TT_LưuLyTím_TT
04-25-2011, 09:26 PM
Sắc màu của Mẹ
Trần Kim Tuyến
http://i879.photobucket.com/albums/ab356/chutluulai/truyen_ngan/chx1.jpgNhững giọt nắng vui vẻ nô đùa trên những ngọn cây, lấp lánh qua những tàng cây, kẽ lá, tạo nên những màu sắc lung linh ngộ nghĩnh.
Tôi ra khỏi nhà khi nắng chiều còn đang cháy rực ở một góc trời. Chiếc xe cà tàng miễn cưỡng gầm gừ rồi tắt ngúm. Tôi lắc đầu, ngán ngẩm. Như thường lệ, tôi sẽ lại phải tốn một số tiền không nhỏ để tu sửa lại chiếc xe. Mà chắc cũng chỉ vừa đủ để chạy được thêm vài ba tháng. Nhìn bầu trời nắng gắt không một chút mây, trong đầu tôi lóe lên một ý tưởng sẽ gọi điện thoại đến chỗ làm và xin nghỉ một ngày. Tôi sẽ có cả một buổi chiều rảnh rỗi. Có thể tôi sẽ dùng khoảng thời gian này để giải quyết đống đồ dơ còn tồn đọng. Có thể tôi sẽ dọn dẹp căn phòng và tự thưởng cho mình một món gì đó thật ngon. Có thể tôi sẽ dọn sơ căn phòng rồi nằm lăn ra một cách thoải mái và đọc một quyển sách mượn từ chú chủ nhà. Hoặc có thể… tôi sẽ lại làm cái điều mà tôi vẫn thường làm vào những buổi chiều rảnh rỗi, đó là tôi sẽ nằm dài trên giường, trùm chăn kín mít và đánh một giấc giữa căn phòng muôn đời bề bộn và an ủi cái bao tử luôn bị ngược đãi. Nhớ đến cái bụng đói meo, tôi lại nghĩ đến hạn đóng tiền nhà sắp đến, chiếc xe phải sửa và hàng ngàn những món lặt vặt khác cần phải mua. Cuối cùng, tôi tặc lưỡi quyết định cuốc bộ đến chỗ làm. Dĩ nhiên với cái lý do rất đáng thuyết phục là số tiền công của ngày hôm nay sẽ được tôi trích riêng cho khoản để dành… mua xe mới.
Tôi thả bộ trên con đường vắng ngắt dẫn đến trạm xe buýt, thích thú ngắm những giọt nắng vàng nhảy múa trên mặt đường bóng loáng. Bỗng nhiên, tôi muốn ví mình như những hạt bụi đường lăn lóc trên vỉa hè. Không biết từ lúc nào đó tôi đã bắt đầu nhồi nhét vào đầu mình những ý tưởng bi quan ấy. Và để tránh những ý tưởng vô duyên ấy được đem ra suy diễn, tôi hướng mắt về những chiếc xe cáu cạnh gần đó và bắt đầu tính toán xem với số tiền lương ít ỏi của mình, tôi sẽ phải để dành trong bao lâu mới có thể rinh về nhà một “cục cưng” như thế.
Nhìn lại cuộc đời mình, tôi phát hiện ra hình như mình chưa một lần được ngồi trong một chiếc xe hơi đời mới. Suốt khoảng đời thơ ấu, tôi theo mẹ đến trường trên chiếc xe đạp mini cũ màu xanh lơ. Chiếc xe mà ba tôi đã mua tặng mẹ làm quà cưới. Đó là món quà đầu tiên và duy nhất mẹ nhận được từ ba. Mẹ tôi không giống như những phụ nữ khác, mẹ không cáu gắt hoặc nổi nóng khi có một ông chồng thiếu lãng mạn và thực tế đến khô khan. Mẹ tôi yêu ở ba cái tính khí thẳng thắn, yêu cái cách sống bạt mạng không lo lắng. Mẫu người của ba tôi là mẫu người bốc đồng, bồng bột còn mẹ là một mẫu người hiền lành, chu đáo và sống rất an phận. Có lẽ vì những sự khác biệt ấy mà mẹ đã yêu ba. Tôi còn nhớ từ khi còn bé, tôi luôn nhận ra sự chịu đựng trong đôi mắt mẹ mỗi khi mẹ nhìn ba. Tia nhìn pha lẫn sự nhẫn nại và tha thứ cho những lần ba tôi nổi nóng vô cớ, những lần ba tôi say sưa rượu chè. Mẹ vẫn dành cho ba cái nhìn ấy, kể cả lần cuối cùng khi chúng tôi nhìn thấy ba ở bến xe, khi ông lạnh lùng xách vội chiếc vali để bước theo người đàn bà khác, để lại sau lưng đôi mắt ướt đẫm, chan chứa cái nhìn quen thuộc của mẹ.
