vui_la_chinh
05-05-2005, 03:39 PM
Chú bé Sao Băng
Ngày xửa ngày xưa, một hôm có hai bác tiều phu nghèo khổ đang đi xuyên qua một khu rừng thông rộng lớn để trở về nhà. Lúc đó vào mùa đông, đêm lạnh cắt da cắt thịt. Tuyết phủ dày trên đất và trên các cành cây, sương giá không ngừng quất vào các nhánh cây kêu tanh tách ở hai bên lối họ đi qua: Và khi đi tới thác Núi, họ thấy thác đang treo im lìm trong khoảng không trung vì vua Băng đã hôn lên nó. Trời lạnh buốt, đến nỗi cả chim muông cũng không còn biết xoay xở ra làm sao nữa.
-Hu, hú!
-Lão Sói vừa cằn nhằn, đuôi quấn giữa hai chân, vừa lê bước qua các bụi cây.
-Thời tiết ghê gớm hết chỗ nói. Thế mà cớ sao chính phủ không lưu ý tới, hử?
-Tuýt! Tuýt! Tuýt.
-Chú Sẻ lanh lông xanh kêu líu ríu.
-Mụ già Đất chết rồi, chết rồi. Người ta đã liệm mụ trong tấm vải tang trắng của mụ.
-Bà Đất sắp sửa lấy chồng, đây là chiếc áo cưới của bà ta.
-Các con chim nói thì thào với nhau như vậy. Đôi cẳng hồng của chúng đã bị giá làm tê cóng, nhưng chúng nghĩ, bổn phận của chúng là phải có một cái nhìn lãng mạn đối với hoàn cảnh. Lão Sói bèn gầm lên:
-Láo toét! Ta nói cho bọn bay biết, tất cả do lỗi của chính phủ, biết chưa? Mà nếu tụi bay không tin tao, tao sẽ ăn thịt ráo, biết chưa?
-lão Sói có đầu óc hoàn toàn thực tiễn, chẳng bao giờ lão bị lúng túng để tìm ra một lý lẽ thích đáng.
-Thôi.
-Chim Gõ Kiến bẩm sinh là một nhà triết học, nói.
-Về phần ta, ta chả cần gì đến một học thuyết nguyên tử mới giải thích được thế này thế nọ. Sự việc là thế thì nó là thế, mà hiện giờ trời đang lạnh khủng khiếp đấy.
Rõ ràng trời đang lạnh khủng khiếp. Những con sóc bé nhỏ sống trong cây giẻ to cao, cứ mãi cọ mũi vào nhau để giữ mình cho được ấm; các chú thỏ rừng nằm cuộn tròn trong hang, không dám đánh liều thò đầu ra ngoài dù chỉ để ngó một chút. Kẻ duy nhất có vẻ thích thú ấy là những bác cú to có cái đầu như mang sừng. Lông của họ cứng đơ vì sương muối, nhưng họ chả cần để ý, họ đảo tròn đôi mắt màu vàng, cất tiếng gọi nhau ngang qua khu rừng; Cú, cú, cú! Thời tiết mới đẹp không chứ! Cú, cú! Hai bác tiều phu vừa mải miết dấn bước, vừa thổi phù phù vào các ngón tay, đôi giày to sụ với đế cá sắt hằn vết đậm trên mặt tuyết đóng bánh. Khi thì họ thụt vào một con lạch sâu và lúc thoát ra được thì mình mẩy trắng lốp như bác thợ xay bột bên các thớt đá đang quay nghiền bột; khi thì họ trượt chân trên băng cứng trơn, ở đó nước đầm lầy đã đông lại, lúc đó các khúc củi buộc thành bó bị tuột ra, họ đành phải nhặt lên bó lại, có khi họ tưởng đã lạc đường, kinh hãi rụng rời, vì họ biết chúa Tuyết rất ác độc đối với những ai nằm yên trong đôi cánh tay của bà.
Nhưng họ đặt lòng tin vào thánh Mác-tanh phúc đức săn sóc đến mọi kẻ đi đường, cho nên họ quay trở lại, dò dẫm bước đi. Cuối cùng họ ra tới bìa rừng và xa xa trong thung lũng nằm phía dưới chân, họ thấy ánh lửa le lói trong làng, nơi họ sinh sống. Thấy đã thoát nạn, họ vui mừng khôn xiết, cười nói oang oang, và lúc đó, họ thấy mặt đất nom như một đóa hoa bằng bạc và mặt trăng như một đóa hoa bằng vàng. Tuy nhiên, sau khi đã vui cười họ trở nên buồn bã vì nhớ đến tình cảnh nghèo khổ của mình. Một người nói với người kia:
-Làm sao chúng mình lại vui đùa được nhỉ? Vì chúng mình biết, cuộc sống dành cho người giàu, chứ dành đâu cho những người như hạng chúng mình. Thà lúc nãy ở trong rừng chúng mình bị chết cóng, hoặc bị con thú dữ nào đó vồ chết, như thế còn hơn.
-Đúng đấy.
-Người bạn đáp.
