái căm hờn.
Nó giả tiếng eo éo của đàn bà :
- Diêm vương muốn biết một số chuyện, nếu mi nói thực thì thôi, bằng không, ta bắt hồn mi xuống âm phủ đối chứng với những oan hồn !
- Xin Đại thánh hoàng đế cứ ban chỉ dụ.
- Đạo cô Nam thiên là ai, mà mi lại gọi là tổ mẫu ?
- Là...là Thái hậu.
- Thái hậu nào ? Phụ hoàng mi có hai bà mẹ. Đích mẫu là Chiêu linh Thánh cảm hoàng thái hậu. Người là sinh mẫu của ta. Chiêu thiên Chí lý hoàng thái hậu Đỗ Thụy Châu, sinh ra nhà vua. Vậy đạo cô là ai ?
Long Xảm trì nghi không muốn nói. Thủ Độ thích mũi đao vào cổ khiến Long Xảm đau quá rú lên :
- Tôi xin nói. Đỗ Thụy Châu không phải là sinh mẫu phụ hoàng. Đạo cô mới là sinh mẫu của người.
- Đạo cô là ai ? Tên gì ?
- Thái hậu họ Vương, tên Thụy Hương, là Công chúa tiên tử đời thứ 18 của phái Hoa sơn. Oạng ngoại của phụ hoàng tên Vương Cương Trung là tể thần Tống triều, là Lạc nhạn đạo sư của phái Hoa sơn. Bà ngoại của phụ hoàng là Công chúa tiên tử đời thứ mười bẩy của phái Hoa sơn, họ Triệu tên Mai Hương.
Nghe Long Xảm khai, Thủ Độ ớn da gà. Tất cả những bí ẩn trong hậu cung cũng như ngoài triều đình dưới thời vua Anh tông, bố nó giảng cho nó rất kỹ. Bố mẹ nó thường ân hận rằng, hồi hai người tổng trấn Bắc cương, mà sao để cho Vân đài Trịnh Nam Phương, Công chúa Vương Thụy Hương trở lại Đại Việt, Khu mật viện không biết. Bố mẹ nó cứ đặt câu hỏi : Liệu vụ án giết cả nhà Bảo quốc đại vương Long Xưởng, vụ giết cả nhà Đỗ An Di với Mạc Hiển Tích có do bọn tế tác Tống gây ra không ?
Nó hỏi tiếp :
- Ta không tin. Mi nói láo.
- Thần nhi nói thực, không hề giấu giếm.
- Ta làm sao mà biết thực hay hư. Được, ta hỏi chuyện của ta, xem mi nói có đúng không. Nếu mi nói sai, thì các chuyện khác đều sai.
- Dạ !
- Vụ án cả nhà ta bị hại có phải do bà nội mi là Thụy Hương gây ra không ?
- Không, theo bà nội nói thì vụ này do bọn Đỗ An Di, Đỗ Thụy Châu làm.
- Có thế chứ. Vụ này mi nói đúng. Thế ai giết cả nhà Đỗ An Di với Mạc Hiển Tích ?
- Chính bà nội với Vân đài Trịnh Nam Phương làm !
Thủ Độ lại một lần nữa kinh hoảng :
- Trịnh Nam Phương chẳng là vợ Đỗ An Di ư ? Thụy Hương chẳng là người tình của Mạc Hiển Tích ư ?
- Đại thánh hoàng đế không hiểu cũng phải ! Trịnh Nam Phương vì tưởng nhớ Đỗ An Di mà thất sủng với Tống triều. Bà ấy tìm trăm phương nghìn kế để trở lại Đại Việt mong tìm lại An Di. Chẳng ngờ An Di phụ rẫy bà ta, rồi còn bắt giam vào hầm kín, khóa chân tay lại. Bà ta được bà nội cứu ra. Còn bà nội, lúc trở về Đại Việt bà nội cũng bị Mạc Hiển Tích phụ rẫy, mà gian dâm với Đỗ Thụy Châu. Hiển Tích, An Di, Thụy Châu định soán ngôi, phế phụ hoàng xuống, lập An Di lên thay. Ba người công bố vụ phụ hoàng là con của bà nội với Trần Thủ Huy. Nếu Đỗ Thụy Châu công bố bí mật phụ hoàng là con của bà nội với vua Anh tông thì đúng. Nhưng mụ bịa ra rằng phụ hoàng là con của Trần Thủ Huy thì không thể tha thứ được. Vì vậy, khi vừa thấy cáo tri của Côi sơn song ưng, bà nội với Trịnh Nam Phương nhân đó xuống tay, giết cả nhà hai tên cho hả giận. Sau khi giết cả nhà hai tên này, bà nội bắt Đỗ Thụy Châu uống thuốc độc chết. Từ đấy, bà nội giả làm đạo cô Nam thiên, ẩn trong cung Ngọc lan, phụ chính cho phụ hoàng.
- Thế Vân đài Trịnh Nam Phương bây giờ ở đâu ?
- Là Nghi Phương sư thái, chưởng môn phái Mê linh.
Một lần nữa Thủ Độ phát run. Hồi ở Mông cổ, bố mẹ nó được tin Nghi Ninh sư thái truyền chức chưởng môn cho một đệ tử mới nhập môn là Nghi Phương. Vì Nghi Phương tìm được cuốn phổ chép tất cả tuyệt kỹ của phái Mê linh, bị Vương Cương Trung ám toán, rồi cướp đi. Khi được tin này, bố mẹ nó cứ thắc mắc mãi, làm sao Nghi Phương lại tìm ra được bí lục võ công Mê linh ? Bây giờ nó mới hiểu rằng chính Vương Cương Trung đã trao cho Trịnh Nam Phương. Nó than thầm:
- Hỡi ơi ! Suýt nữa ta tìm Nghi Phương sư thái cáo vụ mẹ ta bị giết, thì không khác gì nạp mạng cho cọp đói ! Vậy cái vụ phái Mê linh đem linh cữu mẹ ta về chôn ở chân núi vua Bà, hẳn có mục đích gì khác đây. Ta cần điều tra cho rõ.
Nó lại hỏi Long Xảm :
- Vậy ai là người ám toán công chúa Đoan Nghi ?
- Thần nhi không biết. Sau khi công chúa hoăng thì phụ hoàng buồn vô cùng. Bà nội hay lên ruột lắm. Bà nội cũng cho người điều tra mà không ra manh mối. Ý bà nội muốn dụ cho Thủ Huy, Đoan Nghi về, rồi công khai tình tự với Thủ Huy, làm cho Đoan Nghi đau khổ để trả thù trước đây Đoan Nghi cướp Thủ Huy của người. Còn Thủ Huy thì bà nội phong cho chức tước thực lớn, mà không trao quyền.
- Cái tên Vũ Khải, Tham chi bộ Lễ là người thế nào ?
- Y không xuất thân từ khoa bảng. Y là con cô, con cậu của mẫu hậu. Mẹ của y tên Đàm Phi Phượng là em gái của Quốc trượng Đàm Thì Phụng.
- Hiện giờ Vũ Khải giữ chức gì ?
- Hiện y là Kinh lược an phủ sứ Hồng châu. Y có một dinh thự khá lớn ở Gia lâm, gần Cổ loa.
- Cái tên thuyền trưởng đi đón công chúa Đoan Nghi tên là gì. Hiện y ở đâu?
- Y tên Đặng Vũ. Hiện y coi thủy đội cai quản dọc sông Hồng, quanh Thăng long.
- Nhà y ở đâu ?
- Thần nhi không rõ.
Biết Long Xảm không cung cấp thêm được gì nữa, trời lại sắp sáng. Thủ Độ dọa :
- Cái việc ta hiện hồn lên hôm nay, mi phải cấm bọn thủ hạ không được tiết lộ ra ngoài. Nếu như chỉ một đứa nói với người khác, lập tức ta bắt hồn tất cả. Mi hiểu không ?
- Dạ. Nhưng vụ này lớn quá, sao dấu được ?
- Vậy mi ban chỉ cho chúng rằng, có quỷ ba đầu nguyên là hồn oan của Vô thượng Chí tôn Đại thánh hoàng đế hiện lên, nhưng mi không được tiết lộ những gì đã khai với ta.
- Vâng.
Thủ Độ mang tất cả hơn hai chục người Đông cung đem lên Ngự thiện đường, giải huyệt cho chúng tỉnh. Chúng vừa mở mắt ra, thấy con quỷ ba đầu thì rú lên kinh khủng. Thủ Độ gật gù ba cái đầu làm cho chúng sợ đến té đái vãi phân ra, rồi mới biến vào bóng đêm. Nó dấu phụ tùng làm quỷ, rửa mặt rồi quay về cung Ngọc lan.
Vừa áo cung Ngọc lan, thì có ai đó hì một tiếng ngay phía sau nó. Nó quay lại, thì thấy một bóng đen dơ tay vẫy nó rồi chạy. Nó dùng khinh công đuổi theo. Tuy đã dùng hết mười thành công lực nhưng nó vẫn không đuổi kịp người kia. Nó nghĩ thầm :
- Với khinh công của ta, dù ngựa chiến cũng thua, mà sao không đuổi kịp người này ?
Nghĩ vậy nó gia tăng cước lực. Lạ một điều, nó chạy nhanh, thì người kia cũng chạy nhanh. Nó chạy chậm, người kia cũng chạy chậm. Thủy chung khoảng cách giữa hai người không thay đổi.
Đến Văn miếu, thình lình người đó dừng lại, suýt nữa Thủ Độ đâm sầm vào người đó. Một người núp sau bia tiến sĩ nhảy ra. Trong bóng đêm lờ mờ nó nhận ra đấy là một người đàn bà. Người này không nói, không rằng, phát chưởng tấn công nó, đó là chiêu Phong ba hợp bích của Đông a chưởng. Chưởng chưa ra hết, mà nó đã cảm thấy ngộp thở. Kinh hoảng, nó xuất chiêu Phong đáo sơn đầu cũng trong Đông a chưởng đỡ. Binh một tiếng, nó cảm thấy trời long đất lở, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng, mũi cảm thấy thoang thoảng mùi thơm của nước hoa. Kinh hãi, nó chợt nhậỳn ra mình đang đứng ở cung Càn phương Hỏa địa tấn. Nó vội hít một hơi rồi lộn đi một vòng sang vị trí Địa thủy sư cung Khảm. Áp lực trên người nó hoàn toàn được hóa giải. Người kia bật lên tiếng ái chà đầy kinh ngạc, rồi cất tiếng khen :
- Khá lắm ! Đỡ chiêu nữa!

Rồi phát chiêu Phong sơn hoa lạc tấn công. Nó vội hít hơi vận đủ mười thành công lực phát chiêu trong Hoa sơn chưởng mà nó học trộm của đạo cô Nam thiên. Binh một tiếng, người nó bay tung lại phía sau. Nó rơi xuống đúng cung Chấn, phương Địa phong thăng. Nó lộn đi hai vòng đáp xuống cung Ly, phương Trạch sơn lữ, để giảm bớt kình lực. Người kia tần ngần ôm tay suy nghĩ.
Trời đã tang tảng sáng. Bất giác Thủ Độ bật lên tiếng kinh ngạc, vì người vỗ vai, dụ nó chạy ra đây là một trung niên nam tử dáng điệu to lớn kềnh càng đang nhìn nó cười toe toét. Còn người đàn bà thì đẹp không thua gì mẹ nó. Nó thấy dáng điệu của bà quen quen, nhưng trong nhất nó không nhận ra bà ta là ai.
Người đàn bà hỏi nó :
- Cháu lày ! Cháu là lệ tử của cao nhân nào ?
Thấy cử chỉ, tư thái người đàn bà, Thủ Độ không muốn nói dối. Nó đáp :
- Cháu không có sư phụ. Cháu học võ với bố mẹ cháu. Bố cháu hiện ở rất xa, ngàn trùng cách biệt. Còn mẹ cháu, thì bị người ta giết chết rồi.
- Mẹ cháu bị người ta lánh thuốc lộc hay dùng lên mắn chết ?
- Sao sao...bà biết ?
- Dễ hiểu ! Cứ như mãn lĩnh của cháu, thì hiếm người có thể so sánh. Như vậy mãn lĩnh của mẹ cháu phải cao thâm lắm. Mãn lĩnh của mẹ cháu cao thâm mà bị dít, thì nhất lịnh mẹ cháu phải bị ám toán mằn thốc lộc hay mằn loạn lên. Cháu có thể cho ta biết lên của cha mẹ cháu không ?
Nghe âm thanh của bà, Thủ Độ đoán bà là người Việt gốc Hoa. Nó trở thành e dè :
- Cháu không thể nói tên bố mẹ cháu ra được,bằng không sẽ có nhiều kẻ thù tìm giết chết cháu. Khi mẹ cháu sắp qua đời người dặn cháu chuyển lại một câu cho năm người. Năm người này căn cứ và đó mà truy tầm thủ phạm ám toán mẹ cháu.
- Có phải năm người đó thuộc phái Đông a không ?
- Vâng !
- Năm người đó là ông bà Trần Tự Hấp chưởng môn phái Đông a, và ba con của người là Trần LýÔ, Thủ Huy, Kim Ngân. Có đúng không ?
Thủ Độ rùng mình :
- Sao ? Sao bà biết ?
- Ta biết vì ta biết.
Bà chỉ vào Nam tử to lớn kềnh càng:
- Bạch Hạc là sư tỷ của ông chồng ta. Bà đã nói cho ta nghe về cháu.
Nam tử to lớn xen vào:
- Ta có hai thắc mắc. Một là vừa rồi cháu sử dụng một chiêu trong Đông a chưởng pháp, khi thấy công lực yếu, cháu biết di chuyển theo Cửu cung bát quái trong Thiên la thập bát thức để hóa giải. Trong bản phái, chưa một ai sử dụng Cửu cung bát quái áp dụng vào Đông a chưởng cả. Vì nội công Đông a gốc là Thiền công, khi dùng với Dịch lý thì âm thủy trong người hỗn loạn, có thể nguy đến tính mệnh. Duy người luyện nội công âm nhu mới có thể làm được công việc này. Nhìn qua thân pháp, ta biết cháu luyện thành cả âm lẫn nhu. Vậy ai đã dạy cháu?
- Khi gặp hung hiểm, cháu tòng tâm sử dụng, chứ không ai dậy cháu cả.
- Hai là cháu sử dụng chiêu Lạc nhạn thu phân trong Hoa sơn chưởng, bị kình lực của vợ ta đẩy tung đi, cháu lại dùng Cửu cung bát quái của Thiên la thập bát thức. Phái Hoa sơn tuy có áp dụng Dịch lý vào chưởng pháp, nhưng Dịch lý của họ không giống Dịch lý của Thiên la thập bát thức. Có phải cháu học trộm võ công Hoa sơn không?
- Sao tiền bối biết?
- Có gì khó đâu. Nếu cháu được truyền Hoa sơn chưởng thì họ phải dạy cháu phương cách biến hóa theo Dịch lý của họ. Đây cháu đem áp dụng Hoa sơn chưởng bằng Dịch lý Đông a thì rõ ràng cháu không được học Dịch lý Hoa sơn, rồi cháu tưởng Dịch lý nào cũng là Dịch lý, cháu đem Dịch lý Đông a ra áp dụng bừa. Có đúng thế không?
Thủ Độ gật đầu, trong lòng nó nảy ra niềm kính phục nam tử:
- Tiền bối thực bác học lại thông minh. Cái gì của cháu tiền bối cũng biết.
- Này cháu, có phải mẹ cháu là con gái của Minh Đạo đại vương, tức Côi sơn song ưng không ?
Nó nghĩ thầm :
- Không biết tại sao khi ông bà này cũng như y sư Vũ Phòng Phong gặp ta cứ cho rằng ta là con cháu của Minh Đạo vương. Bố mẹ ta thường giảng về hành trạng của Linh chiếu Chiêu hòa Thái hậu với Minh Đạo vương cho ta nghe. Mẹ ta nói : Hai vị đó được võ lâm tặng cho mỹ danh là Côi sơn song ưng, nức danh thời vua Anh tông.
Nó trả lời lơ mơ :
- Phải hay không phải thì sao ?
- Vậy cháu là ai ? Nhất định cha mẹ cháu là người phái Đông a thì mới biết võ công Đông a mà dạy cháu.
- Đúng như bà nói ! Bố cháu là người của phái Đông a.
Nó hỏi nam tử to lớn :
- Tiền bối ! Người vào Hoàng thành có việc gì vậy ?
- Ta điều tra nhiều sự. Còn cháu. Cháu làm ma làm quỷ với mục đích gì ?
- Để điều tra một số sự việc.
- Cháu tìm ra hết những gì muốn biết chưa ?
- Chưa.
- Có phải cháu muốn tìm dinh thự Kinh lược An phủ sứ Vũ Khải không ?
- Vâng !
- Coi chừng, trong dinh của y có nuôi mấy cao thủ, cũng như :D ngỗng canh cửa. Phải cẩn thận.
- Còn tiền bối, người muốn điều tra gì ?
- Hai người đàn bà.
- Họ là ai ? Tiền bối thử nói ra. May cháu biết.
- Một người tên Trịnh Nam Phương. Một người tên Từ Thụy Hương.
Thủ Độ à lên :
- Trịnh Nam Phương thì cháu biết. Có phải bà ta là Vân đài tiên tử đời thứ mười bẩy của phái Hoa sơn, trước đây từng là vợ của Tể tướng Đỗ An Di thời vua Anh tông không ?
- Đúng đấy ! Bà ta hiện là ai ? Ở đâu ?
- Bà là Nghi Phương sư thái, chưởng môn phái Mê linh.
Trung niên nam tử ái chà một tiếng :
- Còn Từ Thụy Hương ?
- Cháu có biết một người tên Thụy Hương, bà ta họ Vương chứ không phải họ Từ.
Thiếu phụ đẹp nắm lấy tay Thủ Độ, bà tỏ ra xúc động :
- Họ Vương à ? Phải, lúc đầu bà này dùng họ Triệu của mẹ, sau mới trở lại họ Vương của cha.
- Bà ta ẩn tu trong cung Ngọc lan, làm phụ chính cho nhà vua. Bà là mẹ đẻ của nhà vua, lại là sư phụ của bọn Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc, Nguyễn Nộn, Đoàn Văn. Hiện bà âm thầm dạy võ cho bọn Gia thụy ngũ anh.
Trên mặt thiếu phụ đẹp hiện ra nét kinh hoàng, như gặp phải điều gì ghê rợn lắm :
- Cháu nói thực hay đùa ?
- Cha cháu là người đồng môn với nhị vị. Cháu đâu giám nói dối nhị vị ?
Nói dứt nó kể lại tất cả những gì Khu mật viện Tống đã làm ở vùng Thảo nguyên như phong Mao Khiêm làm chúa. Sai Hàn Dũ Linh, Vương Cương Trung đem võ sĩ lên trợ chiến. Họ cũng sai Vân đài Trịnh Nam Phương, Công chúa Vương Thụy Hương trở về Đại Việt. Hai người này giả danh Côi sơn song ưng giết cả nhà Đỗ An Di, Mạc Hiển Tích ra sao.
- Cảm ơn cháu. Vậy thế này. Kể từ nay, hằng tháng cứ ngày mùng một, canh hai, chúng ta lại ra đây gặp nhau, trao đổi tin tức. Cháu có đồng ý không ?
-Vâng.
Chợt nhớ một chuyện, Thủ Độ hỏi :
- Có phải hôm trước tiền bối đùa cợt cháu, lấy xôi, chim sẻ quay trên lưng cháu không ?
Người đàn bà tỏ ra nghiêm nghị :
- Đó là hai đứa trẻ con. Chúng thấy cháu trêu ghẹo bọn Gia thụy ngũ anh, nó cũng trêu lại cháu.
- Họ là ai vậy ?
- Ta không nói. Khi nào cháu cho ta biết cha mẹ cháu là ai thì ta sẽ nói cho cháu nghe.
- Hôm ấy tiền bối cũng hiện diện ư ?
- Không ! Hai trẻ kể cho chúng ta nghe.
Đôi nam nữ hú lên một tiếng dài, thấp thoáng một cái đã biến mất.