Từ đó, mẹ tôi bôn ba trong dòng đời thay cho thân phận của người cha, đặt những bước chân đầu tiên chập chững vào dòng đời nghiệt ngã. Chúng tôi không còn bà con, không họ hàng. Ngày xưa, mẹ tôi đã chấp nhận đặt tất cả sau lưng để được sống bên ba để rồi cuối cùng lại nhận lãnh được sự phản bội cho những hy sinh của mình. Mười tuổi, tôi cầm đôi tay mẹ, đôi tay cứng nhắc, chai sần. Lần đầu tiên trong đời tôi thốt lên những tiếng căm hận Tôi hận sự xa cách của họ hàng, hận những cái nhìn dửng dưng lạnh lùng của chòm xóm, hận sự trêu chọc của bè bạn, và hơn hết, tôi hận ba tôi, hận ông đã bỏ lại mẹ con chúng tôi, để vừa lên mười tôi lại bỗng chốc trở thành một đứa trẻ không cha.
Mẹ tôi chưa một lần nói hận ba tôi. Từ khi ba tôi bỏ đi mẹ tôi cũng không một lần nhắc đến ông. Thỉnh thoảng, mẹ vẫn ngồi bên khung cửa sổ, tay mân mê những chiếc áo len mẹ đã từng đan cho ba. Có một ngày, năm tôi mười hai tuổi, tôi trở về nhà sau giờ học và nhìn thấy mẹ ngồi thẩn thờ bên khung cửa sổ, nước mắt lã chã rơi đầy trên khuôn mặt, thật chậm rãi, mẹ kéo những sợi len ra từ chiếc áo. Nhẹ nhàng và cẩn thận như đang muốn kéo lùi những kỷ niệm xưa. Chẳng mấy chốc, chiếc áo len dày chỉ còn là một đống len bùi nhùi, rối bời. Khi mẹ ngước lên và nhìn thấy tôi bên cạnh, mẹ khẽ mỉm cười với đôi mắt bình thản, nụ cười đầu tiên kể từ khi không còn có ba bên cạnh.
Vài năm sau, chúng tôi đến định cư tại Hoa Kỳ, do người em gái của ba tôi bảo lãnh. Tôi học lại lớp bảy tại một ngôi trường nhỏ gần nhà còn mẹ tôi thì theo phụ việc ở tiệm ăn nơi cô chú tôi làm việc. Trong thời gian hai mẹ con tôi còn chân ướt chân ráo lạ nước lạ cái, cô tôi giữ chúng tôi lại nhà và nhường cho hai mẹ con chúng tôi một căn phòng rộng rãi nhất. Dù ba tôi đã bỏ mặc mẹ con chúng tôi, chúng tôi vẫn may mắn được cô chú coi như những thành viên trong gia đình.
Qua một thời gian, khi đời sống chúng tôi đã đôi phần ổn định, vợ chồng cô chú tìm cho chúng tôi một căn chung cư riêng theo ý của mẹ. Trước khi rời khỏi nhà, mẹ tôi dùng số tiền công dành dụm được trong suốt một năm để sắm một bộ bếp lò đắt tiền và đồ dùng nhà bếp mới để tặng lại gia đình cô chú tôi để thay bộ bếp lò đã sắp hỏng.
Đối với hai mẹ con chúng tôi, đó là một số tiền rất lớn. Vì vậy, khoảng thời gian đó tôi đã giận lẫy với mẹ vì tôi nghĩ số tiền ấy cần thiết với chúng tôi hơn là đối với gia đình cô chú. Trước thái độ trẻ con của tôi, mẹ chỉ mỉm cười. Cuối cùng có một ngày mẹ cũng giải thích cho tôi hiểu khi đã thật sự chán chường với cái bộ dạng lầm lì, gắt gỏng của tôi.
“Mẹ nhờ vả cô chú để đưa con sang đây vì mẹ muốn con có một tương lai mới. Để con thoát khỏi những mặc cảm với bè bạn, chòm xóm. Nhưng dù sao mẹ cũng không muốn mắc nợ người khác. Nhất là những món nợ tình cảm thì không trả nổi đâu con à.”
Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy mình hiểu và thương mẹ nhiều hơn. Chẳng có người mẹ nào lại đi tính toán với con cái, nhưng phận làm con, tôi biết mình thiếu mẹ nhiều lắm. Bao nhiêu công sức mẹ bỏ ra, sinh thành dưỡng dục, biết đến khi nào tôi mới trả nổi. Còn tình thương mẹ dành cho tôi như đất trời bao la, tôi đếm còn không xuể, thì biết lấy gì đền đáp cho vừa. Và vì vậy, tôi quyết tâm chăm chú vào việc học hành, với mục đích duy nhất trong đời là tìm cho mình một chỗ đứng vững vàng trong xã hội, để mẹ được sống những ngày tháng an nhàn, hạnh phúc.
Mười sáu tuổi, tôi tìm được một việc làm bán thời gian ở một tiệm quà lưu niệm nhỏ. Tiệm có tên là Minh Hoa, được nằm sát trong một góc đối diện với cái trung tâm thương mại bề thế ở khu phố Bôlsa. Tiệm bị che khuất bởi những tấm bảng quảng cáo khổng lồ của những tiệm phở, những hàng Food To Go và những tiệm vải treo đầy ắp những bộ quần áo đủ kiểu. Minh Hoa là một căn tiệm nhỏ xíu, cũ kỹ. Thoạt nhìn, vẻ cũ kỹ của căn tiệm tạo cho nó một nét lạc lõng kì dị, dễ làm người ta lầm tưởng tiệm được thuộc về một căn phố cổ nào đó. Cánh cửa trước tiệm mang khung gỗ, với ô kính bên giữa được trang trí bằng hàng loạt những hàng hoa văn truyền thống màu phấn. Một chiếc chuông lớn bằng đồng được móc vào sau cửa, reo vui mỗi lần cánh cửa được đẩy ra và đóng lại. Nhiều bức tranh đủ thể loại được treo đầy trên những bức tường chung quanh tiệm. Phân nửa căn tiệm được chia ra để đặt những chiếc kệ xếp đầy tranh và những pho tượng thạch cao đủ loại. Các khoảng trống còn lại trong tiệm được chiếm cứ bởi những chiếc tủ búp phê cao nhòng, bề thế. Trên những chiếc tủ lớn trưng bày vài chiếc đồng hồ cổ, những chiếc hộp gỗ xinh xắn với những mẫu trang trí được khắc bằng tay, và nhiều món quà ngộ nghĩnh khác.
Ông chủ tiệm là một ông bác khá lớn tuổi với mái tóc hoa râm. Tướng tá ông cao to, nhưng đôi vai hơi khum khum mang đầy những nét khắc khổ của những người đã từng trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Ông có đôi mắt hiền lành, lấp lánh qua đôi kính trắng, cho người ta cái cảm giác thân thiện ngay từ những giây phút ban đầu. Khi tôi đến xin việc lần đầu tiên, ông liếc sơ qua đơn xin việc của tôi rồi hề hà cười và hỏi:
- Chú mày nói tiếng Việt lưu loát chứ?
Tôi lí nhí dạ. Rồi ông nói tiếp:
- Vậy thì tốt. Thôi được, ngày mai cứ tới đây làm thử, được thì tôi mướn.
Thế là từ đó, tôi đến làm ở tiệm mỗi ngày sau giờ học. Công việc của tôi của tôi đơn giản là lau chùi sạch sẽ mọi thứ trong tiệm và túc trực bên quầy tính tiền. Nhưng ngoài ra tôi còn phải sắp xếp và thu gọn theo thứ tự những bản thảo được đặt lung tung trên chiếc bàn phía sau quầy. Những sấp bản thảo thường là những bản thông dịch ông chủ nhận làm cho vài tờ báo trong vùng.
Hằng ngày, trong tiệm vắng tênh, thỉnh thoảng mới có một vài người khách ghé ngang. Điều buồn cười là có nhiều thứ trong tiệm chỉ được đặt làm tượng trưng chứ không để bán. Đó là những món mà khi rảnh rỗi ông chủ thường đích thân lau chùi và ngắm nghía. Tiệm này là một trong những căn tiệm đầu tiên ông bà chủ gom góp để mua, trước khi mấy đứa con ông ra trường và trước khi gia đình ông trở nên khá giả. Cách trang trí ở đây đã được bà chủ đích thân thiết kế. Hầu hết những món đồ ưng ý của bà như những chiếc đồng hồ cổ và vài bức tranh trên tường đều được nằm yên ở một chỗ từ khi bà qua đời, vì ông chủ không đồng ý bán bất cứ món nào trong số đó. Chúng gói gắm những tâm sự và kỷ niệm từ cái thủa bà chủ tiệm còn sống. Và thế là căn tiệm vẫn được mở cửa, dù con cái ông đã thành tài và tuổi ông đã khá cao. Riết rồi cũng thành quen. Sau sáu năm, tôi trở nên quen thuộc với mọi thứ trong tiệm, vì chúng cũng chẳng bao giờ bị xê dịch đi chút nào. Tuổi trẻ chúng tôi sống vì tương lai, nhưng tuổi già thì hình như chỉ sống vì kỷ niệm.