-Kẻ ăn chả hết, người lần không ra. Thế giới này đã bị sự bất công cắt ra từng mảnh, nhưng chả có gì được phân chia đều, cả sự đau khổ cũng vậy. Nhưng trong khi họ đang cùng nhau than thở về nỗi cơ cực của mình thì bỗng xảy ra một điều lạ lùng. Lúc đó từ trên trời rơi xuống một ngôi sao sáng :Di. Nó gieo xuống phía chân trời, lướt cạnh các ngôi sao khác, và trong khi ngắm nhìn sửng sốt, họ thấy dường như nó lặn mất ở sau một lùm cây liễu sát cạnh một trại cừu nhỏ cách xa chỗ họ đứng không quá một tầm ném đá.
-Đấy nhé! Ai tìm ra nó thì sẽ bắt được một hũ vàng!
-Họ kêu lên như vậy rồi hăm hở chạy tới để kiếm của. Một trong hai người nhanh chân hơn, bỏ xa bạn, xông bừa qua lùm liễu rồi sang được tới phía bên kia... ô kìa! Quả thật, có một vật gì bằng vàng nằm trên tuyết trắng. Bác hối hả lao về phía nó, rồi vừa cúi xuống bác vừa đặt tay lên nó: đấy là một chiếc áo dệt bằng vải quý thêu những ngôi sao nom rất kỳ lạ và được quấn lại thành nhiều lớp. Thế là bác kêu to, nói cho bạn biết mình đã tìm thấy kho vàng từ trên trời rơi xuống. Khi người bạn tới, hai người ngồi xuống nơi tuyết, gỡ nếp quấn của chiếc áo để hòng chia nhau các đồng tiền vàng. Nhưng chao ôi! Nào có thấy vàng bạc hoặc bất cứ thứ của cải nào, ngoài một đứa bé đang ngủ thiếp đi. Một người nói với người kia:
-Hy vọng của chúng mình là thế, kết thúc lại là thế! Cay đắng quá. Mà cái số chúng mình không may chút nào, vì một đứa bé thì đem lại lợi gì cho một thằng người, hở? Thôi, hãy bỏ nó lại đây, rồi cứ đường mà về. Chúng mình thuộc cánh nghèo, còn phải nuôi con cái đẻ ra, không thể xén phần bánh của chúng cho con kẻ khác được. Nhưng người bạn đáp:
-Thế sao được. Bỏ đứa bé lại đây để nó chết trong tuyết, thế thì độc ác quá. Tôi cũng nghèo như bác, nhà lại nhiều miệng ăn, chẳng có gì mà cho vào nồi, nhưng mặc, tôi cứ đem nó về nuôi. Nhà tôi sẽ chăm sóc nó. Thế là bác âu yếm bế đứa bé lên, quấn lại chiếc áo quanh người nó để tránh cho nó khỏi bị thấm cái khí lạnh khắc nghiệt, rồi bác đi xuống đồi về làng, trong khi người bạn hết sức ngạc nhiên trước sự dại dột cũng như lòng từ tâm của bác. Tới làng, người bạn nói:
-Bác đã có được đứa bé, vậy hãy dành cho tôi chiếc áo, vì lẽ chia phần với nhau là điều thích đáng thôi. Nhưng bác tiều phu đáp lại:
-Đâu được. Chiếc áo chẳng phải của bác, cũng chẳng phải của tôi, nó là của đứa bé. Nói xong, bác chúc bạn may mắn, rồi đi về nhà mình. Bác gõ cửa, người vợ ra mở, thấy chồng trở về với mình được yên ổn, chị vòng tay ôm lấy cổ chồng mà hôn, rồi chị đỡ lấy bó củi trên lưng bác xuống, phủi tuyết trên đôi ủng của bác rồi giục bác đi vào nhà. Bác nói với vợ:
-Đây này, tôi đã bắt được món này trong rừng, tôi đem nó về cho mình coi sóc.
-Miệng nói thế nhưng bác vẫn không nhúc nhích khỏi ngưỡng cửa.
-Cái gì vậy?
-Chị vợ kêu lên.
-Cho tôi xem nào! Nhà mình nghèo xác nghèo xơ, thiếu bao nhiêu là thứ. Bác tiều phu bèn kéo chiếc áo ra và chỉ cho vợ xem đứa bé đang ngủ.
-ối trời!
-Người vợ kêu lên.
-Nhà ta con cái nào có thiếu! Thế mà mình lại còn đi rước về một đứa trẻ. Biết đâu nó chẳng đem họa đến cho nhà mình. Mà phải săn sóc nó thế nào đây?
-Chị giận dỗi với chồng.
-Nhà nói thế sao được.
-Người chồng đáp
-Nó là chú bé Sao Băng.
-Rồi bác thuật lại cho vợ nghe bác đã tìm thấy chú một cách lạ lùng như thế nào. Nhưng người vợ vẫn không nguôi giận, lại còn chế giễu, đay nghiến chồng và gào lên:
-Con cái mình thì thiếu cái bỏ vào mồm lại còn phải nuôi báo cô con kẻ khác hay sao? Có ai thương đến chúng mình? Ai đem bánh biếu mình nào?
-Nhà nói thế nghe sao được. Chúa săn sóc ngay cả đến bầy chim sẻ và cho chúng ăn kia mà.
-Thế mùa đông chim sẻ không chết đói lăn ra đấy sao?
-Chị vặn lại.