Thủ Độ về cung Ngọc lan, không ai chú ý đến nó. Nó ngủ một giấc dài. Khi nó giật mình tỉnh giấc, thì mặt trời đã lên cao. Thấy cung nữ Thụy Nga, nó làm bộ méo mặt, cười hề hề. Mụ gọi nó :
- Đàm Độ ! Người lại đây !
- Lại làm gì ?
- Mi may mắn lắm đó !
- May gì ?
- Mi rời Đông cung về đây nên thoát nạn quỷ ám. Hôm qua quỷ ba đầu hiện lên Đông cung. Nó xưng là hồn oan của Thái tử Long Xưởng. Nó nhát từ Thái tử Xảm cho tới đàn :D Sáng nay thị vệ, cung nga, thái giám đều khóc xin về quê làm ruộng, vì họ không thể sống trong cung quá nhiều quỷ.
Thủ Độ làm bộ tỉnh táo :
- Thưa bà, thế Hoàng thượng có ban chỉ gì không ?
- Người sai Vũ kị thượng tướng quân Phạm Bỉnh Di đem thanh Thượng phương bảo kiếm đến Đông cung để trấn quỷ. Im xem ! Liệu Bỉnh Di có đủ phép trừ quỷ không ! Tin này đồn đại khắp Thăng long. Nhiều người có tật giật mình. Bọn gian thần, tặc tử khiếp đảm lắm.
Thủ Độ nghĩ thầm:
- Đã vậy ta phải sai bọn ăn mày, đi khắp nơi phao tin này, để làm hoang mang trong dân chúng, làm mất uy tín bọn Gia thụy ngũ anh cho bõ ghét. Ta cũng nhân đó điều tra dinh thự bọn Vũ Khải, thủy thủ đoàn có liên quan đến việc ám toán mẹ ta.
Nghĩ vậy nó lại cười toe toét. Mụ Thụy Nga cau mặt nhìn từ đầu đến chân Thủ Độ rồi bảo nó:
- Nghe nói hồi này mày hay đi chơi với ăn mày. Ta muốn mày đi biệt ít tháng rồi hãy về...
- Sao??? Tại sao???
- Hiện có sứ đoàn Tống sang đây. Cung này sẽ phải tiếp nhiều khách, hội họp. Khách ra vào mà cứ phải nhìn thằng khùng làm trò hề thì chán quá.
Nghe mụ nói, Thủ Độ cười rồi nhảy cà tưng, cà tưng vào bếp kiếm ăn.

Buổi trưa hôm ấy, Thủ Độ lại giả lên cơn, rồi ra ngoài thành dạy võ cho bọn Khả hãn Tây hồ. Sau khi dạy võ, làm như là người ngoài cuộc, nó thuật lại chuyện con quỷ ba đầu, hồn oan của Thái tử Long Xưởng hiện lên đòi nợ tại Đông cung. Sau khi thuật xong, nó hạ lệnh:
- Các em trở về khu vực của mình, mỗi em tập họp các Tiểu hãn thuộc quyền kể cho chúng nghe, rồi bảo chúng đi khắp nơi thuật lại với trẻ con, với ông già bà cả, để dân chúng cùng cười cho vui.
Bọn Khả hãn Tây hồ vâng lệnh ra đi. Thế là chiều hôm đó khắp kinh thành Thăng long, người người, nhà nhà tụ nhau kể chuyện con quỷ ba đầu hiện lên nhát 27 người trong Đông cung. Người ta còn thêm mắm thêm muối rằng con quỷ sẽ còn hiện lên bắt nhiều gian thần, tặc tử nữa.
Khi bọn Khả hãn Tây hồ trở về, chúng đều hỷ hả báo cho Thủ Độ biết những thành công của chúng. Riêng Thất Anh, Thất Hào, gương mặt hiện ra nét kỳ dị. Chúng nhìn Thủ Độ, mỉm cười:
- Anh có tin vui.
- Gì vậy?
- Con thuyền mà anh chờ đợi hơn năm qua, bây giờ đã đậu trên Tương Dung độ từ tối hôm qua.
Thủ Độ run run:
- Trên thuyền có những ai?
- Thuyền phu mười người. Bộc phụ hai người. Còn chủ nhân thì chỉ có ba người thôi, hai trai, một gái. Tất cả đều còn trẻ. Người lớn nhất, tướng mạo uy nghi, mặt rồng, trán hổ, tay dài quá gối, dáng điệu từ ái, tuổi khoảng mười tám. Một người to lớn, thâm trầm ít nói tuổi khoảng mười sáu. Người nhỏ tuổi nhất là gái. Chà! Thực là một người đẹp bọn em chưa từng thấy. Cô ấy luôn cười. Khi thuyền tới bến, thì hai người con trai lấy ngựa ra đi. Trên thuyền chỉ còn lại người con gái thôi.
Tim Thủ Độ đậỳp loạn xạ. Nó bảo Thất Hào:
- Thắng ngựa cho ta.
- Có cần bọn em đi theo không?
- Không.
Thủ Độ đánh xe ra bến Tương Dung. Xe vừa đi đến bến Bắc ngạn, thì nó thoáng thấy Kim Dung cũng đang rong xe đi phía trước. Nó cho xe vọt lên đi song song với xe nàng. Kim Dung thấy Thủ Độ thì reo lên:
- À! Đàm Độ! Lâu nay người vẫn khỏe chứ?
- Cảm ơn cô nương. Tôi khỏe hơn trước nhiều.
Hai người gò cương cho ngựa dừng lại trước một tửu lầu. Nó nhận ra là Anh hùng tửu lầu, mà hồi từ Mông cổ về mẹ nó dẫn nó vào ăn, rồi bị ám toán.
Trao cương cho tửu bảo, hai người lên lầu, chọn một bàn hướng ra sông. Vừa ngồi xuống, Kim Dung nhìn Thủ Độ cười bí hiểm:
- Cảm ơn người đã xây bến Tương Dung đẹp quá. Khi được tin báo có người đã xây đá trên bến sông của nhà ta. Ông bà nội ta ngạc nhiên vô cùng. Cả nhà xúm vào tìm hiểu xem ai đã làm công việc này. Không ai đoán ra. Còn riêng ta, ta biết ngay là người, mà không dám nói.
Tim Thủ Độ đập rộn ràng. Trong những ngày đi chơi với bọn ăn mày, nó nghe chúng kể rất nhiều chuyện tình ái nam nữ : "Khi người con gái có tình ý với người con trai, thì họ muốn giấu kín những gì hai người cùng làm". Bây giờ nó biết Kim Dung đã dấu cuộc rong xe khắp Long thành với nó. Nàng lại đoán ra việc nó xây bến Tương Dung, mà cũng không dám nói ra...Thì rõ ràng, nàng đã có tình yêu vơí nó.
Kim Dung nhìn Thủ Độ, nàng cười bí hiểm, rồi gọi tửu bảo:
- Người cho ta một đĩa bốn con sẻ quay, với một đĩa xôi.
Qua nụ cười bí hiểm, rồi gọi chim sẻ quay, xôi của Kim Dung khiến Thủ Độ luống cuống. Nó cảm thấy chân tay thừa, không biết nói gì. Nó nghĩ thầm:
- Không lẽ nàng biết vụ ta dọa ma ở Đông cung? Không lẽ nàng là người ăn trộm chim sẻ quay với xôi trên lưng ta ?
Kim Dung nhìn Thủ Độ, rồi hỏi:
- Thì ra người là một công tử, mà ta không biết.
- Tôi..Tôi là công tử ư ?
- Người là cháu họ xa của Đàm hoàng hậu, thế mà người dấu ta. Là quốc thích, người mới có tiền xây bến Tương Dung đẹp thế. Có điều tư cách công tử bỏ xa bọn Gia thụy ngũ anh. Công tử là cháu Hoàng hậu, thì Thái tử Long Xảm phải thân với công tử chứ, có đâu y xua cả Gia thụy ngũ anh hành hạ công tử như vậy?
- Tôi cũng không biết nữa. À, tôi nghe nói, cô nương về Thăng long cùng với hai người anh. Vậy hai ông đó đâu rồi?
- Bố mẹ tôi sai ba anh em tôi về đây tìm tung tích một vài người thân. Ngặt vì người thân đó ẩn ở trong Hoàng cung. Cho nên hai anh tôi đi tìm cô chú tôi, cậu mợ tôi để nhờ giúp sức. Thế mà gần hai ngày qua, vẫn không ra manh mối.
Nàng nói giọng khẩn khoản:
- Công tử hiện ở trong Hoàng cung, công tử có thể dẫn tôi vào chơi được không?
- Dĩ nhiên là được.
- Ăn xong, tôi phải về thuyền gặp hai anh tôi. Vậy khi cần, tôi tìm công tử ở đâu?
- Trên bến Tương Dung lúc nào cũng có ăn mày. Khi cô nương cần, cứ gọi một đứa, bảo nó "Ta muốn gặp Đại hãn của người". Nó sẽ báo cho tôi, tôi đến gặp cô nương liền.
- Đại hãn là gì vậy?
- Là vua ăn mày!

Tuy say tình, nhưng Thủ Độ vẫn không quên thù mẹ, không quên lời nguyền diệt triều Lý. Nó quyết định thám thính phủ Thái sư Đàm Dĩ Mông, Kinh lược sứ Vũ Khải và nhà tên thuyền trưởng Đặng Vũ.
Trở về Tây hồ thủy xá, Thủ ĐộÔ gọi riêng Nhất Anh, Nhất Hào ra lệnh :
- Các em là Khả hãn vùng Gia lâm. Các em có biết rõ tình hình trong vùng không ?
Nhất Hào tự tin :
- Trong huyện, có bao nhiêu nóc gia, bao nhiêu người, bao nhiêu trâu, bò, lừa, ngựa em biết hết.
- Anh muốn hai em điều tra chi tiết trang trại của Kinh lược An phủ sứ Hồng châu tên Vũ Khải. Độ bao nhiêu lâu thì xong ?
- Năm ngày !

Đợi cho câu chuyện quỷ ba đầu lắng xuống, năm ngày sau Thủ Độ trốn ra ngoài thành Thăng long. Vào Tây hồ thủy xá nó hỏi Nhất Anh, Nhất Hào :
- Việc đó xong chưa ?
Nhất Hào cười :
- Xong rồi.
Nó lấy ra mảnh giấy :
- Trang trại của Vũ Khải rộng khoảng trăm mẫu (360.000 mét vuông). Trang được bao bọc bởi con hào rộng hai trượng (4m) sâu hơn trượng, dưới cắm đầy chông nhọn. Sau con hào là lũy tre đồng gộc dầy hàng hai ba trượng. Trong trang có bố mẹ y cùng ở. Bố y 74 tuổi, mẹ y 60 tuổi. Y ở trên Hồng châu với người thiếp thứ năm tên Mỹ Hồng. Mỗi tháng y về thăm nhà bốn ngày vào mùng một, mùng hai và mười tư, mười rằm. Vợ cả y tên Mỹ Hoàng, vợ thứ nhì tên Mỹ Thanh, vợ thứ ba tên Mỹ Huyền, vợ thừa tư tên Mỹ Lam. Y có tất cả mười lăm con vừa trai vừa gái.
Nhất Anh tiếp lời :
- Dinh của y nằm giữa trang trại, xung quanh có mấy chục nóc nhà, đó là chỗ ở của gia thuộc. Y duy trì một đội võ sĩ hơn ba mươi người, do ba cao thủ chỉ huy. Ba cao thủ này có tên Mao Thiên, Mao Địa, Mao Nhân. Còn thú vật y nuôi đàn chó trên năm chục con, đàn ngỗng trên trăm con. Ngựa năm mươi con, trâu trăm con.
Nghe Nhất Anh, Nhất Hào thuật Thủ Độ thừ người ra :
- Dường như tên Vũ Khải biết rằng y tham dự vào việc ám toán mẹ ta, thì trước sau gì cũng bị phái Đông a trả thù nên y đề phòng quá kỹ. Ta khó mà đột nhập vào dinh y. Ừ, không vào được dinh y thì ta lên Hồng châu ! Bây giờ ta thám thính nhà tên Đặng Vũ trước.

Nó hỏi :
- Hai em có biết nhà tên Đặng Vũ, coi thủy đội Thăng long không ?
- Biết chứ !
- ? ? ?
- Nhà y nằm ở Nghi tàm bên bờ hồ Tây. Y có hai vợ, ba con. Y đóng một con du thuyền khá đẹp, neo trước nhà. Vào ngày trăng thanh gió mát, y mời bạn hữu xuống con thuyền này, rồi buông chèo trên hồ Tây, đem theo ca nhi tiêu khiển. Nhà y cũng nuôi năm con :D một đàn ngỗng canh phòng.
Thủ Độ cho Nhất Anh, Nhất Hào ra, nó nghĩ thầm :
- Ta cần tra khảo tên Đặng Vũ này mới được.
Đến đó thì Nhị Anh bước vào :
- Nhà có khách.
- Khách là ai vậy ?
- Là y sư Vũ Phòng Phong.
Thủ Độ chỉnh đốn y phục. Nó hành lễ :
- Không biết trận gió nào thổi, mà Đại phu lại đến thăm cháu ? Tại sao Đại phu biết cháu ở đây ?
Phòng Phong nắm tay Thủ Độ :
- Cháu có một tin mừng.
- Thưa là... ? ! ? ! ? !
- Việc cháu lang thang sống với người cùng khổ, kể chuyện tổ tiên ta anh hùng cho bọn ăn mày nghe, đã đến tai nhạc phụ ta. Người biết cháu tổ chức bọn ăn mày lại thành một khối, người khen cháu là đứa trẻ có khí tiết khác thường, nên người gửi hai đứa cháu nội về gặp cháu, và giúp đỡ cháu. Để cháu khỏi bỡ ngỡ, người viết thư cho ta, nhờ ta hỏi ý kiến cháu trước.
Tuy mới về nước. Nhưng nhờ sống lăn lóc từ trong Hoàng cung tới đầu đường, xó chợ, Thủ Độ đã từng nghe người ta nói về phái Đông a nhà nó. Nào danh tiếng phái Đông a lừng lẫy khắp các nước Chiêm thành, Xiêm la, Chân lạp, Trung quốc, Tây hạ, Đại kim, Mông cổ. Nào là chưởng môn là ông nội nó tên Trần Tự Hấp, ân đức trải khắp nước. Trong môn phái còn có năm cô nó, mang mỹ danh Vỵ xuyên ngũ tiên cùng với chồng là Hồng lĩnh ngũ đại thần y. Bác của nó là Trần Lý được dân chúng tôn là Thần nông sứ, suốt bao năm quy dân phá hoang, giúp người cùng khổ trở thành những nhà nông sung túc. Cô út nó là Kim Ngân với chồng là Phùng Tá Chu được tôn là Tiểu Côi sơn song ưng. Hiện Phùng Tá Chu đanh lĩnh chức Đại đô đốc. Sống cô đơn ở Thăng long, đã mấy lần nó muốn tìm về Thiên trường gặp ông bà, chú bác, anh chị để hưởng cái tình nhân luân. Nhưng ác mộng ông cậu được cha mẹ nó cứu sống bao phen là nhà vua, bà mợ là Đàm hoàng hậu, hai em con cô con cậu là Long Xảm, Long Thẩm hành hạ nó tàn nhẫn chưa từng thấy trong th

egeo 06-19-2004 04:40 PM



C35:TRÊN ĐƯỜNG TẦM CỪU.