o O o
Khi tôi đến tiệm, ông chủ đã ngồi chiễm chệ sau quầy đọc báo và phì phèo một điếu thuốc lá. Thấy tôi, ông ngước lên cười:
- Chú mày chọn ngày đi trễ nhỉ. Lâu lắm mới có một người vừa đến mua hàng.
- Chú bán được món gì chưa?
- Ờ thì cũng như thường lệ.
Đó là một cách nói đùa của chúng tôi. Như thường lệ có nghĩa là chẳng bán được gì, cũng có nghĩa là người nào đó đã hỏi mua những món đồ kỷ niệm và bị ông chủ từ chối. Đa số họ đều nghĩ rằng ông ta điên khi ngồi ôm ấp những kỷ vật ấy. Vào thời đại văn minh như thế này, người ta bỏ ra những số tiền khổng lồ để mua những món theo thời. Còn kỷ niệm thì cứ từ từ chìm vào quên lãng vì nó chẳng đáng giá một xu.
- Thôi chú mày coi tiệm nhé, để tau đem mấy bản dịch này đi giao cho tòa soạn.
Tôi gật đầu. Ông hối hả ra cửa rồi còn ngoái lại, cười:
- Mà nhớ đừng ngủ gật nhá, trộm nó khinh hết đồ đấy.
Còn một mình trong tiệm, tôi xoay người sắp xếp lại đồ đạc trên bàn rồi bước ra sau tìm cái sọt rác. Đang lúi húi bên trong, tôi nghe tiếng chuông lúc lắc rồi tiếng sập cửa, nên vội vã trở ra.
Vừa ra đến sau quầy, cái đầu tiên đập vào mắt tôi là mái tóc tha thướt dài của vị khách hàng. Cô gái đang say sưa ngắm một bức tranh treo trên tường. Mái tóc dài màu hạt dẻ được xen kẽ bằng những sợi tơ vàng mang nhẹ ánh nắng chiều được xỏa dài ôm sát bờ vai tròn lẳng. Dáng cô cao ráo, gương mặt thanh tú với làn da màu bánh mật. Cô mang vẻ đẹp mạnh mẽ, rắn rỏi như những pho tượng cổ mang dáng vóc của các thiếu nữ Hy lạp.
Chắc cô gái cảm giác được cái nhìn tò mò của tôi nên cô quay phắt lại. Đôi mắt nâu lạc lõng trên khuôn mặt mang đầy nét phương đông. Cô tròn mắt nhìn tôi rồi bật cười dòn dã.
Tôi cau mày:
- What are you laughing about? (Cô cười gì đó?)
Khuôn mặt cô gái lộ vẻ lúng túng. Cô im bặt rồi lại nhoẻn miệng cười, khoe hàm răng trắng như ngọc.
- Oh no… À, tôi cười vì bề ngoài của căn tiệm làm tôi đang đoán là sẽ gặp một ông chủ khá lớn tuổi.
Lần này đến phiên tôi tròn mắt nhìn cô gái. Cô trả lời rất rõ ràng bằng tiếng Việt, tuy không chuẩn lắm vì được pha một chút giọng tiếng Anh.
Cô gái cười khúc khích, chắc đoán được suy nghĩ của tôi.
- Tôi là người Việt.
- À ra thế. Tôi không phải là chủ tiệm, chỉ là người bán hàng. Cô có cần tôi giúp gì không?
Cô gái rút trong túi xách ra và đưa tôi một tờ giấy gấp tư.
- Anh cho hỏi ở đây có ai tên là Phạm Trường Anh không?