-Bây giờ không phải là mùa đông đấy nhỉ! Bác tiều phu chẳng đáp lại nửa lời, cứ đứng lì ra ở ngưỡng cửa, không chịu nhúc nhích. Một luồng gió lạnh lướt từ khu rừng thổi thốc vào cánh cửa để mở khiến chị vợ run lên, chị rùng mình bảo chồng:
-Sao mình không chịu đóng cửa lại? Đấy, gió lạnh buốt xương đang lùa vào nhà đấy. Rét ơi là rét!
-Trong một căn nhà có trái tim lạnh giá thì bao giờ gió buốt chả lùa vào, không phải thế sao?
-Người chồng nói. Chị vợ không đáp mà chỉ rón rén bước lại gần bếp lửa.
Và một lát sau, chị xoay người lại, nhìn chồng rồi nước mắt chị trào ra. Thế là bác tiều phu nhanh chân bước vào nhà, trao đứa bé vào tay vợ; chị vợ hôn hít chú, đặt chú vào chiếc giường nhỏ bé ở đó đứa con út của họ đang nằm ngủ. Và ngày hôm sau, bác tiều phu lấy chiếc áo dệt bằng vải quý bỏ vào một chiếc rương to, còn cái vòng bằng mã não đeo ở cổ đứa bé, chị vợ cũng cởi nó ra rồi cũng bỏ nó vào rương. Thế là từ đấy chú bé Sao Băng được nuôi dưỡng với con cái bác tiều phu, ăn cùng bàn, cùng chơi với bọn chúng. Cứ mỗi năm qua, nhìn càng thấy chú xinh đẹp hơn, tất cả dân làng đều hết sức kinh ngạc, vì trong khi họ da ngăm đen và tóc đen thì chú trắng như ngà và thanh tú, tóc chú uốn búp, như những vòng hoa thủy tiên. Đôi môi chú cũng vậy, giống như những cánh hoa đỏ thắm, còn mắt thì nhỏ như những bông hoa tím bên cạnh dòng sông nước trong vắt, thân mình chú như hoa thủy tiên trên một cánh đồng chưa bị thợ gặt đụng tới. Tuy nhiên, vì xinh đẹp cho nên nó đâm ra xấu tính. Nó trở nên kiêu ngạo, độc ác, ích kỷ. Con cái bác và những đứa trẻ khác trong làng bị nó khinh bỉ, vì nó cho rằng chúng thuộc gia đình hèn hạ, còn nó thì thuộc dòng dõi cao quý, xuất thân từ một ngôi sao, và nó tự phong là chủ bọn chúng, xem chúng là tôi tớ của mình. Nó không thương xót chút nào những kẻ nghèo khổ, mù lòa, hoặc những người tàn tật và đau đớn vì một lẽ gì đó; trái lại nó thường ném đá vào họ, xua đuổi họ ra ngoài đường cái, bảo họ hãy đi ăn xin nơi khác; đến nỗi, trừ bọn trộm cướp ra, chẳng có ai đến làng đó ăn xin lần thứ hai. Thật tình, mê mẩn vì mình đẹp, nó sẵn sàng chế nhạo những kẻ ốm yếu và xấu xí, nó đem họ ra làm trò cười; nó chỉ ưa thích bản thân nó, và về mùa hạ, lúc trời lặng gió, nó hay nằm dài cạnh giếng trong vườn cây ăn quả của ông tu sĩ, nhìn xuống nước ngắm khuôn mặt đẹp diệu kỳ của chính nó, rồi cất tiếng cười, thích thú với vẻ đẹp của mình. Bác tiều phu và vợ thường phải quở mắng nó:
“Bố mẹ đây đâu có đối xử với con như con đã đối xử với những kẻ bị bỏ bơ vơ không ai cứu giúp. Cớ sao con lại độc ác đến thế đối với tất cả những ai cần được thương xót?” Cha xứ già cũng thường nhắn nó tới gặp ông và tìm cách dạy nó tình thương yêu các sinh vật. ông nói:
“Con ruồi là anh em với con. Đừng làm hại nó! Giống chim muông bay đây bay đó qua khu rừng có tự do riêng của chúng. Đừng đánh bẫy chúng chỉ để mà đùa nghịch. Chúa đã tạo ra con rắn thủy tinh và con chuột chũi, con nào cũng có nơi có chỗ của chúng. Con là ai mà dám mang đau khổ vào thế giới của Chúa? Ngay các gia súc trên đồng nội cũng ca tụng công đức của Người”.