Dụng Chi mở cửa vào trong. Cánh cửa khép lại. Dĩ Mông định bỏ đi, thì một thân binh hớt hải vác một thân binh khác đến. Y run run để thân binh trên vai xuống :
- Thưa Thái sư, con quỷ ba đầu nhát chết một thân binh tên Hòa.
Nghe nói đến con quỷ ba đầu, mặt Dĩ Mông tái xanh. Y run run cầm mạch tên Hòa :
- Nó chưa chết. Nó chỉ ngất đi thôi. Người kiểm lại xem, trong phủ còn có ai bị nhát nữa không ?
Lát sau, viên trưởng sử tới, y run run :
- Thưa Thái sư, con quỷ ba đầu nhát chết hai viên thư lại rồi.
Dĩ Mông cũng bắt đầu sợ. Y đờ người ra, thì cửa phòng Thùy Dương bật mở, gã Thiên sứ run run :
- Trong phòng này, Thái sư bảo có người đẹp, mà sao chỉ có một mụ già béo ị. Mụ này chết cứng từ hồi nào rồi.
Dĩ Mông tung cửa vào, người nằm trên giường không phải Thùy Dương, mà là vợ y. Vợ y chết rồi. Y nói với gã Thiên sứ:
- Đại nhân, có lẽ con quỷ nuốt Thùy Dương, nhát chết vợ tôi, rồi đem xác bỏ vào đây.
Phủ Thái sư đánh trống báo động. Đích thân Dĩ Mông cùng gia tướng đi kiểm soát. Trong phủ có trên ba trăm người, mà hơn năm chục người bị con quỷ ba đầu nhát.

Núp trong bụi cây, Thủ Độ nghĩ :
- Mình quậy phủ Thái sư như vậy cũng đủ rồi. Cứ theo lời tên Triệu Dụng Chi, thì người chủ chốt trong vụ ám toán mẹ mình gồm cả Tống triều, lẫn triều Lý. Hà, vụ này ngoài tầm tay mình rồi. Tuy vậy mình vẫn phải tìm cho ra, bọn Việt là bọn nào ?
Nó cất mặt nạ, gỡ hai quả bầu gói lại, rồi tung mình ra khỏi hàng rào phủ Thái sư. Nó hướng đền vua Trưng dùng khinh công phóng tới. Bất giác nó ngẩn người ra, vì Thùy Dương không còn đó nữa. Nó nghĩ thầm:
- Chắc là sau hai giờ, huyệt đạo tự giải, Thùy Dương đã tìm đường trở về nhà rồi. Ta chẳng nên quan tâm.
Nó trở về Tây hồ thủy xá vào lúc quá canh ba. Tuy vậy đám Tây hồ thập bát anh hào còn thắp đèn ngồi học. Cả bọn cùng ùa ra đón Thủ Độ.
Đệ tam hào mở cổng cho Thủ Độ vào rồi hỏi:
- Anh có việc gì, mà giờ này lại ra đây?
Thủ Độ đang khoái trá cùng cực, nó cười:
- Các em chăm học thực! Giờ này còn thức! Chú Cửu Kiệt ra gọi gã hàng phở ở đầu phố lại đây. Anh em ta cùng ăn phở gà với nhau.
Gã bán phở rong cùng bà vợ đẩy xe tới. Thủ Độ hỏi:
- Này anh! Anh có mấy cái bát lớn?
- Tôi chỉ có mười cái lớn, mười cái nhỏ thôi.
- Bây giờ anh làm phở cho mười chín đứa chúng tôi cùng ăn. Liệu có đủ cho mỗi đứa hai bát to không?
Hôm nay là ngày ế ẩm, gã hàng phở đang lo nghĩ phải đem nồi phở ế về. Nghe Thủ Độ hỏi, anh ta mừng lắm:
- Đủ! Thưa đủ chứ.
Cả bọn mười tám đứa trẻ với Thủ Độ cùng ăn. Mỗi người hai bát lớn, hoặc ba bát nhỏ. Gánh phở vẫn chưa hết. Thủ Độ hỏi:
- Chị Hai, chị Ba đâu? Mời các chị ăn phở một thể.
Chị Hai, chị Ba là hai thiếu phụ trẻ. Thủ Độ mượn để nấu cơm, giặt giũ trong nhà. Tam Anh xua tay:
- Các chị ấy ngủ rồi.
Thủ Độ hỏi gã bán phở:
- Anh còn độ bao nhiêu bát?
- Khoảng hai chục.
- Thôi, làm cho chúng tôi ăn hết, để anh trở về không, khỏi cất để bán ngày mai.
Ăn phở xong, bọn Thập bát Anh hào lại tiếp tục học. Thủ Độ trở về phòng ngủ. Khép cửa phòng, vừa tháo dầy ra, nó chợt nhận thấy có người nằm. Người đó là Thùy Dương. Thùy Dương vẫn bị điểm huyệt, mắt nàng mở to nhìn Thủ Độ. Kinh hãi, Thủ Độ chạy ra ngoài hỏi đám Thập bát Anh hào:
- Hồi chiều đến giờ có ai lạ vào nhà mình không?
- Không! Có chuyện gì xẩy ra?
- Thôi được!
Trở vào phòng, Thủ Độ ghé miệng vào tai Thùy Dương:
- Cô nương có biết ta là ai không?
- Ngài có phải là thiên tướng giáng thế cứu tiểu nữ không? Ban nãy ngài hiện ra ba đầu, bây giờ lại biến thành một Thiên đồng.
- Cô nương có biết đây là đâu không?
- Đây là Thiên cung chăng? Ban nãy ngài bỏ tiểu nữ dưới gầm mốt cái bàn, lát sau ngài lại hiện ra hình một tiên nữ, mang tiểu nữ về đây.
Vốn cực kỳ thông minh, Thủ Độ đoán ra:
- Hành động của ta đã bị một võ lâm cao thủ là đàn bà theo dõi. Chắc là vị trung niên to lớn, với bà vợ xinh đẹp ở Văn miếu...hôm trước. Hai người này muốn trêu ta, nên mang Thùy Dương bỏ vào phòng, rồi rình xem ta có hành vi khinh bạc không đây! Vậy ta cũng trêu lại.
Nó lên tiếng:
- Đêm khuya, cao nhân rình ở ngoài như vậy e nhẹ thể đi! Xin mời vào tương kiến!
Có tiếng cười trong như nước suối chảy:
- Thông minh thực!
Rồi tiếng chân người di động. Biết có đuổi theo cũng vô ích. Thủ Độ bảo Thùy Dương:
- Cô nương là con của vị Kinh diên quan nào ?
- Phụ thân của tiểu nữ họ Phạm tên Kính Aạn.
Không giữ được bình tĩnh, Thủ Độ bật lên tiếng kêu :
- Ôi chà.
Vì Phạm Kính Ân là một Kinh diên quan, mà Thủ Độ kính trong nhất trong các thầy ở Quốc tử giám. Quên mất mình đang là Thiên tướng, nó chắp tay :
- Cô nương là con thầy Kính Ân, theo nghĩa của Nho gia, con thầy là anh chị mình. Vậy cô nương là chị tôi rồi !
Nghe Thủ Độ nói, Thùy Dương ngẩn người ra :
- Ngài có biết gia nghiêm à ?
Thủ Độ chợt tỉnh, nó chữa :
- Tôi thường tàng hình kiểm soát Quốc tử giám, nên được nghe Phạm tiên sinh giảng sách. Tôi kính ngài là bậc thầy.
Nó dặn Thùy Dương:
- Bây giờ tôi đưa cô nương về nhà. Nếu Đàm Dĩ Mông làm khó dễ cô nương, hỏi tại sao cô nương trốn khỏi dinh y, thì cô nương cứ trả lời rằng, cô nương được một thiên tướng ba đầu đã cứu rồi đem về nhà.
Thùy Dương quỳ gối rập đầu:
- Xin thiên tướng nhận ở tiểu nữ tám lạy, gọi là tấc lòng biết ơn.
Thủ Độ không cho nàng lạy, nó nói:
- Sau này tôi sẽ hiện hình nhiều lần, hóa làm nhiều người khác nhau; làm sao cô nương nhận được tôi? Vậy tôi cho cô nương một kệ. Khi gặp một người xưng là thiên tướng, thì cô nương đọc câu Đông sơn chi pha. Nếu người đó đáp lại là Nhật chiếu cương la. Thì đúng. Còn như y đáp sai, hoặc ngơ ngác là giả mạo. Cô nương có hiểu nghĩa không?
- Thưa thiên tướng, nghĩa rằng ngài là thần núi phương Đông, như mặt trời chiếu xuống thế gian, cứu những kẻ bị nạn, như thỏ, như nai bị mắc lưới.
Sự thực Thủ Độ muốn nói. Đông sơn chi pha, nghĩa là sườn núi phương Đông. Pha là sườn, có nghĩa là phụ. Chữ phụ với chữ Đông thành chữ Trần. Nhật chiếu nghĩa là mặt trời lướt qua, tức chữ Độ. Cả hai câu có nghĩa: Trần Thủ Độ cứu người mắc nạn như cá lọt lưới. Nay thấy Thùy Dương giảng khác đi. Nó không muốn cãi. Nó hỏi nhà thiếu nữ ở đâu? Thiếu nữ kể rành rọt cho nó nghe. Nó phóng chỉ điểm huyệt thiếu nữ, rồi đưa nàng về nhà.

Hoàn thành công việc xong, Thủ Độ trở về Tây hồ thủy trang ngủ. Sáng hôm sau, nó thức giấc thì mặt trời đã lên cao. Bọn Tây hồ thập bát anh hào học văn với thầy đồ vừa xong. Chúng đang tiễn thầy về.
Thủ Độ gọi chúng tới. Nó nói :
- Các em có biết đêm qua, con quỷ ba đầu lại hiện ra, quấy phá dinh Thái sư Đàm Dĩ Mông không ?
Cả bọn nhao nhao lên :
- Con quỷ quậy như thế nào ? Anh nghe được ở đâu ?
- Nghe chính viên trưởng sử của Đàm phủ kể.
Rồi nó tường thuật chi tiết những gì xẩy ra đêm qua. Cuối cùng nó ra lệnh :
- Các em lại làm như hôm trước. Nghĩa là chia nhau, mỗi em ra một chợ ở Thăng long, thuật cho tụi ăn mày, hoặc tụi trẻ con nghe. Hễ quan quyền có hỏi, thì nói rằng chính tai nghe viên trưởng sử kể.