Tôi nhìn cô gái một cách ngạc nhiên, không hiểu sao cô ta lại biết tên mình. Tôi gật đầu, nhìn cô gái không khỏi ngờ vực. Tôi giở mảnh giấy trên tay ra, thì ra đó là bản copy của một tờ báo cũ, tôi nhận ra cái tựa với những hàng chữ quen thuộc.
o O o
Trần Kim Tuyến
http://i879.photobucket.com/albums/ab356/chutluulai/truyen_ngan/chx1.jpgNhững giọt nắng vui vẻ nô đùa trên những ngọn cây, lấp lánh qua những tàng cây, kẽ lá, tạo nên những màu sắc lung linh ngộ nghĩnh.
Tôi ra khỏi nhà khi nắng chiều còn đang cháy rực ở một góc trời. Chiếc xe cà tàng miễn cưỡng gầm gừ rồi tắt ngúm. Tôi lắc đầu, ngán ngẩm. Như thường lệ, tôi sẽ lại phải tốn một số tiền không nhỏ để tu sửa lại chiếc xe. Mà chắc cũng chỉ vừa đủ để chạy được thêm vài ba tháng. Nhìn bầu trời nắng gắt không một chút mây, trong đầu tôi lóe lên một ý tưởng sẽ gọi điện thoại đến chỗ làm và xin nghỉ một ngày. Tôi sẽ có cả một buổi chiều rảnh rỗi. Có thể tôi sẽ dùng khoảng thời gian này để giải quyết đống đồ dơ còn tồn đọng. Có thể tôi sẽ dọn dẹp căn phòng và tự thưởng cho mình một món gì đó thật ngon. Có thể tôi sẽ dọn sơ căn phòng rồi nằm lăn ra một cách thoải mái và đọc một quyển sách mượn từ chú chủ nhà. Hoặc có thể… tôi sẽ lại làm cái điều mà tôi vẫn thường làm vào những buổi chiều rảnh rỗi, đó là tôi sẽ nằm dài trên giường, trùm chăn kín mít và đánh một giấc giữa căn phòng muôn đời bề bộn và an ủi cái bao tử luôn bị ngược đãi. Nhớ đến cái bụng đói meo, tôi lại nghĩ đến hạn đóng tiền nhà sắp đến, chiếc xe phải sửa và hàng ngàn những món lặt vặt khác cần phải mua. Cuối cùng, tôi tặc lưỡi quyết định cuốc bộ đến chỗ làm. Dĩ nhiên với cái lý do rất đáng thuyết phục là số tiền công của ngày hôm nay sẽ được tôi trích riêng cho khoản để dành… mua xe mới.
Tôi thả bộ trên con đường vắng ngắt dẫn đến trạm xe buýt, thích thú ngắm những giọt nắng vàng nhảy múa trên mặt đường bóng loáng. Bỗng nhiên, tôi muốn ví mình như những hạt bụi đường lăn lóc trên vỉa hè. Không biết từ lúc nào đó tôi đã bắt đầu nhồi nhét vào đầu mình những ý tưởng bi quan ấy. Và để tránh những ý tưởng vô duyên ấy được đem ra suy diễn, tôi hướng mắt về những chiếc xe cáu cạnh gần đó và bắt đầu tính toán xem với số tiền lương ít ỏi của mình, tôi sẽ phải để dành trong bao lâu mới có thể rinh về nhà một “cục cưng” như thế.
Nhìn lại cuộc đời mình, tôi phát hiện ra hình như mình chưa một lần được ngồi trong một chiếc xe hơi đời mới. Suốt khoảng đời thơ ấu, tôi theo mẹ đến trường trên chiếc xe đạp mini cũ màu xanh lơ. Chiếc xe mà ba tôi đã mua tặng mẹ làm quà cưới. Đó là món quà đầu tiên và duy nhất mẹ nhận được từ ba. Mẹ tôi không giống như những phụ nữ khác, mẹ không cáu gắt hoặc nổi nóng khi có một ông chồng thiếu lãng mạn và thực tế đến khô khan. Mẹ tôi yêu ở ba cái tính khí thẳng thắn, yêu cái cách sống bạt mạng không lo lắng. Mẫu người của ba tôi là mẫu người bốc đồng, bồng bột còn mẹ là một mẫu người hiền lành, chu đáo và sống rất an phận. Có lẽ vì những sự khác biệt ấy mà mẹ đã yêu ba. Tôi còn nhớ từ khi còn bé, tôi luôn nhận ra sự chịu đựng trong đôi mắt mẹ mỗi khi mẹ nhìn ba. Tia nhìn pha lẫn sự nhẫn nại và tha thứ cho những lần ba tôi nổi nóng vô cớ, những lần ba tôi say sưa rượu chè. Mẹ vẫn dành cho ba cái nhìn ấy, kể cả lần cuối cùng khi chúng tôi nhìn thấy ba ở bến xe, khi ông lạnh lùng xách vội chiếc vali để bước theo người đàn bà khác, để lại sau lưng đôi mắt ướt đẫm, chan chứa cái nhìn quen thuộc của mẹ.