Nhưng thằng bé Sao Băng đâu có đếm xỉa đến những lời khuyên đó; nó thường chau mày tỏ vẻ khinh thị rồi quay về với chúng bạn và cầm đầu bọn chúng. Còn tụi bạn thì nghe theo nó, vì nó xinh đẹp, nhanh nhẹn, lại biết nhảy múa, thổi sáo và chơi nhạc. Thằng bé Sao Băng dẫn chúng đi bất cứ đâu chúng cũng đi theo, nó bảo chúng làm bất cứ gì, chúng cũng làm. Khi nó lấy một nhánh lau nhọn sắc chọc thủng mắt của con chuột chũi thì chúng cười reo, và chúng cũng cười reo khi nó ném đá vào người bị bệnh phong. Việc gì nó cũng điều khiển chúng và chúng cũng trở nên lòng lim dạ đá như nó vậy. Thế rồi một ngày nọ, có một người đàn bà ăn xin khốn khổ đi qua làng. Quần áo bà rách tơi tả, chân bà rớm máu vì mải đi trên con đường cái gồ ghề lởm chởm, và cảnh ngộ của bà hết sức thảm thương. Mệt rã rời, bà ngồi bệt dưới một cây dẻ để nghỉ ngơi. Nhưng khi thằng bé Sao Băng nom thấy bà, nó liền nói với chúng bạn:
-Chúng mày trông kìa. Có một con mụ ăn xin ngốc nghếch đang ngồi dưới cái cây xinh đẹp lá xanh kia kìa! Ta lại đó, chúng mình đuổi cổ mụ đi, mụ xấu xí, vô duyên lắm! Thế rồi nó đi tới gần, ném đá vào bà, nhạo báng bà, còn bà thì nhìn nó với đôi mắt kinh sợ nhưng vẫn nhìn nó chằm chằm. Bác tiều phu lúc đó đang lắp cái khúc gỗ mới xẻ trong nhà chứa xe gần đấy, thấy thằng bé Sao Băng đang làm như vậy, bác vội chạy tới quở mắng nó:
-Rõ ràng lòng dạ mày ác nghiệt quá, con S; mày chẳng biết thương xót là gì. Người đàn bà khốn khổ này đã làm hại gì mày mà mày nỡ đối xử với bà ta như thế? Thế là thằng bé Sao Băng giận đỏ mặt, giẫm chân thình thịch và nói:
-Tôi làm gì mặc tôi, ông là ai mà được hỏi? Tôi đâu có phải con ông mà ông bảo gì tôi phải làm nấy.
-Mày nói đúng đấy.
-Bác tiều phu đáp.
-Có điều tao thấy thương hại mày khi tao tìm thấy mày trong rừng. Nghe đến những lời đó, người đàn bà thét lên một tiếng rồi ngất lịm. Bác tiều phu mang bà vào nhà mình và vợ bác trông nom săn sóc bà. Khi bà tỉnh lại, họ bèn đặt thức ăn thức uống trước mặt bà và tìm lời an ủi bà. Nhưng bà ta không thiết gì đến ăn uống mà chỉ hỏi bác tiều phu:
-Vừa rồi, có phải bác nói đã tìm thấy thằng bé ở trong rừng, phải không? Từ ngày đó đến nay, nó đã lên mười phải không?
-Phải đấy, bà ạ.
-Bác tiều phu đáp.
-Chính tôi đã tìm thấy nó trong rừng, và từ bấy đến nay, nó đã lên mười.
-Bác thấy có dấu hiệu gì ở người nó?
-Bà hỏi to.
-ở cổ có đeo một dây chuyền hổ phách chứ gì? Còn người nó quấn trong một chiếc áo vải quý, có trổ sao, phải không?
-Đúng thế.
-Bác tiều phu đáp.
-In hệt như bà nói. Rồi bác mở rương, lấy chiếc áo và chiếc dây chuyền hổ phách bác cất trong đó, và bác đưa cho bà xem. Thấy những đồ vật đó, bà vui sướng đến khóc oà lên, bà nói:
-Nó là con trai tôi, tôi đã mất nó ở trong rừng. Bác làm phúc gọi nó nhanh nhanh cho tôi một tí. Tôi đã đi lang thang khắp thiên hạ để tìm nó đấy, bác ơi! Bác tiều phu cùng vợ bèn đi gọi thằng bé Sao Băng, họ nói với nó:
-Con đi vào nhà đi. Mẹ con đang đợi con trong ấy. Nghe nói thế, nó chạy vào, lòng tràn ngập nỗi kinh ngạc lẫn niềm vui sướng khôn xiết. Nhưng khi nom thấy người đàn bà ăn xin đang đợi nó, nó bèn cười chế giễu:
-! Mẹ tôi đâu nào? Ngoài cái con mụ ăn xin hèn hạ này ra, tôi chả còn thấy ai cả.
-Ta là mẹ con đây, con ơi!
-Người đàn bà đáp lại.
-Mụ điên hay sao mà nói thế, hở?
-Sao Băng giận dữ hét.
-Ta không phải con cái gì của mụ hết. Mụ là con mụ ăn xin, lại xấu xí, rách rưới, thế thôi! Vậy mụ hãy cút khỏi đây, đừng có để ta nom phải cái mặt xấu xí của mụ nữa.
-Không được, quả con là thằng út của mẹ mà, mẹ để mất con trong rừng mà!
-Bà vừa khóc vừa quỳ xuống, giơ đôi cánh tay về phía con.
-Bọn kẻ trộm đã bắt trộm con, con có bị chết chúng cũng bỏ mặc,
-bà lầm rầm,
-nom thấy con mẹ đã nhận ra con ngay, mẹ cũng nhận ra các vật làm dấu nữa, chiếc áo ngoài dệt sợi bằng vàng, với chiếc dây chuyền hổ phách. Vậy mẹ van con đấy, hãy đến với mẹ, con ơi! Mẹ đã đi lang thang khắp thế gian này để tìm con. Con trai của mẹ, lại đây với mẹ. Mẹ cần đến tình thương yêu của con. Nhưng Sao Băng vẫn cứ đứng trơ trơ không nhúc nhích, lòng nó đã khép chặt; không còn nghe tiếng gì ngoài tiếng bà mẹ đang khóc vì đau buồn. Cuối cùng, nó nói với bà ta, giọng cục cằn:
Ngày xửa ngày xưa, một hôm có hai bác tiều phu nghèo khổ đang đi xuyên qua một khu rừng thông rộng lớn để trở về nhà. Lúc đó vào mùa đông, đêm lạnh cắt da cắt thịt. Tuyết phủ dày trên đất và trên các cành cây, sương giá không ngừng quất vào các nhánh cây kêu tanh tách ở hai bên lối họ đi qua: Và khi đi tới thác Núi, họ thấy thác đang treo im lìm trong khoảng không trung vì vua Băng đã hôn lên nó. Trời lạnh buốt, đến nỗi cả chim muông cũng không còn biết xoay xở ra làm sao nữa.