Thế là không đầy một ngày, khắp Thăng long, người ta tụm năm túm ba thuật cho nhau nghe hành trạng của con quỷ ba đầu. Dân chúng, kẻ sĩ nghe chuyện đều tấm tắc khen con quỷ có hành vi giống Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn vọng thê hòa thương thời vua Thái tổ, Thái tông, Nhân tông và Côi sơn song ưng thời vua Anh tông.
Tin tức này làm cho Thủ Độ cảm thấy cực kỳ cao hứng. Quyết định thám thính nhà tên Đặng Vũ, nó gọi Tứ Anh, Tứ Hào vào thư phòng ra lệnh :
- Các em ra lệnh cho thủ hạ theo dõi nhà của tên Đặng Vũ xem chiều nay có gì lạ không ?
Tứ Anh, Tứ Hào đi liền. Vào khoảng đầu canh một, chúng về báo với Thủ Độ :
- Nhà tên Đặng Vũ có lễ lớn. Y mời đạo sư Thiên Sơn đến làm lễ yểm tà.
- Nhà y bị ma quấy phá à ?
- Không ! Y nghe nói con quỷ ba đầu hiện hồn nhát người ở Đông cung, rồi phủ Thái sư. Y lo sợ vội yểm trước.
- Thôi được ! Các em đi ngủ đi !
Thủ Độ vào phòng, lấy bộ đồ làm quỷ đeo vào lưng rồi hướng Nghi tàm, dùng khinh công phóng tới. Đến hàng rào nhà Đặng Vũ, nó liếc nhìn vào trong : Đèn nến sáng trưng. Bốn góc của khu vườn đều cắm cờ theo ngũ hành. Đông mầu xanh, Tây mầu trắng. Nam mầu đỏ, Bắc mầu đen. Giữa sân, một bàn thờ lớn, trên đặt bài vị Tam thanh, Tứ đế, đầy lễ vật. Một người trong y phục đạo sư đang xõa tóc, cầm gươm làm phép. Hai bên mỗi bên có mười hai đệ tử cầm cờ Bát quái. Xung quanh, có hàng trăm người đang ngồi, đứng lố nhố xem. Lại có năm người đánh trống, gõ thanh la, đập phách. Tên Đặng Vũ quỳ gối cùng thủy thủ đoàn mười tám tên, hướng bàn thờ lạy lia lại.
Thủ Độ nghĩ thầm :
- Tội nghiệp cho ông đạo sư kia ! Oạng làm phép trấn tà chết. Trong khi ta là con tà sống đứng đây. Ta phải dọa cho tên Đặng Vũ này sợ đến té đái vãi phân ra thì mới mong y khai sự thực.
Tay đạo sư Thiên Sơn bắt quyết, miệng hú lên lanh lảnh, trong khi đó thì một tên đệ tử túm lưng một hình nộm lắc lư. Hình nộm trong y phục phụ nữ, trước ngực có đề chữ. Nhưng ở vì tối quá nó không đọc được.
Thủ Độ đã được nghe nói: Khi gia chủ giết oan một người nào, bị hồn ma hiện về nhát, thì có hai cách giải quyết. Một là tìm một nhà sư, làm chay, giải oan, cắt đoạn cho oan hồn đi đầu thai. Hai là mời thầy phù thủy về bắt hồn con tà, bỏ vào một cái hũ, trên đậy nắp, dán bùa, rồi thả chìm xuống đáy sông. Hồn con tà đời đời, kiếp kiếp bị giam, không bao giờ ra được. Trường hợp oan hồn thành quỷ rồi, thì thầy sẽ dùng một hình nộm kết bằng rơm, cho mặc quần áo như khi con tà còn sống thường mặc. Trên ngực hình nộm đề niên canh bát tự của con tà. Thầy làm phép cho hồn con tà nhập vào hình nộm, rồi dùng gươm phép giết chết.
Bây giờ thấy hình nộm di chuyển, đạo sư làm phép, nó biết ngay, ông ta sắp giết chết một người...đã chết. Không biết kẻ xấu số nào sắp bị chết một lần nữa đây? Hình nộm di chuyển đến bên ngọn đuốc. Thủ Độ nhìn rõ ràng chữ đề trên hình nộm là Lý Đoan Nghi.
Uất khí vì cái chết của người mẹ thân yêu chưa nguôi, bây giờ Thủ Độ thấy người ta sắp giết mẹ mình một lần nữa. Nó nghiến răng:
- Ta phải giết tên đạo sư Thiên Sơn khốn nạn này.
Nhưng nó nghĩ:
- Dù võ công ta cao đến đâu, mà ta xông ra, thì cũng bị hàng trăm người kia giết chết.
Nó vòng hàng rào ra phía sau nhà quan sát, trên ngôi nhà chính, nhà ngang, bếp đều vắng bóng người. Năm con chó bị xích vào gốc cây. Nó tung người vào hàng rào. Năm con chó vừa há miệng định tru lên, thì đã bị Thủ Độ điểm huyệt. Nó dấu bốn con ở bụi cỏ khu vườn hoang bên cạnh. Còn một con, nó mang treo hai chân sau lên cột buồm chiếc du thuyền đậu ở bờ hồ. Xong xuôi, nó dùng sỏi bắn vào đầu chó để giải huyệt. Huyệt vị vừa được giải, con chó tru lên một tiếng dài, rồi kêu oăng oẳng. Tiếng tru, kêu của chó vọng ra phía trước, lập tức tiếng trống, tiếng thanh la im bặt.
Nghe tiếng cho tru, mặt tên Đặng Vũ tái xanh. Y ra lệnh cho một thủy thủ :
- Người ra phía sau xem tại sao chó tru như bị ai đánh vậy ?
Dường như tên thủy thủ có vẻ sợ hãi. Y tần ngần một lát, rồi miễn cưỡng đứng lên, tay cầm cây đuốc, tay cầm đao ra phía sau. Y vượt qua khoảnh vườn tới bờ hồ. Nhìn lên thấy con chó bị treo ngược, y rởn tóc gáy, chân tay run lật bật. Y quay trở lại định chạy, thì con quỷ ba đầu chặn mất lối đi. Y hét lên một tiếng hãi hùng, rồi quẳng đao, quẳng đuốc chạy ra phía trước. Y chỉ nói được một tiếng :
- Quỷ...Quỷ ba đầu.
Rồi ngất xỉu.
Đạo sư cùng chư đệ tử cùng múa cờ, phất phướn, tay bắt quyết. Đám thủy thủ cùng cầm đao, cầm đuốc chạy ra phía bờ hồ. Đám người xem, người nhà kinh hoảng cũng chạy theo. Tới nơi, tất cả cùng ngây người ra nhìn chiếc du thuyền đang từ từ chìm. Trên cột buồm, con chó bị treo ngược, đang dẫy loạn xạ, tru lên rùng rợn.
Đặng Vũ vẫy tay, đám thủy thủ dàn ra, bao vây lấy khách và người nhà. Còn đạo sư với đệ tử cùng múa chân, múa tay bắt quyết, miệng hú lên những câu thần chú. Khi chiếc du thuyền chim xuống rồi, thấy không có gì lạ, đạo sư an ủi :
- Con quỷ ba đầu đã bị bần đạo đuổi đi rồi.
Bỗng có nhiều tiếng chó tru phía trước. Đạo sư đi đầu dẫn mọi người trở lại bàn thờ. Đèn nến tắt hết. Trong sân tối om, tiếng chó tru vang lên trên bàn thờ. Dưới ánh đuốc chập chờn, bốn con chó nằm bốn góc bàn thờ trong tư thế bốn chân duỗi rất nhàn tản, miệng kêu oăng oẳng. Lễ vật biến mất. Hình nộm công chúa Đoan Nghi cũng không còn.
Đạo sư cùng đám đệ tử cũng run lật bật. Ông ta nói :
- Con quỷ này... thành yêu tinh rồi... Tài phép của...bần đạo không trấn nổi... nó.
Nói rồi ông quẳng cờ phép, gươm lệnh bỏ chạy. Đám để tử cũng bỏ chạy theo. Đám dân chúng tới xem bắt tà dắt díu nhau rùng rùng ra khỏi căn nhà quỷ ám.
Dù sao Đặng Vũ cũng là một thuyền trưởng. Y chỉ vào ngôi nhà chính của y, nói với bọn thủy thủ :
- Con quỷ này dữ quá. Chúng ta có chạy cũng không thoát. Chi bằng chúng ta cứ ngồi đây. Nếu nó hiện ra, thì ta cùng bao vây lấy nó. Liệu nó có địch nổi chúng ta hay không ?
Bọn thủy thủ theo Đặng Vũ vào nhà, rồi đóng cửa lại. Bỗng binh một tiếng, cửa sổ mở tung ra, tiếp theo, hai con chó bay vào rơi xuống nền nhà, chân tay dẫy loạn xạ. Máu từ miệng chúng chảy ra lênh láng. Bọn Đặng Vũ ngồi nhìn nhau, chân tay run rẩy. Lát sau, hai con chó hết dẫy. Đặng chạy lại xem xét, chúng đã chết rồi.
Đặng Vũ nói cứng :
- Con quỷ này ngán anh em chúng ta. Bằng không chúng đã hiện ra.
Đám thủy thủ nghe Đặng Vũ nói, chúng tự tin phần nào. Mệt mỏi, sợ hãi, bọn thủy thủ ngồi bệt xuống nền nhà dựa lưng vào nhau mà ngủ.
Có tiếng rên rỉ vọng vào :
- Ta...Ta... Chỉ hỏi tội tên Đặng Vũ thôi ! Những ai..vô can... hãy đi chỗ khác... bằng không ta nhát... chết.
Đám thủy thủ nghe quỷ gào, chúng an tâm nằm ngủ. Chúng vừa lim dim thì lại binh binh hai tiếng, cánh cửa lớn bật tung, một thân hình bay vào nằm thẳng cẳng không động đậy. Tất cả mọi người đều la hoảng vì thân hình đó chính là đạo sư Thiên Sơn, chủ tế bắt tà.
Đám thủy thủ không còn tuân lệnh cấp trên nữa. Chúng vùng dậy cùng nhau bỏ chạy. Trong nhà chỉ còn hai người vợ, ba đứa con với ba tỳ nữ.
Vợ Đặng Vũ run run nói với chồng :
- Ông ơi ! Con quỷ ba đầu là hồn oan Thái tử Long Xưởng. Khi ngài tại thế thì chúng ta còn nhỏ. Chúng ta không có gì đắc tội với ngài, thì việc gì phải sợ. Ngài có hiện ra, bất quá để điều tra một vài việc. Tội ai làm nấy chịu, ta cứ khai hết... là yên chuyện.
Có tiếng não bạt từ sân vọng vào. Đặng Vũ quỳ gối chắp tay :
- Trăm lậy Vô thượng Chí tôn Đại thánh hoàng đế. Xin hoàng đế bệ hạ cho gia đình thần được bình yên. Bệ hạ cần ban chỉ gì, thần xin tuân theo.
Y khấn vừa dứt, thì một bóng trắng, ba đầu từ từ vào nhà y. Đám trẻ con tỳ nữ cùng rú lên, rồi ngất xỉu. Thấp thoáng một cái con quỷ ba đầu đã vỗ lên cổ Đặng Vũ với hai người vợ. Cả ba ngã ngồi xuống, chân tay tê liệt. Con quỷ ba đầu ngồi chễm chệ lên chiếc án thư.
Thủ Độ giả tiếng đàn bà eo éo :
- Công chúa Đoan Nghi chết oan, hồn ngưởi xuống âm phủ kiện với Diêm vương. Diêm vương nhờ ta về điều tra. Vậy ta hỏi câu nào, mi phải khai thực, bằng không ta bắt hồn mi với vợ con ngay.
- Thần...Thần... Xin khai thực.
- Mi với Vũ Khải nhận lệnh từ ai để theo sứ đoàn đi Liêu Đông ?
- Hồi ấy, thủy đội của thần có nhiệm vụ tuần phòng ở cửa biển Thần phù, thuộc trấn Thanh hóa ; thì được lệnh đích thân mang một chiến thuyền lớn, cùng thủy thủ về Thăng long, theo sứ đoàn Vũ Khải. Lệnh này của Khu mật viện, do Tuyên vũ sứ Thanh hóa chuyển giao. Khi về tới Thăng long, thần mới biết rằng phải chuẩn bị lương thực, nước ngọt đi Liêu Đông. Song không biết đi làm gì. Dọc
đường, thần nghe sứ đoàn nói chuyện, mới biết là đi đón công chúa Đoan Nghi với phò mã Trần Thủ Huy.
- Mi có nghe bọn Vũ Khải bàn nhau gì khác không ? Y có ra lệnh gì đặc biệt cho mi không ?
- Lúc đi thì không ! Nhưng trên đường về khi thuyền sắp vào lãnh hải Đại Việt, thì Vũ Khải đưa ra một chỉ dụ của Hoàng thượng. Trong chỉ dụ nói vắn tắt rằng %AB Khi thuyền qua Đồn sơn, lúc đêm xuống sẽ có một thuyền đánh cá kè vào, phải để cho họ kè %BB. Quả nhiên sau sự ấy điển ra đúng như thế. Khi thuyền đánh cá kè vào, thì có ba người mà Vũ Khải gọi là ba vị đại nhân họ Mao.

Thủ Độ cười gằn :
- Một là mi nói láo, hai là mi không biết. Ba đứa đó tên là Mao Thiên, Mao Địa, Mao Nhân.
- Dạ ! Quả như thế. Anh em họ Mao nói chuyện với Vũ Khải một lúc, rồi chiếc thuyền đánh cá tách rời chiến thuyền đi vào trong đêm. Khi thuyền sắp vào cửa sông Hồng thì Vũ Khải lại ra lệnh : Phải ghìm sao cho thuyền về tới Thăng long vào sau giờ Thân. Thần phải tuân theo. Rồi thuyền tới Thăng long, rồi công chúa bị hại thế nào thần không biết. Sự thể chỉ có thế.
Nghe Đặng Vũ khai, Thủ Độ nghĩ thầm :
- Sự việc quả như thầy Phạm Kính Ân bàn.
Tuy vậy nó giả bộ khà khà mấy tiếng rồi chỉ vào đứa con trai Đặng Vũ đang ngồi run rẩy trong góc nhà :
- Mi nói láo ! Ta phải hớp hồn đứa con mi trước thì mi mới chịu khai thực.
Nói dứt, miệng nó khà khà, tay nó vuốt lên mặt đứa trẻ, sự thực nó điểm vào huyệt Hạ quan. Đứa trẻ mê man, mắt trợn ngược. Vợ Đặng Vũ kinh hoảng khóc rống lên:
- Con ơi là con. Con chết oan chết uổng thế này ư ? Anh ơi ! Có gì khai thực đi ! Bằng không có nhà mình chết hết.
Đặng Vũ run run :
- Sau khi công chúa hoăng, thì Thái úy Đàm Thì Phụng ban lệnh thăng thần lên chức Đô thống, chỉ huy thủy đội Thăng long. Cứ như lời công chúa lúc lâm chung, cũng như Khu mật viện điều tra, thì công chúa bị cướp giết chết. Thần không biết gì.
Biết tên Đặng Vũ khai thực, Thủ Độ làm bộ múa tay trên mặt đứa con y, rồi quát :
- Hoàn hồn !
Tay nó quệt vào huyệt Đản trung đứa trẻ. Đứa trẻ được giải huyệt, nó òa lên khóc. Thủ Độ ra lệnh :
- Ngày mai, có ai hỏi, thì mi phải khai rằng hồn ta hiện về điều tra sát nhân đã giết chết Bảo Quốc đại vương. Nếu như mi nói những gì ta hỏi, ta sẽ bắt hồn cả nhà mi. Nhớ không ?
Vợ chồng Đặng Vũ cùng líu ríu :
- Xin tuân chỉ bệ hạ.
Thấp thoáng một cái, Thủ Độ đã rời khỏi nhà Đặng Vũ.
Hôm sau, Thủ Độ lại gọi bọn Khả hãn Tây hồ, ra lệnh cho chúng, bắt chúng kể chuyện cho bọn ăn mày thống thuộc nghe ; để chúng đi khắp hang cùng ngõ hẻm kể lại với dân chúng rằng : Con quỷ ba đầu hiện lên nhát chết đạo sư Thiên sơn, một phù thủy cao nhất Thăng long, gữa lúc ông cùng đang cùng đệ tử trấn tà tại nhà đội trưởng thủy đội Thăng long ở Nghi tàm. Dân chúng Thăng long lại tụ năm túm ba mà bàn tán.

Làm quỷ tại nhà Đặng Vũ không tìm ra được tý ánh sáng nào. Thủ Độ quyết định đi Hồng châu, điều tra Vũ Khải. Trưa hôm đó nó thuê xe đi Hồng châu. Buổi chiều, thì xe tới nơi. Nó lang thang tìm bọn ăn mày để hỏi tin tức. Bọn ăn mày cho nó biết : Dinh Kinh lược An phủ sứ Hồng châu tọa lạc cạnh bờ sông. Thủ Độ theo dấu bọn ăn mày chỉ, tìm đến dinh An phủ sứ. Nó quan sát địa thế, rồi kiếm một nhà hàng ăn uống. Đợi trời tối hẳn, nó vọt mình qua hàng rào phía sau, ẩn vào bụi hoa, phóng mắt nhìn. Trong dinh vắng lặng. Có hai khu còn ánh sáng chiếu ra, đó là khu chánh và khu nhà bếp. Nó lấy bộ đồ làm quỷ ra đeo vào. Vẫn không có tiếng động. Yên tâm, nó di chuyển thực nhanh tới khu nhà ngang. Một võ sĩ cầm đao canh gác đang đi đi, lại lại. Thủ Độ tới sau lưng, mà y không biết. Nó hừ hừ lên mấy tiếng. Tên võ sĩ quay lại, thấy con quỷ ba đầu, hồn vía lên mây. Y khuỵu xuống, hàm răng đánh vào nhau lộp cộp. Thủ Độ chĩa tay điểm huyệt y, rồi dọa :
- Ta bắt hồn mi mi về Aạm phủ điều tra đây. Mi có biết ta là ai không ?
- Dạ...dạ... biết. Ngài là Vô thượng Chí tôn Đại thánh đế.
- Được, ta tha cho mi ? Tên Vũ Khải có nhà không ?
- Không.
- Y đi đâu ?
- Hồi chiều có lệnh của Thái úy Đàm Thì Phụng gọi An phủ sứ về Thăng long họp khẩn để đối phó với ông... ông... quỷ ba đầu.
- Vợ y ở đâu ?
- Ở phòng thứ nhất, thuộc dẫy nhà ngang.
Thủ Độ điểm huyệt y, rồi dựng y vào tường. Người nhìn từ xa, tưởng y đang dựa cột.
Thủ Độ đến dẫy nhà ngang, nó đẩy cửa sổ phòng có ánh sáng chiếu ra, rồi buông mình vào. Đây là một phòng ngủ trang trí cực kỳ xa hoa. Trong phòng không có người. Nó khép cửa sổ lại, nghĩ thầm :
- Cô vợ Mỹ Hồng của Lưu Khải chắc sang phòng bên cạnh. Ta cứ ngồi đây. Lát nữa y thị về, thấy ta, sẽ chết khiếp.
Nó ngồi lên giường trong tư thế Kiết già. Không phải chờ lâu, có tiếng dép lẹp kẹp, rồi cửa phòng bật mở. Một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi lăm, nhan sắc tuyệt thế, trong y phục lụa mầu mỡ gà bước vào. Thiếu phụ chưa nhìn thấy Thủ Độ. Nàng khép cửa, cài then. Vừa quay lại, thấy Thủ Độ, nàng há hốc miệng ra. Chân tay run lật bật. Thủ Độ nhoài người một cái, nó đã điểm huyệt nàng, rồi đẩy ngồi vào cái ghế.
Nó hỏi :
- Người có biết ta là ai không ?
- Biết. Ngài là Vô thượng Chí tôn Đại thánh hoàng đế. Xin bệ hạ tha cho tiểu tỳ.
- Công chúa Đoan Nghi bị ám hại, Diêm vương nhờ ta về đây điều em thủ phạm là ai. Nếu người khai thực thì thôi. Bằng có đôi điều dối trá, ta sẽ hớp hồn người ngay.
- Xin bệ hạ cứ hỏi.
- Mi có biết chồng mi nhận lệnh từ ai mà dám ám hại công chúa Đoan Nghi ?
- Từ Thái úy Đàm Thì Phụng, cha đẻ của Hoàng hậu.
- Bùi Thái phi, nhà vua âm thầm ban chỉ cho chồng mi đi đón công chúa. Tại sao Đàm Thì Phụng biết ?
- Hoàng thượng bàn với Bùi thái phi rằng, nay quyền về tay họ Đàm. Trong cung thì Đàm hoàng hậu lũng đoạn. Bên ngoài thì Đàm Dĩ Mông giữ quyền văn, Đàm Thì Phụng giữ binh quyền. Như vậy e tương lai lại có những vụ Đỗ Anh Vũ, Đỗ An Di tái diễn. Vả từ ngày công chúa với phò mã ra đi, đất nước không kỷ cương. Nhân tâm ly tán. Võ lâm chống triều đình. Vậy nên âm thầm sai người đi Mông cổ thỉnh phò mã với công chúa về để chấn chỉnh lại. Hoàng thượng gọi phu quân tôi, ban chỉ dụ mật đi đón công chúa, phò mã. Không ngờ vụ này Hoàng hậu biết. Người báo cho phụ thân là Thái úy Đàm Thì Phụng. Thái úy khẩn cấp họp với Thái sư Đàm Dĩ Mông. Cả hai cùng đi tới quyết định rằng tìm cách ám toán công chúa với phò mã khi chưa về đến Đại Việt.
- Phò mã với công chúa ẩn tại Mông cổ làm thế nào Hoàng thượng biết ?
- Tống biết. Họ báo cho Nam thiên huyền quân biết. Chính đạo cô khuyên nhà vua đi mời công chúa với phò mã về để chia bớt quyền hành của họ Đàm.
- Mi nói láo rồi, đạo cô chính là Tuyên phi thời vua Anh tông, người là mẹ đẻ ra nhà vua. Người vốn thù hận công chúa với phò mã. Người cũng biết khi công chúa với phò mã cầm quyền thì không lợi cho Tống. Đời nào người muốn phò mã công chúa về ?
- Không phải như vậy. Trước kia, mà phò mã với công chúa cầm quyền thì mới nguy cho Tống. Bây giờ khi phò mã công chúa về, đã bị họ Đàm chia quyền. Trong cung thì Đạo cô phụ chính. Vả bây giờ Đại Việt yếu quá rồi, phò mã công chúa không thể đem quân đánh vào lưng Tống nữa, mà chỉ có thể kiến thiết lại đất nước mà thôi. Theo ý triều Tống, thì giữa việc phò mã công chúa về Đại Việt với việc hai vị giúp Mông cổ, thì sao cho phò mã công chúa rời Mông cổ lợi hơn.
- Vũ Khải nhận mật chỉ của nhà vua. Tại sao y lại ám toán công chúa !
- Oan uổng ! Oan uổng ! Chồng tiểu tỳ không hề ám toán công chúa. Vụ nay hoàn toàn do Thái úy Đàm Thì Phụng với Tống cùng ra tay.
- Chi tiết thế nào ?
- Chồng tiểu tỳ sắp lên đường thì Thái úy xuống thuyền đưa ra một mật chỉ : Khi thuyền về đến lãnh hải Đại Việt, đang đêm sẽ có một thuyền đánh cá kè vào. Phải giữ bí mật không cho phò mã công chúa biết. Thuyền đánh cá sẽ đem mật chỉ tới. Quả nhiên khi thuyền về tới lãnh hải, đang đêm có thuyền đánh cá kè vào. Người mang mật chỉ tới là anh em họ Mao.
- Ta biết rồi chúng có tên Mao Thiên, Mao Địa, Mao Nhân. Chúng là con ma đầu Mao Khiêm. Mật chỉ ra sao ?
- Mật chỉ rằng : Phải ghìm sao cho thuyền về tới Thăng long vào sau giờ Thân. Sau đó công chúa bị ám hại là việc ngoài sư tưởng tượng của chồng tiểu tỳ. Chồng tiểu tỳ vô tội.
- Vô tội ! Hừ ! Thế mật chỉ đâu ?
- Sau khi công chúa bị hại rồi, thì Thái úy mới gọi chồng tiểu tỳ nói rằng : Vụ công chúa bị cướp giết chết, phái Đông a cũng như triều đình đều quy cho mi có trách nhiệm. Vậy tốt hơn hết, hãy hủy hai cái mật chỉ kia đi. Chồng tiểu tỳ đem mật chỉ ra hủy trước mặt Thái úy. Theo như chồng tiểu tỳ biết, thì mật chỉ này kiềm ấn đàng hoàng. Vậy có thể mật chỉ do Thái úy làm rồi Hoàng hậu lấy trộm ấn kiềm vào. Còn chữ ký thì Thái úy nhái theo chữ ký của Hoàng thượng.
- Tại sao trong trang của Vũ Khải lại chứa ba anh em họ Mao ?
- Theo Thái úy thì cái vụ quỷ ba đầu là do một cao thủ giả danh. Cao thủ này đang đi điều tra về cái chết của công chúa. Vì vậy người bố trí ba anh em họ Mao tại trang của chồng tiểu tỳ để sẵn sàng đối phó.
- Mi bảo ta là quỷ hay là người ?
- Nếu bàn tay lạnh thì là quỷ. Còn nóng thì là người.
Thủ Độ vận âm kình, rồi áp bàn tay vào má Mỹ Hồng. Mỹ Hồng thấy bàn tay Thủ Độ lạnh kinh khủng. Nàng run lên bần bật :
- Quả...Quả...là quỷ.
Thủ Độ vận âm kình dồn vào người Mỹ Hồng lát sau lạnh quá, nàng ngất đi nó mới buông ra.