Từ đó, mẹ tôi bôn ba trong dòng đời thay cho thân phận của người cha, đặt những bước chân đầu tiên chập chững vào dòng đời nghiệt ngã. Chúng tôi không còn bà con, không họ hàng. Ngày xưa, mẹ tôi đã chấp nhận đặt tất cả sau lưng để được sống bên ba để rồi cuối cùng lại nhận lãnh được sự phản bội cho những hy sinh của mình. Mười tuổi, tôi cầm đôi tay mẹ, đôi tay cứng nhắc, chai sần. Lần đầu tiên trong đời tôi thốt lên những tiếng căm hận Tôi hận sự xa cách của họ hàng, hận những cái nhìn dửng dưng lạnh lùng của chòm xóm, hận sự trêu chọc của bè bạn, và hơn hết, tôi hận ba tôi, hận ông đã bỏ lại mẹ con chúng tôi, để vừa lên mười tôi lại bỗng chốc trở thành một đứa trẻ không cha.
Mẹ tôi chưa một lần nói hận ba tôi. Từ khi ba tôi bỏ đi mẹ tôi cũng không một lần nhắc đến ông. Thỉnh thoảng, mẹ vẫn ngồi bên khung cửa sổ, tay mân mê những chiếc áo len mẹ đã từng đan cho ba. Có một ngày, năm tôi mười hai tuổi, tôi trở về nhà sau giờ học và nhìn thấy mẹ ngồi thẩn thờ bên khung cửa sổ, nước mắt lã chã rơi đầy trên khuôn mặt, thật chậm rãi, mẹ kéo những sợi len ra từ chiếc áo. Nhẹ nhàng và cẩn thận như đang muốn kéo lùi những kỷ niệm xưa. Chẳng mấy chốc, chiếc áo len dày chỉ còn là một đống len bùi nhùi, rối bời. Khi mẹ ngước lên và nhìn thấy tôi bên cạnh, mẹ khẽ mỉm cười với đôi mắt bình thản, nụ cười đầu tiên kể từ khi không còn có ba bên cạnh.
Vài năm sau, chúng tôi đến định cư tại Hoa Kỳ, do người em gái của ba tôi bảo lãnh. Tôi học lại lớp bảy tại một ngôi trường nhỏ gần nhà còn mẹ tôi thì theo phụ việc ở tiệm ăn nơi cô chú tôi làm việc. Trong thời gian hai mẹ con tôi còn chân ướt chân ráo lạ nước lạ cái, cô tôi giữ chúng tôi lại nhà và nhường cho hai mẹ con chúng tôi một căn phòng rộng rãi nhất. Dù ba tôi đã bỏ mặc mẹ con chúng tôi, chúng tôi vẫn may mắn được cô chú coi như những thành viên trong gia đình.
Qua một thời gian, khi đời sống chúng tôi đã đôi phần ổn định, vợ chồng cô chú tìm cho chúng tôi một căn chung cư riêng theo ý của mẹ. Trước khi rời khỏi nhà, mẹ tôi dùng số tiền công dành dụm được trong suốt một năm để sắm một bộ bếp lò đắt tiền và đồ dùng nhà bếp mới để tặng lại gia đình cô chú tôi để thay bộ bếp lò đã sắp hỏng.
Đối với hai mẹ con chúng tôi, đó là một số tiền rất lớn. Vì vậy, khoảng thời gian đó tôi đã giận lẫy với mẹ vì tôi nghĩ số tiền ấy cần thiết với chúng tôi hơn là đối với gia đình cô chú. Trước thái độ trẻ con của tôi, mẹ chỉ mỉm cười. Cuối cùng có một ngày mẹ cũng giải thích cho tôi hiểu khi đã thật sự chán chường với cái bộ dạng lầm lì, gắt gỏng của tôi.
“Mẹ nhờ vả cô chú để đưa con sang đây vì mẹ muốn con có một tương lai mới. Để con thoát khỏi những mặc cảm với bè bạn, chòm xóm. Nhưng dù sao mẹ cũng không muốn mắc nợ người khác. Nhất là những món nợ tình cảm thì không trả nổi đâu con à.”
Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy mình hiểu và thương mẹ nhiều hơn. Chẳng có người mẹ nào lại đi tính toán với con cái, nhưng phận làm con, tôi biết mình thiếu mẹ nhiều lắm. Bao nhiêu công sức mẹ bỏ ra, sinh thành dưỡng dục, biết đến khi nào tôi mới trả nổi. Còn tình thương mẹ dành cho tôi như đất trời bao la, tôi đếm còn không xuể, thì biết lấy gì đền đáp cho vừa. Và vì vậy, tôi quyết tâm chăm chú vào việc học hành, với mục đích duy nhất trong đời là tìm cho mình một chỗ đứng vững vàng trong xã hội, để mẹ được sống những ngày tháng an nhàn, hạnh phúc.
Mười sáu tuổi, tôi tìm được một việc làm bán thời gian ở một tiệm quà lưu niệm nhỏ. Tiệm có tên là Minh Hoa, được nằm sát trong một góc đối diện với cái trung tâm thương mại bề thế ở khu phố Bôlsa. Tiệm bị che khuất bởi những tấm bảng quảng cáo khổng lồ của những tiệm phở, những hàng Food To Go và những tiệm vải treo đầy ắp những bộ quần áo đủ kiểu. Minh Hoa là một căn tiệm nhỏ xíu, cũ kỹ. Thoạt nhìn, vẻ cũ kỹ của căn tiệm tạo cho nó một nét lạc lõng kì dị, dễ làm người ta lầm tưởng tiệm được thuộc về một căn phố cổ nào đó. Cánh cửa trước tiệm mang khung gỗ, với ô kính bên giữa được trang trí bằng hàng loạt những hàng hoa văn truyền thống màu phấn. Một chiếc chuông lớn bằng đồng được móc vào sau cửa, reo vui mỗi lần cánh cửa được đẩy ra và đóng lại. Nhiều bức tranh đủ thể loại được treo đầy trên những bức tường chung quanh tiệm. Phân nửa căn tiệm được chia ra để đặt những chiếc kệ xếp đầy tranh và những pho tượng thạch cao đủ loại. Các khoảng trống còn lại trong tiệm được chiếm cứ bởi những chiếc tủ búp phê cao nhòng, bề thế. Trên những chiếc tủ lớn trưng bày vài chiếc đồng hồ cổ, những chiếc hộp gỗ xinh xắn với những mẫu trang trí được khắc bằng tay, và nhiều món quà ngộ nghĩnh khác.
Ông chủ tiệm là một ông bác khá lớn tuổi với mái tóc hoa râm. Tướng tá ông cao to, nhưng đôi vai hơi khum khum mang đầy những nét khắc khổ của những người đã từng trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Ông có đôi mắt hiền lành, lấp lánh qua đôi kính trắng, cho người ta cái cảm giác thân thiện ngay từ những giây phút ban đầu. Khi tôi đến xin việc lần đầu tiên, ông liếc sơ qua đơn xin việc của tôi rồi hề hà cười và hỏi:
- Chú mày nói tiếng Việt lưu loát chứ?
Tôi lí nhí dạ. Rồi ông nói tiếp:
- Vậy thì tốt. Thôi được, ngày mai cứ tới đây làm thử, được thì tôi mướn.
Thế là từ đó, tôi đến làm ở tiệm mỗi ngày sau giờ học. Công việc của tôi của tôi đơn giản là lau chùi sạch sẽ mọi thứ trong tiệm và túc trực bên quầy tính tiền. Nhưng ngoài ra tôi còn phải sắp xếp và thu gọn theo thứ tự những bản thảo được đặt lung tung trên chiếc bàn phía sau quầy. Những sấp bản thảo thường là những bản thông dịch ông chủ nhận làm cho vài tờ báo trong vùng.
Hằng ngày, trong tiệm vắng tênh, thỉnh thoảng mới có một vài người khách ghé ngang. Điều buồn cười là có nhiều thứ trong tiệm chỉ được đặt làm tượng trưng chứ không để bán. Đó là những món mà khi rảnh rỗi ông chủ thường đích thân lau chùi và ngắm nghía. Tiệm này là một trong những căn tiệm đầu tiên ông bà chủ gom góp để mua, trước khi mấy đứa con ông ra trường và trước khi gia đình ông trở nên khá giả. Cách trang trí ở đây đã được bà chủ đích thân thiết kế. Hầu hết những món đồ ưng ý của bà như những chiếc đồng hồ cổ và vài bức tranh trên tường đều được nằm yên ở một chỗ từ khi bà qua đời, vì ông chủ không đồng ý bán bất cứ món nào trong số đó. Chúng gói gắm những tâm sự và kỷ niệm từ cái thủa bà chủ tiệm còn sống. Và thế là căn tiệm vẫn được mở cửa, dù con cái ông đã thành tài và tuổi ông đã khá cao. Riết rồi cũng thành quen. Sau sáu năm, tôi trở nên quen thuộc với mọi thứ trong tiệm, vì chúng cũng chẳng bao giờ bị xê dịch đi chút nào. Tuổi trẻ chúng tôi sống vì tương lai, nhưng tuổi già thì hình như chỉ sống vì kỷ niệm.