-Hu, hú!
-Lão Sói vừa cằn nhằn, đuôi quấn giữa hai chân, vừa lê bước qua các bụi cây.
-Thời tiết ghê gớm hết chỗ nói. Thế mà cớ sao chính phủ không lưu ý tới, hử?
-Tuýt! Tuýt! Tuýt.
-Chú Sẻ lanh lông xanh kêu líu ríu.
-Mụ già Đất chết rồi, chết rồi. Người ta đã liệm mụ trong tấm vải tang trắng của mụ.
-Bà Đất sắp sửa lấy chồng, đây là chiếc áo cưới của bà ta.
-Các con chim nói thì thào với nhau như vậy. Đôi cẳng hồng của chúng đã bị giá làm tê cóng, nhưng chúng nghĩ, bổn phận của chúng là phải có một cái nhìn lãng mạn đối với hoàn cảnh. Lão Sói bèn gầm lên:
-Láo toét! Ta nói cho bọn bay biết, tất cả do lỗi của chính phủ, biết chưa? Mà nếu tụi bay không tin tao, tao sẽ ăn thịt ráo, biết chưa?
-lão Sói có đầu óc hoàn toàn thực tiễn, chẳng bao giờ lão bị lúng túng để tìm ra một lý lẽ thích đáng.
-Thôi.
-Chim Gõ Kiến bẩm sinh là một nhà triết học, nói.
-Về phần ta, ta chả cần gì đến một học thuyết nguyên tử mới giải thích được thế này thế nọ. Sự việc là thế thì nó là thế, mà hiện giờ trời đang lạnh khủng khiếp đấy.
Rõ ràng trời đang lạnh khủng khiếp. Những con sóc bé nhỏ sống trong cây giẻ to cao, cứ mãi cọ mũi vào nhau để giữ mình cho được ấm; các chú thỏ rừng nằm cuộn tròn trong hang, không dám đánh liều thò đầu ra ngoài dù chỉ để ngó một chút. Kẻ duy nhất có vẻ thích thú ấy là những bác cú to có cái đầu như mang sừng. Lông của họ cứng đơ vì sương muối, nhưng họ chả cần để ý, họ đảo tròn đôi mắt màu vàng, cất tiếng gọi nhau ngang qua khu rừng; Cú, cú, cú! Thời tiết mới đẹp không chứ! Cú, cú! Hai bác tiều phu vừa mải miết dấn bước, vừa thổi phù phù vào các ngón tay, đôi giày to sụ với đế cá sắt hằn vết đậm trên mặt tuyết đóng bánh. Khi thì họ thụt vào một con lạch sâu và lúc thoát ra được thì mình mẩy trắng lốp như bác thợ xay bột bên các thớt đá đang quay nghiền bột; khi thì họ trượt chân trên băng cứng trơn, ở đó nước đầm lầy đã đông lại, lúc đó các khúc củi buộc thành bó bị tuột ra, họ đành phải nhặt lên bó lại, có khi họ tưởng đã lạc đường, kinh hãi rụng rời, vì họ biết chúa Tuyết rất ác độc đối với những ai nằm yên trong đôi cánh tay của bà.
Nhưng họ đặt lòng tin vào thánh Mác-tanh phúc đức săn sóc đến mọi kẻ đi đường, cho nên họ quay trở lại, dò dẫm bước đi. Cuối cùng họ ra tới bìa rừng và xa xa trong thung lũng nằm phía dưới chân, họ thấy ánh lửa le lói trong làng, nơi họ sinh sống. Thấy đã thoát nạn, họ vui mừng khôn xiết, cười nói oang oang, và lúc đó, họ thấy mặt đất nom như một đóa hoa bằng bạc và mặt trăng như một đóa hoa bằng vàng. Tuy nhiên, sau khi đã vui cười họ trở nên buồn bã vì nhớ đến tình cảnh nghèo khổ của mình. Một người nói với người kia:
-Làm sao chúng mình lại vui đùa được nhỉ? Vì chúng mình biết, cuộc sống dành cho người giàu, chứ dành đâu cho những người như hạng chúng mình. Thà lúc nãy ở trong rừng chúng mình bị chết cóng, hoặc bị con thú dữ nào đó vồ chết, như thế còn hơn.
-Đúng đấy.
-Người bạn đáp.