Trên đường từ Hồng châu về Thăng long, lòng Thủ Độ cực kỳ cao hứng, vì nó đã truy tầm ra thủ phạm sát hại mẹ nó. Thủ phạm bao gồm họ Đàm, mà ba người cầm đầu là Đàm hoàng hậu, Đàm Dĩ Mông, Đàm Thì Phụng cùng bọn Tống. Nó nghĩ:
- Bây giờ ta phải làm gì ? Một là ta giết cả nhà Đàm Thì Phụng, Đàm Dĩ Mông, giết luôn cả Đàm hoàng hậu. Hai là ta bắt chước cha ta xưa, giả danh Côi sơn song ưng, dán cáo tri với quốc dân, để triều đình xử tội y. Ba là ta về Thiên trường cáo với ông bà nội ta để người trả thù. Ừ, tội gì ta phải giả danh ai ? Ta nhân danh quỷ ba đầu giết chúng cũng được.

Thủ Độ trở về cung Ngọc lan vào buổi chiều để nghe ngóng tin tức. Lát sau nó thấy bọn võ tướng cao cấp nhất lục tục kéo vào : Thái sư Đàm Dĩ Mông, Thái úy Đàm Thì Phụng, Tả kim ngô thượng tướng quân Phạm Du, Tổng lĩnh thị vệ Đoàn Văn, An phủ sứ Kinh Bắc Nguyễn Nộn, Vũ kỵ thượng tướng quân Phạm Bỉnh Di, quản Khu mật viện Quách Bốc.
Nó nghĩ thầm :
- Chắc đạo cô Nam thiên họp về việc mình quậy Đông cung, phủ Thái sư, nhà Đặng Vũ, dinh An phủ sứ đây. Phòng ngủ của ta cạnh điện thờ thánh của đạo cô. Ta chỉ việc áp tai vào vách là biết ngay chúng họp về vấn đề gì.
Nó về phòng áp tai vào vách nghe. Tiếng đạo cô Nam thiên :
- Tứ mấy chục năm nay, các võ phái quá thịnh, nên họ coi thường triều đình. Để giảm bớt thế lực của chúng, triều đình đã cấm các gia, các phái không được thu nhận đệ tử. Chỉ năm trường của Lĩnh Nam ngũ hổ tướng mới được thu đệ tử dạy võ. Thế nhưng chúng vẫn âm thầm thu nhận môn sinh, rồi truyền thụ. Tuy vậy ảnh hưởng các võ phái đã giảm rất nhiều.
Có tiếng Đàm Thỉ Phụng :
- Tấu Tiên nương, có một điều nan giải là : Hiện các tướng trong quân đều là người các võ phái. Bọn này hầu như tuân lệnh môn phái hơn là tuân lệnh triều đình. Nếu muốn cách chức hết bọn này, thì lấy ai chỉ huy ?
Tiếng Nam thiên :
- Thái úy đừng lo, tôi đã huẩn bị trước rồi. Cách đây mấy năm, tôi lệnh cho Lĩnh Nam ngũ hổ tướng ở trường dạy võ.Mà võ công này là võ công Hoa sơn của tôi. Tôi là Công chúa tiên tử của Hoa sơn. Bây giờ triều đình ban chỉ mở khoa thi võ, dĩ nhiên chỉ có môn sinh của Ngũ hổ dự thi. Những tân khoa này sẽ được bổ nhiệm thay thế đám võ tướng kia, thì cái nọc môn phái không còn nữa. Cứ tình trạng ấy, chỉ vài chục năm nữa, thì caca gia, các phái sẽ tàn lụi, chỉ có võ công Hoa sơn dương danh mà thôi.
Tiếng Đàm Dĩ Mông :
- Tâu Tiên tử, để bịt miệng bọn võ phái, triều đình nên cử Kiến khang, Kiến bình vương cùng Phùng Tá Chu là đệ tử phái Đông a làm giám khảo. Như vậy nếu ai dị nghị, thì phái Đông a lĩnh hết.
Nghe đến đây Thủ Độ không thấy họ bàn tán gì nữa nó bước ra khỏi cung.
Cung nữ Thụy Nga thấy nó thì cau mặt lại :
- Ta đã bảo, hồi này cung Ngọc lan có nhiều khách. Vậy mi hãy tránh đi chỗ khác. Thế mà mi lại vác cái bản mặt khật khùng về đây. Lát nữa Thiên sứ đại nhân với sứ đoàn giá lâm cung này, mà họ thấy cái bản mặt mi thì còn ra thể thống gì nữa. Mi có cút đi không ?
Thủ Độ làm bộ nhăn mặt, méo miệng rồi ra ngoài thành Thăng long. Về đến Tây hồ Thủy xá, bọn mười tám Khả hãn đang ngồi chờ nó. Nó sai mười tên Tiểu hãn gác quanh Thủy xá rồi họp bọn Khả hãn. Nó lên tiếng :
- Dường như có sự gì ghê gớm lắm thì phải, cho nên trên gương mặt các em mới trầm tư thế kia.
Khả hãn Nhất Hào nói :
- Bọn sứ thần Tống sang kỳ này có rất nhiều điều bất lợi cho Đại Việt ta.
- Bất lợi thế não ?
- Tống triều gửi sứ sang Đại Việt kì này để yêu sách vàng ngọc cống cho Kim. Triều đình đã xuất hết châu báu trong kho, mà cũng không đủ. Thái sư Đàm Dĩ Mông hiến kế : Gửi sứ đi các trấn lấy về. Hiện vàng, ngọc, châu báu đều để ở cung Triều dương là nơi sứ đoàn ở.
Thủ Độ nghiến răng :
- Nhục quốc thể.
Khả hãn Tam Anh tiếp :
- Dân ta đang đói vì thiếu gạo, mà bọn họ Đàm sai chở sang Tống mười triệu thùng gạo.(Thùng tương đương với ngày nay 10kg). Gạo đã đang chuyển xuống thuyền.
Khả hãn Ngũ Hào hỏi :
- Anh nghĩ sao ? Chúng ta có nên tìm cách cướp lại số gạo đó phát cho dân nghèo không ?
- Ta không đủ khả năng. Bây giờ chỉ có cách ép nhà vua, hoặc tên Đàm Dĩ Mông chối rằng Đại Việt mất mùa, không thể chở gạo sang Tống. Vạn nhất, việc này không xong thì chúng ta làm loạn.
- Làm loạn ?
- Ta khích dân nghèo sống gần các kho gạo cướp gạo ấy, còn hơn làm ngoan dân mà chết đói.
Thủ Độ nghĩ thầm :
- Cái vụ sách nhiễu vàng ngọc này có thể là triều đình Tống thực. Cũng có thể là tên sứ thần mưu với Đàm Dĩ Mông. Vàng ngọc này là của trăm họ Đại Việt. Ta không thể để bọn Tống mang đi. Ta phải lấy lại. Ta phải đến cung Triều dương trộm hết những gì chúng vơ vét. Trộm là hành động cực kì xấu xa. Nhưng hành động đó chỉ xấu khi ta dùng của lấy trộm dùng cho mình. Còn như ta...Trước đây ta đã trộm vàng bất nghĩa của Đàm hậu, biến thành vàng có nghĩa, nuôi bọn Tây hồ thập bát anh hào. Bây giờ ta phải trộm để nuôi hết bọn trẻ con ăn mày. Ta không xấu hổ , mà còn hãnh diện nữa ! Ta nghe trước đây, các sứ đoàn Tống sang Đại Việt chỉ ở lại năm ba ngày là quá. Sao kỳ này chúng ở lại đến hơn tháng ? Lợi dụng đêm nay bọn sứ đoàn vào cung Ngọc lan, ta làm một mẻ.
Nghĩ vậy nó hỏi :
- Trong các em, em nào là Khả hãn vùng hồ Thủy quân (Nay là hồ Hoàn kiếm).
Tam Anh dơ tay :
- Khu đó do em với Tam Hào !
- Tình hình cung Triều dương ra sao?
- Có sứ Tầu sang cư ngụ trong đó hơn tháng rồi. Ngày nào không Thái sư Đàm Dĩ Mông thì Thái úy Đàm Thì Phụng cũng tới gặp chánh sứ Triệu Doãn Chi.
- Cung Triều dương ở đâu ?
- Từ đây tới cũng hơi xa. Cung nằm tại phường Yên tập, thuộc huyện Thọ xương, cạnh chùa Quán sứ.
Thủ Độ à lên một tiếng :
- Chùa Quán sứ thì anh biết rồi. Chùa thờ Minh Không bồ tát phải không ?
- Vâng !
Tam Anh cầm bút vẽ chi tiết từng phòng một. Nó còn biết cả mấy cái lỗ chó chui ở hàng rào xung quanh cung nữa.
Thủ Độ ra lệnh :
- Bây giờ hai em mặc quần áo rách, cùng mấy Tiểu hãn khu hồ Thủy quân, ngồi trước cung Triều dương. Khi thấy bọn sứ đoàn ra đi, thì chạy về báo cho anh.
Tam Anh cười khì :
- Lúc nào bọn em cũng mặc quần áo rách mà. Để em ra chợ rủ thêm mấy đứa học trò của em nữa cùng đi cho vui.
Vào khoảng hết canh một, thì một Tiểu hãn trở về báo cho Thủ Độ biết : Sứ đoàn đã lên ngựa, vào Hoàng thành hết.
- Quân canh phòng có đông không ?
- Sứ đoàn có mười lăm mã phu, với hơn trăm thị vệ Tống canh phòng. Nhưng khi bọn quan quyền trong sứ đoàn đi rồi, thì chúng kéo nhau ra phố chơi hết. Trong cung chỉ còn hai thị vệ. Một tên gác cổng trước, một tên gác cổng sau.
Thủ Độ truyền lệnh cho nó :
- Bảo Khả hãn Ngũ Anh với đám ăn mày lui thôi.
Nó âm thầm lấy hai quả bầu, cùng mặt nạ rồi hướng cung Triều dương, dùng khinh công phóng tới. Đúng như Ngũ Anh nói, cạnh cung Triều dương là chùa Quán sứ. Nó tung mình vào sân chùa, mặc quần áo trắng, đeo mặt nạ, buộc hai cái đầu giả vào lưng, rồi vọt mình qua hàng rào vào trong cung Triều dương.
Thình lình có tiếng người cười nói ồn ào, rồi có hai kiệu phu khiêng cái kiệu vào trong sân. Đi kèm kiệu là Nguyễn Dư với tên thái giám Đỗ Quảng. Kiệu hạ xuống, Nguyễn Dư hướng vào trong kiệu :
- Phan tiểu thư ! Xin tiểu thư xuống kiệu cho.
Một thiếu nữ từ trong kiệu bước ra. Trong ánh sáng lờ mờ, Thủ Độ cũng nhận ra nàng khoảng mười sáu, mười bẩy tuổi, nhan sắc cực kì diễm lệ, có phần sắc sảo hơn Phạm Thùy Dương. Thiếu nữ hỏi Đỗ Quảng :
- Đỗ công công ! Công công nói rằng có chỉ dụ của Hoàng hậu đón tôi vào yết kiến người. Hoàng hậu ở trong cung An toàn, tại Hoàng thành. Sao công công lại đưa tôi tới cung Triều dương là nơi sứ đoàn Tống ở ?
Đỗ Quảng chỉ vào căn phòng của viên phó sứ :
- Tiểu thư hãy vào trong đó. Hoàng hậu giá lâm tức thời.
Tên thị vệ Tống lấy chìa khóa mở cửa phòng viên phó sứ. Trong phòng đèn nến sáng trưng. Nguyễn Dư chỉ vào trong :
- Mời tiểu thư !
Thiếu nữ hiên ngang vào phòng. Nàng phóng con mắt nhìn một lượt, rồi hỏi Nguyễn Dư :
- Công tử ! Đây là phòng ngủ của một người đàn ông. Tôi là một khuê các tiểu thư. Tôi không thể ngồi lại.
Nói rồi nàng lùi ra sân. Đỗ Quảng, Nguyễn Dư với tên thị vệ Tống bao vây nàng vào giữa. Tên thị vệ nói tiếng Việt :
- Cái lày không phải chồ Hoàng hậu lớ. Cái lày nị chồ phó sứ lại nhân mà.

Thiếu nữ hỏi Đỗ Quảng :
- Y nói có đúng không ?
Nguyễn Dư cười, y nói bằng giọng cực kì đểu giả :
- Chẳng nói dấu gì tiểu thư. Tôi mời tiểu thư đến đây để ngủ với phó sứ đại nhân ít đêm. Chỉ cần tiểu thư ngoan ngoãn, thì tiến chình tương lai của phụ thân tiểu thư sẽ mở rộng không biết bao nhiêu mà kể. Tiểu thư thử nghĩ xem, phụ thân của tiểu thư lĩnh chức đô thống, chỉ huy đoàn võ sĩ Côi sơn suốt mấy năm qua, mà cũng vẫn không được thăng lên một bậc, hay một trật nào. Nếu nay tiểu thư chịu khó hầu hạ ngài phó sứ mấy ngày. Chỉ mấy ngày thôi, có mòn đi tí nào đâu, mà phụ quý, tử vinh !
Thiếu nữ vung tay tát Nguyễn Dư một cái. Nguyễn Dư lạng người tránh, nhưng tay thiếu nữ như con cá chạch, nàng lách một cái, đã trúng mặt Dư. Bốp. Dư bị nảy đom đóm mắt.
Nhìn chiêu thức của thiếu nữ Thủ Độ nhận ra nàng sử dụng võ công Đông a. QuáÔ khứ hiện lên trong tâm : Thủ Độ thường nghe bố mẹ nói rằng, hai sư đệ thân tín là Trần Tử Kim được Thủ Huy trao cho chức thống lĩnh đoàn võ sĩ Long biên. Phan Lân được trao cho thống lĩnh đoàn võ sĩ Côi sơn. Bây giờ nghe Nguyễn Dư nói thiếu nữ họ Phan, cha thống lĩnh đoàn võ sĩ Côi sơn, nàng còn sử dụng võ công Đông a...Thì có thể nàng là con của sư thúc Phan Lân. Nó nghĩ thầm :
- Ta phải cứu nàng như cứu Phan Thùy Dương.
Nguyễn Dư bị tát y nổi cáu :
- Con tiện tì vô lễ.
Y ra một Long trảo chụp vào ngực thiếu nữ, cử chỉ cực khả ố. Thiếu nữ trầm người tránh khỏi, rồi quét chân một cái Nguyễn Dư bị trúng cước, lảo đảo suýt ngã. Bị bất ngờ Nguyễn Dư xấu hổ, không nhân nhượng nữa, y rút kiếm tấn công nàng. Thiếu nữ cũng ra chiêu phản công. Nhìn trận đấu, Thủ Độ kinh ngạc :
- Cứ như hôm đấu với tên này ở quán Bích động, bản lĩnh y cao thâm hơn ta không làm bao. Trong thời gian mấy năm, ta ra sức luyện tập để trả thù. Không ngờ tên này được đạo cô hết lòng truyền thụ, nên võ công y đến trình độ mà ta không ngờ tới.
Tuy võ công Nguyễn Dư cao thâm, nhưng bản lĩnh thiếu nữ vẫn trội hơn y một bậc. Thái giám Đỗ Quảng đứng ngoài, thấy vậy thì rút kiếm nhảy vào trợ chiến. Bản lĩnh thiếu nữ tuy cao, nh