o O o
Khi tôi đến tiệm, ông chủ đã ngồi chiễm chệ sau quầy đọc báo và phì phèo một điếu thuốc lá. Thấy tôi, ông ngước lên cười:
- Chú mày chọn ngày đi trễ nhỉ. Lâu lắm mới có một người vừa đến mua hàng.
- Chú bán được món gì chưa?
- Ờ thì cũng như thường lệ.
Đó là một cách nói đùa của chúng tôi. Như thường lệ có nghĩa là chẳng bán được gì, cũng có nghĩa là người nào đó đã hỏi mua những món đồ kỷ niệm và bị ông chủ từ chối. Đa số họ đều nghĩ rằng ông ta điên khi ngồi ôm ấp những kỷ vật ấy. Vào thời đại văn minh như thế này, người ta bỏ ra những số tiền khổng lồ để mua những món theo thời. Còn kỷ niệm thì cứ từ từ chìm vào quên lãng vì nó chẳng đáng giá một xu.
- Thôi chú mày coi tiệm nhé, để tau đem mấy bản dịch này đi giao cho tòa soạn.
Tôi gật đầu. Ông hối hả ra cửa rồi còn ngoái lại, cười:
- Mà nhớ đừng ngủ gật nhá, trộm nó khinh hết đồ đấy.
Còn một mình trong tiệm, tôi xoay người sắp xếp lại đồ đạc trên bàn rồi bước ra sau tìm cái sọt rác. Đang lúi húi bên trong, tôi nghe tiếng chuông lúc lắc rồi tiếng sập cửa, nên vội vã trở ra.
Vừa ra đến sau quầy, cái đầu tiên đập vào mắt tôi là mái tóc tha thướt dài của vị khách hàng. Cô gái đang say sưa ngắm một bức tranh treo trên tường. Mái tóc dài màu hạt dẻ được xen kẽ bằng những sợi tơ vàng mang nhẹ ánh nắng chiều được xỏa dài ôm sát bờ vai tròn lẳng. Dáng cô cao ráo, gương mặt thanh tú với làn da màu bánh mật. Cô mang vẻ đẹp mạnh mẽ, rắn rỏi như những pho tượng cổ mang dáng vóc của các thiếu nữ Hy lạp.
Chắc cô gái cảm giác được cái nhìn tò mò của tôi nên cô quay phắt lại. Đôi mắt nâu lạc lõng trên khuôn mặt mang đầy nét phương đông. Cô tròn mắt nhìn tôi rồi bật cười dòn dã.
Tôi cau mày:
- What are you laughing about? (Cô cười gì đó?)
Khuôn mặt cô gái lộ vẻ lúng túng. Cô im bặt rồi lại nhoẻn miệng cười, khoe hàm răng trắng như ngọc.
- Oh no… À, tôi cười vì bề ngoài của căn tiệm làm tôi đang đoán là sẽ gặp một ông chủ khá lớn tuổi.
Lần này đến phiên tôi tròn mắt nhìn cô gái. Cô trả lời rất rõ ràng bằng tiếng Việt, tuy không chuẩn lắm vì được pha một chút giọng tiếng Anh.
Cô gái cười khúc khích, chắc đoán được suy nghĩ của tôi.
- Tôi là người Việt.
- À ra thế. Tôi không phải là chủ tiệm, chỉ là người bán hàng. Cô có cần tôi giúp gì không?
Cô gái rút trong túi xách ra và đưa tôi một tờ giấy gấp tư.
- Anh cho hỏi ở đây có ai tên là Phạm Trường Anh không?
Tôi nhìn cô gái một cách ngạc nhiên, không hiểu sao cô ta lại biết tên mình. Tôi gật đầu, nhìn cô gái không khỏi ngờ vực. Tôi giở mảnh giấy trên tay ra, thì ra đó là bản copy của một tờ báo cũ, tôi nhận ra cái tựa với những hàng chữ quen thuộc.
o O o