-Kẻ ăn chả hết, người lần không ra. Thế giới này đã bị sự bất công cắt ra từng mảnh, nhưng chả có gì được phân chia đều, cả sự đau khổ cũng vậy. Nhưng trong khi họ đang cùng nhau than thở về nỗi cơ cực của mình thì bỗng xảy ra một điều lạ lùng. Lúc đó từ trên trời rơi xuống một ngôi sao sáng :Di. Nó gieo xuống phía chân trời, lướt cạnh các ngôi sao khác, và trong khi ngắm nhìn sửng sốt, họ thấy dường như nó lặn mất ở sau một lùm cây liễu sát cạnh một trại cừu nhỏ cách xa chỗ họ đứng không quá một tầm ném đá.
-Đấy nhé! Ai tìm ra nó thì sẽ bắt được một hũ vàng!
-Họ kêu lên như vậy rồi hăm hở chạy tới để kiếm của. Một trong hai người nhanh chân hơn, bỏ xa bạn, xông bừa qua lùm liễu rồi sang được tới phía bên kia... ô kìa! Quả thật, có một vật gì bằng vàng nằm trên tuyết trắng. Bác hối hả lao về phía nó, rồi vừa cúi xuống bác vừa đặt tay lên nó: đấy là một chiếc áo dệt bằng vải quý thêu những ngôi sao nom rất kỳ lạ và được quấn lại thành nhiều lớp. Thế là bác kêu to, nói cho bạn biết mình đã tìm thấy kho vàng từ trên trời rơi xuống. Khi người bạn tới, hai người ngồi xuống nơi tuyết, gỡ nếp quấn của chiếc áo để hòng chia nhau các đồng tiền vàng. Nhưng chao ôi! Nào có thấy vàng bạc hoặc bất cứ thứ của cải nào, ngoài một đứa bé đang ngủ thiếp đi. Một người nói với người kia:
-Hy vọng của chúng mình là thế, kết thúc lại là thế! Cay đắng quá. Mà cái số chúng mình không may chút nào, vì một đứa bé thì đem lại lợi gì cho một thằng người, hở? Thôi, hãy bỏ nó lại đây, rồi cứ đường mà về. Chúng mình thuộc cánh nghèo, còn phải nuôi con cái đẻ ra, không thể xén phần bánh của chúng cho con kẻ khác được. Nhưng người bạn đáp:
-Thế sao được. Bỏ đứa bé lại đây để nó chết trong tuyết, thế thì độc ác quá. Tôi cũng nghèo như bác, nhà lại nhiều miệng ăn, chẳng có gì mà cho vào nồi, nhưng mặc, tôi cứ đem nó về nuôi. Nhà tôi sẽ chăm sóc nó. Thế là bác âu yếm bế đứa bé lên, quấn lại chiếc áo quanh người nó để tránh cho nó khỏi bị thấm cái khí lạnh khắc nghiệt, rồi bác đi xuống đồi về làng, trong khi người bạn hết sức ngạc nhiên trước sự dại dột cũng như lòng từ tâm của bác. Tới làng, người bạn nói:
-Bác đã có được đứa bé, vậy hãy dành cho tôi chiếc áo, vì lẽ chia phần với nhau là điều thích đáng thôi. Nhưng bác tiều phu đáp lại:
-Đâu được. Chiếc áo chẳng phải của bác, cũng chẳng phải của tôi, nó là của đứa bé. Nói xong, bác chúc bạn may mắn, rồi đi về nhà mình. Bác gõ cửa, người vợ ra mở, thấy chồng trở về với mình được yên ổn, chị vòng tay ôm lấy cổ chồng mà hôn, rồi chị đỡ lấy bó củi trên lưng bác xuống, phủi tuyết trên đôi ủng của bác rồi giục bác đi vào nhà. Bác nói với vợ:
-Đây này, tôi đã bắt được món này trong rừng, tôi đem nó về cho mình coi sóc.
-Miệng nói thế nhưng bác vẫn không nhúc nhích khỏi ngưỡng cửa.
-Cái gì vậy?
-Chị vợ kêu lên.
-Cho tôi xem nào! Nhà mình nghèo xác nghèo xơ, thiếu bao nhiêu là thứ. Bác tiều phu bèn kéo chiếc áo ra và chỉ cho vợ xem đứa bé đang ngủ.
-ối trời!
-Người vợ kêu lên.
-Nhà ta con cái nào có thiếu! Thế mà mình lại còn đi rước về một đứa trẻ. Biết đâu nó chẳng đem họa đến cho nhà mình. Mà phải săn sóc nó thế nào đây?
-Chị giận dỗi với chồng.
-Nhà nói thế sao được.
-Người chồng đáp
-Nó là chú bé Sao Băng.
-Rồi bác thuật lại cho vợ nghe bác đã tìm thấy chú một cách lạ lùng như thế nào. Nhưng người vợ vẫn không nguôi giận, lại còn chế giễu, đay nghiến chồng và gào lên:
-Con cái mình thì thiếu cái bỏ vào mồm lại còn phải nuôi báo cô con kẻ khác hay sao? Có ai thương đến chúng mình? Ai đem bánh biếu mình nào?
-Nhà nói thế nghe sao được. Chúa săn sóc ngay cả đến bầy chim sẻ và cho chúng ăn kia mà.
-Thế mùa đông chim sẻ không chết đói lăn ra đấy sao?
-Chị vặn lại.