egeo 06-19-2004 04:42 PM



C36:LỜI NGUYỀN TÂY HỒ

Mỹ Vân chỉ cái hòm châu báu :
- Sư huynh định cất ở đâu? Dùng vào việc gì ?
Thủ Độ đáp không suy nghĩ:
- Hiện giờ vua thì hôn ám, chỉ biết xây dựng cung điện cho cao rộng, quanh năm suốt tháng sống với cung nga. Dân chúng quá đói khổ, giặc cướp nổi lên khắp nơi. Tôi định dùng số vàng bạc này làm hai việc. Một lập những trang khắp Đại Việt, tụ tập bọn thiếu niên ăn mày lại, dậy dỗ cho chúng thành người. Hai là, ta thu dụng các thiếu niên còn trẻ, dạy văn, luyện võ cho họ, rồi tổ chức thành những đội bảo vệ làng xã.
Mỹ Vân mở to mắt nhìn Thủ Độ :
- Chí sư huynh lớn quá. Liệu ta có làm nổi không ?
- Vua Đinh Tiên hoàng chỉ là đứa trẻ mồ côi chăn trâu. Tổ Trần Tự Viễn của phái Đông a xuất thân là một chú thợ săn. Linh Nhân hoàng thái hậu là một cô gái quê. Thế mà các vị ấy làm lên những chuyện kinh thiên động địa. Tại sao ta không theo gương các ngài ? Dù ta không tạo được huân nghiệp to lớn, thì cũng không hổ là con cháu các ngài.
- Sư huynh ! Triều đình nghe tin cung Triều dương bị quỷ ba đầu cướp châu báu; muội e, nhà vua sẽ sai thị vệ đi xét từng nhà. Ta nên cất số vàng bạc này đi chỗ khác.
- Bây giờ ta nên cất ở đâu ?
Mỹ Vân dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai Thủ Độ :
- Hành động của sư huynh bị người ta theo dõi. Những người này là người tốt thì không sao. Còn như họ là người của triều đình, của Tống, thì cái gì sẽ xẩy ra ? Họ ở trong bóng tối, sư huynh ở ngoài sáng, làm sao mà đề phòng ? Số vàng ngọc này vốn của Đại Việt. Nếu sư huynh để ở đây, lỡ ra quan quân tới khám thì đầu sư huynh với bọn Thập bát Tây hồ khó mà bảo toàn. Biết đâu, người theo dõi sư huynh không lấy trộm ? Muội khuyên sư huynh nên làm như vậy... như vậy...
Thủ Độ tỉnh ngộ. Nó vác hòm châu báu ra phía sau chuồng ngựa, lấy móng, cùng Mỹ Vân đào lỗ chôn xuống, rồi trở về phòng. Nó chỉ cho Mỹ Vân nằm trên giường, còn nó thì nằm dài trên cái phản. Hai người tắt đèn đi ngủ. Nằm khoảng hai chục tiếng đập tim, nó ngồi bên cửa sổ cùng Mỹ Vân phóng mắt qua kẽ cửa quan sát. Không phải chờ lâu, có hai bóng đen từ trên cây khế buông mình xuống, lại chỗ nó chôn hòm châu báu quan sát qua loa, rồi bỏ đi.
Chỉ chờ có thế, Mỹ Vân với nó ngồi dậy, nhìn nhau mỉm cười. Nó khen :
- Mưu kế sư muội thâm thực.
Nó lấy cái hòm quần áo của mình, cùng Mỹ Vân bỏ vào trong mươi viên gạch, rồi đào cái hòm châu báu lên, bỏ cái hòm chứa gạch xuống. Nó vác cái hòm châu báu vào nhà, rồi mở ra cùng Mỹ Vân kiểm điểm. Số vàng là 200 thoi, còn lại không biết bao nhiêu bích ngọc, hồng ngọc, kim cương. Lại có cả năm cái hộp bằng bạc trong đựng sâm Cao ly. Mỹ Vân thắc mắc:
- Tiểu sư huynh! Tất cả vàng, cũng như ngọc đều đựng trong hộp bạc, bên ngoài khắc biểu hiệu của Đại Việt là hình con rồng cuộn khúc, cạnh con chim âu đang bay. Những vàng ngọc này chắc là của công khố Đại Việt. Vậy tại sao lại có năm hộp bạc đựng sâm, ba hộp vàng đựng ngọc, trên khắc hình mặt trời với con chim ưng? Sâm, ngọc này ở đâu, mà tên sứ Tống có?
Câu hỏi của Mỹ Vân làm Thủ Độ giật bắn người lên. Nó trả lời trong khi tay run run:
- Hình chim ưng bay ngang mặt trời là biểu hiệu của Thành cát Tư hãn.
- Thành cát Tư hãn là ai?
- Là vua nước Mông cổ.
- Nước Mông cổ ở đâu?
- Ở phía Bắc Trung quốc. Dân ta chỉ biết có Tống. Triều đình phải cúi đầu chịu nhục trước Tống. Trong khi đó Tống phải xưng thần tiến cống Kim. Mà Kim thì sợ Mông cổ như sợ cọp.
Mỹ Vân thấy sắc thái kỳ dị của Thủ Độ, nàng nghĩ thầm:
- Vị tiểu sư huynh này, dọc ngang coi trời bằng vung. Thế sao khi nói tới Mông cổ lại run run cảm động? Ta phải hỏi cho rõ mới được.
Nàng chỉ vào mấy hộp sâm, ngọc hỏi Thủ Độ:
- Sư huynh! Tại sao sư huynh thấy mấy hộp này lại súc động quá đáng?
- Tại vì, nó là những món mà Thành cát Tư hãn tặng cho song thân huynh. Khi mẫu thân huynh bị sát hại, thì những món này bị người ta lấy mất. Tại sao bây giờ nó lại ở đây? Ai đã đem những vật này dâng cho Tống? Mấy năm nay, huynh khổ công truy lùng sát nhân đã ám toán mẫu thân huynh, mà không ra tung tích. Bây giờ đã có ánh sáng rồi đây. Cái kẻ đã dâng ngọc, sâm cho Tống là chính phạm trong vụ này.
Thủ Độ mở mấy hộp ngọc ra. Nó thấy thiếu hai món quan trọng. Món thứ nhất là viên hồng ngọc lớn bằng quả trứng gà. Đó là viên ngọc mà Mông cổ tịch thu được trong trận đánh kinh đô Khắc liệt. Thành cát Tư hãn sai khắc hình con chim ưng, biểu hiệu của phái Đông a lên trên, tặng cho Thủ Huy. Món thứ nhì là một chuỗi ngọc kim cương 360 hạt, mà Đại hãn Diệt xích ngột dùng để chuộc mạng y với vợ con. Thành cát Tư hãn tặng cho Đoan Nghi, ngay sau trận đầu Thủ Huy Đoan Nghi cứu ông.
- Em có thể giúp sư huynh tìm ra thủ phạm hại bá mẫu!
- Nói thử!
- Chúng ta mạo hiểm tìm cách bắt tên chánh sứ, dùng cực hình tra khảo, thì y khai ra những thứ này, ai đã trao cho y!
- Liệu ta có làm được việc này không?
- Tại sao không? Tên phó sứ là một võ lâm cao thủ. Còn chánh sứ chỉ là tên quan văn trói gà không chặt... Nếu không bắt được chánh phó sứ, thì ta bắt một trong bốn tên bồi sứ cũng đủ.
- Bồi sứ là gì vậy ?
- Là người nắm tất cả những cơ mật trong sứ đoàn, làm quân sư cho chánh sứ. Nhưng... nghe đâu võ công bốn tên bồi sứ cao thâm lắm thì phải.
Mỹ Vân hỏi :
- Bây giờ ta phải cất đám vàng bạc này ở đâu?
Thủ Độ chợt nhớ một câu trong binh pháp Kinh Nam vương: "Phàm chỗ kín thì ai cũng chú ý. Phàm chỗ hở thì ít ai để ý. Phàm cái chỗ dễ chết, ta có thể tìm được đất sống. Phàm chỗ ai cũng tưởng sẽ sống, lại dễ bị chết". Nó lấy ra mười nén vàng, bỏ vào cái túi, rồi nói:
- Sư muội thấy không! Ta sống giữa nanh vuốt hùm, sói là Đông cung, cung Ngọc lan, lại yên lành. Bây giờ nếu ta dấu đám châu báu tại đây, e có ngày bị lộ. Cái nơi mà ít ai để ý, người người đi lại, thì không ai ngờ tới. Cái nơi đó là khu vườn sau chùa Chân giáo.
- Thế còn mười nén vàng này?
- Hôm trước ông bà Hải hà sứ Tô Trung Từ vỗ vai, rồi hì sư huynh, dụ sư huynh ra Văn miếu để tìm căn cước. Bây giờ ta làm ngược lại với ông bà. Ta không hì ông bà, mà đường đường chính chính tìm đến ông bà, để ông bà biết ta không trẻ con như ông bà tưởng.
- Nghĩa là?!?!?!
- Ông bà ấy biết huynh qua ông bà Phòng Phong, dĩ nhiên ông bà ấy biết chỗ ở cũng như việc làm của ta. Ta đường đường, chính chính sai bọn Anh Hào đem vàng đến con thuyền của ông bà ấy trên bến Bắc ngạn, trao số vàng cho ông bà ấy, xin ông bà ấy đứng ra quy tụ bọn thiếu niên nghèo khó ở Kinh Bắc, đem về nuôi dạy.
- Hay!
Mỹ Vân mang cái móng. Thủ Độ vác hòm bỏ lên chiếc xe ngựa, lấy cỏ đậy lại, rồi hướng chùa Chân giáo. Hai người âm thầm lẻn vào sau chùa, đào hố chôn ngay cạnh hàng rào, rồi ra về.
Trở về nhà, Mỹ Vân cười :
- Ai đó ! Bất kể chính hay tà, theo dõi chúng ta. Thấy chúng ta chôn bảo vật sau nhà, nếu họ đào cái hòm lên mang đi, khi mở ra, chỉ thấy gạch, ắt sẽ nghĩ rằng : À cái thằng nhỏ láu cá. Cũng có thể họ cho rằng chúng ta bị một kẻ thứ ba nhanh tay hơn lấy đi. Họ bị chậm chân. Có một điều tế nhị, nhưng rất quan trọng...
- ? ? ?
- Việc muội tuân chỉ dụ vào cung chầu hầu Hoàng hậu, bị đưa đến cung Triều dương, rồi mất tích, ắt quan quân sẽ phải lùng kiếm khắp nơi. Phụ thân muội với đoàn võ sĩ Côi sơn đâu có chịu ngồi yên ? Có lẽ phải báo cho phụ thân muội biết rằng muội vẫn bình an.
- Huynh nghĩ không nên báo vội. Cứ để sư thúc kiện Hoàng hậu đòi người. Cứ để cho sư thẩm khóc lóc đòi con. Cứ để đoàn võ sĩ Côi sơn tìm sư muội. Như vậy triều đình mới không nghi ngờ sư thúc. Sau hơn tháng, ta âm thầm báo với sư thúc, rằng sư muội hiện sống bình an tại một nơi.
- Cũng được, kể ra để cho bố mẹ muội lo sợ cho con gái trong hơn tháng, e phạm tội bất hiếu. Đành vậy...Vụ tên Đoàn Thượng bị sư huynh đánh bại, y sẽ cáo với triều đình rằng con quỷ ba đầu là người. Vậy từ nay, ta không thể giả làm quỷ được nữa.
- Ngày mai huynh sẽ giới thiệu muội vơí bọn Thập bát Tây hồ. Sư muội sẽ thay huynh luyện văn, dạy võ cho chúng.
Chợt Mỹ Vân ái chà một tiếng. Thủ Độ hỏi :
- Gì vậy ?
- Muội ở đây, tuy khuất khúc, nhưng trước sau gì cũng bị lộ. Vậy sư huynh để muội giả trai cho tiện. Tên sư huynh là Độ vậy muội sẽ dùng tên là Tuyền. Độ là vượt qua, Tuyền là suối.
- Phải đấy.

Sáng hôm sau, Thủ Độ gọi Tây hồ thập bát anh hào tập trung ở phòng học. Nó giới thiệu Mỹ Vân là sư muội của nó tên Thanh Tuyền. Thanh Tuyền giả trai, vì lý do riêng. Từ nay Thanh Tuyền sẽ dạy văn, luyện võ cho bọn Thập bát Tây hồ. Cả bọn thấy Mỹ Vân đẹp trai, linh lợi, thì mừng lắm.
Nhờ Mỹ Vân luyện võ hàng ngày, mà bản lĩnh bọn Thập bát Tây hồ tiến rất mau. Mỹ Vân bàn :
- Hiện triều đình đang mở khoa thi tuyển võ, ai trúng tuyển sẽ được bổ làm võ tướng. Tại sao sư huynh không cho Cửu hào ứng thí ? Anh thù hận triều Lý, muốn diệt họ Lý, thì cần phải có quân trong tay. Nếu như Cửu hào trúng tuyển, được bổ làm võ tướng cầm quân. Bề ngoài chúng là người của triều đình, nhưng bề trong chúng là ngưới của anh. Một ngày kia anh khởi sự, thì anh đã có chín đại tướng với chín đạo quân trong tay.
Thủ Độ tỉnh ngộ :
- Sư huynh nghe lời muội. Phải đấy, tuy nhiên phải luyện văn cùng giảng binh pháp cho chúng, khi ứng thí mới có thể trúng tuyển.
Tháng sau,Thủ Độ cùng Mỹ Vân gọi Ngũ Anh, Ngũ Hào vào phòng riêng, chỉ cái túi mười nén vàng, rồi hỏi:
- Khu vực của hai em là bến Bắc ngạn. Vậy hai em có biết nơi neo con thuyền của Hải hà sứ không?
Hai đứa lắc đầu.
Thủ Độ nhă mặt :
- Dở quá! Ta đã bảo, trong khu vực trách nhiệm của các em, có thêm một con :D một con mèo, các em cũng phải biết. Thế mà con thuyền của một cặp vợ chồng danh nhân neo ở đó từ mấy tháng nay, mà các em không biết. Sổ toẹt.
Hai đứa gãi tai:
- Xin anh cho em biết con thuyền đó hình dạng ra sao, thì bọn em mới tìm ra chứ?
Mỹ Vân cười:
- Con thuyền đó kéo hai lá cờ. Lá thứ nhất mầu xanh, trên có hình con chim ưng vỗ cánh. Đó là biểu hiệu của phái Đông a. Lá thứ nhì, vẽ hình một nông dân dắt trâu, vác cầy. Đó là biểu hiệu của Khai hoang sứ.
Ngũ Hào bật cười:
- Em biết rồi. Con thuyền đó đến đậu trên bến Tương Dung, bên cạnh con thuyền của người đẹp mà Đại hãn bảo rằng đó là thuyền của người thân. Con thuyền ấy đến bến vào ngày mùng bẩy tháng tư, giờ Mùi. Trên thuyền có một cặp nam nữ, trung niên. Nam thì to lớn như Hộ pháp, mỗi lời nói ra đều làm cho người nghe cười. Nữ thì đẹp tuyệt thế, bà rất nghiêm nghị.
Ngũ Anh xen vào:
- Ông ấy sợ vợ quá sợ cọp. Mỗi khi ông tía lia, bà lên tiếng, là ông im ngay. Tùy tùng của ông bà có mười cặp đệ tử. Họ đều là vợ chồng. Cái đặc biệt của những người trên con thuyền này là họ : Họ mang thực phẩm theo như gà, vịt, lợn chứ không mua ở chợ. Còn tôm cá, thì họ quăng lưới bắt lấy. Họ chỉ mua rau đậu thôi.
Thế rồi Ngũ Anh, Ngũ Hào trình bầy hoạt động của những người trên con thuyền, không thiếu chi tiết nào.
Thủ Độ lấy môt thoi vàng, nó vận công vào hai bàn tay, rồi ấn lên, vết tay của nó in hằn rất sâu. Trong khi đó Mỹ Vân thuật hành trạng của Tô Trung Từ, Nhạc Bảo Bảo cho hai trẻ nghe. Nàng viết một bức thư trao tay Ngũ Anh, rồi chỉ gói vàng:
- Hai em đem gói này, đường đường chính chính tới con thuyền xin yết kiến, rồi trao tận tay ông bà. Hai em nói như thế...như thế...
Nó lại gọi Cửu Anh, Cửu Hào, đưa ra hai hộp sâm Cao ly:
- Hai em đến chùa Chân giáo yết kiến thầy Chân Minh, thay ta dâng hộp sâm này lên thầy. Rồi lại đến Hồng lĩnh đệ nhị y viện trao hộp sâm cho y sư Vũ Phòng Phong. Nhớ phải nói như thế...như thế.

Chiều hôm đó, Ngũ Anh, Ngũ Hào trở về. Chúng tường thuật vụ đi sứ cho Thủ Độ, Mỹ Vân nghe.

"Hai trẻ sai bọn ăn mày rình quanh con thuyền Hải hà sứ suốt buổi sáng. Đến giờ Tỵ thì ông bà Tô Trung Từ về. Chúng báo cho Ngũ Anh, Ngũ Hào. Hai trẻ tuy xuất thân ăn mày, hèn hạ. Nhưng thời gian hơn năm qua, nó được học văn, luyện võ, lại đươc Thủ Độ truyền cái hào khí của Tây hồ thất kiệt, Long biên ngũ hùng, hồi thơ ấu từng đi ăn mày, rồi sau trở thành đại tướng.
Hai trẻ mặc y phục rách rưới như ăn mày. Tới đầu cầu, Ngũ Anh gọi một thiếu niên ngồi gác :
- Chúng tôi là hai trẻ ăn mày ở Thăng long, vâng lệnh người lớn, tới cầu kiến với Hải hà sứ và phu nhân.
Ngay từ hôm đầu tới Thăng long. Hai mươi đệ tử của Tô Trung Từ từng gặp mặt Ngũ Anh, Ngũ Hào nhiều lần. Họ thấy chúng tập họp ăn mày lại, khi thì kể chuyện anh hùng Đại Việt, khi thì chúng phân phối thực phẩm. Gã đệ tử thấy hai đứa, họ cho rằng chúng là một thứ trùm du côn, bắt bọn ăn mày tuân phục. Sau mấy ngày họ thấy không phải, vì bọn ăn mày rất kính trọng chúng. Hôm nay thấy chúng tới với phong thái người lớn, nêu đích danh sư phụ, xin cầu kiến. Gã đệ tử không dám coi thường, y vào trong khoang thuyền báo với Tô Trung Từ, Nhạc Bảo Bảo :
- Trình sư phụ, sư mẫu, có hai đứa trẻ ăn mày, nói là vâng lệnh bề trên xin cầu kiến.
- Để chúng ta ra đón khách.
Trung Từ Bảo Bảo ra khỏi khoang thuyền. Ông bà chắp tay :
- Xin mời nhị vị !
Phân ngôi chủ khách, trà nước bầy ra, Bảo Bảo chắp tay :
- Chẳng hay hai vị đây xưng hô thế nào ?
- Cháu là Ngũ Anh, còn sư huynh đây là Ngũ Hào. Chúng cháu là ăn mày, không có họ tên.
Trung Từ cười rộn ràng :
- Anh hùng đâu quản xuất thân. Xưa kia, Chử Đồng tử nghèo đến cái khố không có, mà làm rạng danh triều Hồng bàng. Gần đây, Tây hồ thất kiệt, Long biên ngũ hùng đều xuất thân ăn mày, mà nay khắp nước thờ kính.
- Đa tạ Hải hà sứ. Bề trên của anh em chúng cháu sai chúng cháu chuyển đến tiên sinh gói này, mong tiên sinh thu nhận.
Nói rồi Ngũ Anh trao cái túi cho Trung Từ. Trung Từ mở ra, bên trong có 20 thoi vàng. Kinh ngạc, ông hỏi :
- Bề trên của hai vị là ai ?
- Bề trên của anh em chúng cháu đã viết tên trên một thoi vàng rồi.
Bảo Bảo cầm một thoi vàng lên, trên thoi vàng in rõ mười đầu ngón tay. Bà nói với chồng :
- Cứ như vết bàn tay in vào đây thì người này còn nhỏ tuổi. Tay trái hằn sâu vào, thì y vận âm kình. Tay phải hằn rộng ra, thì y vận dương kình. Trên đời chỉ y...chỉ y...y còn nhỏ tuổi mới luyện đến mức này mà thôi.
Trung Từ cầm thỏi vàng, tần ngần :
- Dám hỏi vàng này ở đâu, mà bề trên hai vị có ?
- Thưa vàng của Đại Việt, bị người Tầu cướp đi. Chủ nhân chúng cháu đoạt lại, nhờ nhị vị trao trả cho dân Việt, mà đám thiếu niên cùng khổ vùng Kinh bắc là đại diện.
Nói rồi Ngũ Hào trình ra một bao thư. Trung Từ mở ra xem. Trong có tấm bản đồ khu Gia lâm. Tại vùng đất hoang, khoanh bằng son. O⮧ nói với vợ :
- Em xem ơi! Hôm trước ta muốn khai hoang khu đất này, rồi quy tụ dân phiêu bạt về, giúp họ cầy cấy. Em ước tính phải có năm thoi vàng. Một thoi chúng ta cũng không có, huống hồ năm ? Nay y trao cho ta mười thoi, nhờ ta làm cái công việc quy tụ đám thiếu niên cùng khổ, thì thực là cầu mà không được.
O⮧ bà cùng chắp tay :
- Nhị vị về nói với bề trên rằng chúng tôi sẽ làm hết sức mình %BB.

Nghe Ngũ Anh, Ngũ Hào trình bầy, Thủ Độ cực kỳ cao hứng :
- Mẹ ta chết ấm ức ! Ta bị đời khinh khi, muốn đánh thì đánh, muốn chửi thì chửi, muốn sai gì thì sai. Chúng còn đái lên đầu ta, rồi đứa con gái của tên Đàm Thì Phụng, từng hầu hạ cha mẹ ta... Mà y thị còn muốn thiến ta thành thái giám hèn hạ hầu y thị cả đời. Hôm nay ta làm được việc này, ít ra là vinh danh cha mẹ ta.
Còn Khả hãn Cửu Anh, Cửu Hào trở về thuật:

" Hai trẻ đến chùa Chân giáo, xin yết kiến sư Chân Minh. Bà làm công quả ở chùa tưởng chúng là ăn mày, nói với chúng:
- Các cháu muốn ăn oản, ăn chuối thì bà cho cháu, không cần gặp thầy.
- Chúng cháu muốn gặp thầy để cúng dàng, chứ không phải xin ăn.
Hai trẻ gặp sư Chân Minh, chúng đảnh lễ, xin được hầu chuyện. Sư Chân Minh sai đóng cửa lại rồi hỏi:
- Phải chăng hai con do người trên sai đến?
- Bạch sư phụ vâng. Người trên của chúng con sai chúng con kính cẩn dâng lên thầy, gọi là chút lễ bạc.
Hai trẻ trao hộp sâm cho sư. Sư cầm lấy rồi tủm tỉm cười:
- Người ăn ở có hậu như thế này, thì vạn thế còn lưu danh. Hai con về nói với người trên rằng : Đối với kẻ thù ác độc đến đâu cũng nên dùng chữ từ của đức Thế tôn.
Hai trẻ lại đến Hồng lĩnh đệ nhị y viện. Học trò thấy hai đứa ăn mày thì hỏi:
- Hai cháu muốn xin ăn phải không?
- Không?
- Thế hai cháu bị bệnh gì?
- Dạ, cũng không!
- Thế hai cháu cần gì?
- Hai cháu nhờ y sư trị bệnh cho người khác?
- Người khác đâu? Bị gì?
- Chúng cháu không biết tên, dĩ nhiên không biết họ bị bệnh gì.
- Các cháu nói gì mà bí hiểm như kinh Kim cương không bằng.

- Người trên của cháu, kiếm được mấy vị thuốc cực trân quý, muốn dâng y sư , nhờ tay tiên y sư trị cho người bệnh. Vì vậy chúng cháu không biết tên bệnh nhân cũng như chứng bệnh.
Thấy ngôn từ hai trẻ có hơi khác thường, người học trò vội báo với y sư Phòng Phong.
Tuy Phòng Phong mới tới Tây hồ thủy xá một lần, nhưng ông cũng nhớ mặt Cửu Anh, Cửu Hào.
- Thế nào? Bề trên các cháu cho ta cái gì đây?
Hai trẻ trao hộp sâm cho Phòng Phong. Phòng Phong mở ra, bất giác ông trợn tròn mắt ra rồi hỏi:
- Y...Y kiếm đâu ra những thứ trân quý như thế này?
- Chúng cháu cũng không biết nữa.
Phòng Phong lên tiếng gọi vợ:
- Bà nó ơi!
- Gì vậy.
- Bà xem này!
Cách đây mười lăm năm, Bạch Hạc theo Thủ Huy đi sứ Mông cổ, Thiết Mộc Chân đem mấy cân Thái tử sâm ra tạ ơn y sư Phạm Tử Tuệ đã cứu các tướng của ông bị trúng độc. Thủ Huy mang ba cân sâm về dâng lên vua Anh tông. Nhà vua ban một cân cho Thủ Huy, để trị bệnh. Nhờ sâm đó mà Thủ Huy thoát chết. Triều đình Đại Việt gửi một cân biếu ông nội Thủ Huy là Trần Tự Kinh. Bây giờ Bạch Hạc thấy cũng thứ Thái tử sâm, cũng hộp bạc khắc hình chim ưng. Bà rùng mình hỏi:
- Sâm này từ Mông cổ, sao y...y lại có?
Hai trẻ trả lời bằng cái lắc đầu".

Năm ấy, trong nước bị mất mùa, sang tháng hai, dân chúng chết đói khắp nơi. Trên toàn quốc, từ hang cùng, ngõ hẻm cho tới vùng rừng núi, chỗ nào cũng có ăn mày. Người người nằm gối đầu lên nhau mà chết. Đội quân của bọn Khả hãn mỗi lúc một đông. Dân chúng lũ lượt kéo nhau về các trang ấp thuộc quyền của Trần Lý, Tô Trung Từ để xin cứu đói. Bọn Khả hãn thuật cho Thủ Độ nghe, chỗ nào dân chúng cũng ca tụng công đức của bác Lý nhà nó. Họ đều nói : Phải chi công chúa Đoan Nghi, phò mã Thủ Huy trở về cầm quyền, thì dân đâu đến nỗi đói khổ thế này ?
Nghe chuyện ông cha, hùng khí trong tâm nổi dậy. Thủ Độ nghĩ thầm :
- Bố mẹ, chú bác ta đã làm lên những công nghiệp lớn. Ân đức như mưa, trải khắp nơi. Ta là con, là cháu, ta học kinh nghiệm của người đi trước, ta cũng phải làm được một cái gì. O⮧, bác, cô, chú, cậu ta lấy chủ đạo mà dựng nghiệp bằng cách quy dân lập ấp, bảo vệ dân không bị cường hào ác bá không bị trộm cướp. Tại sao ta không mở rộﮧ chủ đạo ấy ra ? Bây giờ trong lúc dân chúng đói khổ, trẻ mồ côi lê lết, không nhà, không cửa...Ta hãy dùng bóng ma ba đầu, lấy của bất nghĩa làm phương tiện giúp dân. Ta hãy xóa bỏ cái ranh giới nhỏ hẹp Thăng long, gửi bọn Tây hồ thập bát anh hào đi khắp nơi, quy tụ bọn ăn mày, người cùng khổ lại tổ chức cuộc sống no đủ cho họ.
Chiều hôm đó, sau khi bọn Thập bát Tây hồ ra các chợ kiểm soát đệ tử trở về. Chúng hớn hở kể cho Thủ Độ, Mỹ Vân cái tin con quỷ ba đầu hiện lên trong cung Triều dương lấy hết vàng bạc, châu báu mang đi... làm rung động thành Thăng long. Nhưng lần này con quỷ đánh rơi thanh kiếm trong sân cung. Thiên sứ đại nhân tâu quả quyết: quỷ chỉ nhát người chứ không lấy vàng bạc. Ngài giải đoán rằng con quỷ ba đầu quả có thực. Còn vụ trộm vàng ngọc của sứ đoàn thì có kẻ mạo danh con quỷ để ăn trộm. Trên thanh kiếm có khắc dấu hiệu môn phái, thế hệ của kẻ trộm. Mặc dù quan Tổng lĩnh thị vệ xin được nhận thanh kiếm, rồi căn cứ vào đó truy lùng thủ phạm. Thiên sứ đại nhân không chịu trao kiếm, ngài lấy lý : Thị vệ Đại Việt không làm tròn nhiệm vụ, thì có trao tang vật cho cũng vô ích.
Nghe dư luận, Mỹ Vân bàn :
- Trên thanh kiếm của bọn Gia thụy ngũ anh đều có khắc hình năm ngọn núi, biểu hiệu của phái Hoa sơn. Dưới năm ngọn núi lại khắc chữ chỉ rõ chủ của thanh kiếm thuộc thế hệ thứ mấy. Huynh vô tình ném thanh kiếm của tên Đoàn Thượng vào trong sân cung Triều dương, đã làm cho sứ đoàn với bọn Hoa sơn nghi ngờ nhau. Bây giờ giữa bọn chúng đang có ngọn lửa âm ỷ cháy. Tội gì mình không đổ thêm dầu vào cho lửa bốc cao lên ?
- Theo ý sư muội, ta nên làm gì?
- Thế này ! Sư huynh đã biết xử dụng võ công Hoa sơn. Sư huynh lại làm quỷ ba đầu đột nhập tư dinh bọn ngoại thích, bọn tham quan... cướp vàng bạc. Dĩ nhiên trong khi cướp, đai ca dùng võ công Hoa sơn. Như vậy, kinh thành lại náo động rằng, con quỷ ba đầu không phải là hồn oan Thái tử Long Xưởng, mà là một bọn cướp. Triều đình sẽ chĩa mũi dùi vào bọn đồ tử, đồ tôn của Nam thiên tiên tử...
Vốn thông minh, Thủ Độ hiểu ngay :
- Sau đó ta lại làm quỷ ba đầu, đột nhập dinh của Đoàn Văn nhát vợ, con, gia thuộc y rồi kể tội y đã sai con trai, cùng gia tướng mạo danh ta, ăn trộm châu báu của sứ đoàn Tống. Rồi ta trừng phạt bằng cách giết mấy tên thủ hạ của y. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy lo chuyện dầu sôi lửa bỏng là chuyện dân chết đói đã.
Mỹ Vân bàn:
- Sau vụ sứ đoàn Tống bị con quỷ ba đầu lấy hết vàng bạc, ai cũng tin rằng không hề có con quỷ. Là người. Là cao nhân hành hiệp như Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn vông thê hòa thượng, như Côi sơn song ưng. Vậy đại ca thử vào cung Ngọc lan dò xét tình hình xem sao?
- Ừ phải đấy.

Thủ dộ vào cung Ngọc Lan. Vừa thấy nó, Thụy Nga đã ra lệnh :
- Mi về đấy à ? Mấy hôm nay mi có lên cơn điên không ?
- Không !
- Tiên tử đang muốn tìm mi đấy !
- Tìm làm gì ?
- Ta không biết. Mi hãy chuẩn bị để đêm rằm tháng tám dự tết Trung thu. Tết Trung thu năm nay, còn có cuộc tranh chức võ trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa của võ lâm. Mi cũng biết võ, Tiên tử bắt mi phải ứng thí đó.
- Tôi mà cũng được dự thi à ?
- Dĩ nhiên ! Luật lệ ban ra rằng, sau khi tuyển trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa rồi, mà ai không phục, thì có quyền lên đài thách đấu.
- Thế giám khảo là ai ?
- Gồm năm người. Hoàng thượng thân ngồi ghế chánh chủ khảo. Có hai phó chủ khảo là Kiến khang vương, Kiến bình vương. Ngoài ra còn hai giám khảo nữa Đại Đô đốc Phùng Tá Chu, Hổ uy thượng tướng quân lĩnh Kinh Bắc tiết độ sứ Quách Bốc.
- Thế tại sao Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn, Phạm Bỉnh Di lại không được cử làm giám khảo ?
- Vì ba người ấy có con dự thi nên phải hồi tỵ.
- À thì ra thế.
- Thôi mi vào gặp Nam thiên huyền quân đi.
Thủ Độ vừa bước vào Tam thanh điện, chưa kịp hành lễ, thì đạo cô đã chỉ cái bồ đoàn :
- Người ngồi đó đi.
Đạo cô ngắm nhìn Thủ Độ từ đầu đến chân rồi nói một mình :
- Giống quá ! Giống quá. Đẹp hơn bố nhiều. Này Trần Thủ Độ.
Thủ Độ biết rõ Đạo cô nguyên là Tuyên phi Thụy Hương thời vua Anh tông. Trước khi được phong Tuyên phi, đạo cô là người tình ba năm của bố nó. Khi bố nó kết hôn với mẹ nó, thì Thụy Hương trở thành người tình của Thái tử Long Xưởng, với hy vọng sau trở thành hoàng hậu, để trả thù bố nó. Song Long Xưởng không lấp được cái uất hận của Thụy Hương. Thụy Hương tìm cách bắt vua Anh tông. Thành công! Được phong Tuyên phi, rồi làm tan nát triều Lý. Nghe đạo cô nói giống quá! Giống quá, Thủ Độ hiểu rằng hồi hoa tình mới nở giữa bà với bố nó. Bố nó đang tuổi mười bẩy. Bây giờ Thủ Độ đã ở tuổi mười lăm, mười sáu, nhưng nó vì nó luyện nội công âm dương nhiều, nên cơ thể to lớn bằng một thiếu niên mười bẩy mười tám. Cha con mường tượng giống nhau.
Thủ Độ làm bộ ngơ ngác :
- Tiên tử nói sao ?
Mắt đạo cô không rời Thủ Độ:
- Mi họ Trần, tên Thủ Độ. Cha mi là Trần Thủ Huy. Mẹ mi là công chúa Đoan Nghi. Mi quên rồi sao ?
- Không phải. Hoàng hậu bảo đệ tử là cháu xa của người. Đệ tử họ Đàm, tên Độ. Đệ tử không phải họ Trần. Đệ tử thuộc ngoại thích của bản triều.
Nhìn Thủ Độ, bao nhiêu kỷ niệm với Thủ Huy hai mươi năm trước sống dậy: Yêu thương, nhớ nhung, hận thù. Trong lòng Thụy Hương nảy ra một dục vọng:
- Ta sinh ra phải sống trong giả dối. Đời ta trải qua Thủ Huy, Long Xưởng, Anh tông, Mạc Hiển Tích. Từ ngày ta trở về Đại Việt, giả làm đạo cô, song thực tế ta là Thái hậu. Ta còn muốn gì hơn? Ăn ư? Ta muốn ăn gì cũng có. Mặc ư? Ta muốn mặc gì cũng được. Chỉ còn vấn đề phòng the mà thôi. Bây giờ tuổi ta ngày càng lớn, ta không hưởng đi, thì sau này sẽ hối tiếc.
Quay lại nhìn Thủ Độ:
- Ta trả thù Thủ Huy như vậy cũng đủ rồi. Cái chí đòi lại cố thổ của y tan ra mây khói. Y thành người vong quốc, lưu lạc trên đất Mông cổ. Ta những định đánh lừa y với Đoan Nghi về, tìm cách đánh thuốc mê bắt Đoan Nghi, trói bỏ vào gầm dường. Sau đó ta với y tình tự trên dường cho y thị đau khổ. Tiếc rằng y thị vừa về đến nơi thì bị ám toán. Ta trút mối hận vào đầu đứa con của y thị. Ta biến con y thành đứa trẻ điên điên, khùng khùng; làm tôi đòi hèn hạ, ăn mày khắp kinh thành. Nhưng...thằng nhỏ này giống bố quá. Bây giờ nó trở thành một thiếu niên anh tuấn. Tại sao ta không dùng nó thay Thủ Huy ? Đã có biết bao nhiêu gã đàn ông là người tình của cả mẹ lẫn con gái. Ta cũng đã là người tình của cha con Long Xưởng. Tại sao bây giờ ta không thể trở thành người tình của cha con Thủ Huy?
Nghĩ vậy Thụy Hương đổi thái độ:
- Này Đàm Độ ! Người cũng học võ, vậy ngày rằm này người phải lên đài tỷ đấu. Biết đâu người không trúng tuyển tiến sĩ ?
- Bản sự đệ tử không đủ, e lên đài sẽ mất mạng !
- Năm trước mi đã thắng Thái tử Long Sảm. Mi quên rồi sao?
-Thắng Thái tử Long Sảm? Đệ tử có đấu võ bao giờ đâu? Hôm ấy đệ tử đánh bừa, may mà trúng.
- Thôi, người đi tắm, rồi lên đây ăn cơm với ta.
Thủ Độ kinh ngạc đến ngớ người ra. Vì từ ngày đến cung Ngọc lan, trước mặt mọi người thì đạo cô gọi nó là thằng ngẫn ngờ, thằng khùng, thằng điên. Còn khi chỉ có hai người thì gọi nó là thằng chó đẻ, thằng lộn giống. Hồi đầu, nó ngạc nhiên, vì một đạo cô, sư phụ của nhà vua, của hoàng hậu, của tất cả các đại thần, mà lại có ngôn từ tục tằn thô lỗ như vậy. Sau khi Long Sảm khai ra đạo cô là Tuyên phi Vương Thụy Hương thời vua Anh tông, thì nó không ngạc nhiên nữa ; vì trước kia, bà từng là người tình của bố nó. Bà căm hận bố nó bỏ bà, kết hôn với mẹ nó. Bây giờ thình lình bà đổi thái độ, trong lòng nó nghĩ:

- Trước kia bà trao cho cung nga Thụy Nga theo dõi ta. Không lẽ bố ta trở về Đại Việt, đang đi tìm ta, nên bà muốn giữ ta bên cạnh để gài bẫy hại bố ta?
Tắm rửa, thay y phục xong, Thủ Độ lên Tam thanh điện, đạo cô cũng đã thay y phục. Bà mặc quần trắng, áo tím, bằng lụa Nghi tàm. Bà ôm lấy đầu nó ép vào ngực. Không tự chủ được, nó để bà ôm, mùi nước hoa Ngọc lan thoang thoảng từ người bà tỏa ra.
Thủ Độ tuy chưa trưởng thành, nhưng cơ thể nảy nở. Với cái tuổi của nó, thân xác bắt đầu phát triển. Thời bấy giờ, nếu nó là con vua, cháu chúa thì đã được cưới cho nhiều phi tần, cơ thiếp. Vì mồ côi cha mẹ, bị khinh khi, phải phiêu bạt...nó sống ở đầu đường xó chợ, lại gần gũi với bọn ăn mày, nên nó đã hiểu tinh tường chuyện tình ái. Tuy vậy nó chưa từng biết cái mùi Vu sơn là gì. Bị đạo cô, tuy đáng tuổi mẹ nó thực, nhưng là một giai nhân tuyệt sắc, trong y phục mỏng sát da... ôm sát vào người. Bị kích thích cùng độ, người nó quay cuồng, trời đất đảo lộn, môi nó khô.
Đạo cô hôn lên môi nó. Nó gần như lịm đi trong cái cảm giác thần tiên.
Hôn chán, Thụy Hương cùng ngồi ăn với Thủ Độ. Trong bữa ăn, Thụy Hương luôn gắp thức ăn bỏ cho nó. Đầu óc nó hoang mang, không hiểu nổi hành động quá thân ái của đạo cô.
Ăn xong, Thụy Hương ra lệnh cho cung nga dọn bát đĩa:
- Ta dạy đứa bé này mấy thức nội công. Tuyệt đối người không cho ai vào đây.
Nói dứt bà đứng dậy đóng cửa, cài then lại, nắm tay nó:
- Cháu hãy theo ta vào đây. Ta bảo gì, cháu cứ làm theo ta. Từ nay cháu sẽ sống sung sướng cạnh ta. Dù vua, dù hoàng hậu cũng không được được đụng chạm đến cháu.
Thụy Hương lại ôm cứng Thủ Độ, hôn khắp người nó. Bị kích thích, người Thủ Độ nóng bừng lên. Thụy Hương với nó lăn lên trên cái giường. Chợt Thủ Độ nhớ lại lới bố nó thường dạy đệ tử:
" Con người ta, thân thiết với nhau như thầy trò, cha con, anh em, có thể ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, mặc chung quần áo... Không thể chung một người đàn bà".
Nó nghĩ thầm:
- Bà Đạo cô này từng là người tình của bố ta. Bà là kẻ thù làm cho Đại Việt tan nát. Chính bà xui nhà vua đẩy cha mẹ ta khỏi Đại Việt. Bà cũng dự vào việc ám hại mẹ ta. Bây giờ bà định dùng ta như một con vật để thỏa mãn dâm tính ư?
Nó muốn đẩy bà ta ra, mà không có sức. Chợt có tiếng ai đó dùng Lăng không truyền ngữ rót vào tai nó:
"Vận khí vào qui đầu, đưa ngược lên huyệt Trung cực, dẫn khí theo Dương kiêu mạch, chuyển sang Đốc mạch ở huyệt Đại trùy. Tản khí ra khắp da".
Vốn cực kỳ thông minh, chỉ nghe qua, Thủ Độ cũng biết đây là một thức tản công, không nguy hiểm gì. Nó vận khi tức thời. Người nó đang nóng bừng, căng thẳng như cái bong bóng, được thay thế bằng cảm giác mát mẻ, khoan khoái.

******
Ghi chú của thuật giả.
Thức Khí công mà Thủ Độ đã dùng để thoát nạn, tên là Tiêu sơn hóa tinh pháp. Thức này nay còn lưu truyền. Chúng tôi đã cho thử nghiệm lại, đạt kết quả tốt,𠦣273em giảng dậy tại ARMA và viện Pháp Á. Công dụng chính là giảm cơn thèm muốn của tình dục. Các nhà tu mà luyện được thì không còn sợ con lợn lòng biểu tình làm phá giới thể. Xin xem phụ lục trong quyển này.
******

Thụy Hương ôm Thủ Độ, những tưởng khai mạc đời con trai của nó, thì tự nhiên cái ấy của nó trở thành mềm xèo. Kinh ngạc. Thụy Hương cho rằng nó sợ quá nên chân khí bị thoát ra ngoài. Kinh nghiệm phòng the của bà mẹ xuất thân là kỹ nữ truyền thụ, lại trải qua trước sau gần chục đàn ông, Thụy Hương thừa kinh nghiệm để đưa Thủ Độ vào mê lộ. Nàng vuốt ve vào huyệt Quan nguyên, Thận du của Thủ Độ. Người nó lại nóng bừng.
Giữa lúc đó có tiếng tên thái giám hầu cận hô lớn:
- Hoàng thượng cầu kiến Tiên tử.
Thụy Hương vội buông Thủ Độ ra, bảo nó:
- Người cứ đứng hầu bên cạnh ta.
Rồi lên tiếng:
- Thỉnh Hoàng thượng vào.
Nhà vua bước vào hành đại lễ:
- Thần nhi ra mắt mẫu hậu.
Thủ Độ giả khùng, nên nó mở mắt thao láo nhìn nhà vua, không hành lễ. Nhà vua cũng không bắt lỗi nó.
- Có điều gì khẩn cấp không sắc diện Hoàng nhi lại hoảng hốt vậy?
- Tâu mẫu hậu, vẫn chuyện con quỷ ba đầu.
- Ta đã nói rằng không hề có ma quỷ gì cả, đây là một cao thủ võ lâm hý lộng quỷ thần mà thôi. Hôm trước ta đã ban chỉ cho Khu mật viện cùng bọn Lĩnh Nam ngũ hổ tướng Phạm Bỉnh Di, Quách Bốc, Đoàn Văn, Nguyễn Nộn, Nguyễn Du phải tìm cho ra chiêu thức, nội công của tên này, thì mới biết căn của nó. Biết căn thì trị đâu có khó?
- Khu mật viện tâu rằng, khi xưa Ưng sơn song hiệp, Mộc tồn hòa thượng, Côi sơn song ưng từng tung hoành khắp Hoa Việt, đương thời không ai tìm ra. Phải đợi đến cuối đời các vị ấy tự xuất hiện mới biết tông tích. Con quỷ ba đầu này hành tung còn kỳ bí hơn, thì sao mà tìm căn cho được?
Thụy Hương cau mặt:
- Trong mấy vụ lớn y gây ra, chẳng lẽ y không xử dụng võ công?
- Trước sau nó gây ra sáu vụ khác nhau. Vụ đầu tiên tại cung An toàn, không rõ lý do. Không làm chết ai. Thần nhi nhờ Kiến bình vương thẩm vấn tên thị vệ bị nhát, thì người cho biết dường như y dùng một chiêu trong Hoa sơn quyền pháp chính tông. Vụ thứ nhì tại Đông cung, mục đích gì không rõ, mà Sảm nhi, Thẩm nhi cũng như bọn Thiện nhân, Thái giám, cung nga đều không dám khai, vì khi hiện hồn nó đe dọa, ai tiết lộ ra nó sẽ bắt hồn. Thần nhi sai Đô thống Phan Lân điều tra võ công mà con quỷ dùng để khống chế bọn Gia thụy ngũ anh, thì Lân nhận ra đó là những chiêu Hoa sơn quyền pháp. Vụ thứ ba nó quậy phá phủ Thái sư, đem con gái Kinh diên quan Phạm Kính Ân trả về nhà. Trong vụ này y không xử dụng võ công nên không rõ. Vụ thứ tư, y quậy nhà tên đội trưởng hải đội Thăng long, điều tra về cái chết của công chúa Đoan Nghi, rồi nhát chết đạo sư Thiên Sơn. Vụ này y cũng không xử dụng võ công nốt. Sang vụ thứ năm, y quậy dinh An phủ kinh lược sứ Hồng châu, cũng vẫn điều tra việc công chúa Đoan Nghi bị ám hại. Nó nhát chết vợ Vũ Khải là Mỹ Hồng. Tên thị vệ bị y khống chế thuật lại chiêu thức y dùng, thì cũng vẫn là võ công Hoa sơn.
- Điều tra về cái chết của Đoan Nghi thì chỉ có phái Đông a, mà trong khắp Đại Việt duy phái này biết xử dụng võ công Hoa sơn mà thôi. Thế thì con quỷ là người phái Đông a. Có gì mà không hiểu. Ta cũng đang muốn biết kẻ nào sát hại công chúa Đoan Nghi. Cứ để cho phái Đông a điều tra dùm. Hà!
- Tâu mẫu hậu, Khu mật viện cũng tâu như thế. Song Kiến khang vương bác. Vì những chiêu mà con quỷ ba đầu xử dụng thuộc bộ chưởng trấn môn của phái Hoa sơn, mà chỉ một mình mẫu hậu với các đệ tử của mẫu hậu biết. Thần nhi nghi một trong bọn Lĩnh Nam ngũ hổ hay Gia thụy ngũ anh làm việc này, nên ra lệnh cho Khu mật viện theo dõi. Manh mối đã tìm ra.
- Y là ai?
- Thần nhi chưa chắc cho lắm. Căn cứ vào vụ mới đây nó gây ra là đột nhập cung Triều dương, lấy hết vàng, ngọc, bảo vật trong phòng chánh phó sứ, rồi bắt con gái đô thống Phan Lân là Phan Mỹ Vân đem đi mất. Chiêu thức mà y dùng để khống chế tên thị vệ cũng lại là Hoa sơn. Hôm sau, phó sứ Lâm Hoài Đức tìm ra thanh kiếm của con quỷ đánh rơi trong sân cung Triều dương. Nhìn ký hiệu khắc trên chuôi kiếm, Lâm cho biết con quỷ thuộc phái Hoa sơn, dưới quyền quản nhiệm của ngọn núi Công chúa.
- Ta là Mao nữ tiên tử, chưởng quản ngọn núi này, thì tất cả đệ tử Mao nữ Hoa sơn ta phải biết. Kiếm có khắc rõ thế hệ. Y thuộc thế hệ thứ mấy?
- Thứ hai mươi.
- Thế hệ thứ hai mươi thì chỉ có Gia thụy ngũ anh. Y là đứa nào?
- Khu mật viện điều tra, thì biết thanh kiếm đó của Đoàn Thượng. Khi hỏi cung, Thượng khai rằng, y được lệnh của cha, phục ngoài cung Triều dương để rình bắt con quỷ. Y đã giao chiến với con quỷ. Võ công con quỷ rất cao. Nó bắt thanh kiếm của y, rồi ném vào trong sân cung. Kiến khang, Kiến bình vương cho rằng tất cả những vụ hý lộng quỷ thần đều do cha con Đoàn Văn gây ra.
- Chúng gây ra với mục đích gì?
- Theo như Đàm hậu, thì bọn Ngũ hổ Lĩnh nam ỷ là đệ tử của mẫu hậu. Sau cuộc thi võ ngày rằm tháng tám này, bọn Đoàn Thượng, Nguyễn Dư, Phạm Bỉnh Du sẽ được trao binh quyền. Thanh thế của chúng càng mạnh thêm. Ngũ hổ Lĩnh Nam muốn hắt Thái sư Đàm Dĩ Mông, Thái úy Đàm Thì Phụng ra ngoài...mà không đủ sức. Nên chúng cố tình gây trấn động vụ án công chúa Đoan Nghi, để phái Đông a chĩa mũi dùi vào họ Đàm. Thần nhi định bắt giam cha con Đoàn Văn, ngặt vì Văn cũng như Thượng đều là đệ tử của mẫu hậu. Thần nhi phải tâu lên để mẫu hậu định liệu.
- Ta không tin cha con họ Đoàn dám làm chuyện ấy. Ta nghĩ có lẽ bọn nào đó bốc lửa bỏ bàn tay họ Đoàn mà thôi. Có thể họ Đàm đã làm vụ này.
Thụy Hương suy nghĩ một lúc rồi ghé miệng vào tai nhà vua:
- Muốn giảm bớt thế lực họ Đàm, tại sao ta không dĩ độc trị độc.
- Thần nhi không hiểu ý mẫu hậu.
- Trước đây, vì ta âm thầm từ Tống trở về Đại Việt, mà phải nhờ họ Đàm che dấu thân thế, để mẫu tử mới trùng phùng. Ta cũng dùng họ Đàm để diệt vây cánh của Đỗ An Di, Đỗ Thụy Châu, Mạc Hiển Tích. Không ngờ, bọn Đàm Dĩ Mông, Đàm Thì Phụng lại muốn khuynh đảo triều đình. Hừ! Thụy Hương này đâu phải là con đàn bà ngu như Cảm Thánh? Như Thụy Châu? Ta âm thầm đào tạo Lĩnh Nam ngữ hổ tướng, rồi trao binh quyền cho chúng. Bây giờ ta lại đào tạo Gia thụy ngũ anh. Sau ngày rằm tháng tám này, ta sẽ cho bọn này nắm thêm các chức vụ then chốt. Rồi ta dùng bọn võ tướng xuất thân phái Đông a để diệt bọn họ Đàm. Bọn Đông a, bọn họ Đàm như trai cò , ta làm ngư ông hưởng lợi. Bấy giờ trong triều chỉ còn người c


Múi giờ GMT. Hiện tại là 04:06 PM.

Powered by: vBulletin Version 3.6.1 Copyright © 2000 - 2025, Jelsoft Enterprises Ltd.