-Bây giờ không phải là mùa đông đấy nhỉ! Bác tiều phu chẳng đáp lại nửa lời, cứ đứng lì ra ở ngưỡng cửa, không chịu nhúc nhích. Một luồng gió lạnh lướt từ khu rừng thổi thốc vào cánh cửa để mở khiến chị vợ run lên, chị rùng mình bảo chồng:
-Sao mình không chịu đóng cửa lại? Đấy, gió lạnh buốt xương đang lùa vào nhà đấy. Rét ơi là rét!
-Trong một căn nhà có trái tim lạnh giá thì bao giờ gió buốt chả lùa vào, không phải thế sao?
-Người chồng nói. Chị vợ không đáp mà chỉ rón rén bước lại gần bếp lửa.
Và một lát sau, chị xoay người lại, nhìn chồng rồi nước mắt chị trào ra. Thế là bác tiều phu nhanh chân bước vào nhà, trao đứa bé vào tay vợ; chị vợ hôn hít chú, đặt chú vào chiếc giường nhỏ bé ở đó đứa con út của họ đang nằm ngủ. Và ngày hôm sau, bác tiều phu lấy chiếc áo dệt bằng vải quý bỏ vào một chiếc rương to, còn cái vòng bằng mã não đeo ở cổ đứa bé, chị vợ cũng cởi nó ra rồi cũng bỏ nó vào rương. Thế là từ đấy chú bé Sao Băng được nuôi dưỡng với con cái bác tiều phu, ăn cùng bàn, cùng chơi với bọn chúng. Cứ mỗi năm qua, nhìn càng thấy chú xinh đẹp hơn, tất cả dân làng đều hết sức kinh ngạc, vì trong khi họ da ngăm đen và tóc đen thì chú trắng như ngà và thanh tú, tóc chú uốn búp, như những vòng hoa thủy tiên. Đôi môi chú cũng vậy, giống như những cánh hoa đỏ thắm, còn mắt thì nhỏ như những bông hoa tím bên cạnh dòng sông nước trong vắt, thân mình chú như hoa thủy tiên trên một cánh đồng chưa bị thợ gặt đụng tới. Tuy nhiên, vì xinh đẹp cho nên nó đâm ra xấu tính. Nó trở nên kiêu ngạo, độc ác, ích kỷ. Con cái bác và những đứa trẻ khác trong làng bị nó khinh bỉ, vì nó cho rằng chúng thuộc gia đình hèn hạ, còn nó thì thuộc dòng dõi cao quý, xuất thân từ một ngôi sao, và nó tự phong là chủ bọn chúng, xem chúng là tôi tớ của mình. Nó không thương xót chút nào những kẻ nghèo khổ, mù lòa, hoặc những người tàn tật và đau đớn vì một lẽ gì đó; trái lại nó thường ném đá vào họ, xua đuổi họ ra ngoài đường cái, bảo họ hãy đi ăn xin nơi khác; đến nỗi, trừ bọn trộm cướp ra, chẳng có ai đến làng đó ăn xin lần thứ hai. Thật tình, mê mẩn vì mình đẹp, nó sẵn sàng chế nhạo những kẻ ốm yếu và xấu xí, nó đem họ ra làm trò cười; nó chỉ ưa thích bản thân nó, và về mùa hạ, lúc trời lặng gió, nó hay nằm dài cạnh giếng trong vườn cây ăn quả của ông tu sĩ, nhìn xuống nước ngắm khuôn mặt đẹp diệu kỳ của chính nó, rồi cất tiếng cười, thích thú với vẻ đẹp của mình. Bác tiều phu và vợ thường phải quở mắng nó:
“Bố mẹ đây đâu có đối xử với con như con đã đối xử với những kẻ bị bỏ bơ vơ không ai cứu giúp. Cớ sao con lại độc ác đến thế đối với tất cả những ai cần được thương xót?” Cha xứ già cũng thường nhắn nó tới gặp ông và tìm cách dạy nó tình thương yêu các sinh vật. ông nói:
“Con ruồi là anh em với con. Đừng làm hại nó! Giống chim muông bay đây bay đó qua khu rừng có tự do riêng của chúng. Đừng đánh bẫy chúng chỉ để mà đùa nghịch. Chúa đã tạo ra con rắn thủy tinh và con chuột chũi, con nào cũng có nơi có chỗ của chúng. Con là ai mà dám mang đau khổ vào thế giới của Chúa? Ngay các gia súc trên đồng nội cũng ca tụng công đức của Người”.
Nhưng thằng bé Sao Băng đâu có đếm xỉa đến những lời khuyên đó; nó thường chau mày tỏ vẻ khinh thị rồi quay về với chúng bạn và cầm đầu bọn chúng. Còn tụi bạn thì nghe theo nó, vì nó xinh đẹp, nhanh nhẹn, lại biết nhảy múa, thổi sáo và chơi nhạc. Thằng bé Sao Băng dẫn chúng đi bất cứ đâu chúng cũng đi theo, nó bảo chúng làm bất cứ gì, chúng cũng làm. Khi nó lấy một nhánh lau nhọn sắc chọc thủng mắt của con chuột chũi thì chúng cười reo, và chúng cũng cười reo khi nó ném đá vào người bị bệnh phong. Việc gì nó cũng điều khiển chúng và chúng cũng trở nên lòng lim dạ đá như nó vậy. Thế rồi một ngày nọ, có một người đàn bà ăn xin khốn khổ đi qua làng. Quần áo bà rách tơi tả, chân bà rớm máu vì mải đi trên con đường cái gồ ghề lởm chởm, và cảnh ngộ của bà hết sức thảm thương. Mệt rã rời, bà ngồi bệt dưới một cây dẻ để nghỉ ngơi. Nhưng khi thằng bé Sao Băng nom thấy bà, nó liền nói với chúng bạn:
-Chúng mày trông kìa. Có một con mụ ăn xin ngốc nghếch đang ngồi dưới cái cây xinh đẹp lá xanh kia kìa! Ta lại đó, chúng mình đuổi cổ mụ đi, mụ xấu xí, vô duyên lắm! Thế rồi nó đi tới gần, ném đá vào bà, nhạo báng bà, còn bà thì nhìn nó với đôi mắt kinh sợ nhưng vẫn nhìn nó chằm chằm. Bác tiều phu lúc đó đang lắp cái khúc gỗ mới xẻ trong nhà chứa xe gần đấy, thấy thằng bé Sao Băng đang làm như vậy, bác vội chạy tới quở mắng nó:
-Rõ ràng lòng dạ mày ác nghiệt quá, con S; mày chẳng biết thương xót là gì. Người đàn bà khốn khổ này đã làm hại gì mày mà mày nỡ đối xử với bà ta như thế? Thế là thằng bé Sao Băng giận đỏ mặt, giẫm chân thình thịch và nói:
-Tôi làm gì mặc tôi, ông là ai mà được hỏi? Tôi đâu có phải con ông mà ông bảo gì tôi phải làm nấy.
-Mày nói đúng đấy.
-Bác tiều phu đáp.
-Có điều tao thấy thương hại mày khi tao tìm thấy mày trong rừng. Nghe đến những lời đó, người đàn bà thét lên một tiếng rồi ngất lịm. Bác tiều phu mang bà vào nhà mình và vợ bác trông nom săn sóc bà. Khi bà tỉnh lại, họ bèn đặt thức ăn thức uống trước mặt bà và tìm lời an ủi bà. Nhưng bà ta không thiết gì đến ăn uống mà chỉ hỏi bác tiều phu:
-Vừa rồi, có phải bác nói đã tìm thấy thằng bé ở trong rừng, phải không? Từ ngày đó đến nay, nó đã lên mười phải không?
-Phải đấy, bà ạ.
-Bác tiều phu đáp.
-Chính tôi đã tìm thấy nó trong rừng, và từ bấy đến nay, nó đã lên mười.
-Bác thấy có dấu hiệu gì ở người nó?
-Bà hỏi to.
-ở cổ có đeo một dây chuyền hổ phách chứ gì? Còn người nó quấn trong một chiếc áo vải quý, có trổ sao, phải không?
-Đúng thế.
-Bác tiều phu đáp.
-In hệt như bà nói. Rồi bác mở rương, lấy chiếc áo và chiếc dây chuyền hổ phách bác cất trong đó, và bác đưa cho bà xem. Thấy những đồ vật đó, bà vui sướng đến khóc oà lên, bà nói:
-Nó là con trai tôi, tôi đã mất nó ở trong rừng. Bác làm phúc gọi nó nhanh nhanh cho tôi một tí. Tôi đã đi lang thang khắp thiên hạ để tìm nó đấy, bác ơi! Bác tiều phu cùng vợ bèn đi gọi thằng bé Sao Băng, họ nói với nó:
-Con đi vào nhà đi. Mẹ con đang đợi con trong ấy. Nghe nói thế, nó chạy vào, lòng tràn ngập nỗi kinh ngạc lẫn niềm vui sướng khôn xiết. Nhưng khi nom thấy người đàn bà ăn xin đang đợi nó, nó bèn cười chế giễu:
-! Mẹ tôi đâu nào? Ngoài cái con mụ ăn xin hèn hạ này ra, tôi chả còn thấy ai cả.
-Ta là mẹ con đây, con ơi!
-Người đàn bà đáp lại.
-Mụ điên hay sao mà nói thế, hở?
-Sao Băng giận dữ hét.
-Ta không phải con cái gì của mụ hết. Mụ là con mụ ăn xin, lại xấu xí, rách rưới, thế thôi! Vậy mụ hãy cút khỏi đây, đừng có để ta nom phải cái mặt xấu xí của mụ nữa.
-Không được, quả con là thằng út của mẹ mà, mẹ để mất con trong rừng mà!
-Bà vừa khóc vừa quỳ xuống, giơ đôi cánh tay về phía con.
-Bọn kẻ trộm đã bắt trộm con, con có bị chết chúng cũng bỏ mặc,
-bà lầm rầm,
-nom thấy con mẹ đã nhận ra con ngay, mẹ cũng nhận ra các vật làm dấu nữa, chiếc áo ngoài dệt sợi bằng vàng, với chiếc dây chuyền hổ phách. Vậy mẹ van con đấy, hãy đến với mẹ, con ơi! Mẹ đã đi lang thang khắp thế gian này để tìm con. Con trai của mẹ, lại đây với mẹ. Mẹ cần đến tình thương yêu của con. Nhưng Sao Băng vẫn cứ đứng trơ trơ không nhúc nhích, lòng nó đã khép chặt; không còn nghe tiếng gì ngoài tiếng bà mẹ đang khóc vì đau buồn. Cuối cùng, nó nói với bà ta, giọng cục cằn: